Welcome Guest ( Log In | Register )

> Thép Đen - Hồi Ký Đặng Chí Bình
Violet
post May 31 2008, 06:42 AM
Post #1


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country






Thép Đen



(Chương 1 -- 42)


Tâm tư khi in lại Thép Đen


Năm 1985, tôi viết xong hai tập hồi ký Thép Đen I & II. Hai năm sau mới tìm được nhà in và phát hành. Năm năm sau Thép Đen tập III mới ra đời. Từ khi Thép Đen I & II được in đến nay đã 15 năm. Trong thời gian đó phần vì sức khoẻ, phần vì gánh nặng gia đình, tôi hầu như không viết lách gì, cũng không sinh hoạt báo chí gì cả. Nhưng thật ngạc nhiên, cứ thỉnh thoảng tôi nhận được một lá thư độc giả nói về Thép Đen. Cả thảy có hơn 300 lá thư. Đài phát thanh Việt Ngữ Quê Hương ở Bắc Cali, Đài Sống Trên Đất Mỹ ở Nam Cali... cho đọc Thép Đen. Có cả những đài cho đọc mà tôi không được biết, chỉ biết do thính giả quen. Bây giờ thì ngoài sách Thép Đen, còn có cả băng audio và đĩa CD Thép Đen nữa.
Trong hân hạnh ấy, tôi tự hỏi làm sao mà Thép Đen được đón nhận như vậy? Trước và sau Thép Đen có biết bao hồi ký về lao tù và thời cuộc. Có nhiều bí mật chính trị được phanh phui. Bao nhiêu vị tướng lãnh thuật lại những giai đoạn gay go của đất nước. Bao nhiêu nhà văn tên tuổi ghi lại những cảnh sống tù đầy mà nếu không có văn chương tài năng, khó có thể nói lên những trạng huống cũng như cảm xúc day dứt và cùng cực. Trong khi đó tôi chỉ là một điệp viên không tên tuổi, thi hành một công tác giới hạn, hầu như bị bịt mặt trước thời cuộc, cũng chưa bao giờ viết văn, và ngoài Thép Đen cũng chưa viết gì đáng kể. Hỏi bạn bè, mỗi người cho một ý kiến. Cuối cùng tôi đoán rằng, ngoài một số yếu tố về văn mà Thép Đen cùng góp phần với các tác phẩm khác, có lẽ tính xác thực một cách mộc mạc của Thép Đen đã lôi cuốn độc giả suốt mười mấy năm nay chăng? Có độc giả gửi thư sửa cho tôi số nhà ở phố Hàng Bạc. Có người nhận là vợ của một trung tá cho tôi biết rõ nhiều chi tiết của sự việc ngày ấy v.v... Nhiều độc giả hỏi cô Vân bây giờ ra sao?
Nếu các độc giả muốn biết về cô Vân ra sao một phần, thì tôi muốn biết đến một trăm phần, và không phải chỉ có cô ấy mà là tất cả cảnh cũ người xưa của 40 năm trước. Tôi mơ ước có một ngày được về rờ những bức tường xà lim, cái cùm chân và cùm mồm. Tôi khát khao được nhìn thấy cô Vân để tìm xem cô còn những nét gì ngày xưa, và cô còn nhớ tôi không. Tôi muốn được tay bắt mặt mừng với những bạn tù, nếu họ còn sống, để ôn lại những ngày bị đầy đọa trong
2
kiểu tù đầy chắc chỉ còn sót lại cuối cùng trong bước tiến hóa của con người nhân tính từ thế kỷ này.
Đã gần 20 năm, tôi chưa về được. Nhưng may cho tôi, có một vị linh mục trẻ và một bạn trẻ độc giả đã lần theo giai đoạn của Thép Đen để đến tận nơi, ghi lại bằng hình ảnh, và quí nhất một anh chị bạn đã gặp “người muôn năm cũ”, của đất Hưng Yên nhiều mầu mỡ, còn thu vào băng hình video mang về cho tôi. Xin quý vị tha lỗi, nếu tôi nói rằng, không ai có thể hiểu hết được tôi sung sướng đến mức độ nào! Có đến vài tháng trời, tôi như sống trở lại những ngày xưa ấy, chỉ trừ không có cái xà lim và không có cùm.
Cho nên, một phần để đáp lại sự đón nhận của độc giả, một phần Thép Đen những lần in trước đã không còn, tôi quyết định cho tái bản với sự bổ sung nhiều hình ảnh mới có được. Một điều ngạc nhiên cho chính tôi là, cũng như viết văn, tôi chưa hề vẽ bao giờ, vậy mà chỉ bằng trí nhớ, tôi vẽ được cái cùm mồm, cùm chân, xà lim... trong khi viết Thép Đen gần giống như cái hình chụp bây giờ, cả về hình dáng cũng như kích thước. Vậy, chính vì tính xác thực tạo nên sự hấp dẫn và thuyết phục cho Thép Đen thì lần tái bản này, tôi hy vọng có thể góp thêm vào sự xác thực ấy.
Sau hết, tôi xin cảm tạ vị linh mục trẻ, anh chị bạn thân và một độc giả thanh niên nhiều nghĩa tình. Đã giúp tôi giải tỏa được phần nào nỗi niềm trong lòng tôi.

Boston ngày 29 tháng 10 năm 200

Hồi Ký Đặng Chí Bình

This post has been edited by M&N: Dec 20 2010, 02:10 PM
Go to the top of the page
 
+Quote Post
8 Pages V  « < 3 4 5 6 7 > »   
Start new topic
Replies (48 - 59)
Violet
post Jun 7 2008, 04:03 PM
Post #49


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Bốn Mươi Bảy

Những giây phút… mộng mơ!...

Bây giờ, tâm hồn tôi thật thư thái, ung dung. Thậm chí, nhiều khi tôi bật ra tiếng ca ông ổng, hoặc ồm ồm đọc thơ. Bất cứ một lời ca, một đoạn thơ, chẳng nhớ, chẳng biết của ai, bài gì, cứ thấy phù hợp với tâm tư vơi đầy của mình, là tự nhiên trỗi dậy thành lời, cho đôi tai cùng thưởng thức những phút tương đồng.
Ngồi nhiều mỏi lưng đau đít, lại nằm cho lòng siêu thoát bay nơi nơi, cho hồn lãng mạn dật dờ, chơi vơi đắm chìm trong những vùng trời hương sắc của cuộc đời. Để được nghe tiếng đời xua động, để cho võng lòng đu đưa.
Hoàn cảnh thực tại thì chẳng có một cái gì, có chăng chỉ là những cay đắng thương đau. Vì vậy, tôi phải tạo nên những cảnh đời, tôi muốn trong…..mơ. Những điều tôi không làm được trong thực tế, tôi sẽ hiện thực nó trong giấc mơ đầy.
Nằm lim dim đôi mắt, tôi nhớ lại những buổi trước ngày đi. Một anh bạn đến rủ tôi đi xem cuốn phim “Tên Trộm Thành Bá Đa”, câu chuyện cổ tích trong “Một Ngàn Một Đêm Lẻ”. Từ hàng chục năm xưa, cuốn phim đã chiếu đi, chiếu lại nhiều lần; nhưng lần nào khán giả cũng đầy rạp. Nội dung phim, tôi không trình bầy ở đây, mà chỉ ghi lại những đoạn tôi muốn đề cập.
Tên ăn trộm, đẹp trai đáng yêu này, vì muốn chữa căn bệnh quái ác, lòa và câm của nàng công chúa mỹ miều tuyệt vời, người yêu của y. Y đã phải chấp nhận “đăng ký” cùng nhiều chàng trai khác để đi tìm một bông hồng xanh. Theo lời tiên đế mách bảo vua cha của công chúa. Chỉ có bông hồng xanh mới chữa khỏi căn bệnh kỳ lạ đó của công chúa.
Tất cả mọi chàng trai, tất nhiên trong đó có cả tên ăn trộm đáng yêu, sẽ phải đi qua 9 cửa ải thập phần nguy hiểm, mới tới được chỗ có bông hồng xanh. Mỗi cửa ải, với bao gian nan hiểm nguy, chết chóc, lần lượt đoàn người thưa dần, hoặc chết, hoặc bỏ cuộc. Từ cửa ải thứ tư trở đi, khi chỉ còn một mình tên ăn trộm tài ba, hiên ngang và quyết tâm này. Một mình một bóng, y len lỏi nơi núi rừng hoang vắng, đầy chết chóc đợi chờ…..
Đến cửa ải thứ năm (nếu tôi nhớ không làm), sau bao nhiêu tính toán mưu mô, với một trận chiến đấu tưởng thập phấn…tử, tên trộm đoạt được chiếc áo tàng hình của tên Sơn Thần trấn ải. Từ đó, trên đường đi tới, chiếc khăn choàng tàng hình này, đã giúp y vượt qua nhiều chặng hiểm nguy kinh hồn…để cuối cùng tìm được bông hồng xanh.
Đặc điểm của chiếc khăn choàng tàng hình, là khi nào chủ nhân muốn dùng, chỉ việc buộc quàng chung quanh cổ mình. Tức khắc, người đó sẽ trở thanh vô hình, và nếu có mang hay ôm vật gì theo, người ta cũng không trông thấy cái đó.
Đến đây tôi chợt nghĩ, nếu bây giờ trong hoàn cảnh cùm kẹp, giam cầm trong ngục tù bất hạnh này, có được một chiếc khăn choàng như vậy, tôi sẽ làm gì? Tôi sẽ làm điều gì nhỉ?...Tôi lại miên man tưởng tượng: À, tôi sẽ lợi dụng lúc tên Chiến mở cửa buồng cho ra trả bát, chờ lúc y lúi húi quay chỗ khác, tôi chỉ việc quàng cái khăn tàng hình vào cổ mình. Tôi sẽ không đi ngay, cò phải chờ xem bộ mặt ngơ ngẩn và hốt hoảng của y, khi ngẩng lên không trông thấy tôi đâu. Rồi, y sẽ nhớn nhác chạy vào buồng tôi, rồi hộc tốc chạy vào buồng tắm…..cuối cùng không thấy tôi, y chỉ còn cho là tôi đã chạy ra phía cổng xà lim, để ra ngoài sân trại chung.
Tôi vẫn chưa chuồn ngay, cứ khoanh tay đứng nhìn bọn chúng nhốn nháo, báo động, bố ráp tìm kiếm tôi khắp Hỏa Lò như thế nào, cả tiếng đồng hồ…Tội gián điệp là một trong những tội nặng nề nhất về chính trị. Một điệp viên, đang còn trong thời gian khai thác, tự dưng biến mất; chắc chắn chúng sẽ dùng nhiều người và nhiều biện pháp cao nhất để truy lùng. Đó là việc bọn chúng! Còn tôi bây giờ, tôi sẽ làm gì nữa đây? Sau đó, chắc chắn vì bụng đã quá đói lâu ngày, hãy tạm xuống bếp riêng của cán bộ Hỏa Lò, kiếm cái gì ăn cho đã một bữa, rồi nhiên hậu mới tính đến những việc khác.
Việc thứ hai, trong lúc chúng nghiên cứu, bố ráp và tìm kiếm tôi, thế náo chúng cũng xem lại hồ sơ của tôi. Vậy, tôi sẽ lợi dụng thời gian này, tìm về phòng chấp pháp Bộ Công An, để tùy cơ xem hồ sơ, chúng đã nhận định về vụ án của tôi ra sao. Tôi rất tò mò muốn biết điểm này, bởi vì trong hai năm, “đấu” cung với chúng, tôi chỉ được đứng từ một phía để suy đoán.
Ngay tối hôm đó, tôi phải vào Phủ Chủ Tịch,…..để thăm sức khỏe tên cáo Hồ. Trong lúc chờ y vào buồng ngủ, trước hết, tôi hãy thăm cái bếp Chủ Tịch phủ mà tôi nghĩ rằng chẳng thiếu thức ăn sâm, nhưng, bổ béo. Tôi cũng cần hồi sức càng nhanh càng tốt để còn phải làm nhiều việc. Trong quá trình đến Bộ Công An và Phủ Chủ Tịch, tôi đã kiếm được hai
khẩu súng ngắn và một con dao sắc, bén vừa ý. Chắc cũng phải 11, 12 giờ khuya, tên cáo già mới vào buồng ngủ. Lúc đó, chỉ còn mình y và tôi trong buồng. Chờ y lên giường nằm và lúc y chỉ còn để đèn ngủ, tôi bật đèn sáng trong buồng lên. Để uy hiếp tinh thần y, tôi vẫn không cho y thấy tôi. Tôi thừa hiểu trên giường y nằm, và trên bàn y ngồi, chắc chắn phải có những nút báo động hoặc những vũ khí cần thiết để tự cứu nguy cấp thời. Bây giờ, tôi thừa lực, thừa tài để không sợ những vật ấy. Nhưng tôi cũng khổng cho phép y sử dụng những thứ ấy. Tôi bắt y quỳ ra giữa buồng. Có thể y sẽ phản ứng hoặc tìm cách chống trả, để trấn áp tinh thần y, tôi xẻo một tai của y. Hơn nữa, không nhìn thấy người, y sẽ phải táng đởm kinh hồn, sợ một phép và làm theo ý muốn của tôi.
Đàng nào tôi cũng sẽ giết y, nhưng trước khi phải chết, tôi muốn y được nghe và biết một số điều. Để cho y được rõ ràng, tôi dõng dạc tuyên bố:
- Tội của mày đối với quê hương, dân tộc cao như núi Hoàng Liên Sơn, nước biển Thái Bình không rửa sạch hết. Tao là người của trời sai xuống, đại diện hàng triệu người bị mày giết hại, để xử mày đầu tiên. Đây cũng là giờ chế độ cộng sản phi nhân trên trái đất này bắt đầy bị tiêu diệt.
Mặc cho nó lạy van khóc lóc, tôi đâm một dao vào tim nó. Lẽ ra, tôi phải mang xác nó vào chuồng cọp sở thú, nhưng tôi đổi ý. Để cho quần chúng nhân dân biết, tôi sẽ vác xác nó về khu phố Hoàn Kiếm và để vào một chỗ kín đáo an toàn. Rồi, tôi tìm một cuộn dây thừng, một tờ giấy bìa to, bút vẽ. Viết cái gì đây? “Thế thiên hành đạo!”? Không được, có vẻ tiểu thuyết Tàu quá! Cuối cùng, tôi viết chữ thật to: “Tên cáo Hồ đền tội! Giờ chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới bị tiêu diệt đã điểm! Đồng bào hãy đứng dậy trả thù! Mặt Trận Toàn Cầu Diệt Cộng”.
Tôi sẽ lấy một cuộn dây và một số giấy gói, ít cái kẹp sắt, xong trở lại chỗ giấu xác y. Tôi vá y ra chỗ mấy cây sấu sát bờ hồ, chéo bên hông nhà Thủy Tạ, trước quán “Mụ Béo” trong sang. Tôi kẹp chặt tờ bìa đã viết chữ từ ngực y trở xuống. Xong, buộc dây thòng lọng rút chặt vào hai vai y. Đầu dây kia buộc vào một hòn đá ném kên cành nào tôi định treo. Tôi cắt “cái” của y, rồi lấy dao cậy mồm của y ra, nhét vào cho y ngậm một nửa, còn một nửa để lòi ra ngoài cho nhân dân trông thấy. Tôi làm như vậy vì cái mồm y lừa đảo, bịp bợm, dụ khị biết bao nhiêu người, để rồi cuối cùng, dần dần y lừa tiêu diệt hết. Cho nên, cái mồm ấy, chỉ đáng ngậm “cái ấy” của y. Tôi lại lấy đất, đá buộc thành 5 gói to nhỏ, viết bên ngoài hàng chữ “Mìn nổ chậm”. Tôi leo lên cây, dùng phương pháp liên đới kéo xác tên già lên lưng chừng, rồi cột lại một khoảng cách cho người dưới đất, với tay lên không tới. Tôi treo vào xác 3 dây gói mìn, hai gói còn lại treo trên chỗ
chạng cây, phía gốc cây. Tôi buộc những gói mìn nổ chậm giả này, mục đích là kéo dài thời gian, để tụi công an ngần ngại, không dám trèo lên cây lấy xác tên cáo xuống ngay. Nhân dân qua lại đủ thì giờ, nhìn cho sướng mắt.
Bây giờ, thừa sức, thừa tài và điều kiện, tôi cũng không thèm giết những người cộng sản khác, vì bất cứ ai, dù ở cương vị nào, họ cũng ít nhiều bị tên cáo già này lợi dụng. Vậy, xét ra họ cũng đáng thương. Tôi chỉ cần giết một vài tên đầu sỏ.
Sau một đêm vừa thức vừa làm việc, tất nhiên tôi mệt mỏi, nhưng tôi không ngủ. Tôi phải ngồi trên cây, đặt một tay vào xác y, với chiếc khăn kỳ diệu trên mình, dĩ nhiên xác y cũng tàng hình luôn. Tôi muốn chờ tới khi sáng rõ, mới cho mọi người thấ. Khi đồng bào bắt đầu đi lại đông đảo, tôi mới bỏ tay ra, tụt xuống, tìm một chỗ kín đáo và an toàn để ngủ bù. Tôi cần phải lấy lại sức, để còn làm nhiều việc nữa…..
Chiều hôm ấy, tôi mò vào trường bay Gia Lâm, tìm các chuyến bay ra ngoại quốc. Tôi tìm chuyến đi Hồng Kông là nhanh nhất. Rồi từ Hồng Kông, tôi sang xứ cờ Hoa. Tất nhiên trên máy bay, tôi phải thận trọng tránh né hết mọi người. Tôi muốn đến Hợp Chủng Quốc ngay, bởi vì qua thực tế, tôi thấy dù muốn hay không, cũng phải thừa nhận Hoa Kỳ là một nước đã bỏ nhiều công sức, trong mặt trận thế giới chống cộng sản. Hơn nữa, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện cũng như khả năng để giúp tôi thực hiện sớm chiến dịch này. Chương trình dự trù của tôi là trong 6 tháng, hệ thống cộng sản thế giới sẽ bị đập tan hoang về căn bản.
Khi tôi mò được đến thủ đô Hoa Thịnh Đốn, chắc tin Hồ Chí Minh tai bị cắt, mồm ngậm chim, xác chết treo cành cây sấu ở bờ hồ Hoàn Kiếm đã được báo chí và truyền hình thế giới đang sôi nổi tìm tòi tường thuật rồi.
Hiện giờ đang trong nhiệm kỳ của Tổng Thống Johnson. Cũng có một điều khó khăn cho tôi, đó là vấn đề vốn liếng Anh ngữ cập quạng của mình. Nhưng, với thế chủ động, tôi tin là sẽ giải quyết được. Tôi chuẩn bị trước mấy ý trình bày. Trong lúc mò kiếm cái ăn, hoặc những lúc nghỉ ngơi, tôi cứ lẩm bẩm tập nói trước mấy câu đó. Chắc hẳn, ai cũng biết, với cái khăn choàng tàng hình, tôi vào Tòa Nhà Trắng chẳng khó khăn gì. Tuy là có vợ con, nhưng chắc chắn Tổng Thống Johnson phải có một phòng làm việc riêng. Chờ khi nào ông chỉ có một mình ở trong phòng riêng, đầu tiên, tôi sẽ lên tiếng chào. Chắc hẳn ông ta sẽ ngạc nhiên, đồng thời với bản tính tự nhiên của một vị nguyên thủ, ông sẽ tìm thế tự vệ chống trả. Nhưng tôi sẽ nói:
- Ông đừng sợ! Tôi đến với ông như là bạn, cần bàn với ông nhiều việc tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản.
Để ông ta yên tâm hơn và thoải mái nói chuyện, tôi nói thẳng:
- Tôi là người vừa giết chết tên Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Vậy, nếu tôi muốn làm hại ông, ông làm sao tránh thoát.
Chỉ nghe tiếng nói mà không thấy người, tất nhiên ông ta phải tin lời nói của tôi có giá trị. Tôi mời ông ta ra bàn ngồi nói chuyện. Tôi sẽ nói ngay về tình trạng Anh ngữ kém cõi của mình và yêu cầu ông ta cân nhắc thật kỹ để tìm một người thân tín biết rành tiếng Việt Nam. Người đó phải thuộc cơ quan của Tòa Nhà Trắng. Những lúc tiếp xúc tay ba, người đó phải chịu một điều kiện là bị bịt mắt lại bằng một chiếc khăn đen do chính tôi đưa, và ông ta buộc. Rồi tôi sẽ nói luôn là trong thời gian của cuộc tiếp xúc này, có thể lâu, người đó sẽ không được ra ngoài, phải ở luôn trong một phòng ngay tại Tòa Nhà Trắng. Mặt khác, tôi cũng yêu cầu Tổng Thống Johnson nâng cao ý thức bảo mật, vì mục đích chung quan trọng là tiêu diệt cộng sản một cách hữu hiệu. Tôi cũng yêu cầu ông ta không được nói với bất cứ ai dù là vợ con, về sự vô hình của tôi. Nghĩa là trên trái đất này, Tổng Thống Johnson là người duy nhất biết tôi vô hình. Ngay đối với người thông dịch, cũng sẽ để anh ta tưởng là có một người bình thường đang nói chuyện với Tổng Thống mà anh ta không được phép nhìn thấy mặt. Điều này vô cùng quan trọng, chiến dịch sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn, hoặc có khi thất bại, nếu thiên hạ biết là có người vô hình. Như thế, để sau này, mỗi sự việc xảy ra, người ta chỉ có thể tìm tòi và suy đoán theo lẽ thường tình, không nghĩ là do bàn tay của người vô hình. Người nào đã nghe thấy tiếng nói của tôi mà không thấy tôi, vì cái chủ trương phải tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, nên người đó phải chết rồi.
Tóm lại, Tổng Thống hay nước Mỹ sẽ phải chịu trách nhiệm thực hiện những chuyến bay hợp lý để tôi đến các nước cộng sản. Đầu tiên là Liên Xô, rồi Trung Quốc, Cuba, Đông Đức, Tiệp Khắc, v.v… Đồng thời, Tổng Thống mở một chiến dịch toàn cầu với những nước cần thiết hữu quan như Nhật Bản, Pháp, Anh, Tây Đức, Do Thái, Ý, v.v…để tất cả chuẩn bị rầm rộ các phương tiện tuyên truyền, quân đội, tình báo, v.v…một cách cao nhất, hữu hiệu nhất, xông vào giúp nhân dân các nước cộng sản đứng lên tổ chức lại chính quyền Cộng Hòa, Dân Chủ thực sự. Tổng Thống sẽ phải tận dựng tối đa khả năng tác động qua lại giữa bí mật là tôi, và công khai là Mặt Trận Toàn Cầu để làm tan rã nhanh chóng sự chống đối cùng quẫn của cộng sản.
Phần tôi, tôi chịu trách nhiệm thanh toán tất cả các đương kim lãnh tụ của các nước cộng sản. Bất cứ một tên cộng sản ngoan cố nào, ở bất cứ một nước nào, muốn đứng lên hô hào tổ chức chống lại, đều bị hình phạt như tên cáo Hồ.
Như vậy, tôi nghĩ, tối đa chỉ mất sáu tháng, nhiệm vụ của tôi sẽ hoàn thành. Chủ Nghĩa Cộng Sản sẽ bị xóa sạch trên trái đất này, và nhân loại tránh được một tai ương ghê khiếp nhất.
Tôi mở choàng mắt ra để nhìn thực tại của xà lim. Cái chân trong cùm của tôi vẫn còn đang rung rung, như dư vị của một bữa ăn tinh thần thỏa mãn còn xót lại. Ít nhất, tôi cũng được hai tiếng dồng hồ không bị gông cùm, giam hãm trong xà lim án chém của Hỏa Lò Hà Nội này. Tuy vậy, óc tôi vẫn còn đầy vơi thấp thỏm với giấc mộng diệt thù vừa qua, vẫn còn thấy khả năng của chiếc khăn tàng hình còn hạn hẹp, chưa đạt yêu cầu…

Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 04:04 PM
Post #50


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Bốn Mươi Tám

Một tổ chức tình báo từ… trước 1954…

Hồn tôi còn đang bập bềnh, nổi trôi, dập dờn giữa nửa trong là mộng, nửa ngoài là …xà lim, bỗng nhiên cửa sổ nhỏ xịch mở. Tôi giật mình, lúc này đã hết giờ làm việc chiều rồi, chẳng lẽ gọi đi cung? Có tiếng xọch xạch, rồi chốt cùm được rút ra, giọng tên Lê, Phó Giám Thị, rành rọt từ phía cửa sổ nhỏ:
- Anh có cái gì mang hết đi!
Tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng chợt hiểu ngay là mình chuyển xà lim. Tôi vội vàng chấn chiếc cùm, rút chân ra, trong khi nghe tiếng mở khóa cửa lớn.
Tôi chẳng có cái quái gì, ngoài một bộ quần áo sọc tù đã sắp mục; chiếc ba lô cũ, vật kỷ niệm của anh Hoàng Hùng; chiếc túi con nhiều màu đựng ít giẻ rách và các thứ lặt vặt. Tôi ôm gọn tất cả trong tay, tiến ra cửa, dạ băn khoăn chẳng hiểu chúng còn đẩy tôi đến xà lim nào nữa đây? Thân mình, bây giờ có còn là của mình nữa đâu, mặc cho sóng đời dập vùi, đẩy đưa. TÔI đang bần thần ngơ ngác, tên Lê đã ra hiệu tay, hất vào phía trong xà lim:
- Vào trong kia!
À, thì ra chỉ chuyển buồng thôi; vậy mà cứ tưởng đưa người ta đi đâu. Tôi vào xà lim I đã 5, 6 tháng rồi, nhưng chỉ ở buồng số 3 phía ngoài này, nên những lúc đổ bô, lấy cơm, đôi khi liếc mắt nhìn sâu vào trong, tôi chỉ thấy mờ mờ, hun hút chẳng thấy rõ các buồng. Hơn nữa, như đã nói trên, lúc ấy ngày cũng như đêm, tôi chỉ ngụp lặn trong nỗi sầu tê tái của người sắp tìm tới cái chết, nên tôi đâu cần biết đến những gì xảy ra chung quanh tôi.
Đến trước buồng số 6, y mở khóa rồi mở cửa buồng đồng thời, y cúi xuống rút chốt cùm phía bên phải.
Buồng số 6 hơi chéo nên trông có vẻ rộng hơn các buồng khác vài chục phân. Sau khi tên Lê chốt cùm, khóa cửa và đã đi rồi, tôi ngước mắt nhìn toàn bộ căn buồng.
Vì theo hình thể của Hỏa Lò, nên xà lim I giống như hình một chữ “V” gioãng.
Tôi đang lúi húi dùng chiếc chiếu con, và lựa thế xoay cái chân trong cùm để phủi bụi bẩn trên sàn xi măng, đột nhiên một giọng đùng đục cất lên ở buồng số 12:
- Anh bạn ở số 3 chuyển vào đấy à? Anh có khỏe không?
Tôi mở mắt to ngạc nhiên, phán đoán:
- Ai đây? Sao họ bạo thế! Chắc anh này cũng phải nắm vững được tụi cán bộ ra vào, nên mới đường hoàng nói năng như vậy.
Nghĩ như thế, tôi cũng lên tiếng:
- Cảm ơn anh, tôi bình thường! Anh ở 12 hả?
- Tôi ở 12 đây!
Rồi như ngập ngừng dè dặt, anh hỏi tiếp:
- Mấy tháng trước, anh có chuyện gì buồn, phải tự tử? Hôm đó, tôi tưởng anh đi rồi. Đêm ấy, cán bộ tụi nó chạy ra vào huỳnh huỵch ấy!
Đột nhiên, một giọng ông ổng, trọ trẹ tiếng miền Nam, ngay phía phải sát buồng tôi:
- Đ. má, chết làm gì! Các em thơm như múi sầu riêng để cho ai?
Tôi cau mặt. Tên số 7! Thật là cộc cằn lỗ mãng! Không biết y tội gì? Ngay khi tôi còn ở buồng số 3, thỉnh thoảng vẫn thoáng nghe tiếng hắn om xòm ở phía trong này. Tôi không trả lời hắn và quay sang buồng số 12:
- Anh 12 khỏe không?
- Khỏe thôi. Vụ án tôi 15 tháng này xử rồi! Chưa biết ra sao?
Vì tôi bị cùm chân, không đứng lên được để nắm rõ tình hình, nên tôi e dè hỏi chuyện:
- Này anh bạn 12! Anh có quan sát được cán bộ ra vào không, mà nói chuyện đường hoàng thế?
Tiếng xìn xịt cười:
- Anh yên tâm, tôi đã ở xà lim hơn 5 năm rồi. Tôi đã là vua xà lim, chúng nó, thằng nào ra vào tôi biết hết. Hễ khi nào tôi ho thì đừng nói nữa.
Tôi giật mình ngỡ ngàng. Chà! Anh này tội gì mà ở xà lim lâu thế! Không thể kìm được sự tò mò, tôi hỏi:
- Anh bị bắt về tội gì?
- Hoạt động tình báo!
Tôi choáng người, hỏi tiếp:
- Bị bắt từ bao giờ?
- Đầu 1959.
Trong lòng tôi nôn nóng băn khoăn, phải chăng đây là một đồng chí, một đồng nghiệp của tôi? Tôi vội hỏi để thăm dò:
- Anh ở đâu?
- 80 Quan Thánh, chỗ cửa hiệu sửa xe đạp ấy!
Ủa! Như vậy là thế nào? Anh này là ở miền Bắc, vậy tội tình báo của anh là sao đây? Giữa lúc đó, tiếng ho của anh nổi lên. Xà lim trở lại im lặng, tôi vểnh tai nghe ngóng. Quả thật có tiếng động, rất nhỏ ngoài sân, lẫn với tiếng xào xạc của những chiếc lá bàng khô. Rồi tiếng mở từng cửa sổ con mỗi buồng. À, cán bộ đi kiểm tra. Đến buồng tôi, tôi cố nhìn xem tên cán bộ nào, nhưng cửa nhỏ mở ra đóng vào rất nhanh, nên tôi không kịp thấy rõ đó là ai.
Một lúc lâu, tiếng lá bàng lại khua động ngoài sân. Chắc rằng trong lòng anh số 12 cũng nôn nóng muốn hỏi chuyện tôi, cho nên tên cán bộ vừa ra, anh đã lên tiếng:
- Anh số 6 tên gì?
- Bình! Còn anh?
- Căn! Nguyễn Văn Căn!
- Anh có đồng vụ không?
Số 7 lại ông ổng giọng miền Nam:
- Chỉ có tôi với thằng chó đó một vụ thôi!
Như vậy, từ nãy, số 7 vẫn lắng nghe tôi với anh Căn nói chuyện. Đột nhiên, số 7 đổi giọng ỏn ẻn:
- Em Hương ơi! Đêm nay, trời đẹp như thơ, sang đây nằm với anh, anh sẽ cho em hạnh phúc tuyệt vời!
Tôi biết là buồng số 9 ở trong cùng, phía cuối dẫy, có hai cô gái. Nhưng, tôi vẫn ngạc nhiên không ngờ tên số 7 lại thả những lời thô lỗ như vậy. Tên số 7 vẫn tiếp tục:
- Người đẹp của anh ơi! Trong suốt hai tỉnh Châu Đốc và Hà Nội này, em cứ hỏi một đứa nhỏ nào, có cũng biết Long Châu Sa này là ai. Anh đã đạp trời, khuấy nước. Lấy anh, em sướng cả đời. Của anh, lại thuộc loại ngoại cở, em sẽ phải rú lên vì sướng.
Rồi như để tán thưởng cho những lời tán tỉnh ấy, y cười lên sằng sặc, chân y đạp xuống sàn xi măng thình thình.
Xà lim vẫn yên ắng, không một tiếng ai trả lời, trong khi tôi mở to mắt ngạc nhiên: Tại sao lại có cảnh này trong xà lim? Thằng này thật đểu cáng, như một tên côn đồ vậy. Có thể vì nó ở xà lim lâu ngày quá, tinh thần ức chế, nên như một tên điên khùng chăng? Tên số 7 lại lên tiếng, giọng rè rè như say rượu.
- Em Hương, em không trả lời anh một câu thì anh không ngủ được, anh sẽ không cho buồng nào ngủ hết. Ngày mai, là ngày tắm giặt, anh sẽ quệt phân vào đôi đũa của em, và quần áo của em phơi ở ngoài sân!
Đang bực tức y, tôi cũng phải mỉm cười. Cũng có vài tiếng xìn xịt ở các buồng chung quanh. Tôi hiểu là nó đe dọa, nhưng cũng có thể nó làm được, khi nó là một tên không còn là một con người nữa. Có lẽ buồng số 9 cũng nghĩ vậy, nên một giọng nữ cất lên, nghe như tiếng khánh, tiếng ngọc chạm nhau:
- Số 7 ngủ đi!
Giọng ồng ộc như con heo của số 7 ré lên:
- Ồ, ồ, công nương đã lên tiếng! Xin đa tạ, bỉ nhân đêm nay sẽ ngủ ngon lành.Và xin chấp hành mệnh lệnh của công nương.
Vài tiếng xì xí. Bản thân tôi cũng phải nhếch mép. Chẳng hiểu số 9 tội gì? Tôi chỉ nhớ ang áng hai cô vào xà lim từ hơn một tháng nay.
Trong thâm tâm lúc này, tôi cũng còn muốn hỏi tiếp chuyện với anh Căn để sáng tỏ về vụ án của anh. Nhưng vì chân bị cùm, tôi không chủ động được, phải tùy thuộc vào số 12. Xà lim vẫn vắng lặng, khí hậu hanh hanh dìu dịu, thoảng vài hơi heo may nhè nhẹ đẩy mùa Thu về. Đêm Thu, ngoài trời chỉ biết có trăng không? Hôm nay là ngày bao nhiêu của Âm lịch, tôi cũng không biết. Tôi đang triền miên mong chờ anh 12 lên tiếng để nối lại chuyện cuộc đời đang bỏ dở, đột nhiên tiếng ngọc buồng số 9 lại khua lên:
- Số 6 vì sao bị bắt?
Tôi hơi bâng khuâng hướng về số 9, nhưng im lặng. Xà lim lại chìm vào hoang vắng, chẳng nghe thấy cả tiếng ho. Tôi hiểu, nếu có buồng nào được ra sân phơi áo, lượt buồng phía ngoài từ số 9 đến số 14 nếu tinh quái đoán được vị trí của cán bộ đứng, có thể đứng lên sàn để nhìn ra sân và thấy rõ được người ở ngoài. Vì thế, cũng có thể những ngày trước đây khi tôi ra sân phơi quần áo, họ đã thấy tôi rồi chăng, cũng như họ có thể đã nhìn được khắp lượt các buồng rồi. Cả anh Căn buồng 12 cũng vậy, hẳn cũng đã tò mò.
Cũng có nhiều tên cán bộ rất tinh quái, nhất là tên Chiến. Y thường đứng ở bàn trực nhìn theo người ra sân phơi quần áo. Nếu người đứng phơi, lại đưa mắt nhìn về phía cửa sổ các buồng thì qua thái độ, y cũng có thể biết được buồng nào đã đứng lên nhìn ra sân. Khi đã nghi rồi, y sẽ rình bắt. Lần sau, cũng buồng ấy ra, y sẽ đi vào trong theo dõi qua khe hở của cửa sổ nhỏ, nếu người trong buồng nhấp nhổm đứng lên là chết ngay với y.
Những tháng trước, dù không để ý, tôi cũng đã nghe thấy mấy buồng bị bắt cùm rồi. Nhưng, trừ có buồng 12, tôi chưa thấy anh ta bị bắt lần nào. Đây cũng có thể coi như một cuộc đấu trí nhỏ. Anh nào quái hơn, anh đó thắng.
Mãi gần một tiếng đồng hồ sau, buồng 12 lại lên tiếng:
- Số 6 ngủ chưa?
- Chưa, anh ạ. Bây giờ mới khoảng chín giờ chứ mấy!
- Anh bị bắt vì tội gì mà bị cùm?
Tôi thấy nói ở đây lại có nhiều buồng khác cùng nghe, rất bất lợi. Do đó, để khỏi rắc rối về sau, tôi trả lời:
- Đi tìm tự do! Lúc bị vây hắt, tôi đã đánh nhau với cán bộ nên bị họ cùm!
- Lúc chưa bị bắt, anh làm gì!
- Giáo viên cấp II.
- Ở đâu?
- Phủ Lý.
Để chuyển ý, tôi chủ động hỏi về anh:
- Số 7 với anh cùng vụ?
- Cùng vụ!
- Vì sao bị bắt?
- Tại thằng Long Châu Sa giết một đứa bé 12 tuổi ở Hàng Bạc, để đậy miệng nó lại. Vỡ lở nên bị vồ!
- Gia đình anh cũng ở 10 Quan Thánh?
- Đấy là nhà bố mẹ vợ…..Tôi đã có 2 cháu.
- Năm nay, anh bao nhiêu tuổi?
- 33.
- Tình báo của các anh là do miền Nam, hay thời Pháp còn lại?
Im ắng một lúc, có lẽ anh ta đắn đo trả lời, hoặc anh thoáng nghe hiện tượng có cán bộ vào. Mãi sau, anh mới nhỏ nhẹ, nói vừa đủ buồng tôi nghe:
- Từ trước 1954 cài lại. Chúng tôi có liên quan đến Trần Minh Châu, tức Cập.
Tôi thót người lại, hỏi kỹ thêm:
- Tôi tưởng Trần Minh Châu đã xử năm 1958 rồi?
- Anh Cập bị xử tử rồi, chuyện về sau mới vỡ.
- Còn hơn một tuần nữa xử các anh. Vậy các anh có đoán, các anh sẽ bị bao nhiêu năm không?
Như dè dặt, cân nhắc, một lúc sau anh trả lời:
- Tôi, nhẹ thì 15 năm, nặng thì 20 năm. Còn số 7, nhẹ từ 10 đến 12 năm, nặng thì 15 năm.
Để có ý niệm về vụ mình, tôi hỏi tiếp:
- Vì sao họ giam lâu thế, các anh có bị cùm không?
- Vì có nhiều rắc rối! Điểm chính là anh Cập đầu vụ đã chết rồi, nên chúng nó khó điều tra. Chúng nó cùm tôi gần 2 năm trời, bán sống, bán chết, tôi đã phải bò lê, bò càng, chân của tôi bị xuội mấy tháng trời. Nếu không có vợ tôi tiếp tế, thuốc men, tôi đã sống không được.
- Thế, số 7 thì sao?
- Ồ, cái thằng đó, cán bộ tập kết đấy, nhưng là loại lưu manh giở, anh thấy nó vơ vét nịnh bợ cán bộ…
Đột nhiên, buồng số 7 gầm lên:
- Đ. M mày, thằng Căn, thằng con heo ghẻ! Mày tốt đẹp lắm đấy!
Thế là im lặng luôn. Xà lim chìm sâu vào đêm Thu với nhiều nỗi đầy vơi, khắc khoải của mỗi buồng. Tôi lại miên man suy nghĩ! Chợt nhớ lại trước đây, khi tôi còn giam chung với tên Tân ở xà lim II, có lần Tân nói đến một vụ gián điệp, đã giết một đứa bé ở Hàng Bạc. Vụ này đã làm xôn xao cả Hà Nội lúc ấy, không ngờ bây giờ là đây. Phải, có như vậy tôi mới khỏi băn khoăn thắc mắc, khi nghe “12” là gián điệp tình báo.
Với sự hiểu biết của tôi, tụi chấp pháp và cán bộ Hỏa Lò cũng thừa hiểu, dù nội quy nghiêm khắc, cán bộ xà lim báo cáo theo dõi tốt; nhưng những lúc sơ hở, những giờ khuya khoắt, làm sao chả có lúc bị can liên lạc với nhau. Vậy, chỉ những bị can nào xét ra vô hại với nhau, hoặc nếu có cũng không đáng kể, chúng mới cho giam chung một xà lim mà thôi. Từ ý nghĩ này, tôi tin chắc tôi khó có thể gặp một đồng chí, một đồng nghiệp cùng ở miền Nam ra, trong thời gian chúng còn đang thẩm tra cung tôi.
Sáng hôm sau là ngày tắm giặt! Khi đến buồng tôi tắm xong, tên Chiến ngồi ở bàn quát:
- Ra đi!
Ở xà lim ai cũng hiểu là khi đổ bộ, hoặc tắm xong rồi, nếu muốn ra trước khi cán bộ giục, phải báo cáo: “Báo cáo, nhà tắm xong!”. Nếu cho ra mới được ra, còn không phải đợi. Vì, đơi khi có buồng khác ra vào, đi cung chẳng hạn. Khi tôi ôm bô với quần áo đã giặt qua bàn y, tôi báo cáo:
- Báo cáo, cho phơi quần áo?
Mỗi buồng 15 phút (tắm), 10 buồng 150 phút, lại còn lấy cơm, trả bát, như vậy gần hết buổi sáng. Vì thế, để nhanh, khi buồng này báo cáo phơi, y đứng dậy mở cho buồng khác ra. Do đó, buồng ra sân, khi phơi xong, cũng phải báo cáo vào, vì sợ gặp người ở rong đang đi vào nhà tắm.
Ra sân, trong khi phơi quần áo, tôi nhìn trên chiếc dây phơi, thấy ngoài một số đồ trại vải sòng sọc, và một số quần áo tư của nam giới, lại còn mấy quần áo phụ nữ ở trong góc. Tôi chợt liếc lên, thấy buồng số 9 và 12 đang đứng lấp ló chỗ cửa sổ rồi. Tôi phải cảnh giác tên Chiến, nếu nó đi vào trong, tôi sẽ lập tức ra hiệu cho 2 buồng đó ngồi xuống.
Trong buồng nhìn ra sân thì rất rõ, vì từ tối nhìn ra sáng. Ngược lại, từ ngoài sân nhìn vào, vì qua một lượt lưới thép nên trông không rõ lắm, mặc dù cửa sổ khá to. Tuy vậy, tôi cũng thấy bóng trong buồng 12 có bộ mặt tròn trịa, đầu tóc hớt cao, nhọn hoắt, dạng người mập tròn. Còn bên buồng số 9, cả hai cô đều đứng lên, một cao, một thấp. Tôi đoán, có lẽ cô Hương là cô cao, có mớ tóc dài, bộ mặt trái soan. Cả hai cô cứ rối rít vời như chào tôi. Để giữ cho các cô, tôi không tỏ thái độ gì vì biết tên Chiến, đang đứng chỗ bàn trực nhìn về phía mình.Tôi đang đứng quay lưng về phía hắn, tay vẫn vờ sờ sờ, kéo kéo quần áo ra trên đây, y không thấy mặt tôi, và tôi cũng không dám cử động cái đầu quay về phía các cô. Chỉ dám cười, như để đáp trả những cái vời của các cô.
Vào trong buồng, tôi cũng thấy bâng khuâng, lòng nao nao vui. Giữa chốn tù đày cùng khổ thế này, mà tình người vẫn nồng đượm chơi vơi. Ngay chiều hôm ấy, khi trả bát, tôi xin ra ngoài sân lấy quần áo phơi, buồng số 9, hai cô cũng đứng lên. Họ dũng cảm thật, không sợ cùm! Nhưng, cũng chỉ là nhìn nhau thôi, chứ nói chuyện hỏi thăm nhau làm sao được…..

Tối hôm ấy, cán bộ trực là tên Điền, người vẫn phụ trách phòng tiếp tế. Tên này có tính ít đi “tua”, và cũng không hay rình rập, thường kiểm tra xong là đi đâu mất, có thể lại ra phòng trực ngoài trại chung, ngồi đấu láo với nhau bên ấm trà cho đỡ sầu đêm Thu. Theo tôi hiểu, một ca trực đêm các khu trong Hỏa Lò, gồm cả trại chung, xà lim và cơ quan, cũng chỉ 4, 5 tên công an; còn vũ trang đi tuần phòng và canh gác bên ngoài thì không kể. Cho nên, chúng nó cũng buồn. Ca sau lại 4, 5 tên khác. Hơn nữa, Ban Giám Thị cũng như cán bộ thường ở ngay những dãy nhà phía cổng Hỏa Lò. Do đấy, có chuyện gì đột xuất, chúng vẫn có đầy đủ người để giải quyết.
Mới từ hôm qua đến nay, để ý, theo dõi, tôi đã nắm được toàn bộ số người trong xà lim (tất nhiên, cũng nhờ có sẵn kinh nghiệm của hơn 2 năm nằm xà lim nên mới vững nhanh như vậy). Tổng số: 17 người. Có 7 người cùm một chân; chia ra: Buồng số 1, một người; buồng số 2, không người; buồng số 3, 2 người, một bị cùm một chân; buồng số 4, 2 người; buồng số 5, 1 người; buồng số 6, là tôi; buồng số 8, 2 người, cả hai bị cùm một chân; buồng số 8, 2 người; buồng số 10, 1 người; buồng số 11, 1 người, bị cùm một chân; buồng số 12, 1 người; buồng số 13, không có người; và buồng số 14, 2 người, một người bị cùm một chân.
Tôi thắc mắc, không hiểu tại sao hai buồng số 2 và số 13 luôn luôn không mở cửa đến. Nhưng, thỉnh thoảng vào những ngày Chủ Nhật, lại có hàng đoàn người, cả đàn ông đàn bà vào ra im lìm trong buồng này. Như vậy để làm gì?
Giữa lúc này, số 12 lên tiếng:
- Số 6 quê ở đâu, hở anh bạn?
- Hà Nội!
- Năm nay bao nhiêu tuổi?
- 26
Bỗng buồng số 9 lên tiếng, giọng ngập ngừng:
- Số 6 chỉ có quần áo trại, vậy ra không không có người tiếp tế à?
Chà cô này để ý thật, tôi cũng mềm dẻo cho qua:
- Cảm ơn sự quan tâm, vì một lý do riêng, tôi không có người tiếp tế!
- Thế bị bắt đã lâu chưa?
Tên Long Châu Sa bỗng hộc lên như con lợn nái đòi ăn:
- Công nương của tôi hôm nay nói nhiều quá! Em có biết không? Nghe giọng em nói, anh muốn tụt quần ra thôi!
Thật là bỉ ổi. Tôi lờ đi, quay sang 12:
- Này, 12 ơi! Anh có biết buồng số 2 và 13 chúng để làm cái gì không?
- Ồ, tôi đã ở xà lim này hai năm rồi, năm ngoái, khi ông Vân còn trực ở đây, thấy tôi tù lâu xà lim, nên thỉnh thoảng chiếu cố cho tôi ra quét dọn. Có lần, tôi phải lấy nước dội rửa và quét hai buồng ấy. Theo chúng nói, thời Pháp thuộc, buồng số 2 là chỗ giam Hoàng Văn Thụ, và buồng số 13 giam Trần Đăng Ninh. Bây giờ, chúng để hai buồng đó lại làm lưu niệm. Thỉnh thoảng có các phái đoàn ở các tỉnh, cũng như các cơ quan vào thăm để thấy cái…dã man, tàn ác của thực dân Pháp.
Đột nhiên, buồng số 7 ư ử rên, gọi số 10:
- Anh bạn số 10, ngày mai là Chủ Nhật, cán bộ khác trực, không phải ông Chiến là được rồi, anh báo cáo, có ít thuốc lào muốn cho cái thằng Căm pu chia điên khùng này nhé! Tôi biết anh bạn có nhiều thuốc lào. Tôi lại hết rồi, 5 năm nay không ai tiếp tế cho cả. Anh bạn nhớ nhé “bố thí” nhé!? Nếu không, tôi bảo đảm với bạn là đũa và bát cơm của bạn thế nào cũng có phân!
Thật đúng là một tên vô liêm sỉ. Tôi nghĩ rằng, loại người như tên Việt gốc Căm pu chia này, ở bất cứ một chế độ nào, hay một tập thể nào, cũng chỉ đập phá, làm ung thối tập thể hoặc chế độ đó mà thôi. Vậy tại sao, nó lại là cán bộ tập kết ra Bắc? Rồi màng lưới tình báo của Trần Minh Châu tức Cập lại thu nhận những con người như vậy, dù cho là chỉ với tính cách giai đoạn? Nó là loại “mất nhân tính”, không có cách gì cải hóa được, sớm hay muộn nó cũng phản; như một con chó mà cắn lại chủ, chủ nào nuôi?
Ngày hôm sau, trực xà lim lại là tên Nhiễm. Đã lâu rồi, từ hôm tôi tự tử, bây giờ tôi mới lại trông thấy y. Tên này rất nghiêm và khó tính. Thế mà, buồng số 7 vòi vĩnh, nịnh bợ thế nào không biết, tên Nhiễm đã hỏi số 10, có thuốc lào hãy cho thằng khốn nạn ấy một ít. Thực ra, nếu ai có thuốc lào, cũng không hối tiếc gì đối với một người bạn tù; nhưng đâu dám báo cáo cho buồng khác. Như vậy, các anh đã liên lạc với nhau khi vắng cán bộ à? Nếu không, làm sao biết buồng kia hết thuốc lào? Nhưng, có lẽ riêng tên Căm pu chia mất gốc này, ai cũng thấy nó chẳng có chính “chị”, chính “em” gì cả, mà chỉ là loại “chính ăn” hay “lưu manh chính trị”. Cho nên, hầu như tên cán bộ nào cũng có đôi chút dễ dãi với nó. Còn mọi người đồng phạm trong buồng thì coi nó như người hủi, không một ai muốn dây. Tôi chợt nghĩ, nếu đây là một phương pháp đóng kịch tuyệt hảo của y thì sao? Có như vậy mới qua mặt được hết mọi người. Suy nghĩ, và nhận thức về một con người mà mình ít nhiều tiếp xúc (tôi đã có một số kinh nghiệm nghiệp vụ, qua nhiều thực tiễn, đến giai đoạn là “ngửi” vấn đề), chủ quan, tôi thấy y là một tên vô lại từ bản chất. Dù vậy, tôi chưa khẳng định, còn đợi thời gian và sự việc để bổ sung cho nhận thức của tôi thêm bén nhậy sau này. Chả bao lâu đã tới ngày 15. Ngay từ sáng sớm, tên Chiến trực xà lim chưa đến, đã thấy có mấy tên cán bộ lạ vào, mở buồng số 7 và 12 dẫn đi.
Mãi tới 12 giờ, hai buồng mới về. Tôi rất nóng lòng muốn biết họ bị xử bao nhiêu năm. Có lẽ, một số buồng khác chung quanh cũng cùng có một tâm trạng như tôi. Lúc này đang là giờ trưa, nhiều lần tôi định lên tiếng hỏi thăm buồng 12 mà cứ ngập ngừng không dám, vì tôi chưa nắm chắc được là cán bộ tinh quái (như tên Thế “mũi cà chua” chẳng hạn) giả vờ nặng chân đi ra cổng, đóng cửa nghe đánh thình một cái, nhưng y lại chưa ra, rón rén trở vào, đứng yên chờ nghe các buồng nói chuyện. Buồng nào chủ quan không để ý kỹ, ôi thôi lại đặt chân vào “cạm”. Cũng có tên, theo kiểu ngồi lì như tên Chiến, y để một cái ghế giữa hai dẫy buồng xà lim, rồi ngồi im đọc sách, hàng mấy tiếng đồng hồ. Buồng nào đứng lên nhìn cổng, rồi nghe ngóng mãi không thấy động tĩnh, hiện tượng gì tỏ ra là có cán bộ ở trong, tưởng là an toàn, bấy giờ lên tiếng gọi nhau, chỉ còn nước há hốc mồm ra mà đút chân vào cùm.
Ngập ngừng mãi, không làm sao được, tôi ho hắng gọi 12, nhưng mãi cũng không thấy 12 lên tiếng gì cả. Chắc buổi xử án căng thẳng thế nào đó, nên 12 về nằm liệt không thiết nói chuyện với ai nữa. Tôi suy đoán tới lui, đưa ra nhiều lý do, trường hợp, nhưng tất nhiên là không có lời giải đáp nào chắc chắn. Tôi lại nằm chiếc sàn cạnh buồng số 5, nên không có cách nào để gõ vào tường phía số 7 để hỏi được. Mãi gần tới giờ trưa, giờ làm việc chiều đã tới, bỗng dưng cô Hương buồng số 9 lên tiếng:
- 12 và số 7 xử án thế nào?
Giọng ìn ịt rên rỉ của số 7:
- Người đẹp ơi! Vụ án của anh căng quá, xử từ sáng tới giờ chưa xong. Phen này chắc anh đi “mò tôm” mất em ơi!...
Đột nhiên, tiếng cửa sổ nhỏ buồng số 7 xoạch mở, một tiếng quát làm nẩy tim mọi người:
- Anh nói chuyện với buồng nào?
- Tôi nói chuyện với nàng tiên của tôi!
- Nàng tiên nào?
- Ở trong mộng!
- Tôi cùm cổ anh vào bây giờ, mặc quần áo vào!
Cửa buồng số 7 mở, rồi đến phòng 12.
Thì ra là tên Bằng! Chắc là nó vào từ lúc buồng 9 vừa hỏi xong, vậy mà không ai biết. Số 7 cũng nhanh trí, không thì số 9 kẹt. Vả lại, tên Bằng này cũng dễ! Thêm nữa, chắc y cũng thông cảm với tên tù đã lâu, lại đang trong ngày xử án tinh thần căng thẳng, nếu không nó cứ truy hỏi tới, thì chắc cũng ra buồng số 9 để cùm. Hoặc giả nó có chủ ý để bắt, nó cứ đứng yên một lúc nữa để nghe hai bên đối đáp, rồi chỉ việc rút chốt cùm là xong!
Khoảng 4 giờ chiều, bỗng có tiếng động ở ngoài cổng xà lim, rồi những tiếng xụt xịt đi đang vào trong sân.
- Có gan làm, có gan chịu, khóc lóc cái gì! Tòa xử bao nhiêu năm?
Tên Chiến vừa hỏi, vừa đập đập chùm chìa khóa lên mặt bàn. Giọng số 7 nói trong nức nở:
- Chung thân!
- Còn anh kia?
Tiếng một tên cán bộ trả lời, giọng miền Trung nặng chịch:
- Nguyễn Văn Căn, tử hình. Lê Văn Lượng, chung thân!
Có cả tiếng tên Tư trực xà lim III:
- Anh kia! Vào dọn quần áo ra trại!
Những tiếng bước chân xoèn xoẹt của 4, 5 người đi vào buồng số 7 và 12. Tôi điếng người khi nghe anh Căn bị tử hình, bản thân tôi cũng không ngờ. Tôi liên tưởng tới bản án của Phạm Huy Tân. Hai vụ án, tất cả bị can đều ước đoán mức án dưới sự thực xa. Phải chăng đây là một chủ trương của ngành hành pháp và tư pháp của cộng sản? Tuy mới biết có hai vụ, chưa gọi là đủ để kết luận, nhưng tôi đã thấy chiều hướng đúng, ngả về phía dự đoán của mình.
Từ nãy, tôi vẫn chỉ nghe tiếng xụt xịt của Lượng, mà không thấy tiếng của Căn. Trong khi lục đục dọn quần áo ở trong buồng, bỗng số 7 gào to:
- Công nương ơi! Từ nay ngàn dậm phương trời, làm sao anh sống được!
Có lẽ mấy tên cán bộ, nhất là Chiến, biết số 7 nói với ai rồi. Nhưng, chúng không chấp trong những phút như thế này, vì thế, tên Chiến chỉ quát:
- Im ngay cái mồm, ra đi! Lừng khừng mãi!
Trong lúc một tên cán bộ dẫn số 7 đi, thì nghe tiếng chốt cùm buồng 12 rút ra đến xoạch một cái. Giọng miền Trung nghe nặng như tiếng giã gạo trong cối đất:
- Lúc ở phòng Ban Giám Thị, anh đã nghe đọc quyết định rồi, bây giờ hãy chấp hành!
Lúc này, tôi mới nghe tiếng của anh Căn, run run như đang lên cơn sốt:
- Vợ con tôi từ nay sống làm sao?
- Ngoài tòa, anh có ký đơn xin Chủ Tịch nước, ân xá tội tử hình không? Vừa đóng chốt, tên Chiến vừa hỏi.
Tiếng anh Căn:
- Báo cáo, có!
- Như vậy, anh còn sống thêm 6 tháng nữa, để chờ quyết định tối hậu.
- Thưa ông, về tội chính trị từ trước tới giờ, Chủ Tịch nước có tha ai đâu!
Tên miền Trung có vẻ cáu tiết:
Anh đừng nói láo! Hãy tin tưởng, nghe không!
Cửa đóng, tiếng những bước chân xền xệt nhỏ dần ra phía cổng xà lim. Lòng tôi dâng lên một niềm thương mến anh Căn vô độ. Sau khi vểnh tai nghe ngóng và phán đoán là lúc này không còn tên cán bộ nào trong xà lim, tôi liền lên tiếng. Vì tôi muốn là người đầu tiên nói với anh những lời thăm hỏi, ủi an thầm kín, của một người đồng chí hướng:
- Anh Căn ơi! Tôi xin chia xẻ nỗi đau buồn của anh.
Giọng anh run run, xúc động:
- Cám ơn anh, tôi chỉ thuơng vợ con tôi thôi!
- Anh hãy nên…..
Đột nhiên, tiếng cô Hương buồng số 9 chận ngang câu nói của tôi, bằng một giọng thì thào vội vã:
- Cán bộ vào!
Tôi thầm cảm ơn người số 9. Trong khi hai bên nói chuyện, lại đều bị cùm, cô đã gác tụi áo vàng cho chúng tôi. Từ lúc này, nếu chúng tôi muốn nói chuyện đều phải nhờ buống số 9. Chẳng hiểu buồng số 9 có thấy như vậy không?
Đêm hôm đó, và cả ngày hôm sau, lòng tôi đầy vơi bao nhiêu ngả vì anh Căn. Anh và tôi, tuy mới vừa biết nhau, thậm chí tôi còn chưa trông rõ mặt anh, thế mà lòng tôi cảm thấy thân thương, gần gũi. Có phải lòng tôi như vậy, vì anh là một người lính chiến của thế giới tự do, mang trong mình giòng máu Quốc Gia chống cộng? Điều ấy, có lẽ tôi không phủ nhận. Vâng, có! Nhưng chỉ một phần thôi, phần đó lại chưa phải là phần cơ bản. Bởi vì, trên đường tôi đi, tôi đã gặp nhiều, nhan nhãn, đâu mà chả có những người lính chiến, vào sinh ra tử, không từ nan gian khổ, dù có phải hy sinh tính mệnh, vẫn cầm chắc tay súng, ghim những viên đạn thù vào đầu lũ giặc cộng, vì tự do cho mọi người. Phần chính làm tôi dạt dào mến mộ anh, đó là, anh đã chiến đấu, và không may anh bị rơi vào tay kẻ thù. Bây giờ, anh đã nhận lãnh một bản án tử hình, do tòa án phi công lý của kẻ thù kết tội. Anh đang nằm chờ ngày anh về với cát bụi, một mình giữa đơn lạnh, hoang vắng trong tăm tối gông cùm, không một ai hay. Có chăng, chỉ người vợ dại và hai đứa con thơ của anh.
Trong đêm tối mịt mùng này, chỉ có mình tôi, tôi đại diện cho tất cả mọi người đang được hưởng tự do và hạnh phúc, biết ơn anh. Nếu không có hàng triệu triệu những chiến sĩ vô danh như anh, ngoài chiến trường, trong rừng sâu, ngoài biên cương hẻo lánh, hay trong nơi tăm tối ngục tù, thì làm sao có những người đang được nhởn nhơ, ngụp lặn trong đống vàng, và đang bơi lội trong hạnh phúc. Tôi cứ miên man nghĩ ngợi, rồi đi dần vào giấc ngủ muộn đêm thâu. Đang mơ màng, đột nhiên một tiếng cười ré lên làm tôi giật mình tỉnh dậy. Lúc này, có lẽ khoảng 2, 3 giờ đêm, tôi đã ngủ được một giấc khá dài.
Đêm càng về khuya, xà lim càng vắng lặng heo hút. Ngoài trời, đêm nay gió thật nhiều! Tiếng gió gầm gào vi vu, nhiều lúc như rít lên trên mái nhà. Tiếng xào xạc, sôi réo từng hồi củ những chiếc lá bàng, lắc lư đập vào nhau theo từng đợt gió mạnh. Tiếng xột xoạt của những chiếc lá rời cành, báo cho thế nhân nàng Thu đã về. Tiếng rên từng chập dài lê thê của buồng số 8; tiếng cò cử như bễ thợ rèn của buồng số 5;…tất cả tạo thành một bản nhạc đêm Thu, cho người không ngủ não nề nằm…..nghe.
Hồi nãy, rõ ràng có một gọng cười đã đánh thức tôi dậy, không biết của buồng nào? Tôi đang nằm tỉnh mơ, lòng băn khoăn vì tiếng cười, tai vẫn thuởng thức đệu nhạc Thu đêm dài, đột nhiên, tiếng cười lại ré lên. Lần này nghe rõ mồn một, của buồng số 10; cứ im một tí lại cười. Có lúc dòn khậc khậc như con gà Tây gáy, có lúc ngắc ngư khìn khịt như con heo nái, đang hục mõm trong máng cám tìm ăn; lại có lúc nghe ọt ẹt, õng ẹo như con gà mái muốn đẻ đang gại trứng. Những tiếng cười này làm cho tôi, và có lẽ cho một số buồng khác chung quanh, không ngủ được cho tới sáng. Một tên cán bộ từ ngoài cổng xà lim đi vào, quát ầm lên:
- Buồng nào làm ầm thế?
Chẳng có tiếng trả lời! Vẫn chỉ là những tiếng sằng sặc như lắc lẻ của buồng số 10. Tên cán bộ vào, mở cửa sổ nhỏ buồng 10, hỏi:
- Anh cười cái gì thế! Anh điên à?
Im lặng, cả tiếng cười cũng bặt luôn. Tên cán bộ vừa đóng cửa sổ nhỏ lại, vừa gằn giọng:
- Anh không ngậm ngay cái miệng của anh lại, tôi vào cùm đầu anh bây giờ!
Chỉ im được một lúc, rồi vẫn tiếng cười ấy nổi lên. Có khi, cười chán lại khóc, hễ có cán bộ vào quát thì im, khi cán bộ ra, lại tiếp tục như cũ. Suốt ngày đêm!
Sáng hôm nay cũng vậy, nhưng tên Chiến trực chính của xà lim I, xưa nay vẫn có tiếng trị những người tù dở chứng. Y vào, mở cửa buồng số 10:
- Anh bỏ ngay cái trò con tiều đó đi! Anh muốn giả điên hả? Tôi đã trị bao nhiêu thằng điên như anh rồi. Anh có ăn được cứt ngon như ăn cơm không?
Im lặng, không hề nghe tiếng số 10. Tên Chiến đi ra, số 10 lại tiếp tục cười. Tên Chiến trở vào, rút chốt cùm, quát to:
- Bỏ chân vào!
Lục đục một lát, tên Chiến lại quát:
- Bỏ 2 chân vào! Nếu biết điều, không làm ồn nữa, tôi tha cho, nếu tiếp tục làm ồn, tôi sẽ cùm mồm lại. Anh càng dở chứng, anh càng chết sớm!
Nhiều buổi, tôi thấy số 10 đổ cơm nước, linh tinh ra lối đi. Dạo này, cũng không thấy số 10 đi đổ bô hay tắm rữa. Vẫn ngày đêm, lúc cười, lúc khóc. Những tiếng cười, tiếng khóc này càng gợi thêm nỗi não nề, cay đắng cho người chung quanh.
Mấy ngày sau, chẳng hiểu cứt, đái của anh ta trong buồng thế nào, mùi thối hoăng xông lên. Ngày cũng như đêm, cứ thỉnh thoảng lại một cơn heo may nhè nhẹ, đẩy vào buồng tôi mùi phân khăn khẳn buồn nôn.
Chứng kiến buồng số 10, và bao nhiêu buồng trước đây nữa của xà lim III, xà lim II, tôi lại hình dung cảnh tù đầy của chính mình. Thú thật, tôi rất sợ bệnh thần kinh. Ở trong xà lim như thế này, lâu ngày, rất dễ bị thác loạn tinh thần.
Nào là cực khổ đói rét, thần kinh căng thẳng ngày đêm vì cung kẹo, rồi những suy tưởng đến gia đình, bạn bè, xã hội, cuộc đời…..bao nhiêu thứ giằng co, cào xé bộ óc. Miệng thì câm như hến, nhưng đầu óc thì cứ căng ra suốt đêm ngày. Tinh thần bị ức chế tối đa! Vậy, nếu không chịu tìm nhiều lối thoát cho tư tưởng, và có một nghị lực chế ngự mạnh, không sớm thì muộn, tinh thần sẽ không còn bình thường nữa.

Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 04:06 PM
Post #51


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Bốn Mươi Chín

Vượt Ngục .....!

Trưa hôm nay, tuy đã đầu Thu, nhưng cái nóng chói chang vẫn như hun đốt không gian. Không khí như một miếng bông thấm khổng lồ, hút khô cảnh vật. Làm môi như co lại, bong ra từng miếng vẩy, để chống lại cái nóng hanh của đất trời.
Tôi đang nằm đăm chiêu, vướng vất những suy tư về vụ án của anh Căn, đột nhiên cửa sổ nhỏ mở. Tiếng mụ Hoa, giọng rèn rẹt Quảng Nam:
- Đi cung!
Rồi mụ quay ra, rút xoạch chiếc chốt cùm. Chà! Lâu quá không đi cung, và cũng khá lâu rồi không gặp mụ Hoa. Chẳng hiểu, bặt đi 4, 5 tháng, tôi đi cung chẳng thấy mụ ta đâu, tôi cứ tưởng mụ đã đổi đi nơi khác rồi.
Vừa đi tôi vừa liếc nhìn dáng đi vặn vẹo, với đôi chân vòng kiềng khuều khoào của mụ như múa bên cạnh, tôi liên tưởng tới thời kỳ con gái của mụ. Tôi không thể hình dung được sắc đẹp của mụ thời gian ấy, nó như thế nào mà có thể đánh đổ kềnh một anh Trung Sĩ nhà ta. Để rồi đè bẹp một đồn binh của chúng ta, như lời tên Tân kể lại cho tôi nghe trước đây.
Tôi chậm chạp, lầm lủi đi theo mụ. Quen như mọi khi, tôi rẽ về phía trái. Là chỗ dẫy phòng đi cung, nhưng mụ lại ra hiệu bằng ngón tay, hướng ra phía cổng Hỏa Lò. Tôi thấy hơi lạ! Hơn 2 năm trời, chưa bao giờ tôi lại ra phía cổng Hỏa Lò để đi cung, vì vậy, tôi phải chuẩn bị ngay tư tưởng để phòng hờ, đối ứng với những việc bất ngờ. Khi gần tới cổng, mụ dẫn tôi quẹo về phía bên phải, trèo lên một bậc hè, đến một căn buồng có chiếc xe đạp đang dựa vào tường gần cửa buồng. Mụ đẩy cửa, bảo tôi vào. Bên trong là một căn buồng trống trơn, cũng như nhiều căn buồng hỏi cung khác, nghĩa là chỉ có một cái bàn mộc cũ kỹ, trước bàn có một cái ghế đẩu để cho bị can (người tù còn đang trong thời gian khai thác) ngồi. Một tên cán bộ lạ hoắc, chừng 30 tuổi, đang ngồi trước bàn. Trên bàn có một chiếc căp đen đầy, có lẽ đựng hồ sơ. Thấy tôi vào, y chỉ chiếc ghế đẩu, ra hiệu bảo tôi ngồi:
- Anh “nà” Đặng Chí Bình?
Chỉ thoáng qua giọng nói cùng vài cử chỉ, tôi đã thấy tên cán bộ này ở một tỉnh xa về đây có việc. Tỉnh đó có thể là quê hương tôi. Tôi dè dặt, chỉ “dạ” một tiếng! Y đứng dậy, nghiêm mặt lạnh lùng:
- Anh phải thành khẩn trả “nời” rõ ràng những câu tôi hỏi: “Núc” 1954, bố mẹ anh di cư vào “Lam” rồi. Trong cuộc cải cách ruộng đất, nhân dân, trong đó có họ hàng và người ở “nàm” thuê cho gia đình anh đã tố cáo “nà” bố anh, có chôn trong thửa đất nhà anh một cái chum to, chứa toàn đồ cổ bằng sứ và đồng đen. Đường phố cũ bây giờ mở rộng, dẫy phía nhà anh đều phá bỏ. Đây “nà” sơ đồ thửa đất và nhà của bố mẹ anh. Anh hãy chỉ, bố anh chôn cái chum đó chỗ “lào”? “Lếu” tìm thấy, anh sẽ được hưởng một “lửa”.
Nhìn và nghe y hỏi, tôi rất ngạc nhiên. Ngạc nhiên là năm 1953, tôi từ Hà Nội về quê chơi mấy tháng, và một đêm yên ắng, tối trời, (ngay chị giúp việc, cũng đã phải cho về quê nghỉ mấy ngày), chỉ có bố tôi và tôi ở nhà, hì hục đào dưới nền nhà bếp để chôn cái chum, thế mà giờ đây bên ngoài đã biết. Như vậy, đã từ lâu và nhiều lần rồi, ngay từ cuối 1954, khi bố mẹ tôi di cư vào Nam, chúng nó đã xâm, chọc và đào khắp thửa đất nhà tôi, nhưng chưa thấy! Bây giờ, từ Hà Nội, công an về điều tra lý lịch của tôi tại quê. Rồi từ đấy, tụi cầm quyền địa phương chợt nhớ đến chuyện cái chum, cho nên chúng đã phái một cán bộ lên Hỏa Lò, xin phép để gặp tôi. Chúng hy vọng tôi biết và nhớ chỗ chôn cái chum, sẽ chỉ chỗ cho chúng đào.
Điều thứ hai làm tôi ngạc nhiên là, không biết chúng đánh giá sự hiểu biết của tôi thế nào, mà lại hỏi tôi thế? Tôi nghĩ rằng, ngay một người dân bình thường, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc từ 1954 đến bây giờ; ai cũng hiểu những loại của đó không những không được dùng, mà đôi khi còn bị liên lụy để vào “ấp” nữa. Huống chi, tôi đã là một người tù, lại là một người tù chính trị chống đảng nặng nhất. Vậy, một tên tình báo ra ngoài Bắc, cho dù bẹt đi nữa, cũng phải được học và nghiên cứu về xã hội miền Bắc, nơi sắp sửa xâm nhập để hoạt động. Rồi nó ra ngoài miền Bắc hàng tháng trời đi lại tứ tung; thế mà nó lại không biết một điều đơn giản như vậy hay sao, đến nỗi để mắc vào cái mưu “mua chuộc” trẻ con ấy của cộng sản”? Chỉ có họa chăng là anh ấy điên, mới bị mắc cái “bẫy” ấu trĩ này.
Nghĩ như vậy, tôi ngửng mặt lên nhìn y, thái độ và vẻ mặt của tôi càng tỏ vẻ ngạc nhiên hơn, nhưng là cái ngạc nhiên khác:
- Thưa ông, khi rời nhà quê, tôi mới 12 tuổi. Hơn nữa, chưa bao giờ tôi nghe thấy bố mẹ tôi nói về cái chum chôn đó cả; cả ngay sau này ở miền Nam cũng vậy. Như thế, có thể đây là một chuyện nhầm lẫn hay chăng?
Không biết dáng vẻ của tôi trả lời như thế nào, mặt nó nghệt ra như ngỗng…ỉa. Vừa như tiếc là bao hy vọng của bọn cầm quyền địa phương, cũng như của y lên đến đây, đều không được việc gì. Vừa như ngẩn ngơ bần thần, không biết rồi đây có cách nào để tìm được cái chum. Tâm lý người đời là vậy! Con cá sẩy là con cá to, cái chưa biết và không thể tìm thấy thì cho là quý lắm. Nhìn cái gò má bên trái của y giật giật, và bàn tay của y cứ xoa đi xoa lại trên mặt bàn, tôi chợt lóe lên một ý nghĩ:”Tên này, thật cả đẫn! Hay ta lợi dụng thời cơ chớp nhoáng, chuồn? Thời cơ bất ngờ đưa đến! Thời cơ thường dễ đi, khó đến. Thời cơ đến, không biết chớp lấy, đôi khi còn mang họa nữa ấy chứ! Hơn nữa, canh bạc cuộc đời tôi ra ngoài Bắc đánh với chúng, tôi đã thua rồi cơ mà. Bây giờ được đánh lần nữa, biết đâu chẳng gỡ được. Vả lại, dù thua, tôi có mất thêm gì nữa đâu. Bởi có còn gì nữa đâu mà mất! Tóm lại, hành sự đi, chỉ có được chứ không mất gì cả.
Suy tới nghĩ lui xong, tôi tính toán thật nhanh, nhìn tổng quát mọi điều kiện, rồi hình thành ngay một kế hoạch.
Bây giờ đã gần 3 giờ chiều rồi, còn 2 tiếng nữa mới tới giờ tan tầm. Tôi liếc nhìn cửa buồng đóng, nhớ chiếc xe đạp dựa tường phía bên ngoài. Tên cán bộ đang cúi nhìn bàn sơ đồ của thửa đất và mấy ngôi nhà tôi. Y chỉ cao bằng tôi. Có mập hơn một chút; nhưng, nhìn bắp thịt tay, tỏ ra là y không có tập tành gì cả.
Hơn 2 năm nay, từ khi tôi bắt đầu đi cung, đã thấy ra một điều gần như quy luật: Sau khi chấp pháp hỏi, tra xong, dẫn bị can xuống phòng trực giao cho cán bộ trại. Chứ chưa thấy cán bộ trại lên phòng cung đón bị can mang về bao giờ. Cá biệt, cán bộ trại mới đưa bị can tới phòng chấp pháp. Thông thường, chấp pháp phải đợi ở phòng trực, khi cán bộ vào trại vào các buồng lấy tù ra đến phòng trực, bấy giờ chấp pháp mới ký vào một cuốn sổ để nhận người. Khi đem trả, cũng ký trả.
Đầu tôi căng lên vì tính toán, cuối cùng tôi quyết định, phải tiến hành. Có nguy hiểm, nhưng phải liều. Không liều, nhiều khi không có gì cả. Tôi cũng hơi ngập ngừng băn khoăn một chút, khi nghĩ tới sợi chì mật, vẫn giấu trong cái vỏ ba lô gối đầu, để ở buồng xà lim. Thôi, dù sau này có kẻ nào nhìn thấy sợi ny lông, cũng không thể nào cho đó là chì mật. Hơn nữa, nó ở trong đường chỉ của mép túi, có khi cái ba lô ấy dùng đến rách
nát, bỏ đi, cũng không ai trông thấy. Thời gian cấp bách quá rồi, không thể chần chừ được nữa. Cứ giùng giằng thì không làm nên việc gì cả!
Trong cuộc đời tình báo của tôi, và khi thụ huấn một số “cao nhân” trong nghề, tôi biết nhiều thế đánh, thế khóa, nhưng tựu chung, có mấy thế thật hữu hiệu. Tùy theo người đánh muốn đối phương chết, hay ngất ngay, không một tiếng kêu. Tất nhiên, cũng phải ở những cánh tay, cứng cáp và…yếu tố bất ngờ.
Tính rồi, tôi tươi nét mặt, tay vỗ trán nhìn tên cán bộ, vờ nói để có thể đến gần y được:
- À, tôi nhớ ra rồi! Tôi nhớ mang máng khoảng 1952 hay 53 gì đó, một hôm chơi trong buồng, tôi không thấy cái chum to nhất, tôi vẫn thường trèo vào trốn ú tim với các em. Tôi hỏi, con em 10 tuổi bảo là bố chôn ngoài vườn hoa, giữa gốc cây đào và cây mơ.
Mắt y sáng lên, y cúi gầm xuống tờ giấy ở trên bàn, hấp tấp:
- Đâu? Đâu? Cây đào và cây mơ nhà anh ở đâu?
“Thế là anh bạn đã lãnh đủ với tôi rồi!” Tôi đứng dậy, tiến sát vào bàn, cũng cúi xuống, tay trái của tôi chỉ chỉ, trỏ trỏ, như tìm những vật chuẩn ở phía sau nhà. Y đang ngồi, tay cầm một cái bút chì cũng rê rê theo ngón tay tôi. Trong khi đó, tôi chậm chạp xê dịch người, lựa đúng khoảng cách để ra đòn có trọng lượng cao nhất. Vận sức vào cánh tay phải, tôi lấy đà quay một vòng, chớp nhoáng chém một phát như búa bổ vào cái gáy đang cúi xuống của y. Tôi vừa sử dụng cùng một miếng đòn của vỏ sĩ Samsaray, vô địch quyền tự do của Cam pu chia, đã hạ võ sĩ Hà Châu, vô địch Hồng Kông, và hạ võ sĩ Vĩnh Tiên, vô địch quyền anh Đông Dương, ở trận võ đài quốc tế những năm trước, được tổ chức trong sở thú (Sài Gòn). Tôi đã tính rồi, bây giờ vì đói khổ lâu ngày, sức giảm đã nhiều, vậy cú đòn đầu này có thể làm y choáng váng. Tiếp theo, tôi sẽ dùng một thế khóa cho ngất đi, mà không cho y chết, bởi vì, y không phải là kẻ thù chính của tôi. Nhưng, thật không ngờ, cú đánh của tôi vẫn còn quá mạnh. Y chỉ kêu được một tiếng “Hực”! nhỏ, rồi gục ngay xuống bàn, tay chân xuội ra, ngất ngay.
Tôi chạy lẹ ra chốt cửa lịa. Trở vào, tôi cởi ngay bộ quần áo kaki xám cán bộ của y ra, cởi quần áo của tôi đắp cho y, để mặc y nằm nghiêng dưới chân bàn. Tôi móc ví y, thấy có hơn 10 đồng và nhiều giấy tờ. Tôi xem một cái thẻ, có ghi tên “Đỗ Đình Hạ”. Trong cặp có nhiều giấy tờ, tôi không có thời giờ xem, cứ việc cắp lấy đã. Tên Hạ này không có đồng hồ.
Trước khi mở cửa buồng tiến ra ngoài, tôi liếc nhìn tên Hạ. Thấy chân y từ từ co lại, duỗi ra, mặt y hồng hồng trở lại. “Phải cho y ngủ thêm lúc nữa đã”, tôi nghĩ thế, rồi tiến lại sau lưng y, dùng một thế khóa chẹn cổ, không cho y thở; chừng 5 phút, cả người y lẫn tay chân giật dúm lại. Một mùi thối hoăng xông lên. Tôi liếc nhìn xuống phía dưới: Y bĩnh ra một bãi. Nếu cứ giữ thế khóa này 15, 20 phút, chắc chắn y sẽ xuống lòng đất hầu hạ tên “đầu bóng, râu xồm” ở Hồng trường Mạc Tư Khoa. Nhưng, tôi chỉ giữ yên khoảng 6, 7 phút rồi buông ra. Bây giờ, coi như đã trèo lên lưng cọp rồi. Đàng nào cũng thế, không tiến tới không xong. Tôi vuốt lại đầu tóc, quần áo, đi cả đôi dép râu của y, tôi đường hoàng mở cửa tiến ra ngoài.
Tên này không có mũ, tôi phải cần có một cái mũ nữa mới giải quyết được. Tôi vừa ra khỏi buồng, liếc nhanh toàn bộ sân giàn nho và cổng Hỏa Lò. Nhìn về phía trái, tôi thấy hành lang sâu hút, có lẽ là khu nhà của bọn công an vũ trang. Đầu không có mũ, ra cổng dứt khoát không ổn. Bằng mọi giá, phải kiếm được một cái mũ. Tôi liếc mắt nhìn chiếc xe đạp vẫn dựa vào tường phía ngoài buồng, chiếc khóa dây đeo ở ghi đông, không khóa vào xe. Có lẽ tên Hạ đã nghĩ đây là trong Hỏa Lò làm gì có ăn cắp. Nhưng, điều đó cũng nói lên là y không có chủ trương gặp tôi lâu. Tôi đành lần vào khu nhà của công an vũ trang để tùy cơ kiếm một cái mũ.
Phải làm nhanh, làm lẹ. Lúc này đã gần bốn giờ chiều. Để tới năm giờ là sự việc sẽ đổ bể. Giờ tan tầm, tụi cán bộ trực nhìn sổ, thấy còn tôi đi cung chưa về, sẽ phải báo cáo, và từ đấy phải đến phòng tôi đi cung…..
Thấy một cánh cửa khép hờ, tôi lại gần, nghe ngóng, liếc vào bên trong, yên ắng. Tôi đẩy nhẹ, thì ra đây là chỗ rửa mặt và giặt giũ của bọn công an vũ trang. Nhìn lướt qua một lượt không có cái gì tôi cần. Mãi chỗ góc treo nhiều khăn mặt, có một cái mũ nồi đen, tôi tiến nhanh đến, chộp lẹ. Cái mũ đã thủng một lỗ phía sau. Nhìn chéo phía trước mặt, tôi thấy một cánh cửa nữa, cũng chỉ khép hờ. Tay vẫn cầm chiếc mũ nồi, tôi tiến về phía cánh cửa đó. Ghé mắt liếc vào, nghe thoáng có tiếng ngáy nhè nhẹ. Có lẽ phòng ngủ của đám công an vũ trang. Có thể có những tên trực đêm, nên đang ngủ ngày. Như vậy, biết đâu trong buồng cũng có kẻ thức? Tôi muốn gắng kiếm một cái mũ cối của công an, nhưng nếu khó khăn quá, đành dùng cái mũ nồi này vậy. Có còn hơn không. Có mũ, mới che bớt được bộ mặt, chắc là gầy và xanh tái, của tôi. Hơn nữa, nhớ gặp cán bộ quen mặt, chúng khó nhận ra. Thử xem sao? Tôi nghĩ vậy và khe khẽ, từ từ đẩy cánh cửa đang khép hờ đó ra. Tôi giật thót người! Ngay cạnh cửa, một tên công an mặc áo may ô, da trắng hồng, đang ngồi qua lưng ra, lúi húi viết trên một cái rương màu xanh. Quá căng thẳng, tay tôi nhè nhẹ kéo cánh cửa lại như cũ. Hú vía, nếu hắn quay mặt ra thì…..
Thôi, không thể kiếm mũ được rồi. Thời gian trôi qua, cấp bách lắm rồi, tôi không được phép chần chừ nữa. Lùi qua phòng rửa mặt, tôi trở ra. Lúc này, tôi đành đội cái mũ nồi lên đầu. Về tới phòng cung, cửa vẫn đóng như trước, tôi đẩy nhẹ, vào lấy cái cặp khi nãy tôi để ghệ vào chân tường, bên trong buồng. Tên Hạ vẫn nằm một đống, căn buồng nồng nặc mùi phân. Ra khỏi buồng, tôi khép cửa lại.
Vừa đặt tay vào chiếc xe đạp, định buộc cái cặp vào yên hành lý phía sau xe, mắt tôi chợt thoáng thấy tên Thế “mũi cà chua” đang từ giữa vườn hoa tiến về hướng tôi. Tôi vội vàng nghiêng người đi, như đang tập trung trí óc vào việc buộc cái cặp. Một luồng lạnh chạy từ dưới lưng lên gáy tôi. Qua kẽ nách, tôi thấy đôi dép râu và hai ống quần màu vàng, đang chậm chạp tiến sát lại gần. Tôi thoáng lên một quyết định trong óc. Được, hôm nay, có gì, tôi sẽ cùng chết với tên “mũi cà chua” này. Tôi vẫn bầm gan tím ruột vì trận đòn phủ đầu của nó ở Hỏa Lò, hơn hai năm về trước với tôi. Đôi dép râu và hai ống quần kaki màu vàng đã đến gần hơn, còn cách sau lưng khoảng chừng 7 – 80 phân thì ngừng lại, như ngập ngừng do dự một lúc. Chân trái tôi đã hơi chùn xuống và bàn tay phải nắm chặt lại, sẵn sàng. Nhưng, hai ống quần vàng lại rẽ đi vào phía nhà ngủ, của công an vũ trang. Một hơi thở nén từ nãy bây giờ từ từ xì ra, tôi nhẹ hẳn người. Muốn hay không muốn, lúc này tôi phải tiến ra cổng rồi.
Thường ngày, hai cánh cổng lớn Hỏa Lò ở giữa, to như cổng thành, vẫn đóng, chỉ trừ khi có xe ô tô ra vào đặc biệt, mới mở. Còn như bình thường, tụi cán bộ làm việc ra vào, sẽ đi hai ngách cổng nhỏ ở hai bên cửa chính. Mỗi bên, đều có một bàn xét giấy tờ, và một công an vũ trang bồng súng gác phía ngoài. Chiếc ngách cổng này là một lối đi rộng chừng 1m rưỡi, dài chừng 8m bằng bề ngang của chiếc cổng. Bên trên cổng là căn lầu nhiều buồng, xây kiên cố, để bọn giám thị và cán bộ ở. Với lối đi hẹp như vậy, nếu có hai chiếc xe đạp cùng ra vào một lúc, một chiếc phải ngừng lại, nép sát phía tường, nhường cho chiếc kia đi, rồi chiếc này mới đi được.
Dắt chiếc xe đạp từ từ về phía cổng, tôi hơi băn khoăn là khi đi qua bàn giấy, có phải cán bộ nào cũng phải trình giấy, hay chỉ người lạ. Vì vậy, tôi dừng lại, vờ cúi xuống sờ sờ, mó mó lại cái má thắng của bánh trước, trong lúc tiến chậm về phía cổng, chờ mấy tên cán bộ đi ra vào để quan sát. Thực ra, đứng ở đây rất nguy hiểm, lỡ bất ngờ có cán bộ quen mặt ra vào, thì chỉ có nước…..độn thổ. Nhưng khốn nổi, tôi lại chưa biết gì về cách ra vào trình giấy tờ…Thật may, nếu không dừng lại để theo dõi, chắc chết. Một số cán bộ đi ra (tất nhiên là lạ) đều ghé vào bàn giấy để lấy tấm thẻ, chắc lúc vào đã phải gởi. Bây giờ, tôi lại lo lắng điều khác, nếu tên cán bộ ngồi ở bàn giấy quen với tên Đỗ Đình Hạ này, việc sẽ đổ bể ra ngay. Nhưng, dù nguy hiểm đến đâu, đã ngồi trên lưng “ông ba mươi” rồi, tôi không còn cách chọn lựa nào khác.
Tôi đường hoàng dắt xe tiến tới chỗ bàn giấy. Tên cán bộ ngồi ở bàn giấy chừng 28, 30 tuổi, trông hơi quen quen mặt, hình như tôi đã có lần thoáng thấy y, những khi trên đường đi cung thì phải. Nhưng, lúc này, tôi không thể nhớ ra được. Và, hy vọng là y cũng không thể nhớ ra mặt tôi!.....
Khi tới gần bàn, y ngẩng mặt lên nhìn tôi quan sát. Tôi tươi mặt tình cảm:
- Chào đồng chí! Tôi, Đỗ Đình Hạ!
Y nhìn tôi, mắt y mở to, thoáng vẻ như ngỡ ngàng. Tôi cũng thấy nóng hai bên má, ngực tôi ngứa ran lên. Im lặng và nặng nề. Tôi phải phá tan cái không khí này, vừa cười, tôi vừa nói như ca thán:
- Tôi tưởng chỉ một giờ, thế mà kéo dài gần ba tiếng!
Giữa lúc đó, có hai tên cán bộ dắt xe đạp từ ngoài cổng đi vào, phải dừng lại một bên chờ vì vướng xe tôi. Tên cán bộ ngồi bàn giấy đưa tay lên cái khay xếp nhiều tấm thẻ, lật vài tấm, rồi cầm một cái lên,mở ra coi. Trước khi đưa cho tôi, y còn nhìn tôi như ngập ngừng định hỏi gì lại thôi. Tôi cầm tấm thẻ, cười với y, rồi dắt xe tránh lối cho hai chiếc xe đạp kia vào.
Trời đã đầu Thu mà trán tôi cũng rướm mồ hôi. Đây là cửa ải sinh tử! Nếu tôi qua được, ra khỏi cổng Hòa Lò, coi như thoát 80-90%.
Tôi phác một viễn ảnh sơ khởi trước mắt: Để đánh lạc hướng điều tra, lùng sục của công an vì chúng sẽ đặt trọng tâm hướng đi của tôi là về Nam, hoặc hướng Tây để sang Lào, vậy tôi sẽ đi ngược lại về hướng Bắc. Sau đó, tìm cách bán chiếc xe đạp, nằm lì một thời gian, rồi tìm thời cơ ăn cắp một giấy tờ khác, tùy theo điều kiện mới ìm về hướng Nam.
Trước cổng Hỏa Lò, tôi đã thấy con phố hẹp và vắng. Liếc thoáng tên cán bộ vũ trang đang đứng gác, nét mặt y trẻ măng, chừng 20 tuổi. Nhìn từ phía sau, tôi thấy đầu tóc y cắt ngắn ngủn và nhọn hoắt lên, như trái bưởi Biên Hòa. Khẩu CKC đeo ở vai y chúc mũi xuống. Chiếc báng súng lắc lư theo nhịp điệu bàn chân y, đang đập đập xuống nền hè. Mắt y hình
như đang lơ đãng nhìn mấy cây sấu phía bên kia phố. Lúc tôi dắt chiếc xe đạp ngang qua y, y mới xoay người đưa mắt nhìn tôi, ánh mắt vẫn còn lờ đờ như vừa đắm chìm, trong một giấc mộng dài. Tôi hơi tuơi nét mặt, nhếch mép mỉm cười với y. Môi y cũng cong lên, ngọ nguậy một cách ngờ nghệch thụ động, để đáp lại nụ cười của tôi.
Bất chợt, bánh sau chiếc xe đạp tôi đang dắt, nẩy lên một cái từ trên hè xuống dưới đường, chiếc dây xích tuột ra. Đúng lúc đó, từ phía bên kia đường, tên Lê phó giám thị và tên Điền coi nhà tiếp tế đang ngồi trên hai chiếc xe đạp rẽ sang cổng Hỏa Lò. Không kịp tránh nữa rồi! Cả hai tên đang cười đùa gì đấy, bỗng im bặt. Tôi xoay nhanh mặt về phía tên công an vũ trang đang gác, cũng còn kịp thấy hai cặp mắt cú vọ của chúng mở to nhìn tôi.
Căng thẳng và hồi hộp. Nếu tôi cúi xuống lắp xích xe, chắc chắn chúng sẽ đến hỏi để xem kỹ mặt tôi. Nếu cứ để tuột xích dắt xe đi ra cổng, chúng có thể càng nghi ngờ hơn, đuổi theo hỏi. thần kinh tôi như tê dại đi mấy giây đồng hồ. Đành quyết định dắt chiếc xe đạp tuột xích đi.
Không xong rồi, một tiếng gọi rổn đanh lên của tên Lê, như ra lệnh:
- Đồng chí kia, đứng lại!.....

Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 04:07 PM
Post #52


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Năm Mươi

Thành sự… tại thiên!...

Đất trời ơi! Người hại con rồi! Hành động của tôi không còn theo sự chỉ huy của cái đầu nữa. Phản xạ như một cái máy, tôi hất chiếc xe đạp ra giữa đường, ba chân bốn cẳng, tôi mở tối đa tốc lực chạy theo dường phố Hỏa Lò, ra phía phố Hàng Bông Ruộm, bên tai vẫn còn nghe tiếng gào ré của tên Lê:
- Tù trốn, báo động ngay!
Tiếp theo, “Đoàng, đoàng, đoàng!”, ba phát súng rít vang lên trong buổi chiều Thu phố vắng.
Tiếng huỳnh huỵch và tiếng hò hét ầm ầm phía sau tôi. Tôi chạy ra gần tới đầu đường. Lúc đó, tự dưng mắt tôi hoa lên, có lẽ vì đói lâu ngày, không đủ sức. Thấy phản ứng của cơ thể mình như vậy, thần kinh tôi càng căng thẳng cùng độ. Tôi tự hiểu, hỏng rồi, tan tành rồi! Tôi đã cố gắng và nỗ lực hết sức mình; nhưng, trời không giúp tôi, Vậy, xin lấy cái chết để trang trải hết món nợ…..quê hương.
Ngay lúc ấy, từ một chòi gác ở một góc Hỏa Lò, phía trước mặt, nhiều phát súng nổ xuống mặt đường, chặn lối tôi. Tiếng đạn đi víu víu như xé không khí. Có những viên đạn cày xuống đường tóe tia lửa ra. Tôi vẫn lao đi! Thực sự, lúc này chính tôi muốn tìm những viên đạn.
Giữa lúc đó, hai tên cảnh sát, có lẽ đang đứng gác ở ngã tư đầu phố, chạy rượt tới chận đầu tôi. Một số xe cộ ngoài phố sá ngừng lại, vừa xe đạp, vừa ô tô nên súng không bắn nữa. Nhưng, tôi đã lọt vào giữa vòng người với nhiều màu áo vàng, nhiều súng dài, súng ngắn. Chỉ một lúc, tôi ngã đổ kềnh ra đường vì kiệt sức và vì một cú đá vào cẳng chân từ phía sau. Thế là xong! Đời tôi cũng đành tàn lụi theo…..vận nước. Khi hai thằng bẻ giặt hai cánh tay tôi ra phía sau, khóa lại. Hai cái tát chắc nịch như vồ nện vào mặt tôi. Hai tai tôi o o , ù ù, chẳng còn nghe tiếng chửi bới, sỉ vả gì tôi cả. Hai tên công an lực lưỡng, mỗi tên một bên xách tay tôi, giong về cổng Hỏa Lò.
Người tôi như chết rồi! Chung quanh chỉ còn có cảm giác thấy loáng thoáng, lố nhố đầy người, ồn ào trên đường phố Hỏa Lò. Phải rồi, bây giờ

cũng là lúc tan tầm, nên cán bộ Hỏa Lò kéo ra. Sau này tôi hiểu, chính nhờ lúc đó là giờ tan tầm nên tôi gặp may, nếu không tôi đã bị những trận đòn thù “hội chợ”, có khi phải mang nhiều di ách về sau. Nhưng, khi chúng giong tôi vào đến bên trong cổng Hỏa Lò, có lẽ cũng là lúc tên Đỗ Đình Hạ đã tỉnh, hoặc được cứu tỉnh. Sự việc đã bể tung nguyên nhân, cho nên, bất ngờ một tên công an vũ trang cầm khẩu CKC đâm mạnh mũi súng vào mắt tôi, mồm quát:
- Đâm cho mày mù mắt đây này!
Tôi chỉ nghe “sột” một cái, máu chảy tóe xuống mũi, xuống mồm, tôi chỉ thấy mờ mờ mầu đỏ ối. Lại một cú “rắc” nữa! Tôi nẩy người lên, rồi nằm vật xuống sân, dưới giàn nho. Hai cánh tay tôi đau nhói như bị gẫy, vì đang bị khóa giặt về phía sau. Tôi không còn kêu được nữa, miệng tôi cứng ra, tai chỉ còn nghe loáng thoáng quát:
- Không được đánh chết! Hãy đem nó vào trong phòng!
Mắt tôi bỗng tối sầm lại, tôi không thấy gì, và cũng không còn biết gì nữa…..
Tôi thấy như có ai đang kéo đầu, kéo từng sợi tóc của tôi, tôi mở mắt ra. Lạnh run, quần áo và người tôi ướt đẫm những nước. Lờ mờ trước mặt, một ông già, quần áo py da ma mầu xanh nhạt, đeo kính trắng, đang ra hiệu tay cho một tên công an còn trẻ, tay đang cầm một cái thùng tôn đầy nước. Tôi cố định thần nhìn kỹ. À, tên Võ, Chánh giám thị Hỏa Lò. Lại có tên Thành và tên Đức chấp pháp nữa. Vẫn đầy người chung quanh tôi, ồn ào, huyên náo. Một tên công an vũ trang, tay vẫn lăm lăm khẩu súng dài. Mặt nó đỏ, mắt nó long lên sòng sọc, đòi đập vào đầu tôi nữa.
Giọng miền Nam của tên Võ rít lên, nghe như tiếng kèn đồng thổi nốt cao:
- Tôi cấm đồng chí không được đánh nó nữa! Để chúng tôi giải quyết!.....
Trong khi đó, tên Thành chấp pháp đang đẩy tên công an vũ trang này ra ngoài. Tên công an vũ trang đó còn cố ngoái lại nhìn tôi bằng đôi mắt nảy lửa. Tôi chợt thấy, y giống hệt tên Đỗ Đình Hạ, nhưng trẻ hơn nhiều; nhất là cái mũi khoằm khoằm, và cái môi trên vều ra, nhòn nhọn như mõm con chuột nhắt. Giống Đỗ Đình Hạ như đúc!
Không biết tên này có liên hệ gì với tên Hạ không, mà hung hãn thế? Thì ra, lúc nãy nó bất ngờ đâm tôi một mũi súng. Chủ ý của nó, là định đâm mù mắt tôi. Nhưng, chẳng hiểu vì tôi nhúc nhích cái đầu, hay vì y không đâm trúng đích, mũi súng lại đâm vào giữa hai mắt của tôi, phía trên sống mũi. Máu chảy rất nhiều , và tôi bị ngất đi cũng vì vết thương này. Còn mũi súng thứ hai, y đã đâm trúng vào mồm tôi, làm gẫy 3 cái răng cửa hàm dưới. Một chiếc răng rơi ngay vào mồ, tôi phì ra đất, còn hai chiếc cụp hẳn vào trong, nhưng vẫn còn dính, chưa rơi ra. Tôi cố gắng dùng lưỡi , đẩy hai cái răng lên, nhưng buốt không chịu được. Mồm tôi phì ra đầy máu! Cái môi dưới của tôi rách toác, bây giờ sưng vều lên, tôi không nói được nữa. Hai cánh tay tôi, bị khóa giặt ra sau lưng đau buốt, không biết có gẫy hay không, khi tôi bị đâm mũi súng vào mồm ngã xuống.
Lúc này, tôi đã thấy cả tên Trì và tên Lệ, hai Phó Giám Thị, và rất nhiều tên cán bộ Hỏa Lò đến nhìn tôi một cái rồi đi. Chúng cũng chẳng tỏ thái độ căm thù hay thương hại. Nét mặt của chúng, nói chung, nhìn tôi rất lạnh lùng, như một câu chuyện của cuộc đời, không có gì liên quan đến nồi cơm của chúng. Đột nhiên, giọng tên Võ lại nổi lên:
- Đồng chí Trì, ra lệnh đưa nó vào buồng lập biên bản! Nhớ, không ai được đánh nó nữa! Gọi đồng chí Huệ, xem chữa vết thương của nó. Rồi cho vào “cát xô” đợi lệnh!
Nói rồi, y quầy quả đi vào phía trong. Hai tên công an kéo lê tôi về phía phải, nơi có những dẫy phòng hỏi cung tôi mọi khi. Vào trong phòng, chúng đặt tôi ngồi dựa vào tường rồi cởi khóa. Hai tay tôi như xuội ra! Cánh tay phải của tôi không gẫy, nhưng có lẽ bị sai khớp xương, sưng to lên, rất buốt. Ngoài hai mũi súng, cơ thể tôi cũng bị chúng nó đánh nhiều đòn, ngực và bụng tôi đau ê ẩm ở bên trong, tôi thấy rất khó thở.
Trong khi chúng hí hoáy ghi biên bản, tên Huệ y tá mang khay thuốc vào. Y để tôi nằm ngửa xuống nền nhà, lấy bông rửa vết thương trên chỗ sống mũi, giữa hai con mắt của tôi. Xong, y mở một chai nước gì màu xanh xanh, nói nhỏ nhẹ:
- Anh hãy nhắm mắt lại!
Tôi nhắm mắt lại, rồi cảm thấy một giòng nước re re chảy vào óc, mũi cay xè. Tôi thấy mơ hồ, rồi mê man đi.
Khi tỉnh lại, tôi cứ tưởng là đã vào “cát xô” rồi, nhưng không phải, tôi đang nằm trên một chiếc giường con, và tôi hiểu là chúng đã đưa tôi vào bệnh xá. Bất giác tôi đưa tay sờ lên mặt, băng vải quấn kín cả một bên mắt của tôi. Trong mồm, lưỡi tôi đẩy đưa bây giờ thấy trống trải. Một lỗ hổng lớn! Như vậy, y tá đã nhổ hai cái răng gảy gập vào của tôi, lúc nào tôi cũng không hay. Mồm tôi cũng bị băng kín, chỉ còn hai lỗ mũi, vướng vít những vải băng nên thở kêu cứ phì phì. Người tôi đau ê ẩm. Bốn bề im ắng, có lẽ đã là đêm khuya.
Tôi thấy bụng kêu ò ọ, cồn cào. Tôi chợt nghĩ, bây giờ mồm miệng băng kín thế này ăn làm sao đây? Cánh tay phải của tôi cắn buốt vô cùng. Tôi dùng tay trái sờ chỗ khuỷu tay phải: sưng to, căng cứng, có quấn băng bằng vải màn, mùi đầu nóng hăng lên. Tôi đau đến nỗi không giở mình nổi nữa. Mệt quá, tôi lại lịm đi…..
Một lúc sau, tôi lại tỉnh. Căn phòng nhỏ vẫn đóng kín, im ắng. Thỉnh thoảng có một vài tiếng khúng khắng ho phía bên ngoài. Đầu óc tôi vẩn vơ nghĩ lại những sự việc vừa qua.
Nếu tôi ra cổng chậm năm phút, hoặc không vì chiếc mũ, tôi ra cổng sớm năm phút, tôi đã không gặp tên Lê và tên Điền. Lại là những chữ “Nếu” quái ác của cuộc đời. Đời tôi chưa gặp những chữ “Nếu” hiền lành, tốt đẹp; mà chỉ là những chữ “Nếu” hung thần đẩy đưa đời tôi vào chỗ bất hạnh hơn. Tôi càng nghĩ, mắt càng vương lên màu xám xậm. Vận nước! Cuộc đời! Thật đúng là mưu sự tại nhân, thành sự, hay bại sự, là do ông trời!
Một màu vàng úa đang lởn vởn giăng mắc quanh tôi, chợt một hình ảnh hiện ra, dẹp tan bức màn màu vàng trước mặt: Đỗ Đình Hạ. Hình ảnh một tên trần truồng nằm một đống dưới chân bàn, cứt đái nhì nhẹt tứ tung, mùi xú uế đầy ắp cả căn phòng. Cu cậu chắc tưởng từ dưới quê lên Hà Nội chuyến này về sẽ vớ bở, ai ngờ đâu! Tôi dám nghĩ rằng, tên Hạ sẽ nhớ suốt đời y. Cho tới già, y vẫn còn căm giận tên chó chết…là tôi.
Tôi cũng không ngờ hiệu quả cú đòn chém gáy địch thủ của mình lại mạnh như vậy. Đó là gân cốt từ lâu nay đã không được tập luyện, lại bị đói triền miên rã rời. Nếu bình thường, trọng lượng đòn còn ác độc hơn nữa với sức bật và đà của cả một vòng xoay. Không phải đơn giản mà võ sĩ Hà Châu đã đổ cả cây thịt xuống dài. Trong làng võ thuật Đông Dương, võ sĩ Vĩnh Tiên đã được đề cao là một quái kiệt về chịu đòn, mặt và hai cánh tay sần sùi, sau bao chục năm tập luyện bao cát, thế mà còn không chịu nổi cú đòn đó, huống chi người bình thường. Điều quan trọng là biết tính toán sao cho, cũng là một cái búa tạ quai xuống một cái đe, trọng lượng phải nằm ở đâu để cho toi da Chúng nó đánh tôi thế này, tôi đâu có quyền trách chúng. Nếu không vì còn cần khai thác tôi, chúng nó đã đánh chết rồi. Thằng nhóc con công an vũ trang hung hãn đánh và đâm tôi, có khi nếu không phải là em ruột tên Hạ, cũng là con chú, con bác chứ không chơi đâu. Chúng nó giống nhau lắm. Thôi, các bạn thông cảm cho, vì đời nó thế. Trên cõi đời này còn nhiều chuyện oái ăm lắm. Tôi chợt nhớ đến một ý tưởng đã đọc được trong một tác phẩm nào đó:”…Những người chẳng hề quen biết nhau, nỗ lực xông vào bắn giết nhau, căm thù nhau, để cho những người quen biết nhau, nói chuyện với nhau trong những bàn tiệc; hoặc những buổi liên hoan…”. Tôi mệt và đau quá, lại thiếp dần đi.
Mãi tới khi tỉnh lại, trời đã sáng tỏ. Từ hôm qua đến nay, tôi chỉ nằm một thế ngửa. Nằm nghiêng thì vết thương ở tam tinh cứ chảy nước vàng và ra máu.
Tiếng lách cách mở khóa, rồi cửa buồng mở. Ông Huệ y tá mặc chiếc áo “blouse” trắng, mồm cũng đeo khẩu trang, đi vào. Tôi nhìn ông, hơi nhúc nhích đầu tỏ ý chào ông. Ông cúi sờ xem vết thương ở tam tinh, rồi ở mồm; cuối cùng mới xem cánh tay tôi. Tôi cứ đinh ninh thái độ của ông sẽ không ưa tôi, một người đã đánh cán bộ và trốn. Nhưng cử chỉ và cái nhìn của ông lại xem có cảm tình hơn cả lần tôi bị cùm hai chân hơn một tháng và phải xuống bệnh xá vì gần chết. Ông vừa sờ vết thương chỗ tam tinh của tôi, vừa nhẹ nhàng nói:
- Lẽ ra, hôm qua anh phải vào “cát xô”, chỉ 2, 3 ngày là không cứu được nữa. Cho nên, tôi nói là nếu muốn anh chết, hãy đưa vào “cát xô” lúc này, còn nếu chưa muốn anh chết, tôi đề nghị đưa xuống bệnh xá. Mãi sau mới được sự chấp nhận của đảng ủy.
Vừa nói, ông vừa liếc nhìn cánh cửa buồng. Qua thái độ này, tôi tự hiểu là những gì ông vừa nói với tôi, tôi không được nói với bất cứ cán bộ nào, vì không có lợi cho ông. Cũng có thể, năm trước, qua gần hai ngày ông đã thấy tôi là người có ý thức, không làm gì phiền rắc rối cho ông, cho nên lần này ông cho biết một vài ý mạnh bạo hơn. Tôi muốn nói với ông một vài lời biết ơn, nhưng mồm băng kín, không nói được. Ông cũng hiểu vậy, nên ra hiệu tay:
- Anh cứ nằm nghỉ đi, chốc nữa có cháo nóng, tôi sẽ vào!
Ông Huệ đã ra rồi, tôi vẫn còn vẩn vơ suy nghĩ về ông mãi. Tôi nhớ lại toàn bộ những hình ảnh từ ngày tôi gặp ông. Lúc đầu, ông tỏ ra một người rất nguyên tắc, ăn nói thường ngắn ngọn, đôi khi cộc lốc. Nhưng dần dà, năm này qua năm khác, thái độ của ông đối với tôi hình như có tình người
hơn. Chính tôi cũng chưa có điều kiện để biết, thái độ của ông chỉ riêng đối với tôi, hay là đối với mọi người tù, ai ông cũng vậy.
Một lúc sau, cửa buồng lại lách cách mở, ông Huệ và một người tù hình sự bưng một bát cháo đi vào. Đến bên cạnh tôi, ông cúi xuống dùng kéo khẽ cắt ra mấy miếng bông vải ở mồm tôi, rồi lấy một cái ống cao su màu nâu đút vào miệng tôi, một đầu cho vào bát cháo:
- Anh cố gắng hút thử xem có được không?
Muốn hút, tôi phải bậm môi lại, nhưng môi của tôi bị rách, hãy còn sưng, loay hoay mãi, tôi vẫn không hút được. Tôi suy nghĩ, dù đau đớn cũng phải cắn răng mà ngậm miệng lại mà hút. Điều đó, vừa nói lên nghị lực chế ngự mạnh của mình, vừa giúp một cách tích cực, cho cơ thể chóng bình phục. Mặt khác, ai sẽ múc cháo đổ cho tôi đây? Ở đây có phải là bệnh viện đâu? Nghĩ như thế, tôi cố gắng đến nỗi nước mắt tôi dàn ra, vì sự co bóp của cơ miệng. Nhưng, cuối cùng tôi đã ngậm được. Hình như chính ông Huệ cũng đã thấy sự cố gắng của tôi, nên ánh mắt của ông nhìn tôi có niềm thông cảm. Mãi rồi tôi cũng húp hết bát nước cháo nêm muối.
Đến ngày hôm sau nữa, tôi đã thều thào nói được. Ông y tá vẫn một ngày ra vào hai, ba lần để chích thuốc cho tôi. Được 3 ngày, ông tháo băng mồm cho tôi, bôi thuốc đỏ và rắc thuốc trụ sinh vào chỗ môi rách. Cho mãi tới hôm ấy, tôi mới sực nhớ, bộ quần áo tôi lột của tên Hạ, đã bị cởi ra từ bao giờ. Tôi nhớ hôm tôi bị đánh, máu chảy đầy quần áo. Vậy mà chúng cũng lột lại, thay vào đấy, tôi được mặc một bộ đồ trại sòng sọc còn mới, với 4, 5 dấu triện đóng: “T.G.H.N.” mà tôi cứ nghĩ đùa là “THẾ GIỚI HỮU NGHỊ’ thực ra là TRẠI GIAM HÀ NỘI…..


Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 04:08 PM
Post #53


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Năm Mươi Mốt

Cát xô, chiếc… ”quan tài” đá Của Hỏa Lò Hà Nội!...

Theo ông Huệ nói, từ đây ra tới cổng Hỏa Lò, ngoài bao nhiêu lần cửa, với bao lần canh gác, ngay chính ông cũng chịu trách nhiệm giữ tôi. Nếu tôi trốn, ông cũng phải chịu trách nhiệm. Tôi cười thầm, hiện giờ ngay việc ngồi dậy tôi còn thấy khó khăn, nói gì tới trốn. Dù thế, cảnh giác cao luôn luôn là một nguyên tắc của cộng sản, cho nên ra vào buồng tôi, ông vẫn phải khóa.
Trưa nay, vết thuơng ở tam tinh bỗng nhức quá, đau đến độ mồ hôi của tôi chảu ra đầm đìa, cuối cùng tôi lại lịm đi. Thấy có người lay gọi, mở mắt ra, tôi ngạc nhiên: Tên Thành chấp pháp! Thấy tôi tỉnh dậy, y mỉm cười:
- Anh thấy trong người đã đỡ chưa?
Tôi nhìn y, hơi ngượng! Trước đây, tôi luôn nói là thích xã hội chủ nghĩa, vậy mà tôi lại đánh cán bộ rồi trốn. Tôi thều thào cảm ơn sự quan tâm của y. Sau khi tôi trốn rồi bị đổ bể, tôi nghĩ rằng từ nay bọn cán bộ, chấp pháp sẽ ghét thù tôi lắm. Nhưng, điều làm tôi ngạc nhiên là tôi không thấy tên Thành có thái độ gì khác trước đây. Từ ánh mắt cho đến cử chỉ, vẫn như những tháng trước tôi gặp y. Y mở một cuốn sổ tay lớn, cầm bút và nhìn tôi:
- Nguyên nhân nào đã đưa đến, để anh trốn tù?
- Từ trước tôi vẫn thích xã hội chủ nghĩa, và vì thế tôi đã khai báo thật ngay từ đầu. Nhưng rồi, cách mạng không tin, cứ giam cầm, cùm kẹp mãi, nên tôi tìm cái chết. Chết không được, tôi tìm cách trốn!
Chỉ nói có bấy nhiêu câu, mà tôi phải nói rất lâu. Nhiều chỗ y nghe không rõ, phải hỏi lại. Y ghi hết.
- Anh định trốn từ bao giờ?
Tôi nghĩ bụng, tôi có ý định trốn ngay từ khi tôi phát hiện bị theo dõi ngoài phố, nhưng chỉ vì không có điều kiện thời cơ thôi. Tuy nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn khào khào trả lời:
- Sau khi tôi tự tử không được!
- Ngay khi anh gặp ông cán bộ lạ, một mình hỏi cung anh, là anh có ý định đánh ông ta để trốn?
Những việc nay tôi cứ trả lời thật:
- Phải nói, mãi tới lúc gần xong buổi cung, tôi thấy ông ta có vẻ lơ ngơ, đờ đẫn tiếc cái chum không tìm thấy, tôi mới lóe lên ý định trốn.
- Anh định đánh chết rồi chuồn ra ngay?
Tôi biết đây là một câu hỏi bẫy. Nếu có chủ ý mà vô tình, sẽ bị mắc. Tôi trả lời:
- Thưa ông, tôi không có ý định đánh chết ông ấy, mặc dù tôi thừa khả năng. Tôi cố ý làm ông ấy vừa đủ ngất đi thôi.
Tên Thành tiếp tục hỏi chi tiết nhiều vấn đề: Nào, anh trốn ra đi về đâu? Sẽ làm sao để che mắt công an? Chủ trương trốn về Nam theo đường nào? Hay, ra giao thiệp liên lạc với cơ sở, v.v…? Gần hai tiếng dồng hồ, y vừa hỏi, vừa ghi. Y đã đi rồi, hồn tôi còn chơi vơi khắc khoải. Tôi dĩ nhiên hiểu là “gieo gió, gặt bão”. Vừa qua, tôi đã gieo cái nhân, bây giờ phải chuẩn bị tình thần để lãnh cái quả. Hãy gồng mình lên mà chịu đựng, có thế lý trí mới còn sáng suốt. Buồn rầu, kêu van, đều không phải là của một người tỉnh táo, có lý trí mạnh. Tôi cũng hiểu là, những ngày tới sẽ chồng chất cam go. Vậy, sẽ đừng lạ lùng, ngạc nhiên, để rồi oán hận đất, trời lung tung.
Tôi tự nhẩm, nhắc lại ý tưởng sau khi tự tử không chết hơn 4 tháng trước:
Trên đường đi, nhiều cay đáng âm thầm.
Hãy nhận lấy, để dồn vào sâu kín.
Ý tưởng này phải trở thành phương châm trên con đường đi tới của đời tôi. Thực vậy, nếu không tránh được những điều khổ đau, tai ương: không gì bằng hiên ngang ngửng mặt, giơ tay đón nhận. Những khó khăn trong cuộc đời, ai chả từng gặp. Điều khác biệt là thái độ của người gặp khó khăn: Nếu gặp khó khăn lại chùn bước, nản lòng, bi quan, yếm thế; đôi khi, chính khó khăn ấy sẽ đè mình gục xuống, không thể trỗi dậy được nữa. Nhưng, nếu nhìn những khó khăn, chỉ là điều tất yếu của cuộc đời phải có, hãy tỉnh táo xông vào giải quyết. Tin chắc rằng khó khăn sẽ bớt, đôi khi không nói là hết khó khăn. Nhưng, lại phải hiểu rằng, hãy yên trí đi, lại sẽ sắp sửa có khó khăn khác đang đi tới, vì đó là lẽ sống ở đời mà! Tôi cứ quẩn quanh nằm suy nghĩ như thế. Điều đó cũng giúp tôi nhiều, trên đường đi đầy chông gai, hầm hố này.
Tôi ở bệnh xá được 6 ngày. Mồm tôi đã đỡ, chỉ mất 3 chiếc răng. Cánh tay phải được ông Huệ lấy lại khớp xương, bây giờ đã giảm sưng, cử động nhẹ được. Trong ngực bị mấy cú đòn ngầm, bây giờ cũng đỡ đau sau mấy ngày khạc ra một đống máu. Riêng vết thương chỗ tam tinh, vẫn còn thấy đau nhức nhiều. Vì không có gương, tôi chỉ lấy tay sờ, thấy vết thuơng hơi lệch về phía mắt trái. Chính ông Huệ một lần nói nhỏ với tôi:
- Anh hãy còn may mắn, nếu mũi súng chỉ lệch đi chừng một phân về phía trái, bảo đảm bây giờ anh trở thành “độc nhỡn nhân” rồi!
Tôi chỉ hỏi:
- Liệu vết sẹo có to lắm không?
Ông nói:
- Thủ thuật khâu của tôi cũng có hạng lắm đấy, tôi lại cố gắng làm cho anh, cho nên sẹo không to lắm đâu!
Hỏi và nói chuyện với ông như vậy thôi, chứ sẹo to hay nhỏ bây giờ còn giá trị gì nữa mà quan tâm. Tôi vẫn phải còn ăn cháo, vậy mà buổi chiều, tên Bằng đã vào nói là có lệnh Ban giám thị đưa tôi vào “cát xô”. Tôi cũng hiểu là phen này chưa chắc đã sống được. Tôi chợt nhớ đến xà lim I, còn một số đồ lặt vặt, nhưng rất có giá trị đối với tôi: Bộ đồ chống muỗi, cái điếu bằng bao diêm, cái vỏ ba lô trong có chì mật và chiếc kim khâu. Chỉ có con dao là mất, trong bộ đồ quần áo để lại đắp cho tên Hạ. Vì vậy, tôi phều phào (cái môi tôi vẫn còn vều ra) nói với tên Bằng, xin lại mấy thứ đó. Y trừng mắt nhìn tôi, rồi buông thõng một câu:
- Anh đã định trốn đi, thì còn cần gì những thứ đó!
Nghe giọng y nói và cách y nhìn tôi, tôi hiểu là y không căm ghét gì tôi lắm, vì thế tôi nằn nì:
- Thưa ông giúp tôi! Ai cũng vậy, đã trốn còn tiếc gì! Nhưng bây giờ tôi không trốn được!
- Cả tên Bằng và ông Huệ cùng cười. Không ai nói gì! Khi tôi ra khỏi buồng, rồi ra tời cổng bệnh xá, ông Huệ còn ra theo đưa cho tôi một gói bột trụ sinh:
- Anh nhớ hàng ngày rắc vào chỗ tam tinh, đừng để nó làm mủ. Nếu làm mủ ở đấy, đôi khi có nhiều biến chứng nguy hiểm.
Tôi vừa tập tễnh đi theo tên Bằng, vừa nghĩ ngợi mông lung. Tình cảm của ông Huệ y tá, tôi chấp nhận. Còn của chấp pháp, tuyệt đối không! Ông Huệ chỉ là y tá, suốt những ngày ở bệnh xá, chẳng bao giờ ông ta hỏi tôi bất cứ một khía cạnh nào, về việc tôi làm.
Sân trại chung lúc này đã vắng tanh! Nhưng, tất cả những nhà chung quanh sân trại, nhà nào cũng có tiếng rì rầm, ồn ào như tiếng thác đổ trong rừng sâu. Mãi xa tít phía đàng kia là bức tường và chiếc cổng mầu xanh xanh của xà lim I. Không khí của chiều đầu Thu vẫn còn hanh khô. Những chiếc lá bàng đã đổi mầu, úa dần. Đây đó đã dăm, mười chiếc lá rời cành như báo hiệu mùa Thu tới. Và đây, tôi cũng sắp tới “cát xô”! Đã hơn 2 năm, tôi nằm trong xà lim Hỏa Lò rồi, nhưng chưa biết “cát xô”. Một lần, tôi nghe tên Tân nói, “cát xô” là chỗ kỷ luật những tù nhân án tử hình, chung thân. Ai vào đó, nếu không chết ngay ở đấy, sau đó cũng chết với bao nhiêu chứng bệnh, mang theo trong người. Bây giờ tôi vào, tôi sẽ biết.
Đến một chỗ góc của dẫy nhà, một hành lang sâu hun hút dẫn tới một cái cửa sắt dầy. Qua cửa này, có những bậc đi sâu xuống đất. Rồi tới một cửa sắt nữa, rất bé và hẹp. Tên Bằng chọn một chìa, trong chùm chìa khóa đang cầm ở tay mở ra: Một lối đi rất hẹp! Đến đây, từ lối đi đến những bức tường đều toàn bằng đá, đá hộc và đá thuớc; tưởng như một thạch thất trong truyện võ hiệp của Tàu. Một mùi khăn khẳn lợm giọng xông lên. Tên Bằng khạc, rồi nhổ đánh “bẹt” một bãi nước bọt vào một góc tường. Thoáng nhìn, tôi thấy ba, bốn cái chuồng đá hay hòm đá.
Bỗng nhiên có tiếng lịch kịch, rồi tiếng chân người, tôi và lão Bằng đều liếc lên nhìn, thấp thoáng có mấy áo vàng bên trên, chắc là những tên cán bộ trực ca tối. Tên Bằng mở cửa hòm đá, chiếc cửa sắt quá nhỏ, tôi phải cúi, lách vào. Hòm đá cũng có cái cùm như trên xà lim. Đặc biệt hơn là có hai sợi dây xích sắt to, bằng loại sắt tròn đường kính hai phân, mỗi sợi dài độ 80 phân, gắn liền vào trong tường đá; ở mỗi đầu sợi xích là một cái khóa bóp.
Ở ngoài, tên Bằng rút chốt cùm, lách người vào nhấc nửa trên cái cùm há lên, và bảo tôi bỏ chân vào. Y đóng cùm xuống, trong khi mũi y cứ thở phì phì. Y mở hai khóa ngàm ở đầu hai sợi xích, bóp khóa vào cổ tay tôi. Xong, y ra ngoài chốt cùm. Trước khi đóng cửa, y gằn giọng:
- Kỷ luật ở “cát xô”: Mỗi tuần mở cùm một lần, 12 phút vào trưa mỗi thứ Hai. Ngày chỉ được ăn một lần!
- Y chỉ tay vào cái nắp sắt tròn, mở một mé góc trong chuồng đá:
- Đái, ỉa, nhấc cái nắp lên. Một tuần đổ một lần, sạch hay bẩn thì tùy.
Tuy tôi đã nâng cao tinh thần chịu đựng. Đã tự trang bị cho mình một số tư tưởng lạc quan, thế mà trước cảnh này, tôi cũng đầy băn khoăn lo lắng. Thấy không có chiếu chăn gì, chỉ có đá và sắt, tôi đề nghị:
- Thưa ông, ông giúp tôi, về buồng tôi cho tôi xin chiếc chiếu và những thứ lặt vặt của tôi.
Y đóng xầm cửa lại, cộc lốc:
- Bao giờ ra hãy hay. Ở đây không cần!
Cửa đóng lại, ánh sáng chỉ lờ mờ. Tôi có cảm tưởng như mình đang ở trong một cái “quan tài” đá, chỉ có khác là cái “quan tài” này hình hộp vuông, mỗi bề 1m50. Ai cao hơn 1m50 thì phải khòm. Nằm cũng không được. Phải lựa thế xoay chân, nằm nghiêng và co chân lại. Nghĩa là, không thể nằm duỗi thẳng chân được.
Ông bà ta nói thật đúng:”Ở gần nhà xí mãi không còn thấy thối”. Đúng thế, khi mới vào đây, tôi ngửi ngay thấy cái mùi lợn giọng buồn nôn, vừa khăn khẳn, nồng nồng, lại vừa ngai ngái như mùi thịt chết để lâu ngày. Vậy mà, mới qua 3, 4 tiếng đồng hồ sau, tôi đã không còn ngửi thấy mùi ấy nữa, tuy thỉnh thoảng cũng thấy khó chịu, nhưng không đến nỗi buồn nôn.
Tôi hiểu đây là giai đoạn cam go nhất của đời mình. Nếu không nổ lực để sống; tôi sẽ tàn lụi từ đây. Cảnh thế này, chỉ cần mươi ngày là rất nhiều loại bệnh kéo ra: Tê xuội, lao phổi, điên rồ vì thần kinh, ghẻ lở, kiệt sức, v.v…Chết!
Một điều khó khăn nhất đối với tôi bây giờ là…không khí! Từ trước, sở dĩ chưa bị bệnh tật là nhờ tập luyện, mà không khí trong lành là chính. Đã đói cơm, đói gạo, nhưng còn không khí bù lại. Ở đây, chúng không ngăn
không khí, nhưng không khí lại bị ô nhiễm. Mùi xú uế lại còn nguy hiểm hơn. Cho nên, càng căng lồng ngực hít không khí này vào, càng chóng giã từ cõi đời. Đó là điểm đã mấy ngày nay tôi suy nghĩ nát đầu, mà chưa tìm ra một lối giải quyết.
Mỗi ngày, cứ khoảng 12 giờ 30, lúc đó trại chung cũng đã vào hết, bấy giờ tên cán bộ trực mới dẫn một anh hình sự vào đưa cơm nước. Anh hình sự chừng 22, 23 tuổi, xách một hộp gỗ, trong có hai nắm cơm. Mỗi nắm chừng 3 lạng, ở giữa nắm cơm, có ít muối gói trong một miếng lá chuối khô. Nắm cơm được gói trong 2 chiếc lá bàng còn tươi. Trong hộp gỗ, còn có một cái tích to, đựng khoảng 4 gáo nước.
Tên cán bộ này thay đổi từng ngày, tùy theo ca trực trưa. Không có cán bộ trực chuyên môn “cát xô”, bởi vì “cát xô” chỉ có mấy hộp đá. Y vào mở cửa, rồi đứng trông cho anh hình sự đưa cơm.
Hiện nay, ở mãi phía trong cùng “cát xô”, còn có một người nữa. Đêm qua, tôi đã gọi mấy lần, nhưng không có tiếng trả lời. Cơm vẫn 2 nắm, một cho tôi và một cho người phía bên trong. Thỉnh thoảng, tôi nghe tiếng ho, nhưng tôi gọi vẫn yên ắng.
Trưa hôm nay, cũng như trưa hôm qua, tôi vừa rắc ít bột trụ sinh vào chỗ tam tinh, vừa ngồi nhắm mắt vận công, chợt có tiếng lẻng xẻng của chìa khóa và tiếng mở cửa. Tiếng bước chân sột soạt nghe rõ dần, rồi tiếng loạch xoạch mở khóa. Tấm cửa sắt con được kéo lên, một bàn tay đen đen, đầy cáu ghét đẩy nắm cơm vào. Tiếng loảng xoảng xô đông cửa xích sắt, rộ lên khi tôi cầm chiếc gáo giơ ra, cho y rót nước vào.
Y chỉ ngồi một lúc, mà mũi cứ thỉnh thoảng phải xì xì thở ra, vì mùi phân và nước giải lâu ngày ở cái bô nhỏ dưới lỗ xông lên, và vì mùi hôi hám của cơ thể tôi, lâu không được tắm rửa. Những mùi đó cuộn vào nhau đầy ắp dưới căn hầm.
Tôi liếc ra ngoài, chỉ nhìn thấy đôi ống quần vàng, đứng ở mãi gần cửa ra vào “cát xô”. Khi tên tù hình sự rót nước vào gáo cho tôi, vừa để chống dói, và vừa để có nước kha khá một chút để dự trữ để rửa đít. Tôi trợn mắt, uống gần hết gáo nước, trong khi tay tôi rối rít khua ra hiệu chờ, cho xin thêm đầy gáo. Im vắng, không một tiếng người, chỉ có tiếng rọt rẹt của xích sắt, khi hai tay tôi di chuyển cử động, và tiếng nước rót vào gáo kêu long tong. Sau đó, chính tên tù hình sự tháo chốt cho tấm cửa sập xuống, tên công an chỉ việc đến khóa.
Tiếng bước chân nhỏ dần vào phía trong. Rồi những âm điệu của bản nhạc “cho tù ăn” lại trỗi lên một lần nữa. Mỗi ngày, chỉ trong vòng mươi, mười lăm phút, bản nhạc không lời đó được tấu lên, như một điệp khúc. Rồi nhà hầm lại trở về yên lặng như nhà mồ, cách biết với thế giới loài người bên trên. Thỉnh thoảng tiếng rọt rẹt khua động của xích sắt, tiếng ho khục khặc lẫn với tiếng rên rỉ ai oán kéo dài lê thê, càng làm rợn người trong đêm trường.
Một điều thật may là ở dưới này, lâu lâu mới có một con muỗi vo ve. Có lẽ vì kín, phần khác, ngay không khí cũng thiếu “oxy”. Cho nên các chú muỗi chẳng thích, hoặc chẳng dám vào.
Bị cùm ở “cát xô”, đi ỉa, đi đái thật vất vả! Phải xê dịch làm sao cho đúng lỗ, mà muốn đúng lỗ, thì hai tay phải giơ lên phía đầu. Vì hai sợi xích kéo ngược lên, ngắn, chỉ có hạn, nên cứ phải nằm nghiêng, hai tay giơ lên đầu hàng giờ, có khi 2 giờ vì phân táo bón. Rã rời, đau đớn, nhức mỏi! Đi xong, chẳng lẽ không rửa, mà rửa thì cực nhọc vô vàn. Xoay được thế chân cho nghiêng cái mông, cái tay lại bị dây xích giữ, không với tới. Vì vậy, nhiều khi nước rửa đổ chan hòa ra chỗ nằm, ngồi càng hôi thối, tanh tưởi. Dù đã quen mũi, nhưng khi mở nắp lỗ phân, với nước giải 5, 6 ngày rồi, tôi thấy nhiều lúc như nghẹt thở. Những lỗ phân ở nông thôn không hôi mấy, vì trống trải, mùi hôi khuếch tán trong không khí. Ở đây trong hầm kín, mỗi lần mở nắp ra, ôi thôi, giá con người không có mũi thì tuyệt biết bao! Mùi hôi thối làm nhức đầu, đờ đẫn người, làm mờ cả mắt, tê liệt cả thần kinh.
Tôi hiểu, tụi cộng Hỏa Lò không phải không biết cái mùi hôi chết người này, nhưng chúng cố ý coi đó là một trong những phương pháp, để hành tội người tù. Trước đây, tôi đọc sách báo, cũng như tôi đã vào cái nghề “hang một lỗ” này, tôi cứ đinh ninh, khi một điệp viên đã bị đối phương bắt, thì sẽ bị tra tấn bằng mọi cách để khai thác, rồi bắn bỏ. Cho nên, lúc tôi bị bắt, phần thì trước mắt, chúng cũng thấy tôi không, hoặc chưa hoạt động gì, như vậy dứt khoát chúng không thể bắn tôi. Còn vấn đề tra tấn, đối với một người, nếu can trường, dũng lược, cũng chỉ như một trận đòn “hội chợ”. Bởi vì, nếu làm quá đã ngất rồi, mà ngất, thì còn biết đau đớn là gì. Như vậy, chừng dăm mươi trận rồi cũng phải kết cung. Nhưng, với cộng sản, phương pháp của chúng hoàn toàn mới lạ. Cũng chính vì trước đây, chúng đã bị tra tấn dưới thời thực dân Pháp, cũng như Sài Gòn ngày nay rồi. Nghĩa là, chỉ tra, đánh tới tấp năm, mười trận, trong 5, 6 tháng là kết cung. Cho nên, nếu có sự kiên trì, gan lì chịu đựng, thường là bảo vệ được bí mật của mình. Ở đây, chúng dùng thời gian và dạ dầy để khai thác.
Như trên tôi đã trình bầy, hầu hết những người lính (người lính tôi dùng theo ý nghĩa là người có tinh thần chống cộng, không hẳn phải cầm súng) của phía Quốc Gia, tự do của chúng ta, tinh thần của họ rất cao, rất dũng cảm, có thể chịu đựng qua những phút cùng khổ, đắng cay cao nhất. Nhưng, với điều kiện ngắn thôi, một tuần, một tháng, một năm, 2 năm là nhiều, chứ xem chừng mãi mãi, không biết ngày nào, hầu như đa số phải bỏ cuộc. Chịu đựng được lâu dài, đòi hỏi kinh qua nhiều trận bão tinh thần; vật lộn giằng co hàng ngày với đói khát, cùm, xích trong những điều kiện ngặt nghèo nhất. Tinh thần bị ức chế cao độ, dồn ép lại thành một xác tín: Cứ chịu đựng gian khổ, khắc nghiệt triền miên, cho tới khi cơ thể không chịu đựng được nữa, những nan bệnh sẽ đè gục xuống đẩy mình về với cát bụi mây ngàn.
Bản thân tôi cũng nằm trong nhược điểm đó, nhiều lúc tôi cũng quá nản lòng. Sức người chịu đựng cũng có hạn nào đó! Tôi muốn buông xuôi, mặc cho cơ thể lụi tàn dần. Tôi cũng xác quyết là dù có nỗ lực phấn đấu bao nhiêu, rồi sớm hay muộn cũng phải lìa đời trong cảnh ngục tù này. Những ý tưởng này chỉ nổi lên từng phút, từng giờ, rồi lại phải nhường chỗ cho những tư tưởng lạc quan, tích cực, nỗ lực đến phút cuối cuộc đời.
Tóm lại, cuối cùng để tư tưởng lạ quan tích cực với lẽ sống làm chủ tình hình, cũng phải trải qua biết bao trận chiến đấu cam go, giằng co nghiêng ngửa với những tư tưởng tiêu cực, bi quan. Những tư tưởng xấu, tồi bại này cũng như lũ phản động cộng sản. Mỗi khi chúng bị nguy khốn, chúng rút vào trú khu để chờ dịp, lại chui ra quấy phá cuộc đời, làm tê liệt, làm lệch hướng đi của cuộc sống. Vậy, chỉ còn một cách duy nhất, là ta phải luôn luôn trang bị cho mình một nghị lực mạnh. Đó là loại vũ khí hơn hẳn dể chế ngự, dè bẹp chúng.
Hôm nay là thứ Hai, như vậy, tôi mới vào “cát xô” được 6 ngày. Ba vết thương đều đã giảm đau nhiều. Chỉ còn vết thương ở tam tinh, hình như có mủ, vì gói thuốc bột trụ sinh ông y tá cho, tôi bôi dè sẻn hàng ngày, cũng đã hết. Vết rách ở môi dưới đã ngứa, ăn da non, cánh tay phải, do tôi tích cực tập luyện, vết thương trật khấp xương nay đã hết sưng tím. Ngược lại, hai cái chân, mặc dù ngày nào tôi cũng xoay sở, tập dịch lên, lùi xuống nhiều lần bây giờ cứ cắn nhức trong xương. Dưới gan bàn chân, cứ râm ran như có nhiều con kiến cắn.
Bây giờ ở “cát xô”, tôi không còn ý niệm được về thời gian ngày hay đêm, trừ chừng 15, 10 phút ăn cơm. Thường cứ nằm độ 2 tiếng, lại ngồi
chừng 2 tiếng. Nằm nhiều, đau lưng, đau người; lại ngồi, ngồi nhiều đau đít lại phải nằm. Chẳng bao giờ tôi nghe thấy một tiếng động gì ở bên trên. Nhiều lúc, tôi cảm giác là mình ở một thế giới khác, một thế giới mà con người khi sinh ra đã phải đeo xiềng xích, thứ xiềng xích gắn liền vào thân người cho tới chết. Một thế giới riêng biệt, không liên quan, dính dáng gì đến loài người nữa.
Nhất là về đêm (tôi chỉ theo sự suy luận và tính toán của mình để biết là đêm), nhiều lúc thấy hoang vắng, không có một sinh vật nào khác nữa cùng với mình, tôi lại gào lên gọi người phía bên trong. Tôi thèm, tôi háo hức được nghe tiếng một đồng loại. Nhưng, dù tôi gào, kêu như năn nỉ người bạn đồng cảnh lên tiếng cho đỡ cô liêu, tịch mịch trong nhà hầm, vẫn không có một tiếng trả lời. Có lúc, tôi nghĩ hay là người đó điếc, hoặc câm? Nhưng, rõ ràng nhiều lần tôi nghe tiếng rầm rầm, rì rì như tiếng đọc kinh cầu nguyện, sám hối.
So với bên tôi, thì bên đó rất ít khi nghe tiếng rung reng của xích sắt, có lẽ người đó rất ít cử động. Trong khi tôi, dù kiệt sức, rã rời vì đói, vẫn phải nổ lực, cố gắng tập cử động tay chân. Nếu nằm ngửa, phải ngệch đầu vào tường đá, vì không bao giờ co chân lại được. Nằm nghiêng hai phía, lại phải nằm co, hai tay phải luôn luôn giơ lên phía đầu, vì dây xích có hạn.
Tôi đang nằm đầu óc vẩn vơ nghĩ ngợi với những nỗi niềm trăm hướng, bỗng có tiếng động xọc xoạch mở khóa, rồi cửa “cát xô” mở. Một lúc, tôi nghe tiếng mở khóa cái “quan tài” đá của tôi. Miếng cửa sắt được kéo lên. Thì ra tên cán bộ Kế và một tên hình sự vẫn đưa cơm.
Tên Kế là người miền Nam, đeo lon Thượng Sĩ, phải 45, 50 tuổi rồi. Y vẫn thường coi buống số 9 trại chung. Hôm nay vào “cát xô”, y phải đeo khẩu trang. Việc mở cùm mở xích cho tù, bắt buộc phải do cán bộ mở, nếu không, chắc y đã sai anh hình sự làm thay. Bởi vì, tôi thấy y mở khóa xích cho tôi mà phải nín thở, nhăn mặt, vội vàng làm cho xong, rồi chạy mãi ra phía gần cửa “cát xô”, mới quay lại quát:
- Cho ra đổ bộ và lấy nước dội, làm vệ sinh chỗ nằm! Đồng thời cho tắm rửa 15 phút!
Khi tôi chui ra khỏi chuồng, đứng dậy, hai đầu gối của tôi rủn ra, tôi ngã ngồi bệt xuống nền đá. Tôi lại chỗi dậy, cứ như vậy mấy lần. Người tù hình sự nhìn tôi với ánh mắt đầy thương cảm của tình người. Anh ta chừng 23, 23 tuổi, trông mập mạp, nhưng nước da vẫn xám xịt. Mập mạp là vì làm nhà bếp. Dưới chế độ chủ nghĩa, câu:”Giầu nhà kho, no nhà bếp”, dù ở đâu, hay lúc nào, cũng đúng!
Sau khi cái chân tôi đã tạm nhuần, bấy giờ tôi mới chui vào mở nắp lỗ phân, lôi cái bô phân và nước giải đã 6, 7 ngày của tôi lên. Tên Kế càng lùi xa lên phía trên cửa “cát xô”. Ngược lại, anh hình sự lại tìm cớ vờ đặt cái khay gỗ xuống gần chỗ tôi, tay lúi húi xếp một nắm cơm, và một bát rau muống già nấu, đen xì. Nhìn bát rau muống, tôi thật là mừng. Hàng tuần nay, ruột sót như cào. Không có một tí rau nào, chỉ ăn cơm với muối. Nhưng muối cũng không đủ. Vậy mà mỗi bữa cơm, tôi vẫn gắng ăn dè ra, thường để giành được…..mươi hạt muối! Từ đó cho đến bữa cơm kế, 24 tiếng, cứ khoảng hai tiếng tôi lại lấy một hạt muối cho vào mồm. Những lúc đó, một mâu thuẫn đã xảy ra, trong nội tại sự việc: một đằng muốn hạt muối ngấm tỏa ra nhiều mùi thơm ngon; đàng khác lại muốn đừng tan nhanh quá. Mâu thuẫn này luôn luôn không thể giải quyết được. Được phía này thì mất phía kia.
Anh hình sự quả là cũng quái. Đúng lúc một tên cán bộ nào đó ở phía trên đi qua, hỏi tên Kế cái gì đó, Kế vừa ngửng lên chỉ trỏ nói chuyện, ở dưới này, anh hình sự tươi mặt nhìn tôi khẽ nói:
- Anh có biết anh em tù ở trên ca ngợi hành động can trường của anh lắm. Họ còn biết anh từ miền Nam ra hoạt động ở Hà Nội nữa. Chúng em có người được đi dọn rửa phân buồng ấy về nói là anh đánh nó phọt cứt ra.
Vừa lúc ấy tên Kế hết nói chuyện, và lại cúi đưa mắt nhìn xuống dưới, tôi không thể nói được lời cám ơn anh em có nhã ý với mình. Tuy vậy, tự trong lòng, tôi cũng thấy dâng lên nhè nhẹ một niềm an ủi; thêm nguồn sống phấn khởi; nhưng lại cũng xen lẫn một chút bâng khuâng man mác buồn. Sự việc thất bại. Bây giờ, tôi đang sống dở, chết dở ở nhà mồ này; và sau này, chắc chắn trong hồ sơ có vết “trốn tù”, “đánh cán bộ”. Như thế, chẳng bao giờ tôi được “hưởng” sự rộng rãi cả. Nếu hôm ấy, tôi thành công! Chúng chỉ còn biết một tù nhân đã bí mật biến mất, trước bao nhiêu hàng rào canh phòng. Nhưng thôi, nghĩ làm gì những chuyện “nồi canh đã bể” ấy, chỉ càng thêm buồn, thêm tiếc!.....
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 10:04 PM
Post #54


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Năm Mươi Hai

Cái Chết Của Một Người Tù… Linh Mục?...

Lúc này, trời đã lành lạnh, một vài hơi heo may đã lò dò về sớm. Không có quần áo thay, dù vậy, tôi vẫn cởi bộ quần áo ra vò mạnh cho đỡ tanh, thối. Cúi vào vòi nước, tôi xoa, cào mấy cái cho bong ít vảy ghét. Cả cái bắp đùi của tôi bây giờ chỉ vừa một chít tay với 3 đốt ngón tay. Hai cái xương phía ngoài đấu gối, trông như hai cái đầu con bọ ngựa ngọ nguậy, ngút ngắc, lúc tôi đứng lên ngồi xuống. Tôi gãi hai mông đít, chả thấy những đầu xương nhọn hoắt. Bao nhiêu công việc, tôi phải làm vội vàng, vì chỉ có 15 phút. Nhưng, có lẽ tên Kế thấy tôi nỗ lực với cuộc sống, cho nên đã để cho tôi hơn 20 phút.
Sau khi tôi dùng tay, ăn và húp hết bát canh, còn nắm cơm, tôi mang vào. Cho họ cùm xong mới ăn, vì hết giờ rồi. Cùm, xích xong, và khi cửa buồng sập xuống, những bước chân đi dần vào phía trong.
Tôi cũng cố gắng lắng nghe qua những âm thanh để có thể phán đoán chút gì, về người phía bên trong được không. Có tiếng mở khóa và kéo cửa lên, nhưng đợi mãi, không nghe tiếng chân ra ngoài đổ bô và rửa ráy. Im lìm một lúc, rồi nghe tiếng sập cửa và khóa, những tiếng bước chân sền sệt nhỏ dần lên phía cửa “cát xô”. Đã quá nhiều lần tôi gọi buống phía trong rồi, nhưng không hiểu tại sao người trong ấy, không lên tiếng trả lời. Hôm nay, tôi cũng chả muốn gọi nữa!
Tôi thấy lạnh run lên, dù tôi đã cố sức vắt khô quần áo, nhưng tôi vẫn run. Thật chẳng có cái dại nào giống cái dại nào. Lần sau, thà chịu bẩn, chịu cứt đái, chứ chả dám giặt nữa. Phải ăn cơm ngay, để có chút “ca lô ri” chống lạnh, tôi run lắm rồi!
Trong ánh sáng mờ mờ của căn hầm, khi tôi bẻ nắm cơm ra, mũi tôi thoáng ngửi một mùi đặc biệt, làm nước miếng của tôi rào rào chảy ra đầy mồm. Tôi nhìn ở giữa nắm cơm: một mầu nâu nâu, đen đen, trăng trắng. Thì ra một miếng thịt heo vuông mỗi bề độ 3 phân, dầy độ 5 ly. Ôi chao! Sao tôi lại có cái diễm phúc thần tiên như thế này?
Tôi đã biết, ở trong Hỏa Lò, thịt là cả một vấn đề. Một năm, cũng chỉ 3, 4 bữa là cùng, mỗi bữa chỉ được 2 miếng con con bằng hai đốt ngón tay. Hỏa Lò là trại giam của Thủ Đô Hà Nội, bộ mặt của cả nước, có nhiều
khách quốc tế, và các “vị” lãnh đạo tối cao của xã hội chủ nghĩa tới lui, mới được hưởng cái “đặc ân” đó.
Hôm nay là ngày gì đâu mà Hỏa Lò có thịt!? Vậy, đây chỉ là của cán bộ, và do tài ba nhập nhằng thế nào đấy của anh bếp tù hình sự, để gọi là một chút giúp đỡ cho người, họ có thiện cảm.
Tôi hơi lặng người đi vì xúc động, trước một việc làm cao cả của một người có tâm hồn, lấy nghĩa khí để xử thế, đôi khi tiền không mua được. Thực vậy, nếu vì lý do nào đó bị phát giác, không những mất “nồi cơm”, nghĩa là mất chân béo bở ở nhà bếp, phải trở về buồng giam, để tiếp tục những ngày đói triền miên ở trong tù. Hồ sơ còn bị ghi vết xấu, sau này đi trại nào, cũng khó lòng có cơ hội nhận lãnh những “chân” béo bở nữa. Ngoài ra, có khi còn bị kỷ luật, bị cùm ở trại chung. Phải nói, đây là một việc làm tôi suốt đời, không quên.
Chỉ vì miếng thịt, dù tôi chưa ăn, chỉ mới ăn cơm, tôi đã quên bẵng đi mọi việc chung quanh. Người hết lạnh lúc nào, ngừng run lúc nào, tôi cũng không hay. Ngay bộ quần áo, cũng đã khô ráo rồi!
Bây giờ tôi nằm xuống, cầm miếng thịt hà hít cho nó sướng cái đã, rồi tôi bắt đầu nhẹ cắn một miếng. Tôi bảo đảm, tất cả các tế bào trong cơ thể của tôi đều như đứng bật dậy, cùng nhún nhẩy, đong đưa để đón nhận hương vị của miếng thịt. Tôi vừa nhai, vừa nghe tiếng róc rách, của những giòng nước thơm thơm, ngầy ngậy từ từ chảy ngấm vào con tì, con vị của mình. Đầu óc tôi cứ lâng lâng, miên man bâng khuâng! Xin cảm tạ đấng Tạo Hóa! Tại sao lại có lòng ưu ái đối với thế nhân đến như vậy? Ngài đã ban cho con người một thứ vưu vật tuyệt vời, mà không phải ai cũng được hưởng hết cái giá trị của nó…..
Những ngày hôm sau, tôi nhìn nắm cơm, tuy trông bề ngoài cũng như mọi khi, nhưng khi bẻ ăn, thấy rắn chắc khác thường. Phải nói, lượng cơm gần như gấp rưỡi, nhưng được nắm lại thật chặt để trông vẫn như thường. Cũng vì vậy, cơ thể tôi có thêm sức để chịu đựng. Trước dây, tôi chỉ mừng là có được một người tù thông cảm với hoàn cảnh của mình, nên đã tận tình giúp đỡ. Nhưng một đêm, tôi chợt nhận thấy, ý nghĩa của vấn đề còn to lớn hơn. Ở đây, người giúp đỡ tôi, anh ấy nói có nhiều người khác biết. Vậy, đây là quần chúng! Không bị tuyên truyền, không bị lừa lọc, bịp bợm. Bằng thực tiễn và thời gian, quần chúng đã tự hiểu, và tự nguyện giúp đỡ một người bị bọn cường quyền hành hạ. Như thế, việc tôi làm, đường tôi đi, càng ngày càng được sự thương yêu, đùm bọc của quần chúng. Điều đó là một cứu cánh quyết định, giúp tôi vượt qua nhiều gian khổ, trên đường đi tới sau này.
Dần dần, tôi càng ít nghe thấy những tiếng rọt rẹt của xích sắt, phía bên trong hơn. Cả những tiếng rên và tiềng rầm rì như tiếng tụng kinh, đã quen thuộc lâu ngày.
Đến ngày thứ Bảy tuần đó, sau khi nhận cơm và nước, tôi quen lệ như mọi lần, chờ nghe điệp khúc của điệu nhạc “cho tù ăn” trỗi lên. Tôi chỉ nghe đến “khúc” kéo cửa sắt lên, rồi…..ngừng bặt, ngắt quãng, thay vào đó là tiếng bước chân hấp tấp của anh tù hình sự đi trở ra. Qua khỏi chuồng của tôi, một giọng nói to lẫn trong tiếng thở hổn hển:
- Báo cáo cán bộ, buồng phía trong đã chết tự bao giờ rồi!
Tiếng bước chân dồn dập đi vào phía trong. Một lúc, rồi tiếng sền sệt chạy trở ra và nhỏ dần về phía cửa “cát xô”.
Qua sự phán đoán của tôi, anh hình sự vẫn còn đang đứng đợi chờ trên bực hầm. Đây là trường hợp hi hữu, bất ngờ. Tôi đã có chủ định từ mấy hôm nay, vì vậy gặp dịp không thể bỏ lỡ, tôi vờ ho lên một tiếng, rồi kêu bâng quơ:
- Đau bụng quá trời ơi!
Tiếng bước chân đi nhanh xuống, giọng nhỏ nhẹ hỏi:
- Anh làm sao đấy?!...
Chủ động, ý của tôi là cố tìm cách để biết tên anh tù hình sự, và về người ở buồng phía trong. Vì vậy, tôi hỏi ngay, giọng như thì thào:
- Tôi mong muốn được biết tên bạn?
- Em tên Minh. Còn anh?
- Đặng Chí Bình…..Người vừa chết ở phía trong, Minh có biết là ai không?
- Ông ấy là linh mục.
Tôi thoáng giật mình, hỏi gấp:
- Tên gì?
- Em không biết!
- Linh mục có điếc, hay câm không?
- Không câm, không điếc,nhưng không nói với ai từ ngày bị bắt, nên họ mới cho vào “cát xô”.
- Lâu chưa?.....
Giữa lúc đó, có tiếng người xa xa, anh Minh lẹ chân chạy ngay lên phía trên bậc hầm.
Bốn, năm người đi qua chuồng của tôi. Tiếng rút chốt cùm. Tiếng mở khóa xích sắt rủng rẻng. Lịch kịch một lúc, rồi những tiếng bước chân nặng chịch vì phải khênh, kéo một thân người ngang qua chuồng tôi.
Một mùi thịt người chết lâu ngày nồng nặc. Mùi đó quạt vào mũi làm tôi bỗng chợt nhớ lại một hình ảnh của quá khứ, ở nghĩa địa Đô Thành, Sài Gòn, ngày 13-14 tháng 11 năm 1960 – Ngày binh biến 11/11/1960 của miền Nam. Hôm đó, tôi theo giòng người vào nhà xác trong nghĩa địa Đô Thành, vừa để thỏa tính tò mò, vừa để xem, biết đâu, lại chả có người quen, mình biết để về báo cho gia đình họ hay. Bao nhiêu dẫy xác chết. Có những xác phình to tướng như xác người ngoại quốc. Có cái lòi ruột, cái mất đầu, có cái chỉ còn….chiếc cẳng chân dính toòng teng một cục thịt lầy nhầy mấy đoạn ruột…..Đặc biệt, một mùi khăn khẳn, tanh tanh, ngai ngái từ những chỗ thịt đã thối nồng nặc bao trùm cả một vùng chung quanh.
Người nào vào, cũng có chiếc khăn bịt mũi, vậy mà vẫn vang lên đây đó tiếng nôn ọe, lẫn với tiếng gào, khóc của thân nhân, khi đã nhìn thấy xác của người nhà. Thậm chí, tôi đã rời xa nghĩa địa hàng nửa cây số, thế mà vẫn còn ngữi thấy cái mùi đặc biệt đó. Rồi hôm nay, mũi tôi lại ngửi thấy mùi thịt người chết lâu ngày này, khiến tôi nhớ đến những cảnh đời trong một thời gian khác, ở một không gian khác của Tổ Quốc Việt Nam nhiều nghiệt ngã cay đắng, đó là miền Nam thân yêu, mãi tít xa vời vợi.
Nghe qua âm thanh, tôi hiểu chúng đã khiêng người chết lên trên đồi; cửa “cát xô” đã đóng, mà sao mùi xú uế của tử khí còn nồng nặc căn hầm.
Chừng nửa giờ sau, cửa “cát xô” lại mở. Nghe tiếng bước chân, tôi biết có hai người đi xuống. Rồi một người đi trở lên. Một lúc, tôi nghe tiếng quét dọn, rồi tiếng phì phì nôn ọe. Tôi hiểu đó là tiếng của anh nhà bếp hình sự. Tiếng mở vòi nước chảy ồ ồ, tiếng xối nước ào ào. Đột nhiên, giọng anh Minh nói như thầm thì:
- Mọi khi, họ để vào nhà xác, đêm mới mang đi chôn. Hôm nay, phải đem đi ngay rồi, vì thối quá!
- Chết từ bao giờ mà mùi kinh thế!
- Mới đêm qua. Nhưng, vì cái chân ông ta bị lở loét thối và có bọ nửa tháng nay rồi. Hàng ngày giòi bọ, bò lổm nhổm ra cả ngoài nền này.
Thảo nào, cái mũi tôi đã không lầm khi ngửi thấy mùi thịt chết nhiều ngày. Thấy anh nói có vẻ tự nhiên như không có cán bộ, dù vậy, tôi vẫn chưa yên tâm nên hỏi:
- Cán bộ đâu?
- Không chịu nổi hôi thối, ông ta trèo lên cửa “cát xô” rồi.
- Minh họ gì?
- Lê, Lê Hoàng Minh!
- Ông Linh mục bị bắt từ bao giờ?
- Em không rõ, chỉ biết vào “cát xô” hai tháng nay.
- Ông ta chừng bao nhiêu tuổi?
- Khoảng 40, 45. Ông ấy bị chết vì cái chân gần đứt rơi ra ở trong cùm, trông thấy cả ống xương chân trắng hếu, rất nhiều giòi bọ.
Đột nhiên, một giọng miền Nam quát vang lên từ phía cửa “cát xô”:
- Xong chưa? Làm gì lâu thế!?...
Tiếng anh Minh vội vàng:
- Báo cáo, xong ngay đây ạ!
Vừa báo cáo, anh vừa hấp tấp đi lên.
Cửa “cát xô” đóng rồi, lòng tôi vẫn vơi đầy với vị Linh mục nào đó. Tại sao người không nói chuyện với tôi? Nếu tôi biết từ trước người là Linh mục, tôi đã có cách để nói chuyện với người. Biết đâu, vừa biết rỏ về người, may ra cổ vũ tinh thần cho người, người lại….chưa chết. Tôi hiểu,
có những nhân vật lỗi lạc về nhiều khía cạnh trong cuộc đời, nhưng khi gặp thế cùng, lại quên đi những điều sơ đẳng nhất.
Đêm hôm đó, tôi tự dưng thấy rợn người mấy lần, vì dưới nhà…..mồ, bây giờ còn mỗi mình tôi. Thỉnh thoảng, nghe những tiếng lịch kịch phía bên trong, tôi cũng thấy nổi gai ốc lên. Nhất là, mùi khăn khẳn vẫn chưa tan hết dưới hầm. Nhưng, chợt một ý nghĩ dấy lên trong đầu làm tôi yên lòng, bớt thấp thỏm khi nghe những âm thanh lạ trong đêm trường:”Dứt khoát chẳng làm quái gì có ma! Bởi vì rất dễ hiểu, nếu có ma thực, những lũ cộng sản đã bị bóp cổ chết hết rồi, còn đâu!”.
Biết bao nhiêu chiến sĩ Quốc Gia, biết bao nhiêu những đồng bào vô tội trong cải cách ruộng đất, trong các nhà tù hiện nay…..bị lũ cộng sản tàn sát, giết hại; lòng căm hờn dâng cao như núi. Nếu chết đi thành ma, lũ cộng làm sao còn! Cũng như, bao nhiêu kẻ ác trên cõi đời này làm sao yên hưởng xa hoa trên đống xương, và máu của người khác…..?
Do những suy nghĩ như vậy, tôi không cón cảm thấy rờn rợn, nổi da gà khi nghe thấy những tiếng xọc xạch ở phía trong, lúc đêm khuya nữa. Chắc đấy chỉ là một con chuột nào đó, đi kiếm ăn đêm?...

Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 10:06 PM
Post #55


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Năm Mươi Ba

Những Tấm Lòng…Tù!...

Vì hàng ngày đôi chân thường không cử động được, cứ phải nằm yên một chỗ, ba tuần lễ nay, không lần nào tôi đứng lên được ngay, mỗi lần khi được mở cùm để ra đổ bô và tắm rửa. Tôi thường phải vịn tay vào tường đá, đứng lên ngồi xuống vài lần, rồi mới đứng lên và đi được. Cho nên, nếu không muốn trở thành một phế nhân, để càng phải chịu thêm nhiều cay đắng nữa của cuộc đời, tôi không còn cách nào khác là phải phấn đấu đến phút cuối cùng, dù ngày mai có phải chết.
Mỗi ngày ba lần, tôi dùng tay xoa nắn, chà sát, đấm bóp hai chân. Chân không tự cử động được thì phải dùng tay giúp vậy; nhưng cũng rất khó khăn, hạn chế, vì cố gắng lắm, hai tay cũng chỉ với tới quá đầu gối một chút mà thôi. Vì thế, ngày cũng như đêm, từ đầu gối trở xuống, nếu ngứa, tôi đã kiếm được một cuống chổi thanh hao, dài chừng 40 phân, để giải quyết. Tôi dùng que chổi này chọc, lách vào trong cùm, gãi chỗ nào ngứa. Có tay, mà nhiều khi như không có vậy!
Tôi nằm, miên man nghĩ ngợi, thật là may, hồng phúc cơ duyên thế nào tôi lại gặp được anh Minh đã hết lòng giúp đỡ. Mỗi ngày được thêm gần nữa suất cơm như vậy, chẳng khác nào như được tiếp máu. Tuy về vật chất nó chỉ đáp ứng nhỏ mọn; nhưng về tinh thần, lại là cả một sự tiếp cứu lớn lao. Nó đã móc, nâng tinh thần của tôi lên cao, để khỏi bị chìm nghỉm trong “lò nấu xác” của lũ quỷ đỏ thèm khát thịt người.
Trong “cát xô”, tôi không thể nằm thẳng chân thực hiện phương pháp vận công “A”, tôi vẫn thường làm ở xà lim, tôi đổi lại thành ngồi. Mỗi ngày, tôi làm ba lần: sáng, trưa và tối. Nhiều lúc, ngồi tham thiền nhập định xong, tôi nhìn hai cái chân trong cùm, hai cái tay trong xích mà buồn cười. Chẳng biết những vị cao nhân trong võ lâm lúc ngồi điều khí vận công, mà chân tay bị xích, có tập luyện được không? Tôi chưa được đọc thấy một tác phẩm nào có nhân vật bị cùm xích, mà tập được võ công cả. Vì bị cùm và xích, làm sao tập theo được những thế võ trong bí kíp!?.....
Hôm nay là ngày thứ 34 ở “cát xô”. Dù tôi đã nỗ lực phấn đấu hết sức mình để tồn tại; dù được sự hà hơi tiếp sức của anh Minh; đến nay, hai cái chân tôi đã phù to lên. Phù này khác với cước vì lạnh trước đây. Phù bây giờ một phần là do thiếu chất dinh dưỡng lâu ngày; nhưng, phần chính là do hai cái chân không cử động được, hầu như ngày nào cũng như ngày
nào, cứ đặt yên một chỗ. Nhìn đôi bàn chân sưng phù, tôi thật nản lòng. Bao nhiêu công tập luyện từ hôm vào nhà hầm, đều trôi cuốn theo giòng nước lũ. Một điều khác làm tôi nản hơn là, người đưa cơm hôm nay lạ, không phải là anh Minh nữa; mà là một anh hình sự khác, có đôi mắt ngờ nghệch chậm chạp.
Tôi băn khoăn nóng ruột, muốn hỏi người đưa cơm này về anh Minh. Nhưng, phần vì thái độ của anh như vô tình, lơ đãng và lạnh lùng như một cái máy cử động vậy. Phần khác, những tên công an thường theo sát, đứng ngay bên cạnh, nhìn và sai anh hình sự làm, nên tôi không làm sao thực hiện được ý định đó. Có thể vì anh hình sự này mới, công an phải chỉ bảo và thử thách. Cũng có thể vì “cát xô” bây giờ chỉ có mình tôi. Tôi lại cố gắng giữ gìn vệ sinh, cho nên cái “cát xô” đã bớt hôi thối, (những lúc tắm rửa, tôi miệt mài năn nỉ, xin thêm từng xô nước để dội chỗ nằm). Tên cán bộ nào cũng vào đứng sát chuồng của tôi, khi cho ăn cơm. Không còn cảnh bịt mồm, chỗ nước bọt như mọi khi.
Ngẫm chuyện đời, tôi thấy là bất kể chuyện gì, việc gì cũng đều có hai mặt mâu thuẫn, đối kháng nhau: Lợi và hại. Chỉ có tỷ lệ, mức độ chênh lệch nhiều hay ít. Sự việc lợi nhất, cũng có cái hại của nó. Ngược lại, điều xấu tệ hại nhất, cũng có cái lợi của nó. Tôi cố giữ gìn vệ sinh cho nhà hầm đỡ hôi thối, như vậy là lợi cho sức khỏe, rất đáng làm; nhưng, bị điều bất lợi như đã trình bầy ở trên. Vì thế, nếu xét một việc mà chưa thấy những mặt mâu thuẫn, là vì ta chưa mổ xẻ, phân tích kỹ mà thôi.
Bây giờ, nắm cơm hàng ngày lại nhỏ như trước, khi chưa có sự giúp đỡ của anh Minh. Nghĩa là chỉ còn được khoảng 2 bát cơm con.
Tôi đợi mãi, rồi cũng tới ngày thứ Hai, ngày tắm rửa. Hôm nay lại là ngày lão Kim già trực. Từ sau ngày tôi đánh lừa y để tự tử, hễ nhìn thấy tôi đâu, là lão lại quắc mắt lên giận dữ. Câu chuyện đã 5, 6 tháng rồi, và cũng đã 3, 4 tháng nay tôi không gặp lão. Vì vậy, khi lão cúi đầu vào quát bảo, tôi đưa tay cho lão mở khóa xích. Nhìn thấy tôi, mắt lão chớp chớp sau gọng kính trắng, vẻ hơi ngỡ ngàng. Tôi hiểu là lão còn căm ghét tôi nhiều, cho nên tôi cố tránh không nhìn lão. Tôi phải bò ra, vì hai chân không thể đứng lên nổi nữa. Tôi cố tập đứng lên, ngồi xuống vài lần như mọi khi, nhưng vừa buốt vừa run rẩy, lại phải ngồi bệt xuống. Trong khi tên hình sự đưa cơm đang ngồi ghệ ở một bậc đá, gần cửa “cát xô” chờ tôi đổ bô và tắm rửa, đột nhiên, lão già Kim hỏi tôi:
- Anh ở “cát xô” bao nhiêu ngày rồi?
- Báo cáo “cụ” (ai cũng gọi lão như vậy, vì lão đã trên 60 tuổi rồi), hôm nay là ngày thứ 42 ạ!
Tôi trả lời trong hơi thở hổn hển vì mệt. Qua thái độ và cách lão hỏi tôi, tôi cảm nhận hình như lão không ghét tôi nhiều lắm! Nhìn tôi bò ra phía vòi nước một cách vất vả, vì phải mang theo cái bô phân và nước tiểu. Tự nhiên, lão mắng tôi một câu:
- Anh như con thú ấy, có chịu nằm yên đâu!
Tôi chẳng buồn nói năng chi, vì đang phải nghiến răng chịu đựng cái rát, buốt khi bàn chân nết trên nền đá. Tôi cứ phải nhắc cái bô đặt một chỗ với sức vươn tối đa, rồi lại bò, cứ như vậy cho đến chỗ cống đổ phân. Tôi chỉ rửa ráy qua loa, rồi lại hì hục bò về chuồng như mọi khi. Tôi ngồi húp và ăn bát canh rau muống trước, còn nắm cơm sẽ mang vào trong buồng mới ăn. Nguyên tắc, một tuần chỉ được mở cùm, để đổ bô và tắm rửa trong 15 phút, thế mà hôm nay, lão Kim để cho đến 30 phút.
Từ đấy, tôi càng thấy bản chất của một con người, hầu như không thể thay đổi được. Có chăng, chỉ là sự che đậy bên ngoài, vì một lý do nào đó của cuộc sống mà thôi.
Lúc khóa, xích tay tôi lão lại hỏi nữa:
- Lúc đưa anh vào “cát xô”, cán bộ có tuyên bố bao nhiêu ngày không?
- Báo cáo cụ, không!
Vì không có dịp thuận tiện nào, nên điều cứ thắc mắc trong lòng tôi là, tôi muốn hỏi anh bếp mới về anh Minh giờ ra sao, đã không thực hiện được.
Bốn ngày sau, vào một buổi sáng thứ Sáu, tôi đang nằm băn khoăn về hai cái chân mình (tôi không còn cách nào để phấn đấu luyện tập nữa), đành chịu cho đôi chân mình đi đến chỗ có thể bị liệt. Nắm cơm quá ít, chỉ đủ để ăn không chết, chứ không còn sức để cử động tay chân, Tôi thấy, nếu trước đây không được anh Minh giúp đỡ, tôi đã nằm liệt lâu rồi, và chưa biết những chuyện đau buồn gì đã xảy ra. Bỗng, tôi nghe tiếng lẻng xẻng của chìa khóa, tiếng lịch kịch của cánh cửa hầm “cát xô” mở. Tôi ngạc nhiên, mở mắt ra nghe ngóng. Bây giờ mới khoảng 8 rưỡi, 9 giờ, đâu đã phải giờ cho ăn cơm? Hay lại có một đồng cảnh nữa mới vào? Tôi muốn bò dậy để xem chuyện gì? Nhưng, không ngờ là sức tôi bây giờ không đủ để ngồi dậy nữa!
Tiếng chìa khóa mở chuồng của tôi. Rồi cửa được kéo lên. Tên Đại, cán bộ văn thư (làm ở văn phòng) nhìn tôi, rồi quát:
- Bò dậy! Đưa tay ra đây để mở xích!
Tôi cố chống tay, mấy lần vẫn không bò dậy được. Chỉ vì hai sợi dây xích không đủ dài để chống hai tay xuống nền. Mọi khi, tôi thường phải dùng thêm sức kéo của tay, rồi lấy thế ngồi lên. Bây giờ, người tôi rã rượi, như không còn một tí hơi sức nào.
Thấy tôi xoay sở, cố gắng nhưng không thể ngồi dậy được, tên Đại đành phải cúi đầu vào để mở hai cái khóa ở đầu dây xích. Rồi, y ra ngoài rút chốt cùm.
Hai tay được tự do, không phải mang sức nặng của sợi dây xích, tôi chống tay bò dậy, thế mà cũng phải mấy lần mới ngồi lên được. Hai mắt hoa lên, quay cuồng, tôi phải cố như lấy gân cả hai tay, mới nâng cho cái cùm há mồm lên, để lấy đôi chân ra. Đôi chân tôi bây giờ sưng húp lên cả mắt cá. Hai bàn chân to tướng với mấy khúc xương tong teo nhăn nhúm, xám xịt, như hai chiếc đũa cắm vào hai củ khoai lang luộc vậy.
Tôi cố bò ra khỏi buồng. Y nhìn thân hình của tôi một lúc, rồi dịu giọng:
- Cho anh ra rửa ráy, rồi vào viết kiểm điểm.
Vừa nói, y vừa chỉ mấy tờ giấy, cái bút và lọ mực đang để trên bậc đá, lối lên cửa hầm “cát xô”.
Thật là lạ lùng, mắt của tôi nhìn ngay y, cũng không rõ nữa. Hình ảnh một tên mặc quần áo màu vàng, mồm đang quàng một cái khẩu trang màu trắng trông cũng rất lờ mờ. Tôi lại càng lo sợ, không hiểu vì sao mắt mình lại như vậy. Phải chăng, vì ở rong chỗ mờ tối quá lâu (gần hai tháng trời), mắt luôn luôn phải điều tiết căng thẳng, hay vì mấy năm nay ăn uống đói khát và thiếu chất dinh dưỡng? Có lẽ vì hai lý do. Tôi nghiến răng, kéo “hai củ khoai lang luộc” về chỗ vòi nước rửa hai con mắt xem thế nào.
Trời đã vào Thu nên nước bắt đầu lạnh. Tôi vuốt, dụi, rửa hai con mắt, nhưng vẫn không thấy sáng hơn. Tôi bò lại chỗ để mấy tờ giấy và lọ mực.
Đầu tiên, tôi viết chữ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”. Do cái tay quen viết theo tay; mắt tôi chỉ thấy những nét ngoằn ngoèo, đen đen mờ mờ trên giấy trắng, không đọc rõ được nét chữ. Tôi quay lại y:
- Thưa ông, tôi chả nhìn thấy chữ tôi viết!
Y ngạc nhiên, lại gần tôi nhìn. Có thể y thấy thái độ khổ tâm của tôi vì đôi mắt như vậy, nên y bật cả hai cái đèn trong hầm “cát xô”, y lại trèo lên những bậc đá tới của hầm “cát xô”, mở phanh to cho ánh sáng ở trên chiếu vào. Căn hầm đã sáng hẳn ra, nhưng mắt tôi nhìn chữ viết vẫn chưa rõ hẳn, vì vậy tôi bỏ bút xuống, nói với y:
- Thưa ông, hiện giờ mắt tôi không nhìn rõ chữ viết. Vậy, để mai kia xem mắt tôi có nhìn thấy, tôi mới viết được. Hơn nữa, lúc này tôi mệt lắm, tôi không biết viết gì!?.....
- Được! Sau này anh sẽ viết chi tiết. Còn bây giờ, theo nguyên tắc, anh phải viết mấy giòng ngắn gọn: “Xin nhận hoàn toàn khuyết điểm, sai lầm. Xin cam đoan không bao giờ tái phạm”.
Thấy y nói như vậy, tôi cũng cố gắng viết đại theo lời y nói, dù tôi chả nhìn thấy rõ. Tôi cũng viết 3, 4 giòng, ký tên, rồi đưa cho y. Lúc đó mới khoảng 10 giờ, y cầm tờ giấy tôi viết, xem qua, rồi hất tay ra hiệu bảo tôi chui vào chuồng:
- Hãy đi vào buồng, tạm cho anh nghỉ cùm và xích!
Được lời như cởi tấm lòng, tôi bò vào chuồng có vẻ nhanh hơn lúc tôi bò ra. Cửa chuồng đã đóng, và cửa “cát xô” cũng đã khóa. Tôi loay hoay tìm thế nằm ngửa, gối đầu lên cùm sắt, giơ hai chân thẳng lên, rồi co lại. Dần dần, làm được! Mệt, tôi nghỉ, hết mệt, tôi lại tiếp tục làm.
Theo suy lý của tôi, hai cái chân bị phù toàn là nước ở bên trong, bây giờ giơ ngược lên nhiều lần, nước dần dần sẽ phải rút xuống cơ thể.
Trưa hôm đó, một cán bộ lạ coi trại chung dẫn anh hình sự vào cho tôi ăn cơm. Ăn xong, tôi lại tiếp tục tập. Thực ra cơ thể tôi lúc này, chỗ nào cũng cần tập, nhưng trong điều kiện tối ưu tiên, phải dành cho hai chân đã. Nghĩa là dồn hết sức của cơ thể để tập cho hai chân. Chẳng hiểu sự suy lý của tôi có đúng hay không, hay vì lý do gì khác mà tôi không biết. Điều trông thấy, cũng như sờ thấy là hai bàn chân tôi, mà tôi gọi là “hai củ khoai lang luộc”, chỉ có một đêm với nửa ngày tập, đã rút được đến hai phần mười.
Tôi càng cảm thấy được khích lệ, sáng hôm sau, tôi lại tiếp tục nỗ lực tập nữa. Nhất là đêm vừa rồi lại không bị cùm, xích, tôi cảm thấy tay chân tự do, thoải mái nhẹ tênh tênh, muốn để tay đâu, muốn để chân đâu, tùy theo ý mình. Hỡi tự do! Mi là thiên thần của loài người! Nhưng không phải ai cũng đưọc mi tới thăm. Tuy được tha cùm và xích tay, nhưng tâm tư tôi vẫn thấp thỏm không yên. Thoáng nghe tiếng động cửa lại giật mình lo sợ cán bộ vào cùm, xích lại. Lúc cán bộ vào cho ăn cơm, tôi ngồi nhai miếng cơm, nhưng mắt vẫn theo dõi thái độ của y, sợ bất chợt y bảo bỏ chân vào cùm, bỏ tay vào xích. Thật, nhiều lúc tủi hận cho một kiếp người, chẳng khác gì một con chó! Nhưng, tôi nghĩ rằng con chó không thể ý thức sự cùm xích bằng tôi. Nó làm sao cảm thấy tủi hận, uất hờn, dày vò, cấu xé trái tim đã rướm máu bầm đen như tôi.
Tạo hóa sinh ra loài người là sinh vật cao quý nhất, nhưng, cũng là sinh vật đểu giả, nham hiểm, tàn ác nhất!.....



Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 10:09 PM
Post #56


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Năm Mươi Bốn

Tìm Được Cố Vật… Không Gặp… Cố Nhân!...

Chiều hôm đó, vào khoảng sau giờ tan tầm được một lúc, cửa “cát xô” lại mở. Tên Đại vào mở cửa chuồng tôi, ra hiệu bảo tôi chui ra ngoài. Khi thấy tôi chui ra khỏi chuồng, y đứng chụm hai chân lại, người thẳng dưỡn lên, nét mặt ra vẻ hết sức nghiêm trang:
- Thừa lệnh Ban Giám Thị, tôi tuyên bố anh được tha ở “cát xô”, trở về xà lim, cùm một chân!
Nhìn y đứng cứng ngắc, hai mắt nhìn thẳng lên cửa hầm “cát xô”, hai môi mím chặt, trông cả đẫn một cục to tướng, nhưng tôi cũng không cười được. Bởi vì, tiếng sáo “Cầu Sông Kwai” đang trỗi dậy trong lòng tôi như chào mừng dứt điểm “cát xô”, trở về hay trở lên trần thế với xã hội loài người.
Sau khi tuyên bố xong, y ra hiệu tay cho tôi bò lên cửa “cát xô”. Dù trong lòng, điệu sáo mê hồn vẫn lả lơi, nhảy múa; nhưng tôi vẫn chưa đi được. Hai bàn chân vẫn nặng chịch, nhức buốt. Chắc rằng ban giám thị cũng hiểu như vậy, nên chúng đợi cho tới khi trại chung vào hết rồi, mới mở “cát xô” cho tôi bò ra. Hai đầu gối chỉ là hai cục xương, nghiến xuống đá và xi măng đau quá! Tôi cố bò lên khỏi lỗ hầm, rồi nằm vật ra, không bò được nữa. Hai đầu gối đã rướm máu.
Tên Đại cũng nhìn thấy vậy, y lúng túng không biết phải giải quyết thế nào. Giữa lúc đó, tên Trì, Phó Giám Thị, cùng một tên cán bộ nữa đang từ cổng trại chung đi vào. Y đến bên cạnh tôi, nhìn tôi đang nằm ngửa thở, y liếc đôi chân tôi một lúc, rồi quay sang nói với tên Đại như ra lệnh:
- Đồng chí xuống trại thợ, gọi một tên thằng lên cõng nó về xà lim!
Tên Đại hấp tấp đi ngay! Tên Trì cứ nhìn đôi bàn chân của tôi, đầu y gật gật. Rồi nhìn tôi, môi trên y nhếch cong lên, để lộ mấy cái răng hô đầy cáu ghét ra ngoài:
- Anh chịu đựng tốt hỉ?
Tôi im lặng như không nghe y nói gì. Trong khi ấy, tên Đại và một anh tù từ phía nhà bếp đi lên. Khi tới cạnh tôi, tên Đại nói với anh tù như quát, tay chỉ về phía cuối sân:
- Cõng tên này về phía kia!
Anh tù, chắc là hình sự, chừng 30 tuổi, mập, lùn, da bánh mật, mặc chiếc quần đùi nâu đã vá hai miếng ở mông, với chiếc áo trại nhiều vết dầu mỡ đen xì. Anh cố ý nương nhẹ, đỡ hai tay cho tôi ngồi dậy, rồi nâng tôi đứng lên, nghiêng vai nói nhẹ, giọng miền Nam đã pha Bắc:
- Anh ôm cổ tôi!
Anh cõng tôi đi trước, tên Đại cầm chùm chìa khóa lẻng kẻng theo sau.
Kể từ ngày tôi vào “cát xô” tới hôm nay, là 47 ngày; nhưng nếu kể cả những ngày nằm ở bệnh xá, thì gần hai tháng. Mới chỉ hai tháng, không khí cũng như quang cảnh sân trại chung đã thay đổi, khác lạ hẳn xưa. Rải rác chung quanh cái sân trại rộng lớn là những lỗ “tăng xê” cá nhân, màu đất mới vàng au, từng đống đây đó. Bốn chiếc loa to ở cái chòi giữa sân Hỏa Lò, đang lải nhải chữ Mỹ khiêu chiến, tạo nên vụ Vịnh Bắc Bộ với chiếc tàu Maddox. Những bài nói chuyện, cũng như những thông cáo của những tên lãnh đạo miền Bắc khích lệ, cổ vũ, hô hào quân cũng như dân miền Bắc chuẩn bị chiến tranh. Nào là…..các quân binh chủng tăng cường luyện tập, bố trí công sự, hầm hố, chuẩn bị nhiều phương án tác chiến. Đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống, v.v…Nào là, động viên người và của, chuẩn bị cho chiến tranh lớn…Nào là, ra lệnh và hô hào quần chúng, nhân dân Hà Nội, các trường học, bệnh viện, mọi cơ sở sản xuất không cần thiết cho chiến đấu đều phải di tản, sơ tán khỏi Hà Nội, v.v…
Lúc này máy bay Mỹ đã bắn phá thị xã Đồng Hới và Hòn Gay. Không khí sôi nổi và căng thẳng của chiến tranh, tràn ứ khung trời Hà Nội. Khi anh tù hình sự cõng tôi đến cổng xà lim I, tên Đại đẩy cánh cổng, ra hiệu cho anh tù cõng tôi vào.
Trời! Sân xà lim đầy những lá bàng, và bao nhiêu là quả! Tôi ngước nhìn lên cành bàng, cả cây bàng trĩu trái xanh, vàng, hồng lẫn trong màu lá xanh. Từng chiếc lá úa vàng, lốm đốm những chấm hồng, đỏ lả lơi rời cành đang dẫy dọn quay cuồng trong gió để trở về cội. Thỉnh thoảng, những tiếng lộp độp đây đó của những quả bàng, đã chín vàng cũng rùng mình lìa cành lao về với đất. Tất cả tạo thành một bức tranh đầy mầu sắc của trời Thu.
Ngay trên chạng ba của cây bàng, một chiếc loa mới gắn chỉa thẳng vào xà lim. Từ nay, tôi lại điếc tai với “con mụ lắm mồm”, loại chửi thuê ở bến xe, xó chợ.
Khi qua sân, trong lúc chờ tên Đại loay hoay mở ngăn kéo, lấy chùm chìa khóa của các buồng xà lim, anh tù hình sự lựa, khẽ để tôi ngồi ghệ trên hè, dựa vào tường. Tôi đưa mắt quan sát những quả bàng gần sát chân mình. Có những quả vàng ươm, chín rẽ chân chim. Một mùi thơm ngây ngất, ngon ngọt, theo từng cơn gió đẩy đầy ắp vào mũi tôi, mở toang bao nhiêu cửa tuyến, để cho nước miếng tàn đầy mồm. Mũi tôi đang cong lên để đón nhận những làn hương trong gió, đột nhiên, anh hình sự ghé vào tai tôi thì thào:
- Chúng tôi ở trại thợ, hoan nghênh anh lắm!
Tôi chỉ kịp quay lại mỉm cười và tươi ánh mắt nhìn anh nói với anh lòng thiện cảm của tôi, vì tên Đại đã đứng lên, ra hiệu cho anh tù hình sự cõng tôi vào buồng.
Thật là lạ lùng, thấy nó đưa vào gần tới buồng 6, tôi tưởng nó phải cho tôi về buồng cũ, trong đó vẫn còn một số đồ lặt vặt của tôi; nhưng lại là buồng 5, ngay buồng bên cạnh.
Khi anh hình sự cõng tôi lách vào cửa, đặt tôi lên sàn xi măng ở một bên, tên Đại cũng vào buồng ra hiệu cho anh hình sự ra ngoài. Tôi liền báo cáo ngay:
- Thưa ông, trước khi phải vào “cát sô”, tôi có chiếc chiếu và một bộ quần áo trại cũ, vỏ ba lô, cùng một số thứ lặt vặt còn để ở buồng số 6. Đề nghị ông, cho tôi xin lại, lấy cái dùng!
Y nhìn tôi, ngần ngừ một lúc, rồi sang bên buồng số 6 mở cửa. Y sai anh hình sự ôm hết các thứ của tôi sang.
Trông thấy những món đồ cũ, thật tôi thấy nở từng khúc ruột, vừa là những đồ kỷ niệm với bao nhiêu công trình, lại vừa còn cái chì mật nữa. Trong khi tôi mừng rỡ, lúi húi vơ gọn những đồ anh hình sự mang sang, tên Đại ra rút chốt cùm. Tôi tự hiểu, nên lê dần xuống phía cái cùm, nâng miếng sắt nửa trên của cái cùm cho há ra, rồi tôi phải dùng tay nâng chân để vào. Vì chân bị phù, nên lỗ cùm vừa khít, thật là chặt. Tôi rất lo lắng! Bề ngang của cái cùm rộng 8 phân là sắt, áp sát vào ống chân. Ở xà lim đã có nhiều người bị thối chân, chỉ vì chân to, cùm chặt. Thối chân ở trong này, làm gì có thuốc chữa, tất nhiên chân ấy phải hỏng, vì sẽ trở thành sâu Quảng.
Sau khi tên Đại đã khóa cửa đi rồi, tôi cố gắng vặn, xê dịch cái cổ chân. Quá chặt! Không còn cách nào khác. Chỉ còn mong sao tập tành thế nào cho chân rút phù, mới lỏng ra được. Tôi dõi mắt nhìn sang cái cùm phía sàn bên kia, với ước lượng của mắt, tôi thấy hai lổ cùm bên ấy hình như có nhỉnh hơn. Ngày mai, tôi sẽ lựa lời báo cáo với tên Chiến trực xà lim, xin cùm bên ấy.
Lại còn tên Chiến nữa. Không biết sự việc xảy ra do tôi, bây giờ nó có căm hận, ghét tôi không? Điều này, phải đợi sáng mai mới biết. Tôi chợt nhớ anh Căn buồng 12, đối diện với buồng 5 của tôi hiện giờ; rồi hai cô gái buồng số 9 nữa. Chắc rằng họ chẳng biết gì về tôi. Họ chỉ biết tự nhiên tôi đi mất. Có thể, họ cho là tôi đã được ra trại chung, hoặc đi trại trung ương rồi, chứ làm sao họ hiểu được là, vừa qua tôi đã làm một cú động trời, và đến nay, gần chết lại trở về đây?
Tôi nằm chờ 2, 3 tiếng đồng hồ, xà lim vẫn yên ắng khác thường. Tôi cảm thấy như đổi thay hết, sau gần hai tháng tôi rời xa.
Tôi cứ nằm miên man suy nghĩ, trong khi tiếng loa, bây giờ, nghe rõ mồn một. Chợt, tôi nghe chúng đề cập tới “câu chuyện cảnh giác”:…..chúng nhắc đến việc Biệt Hải miền Nam đã bí mật đột kích hòn Mê….. rồi, chúng nói đến “kế hoạch 34A” của miền Nam, cho người nhái lợi dụng những đêm tối trời, hoặc mưa gió bất ngờ đổ bộ lên những vùng ven biển. Bắt dân, hoặc cán bộ mang ra xuồng cao su rồi chạy ra tàu ở ngoài khơi, chở về Nam để khai thác tin tức tình báo.
Điều tôi muốn nói ở đây, “kế hoạch 34A” phải là một kế hoạch bí mật. Vậy sao trên đài, trên báo của cộng sản, chúng đã nói một cách công khai? Như vậy, ta thấy tình báo của cộng sản, đã phải biết kế hoạch này, ngay từ lúc chưa được thi hành. 9 giờ tối, tiếng loa đã tắt, xà lim yên ắng. Thỉnh thoảng một vài tiếng lộp bộp của những quả bàng rơi xuống sân, nghe như tiếng đập nia, xảy thóc ngày mùa. Tôi ho mấy tiếng như gọi, như chào, nhưng vắng lặng vẫn hoàn toàn vắng lặng. Quái thật! Mới 2 tháng, cảnh cũ còn đây mà người xưa đâu ta? Thấp thỏm, băn khoăn mãi, rồi cũng phải chìm dần vào giấc ngủ muộn…..

Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 10:20 PM
Post #57


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Năm Mươi Lăm

Tin tức, hay tuyên truyền bịp bợm!...

Sáng hôm sau, chưa mở mắt, tiếng đài đã léo nhéo! Dù không muốn nghe, tiếng loa vẫn cứ như chọc vào tai mình, nó độc lập với ý chí của mình. Phải nói, nhiều lúc tôi coi tiếng loa như một cái nạn phải chịu đựng vậy. Sáng hôm nay, trong một bài bình luận, tôi chợt nghe đến một ý chúng lý luận cứ như thật ấy! Rằng:
“…..Trong chế dộ tư bản mà chúng gọi là thế giới tự do, nguyên tắc sống của xã hội đó là mạnh được, yếu thua, cá lớn nuốt cá bé; cho nên, xã hội ấy tôn thờ và đề cao: Lẽ phải thuộc về sức mạnh. Nhưng, dưới chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã tỏ cho thế giới thấy tính hơn hẳn của chủ nghĩa cộng sản. Một cuộc cách mạng đổi đời từ tận gốc, đã biến đổi hẳn nguyên tắc sống của xã hội tư bản xấu xa cũ, trở thành: Sức mạnh thuộc về lẽ phải. Nghĩa là, nếu có lẽ phải, là có sức mạnh…..”
Một người dân bình thường, sống dưới chế độ chuyên chính này cũng thấy ngay, đó chỉ là lý luận bịp bợm, trái ngược hoàn toàn với thực tế của xã hội cộng sản. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hãy nhìn bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, chuyện ở trong nước, cũng như chuyện ở ngoài nước, ta thấy chúng luôn luôn, và còn nhiều lần gấp bội xã hội tư bản, lấy sức mạnh để đè bẹp lẽ phải. Như vậy mà chúng cứ bắt người phải nghe! Phải nói rằng: Nó có lý do của nó. Nó buồn cười như trên đài, trên báo thường xuyên ca ngợi, đề cao tự do. Nhưng có tìm đỏ mắt cũng không thấy có tự do thực sự trong chế độ cộng sản. Sau này, chúng ta sẽ bàn tới. Giờ hành chính đã đến, cán bộ trực xà lim đã bắt đầu mở buồng cho ra rửa ráy.
Qua cách mở cửa, và tiếng bước chân đi, tôi biết không phải tên Chiến, nhưng cũng không đoán ra là ai? Tiếng buồng 1 báo cáo xong. Rồi tiếng cán bộ quát:
- Ra đi!
À, tên Dư! Tên này là Trung Sĩ, tôi có gặp hắn vài lần trực xà lim vào ngày Chủ Nhật. Nhưng, hôm nay là ngày thường, có lẽ hắn đã trực xà lim
thay tên Chiến cũng nên. Dư có tuổi, khoảng 50, 55 người thấp bé, cũng là loại tương đối dễ tính, không quá ác ôn như nhiều tên công an khác. Đến lượt buồng tôi, vì đã có chủ ý, tôi vội vàng cố gắng nâng cái cùm, rồi rút chân ra. Mãi không thấy tôi ra, y thò cổ vào, đang định quát hỏi, tôi nói ngay:
- Báo cáo ông, tôi ở “cát xô” mới được cõng về đây chiều tối hôm qua, tôi chưa đi được.
Chỉ vết cùm hằn ép vào chân mình, tôi nói:
- Thưa cán bộ, chân tôi bị phù to quá, lỗ cùm lại nhỏ. Xin cán bộ cho tôi đổi qua cùm bên kia.
Vừa nói, tôi vừa chỉ cái cùm ở sàn bên cạnh. Y không nói năng gì cả, đóng sầm cửa lại, cũng chả thấy rút chốt cùm sàn bên. Thôi, mặc, tôi tranh thủ vịn vào sàn chậm chạp tập đi. Hai chân nặng như hai hòn đá, lại còn đau buốt như kim châm, tôi vẫn cố gắng tập đi. Nhìn hai mu bàn chân, tôi thấy điều lạ là chúng sưng to đã đành, nhưng còn tím lại như bên trong có máu bầm đen vậy. Hình như chân sưng lên vì vết thương chứ không phải phù. Các buồng khác đã đổ bô vào đều bị cùm ngay, thế mà buồng tôi không đi rửa, lại chưa bị cùm? Tôi thấy thái độ của y như vậy, tôi càng hy vọng sẽ được đổi cùm. Nghe loáng thoáng buồng 14 bị kiết lỵ ra máu, báo cáo xin thuốc từ mấy hôm trước, bữa nay y tá mới vào, tôi liền báo cáo ầm lên:
- Báo cáo ông Dư, chân tôi buốt lắm, xin ông báo y tá cho xin thuốc!...
Tiếng chân đi vào rõ dần, rồi cửa con xoạch mở:
- Anh báo cáo cái gì, làm ầm lên thế!
- Thưa ông, chân tôi tím lại buốt quá, xin y tá cho thuốc!
- Chờ đấy!
Cửa sổ nhỏ đóng rồi. Bây giờ tôi mới để ý thoáng thấy chiếc lon 3 sao nằm trên một vạch trắng, trên một miếng dạ đỏ nhỏ hình bình hành, gắn ở ve cổ áo, còn mới nguyên. Tôi lại nhớ đến, tên Đại cũng chiếc lon mới toanh. Như vậy, dịp mồng 2 tháng 9 vừa rồi, ngành công an lại cho lên lon.
Thời chiến, có nhiều tình huống mới, tụi lãnh đạo bộ chính trị phải mua chuộc phỉnh phờ tụi cán bộ cấp thấp, hạ tầng. Có thể vì mới được lên Thượng Sĩ, nên tên Dư lại càng dễ tính hơn. Mỗi tháng cũng thêm được mươi đồng.
Một lúc sau, cửa lớn mở: Bà Dậu y tá. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy bà ta dạo này gầy hẳn đi, da xạm lại, trong tay chân bà ta như con chão chàng, trắng nhờn nhợt. Trong khi đó, ngược lại, bà ta cũng mở to mắt nhìn bộ xương của tôi. Chắc hẳn bà ta cũng chẳng lạ gì chuyện trốn tù của tôi hơn hai tháng trước. Bà sờ tay vào hai mu bàn chân của tôi, dịu dàng hỏi:
- Chân anh làm sao tím lại thế?
Tôi chỉ lắc đầu, tỏ vẻ cũng không biết tại sao. Bà ta nói thong thả, chậm rãi:
- Cái này chỉ chích B1, khỏi ngay. Nhưng, B1 bây giờ rất hiếm. Tôi sẽ đề nghị cho anh ăn cơm cám một tuần.
Cuối cùng, tôi chả có thuốc gì cả, nhưng được những lời thăm hỏi, an ủi về tinh thần. Điều làm tôi hưng phấn nhất là thái độ của tên Dư, cũng như của bà Dậu, họ không có vẻ căm ghét tôi đã đánh cán bộ. Chính điều này, lúc đó, tôi chưa nhận thức được đầy đủ, nhưng đã là những yếu tố góp vào sự phân tích của tôi sau này, có phần thực tế hơn.
Khi lấy cơm vào, cũng như lúc trả bát, tôi phải bò. Tên Dư đã đóng chốt cùm phía này, và rút chốt cùm phía sàn bên kia, đổi chỗ cùm cho tôi.
Hai ngày hôm sau, tôi bắt đầu được ăn cơm….trộn cám. Về xà lim được 5 ngày, tôi đã có thể chậm chạp đi lần theo tường ra lấy cơm, cũng như đổ bô.
Sau một tuần ăn cơm cám, và phần khác, do sự nổ lực tập luyện hàng ngày, chân tôi đã bớt trông thấy. Mỗi ngày mỗi rút nhỏ lại, đến bây giờ, tôi đã đi lại được. Cuộc sống lại trở về phong thái của hơn 3 tháng trước đây. Như vậy, có thể nói rằng việc quyết định trốn tù của tôi, đã đúng như tôi nhận định: Nếu không được, tôi cũng không mất cái gì cả! Chợt cái lưỡi đẩy đưa vào khoảng trống ở hàm dưới, tôi thầm nghĩ: Cũng có mất, 3 cái răng và một vết sẹo kỷ niệm ở tam tinh.
Đến hôm nay, tôi đã nhận biết là 2 cô gái ở trong buồng số 9, không còn ở đó nữa. Thay vào đấy, bây giờ, là một tù nhân nam. Tiếng cười điên
rồ của buống 10 cũng đã hết. Không biết anh ta chuyển đi đâu, tình trạng của anh ta, sau khi tôi đi, diễn tiến thế nào?
Anh Nguyễn Văn Căn, bị kết án tử hình, đã ký đơn xin ân xá với tên cáo Hồ (?), tôi biết đây chỉ là một hình thức chính trị, bịp bợm. Một cái khung sơn phết lòe loẹt đủ hình thức dân chủ, nhân dân, chấp pháp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, quốc hội, Công tố viện, luật sư, xin ân xá Chủ Tịch nhà nước, v.v… Tất cả chỉ để che đậy cái “lò nấu xác”, một cái “lò sát sinh” không hơn không kém ở bên trong. Tuy tôi chưa dám kết luận, nhưng nếu tôi đoán không lầm thì anh Căn đã bị xử rồi, nhất là khi tình hình đang biến đổi sang thời chiến.
Nhân sự trong xà lim đã thay đổi hết, ngay cả cán bộ trực xà lim cũng là những tên cán bộ khác rồi. Chỉ hai tháng đi “cát xô” mà đổi thay nhiều thế.
Tôi cứ nằm vẩn vơ nghĩ ngợi. Thỉnh thoảng một cơn gió nhè hẹ vương rải một mùi hương vừa ngọt, vừa ngây ngất, nhắc nhở tôi mùa bàng chín của Hỏa Lò. Đột nhiên, cửa sổ nhỏ xoạch mở. Tôi giật mình, nhìn ra, thoáng thấy cái môi vẩu nhọn ra như cái môi con cá ngão, tôi đã biết ngay là tên Bằng. Bây giờ, cán bộ Hỏa Lò đối với tôi, cũng như tôi đối với chúng, đã quen nhau, nhẵn mặt nhau quá rồi. Y chỉ nói cộc lốc hai tiếng:”Đi cung!”, rồi cúi xuống rút chốt cùm, mở khóa mở cửa. Tôi vừa nhấc chân ra khỏi cùm, vừa chuẩn bị tư tưởng lên phòng cung. Vì từ ngày tôi trốn đến nay, dã hai tháng hơn mới gọi.
Ra tới hè. Trời! Sân xà lim, bàng chín rơi từng đống. Tôi tập tễnh đi qua, mắt nhìn những quả bàng chín vàng ngây, rẽ chân chim lăn lóc khắp sân. Tôi như ngụp lặn vào một trời ngất hương nồng. Dứt khoát, lúc đi cung trở về, tôi phải tìm mọi cách, kiếm một hai quả vào buồng để ngửi, hít cho đã đầy sự khát khao rồi…chén nữa.
Ra tới cổng trại chung, cũng là phòng trực, ở hàng ghế lố nhố một số cán bộ và chấp pháp cả hình sự lẫn chính trị, tôi đã thoáng thấy tên Thành. Y đừng dậy, ký vào sổ, rồi quay lại ra hiệu tay cho tôi đi trước. Nhìn sân ngoài của Hỏa Lò, cái sân có giàn nho và rải rác một số luống hoa; đây góc này, góc kia cũng từng đống đất mới vàng ệch, với những lổ tròn của miệng hầm cá nhân hoắm sâu xuống lòng đất. Tôi có cảm tưởng, nhịp độ tù cũng như cán bộ Hỏa Lò thưa ra, chắc cũng nằm trong chủ trương chung của thành phố là sơ tán. Số tù cho chuyển gấp đi các trại trung ương đã đành, ngay số cán bộ ở các khâu, hình như cũng tinh giảm, để trở thành những nhân lực chiến đấu, hoặc phục vụ chiến đấu. Khi tên Thành dẫn tôi vào buồng cung, trong buồng đã có tên Đặng ngồi sẵn; trên bàn vẫn có chiếc cặp hồ sơ cố hữu. Điều tôi thấy hơi khác mọi khi là chiếc ghế đẩu dành cho bị can để cách xa bàn của chúng hơn. Thông thường, trước đây chỉ cách bàn 50, 60 phân. Bây giờ, phải xa hơn 1 m. Không những thế, từ lúc tôi vào buồng, hai tên cứ chăm chú nhìn chân tôi, như soi mói với những ánh mắt vừa băn khoăn, vừa cảnh giác.
Tên Thành cố tươi nét mặt, vẻ xã giao:
- Lâu ngày, anh không lên đây, anh thấy gì lạ không?
Câu hỏi không rõ ràng. Ở buồng này có gì lạ? Hay ngoài sân? Bởi vì, cả hai nơi đều có lạ. Nhưng, để dễ nói chuyện, và cho không khí đỡ căng thẳng, tôi chọn ngoài sân để trả lời:
- Thưa ông, tôi thấy một không khí chiến tranh, vì tôi nhìn thấy những hầm trú ẩn cá nhân mới đào.
Hai tên đều gật gật cái đầu như câu trả lời của tôi hợp lý theo ý chúng. Vì vậy, tên Đặng nghiêm nét mặt dõng dạc:
- Đế quốc Mỹ đã bắn phá tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chúng đe dọa cho nhân dân ta trở về thời kỳ đồ đá. Để rồi xem, chúng có làm được điều chúng nói không? Rồi đây, nhân dân ta sẽ dạy cho Mỹ một bài học.
“Tuy Mỹ giàu có, vũ khí tối tân, nhiều phương tiện chiến tranh khoa học, nhìn bên ngoài, nhìn phiến diện, ai cũng thấy mạnh lắm, và ngay bản thân Mỹ cũng lầm như vậy, khi nghĩ về mình. Nhưng, nếu nhìn sâu, phân tích kỹ, không nhìn thấy những nhược điểm nội tại to lớn ngay trong lòng xã hội Mỹ. Nghĩa là nó nằm ngay trong đầu của những người Mỹ. Cho nên, đảng ta đã nhận định: Mỹ chỉ là một tên khổng lồ, chân bằng đất sét”.
Ngồi nghe y nói, tuy tôi không đồng ý hoàn toàn, nhưng về cơ bản, tôi cũng có nhiều điểm đồng ý với nhận định của y. Mỹ, nói riêng, và thế giới tự do nói chung, to mà không mạnh, vì đầy dẫy những mâu thuẫn. Vũ khí tôi tân nào cũng phải được chỉ huy, sử dụng bằng con người. Vậy, nếu con người đó không có lý tưởng, mà chỉ vì cuộc sống và đồng tiền, thì còn nguy hại hơn. Vì, có thể sẽ bán, sẽ đưa vũ khí tôi tấn đó, cho kẻ thù bắn ngược lại mình.
Mỹ quên mất một điều. Hễ người làm việc nước như lính tráng; cán bộ các loại, các cấp, v.v… mà có nhiều tiền là không có lý tưởng. (Hễ thanh liêm là nghèo). Điều này rất biện chứng như một nguyên tắc vậy. Sau này,
càng về cuối thiên hồi ký này sẽ càng có minh chứng, vì lúc ấy mới có nhiều sự việc thực tế để bổ sung cho lý luận thêm sáng tỏ. Bởi vì, lý luận mà không có thực tế cũng như người có mắt mà không có chân. Ngược lại, có thực tế mà không có lý luận, cũng chẳng khác gì người có chân mà không có mắt. Cuối cùng, chẳng cái nào đạt được mục đích cả. Cả hai yếu tố đều cần thiết, phải gắn liền với nhau một cách hữu cơ. Nhưng, cũng kinh qua từ thực tế rút ra: Yếu tố “có chân” có tầm vóc lớn hơn “có mắt”.
- Chỉ có lý thuyết mà không có thực hành, không những không đi được, mà rất nhiều khi rơi vào không tưởng, hão huyền chỉ nói chuyện trên trời.
- Có thực hành mà không có lý luận: Mắt mù nhưng có đôi chân, ít ra cũng còn mò mẫm đi được, nhưng chỉ đi đến đâu thì biết đến đấy, tùy tiện may rủi.
Lý thuyết và thực hành sinh động như sự sống của con người phải có hai yếu tố: Không khí và thực phẩm. Yếu tố “không khí” cũng có tầm vóc lớn hơn yếu tố “thực phẩm”, vì có thể nhịn thực phẩm hàng tuần, không chết; nhưng không có không khí trong mươi mười lăm phút là….chết!
Tôi hiểu, tên Đặng nói qua về Mỹ, cũng chỉ là một câu chuyện xã giao mào đề, chứ chúng gọi tôi lên đây, dĩ nhiên, phải có một mục đích khác. Quả nhiên, mặt y trở nên lạnh lùng, vừa mở mấy trang giấy hồ sơ, y vừa gằn giọng:
- Anh phải khai chi tiết từ động cơ nguyên nhân đã dẫn đưa anh đến sự việc trốn tù. Anh kể lại từ đầu, từng chi tiết, như anh tường thuật lại sự việc vậy.
Đã có nhiều kinh nghiệm về kiểu cung kẹo này rồi, vì thế, tôi suy nghĩ và hệ thống hóa lại toàn bộ, lược bỏ những chỗ nào thấy không có lợi, hoặc sẽ phức tạp lôi thôi, rắc rối sau này. Tôi lần lượt trình bày lại sự việc. Đến đoạn đi tìm mũ, tên Đặng vẫy tay ra hiệu cho tôi ngừng nói. Rồi, y mềm dẻo kích tôi về tâm lý:
- Anh hãy kể lại thực chỗ này. Chuyện trốn tù của anh cũng đã xong rồi, nhưng anh phải nói cho hợp lý. Anh nói, tai anh nghe có thông, người khác mới nghe được chứ! Anh vào khu công an là để kiếm súng, kiếm vũ khí, người ta mới nghe được. Chứ chỉ vì cái mũ mà phải mò vào chỗ hiểm nguy như vậy, thật thậm chí vô lý! Nghe y lý luận đẩy đưa, tôi cười thầm trong bụng. Ngay từ những ngày đầu, khi mới bị bắt vào Hỏa Lò, tôi cũng không ấu trĩ sa vào cái bẫy tầm thường như thế. Dù tôi thực có ý định vào khu công an vũ trang để tìm vũ khí, tôi cũng không khai, không mắc bẫy; huống chi, bây giờ đã trải qua biết bao trận thử lửa, đấu trí với chúng hai năm rưỡi trời. Bao nhiêu lỡ lầm mới có những bài học ngày nay. Trước đây, nếu khai một chi tiết gì không thật, chúng nó đập bàn, đập ghế nạt nộ, quát tháo như nước sôi lửa bỏng rằng “nói láo”, “bịp bợm”, “không hợp lý, hợp tình chút nào”, v.v…tôi sinh ra lo lắng. Đôi lúc hớ hênh, lúng túng lại lòi đuôi ra cho chúng nắm được và từ đó chúng phanh phui ra sự thật. Nhưng giờ đây, tôi hiểu rằng, chuyện chúng nạt nộ thế nào cũng mặc chúng; khi đã cân nhắc, tính toán phải khai thế nào, thì cứ thế mà khai. Bởi vì, trong thực tế, có nhiều sự việc mới nghe qua, thật vô lý, không hợp tình, nhưng lại thực 100%. Ngược lại, có những sự việc nghe ra rất hợp tình, hữu lý, nhưng lại hoàn toàn là giả dối. Do đấy, bảo thế nào là vô lý, thế nào là có lý, nhiều khi thật cũng khó xác định.
Trên đây, cũng chỉ là lý luận, phân tích một vài góc cạnh của những việc chung ở đời. Chứ với công an, nhất là công an cộng sản, khi mình đã lọt vào tay chúng, chớ có nói chơi, không dễ gì qua mặt chúng được. Trong quyền hạn ngập mình của chúng, nhiều sự việc chúng điều tra tận nơi, từng ngóc ngách chi tiết, chúng mới tin. Vì vậy, muốn qua mặt chúng, phải đòi hỏi có điều kiện, chứ không hẳn đơn giản như lý luận.
Tóm lại, sự việc trốn tù, tôi cứ thực tế tuần tự khai báo sự thật. Chỉ có đoạn sau khi ra khỏi Hỏa Lò, tôi khai là sẽ tìm đường về Nam với gia đình bố mẹ, chứ không nói ý định thay vì về miền Nam, lại ngược về phía Bắc, v.v… Để đánh lạc hướng truy lùng của công an…Và, tôi vẫn khăng khăng là tôi thích xã hội chủ nghĩa. Nhưng, cách mạng không tin, nên tôi đã buồn chán tự tử. Tự tử không được, tôi mới tìm cách trốn…..Thế mà, phải cả buổi sáng và suốt buổi chiều hôm ấy, mới khai báo xong vì chúng không tin và truy hỏi nhiều.
Hai hôm sau, chúng lại gọi lên, bắt tôi ngồi viết tường thuật lại chi tiết sự việc. Tôi cũng phải viết ròng rã hai ngày trời mới xong.

Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 10:22 PM
Post #58


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Năm Mươi Sáu

Những sai lầm của thế giới tự do…

Hôm nay là Chủ Nhật. Ngồi trong xà lim không nhìn thấy trời, ánh sáng hắt vào từ khung cửa sổ mờ mờ, âm u như không có mặt trời. Không khí ẩm ướt, lành lạnh của những ngày cuối Thu. Tôi nằm nghĩ suy, tính toán tìm cách gì để chống cái lạnh của mùa Đông sắp tới. Tôi vẫn băn khoăn lo lắng nhất là đôi chân. Ở trong cùm, năm nào chân cũng bị cước, ngứa buốt suốt cả mùa Đông. Cuối cùng, tôi thấy chỉ có một cách duy nhất là khâu một đôi vớ thật dầy bằng những mảnh giẻ chùi, ở nhà tiêu trong buồng tắm. Vậy, ngay từ hôm nay, tôi lại bắt đầu tìm nhặt giẻ để chuẩn bị cho đôi “bít tất” mùa Đông. Mặt khác, tôi lại phải kiếm một cái gì để làm “con dao” nhỏ. Con dao nhỏ trước, đút trong ve áo đã mất khi trốn tù rồi.
Tôi đang ngồi nhìn hai bàn chân của mình, bây giờ đã bé lại, lồi rõ 4 cục xương mắt cá chân. Từng miếng vảy đen xám bong ra, trông như con chó ghẻ rụng hết lông, vừa sần sùi, vừa loang lổ, sờ cờn cợn thấy ghê cả tay. Chợt, tai tôi thoáng nghe tiếng bước chân xèn xẹt, và cửa sổ nhỏ buồng tôi xịch mở. Giọng Quảng Nam của mụ Hoa, nghe như tiếng cua bò trên mâm đồng:
- Anh này chuẩn bị đi cung!
Rồi mụ ta cúi xuống rút chốt cùm. Cửa mở, tôi theo mụ ra sân, vừa đi vừa nghĩ ngợi băn khoăn: Hôm nay là Chủ Nhật, phải có chuyện gì đặc biệt nên chúng mới gọi tôi. Tôi tự hiểu là tâm trạng mình cứ hay thấp thỏm lo sợ, nhất là trong những khi chúng gọi bất ngờ như thế này. Như, biết đâu, đường dây “M” bị lộ? Biết đâu “Z5” sa lưới? Biết đâu, chúng đã điều tra xác minh, đã rõ ràng sự việc của tôi ở trong Nam, v.v… Hàng chục cái “biết đâu” kéo dài từ hơn hai năm nay rồi, và có lẽ sẽ đeo đuổi tôi suốt những ngày, còn ở trong tay chúng. Mải suy nghĩ trên đường đi, đầu tôi đã ướt hết vì mưa bụi, tôi cũng không hay. Nhìn những hạt mưa phùn li ti dẫy dọn, lúc xọc sang phía bên này. Lúc xiên sang phía kia hàng loạt, theo từng cơn heo may nhe nhẹ, như những giọt nước mắt mùa Thu mến cảnh, mến người, luyến lưu từ giã, nhường lại đất trời cảnh vật cho Đông về.
Ra tới phòng trực, tôi thấy chỉ có tên Thành ngồi đấy. Như mọi khi, theo hiệu tay của y, tôi đi về phía sân giàn nho, theo con đường nhò, giữa những luống hoa hồng, cúc, v.v…
Trời mưa bay bay, không khí lành lạnh! Những bông hồng nhung tươi thắm đang lắc lư với gió. Những hạt mưa nho nhỏ, đọng lại trên những cánh hoa như những hạt xoàn trắng to, nhỏ dính trên nền nhung đỏ càng long lanh, dưới ánh nắng nhạt trong mưa bay. Một làn hương thoang thoảng, nhè nhẹ, vương vương gợi cho tôi một ý tưởng: tại sao Hỏa Lò là một trại giam, nơi cùm kẹp, xiềng xích tội nhân. Đêm cũng như ngày, chỉ toàn những tiếng rên la thảm khốc, đắng cay tràn lối của kiếp tù đầy…..Lại có những luống hoa đủ loại tuyệt vời như thế? Phải chăng, chúng dùng hoa để làm vơi dịu nỗi thương đau của những người cùng khổ? Hay là, như thông thường của người đời, những cái gì xấu xa thì lại được bọc bằng những vải vóc cao sang đắt tiền? Vật càng xấu, cái bọc càng cần phải đẹp!
Vì là ngày Chủ Nhật nên quang cảnh ngoài sân của Hỏa Lò thật vắng vẻ. Nhưng khi bước chân vào phòng cung, tôi thấy lố nhố 6, 7 người. Tôi ngạc nhiên, vì thây mấy người lạ hoắc, lại có cả máy ảnh; chỉ có tên Thành và Đặng là chấp pháp tôi đã biết. Còn 4, 5, người kia, chắc là ở nơi khác đến, tôi chưa hề thấy mặt bao giờ. Đã ở mấy năm trường, bất cứ ai dù tôi không gặp trực tiếp, nhưng ra vào, đi lại nhiều lần, tôi cũng phải thấy dáng quen quen, nếu là người đã làm việc ở Hỏa Lò.
Những người lạ mặt ngồi ở một ghế dài, mặt thật lạnh lùng, với những cặp mắt gườm gườm soi mói. Tên Thành chỉ ghế cho tôi ngồi, rồi y mở một gói giấy báo trên bàn, vừa nói:
- Hôm nay, anh phải diễn lại tất cả những thái độ, cử chỉ, động tác hôm anh trốn tù.
Y đưa cho tôi 2 củ khoai lang và nói:
- Anh ăn tạm 2 củ khoai, rồi bắt đầu!
À ra thế! Bây giờ tôi mới hiểu. Nhưng, tôi cũng không ngờ chúng đặt vấn đề quan trọng như thế. Có lẽ chúng bắt tôi diễn lại cảnh trốn, để vừa dùng làm chứng từ buộc tội sau này, vừa làm tài liệu rút kinh nghiệm cho chúng.
Sau đó, tất cả các chi tiết trong vụ đào thoát “bất thành”, tôi phải lần lượt diễn lại. Có một sự việc tôi buồn cười và nhớ nhất là: Khi đến chỗ tôi phải lấy thế, dùng cú đòn chặt gáy, tên lạ mặt ngồi đóng vai Đỗ Đình Hạ chấp pháp, cứ nhấp nhổm sợ sệt không yên, mắt lấm lét sợ tôi làm thật. Tôi buồn cười là vì, nhìn lại thân hình mình, một người ốm tong teo, khẳng khiu, so với y, một tên khỏe mạnh đường đường “một đấng nam nhi”. Thế cho nên, người ta chỉ sợ bóng, sợ vía là nhiều. Nghe người ta đồn, nghe người ta nói lại, cứ tưởng như ghê gớm lắm; sự thực, nhiều sự việc không đến nỗi như họ tưởng đâu.
Chúng nó chụp tôi rất nhiều kiểu ảnh, từ lúc đầu, cho tới lúc tôi dẫn xe đạp ra khỏi cổng Hỏa Lò. Với cách đứng đợi, cách vào lấy thẻ, cách dẫn xe ra cổng, cách cười với tên công an vũ trang đứng gác, cho tới khi gặp tên Lê Phó Giám Thị và tên Điền, v.v…Chúng chỉ “không bắt” tôi diễn cái cảnh khi tôi bị bắt lại, bị đánh tơi bời hoa lá.
Vậy mà, cũng đến 12 giờ trưa mới xong, chúng cho tôi về xà lim. Tôi vừa đi vừa nghĩ việc trình diễn như đóng kịch vừa rồi. Tuy là ngày Chủ Nhật, tụi công an vũ trang, đa số là tuổi 20 hay ngoài, cũng ra theo dõi tôi diễn lại. Lợi dụng lúc diễn lại vai trò, mắt tôi vẫn không ngừng nhìn khắp đây đó, để xem có cái gì đem về mài thành con dao nhỏ, mà tôi đang cần không. Mãi đến lúc chúng nghỉ giải lao, tôi xin vào đi giải trong nhà xí của bọn công an vũ trang, tôi mới bẻ được đầu một miếng sắt rỉ, một chiều khoảng hai phân và chiều kia gần một phân. Thế là tôi đã có lại con dao tôi đã mất, cũng thấy vui vui trong dạ.
Về tới cổng xà lim, chợt tôi nghe tiếng loa léo nhéo nói về miền Nam: Nào là, Nguyễn Văn Thiệu đang củng cố uy quyền, đưa phe cánh vào những khâu chủ chốt,…..Nào, sau khi lập nền đệ nhị Cộng Hòa…kêu gào Mỹ tăng cường viện trợ để chống đỡ với tình hình càng ngày càng nghiêm trọng, v.v…Tôi nghe, lòng vẫn lửng lơ, man mác bâng khuâng như chiếc cửa của một căn nhà trên lưng đồi vắng. Một cánh cửa đóng hững hờ, còn một cánh mở. Cánh mở để nhìn thấy, suy lý, dựa trên những cơ sở thực tế của miền Nam, của miền Bắc, của phe cộng sản và thế giới tự do: Ông Thiệu đâu phải là đối thủ của cộng sản miền Bắc. Còn cánh đóng: Dù hiểu như vậy, nhưng hãy đè chặt trong lòng, miễn bình luận; vì ở trong một cái thế là nói ra càng tan rữa lòng người, chỉ có cái lợi cho kẻ thù mà thôi.
Tôi đã vào buồng, đóng cùm, đóng cửa rồi, lòng tôi vẫn nặng chĩu những suy tư về đất nước, về cuộc đời.
Tôi cứ nhắm mắt, mặc cho đầu óc mình bềnh bồng trôi nổi đó đây, suốt về miền Nam, lại ra miền Bắc, lại chạy về Nam…..Tôi nhìn toàn bộ khung cảnh xã hội miền Nam. Tôi nhìn toàn bộ khung cảnh xã hội miền Bắc.
Xã hội và con người có nhiều sự việc, về một phía, thật bao la phức tạp muôn màu, nghìn sắc; nhưng về phía khác, cũng rất giản đơn. Nếu ai đó, không bị mờ mắt vì địa vị, vì tiền bạc, nghĩa là không bị cái bả quyền lợi cá nhân che lấp mắt, đều nhìn thấy rõ rành rành.
Muốn hiểu vấn đề xã hội, nhiều khi xét từ một tập thể, có khi từ một cá nhân; bởi vì, có nhiều điều liên quan, tương tự, đôi khi giống nhau như một khuôn đúc. Điều chính, cá nhân là một đơn vị. Một đơn vị không thể tách, chẻ nhỏ hơn, để xây dựng nên xã hội.
Nhìn về xã hội miền Nam, nhìn về thế giới tự do, điều nổi bật nhất, cái gốc cổ thụ để sinh đẻ ra trăm nghìn cái khác, là: Đã để chủ nghĩa cá nhân lấn áp tập thể, lấn át xã hội, lấn át dân tộc, Tổ Quốc. Đấy là đầu nguồn để sinh sôi, nảy nở ra ngàn đường, trăm nhánh; đến nỗi nhiều người khi nhìn một sự việc nào đó, tưởng như hoàn toàn không có liên quan gì đến cái gốc, là chủ nghĩa cá nhân lên cao. Nhưng, nếu người ta chịu khó mày mò truy nguyên, từ cái này sang cái kia, rồi cuối cùng về đến cái gốc của nó, chính là chủ nghĩa cá nhân; nhiều người sẽ phải ngơ ngác, giật mình.
Vì vậy, nếu thấy một người lính không có tinh thần chiến đấu; một người công chức tham nhũng, thái độ cựa quyền; người dân lạnh lùng bàng quan (nhất là người dân có nhìn người thương binh lủi thủi, lặc lè trên đường); đến cả người thanh niên trốn quân dịch, v.v…; đừng ngạc nhiên lắm. Chính đó là những cái quả, của cái nhân là chủ nghĩa cá nhân mà thôi.
Từ cái gốc căn bản sai lầm đó, sai lầm này đẻ ra sai lầm khác, cứ như thế chất chồng. xã hội đầy rẫy những hiện tượng tắc trách, thiếu trách nhiệm trong công tác; hời hợt, cưỡi ngựa xem hoa đối với công việc mình phải làm. Trong hàng ngũ cán bộ của chính quyền ở mọi lãnh vực, từ hành chính, chính trị cho đến quân sự, v.v…loại cán bộ này chiếm đại đa số. Những hiện tượng này chỉ biến mất khi người đứng đầu quốc gia thực lòng vì dân vì nước lấy bản thân mình làm gương sáng, mang tâm hồn và khí lực ngày đêm xả thân lo lắng, để có một đội ngũ cán bộ trung ương được đào tạo, thử thách nhiều công phu.
“Vạn sự khởi đầu nan!”, cần sao gây được những hạt giống tốt lúc đầu. Tuy nhiên, phải mang tâm huyết chịu đựng vất vả, gian khổ để tìm được chỗ khơi nguồn. Khi nguồn đã được khơi, sau đấy tự nó sẽ chảy thành sông. Tất nhiên còn đòi hỏi nhiều vấn đề khác để hộ trợ, cũng như khích lệ và thúc đẩy, để chủ trương của mình được hiện thực. Chỉ mới sơ khởi như thế, và nhìn về miền Nam lúc này, bộ mặt nào làm được như vậy? Ngay đến cụ Ngô cũng còn một số sai lầm. Nếu cụ còn sống, dù cũng chả làm gì được miền Bắc, nhưng chắc miền Nam đã không mất. Huống chi, trong khi Mỹ là người anh cả, là nước chịu trách nhiệm vì mình và vì người. Giúp đỡ các nước anh em trong thế giới tự do, cũng đã mắc 3 sai lầm trầm trọng:
Thứ nhất: Bắt những nước được giúp đỡ phải theo những quy chế, những khuôn thước dân chủ tự do nhất của thế giới hiện nay là nước Mỹ.
Thứ hai: Giúp người, nhưng lại vì quyền lợi của mình nhiều hơn.
Thứ ba: Quá nghiêng nặng nề về đồng tiền và vũ khí.
Từ ba điểm trên, đã đẻ ra rất nhiều những sai lầm nhỏ khác, để cuối cùng hầu như đa số các nước mà Mỹ giúp, đã không đạt được kết quả, không đạt được mục đích. Và, ngay nước Mỹ, không những không được người ta biết ơn, còn bị chửi là thực dân mới, chỉ vì tư lợi thương mại, tìm thị trường tiêu thụ, v.v…
Sau đây, ta khái niệm mổ xẻ, phân tích từng điểm:
Điểm thứ nhất: Nói về nền tự do dân chủ thực sự trong thế giới loài người hiện nay, không ai có thể phủ nhận được nước Mỹ là một trong những nước có nên dân chủ thực sự tiên tiến. Từ đấy, ta thấy chế độ Cộng Hòa Dân Chủ của Mỹ là chế độ tiến bộ của loài người hiện nay. Nhìn nền dân chủ ưu việt của những nước Anh, Pháp, Mỹ, v.v… những ai thực lòng vì dân vì nước mà chẳng mong muốn nhân dân và đất nước họ cũng được hưởng một nền dân chủ, tự do như thế.
Muốn được như vậy, phải cần có một điều kiện, đó là đất nước ấy phải có một số hoàn cảnh giống như nước Mỹ, nước Pháp, nước Anh. Bởi vì, thời đại ngày nay, thế giới đang đảo điên, nghiêng ngửa với cái nạn cộng sản. Cộng sản tàn bạo, khát máu nhưng lại che mắt thế giới bằng cách khoác lên những bộ mặt của Chúa Jesus, của Phật Thích Ca, của Mohamed, v.v…với những đôi mắt giả nhân giả nghĩa từ bi ngấn lệ thương đồng bào, đồng loại; mồm méo xệch cứ lẩm bẩm những lời tha thiết cứu nhân độ thế; làm cho biết bao nhiêu người ngộ nhận, để rồi tán gia, bại sản, tàn lụi cả cuộc đời…
Hơn nữa, như một công lý, mỗi người một khác nhau, mỗi nước một khác biệt. Cơm, gạo, bột là những món ăn tốt để nuôi sống con người. Món ăn bổ và ngon như thế đấy, nhưng người ăn mức độ cũng khác nhau. Một người khỏe, ăn 1kg, cơ thể không sao; một người đang có bệnh, ăn 1kg, “ngủm”!.
Vậy mà Mỹ, như cơ thể cuả một người khỏe, lại muốn bắt một nước, đang như một người bệnh, ăn những món ăn giống mình và nhiều như mình; rồi cứ bảo phải ăn đi, nó bổ lắm. Nó dân chủ lắm, nó dân quyền lắm,
v.v…Thử hỏi, nước đó sẽ ăn làm sao được. Ăn thì chết! Không ăn, Mỹ bảo là phản dân chủ, là độc tài, là…bướng; nay đe cắt giúp đỡ, mai đe cắt viện trợ, v.v…
Còn nói về tự do, dân quyền: Để làm sáng tỏ vấn đề này một cách đơn giản, Khổng Phu Tử, hơn hai ngàn năm xưa, đã nói: “Nói mà không thí dụ, và thí dụ mà không đơn giản, thì không sáng tỏ”.
Thí dụ hỏi một người:
- Anh có biết trái cam không?
Người đó trả lời:
- Chưa hề trông thấy trái cam bao giờ!
Vậy ta hỏi tiếp:
- Thế anh có biết trái bưởi không?
Người kia vui vẻ trả lời là anh ta không lạ gì trái bưởi.
Lúc đó, ta chỉ cần nói đơn giản:
- Trái cam giống hệt trái bưởi, nhưng bé hơn và ngọt hơn!
Chỉ cần đơn giản như thế, người kia hiểu ngay về trái cam. Chứ ta tuyệt đối không nên cầu kỳ, dùng danh từ hoa mỹ, triết học giải thích nào là: quả cam màu vàng, hình cầu, được bọc một lớp vỏ mỏng, có những túi dầu để duy trì bảo vệ nước cam ở trong được tươi lâu, bên trong có những cái bọc hình bán nguyệt, trong cái bọc này, v.v…và v.v…
Nói nhiều, dùng những triết này, thuyết kia đẻ ra vè giai cấp trí thức; cuối cùng người kia chả hiểu, chả biết anh nói cái quái gì cả.
Vậy, lý luận về tự do và dân chủ, cụ thể là ở miền Nam Việt Nam lúc này, tôi cũng xin lấy một thí dụ đơn giản để làm sáng tỏ.
Ở cùng chung một căn nhà có 4 người là A, B, C, và D. Lúc hòa bình, không có chuyện gì cả, tình người và tình đồng bào thắm thiết, nào chào hỏi, nào hàn thuyên, tay bắt mặt mừng rối rít mỗi khi gặp nhau. Mọi người tha hồ tự do. Anh này muốn đi chơi đâu mặc anh; anh kia nấu nướng ăn gì cũng kệ; anh khác ngủ đến 11, 12 giờ trưa đó là quyền của anh; v.v… Mỗi người đều tự do làm theo ý mình. Nhưng sau đó, vì một lý do nào đó, do
những điều kiện và hoàn cảnh tạo nên, 4 người này trở thành kẻ thù không đội trời chung của nhau, và vẫn phải cùng ở một căn nhà. Lúc này, mỗi anh thủ một con dao, rình cơ hội để hạ đối phương để chiếm toàn bộ ngôi nhà, và vì sự sống còn của mình.
Vậy, lúc này, tình trạng sẽ ra sao? Mọi người có còn được tự do, ăn lúc nào thì ăn, ngủ lúc nào thì ngủ, thích chỗ nào thì nằm chỗ đó nữa hay không?
Lúc này, ai cũng thấy sáng tỏ là tự do trong cảnh đó, là tự do chết!
Căn nhà Việt Nam lúc này ra sao? Một nửa nhà là miền Bắc, cộng sản đã chiếm đóng; nửa còn lại là miền Nam, cộng sản đã đặt được một bàn chân vững chắc là:”Mặt Trận Giải Phóng”. Ngay trong chính quyền Sài Gòn, cũng đầy dẫy những người của cộng sản.
Tóm lại, căn nhà Việt Nam giống hệt như căn nhà tôi đã trình bày thí dụ ở trên.
Bây giờ, ta tự do cho biểu tình, hội họp, đảng đối lập, v.v… và v.v…như khuôn thước của xã hội Mỹ, miền Nam sẽ ra sao? Một cậu bé ngây thơ 15, 16 tuổi cũng thấy ngay là miền Nam mất đi, không có gì là lạ nữa. Nếu có lạ là lạ tại sao miền Nam lại chưa mất!
Đó, nếu báo chí và tuyên truyền chỉ can đơn giản trình bày như vậy với quần chúng, riêng về góc cạnh tự do, như trên, lúc đó, nhân dân sẽ ý thức được ngay. Rồi, hàng trăm góc cạnh khác của xã hội cũng trình bày đơn giản như vậy để hỗ trợ, tác động qua lại, nhiều việc sẽ tốt đẹp hơn nhiều.
Thế mà, các cơ quan to lớn chuyên nghiên cứu vể xã hội và về riêng Việt Nam với những quý vị học giả uyên thâm của Mỹ, v.v…lại chưa đánh giá đúng mức, để rồi bắt con bệnh Việt Nam “ngốn” cho bằng người khỏe như “vâm” là Mỹ. Không ăn, các ngài bực mình, la ó là độc tài, là phản dân chủ, v.v…
Điểm thứ hai: Ngay cá nhân với cá nhân, nếu giúp đỡ người khác, tất nhiên tôi chấp nhận là ở đời, phải hai bên đều có lợi. Nhưng, nếu cái lợi của phía người giúp đỡ lớn hơn, lấn át cái lợi của người mà mình giúp, lúc đó sẽ ra sao? Tình cảm và lòng biết ơn của người nhận sẽ giảm; đôi khi còn không biết ơn nữa. Thậm chí, cá biệt, người làm ơn không biết xử thế khéo, còn bị người được giúp đỡ căm thù. Nghĩa là, họ thấy họ bị lợi dụng. Như thế, còn làm sao gắn bó, tin cậy nhau nữa. Người được giúp, lúc đó, nếu không thủ đoạn, tính toán, giữ thế với người giúp, thì cũng quay ra
buồn chán, tiêu cực, không thể đạt được ý nguyện lúc đầu của người muốn giúp đõ, nghĩa là không đạt mục đích.
Vậy, một quốc gia, với một quốc gia khác, trông bề thế hơn, tưởng như phức tạp hơn, nhưng cái nhân, cái gốc cũng như vậy thôi. Do đó, Mỹ đừng lạ, và đừng buồn, tức khi thấy những nước mà mình giúp lại vô ơn, đôi khi còn chửi lại mình, hoặc trở thành kẻ thù của mình.
Điểm thứ ba: Tôi thừa nhận trên cõi đời này, đồng tiền mua tiên cũng được, nhưng với điều kiện la phải biết cách. Nếu không, nhiều khi đồng tiền không những không giải quyết được vấn đề, mà còn bị người lấy tiền, nhận tiền, cười chê người cho tiền nữa.
Mỹ là “người” có nhiều tiền, chỉ thấy giá trị tuyệt đối của đồng tiền, chứ không thấy những khía cạnh phức tạp khác. Thí dụ: Một người đang hì hục xây một căn nhà. Vì nghèo nên thiếu thốn vật liệu; anh ta cứ đầu tắt mặt tối, ngày cũng như đêm, mưa cũng như nắng, đem sức cần lao để xây dựng căn nhà; nhưng thấy khó thành, hoặc không biết đến bao giờ mới hoàn thành nổi. Mỹ thấy vậy, mang tiền, mang vật liệu đến giúp. Vì không khéo, lại không nghiên cứu từ thực tế, cần những gì về nhiên liệu. Căn nhà kiểu ấy, chỉ cần vật liệu là cây, Mỹ lại đem sắt đến, cứ chở đến ùn ùn. Anh chủ nhà lúc đó sẽ ra sao? Làm, thì không được, để thì phí, hỏng! Trong lúc đó, Mỹ cứ đưa đến, nói tốt lắm, phải tiếp tục xây mạnh đi. Anh chủ nhà hoang mang. Nếu cứ để từ từ, anh ta còn có thể tốt theo kiểu suy nghĩ, sáng tạo của anh ta. Đằng này, lại cứ thúc giục, khiến anh ta thấy cứ để đống nguyên liệu đấy thì không ổn; vì như vậy là từ chối sự giúp đỡ, nên anh ta phải tìm cách chuyển đi chỗ khác, rồi nói dối là đang nỗ lực làm, xây dựng. Anh ta lúc này không còn tập trung hết tinh thần vào việc xây ngôi nhà, vì quá mệt mỏi tính toán trả lời sao về những vật liệu mà Mỹ giúp, đâu còn những giây phút cần cù, miệt mài trước dây. Vả lại, bây giờ, lại sẵn đồng tiền, anh ta phải tìm cách giải trí. Lúc đầu, lâu lâu mới giải trí một lần; sau quen đi. Như thế, cuối cùng căn nhà vẫn chưa xây được, mà tinh thần anh ta trở nên tiêu cực, biếng nhác. Như vậy, nhìn về phía, Mỹ đã gián tiếp làm hại những người mà Mỹ giúp.
Tóm lại, phải biết cách dùng đồng tiền thì, uy thế của nó mới phát huy một cách huyền diệu. Không biết dùng, kết quả sẽ không những ngược lại, mà còn làm hư hỏng con người.
Còn về vũ khí: Tôi nhớ lại những năm còn ở miền Nam. Tôi xem những buổi duyệt binh, với những cỗ pháo to, những xe tăng lớn và những máy bay phản lực, Phi đội “Lôi Hổ” của Đài Loan gầm rít biểu diễn trên bầu trời Sài Gòn năm 1960. Rồi báo chí, đài phát thanh nói Mỹ có nhiều loại vũ khí
nguyên tử. Nào là, chỉ một phần mười kho vũ khí nguyên tử của Mỹ nổ cũng đủ làm tan trái đất. Nào là, Mỹ đang nghiên cứu chế những loại bom ánh sáng, tia “laser”, v.v…
Lòng tôi khi ấy dậy lên một niềm tin tưởng to lớn, vững chắc vào thế giới tự do. Tôi tin tưởng gần như chắc chắn là sức mạnh của các loại vũ khí như thế, thừa sức đè bẹp lũ cộng sản khát máu.
Nhưng bây giờ, khi đã đi vào thực tế, tôi có điều kiện để nhìn, không những cả 4 mặt của một sự vật, mà còn nhìn được cả phía bên trong của sự vật đó. Sự cọ sát giữa suy lý, nhận thức của mình khi ấy thật là ấu trĩ, ngây thơ. Xét đoán một sự vật, một vấn đề chỉ đứng từ một góc độ, rồi cứ vỗ ngực khẳng quyết với cái hiểu non nớt của mình; không thấy được rằng: Bất cứ loại vũ khí tối tân nào cũng phải do con người chỉ huy và sử dụng. Vì vậy, trừ khi lực lượng quá chênh lệch: một bên 10, một bên 5; hoặc bên này 100, bên kia chỉ có 10 thì không kể. Còn thông thường, chỉ xấp xỉ hơn nhau ít chút một 8, một 10; bên nào có yếu tố tinh thần hầu như bên ấy thắng. Do đấy, yếu tố tinh thần mới quyết định thắng bại. Ngoài ra, nhìn tổng quát cái thế và điều kiện của thế giới ngày nay, tôi dám khẳng quyết là bất kể một nước nào có vũ khí nguyên tử để gây thành Thế Chiến Thứ Ba, thì kẻ đó tự sát.
Từ đấy suy ra, các chiến lược gia nào chỉ nặng về vũ khí (làm sao để chế ra loại tối tân hơn, nhiều hơn đối phương…) là có mặt sai lầm. Thực tế, chỉ cần đòi hỏi vừa đủ để làm thế kiềm chế nhau thôi; và hãy chú ý về loại vũ khí chiến thuật thông thường có kỹ thuật cao, để sử dụng trong chiến tranh cục bộ, hoặc khu vực là cần thiết. Điều quan trọng và chính yếu nhất vẫn là phải chú ý về mặt nhân sinh và xã hội.
Như tôi đã trình bày ở trên, đây không phải là một tác phẩm tư tưởng, lý luận, nên không được phép dài dòng; nhưng dựa trên những cơ sở biện chứng, tôi thấy Liên Xô dù có mạnh hơn Mỹ, cũng không bao giờ dám đem quân sang đánh Mỹ, hay Anh, Pháp cả. Đó là một điều chắc chắn, trừ phi Liên Xô không phải là nước cộng sản nữa. Kim chỉ nam của họ là dùng áp lực tối đa bên ngoài, xúi dục kích động người dân của nước ấy đứng lên lật đổ chính quyền. Đôi khi cao nhất cũng chỉ dùng một nước cộng sản đàn em tiến hành chiến tranh cục bộ, đem quân sang một nước khác, để giúp một bộ phận nhỏ người bản xứ đứng lên lật đổ chế độ đang cai trị mà chúng bảo là thối nát, và chúng làm cách mạng, v.v…Cứ như vậy, chúng tiến hành nhiều nơi trên thế giới, cho tới khi màu đỏ loang lỗ khắp địa cầu, lúc dó có trời cũng không cứu nổi nước Mỹ khỏi tự nhiên thành cộng sản.
Vậy, Mỹ hãy lo ngay cho xã hội Mỹ, hãy làm sao cho người dân Mỹ hiểu đầy đủ về cái cảnh nếu phải sống dưới chế độ cộng sản sẽ bị o ép toàn diện. Mọi người lam lũ lầm than, không có một chút tự do, con người như con vật là chính. Chứ cứ tập trung tâm tư, khí lực để thi đua với Liên Xô, để rồi bị con dao đâm từ phía sau, tự trong lòng, lúc đó, đã muộn rồi!....

Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 7 2008, 10:27 PM
Post #59


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Năm Mươi Bảy
Những giọt nước mắt… kịch!
Miên man chìm đắm trong mối tơ vò tư tưởng, bỗng nghe chốt cùm rút đánh xoạch một tiếng, tôi giật mình như choàng tỉnh một cơn mộng ngày. Thì ra, đã đến giờ lấy cơm chiều. Mải say sưa trong suy tư đến quên cả cái đói chờ cơm! Như vậy, quả thực tôi cũng thấy mình đam mê quá. Vấn đề tôi vừa trình bày, cũng đã lôi cuốn chính tôi nhiều, chứ hầu như khó có một cái gì làm tôi suy nghĩ đến độ quên được, sắp tới giờ cơm; nhất là lúc sau này tôi cứ thấy đói luôn. Có lẽ, thời gian ở “cát xô”, vì bệnh tật đau đớn, người hình như nằm một chỗ không xê dịch, nên tuy ăn uống có thiếu thốn hơn, chỉ vừa đủ sống, nhưng tôi cũng không thấy đói lắm. Bây giờ, trở về xà lim đã gần một tháng, cơ thể dần dần bình phục lại, kể cả tinh thần sau vụ trốn không thành cũng dần được ổn định; vì thế, cơ thể tôi càng đòi hỏi ăn quá chừng. Đến cái độ, chuyện cung kẹo, tin tức tình hình trên đài mỗi ngày mỗi diễn tiến gay cấn như:”…Mỹ sắp đem quân chiến đấu vào miền Nam, các phái đoàn quân sự cao cấp của Liên Xô đến Hà Nội…”, nói chung tình hình đang ngày càng trở nên căng thẳng, hầu như tôi mặc kệ!
Tôi cũng hiểu rằng tình hình chính trị bên ngoài có tác dụng trực tiếp đến sinh mệnh đời mình, nhưng điều đó vẫn còn xa. Trước mắt, hàng ngày hàng giờ, là cái đói hành hạ dày vò cơ thể tôi. Hầu như, hàng năm, tôi khao khát thèm một bữa no, nghĩa là giá bất cứ có cái gì cho vào dạ dày cho căng căng một chút, để xem “cái no”…nó ra làm sao? Nhưng, ngày nào cũng như ngày nào, bữa cơm đến, chưa ăn, vừa quay đi quay lại một cái, đã hết rồi; chưa thấy tí gì trong bụng cả. Bụng muốn ăn đến ba, bốn; mà chỉ có một. Lại ở xà lim chỉ có một mình, xoay đằng trước, xoay đằng sau, cũng chỉ bốn bức tường, lấy cái gì nhét vào dạ dày bây giờ. Nếu giẻ mà ăn được, tôi cũng nhai. Lúc đó có lẽ tôi cứ phải ở truồng, bởi vì cứ vặt xé dần quần áo đút vào miệng. Cứ ngày này, qua ngày khác; tuần này, qua tuần khác; tháng này, qua tháng khác; rồi năm này qua, năm khác tới,…đêm ngày, lúc nào cũng đói.
Một đêm, không ngủ được vì đói, trằn trọc suy nghĩ rồi khó khăn đẻ ra sáng kiến; tôi tìm ra được một biện pháp để thuởng thức “cái no”, cho nó sướng đời một cái! Thế là cả một dự tính, và tôi quyết tâm thực hiện. Tự nhiên, trong dạ cũng thấy hưng phấn, đầy hy vọng chờ cho tới bữa cơm sáng hôm sau.
Vì có mục đích, nên tôi thấy cái đói hình như cũng đỡ cào cấu trong ruột. Khi lấy cơm vào, tôi đổ bát ra một cái khăn, chiếc khăn này làm bằng hai miếng giẻ to trong…nhà cầu, tôi đã vò kỹ nước và khâu lại. Tôi nhúng tay vào gáo nước rồi hì hục, thận trọng, nắm khăn chặt lại. Chỉ thỉnh thoảng có hạt cơm nào vô tình rơi ra, tôi mới cho phép mình…ăn. Tôi túm lại, lấy một sợi chỉ buộc, rồi treo lên cái que nhỏ cắm ở lỗ đinh trên tường. Xong, tôi quay lại húp hết bát canh, rồi chờ đem trả bát. Trả bát xong, lúc đó cũng phải 10 rưỡi, 11 giờ. Khi quản giáo cùm xong, tôi nằm xuống. Trước khi nằm, tôi ngồi nhìn nắm cơm treo lủng lẳng ở bờ tường trước mặt, như gửi gắm với nhiều hứa hẹn là chiều nay sẽ có một bữa căng bụng. Sẽ được thấy cái cảm giác “no”…ra làm sao, mà lâu ngày tôi đã quên rồi.
Tuy nằm, nhắm mắt, nhưng làm sao tôi ngủ được, chả có cái cóc khô gì trong bụng cả (có chứ, có một tí nước canh, và mấy ngọn rau muống già, đểnh đoảng nấu muối). Chắc có vài chú giun cũng đang lồng lộn dãy dọn trong ruột tôi, vì phát ra những tiếng kêu “ò ọ” kéo dài như tiếng của thân những cây tre làng xiết vào nhau vì gió trong những trưa Hè oi nắng. Kế nữa là, bao nhiêu hy vọng đời chờ, bây giờ sắp được thưởng thức, bảo sao tôi ngủ được. Tôi nghe từng tiếng thời gian đi, cho tới giờ cơm chiều để mà đã đầy thưởng thức, sau những giờ phút vặn ruột, co gan.
Chờ mãi, rồi giờ hạnh phúc ấy cũng phải đến. Phải nói, lúc ôm cái bô ra đổ, trên đường đi nhiều lúc mắt hoa, chân lảo đảo như uống rượu say; nhưng trong dạ dày đầy tin tưởng là hạnh phúc sắp và sẽ đến. Rồi, cho tới khi ra cầm bát cơm chiều vào, bấy giờ, với một cử chỉ hết sức trang trọng, như chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn để đón một người mà mình quý trọng nhất đời. Tôi vừa ăn, vừa nghe tiếng reo vui của quần chúng tế bào dạ dày, đón chào những hạt cơm no lành theo nhau vào nằm dưới đáy bao tử. Ăn hết nắm cơm buổi sáng, lại ăn bát cơm buổi chiều, phải nói rằng có căng bụng. Tôi cứ tưởng tượng dạ dày của mình lúc trước co dúm, nhăn nheo chỉ một tí. Vì lâu ngày có bao giờ được chứa theo khả năng của nó đâu, cho nên các tế bào đã co lại để hàng ngày đón nhận có một phần ba, hay một phần tư số lượng nó muốn. Hôm nay đột nhiên lại đón nhận một số lượng gấp đôi, nó cũng căng rồi. Nó phải làm việc khác ngày thường, nên nó thấy mệt. Vì thế, sau khi trả bát, cùm xong, tôi cũng phải nằm vật ra. Lần này, không phải vì đói, mà vì căng bụng. Hơi mệt, thở hổn hển, nhưng mà chao ôi, sao con người sinh ra trên cõi đời này lại có lúc được no sướng thế, lại được ăn những hạt cơm kỳ diệu làm sao!
Sau buổi ấy, tôi thấy sáng kiến đó quả là tuyệt vời; tuy nhiên cũng rất mệt người. Vậy, để thích ứng nhất, mỗi tuần tôi chỉ làm hai lần vào thứ Ba và thứ Sáu.
Tuần nào tôi cũng áp dụng, như thế, mỗi tuần tôi được hai lần đã đầy; có khi đê mê suốt đêm cho tới sáng hôm sau. Cũng có hôm bất chợt, tên cán bộ trực trước khi đóng chốt cùm, còn vào buồng ngó nghiêng một lượt; khi thấy một gói treo trên tường, y hỏi và bắt tôi lấy xuống cho y xem. Tôi lấy xuống và trả lời:
- Báo cáo, tôi đang ăn bị đau bụng, gói lại để chốc nữa khỏi đau sẽ ăn.
Tất nhiên, y làm sao hiểu được nỗi niềm và ý định của tôi.
Sáng hôm sau, lại là ngày Chủ Nhật, một Chủ Nhật đầu Đông. Xà lim lạnh ngóm, lại càng thấy vắng lặng hơn. Những trận gió Đông Bắc mò về sớm, từng đợt chui qua cửa sổ, lách qua mái ngói, gây ra những tiếng vi vu rền rĩ, càng gợi nỗi nhớ nhà đối với người tù. Tiếng “con mẹ chửi thuê” trên chạng ba của cây bàng ngoài sân trại đã bị tắt họng, không nói được nữa. Như thế là đã đến giờ hành chính (giờ làm việc) mà vẫn chả thấy tên cán bộ trực vào mở cửa cho tù ra đổ bô? Hàng tiếng đồng hồ trôi qua, xà lim vẫn yên ắng. Chắc các buồng khác cũng như tôi, cũng đang băn khoăn thấp thỏm vì sự bất thường này, nhưng đều chưa có lời giải đáp. Bỗng nghe nhiều những tiếng ồn ào, chuyện trò của một đám đông người gồm cả đàn ông, đàn bà đang đi vào, từ phía cổng xà lim.
Tôi hơi cau mày, vểnh tai nghe, và phán đoán. Khi nghe thấy tiếng mở cửa buồng số 2, rồi số 13, tôi đã hiểu. Đây lại là một phái đoàn tham quan nào đó, chúng đang bịp bợm đưa đến Hỏa Lò, nơi xà lim án chém.
Tôi đang nghĩ ngợi mông lung, đột nhiên một giọng miền Trung rành rọt từng lời:
- Kính thưa các đồng chí, nơi đây thực dân Pháp vô cùng dã man, tàn bạo đã dùng những loại cùm thế này để cùm các đồng chí Hoàng Văn Thụ và Trần Đăng Ninh. Hai đồng chí ấy đã kiên trì chịu đựng gian khổ, lấy máu xương để nhuộm thắm tình giai cấp. Hai đồng chí đã quyết tử, để cho đảng ta quyết sinh. Chúng ta ngày nay được thừa hưởng những thành quả của cách mạng vinh quang do máu xương của các đồng chí đã nằm xuống.
Một vài tiếng phụ nữ xụt xịt, rồi nức nở. Trong cảnh vắng lặng, tiếng nức nở làm xao xuyến xà lim. Nghe những tiếng xụt xịt run rẩy của mấy người phụ nữ, óc tôi miên man liên tưởng đến những phương pháp dắt, lái tư tưởng quần chúng của cộng sản thật đáng nể. Chúng áp dụng một phương pháp tinh vi và tuyệt vời, tạo những điều không có trở thành có theo ý muốn của các tên lãnh đạo.
Muốn có những người chảy nước mắt khóc lóc trong các cuộc biểu tình phản đối Mỹ, hoặc chính quyền miền Nam đã tàn sát (?) dân làng, đàn bà và trẻ em ở đâu đó, chúng chỉ cần phóng đại sự việc thành ghê tởm, thảm khốc.
Cụ thể như vụ Phú Lợi ở Biên Hòa chẳng hạn, trước đây, ở trên đài, trên báo, thậm chí ở các cơ quan nhà máy, chúng bắt quần chúng phải học tập, mổ xẻ phân tích nữa. Rằng thì là, trong một cuộc biểu tình của một huyện nào đó ở Nghệ An, để phản đối sự tàn bạo dã man của chính quyền Sài Gòn, chính quyền đã cho thuốc độc vào thức ăn để giết hại hàng nghìn tù nhân ở Phú Lợi. Chúng sẽ diễn tả quần chúng trong cuộc biểu tình đó đã phẫn uất vô cùng với nhiều tiếng gầm thét, la ó, kêu gào, đau xót,…thậm chí đã có nhiều đồng chí đảng viên trung kiên, nhiều đồng chí đoàn viên ưu tú, và một số cảm tình đảng, cảm tình đoàn đã dạt dào tình thương giai cấp, đã nức nở thương các đồng chí ở nhà tù Phú Lợi như người nhà ruột thịt của mình, v.v… Chúng ca ngợi, đề cao những người khóc đó mới thực là gắn liền thịt da vào giai cấp, v.v…Để rồi, bây giờ chúng tổ chức cuộc biểu tình đó ở Hà Nội, chúng cũng reo hò, gầm thét, đả đảo chính quyền miền Nam.
Trong số hàng ngàn, hàng vạn quần chúng này, sẽ có nhiều đảng viên, đoàn viên, cảm tình đảng, đoàn, đang cuồng tín say sưa phấn đấu trong công tác, cũng như mong được vào đảng, vào đoàn. Vì trong lòng đang cuồng nhiệt, từ sự suy nghĩ, đến những xúc cảm tình giai cấp, tự ý niệm có thấy lòng xúc động và căm thù kẻ thống trị, mới là người của giai cấp vô sản thực sự; mặt khác, cũng để cho mọi cấp lãnh đạo thấy mình chính là người của giai cấp, cho nên tự nhiên thành xúc động “thật”, và nước mắt chảy ra. Rồi cũng nức nở như một số người khác vậy.
Như vậy, bây giờ sự “khóc” đã thành sự thật. Chúng đến gặp từng người, hỏi tên, phỏng vấn đưa lên đài, lên báo.
Chưa có sự thật, chúng còn làm ra thành có. Bây giờ, đã có sự thật rồi, chúng sẽ biết cách phát huy tối đa. Từ điểm đó, ta không lạ gì lắm khi xem những cuốn phim có nhiều người khóc nức nở để tỏ tình thương yêu những người bị tàn sát hàng loạt. Thậm chí, ta còn thấy những người đàn bà Ý, Pháp, Thụy Điển,…..khóc lóc, nước mắt chảy long tong, phản đối Mỹ đã ném bom tàn sát trẻ con, và đàn bà, v.v… Nhất là vụ Mỹ Lai sau này. Về mặt chính trị, điều này, chúng đã thu hoạch được những thành quả vô cùng to lớn. Những hình ảnh ấy có sức thu hút, lôi cuốn lòng người ghê gớm, và nhất là còn có…tác dụng dây chuyền.
Tôi phải thừa nhận, đấy là một nghệ thuật của chúng. Vậy, việc mấy con mẹ đang xụt xịt chảy nước mắt ở xà lim này, cũng không ngoài những tâm lý và điều kiện trên.
Mãi gần một tiếng đồng hồ, khi chúng đã đi ra rồi, cán bộ mới mở cửa buồng cho xà lim ra đổ bô. Nghe tiếng mở những chốt cùm, và đóng cùm ở các buồng, tôi chợt nghĩ, không biết các người tham quan lúc nãy có biết được xà lim này có 14 buồng. Vậy còn 12 buồng nữa, bên trong hiện giờ có bao nhiêu người đang bị những cái cùm của thực dân Pháp dã man ấy, khóa đôi chân không? Cho nên ở trên đời này, nhất là thời đại ngày nay, người ta lầm nhiều lắm, mà vẫn cứ đinh ninh là mình sáng suốt, đã biết rõ mới chết chứ!
Càng gần về trưa, trời càng sáng dần, có lẽ bên ngoài đã có mặt trời. Ban ngày về mùa Đông, ở miền Bắc, mặt trời hay nguợng ngập che màn, cho nên cảnh vật càng lạnh lẽo, đìu hiu.
Tiếng loa trưa đang ra rả nói về tên Nguyễn Đức Thuận nào đó, vì vậy, tôi lắng nghe. À! Chúng nó đang ca ngợi tinh thần kiên trì chịu đựng của Thuận trước sự đàn áp dã man vô nhân đạo, tàn ác nhất loài người, hơn cả phát xít Hitler, của chế độ Ngô Đình Diệm. Theo chúng, Nguyễn Đức Thuận đã bị giam hãm gần 3 năm trong xà lim buồng tối, thiếu thốn hết mọi thứ, đến nay mới được thả và chỉ còn da bọc xương. Nhân dân miền Bắc đang săn sóc, bồi dưỡng sức lực lại cho Thuận, để đồng chí Thuận sẽ viết lại những ngày gian khổ cùng cực trong bàn tay đầy máu của Ngô Đình Diệm, để tố cáo với thế giới loài người. Đó là một tấm gương bất khuất trong nanh vuốt của kẻ thù…
Hàng tháng trời, chúng cứ ra rả về Nguyễn Đức Thuận, y đang viết tác phẩm hồi ký “Bất Khuất”. Y là cán bộ trung ương, bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt. Sau gần 3 năm ở xà lim, chẳng hiểu vì sao bây giờ y được tha. Và được đưa về miền Bắc. Rồi cuối cùng, y làm Phó chủ tịch Tổng Công Đoàn, mà Hoàng Quốc Việt là chủ tịch.
Tôi không muốn nghe, mà cứ phải nghe, đầu tôi muốn nóng lên. Ít ngày sau, tôi đi cung, trên đài vẫn còn nói nhiều về tên Nguyễn Đức Thuận, với cuốn hồi ký “Bất Khuất” của y. Khi vào gặp chấp pháp, tôi chẳng sợ quái gì, tôi hỏi thẳng:
- Ở trên đài, dạo này, các ông đang nói về Nguyễn Đức Thuận bị chế độ vô nhân Ngô Đình Diệm bắt giam trong buồng kín xà lim gần 3 năm. Các ông bảo là Ngô Đình Diệm dã man tàn ác. Vậy trường hợp của tôi cũng đã gần 3 năm rồi, và còn chưa biết đến bao giờ thì sao? 21.gif (Violet đặc biệt rất thích đoạn này )
Mắt tên Thành quắc lên. Từ trước, y vẫn là người có vẻ có cảm tình với tôi, chưa bao giờ nổi nóng như vậy. Y đập mạnh tay xuống bàn:
- Anh không được nói láo? Anh dám ví anh với người cách mạng à?
Thấy y nổi sùng, tôi im lặng, rồi nhỏ nhẽ nói:
- Thưa ông, tôi không bao giờ dám ví tôi với ông Nguyễn Đức Thuận. Nhưng, tôi thấy ông Nguyễn Đức Thuận ở cấp Trung Ương Đảng, mà Ngô Đình Diệm bắt được lại còn thả ra, cũng như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Đào Sĩ Chu, v.v…đều đã bị bắt, nhưng rồi cũng đã được Ngô Đình Diệm thả hết. Có lẽ, vì ông Diệm thấy họ là cán bộ Trung Ương của đảng, nên không dám giam lâu. Tôi thắc mắc, không biết, nên hỏi ông vậy thôi. Chứ tôi là loại “tép riu”, đời nào tôi dám ví với ông ấy.
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Violet
post Jun 8 2008, 08:47 PM
Post #60


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Năm Mươi Tám

Một người tù… Mỹ!...

Kỳ này đã cuối Đông rồi, thế mà trời càng lạnh dữ. Có khi cả tuần lễ không thấy ánh mặt trời. Gió lạnh như cắt da, cắt thịt. Bên ngoài, mưa phùn rả rích, nhì nhẹt suốt ngày đêm.
Vì vậy, trong xà lim lại càng tối tăm, vả lại đôi bàn tay cũng sưng buốt, không cầm được kim khâu, cho nên hầu như suốt ngày tôi nằm đắp chăn là nhiều. Chỉ khi nào nằm nhiều quá đau lưng, tôi mới ngồi lên một lúc, rồi lại nằm xuống. Không còn cách gì khác, trong cảnh này, tôi lại nằm suy nghĩ mông lung hết chuyện nọ, tới chuyện kia. Tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại nhiều lần câu chuyện chiếc khăn choàng tàng hình trong phim “Tên Trộm Thành Bát Đa”… Tôi thấy, để diệt chủ nghĩa cộng sản trên trái đất này, phải mất ít nhất sáu tháng. Trong sáu tháng ấy, tôi phải nỗ lực đi theo máy bay nhiều lần, hết nước cộng sản này sang nước cộng sản kia. Tôi phải cắt tai và giết nhiều lãnh tụ cộng sản. Nghĩa là…tôi phải vất vả nhiều lắm.
Vậy, đã mơ ước, thì mơ ước cho…đã. Sự ước mơ có giới hạn nào đâu? Cho nên, tôi lục lọi, tìm tòi một thần thông khác, sao cho nhẹ nhàng, đỡ vất vả và hữu hiệu, thần kỳ hơn… Tôi nghĩ đến “Cây Đèn Thần của Aladin”! Hiện giờ, với cảnh trong cùm, dạ dày luôn luôn “giặt sạch phơi khô” 23 giờ 40 phút trên 24 giờ, nghĩa là chỉ 10 phút vào buổi sáng và 10 phút vào buổi chiều, dạ dày bị ướt vì có tí cơm; chân tay lại sưng mọng đỏ, ngứa buốt ngày đêm;…và với những cảnh huống như vậy, trong mùa Đông lạnh giá này, nếu…tôi có đèn thần của A La Đanh, tôi sẽ làm gì?
Cái gì cần làm trước, làm trước. Tôi lấy cây đèn ra, gãi gãi mấy cái vào thân đèn cho ông thần hiện ra. Sau khi ông thần hiện ra, khoanh tay cúi đầu, lễ phép thưa:
- Kẻ thân là tôi tớ của chủ nhân, tuyệt đối phụng mệnh của chủ nhân!
Tôi phải ra lệnh ngay là hãy bẻ cái cùm nay ra, và chữa cho tôi khỏi đau và sưng ngón tay, ngón chân đã; bởi vì tay chân còn đau, ăn gì cũng không ngon.
Khi thần đã chữa xong, bấy giờ mới làm như A La Đanh, sai thần dọn một bữa ăn thịnh soạn, “chén” ngay tại sàn xà lim này. Nhưng, thần còn phải làm sao cho tôi khỏi rét, run quá! Sau đó, mang ngay tôi về một khách
sạn nào đó, ở miền Nam, để tôi tắm rửa, thay quần áo tàm tạm, bình thường. Nghỉ ngơi cho khỏe. Ngày hôm sau, sai thần đưa về nhà thăm cha mẹ và các em; nếu thấy nhà túng thiếu, tặng ít tiền để tiêu xài tàm tạm. Nói chung, phải căn dặn thần không được để một dấu vết gì cho bất cứ một ai nghi ngờ có chuyện lạ lùng của Thần Đèn.
Việc cá nhân coi như tạm ổn, cũng phải mất hai ngày đấy chứ, bây giờ phải bắt tay vào nói chuyện đến cộng sản và thế giới loài người. Trước hết, tôi sai thần đèn đưa tôi xuống vùng rừng U Minh, chỗ không người, làm ngay một căn nhà rộng, chứa được độ từ 100 đến 150 người. Căn nhà để trống trơn, chỉ duy nhất có một cái bàn và hai cái ghế. Căn nhà rộng thênh thang sơn ba phần màu trắng, một phần màu đen. Chỉ trong chốc lát, giữa vùng U Minh vắng vẻ, hoang dã, đã có một căn nhà theo ý tôi muốn. Khi đã sắp xếp xong mọi việc, tôi ra lệnh rõ ràng cho Thần Đèn:
- Trước khi đưa ai về đây, đều làm họ bất tỉnh!...Hãy lần lượt bắt những tên Chủ tịch đảng cộng sản, hoặc Bí thư thứ nhất, hay Tổng bí thư của tất cả những nước cộng sản về đây đặt ở chỗ màu đen. Tên nào cũng khóa chân và tay. Không để bất cứ một loại vũ khí gì trong người chúng.
Tiếp theo, cũng vậy, tôi sẽ ra lệnh cho Thần Đèn làm phép cho họ tỉnh lại hết. Chắc ông nào, bà nấy cũng mở to đôi mắt ngạc nhiên, kể cả Tổng Thống Johnson, và Brejnev cũng thế.
Bước thứ hai, mở hết các khóa chân, tay, bắt ngồi tại chỗ. Trước khi bắt đầu nói chuyện, tôi ra lệnh cho thần là nếu trong quá trình tôi nói chuyện, tên nào có tư tưởng chống đối hay bướng bĩnh, thần cho hiện lên trán hắn một điểm tròn màu đen mà chỉ tôi mới trông thấy. Cuối cùng, một điều quan trọng tôi phải nhờ thần đèn, đó là vấn đề ngôn ngữ. Tôi vẫn nói tiếng Việt Nam, nhưng Thần Đèn phải hiển phép thế nào để tất cả mọi người trong nhà này, bất kể là nước nào, cũng đều hiểu toàn bộ những lời nói và ý của tôi…bằng tiếng của họ!
Xong xuôi, tôi đứng lên (vì từ sớm tôi vẫn ngồi ghế). Hàng mấy trăm con mắt đang mở to hướng về phía tôi. Đầu óc họ đang căng lên hàng trăm câu hỏi mà chưa được trả lời. Bằng một giọng rõ ràng, thong thả và trịnh trọng, tôi nói:
- Thưa quý vị, trước khi thưa cùng quý vị về nhiều vấn đề, tôi báo ngay cho quý vị rõ, chỗ quý vị đang ngồi là trên đất nước Việt Nam. Ngay việc quý vị hiện diện đầy đủ ở đây, không thiếu một bộ mặt lảnh tụ nào trên thế giới, hẳn quý vị đã thấy được quyền lực vô giới hạn của tôi rồi. Do đó,
tuyệt đối quý vị đừng có bao giờ có ý tưởng cưỡng lại, hay chống lại, nếu không sẽ mang hậu quả tùy theo mức độ.
Hôm nay, tôi đưa tất cả quý vị về đây, để phổ biến một số việc cấp thiết trong thời đại chúng ta, trên quả địa cầu này.
Thực ra, vì tôi muốn sự việc diễn tiến một cách nhẹ nhàng, đẹp đẽ, nếu không với quyền lực vô song của tôi, tôi không cần đưa quý vị về đây làm gì. Tôi cứ bắt buộc quý vị phải làm theo ý tôi muốn, ngay tại nước quý vị, điều đó hoàn toàn vẫn được như thường. Cho nên, xin quý vị hãy hiểu và tin như thế. Riêng ông Johnson được mời lên ngồi ghế, bời vì nước ông là mẫu mực về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Ông lại có trách nhiệm phổ biến và chỉ dẫn các nước khác.
Bây giờ, xin quý vị hãy lắng nghe và ghi nhớ bốn điều bắt buộc sau đây:
Điều một: Hủy bỏ toàn bộ chủ nghĩa cộng sản. Hủy bỏ mọi cơ cấu nhà nước cộng sản.
Điều hai: Hủy bỏ toàn bộ chế độ nhà nước quân chủ.
Điều ba: Hủy bỏ toàn bộ vũ khí quy ước, kể cả những công thức đã được chế tạo cũng như sắp chế tạo. Riêng điều này, ngay khi quý vị còn ngồi đây, tôi đã ra lệnh triệt phá hoàn toàn, bất cứ che dấu bí mật như thế nào. Quý vị hãy tin như vậy. (Tôi lẩm nhẩm ra lệnh cho Thần Đèn đi thi hành).
Điều bốn: Đất nước của quý vị là chung của mọi người dân trong nước quý vị, không hề của riêng một ai. Mỗi một thế hệ, có biết bao nhiêu người tài ba, đạo đức, có khả năng lãnh đạo quốc gia ở mỗi nước.
Do đó, chế độ Cộng Hòa Dân Chủ của Mỹ hiện nay là tiến bộ nhất. Dù cho ai lãnh đạo chế độ ấy, có hiền và đạo đức như thánh thì tối đa cũng chỉ được hai nhiệm kỳ. Sau đó, xin mời xuống, cho người khác lên. Không những đất nước là của chung, còn một điều hiển nhiên nữa là, hễ ở lâu trên ghế lãnh đạo, sẽ trở thành độc tài và lừa bịp. Cho nên, bắt buộc toàn bộ các nước trên thế giới phải tổ chức nhà nước theo cơ cấu nhà nước Hoa Kỳ. Điều này Tổng Thống Johnson chịu trách nhiệm phổ biến và chỉ dẫn cho các nước khác.
Quý vị đừng bịp bợm rằng “tôi chỉ là Tổng Bí Thư”, “tôi chỉ là Chủ Tịch Đảng”, v.v… hoặc “đấy là do nhân dân muốn!” Không có “nhân dân” nào
cả, chỉ có một nhúm người thích chủ nghĩa cộng sản, lấy nhân dân làm cái bình phong để được làm vua không ngai mà thôi.
Nói đến đây, tôi nhìn thấy trán của một số người ngồi trong đó đều có điểm đen, nhất là phía cộng sản, và những nước quân chủ. Vì vậy, trước khi tiếp tục nói chuyện, tôi đi xuống phía cộng sản. Với một con dao sắc như nước, hễ tên nào trên trán có chấm đen, tôi xẻo một bên tai. Mới xẻo được gần chục tai, nhìn lại trán của mọi người, tôi thấy điểm đen bay đi sạch trơn. Lúc đó, tôi bèn trở lại chỗ cũ, tiếp tục nói:
- Từ nay, xã hội loài người sẽ không có bất cứ một nước nào chơi kiểu đàn anh lấn át nước kia. Chỉ mới có hiện tượng ấy, người nguyên thủ của nước đó sẽ bị xẻo một cái tai để cảnh cáo. Do đó, tất cả chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ đem toàn bộ quỹ về quân sự và vũ khí nguyên tử vào quỹ An Sinh và Phúc Lợi Xã hội. Tăng cường các cuộc tham quan hữu nghị giữa các nước. Xóa bỏ dần cản bất công nghèo đói. Các chính phủ mỗi nước phải chăm lo mọi mặt cho người dân, phải có trách nhiệm dẹp bỏ những mầm mống cướp, trộm, cùng các tệ nạn xã hội. Riêng những nước nào có ý đồ bá quyền, muốn chơi kiểu đàn anh với nước khác, tôi sẽ chịu trách nhiệm trừng trị.
Tôi hiểu, tất nhiên cũng sẽ có một số lộn xộn, một số sai lầm. Nhưng, do quyết tâm tạo lập một thế giới tốt đẹp, nhất là tôi lại có cây đèn thần, tôi sẽ làm được. Chỉ trong vòng một tháng là tối đa.
Tôi cứ nằm nhắm mắt mặc cho tư tưởng tung hoành. Những lúc như vậy, tôi không cảm thấy cái đó, rét, cùm kẹp, chân tay nhức buốt, cái cô đơn heo hút giữa ngày Đông giá lạnh với gió Bấc, mua phùn…hành hạ nhiều như lúc bình thường. Thậm chí đến nỗi, có khi cán bộ rút chốt cùm, mở cửa cho tôi ra đổ bô, chờ mãi không thấy tôi ra, y thò cổ vào buồng, thấy tôi vẫn nằm yên đắp chăn, chân đang rung lên như những dây đàn muôn điệu đang được dạo nốt nhạc ngày Xuân, bèn quát ầm lên:
- Anh này có ra rửa không?
Bất đắc dĩ, tôi chỉ trả lời hai tiếng: “Không ạ!”, rồi mặc cho y bực tức đút chốt cùm và đóng sầm cửa lại. Tôi vẫn cứ để hồn lang thang theo những hình ảnh của cuốn phim “siêu thoát”. Chỉ lúc lấy cơm, giấc mộng thần thông của tôi mới phải ngưng lại mà thôi.
Thấm thoát, rồi mùa Đông khắc nghiệt cũng phải qua đi, để nhường chỗ cho nàng Xuân về với thế nhân.
Bên ngoài, tuy trời đã vào Xuân; nhưng, trong xà lim có cái gì thay đổi đâu. Vẫn là những tiếng cùm, tiếng khóa, với những tiếng rên la của các buồng. Còn tôi, đôi chân và đôi tay vẫn ngứa buốt, vẫn ngồi trùm chăn ủ rũ, với cái dạ dày không dính nước. Nhưng, nghĩ tới mùa Xuân đến, trong lòng tự nhiên cũng ngẫu hứng, buột miệng ngâm nga vang cả xà lim một đoạn thơ Xuân của Nguyễn Bình thì phải, tôi cứ thay đổi đại theo hoàn cảnh của mình:
Xuân đã sang rồi, ai có hay Tình Xuân chan chứa, ý Xuân đầy Xà lim buồn lắm…Xuân không đến Sao chẳng về đi, lại ở…đây?
Cửa sổ nhỏ xoạch mở, giọng tên Dư, vẻ sừng sộ:
- Ngâm nga, hát cái gì đấy? Anh muốn phá trật tự phỏng?
Tôi nhìn y, rồi nhỏ nhẹ trả lời:
- Thưa ông, thật là buồn! Nhớ nhà quá!
- Tôi cấm anh không được làm ồn trong xà lim!
Nói xong, y đóng mạnh xánh cửa sổ nhỏ vào như vẻ rất nghiêm khắc. Nhưng, tôi đã thoáng thấy trong ánh mắt của y khi nhìn tôi, một góc có màu xanh nhạt, như một sự dễ dãi và cảm thông:”Tên này ở xà lim mãi, ngày Xuân nó cũng phải nhớ nhà một tí!”, mặc dù cái mồm của y quát tôi. Chính tôi, tôi cũng không hiểu tại sao mình lại có ý nghĩ như vậy khi tôi nhìn mắt y. Phải chăng, đã từ nhiều ngày, có nhiều hiện tượng nho nhỏ tổng hợp lại tôi nhìn ra được tự nơi y, tôi cảm thấy ở tận cùng của trái tim, y vẫn còn một số chất người?
Tối hôm nay, tiếng loa làm tôi phải chú ý lắng nghe với những bài bình luận, hoặc thông báo, cùng những lời cảnh cáo của chính phủ miền Bắc đối với Mỹ. Nào là, Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Liên Xô, Kosygin, đích thân đi Hà Nội; Mỹ quyết định dội bom bắn phá toàn Bắc Việt; nào hai Tiểu Đoàn đầu tiên của Quân Lực Mỹ đã rời Okinawa đi tới Nam Việt Nam, v.v…
Như vậy, sau bao nhiêu ngày đêm đe dọa, rồi chuẩn bị, rồi lại cảnh cáo lẫn nhau, bây giờ lửa cháy, đạn bay, bom rơi bắt đầu. Lúc này, tôi chỉ nhớ vào đầu 1965, có lẽ khoảng tháng 2, tháng 3 gì đó.
Tình hình miền Nam, tình hình miền Bắc đang như nước sôi lửa bỏng. Đất nước đang trong cảnh đầy vơi chìm nổi như thế, mà chân tôi vẫn đút trong cái cùm oan nghiệt. Ngày đêm, lòng tôi như lửa đốt. Tôi như con thú bị nhốt trong chuồng. Nhưng còn thú, dù là cọp, sư tử, hay voi đã ở trong chuồng, đâu có bị cùm nữa, và đâu có bị cho ăn đói.
Có những đêm, lòng ngổn ngang bao nhiêu nỗi niềm trăm hướng của đất nước, của gia đình, của cuộc đời, tôi không làm sao ngủ được. Cũng có khi, mệt quá thiếp đi trong đêm dài; rồi giật mình thức dậy, nằm nghe tiếng đêm thâu chầm chậm trôi qua, trong lúc hồn cứ dật dờ bay về phương Nam thân yêu với gia đình.
Hình ảnh người mẹ hiền lúc này đã sáng chói, che mờ nhiều bóng khác phía sau. Nhiều đêm, tôi nhớ mẹ tôi đến cái độ quắt quay, nỗi nhớ, niềm thương cứ cuồn cuộn trong lòng, ngút cao như núi. Niềm ước mong to lớn luôn luôn tràn ứ trong lòng là, được cầm tay người mẹ yêu quý mà vuốt ve, mà gục mặt vào cho những giòng nước mắt nhớ thương, nóng hổi tuôn tràn. Cho vơi đi phần nào cái se sắt của tình mẫu tử thiêng liêng. Nhưng, nào có được! Vẫn chỉ là ngút ngàn phương trời mờ mịt. Vẫn ngày đêm chỉ là những tiếng gọi thầm nỉ non, thiết tha từ trái tim rỉ máu. Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Khi đang ngụp lặn trong một trời thương nhớ đó, đầu óc tôi chợt lóe lên một ý nghĩ. Phải rồi! Thịt chỗ đầu rốn của tôi, đúng là thịt của mẹ. Người ta cắt cái ruột truyền sự sống của mẹ tôi với tôi, khi tôi được sinh ra. Vậy rõ ràng cho tay xuống rờ mó, vuốt ve cái rốn của mình, mắt lim dim tưởng như được gần mẹ, như ngửi thấy hơi hướng ngọt ngào của mẹ. Một nguồn nóng ấm đang tỏa dần ra trong cõi lòng lạnh giá của tôi. Và từ đó, nhiều đêm, dõi theo mãi những ngày xa mẹ, nơi núi rừng biên cương đầy lam sơn, chướng khí sau này, mỗi khi nhớ đến mẹ, tôi lại sờ rốn …của mình.
Dạo này, tiếng loa la ó suốt ngày đêm. Mỹ đã đem quân chiến đấu vào miền Nam.
Tôi nhìn và suy lý lại toàn bộ những mấu chốt, dữ kiện tản mạn từ sau Thế Chiến Thứ II; sau Chiến Tranh Cao Ly; vụ nói chuyện sức mạnh của Tổng Thống Kennedy với Krouchev, bắt Liên Xô phải nhường bước, mang những đầu đạn hạt nhân từ Cuba về, và rồi vụ Vịnh Con Heo. Rồi, với
thực tiễn tình hình miền Nam, miền Bắc Việt Nam lúc này…Tôi thấy ngay hai yếu tố nổi bật quyết định:
Thứ nhất: Bất kể tình huống ra sao, Mỹ mang quân vào miền Nam Việt Nam là sai lầm. Trong điều kiện giữa 2 miền hiện nay, nếu Mỹ mang quân vào miền Nam. Vô hình chung đã tạo cho miền Bắc, cũng như cho cái Mặt Trận Giải Phóng của chúng, trở thành có chính nghĩa. Và tất yếu, vế kia là chính quyền miền Nam lại trở thành mất chính nghĩa.
Thứ hai: Bây giờ, đã mang quân đội vào rồi, rút ra phải có điều kiện, không phải tự nhiên, bình thường mà rút ra được.
Vậy, để giải quyết vấn đề “đã trót” này, chỉ có một biện pháp duy nhất. Nếu Mỹ không làm như vậy, chỉ trừ trường hợp là sau đấy, có những diễn tiến đặc biệt gì khác của thế giới, còn cứ bình thường Mỹ sẽ không giải quyết được vấn đề. Đôi khi còn nghiêng ngửa, khó khăn, dù sau đấy Mỹ có mang bao nhiêu quân vào miền Nam cũng vậy thôi.
Đó là: Một mặt, tương kế tựu kế, ngay trong lòng nước Mỹ, lợi dụng báo chí, Quốc Hội, (những cơ quan từ trước toàn vạch áo cho cộng sản xem lưng), bằng mọi cách làm sao để thế giới, và ngay báo chí của phe ta không hề biết. Tạo nên những tin tức để phe cộng sản, tin là Mỹ không bao giờ dám đem quân ra miền Bắc, sợ đụng Trung Quốc, có khi đụng cả Liên Xô nữa. Một mặt, bất ngờ, bằng nhiều đường hướng quân Mỹ và một số quân đồng minh, nhưng chủ chốt là của Việt Nam Cộng Hòa, chớp nhoáng, bất ngờ, thần tốc đổ bộ đánh ra miền Bắc, chấp nhận nếu có phải gặp Trung Cộng.
Tôi đã có hơn một tháng ngược xuôi khắp Thủ Đô Hà Nội, một số vùng nông thôn ở miền Bắc, hiểu được một cách cơ bản điều điện xã hội, lòng quân, lòng dân v.v…Tôi nói một cách có cơ sở là sẽ giải quyết miền Bắc về căn bản trong vòng nửa tháng. Từ đấy, giải quyết toàn bộ vấn đề Việt Nam, và cả lẫn miền Bắc. Có thế ngoại giao kìm chân nhờ Nhật và Tây Đức, những phô trương ở lục địa khác. Chưa hẳn Trung Cộng và Liên Xô đã dám vào Việt Nam khi chuyện đã rồi.
Bởi vì, như trên tôi đã trình bầy, hãy nắm vững yếu tố “huyệt” thời nay “Hễ Mỹ làm quá, Liên Xô phải lùi; ngược lại cũng thế. Cả hai phe đều tự hiểu, nếu không như vậy là tự hủy diệt cả hai. Vậy, ai cao tay nắm được “huyệt” thì giải quyết lần được nhiều vấn đề. Nhưng, dù trong lãnh vực chính trị, hay quân sự cũng vậy: Yếu tố bất ngờ là nồng cốt trong mọi hành sử. Phải làm sao bịt được mắt đối phương lại mà đánh. Không có một kế hoạch nào thần kỳ cho bằng yếu tố “bất ngờ”.
Những thiên tài quân sự, cũng không thể trở thành xuất chúng, nếu trong quá trình xử lý sự việc, thiếu yếu tố bất ngờ! Bởi vì, muốn xử dụng yếu tố bất ngờ, cái trước hết (điều này không đơn giản, biết bao người, thực tế chưa hiểu rõ kẻ thù của mình, nhưng lại cứ tưởng là mình đã biết quá rõ) là, phải hiểu địch đã. Phải hiểu họ rõ, mới làm cho họ bất ngờ được…
Sáng hôm nay, cũng như mọi buổi sáng, tôi vừa ra đổ bô vào, tên Dư đã chốt cùm. Cửa đóng, được một lúc cửa sổ nhỏ lại mở. Tên Bằng “môi cá ngão” chỉ mặt tôi, cộc lốc:
- Đi cung!
Tôi đã biết tên này, tuy y ăn nói nhấm nhẵn như thế, nhưng y không đến nỗi ác ôn lắm.
Khi ra tới gần phòng cung, trên con đường hành lang nhỏ hẹp, tôi đang dõi mắt nhìn hai chiếc hầm trú ẩn tập thể to lồ lộ ở góc mé sân trước Hỏa Lò (sân có giàn nho), bỗng mắt tôi chợt nhìn thấy một người rất cao nhưng gầy, cũng mặc bộ quần áo sọc đỏ sậm giống tôi, đang đi từ phía đầu hành lang kia ngược lại hướng tôi, và cũng có một tên công an áo vàng đi kèm phía sau. Tự nhiên tôi thót tim khi nhìn thấy dáng đi lểu khều và đôi mắt…xanh. À, người Mỹ! Phi công Mỹ! Sở dĩ tôi chưa nhìn thấy ngay, vì tôi không ngờ được. Trong tâm, tôi cứ đinh ninh người đó cũng như nhiều người tù đồng bào mình mà tôi vẫn gặp, vì vậy mắt tôi cứ nhìn qua cái lăng kính của óc mình, tức là định kiến, cho nên khi bất chợt nhìn ra, tôi mới giật mình.
Anh phi công còn rất trẻ, chỉ khoảng 24, 25 tuổi như tuổi của tôi thôi. Nhưng đặc biệt, đôi mắt anh thật lơ láo, ngờ nghệch. Có lẽ anh đang có rất nhiều ngạc nhiên. Nhìn chung quanh anh, cái gì cũng lạ, không hề giống bất cứ cái gì trước đây, anh đã nhìn thấy ở nước anh; từ cảnh vật cho đến con người, nhất là dáng dấp, phong thái làm việc, cũng như sự đối xử. Chính vì thế đôi mắt anh trở nên ngờ nghệch chăng? Hay vì những phút bão tố tơi bời vừa qua, khi anh bị bắn rơi trên bầu trời, hãy còn ngập tràn nỗi bàng hoàng chưa phai nhạt trong anh?
Khi đi ngang qua nhau, anh nhìn tôi, tôi nhìn anh. Anh nghĩ gì, làm sao tôi biết được. Nhưng, có điều chắc chắn mà anh không thể ngờ được rằng, người anh vừa gặp cũng từ miền Nam, miền của tự do dân chủ đã vào mảnh đất này. Chỉ có khác, là anh đã xuống dù, công khai; còn tôi đã
đã đổ bộ, bí mật; anh xuống đất vì bị bắt buộc; còn tôi mò vào là do tự nguyện. Dù hai trường hợp khác nhau, nhưng vẫn gặp nhau ở một điểm; đó là Hỏa Lò Hà Nội, mà các anh vẫn gọi là “Khách Sạn Hilton”.
Còn tôi khi nhìn anh, lòng tôi dâng lên một nỗi niềm vừa xót thương, vừa ngưỡng mộ biết ơn. Xót thương, ái ngại, vì các anh ở Mỹ, từ khi lọt lòng mẹ đã quen sướng. Bây giờ, trong cảnh này, dù rằng tôi hiểu các anh sẽ được hưởng một quy chế tốt hơn chúng tôi, nhưng tôi tin rằng các anh sẽ thấy khổ cực hơn chúng tôi. Ngưỡng mộ và biết ơn vì các anh thật hiên ngang, dũng cảm. Dù Hà Nội nói riêng, và miền Bắc nói chung với lưới lửa dày đặc, mà các nhà báo gọi là “những tọa độ lửa còn hơn cả Stalingrad trong Thế Chiến Thứ II”, thế mà vì sự tự do của một dân tộc khác, vì sự bần hàn khổ cực đắng cay của những người dân của một nước xa xôi, các anh đã dũng cảm nhận nhiệm vụ vinh quang, không nề hiểm nguy đến tính mạng, đi bắn những kẻ đàn áp tự do.
Tôi đi chiến đấu cho dân tộc, cho Tổ Quốc tôi; còn anh lại vì sự tự do của dân tộc tôi, cho nên tôi nhìn anh với sự ngưỡng mộ và biết ơn là thế.
Anh đã đi qua rồi, hình ảnh của anh và những suy nghĩ về anh vẫn quấn quít người tôi, mãi tới lúc tôi vào phòng cung.
Lại gặp Thành, và một người nữa, dù chưa hỏi cung tôi bao giờ nhưng tôi đã quen mặt. Đi lại cung kẹo mấy năm nay, tôi đã gặp và trông thấy y nhiều lần. Thậm chí, nghe họ gọi nhau, tôi còn biết y tên là Quý. Y có cái sẹo ở trên mí mắt, nên có người còn gọi y là “Quý lẹo”.
Qua nhiều lần thấy thái độ của y lúc đùa vui, cũng như trò chuyện với những tên cán bộ khác, tôi biết y không đủ kiến thức, cũng như mánh lới để hỏi cung những loại tội về tình báo; vậy sao hôm nay lại có y ở đây? Chỉ một lúc sau, tôi tìm ra được câu trả lời, dù rằng tôi không dám khẳng quyết, nhưng cũng tàm tạm thỏa mãn điều thắc mắc của tôi. Thời chiến, rất hiếm cán bộ. Đáng lẽ, bây giờ, cung kẹo tôi chẳng còn gì đặc biệt nữa, một mình tên Thành cũng được rồi. Nhưng, có lẽ tên Thành, cũng như Phòng 44 Chấp Pháp cảnh giác cao, sau vụ tôi đánh cán bộ trốn tù, nên gặp tôi bây giờ thường từ hai người trở lên. Sự suy luận này của tôi càng được chắc chắn hơn sau mấy ngày gọi cung tôi lia lịa, cũng chỉ có tên Thành hỏi, chứ tên “Quý lẹo”, tuy dáng cao lênh khênh, cũng chỉ ngồi làm vì thôi, thỉnh thoảng mới đóng góp một vài nụ cười, hoặc vài câu hỏi không đâu, không quan trọng.
Suốt buổi hỏi cung hôm ấy, và liền bốn, năm ngày hôm sau, tên Thành hỏi lại toàn bộ từ đầu chí cuối sự việc của tôi. Cũng truy đi, truy lại một số việc có thể y quên, hoặc bây giờ y mới nghi ngờ. Y ghi tóm tắt, thế mà cũng phải một tuần lễ mới xong. Cứ mỗi buổi, tôi phải ký vào bản y ghi, sau khi đã đọc lại. Như vậy, đây là một hiện tượng kết cung của tôi? Phần vì, đã truy hỏi tôi gần 3 năm trời với biết bao nhiêu tình huống gay cấn. Phần khác, thời chiến tranh, Mỹ bắn phá càng ngày càng ác liệt, chưa biết diễn tiến của cuộc chiến sẽ ra sao, cho nên hãy tạm đóng cung của tôi.
Sau đó, lại hàng ngày, hai buổi tôi ra phải ngồi viết bản tự khai ở một phòng nhỏ, có một cảnh sát mặc đồng phục, đeo súng ngắn gác. Giai đoạn viết này là lần thứ hai sau hơn ba năm ở Hỏa Lò. Tôi hiểu đó cũng là một phương pháp gạn lọc, so sánh của chúng. Vì hiểu như vậy, cho nên, hầu như những việc chính yếu (trong những điều tôi đã khai, điều gì còn cất kỹ trong đáy lòng) tôi đều ghi nhớ. Nhưng, khi viết lại, tôi bỏ bớt dần đi những sự việc râu ria. Như vậy mới “lô gích”, nghĩa là hợp tình, hợp lý. Óc con người ta thì quên dần đi là việc tất yếu. Lần viết sau, nếu lại có những việc lần trước chưa ghi, ấy mới là rắc rối.
Cũng phải gần một tháng mới xong. Điều chính là tôi chỉ viết với nhịp độ bình thường, và lại vừa phải suy xét cân nhắc khi viết.
Khi tôi viết được mươi ngày, một hôm, từ một phía cửa sổ phòng bên cạnh, tôi thoáng thấy anh phi công Mỹ, tôi đã gặp lần đầu tiên. Tôi nói lần đầu tiên, để phân biệt với những lần sau đấy trên đường tôi đi và về hàng ngày tôi cũng đã gặp 2, 3 anh phi công Mỹ khác nữa. Có một anh phải đến 40 tuổi, trông rất dữ tướng. Cũng như anh đầu, tay còn quấn băng. Anh nào cũng xanh xao và gầy. Những đôi mắt xanh, hoặc nâu đều ngả thành màu trắng.
Khi gặp lại anh phi công buổi ban đầu ở phòng bên, cũng là lúc anh nghiêng người, liếc nhìn thấy tôi. Ánh mắt anh hình như cũng đã nhận ra hình ảnh một người mà anh gặp. Mặt anh tươi hẳn lên, không còn nét đăm đăm nửa như dò xét, nửa như xa lạ lúc buổi đầu gặp anh nữa. Anh cũng đang lúi húi ngồi viết. Thỉnh thoảng đầu anh động đậy, rồi quay lại nhìn tôi. Tôi cũng ngẩng lên nhìn anh bằng một ánh mắt đồng cảnh và gởi đi tình cảm chào hỏi. Vài lần, không hẹn mà chúng tôi đã cười với nhau, dù chỉ là một nụ cười ngập ngừng không rõ nét.
Tôi để ý, bên anh không có tên cảnh sát ngồi canh như bên tôi. Có thể chúng nghĩ, anh mắt xanh, mũi lõ lồ lộ, đi đến đâu ai chả thấy ngay. Cho nên, chúng chỉ giao giấy bút, rồi ngồi ở một phòng xa, chờ. Tên cảnh sát phòng tôi cũng thấy tôi và anh phi công Mỹ thỉnh thoảng nhìn nhau. Nhưng, chắc y cũng nghĩ anh kia là người ngoại quốc, ngôn ngữ bất đồng; hai nữa, mỗi người một phòng nên kệ cho nhìn nhau, vì vậy y nhìn thấy cũng quay đi.
Hình ảnh anh phi công đó làm tôi nhớ nhất. Cho mãi đến sau này, dáng dấp, khuôn mặt của anh vẫn khắc ghi trong lòng tôi. Chứ ngay những ngày sau đấy, hàng trăm phi công ở Hỏa Lò tôi gặp, nhưng rồi tôi quên mặt ngay. Cũng có thể anh là một trong những phi công bị bắn rơi ngay từ những ngày đầu của vụ trả đũa 5/8/1964 mà theo đài cộng sản, hôm đó chúng hạ được 8 phi cơ, bắt được 3 phi công (thật hay chăng)?
Khi đã viết xong, tên Thành còn gọi tôi lên một buổi nữa, thái độ của y hôm đó có vẻ tươi vui, tình cảm. Y nói thẳng có thể y đi công tác xa một số ngày, với bộ điệu úp úp, mở mở như đi vào “B” ấy. Vừa như báo tin mừng được vào “B”, vừa như gián tiếp đe dọa “chuyến này tao vào Nam sẽ biết rõ về mày”.
Cuối buổi, hai tay y cuộn vo, xoay xoay hơn 100 trang giấy viết tay của tôi, vừa như thực vừa như đùa, y nói:
- Câu chuyện của đời anh, sau này đất nước thống nhất, viết lại cũng hấp dẫn đấy chứ!
Tôi hiểu là y sắp chia tay, y nói một câu chuyện cho vui, vì thế, tôi cũng cười, trả lời:
- Thưa ông, nếu phải có kiếp sau, tôi xin để kiếp sau. Chứ kiếp này. Đó là chuyện không tưởng.
Y và tên Quý đều cười. Sau đó, tên “Quý lẹo” dẫn tôi xuống phòng trực, trả tôi về xà lim. Trên đường về, tiếng loa cứ lải nhải khẩu hiệu:”Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Đó là khẩu hiệu bịp bợm, dùng để bốc thơm mọi người, một hình thức xúi người khác ăn cứt gà: “Hãy nổ lực làm việc và công tác đi. Ngành ngành thi đua! Người người thi đua!”…Khẩu hiệu đó cứ ra rả, không ngày nào là không nói đến. Suốt những năm ở miền Bắc, tôi nghe đã nhàm tai. Thế mà bây giờ bỗng đỗi khác:
“Ta vì mọi người, mọi người vì chủ nghĩa xã hội”.
Vế dưới đã đổi khác hoàn toàn. Cách mạng mà! Phải luôn luôn thay đổi, luôn luôn đổi mới; nhưng thay đổi theo chiều hướng từ đường rộng rãi thênh thang đi vào con đường trước mắt cứ nhỏ hẹp dần. Đó cũng là một sách lược, một phương châm của những tên lãnh đạo cộng sản, không ngoài mục đích để thống trị người, và giữ cho chắc chắn chỗ ngồi của chúng!...

Go to the top of the page
 
+Quote Post

8 Pages V  « < 3 4 5 6 7 > » 
Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 23rd July 2025 - 08:08 AM