![]() |
![]() ![]() |
![]() |
![]() ![]()
Post
#97
|
|
![]() Hạnh ngộ ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 5,776 Joined: 25-October 08 Member No.: 480 Country ![]() ![]() |
![]() Biểu diễn văn nghệ trong lễ hội Lễ hội con dúi của người Ba Na ở Gia Lai Với ý nghĩa cầu mong cho cuộc sống của mọi gia đình trong thôn bản được ấm no, hạnh phúc, hàng năm, người Ba Na ở Kon Pne lại tổ chức một lễ hội được gọi là lễ hội con dúi đặc sắc, chỉ riêng có ở xã Kon Pne(huyện Kbang – Gia Lai). Trước một tháng diễn ra lễ hội, mỗi gia đình phải đi tìm được một con dúi và một ghè rượu cần dùng trong suốt thời gian diễn ra lễ hội. Đây là hai lễ vật bắt buộc trong lễ hội con dúi. Thời điểm diễn ra lễ hội là khi mùa lúa mới vừa bắt đầu trổ bông. Chủ một gia đình sẽ mang lễ vật đến nhà rông của thôn bản và đặt ở đây để cúng Giàng, cầu mong Giàng phù hộ cho mùa bội thu, các con vật không về nương rẫy phá hoa màu. Lễ hội chỉ diễn ra trong vòng 2 ngày đêm nhưng phải chuẩn bị đến tận 7 ngày. Mọi thứ đều được trang trí công phu và cẩn thận. Một cây nêu được dựng lên giữa sân nhà rông, con dúi sau khi luộc chín sẽ được cắm vào một cái que từ đuôi lên đến đầu treo lên cây nêu này. Con dúi của gia đình nào thì gia đình đó cắm que đánh dấu để không bị lộn với các con dúi của gia đình khác. Các ghè rượu cần được làm từ men của các loại cây rừng cũng được bày thành từng hàng ngay ngắn giữa sân nhà rông, mỗi ghè rượu cần sẽ được bày xen kẽ với một con dúi. Phía dưới và khu vực xung quanh sẽ trang trí các con vật linh thiêng và vẽ những hình ảnh mang tính chất tín ngưỡng của người Ba Na. ![]() Cây nêu được trôn giữa sân nhà rông Sau khi trang trí và chuẩn bị xong những lễ vật cần thiết, già làng sẽ tiến hành cúng Giàng theo nghi lễ của người Ba Na. Tất cả mọi người trong bản sẽ tập trung về nhà rông để nghe già làng cúng và cùng cầu nguyện cho mùa màng của gia đình bội thu. Sau nghi lễ cúng của già làng là các tiết mục văn hóa văn nghệ. “Họ xem con dúi là biểu tượng của sự cần cù và siêng năng nên cả năm sẽ không bị đói. Bản năng của con dúi là khi đi kiếm thức ăn gặp gì nó cũng ăn vào bụng nên lúc nào nó cũng no. Chính vì vậy mà lễ hội con dúi này chỉ diễn ra duy nhất đối với người Ba Na ở xã Kon Pne này thôi”. “Sau một đêm cúng ở nhà rông, đến trưa ngày hôm sau con dúi sẽ được xẻ thịt để mọi người cùng ngồi bên nhau uống với rượu cần, khi đó mọi người sẽ trao đổi với nhau những kinh nghiệm làm ăn để sản xuất, cải thiện đời sống. Khi uống hết ghè rượu cần này thì tiếp tục mỗi hộ gia đình lại góp thêm một ghè rượu cần nữa để tiếp tục uống cho đến hết ngày hôm sau. Đến buổi tối, mọi người sẽ chuyển về nhà mình tiếp tục làm lễ mong Giàng phù hộ cho mùa màng. Thịt con dúi của mỗi gia đình sẽ được xẻ ra chia phần cho mỗi gia đình trong thôn” – anh Đinh Kre kể lại. Anh Nhơn – người nhân viên trực đài truyền thanh của xã tâm sự: “Lễ hội con dúi là một lễ hội đặc biệt, chỉ có riêng của người Ba Na ở Kon Pne. Thông qua lễ hội con dúi diễn ra hàng năm, những người dân tộc Ba Nar muốn giáo dục con cháu trong thôn bản phải chăm chỉ làm ăn mới mong có được một cuộc sống no đủ. Không vi phạm pháp luật bằng những thói quen xấu như trộm cắp, ăn chơi sa đọa”. -------------------- Cõi mơ |
|
|
![]() ![]()
Post
#98
|
|
![]() Hạnh ngộ ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 5,776 Joined: 25-October 08 Member No.: 480 Country ![]() ![]() |
![]() Rợn người nghĩa địa treo Tây Nguyên Khắp đại ngàn Tây Nguyên đều thăm thẳm bởi rừng núi âm u, tĩnh mịch, nhưng có lẽ nơi mà khiến người ta rợn người nhất đó chính là khu nghĩa địa treo hay còn gọi là “rừng ma” của làng Vai Trang (xã Đắk Long, Đắk Lei, Kon Tum). Khắp khu rừng ngổn ngang những quan tài của người chết, cái thì được treo lơ lửng trên cọc gỗ, cái thì gãy gục xuống đất... Hủ tục ngày xa xưa Người Dẻ Triêng luôn tin rằng, người chết có một năng lực siêu nhiên và họ có thể làm được bất cứ chuyện gì trên cõi đời này, kể cả việc "bắt" linh hồn của người sống đi theo. Chính vì vậy, người Dẻ Triêng ở làng Vai Trang không chỉ rất sợ hồn ma người đã chết mà còn xem hồn ma đó đang còn "sống" với một khả năng siêu phàm. Vì lẽ đó nên với người dân làng Vai Trang, mai táng người chết theo hình thức nào đều không quan trọng: "Mình có chôn người chết xuống đất, xây bốn bức tường kín mít thì cái hồn của nó vẫn ở trên thôi. Nó không nằm dưới đất đâu, xây kín nó cũng đi được, chỉ có mình là không đi được thôi. Nó giống như con mối, con mọt trong nhà mình ấy, xây nhà rồi mà nó vẫn đục tường, đục gỗ đi được, con ma cũng vậy", trưởng thôn A B'lã lý giải. Chính vì quan niệm trên nên người còn sống rất sợ người đã khuất. Sợ đến nỗi nếu trong gia đình không may có người chết, gia chủ lập tức vội vàng kiếm quan tài đặt người chết vào trong, khiêng luôn ra nghĩa địa, đóng cọc treo quan tài lên rồi mới về nhà làm lễ thờ cúng. Việc mai táng người chết đều do những người thân trong gia đình tự lo liệu. Nếu có bà con hàng xóm tham gia thì cũng chỉ phụ giúp những việc lặt vặt ở nhà. Nếu chồng chết thì vợ nhờ một số người ruột thịt, thân thiết nhất khiêng quan tài không ra nghĩa địa, sau đó người vợ mang thi hài chồng ra bỏ vào quan tài. Ngược lại, vợ chết thì người chồng cũng làm như vậy, cha với con cũng thế. Một góc "rừng ma" Vai Trang Người làng Vai Trang có quan niệm chết là sang một thế giới khác, nên vẫn cần con trâu, con bò để cày, vì thế họ gửi trâu, gửi bò cho người chết để họ có cái mà làm ăn sinh sống! Người còn sống còn rất lo lắng cho người chết phải "sống" một cuộc sống nghèo khổ, túng thiếu, không có dụng cụ sinh hoạt và mưu sinh nên họ đã chia rất nhiều của cải cho người người chết mang theo. Để vừa chu toàn hơn cho người chết vừa giúp bản thân mình được an toàn, tránh bị "con ma" về trù ẻo và tìm cách làm hại, sau khi mai táng người đã khuất ra nghĩa địa xong, gia chủ phải lập tức làm thịt trâu, bò, lợn, gà để cúng người chết. Dù ông và người dân trong làng chưa từng nhìn thấy "con ma" lần nào nhưng ông A B'lã vẫn giải thích: "Mình phải làm thịt trâu ở nhà cúng để người chết về lấy linh hồn con trâu mang theo, còn mình và dân làng ăn thịt. Nó sống ở bên kia cũng nghèo, mình cho nó cái hồn con trâu, con bò... để nó tạo điều kiện cho mình làm ăn, nó không về hại mình nữa". Bước qua nỗi sợ hãi Nghĩa địa treo của làng Vai Trang là một khu rừng chỉ cách làng chừng 600 mét, nhưng không có người nào dám đặt chân đến đó, duy chỉ có ông A B'lã "dám" đến một, hai lần cùng với một số cán bộ. Khi chúng tôi thuyết phục ông B'lã dẫn ra khu rừng "ma" thì ông nhất quyết không đi vì lo ngại: "Mình sợ lắm, không dám đi đâu. Năm vừa rồi mình đã làm thịt 2 con bò để cúng con ma rồi, mình hết bò rồi không có để cúng nữa. Mình nghèo rồi, năm nay làm ăn vất vả khổ cực không đủ lo cho vợ, cho con, nếu ra đó không có bò cúng cho con ma là nó sẽ bắt mình đi theo nó". Thế là dù sợ không kém gì ông thôn trưởng, nhưng chúng tôi cũng quyết định xâm nhập vào rừng ma mà không cần người dẫn đường. Vừa bước vào khu rừng, chúng tôi đã nhìn thấy một vài ngôi mộ được xây bằng gạch đá, xi măng nhưng do không được xây kín đáo, khiến những mùi uế khí bốc tỏa ra nôn nao khắp nơi phảng phất trong khu rừng. Để đi qua được những ngôi mộ này, chúng tôi phải vạch cây, phải luồn và tránh những cây nứa, dây dại mới vào sâu được bên trong. Đó là những ngôi mộ được chôn dưới lòng đất, không có bờ xây, bị lá cây phủ kín chỉ được đánh dấu bằng một chiếc ghè rượu đặt bên cạnh. Chúng tôi nhẹ nhàng bước từng bước qua những tiếng kêu rộp roạp của lá cây rừng để vào trong mà không phải dẫm lên thi hài của người đã khuất. Đi sâu vào khoảng 20 mét nữa, những chiếc quan tài treo dần dần lộ ra trước mặt chúng tôi. Cái thì nằm lẻ loi, đầu chúc xuống đất vì cọc treo đã mục gãy. Có chỗ thì hai chiếc quan tài đặt song song cạnh nhau. Khắp nơi, cứ cách vài mét lại thấy xuất hiện những chiếc quan tài treo lủng lẳng. Chúng tôi chỉ kịp nhớ lại lời nói của ông thôn trưởng: "Vợ chồng thì được treo cạnh nhau, vợ bên trái còn chồng bên phải. Cháu chắt sẽ được đặt dưới hòm của ông bà, con cái thì treo xung quanh". Những chiếc quan tài này được làm bằng gỗ, thiếc hoặc tôn. Người dân ở đây thường lấy vỏ bom bi hoặc thùng xăng gò hàn thành những chiếc quan tài rất đẹp và chắc chắn cho người chết. Xung quanh các cỗ quan tài này treo ngổn ngang nào chăn, màn, chén, bát và đầy đủ những vật dụng sinh hoạt khác của con người, đây chính là phần của cải mà người còn sống chia cho người đã chết. Ông thôn trưởng cũng cho biết, trước đây để khiêng quan tài đến khu rừng ma này, người khiêng phải chịu rất nhiều khó khăn vì mùi xú uế từ xác người chết bốc ra. Nhiều chiếc quan tài không được che chắn cẩn thận, nắp bật ra ngoài. Theo các cụ già sống tại làng Vai Trang thì: Tục táng treo ở nơi đây đã có từ bao đời nay rồi, và cũng không ai có thể biết rõ, chỉ biết là tục này đã có từ trước ngày giải phóng. Tục táng treo thật ra rất phức tạp, tốn kém và mất nhiều thời gian, vì khi chôn treo như vậy, người thân của người chết phải mổ trâu, mổ bò và phải có nhiều rượu ghè cho dân làng đến ăn uống để làm giúp những công việc như: Chuẩn bị hòm, cây để gác và nhiều công việc khác. Vì nếu không làm như vậy thì gia đình có người chết sẽ luôn gặp rắc rối và xui xẻo, làm ăn không ra gì và luôn ốm đau!? Vài năm trở lại đây, người trong thôn được chính quyền địa phương vận động, họ đã bỏ dần tục táng treo. Tuy nhiên, người đã khuất vẫn được chôn theo phong tục vợ chồng đặt cạnh nhau. Và cho đến hôm nay, trong tiềm thức người làng Vai Trang "người chết vẫn còn "sống" nên dù chôn như thế nào, họ cũng không dám ra lại nghĩa địa”. "Rừng ma" rồi sẽ chỉ còn là tàn tích một thời hủ tục của người dân Dẻ Triêng -------------------- Cõi mơ |
|
|
![]() ![]()
Post
#99
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 2,769 Joined: 9-September 10 Member No.: 15,235 Country ![]() ![]() |
![]() Pleiku Nắng Bụi Mưa Bùn (Kính tặng những ai, đã một lần đến và sống tại thành phố Pleiku để hồi tưởng về kỷ niệm) Thời chiến tranh Việt Nam, Pleiku là một địadanh mà hầu như ai cũng biết. Một thành phố, (đúng ra là một khu thị trấn) dân cư thưa thớt, mà đa số là dân người Thượng. Một nơi đèo heo hút gió xa tít tận miền cao. Vậy mà tiếng tăm, và vang bóng một thời.Cuộc chiến đã làm nên tiếng tăm? Hay nói đúng hơn là “người lính” đã làm nên một địa danh nổi tiếng này.Ngày trước, ai đã từng là lính chiến? Ai đã từng là kẻ “bị đày”? Và ai đã từng là dân “tứ chiếng”, là kẻ “giang hồ”? Thì đất địa Pleiku là nơi được mời gọi. Tôi đến Pleiku vào giữa năm 1969. Không phải là gì gì cả, mà là một sĩ quan mới ra trường. Về đơn vị binh chủng Lực lương Đặc biệt, SQ hoặc HSQ mới ra trường là phải đi tác chiến, thử lửa một thời gian. Ai cũng vậy. Coi như phải chấp nhận thử thách, gian nguy, phải rèn luyện “da ngựa dậm nghìn” cho đáng mặt làm trai.Những ngày đầu mới đến Pleiku thật lạ lẫm, chán chường. Một phố thị chỉ như là một thị trấn nhỏ lại lắm người. Dân địa phương thì ít mà tứ xứ thì nhiều. Những năm trước (từ 1966-67), từ khi có bước chân các “chú Sam” đến là sôi động hẵn. Người ta nói: Mỹ đến đâu là như có “mật” ở đó. Đàn ong, lũ kiến, ruồi nhặng bay theo. Có lẻ cũng không sai, vì từ dạo đó, Pleiku tiếng tăm lừng lẫy.Phố xá nhỏ hẹp. Phố Pleiku chỉ có 5-7 con đường ngang dọc. Đường phố chính là Hoàng Diệu, đi từ đầu đến cuối đường, hút chưa tàn điếu thuốc. Chung quanh thì làng mạc thưa thớt dân cư. Một thị trấn vùng núi, đèo heo hút gió. Vậy mà, những gì ở nơi khác có là Pleiku thời dạo đó vẫn có – có đủ cả. Có quán xá, có bar, có nhà hàng, có vũ trường, có đĩ điếm, có trác tán, ăn chơi… Dân tứ phương đổ về, góp phần cho Pleiku bao thứ hay, thứ dở. Người ta về làm ăn, về tìm việc, sinh nhai, sinh kế kiếm tiền. Về để kiếm sống, và cũng về … để chết.Một bộ tư lệnh quân đoàn nằm đó, và một phi trường lớn cũng ở đó (phi trường Cù Hành). Ngày đêm xe cộ tấp nập tới lui và máy bay lên xuống không ngớt. Từng đoàn quân, từng đơn vị, lính ở đâu cũng lần lượt kéo về, ghé qua, trú đóng. Nhiều thứ lính, nhiều đơn vị, binh chủng, được gọi là “thứ dữ”, thứ “bất trị”, đều có mặt. Nhiều chủng tộc, sắc dân. Không lừng lẫy, tiếng tăm sao được? Người ta hát, qua câu vè ví von: “Pleiku đi dễ khó về, trai đi bỏ mạng, gái về nát thây”. Nghe mà phát ớn.Tuy nhiên, nói vậy, tiếng đồn như vậy, nhưng mà không hẵn là vậy. Thật sự thì Pleiku không dữ dằn, không khắc nghiệt lắm đâu. Mà là một nơi dễ mến, và cũng “thân thiết”.Tôi đã đến đấy gần hai năm và khi ra đi, cảm thấy nhiều lưu luyến. Xin kể:Pleiku có khí hậu giông giống như Đà lạt. Một vùng đất cao nên khí hậu mát quanh năm. Cây cảnh hoa màu, Đà lạt trồng được thứ gì thì Pleiku cũng trồng được thứ đó: bông hoa và rau trái. Ai đã có đến vườn hoa Phú thọ? Một xóm ngoại ô (chỉ cách thị xã vài cây số?) với nhiều vẻ nên thơ, tình tứ, đẹp không ngờ. Hoa rất nhiều và đủ thứ. Hoa khoe săc muôn màu. Ngoài hoa là cây ăn trái. Mít ngon đặc sản vùng này. Tha hồ mua, tha hồ hái trái và tha hồ ăn, cho dầu “kẻo nhựa vân tay”. Mít, hoa chỉ là cái cớ. Nếu vào Phú thọ, khách còn tìm nhiều cái khác nữa: Cùng mấy em đi dạo, tìm “sầu riêng”, “măng cụt”, hái “vú sữa” chín mềm, mân mê “mận hồng đào” da trơn thơm ngát (nghĩa bóng). Mặc sức mà thưởng thức. Thú vị làm sao! Nhưng mà cũng phải cẫn thận, coi chừng. VC cũng thường mò ra và mời đi “du ngoạn”..Đi dạo biển hổ. Phong cảnh đẹp và thơ mộng. Thiên nhiên đã ưu đãi cho vùng đất địa rừng núi Pleiku. Một cái hồ khá là rộng, chu vi hàng mấy cây số (tôi không được rõ diện tích, nhưng thấy là lớn rộng). Nước phẵng lặng xanh trong. Bao quanh từng khoảng cây rừng, sương giăng mờ mịt. Nghe nói biển hồ không có đáy? Nước không bao giờ cạn kiệt. Một đồi đá thấp, nơi vui chơi, hò hẹn rất thơ mộng, rất trữ tình. Có am, có chùa, tượng phật, cây cảnh. Từ trên đỉnh dài xuống mé mặt hồ, từng nơi, từng chổ, hấp dẩn, gọi mời. Đã có biết bao mối tình hẹn hò, thề ước tại đây? Pleiku nắng bụi, mưa bùn? Những ngày mưa dầm rả rít, mưa không dứt, thành phố trở nên ãm đạm. Vậy mà cũng ít ai “an phận” nằm nhà, nằm queo doanh trại để mà nhai gạo sấy, thưởng thức lương khô? Nếu không phải bận công tác, trực hành quân thì cũng “bay” ra phố, vô quán cà phê, quán nhậu. Hay ít nhất cũng tạt vào “lữ quán” Bà Tám (cầu số 3) để giải buồn. Ở đây, các em tươi mát, chí nghĩa, chí tình. Tiền không có cứ “ghi sổ”, lương lãnh trả sau. Bà Tám rất là điệu nghệ. ![]() Nắng bụi? Đúng là như vậy. Bụi đường đất đỏ, màu đỏ gạch, bám vào trên thân thể, trên áo quần, trên nón, trên giày…Dầu anh đi về đâu, nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết: anh về từ “miền đất đỏ bụi mù” Pleiku, phố núi.Dấu giày in phố núi - Bước chân anh lấm bụi hồng - Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng - Lê gót phong trần, anh một thuở dừng chân. Pleiku hầu như con gái khắp tứ xứ, khắp mọi miền. Đủ “kiểu”, đủ “cở”: Từ cô gái Huế nằng nặng giọng nói nghe êm tai đến các nàng “nẩu” (dân Phù cát, Phú Yên, xứ Quảng). Quen nàng, chỉ nghe nàng nói cũng đã thấy vui tai. Dân miền Nam, tôi cứ “hả?” hoài mà không hiểu được nàng nói những gì. Các em Bình Định, Nha trang, Tuy hòa, Sài gòn, miền Tây, và cả dân Bắc (kỳ) cũng không thiếu. Pleiku hầu như qui tụ “bông hoa” khắp mọi miền đất nước. Đã có nhiều cơ hội, nhờ quen với Tiểu đoàn 20/CTCT. Ban văn nghệ Tiểu đoàn qui tụ khá nhiều ca sĩ – con gái khắp mọi miền – Vài ba tuần lễ, một tháng mở “bale”, mở tiệc rước mời. Rước cả những “em Pleiku” (cở tuổi choai choai 16, 17, 18… ham vui, thích nhảy). Đến để mà tha hồ hát ca, nhãy nhót. ![]() Đơn vị B17/LLĐB, thời thiếu tá Ngô đình Lưu (tay chịu chơi, hào hoa phong nhả) ông cho lập một “vườn tao ngộ”. Trồng hoa kiểng, có ghế đá, xích đu, có bàn ngồi ngắm trăng, uống rượu, tán gẩu nói chuyện phào. Các cô rất thích. Thích vì được chìu chuộng săn đón. Ca hát nhãy nhót cho đã, mời các em ngắm, dạo vườn hoa – hoa muôn sắc, hoa muôn màu – các em rất thích. Thích thì cứ ngắm, cứ chơi. Và… thích nữa… thì cứ ở qua đêm cũng được…Nhờ thế, mà Pleiku dù là xứ “bị đày”, vẫn không thấy buồn, thấy chán. Vừa đi hành quân, lội rừng, đánh giặc, vừa chơi bất cần đời mà cảm thấy cuộc đời… vẫn đáng sống. Chiến tranh dù nghiệt ngã, chết chóc, dù hủy hoại mọi tương lai. Đời lình dù phải sống nay, chết mai, vẫn không sợ. Kẻ này đi, người khác đến, qua bao tháng năm, vẫn cứ chiến đấu, cứ vui chơi. Nếu không vui, nếu không “xả lán” quên đời thì làm sao mà chịu nổi. Cứ chơi, cứ lăn xả, và cứ… quên mình. Pleiku vẫn luôn là nơi yêu đời, vui sống.Không vui chơi ở đơn vị, thì vui chơi ở các tửu đìếm, nhà hàng. Hai cứ đìểm: Hoàng Liêng, Mimosa, là nơi “đóng quân” hàng đêm của lính. Có tiền thì vung vít, ít tiền thì một ly cà phê đá, một gói thuốc cũng đủ cho “nữa đêm về sáng”. Giờ giới nghiêm không là quan trọng. Chưa say, chưa xỉn chưa về. Say quá, gục ngã, nằm đường, có quân cảnh chở đưa về. Cùng lắm là “ký củ”. Cả mạng sống còn chẳng màng, sá gì năm, mười ngày “trọng cấm” lẻ tẻ.Ngang tàng mọi nơi, ăn chơi mọi chổ. Và có lẻ từ tính vung vít bạt mạng, chơi không biết sợ của lính núi rừng mà địch quân phải nể sợ. Sợ những thằng lính liều mạng, liều mình. Liều mà đánh giặc, giữ vững được đất nước quê hương. Sau này, quê hương, đất nước có phải bị mất đi là tại, do ai? Tại những tên (ngồi mát ăn bát vàng) hèn nhát, khiếp nhược. Chắc chắn không phải tại mấy tên lính “ba gai” chẳng bao giờ biết sợ, bất cần đời, coi thường mạng sống…Cà phê Hoàng Lan, những đêm không ngủ được, những lần nhậu xĩn quắc cần câu, ghé Hoàng Lan để thưởng thức hương vị tách cà phê. Đắng bờ môi mà ngọt ngào tình cảm. Mùi hương thoang thoảng. Hương hoa (từng nụ) ngọc lan phảng phất về đêm. Hương hăng hắt của mái tóc thả lững bờ vai của em (bé) Monique H’ Lem, người con gái Thượng lai Tây có dáng dong dỏng cao, mũi thẳng, cặp mắt lắng sâu màu xanh lục, đôi môi mọng, cười rất duyên, và … đẹp đéo chịu được. Tôi đã ghiền và đã mê “Hoàng Lan” hầu như một dạo. Trời xui đất khiến để tôi, dân trai xứ miền Tây (thiếu gì con gái đẹp) lại xúc động, mê say một người con gái Thượng xứ bụi mù. Không biết ai đã từng đến Pleiku, và đã từng “uống” cà phê Hoàng Lan (1970). Xin xẻ chia chút tâm tình này. Trên bốn mươi năm. Bây giờ vẫn nhớ. Còn nữa! Quán bún về đêm, có một “o” xứ Huế. Giọng nằng nặng, êm ái nhẹ nhàng, quyến rũ làm sao. Em chỉ là người làm công chạy bàn mời khách. Vậy mà đêm nào không ghé, không thưởng thức vị bún bò thơm lừng, ăn ớt vào “cay té lưỡi”, nước mắt tuông tràn, thì về nhà không ngủ được (vì đói). Em bé Huế dễ thương ơi! Bây giờ, em ở đâu? Chắc đã chồng con, đã già đi, da mồi tóc bạc? Nếu em còn sống? Dẫu sao, kỷ niệm một thời nơi xứ nắng bụi mưa bùn, cũng còn “một chút gì để nhớ, để thương”...Pleiku, một phố thị nhỏ mà đi không giáp. Đi hoài vẫn còn chổ để đi. Nếu có được một em bên cạnh đi không biết mõi, không biết chán, và thời khắc cũng như ngưng đọng, ngừng trôi. Các em là dân tứ xứ, và các anh cũng từ mọi nẻo về đây. Bọn anh vì “bị đày” mà đến, còn các em do“tự nguyện” mà về. Về đây đi em? Về để bắt gặp và làm quen (cả làm tình) với những tên lính “bụi” như anh. Chắc cũng không phải em ham tiền, ham cao sang danh vọng, hoặc ham làm kiếp “giang hồ” mà là do định mệnh an bày sắp đặt? Mình không tránh được. Cuộc đời lính, kiếp giang hồ, thân phận giống như nhau? Có các em để đời các anh thêm ý nghĩa (dù không trong sạch, chả thanh cao). Nhưng các em cũng đã góp phần, góp sức cho cuộc chiến, cuộc đời. Dở hay. Hay dở? Cứ mặc! Tầm thường hay thánh thiện? Chẳng màng! Chiều Biển Hồ.Một buổi chiều, sau chuyến hành quân về, chờ vự vụ lệnh (thời gian đó, đi phép bằng SVL), đi Sài gòn. Chúng tôi, hai thằng mượn chiếc xe Jeep của chỉ huy phó để đi một vòng phố xá. Nói là chỉ đi dạo phố, chứ thực sự là đi kiếm chổ nào đó để giải khuây.Trời xế chiều, Pleiku vắng ngắt một số đường. Hai đứa vừa đảo một vòng vẫn chưa có ý định đi đâu. Một chiếc xích lô ngược chiều chạy tới. Trên xe hai nàng con gái đẹp mặc áo dài. Trời, mặc áo dài đi dạo phố giữa xế trưa thì không phải là dân địa phương. Tên chạy xích lô cũng điệu, chạy chầm chậm và ngừng lại trước đầu xe Jeep. Tôi dừng xe, bước tới. Hai người đẹp có ý hỏi tìm địa chỉ nhà. Tôi móc ví trả tiền xe. -Xin đừng ngại. Hai cô về đâu tôi…, xin phép, chúng tôi có thể đưa hai cô đi. Tụi tôi chỉ đi chơi, đang rãnh… Một nàng e dè. Nàng kia bước xuống đưa địa chỉ tìm nhà. -Chị em em từ Qui nhơn lên tìm nhà đứa bạn. Địa chỉ này… -Đường Hai Bà Trưng. Cũng không xa mấy! Tụi tôi đưa hai cô đi. Nếu hai cô không ngại. -Sợ phiền các anh! -Không sao. Tụi tôi cũng muốn làm việc nghĩa. Vả lại, rất hân hạnh được các cô cho phép. Thằng bạn nhanh nhẩu tiếp xách cái túi hành trang để vào xe và trịnh trọng mời hai quí nương lên xe yên vị…. Chó ngáp phải ruồi! Buồn ngủ gặp chiếu manh.! Ở đâu mà khiến xui như thế này? Vừa đi, vừa gợi chuyện. Thì ra hai cô giáo lên Pleiku chơi. Cũng muốn tìm biết đây đó một vài nơi xinh đẹp ở xứ bụi mù. Trời còn sớm. Mời hai nàng cùng đi một vòng Pleiku cho biết, và sau đó là ra viếng cảnh biển hồ.Một buổi chiều quá là mộng, là mơ, làm quên đi bao gian khổ chiến trận mấy ngày qua: leo rừng, lội núi. Và quên cả cái sự vụ lệnh đi phép đang chờ. Tôi, thằng bạn, cùng hai người khách bất chợt thật là vui. Hai nàng cũng thành tâm và quyến rủ. Bờ hồ sương giăng lãng đãng. Mặt hồ lăn tăn một ít cơn sóng gợn buổi chiều hôm. Cảnh vật quá mộng, quá thơ, quá hửu tình. Hai thằng lính hành quân về chưa kịp hớt tóc, chưa kịp diện đồ. Bù xù tóc tai, áo quần nhà binh xốc xếch, vẫn không làm suy giảm những ân tình của hai em gái hậu phương – hai cô giáo miền biển mặn, cát vàng khát khao “tình anh lính chiến”.Thêm một đêm, và gần một ngày (hôm sau) với tình yêu thương nồng thắm. “Hai mươi hai” giờ, quả là ý nghĩa, quả là thú vị cuộc đời.Chúng tôi chia tay, hẹn ngày tái ngộ, đưa hai nàng về địa chỉ hai nàng cần tìm. Lưu luyến chia ly, giã từ, hò hẹn…Tôi về, năn nỉ thiếu tá chỉ huy phó gần đứt lưỡi. Ông chỉ giận dỗi một lúc, rồi mọi việc cũng qua. Lên Ban 1 nhận sự vụ lệnh, bay Sài gòn đi tiếp mấy ngày (phép) còn lại. ![]() Tình người bản thương. Làng Pleimrong, cách Pleiku khoảng 30km. Là một buôn làng giàu có thịnh vượng nhất vùng. Có một trại lực lượng đặc biệt (do Đ/úy Báu làm trưởng trại). Hầu hết biệt kích quân là người thượng (khoảng một tiểu đoàn (350-400 quân). Mỗi lần đi hành quân vùng Pleimrong là coi như đi dưỡng sức, vì địch (khi đó:1970) chỉ lẻ tẻ đơn vị nhỏ. Một vùng khá an ninh nhờ đ/u Báu thường xuyên tung quân hành quân lục soát.. Một lần, tôi cùng đơn vị (tiểu đoàn) BKQ/ Tiếp ứng về đó hành quân, các đại đội thì đóng bên ngoài. Tôi, SQ phụ tá Toán A174 (chỉ huy TĐ)/BKQ/TƯ - chỉ theo với nhiệm vụ cố vấn - nên tà tà đi nhìều chổ cho biết. Buồn, không làm gì, đi vào mấy nhà thượng (kiếm những nhà giàu). Sức giàu của một nhà thượng ở đây không thua gì người kinh. Nhà sàn, cây danh mộc, mái ngói. Tài sản có hàng bạc triệu (năm 1970): một đàn bò 5-7 chục con, đàn dê cũng 5-6 chục. Heo lúc nhúc, gà lung tung chạy khắp vườn. Mua một con (gà) lớn nhỏ đều đồng giá. Nếu con nhỏ, sau này cũng lớn vậy thôi, núi rừng nuôi nó (người dân thượng bảo vậy). Vì thế không có chuyện so sánh lớn bé. Có một lần, vào dịp tổng thống Thiệu đến thăm, và ông được dân làng đãi rượu cần. Hai cái “ché” chứa rượu cần dành đãi tổng thống, trị giá 200.000 đồng/cái. Dân làng tổ chức tiếp đón rất rình rang.Nhà giàu, có con gái –thuộc hàng tiểu thơ – không làm gì, thường ở nhà dệt vải. Trông “tiểu thơ” ngồi dệt vải cũng quí phái lắm. Dệt những thứ thổ cẩm (từng miếng vừa vừa dùng làm xà rong, khăn choàng, có thể may áo dài) màu sắc sặc sở rất đẹp. Các nàng cứ lo dệt, dệt trên nhà sàn lót gổ đẹp. “Khách” đến chơi được lịch thiệp chào mời vào nhà. Nói chuyện, các nàng có thể nghe, nói được tiếng kinh (tiếng Việt) nhưng không rành lắm. Như vậy là có thể chọc ghẹo và làm quen. Gặp trai kinh, hầu như mấy nàng cũng thích, tuy hơi e ngại. Ít nói, chỉ hay cưòi. Thân mật, ngồi sát vào nhau, sờ soạn, mó may, không phản đối, có phần như…thích? Ngay cả sờ ngực, sờ vú, hôn hít… Nhưng mà “bắt cái nước” thì tuyệt đối không, trừ khi là chồng nàng. Đó, dễ dãi như vậy đó, mặc tình mà vui chơi, mà thân mật. Sờ ngực khá thú vị, ngực căng cứng, no tròn. Hôn thì mùi hăng hăng như khét nắng. Cũng vì em dễ dãi, em thích. Cũng tại mình ham vui, thích khám phá tìm của lạ. Chứ không ham muốn gì đâu. Gái thượng mà không lai (lai Pháp) thì không thấy gì là đẹp. Xin lỗi nha! Nhưng tiến xa hơn nữa, hoặc sàm sở thì… coi chừng. Có thể bị mét (báo cáo), bị thưa vì có thái độ xấu xa. Tới tai ông tỉnh trưởng Đ/tá Yaba là rắc rối. Đ/tá Yaba rất uy quyền, rất có uy tín, được toàn dân thượng tin yêu. Ông bảo vệ người thượng, rất thẳng thắng với quân đội kinh (nếu có hành vi sai phạm). Còn nhớ, có một lần đi chơi, thăm mấy nữ nhân viên (kinh) ở tòa hành chánh tỉnh, tôi đậu xe nhằm “parking” của ông (tại tòa tỉnh trưởng, vì thiếu chổ đậu) bị ghi số xe, phù hiệu đơn vị, báo về Đ/tá Can (chỉ huy trưởng C2/LLĐB). Tôi bị kêu lên, ông la cho một trận, thiếu điều ký củ.Con gái thượng, con nhà giàu cũng khá là nết na chững chạc - nết na mà vẫn cho sờ mó? - Thấy trai kinh dường như thích (nhất là sĩ quan trẻ tuổi) nhưng dè dặt, cẫn thận. Thích thì thích nhưng khó mà rủ đi chơi riêng lẻ. Không biết có phải khó khăn gia đình? Tuy nhiên, đến chơi, ngồi bên nhau, chọc ghẹo, cha mẹ thấy, chẳng nói gì. Không biết họ bằng lòng hay vì sợ mà không nói?Thú vị nhất là ra rình xem tắm suối. Buổi trưa, không làm gì, tôi cùng một vài đứa rủ ra mé suối lén rình đàn bà con gái thượng tắm. Tắm có hai bến tắm: đàn ông tắm riêng và đàn bà con gái tắm riêng, khoảng cách khá xa. Và phái nữ luôn dành phần phía trên dòng nước chảy. Khi tắm, các ả cứ tự nhiên “thoát y”, lõa lồ thân thể. ![]() Như các nàng tiên. Trửng giởn, liếng thoáng, đùa cợt, té nước, chạy quanh…Cả một đám thân thể trần truồng. mặc sức mà rình xem cho đã mắt. Bất thần đứng dậy. Thấy có người, mẹ con chí chóe la lối, vụt chạy, quơ đồ đạc khăn áo che vào thân, tỏ ra hốt hoảng. Một lần bị như vậy coi như bến tắm phải bỏ đi. Tìm bến khác. Rình xem con gái thượng tắm rất vui, nhưng mà phải kín đáo và cẫn thận. Bị báo cáo, bị thưa là khốn. Ký củ và đổ đi chổ khác như chơi.Người thượng khá chân thật, rất tình người. Ít ranh ma, xảo trá. Trừ khi họ được chung sống nhìều với người kinh. Thời VNCH, dân tộc người thượng được luật pháp bảo vệ, lại có phần được ưu đãi nhiều thứ. Cũng nhằm mục đích lấy lòng để mua chuột, cai trị?Đến với họ, quen thân với người thượng cần nên giữ ý dè chừng. Tránh lợi dụng, tránh ma mảnh, lừa dối, gạt gẫm, hãm hại, nhất là lãnh vực tình cảm yêu thương. Người con gái thượng khi yêu rất thật, cho bằng cả lòng tin. Tuy nhiên, gạt gẫm, dối lừa, chơi qua rồi bỏ. Hậu quả khôn lường (cả vật chất lãn tinh thần). Nghe nói người thượng có biệt tài “thư”. Đối với ai gạt lừa bội phản. Thư một đống đá sỏi, da trâu trong bụng, cho bỏ thói Sở Khanh phản trắc lưu manh. Nghe nói thôi, chưa có dịp thấy.Ché rượu cần Làng Pleikép, cách thị xã Pleiku khoảng 10 km. Một làng được người Mỹ (qua VN giới thiệu yêu cầu) giúp vật liệu xây dựng nhà cửa, mọi thứ tiện nghi cho toàn thể dân làng. Đúng ra, Pleikép chỉ là một ấp.Một bữa, xây cất xong, tổ chức lễ khánh thành, mời “ân nhân” BCH/B17/LLĐB (Mỹ lẫn Việt). Chỉ huy trưởng đi công tác. Đáng lẻ chỉ huy phó đi, thiếu tá Quỳnh (CHP) kêu tôi (là trưởng Ban CTCT) đi thế.Một buổi tiếp đón khá trọng thể, Hai dãy thức ăn bày thẳng tắp chạy dài. Phía trên là bàn dành cho khách quí (VIP). Thức ăn là thịt dê thui nham nhở, còn sống, máu tuơm . Hai ché rượu cần hai bên. Hai chiếc ghế dành cho thượng khách (trung tá cố vấn Mỹ và tôi). Hai dãy người dân hai bên đông đúc. Mọi người vổ tay hoan hô mừng đón, chờ đợi khai mạc. Tr/tá Mỹ chào. Tôi chào. Hai tên đứng hai bên khá trịnh trọng, mỗi người dùng chiếc khăn trắng nắm cần câu (cần uống ruợu), lau, ngậm miệng nút cho ruợu ra. Xong, lau lại và hai tay cung kính đưa sang cố vấn Mỹ và tôi, mỗi người ngồi nút một cần. Phải uống cạn một “can” (theo nghi thức). Cái miệng ché rộng cở gang tay đầy nước tới miệng ché. Một thanh gác ngang, ở giữa là một que dính liền dài khoảng 2,5cm nằm trong nước hướng mủi xuống dưới. Nút (uống) ruợu (từ dưới đáy), nước trên miệng dực xuống, dực đến khi đầu que lên phía trên mặt nước, là một “can”. Dung lượng rượu có thể gần cả lít. Hai hàng người dân phía dưới đứng chờ. Thỉnh thoảng vổ tay tán thưởng. Tôi nâng chiếc cần nút. Từng giọt rượu nồng tuông chảy vào miệng, ngòn ngọt, thơm thơm, cũng dể uống. Tuy nhiên, càng uống, cơ thể nóng bừng. Chất rượu lan khắp cơ thể. Bên kia tên Mỹ cũng cố mà nút. Anh ta ngưng và tôi bên này, chiếc que cũng đã lộ ra trên mặt nước. Cơ thể đã nóng và đầu óc hơi choáng váng. Một tràng pháo tay vang dậy. Và hai tên “hầu cận” lại đổ thêm nước vào, lên đầy miệng ché. Kính mời nhị vị cạn thêm “can” nữa. Trời đất! Như vậy là nghi thức phải uống hai “can”. Bụng tôi đã sắp no phình. Tứ chi gần bủng rủng. Tên Tr/tá cố vấn Mỹ nút, và tôi cũng nút. “Bá quan văn võ” đứng dưới tiếp tục chờ. Cạn thêm ½ can, tôi gần muốn ngã. Đầu óc nóng bừng. Tên Mỹ vừa xong. Còn tôi. Chết bỏ cũng phải ráng cho cạn, dầu rằng uống không muốn nổi nữa. Vì thể diện, vì danh dự, tôi cố nút. Và sau cùng cũng cạn. Vổ tay vang dậy, mọi người xúm vào uống và ăn. Tôi được chuyền đưa cái nĩa với miếng thịt dê tươm máu. Đón nhận và cắn một cái, tôi lợm giọng, muốn ói. Phải ráng mà dằn. Để miếng thịt xuống, tôi ra dấu “người bạn đồng hành” (cố vấn Mỹ) xin kiếu. Tên Mỹ đứng dậy chào giã từ. Tôi cũng chào và từ giã bước ra. Lạng quạng, muốn ngã. Tên tài xế dìu tôi ra xe. Vừa lên xe, chạy ra chưa khỏi cổng là tôi ói. Ói tơi tả, ói dài dài về tới cổng trại. Đầu óc như muốn bể tung, nhức buốc. Ai đưa về phòng tôi cũng không nhớ. Miên mang, dã dượi, suốt một đêm và gần cả một ngày. Chiều đến, tạm tỉnh, thiếu tá Quỳnh chỉ huy phó đến thăm. Động viên khen ngợi: -Cậu đở chưa? Kể ra cũng không phải mất mặt. Ói trên xe, ói dọc đường không ai biết. Tham dự buổi lễ thành công. Cám ơn cậu. Một lần, cho biết. Tởn tới già. Sau này nghe nói đến rượu cần, tôi phát sợ.Thật sự, rượu cần ngon. Có lẻ rượu đãi khách quí, người thượng họ làm chất liệu ngon, tốt. Lại nước rượu đầu tiên, nguyên chất. Uống ngòn ngọt, thơm thơm, nồng nàng hương vị. Cũng là thứ rượu ngon. Ngon không thua gì rượu đậu nành, rượu nếp than, rượu đế. Cũng là “quốc tửu”. Hân hạnh lắm thay!...Cuộc đời binh ngiệp, trãi bao năm, tôi đã đi, đến khá nhiều nơi, nhiều chổ: đồng bằng, biển cả, núi rừng… qua bao nhiêu miền đất nước, quê hương. Pleiku vẫn là nơi đáng nhớ.Vùng cao nguyên đất đỏ: nắng bụi mưa bùn. Nghe qua, ai cũng ngại, cũng sợ, không muốn đến. Nhưng đã đến rồi, vẫn thấy luyến, thấy thương – Thương đất nước, thương tình người, thương cảnh vật. Trước đây, thời giặc giã chiến tranh là vậy. Bây giờ không biết sao? Viết về Pleiku, viết để nhớ về kỷ niệm. Và những ai, đã một lần đến Pleiku, xin cùng nhau chia xẻ chút nỗi niềm. Tháng tư/11– Ng. Dân. ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() Pleiku còn mãi... Pleiku nắng bụi mưa sình, Nhưng em vẫn đẹp như tình đôi ta. Cao nguyên vùng đất hiền hòa, Ra đi thì nhớ về nhà thì thương. Thương em sương khói chiều buông, Thương tà áo trắng trinh nguyên tóc thề. Loanh quanh khu phố một vòng, Đi dăm ba phút đã vòng thứ hai. Vậy mà cứ muốn đi hoài, Để mong tìm lại hình hài trong mơ. Cô em má đỏ môi hồng, Quanh năm áo ấm chẳng rời vai em. Cảm ơn đời đã có em, Để ta còn nhớ còn thương em hoài... GoldPig. -------------------- mm
|
|
|
![]() ![]()
Post
#100
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 2,769 Joined: 9-September 10 Member No.: 15,235 Country ![]() ![]() |
![]() ĐƯỜNG LÊN PLEIKU Phố núi cao, phố núi đầy sương ... Về Tây Nguyên một sớm thu ươm nắng Chuyến lữ hành tôi tìm lại Pleiku Vẫn núi cao, mây trắng phủ đôi bờ Ven hồ Lak dạ quì lung linh nắng. Thung lũng mía, nương trà, trong buôn vắng Áo thổ cầm thấp thoáng dáng em đi Bẽn lẽn nhẹ nhàng, cô gái Ê-đê Trong vũ điệu tiếng cồng ru điệu hát Ngọn lửa hồng soi long lanh ánh mắt Chút rượu cần lữ khách ngả men say; Đêm lạnh Pleiku tôi ở lại đây Ôn dĩ vãng những ngày xưa năm cũ ... Nguyễn Hải- Bình Mang Đen, Tây Nguyên – 11/2010 ![]() Dầu anh đi về đâu, nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết: anh về từ “miền đất đỏ bụi mù” Pleiku, phố núi. Dấu giày in phố núi - Bước chân anh lấm bụi hồng - Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng - Lê gót phong trần, anh một thuở dừng chân. ![]() ![]() PLEIKU CỦA ANH. ( Cảm tác từ bài viết "Pleiku nắng buị mưa bùn" của Nguyễn Dân và những hình ảnh về Pleiku của Hoa Phạm). Pleiku của anh những ngày nắng bụi, Trên con đường dài vắng chuyến xe qua, Đường đất hoang sơ không phố, không nhà, Chỉ có trời mây, hàng cây rất thấp. Bụi Pleiku, bụi một màu đỏ gạch, Anh đi qua thị trấn buồn ngẩn ngơ, Chiều chơi vơi sương mù mịt biển hồ, Hồ không đáy? nước không bao giờ cạn. Anh lính mới, vừa về vùng lửa đạn, Đóng quân ở đây phố lạ, người dưng, Thành Pleime heo hút gío xa xăm, Phi trường Cù Hanh, ai đi ai đến? Những ngày Pleiku mưa dầm rả rích, Thị trấn buồn ảm đạm ngủ trong mưa, Mới hôm qua nắng gío cuốn bụi mờ, Hôm nay đường phố mưa bùn tội nghiệp. Anh lính trẻ lang thang trong phố ướt, Qua mái hiên che, qua vũng nước buồn, Chiếc xe nhà binh đậu ở ven đường, Người ta sống giữa chiến tranh và chết chóc. Pleiku phố nhỏ, những con đường ngắn, Đầu đường cuối đường không đủ mỏi chân, Đường Hoàng Diệu anh qua đã bao lần? Bụi đất đỏ theo anh về quen thuộc. Bụi theo anh đường hành quân xuôi ngược, Thôn xóm xác xơ hay những buôn làng, Cô gái Ê Đê thấp thóang nhà sàn, Anh mơ một đêm rượu cần chếnh chóang. Pleiku của anh một thời chinh chiến, Đi đâu về đâu vẫn nhớ nơi này, Ai trách Pleiku tẻ nhạt, lưu đầy? Ai lưu luyến khi chia tay phố núi? Đầu sóng ngọn gío anh còn ở lại, Trận địa Pleiku có lúc kinh hoàng, Vẫn yếu mềm ngơ ngẩn một dáng em, Sống và chết, Tình yêu và nỗi nhớ. Bao nhiêu năm, bao mùa rừng thay lá, Bụi thời gian không che khuất bụi đường, Vẫn còn trong anh nắng bụi mưa bùn, Thành phố núi một góc đời trai trẻ. Nguyễn Thị Thanh Dương ( April, 2011) ![]() -------------------- mm
|
|
|
![]() ![]()
Post
#101
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 5,513 Joined: 22-September 09 Member No.: 5,173 Age: 54 Country ![]() ![]() |
![]() Phong tục Kontum: Đón người tới, không tiễn người đi Gia Lai – Cuối thánh lễ đại trào tại Trung tâm truyền giáo Pleichuet, sáng 11.09.2011, Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, giám mục Kontum đã cám ơn sự viếng thăm và mang tình yêu Đức giáo hoàng đến với dân lương giáo Tây Nguyên Kontum của Đức TGM Leopoldo Girelli. Trong lời cám ơn, Đức cha Micae đã nhắc đến phong tục “nắm cơm đi đường” của người Jarai gói cho khách, để nhắc khách mau trở lại. “Theo tinh thần anh em dân tộc chúng con là chỉ có nghi thức đón Đức Tổng chứ không có nghi thức tiễn Đức Tổng, lý do là bởi Đức Tổng đã trở thành thành phần trong gia đình Kontum chúng con”. Đó là lời tâm sự của Đức cha Micael Giám mục Giáo phận Kontum tại trung tâm truyền giáo Pleichuet do các tu sĩ linh mục DCCT đảm trách, trong giờ chia tay và chấm dứt chuyến viếng thăm mục vụ giáo phận Kontum của Đức TGM Leopoldo Girelli, đại diện Tòa thánh Vatican không thường trú tại Việt Nam. Trung tâm truyền giáo Pleichuet đã rộn ràng từ ngày hôm trước, các tín hữu đồng bào Jarai ở khắp nơi bồng bế nhau đổ về trung tâm Pleichuet để chờ đón Đức sứ thần. Theo lời tâm sự của những anh em Jarai thì có làng cách xa 40-50km, có người đi xe gắn máy, có người đi bằng xe công nông, lại có những người phải dắt nhau đi bộ từ 2 giờ sáng đến trưa mới tới. “Tuy mệt nhưng vui lắm!” Một cụ già bộc bạch. Các đội ching chiêng và các điệu múa mang đậm bản sắc dân tộc đã được chuẩn bị cho buổi diễn nguyện chào đón Đức sứ thần. Từ 19:00 ngày 10.09.2011 tại sân nhà thờ Pleichuet đã diễn ra một buổi diễn nguyện thật trang nghiêm. Xung quanh ánh lửa bập bùng, các điệu múa truyền thống được diễn ra theo nhịp ching chiêng, cùng đông đảo người con dân tộc bao quanh người cha hiền. Những điệu múa và nhạc truyền thống ấy đã nói thay lời cho những tấm lòng kính yêu của những người con Jarai gửi gấm đến Đức TGM và qua Đức Tổng gửi đến Đức thánh cha Bênêđictô XVI. Sau buổi diễn nguyện ấy, vì sự thiếu nhiệt tình của chính quyền Gia Lai nên các ngài phải về lại tòa Giám mục Kontum để nghỉ đêm. Tờ mờ sáng ngày 11.09.2011 tại trung tâm Pleichuet đã chật ních, giáo dân khắp nơi đã tề tựu. Thánh lễ đại trào được cử hành lúc 5 giờ 30 phút tại nhà thờ Pleichuet. Đây cũng là Thánh lễ cuối cùng trong chuyến viếng thăm của Đức Khâm sứ tại Giáo phận Kontum. Trước khi kết thúc Thánh lễ Đức cha Micael đã chia sẻ hết tâm tình và ước vọng của ngài và toàn dân Chúa trong Giáo phận, ngài nói: “Sự hiện diện của Đức Tổng là một ân huệ. Qua Đức Tổng cho chúng con gửi lời cám ơn đến Đức Thánh cha Bênêđictô XVI, để ngài thấy lòng biết ơn và yêu mến của chúng con, và chúng con hứa luôn luôn trung thành với mẹ Hội thánh cách đặc biệt với Đức Thánh cha. Cách riêng chúng con cám ơn Đức tổng trong suốt những ngày này đã ở với chúng con và đã đến với đoàn chiên ở vùng sâu vùng xa của chúng con. Thưa Đức Tổng, anh em chúng con hiện diện nơi đây là có những người cách đây 40-50km, họ phải tới đây từ đêm hôm trước bằng xe hoặc đi bộ, và còn nhiều anh em khác nữa ở vùng sâu vùng xa không thể đến được, nhưng họ vẫn hiệp lòng với chúng con trong những ngày qua để hướng tới Đức Tổng và qua Đức Tổng tới Đức Thánh cha. Những nơi Đức Tổng tới chẳng qua là hãy còn bên cạnh đường quốc lộ, còn rất nhiều những nơi khác nữa, vấn đề đi lại rất khó khăn, hằng năm họ chỉ gặp chúng con được một hai lần, có khi chẳng gặp được lần nào cho đến giờ phút này. Những anh em đó trong suốt mấy chục năm qua, mặc dù không linh mục, không tu sĩ nhưng nhờ ơn Chúa những anh em đó vẫn hiên ngang sống niềm tin của mình, và sống xứng đáng là người Kitô hữu trong xã hội mới hôm nay. Đặc biệt thay mặt những anh em đó, giờ đây con xin dâng lên Đức Tổng tâm tình biết ơn, lòng yêu mến Đức Tổng và qua Đức Tổng tới Đức Thánh cha”. Đức cha Micael đã bầy tỏ lòng yêu quí và khát khao của đoàn chiên Chúa trong giáo phận, đã đến với Đức Tổng và Đức Tổng cũng không có giờ nghỉ ngơi, mặc dù theo chương trình thì hôm nay Chúa nhật là ngày nghỉ ngơi của Đức sứ thần. Đức cha Micael nói tiếp: “Theo chương trình của Đức Tổng giám mục Huế thì hôm nay là ngày nghỉ ngơi của Đức Tổng, do đó chúng con không dám lạm dụng thêm thời giờ của Đức Tổng. Chúng con xin mượn thời gian cuối Lễ này coi như là nghi lễ cám ơn Đức Tổng và cũng là chấm dứt cuộc hành trình chính thức của Đức tổng viếng thăm giáo phận chúng con. Theo tinh thần và tập tục của anh chị em dân tộc chúng con là có nghi thức đón chứ không có nghi thức tiễn Đức Tổng, lý do là bởi Đức Tổng đã trở thành thành phần trong gia đình Kontum chúng con. Đức Tổng đã vui vẻ nhận hai chiếc còng này với tấm áo Apanh, hai cái đó là biểu tượng cho Đức Tổng đã nhận giáo phận này làm giáo phận của Đức Tổng, và Đức Tổng đã nhận chúng con là con cái của Đức Tổng. Đức Tổng đã kết ước với chúng con qua việc Đức Tổng đã nhận cái khăn, cái khăn đó là để người mẹ địu con, nâng đỡ con, nuôi dưỡng con và chăm sóc cho con. Cho nên Đức Tổng đã trở thành người cha của chúng con và vì thế Đức Tổng đã gắn bó, có trách nhiệm để cầu nguyện và chăm lo cho chúng con, bởi vậy chúng con không có tiễn Đức Tổng ra khỏi địa phận của chúng con. Vì thế với gói thức ăn tượng trưng mà chúng con dâng cho Đức Tổng để Đức Tổng đi đường, khi nào hết thì xin ĐứcTổng quay trở lại với chúng con. Giờ đây chúng con cũng xin nói lên điều mà Đức Tổng hằng quan tâm trong chuyến viếng thăm này, về mối quan hệ giữa Giáo hội địa phương và chính quyền địa phương. Con đã thưa với Đức Tổng và giờ đây công khai trước mặt cộng đoàn, cũng như con đã nói với chính quyền Kontum và Gialai nhiều lần. Giữa Giáo hội và chính quyền có những khó khăn nhất định của lịch sử để lại. Nhưng với niềm tin của người Công giáo, chúng con thống nhất mến Chúa yêu người là một. Cho nên chúng con đã, đang và sẽ dùng sự quan hệ, thông cảm, trao đổi, bàn bạc với nhau trong tình nghĩa anh em dân tộc để giải quyết mọi khó khăn. Con đã nói với quí vị chính quyền từ trung ương cho tới địa phương rằng, hãy nhìn vào cuộc sống của anh em linh mục, giám mục cũng như là tu sĩ, giáo dân trong địa phận này, quí vị cũng phải xác nhận rằng chúng tôi những người Công giáo trên vùng Tây nguyên này là những người yêu nước, và có thể nói rằng không chịu thua bất cứ ai cả. Và như thế xin Đức Tổng an tâm, chúng con sẽ giữ mối quan hệ ngày càng tốt đẹp hơn giữa Giáo hội và chính quyền địa phương như chúng con đã làm và đang làm. Sau cùng chúng con kính chúc Đức Tổng tiếp tục cuộc hành trình được tốt đẹp. Xin Đức Tổng chuyển lên Đức Thánh cha những lời cầu chúc, cám ơn và lòng biết ơn chân thành của chúng con. Chúng con mong rằng Đức Thánh cha sẽ có dịp viếng thăm Việt Nam sớm nhất có thể, và khi thăm Giáo hội Việt Nam thì chúng con cũng hy vọng rằng Đức Thánh cha cũng sẽ lên thăm miền truyền giáo Tây nguyên của chúng con. Chúng con xin hết lòng cám ơn”. Fx75. VRNs Tường trình và ghi lại từ Gia Lai Nguồn: VRNs -------------------- Trăn trở
|
|
|
![]() ![]()
Post
#102
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 5,513 Joined: 22-September 09 Member No.: 5,173 Age: 54 Country ![]() ![]() |
![]() Vườn cà phê Việt Nam. (Hình: báo Tiền Phong) Trung Quốc lấy mất nhãn hiệu 'cà phê Buôn Ma Thuột' VIỆT NAM (TH) - Chuyện xảy ra hai năm về trước, giờ đây các viên chức Hiệp Hội Cà Phê và chính quyền tỉnh Ðắc Lắc mới la hoảng “đã bị một công ty Trung Quốc lấy mất thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột.” “Sẽ kiện để đòi lại,” đó là tuyên bố của ông Chủ Tịch Hiệp Hội Cà Phê-Ca Cao Việt Nam VICOFA Lương Văn Tự, sáng 15 tháng 9, với báo Sài Gòn Tiếp Thị. Ông này cũng cho hay sẽ phối hợp với chính quyền tỉnh Ðắc Lắc đâm đơn kiện một công ty Trung Quốc chiếm đoạt “chỉ dẫn địa lý” cà phê Buôn Ma Thuột. Ông Tự còn xác định rằng tỉnh Ðắc Lắc đã được Cục Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam cấp riêng “chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột” từ năm 2010. Ông Tự cũng cho biết sẽ gửi hồ sơ đến sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc để yêu cầu can thiệp. Theo VNE, giới thương gia xuất cảng cà phê Việt Nam đang “ngồi đứng không yên” trước tin thương hiệu “cà phê Buôn Ma Thuột” đã trở thành nhãn hiệu độc quyền của “Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co. Ltd, “ - một công ty Trung Quốc đã ghi danh bảo hộ độc quyền trong vòng 10 năm tại nước này. Báo Sài Gòn Tiếp Thị còn tiết lộ tin sự kiện này đã được ông Ðinh Văn Khiết, phó chủ tịch chính quyền tỉnh Ðắc Lắc biết trước cách nay 2 năm tại Sài Gòn. Lúc đó, ông này đã cầm trong tay một tấm danh thiếp của một công ty Trung Quốc có trụ sở tại Quảng Châu và Quảng Ðông mang tên “Buôn Ma Thuột Coffee.” Cũng cảm thấy bất ngờ, ông Khiết thuật lại sự việc cho một viên chức của Hiệp Hội Cà Phê Buôn Ma Thuột biết. Tuy nhiên, hầu như không ai thèm để ý và để sự việc này đi dần vào quên lãng. Sự kiện này chỉ trở nên nóng bỏng khi nhiều đơn vị nhao nhao cảnh cáo về việc bảo hộ quyền sở hữu nhãn hiệu thương mại. Theo ông Lê Quang Vinh, giám đốc Phòng Sở Hữu Trí Tuệ của Công ty Bross & Partners, thương hiệu cà phê Việt Nam bị công ty ngoại quốc giành bảo hộ độc quyền là điều hết sức nguy hiểm. ![]() Giấy chứng nhận bảo hộ độc quyền thương hiệu “cà phê Buôn Ma Thuột” của công ty Trung Quốc. (Hình: VNE) Theo ông, cà phê Việt Nam đặc biệt là cà phê mang thương hiệu Buôn Ma Thuột sẽ bị ngăn chận trên đường xuất cảng và có thể bị kiện vì vi phạm luật độc quyền nhãn hiệu của công ty Trung Quốc nói trên. Ðiều này còn có ý nghĩa là cà phê Buôn Ma Thuột chính gốc sẽ không được xuất cảng sang Trung Quốc. Nguy hiểm hơn, người tiêu thụ trên thế giới không thể phân biệt đâu là cà phê Buôn Ma Thuột thật và đâu là cà phê Buôn Ma Thuột giả ở thị trường. Trong dịp này, ông Cục Trưởng Cục Sở Hữu Trí Tuệ thuộc Bộ Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam Trần Việt Hùng còn cho biết, trước đây đã có công ty Trung Quốc giành độc quyền nhãn hiệu kẹo dừa Bến Tre. Các thương gia tỉnh Bến Tre khởi kiện và trầy trật lắm mới giành lại thương hiệu chính gốc của “xứ mình.” Theo VNE, Buôn Ma Thuột là “thánh địa” cà phê Việt Nam với sản lượng hàng năm khoảng 300,000 tấn, chiếm 30% sản lượng cả nước, được xuất cảng đến 60 quốc gia toàn cầu. -------------------- Trăn trở
|
|
|
![]() ![]()
Post
#103
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,094 Joined: 19-July 09 Member No.: 4,047 Country ![]() ![]() |
![]() Kiếp Nào Yêu Nhau Mùa hè 1972, Quang cùng đơn vị lên Pleiku yểm trợ chiến trường Tây Nguyên theo kế hoạch hành quân của quân đoàn. Ban chỉ huy đóng ngay bên cạnh bộ tư lệnh, ngoài giờ làm việc cũng như những lúc không bận công tác khẩn cấp, Quang gần như có mặt thường xuyên ngoài phố, từ các nhà hàng phòng trà đến quán café, bia rượu. Chuyên viên ngành tiếp vận nhưng Quang thường kết thân với tất cả anh em đủ binh chủng đến tăng phái cũng như về dưỡng quân sau thời gian dài hành quân từ vùng tam biên. Quang yêu Pleiku hơn Đà lạt. Thủ đô lính với những đường dốc bùn lầy đất đỏ, phố xá thô sơ nghèo nàn nhưng thật ấm cúng, thiết tha, sâu đậm và thiêng liêng như tình yêu quê mẹ đối với bất cứ những ai đã một lần ghé qua. Thành phố nhỏ, quanh quẩn chỉ vài con đường ngắn, đi dăm phút đã về chốn cũ, nhưng quyến rũ với những quán ăn, quán bia phòng trà mang hình ảnh lính ồn ào náo nhiệt nhưng thật hiền hòa như tình người địa phương. Cuộc sống bình thản không vội vã, không hoảng sợ, mặc dù các trận đụng độ ác liệt đang sát bên cạnh và pháo địch thường xuyên rót vào khu vực phi trường nằm kế cận trung tâm thành phố. Ở đây người dân xem hình ảnh chiến tranh như một cái gì gần gũi quen thuộc trong đời sống hằng ngày. Họ mở rộng vòng tay chào đón các đoàn quân vội vã đi ngang, đôi lúc dừng lại vài giây lát ăn vội bữa cơm, uống ly café nóng hay chỉ kịp mua gói thuốc rồi tiếp tục lên đường. Trời về chiều sương mù phủ xuống thành phố một màu trắng nhạt trông trời đất như đang quyện vào nhau, phố xá thưa dần bước chân, sinh hoạt còn lại là những quán ăn náo nhiệt, phòng trà ấm cúng và những quán café trữ tình là nơi tiếp tục mở cửa để sưởi ấm những chiến binh trở về từ mặt trận, tìm quên mệt mỏi, trút bỏ đau thương và xóa tan những hình ảnh chết chóc. Pleiku đất đỏ sương mù không có gì quyến rũ nhưng bất cứ người nào đã rời khỏi nơi đây đều mang theo trong lòng những kỷ niệm sâu đậm, phải chăng là nhờ phố xá không xa nên phố tình thâm hay những nàng thiếu nữ da trắng, má đỏ môi hồng, tóc em uớt và mắt em ướt nên em mềm như mây chiều đông đã trói chặt bước chân người lãng tử. Pleiku, thành phố lính, thành phố của những chàng trai khoác áo chiến binh một khi rời khỏi đây đều vương vấn một mối tình. Quang cũng không thoát khỏi thường tình của một chàng trai hai mươi lăm tuổi. Từ khi gặp được hai người bạn, Quang không còn lang thang những ngày cuối tuần, chàng tìm đến với Yên và Phúc, cả hai đang dạy ban văn chương tại trường trung học. Phúc, một thi sĩ nổi tiếng, thường tổ chức những buổi đọc thơ cuối tuần và trong dịp nầy, ánh mắt của một nữ sinh ban văn chương đã hớp hồn chàng ngay trong buổi đầu gặp gỡ. Yên và Phúc cho biết, nàng tên Dung, con của một công chức cao cấp của tỉnh. Dung ngây thơ, trong sáng với mái tóc dài phủ xuống lưng, làn da trắng như tuyết, mắt nâu màu hạt dẻ mở lớn, ngơ ngác như nai, đôi gò má núm đồng tiền lúc nào cũng đỏ ửng và làn môi hồng cười lộ đôi hàm răng trắng Nàng lãng mạng yêu thơ, thích nhạc, cởi mở, nhưng nàng trong sáng quá. Đã là bạn với Yên và Phúc xem như đứng vào hàng thầy cô hoặc chú bác. Đời binh nghiệp, khoác chiếc áo trận nay đây mai đó, trên lưng vỏn vẹn chiến balô, cuộc sống bấp bênh chưa biết thương tật sống chết bất chợt đến giờ nào, nhiều lần tự vấn lương tâm nhưng Quang không thể tiến tới dù biết Dung có thể ngã vào vòng tay Quang một khi chàng tỏ tình. Chàng đành ôm mối tình câm và hy vọng một ngày nào đó Ngày được lệnh di tản, thu xếp xong công việc Quang vội vã đến đón Dung đi theo đoàn xe đơn vị rời Pleiku chạy xuống Quy Nhơn, nhưng đã trễ, gia đình đã tự túc khởi hành từ lúc sáng sớm. Từ đó Quang mất hẳn liên lạc với Dung, cho đến mùa thu năm 1978 Quang gặp lại nàng trong trại tỵ nạn ở Mã lai. Đến lúc nầy Quang mới biết mặt cha mẹ Dung và người em gái, cả nhà đối xử thật tốt với Quang nhưng đối với nàng hình như đang bị một cái gì ngăn trở. Trao đổi bình thường Dung rất nhiệt tình nhưng khi đề cập đến vấn đề tình cảm thì nàng lẩn tránh và không bao giờ cho biết rõ lý do. Chừng sáu tháng sau, Quang được tòa lãnh sự Mỹ cấp giấy nhập cảnh, lúc đến chào từ giã lần đầu tiên Dung ngã vào người Quang nức nở khóc. Quang vỗ về an ủi và hứa qua đến Mỹ sẽ tìm đủ mọi cách để sống gần nhau. Nhưng Dung chỉ lắc đầu từ chối và không một lời giải thích gì thêm. Dung không trả lời Quang mặc dù Dung đã nhận được gần hai chục lá thư kể từ lúc Quang đặt chân lên đất Mỹ và sau đó cắt hẳn liên lạc với Quang khi gia đình nàng lên đường định cư tại một nước thứ ba. *** Sau ba năm vừa làm vừa học, Quang ra trường với mảnh bằng kỹ sư vi tính và ổn định ngay với một chức vụ quan trọng trong công ty phần mềm của người Mỹ. Sau đó một năm Quang kết hôn với Chi, con gái út của một gia đình nổi tiếng giàu có từ trước, đến định cư giữa năm 1975. Chi tốt nghiệp ngành địa ốc và được gia đình giúp vốn để mở một văn phòng lớn tại quận Cam. Một cặp vợ chồng thật lý tưởng và xứng đôi, Quang đẹp trai, cao lương và được xã hội ưu đãi. Chi điều hành một hoạt động hái ra tiền một cách dễ dàng. Họ có đời sống vật chất thật cao, hai ngôi nhà đáng giá cả triệu, vợ chồng mỗi người một chiếc xe đua, chi tiêu không bao giờ tính toán đến tiền bạc. Hai người kết hôn đã lâu nhưng vẫn chưa có con. Có lần Quang đưa Chi đến một bệnh viện chuyên nghiệp sản khoa, ở đây bác sĩ cho biết họ cần một thời gian theo dõi để biết nguyên nhân từ người vợ hay do người chồng. Nghe qua, hai người đều cho rằng con cái chưa quan trọng trong lúc nầy đối với một cặp vợ chồng trẻ, hơn nữa họ đang cần thời giờ dành cho việc kiếm tiền quá dễ dàng và nhanh chóng. Nhìn bên ngoài đôi vợ chồng sống thật đầm ấm hạnh phúc, nhưng đi sâu vào đời sống riêng tư, cũng như gia đình khác, vẫn có những khúc mắc thầm kín. Chi, con người của thực tế, suốt ngày chỉ có con số, tính toán lúc nào cũng nằm sẵn trong đầu. Quang thì thờ ơ với tiền bạc, thường lái câu chuyện qua thơ văn mỗi khi chuyện trò với vợ. Do đó đối thoại giữa hai người thường đi vào bế tắc. Vì tôn trọng đời sống riêng tư của nhau, sau bữa cơm tối, vợ theo dõi báo chí, thị trường địa ốc, tin tức vật giá trong ngày. Quang một mình đọc sách nghe nhạc, đến chừng mệt mỏi hai người vào phòng thì giấc ngủ giờ đó quyến rũ hơn những vấn đề khác. Hai người đều quên rằng việc ái ân giữa vợ chồng cũng đòi hỏi có sự hòa hợp, hai người phải tạo cơ hội và khuyến khích lẫn nhau để đi đến tận cùng của yêu đương. Không thể một người sẵn sàng trong lúc người kia chưa chuẩn bị.. Những trục trặc nho nhỏ đưa dần đến sự lạnh nhạt hay nhàm chán cuối cùng đi đến quên lãng bổn phận vợ chồng. Bận công việc, bận xem sách đọc báo, vào giường ngủ không cùng lúc cùng giờ là những lý do đã tách rời đời sống vợ chồng Quang. Từ chỗ không hòa hợp trong nhiều khía cạnh, việc gối chăn từ đó vắng dần nhưng hai người vẫn một mực yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Giữa hai vợ chồng chưa bao giờ lớn tiếng về bất cứ một bất đồng nhỏ nào nhưng những khác biệt trong cuộc sống thường nhật cứ lớn dần trong im lặng. Cho đến một ngày Quang tâm sự với Chi: - Em à, cuộc sống chúng mình đầy đủ, tình yêu hai đứa trọn vẹn nhưng anh vẫn thấy có một cái gì càng ngày càng ngăn cách chúng ta. Chi đáp không suy nghĩ: - Có lẽ đúng vậy, bên ngoài ai cũng ganh với vợ chồng mình đủ mọi phương diện, nhưng giữa chúng ta có thật sự hạnh phúc hay không? Tình yêu thuần túy chưa hẳn là điều kiện chính để tạo hạnh phúc mà phải có sự hòa hợp trong cuộc sống chung đụng giữa vợ chồng. - Anh đồng ý với em nên muốn cùng em hôm nay phân tách để chúng ta cùng tìm một lối thoát. Chi hơi ngạc nhiên: - Lối thoát gì? - Anh nói lối thoát có nhiều khía cạnh: Tổ chức lại cuộc sống, cho ra đời một đứa con, bỏ bớt những đam mê suy tư hay công việc cá nhân để dành nhiều thời giờ cho nhau. Nếu những phương cách trên không thể cứu vãn thì trả lại tự do ban đầu cho nhau. Vài phút suy tư, Chi đặt hỏi lại: - Nghĩa là nếu các giải pháp trên không đưa đến tiến bộ nào trong đời sống riêng tư chúng ta thì ly dị? Quang gật đầu: - Có thể như vậy, để trả lại sự tự do cho nhau còn hơn ràng buộc để gây đau khổ. - Đồng ý với anh. Bây giờ theo ý anh, tổ chức lại cuộc sống như thế nào? Suốt tuần hai đứa đi làm, về đến nhà chỉ còn lại chút thời giờ lo ăn uống rồi chuẩn bị đi ngủ. Cuối tuần đi chợ mua sắm để chuẩn bị cho tuần tới. Nếp sống Mỹ đã vạch cho chúng ta chương trình làm việc, sinh hoạt, ăn ngủ như chiếc máy không thể thay đổi gì được ngoại trừ trường hợp thất nghiệp hay đã nghỉ hưu. - Em có nghĩ chúng ta nên có con? - Em cũng muốn con, nhưng có lẽ chưa phải lúc nầy. Vả lại chưa biết trường hợp của chúng ta thế nào, phải mất một thời gian khám nghiện chữa trị mới biết. Còn phương cách thứ ba? - Đời sống tinh thần rất quan trọng, không thể gạt qua một bên hoặc từ bỏ hẵn trong cuộc sống phàm tục. Mỗi người cần phải có một chí hướng, một đam mê, dù tốt hay xấu, mới thấy cuộc đời mình có ý nghĩa, từ đó họ sẽ ham sống và hăng say trong công việc. Trong cuộc sống lứa đôi, cũng khó buộc người bạn đời của mình phải dứt bỏ đam mê của họ nhất là những đam mê hữu ích và vô hại. Chi lơ lửng đặt câu hỏi: - Nếu vậy, ly dị là giải pháp tốt nhất? - Có thể như vậy, có nhiều lý do và hình thức ly dị đặc biệt cho mình. - Lý do? - Vì hai đứa mình vẫn thương yêu và kính trọng nhau, ly dị để trả lại, có thể tạm thời, tự do cho nhau. - Sao gọi là tạm thời? - Anh nghĩ rằng có thể một ngày nào đó, khi chim mỏi cánh hoặc hai đứa đều nhận thấy sự cần thiết của nhau trong đời thì " châu về hiệp phố ". - Cũng có nghĩa là tình yêu cũng như thể xác con người, cần nghỉ hè để lấy lại thăng bằng hay tân trang vô dầu mở kiểm tra kỹ thuật như cái máy? Quang cười lớn: - Gián đoạn công vụ thì đúng hơn. - Anh nghĩ thế nào cũng được, nhưng tại sao quan niệm như vậy? - Tình yêu cũng như một món đồ, có thể nhàm chán và bị bỏ quên nhưng một ngày nào đó bắt gặp lại, nó sẽ trở nên mới và quý giá. Con người cũng thế, đã là của riêng và thường xuyên ở sát bên cạnh, đôi khi mình không hoặc chưa biết giá trị thật của người bạn đồng hành. Hai người cần phải cách xa một thời gian và phải va chạm những gì mình hằng mơ tưởng, lúc đó mới thấy được cái đáng yêu và giá trị của những gì mình đã có trong tay mà từ lâu chưa biết hay không biết đến. - Như vậy ý anh muốn tình yêu chúng mình cần phải trải qua một thời gian gián đoạn xem như thời kỳ thử thách mới có thể nhìn thấy giá trị tiềm ẩn bên trong. Em đồng ý, nhưng nếu một trong hai nguời tìm được một nguồn hạnh phúc mới? Quang cười: - Thì cầu chúc hạnh phúc cho nhau. - Còn người kia? - Không thể trở về bến cũ thì kiếm con đò khác. Đàng nào hai người cũng tạo được hạnh phúc mới, như vậy vấn đề ly dị chính là một giải pháp đẹp cho nhau trước một tình yêu vợ chồng gò bó không lối thoát. Chi im lặng một lúc rồi trở lại đề nghị của Quang: - Anh nói hình thức ly dị đặc biệt là thế nào? - Chắc em công nhận với anh, suốt trong thời gian chung sống giữa chúng ta, tuy có những cách biệt nhưng chưa bao giờ gây gổ về chuyện gia đạo, tiền bạc, cũng như cho đến giờ nầy chưa có một hình bóng người nào trong đời sống tình cảm của anh cũng như của em. Như vậy chúng ta ly dị trong sự hiểu biết và tình yêu thương. - Nghĩa là? - Ra tòa ly dị không tranh chấp, không phân chia tài sản và cũng không quy trách nhiệm cho ai. Anh chỉ lấy lại ngôi nhà của anh cho mướn và về đó ở. - Viện cớ gì để xin ly dị? - Trục trặc chăn gối. Đây là lý do hữu hiệu và nhanh chóng nhất. *** Bạn bè đều nhận được lời mời dùng cơm thân mật tại nhà vợ chồng Quang. Không người nào thắc mắc gì vì trong đám bạn bè của Quang cũng như Chi đều có thói quen luân phiên dùng cơm tại nhà nầy hay nhà khác. Nhưng hôm nay, khi tất cả đến đây họ nhận được ba chuyện lạ, số khách mời đông hơn thường lệ trong đó có những người không quen thân lắm, các món ăn đều được nhà hàng mang đến phục dịch và vợ chồng Quang ăn mặc thật chỉnh tề như ngày đại lễ. Mở đầu câu chuyện Vinh vào đề trước: - Có gì lạ mà hôm nay ông bà trịnh trọng vậy? Chi cười bí mật: - Chút nữa sẽ biết, bây giờ cứ tự nhiên, hôm nay là ngày đại lễ. Tất cả vào bàn vui vẽ với nhiều món ăn đúng như lời Chi vừa nói. Cuối bữa tiệc, Quang đưa ra một thùng rượu champagne đã ướp lạnh, Chi bưng chiếc bánh ba từng theo sau, Quang kéo Chi vào lòng : - Hôm các bạn phải uống hết thùng rượu nầy mới được ra khỏi nhà. Ngày vui của hai vợ chồng tôi. Tất cả vỗ tay chúc mừng. Có nhiều người lên tiếng hỏi: - Có chuyện gì vui tuyên bố ngay đi ! Chi rót rượu cười tươi: - Phải qua xong một vòng rượu trước chúng tôi sẽ nói lý do sau. Xong đợt rượu đầu tiên, Chi đứng dậy, Quang ép sát vào người và vòng tay qua lưng Chi, rồi trịnh trọng: - Hôm nay là ngày chúng tôi chính thức ly dị với nhau ! Tất cả đều chưng hửng trước câu tuyên bố của vợ chồng Quang. Mọi người để ly rượu xuống, căn phòng rộng lớn với trên hai chục người khách hoàn toàn trở nên im lặng. Bỗng có tiếng trong nhóm khách: - Đừng đùa, coi chừng xảy ra chuyện thật thì mệt lắm ! Chi tươi cười lặp lại: - Đã suy nghĩ và bàn tính với nhau từ lâu, hôm nay chúng tôi quyết định mời các bạn đến đây dự lễ ly dị ! Vừa dứt lời Chi cởi chiếc nhẩn cưới trên ngón áp út và trao lại cho Quang, đồng thời lấy trong bóp xách tay tờ phán quyết cho phép ly dị của toàn án. Hai người quay lại ôm nhau hôn môi một cách nồng nàn thắm thiết như nụ hôn lần đầu họ đã trao cho nhau ngày cưới. Bây giờ thì khách mời ngẩn ngơ và không cách nào hiểu được hai người đang diễn một hoạt cảnh gì. Các bà ngạc nhiên tột độ, miệng há hốc, mắt nhìn không chớp vào hai vợ chồng Quang, trong lúc các ông vỗ tay cổ võ. Khi hai người buông nhau, Quang cười với khách: - Đây là nụ hôn chia tay của tình vợ chồng tôi, có thể là vĩnh viễn và cũng có thể là giai đoạn. Kha đánh tan bầu không khí đang căng thẳng: - Tại sao làm vậy? Chúng ta tất cả đều bạn thân, chúng tôi không hiểu, hai người có thể cho một vài giải thích. Vợ chồng Quang đồng cười: - Dĩ nhiên, chúng tôi không dấu gì, nhưng để chúng tôi trình bày xong các bạn cứ đóng góp ý kiến. Tôi nhắc lại là đóng góp ý kiến cho vui thôi chứ chúng tôi đã quyết định và chuyện đã rồi không thể quay lại. Chưa ai có ý kiến gì, Chi trình bày trước: - Chúng tôi ly dị vì yêu thương nhau thì đúng hơn. Ra tòa không tranh chấp, không phân chia tài sản, vẫn quý mến nhau và có thể một ngày nào đó sẽ quay trở lại sum hợp với nhau. Từ ngạc nhiên nầy đến thắc mắc khác đã thúc đẩy khách mời tranh nhau nhiều câu hỏi. Quang và Chi không che dấu một điều gì, hai người trình bày những gì đã thảo luận và tính toán với nhau từ trước. Những lời giải thích tuy chưa chấm dứt nhưng đã chia người nghe thành hai nhóm, các ông đa số ủng hộ ngược lại các bà phần đông ra mặt chống đối. Nhưng dù ủng hộ hay chống đối, trong tình cảnh nầy tất cả đều cảm thấy mùi vị champagne quen thuộc bỗng trở nên đắng nghét ở trong cổ họng, họ được mời đến để chứng kiến một đổ vỡ, không biết nên vui hay buồn cho hai người bạn trước một quyết định quá mới và táo bạo. *** Kể từ ngày ly dị, Quang trở thành người đàn ông độc thân vui tính, quay về ngôi nhà cũ của chàng, cơm nước ngày hai bữa tại các tiệm ăn, tối về đọc sách nghe nhạc đến khuya, nhiều lúc ngủ ngay tại phòng khách hay trong phòng làm việc. Sáng dậy trễ, vừa đủ thời gian làm vệ sinh cá nhân tối thiểu rồi vội vàng lái xe vào sở. Cuối tuần Quang không từ chối bất cứ một cuộc họp mặt nào của bạn bè. Quang muốn tận hưởng lại những giây phút tự do của một người đàn ông độc thân giàu có và đẹp trai. Đã gần năm mươi tuổi nhưng trông Quang vẫn còn thật trẻ, mái tóc màu đen nguyên thủy, thân mình cao lớn khỏe mạnh, việc làm tốt, nhà cao, xe đẹp. Chàng đúng là mẫu người lý tưởng của hai thế hệ đàn bà, nhưng Quang chưa nghĩ đến vấn đề đi thêm một bước. Chi và Quang vẫn thường gặp nhau, trong quán ăn, các buổi dạ hội, các lần họp mặt tại nhà bạn bè. Họ đối xử với nhau thân tình như hai người bạn, ngồi chung một bàn, nhảy với nhau vài bản nhạc, từ giã ôm nhau hôn như những người bạn thân Chính lối đối xử với nhau sau nầy chứng tỏ cho bạn bè những gì Quang và Chi đã nói ra trong ngày lễ ly dị. Đã nhiều lần, bạn bè lợi dụng những bữa cơm thân mật hay những dịp họp mặt để giới thiệu Quang một vài người bạn gái, nhưng Quang đã dứt khoát báo trước rằng chưa phải lúc. Nhưng lần nầy Quang nhận đến dùng cơm tối với một số bạn tại nhà vợ chồng Vinh để gặp Lan, một người đàn bà chưa chồng, đã quá tuổi thanh xuân, rất đẹp, thùy mỵ và trí thức theo lời giới thiệu của bà Vinh. Quang uống rượu vào hạng tồi nhất trong đám bạn, nhưng mỗi khi đã uống thì uống tới lúc say gục ngay tại chỗ. Nhưng chỉ cần một giấc ngủ vài giờ đồng hồ Quang sẽ trở lại tỉnh táo như không có chuyện gì xảy ra. Bữa cơm tối ngoài gia chủ, Quang và Lan còn bốn cặp khác, không ai lạ ngoài những người bạn quen thuộc từ lâu. Hình như đã có sự sắp xếp ngầm từ truớc, khi Quang đến Lan đã có mặt, tất cả đều ép Quang ngồi cạnh Lan. Đúng như lời bà Vinh, Lan khoảng chừng ngoài ba mươi. Con gái đẹp, thông minh ở tuổi nầy thường bị xếp vào loại cao số. Qua xã giao, Quang phải đánh giá nàng thuộc hạng người có học và con nhà nề nếp, nhưng có lẽ vì một lý do thầm kín nào đó nàng còn độc thân đến giờ nầy. Dù tự cho mình cao giá, nhưng không một người con gái nào dại dột bỏ mất cơ hội để kéo dài tuổi đời của mình thành gái lỡ thì, có lẽ vì lý do nầy Lan nhận lời mau mắn khi bà Vinh đề nghị đến gặp Quang. Quang không muốn đường đột đi vào đời tư của Lan chàng chỉ quanh co chuyện mưa nắng từ đầu cho đến giữa bữa ăn thì nghe Lan than nhức đầu chóng mặt rồi ói mửa ngay tại chỗ. Vợ chồng Kha cho biết nàng bị trúng gió, các bà đưa Lan vào tạm phòng trong đánh gió xức dầu và đề nghị Quang đưa về nhưng chàng ngại và từ chối để nhờ vợ chồng Kha đưa về tiện hơn. Bữa cơm vừa xong thì Quang đã say mèm, nằm gục xuống bàn. Tất cả không lạ gì chuyện say rượu của Quang, họ vực vào phòng ngủ để chàng ngủ thoải mái đến sáng hôm sau. *** - Dậy đi anh, uống làm gì quá mức để say không biết trời trăng gì cả. Nghe giọng nói, Quang vừa tỉnh, biết có ai đang đắp nước đá trên đầu, chàng mở mắt ra, một người con gái đang ngồi bên cạnh mỉm cười: - Nhận ra em không? Quang ú ớ: - Cô là ai? - Thùy Dung đây, anh nhớ lại xem. Quang tỉnh hẳn, chàng ngồi dậy nhìn kỹ người con gái bên cạnh, đưa tay cầm lấy tay nàng: - Thùy Dung, anh nhớ ra rồi. Hồi hôm sao đến trễ vậy. - Đến thì anh đã say, em vào đây chờ anh tỉnh để đưa về. Đây là nhà anh chị Vinh. Quang mang giày và cùng Dung mở cửa ra, gặp ngay Vinh đang ở phòng khách: - Thôi chào, cô Dung đến đưa tôi về nhà. Cám ơn bữa cơm và gởi lời cám ơn chị giùm tôi. Hai người ra xe, Dung dành tay lái và bảo Quang dựa đầu ra sau nghỉ. - Em biết đường không? Quang hỏi. Dung cười: - Còn rành hơn anh nữa. - Em từ tiểu ban nào đến mà bảo rành hơn anh? - Ngay bên cạnh nhưng anh không biết. - Tại sao không gặp anh? - Vợ anh kềm bên cạnh ai dám đến ! Dung tự lái xe thật vững và rành đường như người địa phương. Không cần hướng dẫn Dung vẫn về đến nhà bằng đường tắt. Đến nơi Dung cho thẳng xe vào nhà chứa và đi ngay vào phòng khách, tắt hệ thống báo động thông thạo như chính chủ nhà. Treo chìa khoa lên vách tường, Dung bảo Quang: - Anh tắm cho khỏe, người hôi mùi rượu em không chịu được. Quang nghe lời như chiếc máy, tắm xong quay về phòng đã thấy Dung đang ngồi ở phòng khách trên người đang mặc bộ đồ của Quang. Nàng đưa tay gọi: - Đến đây anh. Đi quá vội chưa mang theo đồ dùng, anh cho mượn tạm bộ đồ ngủ. Quang không trả lời, ngồi xuống bên cạnh choàng tay qua ôm lấy Dung. Nàng gục đầu vào vai Quang thì thầm: - Em chờ đợi giây phút nầy đã mấy chục năm. Quang không còn nghe gì ngoài hơi thở dồn dập của hai người, chàng bồng Dung vào phòng Đã lâu thiếu đàn bà và trong lúc không tự chủ được lòng, Quang đã chiếm đoạt trinh tuyết của một người con gái, mặc dù nàng đã đến và tự nguyện hiến dâng. Nhìn Dung đang ngủ yên, gương mặt trong sáng, đậm nét thơ ngây tuổi học trò, chàng cảm thấy ân hận việc xâm phạm quá vội vã. Quang cúi xuống hôn vào đôi môi đang hé mở: - Không ngờ em còn con gái, anh xin lỗi và sẽ cưới em làm vợ. Dung trở mình nhướng mắt nhìn Quang mĩm cười: - Cám ơn anh, nhưng em không muốn ràng buộc. - Anh đã ly dị với vợ anh. - Em biết, nhưng em ao ước được sống với anh một thời gian thì em đã mãn nguyện. Quang ngạc nhiên: - Bây giờ đâu còn gì cản trở chúng ta. Tại sao? - Nhưng em không thể, một ngày nào đó anh sẽ hiểu. Hai người sống thật hạnh phúc như đôi vợ chồng trẻ mới cưới. Quang đi làm, trưa trở về dùng cơm với Dung, tối hai người đi tiệm. Cuối tuần Quang lấy máy bay lần lượt đưa Dung đi vòng quanh nước Mỹ. Trong dịp lễ tạ ơn, chàng đã lấy những ngày nghỉ trong năm để đưa Dung trở lại Sàigòn rồi cùng nhau lên Pleiku thăm thành phố thân yêu ngày trước. Suốt ngày dạo phố, nghe nhạc phòng trà, ngồi quán café. Ngày cuối họ trở lại thăm căn nhà xưa và ngôi trường cũ. Trước khi lên phi cơ vào Sàigòn, Dung yêu cầu Quang đưa nàng đến thăm lần chót chiếc hồ lớn mà nàng gọi là Hồ than thở mỗi khi nhắc đến những kỷ niệm Pleiku. Dịp nầy Quang đặt câu hỏi: - Sao em gọi là hồ than thở? - Vì em thường ra đây một mình để nói chuyện với chính mình. - Em đã than thở gì? - Em đã nguyền sẽ yêu anh suốt đời. Cứ mỗi lần như vậy, em ném xuống hồ một viên đá. Hãy nhìn kỹ, anh sẽ thấy ở dưới toàn là đá do em liệng xuống. - Em có biết hồ nầy sâu không? Người ta thường gọi là hồ không đáy mà. - Biết, nhưng đá của em liệng xuống đến nay đã ngập đến mặt hồ ! Lời tỏ tình thật văn hoa và tha thiết, Quang sung sướng ôm chặt Dung vào người hôn lên mái tóc và dìu nàng bước lên bờ. Trước khi lên xe, hai người quay lại nhìn mặt hồ lần cuối, bỗng Dung đề nghị: - Anh hãy ném xuống hồ một viên đá. - Để làm gì em? - Viên đá anh ném xuống sẽ nằm yên giữa hồ chung với hàng ngàn hàng hàng vạn viên do em đã ném xuống, có nghĩa là em đã ôm được anh vĩnh viễn trong lòng đúng theo ước nguyện từ ngày mới gặp và yêu anh. Sau chuyến về từ Pleiku, Dung càng ngày càng tỏ ra buồn bã, không còn những tiếng cười dòn tan mỗi lần trò chuyện. Quang ngày đêm gạn hỏi nhưng Dung chỉ lắc đầu không trả lời. Cho đến một hôm nàng khóc suốt đêm, Quang lo lắng ôm nàng vào lòng mơn trớn vỗ về. Cuối cùng nàng ngồi dậy gục đầu vào vai Quang thổn thức: - Đã đến lúc em phải xa anh. Như trúng phải luồng điện Quang giật mình nhìn thẳng vào mắt Dung, hai tay lắc mạnh đôi vai, hỏi tới tấp : - Tại sao? Tại sao? Anh đã làm gì em buồn? Tiếng khóc của Dung càng lớn: - Đã đến lúc em phải ra đi, một ngày nào đó anh sẽ hiễu. - Không, anh muốn em nói ngay bây giờ. - Không được anh, em không thể làm gì trong lúc nầy. - Cho đến lúc nào? - Khi anh đến thăm em thì anh sẽ hiểu. Dung đưa ngón tay che miệng Quang: - Đừng hỏi nhiều, em không có quyền tiết lộ bất cứ gì bây giờ. - Ai cấm em? - Bí mật. Biết không thể đòi hỏi gì hơn một khi Dung đã dứt khoát, Quang thều thào: - Anh sẽ đưa em về nhà. - Em cho anh địa chỉ để đến thăm em sau. Nói dứt câu, nàng đứng dậy lấy trong túi áo Quang cuốn sổ tay và ghi địa chỉ của nàng và dặn: - Em đi rồi anh hãy mở ra xem sau. Trước khi trời sáng, Dung quay qua ôm chặt lấy Quang: - Yêu em lần cuối đi anh. Yêu thật nhiều, thật nồng nàn, thật say đắm để em làm hành trang mang theo. Còn em, em sẽ để lại cho anh một vết sẹo để đời. Vừa dứt câu Dung hôn vào môi và mắt vào tai vào cổ Quang, cuối cùng ghé răng cắn vào vai Quang hai cái thật mạnh rồi đứng dậy bước nhanh về phía cửa. Quang chưa kịp phản ứng, chỉ kịp ú ớ vài câu và chạy theo ra đến đường nhưng Dung đã đi xa. *** Quang tỉnh dậy và ngạc nhiên khi thấy mình vẫn còn nằm ở tại nhà Vinh. Chàng ngồi dậy định thần, vươn vai thở một hơi dài và cảm thấy trong người khỏe hẳn. Không tin vào nhản quang của mình khi nhìn thấy đồ vật trong phòng và những gì đã xảy ra, chàng thử bấm mạnh hai đầu ngón tay cái và trỏ vào nhau, cảm thấy đau, chứng tỏ mình đang hoàn toàn tỉnh táo. Bước xuống giường không kịp mang đôi giày, Quang mở cửa bước ra phòng ăn, vợ chồng Vinh đang dùng điểm tâm, hai người vội để ly café xuống reo lên: - Chào anh Quang, tỉnh dậy đã khỏe hẳn chưa? Ngủ gì gần một tuần nay làm chúng tôi hết hồn. Bây gờ đến lượt ngạc nhiên: - Anh chị nói tôi ngủ? - Vâng, anh ngủ ngon lành một tuần nay. Quang lắc đầu: - Không thể được, hoàn toàn không thể? - Tại sao? - Sau khi hết say, tôi đã về nhà gần cả năm nay mà ! Hai vợ chồng Vinh trố mắt nhìn Quang: - Anh đã tỉnh hẳn chưa hay vẫn còn say ngủ? Quang ngồi xuống cạnh hai vợ chồng: - Chuyện gì đã xảy ra? - Chúng tôi phải hỏi anh mới đúng. Quang lấy ly café của Vinh uống một hơi: - Tôi đã về nhà tôi ngay đêm hôm đó. Vợ Vinh lắc đầu, Vinh nhìn Quang thương hại giải thích: - Anh đã ngủ mê gần một tuần nay, chúng tôi sợ quá nên đã nhờ anh Khoa đến bắt mạch, đo huyết áp cho anh nhiều lần nhưng sức khỏe của anh thật hoàn toàn và ở trong trạng thái bình thường của một người khoẻ mạnh đang ngủ say. Cuối cùng chúng tôi quyết định đưa anh vào bệnh viện, nằm tại đây hai ngày. Sau khi khám tổng quát rồi qua chuyên khoa tâm thần, các bác sĩ xác nhận anh ở trong tình trạng hôn mê nhưng không kiếm được một triệu chứng lạ nào, chỉ cần vào nước biển để giữ thăng bằng điều hòa cơ thể. Cuối cùng chúng tôi đưa anh về lại đây vì cần có người bên cạnh chăm sóc. Khoa đến đây hai lần một ngày để trông chừng anh nhưng vẫ không có chuyện gì xảy ra. Giấc ngủ thật yên lành, mặt mày tươi rói, miệng lâu lâu mỉm cười nhưng đang trò chuyện cùng ai. Quang vẫn lắc đầu: - Tôi không tin chuyện xảy ra như vậy. Vinh đưa tay chỉ tờ lịch treo tường: - Nhìn kỹ và cố nhớ lại, tối thứ bảy tuần trước, sinh nhật vợ tôi là ngày 9 tháng 4, anh và một số anh em đến đây ăn cơm với chúng tôi, hôm nay là 16 tháng 4, nghĩa là đúng một tuần, làm gì có chuyện một năm. Vợ Vinh hỏi lại: - Anh nói anh đã tỉnh lại và về nhà, bây giờ giải thích cho chúng tôi. Quang vẫn một mực: - Đồng ý hôm sinh nhật chị Vinh, tôi say thật đến ngã gục xuống bàn chẳng hay biết trời trăng gì cả. Nhưng sau đó, chính cô Dung đến và đưa tôi về nhà. Vinh trả lời: - Cô Dung nào, hôm đó chẳng có ai tên Dung. Ngoài những cặp vợ chồng bạn bè anh đều quen biết, chỉ có cô Lan là người chúng tôi muốn giới thiệu với anh. Nhưng cô Lan trúng gió ói mửa, vợ chồng anh Khoa đã đưa cô ta về. Sau đó không còn một người lạ nào trong nhà ngoài những người bạn thân của chúng ta. - Chuyện xảy ra hoàn toàn trái ngược với anh chị kể. Vợ Vinh ghé tai chồng nói nhỏ: - Có thể anh Quang bị ám ảnh một chuyện gì, bây giờ thì nên gởi anh đến một bác sĩ tâm thần. Quang đáp ngay: - Tôi thật tỉnh táo và sáng suốt nói chuyện với anh chị, không cần bác sĩ. - Được anh kể chúng tôi nghe chuyện của anh. Quang chậm rãi: - Sau khi gục tại chỗ, tôi vẫn còn nhận định được anh chị và mấy anh em đưa vào phòng, cởi giày, áo ngoài và đặt nằm trên giường sau đó chị thoa dầu gió cho tôi. Chừng nửa tiếng sau thì Dung xuất hiện, nàng xin lỗi đến trễ và xin phép anh chị đưa tôi về nhà. Lúc đầu anh chị ngại, nhưng sau nhiều lần giải thích, anh chị đồng ý để Dung đưa về nhà tôi. Chính nàng lái xe tôi và dìu tôi vào nhà một cách an toàn. Dung đã ở lại với tôi, nối lại mối tình đầu thật trọn vẹn với nhau gần một năm. Sau đó chúng buộc lòng phải chia tay để nàng trở về nhà. Vợ chồng Vinh không thể tin vào những lời Quang vừa thốt ra, Vợ Vinh vẫn ôn tồn: - Anh bị một chuyện gì ám ảnh nặng. Vinh ngăn vợ: - Khoan kết luận vội vã như vậy, bây giờ xin anh Quang nói rõ thêm về cô Dung được không? - Được, chuyện đơn giản như thế nầy. Tôi và Dung quen nhau tại Pleiku, nhưng thật sự chưa ai mở lời nói chuyện yêu đương trước. Pleiku mất, chúng tôi mỗi người di tản xuống Quy Nhơn. Ba năm sau kể từ ngày mất nước, tôi vào Sàigòn và vượt biên bằng đường biển. Tình cờ gặp lại nhau trong trại tị nạn Mãlai, lần nầy tôi tỏ tình trước, Dung vẫn vui vẽ nhưng không đáp lại tình yêu của tôi. Sau đó tôi đi Mỹ và mất hẳn liên lạc với Dung cho đến bây giờ không. Vinh trầm ngâm giây lát: - Như vậy chẳng có gì quan tâm cũng không phải vấn đề tâm thần. Chỉ là giấc mộng bình thường. Nhưng tôi vẫn thắc mắc, anh ngủ say một giấc dài mặc dù đã nhiều lần đánh thức bằng đủ mọi hình thức, di chuyển vào bệnh viện, trải qua nhiều gian đoạn khám nghiệm mà anh vẫn không hay biết. - Đối với tôi là một thời gian dài, chúng tôi sống trọn vẹn cho nhau như đôi vợ chồng mới cưới trong căn nhà thân yêu của tôi. Vợ Vinh không tài nào hiểu được những lời Quang vừa trình bày: - Anh có vết tích nào chứng minh những lời anh nói: - Có chứ. Quang rút trong tui quần cuốn sổ tay ra: - Chính Dung đã tự tay biên địa chỉ của nàng vào đây. Vừa nói Quang lật trang chữ D ra đưa cho hai vợ chồng xem, ở gần cuối trang giấy, ba giòng chữ đậm nét rõ ràng và bay bướm của một người đàn bà: Nguyễn Thùy Dung,đường Södertälje, Thụy Điển. Vinh nhìn Quang dò xét: - Thật không hay địa chỉ cô nào trước đây? Quang sực nhớ ra, hớn hở: - Còn đây hãy xem. Chính Dung đã cắn vào vai tôi mấy lần, nàng nói để sẹo bắt tôi phải nhớ nàng suốt đời. Vừa nói Quang vừa mở nút áo chemise xuống, rút cánh tay phải ra ngoài đưa ra trước mặt vợ chồng Vinh. Đúng là những vết răng đều đặn và nhỏ nhắn của một người đàn bà đã cắn vào vai, còn lộ nguyên hình các dấu răng ứ máu bầm. Vợ Vinh bắt đầu mất bình tĩnh, vì Quang đã ngủ say một tuần, vợ chồng bà theo sát một bên làm sao những vết cắn có thể xuất hiện trên thân thể của Quang. Đến chừng bà Vinh phát hiện ra những vết son môi còn dính trên cổ, ngay dưới hai trái tai của Quang, thì hai tay bắt đầu run bà chỉ ngay cho chồng: - Anh xem nầy. Vinh đã nhìn tận mắt dấu răng và các vết son còn tươi, chưa xác định được sự việc thì Quang tiếp: - Nàng khóc suốt đêm qua, hôn và cắn tôi nhiều lần trước khi chia tay. Quang rút trong túi ra chiếc khăn tay còn ẩm và tiếp tục: - Nước mắt nàng ướt cả chiếc khăn, anh chị xem đây ! Hai vợ chồng Vinh không còn gì để hỏi thêm, tin chuyện hoang đường thì chưa chắc nhưng nghi ngờ những lời Quang thì không thể được. Chính hai vợ chồng là người ở sát bên cạnh Quang từ ba ngày nay sau khi Quang trở về từ bệnh viện. Chỉ một mình Kha là người đàn ông duy nhất đến chăm sóc. Vết cắn, môi son và nước mắt trong khăn tay là những chứng thật không thể giải thích. Vinh đặt câu hỏi: - Anh định đi tìm nàng? - Vâng, tôi sẽ lấy thêm ngày nghỉ để qua Thụy Điển một tuần lễ. *** Södertälje là một thành phố nhỏ nằm về phía nam Stockholm chừng hơn một giờ xe hơi. Quang đưa tấm giấy ghi địa chỉ Dung cho người tài xế taxi xong, Quang dựa đầu vào nệm sau nhắm mắt ngủ vì quá mệt sau mười bốn giờ bay. Quang không báo tin trước mục đích dành cho Dung một ngạc nhiên lớn. Đang dật dờ ngủ thì taxi dừng ngay trước một chiếc cổng lớn, Quang vừa bước xuống lại vội mở cửa lên trở lại và hỏi người tài xế: - Sao ông đưa tôi đến nghĩa trang? - Thì đúng theo địa chỉ trong giấy. Người tài xế đưa tờ giấy lại cho Quang, chàng giật mình so lại địa chỉ tại chỗ thì đây đúng là địa chỉ của nghĩa trang thành phố. Thân mình tay chân chàng tự nhiên đồng loạt nổi da gà, nhưng chính tình yêu đã biến đổi sự sợ hải thành một động lực giúp chàng bình tĩnh và can đảm, mạnh dạn tiến vào bên trong tìm mộ Dung, vì nghĩ rằng nàng đã chết và xác thân đang an giấc tại nơi đây. Người quản lý nghĩa trang đưa Quang qua nhiều lối đi cuối cùng đến trước một ngôi mộ. Bức ảnh in trên bia đá rất rõ nét, hình một người con gái chừng ba mươi tuổi, khuôn mặt trong sáng, mái tóc dài với nụ cười hồn nhiên của tuổi thanh xuân. Bên dưới bức ảnh hai hàng chữ khắc sâu trong bia đá, Cô Nguyễn Thùy Dung, sinh ngày 21 tháng 5 năm 1954 tại Pleiku Việt Nam, tử ngày 19 tháng sáu năm 1982 tại Södertälje Thụy Điển. Ngồi bất động trước mộ Dung, một người đàn ông dù bản lãnh nhưng Quang không thể cầm được những giọt nước mắt đang chảy dài xuống má. Những hình ảnh ngây thơ trong sáng ngày đầu gặp gở tại Pleiku, kế đến, gương mặt phiền muộn ưu tư trên đất Mã lai cũng như cảnh âu yếm mặn nồng của Dung đã mang lại cho Quang trong ngày tái ngộ tại Mỹ đều lần lượt hiện về trước mắt Quang. Dung vẫn là người con gái ngày xưa, nàng đã giữ nguyên vẹn mối tình đầu và tuyết trinh của thân xác để hiến dâng cho chàng dù âm dương cách biệt. Thân xác nàng nằm đây, nhưng có lẽ hai mươi ba năm qua linh hồn nàng đã dài công tu luyện, mong hoàn tục một thời gian, để được phép trở về dương thế cho trọn tình với Quang. Nhìn gương mặt, nụ cười trên bức hình, Quang nghĩ rằng giờ đây chắc nàng đã toại nguyện. Quay ra ngoài mua bó hồng thật lớn, trở lại đặt ngay ngắn, cúi xuống hôn trên phần mộ và bức ảnh: - Anh sẽ trở lại với em. *** Người quản lý nghĩa trang cho Quang danh tánh và địa chỉ thân nhân của Dung. Nhìn thấy tên của một người đàn ông, Quang khựng lại giây lát, nhưng đã quyết tâm tìm hiểu Dung, chàng nhất quyết đi taxi đến. Vừa bấm chuông xong, một người đàn bà còn trung niên ra mở cửa e ngại hỏi bằng tiếng Thụy Điển: - Thưa ông ông kiếm ai? Quang không hiểu gì, chàng nói ngay tiếng Việt: - Thưa bà, bà là người Việt nam? Hai mắt người đàn bà sáng lên, vồn vã hỏi ngay: - Thưa, ông cần gì? Tôi là người Việt. - Tôi tên Quang từ xa đến, xin lỗi bà tên Nghĩa? - Nghĩa là tên chồng tôi. Quang ấp úng: - Xin lỗi bà, bà có một thân nhân tên Thùy Dung an táng trong nghĩa địa thành phố Bà Nghĩa nhìn Quang, dè dặt trả lời: - Đó là chị tôi nhưng liên hệ gì với ông. Quang mừng ra mặt, một lần nữa chàng lặp lại: - Tôi tên Quang, quen với Thùy Dung cách đây trên ba chục năm tại Pleiku. Bà Nghĩa mừng rở reo lên: - A tôi nhớ ra rồi. Mời ông vào nhà. Vừa dẫn khách vào vừa nói: - Tôi tên Trang, em gái của Thùy Dung. Lúc chị tôi còn sống lúc nào cũng nhắc đến ông. Nghe mãi tên nên đã nhập tâm, tôi làm sao quên được nhưng lâu quá thú thực không nhìn ra người. Vừa ngồi xuống ghế, Quang vội vào đề: - Xin bà vui lòng cho tôi biết rõ về Dung. - Dĩ nhiên, tôi sẽ kể rõ cuộc đời của chị tôi vì đây cũng là ý nguyện của người quá cố. Đã từ lâu tôi ao ước gặp ông nhưng chim trời cá biển biết đâu mà tìm. Nay có lẽ duyên số của chị tôi vẫn còn nên đã đẫy đưa ông từ xa đến. Chuyện còn dài, ông ở lại đây với vợ chồng tôi vài bữa. Bây giờ dùng café cho ấm lòng, chồng tôi cũng sắp về đến. - Cám ơn bà cứ để tôi tự nhiên. Bà Nghĩa cười: - Ông là người tình muôn thuở của chị tôi, xem như trong nhà, xin gọi nhau bằng anh em có lẽ thân mật hơn và chắc chắn chị tôi sẽ vui lòng. - Vâng, nếu ông bà cho phép. Trang ngồi xuống đối diện với Quang: - Anh từ đâu đến và tại sao kiếm ra chúng em dễ dàng vậy? - Chính Thùy Dung cho anh địa chỉ, nhưng địa chỉ của nghĩa trang chứ không phải ở đây. Đến lượt Trang ngạc nhiên tột độ. Hai mắt mở lớn, miệng ấp úng: - Không thể, không thể chị em chết đã hai mươi ba năm. Ngoài vợ chồng và hai đứa con em không còn một ai quen thân với Dung cũng như biết được phần mộ của chị em. Trước khi đến Thụy Điển anh đã liên lạc thăm dò đường sá? - Không, anh tưởng Thùy Dung còn sống, căn cứ theo địa chỉ đã cho, anh đến Stockholm và dùng taxi đến thành phố nầy. - Taxi đưa anh đến ngay nghĩa trang? - Đúng như vậy, anh ngập ngừng vài giây nhưng sau đó anh tin là sự thật. - Anh cho biết rõ thêm. - Anh đã gặp Dung, sống hạnh phúc với nhau gần một năm trời tại Mỹ, nhưng bạn bè cho biết thì thời gian khoảng chừng một tuần. - Em chưa hiểu ! - Trong một cơn ngủ say kéo dài một tuần, Thùy Dung đã về chung sống với anh. Trước khi chia tay nàng đã ghi lại địa chỉ trong cuốn sổ tay của anh. Trang với giọng run run: - Anh cho em xem cuốn sổ. Nhìn vào, sắc mặt Trang biến đổi, Trang đứng dậy lấy tập thơ biên tay đưa cho Quang xem, đúng một tuồng chữ không sai một nét nhỏ nào. Ông Nghĩa mở cửa bước vào, sau lời giới thiệu, ông mở lời trước: - Anh đã đến đúng theo ước nguyện của người quá cố. Dung đã trối với vợ chồng em trước khi nhắm mắt. - Qua đây hoàn toàn do sự hướng dẫn của Thùy Dung, có lẽ còn những bí ẫn nào đó Dung đã nhắn lại với anh? - Chuyện còn dài, anh phải ở lại đây vài ngày. Nghĩa dành làm bếp để vợ nói chuyện với Quang. Trao cho Quang cuốn album hình xong Trang bắt đầu vào chuyện kể: - Chị Thùy Dung đã phải lòng anh trong những lần đầu gặp gỡ tại nhà cô giáo Yến. Hồi đó mặc dù em còn nhỏ nhưng cũng nhận biết anh cũng yêu chị em, nhưng tại sao không chịu tỏ tình và giữ im lặng để chị em phải đau khổ với mối tình câm. Em còn thuộc bốn câu thơ chị thường đọc cho em nghe: Chỉ cần một tiếng Yêu Ngày xưa em vẫn đợi Tiếc gì anh không nói Để mất nhau suốt đời Uống xong hớp trà, Trang tiếp: - Rồi quả đất tròn, chị Dung gặp lại anh trong trại tị nạn. Đây là thời gian thuận lợi nhất để hai người kết hợp nhưng chị em đã đau khổ chạy trốn mối tình tha thiết của anh. Sau khi anh lên đường định cư, Chị Dung ốm nặng nằm bất động một chỗ cả tuần lễ. Thế rồi một buổi tối trước khi ngủ, chị Dung cho em xem một tập thơ, trước khi đốt thành tro và rải xuống biển, gồm nhiều bài thơ tình chị viết riêng cho anh và cho mối tình câm của chị. Quang xin phép hỏi: - Anh không hiểu chuyện gì xảy ra nhưng trong thời gian còn ở trong trại tị nạn, anh đã nhiều lần tỏ tình và ước ao kết hôn với chị em trước ngày lên đường đến nước thứ ba. Em có biết lý do tại sao chị em vẫn một mực từ chối không? Trang kể tiếp qua nước mắt: - Bây giờ em mới có dịp trình bày với anh. Sau khi thi xong phần hai tú tài, chị Dung tự nhiên bị bệnh nhức đầu kinh niên. Cha mẹ em đã chạy chữa khắp nơi nhưng các bác sĩ không kiếm ra bệnh chứng. Cuối cùng phải vào tận Sàigòn nhờ các bác sĩ nước ngoài chữa trị, ở đây khám phá ra chị Dung bị chứng ung thư hệ thần kinh nảo bộ. Dù với các phương tiện tối tân nhưng các bác sĩ phải đành khoanh tay, không thể giải phẫu để lấy cục bứu ra. Họ cho hay việc giải phẫu chưa biết kết quả đi đến đâu nhưng trước mắt, may mắn lắm thì nạn nhân sẽ sống sót nhưng toàn thân bất toại, nếu rủi ro thì không cứu được mạng người. Lúc đầu gia đình dấu kín chuyện nầy nhưng cuối cùng chị Dung cũng biết. Từ đó chị ít trò chuyện và không tiếp xúc với bất cứ ai Cho đến một ngày gặp lại anh trong trại tị nạn. Điều nầy cũng đủ để giải thích thái độ chị Dung đối với anh trong thời gian nầy. Ba tháng sau ngày anh lên đường qua Mỹ, phái đoàn Thụy Điển đến Mãlai và chỉ nhận người tị nạn thuộc diện nhân đạo, nghĩa là họ chỉ nhận những gia đình có người đang mang trong người chứng bệnh nan y để đưa về Thụy Điển chữa trị. Gia đình em quá mừng, hy vọng cơ hội duy nhất để dành lại mạng sống của chị Dung đang tàn dần theo thời gian. Nhưng số trời đã định, ở đây cho biết ngày ra đi của chị Dung gần kề, họ khuyên gia đình nên làm những gì vui lòng cho người xấu số trong những ngày còn lại. Chị ra đi một cách nhẹ nhàng không đau đớn, trước khi nhắm mắt chị Dung còn tỉnh táo nói nhỏ với vợ chồng em, hãy cố gắng tìm và chuyển lại anh thông điệp cuối cùng của chị: Dung vẫn một đời yêu anh. Nghĩa muốn tạm ngưng câu chuyện tại đây, xen vào hỏi Quang: - Xin lỗi, chưa hỏi gì về anh. Gia đình, công việc ra sao? - Anh đã li dị, không con cái và còn tiếp tục đi làm. Thế còn hai bác? Trang cho biết: - Cha mẹ em đã qua đời, hiện giờ chỉ còn vợ chồng em và hai đứa con. Chúng nó đã lớn và có gia đình. Suy nghĩ một hồi, Quang đề nghị: - Anh đề nghị hai em việc nầy, xem có tiện không? - Anh cứ nói. - Anh muốn xin phép hai em cho anh được đưa hài cốt chị Dung về Mỹ. Một đề nghị ngoài dự đoán, vợ chồng Nghĩa nhìn nhau không ai lên tiếng trước. Quang giải thích thêm: - Anh cũng độc thân không còn ai ràng buộc trong cuộc sống cũng như tình cảm. Anh muốn mang đưa Dung về ở gần anh. Mỗi năm hai em có dịp qua thăm như vậy cũng tiện. Nghĩa nhường lời cho Trang: - Em nghĩ thế nào? Trang đáp trong do dự: - Nằm ở đây có cha có mẹ đường nào cũng ấm cúng hơn. Quang thuyết phục: - Dù chưa giao ước cưới hỏi, nhưng ý nguyện của Dung muốn được sống bên anh. Kiếp nầy đã dở dang, âm dương có cách trở nhưng tình yêu không ai có thể ngăn cản một người sống yêu thương một người chết bên kia thế giới. Sự cách biệt thể xác đâu ảnh hưởng đến tình yêu trong tâm hồn. Anh muốn cùng Dung ngày đêm có nhau, như tình cảm của một người chồng trung thành vĩnh viễn với vợ mặc dù nàng đã chết. Trang yên lặng, một lúc sau nàng đáp: - Nếu anh đã nặng tình với chị Dung thì em đành nghe theo. Ngày mai chúng ta nghiên cứu việc bốc mộ. Dù hơn hai mươi ba năm, em nghĩ xương cốt vẫn còn nguyên. Vậy anh muốn hỏa thiêu một lần nữa để anh đưa về dễ dàng không? - Được vậy rất tốt cho việc di chuyển và vấn đề vệ sinh cũng như kiểm soát hải quan. Trước khi chia tay về phòng, Trang trao cho Quang một hộp giấy: - Chiếp hộp nầy chị Dung dặn em, một ngày nào tìm được anh thì trao tận tay. Em chưa bao giờ mở ra xem. - Quang cám ơn đem hộp giấy vào phòng ngủ. *** Một ngày sau khi trở lại Mỹ, Quang tìm đến một nhà điêu khắc và nắn tượng nổi tiếng tại Los Angeles để đặt làm một pho tượng bán thân bằng thạch cao. Chàng đưa bức ảnh bán thân của Thùy Dung và đề nghị nhà nghệ sĩ cố gắng làm thế nào để khuôn mặt phải có hồn và giống y theo bức ảnh, kích thước đúng với vóc dáng thật của một người con gái Á Châu. Quang còn đề nghị khoét một lỗ ở phần sau lưng pho tượng để có thể đặt vào đó chiếc bình nhỏ đựng tro của người quá cố. Chừng mười ngày sau Quang đem bình đựng tro đến yêu cầu để vào sau lưng và niêm kín pho tượng. Quang sửa sang phòng làm việc của chàng thành phòng riêng dành cho Dung thật đầy đủ tiện nghi. Pho tượng thạch cao được trang trọng để trên một bệ cao đối diện với bàn làm việc. Phía dưới chân tượng chưng bức ảnh bán thân, tập nhật ký và cuốn băng nhựa do chính Dung tự thu tiếng nói và hai bài hát: Còn một chút gì để nhớ để quên và Kiếp nào có yêu nhau. Hằng ngày sau giờ tan sở về đến nhà, việc trước tiên Quang vào phòng trò chuyện với Dung, nghe lại giọng nói và hai bài hát. Mỗi lần trò chuyện Quang đều thấy Dung hiện về với mình. Mặt pho tượng đổi sắc, sống động như Dung đang gồi trước mặt, hai má ửng hồng, ánh mắt linh động, miệng mĩm cười chia xẻ buồn vui với chàng. Từ đó Quang không còn tha thiết với bạn bè, ít lui tới với ai và từ chối luôn những viếng thăm của khách dù quen hay lạ. Xong công việc ở sở vội quay về nhà và suốt ngày sống âm thầm với nguồn hạnh phúc riêng tư. Cuộc đời của Quang bây giờ chỉ sống với hình bóng mờ ảo của Dung và hai bài hát phát ra từ cuốn băng nhựa. *** Vào một buổi tối mùa thu, trên đường về chàng ghé qua siêu thị mua chai champagne và ổ bánh để kỷ niệm một năm chung sống với Dung. Nhưng về đến nhà, mở cửa vào chàng không còn nghe tiếng hát quen thuộc đón chàng như thường lệ. Quang chạy ngay vào phòng Dung, nhìn pho tượng, chàng thấy Dung bây giờ chỉ là một khối thạch cao vô tri giác, khuôn mặt không còn sống động, ánh mắt hết long lanh và nụ cười đã cũng tắt hẳn. Chàng với tay lấy cuốn băng nhựa để vào máy, không còn nghe tiếng nói Dung cũng như tiếng hát thường lệ. Lấy cuốn băng nhựa ra, hàng chữ của Dung ghi trên đó vẫn còn, Quang thử lại một lần nữa bằng dàn máy ngoài phòng khách nhưng không còn một âm thanh nào khác, cuốn băng nhựa đã hoàn toàn bị xóa bỏ. Quang quay trở lại phòng Dung, lên tiếng hỏi nhiều lần nhưng chung quanh chàng không một tiếng động. *** Quang nằm vật ra giường thì điện thoại đổ chuông. Không buồn nhấc máy, vì đã từ lâu, điện thọai đối với chàng chỉ dùng để gọi mỗi khi cần thiết mà thôi, chưa lần nào nhấc máy trả lời kể từ ngày rời Thụy Điển. Nhưng điện thoại vẫn tiếp tục đổ chuông đến hơn năm phút, Quang miễn cưỡng nhấc lên: - Alô, tôi nghe ! Đầu giây kia tiếng nói quen thuộc của Chi: - Anh khỏe không, em đây. Quang trả lời nhát gừng: - Có gì cứ nói nhanh, anh đang bận. Giọng Chi nhỏ nhẹ: - Mời anh dùng cơm tối được không? - Anh đang có chuyện buồn - Em biết ! Quang định cúp máy, tiếng Chi úp mở ở đầu giây: - Đi ăn cơm với em thì chuyện gì đâu cũng vào đó. - Ô hay, chuyện riêng tư của anh, em xen vào làm gì? - Để giải quyết cho anh ! Quang bực tức: - Nói đi. Chuyện dài lắm, anh không muốn đi ăn với em, nhưng muốn nghe em nói bây giờ không? - Được nhưng vắn tắt trong vài ba câu. Đường giây kia Chi cười: - Cô vợ ma bỏ rồi phải không? Quang nghe đến lạnh xương sống, ngồi bật dậy hai tay run run giữ chặt ống nói, chàng giật mình không hiểu vì sao Chi biết được chuyện vừa xãy ra chưa đầy một tiếng đồng hồ. Quang lắp bắp: - Làm làm sao Chi biết? - Hôm qua cô ta báo mộng cho em. Quang hỏi dồn: - Rồi sao nữa nói tiếp đi. - Đêm qua em không ngủ được, đến gần sáng vừa chập chờn nửa tỉnh nửa mê, em thấy một người đàn bà, một cô gái thì đúng hơn, xưng tên là Thùy Dung đến ngồi ngay đầu giường ngỏ ý muốn nói chuyện với em. Cô cho hay nợ tình của cô ta đối với anh đã chấm dứt và yêu cầu em nối lại tình vợ chồng với anh để cô ta yên lòng ra đi. Chuyện đại khái có thế. Quang năn nỉ: - Em có thể cho anh biết rõ thêm? - Em đã đặt nhiều câu hỏi và được trả lời đầy đủ. Cô ta cho biết yêu anh từ tuổi mười tám nhưng vì một chứng bệnh nan y không thể chung sống với anh và đã qua đời hai mươi ba năm nhưng hồn nàng vẫn theo sát bên anh như hình với bóng. Chuyện ly dị giữa anh và em do chính cô ta xếp đặt, xui khiến để hai đứa mình phải tạm chia tay trong một thời gian. Tiếp đó vì không muốn anh rơi vào tay một người khác, nàng đã phá đám việc giới thiệu cô Lan cho anh tại nhà ông bà Vinh. Dung đã xin lỗi em vì muốn dành anh làm của riêng để yêu và được yêu như lời nguyền. Bây giờ thì thời hạn đã hết cô Dung phải trở về với cát bụi. - Tại sao Dung yêu cầu em trở lại đời sống vợ chồng với anh? - Cô ta yêu anh, không muốn anh cô đơn trong lúc tuổi đã hai phần ba đời người. Cô Dung cho em hay, anh là một người chồng hiếm có trên đời, sức khỏe rất tốt không thể sống thiếu đàn bà. - Chỉ yêu cầu đơn giản vậy thôi? - Cô Dung hứa sẽ nhồi đắp hạnh phúc cho hai đứa mình, không còn quấy rối tạo ra những xung khắc cách biệt, nhàm chán trong việc sống chung, nhất là hạnh phúc gối chăn như trước kia nữa. Bây giờ anh nghĩ thế nào? - Cho anh một thời gian. Chi dứt khoát: - Không còn chần chờ nữa, em sẽ trở lại sống với anh và chấp nhận sự hiện diện của Dung giữa chúng ta như một vị thần hộ mạng để bảo vệ tình yêu hai đứa mình. -------------------- Tròn xoe |
|
|
![]() ![]()
Post
#104
|
|
![]() Bảo vệ Tổ Quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 6,737 Joined: 12-November 08 Member No.: 702 Country ![]() ![]() |
![]() Kontum: Đêm Giáng Sinh của một Giám mục miền núi Gia Lai – Vừa đến nhà thờ Châu Khê vào chiều ngày 24/12/2011, khoảng 17 giờ 10 phút, Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận Kontum vội đến thăm các em thiếu nhi trong Khu Nội Trú Đức Mẹ Vô Nhiễm giáo xứ Châu Khê, là khu nhà nghèo nàn phía sau nhà thờ Châu Khê đã nhiều lần bị chính quyền địa phương yêu cầu dẹp bỏ dù nơi đây là mái ấm cho các em cơ nhỡ, thiếu ánh sáng văn hóa và có nhu cầu tôn giáo. Gió trời càng lúc càng mạnh hơn với cái khí hậu rét ẩm đầy sương, những cơn gió mạnh cứ thổi hù hù trên triền dốc, Đức Cha vẫn đi băng băng lên dốc cao để đến khu nội trú nam cùng với Cha Giuse Đinh Văn Cao. Đây là ngôi nhà xây dựng dở dang, trống trước hụt sau, vách sau có thể thấy ánh nắng chiếu vào từng mảng lớn. Đức Cha ân cần thăm hỏi và động viên các em thiếu nhi, chúc các em luôn biết “yêu mến và sống theo tinh thần Chúa Giêsu Kitô là mến Chúa yêu người trong tình anh em liên đới vì tất cả chúng ta đều là con cái Chúa, đều từ một Cha sinh ra”. ![]() ![]() Rời nhà thờ Châu Khê, đoàn tháp tùng Đức Cha trên đường đến thăm giáo điểm nghèo Yot cách trung tâm Pleiku trên 110km, Đức Cha đã ghé thăm một gia đình Công giáo là đại diện cho 40 gia đình có đạo nơi đây nhưng chưa được phép làm nhà nguyện, thờ Chúa tại ngôi gia này nhưng vẫn bị nhà chức trách địa phương nhiều lần đến hỏi thăm “sức khỏe”. Con đường từ quốc lộ 19 rẽ vào Buôn Yot càng trở nên hẹp và khó đi, gồ ghề với nhiều dợn sóng đất đỏ, lúc trồi lên lúc sụp xuống, bụi tung mù trời, khốn cho ai là người đi phía sau xe. Đến nơi, việc đầu tiên là Đức Cha nghiêm trang cúi chào Chúa Hài Đồng trong hang đá nhỏ trước cửa nhà. Ngài thăm hỏi gia chủ về việc đất đai, nhà cửa, nơi thờ phượng, cầu nguyện của giáo dân nơi này và Đức Cha vui vẻ chia sẻ với chủ nhà. Con đường đến đây đã khó mà lòng người càng khó hơn. Người ta không muốn chúng ta theo đạo thờ phượng Đức Chúa Trời thì chúng ta càng phải biết khao khát Chúa hơn. Nơi nào càng bó buộc thì ân sủng Thiên Chúa càng triển nở và trở nên dồi dào nơi đó. ![]() ![]() Trời càng lúc càng tối, con đường vào Buôn Yot càng khó đi hơn, xe phải chạy thật chậm để có đủ ánh sáng cho các xe trong đoàn ở phía sau. Đón Đức Cha có khoảng trăm em thiếu nhi thánh thể và hơn 600 giáo dân trong vùng đa phần đều trong đồng phục thổ cẩm của người dân tộc. Giáo dân xếp hàng dọc hai bên đường lối dẫn vào nhà nguyện cùng đội cồng chiêng cất tiếng hát vang để mừng Đức Cha đến thăm giáo điểm nghèo và đang gặp khó khăn về tôn giáo này. ![]() ![]() Thời tiết càng khắc nghiệt hơn khi nhiệt độ xuống dưới 14o C, cái lạnh như con dao cắt vào thịt, lạnh từ xương lạnh ra làm cho cộng đoàn dân Chúa, đặc biệt là các em thiếu nhi môi tím tái nhưng vẫn cao giọng hát, tiếng vỗ tay đồng nhịp theo lời ca làm ấm lòng cả người mang lời Chúa và chiên Chúa chốn nghèo hèn. ![]() ![]() Đồng tế với Đức Cha Micae là cha Giuse Đinh Văn Cao trong Thánh Lễ mừng kính Chúa Giáng Sinh làm người, chịu chết trên thập tự để cứu chuộc loài người bằng tình yêu cao quý. Đức Cha đã chia sẻ lời Chúa với cộng đoàn dân Chúa nơi đây bằng cả tiếng Kinh và tiếng Bahnar: “Chúng ta tiếp cận bất kỳ ai trên chốn trần gian này, chúng ta đều thấy thăm sâu rằng đều đi tìm kiếm một Thiên Chúa mà tôn thờ. Nếu có người chỉ vẽ cho rõ ràng thì họ biết tôn thờ cái vị đó là Thiên Chúa, là Cha của mình, của mọi người. Mà không biết có người chỉ dẫn cho thì họ thờ đủ mọi thứ tôn giáo vái thờ tứ phương là vì người ta cũng đang khao khát đi tìm kiếm mà không có người chỉ vẽ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu xuống thế làm người là nhắc lại cho chúng ta và trao cho chúng ta sứ mạng là đi loan báo Tin mừng cho mọi người, mọi loài thụ tạo….”. Trước khi chúc lành, Đức Cha mời Cha Cao đọc thư Chúc Giáng Sinh 2011 của Giám mục Giáo phận Kontum cho cộng đoàn dân Chúa nghe để hiểu hơn về những khó khăn hiện nay của Giáo hội, mời gọi mọi người sống theo luật Chúa ‘mến Chúa yêu người’, mời gọi mọi người đồng hành với Giáo hội trên chặng đường gian nan là thập giá chúa trao ban cho nước Việt Nam mình. ![]() ![]() ![]() Khi Thánh Lễ kết thúc, Đức Cha làm phép bánh và tặng bánh cho các em nhỏ. Ngài ân cần trao tận tay các bé và xoa đầu chúc lành cho từng em một. Buôn Yot giáo điểm nghèo vật chất ở vùng sâu vùng xa ở Mang Yang nhưng lại rất giàu có lòng tôn kính và mến yêu Chúa. Họ tham dự Thánh Lễ trong sự hiệp thông cầu nguyện cách sốt mến, chăm chú lắng nghe từng lời Đức Cha chia sẻ. Nhiều bà mẹ trẻ và cả những ông bố điệu con trên lưng. Đai con bên hông, bên ngoài quấn cả chiếc mền bông để giữ con được ấm, ngủ ngon trong khi tham dự thánh lễ. Người cha, người mẹ mang con bên mình như tập dần cho con biết lắng nghe lời Chúa khi tuổi hãy còn ở sơ sinh như loại thức ăn tinh thần với tất cả lòng cậy trông, phó thác rằng con mình sẽ trở nên những Kitô hữu biết sống đạo và giữ luật Chúa trao ban. Đức Cha thay áo Lễ trong nhà một giáo dân cạnh nhà nguyện và được chủ nhà thết đãi đoàn của Đức Cha món cháo quê nghèo. Đức Cha khá mệt mỏi và đói vì từ trưa đến hơn 8 giờ tối mà Ngài chưa ăn gì cả ngoài ly trà gừng Cha Đa Minh Trần Thật mời Cha uống lúc thăm các em Nội Trú Đức Mẹ Vô Nhiễm Châu Khê. Khói bốc nghi ngút từ cháo trong tô nhựa, Đức Cha Micae múc từng muỗng ăn cách nhiệt tình và ngon lành không chút e ngại thức ăn của người nghèo. Cả đoàn cùng dùng cháo với Ngài, chủ nhà cứ nhìn mọi người ăn cách say sưa pha niềm hãnh hiện lộ qua nét vui cười, hớn hở. Người nhận đã vui, người cho đi càng vui hơn gấp vạn lần, tình yêu Chúa hiện diện ngay chính trong từng con người và từng con người nơi đây cũng thể hiện rỏ ràng tình yêu như lời Chúa dạy “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em vậy”. Xe lăn bánh trở lại con đường chính sau chặng đường gian truân, vất vả để tiếp tục đến với nhà thờ Phú Yên H’ra để Đức Cha dâng Lễ mừng Chúa Giáng Sinh và ban ơn lành cho 52 em thiếu nhi Thánh Thể (trong đó có 28 em nữ) xưng tội rước lễ lần đầu. Trên đường về Phú Yên H’ra, Đức Cha không quên đến chúc Giáng Sinh An Lành và tràn Hồng Ân Chúa trên tất cả anh chị em trong giáo xứ Châu Khê khi biết các em thiếu nhi và ca đoàn nơi này đang Diễn Nguyện Cuộc đời Đức Giêsu. Tại cổng nhà thờ Châu Khê có khoảng 10 công an và dân phòng đeo băng trật tự chặn tất cả các xe máy và đuổi giáo dân đi hiệp thông Diễn Nguyện không được phép vào nhà thờ. Các anh công an và dân phòng hỏi người vào nhà thờ “đi đâu đây? đi chơi hả? ở đây hết chỗ gửi xe rồi, đi chỗ khác đi” mặc dù giáo dân nói là ‘đi Lễ’ nhưng vẫn bị đẩy ra khỏi lề đường trước cổng nhà thờ. Tự do tôn giáo là đây chăng khi giáo dân là Chiên của Chúa đến nhà Chúa dâng Lễ hay làm gì không xâm phạm luật của nước CHXHCNVN mà vẫn bị các anh công an, dân phòng cản lối, cấm cản? Lễ Giáng Sinh là Đại Lễ mừng kính Chúa trên toàn thế giới, dù vùng bách đạo cũng không được phép ngăn cản tự do tín ngưỡng tôn giáo vào dịp Lễ Tết, Giáng sinh huống hồ chi giáo xứ Châu Khê là nhà thờ chính thức được phép hoạt động tôn giáo tại Mang Yang. Thiết nghĩ, chính quyền Gia Lai nên xem lại cách hành xử vô văn hóa, thiếu đạo đức và thiếu hiểu biết của những người mang danh công an, dân phòng là hàng ngũ của đảng lại làm vấy bẩn bộ mặt của đảng thì không hay lắm. Tại Phú Yên H’ra thánh Lễ được Đức Cha Micae và Cha chánh xứ Phaolô Nguyễn Văn Công đồng tế tại phần trước của nhà thờ với sự tham dự của khoảng hơn 2.000 người vào lúc 21 giờ 10 phút cũng bằng hai thứ tiếng Bahnar và Kinh. Các em Thiếu nhi Thánh Thể vừa xong bí tích Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu ngồi các hàng phía trước trong sắc phục Bahnar cùng hiệp thông cầu nguyện cách sốt mến. Cùng Tham dự Thánh Lễ nơi đây, ngoài giáo dân của giáo xứ còn có nhiều người bên lương đến mừng kính Chúa giáng sinh, đặc biệt ca đoàn hôm nay có sự tham dự của bốn sơ Dòng Đa Minh Thánh Tâm với sự có mặt của Mẹ Tổng Quyền Bề Trên Têrêsa Phạm Thị Bạch Tuyết của Dòng. Khuôn viên trong nhà thờ có sức chứa có hạn nên giáo dân ngồi tràn ra phía ngoài sân khá đông. Có thể đếm được hơn 100 người có con mọn ở tuổi sơ sinh được đai trước ngực và chiếc mền bông hoặc khăn thổ cẩm quấn bên ngoài, có những người trùm cả tấm khăn này lên mẹ lẫn con để trốn cái lạnh miền cao nguyên về khuya càng khủng khiếp. Có nhiều người run cầm cập, hai hàm răng đánh vào nhau, môi khô lạnh tím co ro trong chiếc áo thổ cẩm đơn sơ nhưng vẫn kiên tâm ngồi hiệp thông trong Chúa, không di chuyển hoặc nói chuyện, chia trí lo ra. Đức Cha chia sẻ lời Chúa như muốn anh em mình luôn nhớ rằng ‘tất cả chúng ta đều là con cái Chúa, là an hem nên phải biết sống trong tình huynh đệ yêu thương nhau. Vì chỉ có tình yêu mới có thể chiến thắng cái ác, chỉ có tình yêu mới chiến thắng sự dữ, chỉ có tình yêu mới có thể làm tất cả mọi người nên một, chỉ có tình yêu chúng ta mới sống đúng là một con người’. Những lời Đức Cha chia sẻ như tấm áo choàng tình thương của Thiên Chúa che phủ tất cả con cái Người khỏi sợ hãi, càng củng cố Đức tin ở mỗi con người, làm cho mỗi người nhận ra cái đích phía trước mà chúng ta phải hướng đến là nước Thiên đàng để có thái độ sống tốt hơn. Đức Cha chúc lành và ban bình an cho tất cả các em Thiếu nhi Thánh Thể vừa xong bí tích Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu, các em được rước cả Mình và Máu Thánh Chúa. Cha Phaolô Nguyễn Văn Công đọc thư chúc mừng Giáng sinh của Đức Cha Micae cho cộng đoàn nghe. Sau Lễ, Cha Công mời cộng đoàn nán lại nhận thức ăn khuya là bánh mì thịt do nhóm ‘bảo vệ sự sống Sài Gòn và các bạn’ do Cha Giuse Lê Quang Uy DCCT phụ trách gửi tặng. Các em nhỏ được nhận bong bóng nhiều hình khác nhau trong sự yêu thích lạ lùng vì ‘đi Lễ mà có thưởng’. Dù khá thấm mệt nhưng Đức Cha Micae vẫn chưa được nghỉ ngơi, Ngài theo chân các sơ và Mẹ tổng quyền bề trên dòng cùng hơn hai mươi giáo dân, nhóm BVSS, nhóm Lòng Thương Sót Sài Gòn, Truyền thông GP Kontum và anh em VRNs đến thăm nhà dòng Đa Minh Thánh Tâm mới mở tại H’ra cách giáo xứ vài trăm mét. Đức Cha và mọi người lặn lội trong đêm hôm tăm tối trên con đường đất ngoằn ngoèo, quanh co, khúc khuỷu đến nhà Dòng trong cái lạnh thấu xương, chốc chốc có người cứ hà hơi vào tay để giữ ấm. Nhà dòng bằng gỗ đơn sơ với nền là gạch ống thưa thớt mà Đức Cha nói nửa đùa nửa thật rằng “nếu rơi tiền xu xuống đây thì chỉ có mất chứ làm sao mà tìm được”. Đức Cha và một nhóm người trèo lên chiếc cầu thang cao nghệu để lên gác, số còn lại đứng dưới nhà cùng hiệp thông đọc kinh, cầu nguyện. Đức Cha đã làm phép nhà, rẩy nước phép khắp nhà từ trên gác xuống đất, từ trong nhà ra ngoài ngõ để “bình an và hồng ân Chúa sẽ ở với ngôi gia này, xin Chúa ban muôn ơn lành trên những người đem tình yêu Chúa đến nơi khổ nghèo, hèn mọn”. Mẹ Bề trên Tổng quyền thay mặt nhà dòng cảm ơn Đức Cha, có món quà nhỏ thay tấm lòng của nhà dòng dâng kính Đức Cha nhưng Ngài chỉ đặt tay lên quà “xem như tôi đã nhận”. Hình ảnh một Đức Giám mục mộc mạc, chân chất, đơn sơ nhưng giàu tình yêu Thiên Chúa đã thắp lửa cho đời, thắp sáng cho người, đặc biệt là toàn thể dân Chúa khổ nghèo trên rẻo Tây Nguyên. Giêra Nguyễn – Nguyễn Quân TT, VRNs -------------------- ***Bình yên một thoáng***
|
|
|
![]() ![]()
Post
#105
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 13,947 Joined: 18-November 08 Member No.: 775 Age: 53 Country ![]() ![]() |
![]() Trung Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum Trung tá Ngô Văn Xuân xuất thân khóa 17 trường Võ Bị Quốc gia Đà Lạt đã từng giữ chức vụ Đại đội trưởng Trinh sát thuộc Trung đoàn 11 Sư đoàn 7 Bộ binh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 44 của Sư đoàn 23 Bộ binh, Trưởng phòng Hành quân Sư đoàn 23 và cuối cùng là Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 44 Sư đoàn 23. Trong chiến đãu, ông đã 3 lần bị thương và sau khi VC chiếm miền Nam, ông đã bị đi cải tạo 13 năm. Ông đến Hoa Kỳ theo danh sách HO vào tháng 4/1992 và hiện đang cư ngụ tại vùng Bắc California. ”Mùa Hè Đỏ Lửa” trên vùng Cao nguyên mới đó mà đã 24 năm. Lửa chiến trường bây giờ đã nguội lạnh. Những chiến sĩ trẻ tuổi nhất của chiến trường lúc ấy, bây giờ cũng đã bước vào tuổi tứ tuần. Những cấp chỉ huy của mặt trận lúc ấy, sau bao thăng trầm dâu biển, giờ đây số còn sống sót cũng chẳng là baọ Đã có nhiều cuốn sách, hồi ký của nhiều tác giả viết về trận đánh mang tính quyết định này. Có người đã nhìn diễn tiến của trận chiến đó từ những góc độ khá cao, thậm chí có khi đã tường thuật 1 cách dửng dưng như 1 khán giả ngồi xem trên khán đài. Nhưng dầu sao, cũng còn nhiều khía cạnh đặc biệt của các trận chiến đó mà những người ngoại cuộc không thể thấy rõ hết được Đôi khi tôi muốn kể lại diễn biến thực sự của trận đánh mà chính mình tham dự cùng với các chiến hữu của mình, nhưng tôi nghĩ rằng tôi không phải là 1 nhà sử học và cũng không phải là 1 nhà văn, nên cứ ngại ngùng về sự trình bày. Hôm nay, nhìn mọi người đang vui xuân ở quê người, bỗng dưng tôi thấy lòng nao nao khó tả khi nhớ đến các đồng đội chia ngọt xẽ bùi, vào sinh ra tử với mình, trong số đó, phần lớn đã nằm xuống trong lòng đất, một sốcòn lại đang sống cơ cực ở một nơi nào đó trên quê hương, chỉ có một số ít may mắn tìm được đất mới, nhưng cuộc sống chưa có gì là khả quan. Chẳng mấy chốc, thêm một tháng 5 trên quê ngườị Mùa hè ở nơi đây dịu dàng hơn, không hẳn chỉ do nơi khí hậu tốt lành mà còn bắt nguồn từ việc được hít thở không khí tự do, điều mà các bạn bè, chiến hữu của tôi đã và đang xả thân chiến đấu để tìm cho được. Nhớ tới những chiến hữu đã nằm xuống trên chiến trường Kontum vào những ngày “Mùa Hè Đỏ Lửa” là động lực duy nhất khiến tôi vùng dậy, ngồi viết bài này. 1. DIỄN TIẾN TÌNH HÌNH Sư đoàn 23 Bộ binh gồm 3 Trung đoàn 44, 45 và 53. Các Trung đoàn này được phối trí trên lãnh thổ khu 23 chiến thuật bao gồm các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Tuyên Đức, Quảng Đức, Lâm Đồng, Phan Thiết, Phan Rang, Khánh Hòạ Do tình hình của từng địa phương, các Trung đoàn được bố trí như sau: Trung đoàn 45, hậu cứ đóng tại Ban Mê Thuột, trách nhiệm hành quân khu vực Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức. Trung đoàn 53, hậu cứ đóng tại Bảo Lộc, trác nhiệm hành quân trên lãnh thổ các tỉnh Lâm Đồng, Truyên Đức. Trung đoàn 44, hậu cứ đóng tại Sông Mao, trách nhiệm khu vực Phan Thiết và Phan Rang. Tuy nhiên, tùy theo tình hình đòi hỏi, trong các chiến dịch lớn phối hợp nhiều đơn vị thì các Trung đoàn này di động phối hợp tác chiến chung với Trung đoàn kia trong cùng một chiến dịch. Sau vụ Tổng Công Kích Mậu Thân 1968. Những lực lượng đýa phương bao gồm các du kích, chủ lực tỉnh, chủ lực miền và thành phần cơ sở của CS bị tiêu diệt gần hết. Riêng tại lãnh thổ thuộc tỉnh Phan Thiết, trực thuộc Quân khu 7 của Tướng Nguyễn Văn Ngàn của CS, tình hình càng bi đát hơn. Những cố gắng cuối cùng trong cơn hấp hối, với các cuộc tấn công thí mạng vào Sông Mao, và các cuộc phục kích trên quốc lộ 1 trên đoạn Lương Sơn tới chân núi Tà Dôm trong tháng 8, 9 và 10 trong nă 1970 của 2 Tiểu đoàn chủ lực miền 481 và 482 là dấu chấm cuối cùng trong lịch sử thành lập các đơn vị nàỵ Tình hình càng bi thảm hơn khi lực lượng Hoa Kỳ bao gồm Tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn 506 Nhảy dù yểm trợ trực tiếp cho 1 đại đội cơ giới công binh có gần 20 máy ũi cỡ lớn khai quang quốc lộ 1, 1 đoạn dường băng ngang mật khu Lê Hồng Phong. Cũng trong thời gian này, Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, 1 người rất thành công trong chiến dịch bình định phát triển của mình, đã tách được các lực lượng cơ sở của CS và vô hiệu hóa được các cơ sở nàỵ Điều này đã được báo cáo về trung ương và TT Thiệu đã xác minh bằng chính những cuộc di chuyển bằng xe Jeep vào ban đêm trên đoạn đường từ Phan Thiết đi Phan Rang, 1 điều mà chỉ một hai năm trước đó không thể thực hiện được. Do diễn biến tình hình thuận lợi như thế, Bộ Tư lịnh Quân đoàn 2 đã quyết định điều động 2 Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 44 lên Pleiku làm lực lượng trừ bị cho Quân đoàn. Tháng 7/1971, Chiến đoàn A/44 được thành lập. Thành phần gồm 2 Tiểu đoàn 1 và 2, BCH nhẹ Trung đoàn do tôi chỉ huỵ Chiến đoàn di chuyển lên căn cứ Hàm Rồng ở Pleiku nhận lệnh rồi sau đó đi An Khê, phối hợp hành quân với Thiết đoàn 3 Thiết giáp. Tháng 11/1971, tình hình chiến trương Cao nguyên sôi động hẳn lên. Những trận đánh đẫm máu đã xảy ra giữa CS với các lực lượng của ta gồm có Sư đoàn 23 Bộ binh, Biệt động quân, Lực lượng đặc biệt, Địa phương quân…ở vùng 3 biên giới, trại Bạch Hổ, các căn cứ 5 và 6… BTL Quân đoàn 2 đã quyết định điều động toàn bộ Trung đoàn 44 còn lại tại Sông Mao trực chỉ Pleiku. Có lẽ cũng cần nhấn mạnh đến 1 điều là lợi dụng tình hình thuận lợi trong năm 1971 đến tháng 9/1971, Trung đoàn 44 đã được xử dụng làm thí diểm cho chương trình “Chân Trời Mới” của Bộ Tổng Tham Mưu, nhằm tái bổ sng và huấn luyện để tạo cho Trung đoàn 1 khả năng tác chiến mới. Điều này đã đạt được kết quả là khi được điều động lên Cao nguyên, Trung đoàn 44 là 1 Trung đoàn có thực lực tương đối mạnh cả về quân số lẫn khả năng tác chiến. Hơn nữa, sự chiến thắng liên tiếp qua các trận đánh trong 2 năm 1970 và 1971 đã tạo ho Trung đoàn 1 tinh thần quyết thắng. Ngoài ra, trong thời gian đồn trú tại An Khê, Trung tá Trần Quang Tiến, Trung đoàn trưởng, đã có dịp để tuyển lựa ra 1 số binh sĩ tinh nhuệ và huấn luyện cho các chiến sĩ này khả năng sử dụng B40 và B41 (1 loại súng chống chiến xa khá hữu hiệu của khối CS). 2. TRUNG ÐOÀN 44 THAM GIA TRẬN ÐÁNH Cuối tháng 3/1972, Chiến đoàn A/44 di chuyển đi Pleiku, thay thế nhiệm vụ của Trung đoàn 45 đang mở quốc lộ 14, đoạn đường từ Pleiku đi Kontum. Tôi còn nhớ rất rõ cái ngày kinh hoàng này. 5 giờ sáng, binh sĩ các tiểu đoàn 1 và 2 đã được báo thức dể chuẩn bị lên xe sẵn sàng di chuyển. Trung tâm Hành quân của Quân đoàn báo cho biết, căn cứ 42 (1 căn cứ hỏa lực, cách Kontum khoảng 7km về phía Bắc, nằm sát bên quốc lộ 14), hiện vẫn còn đang bị đặc công CS tấn công! 8 giờ sáng, Chiến đoàn di chuyển. 10 giờ 30, đoàn xe đến vị trí. Tiếng báo cáo của Dại úy Đặng Trung Đức, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/44 qua ống liên hợp làm tôi ngạc nhiên :”Báo cáo Bá Hòa (danh hiệu truyền tin của tôi), tình hình trong căn cứ sao thấy kỳ cục quá!”. Tôi ra lịnh cho chú lái xe vượt qua đoàn xe tiến lên phía trước. Vừa đến cửa căn cứ, tôi thấy Đức đứng xớ rớ nói chuyện với 1 sĩ quan thuộc Trung đoàn 45. Mùi khói củ thuốc súng và các vật dụng bằng gỗ đang cháy ngún, mùi khét của thịt người, mùi tanh của máụ..hoà huyện với nhau cho biết có một cuộc chiến vừa mới diễn ra nơi đây. Quan sát chiến trường, tôi nhận ra những xác chết đang nằm ngổn ngang gồm đủ loại, từ binh chủng Nhảy dù, Trung đoàn 45, Địa phương quân, Nghĩa quân, Pháo binh, gia đình binh sĩ…đến xác các đặc công CS. Bất chợt, tôi găp lại Thiếu tá Huỳnh Ngọc Anh, Trung đoàn phó Trung doàn 45, một bạn thân của tôi. Anh ta liền cho tôi biết căn cứ của anh bị đặc công CS tấn công vào lúc 2 giờ đêm qua, mãi tới 5 giờ sáng tiếng súng mới chấm dứt. Cuộc kiểm tra được khởi sự từ 8 giờ dến giờ, số tổn thất vẫn chưa xác định chính xác. Đến 2 giờ chiều, công việc bàn giao mới xong. Chiến đoàn nhận trách nhiệm mở đường và chịu trách nhiệm an ninh lộ trình cho đoạn quốc lộ 14 từ Pleiku đi Kontum. Trong gần 1 tuần lễ tại đây, tình hình không có tiến triển nào đáng kể. Dãy đồi đá Chu Pao nằm kề sát bên quốc lộ là một dãy những vách đá dựng. Trung đoàn 95 đặc công CS bố trí thành từng đám nhỏ trong các hang và vách đá trải dài theo quốc lộ hơn 5km, chốt chặt con đường lại. Đơn vị chúng tôi bị cầm chân ở phía Đông quốc lộ 14, không tiến lên được. Những cuộc chạm súng qua lại thường ở cấp độ tiểu đội, giành giựt nhau từng tấc đất, vách đá. Sáng ngày 12/5/72, Chiến đoàn nhận được lệnh rời bỏ khu vực hành quan di chuyển đi Kontum. Tôi thở ra nhẹ nhõm. Dù chỉ mới có hơn tuần lễ chơi trò đánh du kích giựt chốt này, bứt chốt nọ, tôi cảm thấy hơi chán nản. Chúng tôi chờ đợi những cuộc hành quân mang tính tiến công hơn là những cuộc tranh giành từng vị trí chiến đấu mà tôi đã từng trải qua khi còn là 1 Đại đội trưởng Trinh sát hay Tiểu đoàn trưởng. 4 giờ chiều cùng ngày, tôi trở về Phòng 3 Quân đoàn để nhận kế hoạch di chuyển chi tiết. Tại đây tôi đã gặp Đại tá Lê Quang Bình, Tham mưu trưởng Quân đoàn và được biết đơn vị của tôi sẽ được chở bằng phi cơ C.130 đi Kontum vào đêm nay. 11 giờ, toàn đơn vi có mặt tại phi trường Phượng Hoàng. Tại đây, chúng tôi lại được thông báo thêm 1 tin mới: Phi trường Kontum hiện đang nằm trong tầm pháo của CS, phi cơ sẽ hạ cánh theo ánh đèn hướng dẫn của toán chuyên viên phi trường trên phi đạọ Ngay khi bánh xe ngừng lăn, cửa phi cơ sẽ mở rộng và các binh sĩ sẽ phải chia làm 2 hàng chạy thật nhanh ra khỏi phi cơ và phi đạo để tránh phá! Nhưng cũng lưu ý là không được chạy ra quá phi đạo 50 m vì phía ngoài phi đạo có gài mìn chống chiến xa! Bộ chỉ huy của Chiến đoàn và tôi đi theo chuyến phi cơ đầu tiên, vì tôi muốn nắm được tình hình cụ thể để có thể có những xử trí thích ứng khi cần. Chiếc phi cơ Hercules C.130 chở gần 100 người cất cánh lúc 11 giờ 30 đêm ấỵ Trời cao nguyên trong tháng đầu hè đày sao lóng lánh trên bầu trời đen xanh thăm thẳm. Khó ai có thể tin được trong cái im lặng thanh khiết ấy sẽ hứa hẹn những cuộc thư hùng đẫm máu chỉ không đầy 24 tiếng đồng hồ sau. 10 phút sau khi cất cánh, phi trường Kontum đã hiện ra trong những ánh chớp của những máy beacon của toán chuyên viên hướng đạo. Chiếc phi cơ hạ thấp dần và đáp rất gọn xuống phi đạo trong đêm tối, chạy đến cuối đường bay, trở đầu, mở cửa. Chúng tôi phân tán rất nhanh qua 2 bên đường trong im lặng. Phi cơ lại rú mạnh và bốc lên cao hướng về lại phía Pleiku. Tất cả cuộc di chuyển, lên xuống không đầy 15 phút cho mỗi chuyến. Đức theo chuyến bay thứ 2. Tôi yêu cầu Đức ở lại tiếp tục theo dõi cuộc vận chuyển. Lệnh từ BTL Sư đoàn cho biết, sẽ có 1 chiếc xe Jeep ra đón tôi vào trình diện Đại tá Tư lịnh Sư đoàn. Viên sĩ quan tùy viên đưa tôi vào 1 căn nhà xây kiểu như 1 văn phòng công sở thường, chung quanh có 1 lớp rào kẽm gai sơ sài. Sau đó tôi được hướng dẫn vào gặp vị Tư lịnh, lúc đó là khoảng 1 giờ sáng ngày 13/5/1972. ![]() Đại Tá Lý Tòng Bá (1972) Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lịnh Sư đoàn, mặc áo thun trắng, quần trận màu xanh. Sau cái bắt tay xã giao, ông kéo tôi ngồi chung trên chiếc giường sắt quân đội được kê giữa phòng. Ông hỏi qua tình hình đơn vị, tinh thần binh sĩ, rồi ông đứng lên, kéo tôi xuống Trung tâm Hành quân nói sơ lược tình hình, diễn biến các kế hoạch của Sư đoàn, sau đó ông giao nhiệm vụ. Tại đây tôi được biết, toàn bộ Trung đoàn 44 sẽ tiếp tục lên trong ngày 13. Nhiệm vụ trước mắt của chúng tôi là bố trí thay thế 1 Liên đoàn Biệt động quân trên tuyến phòng thủ hướng Tây Bắc cách tỉnh Kontum khoảng 5 km. Tôi trở lại phi trường Kontum, họp hành quân với Đặng Trung Đức, Tiểu đoàn trưởng Tiểu doàn 1/44 và Nguyễn Xuân Phán, Tiểu đoàn trưởng của Tiểu đoàn 2/44. 6 giờ 30 sáng, những tia sáng mặt trời chưa đủ để soi rõ thành phố đang ngái ngủ thì có tiếng nổ “ùynh, oàng, ùynh, oàng…”, 2 trái hỏa tiển 120 ly của CS rót thẳng vào phi trường từ hướng Đông Bắc. Rất may là cả 2 đều nổ gần trạm Tiếp Liên vắng người nên không gây tổn thất. Tôi cho lệnh Đức và Phán kéo quân ra khỏi phi trường, đi bộ dọc theo quốc lộ 14 lên hướng Bắc thi hành nhiệm vụ. Cuộc chuyển quân và phối trí quân cứ tiến hành nhịp nhàng như thế cho đến 5 giờ chiêu thì hoàn tất. Trung tá Tiên cùng Bộ chỉ huy Trung đoàn cũng đã lên đầy đủ cùng 2 Tiểu đoàn 3 và 4. Trung đoàn 44 dược phối trí như sau : Ba Tiểu đoàn 1, 2 và 3 trải dài theo hình cánh cung trên tuyến phòng thủ dài gần 4km, phía Tây giáp nhánh sông Dap Kron (?), phía Đông giáp quốc lộ 14. Phía phải quốc lộ là Trung đoàn 45. Lùi về phía sau tuyến phòng thủ khoảng 2km là đòi tròn, BCN Trung đoàn đóng tại đâỵ Tiểu đoàn 4/44 và Đại đội 44 Trinh sát là lực lượng trừ bị. 6 giờ chiều, Trung tá Tiến cùng tôi đi kiểm tra tuyến phòng thủ của các Tiểu đoàn 1, 2 và 3. Tại vị trí BCH cũ của đởn vị Biệt động quân vừa bỏ đi, chúng tôi vừa bước vào hầm hành quân thì cùng lúc pháo binh CS bắn tới. Những khẩu pháo này được đặt ngay tại Eo-Gió, 1 vị trí cách chúng tôi chừng 3km hướng Bắc, trực xạ vào chúng tôị Cuộc bắn phá này kéo dài chừng 20 phút. Những cột ăng-ten bật tung, khói bay mịt mù, trời sập tối. 8 giờ tối hôm ấy, chúng tôi được BTL Sư đoàn cho biết có nhận được điện văn của CS báo cáo đã diệt gọn Chỉ Huy Sở 44! 12 giờ đêm điện thoại reo, Trung tá Hiếu điện đàm cùng Đại tá Tư lịnh Sư đoàn. Đại tá Tư lịnh cho biết đã bắt được mật lịnh tấn công của CS vào 5 giờ sáng hôm sau, yêu cầu Trung đoàn chuẩn bị sẵn sàng đối phó.. Tất cả Trung đoàn được báo thức. Hầm hố cá nhân được lịnh phải tu bổ lại, cũng cố thêm để có thể chịu đựng được các cuộc pháo kích nặng trong chiến thuật tiền pháo hậu xung của địch. Không khí oi bức của mùa hè Cao nguyên, cái ngột ngạt của sự chờ đợi, cái căng thẳng sẵn có kéo dài nửa tháng naỵ..làm cho chúng tôi càng không ngủ được. Đêm im lặng lạ thường. Cái im lặng chứa chất những mưu toan, thủ đoạn của cả 2 phía. Nằm trên chiếc poncho bên cạnh miệng hầm, tôi ngước nhìn bầu trời đầy saọ Tôi cố tìm trong giải ngân hà hằng hà sa số sao kia một ánh sao sa, để kịp nói lên 1 điều ước: Cuộc chiến hãy mau khởi sự để chấm dứt cuộc chờ đợi khốn nạn này. 3. TRẬN ÐÁNH MỞ MÀN Những tiếng pháo gầm rú như giận dữ sau 1 thời gian bị bắt buộc chờ đợi. Tiếng điện đàm từ các hệ thống máy truyền tin gọi nhau ơi ớI. Tiếng nói như có vẻ hơi mất bình tĩnh của Đức:”Báo cáo Bá Hòa, địch bắt đàu tấn công chúng tôi”. Tiếng nói lúc nào cũng lạnh lùng bình thản của Phán:”Báo cáo Bá Hòa, có 3 chiếc tăng đang di chuyển về hướng tôi!”. Lúc đó là 5 giờ 20 sáng ngày 14/5/72. Sau gần 30 phút pháo kích liên tục trên tuyến phòng thủ của các Tiểu đoàn 1, 2 và 3, những loạt đan pháo chuyển xạ về hướng chúng tôi để hổ trợ cho các cuộc xung kích của bộ binh và chiến xa của địch. Cuôc tấn công mang đầy tính chính quy sách vở mà tôi đã được huấn luyện cách đó 12 năm, nhưng mới chỉ được chứng kiến lần đàu. Chúng tôi xử dụng các hàng rào cản pháo binh hỗ trợ tuyến phòng thủ, các phi cơ quan sát theo hương điều động của địch. Một phi đội trực thăng có trang bị đặc biệt hỏa tiển TOW cũng có mặt tại mặt trận không lâu sau đó. 6 giờ 15, tiếng báo cáo của Đức vang trong máy:”Báo cáo Bá Hòa, chúng tôi rang được 2 con cua rồi!”. Tiếng của Phán:”Báo cho Bá Hòa biết là tôi bắt được 1 con cua sống, 1 con bị rang muối còn 1 con chạy lủi về hướng Bắc, xin Bá Hòa cho Sao Mai (danh hiệu của phi cơ quan sát) nó biết nó thit luôn cho rồi!”. Tôi cũng chẳng chờ đợi lâu, tiếng phi công vui vẻ:”Hồng Ngọc (danh hiệu của Phán) yên chí, tôi thấy nó rồi, tụi nó đang chạy cát bụi mịt mù kia rồi…”. 3 chiếc trực thăng võ trang được gọi đến kịp thời. Những con cua của Trung đoàn 2 Thiết giáp CS sau khi dội ngược trước bức tường thép, cũng chịu chung số phận hẩm hiu như đòng đội. Đến 10 giờ, tiếng súng lớn thưa thớt dần, tiếng súng nhỏ cũng chỉ còn rời rạc. Trên bầu trờ quang đãng lúc ấy chỉ còn vần vũ 2 phi tuần khu trục phản lực Standby. Báo cáo sơ khởi, trên tuyến phòng thủ của Trung đoàn 44, địch bỏ lại 5 xe tăng T54, 1 bị bắt sống. Khoảng hơn 100 xác đých nằm rải rác trên tuyến kéo dài trên 4km. Bên ta khoảng 50 bị hy sinh và bị thương, trong đó có 2 Đại đội trưởng. Và điều khôi hài là trong 5 chiếc xe tăng bị bắn cháy ấy, có tới 2 chiếc là do súng B40 của các toán diệt tăng của ta. 7 tù binh, trong đó có 2 bị thương, được giao giải ngay về BTL Sư đoàn khai thác. Cuộc hưu chiến bất đắc dĩ kéo dài không lâu, 2 giờ 15, địch phát động cuộc tấn công thứ hai vào phòng tuyến của ta. Súng đạn các loại lại được dịp thi nhau lên tiếng. Máy bay gào thét, nhào lộn lên xuống liên tục trên hậu tuyến địch.. Nỗ lực của địch đã được Trung đoàn 44 đáp ứng xứng đáng. Thêm 3 xe bị bắn cháy trên tyến, 50 xác địch quân để lạị Tiếng súng tạm ngưng vào lúc 5 giờ chiều, rồi lại trở lại vào lúc 7 giờ tối. Trong suốt ngày 14/5/72, CS đã tung ra 3 cuộc tấn công vào phòng tuyến của ta và đều bị đẩy luị Nếu tính chung cả số chiến xa do không quân bắn cháy, chỉ trong ngày hôm ấy, Trung đoàn 2 Thiết giáp của CS mất đi 15 xe. Màn đêm trùm xuống trận địa màu tang tóc, lẫn trong mùi khói của cỏ khô trên những vạt đất còn ngun thuốc súng, lập loè những tia lửa dang dở của các đám cháy nhỏ nằm rải rác khắp chiến trường. Vẫn có mùi tanh của máu, mùi khét của thịt da ngườị Tất cả quyện lại với nhau, tạo nên cái mà người ta thường gọi là tử khí. Những cung từ của tù binh khiến cho ta nắm được đội hình tấn công của địch. Trung đoàn 44 đang trực diện với mũi tấn công chính của 2 Trung đoàn 48 và 64 trực thuộc Sư đoàn 320 thép của CSBV. Sư đoàn này là 1 trong 2 Sư đoàn khét tiếng là tinh nhuệ và chủ công của CS. Sư đoàn kia là 308. Từ nhiệm vụ là lực lượng tổng trừ bị của CSBV, 2 sư đoàn này đã được tung vào chiến trường miền Nam dể thay thế các đơn vị đã bị tổn thất nặng nề, mất khả năng tác chiến. Sư đoàn 320 đã xuyên thủg tuyến phòng thủ của Sư đoàn 22 Bộ binh VNCH trên chiến trường Tân Cảnh ở vùng Tam Biên, và cũng đã phải trả một giá khá đắt cho thành quả này của họ. Điều này được giải thích bằng sự tái tổ chức và trang bị, mất khá nhiều thời gian nên tốc độ cuộc tiến quân bị chậm đến gần 1 tháng, kể từ sau khi họ chiếm được Tân Cảnh. Sáng ngày 15/5/72, cũng vẫn màn dạo đầu là loạt pháo dọn đường, sau đó là bộ binh xung phong, 2 Trung đoàn 48 và 64 của Sư đoàn 320 CSBV tiếp tục cuộc xuyên phá tuyệt vọng của họ. Các chiến sĩ thuôc Trung đoàn 44 vẫn bình tĩnh, lạnh lùng quyết liệt chống trả. Đặc biệt trong lần tấn công đầu ngày này, không có sự hỗ trợ của chiến xa nữạ Điều này ch+’ng tỏ lực lượng xung kích bằng thiết giáp của họ đã chịu những tổn thất thực sự nặng nề. Buổi trưa cùng ngày, 1 mũi tấn công của họ đã chiếm được 1 số vị trí tiếp giáp giữa 2 Tiểu đoàn 1 và 3. Đại tá Trung đoàn trưởng (đã được đặc cách gắn tại mặt trận buổi trưa ngày 14/5/72 do Thiếu tướng Toàn, Tư lịnh Vùng, và cố vấn Paul Vann), đã quyết định tung luôn tiểu đoàn trừ bị 4/44 vào chiếm lại khu vực nàỵ Phải mất gần 4 tiếng đồng hồ, Đại úy Võ Anh Tài, Tiểu đoàn trưởng, mới báo cáo hoàn tất nhiệm vụ. Kể từ lúc đó, lực lượng trừ bị của Trung đoàn chỉ còn lại 1 Đại đội Trinh sát. 8 giờ tối, Đại tá Tư lịnh Sư đoàn điện thoại trực tiếp với Đại tá Tiến, thông báo 1 quyết định táo bạo của ông. Sư đoàn sẽ sử dụng hộp bom trải thảm (Box B52) để tiêu diệt lực lượng địch đang áp sát tuyến phòng thủ của ta để tránh bị tiêu diệt bằng hỏa lực phi pháọ Mỗi Box B52 có diện tích 3 km2, số bom được thả xuống cho mỗi tấm thảm này gồm nhiều loại, từ 100 – 500 pound, đủ sức tiêu diệt hầu hết các sinh vật nằm trong thảm. Dù bom được thả theo sự hướng dẫn của các công cụ điện tử nên bom rơi vào các vị trí khá chính xác, nhưng qui luật an toàn vẫn đòi hỏi đơn vị bạn phải nằm cách thảm bom tối thiểu 500m theo hướng thẳng góc với chiều bay của B52 và 2km với hướng baỵ Trong khi khoảng cách giữa ta và địch lúc đó chỉ vỏn vẹn có 20-30m, thậm chí có những vị trí còn gần hơn thế nũạ Đại tá Tư lịnh Sư đoàn chỉ thị các đơn vị của Trung đoàn phải bí mật rời khỏi vị trí phòng thủ 300m về phía sau, núp theo con suối cạn 2 phút trước khi máy bay B52 đến trải thảm. Lệnh được ban ra qua điện thoại để bảo mật hoàn toàn. 12 giờ 2 phút, vừa kịp nghe tiếng ù ù của máy bay, thì đã có tiếng ục ục của bom rơi! Những tiếng nổ long trời lở đất, kèm theo những chấn động rung chyển mặt đất, mọi ngươi đều cảm thấy tức ngực đến ngộp thở, dù rằng vị trí của chúng tôi lúc đó cách xa thảm bom 2 km! Quyết định táo bạo này đã mang đến 1 kết quả không ngờ : Biệt đội tình báo kỹ thuật của Sư đoàn nghe lén được những điện khẩn của các đơn vị CS kêu nhau ơi ớị.. Một số chỉ huy sở biệt vô âm tín, trong đó có BCH Trung đoàn 48 đang nằm đối mặt với Tiểu doàn 2/44. Tình hình trở lại yên tĩnh từ dêm 16-20/5/72. Tính ra hầu như toàn bộ Trung đoàn 44 đã không ngủ gần 1 tuần lễ liên tiếp, hay nói cho chính xác hơn, không được phép ngủ trong suốt thời gian ấỵ Thêm vào đó là những tổn thất không thể tránh được sau 1 tuân lễ giao tranh. Trung đoàn cần được nghỉ ngơi, BTL Sư đoàn quyết định đưa Trung đoàn 53 ra thay thế., Trung đoàn 44 trở về làm trừ bị cho Sư đoàn. 2 Tiểu đoàn 1 và 2 được đưa ra nghỉ ngơi tại bờ sông Dap La, trong khu dân cư của BCH Trung đoàn, Tiểu đoàn 4 và Đại đội Trinh sát trở về đồn trú tại BTL Biệt khu 24. So ra sau 1 tuần trằn trọc bên chiến hào, nằm cận kề địch quân, đêm đầu tiên được ngủ trong 1 doanh trại kiên cố khiến cho tôi cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Tôi ngả lưng trên ghế bố trong Trung tâm Hành quân và…lịm đị 4. TRẬN ÐÁNH ÐỢT HAI Cuộc vui nào cũng qua mau, người ta thường nói như thế. Điều này lại càng đúng cho chúng toi hơn bao giờ. Cuộc dưỡng quân chưa tròn 2 ngày thì chiều 22, Đại tá Trung đoàn trưởng và tôi được qua trình diện Đại tá Tư lịnh Sư đoàn để nhân lịnh mớị Vị Tư lịnh kêu chúng tôi xuống Trung tâm hành quân Sư đoàn. Với vẻ mặt đăm chiêu, ông ôn tồn nói :”Tôi biết Trung đoàn còn rất mệt, các anh đáng lý cần dược xả hơi thêm vài ngày nữa, nhưng tình hình đang có những diễn tiến mớị Sư đdoàn 320 đã kiệt quệ hẳn, không còn khả năng hành quân nữạ Tuy nhiên, chúng ta đã nhận được những tin tức khá chính xác về 1 kế hoạch mới : Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lịnh Mặt trận B3, quyết định tung ra nỗ lực cuối cùng bằng 1 cuộc tấn công mới với Sư đoàn 2 Sao Vàng được điều từ Tam Quang và Bồng Sơn lên, phối hợp với Sư đoàn 968 mới được bổ sung và thành lập bởi các đơn vị chính thống của Mặt trận. Cố vấn John Paul Vann yêu cầu chúng ta mở 1 cuộc phản công bằng tấn công vào sau lưng địch. Tôi đã trình bày cho ông ta biết thực trạng của chúng ta, nhưng ông ấy đã áp lực bằng cách nêu điều kiện chỉ tiếp tục yểm trợ hỏa lực B52 nếu chúng ta tổ chức 1 cuộc hành quân như thế! Rồi ông quay qua phía tôi vỗ vai nói :”Tao biết chú mày không mấy vui về quyết định này, cũng như chính tao vậy! Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Tao tin tưởng ở chú em và hy vọng là chú em sẽ hoàn thành được sứ mạng này”. Đại tá Tiến và tôi nhìn nhau không nóị Đúng hơn là không được phép nói không. 7 giờ sáng ngày 23/5/72, tôi và 2 tiểu đoàn 1 và 2/44 tham gia cuộc hành quân phản công nàỵ Trong các cuộc hành quân quan trọng, tôi vẫn có thói quen sử dụng 2 đơn vị này vì nhiều lý do riêng tự Thứ nhất, cả Đức và Phán đều xuất thân từ khóa 19 Đà Lạt, là khóa đàn em do chính khóa 17 chúng tôi huấn luyện, nên ngoài hệ thống quân giai của Quân đội, giữa chúng tôi còn có tình đồng trường truyền thống. Thứ hai, 2 tiểu đoàn này đều là 2 tiểu đoàn có nhiều thành tích nhất trong Trung đoàn, có tổ chức cán bộ chặt chẽ và tinh thầ chiến đấu khá caọ Sau ít phút thảo luận, tôi, Phán và Đức đã đồng ý với nhau 1 số nguyên tắc : - Mỗi tiểu đoàn chỉ lựa ra khoảng 150 binh sĩ, sĩ quan và hạ sĩ quan có tinh thần và sức khoẻ tốt. - Tất cả súng cộng đồng đều bỏ lại hậu cứ. - Quân trang quân dụng mang tối thiểu, gọn nhẹ, dễ xoay xở. Chiến đoàn đặc nhiệm của chúng tôi sẽ được trực thăng vận vào sau lưng phòng tuyến địch từ 10-15 km, sau đó sẽ mở cuộc càn quét địch từ hướng Bắc xuống Nam, lấy trục đường 14 làm chuẩn, hướng về phía Kontum. Phi đoàn 263 của Thiếu tá Quang nhận nhiệm vụ hành quân phối hợp với chúng tôị Khi bước lên máy bay chỉ huy C&C, tôi bàn cùng Quang hướng tiếp cận bãi đáp để đánh lừa địch. Đội hình của đơn vị bay theo trục đông tây, hướng về phía Trung Nghĩa, ra sát ven sông Dab Kron, rồi lên hướng bắc, đổi hướng tây đông, băng qua quốc lộ 14 và đáp xuông các bãi đáp trống trên các ngọn đồị Cuộc đổ quân hoàn tất lúc 9 giờ sáng, không có tổn thất. Tôi chia dơn vi làm 2 mũi, Tiểu đoàn 1 cập theo quốc lộ 14, Tiểu đoàn 2 dọc theo đường đỉnh cách quốc lộ 1 km, tôi đi theo Tiểu đoàn 2. Ngay khi xuống bãi đáp, chúng tôi đã chạm trán ngay với các toán hậu cần và thông tin liên lạc của địch. Trên đoạn đường khoảng 3 km di chuyển dầu tiên, ít nhất chúng tôi cũng đã tiêu diệt được hơn 1 tiểu đội địch đi lang thang kéo giây điện thoại hoặc gánh cơm tiếp tế.. 12 giờ, chúng tôi còn cách thị xã Kontum 10 km. Nhìn về hướng thị xã, khói lửa ngút trời, tiếng pháo nổ dồn dập tưởng chừng như không bao giờ dứt. Trong hệ thống thông tin nội bộ của Sư đoàn, tôi nghe tiếng của các đơn vị báo cáo bị CS pháo kích kêu liên tục. Trong cái huyên náo ồn ào đó, từ khắp hướng, những chiếc phản lực cơ nhào lộn thả bom lên xuống tấp nập không kém. Sau này tôi mới được biết, nội trong ngày 23/5/72, Kontum đã chịu 1 ngày ăn nhiều đạn pháp nhất, gần 2000 quả đạn trải rộng trên 1 diện tích không đầy 10 km2! 1 giờ trưa, tôi nhận được lệnh trực tiếp từ Mặt Trờị Tiếng Đại tá Tư lịnh vang lên trong máy : - Bá Hòa, đây là Mặt Trời đây, anh nghe tôi rõ không? - Tôi nghe Mặt Trời 3/5, có gì Mặt Trời nói đị - Đây là Mặt Trời, tôi lệnh cho anh phải về nhà trước chiều nay để gặp gia đình anh, bằng mọi giá, anh nghe tôi rõ không? - Tôi nghe rõ. - Tôi lặp lại là bằng mọi giá, anh nghe rõ không? - Tôi nghe rõ rồi, bằng mọi giá, phải không, Mặt Trời? Tôi nói lại cho Đức và Phán cái lệnh quái ác nàỵ Bằng mọi giá, chúng tôi phải đạp lên đầu cái phòng tuyến hung hiểm ủa địch đang nằm đối diện với Trung đoàn 45 để trở vào Kontum, nơi mà cũng chỉ sáng nay thôi, chúng tôi cũng từ vừa trong đó đi ra! Tôi ra lệnh dừng quân, lấy sức, ăn trưạ 2 giờ, chiến đoàn mở cuộc phản kích từ phía sau, leo qua đầu địch trở về thành phố. Khoảng 6 giờ, toàn đơn vị căng hàng ngang, mở hỏa lực và lao vao tuyến địch đang phòng ngự hướng vào Kontum. Cuộc chạm súng tương đối ngắn ngủị Không như dư liệu, một phần địch quân bị tiêu diệt ngay trên tuyến, một phần bỏ chạy về hướng tây bắc. Đại tá Tư lịnh Sư đoàn ra đón chúng tôi cách tuyến phòng thủ không xa, ngay trên quốc lộ 14. Điều an ủi lớn lao nhất cho tôi, trong cuộc hành quân này, chúng tôi chỉ bị tổn thất 1 sĩ quan và 13 binh sĩ, ngoài ra 5 người khác bị thương chúng tôi đều mang về được. Tôi chia tay Phán và Đức ngay cửa BTL Sư đoàn. Cả hai trở về bên bờ sông Dap La, còn tôi và chú em truyền tin, viên sĩ quan Ban 3, trở lại BCH Trung đoàn 44. 5. TRẬN ÐÁNH ÐỢT BA Tôi để nguyên giầy vớ, buông mình lên ghế bố nhà binh. Sau khi uống 1 ly nước đá và hút điếu thuốc, đầu óc tôi vẫn còn quay cuồng với những hình ảnh chết chóc vừa mới xảy rạ Hình ảnh của những đồng đội xả thân lao vào giặc, không ngại gian khó và hiểm nguy, không từ chối hy sinh…đã làm cho tôi vừa hãnh diện được là cấp chỉ huy của họ vừa áy náy về hình ảnh những đau thương mà gia đình, vợ con của họ phải gánh chịụ Trong suy tư ấy, tôi quên mất bản thân mình. Tôi cứ tưởng tôi là cấp chỉ huy thì thần chết không có quyền đụng tớị Thực tế, có biết bao nhiêu người nhận lãnh trách nhiệm chỉ huy như tôi đã nằm xuống như các chiến hữu khác. Súng đạn vô tình, tử sinh có số… Tôi thiếp di trong cơn mệt nhoài của thân xác. 5 giờ sáng ngày 24/5/72, tôi choàng thức giấc, tiếng súng đại bác 100 ly gắn trên chiến xa trực xạ nổ ầm đúng ngay trên hầm chỉ huy, xen kẽ giữa tiếng súng nhỏ nổ chát chúa ngay trong tuyến phòng thủ, tiếng la hét om sòm… Tôi nghe Trung úy Mạnh, Đại đội trưỏng Trinh sát 44, thất thanh trên vô tuyến : “Báo cáo Bá Hòa, địch đang tấn công vào chúng tôị..”. Thế là thế naò nhỉ? Đại đội 44 Trinh sát đang phòng thủ chung quanh căn cứ của BCH Trung đoàn. Sát ngay bờ thành phía Bắc của căn cứ là Bệnh viện 2 Dã chiến, khoảng cách từ hầm chỉ huy ra đến tuyến phòng thủ chỉ khoảng 20m. Thế là thế nào? Tiếng của Mạnh lại la bải hải trên máy :”Bá Hòa ơi, chúng tôi rang được 1 con cua rồi!”. BTL Sư đoàn quay điện thoại qua hỏi chuyện gì. Đại tá Tiến báo cáo Đại đội Trinh sát 44 vừa bắn hạ được 1 chiến xa CS, ngay bên kia hàng rào Bệnh viện 2 Dã chiến. Ai cũng ngỡ ngàng. Chiếc chiến xa nã đạn đại bác 100 ly ngay trên nóc hầm chỉ huy của húng tôi nằm cách xa lối vào Trung tâm hành quân chừng 20 m. Đó là 1 chiến xa T.59 của Trung quốc chế tạo, cải tiến từ kiểu T.54 cũ hơn. Các chiến sĩ Trinh sát 44 mở nắp xe, lôi ra 3 xác CS đẫm máụ Trong đó có viên Đại úy tên Vinh, chức vụ Đại đội trưởng cơ giới, trước ngực đeo chiếc túi da đựng bản đồ và 1 lá cờ đỏ sao vàng có thêu hàng chữ “Đơn vị anh hùng”. Đại tá Tiến đã trao chiếc cờ bị xé rách bằng nhiều vết đạn, cây súng ngắn K.59, cùng túi đựng bản đồ cho Đại tá Tư lịnh Sư đoàn, khi ông qua thăm mặt trận tại đâỵ Trời hửng sáng, trực thăng võ trang được kêu lên quan sát khu vực khuôn viên bệnh viện đã duợc di tản từ lâu trước đó, 3 chiếc thiết giáp khác chui vào nhà ẩn núp bị phát hiện và bị tiêu diệt bằng hỏa tiển TOW ngay sau đó. Đơn vị bô binh của CS tác chiến hợp đồng với chiến xa bị Đại đội trinh sát tiêu diệt gọn, gần 20 xác nằm rải rác trước tuyến phòng thủ. Mặt Bắc kể như tạm yên. Hướng cổng ra vào của BCH Biệt khu 24 quay về hướng Đông, cách 1 bãi cỏ hoang khoảng 50m, bên kia con đường đi vào cổng là khu gia binh, trại Thiết giáp… 1 Tiểu đoàn địch đang bố trí tấn công vào BCH Trung đoàn từ hướng đó. Thì ra địch đã lòn vào hướng Đông, Đông Nam, xuyên qua tuyến phòng thủ của các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân thuộc Tiểu khu Kontum, đánh vào BTL Biệt khu 44 mà chúng đinh ninh là nơi trú phòng của BTL Sư doàn 23! Sư đoàn gởi tới 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 22 tăng viện và chi đoàn chiến xa để phối hợp tiêu diệt đơn vị này của CS. 2 giờ chiều, 1 phi tuần khu trục được gởi đến để yểm trợ cuộc tiến quân. Trong thế trận cài răng lược, cuộc oanh kích của các phi cơ trở thành 1 trò chơi vô cùng nguy hiểm. Phía Bắc là Trung đoàn 45, phía Đông là các đơn vị Địa phương quân của Tiểu khu, phía Tây là BTL Sư đoàn 23, phía Nam là dơn vị bạn đang tấn công quân địch. Trục tấn công tương đối an toàn cho quân bạn vì chỉ còn 1 hướng duy nhất : trục Đông Tâỵ Các đơn vị bạn được yêu cầu thả trái khói để đánh dấu vị trí. Phi cơ quan sát điều chỉnh cự ly từng thước một! Những trái bom được thả xuống mục tiêu như những nghệ nhân biểu diễn xiếc. Lần điều chỉnh cuối cùng, trái bom 250 cân Anh thả ngay giữa mục tiêu yêu cầu, xác Cộng quân nổ văng lên cao tung toé, giữa tiếng reo hò tán thưởng của quân bạn. Cùng lúc đó, cây đại liên phòng không của địch vừa bố trí xong trên bồn nước khu gia binh bất thần nhả đạn xối xả vào thân phi cơ khi chiếc phi cơ này ngóc đầu lên chuẩn bị trợ về căn cứ. Chiếc phi cơ trúng đạn loạng choạng mất thăng bằng, nghiêng đảo trông thật đáng thương. Về sau nghe kể lại tôi mới biết, nếu anh chỉ nghĩ đế sinh mạng của mình, nhảy dù cấp cứu ra khỏi phi cơ, anh đã an toàn về với gia đình. Nhưng sẽ rơi vào giữa thị xã, chắc chắn sẽ tạo nên những tổn thất cho dân chúng, nên anh đã cố gắng đáp xuống đám rừng khô ở bờ phía Nam sông Dap La với hy vọng đem lại an toàn cho mọi ngườị Anh không ngờ 1 bờ ruộng nhỏ đã làm chiếc phi cơ anh lật ngửa và anh đã tử nạn. Tên anh là Phạm Văn Thặng, Thiếu tá Không quân Phạm Văn Thặng. Cùng buổi chiều hôm ấy, những đợt chống cự cuối cùng của địch bị bẻ gẫỵ Tù binh, đặc biệt trong cuộc tấn công này có cả 1 số hàng binh và những cán binh miền Bắc, lợi dụng trong lúc súng nổ, đã chạy sang đầu hàng các đơn vị của tạ Các bản thẩm cung sau đó đã xác nhận những tin tức ta thu nhận được là chính xác. 6. ĐỢT TẤN CÔNG CUỐI CÙNG Thời gian tiếp theo là những cuộc hành quân mở rộng vòng đai phòng thủ của Sư đoàn 23. Các đơn vị từ tuyến phòng thủ của mình tiến lên hướng Bắc, tung ra các cuộc truy quét các tàn binh CS và thu dọn chiến trường. Đầu tháng 6/1972, Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lịnh Sư đoàn 23, được vinh thăng Chuẩn tướng tại mặt trận. Ngày Quân lực năm 1972 tôi được thăng đặc cách Trung tá tại mặt trận. Cả 4 Tiểu đoàn trưởng, cùng các sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ xuất sắc của Trung doàn đều được thăng đặc cách mỗi người 1 cấp. Cũng trong tháng này, Đại tá Tiến bị kiệt sức sau chuỗi ngày chỉ huy căng thẳng, đã phải nhập viện trị bịnh. Tôi được Đại tá Tư lịnh sư đoàn chỉ định xử lý thường vụ chức vụ Trung đoàn trưởng 44 và một tháng sau đó thì chính thức đảm nhiệm chức vụ nàỵ Mặt trận trở lại không khí sôi động sau gần 1 tháng tạm yên lặng. Sư đoàn F.10 CS và các đơn vị trực thuộc Mặt trận B3 trở lại lởn vởn trong khu vực Võ Định cách Kontum non 20km về hướng Bắc. Các dàn pháo tầm xa 122 ly và hỏa tiễn của CS đã nã đạn hàng ngày vào thị xã Kontum. Tuyến phòng thủ mới của Sư đoàn được nới rộng tới căn cứ Eo Gió cách thị xã gần 10km. Những tin tức tình báo cao cấp ghi nhận CS đang chuẩn bị cho 1 cuộc tấn công mới vào Kontum. Đây là đợt tổng công kích thứ 3. Sau hai đợt tấn kích 1 và 2, những lực lượng chủ công của địch đã bị loại ra khỏi vòng chiến, đó là Sư đoàn 320 Thép, Trung đoàn 2 Tăng, Trung đoàn 95 Đặc công…, nên CS phải sắp xếp lạị Kế hoạch tác chiến cũng thay đổi, các mũi tấn công chủ yếu đánh từ hướng Nam và Tây Nam vào thị xã. Một số súng cối 122 ly và súng phòng không bố trí ngay trên đỉnh đồi Chipu, nằm về hướng Đông Nam Kontum, cách Kontum khoảng 6 km. Với cách phối trí của địch, Trung đoàn 45 từ nhiệm vụ tổng trừ bị của Sư đoàn được đưa ra ứng phó chính với mặt trận nàỵ Ở mặt trận phía Bắc, 2 Trung đoàn 44 và 53 đã tỏa ra theo hình nan quạt, tiếp tục các cuộc hành quân truy quét địch và mở rộng vòng đai phòng thủ. Vì CS không còn mạnh như những trận đầu nên các cuộc tấn công đợt này không ác liệt như thời gian trước, nhưng cũng không kém phần gây cấn và đẫm máụ Các Thiếu tá Đặng Trung Đức, Tiểu đoàn trưởng 1/44, Thiếu tá Võ Anh Tài, Tiểu đoàn trưởng 4/44 lần lượt hy sinh trong tháng 6 và 7/1972. Vào tháng 8, tôi cũng bị thương gãy chân trái trong 1 đợt pháo kích bằng súng cối 122 ly của Trung Cộng. Tháng 9/1972 chiến sự dịu lắng dần. Những cuộc tấn công vô vọng của CS do Tướng Hoàng Minh Thảo điều khiển đã không đem lại 1 kết quả nào cụ thể. Phải chăng nhu cầu chính trị lúc đó của Lê Đức Thọ tại hội nghị Paris không còn thúc bách để buộc Mặt trận B3 phải tự hủy diệt như thế? Nói đúng hơn, những tổn thất quá lớn sau gần 4 tháng tấn công liên tục đã không cho phép Tướng Thảo hành động tự sát nữạ Ngày Quốc khánh năm ấy, Trung đoàn 44 được tuyên dương trước Quân đội lần thứ 5, về những chiến công hiển hách và những thành tích xuất sắc mà Trung đoàn đã đạt được trong suốt thời gian tác chiến tại mặt trận Kontum. 7. NHỮNG ƯỚC MONG Tháng 5 năm nay (1996) là tròn 24 năm sau các trận đánh tại mặt trận Tây nguyên. Những chiến sĩ ưu tú nhất của Trung đoàn 44 đã nằm xuống trên chiến trường nàỵ Xương trắng, máu đào đã đổ xuống, trải ra trên 1 vùng đất vốn nổi tiếng là hiền hòa và thơ mộng của quê hương. Một số khác, chỉ 3 năm sau đó, sống ngắc ngoải, lê lét, hoặc chết vì kiệt sức, vì tra tấn, bịnh tật trong các trại tù khổ sai của CS. Đã có lúc, tôi suy nghĩ tới những kỷ niệm biết bao kiêu hùng, đáng hãnh diện mà Trung đoàn 44 đã làm được trong “Mùa hè đỏ lửa” trên chiến trường Tây nguyên ấy, rồi sau đó lại cảm nhận 1 nỗi buồn man mác gần như khó nguôi ngơi đi được. Chúng ta đã hy sinh và đã thắng trong nhiều trận, nhưng đã để thua trong cuộc chiến. Chúng ta đã có tội với một nữa phần đất nước, với một nữa phần dân tộc, vì chúng ta không bảo vệ và duy trì được cuộc sống yên lành, ấm no và hạnh phúc cho những người đã chạy thoát khỏi chế độ CS và cuối cùng đã giao họ lại trong tay những kẻ bạo tàn. Nhưng tôi lại nghĩ rằng, những người theo chế độ CS đã có tội lớn hơn chúng ta gấp trăm lần vì họ đã đưa dân tộc vào một cuộc chiến điêu linh kéo dài 30 năm mà cuối cùng đã biến cả đất nước thành 1 nơi không tự do, dân chủ… Cầu cho đất nước được sớm thoát khỏi thảm họa CS để thanh bình, tự do và no ấm đến với mọi người trên quê hương thân yêụ Trung tá Ngô Văn Xuân Campbell, 19/2/1996 -------------------- KHAI TỬ ĐẢNG!
|
|
|
![]() ![]()
Post
#106
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 Country ![]() ![]() |
![]() ![]() Phi Trường Kontum 1972 Mặt trận Kontum 1972 Quân khu 2 chiếm 2 phần 3 diện tích toàn quốc, dân cư thưa thớt khoảng 3 triệu người trong đó 20% là đồng bào Thượng, QK-2 đất đai rộng nhất nhưng dân cư lại thưa thớt nhất, Cao nguyên ít thu hút được đồng bào lên định cư, năm 1972 các đơn vị Mỹ lần lượt rút khỏi cao nguyên. Lực lượng Quân đoàn 2 gồm sư đoàn 22 BB (có 4 trung đoàn 40, 41, 42, 47) Tư Lệnh Ðại Tá Lê Ðức Ðạt, Sư đoàn 23 (có 3 Trung đoàn 44, 45, 53), Tư Lệnh Ðại Tá Lý Tòng Bá và 11 Tiểu đoàn BÐQ biên phòng đóng dọc theo biên giới QK-2, Tư lệnh QK-2 Trung Tướng Ngô Dzu. Mùa thu năm 1971 có tin CSBV sẽ tấn công Cao nguyên vào mùa khô, tình báo VNCH cho biết lực lượng CS gồm Sư đoàn 320, Sư đoàn 2 và F10 được yểm trợ bởi Lữ đoàn 203 xe tăng và nhiều trung đoàn pháo, đây là lần đầu tiên VC xử dụng xe tăng và đại bác tại cao nguyên. Cuối tháng 1-1972 ta phát hiện VC gia tăng hoạt động trong Quân khu, địch đã đem đại bác tầm xa vào vùng Tam biên, pháo đài bay B-52 và phi cơ chiến thuật đã oanh kích tối đa vào các mục tiêu vừa phát hiện. Quân đoàn 2 bắt đầu tăng cường phòng thủ Kontum và Pleiku. Bộ Tư lệnh tiền phương Sư đoàn 22 được dời từ Bình Ðịnh lên Tân Cảnh -Dakto, Thiết đoàn 19 kỵ binh cũng được tăng cường đến Tân Cảnh, Lữ đoàn 2 Dù được tăng cường cho Quân đoàn 2. Các lực lượng của Quân đoàn 2 chuẩn bị chờ VC. Ðịch tấn công căn cứ hoả lực Nhẩy Dù đầu tháng 4-1972 nhưng bị thảm bại, Cộng quân bị tổn thất nhiều vì không yểm B-52 nhưng vẫn bổ xung, Bắc Cao nguyên căng thẳng chờ trận xung kích của địch chắc chắn sẽ tiếp theo Quảng Trị và Bình Long.. Cuối tuần thứ hai tháng 4 Tân Cảnh và Dakto gần như bị VC bao vây, căn cứ Charlie bị pháo dữ dội sau đó là cuộc tấn công biển người vào căn cứ do Tiểu đoàn 11 Dù trấn đóng. Mặc dù có máy bay yểm trợ dữ dội nhưng vì VC quá đông tiểu đoàn Dù phải rút vào buổi tối, Tiểu đoàn trưởng Trung tá Nguyễn Ðình Bảo tử trận, tuần sau căn cứ Dù Delta cũng bị tràn ngập. Trung đoàn 42, 47 của Sư đoàn 22 BB phải rút từ Tân cảnh về Dakto vì áp lực địch. Bộ chỉ huy Sư đoàn Dù và một Lữ đoàn được đưa về Sài Gòn, Liên đoàn 6 BÐQ và Trung đoàn 53 được đưa lên thay Dù. Trong hai tuần VC pháo Tân Cảnh-Dakto hằng ngàn quả mỗi ngày rất chính xác. Ngày 23-4 cuộc tấn công bắt đầu, Sư đoàn 2 CSBV cùng 4 Trung đoàn độc lập thuộc mặt trận B3 (Tây Nguyên) cùng với xe tăng, đại bác tấn công Tân Cảnh, tại đấy lực lượng VNCH gồm Trung đoàn 42, hai pháo đội 105 ly và 155 ly, 1 chi đội thiết giáp M-41, M-113, một Ðại đội công binh chiến đấu. CSBV xử dụng hoả tiễn chống chiến xa AT-3 Sagger gây nhiều thiệt hại cho các chiến xa M-41 của ta và phá hủy các công sự phòng thủ, các xe tăng M-41 lần lượt bị bắn cháy, Trung tâm hành quân Sư đoàn cũng bị trúng đạn bốc cháy, lực lượng VNCH phải tháo chạy, hệ thống truyền tin bị thiêu hủy. Cố vấn Mỹ giúp đỡ cho mượn máy móc thành lập Trung tâm hành quân mới. VC gia tăng pháo kích, với sự yểm trợ của 18 chiến xa, địch tiến về Dakto và Tân Cảnh, lực lượïng phòng thủ chống trả yếu ớt. Sau nhiều ngày bị pháo và thiệt hại nặng, Trung đoàn 42 bảo vệ Bộ tư lệnh bị rối loạn khi xe tăng T-54 tiến vào cổng doanh trại, toán cố vấn thoát vòng vây lên được trực thăng. Ðại tá Tư lệnh Lê Ðức Ðạt, Tư lệnh phó Ðại tá Tôn thất Hùng và vài sĩ quan tham mưu vẫn ở trong bộ chỉ huy, họ cố gắng phá hủy máy móc và hồ sơ rồi nhân lúc trời đổ mưa đã trốn thoát nhưng chỉ có Ðại tá Hùng về được Kontum số còn lại coi như mất tích hết. Tân Cảnh là Trung tâm hành quân của Sư đoàn 22. Trung đoàn 47 VNCH tại Dakto 2 cũng bị tấn công dữ dội, chi đội Thiết giáp tại Ben Hét được lệnh tới cứu nhưng bị lọt ổ phục kích VC, xe tăng bị bắn cháy hết. Bộ chỉ huy Trung đoàn 47 phải rút dần dần. Dakto, Tân Cảnh bị mất, Cộng quân củng cố căn cứ chiếm được, di chuyển 30 khẩu pháo của ta. Sư đoàn 320 CSBV tiếp tục tiến đánh các căn cứ hoả lực còn lại, ngày 25-4 Tướng Ngô Dzu ra lệnh cho hai căn cứ hoả lực 5, 6 di tản. Mặc dù đã chiếm được các căn cứ phía Bắc, CSBV đã không lợi dụng được thắng lợi này để tấn công vào Kontum mà phải đợi tới 2 tuần sau, nhờ đó Sư đoàn 23 BB sau này đã tổ chức nội bộ, sắp xếp các đơn vị, hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ.. Tại Bình Ðịnh Sư đoàn 3 BV chiếm quận Hoài An, Hoài Nhơn, Tam quan. Tướng Ngô Dzu hối hận đã không tăng cường 2 trung đoàn còn lại cho Ðại tá Ðạt, Tướng Dzu hiện đang lo sợ cho chính bản thân mình tại Pleiku, vì mất tinh thần ông gọi điện thoại luôn luôn cho Tổng thống Thiệu để xin lệnh. ![]() Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Khu 2 (1972) Bộ TTM và Tổng thống Thiệu coi Tướng Dzu không còn đủ khả năng của một Tư lệnh và đã cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn lên thay ngày 10-5. Sau khi chiếm Tân Cảnh, địch tiến về Komtum và bao vây cô lập thị xã này, trong khi chiến trận bùng nổ nhiều nơi, tăng cường cho Kontum là điều khó khăn. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB di chuyển 160 km từ Ban Mê Thuột đến Kontum để chỉ huy các lực lượng tại đây và tổ chức cuộc phòng thủ thị xã. Quân đoàn 2 đưa 4 tiểu đoàn BÐQ đóng tại Võ Ðịnh nằm ở 20 cây số phía Tây bắc Kontum và dọc theo sông Pô Kơ phía Nam, một tiểu đoàn BÐQ tăng cường trại biên phòng. Trung đoàn 53 (SÐ- 23) phòng thủ thị xã trong khi Liên đoàn 2 và 6 BÐQ nhận nhiệm vụ đánh cầm chân VC trên quốc lộ 14 phía Bắc Kontum. Máy bay chiến thuật cũng như B-52 đã dội bom đánh phá các nơi địch tập trung quân. Ðại Tá Lý Tòng Bá Tư lệnh chiến trường chỉ huy 2 trung đoàn 45, 53 của ông và các liên đoàn Dù, BÐQ… Những đơn vị tăng phái thường giữ liên hệ với các đơn vị gốc nên quyền hạn của ông ít được trải rộng. Tại Võ Ðịnh Lữ đoàn Dù được lệnh đưa ra QK1, Tiểu đoàn BÐQ tại đây bị VC tấn công được lệnh di tản. Các căn cứ biên phòng của BÐQ bị tấn công dữ dội nhưng vẫn đứng vững nhờ yểm trợ của không quân Mỹ, ngày 6-5 Trung đoàn 64-CSBV có xe tăng và pháo binh yểm trợ ồ ạt tấn công trại Polei Kleng khiến BÐQ phải rút ra ngoài ngày 9-5, trong khi ấy B-52 vẫn yểm trợ gây tổn thất nặng nề cho CSBV, BÐQ đã chống trả rất anh dũng, bắn hạ chiến xa địch và chiếm lại căn cứ này. Khoảng ngày 7-5 Sư đoàn 23 BB đã hoàn tất phòng thủ trong và ngoài thị xã, tạo một chu vi phòng thủ hình cung hướng Bắc và Tây Bắc, ÐPQ phụ trách phía Nam và Ðông Nam. Ðại tá Lý Tòng Bá thân hành thị sát tuyến phòng thủ cùng các sĩ quan tham mưu, kế hoạch yểm trợ hỏa lực và phản pháo đã được thiết kế xong, các đơn vị thực tập sử dụng hoả tiễn chống chiến xa M-72. Ngày 8-5 Tổng Tống Nixon ra lệnh cho không quân Mỹ mở chiến dịch Linebacker để tiêu hủy tiềm năng chiến tranh của CSBV như đánh phá cầu cống tại miền Bắc, máy bay F-4 Phantom xử dụng bom laser bắn cháy các chiến xa CS tại miền Nam. ![]() Thị Xã Kontum (1972) Cuộc tấn công của CS vào Kontum có thể chia làm 2 giai đoạn: Từ 14-5 đến 17-5 và 18-5 tới 1-7. Sáng ngày 14-5 Cộng quân tấn công Kontum, trong khi ấy tình báo kỹ thuật của Sư đoàn đã giải mã và biết trước trận xung kích. Năm Trung đoàn Cộng quân tiến vào thành phố, từ hướng Tây Bắc 2 trung đoàn 48 và 64 của BV tấn công trung đoàn 44 VNCH, từ Bắc Trung đoàn 28 thuộc Mặt trận B-3 tiến về Nam đánh vị trí phòng thủ Trung đoàn 45 của ta, Trung đoàn 1 CS tấn công Trung đoàn 53 VNCH, tại Bắc và Ðông Bắc, Trung đoàn 141 VC từ Nam đánh lên Bắc vào các phòng tuyến ÐPQ và Tiểu khu Kontum. Cuộc tấn công mở đầu bị bẻ gẫy, các chiến xa dẫn đầu bị bắn cháy. Trong những ngày kế tiếp Kontum bị pháo kích và tấn công rời rạc, quân trú phòng chống trả nhanh nhẹn, tại Kontum Cộng quân gặp nhiều khó khăn hơn tại Tân cảnh mấy tuần trước. Một tiểu đoàn VC chọc thủng tuyến phòng thủ giữa 2 Trung đoàn của ta và tấn công liên tục, pháo binh VNCH không chận đứng được cuộc tấn công. Tình thế rất nguy ngập có nguy cơ sụp đổ phòng tuyến, lúc này chỉ còn trông cậy vào Máy bay chiến lược B-52. Khoảng một giờ trước cuộc không tập, binh sĩ ta rút lui về phía sau trong khi pháo binh tăng cường phản công. B-52 đã tới dội bão lửa lên các vị trí đóng quân của CSBV, tiếng bom nổ long lở đất trời rung chuyển cả thành phố, trận oanh tạc đã khiến cho hằng mấy trăm VC bỏ xác tại chiến trường. Ðịch có ưu thế về quân số, xe tăng, pháo binh nhưng vẫn thảm bại vì hoả lực không quân, pháo binh VNCH nhất là pháo đài bay B-52, nếu không có B-52 trải thảm Kontum có thể bị nguy ngập. Ðại Tá Bá khi ấy cho rút ngắn chu vi phòng thủ vì hiện đã quá rộng. Lực lượng Cộng quân tuy thế vẫn còn mạnh, địch thăm dò để tấn công tiếp rồi pháo kích dữ dội khiến cho phi cơ lên xuống khó khăn. CSBV nghiên cứu tìm kẽ hở, tung đặc công vào thành phố. Cuối tuần lễ sau trận tấn công đầu tiên, các nỗ lực của BV đều thất bại. Ngày 20-5 khi Cộng quân chọc thủng tuyến nằm giữa 2 trung đoàn 44 và 53, Ðại Tá Bá đã điều động chi đoàn thiết giáp M-41 vào chiến trường tiêu diệt địch cùng với yểm trợ của không quân VNCH và B-52 của không lực Mỹ đẩy lui VC. Ngày 21-5 từ Pleiku Tướng Toàn đã điều động lực lượng khai thông Quốc lộ 14 từ Bắc tới Kontum, dân chúng được di tản khỏi Kontum về Pleiku, Kontum không xẩy ra hỗn loạn, binh sĩ vẫn vững tinh thần ![]() Di Tản Ngày 25-5 Cộng quân mở nỗ lực cuối cùng tấn công Kontum, lúc nửa đêm địch pháo dữ dội vào gần phi trường và phía Nam thành phố, hai tiểu đoàn đặc công cùng với các thành phần xâm nhập lọt vào mặt Ðông Nam do ÐPQ trấn giữ. Từ Bắc và Ðông Bắc bộ binh CS và xe tăng tiến vào thành phố. Bộ chỉ huy Sư đoàn và các vị trí pháo binh VNCH bị pháo kích dữ dội. VC chiếm một trường học, một chủng viện Công giáo, Tòa giám mục Kontum, đại bác VC tàn phá thành phố kể cả súng 105, 155 lấy được của ta tại Tân Cảnh, pháo kích địch chính xác làm tê liệt pháo của ta. Ngày 26-5 CSBV tăng gia pháo kích và tấn công Trung đoàn 53 từ phía Bắc, các phi vụ oanh tạc được điều động tối đa để yểm trợ cho Kontum khi “ tình trạng khẩn cấp” được tuyên bố, 8 chiến xa và một tiểu đoàn bộ binh VNCH đẩy lui một cánh quân VC. Ðịch vẫn bám chặt vị trí nên hai bên vẫn dằng co đến hết ngày, trong khi đó tiếp liệu bắt đầu thiếu hụt, các trực thăng khổng lồ Chinook đã thực hiện tiếp tế tại sân banh và tải thương. Ðến tối trung đoàn 64 BV lại mở cuộc tấn công vào giữa Trung đoàn 53 và 45, những trận oanh tạc của B-52 khiến VC gặp khó khăn về tiếp liệu, Quân đôi VNCH chủ động phản công chiếm lại bệnh viện, trường học, Kontum đã thoát khỏi vòng nguy hiểm. Trong ngày 30-5, các vị trí do CS chiếm đã được lấy lại, Tổng thống Thiệu bay vào thị xã vinh danh tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ và thăng cấp Ðại Tá Lý Tòng Bá lên Chuẩn tướng. ![]() Đại Tá Lý Tòng Bá (1972) Trưa 31-5 Cộng quân rút lui để lại 3000 xác chết theo lời Tướng Bá, mấy chục chiến xa bị bắn hạ, nỗ lực cuối cùng của Cộng quân bị thảm bại. Theo sự ước lượng của tình báo Mỹ Cộng quân đã bị thiệt hại khoảng từ 20 cho tới 40 ngàn cán binh tại mặt trận Cao nguyên QK-2. Sau này Tướng Bá cho biết CSBV đã bỏ lỡ cơ hội bằng vàng để chiếm Kontum và có thể làm chủ QK-2, khi đã chiếm được các căn cứ phía Bắc như Dakto và Tân Cảnh, họ đã không tiến đánh Kontum ngay mà để hai tuần sau mới tấn công khi mà Sư đoàn 23BB đã bố trí lực lượng phòng thủ trong và ngoài thị xã và cuối đã thảm bại. Khi BV mở cuộc tấn công Kontum giai đoạn 1 từ 14-5 tới 17-5, tình thế rất nguy ngập phòng tuyến có nguy cơ sụp dổ, pháo binh ta không đủ sức ngăn chận đà tấn công của đối phương chỉ còn trông cậy vào B-52 và rồi các pháo đài bay B-52 đã đến đúng giờ dội bom ồ ạt xuống các vị trí tập trung quân của địch đã cứu vãn được tình thế. Sự chiến đấu kiên cường của quân trú phòng chưa đủ để giữ vũng phòng tuyến mà còn phải trông vào sự yểm trợ của không lực Mỹ. Mấy năm sau, 1975 Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá người Hùng Kontum nắm giữ Tư Lệnh Sư đoàn 25 BB đóng tại Củ Chi, khi Bộ Tư Lệnh Sư đoàn thất thủ , ông bị CS bắt mấy ngày sau 30-4-1975 và bị cầm tù 13 năm tại miền Bắc, cuối tháng 1 năm 1990 ông được định cư tại Mỹ theo diện HO1. ![]() Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn ![]() Tài liệu tham khảo Trần Phan Anh: Chiến Trận Mùa Hè 1972. Nguyễn Ðức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001. Nguyễn Ðức Phương: Những Trận Ðánh Lịch Sử Trong Chiến tranh Việt Nam 1963-1975, Ðại Nam 2001. Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam- 1945-1975) Tiếng Quê Hương 2006. Nguyễn Tiến Hưng: Khi Ðồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản 2005. Văn Tiến Dũng: Ðại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản QÐND Hà Nội, tái bản lần thứ tư, 2003. Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1991. Lâm Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing 1986. The World Almanac Of The Vietnam War, General Editor: John S. Bowman – A Bison Book 1985. Stanley Karnov: Vietnam, A History – A Penguin Book 1991. Marilyn B. young, John J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History In Documents – Oxford University press 2002. Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Ðầu, Sài Gòn Nhỏ Dallas 28-4-2006. Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Ðỏ, Ai Còn, Ai Mất. Người Việt Dallas 7-10-2005. Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas 21-6-2005 (Không tác giả). Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Ðỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006. Tường Trình Của Một Quân Nhân: W.C.Wesmoreland Người Việt Dallas 14-9-2007. Tác giả/Nhân vật: Trọng Đạt -------------------- “Vì Danh Dự Dân Tộc: Chống giặc Tàu.
Vì tương lai Dân Tộc: khai tử tập đoàn bán nước Việt Cộng” |
|
|
![]() ![]()
Post
#107
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 Country ![]() ![]() |
![]() Cây cầu biên giới Tôi đứng ngay tại Ngã Ba Hàm Rồng. Buổi trưa nắng chang chang. Thỉnh thoảng một cơn gío nổi lên cuốn theo những đám bụi đỏ mù trời. Ngừơi tài xế của hãng du lịch chạy đến bên tôi thắc mắc: - Anh kiếm cái gì thế ? con đường trước mặt đi về hướng Phú Nhơn mãi đến Banmêthuột, bên trái là ngõ về quận lỵ Phú Thiện và tỉnh Phú Bổn, còn đằng sau là con đường mình mới từ Pleiku ra đây. Anh muốn đi đâu thì cứ cho tôi biết, tôi sẽ đưa anh đến nơi đến chốn. Tôi thầm nghĩ: - Dù đã lâu lắm rồi nhưng làm sao quên được. Mình đã chôn vùi một đoạn đời hoa bướm nơi rừng núi này. Quang cảnh vẫn vậy, chỉ có tiêu điều hơn mà thôi. Con đường trải nhựa có nhiều ổ gà hơn xưa, vắng vẻ hơn xưa, hàng quán xơ xác hơn. Tôi trả lời bâng quơ: - Tôi đang chụp hình. - Tôi đâu thấy anh mang máy hình ? - Ồ, chụp hình trong đầu ấy mà. Nguời tài xế há hốc mồm ra ngạc nhiên, anh ta nói lẩm bẩm trong miệng nhưng đủ cho tôi nghe rõ: - Mấy ông nội Việt kiều thật là lẩm cẩm. Tôi leo lên xe và hối người tài xế chạy về phía quận Phú Nhơn. Chiếc Xe mướn của hãng du lịch tương đối còn mới, lồng lộn lao về phía trước, lúc nghiêng qua trái, lúc lách qua phải để tránh những khúc đường bể chưa được sưả chữa. Mà có lẽ sẽ chẳng bao giờ được sửa chữa nữa. Hàng trăm thứ chuyện quan trọng hơn người ta chẳng thèm để ý tới xá gì một con đường xa xôi hẻo lánh này. Để mặc tài xế đánh vật với chiếc xe và con đường, tôi thả hồn chìm về dĩ vãng ... ![]() Và Ngày ấy đã xa lắm rồi. Tôi mới đến vùng này,là một Thiếu Úy trẻ măng vừa đổi về đơn vị mới thành lập. Tiểu Đoàn mới, từ sĩ quan đến binh lính, hầu hết là những thành phần khó sài từ các đơn vị khác gởi về. Dĩ nhiên tôi cũng ở trong thành phần bất hảo đó. Từ miền biển bị đưa lên miền núi và chỉ huy một đám quân gồm đủ mọi thành phần. Tôi còn đang buớc những bước đi chập chững của nghề chỉ huy thì phải tung ra chiến trường. Ngày ấy, cũng trên con lộ này, tôi dẫn hai con Gà Cồ Đại Pháo 105 ly để yểm trợ cuộc hành quân trực thăng vận tái chiếm quận lỵ Phú Nhơn mà Bắc Quân vừa mới tràn ngập đêm hôm trước. Ngã ba này bình thường chỉ có vài quán cóc lèo tèo để bán đồ ăn thức uống cho xe đò chạy đường Pleiku - Phú Bổn hay Pleiku - Banmêthuot. Hôm đó dân chạy loạn từ Phú Nhơn ra rất đông, từ những làng Thượng, hoặc mấy khu dinh điền và dân làm ăn buôn bán chung quanh quận lỵ. Dân chúng thấy lính đi tái chiếm quận, họ rất mừng rỡ, người hỏi thăm, người cho quà bánh. Đổi lại đám lính tặng lại dân chúng thuốc lá và những đồ hộp Quân Tiếp Vụ. Dân ở quận nhỏ xa xôi cũng nghèo khổ như lính vậy thôi. Từ sáng sớm, lo đốc thúc tải đạn, sửa soạn xe cộ, đại bác, hàng trăm thứ phải làm cho một cuộc trực thăng vận, cho nên bao tử còn trống rỗng. Phi cơ câu súng đại bác phải xin từ căn cứ Mỹ Ớ Quy Nhơn lên, nên chờ cũng còn lâu. Tôi rủ anh chàng Chuẩn Uý Trung Đội Phó kiêm Đề Lô vào quán bên đường kiếm cái gì lót bụng. Dân quận lỵ bu lại hỏi thăm tình hình, chừng nào có thể về quận được ? Đánh nhau có lâu không ? Toàn những câu hỏi mà chỉ có Trời mới trả lời được. ![]() - Mấy anh ấy đi giải toả quận Phú Nhơn phải không ông chủ. - Tôi đoán vậy, cô thử hỏi mấy ổng coi. Tôi quay lại, người vừa hỏi là một thiếu nữ độ đôi mươi, nàng mặc chiếc áo dài trắng học trò đang hỏi thăm người chủ quán, tôi hỏi lại cô gái: - Sao cô đoán tụi này đi giải toả Phú Nhơn ? - Em mới từ Tuy Hòa lên Pleiku hôm qua. Sáng nay đáp xe đò vô quận, không ngờ kẹt từ sáng đến giờ. - Cô cũng ở quận Phú Nhơn sao ? - Em dạy Ớ trường tiểu học Phú Nhơn, còn nhà em ở Tuy Hòa. - Cô nên về Pleiku kiếm chỗ ngủ đỡ qua đêm nay. - Em không có ai quen Ớ Pleiku cả, vả lại em nóng lòng không biết nhà cửa, trường ốc ra sao ? - Cô có lo lắng thì cũng chẳng làm gì được, tốt hơn hết là kiếm chỗ nào nghỉ đỡ qua đêm nay, chờ giải toả xong mới về được. - Đám học trò của em chạy ra đây cũng đông lắm, em không thể bỏ chúng được. À này các anh đừng pháo vào trường học nghe. Tôi vỗ vai Châu Đề Lô vừa cười vừa nói: - Cái đó cô phải nhờ ông Châu mới được, ổng chỉ đâu là nơi đó thành bình địa. Châu vội lên tiếng: - Trường của cô giáo tụi này không dám đụng tới. Tôi chế diễu Châu: - Bạn hứa một mình chứ không có tôi can dự trong đó đâu nghe. À nãy giờ mình nói chuyện mà quên giới thiệu. Tôi tên Lập, anh bạn này tên Châu. Thưa qúy danh cô là ... - Em tên là Quỳnh Hoa, các anh hứa là phải giữ lời đó à nghe ! Tôi chọc ghẹo Quỳnh Hoa: - Nếu tụi này giữ lời hứa thì Quỳnh Hoa phải đền cái gì mới được chứ ? Tôi nhìn người con gái nước da trắng hồng, mịn màng như trứng gà bóc, đôi môi đỏ như cánh bích đào, cặp mắt to đen láy trông thật thông minh lanh lẹ, mái tóc thề phủ xoã ngang lưng, nụ cười tươi như hoa với hàm răng đều đặn như những hạt bắp vừa đủ lớn. Nhìn Quỳnh Hoa đứng giữa đám học trò nhà quê lem luốc bẩn thỉu, tôi có cảm tưởng nàng là bà tiên giáng trần, đang cầm cây đũa thần gõ trên đầu đám chúng sinh đầy đau khổ. Nàng rất bạo dạn tuy hơi lo lắng, nhưng không có cái e lệ như những cô gái xứ kinh kỳ. Tôi tự nhủ: - Bông hoa vương giả này sao lại mọc ở chốn rừng hoang mông quạnh này nhỉ ? Quỳnh Hoa thấy tôi nhìn cô chăm chú, có vẻ mắc cỡ đôi má càng hồng hào thêm, còn đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Châu vội đề nghị: - Thôi bữa nào giải toả xong, đãi tụi này một bữa cơm nhà quê được không Qùynh Hoa ? - Em nấu ăn dở lắm, nhưng em sẽ đãi các anh một chầu bún bò Huế, được không ? Tôi làm bộ nuốt nước miếng: - Ôi chao, chưa đánh mùi mà đã thèm nhỏ dãi rồi. Có tiếng trực thăng từ xa vọng lại. Tôi từ giã Quỳnh Hoa rồi vội vã đốc thúc anh em binh lính để cuộc di chuyển được mau chóng. Bình, anh chàng tài xế xe jeep của tôi chạy lại hỏi: - Mình cần về hậu cứ lấy thêm gì nữa không Ông Thầy ? - Chắc đủ rồi, vả lại cũng không còn kịp nữa. Tôi móc túi đưa cho Bình một ít tiền lẻ và nói: - Em vào trong quán mua vài gói mì và một hộp trà, tối nay mình ăn mừng chiến thắng. - Bình cầm tiền, nheo mắt chọc tôi: - Cái cô hồi nãy coi bộ chịu đèn Ông Thày lắm rồi đó nghe. Tôi thấy thích thú trong lòng nhưng cũng làm bộ chống chế: - Con gái đời nay đẩy đưa lắm khó mà lường được. Trời bắt đầu đổ mưa lâm râm khi trực thăng vừa bốc hai khẩu đại bác. Tôi nhìn bầu trời đen nghịt mà aí ngại cho những giờ phút nguy hiểm gian lao sắp tới bởi vì tôi vừa phải chiến đấu với địch quân vừa phải yểm trợ cho quân bạn ngay từ phút đầu trong thời tiết mưa gío bão bùng này. Những cơn mưa trên miền núi thường dai dẳng và mang theo gío lạnh thấm đến tận xương tủy của những người lính Pháo Thủ, vừa thiếu ăn vừa phải làm việc cực nhọc. Tôi thầm hỏi liệu đêm nay trực thăng có kịp đổ quân để bảo vệ hai con gà cồ của mình không ? Hai khẩu đại bác cùng với 4 túi đạn 105 li và chiếc xe Jeep được thả xuống một ngọn đồi trọc. Dưới cơn mưa tầm tã, đất đỏ lầy lội, đám pháo thủ thoăn thoắt làm việc: Hì hục đẩy hai khẩu pháo lại gần nhau, khuân vác đạn dược, dựng cây truyền tin, nhắm hướng súng. Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Những trái đạn đầu tiên đã được gởi đi liên tục để dọn bãi đáp cho hai tiểu đoàn Bộ Binh đổ bộ xuống mục tiêu. Trận tái chiếm quận Phú Nhơn hôm đó đã thành công hoàn toàn nhưng Châu Đề Lô đã bị thương nặng, một mảnh đạn B40 của địch quân đã chọc một lỗ lủng lớn ở bụng của hắn. Tóan Pháo Binh được di chuyển về phía sau quận hành chánh để sãn sàng yểm trợ cho lực lượng bảo vệ quận. Một buổi sáng, sau khi sửa sang tuyến phòng thủ tạm ổn định, tôi ghé thăm Quỳnh Hoa. Ngôi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Anh em quân nhân trong quận đang gíup tay sửa sang những chỗ bị tàn phá. Tôi đến bên lớp học của Qùynh Hoa, nàng đang say sưa tập hát cho các em nhỏ. Có tiếng một em bé báo động: - Thưa cô có Ông Lính tới kiếm. Nàng quay lại, gật đầu chào. Tôi ướm thử xem nàng còn nhận ra tôi không: - Ông Lính kính chào Cô Giáo, Cô Gíao còn nhớ Ông Lính này không ? Nàng không thể nhịn cười được lối diễu cợt của tôi, nhưng cũng không chịu thua: - Ông Lính đi đâu mà lạc vô đây ? - Ông Lính đi lạc vào Thiên Thai đó ạ, không biết Tiên Nữ có cho Ông Lính xem rừng Đào Tiên không. - Ông Lính tỉnh lại đi, đây là chốn phàm tục, đâu có nàng Tiên nào đâu. - Chứ Quỳnh Hoa không phải là Tiên sao? Nàng nghe tôi khen không khỏi e thẹn: - Anh Lập làm Qùynh Hoa mắc cỡ quá hà! Người ta xấu như ma mà so sánh với Tiên, anh có mơ ngủ không đấy? Anh Châu có khỏe không anh Lập? - Châu bị thương nặng đang nằm Ớ quân Y viện Pleiku. - Trời ơi, có nguy hiểm lắm không anh? Thấy mặt Qùynh Hoa biến sắc, tôi thấy hơi ganh với bạn mình, nhưng vội trấn an: - Chắc không đến nỗi nào, nhưng phải nằm nhà thương một thời gian. - Hôm nào anh có đi thăm anh Châu cho em đi theo với nghe. Tôi tự nhủ thầm sao nàng dễ xúc cảm như vậy nên hứa đại cho xong chuyện: - Cuối tuần tôi phải về hậu cứ nhân tiện ghé đón Quỳnh Hoa đi thăm Ông Châu luôn thể, cô có chịu không ? - Gia đình ảnh đã biết chưa vậy anh Lập ? - Gia đình ảnh Ớ Pleiku đã được thông báo rồi. Tôi hỏi thăm qua loa về trường ốc và gia cảnh của nàng rồi vội vã cáo lui, hẹn gặp lại sáng thứ Bảy. Qùynh Hoa hiện Ớ trọ tại nhà bà Hiệu Trưởng, một người bạn cũ của gia đình nàng. Chồng Bà cũng là một cựu quân nhân giải ngũ, có tiệm tạp hóa ngoài chợ. Sáng thứ Bảy, Tôi cho tập họp Trung Đội, giao doanh trại cho Ông Thượng Sĩ Thường Vụ rồi hối đám quân xa chuẩn bị xe cộ về hậu cứ lãnh lương thực và đạn được. Tôi gọi Bình vào văn phòng rồi dặn: - Bình à, coi lại xe cộ, xăng dầu đầy đủ, bữa nay mình về hậu cứ đồng thời ghé thăm ông Châu luôn thể. À hôm nay có một người bạn xin qúa giang nữa nghe. - Ai vậy Ông Thầy ? - Cô giáo bữa mình gặp ngoài Ngã BA Hàm Rồng đó nhớ không em. - Ồ, vậy em phải rửa xe cho thật sạch mới được. - Lính tác chiến mà chú mày làm như lính thành phố không bằng, không sợ tụi hậu cứ nó cười sao ? - Sức mấy mà tụi nó dám cười Thầy Trò mình. Tôi ghé lại nhà Quỳnh Hoa, nàng đã chờ sẵn, vẫn chiếc áo dài trắng hôm nào. Nét mặt vui vẻ, nụ cười tươi như hoa trông mới duyên dáng làm sao chứ ! Nàng bước ra cửa đón tôi: - Chào anh, mời anh vào trong nhà uống miếng nước đã. - Chào cô Qùynh Hoa, cám ơn cô để khi khác, thôi chúng ta lên đường kẻo trễ. Đến hậu cứ, tôi nhận tiếp liệu rồi hẹn tất cả tập trung lúc 2 gìơ chiều để trở ra Phú Nhơn. Tôi chở Quỳnh Hoa vào bệnh viện. Châu vẫn còn thiếp trong giấc ngủ mê, khuôn mặt trắng bệch, hơi thở yếu ớt. Tôi có cảm tưởng thần chết đang lảng vảng đâu đây. Bà mẹ của Châu nhìn thấy chúng tôi thì không cầm nổi nước mắt. Bà bắt đầu thút thít khóc. Tôi tự hỏi trong những ngày qua người mẹ đau khổ này đã đổ bao nhiêu nước mắt cho đứa con yêu dấu của mình. Chiến tranh thật tàn nhẫn ! Nó như một con qủy luôn luôn cười cợt trên sự đau khổ của con người. Nó lấy xác chết làm chiến lợi phẩm. Qùynh Hoa nhìn thấy Châu, bỗng hai hàng lệ tuôn trào. Tôi đưa chiếc khăn tay, nàng cầm lấy, che lên mắt và đi vội ra ngoài. Tôi không ngờ nàng qúa thương tâm như vậy đối với một người bạn mới quen. Tôi an uỉ Bà Mẹ của Châu mấy câu rồi vội vã đi tìm Qùynh Hoa. Nhìn nàng đứng dựa chiếc cột ngoài hành lang bệnh viện, đôi vai rung lên từng hồi, có lẽ nàng đã qúa xúc cảm. Tôi chẳng biết làm sao để an ủi nàng. Miệng lưỡi cứng đơ, chân tay thừa thãi, tôi lặng lẽ đến bên nàng, mắt tôi cũng bắt đầu nhòe lệ, tôi ôm lấy đôi vai bé bỏng của nàng. Qùynh Hoa quay mặt lại và úp mặt vào vai tôi khóc nức nở như một đứa con nít. Có lẽ những đau khổ thầm kín lâu nay được dịp tuôn ra đi theo dòng nước mắt. Tôi để mặc nàng khóc cho đã đời. Một vài người đi ngang dòm chúng tôi với đôi mắt dò hỏi rồi bỏ đi. Chuyện khóc lóc có lẽ qúa bình thường ở đây. Nàng khóc một lúc rồi bắt đầu im lặng, chỉ còn những tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi an uỉ nàng: - Em đừng khóc nữa, anh Châu chắc không đến nỗi nào đâu, Mẹ ảnh nói Bác Sĩ cho hay ảnh đã qua cơn hiểm nghèo rồi chỉ chờ bình phục thôi. Nàng thì thầm bên tai tôi: - Em nhớ Ba em hồi đó, cũng nằm ở Bệnh Viện này, trong cơn hấp hối, nên không cầm nổi nước mắt, xin anh tha lỗi cho em. - Anh xin lỗi em, không ngờ cuộc thăm viếng này đã gợi cho em những đau đớn như vậy. ![]() - Anh đừng nói vậy, anh không có lỗi gì cả, chỉ vì em tủi thân đó thôi. Khi đã tỉnh trí, nhìn thấy một bên vai áo tôi ướt đẫm nước mắt, có lẽ thấy hơi ngượng ngùng nên đẩy nhẹ tôi ra và lí nhí mấy lời xin lỗi. Tôi vội dìu nàng ra xe và rủ ra ngoài phố kiếm ăn. Tôi dẫn Quỳnh Hoa vào quán như một đôi tình nhân gắn bó bên nhau. Những cặp mắt nhìn soi bói của đám thực khách mà qúa nửa là lính tráng khiến nàng hơi bối rối. Tôi nhìn nàng với đôi mắt nồng nàn, thầm cám ơn Thượng Đế đã cho tôi có dịp làm quen với người con gái dễ thương và thùy mỵ như vậy. Sự hiện diện của nàng trong đời sống khiến tôi thấy những gánh nặng trên vai nhẹ nhàng hơn. Qùynh Hoa là một dòng suối ngọt, một bóng mát, một hy vọng, một nơi yên nghỉ êm đềm cho linh hồn thể xác mệt mỏi của tôi trong cuộc chiến tàn nhẫn đầy máu và nước mắt này. Tôi vẫn cảm thấy rằng sau nét mặt vô tư ngây thơ, Quỳnh Hoa có một sức thu hút kỳ lạ, giống như một vùng đất mới chứa đầy những bí mật quyến rũ đối với những nhà thám hiểm. Đúng vậy, nàng chính là sự thiêng liêng kỳ bí, một vườn Địa Đàng cho riêng tôi. Tôi vẫn chưa hiểu tại sao nàng qúa thương tâm khi thăm Châu trong bệnh viện nên muốn tìm hiểu thêm: - Qùynh Hoa ở Phú Nhơn lâu chưa ? - Độ gần một năm thôi, em ra trường sư phạm cấp tốc rồi xin đổi về đấy ngay. - Sao em không xin dạy ở gần nhà có phải tiện hơn không ? - Ngày xưa, Ba em làm Quận Trưởng Phú Nhơn. Người đã bỏ cả cuộc đời để xây dựng cái quận đèo heo hút gío này. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dân chúng từ miền ven biển và từ ngòai Bắc di cư lên đây lập nghiệp, đã được chính quyền tận tình giúp đỡ. Nhưng rồi trong một cuộc đi thăm đồn điền của một xã phía Tây Quận Lỵ, Ba em đã lọt vào ổ phục kích và bị sát hại. Em lớn lên, muốn tiếp nối cái hoài bão của Ba em là nâng cao dân trí để họ có thể hiểu được ý nghĩa của sự tự do, dân chủ, công bình và lẽ phải. Tôi thầm nghĩ những danh từ tự do, dân chủ thật qúa mơ hồ đối với những người lính tác chiến, với đám dân quê nghèo thất học ở đây. Gia đình, vợ con, miếng cơm manh áo, mạng sống có lẽ gần gũi hơn. Tôi thấy vừa kính nể vừa thương hại người con gái mới lớn mang trong lòng một hoài bão qúa lý tưởng, qúa to lớn. Nàng đúng là một Tiên Nữ mà Thượng Đế đã gởi xuống cõi trần đầy khổ đau này. Sau nhều lần đi thăm Châu, chúng tôi thấy gần gũi nhau hơn. Tôi tìm thấy ở nàng một niềm vui, một ước mơ, một mái ấm gia đình cho tương lai. Vùng đất hoang vu này trở nên tươi mát đáng yêu bởi vì chỗ nào cũng thấy đoá Hoa Quỳnh nở rộn ràng. Chúng tôi đã yêu nhau, có núi rừng và con sông nhỏ chảy qua quận lỵ làm chứng. Con sông thật hiền hoà và dễ thương như người tôi yêu. Bên bờ sông những hàng cây Phượng Vĩ nở đỏ rực mỗi mùa hè. Mùa mưa nước phù xa đỏ ửng từ trên ngàn chảy cuồn cuộn xuống ngập gần hết cây cầu sắt nhỏ bắc qua sông. Cây cầu nhỏ sơ sài có vài nhịp, bề ngang chỉ đủ cho một chiếc xe đò qua lại. Mùa nắng, nước cạn trơ những bãi cát trắng tinh. Người ta đào cát thành những vũng nước trong, gánh về để uống. Giữa lòng sông nước trong vắt nhìn thấy cát và sỏi tận dưới đáy, nước chảy lững lờ. Mấy chàng Pháo Thủ thường ra tắm sông để được chiêm ngưỡng những nàng thôn nữ cao nguyên ngực no tròn và rất tự nhiên. Tôi yêu núi rừng Cao Nguyên, mỗi buổi sáng thức dậy đứng trên đồi nhìn chung quanh chỉ thấy một màu xanh rì, mênh mông như biển cả. Tôi yêu con sông bé nhỏ, tôi yêu cây cầu sắt cũ kỹ đưa người qua sông, tôi yêu hàng cây Phượng Vĩ học trò, tôi yêu sân trường tiểu học Phú Nhơn, tôi yêu con đường nhựa bé bỏng chạy qua quận lỵ và băng qua núi rừng Cao Nguyên. Tôi yêu và yêu rất nhiều, bởi vì ở đâu cũng thấy hình bóng của nàng. Tôi yêu lắm những buổi chiều hai đứa dẫn nhau ra bờ sông, lang thang dưới những hàng cây xanh um, hoặc ngồi trên thành cầu nhìn dòng nước hững hờ trôi. Nàng ngồi bên tôi, đong đưa hai hàng chân trắng muốt, cười nói vô tư như một Thiên Thần. Trời Đất, Vũ Trụ, Thời Gian như ngừng hẳn, ôi đẹp đẽ và thanh bình đất nước tôi! Ở đó, bấy giờ, không nghe tiếng súng nổ, không nghe tiếng gầm gừ của máy bay phản lực, không gian hoàn toàn yên tĩnh. Chúng tôi đã dệt những giấc mộng tương lai đơn sơ và êm đềm. - Qùynh Hoa ơi, mai này chiến tranh chấm dứt, anh sẽ cất một căn nhà bên bờ sông này, em sẽ tiếp tục dạy học, còn anh sẽ biến vùng đất màu mỡ này thành một đồn điền trù phú, em có chịu không ? - Anh trồng cho em một vườn trái cây mít , ổi, xoài, đu đủ, mảng cầu nghe anh. - Ừ, anh sẽ trồng bất cứ cây gì em muốn. - Anh hứa thương em và chiều chuộng em như ngày xưa Ba yêu thương và chiều chuộng em nghe. - Anh hứa. - Anh đừng bỏ em, như Ba đã bỏ em một mình, em sợ lắm. - Không, anh sẽ không bỏ em một mình. - Nghe anh nói thơ mộng và sung sướng qúa, cám ơn Trời Phật đã cho em gặp anh. Có lẽ Ba đã run rủi em gặp anh đó. Lập ơi em thương anh lắm, anh biết không? - Sao em thương anh nhiều dữ vậy ? - Không biết nữa, có lẽ em thấy anh giống Ba em. Anh chiều chuộng em, anh là người lớn, bao dung, đại lượng, biết nhiều, hiểu nhiều. Anh biết không, hôm em gặp anh đi hành quân, em thấy anh oai hùng qúa, giống như Ba em ngày xưa. Mấy Ông Lính thương anh lắm phải không ? - Không mấy ông ấy ghét anh lắm. - Cái mặt xạo, ai mà ghét anh. Anh nhiều đào lắm phải không ? nói cho em nghe đi. - Có mình em thương anh thôi, thiệt đó. Tôi ngồi bên nàng, uống từng giọt tình yêu ngọt ngào, nghe trái tìm mình đập từng điệu nhạc run rảy trên lối vào Thiên Đường chỉ có hai đứa chúng tôi. Nàng đã dạy cho tôi biết mơ mộng, thấy đời đáng yêu hơn, những thứ đó tôi đã đánh mất từ khi mới lớn, từ khi bước chân vào quân ngũ, tôi vẫn nghĩ tuổi trẻ của tôi đang đi vào ngõ cụt và chỉ còn những giấc mơ hãi hùng. Đời tôi thật trống rỗng nếu không có nàng. Tôi thấy yêu thương nàng qúa đỗi. Qùynh Hoa vẫn còn vẽ những giấc mơ của nàng nhưng tôi không còn nghe gì cả, chỉ thấy cánh môi hồng mấp máy, hơi thở thơm tho mùi mía lùi phà trên mặt tôi. Bất chợt, tôi ôm và hôn nàng say đắm, người nóng bừng như có dòng điện chạy ào ạt từ tim lên đầu. Nàng đẩy nhẹ tôi ra: - Coi kìa, người ta cười mình đó. - Ai mà dám cười mình. Nàng đánh trống lảng, bâng quơ hỏi tôi: - Anh ơi, cây cầu này có tên không anh. - Anh cũng chẳng biết nữa, hay là mình đặt cho nó một cái tên làm kỷ niệm nghe. - Em cho anh đặt đó. - Ừ, hay là mình gọi là Cây Cầu Biên Giới nghe em. - Cái tên nghe cũng hay đấy, nhưng mà nghe có vẻ chia ly qúa. Giống như trong bài “Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu” của Nguyễn Văn Đông vậy. Tôi phì cười: - Mới thương nhau mà em đã nghĩ đến chuyện chia ly rồi. - Nhưng mà em sợ lắm, thời buổi chiến tranh... Lỡ mai này, anh bỏ em ở đây một mình, em buồn lắm đó. - Không, anh sẽ không bỏ em một mình, anh sẽ xin với Mẹ để cưới em, chúng ta mãi mãi bên nhau. Nàng reo lên sung sướng như một đứa con nít, mắt sáng ngời những tia hy vọng, rồi ôm lấy tôi. Ôi mùi thơm ngọt ngào, tôi làm bộ đẩy nhẹ nàng ra: - Coi chừng người ta thấy, họ cười mình đó. - Ai cười hở mười hàm răng ! Thật không ngờ, nơi rừng rú hoang vu nguy hiểm này ai nghe đến cũng rợn tóc gáy. Bạn bè, người thân, lâu không gặp nhau, hỏi tôi bây giờ Ớ đâu, tôi trả lời ở quận Phú Nhơn tỉnh Cheo Reo, ai cũng lè lưỡi chọc tôi bộ hết đất rồi sao lên miền Thượng ở vậy, tôi chỉ cười khì. Bây giờ tôi đã có lý do để trả lời họ ... Bởi vì tôi mê hoa Qùynh, thế thôi. - Anh làm gì ngồi thừ ra thế, hãy nói nữa về tương lai của chúng ta cho em nghe đi. - Anh đang sung sướng qúa nên làm một bài thơ kỷ niệm. - Ồ, anh biết làm thơ nữa sao? Hãy đọc em nghe đi, em sẽ thưởng cho anh. - Ừ, anh đọc thơ con cóc, em đừng cười nghe. Em biết thơ con cóc không ? Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra. Nàng đọc tiếp: - Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi... với anh !!! Em thích thơ con cóc lắm. Em sẽ làm con cóc như trong chuyện cổ tích gì đó, anh học trò có người vợ cóc xấu xí, đêm đêm hiện nguyên hình là một nàng Tiên săn sóc cho chồng. Ban ngày là một con cóc lẽo đẽo theo chồng. - Nếu em là một nàng Tiên cóc, anh sẽ bỏ em vào ba lô mang theo khi đi hành quân, anh sẽ tâm sự với em. - Anh phải đọc thơ cóc cho em nghe. Ơ, nếu vậy mấy Ông Lính sẽ gọi anh là người điên đó. - Anh điên vì em, thì anh cũng chịu. Nàng bá cổ tôi nũng nịu: - Thôi đừng đánh trống lảng, đọc thơ con cóc cho em nghe đi anh. - Ừ, anh đọc nghe, cấm cười đó, đứa nào cười anh khóa miệng lại cho mà coi. Chiều về thấp thóang bên sông, Thấy Qùynh thơm ngát thấy lòng xôn xao. Nàng cười rũ rượi, hai tay đánh liên hồi vào vai tôi. Một ngày như mọi ngày trôi qua, trong thung lũng tình yêu, bên cây câu biên giới, nỗi chết đã tạm chịu rút lui, để nhường chỗ cho tình yêu hoa bướm ngọt ngào. Tôi lấy con dao găm đeo bên mình khắc câu thơ trên thành cầu sắt để đánh dấu một chặng đường yêu đương… & - Anh muốn vào chợ hay đến nhà ai ở quận Phú Nhơn ? Tiếng người tài xế kéo tôi về thực tại. Giấc mơ thật ngắn ngủi, như cuộc tình của chúng tôi. - Anh cho tôi lại trường tiểu học. Quang cảnh vẫn không thay đổi mấy, ngôi trường tiểu học vẫn như xưa. thời gian như ngừng trôi Ớ quận lỵ nhỏ bé này. Phố chợ đìu hiu vẫn còn kia, hàng rào kẽm gai chung quanh doanh trại nơi tôi đóng quân vẫn còn đó, nhưng chẳng ai biết đến một người con gái đẹp như hoa Qùynh đã từng in dấu chân nơi chốn này. Hình ảnh ngày xưa vẫn còn đủ chỉ thiếu một người. Tôi hối người tài xế chạy ra phía cây cầu. Chiếc cầu sắt nhỏ bé đầy dấu kỷ niệm, tôi như trong giấc mơ, Chàng Tú Uyên ngày xưa khi tỉnh giấc không thấy người đẹp trong tranh đâu nữa, chắc cũng ngỡ ngàng như tôi hôm nay thôi. Tôi bước lên cầu, ngồi đúng vào chỗ ngày xưa chúng tôi đã từng có một thời mơ mộng. Tôi ngồi bệt xuống, hai chân đong đưa, mắt nhìn xa xăm trên những ngọn phượng vĩ bên sông, cố tìm chút nắng vàng ngày xưa của một buổi chiều tà. Tìm mãi cũng chẳng thấy đâu, không thấy một dấu tích gì của nàng. Nơi thành cầu này tôi đã hôn những nụ hôn đầu tiên trong đời, vẽ những giấc mơ dầu tiên trong đời và những bài thơ con cóc đầu tiên trong đời tôi. Đúng là cây câu chia ly như nàng đã nói. Bây giờ nàng ở đâu, hay đã bỏ xác trên tỉnh lộ Số Bảy trên đường di tản về Tuy Hoà. Ồ phải rôì, tôi phải tìm lại bài thơ con cóc có lẽ đó là kỷ niệm duy nhất còn lại của tôi với nàng. Tôi dò từng tấc sắt trên thành cầu, bài thơ còn đó nhưng đã dài hơn hai câu: Chiều về chiều vẫn một mình, Trách người năm cũ bỏ tình bơ vơ. Tôi bay về Hoa Kỳ lòng buồn miên man, bao nhiêu háo hức của ngày trở lại Việt Nam đã tiêu tan đâu mất chỉ còn lại sự mệt mỏi và chán chường. Tôi đã đi mọi nơi, để tìm tung tích của Quỳnh Hoa nhưng cũng không có tin tức gì. Ngày ấy nếu tôi không bị kẹt ngoài Huế, chắc chúng tôi đã chết bên nhau hay cùng nhau lênh trên con tàu vượt biên. Thời gian thấm thoát trôi đi, tóc tôi đã bắt đầu điểm bạc. Mỗi lần đi dâu, thấy bóng giáng mái tóc thề và chiếc áo dài trắng lòng tôi lại xôn xao như ngày nào bên chiếc Cầu Biên Giới. -------------------- “Vì Danh Dự Dân Tộc: Chống giặc Tàu.
Vì tương lai Dân Tộc: khai tử tập đoàn bán nước Việt Cộng” |
|
|
![]() ![]()
Post
#108
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 13,947 Joined: 18-November 08 Member No.: 775 Age: 53 Country ![]() ![]() |
![]() Mục sư Nguyễn Công Chính bị Việt Cộng kết án 11 năm tù giam Kính thưa quý thân hữu, quý chiến hữu, cùng quý niên trưởng, Hôm nay, Tòa án tỉnh Gia Lai đưa mục sư Nguyễn Công Chính ra xét xử và tuyên án ông 11 năm tù giam với các tội danh theo điều 87 Bộ Luật hình sự Việt Nam. Vào lúc 7 giờ sáng ngày 28/04/2011, Mục sư Nguyễn Công Chính đã bị cơ quan Công An tỉnh Gia Lai khởi tố và bắt giam. Các tội danh mà phía công tố Việt Nam buộc cho mục sư Nguyễn Công Chính gồm gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, tuyên truyền gây thù hằn chia rẽ giữa dân tộc, xâm phạm chủ quyền của các dân tộc, gây chia rẽ giữa người có tôn giáo với người không tôn giáo, giữa tín đồ tôn giáo với chính quyền, và phá hoại chính sách quốc tế đoàn kết quốc tế của Việt Nam. Phiên tòa không luật sư bào chữa Ngay sau phiên xử bà Trần Thị Hồng, vợ của mục sư Nguyễn Công Chính, cho biết một số thông tin về phiên xử chồng bà hôm nay mà bà quyết đến tham dự dù không được chính thức thông báo: ![]() “Phiên tòa đã kết thúc với bản án 11 năm tù. Họ không cho một luật sư nào bào chữa. Sau khi tuyên án họ nói bị cáo có quyền kháng án trong vòng 15 ngày. Họ đưa ra những điều mà ông mục sư Chính vi phạm, trong đó có vấn đề thương phế binh. Ông Ms Chính bào chữa đó là những người khó khăn, và là một chức sắc tôn giáo nên phải giúp đỡ; nhưng họ nói ông vi phạm gây xào xáo trong gia đình những thương phế binh. Họ nói ông MS Chính có những cuộc phỏng vấn bên ngoài nói xấu chính quyền, đảng và nhà nước. Có những bài viết đưa lên, xuyên tạc là vi phạm. Ông Ms Chính cũng bình tĩnh trả lời những điều họ buộc. Phiên tòa đã kết thúc với bản án 11 năm tù. Họ không cho một luật sư nào bào chữa. Sau khi tuyên án họ nói bị cáo có quyền kháng án trong vòng 15 ngày. Họ đưa ra những điều mà ông mục sư Chính vi phạm, trong đó có vấn đề thương phế binh. bà Trần Thị Hồng ![]() Họ yêu cầu ông thành khẩn nhận tội. Ông nói rằng ông chỉ có tội với Chúa, chứ không hề có tội gì với nhà nước. Gia đình ông bị mất đất đai, ủi sập, mất quyền tự do đi lại nên ông phải đấu tranh; chứ không có gì vi phạm với chính thể, Nhà nước này.” ![]() Xin được nhắc lại ông Nguyễn Công Chính từng là mục sư theo giáo phái Mennonite, nay chuyển sang giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam và giữ chức hội trưởng giáo hội Liên hữu Lutheran Hoa Kỳ- Việt Nam. Ông bị bắt hồi tháng tư năm ngoái. Từ khi bị bắt đến khi ra tòa, gia đình ông không hề được gặp mặt. Cơ quan điều tra công an Việt Nam cho rằng từ năm 2004 đến khi bị bắt ông Nguyễn Công Chính soạn thảo nhiều tài liệu và gửi ra cho người khác mà chính quyền Việt Nam cho là phản động. Cơ quan này cũng nói ông đã trả lời phỏng vấn các cơ quan truyền thông nước ngoài mà qua đó xuyên tạc tình hình trong nước cũng như vu khống chính quyền và các lực lượng vũ trang. Suốt từ năm 2003 cho đến ngày bị bắt giam 28 tháng 4, 2011, Mục Sư Nguyễn Công Chính và gia đình đã sống trong sự khủng bố thường trực của công an. Hai lần vào tháng 9, 2003 và tháng 1, 2004, nhà nguyện tư gia của Hội Thánh Tin Lành do ông cầm đầu ở thành phố Kontum đã bị công an mang xe cơ giới tới san bằng. Giấy tờ tùy thân, hộ khẩu của gia đình công bị công an lấy hết. Con ông ra đời không làm được giấy khai sanh. Gia đình ông đi thuê nhà ở tạm chỗ nào thì bị công an tới ép chủ nhà đuổi. Ông đã phải đổi Hội Thánh ít ra ba lần và cuối cùng trước khi bị tống giam là hội trưởng Giáo hội Liên Hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ. Vào ngày 8 tháng 6, 2009, Mục Sư Chính khi cầm đầu “Giáo hội Liên Hữu Tin Lành Ðấng Christ Các Dân Tộc Việt Nam” liệt kê tóm tắt các khổ nạn của ông và gia đình từ năm 2003 đến thời gian này như sau: “21 năm không có hộ khẩu, CMND, đã có 298 lần bị công an cưỡng ép thẩm vấn, 19 lần bị công an tra tấn đánh đập, 23 lần đi thuê nhà ở trong nhiều tỉnh, 86 lần bị trục xuất ra khỏi chỗ ở, 2 lần bị chính quyền cưỡng chế ủi sập nhà nguyện và tịch thu tài sản, 4 lần bị mưu sát, 6 lần bị bắt giam, Tài sản vật dụng bị chính quyền CSVN tịch thu không trả lại, Hiện nay gia đình bị chính quyền CSVN cô lập, mất tất cả các quyền tự do của công dân, và đã bị công an mục vụ PA38 đóng chốt canh gác cô lập kiểm tra liên tục sách nhiễu trong nhiều năm...” Trong một lần trả lời phỏng vấn của đài RFA, ông cho hay ông sống như người lưu vong trên chính quê hương mình. Nhà ông ở, ngoài chuyện bị canh giữ trước sau rất chặt chẽ suốt ngày đêm, có nhiều lần công an còn ném gạch đá lên nóc nhà, ném phân người vào nhà. Vì là một tổ chức tôn giáo không chấp nhận gia nhập vào hệ thống tôn giáo quốc doanh, MS Chính đã bị nhà cầm quyền vu cho là “núp dưới vỏ bọc tôn giáo” tương tự như nhiều hệ phái Tin Lành và Phật Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo. Năm 2009, MS Nguyễn Công Chính được Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam ở Hoa Kỳ trao tặng giải thưởng nhân quyền. Trả lời phỏng vấn của đài BBC về bản án mới đối với Mục Sư Chính, ông John Sifton, giám đốc về vận động cho Châu Á của tổ chức nhân quyền Human Rights Watch, nói hành động của chính phủ Việt Nam cho thấy Việt Nam “vẫn không tôn trọng tự do tôn giáo.” “Việc kết án Mục Sư Chính không phải trường hợp cá biệt... Riêng trong năm 2011, ít nhất chín tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên lãnh án tổng cộng tới 85 năm tù vì tội phá hoại đoàn kết dân tộc, trong khi tín đồ các đạo phái khác như Hòa Hảo, Công Giáo và Pháp Luân Công cũng bị xử tù hoặc bị kết án chờ ngày ra tòa.” Ông John Sifton, nói thêm: “Bản án dành cho Mục Sư Nguyễn Quốc Chính một lần nữa chứng minh rằng chính phủ Việt Nam không hề quan tâm tới tự do tôn giáo.” Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ mới đây gửi thư cho Bộ Ngoại Giao đề nghị đưa tên nước Việt Nam vào danh sách “Các Nước Cần Quan Tâm Ðặc Biệt” (CPC) vì nước này vẫn đàn áp tự do tôn giáo của người dân rất nghiêm trọng. -------------------- KHAI TỬ ĐẢNG!
|
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 12th July 2025 - 03:48 PM |