![]() |
![]() ![]() |
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Tôi Phải Sống
Lời Mở Đầu - Bút Ký Năm Quý Mùi 2003 Kính Dâng Lên Mẹ Việt Nam Với tâm tình Vọng Cố Hương Để Tưởng Nhớ Hương Hồn Cha Má Để nhớ ơn Sinh Thành Dưỡng Dục Anh Linh các người anh Đặng Văn Tiếp Trịnh Tiếu Lâm Thành Văn Để nhớ thời gian trong trại tù Thanh Cẩm Vong Linh người em Đỗ Thanh Bình (Bình Thanh) Để nhớ tình anh em kết nghĩa trong tù Những người đã nằm xuống trong cuộc chiến tương tàn trên quê hương. Để chia sẻ quãng đời bất hạnh Lạy Chúa! Xin cho lời con nguyện cầu. Tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa” TỰA Tháng 6 năm nay (2003), từ Tân Tây Lan, linh mục Nguyễn Hữu Lễ gọi điện thoại và ngỏ ý muốn tôi viết lời tựa cho cuốn bút ký “Tôi phải sống" mà ông vừa hoàn tất. Tôi nhận lời không một chút đắn đo vì coi đó là một vinh dự. Tác phẩm này, từ lâu tôi vẫn mong được đọc vì chính bản thân tôi cũng muốn làm một công việc tương tự nhưng không gặp điều kiện thuận lợi để thực hiện. Sau khi nhận bản thảo, tôi lao vào đọc cuốn bút ký một cách mê say, không ngừng nghỉ. Trải dài trên hơn 400 trang giấy, tác phẩm này được chia thành 11 chương. Mỗi chương gồm một số bài viết có vóc dáng như những bài luận văn được trau chuốt tận tình để quảng bá những dòng suy nghĩ cần phổ biến. Dọc theo chiều dài của tập bút ký, những tình cảnh éo le và những trạng huống hiểm nghèo, bi đát, trong các trại tù cộng sản đã được tác giả thuật lại sống động và trung thực, với một văn phong nhẹ nhàng và tự nhiên như hơi thở. Mặc dầu không phải là một pho truyện trinh thám nhưng người đọc luôn luôn ở trong trạng thái nôn nóng vì muốn biết tác giả viết gì thêm trong những trang kế tiếp. Các liều lượng hỉ, nộ, ai, lạc được phân bổ hài hòa và sử dụng một cách cân nhắc để tránh cho nội dung tác phẩm sự nhàm chán thường gặp. Lược qua những dòng viết tâm tình ta được biết tác giả sinh ra và lớn lên tại một vùng quê thuộc tỉnh Vĩnh Long. Gia đình theo đạo Công Giáo và cư ngụ trong vòng đai của ngôi thánh đường nhỏ trong làng có tên là nhà thờ Bưng Trường. Ngày tác giả mở mắt chào đời là ngày đất nước đang bị chiến tranh tàn phá. Tiếng bom đạn và những xác chết trôi sông, đối với tác giả cũng như đối với các bạn cùng lứa tuổi, là những âm thanh và cảnh tượng quen thuộc hàng ngày. Kiếp sống lầm than, cơ cực và hoàn toàn thiếu an ninh của người dân thôn dã đã làm mủi lòng người thanh niên mới lớn giàu lòng bác ái. Ta hãy đọc những dòng viết sau đây của tác giả khi ông chuẩn bị bước vào đời. “Tôi nghĩ tới con đường làm linh mục năm tôi 20 tuổi sau khi học xong ban trung học. “Cái nhìn của tôi về hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ... đã ảnh hưởng tới sự lựa chọn của tôi. Tôi quyết định chọn đời linh mục vì tôi biết trong cương vị đó tôi sẽ phục vụ người dân thấp cổ bé miệng hữu hiệu hơn.” ( trang 51 ). Thụ phong linh mục năm 1970, lúc vừa tròn 27 tuổi, tác giả hăng say làm công việc cứu nhân độ thế, nhưng không may, chưa được bao lâu, thì họa cộng sản đổ sập xuống miền Nam, và chính bản thân ông cũng bị cuốn vào vòng lao lý như hàng triệu người công dân vô tội khác của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày 30 tháng Tư đen của năm định mệnh 1975, ông lê gót chân, hết nhà tù này đến trại giam khác, từ Nam chí Bắc, để chịu kiếp đọa đầy mà những người cộng sản Việt Nam đã nhẫn tâm áp dụng đối với đồng bào ruột thịt, trong ý đồ vừa trả thù vừa tránh hậu họa sau này cho cái chế độ sâu dân mọt nước. Tắm máu đã không xẩy ra sau khi miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm bằng võ lực, nhưng những gì mà độc giả cảm nhận sau khi đọc cuốn bút ký của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, sẽ còn ghê tởm, thâm độc và ác nghiệt gấp triệu lần. Một phần bút ký “Tôi Phải Sống" tả lại cái khung cảnh hãi hùng của 13 năm tù cộng sản. Vì phải tiếp giáp hàng ngày với thần chết trong suốt quãng đời cơ cực ấy nên tác giả đã xuống quyết tâm phải tồn tại để làm nhân chứng sống cho một giai đoạn cực kỳ thảm thương của đất nước và thay đổi quan điểm sai lầm của một phần dân tộc về một thứ chủ nghĩa ngoại lai đã lỗi thời và đã đi vào sọt rác của lịch sử. Những chương trong bút ký liên quan đến hệ thống trại tù của cộng sản Việt Nam đã được tác giả ghi lại với một bút pháp tuyệt vời, với một mức độ chính xác chưa từng thấy và với một tấm lòng tha thứ, bao dung hiếm có ngay cả đối với những người rắp tâm tiêu diệt bản thân mình. Đọc tác phẩm này, nếu độc giả không phải là người mau nước mắt thì cũng sẽ rùng mình ghê sợ và xót thương cho số phận của những con người Việt Nam bị chính đồng bào mình đầy đọa xuống đáy tầng của địa ngục trần gian. Mức độ độc ác và tàn nhẫn không thua kém gì những “holocaust" Đức Quốc Xã dành cho người Do Thái trong Thế Chiến thứ hai. Chế độ tù trong xã hội cộng sản Việt Nam là sản phẩm của một chính sách hủy diệt dấu tay kinh tởm ngoài sức tưởng tượng của con người. Với một thời gian giam giữ vô hạn định giữa bốn bức tường kiên cố của các trại tù hôi hám thiết lập tại những nơi thâm sơn cùng cốc, chính sách này đã biến con người thành con vật. Bằng phép thuật khủng bố tư tưởng nó đã tạo nên những tên phản thầy phản Chúa, phản lại lý tưởng mình theo đuổi. Bằng chủ trương "bỏ đói" nó đã đưa dẫn tù nhân tới chỗ giết nhau chỉ vì một miếng cơm hay mẫu bánh. Thậm chí nó đã thúc đẩy con người nghĩ cả đến việc ăn thịt đồng cảnh để sống còn. Tác giả Nguyễn Hữu Lễ đã thuật lại những "chuyện khó tin nhưng có thật" đó với những giọt nước mắt chảy ngược vào tim vì chính ông là nạn nhân của những hiện tượng kinh hoàng vừa nói. Mặc dù vậy sau khi xếp sách lại chúng ta mới cảm nhận được hết sự chan hòa với tâm tình yêu mến quê hương và dân tộc của một Linh mục tù nhân, chứng nhân và là nạn nhân của bao nhiêu tình cảnh đau thương. Tác giả kết luận: “Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn sáng của bình minh dân tộc” "Xã hội tù’” của CSVN là hình ảnh thu hẹp của một xã hội lớn hơn: xã hội Việt Nam sau ngày 30 tháng tư đen tối. Mười ba năm dài đằng đẵng, với thiên chức của một vị linh mục, tác giả đã thành công trong việc cảm hóa và cải tà quy chính rất nhiều đối tượng đã mất hết tính người vì chính sách trại giam của cộng sản. Mong rằng tác giả cũng sẽ thành công một lần thứ hai khi trở lại đời sống bình thường, cho đúng với ước nguyện của ông lúc ban đầu, cho dân tộc được hưởng không khí tự do và cho tổ quốc có điều kiện vươn lên cùng nhân loại văn minh. Maryland ngày 20 tháng 6 năm 2003 Nguyễn Cao Quyền |
|
|
![]()
Post
#2
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Chiếc Nôi Dân Tộc
Tôi lên tiếng gọi và nói thầy Kỳ cho ngồi nghỉ một chút vì thấy trong người hơi mệt. Chúng tôi rẽ vào bên chiếc ghế công viên ngay đó ngồi chân, vừa nhìn cảnh nhộn nhịp của giao thông trên đường phố thủ đô. Lúc ngồi tựa lưng vào thành ghế đá công viên, tôi có dịp để ý quan sát người dân Hà Nội, người ngồi xe cũng như khách bộ hành trên đường phố. Điều tôi ghi nhận đầu tiên là dân chúng Hà Nội ăn mặc rất giản dị, không màu mè chải chuốt. Đa số mặc quần đen áo trắng, đàn ông cũng như đàn bà. Phần đông cúi đầu lầm lũi bước đi như những người mang tâm trạng chán chường, mệt mỏi. Họ thường đi lẻ loi một mình, có khi sánh bước từng nhóm vài ba người, nhưng rồi cũng mạnh ai người ấy đi, ít khi thấy họ cười nói đùa cợt như hình ảnh quen thuộc của hè phố Sài Gòn mà tôi đã xa lìa hơn chục năm qua. Tôi đoán hầu hết những người đang đi xe gắn máy hoặc xe đạp là giới công nhân qua cách ăn mặc giản dị của họ. Đàn ông phần nhiều đội mũ cối và phụ nữ đầu đội nón lá. Một chi tiết lý thú mà tôi thấy lúc bấy giờ là gần như tất cả các cô gái Hà Nội đều thon thả, mảnh mai và hơi nhỏ người. Tự nhiên tôi liên tưởng tới chiếc áo dài Việt Nam và nghĩ là trời sinh ra người con gái Việt Nam, nhất là gái Hà Nội là để mặc áo dài! Một lúc sau bắt đầu quen mắt, tôi cảm thấy dễ chịu, đứng dậy xốc ba-lô lên vai và theo thầy Kỳ dẫn lối tới Nhà Chung (Miền Bắc gọi Tòa Giám Mục là Nhà Chung) Hà Nội. Tôi đã nghe nói nhiều về Hà Nội với 36 Phố Phường. Những bài hát truyền cảm, những câu thơ trữ tình tả cảnh “nên thơ” của Hà Nội. Nhưng hôm nay, lần đầu tiên tôi đang sống với Hà Nội bằng chính đôi mắt và con người tự do của tôi. Hà Nội đẹp lắm! Một nét đẹp cổ kính và chất phác nhưng thâm trầm. Ngay từ giây phút đầu thấy Hà Nội, tôi như bị “tiếng sét ái tình” làm mê mẩn hồn. Tôi say mê Hà Nội như chàng trai mới lớn lần đầu tiên nhìn thấy bóng dáng kiều diễm của người con gái trong mộng và rồi “yêu” nàng! Hà Nội không lộng lẫy kiêu sa, nhưng mang vẻ trinh nguyên của chiếc nôi dân tộc. Tôi yêu nét đẹp cổ kính của Hà Nội kể từ giây phút đầu tiên đó. Thầy Kỳ đi đầu, mặc bộ quần áo màu xanh trại phát với túi xách trên vai, Khuân mang ba-lô đội nón vải bước theo sau. Nhìn hai người bạn đang hăng hái bước đi trước mặt, tự nhiên tôi buồn cười khi nghĩ tới hình ảnh của nhóm bộ ba tướng sĩ tượng này. Hai anh bạn ăn mặc kỳ dị quá khiến tôi nghĩ có lẽ người khác nhìn tôi cũng nói như vậy. Chúng tôi thật chẳng giống ai, nhất là thầy Kỳ! Ai nào lại mặc bộ quần áo tù đi nghênh ngang giữa thủ đô văn hiến như thế nhỉ? Dường như ai nhìn vào cũng biết đây là ba anh tù vừa mới được tha về. Biết đâu có người còn nghĩ đây là ba anh tù vượt ngục khi thấy thầy Kỳ mặc bộ quần áo tù với chiếc áo trấn thủ che ngoài để lấp con dấu “Cải Tạo” đóng sau lưng không chừng! Tự nhiên tôi đâm ra băn khoăn xen lẫn một chút khó chịu. Cái ông thầy Kỳ này thật là “kỳ”! Ai lại đi ăn mặc như thế bao giờ! Không lẽ chẳng còn bộ đồ nào khác hơn hay sao? Ăn mặc như thế nhỡ có ai nghi ngờ thì lại rắc rối to. Mặc dù hơi khó chịu nhưng khi thấy thầy Kỳ bỗng dưng hớn hở và cho biết là sắp tới nơi, hồn tôi như hòa vào niềm vui và quên đi nỗi băn khoăn về thầy. Thầy Kỳ lúc đó đã ngoài 40, có lẽ cũng xấp xỉ tuổi tôi. Người nhỏ thó và nước da ngăm đen, mặt có nhiều tàn nhang và mụn trứng cá, cộng với mấy chiếc răng cửa bị gãy một phần trên trông thầy càng bệ rạc hơn! Tuy nhiên, thầy Kỳ là người tốt tính. Lối sống vui vẻ và đức tính khiêm tốn làm tăng thêm nét dễ thương nơi thầy. Vì lý tưởng đi tu mà thầy bị bắt vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần. Thầy Kỳ chung lớp với một số Linh mục ở miền Bắc. Số thầy lận đận tù mãi, bằng không cũng trở thành Linh mục từ lâu. Thầy Kỳ quen biết hầu hết các tu sĩ miền Bắc, từ đức Hồng Y trở xuống. Trong Nhà Chung Hà Nội này có hai bạn học cùng lớp với thầy Kỳ làm phòng bộ (quản gia) cho đức Hồng Y. Lúc này, khi rảo bước theo thầy Kỳ, tôi có cảm tưởng như đang bước theo sau một "Thiên thần" hộ mệnh. |
|
|
![]()
Post
#3
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Nhà Chung Hà Nội
Vừa tới ngõ rẽ vào Nhà Chung, tôi cảm thấy hơi bồn chồn khi sắp sửa được gặp vị Hồng Y mà tôi chưa từng bao giờ gặp. Bất ngờ có một người đàn ông nhỏ thó quãng ngoài 50 xuất hiện. Ông từ một ngõ sát cạnh hàng rào Nhà Chung bước ra chặn chúng tôi lại và hỏi: - Cho tôi hỏi, có phải các anh mới đi tàu hỏa xuống à? Tôi rất nhạy trước cảnh này và biết ngay người đàn ông đó là ai. Thầy Kỳ chưa kịp trả lời, tôi bình thản lên tiếng: - Chúng tôi không đi tàu hỏa, nhưng tại sao bác hỏi thế? - Tôi đi đón người nhà từ miền Nam ra, và trông các anh có vẻ người miền Nam nên tôi hỏi thăm. Thấy người công-an chìm này có vẻ trâng tráo, tôi vặn hỏi ngay: - Có phải bác nghi chúng tôi là tù vượt ngục không? Người lạ mặt tỏ ra bối rối sau câu hỏi đó. Mặt ông ta khác đi và yên lặng. Thì ra tôi đoán đúng, người ngoài thấy chúng tôi biết ngay là tù. Hơn nữa, thấy cách ăn mặc của thầy Kỳ họ có quyền nghi thêm hai chữ “vượt ngục”. Tôi nói tiếp: - Bác lầm rồi, chúng tôi là tù nhưng không phải vượt ngục mà mới được tha về từ trại Nam Hà sáng hôm nay. Người công-an chìm này không chịu thua: - Thế các anh định về đâu? - Dĩ nhiên là tôi về Nam, nhưng chưa về ngay hôm nay. - Các anh định ở đâu trong lúc này? - Ở đây, trong Nhà Chung này! Vừa nói tôi vừa chỉ vào Tòa Giám Mục Hà Nội. Nói xong câu đó, chúng tôi bỏ đi vào, để mặc cho người đàn ông lạ mặt đứng trố mắt nhìn theo. Tòa Giám mục Hà Nội, hay thường được gọi là Nhà Chung Hà Nội, là một khu vực khá rộng với nhiều dãy nhà ngang dọc, nhưng tòa nhà chánh, là nhà hai tầng khá dài nằm thẳng góc với đường cái. Cách tòa nhà chánh này một đỗi là tháp của Nhà thờ Chính tòa có cây Thánh Giá vươn cao. Từ cổng đi vào là sân khá rộng và dài sâu mãi vào bên trong. Khu vực này với cây to bóng mát và các tòa nhà lâu năm trông thật cổ kính. Lúc vừa bước vào khuôn viên Nhà Chung Hà Nội, tôi tưởng như mình đang đi vào một khu bảo tàng, được gìn giữ cẩn thận và trang nghiêm. Thầy Kỳ dẫn chúng tôi đi sâu mãi vào gần cuối mới có bậc thềm bước vào khu nhà phía tay phải. Lúc đó khoảng hai giờ chiều, có lẽ là giờ nghỉ nên cả khu nhà yên tịnh và vắng vẻ, chẳng thấy bóng dáng ai. Thầy Kỳ đã quen biết nơi này nên đi vào trong như người nhà. Anh Khuân và tôi đặt ba lô xuống bậc thềm xi măng ngồi nghỉ mệt. Một lúc sau thầy Kỳ trở ra với một người đàn ông cao lớn và trắng trẻo, tóc húi kiểu đầu đinh tức là có mái bằng trên đỉnh đầu. Người này mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, quần tây đen, áo bỏ ngoài quần và chân mang xăng-đan. Toàn diện con người anh toát ra sự sạch sẽ và gọn gàng của một con người làm việc văn phòng, ít khi có dịp tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Hình ảnh này tương phản với thầy Kỳ nhỏ thó, đen đủi và bệ rạc trong bộ đồ tù đang cười nói bước đi bên cạnh. Anh Khuân và tôi đứng lên khi hai người ra tới nơi. Thầy Kỳ giới thiệu: - Thưa cha, đây là thầy Trác, bạn cùng lớp của con và là người giúp phòng bộ của đức Hồng Y. Tôi đưa tay ra bắt tay thầy Trác, trong lúc thầy nói: - Con được thầy Kỳ cho biết có cha và anh ghé Nhà Chung. Con xin chào. Mời cha và anh vào. Thầy Trác đưa cả 3 vào phòng ăn, vừa đi vừa nói: - Giờ này đức Hồng Y chưa xuống văn phòng. Cha và hai anh ngồi uống nước và tạm nghỉ, chốc con lên trình với ngài. Nói xong thầy Trác bước ra. Phòng ăn này khá lớn có kê một bàn dài chính giữa và hai bàn tròn cách đó một quảng, có những chiếc ghế đai xếp chung quanh bàn. Trong một góc nhà và cạnh vách có bộ xa-lông và mấy chiếc bàn nhỏ để sách báo. Chỗ nào cũng sạch sẽ tươm tất. Một lúc sau thầy Trác trở lại, tôi vẫn ngồi yên đọc báo. Tôi ngạc nhiên khi thầy bước tới và chào tôi lần nữa: - Chào cha, có phải cha Lễ không ạ? Tôi ngạc nhiên vì lúc nãy đã giới thiệu rồi, sao thầy còn hỏi nữa?! Tôi ú ớ đáp lại: - Vâng... vâng... Chưa nói hết câu thì thầy Kỳ cười lên tiếng: - Thưa cha, đây là thầy Trạc, em sinh đôi của thầy Trác lúc nãy! - À, ra thế! Tôi chợt phá lên cười mà không dằn được, mặc dù biết cười như thế là không phải. Để khỏa lấp chỗ hớ của mình, tôi liền chống chế bằng một câu thân thiện: - Trời ơi! Hai anh em giống nhau quá, tôi nhận không ra! Thầy Trạc vui vẻ đáp: - Không phải một mình cha lầm đâu, có nhiều người lầm hai anh em con. Chúng con giống nhau quá hả cha? Chúng tôi lại được trận cười thoải mái sau câu nói đó. Hai anh em đã giống nhau mà lại ăn mặc như nhau nữa thì có trời mới biết ai là Trác và ai là Trạc! Lúc đó tự nhiên tôi liên tưởng tới hai nhân vật sinh đôi Dupond và Dupont trong bộ truyện bằng tranh “Tintin et Milou” của Paul Hergé, nhưng tôi không dám nói ra. Sau khi chúng tôi ngồi nói chuyện vui vẻ, chợt thầy hỏi: - Trước khi vào Nhà Chung, cha và các anh có gặp ai hỏi thăm gì không? Tôi nói có, và kể lại câu chuyện gặp người đàn ông ngoài cổng. Thầy chia sẻ: - Thế đó cha ơi! Ngoài này nó vậy đấy! Con kiến cũng chui không lọt đừng nói chi con người. Mà này cha và anh có giấy tờ gì đưa con đi trình. Đồn công an ngay cổng vào Nhà Chung đó cha! Chúng tôi móc túi lấy giấy tờ. Khi thấy tôi lần túi trong túi ngoài và qua hai lần kim băng móc mảnh giấy ra trại, thầy Trạc nhìn tôi mỉm cười làm tôi xấu hổ. Lúc ấy tôi có cảm tưởng mình giống như một bà nhà quê, giấu mấy đồng tiền lẻ sâu vào ruột tượng moi mãi không ra. Tôi cười và nói cho đỡ ngượng: - Cẩn tắc vô ưu thầy ạ! - Phải thế chứ cha! Bọn móc túi Hà Nội này nó ranh lắm! Nhất là lúc đi tàu hay đi xe, cha và các anh phải cẩn thận đấy. Bọn chúng nhanh như sóc ấy! Câu nói của thầy Trạc làm tôi đỡ ngượng. Thầy cầm lên đọc khá kỹ các mảnh giấy trong tay. Tôi biết là ngoài lý do để đi trình giấy, những người có trách nhiệm trong Nhà Chung cũng phải biết chắc những ai bước vào khu nhà này. Mặc dù có sự giới thiệu coi như bảo đảm của thầy Kỳ, nhưng người ngợm của tôi lúc bấy giờ rất dễ cho người lạ nghi là Linh mục “dỏm”! Sau đó thầy bước ra và dặn tôi ngồi nghỉ để thầy đi dọn phòng cho chúng tôi. Thầy nói thêm là giờ này đức Hồng Y còn trong nhà nguyện, tới ba giờ sẽ vào văn phòng làm việc và tiếp khách. Một lúc sau thầy trở lại bước vào nhà ăn, nhưng tôi không biết là Trác hay Trạc! Thầy mời tôi lên phòng, trong khi Kỳ và Khuân ngồi chờ thầy trở lại để đưa qua khu vực nhà khách dành cho các thầy. Tôi nghĩ giá mà ba anh em chúng tôi được ở chung một nhà thì vui hơn, nhưng nhập gia phải tùy tục. Lúc đi cạnh nhau tôi vẫn chưa biết người nầy là Trác hay Trạc! Tôi mỉm cười với ý nghĩ, giá mà một ông bị cận thị mang kính thì dễ phân biệt biết mấy! Tôi được đưa vào một phòng khách trên lầu rất sạch sẽ, rộng rãi và đủ tiện nghi. Giường trải chiếu hoa và có quạt trần. Phòng mở cửa nhìn xuống sân từ đường cái đi vào và đối diện bên kia là nhà Văn Hóa. Tôi đặt chiếc ba lô hành trang duy nhất xuống ghế và bước vào nhà tắm để rửa mặt. Sau khi lau người bằng chiếc khăn mặt trắng và thơm tho, tôi bước ra và tới ngả lưng nằm dài trên giường có chiếc gối trắng tinh, dang rộng tay chân trong tư thế thoải mái lần đầu sau 13 năm cuộc đời gió bụi. Vừa nằm xuống tôi buột miệng nói thành lời: “Ôi! Đời đáng sống làm sao!”. Cái cảm giác đang tự do và làm chủ hoàn toàn một căn phòng, cho dù chỉ là một phòng khách của Nhà Chung Hà Nội và chỉ ở tạm một vài ngày đã làm tôi lâng lâng hạnh phúc và nhận chân ra sự thay đổi đột ngột trong cuộc đời. Tôi nằm yên nhắm mắt và cố tận hưởng giây phút hiếm hoi này, chẳng suy nghĩ gì thêm. Một lúc sau có tiếng gõ cửa và thầy phòng bộ bước vào. Tôi vẫn không biết là Trác hay Trạc, chỉ lên tiếng “chào thầy!” Thầy nói đã trình đức Hồng Y, Ngài mừng lắm và hẹn ba giờ rưỡi thầy đưa chúng tôi lên gặp đức Hồng Y. |
|
|
![]()
Post
#4
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Hồng Y Trịnh Văn Căn
Từ trước tới giờ tôi chỉ nghe tên và xem thấy hình, nhưng chưa bao giờ có dịp gặp đức Hồng Y Trịnh Văn Căn. Do đó, tôi hơi bồn chồn khi cùng với hai người anh em kia bước theo thầy phòng bộ trong hành lang khá rộng dẫn tới phòng của vị chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Phòng này nằm ở khoảng giữa lầu hai trong tòa nhà chánh của Nhà Chung Hà Nội. Tới nơi, thầy phòng bộ bước lui để ba anh em tôi vào. Khi nghe tiếng gõ cửa, đức Hồng Y bước ra tận nơi đón chúng tôi. Hồng Y Trịnh Văn Căn, một người khá cao lớn, tuổi ngoài 60, nước da hồng hào, tóc bạc trắng, trên môi nở nụ cười tươi và dáng vẻ rất phúc hậu. Ngài mặc áo dòng đen có viền đỏ như các Giám mục vẫn mặc, cổ “côn” trắng chỉnh tề và chân mang giày da đen. Vừa thấy ngài, tôi lên tiếng: “Thưa đức Hồng Y, con là cha Lễ, thuộc giáo phận Vĩnh Long, cùng với thầy Kỳ và anh Khuân, chúng con xin chào đức Hồng Y.” Ngài tươi cười đưa tay phải ra, tôi bắt tay vừa định quỳ gối hôn nhẫn thì Ngài đỡ tôi dậy, kéo vào lòng và quàng tay trái ôm tôi khá lâu vừa nói: “Cha Lễ! Nghe tin cha về tôi mừng lắm. Tạ ơn Chúa! Tạ ơn Chúa!” Thái độ của đức Hồng Y Trịnh Văn Căn làm tôi vô cùng cảm động. Sau đó ngài bắt tay Kỳ và Khuân, và để cho hai người quỳ hôn nhẫn. Tôi giới thiệu Khuân là một giáo dân, còn thầy Kỳ thì Ngài đã biết. Đức Hồng Y đưa tay mời ba anh em tôi vào phòng. Tôi đi đầu, theo sau là thầy Kỳ và anh Khuân. Ngài tiếp chúng tôi rất niềm nở, cùng chúng tôi ngồi ở bộ ghế xa-lông giữa căn phòng rất rộng, đơn sơ và ngăn nắp. Khi bắt đầu câu chuyện, tôi cám ơn đức Hồng Y đã gửi quà cho các Linh mục trong tù và khi các cha về hết thì gửi cho tôi. Ngài nói có nhờ cha Mai lo việc đó vì Ngài nghĩ là các cha trong miền Nam xa xôi quá. Ở đây Ngài làm được gì để an ủi các Linh mục trong lúc tù đày thì Ngài cố gắng làm. Trong câu chuyện Ngài cũng nhắc tới Đức cha Nguyễn Văn Thuận đang bị giam lỏng ở Giang Xá và Ngài vẫn nhờ cha Mai lo gửi quà, nhưng lần vừa rồi quà bị trả lại khiến Ngài lo lắng không biết tình trạng Đức cha Thuận bây giờ ra sao. Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn có giọng nói ấm, đơn sơ và truyền cảm. Ngài hỏi tôi về những Linh mục còn lại trong tù, cách thức thăm nuôi làm sao, đời sống tinh thần các Linh mục và giáo dân trong tù thế nào. Ngài hỏi chuyện cả ba người nhưng nhiều nhất là tôi. Tôi nói số Linh mục miền Nam ra Bắc từ hơn 10 năm qua thì tôi là người ra về cuối cùng. Nhưng Linh mục miền Bắc mới bị vào tù sau này thì còn lại ba người là cha Thi, cha Vĩnh thuộc Giáo phận Bùi Chu và cha Hiểu thuộc Giáo phận Bắc Ninh. Có trường hợp cha Nguyễn Văn Lý và cha Lê Văn Nghiêm thuộc Tổng Giáo phận Huế mới bị bắt hai năm cũng còn ở trại Nam Hà. Như vậy còn lại 5 Linh mục trong trại tù Nam Hà. Khi tôi nói các chi tiết này, đức Hồng Y đứng lên bước lại bàn lấy quyển sổ và bảo tôi nhắc lại để Ngài ghi. Sau đó Ngài hỏi chừng nào chúng tôi về Nam và chương trình những ngày tới ra sao. Tôi cho biết là anh Khuân sẽ về trước còn tôi sẽ lưu lại miền Bắc nửa tháng . Trước tiên tôi sẽ đi Bắc Ninh thăm Đức cha Phạm Đình Tụng là Giám mục Bắc Ninh và sẽ nhờ người hướng dẫn tới thăm gia đình cha Hiểu ở xứ Ngô Khê trong giáo phận này. Cha Hiểu sống chung một đội với tôi trong trại Nam Hà, khi tôi ra về thì cha Hiểu còn ở lại đó. Thời gian còn lại tôi sẽ đi một vài nơi để có dịp đi thăm viếng và ghi nhận tất cả những gì có thể ghi được, nhất là về tình trạng Giáo hội Công Giáo trong các giáo phận miền Bắc sau mấy chục năm dưới chế độ cộng-sản, để sau này nếu có dịp tôi sẽ viết lại những gì tôi đã thấy và tìm hiểu. Đức Hồng y rất tán thành ý định của tôi và ngài nói: “Cha cứ đi, nếu cần giới thiệu tới chỗ nào tôi sẽ giới thiệu. Hãy coi Nhà Chung này là nhà của cha. Bất cứ lúc nào cha trở lại cũng được, và nếu cần gì cứ bảo với hai thầy phòng bộ.” Ngài quay sang hỏi anh Khuân về gia đình, vợ con và việc làm ăn sinh sống trong thời gian chồng đi tù. Đức Hồng Y tiếp chúng tôi quãng nửa tiếng đồng hồ. Sau đó, chúng tôi đứng lên xin cáo lui để ngài làm việc. Trước lúc chúng tôi ra khỏi phòng, ngài dặn chúng tôi sang thăm và chào Đức cha phụ tá là Giám mục Nguyễn Văn Sang. Tôi trả lời là đã nhờ thầy phòng bộ thông báo và chúng tôi sẽ tới chào, ngay sau khi thăm đức Hồng Y. Tôi bước ra khỏi phòng đức Hồng Y Trịnh Văn Căn với sự cảm xúc và lòng kính mến sâu xa. Tôi rất mừng và hãnh diện về Giáo hội Công Giáo Việt Nam có được người lãnh đạo nhân từ, đầy lòng bác ái và quan tâm tới từng hoàn cảnh của mỗi người như thế. |
|
|
![]()
Post
#5
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Vị Giám Mục Phụ Tá
Chúng tôi đi xuống trở lại ngang nhà ăn và qua dãy nhà kế bên để tới phòng Giám mục Nguyễn Văn Sang nằm ngay ở đầu nhà. Tôi cũng chỉ nghe nói tới Giám mục Nguyễn Văn Sang, nhưng chưa gặp bao giờ. Lúc còn trong tù tôi nghe Linh mục Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức, cũng là người gốc Giáo phận Hà Nội kể chuyện. Năm 1954, Ngài đã di cư vào Nam rồi, nhưng sau đó lại trở lộn ra Bắc, không hiểu vì lý do gì. Nghe như thế tôi đã có sự khâm phục tinh thần của Giám mục Nguyễn Văn Sang chấp nhận trở lại miền Bắc dưới chế độ cộng-sản, trong khi một số đông giáo sĩ đã di cư vào Nam. Sau đó cha Sang được chọn làm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội một vài năm gì đó trước khi chúng tôi tới thăm. Chúng tôi gõ cửa khi Giám mục Sang đang ngồi tại bàn làm việc và lên tiếng mời chúng tôi vào. Ngài vẫn ngồi yên tại chỗ khi ba anh em chúng tôi bước vào. Tôi lên tiếng khi thấy ngài: - Chào Đức cha, con là cha Lễ ở Vĩnh Long cùng với hai anh em, thầy Kỳ và anh Khuân là một giáo dân ở miền Nam. Chúng con vừa mới ra khỏi tù hôm nay và tới chào Đức cha. Giám mục Sang vẫn ngồi yên sau bàn làm việc, ngẩng đầu lên và quay ngang nhìn nhóm chúng tôi: -Thế à, cám ơn, cám ơn! Mấy anh em ngồi đi. Vừa nói vị chức sắc tôn giáo ngoài 50 tuổi này chỉ tay về hàng ghế đai sát trong vách, đối diện với bàn làm việc rất bề bộn của Ngài. Tôi vừa ngồi xuống vừa quan sát rất nhanh Giám mục Sang. Giám mục Nguyễn Văn Sang đáng người hơi thấp, da mặt bóng láng, mập béo và trắng trẻo. Tướng mạo Ngài biểu hiện một sự sung mãn khá toàn diện. Ngài mặc áo dòng đen, không có cổ trắng, vì Ngài không đứng lên nên tôi không biết mang giày dép gì. Phòng làm việc của Giám mục Sang khá nhỏ, chỉ bằng phân nữa phòng Đức Hồng Y. Trong phòng bề bộn những sách vở và đồ đạc nằm vô trật tự, ngổn ngang. Sự tương phản quá bất ngờ trong thái độ đón tiếp giữa Hồng Y Trịnh Văn Căn và Giám mục Nguyễn Văn Sang tôi sượng sùng. Thấy bầu khí quá tẻ nhạt, tôi cố ý kéo dài việc xê dịch ghế và xoay đi sửa lại mấy lần trước khi ngồi yên, ra điều tôi chưa sẵn sàng để bắt đầu câu chuyện mà tôi đoán biết trước là sẽ rất nhạt nhẽo. Nhưng cuối cùng rồi tôi và hai anh bạn cũng đã ngồi yên đối diện với vị Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội. Ngài ngồi khoanh hai tay lại chống lên mặt bàn, cổ rụt xuống làm đôi vai nhô cao. Trong cách ngồi này tôi thấy hình dạng ngài trở nên thấp bé trong căn phòng bé nhỏ và bề bộn của ngài. Giám mục Sang ngồi yên nhìn chúng tôi không nói không rằng, gây cho tôi cảm tưởng là chúng tôi xuất hiện không đúng lúc. Trong giây phút đó tôi không biết tâm trạng thầy Kỳ và Khuân ra sao. Tôi đoán là họ cũng thấy đớ ra và thừa thãi như tâm trạng của tôi, nhưng dù sao họ cũng nhẹ nhàng hơn vì tôi là người phải đóng vai trò đại diện ăn nói. Trong một giây, tôi tự nói với mình:“Trời! Nếu biết như thế này thì vào đây để mà làm gì?!” Thấy tình thế kỳ dị quá, không lẽ cứ ngồi đây mà nhìn nhau cho tới giờ cơm chiều, tôi bèn hỏi một câu thừa thãi và rất ư là vô duyên: - Đức cha có khỏe không ạ? Vị chức sắc tôn giáo có thân hình tròn trịa ngồi yên một chút mới bắt đầu nói như rên: - Mới đi nghỉ mát ở Đồ Sơn về hôm qua, nghe sao trong người không được khỏe, có lẽ nắng ngoài đó to quá! Tôi không biết Giám mục Sang nói những lời nói giọng rè rè đó với chúng tôi hay tự than thở với chính mình. Dù vậy tôi buộc lòng phải hỏi thêm cho có chuyện nói: -Thế Đức cha mới đi tắm biển Đồ Sơn về à? - Mình mới về hôm qua. - Con nghe nói Địa phận Hải Phòng có nhà nghỉ mát ở Đồ Sơn, có phải Đức cha ra đó không? - Đâu có! Mình ở nhà nghỉ mát chính phủ. Mình đi là bên Mặt Trận Tổ Quốc tổ chức mời mình đi mà! Sau đó Giám mục Sang độc thoại một thôi một hồi về cuộc du hí vừa rồi, ăn làm sao, ở làm sao trong nhà khách chính phủ. Ngài ngon đà kể dài dòng về việc đó mà không một chút thương hại cho 6 cái lỗ tai của 3 tên tù khốn khổ mới được tha ra khỏi nhà tù sáng nay và tới chào ngài. Chúng tôi tới đây không có ý để nghe chuyện du hí Đồ Sơn của vị Giám mục. Sau đó không biết tại sao và vào lúc nào ngài lại chuyển đề tài qua xe đạp Peugeot của Pháp. Vị Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội lại độc thoại một tràng về tính “ưu việt” của loại xe đạp này vì có người bên Pháp, hình như nói là cha Thiết, mới gởi về cho ngài 10 chiếc. Lúc đó tôi đã muốn kiếu từ nhưng không biết làm sao. Tôi mong cho có tiếng gõ cửa hay tiếng động gì để Giám mục Sang cắt đứt câu chuyện về xe đạp Peugeot, nhưng vẫn không có tiếng gõ cửa tôi mong đợi. Được một lúc, có thể vì nhận thấy chúng tôi không phải thuộc loại thính giả tốt, Giám mục Sang bèn ban cho chúng tôi một ân huệ. Đang nói nửa chừng, ngài vụt ngừng lại nhìn đồng hồ tay và nói: “Tôi phải có cái hẹn”. Câu nói ngắn gọn đó đã giải thoát cho cả hai phía. Phía ba anh em tôi khỏi phải tiếp tục ngồi nghe những chuyện chúng tôi không muốn nghe, và phía ngài cũng khỏi phải tiếp tục ngồi đối diện với 3 người khách bất đắc dĩ trên trời rơi xuống. Ba anh em tôi đứng lên rời khỏi phòng Giám mục Sang và đi nhanh như bị ma đuổi, trong lúc ngài vẫn ngồi tại bàn ngoái đầu ra cửa nhìn theo. Lúc đi ngang nhà ăn, tôi coi đồng hồ, thấy đã 4 giờ 15, như vậy Giám mục Sang đã mất cho chúng tôi 15 phút, và tôi cũng thấy mình đã đánh mất chừng ấy thời gian một cách vô nghĩa! Tôi cảm thấy một nỗi chán chường làm nặng trĩu tâm can khi cả ba anh em yên lặng bước đi bên nhau trong hành lang cổ kính của Nhà Chung Hà Nội, được coi là con tim của Giáo hội Miền Bắc này. Thấy còn sớm, vì mãi 6 giờ chiều mới tới giờ ăn, tôi muốn lên phòng nằm nghỉ chốc lát nên tạm chia tay anh em lên buồng. Thầy Kỳ dặn với theo: “Cha nhớ xuống nhà cơm trước năm mười phút, đừng để đức Hồng Y đợi, thầy Trạc dặn con như vậy, vì đức Hồng Y không bao giờ đọc kinh ăn cơm trước lúc có mặt đầy đủ mọi người.” Tôi lần theo cầu thang lên phòng. Vừa bước vào tôi thấy trên bàn có cái phong bì màu trắng đề tên tôi. Mở phong bì ra thấy có một số tiền, kèm theo mảnh giấy nhỏ với huy hiệu của Đức Hồng Y nằm bên góc trái, ghi mấy chữ: “Cha Lễ, cầm ít tiền tiêu. Sau cơm chiều, mời cha đi bách bộ trên sân thượng. TVC.” Đọc xong tôi đưa tờ giấy lên môi hôn. Ý tôi muốn hôn lên bàn tay của người viết mấy hàng chữ đó. Thì ra Đức Hồng Y đã chu đáo và quan tâm tới người khác hơn tôi tưởng. Số tiền ngài cho tương đương với một vé xe lửa từ Hà Nội vô Sài Gòn. Sau đó tôi được biết thầy Kỳ và Khuân cũng nhận được quà của đức Hồng Y. |
|
|
![]()
Post
#6
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Nét Truyền Thống
Còn 10 phút nữa tới 6 giờ, tôi đã có mặt ở phòng ăn. Lúc sắp bước vào phòng tôi cứ ngỡ là mình tới sớm, nhưng khi vào phòng đã thấy khá đông các cha các thầy, những người tôi chưa được gặp. Thầy Kỳ cũng đang đứng đó, cười cười nói nói với những người chung quanh. Khi thấy tôi bước vào, thầy Kỳ làm công việc giới thiệu tôi với những người khác. Có khoảng chừng 10 người vừa Linh mục vừa các thầy. Một vài Linh mục rất lớn tuổi. Đa số các cha đều mặc áo chùng thâm, các thầy mặc đồ bình thường. Tôi bắt tay và chào hỏi làm quen với từng người. Khi gần tới 6 giờ, có thêm mấy người nữa bước vào. Lúc đó tôi có ý tìm Khuân nhưng không thấy đâu. Tôi e ngại anh tới nhà cơm muộn sẽ rất bất tiện nên hỏi Kỳ, vì hai người ở chung khu nhà bên kia. Hỏi ra mới biết vì là giáo dân nên Khuân không được ngồi ăn chung với các Linh mục và các thầy, phải ngồi ăn riêng một mình một mâm dưới nhà bếp, mặc dù thức ăn y như nhau. Sự hiểu biết này làm tôi ngạc nhiên và nhận rõ hơn sự cổ kính của Nhà Chung Hà Nội ngay trong các chi tiết nhỏ như thế đó. Việc ba anh em chúng tôi được chia làm hai khu vực nhà khách khác nhau đã làm tôi ngạc nhiên rồi; bây giờ tới việc “giai cấp” trong phòng ăn lại càng làm tôi lạ lùng hơn, nhất là trong khi nhà ăn còn thừa rất nhiều chỗ. Chừng vài phút trước 6 giờ, tất cả đứng vào chỗ của mình chờ đợi. Có khoảng năm Linh mục đứng vào sau các ghế đai của chiếc bàn dài đủ chỗ cho mười người, còn các thầy đứng vào hai bàn tròn kế bên. Tôi được xếp ngồi trên, phía tay trái của đức Hồng Y, vì mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng tôi chịu chức trước, các cha khác tuy già nhưng chịu chức sau nên ngồi dưới. Đúng 6 giờ đức Hồng Y từ trên lầu đi xuống và bước thẳng vào chỗ của Ngài giữa đầu bàn phía trong cùng. Sau khi đứng vào chỗ, Ngài chưa bắt đầu đọc kinh ăn cơm vì còn một chỗ trống bên tay phải của ngài mà tôi biết là chỗ của Đức cha Sang. Tất cả đứng chờ, kể cả đức Hồng Y cũng đứng yên tại chỗ và cúi đầu chờ đợi trong yên lặng. Tôi có cảm tưởng thời gian lúc đó qua đi rất chậm. Chừng vài phút sau, tôi nghe tiếng dép lẹp xẹp trong hành lang từ đầu nhà phía bên cánh trái đi lại. Tiếng dép càng lúc càng rõ hơn. Khi gần tới, tôi nghe tiếng bước chân khá vội vã như của người đang cố đi nhanh kẻo nhỡ chuyến tàu. Mọi người đứng yên chờ đợi và chắc hẳn ai cũng biết chủ nhân của những tiếng dép lẹp xẹp đó là ai. Giám mục Sang bước vào nhà cơm với vẻ nhanh nhẹn khác thường, đầu hơi cúi xuống và đi thẳng tới và đứng vào chỗ bên tay phải của Đức Hồng Y. Vị Hồng Y nhân từ ngước mắt lên nhìn khắp lượt như để chắc chắn là không còn thiếu ai, lúc đó Ngài mới bắt đầu. Trước khi làm dấu đọc kinh, đức Hồng Y lên tiếng thay mặt cho tất cả mọi người trong Nhà Chung Hà Nội, chào mừng tôi và thầy Kỳ cùng với anh Khuân vừa được ra khỏi tù sáng hôm nay và Ngài nói Nhà Chung Hà Nội rất vui khi được chúng tôi ghé thăm. Thái độ này của vị Hồng Y càng làm tôi cảm động và biết ơn. Trong khi đọc kinh, đứng bên này nhìn qua người đối diện tôi thấy được toàn diện con người Giám mục Sang lần đầu tiên. Trông ngài thấp và bé nhỏ hơn tôi tưởng. Nhất là lúc đứng cạnh bên Hồng y Trịnh Văn Căn, trông giống như một đôi đũa lệch. |
|
|
![]()
Post
#7
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Vết Tích Thời Gian
Sau bữa ăn, tôi bước theo đức Hồng Y lên sân thượng của tòa nhà lớn. Sân thượng này rất rộng, có lẽ to hơn sân quần vợt, lát bằng gạch tàu, loại gạch màu đỏ, hình vuông mỗi cạnh chừng 4 tấc bằng đất nung. Trời mùa hè nên giờ đó còn sáng, đức Hồng Y và tôi sánh vai đi bách bộ. Trong lúc đi ngài kể tôi nghe hoàn cảnh Giáo hội miền Bắc và hỏi thăm về gia đình, cha mẹ anh chị em tôi. Ngài quan tâm đặc biệt tới cuộc sống các Linh mục trong tù, và hỏi tôi nhiều điều về thời gian tôi các Linh mục bị cầm tù. Đang đi, bất chợt ngài quay lại hỏi: - Cha Lễ có để ý thấy cái gì khác lạ trên sân thượng này không? Tôi ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ đó, và đưa mắt nhìn quanh khắp lượt chẳng thấy gì lạ nên nói: - Con chẳng thấy gì lạ cả! Ngài mỉm cười, từ tốn : - Cha phải nhìn ra xa tới cuối sân mới nhận ra được. Nhìn xuống chân không thấy đâu! Theo sự gợi ý của ngài tôi nhìn ra xa tới cuối sân. Chợt tôi để ý thấy một đường vòng hình quả trám khổng lồ nằm giáp bề mặt sân thượng. Con đường này có màu vàng nhạt khác với màu gạch lát trên sân như có ai mài rửa chà xát lên đó. Tôi nheo mắt đáp: - Con thấy hình như có hình vòng tròn ai vẽ trên sân gạch. Đức Hồng Y mĩm cười một cách đau khổ, sau đó giọng Ngài trầm xuống: - Như thế là cha đã nhận ra rồi. Đó không phải là đường vẽ nhưng là đường mòn trên gạch. Đó cũng là dấu tích của đức cố Hồng Y Trịnh Như Khuê còn lưu lại. Trong hơn hai mươi năm bị quản chế, đức cố Hồng Y đã đi bách bộ trên sân thượng này. Vì đi bộ nhiều năm nên những bước chân của Ngài đã tạo thành đường mòn hình quả trám như cha thấy. Nghe câu chuyện này tôi bồi hồi xúc động và quá thương cho hoàn cảnh đức Hồng Y tiên khởi của Việt Nam và cho Giáo hội Công Giáo miền Bắc lúc bấy giờ. Lần đó tôi được có dịp nói chuyện tâm tình và thân mật với Hồng Y Trịnh Văn Căn, một người mà tôi rất kính mến. Đêm đó, sau khi đọc kinh tối chung trong nhà nguyện, tôi ghé vào thăm cha Sinh là cha Bí thư Tòa Tổng Giám mục Hà Nội. Phòng cha Sinh cách văn phòng đức Hồng Y không xa. Cha Sinh lúc đó còn trẻ, quãng chừng vừa ngoài 30, trắng trẻo đẹp trai. Trong lúc đang ngồi chơi uống nước và quan sát nơi ăn chốn ở của vị Linh mục trẻ này, tôi lắc đầu nghĩ thầm: “Ngay cái thời cực thịnh của tôi và các Linh mục miền Nam trước kia, phòng ốc nơi tôi ở cũng không bằng một góc nhỏ của phòng cha Sinh”. Từ trước tôi vẫn có cảm nghĩ là các Linh mục miền Bắc sống nghèo nàn và thiếu thốn. Điều này có thể đúng đối với các Linh mục ở miền quê, nhưng không đúng chút nào với vị Linh mục trẻ giữ chức vụ quan trọng sống giữa Thủ đô Hà Nội này. |
|
|
![]()
Post
#8
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Cuốn Phim Quay Chậm
Sau khi thăm cha Sinh, tôi trở lên phòng. Lúc đó tuy đã muộn nhưng tôi chưa thấy buồn ngủ. Một phần vì tâm trạng choáng ngộp trước khung cảnh mới, phần khác trưa nay trước giờ cơm chiều tôi có nằm nghỉ được chút ít. Trời về đêm nghe vắng lặng, tôi ra hành lang tựa vào lan can nhìn qua bên kia đường. Không biết hôm đó có dịp gì mà có đông người tụ họp trong khuôn viên nhà Văn Hóa, đa số là giới trẻ. Có ban nhạc sống và nhiều đôi ra khoảng sân trống khiêu vũ khi có tiếng nhạc. Lớp trẻ tụ tập khá đông nhưng không ồn ào. Khi nhạc trổi lên, từng cặp bước ra sân khiêu vũ, hết nhạc lại về chỗ ngồi yên chờ bản nhạc khác. Tôi đứng coi mà có cảm tưởng đây là những người máy đang giải trí. Tôi không cảm nhận được “sức sống” trong đám đông khiêu vũ và có cảm tưởng là tay chân họ nhịp bước theo điệu nhạc, nhưng sao chẳng có “hồn”! Tự nhiên tôi cảm thấy thương cho lớp trẻ này. Họ vui chơi nhảy nhót theo mốt thời trang, nhưng tâm hồn như đang mang một nỗi u hoài khó tả. Quay trở vào phòng, ngồi yên trên ghế một lúc như để xác định hiện tại và nhớ lại giờ này đêm qua diễn ra cảnh chia tay đầy nước mắt trong buồng giam ở trại Nam Hà. Tôi không muốn nghĩ tiếp, nên lấy giấy ngồi viết vài thư ngắn cho chị Hai tôi và những người thân ở miền Nam báo tin tôi được về, nhưng còn ở lại miền Bắc một thời gian. Nhìn đồng hồ trên tường đã gần 10 giờ đêm, tôi tắt đèn và lên giường nằm. Căn phòng vẫn mờ ánh sáng vàng nhẹ phản chiếu của đèn đường. Thỉnh thoảng cơn gió nhẹ làm cựa mình những nhành cây đang yên giấc. Tôi nhắm nghiền mắt lại và hồi tưởng những năm tháng qua. Đời người như một giấc chiêm bao. Mới đó mà đã mười mấy năm qua đi rồi, mười mấy năm buồn vui lẫn lộn trong kiếp sống của một Linh mục tù nhân. Tôi nhớ lại một buổi chiều nào, tôi từ giã mẹ già gạt nước mắt ra đi, nay má tôi đã chết mười một năm rồi nhưng chưa lần nào tôi được nhìn thấy mộ của má. Nhớ tới đây hai hàng nước mắt tôi chảy dài xuống gối và cổ họng tôi nghẹn cứng lại. Tôi nhớ lại chuyến xe lô Minh Chánh của một buổi chiều tắt nắng năm xưa trên quãng đường quốc lộ 4, từ Ngã Ba Trung Lương đi Sài Gòn. Chiếc xe đã đưa tôi vào ngã rẽ cuộc đời. Lúc đó, ngồi trên xe trong tâm trạng rối bời, tôi tự nhủ: “Từ đây, mình bước vào một tương lai vô định. Chẳng biết cuộc đời rồi sẽ ra sao. Nhưng nếu định mệnh an bài và mình còn sống, chắc hẳn mình sẽ viết lại vở kịch đường đời mà mình trải qua, và chiếc xe lô Minh Chánh hôm nay sẽ là màn đầu.” |
|
|
![]()
Post
#9
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Chương 1: Bước Ngoặt Cuộc Đời
1 Bước Ngoặt Cuộc Đời Từ giã Thạnh, anh bạn Linh mục thân nhất, tôi bước lên chiếc xe lô Minh Chánh tại ngã ba Trung Lương để lên Sài Gòn. Lúc bấy giờ trời đã về chiều. Chiếc xe hôm đó chật như nêm. Hành khách phần đông là các chị em bạn hàng ngồi chen lẫn với các bao bị, túi cói căng phồng, cố nhét vào chỗ nào đó trong xe mà người ta có thể nhét được. Tôi được xếp ngồi chen vào giữa anh tài xế và một người đàn ông đứng tuổi, vì tôi chẳng có hành lý gì ngoài cái túi đeo vai chỉ nặng chừng hơn ký-lô. Trong vị trí đó, có lẽ tôi là hành khách chiếm ít khoảng trống nhất trên chuyến xe có giá vé đồng hạng này. Chiếc xe tôi đang đi là loại xe Hoa Kỳ hình dáng rườm rà, to và dài như một con kình ngư bằng sắt. Hai cái đèn trước đầu xe như đôi mắt thật lớn và đuôi là cặp đèn lái rườm rà vểnh lên cao. Không kể băng tài xế, xe còn hai băng ngang phía sau, và một khoảng trống khá rộng dùng để chở hàng hóa và cuối xe là cái bửng cao độ 50 phân chặn ngang. Kiểu xe của thập niên 60 này được tung ra thị trường có lẽ để nhắm vào nhu cầu của các gia đình đông người. Tuy nhiên, khi qua tới Việt Nam xe đã được cải biến lại cho phù hợp để chuyên chở hành khách nên được gọi là xe 'lô', bởi chữ 'location' trong tiếng Pháp. Loại xe lô này đưa rước khách trên những tuyến đường ngắn, trên dưới trăm cây số, để nhắm vào những người cần đi gấp. Xe chạy rất nhanh so với xe đò bình thường. Mặc dù giá vé đắt hơn xe lớn và trên xe phải chen lấn chật chội, nhưng xe lô rất tiện dụng và đúng giờ nên lúc nào cũng đông khách. Thông thường xe có đủ chỗ cho tám người, kể cả tài xế, nhưng khi biến thành xe lô, có thể “nhét” tới 15 người hoặc hơn nữa. Riêng khoảng trống phía sau, có thể chứa năm sáu người ngồi bệt xuống sàn xe quay mặt tứ phía. Khi cần, cái bửng ở cuối xe cũng được hạ xuống để có thể chở thêm vài ba người ngồi nhìn ngược về phía sau. Nói tóm lại, hễ còn chỗ trống là cứ nhét, càng nhiều người càng tốt, có khi người này ngồi lên đùi người khác cũng không ai lấy thế làm phiền. Có điều hay là, khi xe đã chật ních cả người lẫn hành lý, nhưng hễ có khách đón, xe vẫn ngừng và còn đủ chỗ cho khách mới. Tôi phục tài thu xếp và miệng mồm khéo nói của mấy anh tài xế xe lô. Hầu như anh nào cũng trẻ trung vui tính, lúc nào cũng cười tươi khi xếp chỗ kèm theo câu nói:“Chịu khó ngồi chật chút nghe bà con, sắp tới nơi rồi!” Và lúc nào câu nói ấy cũng có hiệu nghiệm. Đoàn xe lô Minh Chánh hoạt động song song với những hãng xe đò lớn khác trên tuyến đường Sài Gòn - Mỹ Tho, và cách mười phút là có một chuyến rời bến, trong khi xe lớn phải đợi tới nửa giờ hoặc hơn. Trên quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây vào buổi chiều tà này, đường bắt đầu vắng, xe cộ thưa thớt, nên xe tôi chạy rất nhanh. Ngồi yên trên xe một lúc, sự mệt nhọc và chán chường choáng ngộp, như biến tôi thành người mộng du. Tôi lặng nhìn về phía trước, cảnh vật vùn vụt chạy ngược chiều khi chiếc xe cứ ngon trớn nuốt ngắn đoạn đường. Tôi nhìn nhưng dường như chẳng thấy gì và cũng chẳng buồn để ý tới tiếng cười nói ồn ào từ phía sau. Bất thần, tôi có cảm giác lừ đừ như người vừa uống ly rượu mạnh, nên tựa đầu vào thành ghế, xoay người tìm tư thế thoải mái, trong cái hốc nhỏ xíu giữa hai con người. Tôi nhắm mắt và cố gạt những ý tưởng vụn vặt rối bời đang lẩn quẩn trong đầu, nhưng nào có quên được dễ dàng. Quá khứ lại vồ lấy tôi. Những tháng ngày về làm nhiệm vụ Linh mục trong tỉnh Bến Tre chưa được bao lâu, nhưng sao có quá nhiều việc xảy ra, và dường như từ chuyện lớn tới chuyện nhỏ đều góp phần dẫn đưa tôi đến bước đường này. Câu chuyện giữa anh tài xế và các cô các bà phía sau càng lúc càng náo nhiệt. Họ cười nói huyên thuyên, nhưng tôi chẳng chú ý nghe được chuyện gì ra chuyện gì. Người đàn ông ngồi cạnh tôi phía ngoài có dáng khắc khổ, gương mặt sạm nắng, ra dáng một người nông dân hơn là người làm việc trong bàn giấy. Nhận xét này làm tôi cảm thấy dễ chịu, vì thời buổi bấy giờ tôi rất dè dặt khi phải tiếp xúc với người lạ, nhất là những người nào có vẻ “cán bộ” thì càng phải giữ kẽ nhiều hơn. Người đàn ông này, không có vẻ gì là cán bộ và cũng tỏ ra không hào hứng góp chuyện với anh tài xế và bà con ở phía sau. Tôi ngồi lặng yên, mơ màng nhớ lại những ngày tháng qua... Gần một năm trước đây, tôi được bổ nhiệm về làm cha sở họ đạo La Mã, thuộc huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre. Vùng này, trước kia có tên là Bàu Dơi, một nơi nghèo nàn, dân cư thưa thớt. Tới đầu thập niên 50, ở đây có xảy ra hiện tượng Đức Mẹ hiện ra, khiến nơi vắng vẻ này được nhiều người biết tới và dần dần trở nên một trung tâm hành hương khá sầm uất, sau đó được nâng lên thành giáo xứ. Theo lời kể lại, một hôm có người đàn bà đi mò cá dưới sông, nhặt được một khung ảnh cỡ lớn nhưng không còn thấy hình ảnh gì. Có lẽ khung ảnh này chìm dưới nước đã lâu. Người có được khung ảnh cũng chẳng biết làm gì với nó, nên đưa về nhà, chèn vào vách lá che mưa che gió. Một hôm, tình cờ một người có đạo trong vùng tới chơi và thấy khung ảnh, nghĩ trước kia có thể là ảnh thờ phượng nên xin về để trên bàn thờ trong gia đình. Thời đó trong vùng có chiến tranh. Ngày nọ có cuộc hành quân trên sông của binh lính Pháp. Tàu Pháp bắn súng lớn, súng nhỏ, làm hư hại và sập nhiều nhà cửa của dân chúng. Trong cơn lửa đạn, gia đình có khung ảnh lo sợ vội chui xuống dưới bàn thờ nấp và cầu nguyện xin Chúa và Đức Mẹ che chở. Điều rất ngạc nhiên, là sau khi êm tiếng súng, người nhà bò ra và nhìn lên bàn thờ thì thấy khung ảnh mờ đục trước kia đã lộ ra hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp một cách khá tỏ tường! Sự kiện đó được trình cho giáo quyền đến chứng nhận và lập biên bản. Tin lành đồn ra, và càng ngày càng có nhiều người tin tưởng tới kính viếng và cầu nguyện với Đức Mẹ. Dĩ nhiên giáo quyền không chính thức công nhận, nhưng cũng không ngăn cấm lòng sùng kính của giáo dân. Có rất nhiều người tới đây kính viếng, cầu xin và được ơn. Chứng tích này còn lưu lại trong các bia đá “Tạ Ơn” gắn khá nhiều trong nhà thờ. Vùng Bàu Dơi hẻo lánh trước kia, nay đã trở thành một trung tâm hành hương thu hút nhiều người từ phương xa tới kính viếng. Đường sá được sửa sang và một số dân các nơi khác về đây sinh sống. Tới năm 1953, khách hành hương dâng cúng tiền xây một ngôi nhà thờ, tuy nhỏ nhưng rất khang trang, có cả các dãy nhà cho khách hành hương tạm trú. Nơi này được Giám mục Ngô Đình Thục nâng lên thành họ đạo, tiếng miền Bắc là giáo xứ, lấy tên là họ đạo La Mã để kính nhớ giáo đô Rôma. Năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) ra đời, đã tạo nên một giai đoạn mới trong lịch sử chính trị Miền Nam. Tình trạng an ninh người dân được hưởng những năm đầu của Chánh quyền Ngô Đình Diệm dần dần giảm đi, theo nhịp độ hoạt động và sự lớn mạnh của MTGPMN. Riêng tỉnh Bến Tre, có tên là “Quê Hương Đồng Khởi”, nơi mà MTGPMN hoạt động mạnh mẽ, làm cho tình hình càng ngày càng căng thẳng hơn. Những năm tiếp theo, cuộc giao tranh Quốc - Cộng càng lúc càng leo thang và bành trướng tới nhiều nơi, đặc biệt trong tỉnh Bến Tre nói chung và tại họ đạo La Mã này nói riêng. Trong tình thế đó, một số đông giáo dân trong họ đạo đã tản cư lánh nạn. Khách hành hương cũng thưa thớt, và họ đạo dần dần trở nên tiêu điều. Vì giáo dân tản cư lánh nạn gần hết, nên năm 1961 cha sở họ La Mã cũng rút đi, chỉ còn mấy Dì phước dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và một số rất ít giáo dân ở lại trông coi nhà thờ và vườn tược. Từ đó, cha sở họ đạo Cái Bông, cách đó 6 cây số, lên xuống dâng lễ và phụ trách mặt tinh thần cho giáo dân. Ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp mà giáo dân các nơi thường về kính viếng cũng được đưa về nhà thờ Cái Bông cho an toàn hơn. Chiến tranh càng ngày càng leo thang. Trong thời chiến, Nhà thờ La Mã trở thành nơi trú ẩn và dung thân cho cán bộ cộng-sản trong vùng. Ai cũng biết phía quốc-gia không bắn phá hoặc giội bom các cơ sở tôn giáo, nên các nơi đó là điểm trú ẩn an toàn cho dân chúng và cán bộ khi có cuộc hành quân. Để cho danh chính ngôn thuận, một số cán bộ MTGPMN cỡ lớn trong vùng, đã xin chịu phép Rửa tội và nấp dưới bóng áo dòng của các Linh mục và các Dì phước, để che mắt cơ quan an ninh phía quốc-gia. Nếu không tránh được mà phải bị bắt, thì cũng chính các Linh mục và các Dì phước là những người họ chạy tới trước tiên. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm đã tạo nên sự gắn bó khá mật thiết giữa các Linh mục, các Dì phước với các cán bộ của MTGPMN trong vùng. Cho tới ngày 30 tháng Tư năm 1975, miền Nam rơi vào tay cộng-sản. Lúc bấy giờ, tôi đang phục vụ tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long. Đối với rất nhiều người, ngày 30 tháng Tư năm 1975 là một cuộc đổi đời. Cá nhân tôi cũng nhận thấy rỏ điều đó. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến tranh bom đạn đã chấm dứt, nên ở khắp nơi, người dân tản cư lánh nạn trong thời kỳ chiến tranh, bắt đầu thu xếp trở về sinh sống nơi quê xưa chốn cũ. Tại họ đạo La Mã cũng vậy, số giáo dân tản cư lánh nạn trong thời kỳ chiến tranh nay cũng lần lượt quay về. Trong một thời gian ngắn, số giáo dân trở nên càng lúc càng đông, nên có nhu cầu cần một Linh mục phụ trách. Tôi được đức Giám mục Nguyễn Văn Mầu, Giám mục Vĩnh Long chỉ định vào nhiệm vụ cha sở họ đạo này. Lúc bấy giờ, tình thế đã hoàn toàn thay đổi. Những cán bộ cộng sản nằm vùng đã từng núp bóng các Linh mục và các Dì phước trước đây, bây giờ là những kẻ chiến thắng và một vài người trong số đó đang nắm quyền ở địa phương này. Lúc tôi tới, họ đạo còn có hai Dì phước thuộc dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn, và một Ban quí chức, tiếng miền Bắc gọi là Hội đồng Giáo xứ, mà đa số trong đó là những cán bộ hoặc gia đình cán bộ. Tôi là người từ tỉnh khác mới đổi về và là một gương mặt mới, hoàn toàn xa lạ với tất cả mọi người trong giáo xứ và trong vùng. Mặc dù cố gắng tối đa để sống hòa đồng với mọi người, nhưng dần dần tôi cũng trở thành người bị nghi kỵ và bị chú ý theo dõi, ngay cả trong số những người gần gũi nhất với tôi trong họ đạo. Đàng khác, trong cương vị một cha sở, tôi không thể im lặng trước một thứ tà thuyết vô thần và thái độ chống báng tôn giáo một cách quá trắng trợn của một số người trong chánh quyền địa phương. Tôi cũng không thể làm ngơ trước sự can thiệp vào nội bộ tôn giáo và áp bức tôn giáo một cách ngang ngược của hạng người đang bị lên cơn sốt thời cuộc. Họ đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ và uất ức cho những người thất thế vì thời cuộc đổi thay. Những kinh nghiệm đau lòng của buổi giao thời này tôi không bao giờ quên. Trong bối cảnh đó, tôi có gặp khó khăn và áp lực từ nhiều phía và nhiều người cũng không phải là chuyện khó hiểu. |
|
|
![]()
Post
#10
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Vùng Bóng Đen
Lúc bấy giờ vì thời cuộc đổi thay và cuộc sống có nhiều áp lực từ mọi phía nên tôi rất buồn phiền. Trong vai trò một cha sở, một mặt tôi lo chỉnh đốn lại đời sống của họ đạo sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá, mặt khác tôi phải thường xuyên đương đầu với những vấn đề do một chính quyền vô thần luôn chống báng và tìm hết mọi cách để triệt hạ tôn giáo gây nên. Trong tình thế đó, tôi đã cố sống nhẫn nhục chờ cho cơn sốt thời cuộc qua đi, để tôi có thể sống yên thân để phục vụ dân chúng trong vùng nói chung, và cách riêng là giáo dân trong họ đạo thuộc về trách nhiệm của tôi. Trong cuộc sống bình dị của một Linh mục trong xứ đạo nhà quê, thực ra chẳng bận rộn gì nhiều. Hàng ngày tôi làm lễ vào buổi chiều, vì sáng ngày dân chúng còn bận đi làm ruộng hay làm cá. Tôi dành phần lớn thời giờ trong ngày đi thăm viếng giáo dân và bà con trong vùng nói chung, không phân biệt tôn giáo. Tôi không thể tổ chức các lớp học giáo lý, vì nhà nước cấm, nhưng dạy giáo lý dưới hình thức những lần tập trung trẻ con và thanh niên tới giúp “tăng gia sản xuất”, bằng việc trồng rau, trồng khoai mì, trồng mía... chung quanh nhà thờ. Ngoài các việc bổn phận trong họ đạo, lúc rảnh rỗi tôi tìm cách giải sầu bằng hai cách: câu cá và học đàn Vọng Cổ. Tôi mê câu cá ngay từ nhỏ, bởi tôi được sinh ra và lớn lên ở ruộng đồng có nhiều sông rạch và tôm cá ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cái “máu” câu cá nó đã nằm sẳn trong huyết quản tôi từ những năm còn thơ ấu, còn chạy nhảy tung tăng ở ruộng đồng nhà quê. Sau này khi lớn lên rồi cũng vậy. Ngay cả sau khi đã làm Linh mục rồi, mỗi khi có dịp cầm cần câu trong tay ngồi bên bờ sông là tôi quên hết sự đời. Nếu được ngồi trên chiếc thuyền đang thả neo giữa dòng sông rộng mênh mông mà câu cá thì không còn gì thú vị hơn. Vùng La Mã nơi tôi ở lúc đó là vùng nước lợ, còn gọi là nước "pha chè”, không mặn mà cũng không ngọt hẳn, vì là nhánh sông sát gần ngay biển. Khúc sông này có rất nhiều tôm cá, nhất là cá ngát là loại cá không vảy và có ba gai, hai cái ở hai bên mang và một ở giữa lưng. Nếu ai vô ý bị cá ngát đâm phải thì chỉ còn nước ngồi đó mà kêu trời. Có lần chính tôi là một nạn nhân bị gai cá ngát đâm vào ngón tay, nọc độc trong gai cá hành tôi đau nhức không chịu thấu và lên cơn sốt suốt một ngày. Cánh tay bị cá đâm sưng to lên gần bằng bắp đùi! Mặc dù vậy, khi cánh tay vừa hết sưng là tôi lại xuống sông câu cá. Có những lần câu được rất nhiều cá tôi phải mang tới cho giáo dân và bà con trong vùng. Nói chung, câu cá là thú giải trí thanh tao và vô thưởng vô phạt, dù vậy có lần tôi suýt bị rắc rối to vì câu cá. Một hôm tôi đang ngồi trên chiếc tam bản, tiếng miền Bắc gọi là thuyền, thả neo dưới bến nhà thờ để câu cá. Bổng từ xa có một người lạ mặt, đội mũ tai bèo khăn rằn quấn cổ, chèo chiếc xuồng nhỏ hướng về phía tôi. Cách ăn mặc “mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ” là cái mốt thời thượng lúc bấy giờ. Nhìn thấy hình ảnh đó thôi, cũng đủ cho tôi biết, hoặc đoán biết người đó là ai, và trong lòng tôi bắt đầu nghi ngại. Tới nơi anh ta cập ghe vào hỏi tôi: - Anh là ai và ngồi làm gì ở đây? Tôi lấy làm lạ vì câu hỏi đó, nhưng cũng trả lời: - Tôi là cha sở nhà thờ La Mã, tôi đang câu cá. Người lạ mặt hỏi tiếp, giọng thắc mắc: - Anh câu cá, mà cần câu anh đâu? Tôi ngạc nhiên quá, hay anh này muốn giỡn chơi. Nhưng cách anh ta nói rất nghiêm túc, vả lại anh này là người tôi mới gặp lần đầu thì làm gì có chuyện đùa giỡn. Tôi trả lời : - Anh hỏi gì vậy, thì tôi đang cầm cần câu đây anh không thấy à? Người lạ mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn trừng trừng vào cần câu máy tôi đang cầm trong tay, anh chỉ cần câu và hỏi: - Cái loại máy có cần ăng-ten và ''dây trời'' này, có kêu được máy bay B52 không? Tôi ném cần câu lên thuyền ngạc nhiên kêu lên: - Anh nói cái gì? Cái gì mà có... B52 trong này? Anh ta đứng lặng thinh tỏ vẻ nghi ngờ, làm tôi biết ngay là anh ta chưa bao giờ có dịp trông thấy cái mà người ta gọi là “cần câu máy”. Gọi là “câu máy” nhưng thực ra nó chỉ là cái trục, để quấn dây cước vào và thả dây cước ra bên trong những cái khoen bằng sắt chạy dài theo cần câu khá dài, bằng chất nhựa dẻo, để thả xuống sông câu cá. Biết như vậy tôi vội quay nhanh dây cước lên, chỉ cho anh thấy ở cuối đầu dây có cục chì và lưỡi câu, móc vào lưng con tôm đang quơ râu quơ càng dùng làm mồi câu cá ngát! Chừng đó anh mới tin là cái mà tôi đang cầm trong tay không phải là cây ăng-ten của một loại máy truyền tin hiện đại với “dây trời” có thể gọi ... B52! Cũng may là anh hỏi trực tiếp tôi, nếu anh âm thầm báo cáo loại... máy này lên cấp trên và nói tôi có dụng cụ gọi pháo dài bay B52 chắc là đời tôi đã khốn nạn sớm hơn rồi! Thú giải trí thứ hai của tôi là học đàn Vọng Cổ. Lúc đó ở gần nhà thờ có một thanh niên ngoại giáo mù mắt tên là Tám Chánh. Tuy không có đạo nhưng anh hay tới nhà thờ chơi. Anh Tám Chánh có biệt tài đàn Vọng Cổ rất hay và anh dạy cho nhiều người, nhưng chỉ dạy văn nghệ thôi chứ không lấy tiền. Tôi thường mời anh tới nhà xứ chơi để đàn hát và dạy tôi đánh đàn cổ nhạc, lâu ngày rồi hai người thân nhau. Tám Chánh rất vui tánh, thích tìm hiểu và hỏi tôi về nhiều chuyện, từ chính trị, tôn giáo, xã hội. Tôi rất thương người bạn chẳng may bị mù lòa này. Tôi nghe kể lại, lúc còn nhỏ cho tới lúc 3 tuổi, anh Tám Chánh là đứa trẻ bình thường như bao nhiêu trẻ con khác cho tới lúc anh bị đau mắt. Lúc đó sự hiểu biết về y học của dân chúng trong vùng này còn thô sơ. Không hiểu tại sao có người bày với gia đình anh lấy cựa gà trống mài ra hoà với nước và nhỏ vào mắt sẽ khỏi bệnh. Không ngờ sau khi nhỏ vào mắt, chẳng những không khỏi bệnh mà chất nước ấy còn làm nổ tung cả hai tròng con mắt của anh. Bây giờ trên mặt anh chỉ còn lại hai cái hố sâu hoắm, thay vì hai tròng con mắt, và mí mắt anh lúc nào cũng nháy liên hồi. Nghe qua chuyện đó tôi càng thương anh nhiều hơn. Nhớ có lần anh hỏi một câu làm tôi quá cảm động. Lúc đó tôi có nuôi một con chó Bắc Kinh nhỏ, tên là chó His. Lần nào tới chơi anh Tám Chánh cũng ôm nựng chó His vì nó rất hiền và dễ thương, có lần vừa vuốt lưng nó, anh hỏi tôi: - Chó His màu gì hả cha? Tôi đáp: - Màu trắng có đốm màu vàng. Anh suy nghĩ một lúc hỏi tiếp - Màu vàng là thế nào hả cha? Bỗng nhiên tôi tấy tắt nghẹn ở cổ khi thương cho hoàn cảnh người bạn tật nguyền không thấy được màu sắc là vẻ đẹp của cuộc đời. Thấy tôi yên lặng anh hỏi tiếp. - Cha, nói cho con nghe đi, màu vàng ra sao hả cha? Tôi cố trả lời tiếng được tiếng mất. - Tôi không giải thích được anh Tám ạ! Vừa nói tôi vừa chớp nhanh mí mắt. Tình bạn chúng tôi càng ngày càng sâu đậm và anh Chánh tận tình chỉ dạy tôi các “ngón” đàn, tức là kỹ thuật chơi đàn Vọng Cổ. Có lần trong một buổi tật dượt, tôi hỏi anh: - Anh Tám này, sao tiếng đàn của anh nghe não nề, hay quá là hay, còn tôi đánh đàn như cứ nghe rầm rầm như tiếng vỗ thùng thiếc, tập hoài hổng được? Anh Tám trả lời một câu làm tôi nín lặng: - Muốn có tiếng đàn như con, cha phải móc hai mắt của cha liệng đi. Thì ra người bạn mù của tôi đã gửi hết tâm tư u buồn của kiếp người bất hạnh vào tiếng đàn của mình. Anh có sáng tác ra 6 câu Vọng Cổ, có tên là “Chuyện đời tôi”, diễn tả tâm trạng u buồn trong kiếp sống lặng lẽ âm thầm của anh. Mỗi lần ngồi nghe anh vừa đàn vừa hát bản Vọng Cổ đó, tôi xúc động vô cùng. Nhưng anh chỉ ca bản đó ở chỗ riêng tư và không bao giờ ca khi có đông người, cho dù yêu cầu cách mấy anh cũng không nhận lời. Có những lần tôi tới nhà thăm anh, trong lúc mọi người đi vắng, anh Tám Chánh ngồi đánh đàn một mình các say sưa không biết có tôi đứng bên. Lúc đó tôi bất giác nói một mình: "Anh Tám nói đúng, người có đôi mắt sáng không thể nào có được tiếng đàn này!” Tôi rất thích thể điệu âm nhạc Vọng Cổ, và sau này tôi cũng biết đa số các người miền Nam cũng đều thích như tôi. Nhất là khi anh Tám Chánh đã dạy tôi đánh đàn vọng cổ và chơi được chút ít thì càng say mê hơn. Nhớ lại thời gian đó có đôi ba lần tôi cũng phải đi đào đất làm thủy lợi chung với bà con trong vùng. Vì đi đào thủy lợi khá xa trong mấy ngày liền nên chúng tôi mang theo gạo để nấu cơm. Ban ngày đào đất, chiều lại, tôi và một số thanh niên tập trung tại sân nhà một người dân nào đó trong vùng để nấu ăn và sau đó ngồi quây quần nhau đàn hát cổ nhạc trước lúc đi ngủ. Nếu đêm đó có trăng nữa thì càng nên thơ! Khổ nỗi, tôi thích Vọng Cổ mà lại không biết hát, mặc dù vậy nghe những người hát Vọng Cổ thật mùi có chỗ làm tôi rưng rưng nước mắt. Có mấy người chọc tôi là “mít ướt”, nghĩa là dễ khóc, nhưng không hiểu sao khi nghe một vài bài Vọng Cổ thương tâm tôi không cầm lòng được. Lúc tôi mới về họ đạo La Mã, là lúc mà cơn sốt thời cuộc lên cao ngất từng mây. Có những con người bị sơn sốt thời cuộc hành căng quá không chịu nổi, họ phải làm hết mọi cách để chứng tỏ mình là người "cách mạng”. Thậm chí có kẻ tìm cách triệt hạ người khác, mà họ cho là “không cách mạng”, để chứng tỏ mình là người “cách mạng”. Có lần, tôi đi xe gắn máy từ Bến Tre về họ đạo, khi gần tới nhà bị mấy anh du kích “cách mạng” chặn lại trên đường. Một anh mặt mày đen đúa, mang súng AK, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, bước tới giật lấy cái mũ lưỡi trai tôi đang đội ném xuống đất, giận dữ quát: - Tới lúc này mà anh còn đội kết của thằng Kỳ à? Tôi chẳng hiểu anh ta muốn nói gì, nên hỏi lại: - Anh nói gì tôi không hiểu, đây là kết của tôi mua chứ của thằng Kỳ nào? Anh du kích bực mình, chỉ vào mặt tôi đe dọa: - Đây là loại kết đồi trụy của thằng Nguyễn Cao Kỳ nó đội anh hiểu chưa? Bộ anh muốn bắt chước thằng Kỳ hả? Tôi chợt hiểu ra vì ông Nguyễn Cao Kỳ có lần đội kết đen giống như vậy, nên cái loại kết đó đương nhiên trở thành đồi trụy! Tôi chẳng hỏi thêm gì, chỉ đứng yên một cách ngán ngẩm và chịu trận cho anh du kích mắng nhiếc một hồi và cho tôi đi. Lúc nổ máy xe chạy đi rồi, tôi mới mỉm cười nghĩ thầm là mất cái kết đen, tôi vẫn còn may mắn. Nếu anh “cách mạng” lúc nãy nói cái quần tôi đang mặc là quần của...‘‘thằng Kỳ”, chắc là hôm đó tôi gặp chuyện ngượng ngùng chết người! Nhưng sự đời, hể cái gì lên quá cao rồi cũng có lúc cũng phải xẹp xuống. Cơn sốt thời cuộc trong vùng La Mã này cũng theo quy luật đó. Sau đó không lâu, trong xã phát động đợt học tập “đóng nghĩa vụ”, và tất cả mọi người ai có vườn có ruộng đều phải tới học tập. Họ đạo cũng có mấy công đất vườn trồng dừa, nên tôi cũng phải có mặt. Điều tôi ghi nhận rất rỏ là cơn sốt thời cuộc đã làm cho nhiều người trở thành điên loạn mấy tháng trước đây đột nhiên trở thành cơn giá băng sau đợt học tập đóng nghĩa vụ này. Đợt học tập để bắt người dân đóng thuế, nhưng được gọi cái tên đẹp là “đóng nghĩa vụ’’ này, được tổ chức ngay trong một lớp của trường học họ đạo của tôi. Có mấy cán bộ cấp tỉnh xuống giúp cho chánh quyền địa phương, dạy cho người dân biết cách đóng “nghĩa vụ” thế nào cho nó tốt. Sau đợt học tập, với nhiều bài thuyết giảng tràng giang đại hải, mỗi gia đình có ruộng có vườn được “cách mạng” ban chỉ tiêu đóng thuế cắt cổ. Một chỉ tiêu đóng thuế nặng chưa từng thấy. Ngay cả trong chế độ mà người ta gọi là “Mỹ Ngụy” cũng chưa bao giờ bà con trong vùng này phải đóng thuế vườn thuế ruộng với chỉ tiêu cắt cổ như thế. Cơn sốt thời cuộc trong vùng tôi, ngày hôm đó, vụt xẹp đi như bánh xe bơm cứng, bị cán phải đinh. Nhiều gia đình cách mạng quá phẫn uất, chửi rủa tùm lum vì cái chỉ tiêu “đóng nghĩa vụ” chóng mặt vừa mới được cách mạng ưu ái ban cho. Có mấy bà “mẹ chiến sĩ ” đã lớn tuổi, miệng nhai trầu bỏm bẻm, ăn nói rất bạo mồm bạo miệng. Vì bực quá chịu không nỗi nên chửi thẳng, theo cái kiểu người ta thường ví : “trâu già không sợ dao phay”. Có bà phùng mang, trợn má đứng chửi giữa đám đông ai nghe thì nghe: "Đéo mẹ chúng bây ! Nếu tao biết nông nỗi này thì ngày trước tao đấm đách có thèm mà chứa chấp tụi bây trong nhà tao!" Sau đó tôi biết, bà con bực thì chửi cho hả hơi còn “nghĩa vụ” thì vẫn phải đóng đủ. Vì đóng thuế không đủ “cách mạng” sẽ có biện pháp khác, và không ai muốn rơi vào biện pháp đó, cho dù là những “gia đình cách mạng”, hoặc những người vẫn nghĩ là mình có công với cách mạng! Tình trạng giữa tôi và chánh quyền địa phương càng ngày càng trở nên căng thẳng. Do đó, tôi biết sự có mặt của tôi lúc bấy giờ là một chướng ngại và là cái gai trong con mắt của nhiều người, ngay cả những người có mặt trong họ đạo trước tôi. Sau gần một năm, tôi cảm thấy không thể sống và làm việc hữu hiệu tại giáo xứ. Hơn nữa, má tôi đang đau ốm nặng, nên tôi trình bày hoàn cảnh với Giám mục và được chấp thuận cho tôi được ra khỏi họ đạo. Tôi được lệnh bàn giao họ đạo lại cho cha Quang, cha sở họ đạo Cái Bông để về nhà quê lo lắng cho mẹ già. Cha Quang đã từng phụ trách họ đạo này trước khi cộng sản chiếm miền Nam, cha Quang là anh của cha Thạnh, người bạn Linh mục thân nhất của tôi, lúc bấy giờ đang làm cha sở họ đạo Quới Sơn cũng thuộc tỉnh Bến Tre. Thạnh và tôi cùng tuổi. Chúng tôi chơi thân ngay từ những năm còn học ở Tiểu Chủng-viện Vĩnh Long. Năm 1963 chúng tôi lên Sài Gòn và học chung lớp trong bảy năm tại Đại Chủng viện Thánh Giuse, số 6 đường Cường Để. Đại Chủng viện Thánh Giuse là chủng viện miền, đào tạo linh mục cho 7 địa phận miền Nam, vì lúc bấy giờ các địa phận, tiếng miền Bắc là giáo phận, chưa có Đại Chủng-viện riêng. Sau khi mãn khóa, Thạnh và tôi cùng được thụ phong Linh mục vào năm 1970, và cả hai về làm việc tại địa phận Vĩnh Long vì chúng tôi thuộc về địa phận này. Về địa dư, địa phận Vĩnh Long bao gồm bốn tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và Sa Đéc với khoảng trên dưới 150.000 giáo dân. Thạnh được bổ nhiệm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, còn tôi làm phó xứ Sa Đéc, cách nhau độ 20 cây số. Thỉnh thoảng chúng tôi tới lui thăm nhau và tình bạn càng thêm thắm thiết. Tuy là đôi bạn thân, nhưng cuộc đời của Thạnh và tôi rất khác biệt nhau. Thạnh có cuộc sống trầm lặng, tánh tình hòa dịu và vóc dáng ốm yếu. Tuy thế cuộc đời ưu đãi anh về nhiều phương diện. Sau hai năm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa, Thạnh được bổ nhiệm làm cha sở họ đạo Quới Sơn, gần cầu bắc Rạch Miễu, trong tỉnh Bến Tre vào đầu năm 1973. Khi cộng-sản chiếm miền Nam, Thạnh vẫn đang ở đó. Tôi nghĩ là Thạnh sẽ còn ở Quới Sơn lâu dài, vì từ ngày chiếm được miền Nam, nhà nước cộng-sản đã trắng trợn can thiệp vào nội bộ các tôn giáo, không cho các Giám mục được quyền thuyên chuyển các Linh mục. Muốn đổi một Linh mục nào phải có sự đồng ý của chánh quyền, nói chung là ai đang ở đâu cứ ở đó. Phần tôi khác hẳn với Thạnh, cuộc sống tôi đầy thăng trầm và nhiều biến động. Đúng là số kiếp của mỗi con người. Dù ai không muốn tin cũng phải tin rằng ở trên đời mỗi người đều có một cái số mà văn hào Nguyễn Du đã nói lên từ lâu: “Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao.” Điều thật trớ trêu, sau khi bàn giao họ đạo cha cha Quang xong, chánh quyền sở tại, xã Hiệp Hưng, lại không cấp cho tôi giấy đi đường. Họ không cho tôi rời khỏi xã, lấy lý do là sau khi bầu cử Quốc Hội khóa 6, là Quốc Hội chung cho cả nước, có lệnh không cho ai rời khỏi địa điểm cư trú. Tôi hiểu ngay việc gì sẽ xảy ra cho tôi sau lời giải thích này và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Hôm sau, tôi trở lại Ủy ban Nhân dân xã Hiệp Hưng để xin giấy đi đường một lần nữa để về quê thăm má tôi đang đau nặng. Qua thái độ cứng rắn quyết liệt của tôi, họ đã buộc lòng phải cấp cho tôi giấp phép đi đường chỉ có hiệu lực trong 3 ngày. Quê tôi ở tỉnh Vĩnh Long, cách Bến Tre hơn trăm cây số và phải qua 2 lần bắc, tiếng miền Bắc gọi là phà, bắc Rạch Miễu nối liền hai tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho và bắc Mỹ Thuận trên đường từ Sài Gòn xuống các tỉnh miền Tây. |
|
|
![]()
Post
#11
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Vùng Kỷ Niệm
Ngày tôi rời giáo xứ ra đi, sau khi từ giã mọi người, ngồi trên xe gắn máy trên con đường từ họ đạo La Mã lên tỉnh Bến Tre trong ánh nắng ban mai, lòng tôi buồn vô hạn. Lúc đó tôi tự hỏi không biết mình có còn có dịp trở lại con đường này nữa hay không. Mặc dù trước kia vùng này xa lạ đối với tôi nhưng trong gần một năm qua kể từ khi về làm cha sở họ La Mã , tôi đã đi lại nhiều lần trên con đường đá sỏi loang lổ này để về thăm quê hay ghé qua thăm Thạnh, và con đường đã trở nên quen thuộc lúc nào tôi cũng chẳng hay. Chừng từ giã ra đi mới thấy thương thấy nhớ. Khi còn cách tỉnh chừng 6 cây số tôi phải đưa xe xuống chiếc xuồng máy chở qua sông Chẹt Sậy là một nhánh sông khá lớn nước chảy mạnh như thác vì chỗ này gần sông cái. Trước đây có cây cầu sắt bắc ngang qua sông, nhưng trong thời chiến tranh, những cây cầu được bắc ngang sông này ít khi nào thọ quá vài năm. Vừa bắc cầu lên đã bị Việt cộng phá hoại hoặc giật mìn cho sập đi. Có khi cầu bắc chưa xong cũng đã bị giật sập. Đây là cây cầu nằm trên con đường huyết mạch nối liền tỉnh Bến Tre và các quận Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày và Thạnh Phú nằm phía sát bờ biển. Vì thế một bên cố gắng xây dựng trong lúc bên kia ra sức phá hoại thì không có gì là khó hiểu. Phía Quốc Gia cố gắng giữ cách gì cũng không lại. Việt cộng phá hoại cầu bằng nhiều cách khác nhau, có những cách rất tinh vi ngoạn mục như trong lần họ phá cây cầu này không lâu trước ngày mất miền Nam. Tôi nghe kể lại, vì phía Quốc gia biết là cây cầu huyết mạch này trước sau gì rồi cũng sẽ bị giật sập nên vào những năm sau này đã tăng cường thêm lính canh gác bảo vệ cây cầu chiến lược này rất cẩn mật ngày đêm. Có cả biện pháp đề phòng người nhái lén đặt mìn dưới mặt nước và cả cách ngăn chặn thả mìn trôi theo các dề lục bình, bằng cách đóng hàng rào cản chung quanh chân cầu sắt. Nhờ có hàng rào cản này nên không một ghe thuyền, hoặc người nhái hay dề lục bình nào có thể đụng chạm được chân cầu. Nhờ đó một thời gian khá lâu cây cầu này được yên thân và dân chúng trong vùng đi lại thuận tiện thoải mái. Nhưng ở đời hễ vỏ quít dày thì có móng tay nhọn. Những đầu óc linh hoạt của người cộng sản đã nghĩ ra kế sách phá cầu ngoạn mục làm phía Quốc gia bó tay, có thấy trước cũng không làm cách gì chặn được chỉ còn nước ngồi đó mà kêu trời. Số là vùng Bến Tre có rất nhiều dừa và khi nước ròng thì sông Chẹt Sậy chảy vun vút như thác đổ ra sông cái. Những kẻ phá hoại lợi dụng điều kiện đo và khai dụng sức mạnh của nước. Trước tiên họ đốn thật nhiều cây dừa to và dài, kết thành bè và cất giấu một nơi trong các vùng họ kiểm soát. Chờ đúng con nước ròng chảy xiết họ cắt dây neo bè. Một chiếc bè dừa khổng lồ đến hàng trăm cây bó lại xuôi dòng nước vùn vụt lao xuống càng lúc càng nhanh. Khi những người lính canh trông thấy cái bè dừa khổng lồ lù lù hiện ra vội la hoảng lên báo động. Nhưng lúc bấy giờ chỉ có trời mới có thể cứu được số phận của cây cầu đáng thương bằng thép lạnh đang đứng gồng mình chờ chết. Tất cả lính canh nghe báo động túa ra xả súng lớn súng nhỏ bắn vào chiếc bè dừa. Nhưng chỉ bắn cho sướng tay vì lâu ngày không có dịp bắn, còn chiếc bè dừa khổng lồ vẫn cứ làm công việc của nó là đang âm thầm tiến tới mục tiêu với tốc độ khủng khiếp của... bè dừa! Khi chiếc bè dừa chạm hàng rào cản chung quanh chân cầu, phát ra một âm thanh êm dịu kéo dài giống như tiếng người ta bóp vụn mảnh bánh đa vừa nướng xong trong lòng bàn tay. Sau đó chiếc bè dừa cõng theo trên lưng, một phần thân thể của người bạn bằng thép dài ngoằng, lặng lờ tiến ra vùng nước mênh mông của dòng Cửu Long muôn đời vẫn chảy! Chiếc cầu sắt vô tri vô giác từ đó đã yên phận, có khổ chăng là cuộc sống của người dân trong vùng, trong đó có tôi. |
|
|
![]()
Post
#12
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Chuyến Đò Ngang
Ra khỏi tỉnh Bến Tre tôi theo con đường ra bến bắc Rạch Miễu (tiếng miền Bắc gọi là “phà”), cách tỉnh lỵ chừng 10 cây số và vùng này có tên là Cầu Bắc. Khi dẫn xe gắn máy theo đoàn người lầm lũi bước lên bắc để qua tỉnh Mỷ Tho, cảm giác chia ly lại dâng lên trong lòng tôi mãnh liệt hơn. Bắc Rạch Miễu này tôi đã đi qua lại nhiều lần và ghi nhận khá nhiều hình ảnh khó quên. Nhớ lại lần đầu tiên tôi được qua bắc này khi còn nhỏ, tôi không nhớ năm nào, lúc đó họ đạo Mai Phốp có tổ chức cuộc hành hương kính viếng Đức Mẹ La Mã. Lần đó tôi theo chị tôi và một số đông giáo dân họ đạo nhà quê đi hành hương, tới một nơi mà không ngờ là sau này tôi về đó làm cha sở. Lần đó đoàn xe chúng tôi qua bắc Rạch Miễu lúc trời vừa sáng. Tôi không nhớ được gì nhiều vì tôi còn quá nhỏ, ngoại trừ hình ảnh mấy chiếc tàu chìm cách đó không xa. Có chiếc giơ ống khói, có chiếc giơ những chiếc cột lên cao khỏi mặt nước. Tôi chưa bao giờ được thấy qua chiếc tàu chìm, nên hình ảnh đó ghi thật đậm nét trong trí nhớ của tôi cho tới mãi về sau này. Lúc đó người lớn nói cho tôi biết là tàu Pháp bị Nhật bỏ bom chìm. Tôi nghe để mà nghe, nhưng tôi chẳng hề biết Pháp, Nhật là ai và tại sao họ lại bỏ bom nhau. Cho tới năm 1961, lúc đã 18 tuổi, tôi qua Mỹ Tho học trường Rạng Đông một thời gian. Chiều chiều tôi hay thả bộ ra bến tàu không xa bến bắc Mỹ Tho bao nhiêu, coi người ta câu cá và nhìn lại những chiếc tàu chìm vẫn còn nằm yên đưa ống khói lên trời đang thi gan cùng tuế nguyệt. Mỗi lần nhìn thấy hình ảnh này tôi lại nhớ chuyến bắc năm xưa đã đưa thằng bé nhà quê là chính tôi qua con sông này, để đi hành hương kính Đức Mẹ La Mã. Sau này lớn lên khi tôi trở lại vùng này với ý thức đầy đủ và nhìn sự việc ra sự việc, tôi ghi nhận thêm nhiều hình ảnh mới lạ về cái bắc Rạch Miễu này. Trước tiên, chiếc bắc đưa xe qua sông bây giờ là loại lớn và chạy nhanh hơn, có hai tầng, có ghế băng ngồi hẳn hoi, sạch sẽ và khang trang. Hình ảnh mới lạ thứ hai là cảnh người ta buôn bán rất nhộn nhịp, có người bán cà rem, trái cây, bánh mì dồn thịt, thức ăn đủ loại. Lại có nhiều nhiều người ăn xin hoạt động ráo riết kêu gọi sự hảo tâm của hành khách. Phần nhiều những người ăn xin là những người mù, một ít người có tật chân hoặc cụt tay, cụt chân mà tôi đoán họ là những thương phế binh. Có người đi phải có đứa bé dẫn đường, nhưng cũng có người đi một mình. Phần nhiều họ ôm đàn và hát đủ loại nhạc, nhưng phần đông họ hát Vọng Cổ là thể loại âm nhạc phổ biến và dễ đi vào tâm hồn người dân miền Nam, nhất là những người ở vùng quê như tôi. Có người còn trang bị cả loại máy khuếch đại âm thanh loại cầm tay để cho tiếng hát vang xa và hay hơn. Hoạt động của họ tạo nên cảnh sinh hoạt tưng bừng náo nhiệt lúc chiếc bắc đang chạy ngang sông. Vì có dịp qua lại nhiều nên tôi đã quen thuộc với cảnh này và nhất là tôi biết mặt hầu hết những người ăn xin và lần nào tôi cũng chuẩn bị một số tiền lẻ để giúp cho những người bất hạnh đó. Tuy số tiền không nhiều nhưng tôi vẫn cảm thấy thiếu sót mỗi khi có người tới xin mà tôi không có chút gì đặt vào tay họ. Mặc dù vậy tôi vẫn chú ý tới một người đàn ông mù mắt trạc ngoài 30 tuổi, có lẽ anh bị mù sau khi bị đậu mùa vì mặt anh có nhiều vết sẹo của chứng bệnh quái ác này. Anh có lối ca Vọng Cổ rất hay và truyền cảm qua một máy khuếch đại âm thanh rất cũ kỹ nhưng tiếng kêu còn tốt. Có một em bé gái độ chừng 9 hoặc 10 tuổi, hay lớn hơn một chút đi trước cột sợi dây ngang người rồi cột vào thắt lưng cho anh đi theo vì lúc nào hai tay anh cũng bận đánh đàn ghi-ta. Cô bé này lúc nào cũng lạnh lùng và câm lặng như người bằng sáp, cứ lững thững bước đi dẫn người đàn ông theo sau, không bao giờ thấy em biểu lộ một nét gì khác biệt dù vui hay buồn trên khuôn mặt lọ lem mà tôi nghĩ là em cố ý để như vậy. Tôi không biết em bé đó là gì của người đàn ông, nhưng cách cô bé lúc nào cũng thản nhiên và gương mặt không lúc nào bày tỏ cảm xúc đó tôi nghĩ chắc em đã chịu đựng cuộc sống bất hạnh này lâu ngày rồi nên trở thành chai lì. Nghĩ như vậy tôi càng thương em bé này nhiều hơn. Và dĩ nhiên lần nào tôi cũng dành một số tiền lẻ khá hơn cho người hành khất và em bé này. Ngoài sự thương cảm của tôi về hoàn cảnh hai người, tôi còn rất thích các bài ca Vọng Cổ của anh nữa. Có mấy lần đang nghe anh hát dở dang một bản Vọng Cổ thấm thía mà đã tới nơi, làm tôi tiếc rẻ và cảm thấy sao hôm nay chiếc bắc này chạy quá nhanh. Lúc đó khung cảnh trên bắc rất ồn ào. Hình như hôm nay khách đi đường nhiều hơn mọi ngày, đa số là những người đàn bà tay xách túi cói căng phồng và nặng trĩu. Chung quanh tôi người ta cười nói huyên thuyên. Tiếng những người rao bán hàng rong nghe lanh lảnh, tiếng những người ăn xin ca hát có đệm nhạc điếc tai, cùng với tiếng máy của chiếc bắc đang chạy. Tất cả các loại âm thanh đó trộn lẫn vào nhau làm thành một bản hợp tấu quá ồn ào lấn át tiếng hát trong máy khuếch âm của người hành khất mù và em bé gái đang tiến dần tới chỗ tôi đang ngồi. Nãy giờ, tôi chỉ mong anh tới, một phần vì tôi đã quen gặp anh trên bắc này, phần khác, hôm nay tâm trạng tôi quá buồn và muốn được thưởng thức một điệu Vọng Cổ của anh với làn hơi mà tôi rất mến chuộng. Tôi thủ sẵn số tiền lẻ nhiều gấp đôi cho anh vì tôi muốn giúp anh một lần cuối, không biết tôi còn có dịp quay lại trên chiếc bắc với người hành khất với em bé gái dẩn đường quen thuộc nầy nữa hay không. Chợt tôi nghe từ xa vọng lại một giọng hát gì rất lạ và chói tai, không phải là những bài Vọng Cổ truyền cảm tôi vẫn nghe anh hát trước giờ. Tôi ngạc nhiên, lắng tai nghe và thất kinh khi nghe một giọng oang oang từ chiếc máy khuếch âm mở to hết cỡ của anh, một câu hát Vọng Cổ làm tôi sửng sốt:“ Có phải cuộc chiến tranh... ơơ này, là do bọn Mỹ... ơ nguy... ơ gây ra... ơờ ơ ờ ơ... ” Tôi đột nhiên nổi giận khi nghe câu Vọng Cổ sặc mùi chính trị đó. Tôi thả tay ra bỏ lại hết số tiền vào túi, đứng bật dậy như một cái máy, vội bước ra xa để khỏi phải nghe thêm những gì mà người nghệ sĩ mù tiếp tục gân cổ lên gào thét. Vừa bước đi tôi vừa rủa tầm:“Cái anh chàng dại dột, ngu ơi là ngu, ăn xin không lo ăn xin còn ở đó mà cách mạng!” Quá thất vọng và cảm thấy bực bội, tôi lần bước xuống tầng dưới và đi dần ra phía trước mũi chiếc bắc, nơi không có mái che. Tôi cúi người khoanh tay tì lên lan can và nhìn ra xa với tâm trạng buồn phiền và bực tức. Một nỗi bực bội đột nhiên chụp lấy tôi mà tôi không kịp có thì giờ suy nghĩ tại sao mình buồn phiền và bực tức như vậy. Lúc này, chiếc bắc đang chạy ngang Cồn Phụng, chỗ Ông Đạo Dừa làm căn cứ Thánh Địa với nhiều hình thức kiến trúc lạ mắt, đủ các loại màu sắc mà một thời đã thu hút nhiều người hiếu kỳ tới đây. Bây giờ cơ ngơi vẫn còn đó nhưng nghe nói hình như Ông Đạo Dừa, tức kỹ sư Nguyễn Thành Nam, không còn ở đó nữa. Tôi nghe nói là cộng sản đã bắt ông, nhưng thực hư thế nào tôi không biết rõ, chỉ biết là từ ngày cộng sản chiếm miền Nam, Cồn Phụng trở nên hoang vắng. Tôi buồn và có cảm giác người ta đã làm nhục nghệ thuật Vọng Cổ tinh hoa của một bộ môn nghệ thuật mà tôi yêu thích. Tôi nghe kể lại, loại âm nhạc này ra đời mấy chục năm về trước bắt đầu bằng bản nhạc có tên là “Dạ Cổ Hoài Lang” của nghệ sĩ Sáu Lầu. Bản nhạc theo thể loại âm nhạc đặc biệt này ngay lúc đầu đã được nhiều người ưa thích. Về sau điệu nhạc ấy được gọi trại đi là “Vọng Cổ" chủ yếu là dùng diễn tả tâm trạng yêu thương chan chứa tình cảm của người dân miền Nam. Nhạc Vọng Cổ đã phát triển mạnh một thời ở miền Nam với những đoàn hát Cải Lương nổi tiếng, đã làm thành nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của miền Nam. Bộ môn Vọng Cổ cũng giúp cho một số nghệ sĩ có tên tuổi sống với thời gian như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Hùng Cường, Út Bạch Lan, Hương Lan, Thành Được, Chí Tâm... và nhiều tên tuổi khác. Bây giờ khi thời cuộc đổi thay, người ta bắt thể loại âm nhạc này phục vụ cho một thứ chính trị rẻ tiền, loại chính trị nay còn mai mất. Lối ca Vọng Cổ được ra đời không phải để làm công việc đó. Nó là loại âm nhạc mang lại tình yêu thương sưởi ấm tình dân tộc nhưng bây giờ người ta dùng nó để cổ võ cho sự hận thù giữa người với người. Tôi cảm thấy đau đớn khi một phần trong sự nghiệp văn hóa của dân tộc bị những kẻ mù quáng vì tham vọng chính trị lạm dụng và xúc phạm. |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 22nd July 2025 - 11:50 AM |