Welcome Guest ( Log In | Register )

17 Pages V  « < 6 7 8 9 10 > »   
Reply to this topicStart new topic
> Tôi Phải Sống - Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
white pages
post May 30 2008, 06:11 PM
Post #85


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Cảng Hải Phòng



Khoảng 5 giờ chiều ngày 20 tháng Tư năm 1977, tàu Sông Hương dừng lại. Chúng tôi biết là mình đã tới một nơi nào đó ở miền Bắc, nhưng vì đang ở dưới hầm tàu nên không định thần được là mình đang ở đâu. Tàu đã bỏ neo khá lâu, nhưng chúng tôi vẫn chưa được lên bờ. Một lúc sau thấy có đoàn người ở các khoang khác bắt đầu lên bến. Từ lòng hầm tàu nhìn lên, tôi nhận ra một số người tôi quen vì cùng ở chung với tôi trong trại Phan Đăng Lưu, nhưng khi tôi chuyển lên Gia Ray, họ còn ở lại và bây giờ cũng có mặt trên chuyến tàu này. Mãi tới chạng vạng tối tù nhân ở khoang tàu chúng tôi mới được lên bờ, và khi lên tới nơi mới biết đó là bến cảng Hải Phòng.

Khi vừa lớn lên và bước vào tuổi mộng mơ, tôi luôn ôm ấp giấc mộng hải hồ. Tôi mong ước khi lớn lên sẽ trở thành một sĩ quan hàng hải hoặc một thủy thủ của một chiếc tàu biển để có dịp băng mình trên sóng nước đại dương. Nhưng điều tôi mong muốn nhiều hơn là được dừng chân nơi những bến bờ xa lạ. Mặc dù khi lớn lên tôi không thực hiện được giấc mộng hải hồ, nhưng không vì thế mà tôi mất đi tình yêu biển cả, yêu những con tàu vượt sóng nước đại dương và ham thích khi được tới những bến bờ xa lạ.

Hôm nay, vô tình mong ước của cuộc đời tôi trở thành hiện thực, nhưng được thành tựu một cách thật trớ trêu. Trong lần đi tàu biển đầu tiên này, tôi không phải như một thủy thủ mà bị nhốt dưới hầm như thân phận của loài gấu chó trong sở thú Sài Gòn. Giờ đây tôi đang được đặt chân lên một bến cảng xa lạ, nhưng không phải để thỏa chí tang bồng mà là để bắt đầu kiếp sống vô vọng trong thân phận người tù biệt xứ.

Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:11 PM
Post #86


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Chương 4: Lần Ra Đất Bắc

4
Lần Ra Đất Bắc

Chúng tôi, những tù nhân miền Nam bị đày ra Bắc trên chiếc tàu Sông Hương vào tháng 4 năm 1977. Nhóm chúng tôi thuộc đủ mọi thành phần và mọi lứa tuổi, nhưng đa số là những người trẻ. Số tù tập thể này được gọi tên chung là “tù phản động”, nghĩa là những người bị bắt sau năm 1975 vì các hoạt động liên quan tới việc chống chế độ cộng-sản dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Trong đó cũng có những người bị bắt vì trốn trình diện.

Tàu Sông Hương, mà chúng tôi gọi là chuyến tàu vét, là chuyến tàu cuối cùng chở tù ra Bắc. Tàu khởi hành từ bến Tân Cảng gần cầu xa lộ Sài Gòn vào sáng sớm ngày 18 tháng 4 năm 1977, chở theo khoảng 1200 tù nhân chính trị được chọn ra từ nhiều trại ở miền Nam, trong đó nhóm chúng tôi 350 người từ trại Gia-Ray, tỉnh Xuân Lộc, còn gọi là Z30 D. Trại này trước kia là hậu cứ của Trung đoàn 54. Khu trại nằm trên đồi cao có tên rất thơ mộng là “đồi Phượng Vĩ”, vì nghe nói trên đồi này trước đây có trồng nhiều hoa phượng. Thực ra ai đã ở đó rồi thì mới biết đồi Phượng Vĩ chẳng thơ mộng tí nào!

Trước mặt trại là núi Chứa Chan, nằm sừng sững trong tư thế lười biếng và thách thức. Có mấy anh sầu đời vì tù lâu quá, bực mình nổi cáu gọi nó là núi Chán Chưa! Những anh tù trẻ còn hăng máu phản bác lại, gọi nó là núi Chưa Chán! Người có chút máu nghệ sĩ gọi là núi Chan Chứa... tình yêu! Tội nghiệp cho quả núi đất vô tri, nằm một đống ở đó làm gì để bọn người bất mãn vì thời cuộc này đem ra hành tội, cho thay danh đổi họ liên hồi như các cô ca sĩ thay áo khi trình diễn trên sân khấu.

Khi rời trại Z30 D, chúng tôi bị còng tay dính nhau từng đôi một, đi xe ca xuống bến Tân Cảng và leo lên tàu vào nửa đêm, khi xuống tới hầm tàu mới được mở còng ra. Lúc mới lên tàu, tưởng là chỉ có nhóm chúng tôi, nhưng khi gõ vào thành tàu làm hiệu, chúng tôi liền nhận được tín hiệu của “phe ta” ở các khoang khác đáp lại, nhưng lúc đó có bao nhiêu người trên tàu thì không rõ. Tàu Sông Hương chạy khá nhanh, chỉ sau 2 ngày 3 đêm đã tới bến Hải Phòng. Trong mấy ngày lênh đênh trên biển, có nhiều chuyện xảy ra trong hầm tàu chở nhóm chúng tôi.


Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:12 PM
Post #87


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Bến Cảng Hải Phòng


Tàu Sông Hương thả chúng tôi lên bến cảng Hải Phòng vào một buổi chiều ảm đạm. Từ dưới hầm tàu nhìn tốp lên trước, tôi thấy có một vài người ở trại Phan Đăng Lưu với tôi trước kia, trong số đó có cha Phạm Hữu Nam, còn được gọi là cha Bosco Thiện, một Linh mục dòng Chúa Cứu Thế. Sau khi lên bờ, nhóm lên trước được phân phối đi đâu tôi không rõ. Khi nhóm trong khoang tàu chúng tôi lên bờ thì trời đã nhá nhem tối.

Cảm giác đầu tiên của tôi khi đặt chân lên bến cảng Hải Phòng là tưởng chừng mình đang ở một đất nước nào khác, với cảnh vật tiêu sơ, buồn thảm và đầy đe dọa. Cả những con người ở đây cũng không tạo cho tôi một chút ấn tượng nào cho biết là tôi đang đứng trên phần đất của quê hương, và họ là những đồng bào với tôi. Từ cảnh vật tới con người đều mang vẻ nặng nề ảm đạm và chết chóc. Tôi đảo mắt nhìn quanh khung cảnh của bến cảng Hải Phòng mà tôi đã được nghe nói tới rất nhiều, có cả một bản nhạc để ca tụng mang tên “Hải Phòng thành phố quê tôi”! Đó đây nhà cửa cũ kỹ đen đủi nằm rải rác một cách vô tổ chức; có nhà còn nguyên, có cái đã thủng lỗ hoặc sụp một góc. Những thùng chứa hàng, đường sắt cũ, xe hư nằm rải rác chỗ này một chiếc, chỗ kia một cái.

Người dân ở đây sao hơi khác với những hình ảnh quen thuộc mà tôi đã từng thấy nơi người miền Nam. Nhưng sự khác biệt đó là gì tôi không thể nói được. Hình như đồng bào của tôi ở đây hơi nhỏ con và nước da đen hơn. Tôi nghĩ có lẽ là do lối ăn mặc, vì đa số mang dép râu và đội nón cối. Có thể vì thế làm cho người ta trông luộm thuộm và lùn ra chăng? Ngoài màu áo vàng của một số khá đông công-an có mang súng, đa số những người có mặt trên bến cảng lúc đó mặc đồ bộ-đội màu cứt ngựa, đầu đội nón cối, chân mang dép râu. Lúc mới nhìn qua, tôi tưởng họ là bộ-đội nhưng sau này tôi mới biết ai cũng có thể mặc đồ bộ-đội, đội nón cối và mang dép râu.

Lúc bấy giờ có một hình ảnh đập mạnh vào mắt tôi và không biết tại sao nó cứ ám ảnh tôi mãi, cho dù cố quên cũng không thể nào quên được. Đó là hình ảnh của một nữ công-an mặc đồng phục màu vàng, đầu đội nón cối, chân đi dép gì tôi không để ý, có lẽ cũng là dép râu. Điểm đặc biệt là người nữ công-an đó tóc thật dài và bện thành cái đuôi sam thả thõng xuống gần đụng gót chân. Hình ảnh này tôi mới thấy lần đầu tiên và cảm thấy rờn rợn khi nhìn cái đuôi sam đó. Khi nhìn cái đuôi sam, tôi liên tưởng tới những tấm hình trong cuốn sách nói về loạn Quyền Phỉ (Boxers) vào thời Mãn Thanh ở Trung Hoa, diễn tả thời kỳ hỗn loạn chém giết nhau như ngóe.

Tôi đọc quyển sách này không bao lâu trước khi bị bắt. Trong sách có các tấm hình những người đàn ông bị chặt đầu đều có đuôi sam! Có bức hình người ta cột hai ba cái đầu người lại với nhau bằng đuôi sam kiểu như nhà quê người ta cột dừa khô, dùng các cọng râu của trái dừa cột lại để có thể xách được nhiều quả cùng một lúc. Cái đuôi sam quá dài của cô cán bộ trên bến cảng Hải Phòng chiều hôm đó làm tôi nhớ lại các tấm hình gớm ghê này. Tôi nghĩ, giá mà cô ta không đội nón cối có lẽ tôi ít sợ hơn. Nếu có ai hỏi tại sao, tôi cũng không trả lời được, chỉ biết rằng một người phụ nữ đầu trần thắt đuôi sam thì tôi không sợ, nhưng thắt đuôi sam mà đội nón cối làm tôi sợ, nhất là cái đuôi sam đó lại quá dài.

Bến cảng Hải Phòng chiều hôm đó trở nên nhộn nhịp khác thường, vì tàu Sông Hương vừa cất lên bến rất nhiều “hàng hóa biết đi.” Một đám đông người lớn và trẻ con hiếu kỳ đứng hai bên đường nhìn ngó, chỉ trỏ và nói năng loạn xạ bằng một giọng nói hơi lạ tai đối với tôi lúc bấy giờ. Tôi cũng chẳng biết họ nói với nhau những gì, nhưng nhìn gương mặt và điệu bộ của họ, tôi nghĩ có lẽ tôi không nghe và không hiểu thì tốt hơn.

Mọi việc đã được chuẩn bị từ trước, nên khi chúng tôi vừa lên bờ, liền bị còng tay lại từng đôi một và leo lên những chiếc xe ca nằm chờ sẵn. Sau khi ổn định vị trí trên xe, mỗi người được phát một chiếc bánh mì nướng làm thức ăn đi đường. Cán bộ áp tải phổ biến nội quy đi đường xong thì đoàn xe chuyển bánh. Trời bắt đầu tối.

Thình lình, đá sỏi từ hai bên đường bay lên xe như mưa! Tôi vội vàng dùng tay tự do còn lại che mặt trước cơn “mưa đá” trái mùa này. Bằng mọi giá tôi phải bảo vệ đôi mắt vì nhỡ có hòn sỏi vô tình nào bay đúng vào kính đeo mắt tôi thì khốn nạn, có thể mù mắt như chơi. Anh em tù nhân trên xe cũng vội vàng lo chống đỡ theo phản ứng tự nhiên. Trong cơn hỗn loạn bất ngờ đó, tôi nghe loáng thoáng tiếng trẻ con la hét từ bên vệ đường: “ĐM chúng mày, lũ ngụy, lũ uống máu ăn gan người!” Tiếng chửi bới này càng lúc càng nhiều và to hơn. Một giọng nói khác, tiếng của cán bộ, vang lên trong xe:“Các anh thấy chưa? Nếu đảng không đưa các anh vào đây để bảo vệ các anh thì nhân dân đã giết chết các anh!” Lúc xe chạy ra khỏi vùng bão tố, tôi mới biết có vài anh tù trên xe bị thương nhẹ. Riêng tôi bị hòn đá ném đúng vào đầu u lên một cục khá to. Tôi cảm thấy đau, nhưng đau cho thân thể tôi thì ít mà đau cho số phận dân tộc tôi thì nhiều.

Đoàn xe chạy trong đêm trên đoạn đường khá dài từ Hải Phòng qua Hải Dương, Hà Nội, Phủ Lý... Sở dĩ tôi biết được các địa danh ấy nhờ trên xe có anh Đào Anh Tuấn, mà anh em gọi là Tuấn Phở, vì anh có tiệm phở ở Sài Gòn, nguyên quán ở Hải Dương ngoài Bắc, di cư vào Nam năm 1954. Khi xe qua nơi nào, anh giới thiệu nơi đó một cách rành mạch, như vai trò của các hướng dẫn viên du lịch!

Lúc ngồi trên xe, tôi cảm thấy mệt nhọc và ngao ngán, chẳng biết và cũng không thắc mắc họ sẽ đưa chúng tôi về đâu. Những cảm giác lúc ban đầu khi vừa đặt chân lên đất Bắc trong kiếp người tù biệt xứ đã để lại trong tôi ấn tượng khó quên được. Tôi muốn dành cho người đọc tưởng tượng ra cảnh thân phận một tù nhân trên đường đi đày, vừa bước chân lên vùng đất xa lạ là gặp ngay những con người chất chứa đầy hận thù. Nói cho đúng hơn là được huấn luyện để bày tỏ sự hận thù, như đám trẻ con “chào đón” chúng tôi tại bến cảng Hải Phòng. Tôi nhớ mà thương cho số trẻ con đã chửi bới và ném đá vào chúng tôi đó. Người tù biệt xứ này cũng chẳng biết mình sẽ bị đưa về đâu, những gì chờ đợi trước mắt và còn có ngày trở về hay không? Nếu còn có hy vọng đó thì bao lâu nữa sẽ được về, vì đây là loại tù... “mù”, tức là đi tù nhưng không có kêu án, được gọi cái tên thật đẹp nhưng đầy gian trá là “Tập Trung Cải Tạo”.

Lúc đó tôi biết những gì xảy ra trên bến cảng Hải Phòng chỉ là màn mở đầu, màn đầu của sự hận thù đang trói buộc thân thể dân tộc tôi, và người ta đang tận tình khai thác lòng hận thù đó đối với những người bại trận miền Nam.

Quãng nửa đêm đoàn xe qua phà Phủ Lý, sau đó chạy vào con đường ngoằn ngoèo chật hẹp, hai bên là vách núi, như đang đi vào một hang động. Đến gần sáng, chúng tôi tiến vào một khu vực có hàng rào kẽm gai bao bọc chung quanh. Dưới ánh sáng của những bóng điện lờ mờ, tôi thấy có nhiều dãy nhà thấp nằm ngay hàng thẳng lối chấu đầu vào nhau. Đoàn xe dừng lại giữa cái sân khá rộng. Đó là trại Nam Hà, còn được gọi là trại Ba Sao thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Chúng tôi được lệnh xuống xe trong một đêm khuya lạnh buốt và có sương mù dày đặc.


Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:12 PM
Post #88


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Giai Đoạn Mới


Tôi chẳng ghi nhận được nhiều khung cảnh trại Nam Hà trong đêm vừa mới tới, nhưng cảm giác đầu tiên của tôi lúc bấy giờ là đang bước vào một trại tù lâu đời, gọn sạch và được tổ chức hẳn hoi; hoàn toàn khác với sự bề bộn của trại giam Gia Ray, tỉnh Long Khánh trong Nam mà chúng tôi vừa từ bỏ ra đi. Dưới ánh đèn điện lờ mờ trong đêm, tôi thấy những dãy nhà lợp ngói thấp lè tè, có tường gạch bao quanh và trên tường có hàng rào kẽm gai. Các dãy nhà này được xếp đều hai bên một sân trại khá rộng nằm ngay chính giữa, chia trại ra làm hai khu riêng biệt.

Khi vừa bước vào cổng trại, nhìn về phía tay phải, tôi thấy có một cái giếng cạn tròn thật to, có lẽ đường kính tới 10 thước, trên miệng giếng có bờ tường cao chừng 80 phân bao bọc chung quanh, bên cạnh có dãy nhà tắm thấp, tôi biết đây là khu vực tắm giặt của trại.

Vì tới muộn, nên chúng tôi được chia tạm thời ra từng nhóm và vào một số buồng nghỉ qua đêm. Khung cảnh trại mới này đối với tôi thật xa lạ và làm tôi ngỡ ngàng. Hình dạng trại cũng lạ, nhà cửa lạ, thời tiết lạ, giọng nói của các cán bộ cũng lạ tai. Đêm đó, mặc dù rất lạnh và không có chăn mền, nhưng vì đi đường quá mệt và đã muộn, nên tôi ngủ một giấc ngon nhưng nhiều mộng mị.

Sáng hôm sau, chúng tôi thức đậy trong một thời tiết lạnh cóng và có sương mù. Vì vừa ở miền Nam ra, chúng tôi chưa quen với cái lạnh giá buốt của miền Bắc nên nhiều người co ro trông rất thảm hại. Lúc trời đã sáng, ngồi trong buồng nhìn qua song sắt cửa sổ và đám sương mù, tôi vô cùng ngạc nhiên về khung cảnh trước mắt. Chung quanh trại Ba Sao là một vùng nước mênh mông bao bọc. Điểm đặc biệt là trên mặt nước có rất nhiều trái núi nhỏ và tròn, mọc nhô lên như những cây nấm khổng lồ, nằm rải rác trong cánh đồng.

Chúng tôi ngạc nhiên một cách thích thú trước hình ảnh này và tưởng chừng như các trái núi nhỏ, tròn và đồng dạng đó là những quân cờ trong một bàn cờ của người khổng lồ đã chơi và bỏ lại sau khi họ về trời! Cũng có thể so sánh hình dạng các núi nhỏ đó như những quả trứng của loài chim khổng lồ đã tuyệt chủng. Các quả trứng này chôn nửa phần dưới nước và nửa phần trên nhô lên trên không. Nhìn xa hơn nữa, tận chân trời là dãy núi thật dài, trùng trùng điệp điệp, bao bọc lấy khu trại nằm trên vùng núi đá vôi mà chúng tôi vừa dọn tới đêm qua.

Vào lúc nhập trại Nam Hà ngày 21 tháng Tư năm 1977, trong trại đã có hơn 600 tù nhân miền Nam. Những người này đã tới đây từ cuối năm 1975 hoặc đầu năm 1976 và ở các buồng phía trái từ cổng trại nhìn vào. Phía này được gọi là khu A để phân biệt với nhóm chúng tôi 350 người mới, ở phía tay phải và được gọi là khu B.

Cảm giác đầu tiên của tôi khi thấy các người tù khu A là họ rất trầm lặng, có dáng vẻ xa xôi. Phần đông đã lớn tuổi hoặc trung niên. Nhiều người trắng trẻo, sạch sẽ và tươm tất trong bộ đồng phục màu xanh của nhà tù, áo cổ cao, giống kiểu áo của người Tàu. Họ tỏ ra an phận, tự giác, dễ bảo và chấp nhận hoàn cảnh, cho dù là chấp nhận một cách miễn cưỡng. Thật vậy, khi nhìn tướng mạo và nghe qua tên tuổi, kèm với chức vụ trước kia, tôi biết đây là những người đã có một thời vàng son và đầy uy quyền.

Sau này tôi biết, họ thuộc thành phần viên chức chính phủ, các chức vụ dân cử như nghị sĩ, dân biểu, sĩ quan cảnh sát, đảng phái quốc gia. Có người đã từng nắm giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền miền Nam mà tên tuổi nhiều người nghe biết như Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc, cụ Vũ Hồng Khanh, Thượng nghị sĩ Huỳnh Văn Cao, Bộ trưởng Đàm Sỹ Hiến, Bộ trưởng Trần Ngọc Oành và nhiều người có tên tuổi khác.

Tôi không bao giờ quên được tâm trạng đau buồn mỗi lần nhìn thấy các đội khu A xếp hàng dài giữa sân trại trước giờ báo số lượng tù để xuất trại ra ngoài lao động, nhất là trong những buổi trưa nắng gắt của vùng núi đá vôi Nam Hà. Đa số tù nhân ăn mặc giống nhau, áo quần đồng phục màu xanh của tù, đầu đội nón lá, chân mang dép râu, vai mang một bị nhỏ may bằng vải bao cát, trong đó đựng cái lon Guigoz nước uống, trên miệng bị có treo lủng lẳng cái ống điếu thuốc lào.

Khi nhìn những con người đã một thời quyền uy trong xã hội miền Nam trước kia đang ngồi cúi đầu thành hàng dài trong sân trại, trong đó người giữ chức vụ cao cấp nhất một thời là cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc, tôi xót xa nhớ tới thân phận con người,và luật tuần hoàn của vũ trụ. Những người này trình diện học tập cải tạo theo thông cáo của Ban Quân Quản sau khi cộng-sản vừa chiếm được miền Nam. Lúc này họ có vẻ mệt nhọc, câm lặng, chán chường và cam tâm chịu đựng cuộc đổi đời. Có lẽ trong thâm tâm nhiều người muốn chứng tỏ mình cải tạo thật tốt, tránh vi phạm nội quy để sớm được hưởng sự khoan hồng của đảng và nhà nước, như lời cán bộ vẫn thường nói:“Cải tạo tốt, lao động tốt là con đường ngắn nhất để được về sum họp với gia đình!”

Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:13 PM
Post #89


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Trình Diện Học Tập


Cũng cần nói thêm, sau khi chiếm được miền Nam, người cộng-sản biết dân miền Nam và nhất là những sĩ quan, binh sĩ và viên chức của chế độ Cộng Hòa vừa sụp đổ đều bàng hoàng lo sợ, nhưng có thể phản ứng chống lại, mặc dù tình thế lúc đó không thể nào lật ngược thế cờ. Tuy nhiên, nếu có sự chống đối trong lúc người cộng-sản chưa có đủ thì giờ củng cố guồng máy cai trị tại vùng đất màu mỡ vừa mới cướp được thì cũng là điều bất lợi cho họ. Bởi thế, điều quan trọng là phải làm sao bắt giam cho hết những sĩ quan, viên chức chính phủ nào còn ở lại trong nước, sau khi một số lớn những người đã từng nắm giữ chức vụ chóp bu tại miền Nam đã nhanh chân bỏ chạy từ trước như cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đương kiêm Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đại tướng Cao Văn Viên v.v...

Người cộng-sản đủ tinh khôn để hiểu rằng không thể nào lùng bắt hết những người họ muốn nhốt vào tù, chỉ có cách hay nhất là giăng lưới để tóm hàng loạt. Đây là điều tôi thực sự khen ngợi đầu óc giảo hoạt của người cộng-sản. Kế hoạch của họ như sau. Vừa chiếm được miền Nam xong, Ban Quân Quản thông báo trên đài phát thanh ra lệnh cho tất cả hạ sĩ quan và binh sĩ “ngụy” (thắng làm vua thua làm ngụy!) trình diện tại địa điểm gần nhất để học tập đường lối chính sách của đảng và nhà nước cách mạng. Khi đi, nhớ mang theo thức ăn, đồ dùng đủ trong 3 ngày.

Mặc dù các anh em binh sĩ chế độ miền Nam rất lo sợ, nhưng lúc đó đã nằm trong tay họ rồi, nếu không tuân lệnh sẽ rất tai hại, hơn nữa thông cáo có nói đem đồ dùng trong 3 ngày, nên cũng còn chỗ để hy vọng. Đại đa số những người trong diện này đã trình diện học tập. Và sau ba ngày, họ được cấp giấy chứng nhận ra về. Điều này làm sự sợ hãi và nghi kỵ của dân miền Nam đối với chế độ mới đã bắt đầu giảm đi. Người ta bắt đầu tin vào các lời tuyên truyền về “chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước”, hoặc “đánh kẻ chạy đi chớ không ai đánh kẻ chạy lại!” v.v...

Không bao lâu sau, một thông cáo khác của Ban Quân Quản được đọc trên đài phát thanh. Lần này tới phiên các sĩ quan và công nhân viên chức cao cấp trình diện tại các địa điểm được ấn định. Khi đi nhớ mang theo lương thực, tiền bạc, áo quần và đồ cá nhân đủ dùng trong trong một tháng. Dĩ nhiên thông cáo nào cũng kết thúc bằng câu đe dọa “ai bất tuân sẽ bị trừng trị theo luật pháp hiện hành.”

Nhớ lại vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi đoàn quân cộng-sản ào ạt tiến vô Sài Gòn, dân chúng miền Nam thật hoang mang lo sợ, những người chức vụ cao và các sĩ quan của miền Nam càng khiếp đảm hơn.

Họ có lý do để sợ, vì hình ảnh Tết Mậu Thân năm 1968, với hàng chục ngàn người thường dân vô tội bị Việt cộng đập đầu, mổ bụng. Có nhiều người bị trói tay dính chùm bằng dây điện và chôn sống tại Huế chưa phai mờ trong ký ức của nhiều người. Bây giờ những kẻ chôn sống người đó đã chiến thắng, làm sao những sĩ quan và công nhân viên chức cao cấp của chế độ miền Nam vừa sụp đổ lại không lo sợ cho được. Vì thế, khi nghe được thông cáo “đủ dùng trong một tháng” họ mừng như nắng hạn gặp mưa rào. Trước đây, số hạ sĩ quan và binh sĩ mang đồ đủ dùng trong 3 ngày theo như thông cáo, và họ chẳng được ra về sau 3 ngày là gì?

Tâm trạng chung lúc bấy giờ là ai cũng mong học tập cho xong để trở về làm ăn sinh sống bình thường và hợp pháp trong chế độ mới. Thế là hàng hàng lớp lớp người đi trình diện học tập, người ta vội vã trình diện, người ta chen nhau đi trình diện, người ta vui vẻ giã từ vợ con để đi trình diện và hẹn tháng sau sẽ gặp lại. Có người sau khi vào trại còn hãnh diện khoe với mọi người, nhờ sự quen biết và khéo léo nên đã “chen” được vào trung tâm trình diện khi nơi này đã đầy người. Ai cũng mong đi học tập trong đợt đầu để sẽ được về sớm.

Lúc bấy giờ, những cái gọi là “Trại Cải Tạo” được mọc lên như nấm để nhốt những người tự nguyện đi học tập. Thành phần chánh trị và hành chánh do “Công-an Nhân dân” quản lý, thành phần quân đội do “Quân-đội Nhân dân” quản lý. Số người đi trình diện hí hửng nghĩ rằng một tháng sẽ được về, nhưng....

Ôi! Chữ “nhưng” sao quái ác!

Khi tôi vô tù một thời gian, được nghe các anh em trình diện kể lại câu chuyện đau lòng, câu chuyện cười ra máu mắt như sau: Số là khi nghe thông cáo của Ban Quân Quản, khi đi trình diện nhớ mang theo tiền bạc, thức ăn và đồ dùng đủ cho một tháng. Những người trình diện đi tù bắt đầu đếm từng ngày. Khi “học tập” tới đầu tuần lễ thứ tư, cả nhóm vui mừng hí hửng! Có người còn mơ màng về khung cảnh của ngày lễ mãn khóa thật linh đình vào cuối tuần tới, chắc là phải vui và cảm động lắm. Sẽ có đại diện các “cải tạo viên” đứng lên đọc diễn văn cám ơn công lao giáo dục của đảng. Rồi có các bà vợ, những người con và thân nhân sẽ có mặt trong lễ mãn khóa để đón người thân yêu đã được đảng cải tạo thành người công dân tốt trở về đoàn tụ với gia đình.

Trong đêm cuối cùng của tháng “học tập”, nhiều người không thể ngủ được, họ đi bắt tay từ giã anh em cùng khóa, buồn buồn, tủi tủi, nói lời chia tay tạm biệt với những anh em đã một thời chung vai sát cánh trong cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân miền Nam chống bọn cộng-sản tham tàn. Nhưng giờ đây lịch sử đã qua trang, kẻ tham tàn đã chiến thắng và đang ngự trị! Đã qua rồi một cuộc chiến, anh em quân nhân viên chức chế độ miền Nam vừa sụp đổ chỉ mong từ nay được sống yên hàn với vợ con trong chuỗi ngày còn lại của cuộc đời.

Sáng hôm sau là đủ 1 tháng kể từ ngày đi trình diện, nhiều người thức dậy sớm đánh răng rửa mặt và chuẩn bị đồ đạc ngồi chờ “lễ mãn khóa.” Nhưng lễ mãn khóa chờ đâu chẳng thấy! Lúc tới giờ, tiếng kẻng tập họp đi lao động vang lên lanh lảnh ở cổng trại như mọi ngày. Nghe tiếng kẻng, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên nhìn nhau thắc mắc nhưng không ai nói gì, chỉ biết cúi đầu xếp hàng báo số đi lao động như thường lệ. Sự thắc mắc bao trùm suốt ngày hôm đó và mỗi người cố tìm một lý do có lợi để giải thích cho sự chậm trễ này. Anh em tụm năm, tụm ba bàn giải thắc mắc, và lý do được nhiều người coi là hợp lý nhất: tháng này có... 31 ngày! Vậy lễ mãn khóa phải diễn ra ngày mai, ngày thứ 31! Mọi người yên tâm đi ngủ chờ tới ngày mai.

Ngày mai đã đến rồi lại đi, rồi ngày kia và những ngày kế tiếp cũng đến và đã đi qua nhưng chẳng thấy có gì khác lạ. Thái độ bất mãn hiện rõ trên mặt nhiều người. Anh em cứ lập đi lập lại câu hỏi “thế này là thế nào?”, nhưng không ai có thể tìm được lời giải đáp cho câu hỏi đơn sơ ngắn gọn đó. Cho đến một hôm không còn đủ kiên nhẫn, một anh đánh bạo chất vấn cán bộ trong một buổi sinh hoạt trên hội trường:

- Báo cáo anh, tôi có thắc mắc.

- Gì thế? Anh có thắc mắc gì nói xem nào?

- Báo cáo anh, theo thông cáo của Ban Quân Quản kêu gọi chúng tôi trình diện học tập một tháng. Nay đã quá ngày rồi tại sao chúng tôi chưa được về?

Anh cán bộ ngồi gật gù, nhếch mép cười, nụ cười đầy vẻ tinh quái, hất hàm hỏi:

- Ai bảo cho anh biết học tập một tháng được về?

Anh bạn đáng thương lúc này mất bình tĩnh, gằn giọng từng tiếng:

- Báo cáo anh, thì trong thông cáo của Ban Quân Quản, tôi còn nhớ từng lời, từng chữ là 'khi đi nhớ mang theo tiền bạc thức ăn và đồ dùng, đủ trong vòng 1 tháng', tôi nghĩ rằng tất cả mọi người ở đây ai cũng nghe như thế.

Anh bạn chưa dứt lời đã nghe tiếng cả hội trường lào xào rầm rì phu họa: “Đúng rồi, đúng rồi, trong vòng một tháng”. Chừng đó anh cán bộ buộc lòng phải nói, anh nói thậm chậm rãi và rõ ràng:

- Các anh ngu quá! Tôi thật không ngờ là các anh ngu quá! Thông cáo bảo các anh mang tiền bạc, đồ dùng, đủ trong vòng một tháng, còn thời gian tiếp theo là đảng sẽ lo cho các anh, hiểu chưa? Chỗ nào trong thông cáo nói học tập một tháng được về đâu, anh chỉ tôi xem? Đảng đâu có dối gạt các anh, tại các anh ngu không hiểu ra đấy thôi!

Mặc dù câu nói của cán bộ nhỏ nhẹ và ôn tồn, nhưng sau khi nghe, mọi người thấy lùng bùng trong lỗ tai như vừa nghe tiếng sấm gầm giữa lúc trời đang nắng chói chang.

Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:13 PM
Post #90


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Khu A và Khu B


Lối sống và thái độ “cải tạo” của 2 nhóm, khu A và khu B trong trại Nam Hà lúc bấy giờ hoàn toàn trái ngược nhau. Các bậc đàn anh khu A rất trầm lặng, mực thước trong việc tuân hành nội quy của trại và lễ phép với cán bộ. Trong khi đó nhóm khu B, nhất là các anh em trẻ, sống hiên ngang bộc trực và bày tỏ thái độ khinh mạn cán bộ một cách công khai thấy rõ. Họ cứ gọi lén cán bộ là “chèo”! Cán bộ cấp nhỏ thì gọi là “chèo nhí”. Tôi cũng không biết chữ “chèo” này bắt nguồn từ đâu. Một hôm xảy ra câu chuyện nhỏ, nhưng gây ấn tượng mạnh và làm tôi nhớ mãi.

Hôm đó trong giờ lao động khu vực chung quanh buồng 12 của tôi ở, cán bộ quản giáo gọi anh Đặng Hữu Nam, một anh bạn trẻ chừng ngoài 20 tuổi trong nhóm Phục Quốc, bảo nhắc cái ghế lại cho cán bộ. Anh Nam giả vờ đáp:

- Báo cáo cán bộ, tôi không ngồi ghế!

Anh cán bộ quen thói hách dịch quắc mắt hỏi:

- Anh bảo gì? Tôi bảo anh nhắc cái ghế lại đây cho tôi. Ai cho phép anh ngồi ghế ở đây? Anh này hay nhỉ?

Anh Nam bình thản trả lời:

- Báo cáo cán bộ, nếu cán bộ ngồi ghế thì nhắc lấy mà ngồi, sao lại sai tôi? Tôi vào đây để học tập cải tạo, đâu có vào đây để nhắc ghế cho cán bộ ngồi.

Cả nhóm chúng tôi lúc đó yên lặng theo dõi câu chuyện làm anh cán bộ xấu hổ buông ra một câu chửi thật vô duyên:

- Ăn nói bố láo!

Anh Nam đốp chát ngay:

- Cán bộ không được quyền nói tôi như vậy, tôi sẽ báo cáo việc này lên ban giám thị!

Anh Nam nói chưa hết câu thì cán bộ quản giáo đã bỏ đi, vừa đi vừa nhổ toẹt một bãi nước bọt.
Kể từ lúc chúng tôi nhập bọn, các bậc đàn anh đáng kính bên khu A mới bắt đầu nghe nói tới những tiếng cấm kỵ trong tù như, vượt ngục, chống đối lao động, biểu tình, tuyệt thực. Có lần các vị này phải nổi da gà, xanh máu mặt khi nghe các buồng khu B chúng tôi hô to trong giờ ăn trưa: “Đả đảo cộng-sản!”, tất cả mọi người gân cổ lên la thật to: “Đả đảo! Đả đảo!” Dĩ nhiên, những điều này không bao giờ ban giám thị của trại bỏ qua, họ sẽ trả đòn bằng kiểu gì lúc ấy chưa ai biết được.

Những người chưa sống trong tù cộng-sản cũng nên biết qua một chút về chiến thuật “mềm nắn rắn buông” của người cộng-sản. Tôi nghe kể lại, hôm anh em trong buồng 9 khu B hô “đả đảo cộng-sản” trước mặt cán bộ giáo dục tên Huy, mặc dù anh ta giận tím gan tím mật, nhưng vẫn vui cười nói nhỏ nhẹ như nói với người yêu: “Các anh à! Bây giờ đảng ta quản lý cả nước rồi, nếu không sống với đảng thì các anh sống với ai? Tôi biết các anh còn trẻ, dễ nóng giận, nếu có điều gì không vừa ý các anh cứ phản ảnh để ban giám thị giải quyết cho các anh.” Đúng là giọng của mẹ mìn, ngọt như mía lùi của những kẻ có bàn tay sắt bọc nhung.


Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:14 PM
Post #91


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Bọn Ăng-ten



Vào những tháng trước lễ Giáng Sinh năm đó đã có nhiều vụ tuyệt thực phản đối lao động, gõ thùng gõ thau nhà bếp, đập đánh mấy tên làm ăng-ten mà anh em gọi là bọn “chó săn”. Cuộc sống trong trại lúc bấy giờ, hay nói rõ hơn là bên khu B rất căng thẳng, giống như một quả bóng căng tròn nhưng người ta vẫn còn muốn bơm mãi, bơm mãi! Đa số tù nhân trong trại lúc bấy giờ là người Công giáo và chỉ có một mình tôi là Linh mục. Không cần phải nói, ai cũng biết là tôi đương nhiên trở thành mục tiêu cho sự theo dõi, dò xét và qui trách nhiệm các vụ chống đối xảy ra.

Người cộng-sản dùng tù theo dõi tù, dùng tù báo cáo và hãm hại tù. Những tên tù làm tay sai này thường được gọi chung là bọn “ăng-ten”, kiểu như cây ăng-ten của cái Radio kéo lên để bắt được các làn sóng phát thanh. Đôi khi chúng còn được gọi bằng cái tên sát nghĩa hơn, nhưng nghe nặng tai là bọn “chó săn”, và tại sao bọn này có tên đó chắc ai cũng hiểu.

Kinh nghiệm đời tôi trong 13 năm tù dưới chế độ cộng-sản cho tôi thấy bọn “chó săn” trại nào cũng có, thành phần nào cũng có, tuổi tác nào cũng có, cấp bậc địa vị nào ngoài xã hội trước kia cũng có. Tôi coi đây là điều sỉ nhục lớn nhất cho tập thể tù chính trị miền Nam. Tù hình sự thì tôi không nói làm gì, nhưng đối với tập thể những con người cùng chung số phận trong hàng ngũ bại trận, khi vô tù lại làm tay sai cho kẻ thù để hãm hại anh em mình là điều làm tôi nhục nhã và đau đớn. Nhất là từ khi biết con đường cải tạo còn dài thăm thẳm, và chỉ có những người lập công mới có hy vọng được về như lời cán bộ hứa, thì đội ngũ bọn ăng-ten càng đông đảo hơn. Dĩ nhiên làm “ăng-ten” cũng được coi là một nghiệp vụ, nên cũng được chiêu mộ và được huấn luyện.

Nhân đây tôi nhớ lại chính tôi cũng có lần được chiêu mộ làm việc này. Năm 1976 lúc tôi còn ở trại Phan Đăng Lưu, Gia Định. Thời gian này mới bị bắt không lâu, các tù nhân còn đang bị thẩm vấn khai thác (trong tù cộng-sản gọi là làm việc), chưa phải đi lao động. Chúng tôi bị nhốt trong các buồng trống trơn như những lớp học, trong góc buồng có một bể nước có vòi chảy vào, nằm kế bên một cầu tiêu lộ thiên, mỗi buồng chừng 60 người. Vì không phải đi lao động nên cả ngày chúng tôi ngồi nói chuyện, chơi cờ, đọc báo Nhân Dân, chờ tới giờ được mở cửa cho ăn.

Một hôm tôi được cán bộ gọi lên cơ quan “làm việc”. Người cán bộ gặp tôi là một người miền Nam chất phác, có đôi gò má cao và chải đầu rẽ ngôi giữa đỉnh. Giọng anh nói rất ôn tồn nhẹ nhàng. Sau khi thuyết một hồi về việc mở đường cải tạo cho tôi, để tôi sớm được về với gia đình và làm lại cuộc đời. Lúc đó tôi biết anh ta đã muốn gì nơi tôi.

Tôi đoán không sai, sau khi thuyết một hồi, anh ta kết luận là nếu tôi muốn được khoan hồng về sớm thì nên lập công bằng cách phát hiện và báo cáo những hiện tượng tiêu cực trong buồng. Tôi ngồi nhìn anh ta mà thấy thương hại! Thương hại cho anh đã chọn lầm người để tâm sự và kéo về phe mình. Với dụng ý sẽ chơi khăm, tôi nhận lời! Anh ta vui vẻ ra mặt. Có lẽ anh ta không ngờ hôm đó anh quá may trong công tác của một công-an cai ngục. Chắc là cấp trên anh ta sẽ rất hài lòng khi biết có một Linh mục vui vẻ nhận làm “ăng-ten”.

Anh ta tiễn tôi ra về với nụ cười thật tươi, hai bờ mép kéo dài gần tới mang tai và hứa một lúc nào đó sẽ gọi tôi lên gặp lại anh. Một thời gian sau tôi lại được gọi lên cơ quan “làm việc”. Trong lúc đi đường tôi nghĩ thầm, chắc là anh cán bộ hôm nọ đang ngồi nhịp chân trên văn phòng và đang cười thầm với ý nghĩ: “Ngay bọn cha cố mà mình cũng chiêu mộ được!”

Tôi bước vào phòng và anh ta đón tôi rất niềm nở. Trà tàu và thuốc lá được mời một cách rộng lượng. Trà nước xong đâu đó, anh ta vào đề, một lối vào đề mà nãy giờ tôi biết anh ta rất nôn nóng:

- Anh Lễ, tôi vui mừng được biết anh có tiến bộ trong cải tạo. Vậy anh cho biết anh có phát hiện được hiện tượng gì xấu trong buồng anh không?

Tôi buồn cười với câu “anh có tiến bộ trong cải tạo”, nhưng vẫn cố trả lời một cách nghiêm trọng:

- Báo cáo anh, có, có nhiều lắm!

- Có gì nói hết đi anh Lễ, nói hết đi, tôi hứa giữ kín, anh không phải lo.

Tôi nghiêm trang nói:

- Báo cáo anh, trong buồng tôi nhiều người ăn nói bậy bạ quá!

Mắt anh ta sáng lên như gặp của quý, vội hỏi:

- Ăn nói như thế nào?

- Họ chửi thề nói tục không thể tưởng tượng được. Nhất là mấy anh trẻ, mở miệng ra là 'ĐM' với 'đéo bà'!

Nụ cười vụt tắt trên môi, anh cán bộ tỏ vẻ thất vọng, cố hỏi thêm:

- Họ có nói gì phản động như chống chế độ, tuyên truyền nói xấu đảng không? Còn chửi thề thì không quan trọng.

- Báo cáo anh, tôi chỉ để ý nghe họ chửi 'ĐM' nhiều quá thôi, các thứ anh hỏi tôi không nghe!

Đó là lần “báo cáo” đầu tiên và cũng là cuối cùng, vì sau đó không bao giờ tôi bị gọi lên để giao công tác nữa. Cho tới nay có lẽ anh cán bộ nọ cũng không hề nghĩ là tôi có ý chơi khăm anh ta, nhưng cứ nghĩ là tôi quá dốt trong loại công tác này. Biết đâu anh ta cũng tiếc mấy điếu thuốc thơm và ấm trà ngon đã mời tôi.

Công tác nào cũng có người giỏi người dở, người đắc lực, người kém hiệu quả, và tùy theo kết quả công tác mà chúng được “chủ” thưởng công. Cũng có nhiều loại phần thưởng khác nhau, phần thưởng lớn nhất dĩ nhiên là một lời hứa hẹn được “đảng và nhà nước khoan hồng cho về sớm”. Nếu ai chưa biết, tôi xin nói lúc đó chúng tôi đi tù... mù, tức là bị nhốt vào tù mà không có kêu án nên không ai biết được lúc nào mình sẽ được tha và lúc nào cũng nuôi niềm hy vọng được thả về. Vì thế chiêu bài “sự khoan hồng của đảng và nhà nước” là miếng mồi thật thơm để nhử bọn “chó săn”, làm cho chúng rỏ nước dãi và săn lùng hăng hơn, phản bội anh em nhiều hơn, hại anh em nặng nề hơn. Có người còn nhẫn tâm giết chết anh em để lập công.*

Phần thưởng nhỏ có nhiều loại, như khỏi phải đi lao động nắng gió và nặng nề, chỉ ở nhà để “rình” và báo cáo những anh em khác. Có khi phần thưởng là được thăm gặp vợ qua đêm “48 tiếng” tại phòng hạnh phúc nằm ngay trong nhà thăm nuôi! Loại phần thưởng này nói ra nghe hơi ngượng, nhưng thực sự nó là mục tiêu phấn đấu cho nhiều người. Những anh cải tạo không tốt thì cho dù có xa vợ hàng chục năm đi nữa, khi bà xã ra thăm cũng chỉ được ngồi đối diện trên chiếc bàn dài để nói vài câu chuyện trời trăng mây nước, và ngay ở đầu bàn có người công-an áo vàng ngồi một đống sừng sững như để “chia xẻ niềm vui vợ chồng lâu ngày sum họp!”Anh tù thuộc dạng này cho dù có thương nhớ vợ đến chết người đi chăng nữa cũng không được sờ tay bà xã, đừng có mơ màng tới phần thưởng xa hoa “48 tiếng” trong căn phòng hạnh phúc.

Cũng cần biết thêm là những bà vợ được “48 tiếng” với chồng, khi ra về được trại cấp cho một giấy chứng nhận có “qua đêm” với chồng. Nếu về nhà có bầu thì đưa giấy tờ ra để tránh tiếng thị phi của làng nước và khỏi gặp rắc rối với dòng họ nhà chồng! Dĩ nhiên nếu không có bầu thì thôi, khoe giấy tờ loại đó ra mà làm gì, ngượng chết! Lối giải quyết bằng giấy chứng nhận như vậy cũng hay để khỏi rắc rối về sau, nhất là trong hồ sơ HO**. Một loại phần thưởng khác có thể là được chỉ định làm đội trưởng hay tổ trưởng, hoặc được làm nhà bếp có nhiều cơ hội ăn no (giàu nhà kho no nhà bếp!).

Phần thưởng lớn hơn có thể được cất nhắc lên chức vụ cao cấp trong tù như Trật tự, Văn Hóa, Y tá. Đây là những “sĩ quan” thực sự trong tù, mặc dù không phải tất cả những sĩ quan này đều là ăng-ten.

Mỗi khi nhắc tới hạng người làm ăng-ten trong tù, ai cũng bày tỏ sự khinh bỉ và bực tức. Tuy nhiên có một trường hợp làm tôi phải phục con người làm công việc này. Lúc đó tôi đang bị giam trong một buồng tập thể tại trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định. Một hôm cán bộ đưa vào buồng tôi một anh tù mới. Anh này tướng tá nhỏ con, gầy ốm và xanh xao, có đôi mắt to và lồi, tròng trắng nhiều hơn tròng đen, má hóp làm hai gò má nhô cao. Điểm đặc biệt, anh ta có mái tóc quăn bồng bềnh thật dầy làm cho hình dạng anh ta mất cân đối, phần đầu to hơn phần thân.

Vì trong buồng nóng nực nên anh cởi trần, mặc quần đùi để lộ thân hình con người chỉ có xương với gân, không có thịt. Mới nhìn qua, tôi thấy bộ dạng anh không giống với ai trong buồng. Khi anh buồng trưởng lo thu xếp chỗ nằm cho anh và anh thư ký buồng ghi tên tuổi, anh ta tỏ ra lầm lỳ, hỏi đâu nói đó, chẳng tỏ ra một chút cố gắng nào để hòa mình với những người khác trong buồng. Anh ta khai tên là Hòa, họ gì tôi không còn nhớ. Sau đó Hòa ngồi một góc, dựa lưng vào tường, ngó trước nhìn sau, cặp mắt ốc nhồi trắng dã của anh quét qua quét lại liên hồi.

Anh ngồi yên khá lâu, chẳng nói chuyện với ai và cũng chẳng ai nói chuyện với anh. Gần tới giờ lấy thức ăn trưa, trong khi trong buồng đang ồn ào như thường lệ, đột nhiên anh Hòa đứng lên và nói thật to làm cả buồng giật mình thinh lặng. Anh tự giới thiệu là một cán bộ cấp huyện, bị bắt vì nhận hối lộ. Anh cũng cho biết chính anh là người đã bấm hai quả mìn giết chết khá nhiều người trong vụ nổ nhà hàng Mỹ Cảnh ở bến Bạch Đằng trước đây.

Sau khi tự giới thiệu, anh nói tiếp bằng một giọng rất trang nghiêm: “Mặc dù bị tù nhưng tôi vẫn là một cán bộ của đảng. Tôi yêu cầu tất cả mọi người trong buồng đừng có ai tuyên truyền phản động và nói xấu đảng. Tôi sẽ báo cáo tất cả!” Nói xong anh ta ngồi xuống và trở lại với thái độ lầm lỳ như trước. Dĩ nhiên là từ đó cả buồng chúng tôi sợ anh ta. Có người ghét anh, nhất là sau khi biết anh ta đã nổ mìn giết thường dân vô tội. Nhưng tôi phục anh ta trong cách thức bày tỏ lập trường của anh với đảng.

Phần tôi, tôi biết rõ về tôi hơn ai hết, khi đã sa chân lỡ bước vào con đường này, tôi đã chấp nhận tất cả, kể cả cái chết. Điều tôi luôn quyết tâm và cầu nguyện xin Chúa giúp cho tôi được sống xứng đáng vai trò của một Linh mục làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa giữa những anh em tù nhân, và là chỗ dựa tinh thần cho anh em trong cơn thử thách. Tôi biết rất rõ người cộng-sản coi các tôn giáo là kẻ thù, mà Công giáo là kẻ thù số một. Là một Linh mục, đến nay đã 34 tuổi đời và 6 năm trong chức vụ, tội danh tôi khá rõ: Linh mục phản động, chống đối cải tạo, khuyến khích những cuộc nổi loạn trong trại. Một chuỗi “tội” như vậy làm sao tôi không đoán được số phận của mình.

Ngoài ra còn có những sự việc cụ thể sau đây càng cho tôi hiểu về số phận của mình hơn. Khi vừa nhập trại Nam Hà không bao lâu, tôi bị cán bộ gọi lên thẩm vấn nhiều lần về vụ tàu Sông Hương. Có những lần phải làm việc với sĩ quan an ninh của trại, gặp cán bộ cao cấp ở Bộ Nội Vụ xuống, và cũng có lần gặp chính Trung tá Hoàng Thanh là người có trách nhiệm vào Nam đón chúng tôi. Họ hạch hỏi tôi về dự mưu đánh cướp tàu. Khi thì bằng giọng nói ngọt ngào như đường phèn, khi thì đe dọa quát tháo sủi bọt mép. Lần nào tôi cũng trả lời một câu duy nhất: “Tôi không biết vụ này, và nếu ai báo cáo với cán bộ, cho tôi gặp người đó”.

Thường là buổi làm việc chấm dứt sau câu nói này của tôi. Làm sao họ có thể cho tôi giáp mặt với những người này. Mặc dù tôi không biết hết những tay ăng-ten đã bẩm báo rành mạch “vụ tàu Sông Hương”, nhưng tôi biết chắc chắn một vài người trong số này. Những tháng về sau này, tôi không còn bị gọi lên hỏi về vụ tàu Sông Hương nữa, nhưng không phải như thế mà vụ đó đã xong. Khi anh em khu B bắt đầu phong trào diệt ăng-ten cao độ, những tay “chó săn” bị anh em trùm chăn đánh đập què chân, sứt mõm thường được cán bộ đưa vào buồng tôi và được chỉ định nằm kế bên tôi. Tôi hiểu rất nhanh về việc này. Nhưng chính việc tôi sắp kể ra sau đây mới đóng dấu vào quyết định cho số phận tôi.

____________

* Xin đọc: “ Chuyện Thương Tâm” trong tập sách này.
** HO (Humanitarian Operation) là chương trình nhân đạo của chính phủ Hoa Kỳ đón những sĩ quan và viên chức chế độ Sài gòn có 3 năm tù sắp lên, cùng với toàn thể gia đình họ đến định cư tại Mỹ. Có lần một anh cựu tù ở Việt Nam có hồ sơ HO bị trở ngại, viết thư qua New Zealand nhờ tôi giúp. Lý do hồ sơ anh bị bác là anh khai có thằng con trai sanh ra chơi vơi vào giữa những năm bố đang đi tù. Bố đi tù mà 2 năm sau mới sanh con. Khi bố về thằng bé đã biết chạy chơi! Vợ anh lại không có giấy chứng nhận “qua đêm”! Người Mỹ cứu xét hồ sơ không hiểu vợ anh này chửa kiểu gì mà chửa lâu thế, nên bác hồ sơ. Anh bạn viết thơ cho tôi giải thích nỗi niềm bí ẩn. Tôi hiểu ngay sự việc. Một chi tiết vui anh cho biết là thằng con được đặt tên là Giá, vì nó được “có mặt” trong một lần bà xã tới thăm anh ở trại tù Bến Giá thuộc tỉnh Trà Vinh. Lần đó tôi đã dùng hết khả năng Anh ngữ nghèo nàn của tôi để viết một thư hỗ trợ rõ dài, trong thư có một đoạn chi tiết về “hạnh phúc 48 tiếng” và gởi qua Tòa đại sứ Mỹ bên Thái Lan. Kết quả ra sao tôi không còn nhớ rõ, nhưng từ đó không thấy anh bạn viết thư qua nữa. Như vậy tôi đoán thằng Giá chắc lúc này đang chạy nhảy tung tăng ở một nơi nào đó trên đất nước Cờ Hoa!

Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:14 PM
Post #92


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Học Tập Khai Báo


Vào tháng 10 năm 1977, sau khi tôi tới trại Nam Hà được 6 tháng, trại có tổ chức đợt học tập khai báo lý lịch cho một số 400 tù nhân khu A, cộng với 19 người trong buồng 12 của tôi, mặc dù tôi thuộc về khu B. Lúc này trong trại đã có thêm một số khá đông anh em tù quân đội từ trại Hoàng Liên Sơn chuyển về, đang ở khu nhà mới xây gần nhà bếp, nâng tổng số tù toàn trại lên hơn 1000 người. Tù khu B chiếm từ buồng 7 tới buồng 12, mỗi buồng chừng trên dưới 60 người. Riêng buồng 12, nơi tôi ở chỉ có 20 người thuộc đủ mọi thành phần được lựa ra ở riêng và tôi cũng chẳng biết theo tiêu chuẩn nào. Số người trong buồng rất là thập cẩm, có Linh mục, có đảng phái, có thương gia, có Mục sư người Thượng, lại có cả một ông Tàu già tên Nùng Bá Lâm, nghe nói là cựu tướng lãnh đã từng chỉ huy một sư đoàn của Tưởng Giới Thạch.

Nghe nói năm 1949 khi Tưởng Giới Thạch bị Mao Trạch Đông đuổi chạy ra đảo Đài Loan, Thiếu tướng Nùng Bá Lâm không theo ra Đài Loan mà lại dẫn tàn quân qua biên giới Miến Điện, sống bằng nghề lục lâm thảo khấu. Thực sự có đúng như vậy không và tại sao ông lại bị bắt vào đây thì tôi không biết. Ông ta người cao lớn dềnh dàng. Tuy già nua và ốm yếu, có lẽ đã 80 tuổi, nhưng đôi mắt ông ta đầy thần sắc và lúc nào cũng đỏ ngầu như mắt loài hổ báo, nấp dưới đôi chân mày rậm và dài như chổi xuể trông càng dữ tướng hơn. Ông là điển hình của một con sư tử về già.

Có lúc tôi nghĩ, mấy chục năm trước đây, ai rủi ro sa vào tay ông chắc không khá được! Ông không biết nói tiếng Việt, hay giả vờ không nói được tôi cũng chẳng biết, mặc dù nghe nói ông ta sống ở Việt Nam khá lâu. Đặc điểm nơi ông ta là ở dơ. Trong tù đã là ở dơ bẩn rồi nhưng ông Tàu già này ở dơ hơn hết mọi người ở dơ trong tù! Ông chẳng bao giờ tắm, chẳng bao giờ giặt, chẳng bao giờ rửa.

Ông nằm trong góc buồng lủi thủi một mình, chẳng nói năng, tiếp xúc với ai bao giờ. Chỗ ông nằm cũng quá bẩn và hôi hám không ai dám tới gần, cả cán bộ cũng chịu thua và không nhắc ông ta làm “nội vụ”* bao giờ. Ở trong buồng tôi được 5 tháng thì ông Nùng Bá Lâm chết, đó là người chết đầu tiên trong nhóm tù khu B chúng tôi tại trại Nam Hà vào năm 1977. Lúc bấy giờ tôi nghĩ, cái chết đã giải thoát cho ông, mặc dù tôi vẫn bùi ngùi mỗi khi nhìn qua góc phòng trống vắng nơi mà người bạn tù ngoại quốc già nua ốm yếu đã từng nằm ở đó. Ông đã đi hết đoạn đường đời của ông, trong khi tôi vẫn tiếp tục con đường còn lại mà không biết những gì đang chờ đợi tôi phía trước. Ông chết đi buồng tôi còn lại 19 người.

Mới nghe qua việc khai báo lý lịch cũng chẳng thấy có gì là nặng nề và đáng ngại, nhưng sự thực không phải đơn giản như cái tên gọi của nó. Đây là một trong những điều tôi sợ nhất trong tù. Mỗi lần khai báo như vậy, các tù nhân phải “đào mả 3 đời” nhà mình lên và đem giao nạp cho đảng! Việc đào gia phả này được lập đi lập lại nhiều lần, không có định kỳ nhất định. Tôi không hiểu được hết mục đích của việc làm này, nhưng chắc trong đó phải có ý đo lường sự thành thật của tù nhân. Vì thế, nguyên tắc sống còn là phải nhớ cho bằng được lần đầu mình đã khai báo thế nào, để lần sau và những lần sau nữa cũng phải viết y như vậy, không thêm không bớt. Có người không để ý nguyên tắc sống còn này, tưởng là càng thành thật khai báo thì càng mau được về sớm, nên đã thêm vào nhiều chi tiết trong lần khai báo tiếp theo. Họ đã phải trả cái giá thật đắt cho hành động dại khờ này.

Tôi không còn nhớ phải viết bao nhiêu lần trong suốt 13 năm tù, có lẽ trên dưới chục lần. Khóa học tập khai báo thông thường được diễn ra như sau: Có một số cán bộ trung ương tới trại để thuyết về tầm quan trọng của việc khai báo và chỉ cách “đào mả” thế nào cho nó “tốt”! Cũng nên biết, vì thời gian khai báo sẽ “động não” rất nhiều nên cần bồi dưỡng. Thí dụ như trường hợp của tôi, vì không ra ngoài lao động nên mức ăn chỉ có 9 ký một tháng, trong khi người đi lao động ăn 12 ký. Trong thời gian khai báo tôi cũng được ăn 12 ký. Ký ở đây không phải là ký gạo, làm gì có đủ gạo cho tù ăn, người ta thay vào bằng ngô, khoai, sắn, bo bo, có lúc còn ăn bã đậu nữa.

Sáng ngày khai mạc, chúng tôi được tập trung lên hội trường để nghe cán bộ trung ương thuyết trình. Các bài thuyết trình lần nào cũng như lần nào về chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước, thành khẩn khai báo là con đường ngắn nhất để về v.v... Điều làm tôi ngạc nhiên là cả người nói lẫn người nghe đều biết đó là láo khoét! Thế mà không hiểu tại sao các “thợ nói” này không thấy ngượng mồm ngượng miệng! Trong các bài thuyết trình, lần nào cũng có một bài chỉ dẫn phải khai báo như thế nào cho “đạt”!

Cuộc học tập tại hội trường kéo dài 2 ngày và chiều ngày thứ hai là thảo luận. Đề tài thảo luận do cán bộ chọn và chỉ định một anh tù lên phát biểu ý kiến, để những người khác dựa vào đó mà thảo luận. Trong lần học tập khai báo này, tôi được chỉ định nói đề tài: “Anh có yên tâm cải tạo không và cho biết lý do tại sao?” Câu hỏi này như là một gợi ý để làm mạnh thêm cách nói “yên tâm cải tạo”, và nó đã mặc nhiên trở thành câu “kinh thánh” trong tù. Có những câu khác dài hơn như: “tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của đảng” hoặc câu “tuyệt đối tin tưởng vào chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước.” Đó là những câu thần chú phải được đọc lên đúng thời, đúng chỗ cho những ai muốn được yên thân và còn muốn có ngày sum họp với vợ con. Cán bộ dặn tôi về suy nghĩ đề tài và ngày mai lên phát biểu cho nó “tốt”!

___________

* “Nội Vụ” là tiếng chỉ tất cả đồ đạc của một người tù. “Làm nội vụ” có nghĩa là xếp đồ đạc, chăn chiếu cho ngay ngắn.

Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:15 PM
Post #93


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Lựa Chọn Thái Độ


Suốt đêm đó tôi trằn trọc không ngủ được vì phải làm một sự lựa chọn lớn, sự lựa chọn có thể ảnh hưởng tới mạng sống mình. Đêm đó tôi cầu nguyện thật nhiều, tôi có thói quen cầu nguyện khi gặp sự khó, xin Chúa soi sáng cho tôi biết phải làm như thế nào. Tôi biết đây là cái bẫy họ giương ra cho tôi. Nếu chiều ngày mai khi lên đứng trước mặt cán bộ và hơn 400 anh em tù nhân, đại đa số là người Công giáo, mà tôi nói theo giáo điều là “Tôi yên tâm cải tạo”, thì mọi người, kể cả cán bộ cộng-sản, sẽ khinh bỉ vì họ thấy tôi hèn nhát và nói láo. Các anh em Công giáo có mặt hôm đó sẽ cảm thấy xấu hổ và thất vọng, vì tôi vẫn là chỗ nương tựa tinh thần cho họ. Trong trường hợp này cuộc đời tôi coi như đã hết, mặc dù thân xác tôi còn sống.

Ngược lại, nếu tôi nói lên sự thật của lòng mình, có thể tôi phải trả cái giá bằng chính mạng sống mình, nhưng tôi sẽ được sống và sống mãi trong lòng mọi người. Mặc dù là một Linh mục, nhưng tôi vẫn là con người, vẫn có sự sợ hãi trước cái chết, đó là bản chất tự nhiên của con người. Tôi nằm trằn trọc cân nhắc, suy đi tính lại gần suốt đêm. Có lúc, tôi ngồi lên suy nghĩ, cầu nguyện. Có lúc tôi bước vô cầu tiêu hút thuốc lào. Cuối cùng tôi quyết định là phải nói lên sự thật của lòng mình.
Sáng hôm sau lại tập họp lên hội trường để nghe cán bộ hướng dẫn về hình thức và nội dung phải khai báo như thế nào. Về hình thức, các tù nhân được chia thành từng tổ nhỏ, mỗi tổ có một cán bộ phụ trách, thường là cán bộ quản giáo của đội mình. Khi viết, ngồi riêng ra và không ai được quan hệ với người bên cạnh. Giấy và bút mực do trại phát. Giấy nháp màu nâu không hàng kẻ. Bản chính thức là giấy trắng và có hàng kẻ. Bút là loại bút có cán và chấm mực. Mỗi người được phát một cây bút, một lọ mực và 2 tập giấy, một nâu một trắng. Nếu ngòi bút hỏng thì báo cáo cán bộ.

Địa điểm viết là tại buồng mình ở hay do cán bộ phụ trách chỉ định. Bắt đầu viết vào giấy nháp trước. Viết xong tờ nào phải đưa cho cán bộ duyệt, nếu cán bộ thấy “đạt” sẽ ký tên vào và cho phép viết vào bản chính. Nếu cán bộ chưa vừa ý, phải xé đi và viết lại cho tới khi “đạt”! Khổ nỗi có người viết đi viết lại mấy lần vẫn chưa đạt, dĩ nhiên là chưa đúng ý của cán bộ. Ai mệt thì báo cáo cán bộ ra ngồi nghỉ, hoặc hút thuốc nhưng không được “quan hệ” linh tinh. Hết mệt vào viết tiếp. Chiều lại phải nạp tất cả cho cán bộ bản chính thức và bản nháp. Một lần “đào mả” như vậy có khi kéo dài đôi ba ngày, có người kéo dài hàng tuần. Tôi nghe nói có người viết hàng tháng trời vẫn chưa xong và nghe đâu tập “luận án” này cuối cùng dày đến cả ngàn trang.

Nhưng quan trọng và đáng nói hơn vẫn là phần nội dung. Nội dung có 2 phần: Lý lịch và quá trình hoạt động bản thân. Về lý lịch, ngoài những mục thông thường như tên họ, ngày và nơi sanh, trú quán, tôn giáo, vợ con, học lực, cấp bằng, huy chương v.v... còn có mục phải khai tên tuổi của ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ của đương sự và của vợ (hoặc chồng nếu là tù nữ), phải khai rõ họ đang ở đâu và làm gì. Còn có mục phải khai báo các loại bạn bè và địa chỉ của họ, cho dù họ đang ở trong nước hay đã đi nước ngoài, kể cả những bạn bè đang ở trong tù.

Phần chính là quá trình hoạt động bản thân. Phần này mỗi người phải viết lại tất cả cuộc đời mình từ ngày có trí khôn cho tới giờ này! Cán bộ cho biết phải viết lại tất cả, nhớ được cái gì phải khai báo hết, không được bỏ qua một chi tiết nào. Nhớ có lần, tôi khai báo hồi còn nhỏ tôi có tật hay đái dầm, cán bộ coi bản nháp nhíu mày suy nghĩ một hồi rồi nói: “Đái dầm không phải là phản động, nên anh không cần viết vào đây!” Từ đó tôi mới biết, đối với đảng, đái dầm không phải khai báo, nhưng dù sao thì đảng cũng thấy được sự thành thật khai báo của tôi!

Trong lần khai báo nào cán bộ cũng bắt tôi nhận “có tội với nhân dân”. Tôi cãi lại, tôi chỉ nhận có tội với đảng cộng-sản vì tôi không theo đảng, chứ tôi không bao giờ có tội với nhân dân, nếu không muốn nói là có công với nhân dân. Vì lý tưởng đời tôi là phục vụ và lo lắng cho người khác. Tôi giữ lập trường này cho tới cùng, mặc dù tôi bị mắng chửi và đe dọa đủ kiểu.

Chiều hôm bế mạc lớp học tập khai báo là một buổi chiều nắng gay gắt. Cái xứ Nam Hà quê hương của núi đá vôi này, nắng một mà nóng hai, vì sức nóng trong đá vôi tỏa ra khi mặt trời đã lặn. Như thường lệ, chúng tôi xếp thành hàng đôi tiến lên hội trường. Hội trường là một nhà gạch lợp ngói thấp lè tè, nằm khá xa bên ngoài trại, gần khu nhà cán bộ. Bên trong hội trường có các ghế dài bằng gỗ cho tù nhân ngồi.

Khi vô tới bên trong hội trường, tim tôi đập mạnh và người tôi nôn nao khác thường vì chiều nay tôi phải làm một việc quan trọng. Sau phần khai mạc như thường lệ, cán bộ phụ trách chương trình giới thiệu các đề tài thảo luận. Anh ta đọc tên những người được chỉ định trình bày các đề tài và dặn các tù nhân khác phải nghiêm chỉnh thảo luận cho đạt yêu cầu. Bỗng dưng tai tôi ù lại, không còn nghe rõ những gì cán bộ nói. Sự sợ hãi như vồ lấy tôi. Tay tôi bắt đầu run nhè nhẹ và mồ hôi vã ra. Tim tôi đập mạnh hơn và mặt nóng ran như người lên cơn sốt. Tự nhiên tôi cảm thấy khó thở như đang bị hụt hơi sắp chết ngạt. Lúc ấy tôi lại mắc đi đại tiện!

Có tất cả 3 đề tài do 3 anh tù được chỉ định lên nói. Giọng anh cán bộ dõng dạc: “Người thứ nhất là anh Nguyễn Hữu Lễ buồng 12, đội 20 sẽ lên đây trình bày đề tài 'Anh có yên tâm cải tạo không và cho biết lý do tại sao?'” Giây phút tôi vừa lo sợ lại vừa mong đợi suốt hơn một ngày qua, bây giờ đã tới!

Tôi bật đứng lên khi nghe tên mình và hiên ngang bước ra lối đi ở giữa hội trường, tiến lên cái bục gỗ nằm chéo góc bên tay phải. Trong vị trí đó, người nói chuyện có thể thấy được cả lớp tù ngồi bên dưới và bàn chủ tọa của cán bộ ngồi trên quay xuống. Tôi cố lấy bình tĩnh bằng những bước đi chậm, thật vững và hiên ngang, tay cầm tờ giấy đã soạn sẵn. Từ chỗ tôi đến bục gỗ không xa, nhưng sao tôi cảm thấy đi thật lâu và bầu không khí lúc đó sao quá nặng nề!

Lên gần tới bục gỗ, tự nhiên tôi thấy bình tĩnh trở lại. Bước lên bục, tôi đứng yên lặng hồi lâu, hai tay dang rộng nắm lấy thành bục về phía trước. Tôi lấy thế, đứng thẳng người và nhìn xuống đám đông. Tự nhiên nỗi sợ hãi chợt tan biến. Tôi thấy bình thản và thích thú một cách lạ thường. Cảnh này đã quá quen thuộc với tôi mặc dù lâu rồi tôi không nhìn thấy lại. Tôi có cảm tưởng mình đang đứng trên bục giảng Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, nơi tôi phục vụ cho đến ngày cộng-sản chiếm miền Nam.

Nhìn xuống hơn 400 anh em bạn tù và cả hàng ghế cán bộ, tôi có cảm tưởng đây là một buổi lễ và tôi đang bắt đầu thuyết giảng. Lúc này mọi người đang chờ đợi để lắng nghe tôi giảng lời Chân Lý. Đã 3 năm rồi tôi không có dịp rao giảng công khai, giờ đây cảnh tượng này trả tôi về với thiên chức Linh mục. Giờ phút này không còn phải là tôi nói nữa, nhưng là Thiên Chúa sẽ nói qua miệng tôi. Nếu cách đây vài phút tôi hoàn toàn bị động và lo sợ một cách tự nhiên theo bản năng con người, thì bây giờ tôi cám ơn cơ hội đã đưa tôi lên đứng đây.

Tôi đứng yên, đảo mắt một vòng, nhìn các anh em bạn tù bằng cái nhìn đầy yêu thương và xúc động mãnh liệt. Tôi nhìn nhóm cán bộ và mong cho họ nhận ra con đường yêu thương mà dân tộc mình phải đi. Các cán bộ ngồi nhìn tôi bằng những con mắt ngạc nhiên, có lẽ họ cũng đoán được một cái gì bất thường sẽ xảy ra không đúng ý họ, nhưng lúc này đã quá muộn để chận đứng điều đó.
Sau lúc thinh lặng, để tạo thế làm chủ tình hình, tôi bắt đầu nói theo ý tôi đã soạn trong tờ giấy cầm tay. Tôi nói với tất cả sức mạnh của âm thanh trong cổ họng, với tất cả sự quyết tâm thách đố bạo quyền, với tất cả sức mạnh tinh thần, quyết tạo niềm tin vững vàng cho các anh em bạn tù, nhất là các anh em Công giáo:

“Kính thưa các cán bộ, các anh em đồng cảnh thân mến.
Tôi vô cùng sung sướng có cơ hội đứng đây để nói lên điều trong lòng tôi xác tín: Tôi không yên tâm cải tạo. Tôi cũng nói điều này thay cho anh em, vì tôi biết nhiều người trong anh em nói yên tâm cải tạo là nói dối cho vừa lòng đảng và nhà nước.”

Cả hội trường như bị điện giật ngồi chết trân. Nhìn sang phía hàng ghế cán bộ tôi nói:

“Thưa quý ông, yên tâm thế nào được khi các ông vào chiếm miền Nam. Nhà cửa chúng tôi bị tịch thu, con cái chúng tôi phải bỏ học đi bán báo, bán bánh mì. Gia đình chúng tôi tan nát và tôi nói điều này với lời xin lỗi trước các anh em tôi, tôi biết giờ này có những bà vợ ở nhà đã phải làm đĩ nuôi chồng đang ở tù! Yên tâm thế nào được khi các ông vô miền Nam đã tịch thu tài sản nhà thờ, chủng viện trường học, tòa giám mục v.v... Tôi nói điều này cách công khai và tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì tôi đã nói. Xin quý ông cứ đánh điện vào miền Nam xác nhận điều tôi nói có đúng hay không? Tôi đứng đây chờ các ông.”

Nói xong câu này, tôi đứng yên lặng nhìn hàng ghế cán bộ trong lúc họ nhìn tôi bằng những cặp mắt không có lời để diễn. Tôi tiếp tục:

“Khi chúng tôi còn ở trại Gia Ray trong miền Nam, các ông bắt chúng tôi đi khai hoang, cuốc các bãi mìn, nhiều anh em tôi đã bị mìn nổ banh thây hoặc tật nguyền. Tôi có cảm tưởng mỗi nhát cuốc là tự đào huyệt chôn mình, thì làm sao yên tâm cải tạo được? Như vậy tôi xin các ông hãy làm cho chúng tôi yên tâm, đừng bắt chúng tôi phải nói yên tâm cải tạo.”

Tôi đột ngột kết thúc ở đây và đứng yên tại chỗ. Lúc đó cả hội trường bất động, không ai biết phải làm cái gì và bắt đầu như thế nào. Cán bộ thì như bị sét đánh ngang tai, mặt mày tái xám, anh em tù thì ngơ ngác, sung sướng nhưng lo sợ. Tôi vẫn đứng yên tại chỗ.

Chừng 30 giây sau, tự nhiên có một tiếng vỗ tay nghe “bốp” của một anh tù nào đó từ ở cuối hội trường. Thế là một tràng pháo tay vang dội của bạn tù, tưởng chừng vỡ cả nóc hội trường thấp lè tè. Tôi biết anh em sung sướng vì có người đã nói thay những gì ẩn ức trong lòng mà họ không thể nói ra được. Nhưng nghe tiếng vỗ tay, tôi nghĩ thầm: “Đây là tiếng pháo hạ huyệt của chính mình.”

Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:16 PM
Post #94


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Bàn Tay Sắt Bọc Nhung


Dĩ nhiên là trong lần khai báo đó, bài vở của tôi được chiếu cố kỹ lưỡng hơn. Sau đó tôi chờ đợi bị gọi đi làm việc. Một tuần sau cũng chưa thấy gì, rồi những ngày tiếp theo cũng bình thường như không có chuyện gì xảy ra, mặc dù tôi biết đây là sự yên lặng bất thường trước những cơn bão lớn. Đòn cân não này làm tôi cảm thấy mệt và ngày nào tôi cũng mong được gọi đi làm việc. Tôi hình dung ra cuộc chạm trán tay đôi sắp tới với cán bộ sẽ rất căng thẳng và đã chuẩn bị lời lẽ phải đối phó. Nhưng tôi đã lầm! Mọi việc không xảy ra như tôi dự đoán.

Mãi gần một tháng sau tôi mới bị gọi lên cơ quan làm việc. Anh em trong buồng ai cũng ái ngại cho tôi khi thấy tôi theo cán bộ ra đi. Khi đi qua dãy hành lang các cơ quan, nhìn vào thấy rất nhiều cán bộ áo vàng, áo trắng đang ngồi bên trong, tự nhiên tôi thấy sao con người mình bé nhỏ quá so với bộ máy công-an kềm kẹp trong trại này. Lúc đó tôi lại nghĩ tới một bộ máy công-an lớn hơn đang kềm kẹp cả một dân tộc, và tư tưởng này làm tôi lắc đầu ngao ngán.

Tôi được đưa vô căn phòng nhỏ có cán bộ giáo dục ngồi chờ sẵn đàng sau chiếc bàn nhỏ, trên bàn có cái bình thủy, một khay trà cũ kỹ và vài ba cái chén nhỏ úp xuống. Trong phòng này cái gì cũng nhỏ, cả người cán bộ cũng thuộc loại nhỏ con. Trên mặt bàn có vài cái bìa đựng giấy tờ mà tôi đoán là trong đó có hồ sơ cá nhân của tôi. “Chào cán bộ!” Tôi lên tiếng khi vừa bước vào. Anh cán bộ tay chỉ cái ghế trống bên kia bàn: “Anh Lễ đấy à, anh ngồi đi.”

Sau khi tôi ngồi xuống, anh ta bắt đầu câu chuyện một cách vui vẻ như đôi bạn thân lâu ngày mới gặp lại nhau. Điều này làm tôi ngạc nhiên. Anh ta hỏi thăm tôi về hết mọi chuyện từ sức khỏe tới nơi ăn chốn ở trong trại, đến việc gia đình, cha mẹ tôi có khỏe không, gia đình sinh sống ra sao. Thái độ lịch thiệp có dụng ý này của anh ta làm tôi thấy ngượng. Tôi biết đây hoàn toàn là một màn kịch, cảnh mèo vờn chuột của những kẻ có bàn tay sắt bọc nhung.

Trong lúc anh ta lúi húi pha chè (nước trà) trong bộ ấm chuyên bằng sứ loại rẻ tiền, tôi có giờ quan sát anh ta kỹ hơn. Người anh ta ngăm ngăm đen, mặt dài không có gì để gây ấn tượng, trán thấp, tóc chải lướt về phía sau rẽ ngôi giữa đỉnh đầu, mắt nhỏ linh lợi và sắc bén. Khi anh ngưng nói để với lấy lon chè, lúc đó gương mặt anh ta có vẽ dữ tợn, nhưng khi nói chuyện gương mặt anh vừa vui vừa tếu! Miệng anh lúc nào cũng mỉm cười, hay đúng hơn là cố gắng làm ra vẻ mỉm cười. Sau khi mời tôi uống chè và hút thuốc lá, anh ta độc thoại một thôi một hồi về các chuyện không đâu rồi anh ta đột nhiên nghiêm nghị hỏi:

- Anh Lễ, anh có biết chúng tôi gọi anh lên đây có việc gì không?

Tôi để ý cách anh ta dùng chữ “chúng tôi” thay vì chữ tôi, cách nói này có vẻ nghiêm trọng. Tôi trả lời đơn giản :

- Báo cáo cán bộ, tôi không biết.

Anh ta nghiêm nét mặt nhìn tôi.

- Thế anh không biết thật à?

Tôi bình thản trả lời.

- Báo cáo cán bộ, làm sao tôi biết được việc của cán bộ làm.

Anh ta yên lặng một lúc, cầm cây bút Bic xoay xoay trong mấy ngón tay tương đối nhỏ nhắn và sạch. Như để tạo thêm sự quan trọng của câu chuyện, anh ta cầm đầu cây bút, chỉ cán bút vào mặt tôi hỏi:

- Anh còn nhớ những gì anh phát biểu vừa rồi tại hội trường không?

Vì đã chuẩn bị trước nên tôi đáp ngắn gọn:

- Báo cáo cán bộ, có chứ, làm sao tôi quên được chuyện đó.

Anh ta làm ra vẻ rất tự nhiên

- Anh Lễ này! Tôi biết anh là người có tài nhưng chẳng qua vì bất mãn cá nhân nên anh nói thế thôi. Chúng tôi không coi chuyện đó quan trọng đâu, chỉ mong anh học tập cải tạo cho nó tốt.

Tôi định nói thêm nhưng anh ta vội quay trở lại dáng vẻ rất thân thiện, mời tôi uống thêm nước chè, nói mấy câu bâng quơ rồi đưa tôi ra cửa. Khi đi ra về tôi đã thầm nghĩ, đâu phải họ chỉ đơn giản gọi tôi lên, cho uống trà hút thuốc lá, mà còn có một cái gì đó rất nghiêm trọng bên trong mà họ chưa muốn nói ra. Tôi lầm bầm trong miệng:“Đúng là thứ cáo già có bàn tay sắt bọc nhung!”

Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:16 PM
Post #95


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Những Ngày Cuối Năm


Lúc này đã gần tới lễ Giáng Sinh và ai cũng biết người cộng-sản coi các tôn giáo là kẻ thù, nên lễ Giáng Sinh trong một trại hơn 1000 tù nhân, mà đại đa số là Công giáo là dịp mà ban giám thị phải cảnh giác đề phòng là chuyện đương nhiên. Đó là chưa kể mấy ngày trước lễ, cán bộ đã phải vất vả đi lùng các buồng khu B để triệt hạ các thứ trang hoàng Noel, như lồng đèn, ngôi sao, hang đá, máng cỏ. Có buồng anh em còn bớt phần ăn sắn (khoai mì) để lấy sắn luộc nhào thành bột dẻo nặn tượng Chúa Hài Đồng đặt nằm trong máng cỏ!

Mấy đêm trước lễ, các buồng khu B lại hát vang lừng những bản thánh ca rất phổ thông như “Hang Bê-Lem” của nhạc sĩ Hải Linh và bài “Cao Cung Lên” của nhạc sĩ Hoài Đức v.v... Những hành động này của anh em Khu B như thách thức, trêu ngươi cán bộ trong trại. Lúc bấy giờ tôi là Linh mục duy nhất trong trại nên cũng dễ hiểu tại sao tôi trở thành mục tiêu cho họ theo dõi và những tên ăng-ten trong trại bám sát tôi như hình với bóng.

Vào khoảng 2 tuần trước, có lần đội chúng tôi đi phơi lạc trong trại, gần khu gia cư của cán bộ. Lúc ấy là mùa đông và thời tiết rất lạnh. Đi phơi đậu cả ngày đầy bụi bặm nên chiều tối chúng tôi bắt buộc phải tắm, vì không tắm ngứa ngáy không chịu được, mặc dù là nước trong bể lạnh như nước đá. Không ngờ tắm xong đêm đó tôi bị sưng cuống phổi và sốt nằm mê man bất tỉnh. Qua ngày hôm sau tôi té xỉu giữa buồng trước lúc điểm danh ban chiều và anh đội trưởng Nguyễn Trọng Ngạn đã phải cõng tôi trên vai đưa đi bệnh xá của trại. Tôi vẫn nhớ ơn anh Ngạn mãi về việc này. Khá lâu sau tôi mới hồi phục và có thể đi lại, nhưng quá suy nhược và đi lại phải chống gậy nên chưa có thể theo đội đi lao động, mặc dù đội chúng tôi chỉ lao động bên trong trại.

Đau đớn hơn nữa, lúc đó tôi được thư chị tôi cho hay Má tôi vừa mất hôm tháng Tám. Trong thư chị nói từ khi hay tin tôi bị vào tù má ngày nào cũng nhắc ghế ra ngồi dưới bóng cây dừa trước ngõ để đợi tôi về. Ngày má không còn sức ra ngồi đó nữa là ngày cuối trong đời. Má tôi mất đêm đó. Trong lúc má lìa đời, người anh lớn của tôi cũng đang ở tù tại trại Bến Giá trong Nam.

Đọc thư chị xong, tôi ngồi chết lặng như một pho tượng. Lạ một điều, lúc đó tôi muốn khóc nhưng không chảy được một giọt nước mắt nào! Sau này tôi mới biết, sự đau đớn đã vượt quá những cảm xúc của cơ thể, biến tôi trơ ra như đá!

Có nhiều anh em, trong đó có mấy người Công giáo thấy hoàn cảnh tôi yếu nhược đến thăm hỏi an ủi, có người còn cho tôi ít thức ăn, có một anh cho tôi hộp sữa. Tôi muốn nói chi tiết như vậy, vì lúc bấy giờ không một sự việc nhỏ nhặt nào có liên quan tới tôi mà lọt qua được cặp mắt cú vọ (nghĩa đen) của Đặng Báo, một anh chàng người Công giáo chuyên theo dõi tôi để báo cáo.

Vì những lời báo cáo của anh ta, nên vào lúc xế trưa ngày 24 tháng 12, cán bộ an ninh gọi tôi lên làm việc. Khi tôi vừa ngồi xuống, cán bộ hỏi tôi quan hệ với các anh tù khác trong trại như thế nào trong mấy ngày qua, những ai tới lui với tôi, họ tới với mục đích gì, họ cho tôi những gì, ai cho hộp sữa v.v... Cuối cùng anh ta cười nhếch mép hỏi tôi:

- Anh Lễ, anh cho tôi biết chủ trương phá trại đêm nay của anh ra sao?

Qua câu hỏi này, tôi biết họ nghĩ gì về tôi, nhưng câu hỏi đó cũng hàm chứa một sự giễu cợt, mỉa mai, dựa trên lời báo cáo láo lếu. Tôi nổi nóng trả lời:

- Báo cáo cán bộ, nếu cán bộ đã biết thì đêm nay sẽ không có gì xảy ra vì đó là do những người báo cáo láo. Còn nếu tôi đã có ý định gì, không bao giờ cán bộ có thể biết được. Xin lỗi cán bộ cho tôi nói điều này, tôi chỉ thua cán bộ ở cái vị thế, chứ tôi không thua trí cán bộ đâu. Cán bộ đừng dùng câu hỏi đó để sỉ nhục tôi!

Bị phản ứng quá bất ngờ, anh cán bộ tỏ ra bối rối và quay qua nói chuyện khác. Qua cuộc tra vấn này tôi biết là tình thế đã tới lúc rất căng thẳng. Suốt buổi chiều áp lễ Giáng Sinh tôi suy nghĩ mãi, thử suy đoán xem những gì có thể xảy ra và cảm thấy dường như có dấu hiệu bất thường.

Lúc 6 giờ chiều, sau khi phát thức ăn, khu B được lệnh đổi buồng. Có một số anh tù mới, được chuyển vào buồng 6 của tôi, thay cho một số được chuyển đi buồng khác. Nói tóm lại cả ngày 24 tháng 12 năm đó, bầu khí trong trại Nam Hà rất căng thẳng. Tôi có linh tính là sẽ có một biện pháp mạnh xảy ra, trước tình trạng gần như nổi loạn của nhóm tù khu B trong những ngày qua.

Go to the top of the page
 
+Quote Post
white pages
post May 30 2008, 06:17 PM
Post #96


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Đêm Thánh Vô Cùng


Lúc ấy vào khoảng 10 giờ đêm, sau tiếng kẻng báo giờ đi ngủ, tôi ngồi trong màn âm thầm dâng Thánh lễ Chúa Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh, cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, cũng là một ngày đặc biệt đối với những tín đồ Thiên Chúa Giáo. Đối với tôi, là một Linh mục Công giáo, thì ngày lễ đó lại mang một tầm vóc và ý nghĩa quan trọng hơn. Những ngày trước, trong lúc có dịp trà trộn với anh em trong trại, tôi đã nhắc nhở và giúp cho anh em Công giáo, cả khu A lẫn khu B, xưng tội và chuẩn bị tâm hồn trong dịp này.

Chúng tôi thông báo cho nhau biết đúng vào đêm 24 tháng 12, sau khi trại đánh kẻng đi ngủ, giờ đó tôi sẽ dâng Thánh lễ và xin anh em cùng hướng về buồng 6, là buồng của tôi để hiệp ý dâng lễ. Mặc dù trong buồng cũng có một số anh em Công giáo, nhưng không ai dám tới chỗ tôi để dự lễ vì những ngày này các tay làm ăng-ten theo dõi tôi rất gắt. Một điều thật trớ trêu, chính người được cán bộ giao công tác theo dõi từng bước đi, từng lời nói của tôi lúc bấy giờ lại là một anh chàng Công giáo.

Vừa dâng lễ xong, trong lúc tôi đang lúi húi thu dọn các thứ cho vào túi vải thì bất thần nghe có tiếng chìa khóa lách cách bên ngoài. Tôi giật mình lắng tai nghe. Rõ ràng cán bộ đang mở cửa buồng tôi! Tiếng chìa khóa khua nghe rất mạnh bạo và hối hả. Có điều gì rất đặc biệt khác với tiếng mở cửa thông thường của cán bộ điểm danh hàng ngày.

Kinh nghiệm cho tôi biết, mỗi lần cửa buồng giam được mở đột ngột vào ban đêm như thế này là luôn luôn có việc chẳng lành. Lần này lại có vẻ rất khác thường, nhất là sau những biến động căng thẳng trong trại vừa rồi. Tự nhiên tôi có linh tính như có chuyện liên quan tới tôi. Tôi có lý do để suy đoán như vậy vì từ khi nhập trại Nam Hà hơn 8 tháng qua, có quá nhiều sự việc dính líu tới tôi. Chỉ nói riêng những gì vừa mới xảy ra trong ngày 24 tháng 12 này từ sáng tới giờ, nhất là họ hạch hỏi tôi về âm mưu phá trại cũng đủ cho tôi có lý do để suy đoán như vậy.

Nhận biết có chuyện bất thường, tôi lẹ tay thu gọn đồ đạc, chồm người nhìn xuống lối đi giữa buồng. Qua ánh sáng lờ mờ của bóng điện giữa buồng, tôi thấy một số cán bộ đang đứng lố nhố ở lối đi. Có việc gì rất nghiêm trọng sắp diễn ra. Bỗng một giọng cán bộ dõng dạc vang lên giữa buồng:

- Tất cả các anh vắt màn lên và ngồi yên tại chỗ. Khi nghe cán bộ gọi tên anh nào, hãy lấy hết “nội vụ” và khẩn trương bước ra khỏi buồng!

Cả buồng tự nhiên chộn rộn. Có tiếng xào xạc từ đầu tới cuối dãy của hơn 60 tù nhân trong buồng, tất cả thi hành như cái máy. Trong chốc lát, các màn được vắt lên và chúng tôi ngồi ngay hàng thẳng lối tại chỗ nằm của mình chờ đợi. Do phản ứng tự nhiên, trống ngực tôi đập càng lúc càng mạnh hơn, cho dù tôi cố muốn bình tĩnh cũng không được. “Anh Nguyễn Hữu Lễ!” Tên tôi được gọi nghe sang sảng trong đêm.

Mặc dù đã có linh tính và sẵn sàng chờ đợi, nhưng khi nghe gọi đến tên, tôi cũng giật thót người và bật dậy như chiếc lò xo. Tôi vội tháo màn, cuốn chăn chiếu, áo quần và tất cả đồ đạc cho vào bao bị. Nói là đồ đạc nhưng thực sự lúc đó tôi chẳng có gì ngoài cái lon Guigoz, ống điếu thuốc lào và một vài món linh tinh.

Lúc ấy nghe có tiếng lạo xạo của rất nhiều người bên ngoài. Tôi nhìn vội qua song cửa sổ, thấy trong sân có nhiều ánh đèn pin quét qua quét lại, có cả tiếng lách cách của súng ống chạm nhau, tiếng chân người chạy tới chạy lui nhộn nhịp một cách bất thường.“Anh Nguyễn Sỹ Thuyên!" Giọng cán bộ lúc nãy lại vang lên một cách dõng dạc. Khi nghe gọi tên anh Thuyên, tự nhiên tôi cảm thấy được “an ủi” vì ít ra cũng có người đồng cảnh. Tư tưởng này có hơi ích kỷ, nhưng thực sự là như vậy. Khi con người mình phải lâm vào cảnh khốn khổ nào mà có người khác cùng chung số phận sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Bạn hãy tưởng tượng một lớp có 50 học sinh đi thi mà một mình bạn bị rớt, bạn sẽ thấy buồn hơn là có vài người khác cũng rớt như bạn. “Khẩn trương lên! Mang tất cả nội vụ và bước ra ngoài. Khẩn trương!” Giọng quát tháo càng lúc càng mạnh.

Tôi quay nhìn anh Thuyên, trông anh đến tội nghiệp. Lúc ấy anh đã 50 tuổi, dáng người nhỏ thó thấp lùn, đầu tóc bạc phơ làm anh có vẻ già trước tuổi. Bộ râu màu cháo lòng vì ám khói thuốc lào càng làm anh trông tàn tạ hơn. Tay chân anh quờ quạng trong trạng thái mất bình tĩnh khi quơ các “nội vụ” nhét vào túi xách không ra cái túi xách, nhét vào lại rơi ra. Buồng giam có tầng gỗ bên trên và cả hai chúng tôi cùng nằm ở tầng trên đó. Tôi bám cây cột gỗ có đóng mấy cục gu, leo xuống đất, trong khi các anh em bên cạnh giúp chuyển đồ đạc cho.

Khi bước xuống tới sàn nhà, tôi chạm trán với một số cán bộ lạ mặt đang đứng đợi sẵn, mặt lạnh như tiền. Họ nhìn vào mặt tôi chăm chăm và không nói không rằng. Trông cái cách họ nhìn, tôi có thể đọc được ý nghĩ trong đầu của họ: “À! Thì ra mầy là thằng cha cố nguyễn hữu lễ (viết chữ thường) đây à?!”

“Khẩn trương lên nào!” Tiếng quát to lại giục giã trong khi tôi cố vẫy tay chào các anh em trong buồng, lúc ấy đang ngồi nhìn hai anh em tôi một cách ái ngại.

Cảnh chia tay nào cũng buồn, nhất là chia tay trong tù càng xúc động hơn, vì ngầm nói lên là có thể không bao giờ sẽ có dịp gặp lại. Tôi theo sau anh Thuyên lẫn vào giữa đám cán bộ, khệ nệ ôm đồ đạc bước ra khỏi buồng đi vào trong bóng đêm bên ngoài. Lúc ấy tôi rất hoang mang lo lắng, chưa biết những gì đang chờ đợi tôi trong màn đêm âm u đó, nơi mà tôi vừa nghe những thứ âm thanh đầy đe dọa và chết chóc.

Tôi vẫn thường nghe nói có nhiều nơi, một vài tù nhân bị dựng dậy vào ban đêm, dẫn ra khỏi buồng và không bao giờ trở lại. Khi đứng chơi vơi trong bóng đêm dầy đặc và giá buốt bên ngoài, tôi cố giương mắt nhìn khắp các buồng trong trại như là cử chỉ giã từ. Giã từ hơn 1000 anh em đồng cảnh cả khu A lẫn khu B của trại Nam Hà mà tôi đã có dịp sống chung và chia sẻ buồn vui trong hơn 8 tháng qua. Lòng tôi dâng lên nỗi chua xót!

Khi bước ra khỏi buồng, tôi mới thực sự chạm mặt với bàn tay sắt của những người cộng-sản. Bàn tay sắt trần trụi của sự đe dọa và mang tính chất tiêu diệt. Màn đêm u tối bên ngoài làm tôi rợn người. Qua ánh đèn bấm chớp tắt khắp nơi trong sân, tôi càng kinh ngạc hơn khi thấy đám đông cán bộ súng ống đầy người đứng đầy trong sân trước buồng. Tiếng người nói lộn xộn, tiếng chỉ thị, tiếng chân người chạy tới chạy lui một cách vội vã, tiếng súng ống chạm nhau, tiếng còng sắt rổn rảng trong đêm tạo thành một thứ âm thanh ghê rợn.

Tôi chưa kịp phản ứng thì bị một ánh đèn bấm chói chang chiếu thẳng vào mặt, kèm theo một tiếng quát thật to bảo tôi bỏ các các đồ đạc trên tay xuống. Một anh cán bộ bước tới còng 2 tay tôi với chiếc còng số 8. Trong mấy năm qua tôi không còn xa lạ gì với chiếc còng loại này, nhưng đêm nay tôi thấy rợn người khi bị còng 2 tay ra sau. Bỗng dưng tôi thấy choáng váng khó chịu và buồn nôn.

Lúc mới ra sân, tôi ngỡ là chỉ có buồng 6 của tôi có biến động, không ngờ nhìn qua các buồng, thấy lúc đó cũng lộn xộn và đầy nghẹt cả người. Tôi đoán là trong khu B cũng có người bị dẫn ra sân như tôi và anh Thuyên. Tôi nhắm mắt cúi đầu lặng yên vì sắp phải từ giã anh em để ra đi và chưa biết là sẽ đi về đâu. Tôi nghĩ lúc này anh em trong buồng của tôi đang hoang mang, ngơ ngác và lo ngại cho số phận của hai người bạn vừa bị tách ra khỏi đàn.


Go to the top of the page
 
+Quote Post

17 Pages V  « < 6 7 8 9 10 > » 
Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 23rd July 2025 - 03:44 AM