![]() |
![]() ![]() |
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
20 Năm Giới Trẻ Miền Nam Việt Nam
Nguyễn Văn Lục Tôi đã viết những bài 20 năm văn học dịch miền Nam Việt Nam, 20 năm triết lý Tây Phương miền Nam Việt Nam, 20 năm trí thức miễn Nam nhập cuộc. Và cũng trong cái tinh thần ấy với bài này, 20 năm giới trẻ miền Nam Việt Nam. Tuổi trẻ miền Nam với những con người trẻ, trai có, gái có, với nếp sống, nếp nghĩ, phản ứng vui buồn, ứng xử trước thời cuộc, trước cuộc đời mà trong đó tôi là thành phần. Viết lại cho mình, cho bạn bè mà cho các thế hệ sắp tới nhìn lại cha anh mình. Miền Nam vào thủa ấy có khoảng ngót nghét 11 triệu dân sống rải rác từ Cà Mâu đến Bến Hải. Các cậu thanh niên có cái mốt ăn mặc rất là lạ: Họ mặc quần tây mà áo bỏ ngoài quần. Cậu nào cũng vậy. Còn các cô thì đi guốc mộc to bản như guốc Nhật, nổi bật bàn chân nhỏ bé, được kỳ cọ trắng phau. Xinh quá. Hai ống quần rộng đến chui vào được. Kỳ quá. Chiếc áo Bà ba rộng thùng thình, có hai túi. Hình như sự ăn mặc ấy hoang phí quá, không ăn khớp với thân hình. Bao nhiêu đường cong, đường eo, vùng đồi ngực nở ùn lên, vùng thung lũng hoa vàng bị khỏa lấp và san bằng hết. Trong khi đó, gái Bắc thì gọn gàng trong chiếc áo cánh vải phin nõn khít khao hằn lên tuổi con gái bên trong cái yếm. Sức sống vươn lên, lồ lộ hẳn ra. Hai tuổi trẻ, hai cách biểu hiện, hai vẻ đẹp. Hai miền hồi những năm 1955. Họ gặp nhau như một định mệnh lịch sử vào cái ngày đất nước bị cắt làm đôi. Hiệp định Genève vào ngày 21/7/1954 đã đưa họ lại gần nhau với những cú sốc văn hóa để rồi tìm ra những hòa giải và đồng thuận. Dân số miền Nam vọt lên thêm một triệu người. Tức là tăng dân số miền Nam lên 8%. Con số 8% quả là không nhỏ. Phải lo chỗ ăn, chỗ ở, chỗ học, chỗ làm ăn sinh sống, chỗ an cư lập nghiệp. Cứ tưởng tượng, mỗi ngày có vài ngàn người đến trong suốt mấy tháng trời. Công việc không hẳn là dễ. Nhưng rồi mọi chuyện cũng đâu vào đấy. Và chỉ trong một thời gian rất ngắn, những người trẻ chân ướt chân ráo ấy làm nên nhiều chuyện, nhiều kỳ tích trổi bật trong chính trị, xã hội, nhất là trong lãnh vực văn hóa, nghệ thuật. Số phận của họ nay là số phận của toàn dân miền Nam, chia xẻ những vinh quang cũng như những mất mát, thua thiệt. Ở Sàigòn, ngay khi Hiệp định Genève vừa được ký kết, thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ. Để tang cuộc chia đôi đất nước. Ông Diệm đã ra tuyên cáo cực lực chống đối việc chia đôi Việt Nam. Chỉ sau một ngày, có nghĩa là vào ngày thứ năm 22/7/1954: Toàn miền Nam treo cờ rũ. Không chấp nhận cuộc chia đôi đất nước. Cả một cuộc đổi đời cho người từ hai phía. Cách biệt và chia lìa. Phía bên kia, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Về ngọai giao, ta đã thắng lợi to: chính phủ Pháp đã thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta”. Phía miền Nam vĩ tuyến 17. Lúng túng. Trước đó, ngày 16/6/1954.Tại Cannes Bảo Đại chính thức cử ông Ngô Đình Diệm lên làm Thủ Tướng toàn quyền để đối phó với tình hình chính trị nguy ngập. Khi làm Thủ tướng, ông Diệm muốn đưa số người di cư lên tổng số 2 triệu người, trong khi đó tướng Ély ước đoán chỉ vào khoảng 200.000 người là cùng. Ông Diệm hẳn là có lý nếu quân đội Pháp tích cực hơn trong việc cứu vớt người tỵ nạn. Dù sao, con số gần một triệu người di cư vào miền Nam, tiềm năng và hứa hẹn của đám mgười trẻ từ 45 tuổi trở xuống thật không nhỏ. Ông Diệm có cái lý để kỳ vọng như vậy. Và người di cư đã không quên cái ơn ấy. Và đó phải được coi là chuyện bình thường như trăm chuyện bình thường khác. Trong khi đó, số người xin di cư hay hồi cư từ Nam ra Bắc chỉ có 4358 người. Ở đây không kể khoảng 60000 cán bộ Việt Minh ở lại miền Nam, rút vào bí mật. Nay ai đó có về quê thăm, ghé dùm xem Cái Sắn, Hố Nai, Bảo Lộc, vùng ven Bà Rịa để thấy cuộc sống người dân ở đó như thế nào? Cuộc di cư ấy mở ra cái dấu mốc lịch sử đánh dấu phân chia lằn ranh Quốc-Cộng. Bên này là Quốc Gia, bên kia là Cộng Sản Tự Do và Độc tài. Cho nên, khi bước lên tàu há mồm, người di cư nhận được một message rất rõ ràng: Passage to Freedom. Chính vì hai chữ đó mà bỏ quê hương miền Bắc ra đi. Chết sống ra đi. Liều thân mà đi không cần biết tương lai sẽ ra sao? Đây là con đường Tự Do (Hải Phòng vào Sài Gòn) Ý nghĩa đó cần được ghi khắc cho thế hệ mai sau để sau này không cho phép bất cứ ai xuyên tạc, phỉ báng cuộc di cư đó. H. Amouroux trong số báo Aurore, ra ngày 4/4/1955 diễn tả đúng cái tinh thần ấy: “Trong suốt cuộc chiến vừa qua, chúng ta đã nói rằng, mình bảo vệ sự tự do và một số giá trị tinh thần…thì hôm nay, họ cho biết rằng, họ hiểu được thế nào là tự do, dân chủ. Chúng ta, thế giới tự do và không chỉ có nước Pháp, chúng ta có thể nào bỏ rơi những con người đó mặc cho sự trả thù, đem quẳng họ lại vào bàn tay Cộng Sản và làm cho cuộc bỏ trốn kỳ diệu của họ năm 1954 hóa ra vô ích sao? Đó là cuộc đi tìm Tự Do đến miền Nam như miền đất hứa mà nhà văn Sơn Nam gọi là miền đất Lạc Thổ. Phải gọi là đất lành hay đất hứa mới thật là đúng. Đó là cuộc Nam tiến vì lý do chính trị lớn nhất trong lịch sử người Việt, dân Việt. Đó cũng là bằng chứng không chối cãi được cuộc bỏ phiếu chống lại Cộng Sản bằng đôi chân của 865.000 người di cư từ Bắc vào Nam và chấm dứt vào ngày 12/10/1954 ở Hà Nội. Và trong số gần triệu người di cư đó, theo ông Từ Uyên , cho biết rằng Bộ Tư lệnh Pháp đã dành 12 chuyến bay DC4 vào các ngày 12 và 13/8/1954 để chuyên chở giới sinh viên vào Sàigòn. Cũng theo ông Từ Uyên, ông Ngô Đình Diệm đã từ trong Nam ra Hà Nội qua trung gian của bác sĩ Phạm Hữu Chương để tiếp xúc với giới sinh viên Hà Nội cho việc tổ chức cuộc di cư này. Một cuộc họp ở một biệt thự tại phố Hàm Long gồm có bác sĩ Phạm Hữu Chương, các sinh viên Lương Trọng Cửu, Tôn Thất Cần và Từ Uyên. Chính từ buổi họp này đã đưa đến quyết định đưa khoảng 1200 sinh viên từ Bắc vào Sàigòn. Trong số những thanh niên, thiếu nữ từ miền Bắc di cư vào, họ là ai? Họ là những thanh niên thuộc giới trí thức trẻ như Vũ Khắc Khoan, Trần Thanh Hiệp, Vương Văn Bắc, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Quách Đàm, Hoàng Cơ Long, Tạ Tỵ, Lưu Trung Khảo, Lý Quốc Sỉnh, Nguyễn Khắc Ngữ, Lữ Hồ, Họa sĩ Ngym Cao Uyên, Bùi Đình Nam, Tô Đồng, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần Kim Tuyến, Phạm Việt Tuyền, Nhật Tiến, Mặc Đỗ, Hiếu Chân, Như Phong và những người trẻ còn ngối ghế Trung Học như Đỗ Quý Toàn, Lê Đình Điểu, Duyên Anh…Và hàng vạn thanh niên thiếu nữ khác nữa … Phía quân đội có các sĩ quan trẻ, cấp úy như Lê Nguyên Khang, Nguyễn Cao Kỳ, Phó Quốc Trụ, Phạm Văn Phú, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Bảo Trị, Hoàng Cơ Minh. Phần đông bọn họ, không ai quá 30 tuổi. Họa hoằn trong số ấy như Vũ Hoàng Chương lúc ấy 38 tuổi. Họ đều thành danh, có tên có tuổi ở Sài gòn sau này. Hầu hết bọn họ trở thành nhà văn, nhà báo, giáo sư đại học, đại sứ, nhà tư bản v.v… Và nếu là sĩ quan thì đều làm đến tướng cả, trừ có Phó Quốc Trụ. Có nghĩa là cuộc đời họ, sau đó đã nên ông nên bà. Tất cả những giới trẻ đó sau này phần đông trở thành những tài năng, những tên tuổi trên chính trường miền Nam Việt Nam. Đó vẻ đẹp, là niềm hãnh diện chung của mọi người. Tâm trạng lúc bấy giờ ở Hà Nội là đi hay ở. Ai đi, ai ở? Người ta gặp nhau là để bàn chuyện đi hay ở. Và cũng từ đó bày ra cảnh chợ trời bán buôn giữa kẻ đi, người ở. Nói cho đúng ra, thủ tướng Diệm ra Hà Nội ngày 30/6/1954 là để quan sát tình hình và để xem xét tổng quát kế hoạch rút quân đội Quốc gia ra khỏi Bắc Việt đồng thời giải quyết vấn đề người di cư. Người Pháp thì đã có chương trình triệt thoái binh lính Pháp ngay từ đầu tháng 6 rồi. Vì thế, lần lượt quân đội Quốc Gia được rút khỏi Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình và đầu tháng bảy, sau đó rút khỏi Nam Định rồi Phủ Lý. Trong công cuộc di cư này, ông Diệm đã phản đối quân đội Pháp đã bỏ bom giết chết hàng ngàn người ở Bùi Chu và rằng đôi khi người di cư phải trả giá 100 đồng cho mỗi người được chở đi. Sách Thập giá và lưỡi gươm, không phải, phải nói là cuốn Dieu et César chỉ viết theo lời thuật lại của dân chúng đã thổi phồng số tiền lên đến 5000 quan Pháp cho một chỗ trên thuyền bè? Người dân quê lấy đâu ra tiền cho một chồ ngôi trên thuyền như vậy? Kể từ ngày này, miền Nam tuổi trẻ thêm đa dạng, chẳng những thêm chất xám từ Bắc vô Nam. Chẳng những có cuộc di cư người mà còn có cuộc Di cư chữ nghĩa. Chữ nghĩa miền Bắc cũng lếch thếch đi theo người di cư xuống tầu há mồm vào miền Nam mà nay có thể có chữ còn chữ mất. Vào đến miền Nam, Mai Thảo viết Đêm giã từ Hà Nội. Để nhớ hay để quên? Và dưới mắt nhìn của Trần Văn Nam thì Đêm giã từ Hà Nội là tiêu biểu cho văn nghệ thời kỳ này, vì nó manh nha một lối hành văn mới, một nghệ thuật mới. Trần Mộng Tú sau này xót xa Hà Nội: Lâu lắm em mới về Hà Nội Đi trên viên gạch tuổi thơ ngây Gió mùa đông bắc làm em khóc Hà Nội, anh ơi phố rất gầy Và ta hãy làm thinh lắng nghe: Tôi xa Hà Nội năm em 16 khi vừa biết yêu… Hôm nay Sài gòn bao nnhiêu tà áo khoe màu sắc vui, nhưng riêng một người .. Hà Nội ơi … Và mỗi một người trẻ rời Hà Nội đều mang theo một mảnh Hà Nội qua hội họa, thi ca, tiểu thuyết hay âm nhạc. Thêm vào đó, còn có một số không nhỏ giới thanh niên trẻ đã học thành tài tại các nướcTây phương trở về với chính phủ miền Nam. Đây đã hẳn không phải một cuộc di cư mà là một sự chọn lựa chính trị, chọn lựa giữa Cộng Sản và Quốc Gia. Chọn lựa đứng về phía độc tài này hay phía tự do.Theo Nguyên Sa Trần Bích Lan kể lại chỉ có một nữ sinh viên dược tên Thẩm Hoàng Thư trong số các bạn bè của ông chọn về Hà Nội. Mà lý do chọn lựa hiểu được, vì bố mẹ cô ở lại Hà Nội. Đó là gia đình ông Thẩm Hoàng Tín, gia đình khá nổi tiếng mà đã có một thời ông Thẩm Hoàng Tín làm thị trưởng Hà Nội. Trong hồi ký của Võ Long Triều cũng có nhắc lại giai đoạn ấy, nhiều giới trẻ do dự trong quyết định giữa ở lại Pháp hay về miền Nam. Phần những người trẻ đã chọn miền Nam, kẻ trước người sau lần lượt rủ nhau về. Tên đứng hàng đầu của họ là Nguyên Sa Trần Bích Lan, Cung Trầm Tưởng, Trịnh Viết Thành, Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Khắc Dương (em của Nguyễn Khắc Viện), Lê Thành Trị, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Đỗ Long Vân, Nguyễn Khắc Hoạch hay Trần Hồng Châu, Nguyễn Bình An, Nguyễn Huy Lịch, Hải Linh, Ngô Duy Linh, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Đình Đầu, Trần Thái Đỉnh, Trương Bá Cần, Bùi Xuân Bào, Võ Long Triều, Huỳnh Văn Lang (Ở Mỹ về do lời kêu gọi của ông Diệm), Nguyễn Văn Trường, Bùi Xuân Bào, Trương Công Cừu, Nguyễn Văn Hanh v.v... Kể sao cho vừa. Cuộc di cư ngót một triệu người đó với giới trẻ miền Bắc cộng với các giới trẻ sẵn có ở miền Nam và các giới trẻ thanh niên về từ Âu Châu đã thay đổi phần lớn bộ mặt miền Nam về xã hội, nếp sống, sinh họat kinh tế và nhất là Văn học nghệ thuật. |
|
|
![]() ![]()
Post
#2
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
20 Năm Tuổi Trẻ Miền Nam Việt Nam
Nguyễn Văn Lục Về nếp sinh hoạt — Bộ mặt Sài gòn, lúc 1955, người ta còn thấy những thầy Cảnh Sát được gọi là Mã Tà, đứng huýt còi ở các ngà tư đường. Vậy mà chẳng bao lâu chữ gọi mã tà đó đã biến mất. Tuổi trẻ miền Nam thời ấy biểu tượng vẫn là hình ảnh cô thiếu nữ mặc áo dài trắng quần trắng. Đừng thứ mầu khác, đừng xanh đỏ lò loẹt. Vén tà áo dài sang bên, hở một bên, kín một bên, cho thấy đùi trinh nữ, cho thấy tuổi dạy thì, hai đùi nhẹ khép lại khi bước đi hay khi ngồi trên chiếc xe vê lô sô lếch thời thượng. Bây giờ, tôi không thấy những bước đi kiêu sa thiếu nữ như thế nữa. Đó là hình ảnh cô gái, mình ong thon thon ngồi trên chiếc xe Solex trông giống như một con bò ngựa biết bay. Phất phới, tung gió, nhẹ lướt, mái tóc hất lại đẵng sau, đầu buộc bím mầu xanh tím, để lại đằng sau những cái nhìn dõi suôi bắt không kịp. Và những đôi mắt thèm thuồng. Ingarary gọi đó là một chuỗi diễn hành phái tính (Mascarade de la fénimité ) Xin mượn lời thơ của Nguyên Sa: Có phải em mang trên áo bay Hai phần gió thổi, một phần mây Hay là em gói mây trong áo Rồi thở cho làn áo trắng bay? Em cười tà áo bay trên Đám mây ở dưới nỗi phiền muộn xa Anh ngồi chỗ hẹn hôm qua Đám mây ngồi cạnh bài thơ nhẹ nhàng, Giấc mơ mặc áo lụa vàng Nơi anh nằm ngủ có hàng Thùy dương (Nhẹ nhàng) Vai nhỏ tóc dài thoảng nét ngày xưa Trong khi đó thì những cậu con trai cỡi xe Vespa, đời ED, đôi kính mầu đen, chiếc áo Montagu, mầu xanh đậm rồ ga hay lượn uốn éo. Nếu Solex là con gái, thì Vespa là con trai. Nếu Solex là con bò ngựa thì Vespa là con bọ hung. Solex là nữ tính, Vespa là nam tính . Nếu con gái ăn quà thì con trai Bát phố. Bát phố phải chăng là nói nhại từ tiếng Pháp battre le pavé? Thôi thì là gì cũng được. Và xin mượn lại chữ nghĩa của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng: ... Từ xa phố chợ đến giờ Chân thôi bỏ lệ gõ bờ lộ quen Bát phố là một thứ giải trí chiều thứ bảy của con trai Sài gòn. Mà điều căn bản là có mặt. Làm gì, bận bịu gì cũng bỏ đi Bonard bát phố. Sinh viên, học sinh các lớp tú tài, lính tráng đi hành quân ở xa về, công chức các bộ, các nha đều đi dạo phố, ngắm người hay *rửa mắt. Mà phần lớn bọn họ là độc thân, chưa có vợ con. Nếu sang một tý thì vào Givral ngồi, tàm tạm thì một ly nược mía Viễn Đông cũng xong. Đi dạo phố trở thành một thói quen, một nếp sống của con trai Sài gòn. Ngoài Sài gòn, tôi chỉ thấy ở Huế có sinh hoạt bát phố tương tự. Nhưng ở Huế, số con gái đi dạo phổ kể là đông và đi từng nhóm hai ba cô. Họ sợ bị bắt nạt chăng? Cô nào cũng có chiếc nón không phải để che nắng, che mưa mà để che cái nhìn trộm của con trai. Gái Huế đi dạo trên đường Trần Hưng Đạo mới thật là một diễn hành phái tính. 10 lần ra Huế thì y như rằng ra đi là để lại một cái gì? Con gái biểu tượng nhất, cái Look theo nghĩa bây giờ là hình ảnh cái thân hình dong, lưng thẳng, găng tay trắng, cặp kính mầu, áo dài trắng, phải áo dài trắng mới được, mới con gái, mới trinh nữ, mới thanh khiết. Vạt áo dài phía sau vắt ngang sang bên kia để hở một bên phần đùi trông cộn hẳn lên trên chiếc Vê lô solex mầu đen. Đi xe vê lô solex chứng tỏ con nhà khá một tý, sang trọng và đài các. Cái dáng ngồi solex trông rất con gái, rất phái tính. Người phụ nữ sinh ra là để như vậy. Les femmes seraient faites ainsi. Quyến rũ bằng chính thân xác mình. Nhờ áo dài đó mà phụ nữ, cô nữ sinh trở thành phụ nữ hơn. La robe lui permettait de devenir plus féminine. Phải nói là thời thượng và ấn tượng lắm. Cộng thêm cái thói ăn quà vặt. Ăn qùa vặt là rất con gái, rất trẻ, rất bắt mắt. Khi cô nữ sinh ăn quà thì tưởng là ăn quà thật. Nhưng đôi khi cũng chỉ là cái cớ sự cho sự trình diễn, sự được nhìn. Nó như chờ đợi một điều gì đó. Điều mà Thị Nở đã chờ đợi từ tuổi 15,16 thời con gái, nay đà 30 và bao nhiêu thế hệ con gái cũng đã chờ đợi như thế. Như cơn mưa mùa hạ. Như chồi non hé nụ. Như em chờ anh lúc này. Chí Phèo chỉ đến hoàn tất công việc chờ đợi ấy. Cuộc đời đôi khi đơn giản là như thế. Ngoài hai thứ đó ra, con gái cũng đi dạo phố. Con trai đi dạo phố là để ngắm. Con gái đi dạo phố xuất hiện như một trình diễn, ăn diện, mốt, kiểu để được nhìn, để được thừa nhận, để nhận phần lớn là những lời tán tỉnh, khen tặng. Đó là cả một cái guồng máy của sự xuất hiện. L’engrenage du paraitre . Và cuối cùng, thú vui giải trí chung cho cả con trai lẫn con gái vẫn là ciné và tiệm sách. Ciné là nơi hẹn hò để trai gái gặp nhau cuối tuần để trò chuyện, để tỏ tình, để lén lút hôn nhau. Những nụ hôn mật ngọt ấy. Quên sao được. Những mối tình của giới trẻ thời đó đến đó và dừng lại ở đó. Sau đó để lại một chút gì. Để kỷ niệm, để nhớ, để mãi mãi là như thế. Nay gặp nhau cuối đời, lòng như chợt tỉnh, như chấu ủ bếp lửa bừng lên từ đám tro tàn. Gặp nhau muộn phiền, thương hoài ngàn năm. Viết đến đây lại chợt nghĩ đến Nguyên Sa. Ông đã nói hộ cho tuổi trẻ Sài gòn: Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng Tuổi trẻ miền Nam là như thế. Lành mạnh mà không thiếu lãng mạn, tình tứ. Dắt tay nhau mà đi. Làm thơ tình. Gởi gắm nhắn nhe. Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướng Nàng đến gần tôi chỉ dám quay đi Cả những giờ bên lớp học trường thi Tà áo khuất thì thầm chưa phải lúc (Tuổi mười ba) |
|
|
![]()
Post
#3
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
20 năm giới trẻ miền Nam Việt Nam
Nguyễn Văn Lục Và như lời nhận xét của Phạm Duy: “Phải công nhận việc xây dựng Trung Tâm Điện Ảnh là một công trình lớn của chính quyền Ngô Đình Diệm vì đây là nơi đào tạo những chuyên viên điện ảnh đầu tiên.” Thời ông Diệm, Trung tâm điện ảnh chủ yếu làm những phim tài liệu, phim thời sự, trong nỗ lực phục vụ cho quần chúng. Tôi còn nhớ, khi đi xem phim, trước khi vào phim chính, thường có những khúc phim thời sự nói về nông thôn, về sinh hoạt dân sự vụ. Coi cũng thích thú lắm vì được hiểu biết thêm về sinh hoạt nông thôn Việt Nam. Thời TT Ngô Đình Diệm có lập ra Trung Tâm Điện Ảnh và Câu lạc bộ Văn hóa và từ Trung Tâm này đã tạo ra những đạo diễn và diễn viên nổi tiếng như Đoàn Châu Mậu, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Long, Lê Quỳnh, Kiều Chinh. Mặc dầu vậy, trong suốt 20 năm điện ảnh miền Nam, có khá nhiều người trẻ thiết tha với điện ảnh, nhưng kết quả thật quá khiêm tốn. Phim Việt Nam không cạnh tranh nổi với phim ngoại quốc Giới trẻ như chúng tôi đã một thời mê say những phim ngoại quốc.Các phim xã hội như Người ăn cắp xe đạp (le voleur de bicyclette), Kẻ đánh giầy (Sciucia) của đạo diễn Vittorio de Sica và nhất là Con đường (La Strada) của đạo diễn Fellini. Hay những phim Nhật như Địa ngục môn (Rashomon, một trong 10 phim vĩ đại nhất thế giới). Ngành Hội Họa: Cũng vậy ngành hội họa chỉ là một bộ môn nghệ thuật biệt đãi dành cho một thiểu số người có khả năng thưởng ngoạn. Hai nhà trường về hội họa, một ở Gia Định, một ở Huế chỉ nhằm đào tạo các nhân viên giảng huấn trong các trường Trung học. Một vài tên tuổi thế hệ đầu tiên như Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Hoàng Tích Chu rồi tiếp theo với Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Trung Tín, Trần Lương, Trương Tân và thế hệ trẻ ở miền Nam như Nguyễn Trung, Duy Thanh, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Lê Tài Điển, Nguyễn Lâm, Nguyễn Phước, Đỗ Quang Em, Thái Tuấn, Bé Ký, Hồ Thành Đức, Trịnh Cung vv… Và những bất ngờ đến ngạc nhiên: Nhạc sĩ Văn Cao và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Nguyễn Đồng, một giáo sư triết. Họ đều là những họa sĩ cả đấy. Bộ môn Kịch: Đến bộ môn kịch cũng không khá gì hơn, nếu không nói là trong 20 năm đó, nó thoi thóp sống. Người ta nhắc đến Vũ Khắc Khoan với Thần Tháp Rùa, Thành Cát Tư Hãn, Những người không chịu chết và vở kịch Thằng Cuội. Hồi còn sinh viên, tôi đã được coi vở kịch Thành Cát Tư Hãn và múa vũ Trấn Thủ lưu đồn. Tất cả đều do một tay anh Đinh Ngọc Mô, lúc đó còn là sinh viên, đồng học với tôi, đạo diễn. Nhìn cái phong cách tổ chức, lòng hăng say và tài đạo diễn cũng như đóng kịch của anh thật đáng nể lắm. Kể là hay. Kể là đặc biệt. Tiếc thay cho cái tài của Đinh Ngọc Mô. Vũ Khắc Khoan Anh cũng là người sau này điều khiển chương trình Đố vui để học trên đài truyền hình của Việt Nam. Chúng ta hãy đặt mình vào bối cảnh thời đó, sơ khởi, mầy mò, học mót, học lỏm Vậy mà Đinh Ngọc Mô làm cho chương trình hấp dẫn đến lạ Suýt păng đến nghẹt thở. Độc giả nào đã có coi chương trình này có thể cho mọi người biết, điều tôi nói có sai không? Chắc là không quá. Đinh Ngọc Mô tự nhiên như chỗ không người, diễn xuất như thật làm khán thính giả nể phục. Chương trình Đố vui để học là một trong những chương trình thu hút khán giả của đài truyền hình Sài gòn. Chương trình Hot lắm. Rất tiếc nay còn đâu? Chỉ thấy những cô cậu diễn xuất mất tự nhiên, vụng về và đôi khi vô duyên nữa. Truyền hình Việt Nam sở dĩ có được là do món quà của TT Johnson tặng cho Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ sau khi dự hội nghị Thượng đỉnh Honolulu về. Sau 1975, Đinh Ngọc Mô bạo bệnh và chết ở Montréal, Canada. Chết rất trẻ. Chân ướt chân ráo đến xứ người, anh đã lo tổ chức các hội diễn Văn Hóa cổ truyền trong các dịp tết đầu năm như múa Trấn Thủ lưu đồn. Mong là con cái cụ Đinh Bá Hoàn đọc bài này như một tưởng niệm một thanh niên trí thức trẻ đã sớm ra đi. Sau này, Vũ Tiến Thủy cũng cho biết ở trại tỵ nạn Fort Chaffee, Arkansas, anh đã cùng với chính tác giả Vũ Khắc Khoan đóng vở Thành Cát Tư Hãn, trong đó, anh đóng vai Sơn ca. Những người trẻ có lòng với văn hóa nghệ thuật không thiếu và xin được vinh danh họ. Trước 75, có một số vở kịch của các kịch tác gia như Samuel Beckett, Eugene Ionesco được dịch ra trên giấy. Nhưng kịch chỉ chính thức là kịch khi ta được diễn, được xem, được chứng kiến cái không khí kịch, sống thực trên sân khấu. Nhưng những vở kịch trên giấy chẳng bao giờ chúng có cái cơ may được diễn thành kịch trên sân khấu. Những vở kịch của Doãn Quốc Sĩ như Trái cây đau khổ, Nhật Tiếnvới Người kéo màn, Trần Lê Nguyễn với Quán nửa khuya, Bão thời đại, Phan Tùng Mai với Người mua mộng. Có bao giờ có được cơ hội trình diễn trên sân khấu chưa? Đó cũng là bi kịch của kịch của miền Nam Việt Nam. Và nó chẳng khác gì cái vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Ngồi đó để mơ, để tưởng về một Hằng Nga chẳng bao giờ xuất hiện. Người ta cũng nhắc đến Dương Kiền, Lưu Quang Thuận, Thao Thao và lâu đời hơn cả có Vi Huyên Đắc với vở Kim Tiền. Tác giả Minh Khôi nhận xét:” Ít ra điều này cũng cho thấy kịch nghệ vẫn là một thiếu vắng lớn trong sinh hoạt văn hóa và giải trí trong cộng đồng Việt ngoài nước.” Khoảng giữa 63 với cơn lốc chính trị và Chiến tranh leo thang Cơn lốc chính trị 63 và những gì tiếp theo sau đó đã hình thành lên những suy nghĩ, những ưu tư của giới thanh niên và từ đó, nó mang dấu ấn của cả một thời kỳ. Nó thật rõ nét. Và chỉ cần đọc lại văn chương thời kỳ ấy, nó sẽ chỉ cho ta biết người trẻ nghĩ gì, phản ứng ra sao? Nếu từ 1955 và ít ra cho đến 1960. Đó là thời kỳ ổn định. Văn chương, nghệ thuật như có cánh mà bay, nhiều hương sắc và nhiều tìm tòi sáng tạo. Trong sự tìm tòi ấy trước hết nó có khả năng phủ nhận, dứt khoát lên đường, chia tay ý thức hệ với nhóm Tự Lực Văn Đoàn và từ đó nảy ra nhu cầu đi tìm cái mới. Cái mới ở đây thật ra cũng chỉ là cái cũ của người. Đó là các triết lý và văn chương hiện sinh của thập niên 1945/1955 của Pháp. Tất cả nhờ vào sách dịch chuyển tải từ người sang ta. Theo Võ Phiến cũng như Trần Trọng Đăng Đàn, trong Văn Hóa, Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954/1975, kết quả điều tra vào tháng 7/1976 đã đưa ra một kết quả đến kinh ngạc như sau về số sách dịch trên toàn miền Nam: Sách dịch từ tiếng Đức có 57 đầu sách, Ý 58, Nhật 71, Anh 97, Mỹ 273, Pháp 499, Đài Loan và Hương Cảng 358, Nga 120, còn lại các nước khác 38. Ngót nghét gần 2000 đầu sách. Đó là thời gian trỗi dậy, nở rộ. Hai cuốn sách đầu tiên nằm trong hướng này là của Nguyễn Nam Châu: Những nhà Văn hóa mới và Sứ mệnh văn nghệ, 1958. Tiếp đó, Cô Liêu, tức Vũ Đình Lưu, ông đã bị giết hại ở Vũng Tàu, đã đưa Francoise Sagan, đứa con hoang của triết học hiện sinh, vào cửa chính văn học Việt Nam với bài: Sứ mệnh văn chương của Sagan. Vào năm 1959, Nguyễn Vỹ dịch: Bonjour tristesse, Buồn ơi chào mi. Lê Huy Oanh cũng dịch lại: Bonjour tristesse thành: Buồn ơi, xin chào. Nguyễn Văn Trung tiếp nối với bài Trường hợp Sagan hay vấn đề luân lý trong tiểu thuyết. Nguyễn Minh Hoàng: dịch Un certain sourire, Có một nụ cười. Bửu Ý dịch: Dans un mois, dans un an. Một tháng nữa,một năm nữa. Đinh Bá Kha dịch: Les merveilles nuages , Những đám mây huyền diệu. Françoise Sagan (1935-2004) F. Sagan trở thành hiện tượng dịch trong văn học VN lúc bấy giờ với lối viết ngắn, với lối sống, lối nghĩ thẳng băng, thản nhiên đến vô tình. Quan hệ tình dục ngang trái, bất thường, lập dị, tàn bạo. Nó quyến rũ lạ thường. Vì nó mới, vì nó lạ. Đặc biệt các nhà văn nữ thập niên 63 trở đi như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Thụy Vũ không ai bảo ai mà như vô tình xếp hàng theo phong cách Sagan. Chẳng ai dám bảo họ bắt chước, nhưng phảng phất không khí Sagan trong truyện của họ. Sống ngoài vòng, buông thả, liên hệ tình dục đậm đặc, sống sượng, thô bạo. Cái cảm giác đọc xong các nhà văn này là họ còn đi xa hơn các nhà văn nam giới, xa hơn cả Sagan trong những mô tả tính dục. Chẳng hạn, Sagan tả những liên hệ tính dục một cách phơn phớt, không cố ý đào sâu, không đậm đặc “không mặn” như Túy Hồng hay Nguyễn thị Thụy Vũ. Đọc những nhà văn viết mặn này xong là khát nước. Trong khi đó, tôi đọc Sagan, cuốn nào cũng vậy phơn phớt, hờ hững, lững lờ chán nản, cụt, hụt hẫng, không màu mè, không diêm dúa. Bởi vì mục đích của Sagan không phải là mô tả những scènes tình dục cho bằng muốn nhắn gửi: cuộc đời chẳng có gì quan trọng, ngay cả như chuyện làm tình. Luân lý cũng vậy, cuộc đời cũng vậy. Cuộc đời trong một tháng, một năm, một ngày, có gì là lạ. Vẫn thế. Thản nhiên, vô cảm. Cái điều mà bà muốn nhắn gửi là cuộc đời này chẳng có ý nghĩa gì, cuộc sống khô rồi, tầm thường, vô nghĩa, phi lý, chẳng ra làm sao. Có sao thì cũng chẳng ra làm sao? Vậy thì các nhà văn nữ của ta muốn nhắn gửi gì qua những mô tả tình dục đó? Cho nên vấn đề là điều muốn nhắn gửi và đó chính là chiều kích của tác phẩm, sứ điệp muốn nhắn gửi. Nhà văn lớn hay nhỏ là ở chỗ ấy. Chỗ chiều kích. Dù sao thì tôi cũng nhận ra một điều: chiến tranh mỗi ngày mỗi tăng cường độ chết chóc. Con người bắt đầu nhìn thấy chiến tranh không phải là ở xa xôi đâu đó, ì ầm ở một chỗ nào vọng về. Nhưng nay chiến tranh đã về thành phố, chả chỗ nào là yên thân, cái chết có thể xảy ra ở bất cứ đâu? Nó đụng đến ngay chính những người ruột thịt của mình. Phải chăng từ chỗ đó mà các nhà văn nữ, đại diện giới trẻ thành phố, phóng bút mà không ngại ngùng? Phải chăng chiến tranh này hiện diện không phải bằng súng đạn mà bằng thái độ buông thả, buông xuôi ngay trên thân xác người phụ nữ lúc hoan lạc? Nào có còn những lúc: Em buông tóc thề Tìm mê theo cơn lốc về Hay: Lùa nắng cho buồn vào tóc em Bàn tay xanh xao đón ưu phiền Ngày xưa sao lá thu không vàng Và nắng chưa vào trong mắt em Và phải nói như thế nào về các nhà văn nữ hải ngoại như Dương Như Nguyện, Nguyễn Thị Thanh Bình, Mai Ninh, Trân Sa, Đặng Thơ Thơ, Lê Quỳnh Mai, Đỗ Lê Anh Đào, Lê Thị Thấm Vân? Đứng trước những nhà văn này, Túy Hồng trở thành một học trò tiểu học bập bẹ chuyện yêu đương. Về phần những nhà văn thập niên 55-65 đã có phần chùn bước và mất hướng chăng? Bắt đầu là những Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, chỗ của họ mỗi ngày mỗi thu hẹp lại. Rồi đến những Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, Bình Nguyên Lộc, Duy Lam, Thanh Nam, Võ Phiến, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền? Họ viết được gì trong hoàn cảnh đất nước bom đạn như thế? Đây là một dấu hiệu đáng lo ngại cho một số nhà văn đã thành danh như Mai Thảo. Ai sẽ thay thế họ? Bởi vì người ta thấy rằng Mai Thảo của thập niên 1955/1963 thì cũng không khác gì Mai Thảo của thập niên 1963/1975 vã cũng không khác bao nhiêu vào năm 1979 khi ra nước ngoài. Ông vẫn là ông, bất kể những biến thiên xáo trộn chính trị, xã hội đang rúng động và có thể đang sụt lở dưới chân ông? Đó là sự trì trệ, ngưng đọng trong sáng tạo. Không đem lại được cái gì mới thì không được kể là văn học. Bởi vì Văn học đố kỵ với cái sáo mòn. Đó cũng là trường hợp những Thanh Tâm Tuyền, Thanh Nam, Minh Đức Hoài Trinh, Duy Lam. Và những tên tuổi khác nữa. Trong số đó, họa chăng chỉ có Nguyên Sa, sau khi thụ huấn, khóa 24, trường Sĩ quan Thủ Đức đã tự phủ nhận chính những đưa con tinh thần của mình: Thơ văn của ông không còn như trước nữa. Không nói tao sợ mày phiền Nói ra với rượu tao buồn gấp hai Em mày đi lấy chồng rồi Gặp tao ngoài ngõ ngậm ngùi nhìn nhau Tao nhìn tao thấy mày đau Nó nhìn nó thấy trong tao có mày Và ông nghĩ rằng vai trò của họ: “Nhà văn, nhà thơ chỉ có số phận dân tộc mà nó có” Đất nước chuyển mình, văn chương chuyển đổi. Những giây phút thanh bình, ngắn ngủi thời đệ 1 Cộng Hòa không còn nừa. Tuổi trẻ miền Nam ban đêm bị đánh thức vì tiếng bom đạn vọng về. Giấc ngủ không yên. Có nhiều cách để tự mỗi người chọn lựa thích hợp Một số nhà văn trẻ hơn, nay họ là những sĩ quan của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, mỗi ngày họ trực diện với chiến tranh và từ những cảm nghiệm ấy, với tư cách nhà văn, họ biểu đạt những băn khoăn trăn trở của họ. Họ là những nhà văn như: Duyên Anh, Nhật Tiến, Túy Hồng, Thảo Trường, Thế Uyên, Phan LạcTiếp, Phan Nhật Nam, Lê Tất Điều hay là Cao Tần, Nguyễn Quốc Trụ, Hồ Trường An, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Thế Vinh, Kiệt Tấn. Thế Uyên viết 10 ngày phép của một người lính. 10 ngày phép không phải để xả láng, để chơi mà là để suy nghĩ, để bày tỏ những bực bội về những suy nghĩ vụn vặt về người lính, về những trí thức phòng trà vv.. Cuốn sách thứ hai của Thế Uyên: Nghĩ trong một xã hội tan rã. Vẫn là những băn khoăn của một sĩ quan, hơn hết là một trí thức đi tìm nguyên nhân của một xã hôi tan rã, đặt lại vấn đề chiến tranh và hòa bình, viện trợ và nhận viện trợ. Nhà văn nay không còn là kẻ đứng ngoài mà là dấn thân , nhập cuộc.- Ghi chú : Bài viết có vài chi tiết không hòan tòan chính xác nhưng tác giả đã nhắc ta nhớ lại nhiều sự kiện mà đống tro tàn thời gian đã phủ đi nhiều điều quan trọng. |
|
|
![]()
Post
#4
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Những truyện ngắn của Thảo Trường, ngay từ lúc anh bắt đầu cầm bút thường cũng là những truyện có tầm cỡ, có chủ đề, muốn gửi gắm, muốn nói lên một điều gì. Chẳng hạn câu truyện về Một người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp. Trong đó tác giả mô tả một người đàn bà sống giữa hai lằn đạn, Quốc gia ban ngày, Việt Minh ban đêm. Đứa trẻ ra đời không biết là con ai? Điều đó nói lên thân phận người đàn bà trong chiến tranh. Câu truyện thật là cảm động nói lên cái phi lý của cuộc chiến tranh này. Rồi ông Trung úy đầy lòng mẫn cảm đã nhận đứa bé làm con nuôi để ít ra nó cũng có một người làm cha nó. Ông đã viết một bức thư cho nó để năm nó đủ 18 thì mở ra đọc. Trong lá thư ông viết:” Không biết sau này con sẽ sống ở xã hội nào, nhưng cha chỉ xin con một điều: Trước khi hành động, trước khi tranh đấu, trước khi làm Cách Mạng, trước khi biểu tình, trước khi lật đổ một chế độ, trước khi đi hành quân, trước khi thuyết pháp, trước khi tham nhũng, trước khi cờ bạc, trước khi phá phách, trước khi hy sinh, nghĩa là trước khi có bất cứ quyết định gì thì ba xin con, con hãy nghĩ tới người đàn bà đã có mang con, những người mẹ mà không biết bao nhiêu chủ nghĩa, những điều đao to búa lớn đã tra tấn bà. 22
Vì thế, nhà văn nay không còn là kẻ đứng ngoài mà là dấn thân, nhập cuộc.. THế hệ thanh niên trên dưới 30 tuổi, kể từ 63 trở đi với cái chết từng ngày, từng giờ, chết đủ kiểu. Nay thì giã từ thứ văn chương phòng trà, văn chương trú ẩn, thứ văn chương tháp ngà, cười đùa trên xác người lính ngoài mặt trận. Đồi Gia Hựu dài cơn đồng thiếp Thăm hỏi nhau, mày còn mạnh giỏi Còn nguyên lành thân xác phàm phu Bao giờ giải ngũ, bao giờ có phép Lúc nào vào lính nhớ cho tao biết Vợ con mày mấy đứa ra sao Một ngày kia, bạn của Sự, Phạm Nhã Dự trước mộ bia của bạn đã làm bài thơ như sau: Bưu điện Sài Gòn Trở lại Phan Rang lần này nữa Thăm mày, không biết ngắn hay lâu Thăm mày đù má mày đã chết Hay chỉ thăm cỏ mọc xanh mầu Chiều này sao gió nhiều mày nhỉ Gió nổi trong tao đến lạnh mình Đù má nhang mày sao chẳng cháy Đốt mãi que diêm đến lạ lùng Và tâm trạng của một người lính từ vùng hỏa tuyến trở về thành phố. Lời thơ cao ngạo, bất cần đời, chán nản mà tội nghiệp. Có cái gì đó đau xót về sự tuyệt vọng, về một sự hy sinh có thể trở thành vô nghĩa? Mai ta đụng chạm ta còn sống Về ghé sông Mao phá phách chơi Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm Đốt tiền mua vội một ngày vui. (Thơ Nguyễn Bắc Sơn) Và thêm một đoạn vào cuộc đời: Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ Bước giày đinh lạng quạng một đời trai Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai (Thơ Cao Tần trong bài Cảm Khoái, 1977) Một vài kỷ niệm để thấy rằng chiến tranh nào cũng là một bi kịch nhân 2, 3 lần . Chúng tôi có một người bạn, chẳng may, anh bị rớt tú tài 2 và phải nhập trường Võ bị Quốc Gia Đàlạt. Mẹ anh khóc lóc so sánh với trường hợp của tôi để buồn. Chắc anh cũng buồn. Nhưng số anh rất là hên. Cả đời lính chiến trận. Thân thể anh không một vết sứt mẻ. Trước khi mất nước, anh đeo lon đại tá Lữ đoàn trưởng, mang cả một binh đội đi theo anh. Giọt nước mắt tiễn đưa của mẹ anh hẳn nay là giọt vui mừng? Tôi vẫn nghĩ anh là loại người hùng của tuổi trẻ miền Nam. Nếu gặp anh, cần phải chào đại tá, tôi xin được ngả mũ chào, vì những người như anh mà cái quân đội ấy đã một thời làm kẻ hào hùng. Ở đâu cũng có những kẻ hèn và nhiều kẻ hèn, nhưng nhờ đó kẻ hào hùng thêm rõ mặt. Các phong trào phản chiến ở miền Nam Chiến tranh như thế, mỗi ngày mỗi ác liệt. Bom đạn trút xuống vô tình. Phản chiến có mặt dưới nhiều khuôn dạng khác nhau. Không phải chỉ có một phong trào phản chiến mà có nhiều xu hướng khác nhau: có Thích Nhất Hạnh, có Thích Trí Quang, có nhóm trí thức Hành trình với Thế Nguyên, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, có nhóm Thái độ của Thế Uyên, có Trịnh Công Sơn, nhưng lại có Phạm Duy, có nhóm dân biểu đối lập như nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung mà ta có thể tạm gọi là thành phần thư ba. Cũng đừng quên một điều quan trọng, có thứ phản chiến của người Mỹ ngay trên đất Mỹ và một số sinh viên hải ngoại theo đuôi. Cuộc thăm dò dư luận Mỹ năm 1967 cho thấy 46% dân chúng Mỹ cho rằng tiến hành cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam là một sai lầm. Ngày 10/4/1971, 500 phụ nữ Hoa Kỳ biểu tình trước Ngũ Giác Đài, đầu não của cuộc chiến tranh Việt Nam, để phản đối chiến tranh. 50 quân nhân Mỹ đang chiến đấu tại Việt Nam đã gửi đăng một bức thư trên tờ Nữu Ước thời báo kêu gọi dân Mỹ tham gia biểu tình chống chiến tranh Việt Nam vào cuối tháng tháng tư với đầy đủ tên họ và cấp bậc của từng người. Và trước đó, một cô gái Việt Nam, chị Phan Thị Mai, hay Nhất Chi Mai đã tự thiêu tại chùa Từ Nghiêm và để lại chúc thư như sau: Sao người Mỹ tự thiêu Sao thế giới biểu tình Sao Việt Nam im tiếng Không dám nói hòa bình 4 năm sau, trên tờ Tin Sáng, số ngày 02-06-1971 đã đăng lại toàn văn ngày lễ kỷ niệm Nhất Chi Mai với câu thơ của liệt nữ: Xin đem thân làm đuốc Xin soi sáng u minh Xin lòng người thức tỉnh Xin Việt Nam hòa bình … Don Luce (nhân viên IVS, sẽ trình bày ở Phần sau về vấn đề này ) trước khi bị trục xuất ra khỏi Việt Nam đã viết như thế này:” Tôi thấy đã đến lúc tôi và tất cả những người ngoại quốc phải rời khỏi Việt Nam.Thời gian đã điểm từ lâu. Tôi tin tưởng rằng các bạn có thể giải quyết những vấn đề và tôi chắc chắn các bạn không cần những người cố vấn vĩ đại. Tôi sẽ không trở lại Sài gòn cho đến khi có hòa bình. Và tôi sẽ không trở lại Việt Nam cho đến khi nào quốc gia các bạn thật sự độc lập. Ngày đó chúng ta sẽ ăn phở tại quán phở 79 và đi chuyến xe buýt qua Đồng Xoài và DakSon đến Ban Mê Thuột, ra LạcThiện tới Đà lạt .. Và chúng ta sẽ tiếp tục đi tới Đồng Hới, Vinh, Thanh Hóa và ra Hànội. (trích dẫn sách dưới dạng bản thảo, dành cho người quen biết) Cuối cùng, để lẩn trốn tâm trạng bất lực và lo sợ trong cuộc chiến này, sẽ có vô số hình thức, đa dạng, đủ kiểu về sự lẩn trốn như sẽ trình bày sau đây. Nhưng trước hết, cần tìm hiểu nguyên nhân nào đưa dắt con người đến chọn lựa thái độ phản chiến? Hãy nhìn một vài con số: Năm 1950: có 327 cố vấn Mỹ Năm 1960: lên 600. Năm 1961: 3200 Năm 1963: 16500 Năm 1964: 23.000 Tướng W. Westmoreland và sau ông Diệm. Năm 1965: 180.000 Năm 1966: 389.000 Năm 1967: 463.000 Năm 1968: 495.000 sau tết Mậu Thân Năm 1969: 541.500 Mặc dầu quân số Mỹ tăng lên nửa triệu người, nó vẫn là thứ chiến tranh có giới hạn limited war, chiến tranh không lấy thắng. Nó vô lý như thế đấy. Mặc dầu quân Mỹ tốn hơn nửa tỉ đô la trong một năm để bỏ bom miền Bắc vào những năm ác liệt nhất. Mặc dầu thế giới lên án những cuộc bỏ bom này biến Bắc Việt trở về thời kỳ đồ đá. Người ta ước lượng các cuộcc bỏ bom miền Bắc gây thiệt hại khoảng 300 triệu đô la, nhưng thiệt hại về số mày bay bị rơi lại tốn kém 900 triệu đô la cho Mỹ. Vào năm 1967, mỗi tháng hàng triệu tấn quân nhu đổ vào bến cảng Sài gòn mà tính ra mỗi người lính Mỹ tiêu dùng 50 kgr đủ lọai mỗi ngày. Trong khi đó, quân đội Bắc Việt chỉ cần tiếp liệu 1500 tấn mỗi ngày là đủ cho các binh đội của họ. Quân đội đó không có máy bay, tầu chiến, xăng nhớt đủ dùng. Ấy là không kể, họ không cần đến thuốc gội đầu, kem cạo râu, lade, rượu mạnh và ngay cả áo đi mưa mặc vào lúc trời nắng cho lính Mỹ. Theo Bộ truởng Quốc Phòng Mc Namare, tổn phí chiến tranh Việt Nam vào tháng sáu 1967 tính ra là 21 tỉ đô la. Cũng là nhiều. 3% sản lượng quốc gia của Mỹ. Nhưng thật chẳng nghĩa lý gì so với 48% chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ hai và 12% trong chiến tranh Cao Ly. Nhưng mặc dầu vậy, 46% dân chúng Mỹ sót của không tán thành cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Cuộc dội bom miền Bắc thật khủng khiếp. Theo báo Le Monde, số ra ngày 14/11/1971, từ năm 1965 đến năm 1971, trên 13 triệu tấn bom đạn đã được trút xuống Đông Dương với sức phá hoại tương đương với 670 trái bom nguyên tử cỡ bom nguyên tử liệng xuống Hiroshima vào năm 1945. Người ta ví von những trái bom thả xuống miền Bắc là những chùm nho phẫn nộ. Nhưng thực sự, mức độ tàn phá nó không khủng khiếp như người ta tưởng. Con số nói lên sự thật phũ phàng như thế nào. Hồi tháng 3/1945, chỉ trong một đêm Mỹ dội bom thành phố Tokyo, có 84 ngàn người chết. Trong khi đó các cuộc bỏ bom ở Hà nội và Hải Phòng của không quân Mỹ chỉ gây tổn hại tất cả là 1138 người chết ở Hà nội và 305 ở Hải Phòng. Con số thật là nhỏ không đáng kể. Vì chính quyền Hà nội đã sơ tán dân chúng đi hết rồi. Chiến tranh đó rồi cuối cùng sẽ dẫn đưa đến một thứ chiến tranh hao mòn và chiến tranh cân não, nản chí và đi đến thua cuộc . Các tướng Kỳ, Khánh, Thi thì đều mong muốn mang chiến tranh sang bên kia vĩ tuyến 17, để hàng 2, 3 sư đoàn cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh ra làm nhiều khúc. Chặn đường tiếp tế, quân đội Bắc Việt phải rút về. Sau này, theo lời ông Bùi Tín kể lại, bộ tham mưu chiến lược Cộng sản chỉ có một điều lo sợ: quân đội Mỹ vượt qua Vĩ tuyến 17 thì chiến cuộc đã hẳn là khác. Người Mỹ sợ không dám làm, sợ bóng gió Trung Cộng và Nga Sô can thiệp. Mãi sau này mới quyết định hành quân sang Hạ Lào thì đã quá trễ, vì cộng Sản đã đủ mạnh để có thể đương đầu với Mỹ ở cấp sư đoàn rồi. Cuộc hành quân sang Hạ Lào kết thúc vào ngày thứ năm 25/3/1971. Đó là một cuộc thảm bại của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trên tờ Trắng Đen, số ra ngày 23/3/1971 có chụp một bức hình cho thấy, binh sĩ đã bám vào hai cái càng phía dưới trực thăng để tháo chạy. Và trên tờ Chính Luận cho thấy xe tăng quân đội VNCH cố tháo chạy trong cuộc triệt thoái với lời ghi:” quân đội VNCH đã rút khỏi Lào sớm hơn dự định do sức phản úng quá dữ dằn của Cộng quân (Chính Luận số 26/3/1971) Cũng trên Chính Luận, có lời bình luận gay gắt đối với Mỹ như chưa từng có:” con đường nhục nhã là con đường đầu hàng trá hình để rồi không phải chỉ mất ít nhiều quyền lợi mà mất luôn thế giá siêu cường và trở nên một thứ bè bạn tráo trở hèn mạt” Cuộc hành quân sang Hạ Lào là một sự hy sinh không nhỏ đối với quân đội VNCH thời kỳ đó. Chưa kể, nhất là từ năm 1965, mỗi người lính Mỹ luân phiên đánh trận chỉ một năm sau đó được rút về. Rút về từng cá nhân mà không phải một đơn vị. Một năm chỉ vừa đủ thời gian để người lính rút kinh nghiệm chiến đấu, làm quen với trận mạc thì lại đã được thay thế bằng một tân binh hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến trường. Cứ giả dụ cứ 6 tháng, một đại đội được thay thế bằng một nửa số người mới, tinh thần đâu để binh lính đánh trận? Ai cũng chỉ chờ hết hạn bằng an trở về. Trong cuộc chiến đó, người Mỹ không biết ai là kẻ thù, ai là bạn. Và vì thế kẻ thù như ở khắp nơi. Và rồi cái nóng, cái mưa và đỉa vắt cũng là thứ kẻ thù tệ hại như chính Việt Cộng. Mỗi một ngày là những thử thách đối với họ để tồn tại. Và Tim O'Brien của người Mỹ đã viết về những hoài niệm chiến tranh trong bài: If I Die in a combat Zone. Trong một cuộc chiến tranh mà ta biết chắc là không chiến thắng, dù có đổ thêm hàng trăm ngàn binh lính nữa, cũng sẽ không thay đổi được diện mạo cuộc chiến. Tâm trạng chán nản, bất an dần đưa đến tinh thần phản chiến, ước vọng hòa bình. Phong trào phản chiến chỉ thực sự xuất hiện từ năm từ 1964/1969, nghĩa là sau khi lật đổ nền đệ nhất Cộng Hòa. Và có nhiều hình thức khác nhau. Phần lớn các phong trào này đều do giới trẻ phát động. Bởi vì họ là nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến này. Chính họ chứ không ai khác phải ra ngoài mặt trận và có thể phơi thây nơi chiến trường. Ước vọng hòa bình là một ước vọng thâm sâu và chính đáng của con người. Nhưng ước vọng hòa bình là một chuyện, nhưng hòa bình với giá nào lại là chuyện khác. |
|
|
![]()
Post
#5
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Phía công giáo, chúng ta, hòa bình không phải là cầu hòa, hòa bình không phải là bánh vẽ, mà hòa bình là do cuộc tranh thủ dẻo dai và gian khổ do bao nhiêu năm nay của dân tộc Việt Nam mà có. Do đó, hòa bình phải được quan niệm cho thực sát với thực tế, chủ quyền của miền Nam phải được bảo đảm, khi tự do của dân tộc Việt Nam không bị xúc phạm, khi nền chính trị miền Nam không bị Cộng sản len lỏi để quấy phá và thừa cơ cướp chính quyền lãnh đạo. Một thứ hòa bình không có những bảo đảm như vậy là một thứ bánh vẽ, một sự lường gạt để trốn trách nhiệm và giao khoán, bán đứng miền Nam Việt Nam này cho Cộng Sản. Những người chủ trương thỏa hiệp với Cộng sản trên bình diện quốc gia là những kẻ điên rồ, không chịu lấy bao kinh nghiệm ở Đông Âu làm kinh nghiệm khi phe Cộng Sản ở Ba Lan đã để cho Đức Quốc Xã tiêu diệt toàn bộ phe kháng chiến ở thành phố Varsovie, chỉ vì phe kháng chiến chống Đức là thuần túy quốc gia. Hồng Quân Sô Viết lúc đó đóng ở bên sông Vistule tại thủ đô Balan là Varsovie mà đã nhất định không tiếp cứu cho phe kháng chiến quốc gia, để cho phe này bị Đức tiêu diệt trọn vẹn. Đối với Cộng Sản mà cầu hòa là đầu hàng vô điều kiện, phản chiến là từ bỏ khí giới cho địch thủ ám sát mình. Những người trí thức đó, dù họ là ai, cũng chỉ nhìn vấn đề trong suy luận, chứ không thể nhìn trong thực tại, mà thực tại ở Việt Nam với cuộc chiến này nó khác hẳn với các cuộc chiến tranh trên thế giới. Đối với Phật giáo - Một trong những nhóm chủ trương hòa bình khác và đang tìm cách tuyên truyền thuyết phản chiến và ngụy hòa trên một số các quốc gia tự do, trong đó có cả Hoa Kỳ, và liên hệ đến giáo hội Việt Nam thống nhất, là nhóm Lá Bối Phật giáo do TT Thích Nhất Hạnh chủ trương và lãnh đạo. TT Nhất Hạnh đã tự mình tách biệt ra khỏi những hoạt động của giáo hội Phật giáo, lập nên một phe phái riêng, ngụy trang dưới quan điểm tình thương để liên kết với Cộng Sản. Chủ trương của Nhất Hạnh đã bị các Thượng Tọa trong giáo hội bài xích, cho nên trong cuộc tranh đấu tháng 3/1966, ông đã phải lưu vong vì chủ trương bắt tay với Mặt Trận giải phóng miền Nam.. Chủ trương này quá rõ rệt khi trong cuộc lưu vong trên nhiều quốc gia, ông đã đứng hẳn về phe nghị hòa của Cộng Sản để lên tiếng chống lại cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc Việt Nam trước sự xâm lăng của Cộng Sản. Đặt vấn đề nhóm Nhất Hạnh đứng về hàng ngũ Cộng Sản không có nghĩa là chụp mũ Phật giáo một cách hồ đồ, nhưng cốt để tách rời nhóm Lá Bối ra khỏi tôn giáo để thấy rằng nhóm Lá Bối cũng như nhóm Sống Đạo đang hoạt động cho Cộng Sản, đang có những liên minh tư tưởng với Cộng Sản, đang tìm cách gieo rắc phong trào ngụy hòa phản chiến đầu hàng để rước Cộng Sản về chiếm đọat miền Nam Việt Nam Tự do. (Trích tài liệu học tập trong khóa Huấn LuyệnThanh Tra và Kiểm tra của Bộ Thông tin Chiêu Hồi, tháng 3/1967) Vấn đề Hòa Bình thương thuyết và nội tình Việt Nam hiện tại. Mới đây, có người bạn có nhã ý gửi cho tôi cuốn Lotus Unleashed, The Buddhist peace movement in South-Viet Nam 1964/1966, của tiến sĩ Robert J Topmiller. Trong cuốn sách, chủ yếu, ông bàn đến những phong trào đòi hòa bình của Phật giáo dưới sự lãnh đạo của TT Trí Quang trong những năm 64-66 và ông nói đến vai trò và sự có mặt của TT ấy trước giờ lâm tử của Việt Nam Cộng Hòa. Trang chót của cuốn sách, trang 150-151, nó làm vỡ mộng cho bất cứ ai còn tin vào Cộng Sản. Bởi vì một người như TT Trí Quang, Cộng Sản trải đến hai ba lần chiếu đỏ đến chùa Già Lam đón tiếp cũng chưa đủ cái lễ. Vậy mà Security forces raided pagodas… And placed prominent Buddhist leaders like Thich Tri Quang under house arrest or imprisonment in remote locations. Và ông kết luận: “Alas, wartime “Viet nam was not a land for pacifists”. Bài học mà Lm Trần Tam Tỉnh kể với tôi vẫn còn đó. Lần đầu ông về VN được giới chức cao cấp chính phủ ra đón tiếp nồng hậu. Những lần sau, khỏi đón tiếp mà còn bị công an phường khóm đến hạch hỏi đủ thứ chuyện. Cũng phải nhìn nhận với nhau rằng, có những người trẻ tuổi đã bị cuốn hút vào một tâm thức lãng mạn chính trị về một dân tộc bị đọa đầy qua quê hương khói lửa, qua lựu đạn cay: “Chúng con đã tìm thấy dân tộc qua những làn hơi cay, dù lúc đó chúng con đã nhòa nước mắt. Chúng con đã thấm thía thế nào là yêu nước qua những vết bầm của dùi cui. Thầy ơi, những lúc đó, chúng con sung sươ’ng vô cùng. Khi bị xúc về Ty Cảnh sát, chúng con đã thấy rõ được con đường chân lý mình phải theo, một con đường được rào kín bằng kẽm gai, bằng những khuôn mặt lầm lì. Chúng con đã nhất quyết chọn cho mình, cho cuộc đời mình con đường đó. Chúng con đã nhìn thấy dân tộc, chúng con đã thấy mặt trời, nên nhà giam đã vang dạy lời ca”. Rồi hòa bình sẽ đến, đến cho dân tộc Việt Đôi chim bồ câu trắng rủ nhau về làng xưa Hòa bình đối với phần đông người vẫn chỉ là một ước mơ, chưa nói đến hòa bình theo kiểu nảo? Vì thế, trong một lần hội thảo ở Viện đại học Cần thơ, vào năm 1969, một tham dự viên đã lên phát biểu như sau: “Anh Lý Chánh Trung ơi, chúng tôi mến anh lắm, nhưng chúng tôi phải nói rằng, anh đang mơ một giấc mơ thật đẹp, chỉ tiếc là chúng tôi không thể mơ theo anh. Và nhắc lại ông học giả Hồ Hữu Tường, khi còn giữ chức dân biểu Hạ viện đã tắm rửa, ăn chay, cạo đầu, mặc nâu sòng, đeo tràng hạt ngồi trước cửa Hạ viện và tiên tri như sau: “Chỉ còn một mét nữa là tới Hòa Bình” (Trích bản thảo của một tác giả trong nước. Kể từ phần này về sau, sẽ có nhiều trích dẫn như thế, mong độc giả đừng hỏi gì thêm về xuất xứ, nguồn gốc) Phản chiến hay thành phần thứ ba? Lắm lúc ngồi nghĩ lại những năm cuối thập niên 60-75, người viết chỉ thấy có hai khuôn mặt miền Nam: Chiến tranh với những lo âu khắc khoải và phản chiến dưới đủ mọi hình thức. Thơ văn như ở trên đã đành, nay phản chiến trên mặt trận báo chí và tranh đấu ở Quốc Hội mà tôi gọi chung là thành phần thứ ba. Thành phần này chống chiến tranh, kèm theo chống Mỹ và thường nghiêng về phía Mặt Trận giải phóng miền Nam hay phía Cộng Sản. Và sau này thì những nhân vật thành phần thứ ba mới lộ diện như các quý vị Thích Minh Châu, Thích Trí Thủ, Ni sư trưởng Huỳnh Liên Ni sư Ngọat Liên, Thích Minh Nguyệt, Thích Hiển Pháp, Thích Trí Dũng, Thích Thiện Châu, Hồng Nghiệp, sư bà Mạn Đà La và các cơ sở hậu cần như chùa Giác Lâm Tự, quận Tân Bình và chùa Giác Viên ở Bình Thới. Phía bên kia thì có quý ông linh mục Trương Bá Cần, alias Trần Bá Cường, Vương Đình Bích, người trách nhiệm dịch cuốn Thập giá và lưỡi gươm, Phan Khắc Từ, Huỳnh Công Minh và hai người sau này rút lui như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan. Phía dân sự thì có Phạm Trọng Chánh, Huỳnh Tấn Mẫm, họa sĩ Chóe, Vũ Hạnh, nghệ sĩ Kim Cương, Lý Chánh Trung, Ngô Bá Thành, Trần Ngọc Liễng, Nguyễn Văn Hạnh (nhà thầu khoán), họa sĩ Ớt, vẽ cho các báo Điện Tín, Tin Sáng và Đại Dân tộc, cũng là Huỳnh Bá Thành, sau là Tổng biên tập báo Công An. Nguyễn Ngọc Phương, tức Ba triết (chết trong tù), có vợ khá nổi tiếng trong giới sinh viên là cô Cao Thị Quế Hương Đinh Văn Đệ, Phan Xuân Huy, Đinh Xuân Dũng, Nguyễn Phúc Liên Bảo, ông Trần Bá Thành và ngoài ra còn nhóm dân biểu đối lập như quý ông Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Dương Văn Đầy, Ngụy Ngữ, Minh Trang (Trích bản thảo như ở trên.)… Sau này, tất cả quý ông cựu dân biểu đối lập còn tiếp tục được làm báo tờ Tin Sáng. Sau năm năm, tờ Tin Sáng cũng tự chôn mình để chỉ còn lại có tờ Công giáo và Dân tộc. Các báo thời đó thuộc khuynh hướng thành phần thứ ba có các tờ Điện Tín, Đại dân tộc, Tin Sáng và các bán nguyệt san như Đất Mới, Đối Diện, Đất nước, Tin Văn, Hành Trình và Trình Bầy. Hầu hết người viết đều là giới trẻ ở Sài gòn và các tỉnh kể từ sau 1963 trớ đi. Hầu hết là báo in Ronéo, sách in ronéo. Có tờ là báo chui. Hầu hết đều viết với tấm lòng trung thực và bày tỏ nỗi băn khoăn của tuổi trẻ trước thời cuộc, trước tình hình đất nước. Nhà xuất bản Trình bày cho xuất bản được tập sách thứ 50. Riêng Thế Nguyên có cuốn truyện mỏng: Hồi Chuông tắt lửa mà tôi có dịp được đọc. Phải nói là hay và để lại nhiều dư âm suy nghĩ cho người đọc. Trần Hoài Thư in một lúc 3 truyện Những vì sao vĩnh biệt, Ngọn cỏ ngậm ngùi… Cao Mỵ Nhân với tập Thơ Mỵ Và vô số nhừng người trẻ khác như Lâm Chương, Nhữ Đình Toàn, Võ Chân Cửu, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Mộng Giác, Hồ Minh Dũng, Mường Mán, Hoàng Lộc, Ngô Nguyên Nghiêm, Viên Linh, Nguyễn Nho Nhượng, Trần Vàng Sao, Đynh Hoàng Sa, Hoàng Khởi Phong, Đông Trình, Phạm Thiên Thư, Cung Tích Biền, Nguyễn Bắc Sơn, Tô Đình Sự, Trần Hoài Dạ Vũ, Cao Vị Khanh, Cao Huy Khanh, Cao Thoại Châu, Nguyễn Trung Hối, Nhữ Đình Toàn, Lữ Quỳnh, Nguyên Vũ, Ngô Thế Vinh, Trần Văn Nam, Phan Nhật Nam, Diễm Châu, Luân Hoán, Thái Tú Hạp, Phan Ni Tấn, Nguyễn Tất Nhiên, Y Uyên, Doãn Dân, một người bạn học đã chết trận. Bìa tạp chí Văn minh họa Hồi chuông tắt lửa Họ từ khắp nơi đổ về. Nha Trang, Đà lạt, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh. Phần đông là giới giáo chức và quân nhân, xuất phát từ các trường đại học Vạn Hạnh, Minh Đức. Trẻ và sinh động. Thơ văn, truyện ngắn, truyện dài lên đường. Rực lửa. Đầy sáng tạo. Tiếng nói phản kháng. Tiếng nói của tuổi trẻ trong chiến tranh, thân Phận con người. Nghẹn ngào. Phản ánh vũ trụ Kafka. Hoặc phản ánh thân phận con người trong tiểu thuyết giờ thứ hai mươi lăm của V. Gheorghiu. Trong sáng. Nhiều khi chưa làm nên trò trống gì, nhưng cứ nói, cứ viết. Đó là những nỗ lực trẻ, khai phá, xuất phát từ những hoàn cảnh sống cay nghiệt của cuộc chiến. Mặc dầu có thể chỉ là những tiếng nói lạc loài, tiếng nói vu vơ, chưa định hình. Rất tiếc là những sáng tác trong thời kỳ này hầu hết đều bị phát tán, lưu lạc, mất mát mà ngay chính tác giả cũng không còn giữ được tác phẩm của mình Chẳng hạn, cuốn Hồi chuông tắt lửa mà tôi muốn tìm trở lại cũng biến mất vào cõi vô tận. Tác giả thì đã chết, tìm đâu ra? Trường hợp Lý Chánh Trung: trí thức khuynh tả hay thành phần thứ ba Biến cố 1/11/63 đã không đem lại những thay đổi như lòng mong đợi của nhiều người. Tình hình lại có nhiều dấu hiệu xấu đi. Tâm trạng giới trẻ phần đông là chán nản và mất tin tưởng. Hình như không còn một giải pháp nào tỏ ra hữu hiệu cho miền Nam? Khuynh tả, thành phần thứ ba xuất hiện như một giải pháp của không gỉải pháp? Đặc biệt tờ Hành Trình đã đề cập đến những đề tài bức thiết như chiến tranh và hòa bình, Công giáo, Phật giáo. Sau đây là một số bài viết tiêu biểu nhất như : Cùng nhau cảm thức về nỗi buồn nhược tiểu, Để tiến tới một nền hòa bình cho Việt Nam, Không một vòng hoa, không một vòng tang, Cách mạng của người nghèo, Cách mạng và dân chủ, Tìm một hướng đi cho cuộc cách mạng Việt Nam, Trường hợp Nasser và Cộng Hòa Ả Rập thống nhất … Nói chung, lập trường của nhóm này có đặc điểm như sau: – Chống sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. – Chống chiến tranh vì cho rằng đây là một chiến tranh nội chiến, hay chiến tranh Ủy nhiệm. – Chống lại chính quyền miền Nam, vì cho là tay sai của ngoại bang. – Có xu hướng thiên về phía Cộng Sản. – Đưa ra một đường lối thứ ba: Làm một cuộc cách mạng xã hội không Cộng Sản. Những người viết và có thể coi cùng một chủ trương với Hành Trình gồm có: Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Cẩm Xuyên, Trần Trọng Phủ, Trịnh Viết Đức, Trần Bích Lan hay Nguyên Sa, Trần Văn Toàn, Võ Hồng Ngự, Nguyễn Hữu Tấn Đức, Nguyễn Khắc Ngữ, Thảo Trường, Thế Uyên, Thế Nguyên, Nguyễn Quốc Thái, Nguyễn Đông Ngạc, Hương Khê, Nguyễn Ngọc, Thái Lãng, Nguyễn Vũ Văn, Nguyễn Quốc Thái, Trương Đình Hòe, Lê Tất Hữu, Đặng Thần Miễn, Đỗ Phùng Khoan, Diễm Châu, Nguyễn Đức Trinh và Đỗ Long Vân. |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 17th June 2025 - 11:44 AM |