![]() |
![]() ![]() |
![]() |
![]() ![]()
Post
#37
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Bốn
Đổi Xà Lim, Bạn Tù Mới... 3 ngày trôi qua. Tôi vừa lại sức, lại hồn, một buổi chiều sau giờ làm việc, (5 giở chiều thì hết giờ làm việc), cửa con bỗng mở, mặt tên cán bộ mắt lồi: - Có gì mang hết đi, cả chăn chiếu! Y rút cùm. Tôi vội vàng lấy chân ra, vơ gọn chăn chiếu. Tôi không quên đút cái gối bằng cuống chổi Thanh Hao vào trong chăn, cuộn lại và mang cả cái gáo nữa. Y mở cửa, tôi ôm đồ ra. Chợt nhớ tới đôi đũa, tôi quay lại xin y cho lấy đôi đũa thường treo ở đuôi chốt cùm phía ngoài. Mọi hôm đi cung, thường ra cuối hành lang rồi rẽ tay phải. Hôm nay, lại rẽ phía trái, vào trong, tới một cái cửa, y mở. Chà, cả một cái sân to lớn, rộng thênh thang, với bao nhiêu dẫy nhà chung quanh. Có 5, 6 cây bàng to tướng, cành trơ trọi với những búp lá non mới nhú, trông khẳng khiu như những cánh tay gầy. Y dẫn tôi vòng theo mé sân, mở mấy lần khóa, rồi tới một khu toàn buồng. Một hàng chữ đỏ kẻ trên tường: Xà Lim II. Hơn 7 tháng trời ở xà lim III, hôm nay tôi mới nhìn thấy xà lim II. Xà lim II ở ngay cạnh cổng phòng trực của trại chung, nên có cái loa, tiếng nói đang vang vang nghe rõ mồn một. Vào tới buồng, đã có một anh nằm đang đắp chiếc chăn bông, lồm cồm bò dậy. Trong khi tên cán bộ rút chốt cùm, tôi tự hiểu, nên nhấc cùm ra và cho một chân vào. Y đóng chốt cùm, khóa cửa. Tôi quay lại gật đầu chào anh bạn mới. Anh chàng này độ 26, 27 tuổi, trông có vẻ khỏe mạnh, tuy da vẫn xanh xao. Anh mỉm cười gật đầu chào lại tôi. Tôi lục đục vừa trải chiếu vừa ngó chung quanh tường, lên cửa sổ. Không khí ở đây có vẻ khoáng đãng hơn xà lim III, cả ánh sáng nữa. Phía trên đầu nằm là một khung cửa sổ to, kích thuớc khoảng 1 mét x 60 phân, với những song sắt đường kính 2 phân, có lưới thép phía trong. Mép dưới cửa sổ chỉ cao hơn nền gạch khoảng 2 mét rưỡi. Do đấy, nếu đứng lên sàn, có thể nhìn ra ngoài được, phía giàn nho. Phía chân nằm, ngay trên cửa ra vào là một khung cửa sổ nữa nhưng bé hơn, khoảng 50 x 30 phân, cũng bọc lưới thép phía trong sát vào chấn song. Cùm và sàn cũng giống như xà lim III. Khác hẳn với cảnh vắng lặng tịch mịch của xà lim III. Ở đây có một chiếc loa gắn ngay trên cửa lớn ra vào trại chung, chĩa ra sân phía trước có giàn nho, nơi tôi vẫn đi cung. Như vậy là ngay cạnh xà lim II, vì vậy nằm trong buồng, tôi nghe tiếng loa rất rõ. Buổi chiều và tối đêm hôm đó, qua những câu chuyện thăm hỏi anh bạn mới cùng buồng, tôi được biết sơ lược về anh: Tên Phạm Huy Tân, nghề chuyên môn là y tá, phục vụ tại một xã ở Hà Nam, đã có vợ và một con. Anh tham gia hoạt động bí mật trong một đảng chính trị: “Tân Cách Mệnh Việt Nam Phong Trào” (gọi tắt là “Tân Phong”). Chủ tịch đảng tên là Chương (tôi quên họ), cũng là chủ tịch một xã thuộc Hà Nam. Đảng Tân Phong đã hình thành hoạt động được gần 3 năm. Đảng kỳ nền vàng có một sao đỏ ở giữa; cũng có tôn chỉ, mục đích, cương lĩnh chính trị; số đảng viên vài chục; đã phát triển lên miền cao là Hòa Bình, Tuyên Quang. Về sau bị lộ, vì Cộng Sản đã cài được người của chúng vào trong Ban lãnh đạo. Vì thế, nhân một buổi họp đảng, (lợi dụng một đám cưới nhiều khách khứa các nơi ra vào, đảng họp bí mật ở giữa một gian nhà trong), bất ngờ, Cộng Sản tới vồ tất cả tại chỗ. Sự việc đã xẩy ra cách đây hơn 6 tháng. Về phía tôi, tôi cũng nói thẳng là ở trong Nam ra. Tất cả những chuyện mà tôi nói chỉ nằm trong phạm vi tôi đã khai báo với chấp pháp. Đồng thời chỉ có khái niệm sơ lược. Qua một số ngày, với một số thử thách của tôi, cùng với những hiện tượng, tôi biết chuyện đảng phái và anh ta bị bắt là có thực. Nhưng, anh ta thuộc loại khôn ngoan vặt. Trong tình thế này, để tự cứu mình, anh ta đã thở ra những hơi muốn “tiến bộ”. Như vậy, anh ta còn nguy hiểm hơn một tên cán bộ dùng khổ nhục kế. Vì mọi người cùng cảnh sẽ mất cảnh giác, dễ tâm sự thổ lộ những tư tưởng và quan điểm, cũng như những công việc mình đã, đang và sẽ làm. Tuy nhiên, dù sao y cũng còn non nớt, cho nên sau những buổi đi cung về, nhiều khi y lộ vui ra nét mặt. Đôi lúc không kìm được, y nói thành lời: Nào là chấp pháp rất tin tưởng và thương mến y, nào là nhiều lúc chấp pháp vỗ vai thân mật như anh em. Ngay ông cán bộ tên Tư người miền Nam trực xà lim cũng tỏ ra có thiện cảm với tên Tân, thường gọi y ra sai làm những việc vặt như làm vệ sinh, hoặc đôi khi sai quét đường đi ở giữa hai dẫy xà lim. Ai đã từng ở xà lim một vài tháng trở lên mà được sai ra làm những công việc này, là một hình thức được chiếu cố, gia ân. Thứ nhất, sẽ được thoải mái, không bị gò bó ngồi một chỗ; hai nữa, điều đó nói lên lòng tin của cán bộ, không sợ anh có thể lợi dụng cơ hội để liên lạc, dưới nhiều hình thức, với các buồng khác, tuy rằng vẫn luôn luôn có cán bộ đứng coi anh làm. Ngay thái độ tên Tân cũng có vẻ bợ đỡ, nịnh nọt cán bộ ra mặt. Thái độ ấy, và ý đồ ở trên, lòng tôi làm sao ưa y được. Dù vậy, tôi vẫn bình thường không tỏ một cừ chỉ nào quá đáng thể hiện là không ưa anh ta. Một lần, tôi hỏi thử: - Liệu vụ án của Tân có đem ra xử không? Và xử thì Tân sẽ bị khoảng bao lâu? Y có vẻ đắn đo, thận trọng, cuối cùng mới thổ lộ: - Theo như một số hiện tượng, từ đấy tôi suy đoán, kết hợp với chấp pháp của tôi, có thể hơn một tháng nữa, vụ án của tôi sẽ được đưa ra xử. Ông Chương đầu vụ có thể bị từ 12 tới 15 năm. Còn tôi, nhiều hy vọng có khi không phải ra tòa. Nếu có ra, cũng chỉ từ 2 tới 3 năm. Qua cách trả lời, cũng như sự suy lý của y, tôi nhận thấy: Tên này đang bị cái bùa tình cảm của chấp pháp, chắc rằng y đã phải tố nhiều người trong tổ chức của y. Y tin như vậy là một cách để tự cứu. Một loại người như vậy, nếu chấp pháp hỏi về tư tưởng, về tâm sự, v.v… của người cùng buồng, là tôi, tất nhiên y phải nói bằng hết. Rồi có khi y sẽ được giao nhiệm vụ gợi chuyện, tìm hiểu tư tưởng và công việc làm của tôi, với những lời hứa hẹn đẹp đẻ. Với tôi, dù có nhận định y không phải là loại người như trên đi nữa, cũng đừng hòng bao giờ tôi tâm sự chuyện riêng, huống chi tôi đã thấy y là một tên cơ hội rõ ràng. Tuy vậy, qua cái nhìn của tôi về y, chưa cho phép tôi nhận định chung về các đảng phái ở miền Bắc. Tuy tôi cũng thấy trong lòng không được vui, vì y là cán bộ chịu trách nhiệm về tuyên truyền, liên lạc mà trình độ như vậy, tư tưởng lại bấp bênh giao động như thế. Ngay bản thân cán bộ cốt cán, cũng không hề có lý tưởng thực sự! Ở đây, tôi lại nói “thực sự”, vì rất nhiều người chỉ có lý tưởng ở mồm, mà không phải ở tim, ở óc. Tôi cũng rất tiếc không được gặp ông Chương nào đó, chủ tịch đảng Tân Phong, để tìm hiểu và học hỏi những khả năng và kiến thức của ông ta, để từ đó thấy được về đảng Tân Phong này. Tuy vậy, qua một cán bộ tuyên truyền, tôi cũng có một số khái niệm về đảng đó. Vì thế, tôi mới thấy trong lòng không có một niềm phấn chấn tin tưởng. Theo Tân, vụ của y có hơn 10 người hiện đang ở trong Hỏa Lò, một số nhẹ ở trại chung. Ngay ở xà lim II này, buồng số hai có một người anh họ cùng vụ, chịu trách nhiệm về ngoại giao và tài chính, y là giáo viên Cấp hai. Xà lim II gồm có 8 buồng, mỗi bên 4 buồng đối diện nhau, không bị cùm, đứng lên cái cùm có thể nhìn thấy từ trán của nhau trở lên. Nhưng, nội quy xà lim nghiêm cấm đứng lên sàn. Bất cứ lúc nào cửa con xoạch mở, nếu thấy anh đứng lên sàn, dù chỉ tựa lưng vào tường đứng chơi. Cùm sẽ được rút ra ngay và mời anh cứ tự nhiên bỏ chân vào, đừng nói gì thêm nữa, vô ích. Trong 8 buồng, chúng dành buồng số 8, bắt một vòi nước máy vào làm chỗ đỗ phân và tắm rửa. Do điều kiện bị cùm, hơn nữa trong buồng không hề nhìn thấy gì bên ngoài, vì thế tất cả linh khí của thân thể, đều tập trung về thính giác, để phán đoán và xác định âm thanh. Càng ở xà lim lâu, thính giác càng bén nhậy, tinh vi. Tuy chưa bao giờ thấy một ai ở cùng xà lim, nhưng lúc đó tôi đã biết: Buồng 1 giam một người, buồng 2, hai người, không bị cùm. Buồng 3 không có người. Buồng 4 là buồng chúng tôi. Buồng 5, nhà tắm, buổng 6, một người. Buồng 7, sát nhà tắm, có hai người đều là nữ, bị cùm mỗi người một chân. Thỉnh thoảng ban đêm, tôi thường nghe tiếng phụ nữ khóc sụt sịt, nhiều khi thành tiếng nức nở thảm thiết ở phía đó. Theo Tân, do sự kích thích tò mò của đàn ông con trai, nên một lần đã liều, khi cán bộ vào gọi cung một cô, Tân đứng trên chiếc chăn bông gấp cuộn lại, y lén, nép nhìn. Cô đó khoảng 20 tuổi, trông như nhà tu, ở xà lim chừng độ gần tháng nay. Tôi nghe chuyện cũng thấy lòng thương hại thông cảm. Tôi là đàn ông thanh niên, bị cùm đã thấy khổ sở khi ỉa đái, phụ nữ thì thật khó khăn. Nhất là đêm hôm, cán bộ đàn ông thường mở cửa con kiểm tra; có khi không mở, chỉ đứng rình qua cái khe của miếng sắt hơi bẻ cong, che cửa con. Ở ngoài nhìn vào thấy nửa buồng, còn ở trong nhìn ra chỉ thấy trần nhà. Chắc rằng, thôi thì thân gái, trong cảnh này cũng đành phó mặc! Vì hai cô này, trong xà lim, tâm trạng hầu hết đều tò mò muốn biết người và sự việc. Hôm qua, buồng số 2 đối diện một anh đã bị bắt tại trận đang đứng trên cùm, kiễng chân thập thò nhìn khi tên Tư, cán bộ xà lim mở cửa số 7 cho ra rữa. Cùm rút chốt luôn, và anh đó đã bị cùm. Tên Tân rất khôn ngoan tinh quái. Y nắm được những quy luật giờ giấc, cùng những mánh khóe rình mò của cán bộ, nên y cũng đứng lên mà lão cán bộ không biết. Trong một ngày, ở xà lim II, giờ tương đối an toàn nhất là sau giờ tan tầm 5 giờ, nghĩa là từ 5 giờ 15 phút đến 6 giờ tối. Lúc đó, cán bộ vừa bàn giao thay ca, kiểm nhận nguời hết lượt xong, đi ăn cơm. Tên Tân tỏ ra nhiều hiểu biết về các cán bộ ở Hỏa Lò, làm nhiều khi tôi phải ngạc nhiên suy nghĩ. Thì ra, lúc mới bị bắt, Tân cũng ở ngoài trại chung, mỗi ngày hàng trăm người, đủ mọi thứ tội. Được gần một tháng, không hiểu vì sự khai báo thế nào của những người trong cùng một tổ chức đảng, nên y bị đưa vào xà lim. Vì vậy, qua chuyện trò với y, tôi được biết: Giám thị trưởng của Hỏa Lò là tên Võ, người miền Nam tập kết. Tuy y chỉ là Thiếu Tá, nhưng đã già rồi, y rất có thanh thế, vì cùng lứa với y mà y quen biết, có nhiều người đã là cán bộ trung ương đảng. Qua đó, tôi đã đoán ra được, hôm đầu tiên tôi bị đánh và bị cùm mồm. Một ông già gần 60 tuổi đeo kính trắng vào tha cho tôi, chính là tên Võ giám thị. Còn hai phó giám thị, một là tên Trì, Trung úy người Quảng Bình, một là tên Lê, Trung úy quê ở Hưng Yên. Hỏa Lò có hai y tá, một nam và một nữ. Nữ là mụ Dậu đã tiêm cho tôi mấy lần khi tôi bị sốt. Theo Tân biết, mụ là cán bộ lưu dụng, vì có chồng là một cán bộ cách mạng nằm vùng nội thành. Nam y tá tên là Huệ, thường coi ở bệnh xá. Ba tên cán bộ văn thư, thường gọi đi cung là lão Bằng, mụ Hoa và một lão già tên Kim cũng đeo kính trắng người Bắc, Thuợng sĩ. Lão Kim này là cán bộ gần như lưu dụng, vì thời Quốc Gia trước 1954, lão cũng là cai tù ở Hỏa Lò, nhưng là người của Cộng Sản cài vào. Còn mụ Hoa có một tiểu sử như sau: Mụ là gái Quảng Trị. Trước 1954, theo chỉ thị của đảng, mụ bán xôi chè cho binh lính ở những đồn bót tại Quảng Trị, rồi yêu đương và trở thành vợ chồng với một anh Trung sĩ Quốc Gia ở trong đồn đó. Cuối cùng, Cộng Sản dùng mụ này làm nội ứng, nên đã chiếm được đồn lính sau một đêm tấn công. Sau hội nghị Genève, mụ bỏ chồng, tập kết ra Bắc theo già Hồ, rồi làm công an ở Hỏa Lò. Đầu năm 1961, một sự trớ trêu, chính người chồng mụ ngày xưa lại vào Biệt Kích và ra Bắc, rồi không may bị bắt đưa về Nghệ An. Lúc ấy, mụ còn là cán bộ ở đó, bất ngờ gặp lại người chồng năm xưa. Mụ đã mua cho một bánh chưng với một cái bánh mì, cùng với một giờ chưởi bới, giáo dục. để cuối cùng người chồng cũ uất hận và khổ đau. Đã quẳng cả bánh chưng, bánh mì ra sân dù đói, và phải đi cùm vì hỗn láo với cán bộ. Nghe tên Tân kể, tôi băn khoăn, làm sao mà y biết rõ thế? Y giải thích là, trong đám tù ở buồng y, có một cán bộ tập kết biết rỏ mụ ta, kể lại. Sau khi nghe chuyện Tân kể, mỗi khi mụ Hoa vào gọi cung tôi, liếc nhìn cái dáng đi vặn vẹo và cái môi thâm xì của mụ. Một nỗi niềm vừa thuơng hại, lại vừa ghét trỗi dậy trong lòng tôi. Ghét, vì mụ đã làm cho bao nhiêu chiến hữu của tôi phải nằm xuống, trong đêm Cộng Sản cướp đồn. Thuơng hại, vì mụ quê mùa, ngu muội, nghe lời phỉnh phờ bịp bợm của tụi lãnh tụ Cộng Sản. Cố hy sinh tất cả, để tiến tới một thiên đàng Cộng Sản không bao giờ có thực. Cũng giống như những người lính của họ Tào, đã nổ lực vượt núi, vượt rừng để tiến tới cái rừng mơ, mà thỏa chỉ, trong truyện Tam Quốc của Trung Hoa. Vào một ngày thứ Bảy, tên Tân được gọi ra cổng kể nhận tiếp tế của vợ. Khi về, y xách theo một cái túi, gồm 2 cái bánh chưng, khoảng 2 lạng muối vừng đã giã, 3 lạng đường phèn (mía), 3 cái bánh mì và 10 quả chuối; đặc biệt nhất là 2 gói thuốc lá Trường Sơn. Ngày từ một vài ngày trước, tôi đã thấy y lấm la lấm lét, nằn nì lão Tư để xin chỗ cơm còn thừa của một buồng bị bệnh không ăn hết, để rồi tên Tư quát “Nhanh lên!”, y vội vàng chạy ra cái chõng, lấy bát cơm thừa đổ lên cái khăn mặt của y, chừng độ một nắm cơm, khoảng 1/3 suất. Y hí hửng sung sướng ngồi ăn, không một chút ngượng ngùng gì với tôi cả. Với một người như vậy, thái độ của tôi càng tỏ ra coi thường miếng ăn. Thực ra, trong lòng tôi, tôi không cần biết y có cái gì cả. Nhưng, trong một căn buồng chật hẹp sát nhau như thế, chạy đi đâu được! Cái gì cũng đập vào tai, vào mắt mình! Thấy y ăn quả chuối, y ăn võ trước rồi ăn ruột sau. Y vuốt ve, nâng niu những thứ đồ tiếp tế như cái gì quý giá nhất của đời y. Tôi chỉ còn cách duy nhất là lựa thế nằm xuống, đắp chăn để khỏi nhìn thấy cái cảnh không muốn nhìn. Nhưng, tới khi y đánh diêm để hút một điếu thuốc, tâm hồn tôi bị xáo trộn dữ dội. Trong một căn buồng quá nhỏ, khói thuốc quạt vào mũi tôi như gãi vào từng tế bào, làm cho hồn tôi như ngây ngất đê mê, và như thách thức lý trí, làm đầu óc tôi đầy vơi những nghĩ suy. Vô kế khả thi. Nhưng, bảo tôi mở miệng ra xin y một điếu thuốc, thà chết! Điếu thuốc của y hút làm bận rộn đầu óc tôi, nghĩ hết cách này đến cách khác, nhưng chẳng cách nào có thể thực hiện được. Để rồi, ngập ngừng di vào giấc ngủ muộn của đêm thâu. Bị cùm mà ở chung với một người không bị cùm, người bị cùm lại thêm một nỗi khó khăn nữa. Nếu bị cùm một mình, tới bữa cơm, cán bộ phải mở cùm cho ra lấy cơm. Một ngày được cho ra đổ bô một lần. Đó, chính là lúc nghỉ chân vào thay đổi chân. Ở đây, hai ngày cán bộ mới mở cho ra một lần để đổ bô phân mình đi đại tiện. Còn cơm, nước, cũng như khi trả bát, tên Tân được ra vào hai lần, mà mình lại phải mang ơn người khác. Nhưng, ở trường hợp này, lại chẳng muốn họ làm cho mình. Còn một vấn đề nữa là những khi đi giải, lúc đầu tôi thật ngượng ngùng lúng túng, chỉ có một cái thế đứng duy nhất, nếu anh kia đang ngồi, là phải vén quần ngay trước mặt anh đó. Rồi lúc đi ỉa, không thể kéo cái bô từ gầm sàn ra, mở nắp, rồi lựa thế lê đít ra cạnh mé sàn mà ngồi đi được. Trong lúc anh kia đang ngồi ở sàn bên cạnh, chỉ cách có 60 phân. Vì vậy, phải cố xách cái bô lên sàn, rồi lựa thế, một chân quỳ, một chân hơi nghiêng nghiêng trong cùm, để mông ngồi lên miệng bô. Như vậy, đỡ hôi cho người cùng phòng, nhưng mình phải chịu cạnh cùm nghiến vào chân. Mỗi lần ngồi khó khăn như thế, thường phải từ 20 đến 30 phút. Nhiều khi ê cả chân, ê cả đít, mỏi cả người. Tuy vậy, lúc rửa chỉ còn một cách duy nhất, là lại phải xách bô xuống nền, dịch đít ra mé sàn, lựa thế hai tay đưa ra phía sau, một rửa, một cầm gáo đổ. Chưa hết, người bị cùm, người không, ở chung một phòng còn bị một khía cạnh tâm lý nhỏ nữa. Người ta nói, trong cuộc đời: Suớng, khổ, vui, buồn, một phần do môi trường chung quanh, nên mầu đen mà cạnh mầu trắng thì hai mầu càng làm rõ cho nhau. Trong khi chân mình lạnh buốt trong cùm, giở người, hoặc ngồi lên, nằm xuống cũng khó khăn; họ, sau bữa cơm, đi bách bộ, dù chỉ 4, 5 bước, đi đi lại lại hai tay chắp sau đít thật tự do. Sáng dậy, họ tập thể dục, chạy tại chỗ dăm phút cho khỏi tê chân. Mình, chân tê lại cắn rần rần cũng đành nằm im mà thèm. Sáng hôm sau, khi Tân và tôi mỗi người một sàn đang cắm cúi ăn cơm, tự nhiên Tân lên tiếng: - Anh Bình này, tôi thấy các anh ở miền Nam vẫn coi thường miếng ăn lắm! Tôi quay sang nhìn y để phán đoán qua nét mặt, y hỏi như vậy là ý muốn gì? Vì chưa xác định rõ, nên tôi cũng lửng lơ: - Miếng ăn thì cần thật, nhưng nhiều lúc chẳng coi ra gì cả. Y cười, hơi ngượng ngùng: - Tôi biết là anh không cần thiết ăn lắm…Anh có dám hút thuốc không? Tôi đã nắm được ý của nó. Tôi sáng mắt lên: Nếu bỏ một bửa ăn để đổi lấy thuốc hút! Tôi đồng ý ngay! Y hơi gượng gạo: - Bây giờ thế này nhé! Thuốc lá thì tôi không cần, tôi chỉ thích ăn thôi. Vậy, để cho công bằng: Một bao thuốc lá Trường Sơn, giá bên ngoài là 3 hào. Trong đây, tiêu chuẩn ăn, bao gồm cả thuốc men do nhà nước đài thọ, cho một phạm nhân là 12 đồng một tháng. Như thế, vị chi mỗi ngày là 4 hào, kể cả canh. Do đó, cơm là 3 hào, còn một hào là canh và thuốc men. Vậy thì, một suất cơm cả canh, 1 hào 8 hay 9, còn một xu chi cho thuốc. Tôi cứ rộng rãi, cho một suất cơm là 2 hào. Vậy nếu anh đồng ý, mỗi bữa tôi chỉ lấy nửa suất cơm thôi, còn canh phần anh. Tôi sẽ đưa cho anh 6 điếu thuốc. Hay một bao là một suất rưỡi. Nhưng mỗi ngày tôi lấy nửa suất thôi, kẻo anh đói quá! Tôi im lặng ngồi nghe và nhìn y tính toán. Rồi y lại tỏ ra một người có lòng nhân ái nữa. Y sợ tôi đói quá, nên mỗi ngày chỉ lấy nửa suất cơm thôi! Lòng tôi trỗi dậy một niềm tê tái lẫn oán thù. Tê tái vì tình người như nước ao bèo. Oán thù, vì một chế độ khinh khủng đã tạo ra một cuộc sống, cùng khổ cho người dân. Những nếp suy nghĩ tính toán vặt vãnh, làm tan hoang cái truyền thống nhân ái, đạo đức, đùm bọc tốt đẹp của dân tộc. Tuy trong lòng nghĩ như vậy, nhưng trong cái thế và cảnh này, tôi sẽ đồng ý đổi nửa suất cơm thôi, và sẽ là lần đổi duy nhất đối với nó. Vì thế, tôi lạnh lùng: - Tôi chỉ cần ăn để không chết thôi! Vậy, chiều nay tôi hãy đổi thử nửa suất thôi, xem sao đã. Y ra trả bát, xong xuôi y lấy bao thuốc đưa cho tôi 6 điếu. Trông y có vẻ hưng phấn, thỏa mãn, cũng lấy một điếu thuốc phì phèo. Tâm tư của tôi thực nặng chĩu. Tôi cũng châm một điếu thuốc, rồi nằm đắp chăn, mắt nhắm nghiền cho hồn say sưa, mà lòng thì quặn thắt. Ngay chiều hôm ấy, khi y lấy cơm vào. Sau khi quản giáo đóng cửa, tôi bảo y cứ xẻ lấy một nửa suất theo ý muốn, rồi đưa lại cho tôi. Vì hút thuốc mà trong lòng lại chẳng vui gì, nên mỗi ngày, tôi chỉ hút một điếu vào lúc sắp đi ngủ. Y tỏ vẻ không được vui khi thấy tôi hút ít như vậy. Những ngày sau đó, lúc hút cũng như lúc thở khói, y cố ý gợi cho tôi thèm, nhưng tôi vẫn lạnh lùng. Thậm chí, y phải hỏi: - Anh không hút thuốc lá nữa à? Tôi thủng thẳng khô khan: - Không thích hút nữa! Một hôm, y còn gạ tôi trắng trợn: - Tôi biết anh chỉ thích hưởng hương hoa tinh thần thôi! Vậy, tôi còn một cái bánh chưng, giá ở ngoài là 5 hào. Tuy nhiên, tôi cũng chỉ lấy hai suất rưỡi, cũng mỗi ngày nửa suất thôi. Anh ăn một lần để thưởng thức cái ngon của bánh chưng? Tôi lạnh lùng nhìn y, lòng căm phẫn: - Cám ơn, tôi không thích! Mặt y cứ trơ ra, không một chút ngượng ngùng. Điều làm tôi không hiểu được là tại sao, y ăn nhiều thế, mà vẫn còn đói dữ như vậy? Mới ngày hôm kia, buổi trưa y đã được quản giáo gọi ra, rồi mang vào một suất cơm thêm. Suất cơm của buồng số 6. Chẳng hiểu vì sao buồng đó, sau một lần đi cung về rồi bị cùm một chân. Anh ta đã tuyệt thực, tới nay đã 4 ngày rồi. Vì tên Tân thỉnh thoảng quét dọn, nên tên Tư đã gọi ra cho một suất cơm. Tôi nhìn cơ thể tên Tân, thấy y chỉ mập hơn tôi vì người tôi quá gầy thôi, chứ y làm sao khỏe, rắn chắc như lúc tôi chưa bị bắt. Vậy mà đồ tiếp tế với lại thỉnh thoảng được cán bộ cho ra vơ vét. Thế mà, nhiều lúc y như điên cuồng, đứng ngồi không yên vì đói. Tôi chẳng hiểu buồng số 6 tội gì, phải tuyệt thực. Chỉ nghe thấy báo cáo xin nước uống, còn nhất định không ăn. Nhưng, cán bộ xà lim cương quyết, có ăn mới cho uống nước. Một bữa sáng, sau khi các buồng đổ bô xong, tên Tư vào gọi tên Tân ra. Tôi nghe mở buồng số 6. Hôm nay cũng là ngày thứ 6 anh ta không ăn. Tôi nghe tiếng nước dội rửa và tiếng quét. Chừng 30 phút sau thì Tân về. Tôi hỏi, được biết: Buồng số 6, năm, sáu ngày nay đầy sàn cứt đái, bôi đầy lên tường. Vào buồng, cơm canh đổ lẫn với cứt, có mùi xông lên không chịu được. Anh ta cứ nằm ngửa, đắp chăn che mặt. Lợi dụng một lúc tên Tư quay ra, Tân hỏi anh ta tội gì, nhưng anh ta không trả lời. Tân nhấc cái chân xuống xem mặt, chừng 30 tuổi, trắng trẻo, anh ta vẫn nhắm nghiền mắt. Tân vội phải đậy chăn lại sợ tên Tư vào biết. Theo Tân, tên Tư nói là, nếu anh ta tuyệt thực mà cho uống nước,chỉ từ 5 tới 7 ngày là chết thôi, bởi vì nước sẽ hòa loãng máu rồi theo nước đi giải ra. Còn nếu không cho uống nước, 20 ngày hay một tháng cũng không chết. Nhưng, có một điều quần áo, chăn của anh ta toàn cứt và cơm thiu nên dù quét dọn, buồng vẫn thối lắm. Những ngày thứ bốn, thứ năm, tôi còn nghe tiếng đập cửa xin nước, nhưng từ ngày thứ 6 trở đi cứ thấy im lìm. Mãi tới đêm ngày thứ 9. Khoảng 10 giờ, nghe có tiếng mở cửa buống số 6, rối tiếng chân người khiêng đi sau khi, có tiếng rút chốt cùm. Tôi và Tân, trong buồng cố lắng nghe, nhưng không biết là anh ta chết hay sống, hay đưa đi đâu. Báo hại, sáng hôm sau tên Tân lại phải quét rửa buồng. Tân về, nhăn nhó bảo là cái chăn cứt thối quá, mà tên Tư bắt giặt phơi ở phía buồng vãng lai. Tân lại kể, khi ra đấy, nhìn vào sân trại chung, y thấy bây giờ Hỏa Lò đầy tù, ngồi đầy cả sân. Cách đây hai tháng, khi Tân còn ở trại chung, trại chỉ có khoảng 4, 5 trăm người. Nhiều buồng chỉ 4, 5 chục người, có buồng để không. Y nói, y gặp người nhà tiếp tế, nói thầm cho biết, ngoài xã hội bây giờ dân chúng hoang mang lắm. Ở đâu, tình nào cũng thế, các nhà tù chật ních. Đầu tháng Tư vừa rồi, có lệnh của Bộ Công An: Tất cả những ai từ lính trơn cho đến Thượng sĩ, mà hồi 1954 chỉ bị học tập và giáo dục tại địa phuơng mấy ngày rồi cho về (Chỉ có sĩ quan mới bị bắt đi học tập ở trại giam). Nay đều được mời vào “ấp” để lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa. Những người Hạ sĩ quan và lính tráng này, biết mình có tí đuôi với chế độ cũ, nên dù ở địa phương nào. Họ luôn luôn tỏ ra là những người tích cực, năng nổ trong mọi lĩnh vực với chế độ mới. Ở địa phương, hợp tác xã, nhà máy, công nông trường, v.v…đâu đâu cũng vậy. Chính vì thế, sau 9 năm nỗ lực công tác, nên ngày nay rất nhiều người đã được đảng hoặc chính quyền tín nhiệm, tin cậy. Có người đã trở thành đoàn viên, có người là tổ trưởng tổ lao động xã hội chủ nghĩa của, công trường hay nhà máy v.v…Thậm chí, có người do tinh thần hăng say, đã công tác, học tập ngày đêm quên mình, nên đã trở thành chủ nhiệm hợp tác xã, hay thư ký công đoàn…..Họ tưởng rằng như vậy là cuộc đời từ nay yên lành, chỉ còn một lòng phơi phới yêu thuơng với chế độ mới của mình. Nhưng, đùng một cái! Bây giờ tất cả được mời đi học tập, bất kể anh đang ở cương vị nào. Lý do: An ninh của Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa đang bị đe dọa! Ngoài nhân dân có cái từ mới là:”Trót xỏ nhầm giầy” (đã đi lính hoặc làm việc với chính quyền Quốc Gia). Dù xỏ nhầm giầy một ngày cũng phải đi. Tỉnh nào vào trại giam tỉnh đó. Sau khi lập hồ sơ và xét hỏi qua loa, rồi được chuyển đi các trại trung ương. Bao nhiêu người ngã ngửa ra. Không những bản thân ngưòi đi tù và gia đình người ấy, mà ngay các cán bộ địa phương cũng không thể nào ngờ được. Bởi vì, đã 9 năm trường dài đằng đẵng, trôi qua rồi! Như thế, cho phép ta nhận định (sau tháng 4/1975). Nếu, Cộng Sản chưa hỏi tội đến những người đã từng cộng tác với “Địch” dù chỉ một ngày, là vì chúng còn muốn lợi dụng, hoặc vì chưa ổn định những công việc khác lớn hơn. Vì tình thế, điều kiện chưa cho phép, sợ hoang mang lòng dân, trong khi chưa ổn định xã hội, chưa nắm được chặt những tầng, loại người chúng nghi ngờ…..Chứ trước sau, sớm muộn gì chúng cũng sẽ hỏi tội. Lúc đó chúng có đầy rẫy lý do hợp lý: Nào là Hạm Đội 7 tập trung về biển Đông, Trung Quốc chuyển quân, Thái Lan động đậy, v.v… và v.v… |
|
|
![]()
Post
#38
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Lăm
Người Nữ Tù Xà Lim II... Cuối Xuân và trời đã bắt đầu sang Hè, không khí trở lên dìu dịu. Thỉnh thoảng vẫn còn những trận mưa Xuân lưa thưa phảng phất, như báo cho nhân thế chuẩn bị đón nhận những ngày nắng hạn. Tối hôm đó, tôi đang ngồi đăm chiêu với bao nỗi đầy vơi của cuộc đời. Giữa cái vắng lặng đến lạnh lùng, sau khi cái loa cạnh xà lim đã tắt ngủm lúc 9 giờ tối. Đột nhiên, từ một cái loa phòng ngoài góc sân có giàn nho phía trước, tiếng một người miền Nam thong thả dõng dạc: “Các anh em chiến sĩ trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa thân mến! Tôi là Phan Thanh Vân, Trung úy phi công thuộc phi đội “X” của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tôi đã nghe theo lời phỉnh phờ dụ dỗ của Mỹ Diệm, lái chiếc C-47 xâm nhập bầu trời miền Bắc xã hội chủ nghĩa để thả gián điệp biệt kích, đã bị bộ đội phòng không của chính phủ cách mạng hạ…..tại Cồn Thoi, Ninh Bình. Tôi đã bị thuơng nặng, nhưng do chính sách khoan hồng của nhà nước cách mạng, đã tận tình cứu chữa cho tôi. Nay, tôi đã bình phục. Được sự giáo dục, đùm bọc của cách mạng, tôi đã thấy được tội lỗi phản dân hại nước của tôi, hiểu được đường lối nhân đạo thuơng yêu dân của đảng và chính phủ. Tôi kêu gọi tất cả các bạn thuộc binh chủng Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hãy vì độc lập của Tổ Quốc, vì hạnh phúc tự do của nhân dân. Các bạn hãy mạnh dạn đứng lên quay về với chính phủ cách mạng, về với nhân dân. Hãy lái máy bay về vùng Mặt Trận Giải Phóng, các bạn sẽ được đón tiếp nồng hậu như anh hùng. Các bạn sẽ góp sức mình cùng nhân dân tiêu diệt kẻ thù là Mỹ Diệm…” Nguyên văn thì tôi không thể nhớ rõ, nhưng nội dung là như vậy. Tai tôi lắng nghe, mà lòng tôi rỉ máu dần dần, tên Tân đang nằm cũng bò dậy nghe. Mắt tôi hơi sượng sùng khi gặp ánh mắt y. Tôi hỏi một câu thăm dò, để giảm nét hổ lòng: - Họ bắt Phan Thanh Vân phải đọc như vậy sao? Tên Tân tỏ vẻ hiểu biết: - Mỗi lần đọc một bản như vậy, được thù lao 5 đồng. Một phần do họ bắt đọc, phần khác, cũng do mình muốn tiến bộ. Thấy y có vẻ hiểu biết thật, tôi hỏi tiếp để sáng tỏ: - Bài viết do họ viết sẵn, hay do mình phải viết? - Họ gợi ý cho mình viết, rồi họ sửa! Tuy ngoài miệng hỏi chuyện Tân, nhưng trong đầu tôi liên miên với giòng suy tưởng. Nếu chúng thu thanh tiếng nói của Phan Thanh Vân, rồi đem về miền Nam, phat cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa nghe. Hoặc cho nhân dân nghe, thì có thể làm ruỗng lòng người có tinh thần, làm nghiêng ngả cho người không có chính kiến, khi những người này còn mơ hồ về Cộng Sản. Thật là tai hại! Tên Tân còn nói tiếp là đã nghe Phan Thanh Vân đọc mấy lần rồi. Hiện nay Vân được ở trại thợ trong khu nhà bếp, tỏ ra rất tiến bộ, cán bộ chiếu cố rất nhiều mặt. Thảo nào, tôi nhớ tới hình ảnh Vân ngồi gốc cây bàng, hôm đầu tiên tôi bị bắt vào Hỏa Lò. Tôi im lặng, chẳng muốn hỏi nữa, về một câu chuyện mà trong lòng mình chẳng vui gì. Lòng tôi cứ bồng bềnh, lững lờ chảy về miền Nam xa xôi. Hàng ngày, tiếng loa ở cổng trại chung cứ chọc vào tai tôi, tình hình Phật giáo sôi sục đấu tranh với chính quyến…Tôi chẳng lạ gì khi nghe đài truyền thanh của địa phương Hà Nội và phát thanh trên vô tuyến của Cộng Sản. Nhưng, với khả năng nghiệp vụ của tôi, cộng với kiến thức riêng, tôi cũng thâu nhận được một số tin tức qua từng khía cạnh của từng sự việc. Những người chịu suy nghĩ thấu đáo, ai cũng hiểu ở đây chính là do bàn tay máu của Cộng Sản. Cộng với cái tự do nhố nhăng không đúng chỗ, không đúng lúc của miền Nam. Với tác phong lề lối làm việc, mang sẵn tinh thần tắc trách nói chung của cán bộ cũng như chính quyền miền Nam. Cộng sản tha hồ, lợi dụng thao túng… Chúng gieo rắc lẫn thổi phồng, bóp méo, khích lệ mọi mâu thuẫn giữa chính quyền với nhân dân, với tôn giáo, với đảng phái. Rồi chờ, khi có điều kiện, có thời cơ, chúng chỉ cần cầm cái gậy chọc vào từng điểm. Thí dụ “Vụ Phật Giáo”.. Chúng sẽ có hàng trăm cách, tùy theo từng nơi, từng lúc. Tôi cứ hình dung: Trong một đám rước đang diễn hành trang nghiêm trên đường phố ở Huế chẳng hạn, của một ngày lễ Phật giáo đặc biệt. Ngay trong đám Phật tử đang diễn hành này, thậm chí ngay trong các tiểu chức sắc ni tăng, chúng đã cài người của chúng vào, cùng làm việc với nhau mà cũng không biết, lợi dụng điều kiện lúc đông đúc, cũng như lúc thuận tiện, chúng dễ dàng bí mật thả truyền đơn chống và mạt sát chính quyền. Các cơ quan có trách nhiệm về an ninh như cảnh sát, mật vụ, v.v… Lúc đó sẽ giải quyết thế nào? Khi chưa hiểu rõ đầy đủ những thủ đoạn tinh vi của Cộng Sản. Khi chưa có kinh nghiệm hữu hiệu để giải quyết những trường hợp phức tạp như thế, chỉ còn một phương pháp ngăn chặn, bằng cách tìm tòi, khám xét làm ngưng đọng đám rước. Đám rước đã rối loạn, Cộng Sản càng làm rối loạn hơn, hò la chính quyền Công Giáo phân biệt, đàn áp Phật tử, v.v…Mâu thuẫn chồng lên mẫu thuẫn, lòng căm hờn chồng lên lòng căm hờn. Lúc đó chỉ có trời mới giải quyết nổi. Thân tôi đang chìm trong nỗi tăm tối ngục tù, giờ đây lại đắp thêm mối ưu tư cho quê nhà miền Nam thương yêu. Hôm sau, chiếc loa ở cổng đã ngừng mồm mép, như vậy là đã 8 giờ, giờ bắt đầu làm việc của một ngày, thế mà vẫn không thấy tên trực xà lim đến cho tù ra đổ bô. Tên Tân ngồi chờ mãi, y đừng dậy đi đi lại lại, rồi không hiểu y nghĩ thế nào lại trở lên sàn, rồi lựa thế kiễng chân, nhìn ra phía cổng xà lim. Y tỏ vẻ phấn khởi, cúi xuống nhìn tôi: - Cửa xà lim vẫn đóng! Tên Tân quái lắm khi cửa xà lim đóng hay khép là an toàn. Y có thể nói chuyện với buồng khác, nhưng mắt vẫn để ý nhìn mép trên của cánh cửa xà lim, khi thấy hé ra là trong này tụt xuống rồi, vì thế ít khi bị bắt. Y cất tiếng gọi: - Số 7! Số 7! Im lặng một lát, y gọi nữa: - Số 7! Một giọng phụ nữ rất trong: - Ai gọi đấy? - Số 4 đây! Dạo này có khỏe không? Vẫn giọng khi nãy: - Cám ơn, khỏe! - Bị bắt vì tội gì đấy? Im lặng một phút, rồi giọng trong lại cất lên: - Kéo chuông nhà thờ Nam Đồng báo cho giáo dân vì công an vào bắt Cha phó. - Bao lâu rồi? Bỗng Tân nhớn nhác tụt vội xuống, trong khi tôi không nghe thấy một tiếng đồng gì khác. Cửa con xịch mở, tên Tư mắt long sòng sọc: - Anh nào trong buồng này vừa đứng lên nói chuyện? Y hỏi để mà hỏi, chứ y thấy tôi ngồi cùm, làm sao mà đứng dậy được. Tên Tân nắm hai tay vào nhau, vặn vẹo: - Thưa cán bộ… Tân chưa nói hết câu, tên Tư đã cúi xuống rút xoạch chốt cùm ra, rồi quát: - Bỏ chân vào! Mặt tên Tân chảy dài. Y biết không còn cách nào khác, nên tự tay nhấc cùm và từ từ nhấc một chân bỏ vào. Tên Tư nhìn qua cử con theo dõi, y chốt cùm vào, không nói gì thêm. Như vậy, tên Tư cũng quái. Y chưa mở cửa, đứng ngoài im lặng nghe đã. Nếu khi y đến, dù đẩy khẽ cửa đi vào. Tân đã biết rồi. Tiếng nói của Tân, Tư còn lạ gì. Thế là tình cảm hay chẳng tình cảm gì, sai là vẫn cùm. Tôi nghe tiếng mở cửa mấy buồng đổ bô, rồi tự nhiên thấy chốt cùm tôi rút ra. Tôi nhẹ tay nhấc cùm, nhấc chân. Cái chân ê đi, bước xuống đất cứ bì bì. Tôi tưởng đi cung, nhưng khi mở cửa, tên Tư không nói gì, tôi chợt hiểu, ôm vội bô vào nhà tắm để đổ, rửa. Tôi gõ nhẹ vào tuồng số 7 mấy cái như ý nói: “Các cô đã làm cho một người nữa bị cùm đấy nhé!”. Đến bữa cơm, tên Tư lại mở cùm cho tôi ra lấy cơm cho cả Tân. Tên Tân mặt rất buồn. Theo y, bị cùm là một chuyện, y còn sợ là vụ của y sắp xử, có thể bị ảnh hưởng xấu vì y đã không giữ tốt nội quy trại giam. Trước đây, ngay khi mới tới xà lim II được mấy ngày, tôi đã biết buống số 7 có hai cô gái đều bị cùm. Tôi rất băn khoăn, dứt khoát đây không phải là tội hình sự rồi. Bởi vì, hình sự rất hiếm phải vào xà lim, cá biệt nào đó. Phải là những tội tương đối quan trọng, nhưng cũng chỉ đến 1 vài tuần hay một tháng là cùng. Hai cô phải là tội chính trị nặng ký mới phải vào xà lim, và còn bị cùm nữa. Mặc dù về lý trí, tôi tin là không phải, nhưng phần tình cảm trong lòng tôi, cũng lắng lo một cách phảng phất. Biết đâu, đây lại chả là chính “đối tượng” nhận tài liệu “M”? Cho mãi tới một hôm, tôi bắt Tân phải tả lại. Y nói dáng người đó như nhà tu, mới khoảng 20 tuổi, tôi mới yên tâm. Dù vậy, tôi vẫn để ý theo dõi với mọi khả năng có thể, kết hợp suy đoán dựa trên những điều kiện đã biết: - Cùng một tội, hoặc cùng một tổ chức, không bao giờ chúng giam chung một buồng ở xà lim. - Hai tội khác nhau, lại cùng bị cùm? Ngay phạm nhân nam ở xà lim, cũng ít khi cùng bị cùm, huống chi là nữ. Vậy nữ bị cùm là hạn hữu, ở đây lại cả hai! Tại sao có sự trùng hợp kỳ lạ như vậy? Câu giải đáp chỉ có thể thỏa đáng là phải có một người thực, một người giả! Với điều kiện của mình như thế này, muốn làm sáng tỏ vấn đề trên. Tôi chỉ còn cách duy nhất là phải lắng nghe những âm thanh, sự việc…..rồi từ đấy suy lý dần. Từ định tâm đó, tôi thấy cá biệt, lẻ tẻ vài lần thôi, còn hầu như cứ cô nằm phía trái, tức cô có dáng nhà tu đi cung. Sau đó, cô nằm bên sàn phải lại đi, rồi thông thường là về trước. Như vậy, nếu cô đi sau về trước này không nói, thì cô đi trước về sau không hề biết là cô sau có đi cung. Lúc này, tôi đã có thể phân biệt được, tiếng động của chốt cùm nào rút, tiếng mở cửa buồng nào; mụ Hoa vào gọi cung hay Bằng, hay Kim già, hoặc lão Tư, họ chưa mở cửa tôi đã biết ngay là ai, qua cách bước sền sệt trên nền nhà, cách cầm chùm chìa khóa lắc, cách mở cửa buồng…..Còn những tật khịt mũi hay hắng giọng thì quá rõ. Óc tổng hợp ngay các âm thanh để ra lời giải đáp không khó khăn gì. Hơn nữa, trừ buồng tôi, cả xà lim chỉ có chiếc cùm buồng 1, và 2 cô gái bị cùm ở số 7. Như vậy, chỉ phân biệt 3 tiếng cùm thì hầu như không lầm. Vì thế, tôi đã nhận định được đến 80% là 2 cô ở buồng số 7: Một cô giả và một cô thật. Nếu chính mình không bị cùm, tôi có thừa khả năng để thử, cũng như mắt nhìn để kết luận. Ngay bây giờ, tôi muốn báo cho cô thật biết để cảnh giác. Không để ý thì khổ. Nhưng đành chịu vì cái chân trong cùm. Cách nào cũng có chỗ bất lợi cả. Vì người kia thường xuyên có mặt ở đấy. Chỉ còn cách chờ đợi một bữa nào bất ngờ cô bên phải đi cung, cô bên trái ở nhà, tôi sẽ lên tiếng nói bâng quơ. Thí dụ: “Chớ có tin người cùng buồng mình” chẳng hạn. Nếu cán bộ có đứng rình, mở cửa con hỏi, giả vờ nằm nhắm mắt ngủ, nằm mơ. Nó chẳng làm gì được mình. Chiều hôm đó, tôi đang nằm vẩn vơ suy nghĩ, cửa con xoạch mở, tên Bằng chỉ tôi: - Mặc quần áo đi cung! Đã hơn một tuần nay không gọi. Hôm nay, không hiểu có gì khác chăng? Từ đêm đem tôi đi bắn tới giờ đã hơn ba tháng rồi, cứ một tuần hai, ba lần chúng gọi tôi đi cung. Vẫn những trò dụ dỗ phỉnh phờ, đe dọa, rồi lại tình cảm. Truy hết chỗ này, lại đến điểm khác. Có lúc, chúng bắt tôi viết hẳn lại một sự việc nào đó cho rõ ràng. Tôi vẫn trước sau như một. Có một vài chỗ do cái dốt của tôi đã bị bục, tôi đã phải lao đao vất vả. Bây giờ đã có thêm kinh nghiệm, đã nắm được những mánh khóe khai thác, những động tác thật, giả hầu như tôi đã thấy trước. Tuy vậy, tôi vẫn tỏ vẻ còn ngây thơ, hiểu biết kém. Đôi khi, tôi phải vờ sa vào những cái bẫy chúng đã giương ra, nhưng tôi vẫn chủ động lái nó thành vô hại, hoặc hại ít. Cũng có lúc tôi làm như hoang mang, dao động để chúng khó xét đoán, hoặc sẽ hiểu sai về con người thực của tôi. Thí dụ: Một hôm 3 đứa hùng hổ đập bàn, xô ghế, nào là xin tha tội xử tử cho tôi, vì tôi còn quá trẻ, chưa suy nghĩ chín chắn; mong đường lối khoan hồng, nhân đạo của đảng sẽ thấm nhuần vào tim vào óc tôi, để tôi sẽ thành thật khai báo hết, v.v…..Nào ngờ, tôi vẫn là một tên ngoan cố ngu xuẩn, chuyến này, cho đi luôn…..Nào là cứu một người là để hy vọng nó sẽ trở nên tốt, chứ không phải cứu một người mà tật xấu vẫn cứ khư khư giữ trong mình; 10 thằng như thế cũng bắn bỏ….. Phải nói rằng, từ ngày chúng đưa tối đi bắn đến giờ, tôi chẳng sợ nữa; ngay dủ bây giờ chúng đem tôi đi bắn thật, tôi cũng vậy thôi. Dứt khoát, tôi không đến nỗi ngắc ngư con tàu đi vừa qua. Tuy thế, tôi vẫn vờ hoang mang lo sợ, xin chúng tha cho. Xin chúng là người trực tiếp với tôi, hiểu tôi đã thành khẩn khai báo mọi vấn đề ngay từ đầu. Hôm nay, không biết chúng còn giở trò gì nữa đây? Vào tới phòng cung, tôi thấy mặt 3 tên: Nhuận, Đức và Đặng rất lạnh lùng. Trên bàn, trước mặt chúng, một chiếc cặp da đen dầy cộm. Thái độ của chúng hôm nay hơi khác thường. Chúng nhìn tôi rất lâu như muốn xét đoán một cái gì. Cuối cùng, tên Nhuận trang nghiêm: - Từ ngày anh bị bắt vào đây đã bao lâu rồi? Tôi nhìn y dè dặt: - Thưa ông, hơn 10 tháng rồi. - Anh có biết rằng, trong Nam chúng đã phái ra đây mấy tên để tìm anh không? Tôi hơi ngỡ ngàng, xen lẫn chút lắng lo trong lòng. Dù thế, ngoài mặt, tôi vẫn xem như họ nói đùa: - Chúng nó tìm tôi làm gì! Tôi quả quyết là không có ai ra tìm tôi cả. Ở trong Nam, tôi là loại vô danh tiều tốt. Chẳng qua chúng trả mấy tháng lương, rồi tung ra ngoài Bắc để lấy tiếng vang là chính; còn bị bắt, sống hay chết, chúng đâu còn cần biết đến nữa. Tên Đặng từ nãy vẫn cứ ngồi yên nhìn và nghe tôi nói, bây giờ đập bàn cái “thình!”, chỉ tay vào mặt tôi: - Ngậm ngay cái mồm anh lại! Hôm nay tôi báo cho anh biết, và không cần giấu giếm gì cả. Người của chúng tôi từ trong Nam ra, đã báo cáo đầy đủ về anh. Chúng tôi đã thấy bộ mặt thật của anh. Anh là một tên ngoan cố đến cùng, muốn đem trứng chọi với đá, dám đội đá vá trời, dám đánh lừa cả Bộ Công An cách mạng! Trong khi vừa xỉ vả tôi, y vừa mở cặp lấy ra một cái phong bì dầy cộm. Y chọn, rút ra một tấm ảnh cỡ 6x9, cố ý cho tôi thấy là còn rất nhiều ảnh nữa. Y vất tấm ảnh xuống bàn, trước mặt tôi, gằn giọng: - Đây, hãy mở mắt ra nhìn. Khôn hồn khai báo lại ngay. Nếu không, lần này chúng tôi sẽ không nương tay với anh nữa, sẽ có biện pháp mạnh! Tôi thoáng nhìn bức ảnh, dù chưa cầm, tôi đã thấy tim mình như thắt lại. Tấm ảnh Phan và tôi chụp ở góc đường Nguyễn Huệ, trông chéo sang rạp xi nê Rex. Phan cao lớn, mặc áo sơ mi ca rô bỏ ngoài quần, đeo kính đen đang quay chéo mặt về phía người chụp ảnh. Tôi, áo sơ mi trắng, bỏ trong quần, đeo kính trắng. Một tay đang cầm mấy cuốn sách, một tay đang chỉ về phía trước mặt. Mặt tôi nghiêng góc với mày ảnh khoảng 30 độ. Tôi điếng hồn, suy nghĩ, phản xạ tổng hợp cấp thời. Chúng đã biết hết rồi chăng? Chúng còn nhiều ảnh nữa hay không? Tại sao chúng lại chụp ảnh ở ngoài đường? Có thể chỉ là một tấm duy nhất, bởi vì Phan đã bị lộ, chúng đã biết lâu rồi. Khi thấy tôi đi với Phan, lạ, chúng chụp một tấm, để sau này phòng hờ dùng trong tình huống áp lực về chứng cớ. Tại sao chúng phải cố ý cho tôi thấy, chúng còn nhiều ảnh nữa? Chính cái “cố ý” này cho thấy, đó chỉ là một động tác giả của chúng để gây áp lực tâm lý. Một điều tôi tin chắc, dù cho nằm ngay trong Cục Tình Báo Sài Gòn, nhưng nếu không cùng một công tác, chúng cũng không thể biết được sự việc. Và dù cho cùng một công tác đi nữa, cũng chỉ biết được từng khâu, từng phần, chứ không thể biết toàn bộ. Mấy phút tính toán, phản ứng nhậy lẹ, thành quyết định. Đầu tiên để thăm dò, tôi làm ra vẻ mạnh bạo, nét mặt tươi lên tin tưởng: - Tôi càng tin tưởng cách mạng hơn. Đây là tên Hòa mà. Như thế này, sự việc của tôi càng được xác minh sớm hơn. Tên Đức đứng bật dậy, xô lại sát tôi, chỉ tay vào mặt tôi, gầm lên: - Anh đừng có già họng! Đấy là tên Hòa à? Tôi mở to mắt ngạc nhiên, cầm tấm ảnh, chỉ khẳng quyết: - Thưa ông, tôi bảo đảm với các ông, đây là tên Hòa mà! Hàng ngày, y đi với tôi, huấn luyện tôi, tôi còn lạ gì mặt y nữa! Đây là một điểm tình cờ, mà lại may. Trước đây, khi tôi tả về ông Hòa, tôi thường lấy hình ảnh người cậu họ tôi, béo trắng, to lớn. Ông là chủ hãng xuất nhập cảng hàn vải Vĩnh An ở đường Hồng Thập Tự. Ông Phan cũng to lớn, chỉ có điểm khác là tôi tả cậu tôi da trắng, đỏ hồng, hay mặc áo sơ mi trắng, trong khi ông Phan da bánh mật, hay mặc áo sơ mi ca rô. Nhưng, trông ảnh làm sao phân biệt được da bánh mật hay da trắng! Còn áo sơ mi và trắng, có điều khoản nào bắt buộc ông Hòa cứ phải mặc áo sơ mi trắng mãi đâu. Còn tôi, tôi chỉ biết cái tên “Hòa”, tên “Phan” tôi không biết. Điều gì chứng minh bắt buộc tôi phải biết tên “Phan” khi mà trong tình báo, với mọi người đều dùng tên giả. Vì thế, tôi cứ khăng khăng hình người trong ảnh là tên Hòa. Điều tôi vẫn lơm lớp lo sợ là, nếu chúng đưa một tấm hình nào đó chụp tôi với Cẩn, hoặc với Hoàng Công An, lúc đó tôi chưa biết tính sao. Bởi vì từ trước, toi chỉ khai tên Hòa duy nhất là người huấn luyện và đào tạo tôi mà thôi. An và Cẩn, người chỉ cao 1m62 là cùng. Chúng tỏ vẻ tức tối lắm, nhưng xem ý chúng không làm gì hơn được. Qua thái độ tức bực của chúng, tôi càng yên tâm hơn. Nếu chúng có vài tấm ảnh nào khác, chắn chắn chúng sẽ lấy ra ném vào mặt tôi. Tôi cầm tấm ảnh đưa trả lại chúng, mặt tôi đầy vẻ hân hoan tin tưởng: - Như thế này, tôi đoán cách mạng đã bắt được tên Hòa rồi, và cách mạng đã xác minh được sự việc của tôi. Tôi rất mong, một buổi nào đó, tôi sẽ gặp tên Hòa ở đây để thỏa phần nào lòng căm phẫn của tôi đối với y. Tên Đặng cười nhạt! Tên Nhuận cầm tấm ảnh, giọng giễu cợt: - Bình đeo kính trắng, đẹp trai, trông tư cách đấy chứ! Tôi cười: - Các ông còn lạ gì xã hội miền Nam! Một anh dốt đặc cán mai, nhưng ra ngoài, cứ ra vẻ ta đây là sinh viên, trí thức, tay luôn luôn ôm chồng sách ngoại ngữ dầy cộm. Hiển nhiên, tôi cũng lây cái nét giả tạo ấy. Mắt tôi có sao đâu, thế mà cũng đeo kính trắng gọng vàng, loại không độ. Bây giờ nghĩ lại, tôi còn thấy ngượng. Hôm nay, chúng tưởng với tấm ảnh ấy, chúng sẽ làm tôi tan hoang, hoặc ít nữa cũng phải bục ra một số mảng. Nhưng cuối cùng, vẫn không giải quyết được gì, chúng bầm gan, tím ruột! Tên Đặng cộc lốc: - Đi về! Tôi về xà lim, thật hú vía! Tuy thế, lòng tôi vẫn đầy lo lắng. Tôi hiểu sự việc chưa thể yên được. Từ ngày tôi bị phát hiện, rồi bị theo dõi ở nhà thờ “X’ tôi đã nhiều đêm ngày suy nghĩ vì sao tôi bị phản gián phát hiện. Tôi tập trung tư tưởng: nhìn, xét, rọi, soi lại từng điểm. Từng khía cạnh, từng sự việc, từ điểm đổ bộ ở Kỳ Phương cho đến khi tới Hà Nội, những ngày vào Việt Đức, lúc sang Gia Lâm…..Tôi không thấy một điểm nào nghi ngờ để bị địch phát hiện. Như vậy, tôi bị địch phát hiện, chỉ có thể: 1) Từ nơi linh mục A. Linh mục đang bị Cộng Sản bí mật theo dõi. Tôi mò đến, nên chúng tìm về nhà trọ để xác minh. Mà đã xác minh, chân tướng tôi lò ra ngay. 2) Từ Paul Lạng ở Paris. Có thể y là nhân viên “hai mang”. Để lấy tiền, y đã cung ấp cho phản gián Hà Nội biết rằng sẽ có một người xâm nhập Hà Nội, nhưng không biết đích xác ngày tháng cũng như nhiệm vụ. Nếu đúng như vậy, phản gián Hà Nội phải tìm ra là tất nhiên. Nhưng điểm này yếu khả năng hơn điểm trên. Tôi mất bao ngày đêm nặn óc suy nghĩ, nhưng vì thiếu cơ sở để nhìn, để xét, cho nên tôi vẫn chưa thể khẳng quyết là do điểm một, hay điểm hai. Bây giờ, lại có thêm tấm ảnh của Phan và tôi. Với tấm ảnh trong điều kiện như hôm nay, tôi chưa thể có ý kiến gì, phải đợi những ngày kế tiếp mới sáng tỏ. Tên Tân bị cùm đến ngày thứ tư, thì mụ Hoa vào gọi đi cung. Qua gần 2 tháng trò chuyện với tên Tân, tôi được biết y chỉ có một chấp pháp duy nhất tên là Châu. Cũng thuộc phòng 44, phòng hỏi cung chính trị. Vậy mà tôi, sao nhiều chấp pháp thế! Trước sau đã 6 người rồi. Mỗi buổi hỏi cung lại thường có từ hai, tới ba người. Có lẽ tại tôi là một điệp viên, có nghiệp vụ, được đào tạo huấn luyện bởi những cơ quan tình báo của một quốc gia, cho nên, để khai thác chúng phải mất nhiều tâm sức hơn? Tên Tân đi cung gần hai tiếng đồng hồ đã về ngay. Tân đã vào buồng mà tên Tư vẫn chưa đóng cửa. Vẫn đứng ở ngoài, trong khi tên Tân vội vàng quấn chăn màn và quần áo. Tân quay lại tôi nói nhanh: - Tôi được ra trại chung, vụ án của tôi sắp xử. Y ôm các thứ ra tới cửa, quay lại gật đầu chào tôi. Cửa đóng, rồi khóa. Tôi thấy nhẹ hẳn người. Từ nay một mình, dù buồn hơn, nhưng không làm phiền toái ai, tôi cảm thấy dễ chịu, tự do hơn. Ngày hôm sau nữa, tôi lại nghe cán bộ vào bảo cô gái bị cùm, phía trái của buồng số 7 mang chăn màn, quần áo ra trại chung. Cô đó đi được hơn một tiếng, rồi cô bị cùm phía phải cũng đi, rất im lặng. Tôi cố gắng nghe để phán đoán, nhưng cũng không hề nghe thấy một âm thanh gì. Như thế, sự nghi ngờ của tôi cô “phía phải” là tù giả cùng chắc đúng hơn nữa… Mặc dù mỗi người một buồng, họ ra đi, lòng mình cũng thấy mang mang vắng lặng. Buồng số hai cũng một người ra trại chung, cùng với hôm Tân đi, có lẽ là người anh họ cùng “vụ” với Tân. Như thế, hiện nay xà lim chỉ còn có 4 người: Một ở buồng số một, bị cùm một chân, một ở buồng số 2, không bị cùm; một ở buồng số 4 là tôi và một ở buồng số 5, không bị cùm. |
|
|
![]()
Post
#39
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Sáu
“Đòn Thù” Của Chấp Pháp và Những Cay Đắng Của Đời Tù... 9 tháng 4, ngày mà tôi nhớ mãi, sau hôm tôi đi cung được 5 ngày. Sáng hôm đó, tên Tư mở cửa buồng cho rửa và đổ bô xong. Tôi đang ngồi mài móng tay xuống sàn xi măng chờ cơm sáng, bỗng cửa con xoạch mở. Theo cách mở cửa con và khóa cửa lớn, tôi đã biết ngay là người lạ. Tôi nhìn lên, cửa con đóng lại và cửa lớn mở to. Đứng ngay giữa cửa là tên Lê, Trung úy Phó Giám Thị, phía sau có tên cán bộ Tư. Nhìn tôi, tên Lê nghiêm trang, nói giọng Bắc: - Theo lệnh trên, anh bị cùm hai chân. Vậy hãy nghiêm chỉnh chấp hành! Tôi choáng váng đến lặng người đi. Tôi bị cùm hai chân! Như thế này, chỉ có tê rồi chết thôi. Tôi đờ đẫn người hỏi, trong khi tên Tư bên ngoài đã rút chốt cùm ra chờ đợi: - Thưa ông, tại vì sao tôi bị cùm hai chân ạ? Tên Lê gằn giọng: - Đó là lệnh trên, anh hãy cứ chấp hành! Một màu u xám như xụp xuống chung quanh tôi. Tôi hiểu, gian khổ cùng khốn lại đoạ đầy tấm thân khốn nạn của tôi. Còn biết nói năng chi, tôi nhấc cùm và từ từ nhấc chiếc chân còn lại ở ngoài đặt vào cùm, tâm tư tôi như đi vào nhà mồ. Đóng chốt cùm xong, tên Lê ra tới cửa còn quay lại: - Hãy suy nghĩ kỹ đi, kẻo rồi không sống được! Tiếng cánh cửa buồng đóng mạnh. Tiếng lạch cạch của then sắt cải cửa như cào vào trái tim đang rỉ máu của tôi. Lần này rõ ràng rồi! Tụi chấp pháp cùm tôi, vì cho tôi ngoan cố, không chịu khai báo sự thật. Lần trước, chấp pháp còn lấp lửng “chúng tôi không cùm anh”, vì lúc đó chùng còn nấp sau cái mặt nạ “dân chủ”, lấy “chính nghĩa” phục vụ nhân dân, lấy “khoan hồng” giáo dục con người sai phạm là chính. Bây giờ, chúng hất cái mặt đó ra rồi, hiện nguyên hình là những con quỷ, đầy mồm nanh vuốt với hai bàn tay máu. Cùm hai chân, khổ cực nhất là cảnh đái và ỉa. Đi đại tiện, tôi phải cố tập hai ngày đi một lần. Nhưng đi đái, dù uống ít nước, ban ngày phải 3, 4 tiếng đi một lần; còn ban đêm, từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng tôi mới dậy đi. Đó là với điều kiện ngủ, chứ vì đau đớn không ngủ được, một đêm cũng phải đi 2, 3 lần. Lúc đi đái, dù cố gắng bằng cách nào, tôi cũng vung vãi cả ra nhà và trên sàn ngủ. Bởi vì, tôi chỉ có một thế duy nhất: nằm nghiêng ở giữa sàn, rồi từ giữa sàn tiểu xuống dưới bô, có khi vào bô, có khi không. Gặp khó khăn phải đẻ ra sáng kiến. Đó là phương châm đối với tất cả mọi sinh vật. Sau hai đêm, chân tôi tê và mỏi nhừ. Nhưng, bứt rứt và khó chịu nhất là hai cái đầu gối không thể gập hẳn lại được. Đa số thời gian tôi phải nằm nhiều. Còn ngồi, thì ở cái thế gù gù, đầu phải gục về phía trước, rất mỏi, không thể ngồi lâu được. Vì vậy, tôi nghĩ nếu lúc cùm vắt chéo hai chân, chân phải sẽ ở bên trái và ngược lại, chân trái sẽ ở bên phải. Như thế, muốn nằm, phải nằm xấp, và chỉ nghiêng về một phía. Nhưng, được cái lợi là quỳ lên rồi ngồi gập lên cái cùm, lúc đó, chân gập sát được, thoải mái hơn. Nghĩ như vậy, buổi sáng hôm sau, ăn cơm rồi trả bát xong, tôi vắt chéo hai chân. Lão Tư nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên. Lão định hỏi, nhưng nghĩ thế nào lại thôi, rồi lão đóng cửa cài then. Tôi lựa thế xoay úp người xuống sàn, chống tay quỳ lên, rồi ngồi lên cái cùm, hai chân gập lại phía dưới mông đít. Thế ngồi thật vững chãi, nhất là hai chân được gập được sát lại mông. Ngồi một lúc mỏi, tôi lại chống tay xuống sàn, từ từ nhoài người ra phía trước, nằm xấp. Như thế, hai chân duỗi ra được thẳng hơn. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn hẳn thế cùm cũ. Tuy vậy, cũng có điều bất tiện của nó là không đi đại tiện được, vì không có thế nào để đưa mông ra được sát mép sàn. Còn đi tiểu tiện, chỉ có một thế duy nhất là quỳ lên, rồi từ giữa sàn cho chéo xuống dưới bô. Thế này có lợi là tôi nhìn thấy miệng bô, nên ít văng ra ngoài, nhưng nước giải rớt ra sàn ngủ nhiều hơn. Tóm lại, kiểu cùm này chỉ có thể dùng ban ngày, từ bữa cơm sáng lúc 9 giờ cho đến bữa cơm chiều lúc 4 giờ. Về đêm, nên đổi lại thế cùm bình thường. Tuy thuận tiện hơn nhau không bao nhiêu, nhưng điểm lợi là chân luôn cử động được, mạch máu lưu thông, giảm bị tê bại chân. Tôi đang ngồi chễm chệ trên cùm, mắt mơ màng nhìn lên một khoảng trời con, rộng chừng 10 phân giữa mép dưới cửa sổ và riềm mái ngói chạy dài theo cửa sổ. Trong cái khung trời này có 6, 7 cái lá nho của giàn nho phía sân trước Hỏa Lò, nơi mỗi khi tôi đi cung đều có đi qua, cửa con bỗng xoạch mở. Tôi quay lại, chỉ kịp thoáng thấy bộ mặt của lão Tư. À ra thế! Khi nãy, thấy tôi vắt chéo hai chân cùm, y không biết tôi định làm gì, vì vậy y mới để ý theo dõi. Bây giờ, y bất chợt mở cửa kiểm tra. Thấy tôi ngồi như vậy, y đã hiểu, nhưng chẳng có gì nói được tôi, nên y lại đóng cửa con lại. Tuy chỉ là một khung trời nho nhỏ với mấy chiếc lá nho xanh rờn, nhưng nó cũng làm cho tâm hồn tôi được thêm một chút thi vị, còn hơn là chỉ nhìn thấy 4 bức tường và hai cái cùm, không một chút sinh khí. Nhiều lúc bâng khuâng, nhìn những chiếc lá nho xen kẽ những mảnh trời xanh xanh, hồn tôi buông trôi dật dờ, như ký thác, gửi gấm những nỗi niềm đầy vơi của mình mà quên đi được phần nào cái nhức mỏi của đôi bàn chân trong cùm. Mấy hôm nay, người lại đưa vào đầy xà lim. Buồng nào cũng có người. Lúc gần trưa thấy tiếng mở cửa xà lim, tôi nghe giọng một người Tầu, nói tiếng Việt không rõ: - Téo mẹ, tui làm sao mà pắt tui? Và ngay sau đó, tiếng quát: - Câm mồm! Tiếng mở buồng số 6, tiếng rút chốt cùm. Tiếng lão Tư cao giọng: - Bỏ chân vào! - Tui làm sao lại cùm cái chân tui! Tiếng xô động huỳnh huỵch, tiếng đóng chốt cùm, tiếng đóng cửa cài then. Rồi im lặng, tôi vểnh tai nghe ngóng. Vẫn im lặng, có lẽ các buồng khác cũng đang vểnh tai nghe những âm thanh để suy đoán như tôi. Im lặng một lúc, tôi lại dõi hồn vào những chiếc lá nho. Vài cơn gió nhẹ, những chiếc lá nho rung rinh, đong đưa như đùa cợt với gió. Bỗng một giọng khàn khàn cất lên nghe rõ mồn một: - Chúng mày không cho làm ăn puôn pán gì cả!...Vợ con tau ăn cái sắn mà không có ăn…Mua cái tậu, mua cái muối, xếp hàng dài dài mà không mua tược!.....Chúng mày giết vợ con tau đi, giết tau đi!.....Téo mẹ cái Cộng Sản! Téo mẹ cái cách mạng!..... Càng lúc giọng càng ầm vang, nhiều khi như gầm lên. Qua giọng nói, tôi đoán ông này cũng đã có tuổi, phải từ 35 đến 40. Có tiếng cửa con xoạch mở, rồi tiếng lão Tư sắc, đanh: - Câm cái mồm lại, mày muốn chết hả? Tiếng người Tầu gầm lên như điên rồ: - Mày giết tau đi! Téo mẹ chúng mày! Tau không muốn cái sống nữa! Chúng mày làm cái dân không có cơm ăn! Téo mẹ cái tồng chí, téo mẹ cái Cộng Sản! Tiếng lão Tầu gầm thật to, vang ra cả ngoài sân khu giàn nho. Mấy tên cán bộ chạy vào. Một giọng lạ như ra lệnh: - Khóa mồm nó lại. Không chịu nữa, cho xuống “cát xô”! Lão Tầu gần như điên khùng, không biết sợ là gì, lão vẫn chửi. Một lúc sau, có tiếng mở cửa buồng. Rồi những tiếng huỳnh huỵch vùng vẫy và giọng của lão Tầu cứ xìn xịt, phì phì như tiếng của con chó bị buộc mõm. Tiếng cửa đóng nghe “xầm”, rồi xà lim lại trở về vắng lặng. Thỉnh thoảng tiếng xìn xịt hổn hển của buồng 6 cứ như cào vào tim của mọi người trong xà lim. Tôi nhớ lại hình ảnh chiếc cùm mồm lúc tôi mới bị bắt vào. Khi đó, tôi còn bị đánh máu me đầy người, lại còn bị cùm hai chân. Nghĩ đến, tôi còn thấy tim mình như bóp thắt, gáy tôi còn rờn rợn. Ở đây, ông Tầu chỉ bị cùm một chân, nhưng chắc cũng không gãi được, vì nếu đã bị cùm mồm thì phải khóa tay ra sau, nếu không, tay sẽ mở được cái vít dưới cằm. Tôi thở dài, thông cảm của ông. Tôi nhớ lại lúc bị cùm hai chân dạo ấy. Khi đó, phần vì mới vào cơ thể của tôi còn có chất dự trữ, còn sức lực để chịu đựng, hơn nữa, đang ở thời gian liên tục đi cung, nên coi như chỉ bị cùm về đêm. Ban ngày hai chân được nghỉ ngơi, thay đổi, máu chạy điều hòa, ít bị tê xuội. Vậy mà tôi cũng chỉ chịu đựng được gần 40 ngày rồi không đi được nữa. Bây giờ, chúng lại không gọi cung nữa. Tôi đã nổ lực phấn đấu bằng cách luôn luôn thay đổi thế cùm, vất vả đau đớn lựa thế duỗi ra co vào như tập thể dục, thế mà bàn chân khi sờ vào cứ bì bì, căn cắn. Tay sờ vào chân, cảm giác như sờ vào chân người khác. Ngày 16 tháng 4, tên Tư mở buồng, thu hết chăn màn và áo trấn thủ. Khi y tới buồng tôi, tôi nằn nì, khẩn khoản: - Thưa ông, tôi chẳng có một cái gì ngoài hai bộ quần áo cũ. Đề nghị ông thông cảm, cho tôi mượn lại một chiếc chăn, tôi xin đội ơn ông và nhà nước. Y quắc mắt, gằn giọng: - Nguyên tắc là nguyên tắc. Không nói nhiều! Tôi đành cởi áo và gấp hai chiếc chăn đưa cho y với bao nhiêu luyến tiếc hận sầu. Y ném xuống đất, phía ngoài cửa. Y như kinh tởm khi cầm tới chiếc chăn, mũi y nhăn lại. Cửa đóng rồi, mà lòng tôi còn ngẩn ngơ tiếc nuối. Tôi hiểu rằng những ngày tới, trong tình trạng cùm kẹp này, tôi còn phải chịu đựng nhiều khổ sở khó khăn hơn nữa. Có tiếng người lục đục vào ôm những chiếc chăn phía ngoài cửa. Chắc là một anh tù hình sự nào đó đi thu chăn về để giặt và nhập kho. Như vậy là hàng năm, cứ 16 tháng 10 thì cho mượn chăn, và 16 tháng 4 thì thu lại. Chiếc loa ở cổng trại chung đã như cái đồng hồ. Ngày nào cũng như ngày nào, sáng đúng 5 giờ tiếng loa bắt đầu với những bài tập thể dục ở trên đài. Giọng một cô gái thanh thanh kéo dài 1, 2…..theo từng động tác, nghe có lúc như tiếng hò kéo gỗ ở một công trường lao động đổ mồ hôi, có lúc lại dồn dập khẩn trương như tiếng đập lúa trong ngày mùa của một hợp tác xã nông nghiệp. Sau 15 phút tập thể dục, tới mục “thanh niên”, rồi đến công trường, nhà máy, bản tin. Từ 6 giờ tới 6 giờ 30 là mục “Quân Đội Nhân Dân”,v.v…Tiếng loa cứ the thé chọc vào tai mọi người cho tới 8 giờ thì câm bặt. Đến 12 giờ trưa lại nheo nhéo. 1 giờ lại tắc họng, để đến 5 giờ chiều lại bắt đầu hò hét cho tới 9 giờ tối mới chịu ngủm củ kiệu. Trong một tuần, sáng thứ Hai và thứ Sáu là hai ngày “giao và đưa hàng”, đó là những từ, tôi nghe tụi cán bộ thường xuyên nói chuyện với nhau. Ngay từ 3, 4 giờ sáng, lúc chưa có tiếng loa phát thanh, ở chỗ sân giàn nho sát với cổng trại chung, tiếng rì rầm, ồn ào hỗn độn của ù, xen lẫn với những tiếng quát tháo của những tên cán bộ, bộ đội về cơm nước, cùm, khóa…để đưa tù đ trại trung ương. Tôi nằm nghe theo dõi những tiếng rì rầm bàn tán. Có ngày là tù chính trị, có ngày là tù hình sự. Như vậy, ở trại chung, hoặc ở xà lim, anh nào sẽ phải đi trại nào, ngay từ tối hôm trước đã được gọi ra tập trung ngủ ở một ngôi nhà gọi là “buồng vãng lai”. Sáng sớm 3 giờ đã được gọi dậy ra chỗ giàn nho phía bên ngoài tường của xà lim II, để nhận cơm nắm, rồi đọc tên, khóa tay chung, cứ hai người một. Tù thường không biết mình sẽ đi trại nào. Nhưng, tôi nằm trong này tôi đã biết trước họ. Ngoài cổng trại chung, sát phía bên kia cũng là địa điểm để xe đạp, những giờ tan tầm, cán bộ thường tập trung lại đó, đôi khi bàn tán, đùa cợt, hỏi han nhau., vì thế từ chiều hôm trước, có khi tôi đã biết tù ngày mai đi trại nào rồi như: Vĩnh Quang, Phú Sơn, Vĩnh Tiến, Tân Lập, Phố Lu, Phong Quang, Trại 5, Quyết Tiến hay “Cổng Trời”, v.v…..Cũng từ địa điểm này, đôi khi nghe được nhiều chuyện giữa cán bộ bàn luận, hỏi nhau trước khi về, hiểu thêm được về chúng và về xã hội miền Bắc. Ngay bữa cơm chiều hôm đó, tên cán bộ hỏi buồng số 6: - Cái mồm còn la nữa hay không? Im lặng một lúc, rồi tiếng mở cửa buồng: - Từ nay, tôi chỉ nghe anh la một tiếng, tôi sẽ cùm cả hai chân, khóa mồm cho vài ngày. Lúc đó, chỉ có chết. Lục đục một lúc. Có lẽ tên Tư mở khóa tay, mở khóa mồm, rồi tiếng mở chốt cùm. Tiếng chân lẹt đẹt ra lấy cơm và lấy nước. Tiếng đóng cửa. Như thế là ông Tàu đã biết sợ rồi. Ai mà không sợ! Chết ngay không sợ, nhưng phải sợ kiểu cùm khóa như vậy. Tôi đã nếm gần hai ngày, bây giờ còn thấy ngán. Ngay hôm sau, tôi lại nghe thấy tiếng mở cửa buồng 6, tiếng quát tháo bảo ôm quần áo ra trại chung. Tôi suy đoán, có thể anh Tàu này vì bất mãn chán chường, chửi bậy ở địa phương hay ngoài đường phố nên bị công an bắt. Bị giữ ở đồn, vẫn chửi, nên sau đó bị đưa vào Hỏa Lò ở trại chung; nhưng ở trại chung, vẫn cứ điên rồ chửi bới la hét, nên mới bị đưa vào xà lim. Vì thế, bây giờ thấy anh ta biết điều rồi, nên được đưa ra trại chung lại, chứ anh ta chả có tội gì đặc biệt cả. Vào một buổi sáng sớm thứ Sáu, tôi đang mơ màng thiếp đi sau một đêm quằn quại vì đôi chân nhức mỏi, vì cơ thể cũng rã rời thiếu ngủ, thiếu ăn và cứ phải nằm trong những thế gò bó, những tiếng xụt xịt, tiếng the thé cãi cọ nhau của nhiều người con gái phía bên ngoài tường làm tôi thức dậy. Có lẽ lúc đó độ 3 giờ rưỡi, 4 giờ sáng…? Tôi lắng nghe, được biết những người tù nữ này đi trại Mỏ Chén. Tôi cũng chẳng biết trại Mỏ Chén ở đâu cả. Qua những tiếng đếm cơm, phát cơm, rồi khóa tay, v.v… Tổng số người là 43. Có hai cô cãi cọ giành nhau là người thứ 43, lẻ, không phải khóa tay. Vẫn nghe có những tiếng khóc tỉ tê, sướt mướt, nức nở, rồi có tiếng một cô quát: - Không cầm lấy cơm, con đĩ! Còn khóc mãi….! Lại có một giọng khác cất lên lanh lảnh: - Tổ sư bố con đĩ, ăn cho lắm “đầu cá khô” vào, bây giờ còn ngồi đấy mà khóc! Làm thối cả ruột người khác nữa! Tôi rất ngạc nhiên, không hiểu họ mắng nhau như vậy là nghĩa gì! Nghĩ một lúc tôi chợt hiểu. Dù đang đau, tôi cũng phải mỉm cười cho cái kiểu ví von ngộ nghĩnh của họ. Sau lúc họ được lệnh ra xe ngoài cổng Hỏa Lò, tôi không ngủ lại được nữa. Đầu óc lại cứ bập bềnh nhấp nhô chảy dài trăm ngả cuộc đời… Tôi nhớ lại những ngày dong duỗi trên khắp các nẻo đường Hà Thành. Ngay từ 1954, khi còn là một cậu bé 15, 16 tuổi, tôi đã nhìn thấy các cô nữ sinh Hà Nội, nhất là các nữ sinh Trưng Vương, đẹp, mềm mại duyên dáng tuyệt vời. Rồi, tôi vào Sài Gòn. Tôi lại được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các nữ sinh Gia Long, Trưng Vương với những đôi mắt huyền, làn da trắng bóc, gót chân đỏ hồng; với ngực nở, eo thon, mông to; với chiếc nón bài thơ nghiêng nghiêng; hai bàn tay đeo “găng” trắng muốt, cỡi trên chiếc solex đen (tương phản với màu của áo quần, của đôi “găng”, của chiếc nón và của da thịt), tất cả tạo thành một bức tranh không còn từ gì dể mà ca ngợi. Bây giờ tôi lại trở về Hà Nội, đất ngàn năm thanh lịch của đài các trâm anh, ngoài những mặt tôi phải tính toán đấu tranh với kẻ thù Việt Cộng, tôi cũng muốn tìm lại những bóng dáng mỹ miều của người con gái thủ đô lúc này ra sao. Thế mà, gần một tháng trời, suốt ngày tôi lang thang khắp 36 phố phường, nhiều khi cả đêm tối, tôi chẳng thấy một cô nào gọi là khả dĩ sánh với Hà Nội năm xưa, và Sài Gòn ngày nay. Họ biến đâu hết! Chỉ có một lần, vào một buổi sáng, trời thật trong không một vẩn mây, đang đi trên đường Hàng Chiếu, tôi thấy từ “ban công” của một căn nhà lầu sát phố, một cô gái chừng 18, đôi mươi, nước da trắng hồng, bộ mặt trái soan với đôi mắt bồ câu, đang làm những động tác thể dục. Tôi liếc nhìn lên, cũng là lúc cô nhìn xuống. Từ trên vai trở xuống mông, tôi thấy như gần bằng nhau. Có thể lúc đó càm súc so sánh của tôi còn sắc nét, bởi vì vừa mới ở Sài Gòn ra, nên mới thấy rõ như vậy. Chứ những năm tháng sau này, khi hình ảnh so sánh đã mờ nhạt do chất chồng thời gian, tôi lại thấy những cô gái miên Bắc vẫn còn nhiều cô đẹp, mặc dù tôi chỉ ở núi rừng, và chỉ nhìn thấy những “bà” cán bộ thôi. Thế mới sợ cho tâm lý con người. Nhìn sự vật phải có điều kiện. Cộng sản đã tích cực lợi dụng khía cạnh này để thống trị con người. Chúng làm mất dần ý niệm so sánh suớng khổ, xấu đẹp, lẫn lộn yêu nước chân chính và phản dân tộ vô tình. Vì thế, nếu ta có nói, người dân cũng không tin. |
|
|
![]()
Post
#40
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Bảy
Chết... Hụt... Đã vào hè, thời tiết càng ngày càng oi nồng và muỗi. Xà lim 2 thật nhiều muỗi, có lẽ vì cửa sổ to, lại thấp nên muỗi nhiều vô kể. Phải nói rằng, tôi kiệt sức một phần vì cùm, nhưng còn một phần nữa vì muỗi. Tôi thường lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Suốt đêm, tay cứ phải cầm áo xua đuổi muỗi. Rồi những lúc mệt mỏi quá thiếp đi, tay chân lại đầy lên nốt muỗi. Ở xà lim 3 vậy mà ít muỗi hơn. Có lẽ vì cửa sổ nhỏ, lại ở mãi tít tận trên cao, cho nên các chú muỗi cũng khó vào. Những người ở buồng khác hầu như đều có màn. Những lúc tắm giặt đem quần áo ra chỗ nhà vãng lai phơi, thỉnh thoảng tôi thấy có màn phơi. Cụ thể, hai người ở chung với tôi trước đây là Hoàn và Tân, họ đều có màn cả. Hơn nữa, những buổi đêm tối, chỉ có buồng tôi có tiếng động, đập và đuổi muỗi; các buồng kia im vắng, có chăng chỉ là tiếng kêu rên ban đêm. Như thế, cả xà lim này, ban đêm, chỉ có mình tôi phải đón nhận tất cả các con muỗi. Ôi khổ cực thân tù: “Mùa Đông rét mướt, mùa Hè muỗi bu!”. Có thể vì cơ thể tôi không còn chất để chống đỡ, lại do người tôi bẩn thỉu, cứt đái, hôi hám, cho nên những nốt muỗi cắn dần dần trở thành ghẻ,ngứa ngáy bắt gãi suốt ngày đêm. Từ nhỏ tới lớn chưa hề bị ghẻ lần nào, chưa biết ghẻ là gì, bây giờ ghẻ suốt cả người, nhất là ở háng, nách, kẽ tay, kẽ chân, trông như hủi. Ngứa ngáy quá tôi không chịu nổi nữa, tôi báo cáo với lão Tư để xin thuốc ghẻ. Tôi phải báo cáo nhiều lần, một hôm mụ Dậu mới xem tôi. Đã lâu không gặp tôi, con mắt mụ nhìn tôi như đượm một chút ngạc nhiên, một chút xót xa cho một người chóng tàn lụi như vậy. Mụ cho tôi một chai thuốc, nhưng tôi chỉ được để ở ngoài chỗ đuôi suốt cùm, phía sàn bên. Hàng ngày khi được mở cùm ra lấy cơm, tôi phải báo cáo cán bộ, tranh thủ đứng đấy bôi, rồi để lại chỗ cũ. Chúng sợ tù tự tử. Uống thuốc ghẻ không chết, nhưng làm cho chúng mất công. Vì điều kiện chữa và bôi như thế, nên ghẻ không thể khỏi được. Đã gần 30 ngày cùm hai chân rồi mà tôi vẫn không được gọi đi cung. Bây giờ, hai chân tôi cứ cắn nhức ở trong xương. Hàng ngày ra lấy cơm, tôi không thể đi nhanh được nữa. Tôi lặc lè những bước đi rất khó khăn, vừa đau nhức, vừa như không nhấc nổi hai chân. Dần dần hai mu bàn chân của tôi tự nhiên sưng múp lên. “Nam túc, nữ mục”. Tôi nhớ các cụ già nói thế. “Đàn ông chân phù, đàn bà mắt phù”, đó là triệu chứng của sự chết! Chuyến này, chắc tôi phải chết. Chúng chả cần phải bắn tôi. Nếu bắn, chết ngay đâu có khổ. Nhưng ở đây, chúng bắt tôi chết dần, chết trong quằn quại, ngắc ngoải, khổ đau; bắt tôi phải nhìn cái chết đến dần dần. Tôi hiểu lòng dạ chúng như vậy. Là người Công Giáo không được tìm cách tự tử. Nhưng, dù muốn tự tử trong tư thế này, tôi cũng không có cách gì tự tử được cả. Anh có gan đập đầu vào tường không? Hay chỉ dang dở, để rồi không chết dược mà lại sống mang bênh thần kinh? Vả lại, tâm lý con người, trừ trường hợp cá biệt, còn nói chung, dù biết là sắp chết, trong lòng vẫn níu kéo từng giây, từng phút để sống. Phải nói, tư tưởng của tôi bây giờ cũng suy sụp lụi tàn rồi. Chân thì nhức buốt, người lại rã rượi ngứa ngáy như điên, tôi không còn đâu tinh thần để phấn đấu nằm xuống,ngồi lên cho mạch máu lưu thông nữa. Tuy thâm tâm tôi hiểu rằng, càng chán nản tiêu cực như vậy, càng đi nhanh đến chỗ chết. Ngay cả khi lấy cơm ăn, tôi cũng phải bò ra, vì không đi được nữa. Có lần, tên cán bộ thấy tôi chậm chạp quá lâu, mất nhiều thì giờ của hắn, hắn kéo tôi vào buồng, để rồi cả bát cơm canh đổ ra đất. Tôi phải bò theo để bốc, nhặt vào, chỉ còn một chút cơm với mấy cọng rau. Chỉ vì, y không dám sờ vào người tôi, sợ bẩn, sợ ghẻ; y cầm vai áo của tôi mà kéo nên mới đổ như vậy. Có lẽ y đã nhìn thấy tôi như thế này, vừa mất thì giờ của y, đồng thới tôi sẽ chết, nên y đã bao cáo thế nào đó, chiều hôm ấy, tên Lê vào. Lê phải mở cửa buồng to ra, mà vẫn đứng ở mép cửa, chắc hẳn vì cái buồng hôi thối lắm rồi. Y nói vẻ dìu dịu: - Tại sao anh ngoan cố không chịu thành khẩn khai báo? Tôi nói giọng hổn hển vì mệt và pha lẫn một chút niêm xúc động. - Tôi…khai hết rồi, nhưng…các ông ấy không tin. Cửa đóng rồi, tôi nằm xuống. Tôi nằm, càm thấy dập dờn như đi trên thuyền. Tai cứ nghe những tiếng lùng bùng, o o , tôi chưa bao giờ thấy cơ thể mình như vậy. Có lẽ, tôi sắp chết, chết đêm nay. Đã 43 ngày rồi, cơ thể không còn sức chịu đựng nữa. Hai chân tôi cứng đơ ra. Tôi muốn lùi người xuống để cho cái chân co lại một chút, nhưng tôi chống tay mà không còn sức để lết. Tay tôi rủn ra, yếu đuối quá! Tôi bằng lòng chết, không thắc mắc gì nữa. Xin Chúa hãy cho con chết! Cho con chết đêm nay, con xin cảm tạ Chúa! Bây giờ muỗi cứ đốt, tao không tiếc chúng mày nữa. Đàng nào thì máu tao cũng thành tro bụi, đất cát, vậy chúng mày cừ dùng đi…Tôi cũng không còn cảm thấy ngứa ngáy nữa. Tôi lịm đi… Tới khi có ai đó kéo tôi dậy. Tôi mở mắt ra, thấy một ông mặc áo “blouse” trắng, đang cầm tay tôi tiêm. Tôi nhìn. Tôi không còn nằm xà lim nữa, mà nằm trên một cái giường gỗ. Tôi cố cúi nhìn xuống hai chân. Hai chân tôi không còn trong cùm mà giạng ra ở cuối giường. Như thề, chúng đã tháo cùm tôi từ bao giờ. Đây là đâu? Tôi tự hỏi. Sao tôi không hề biết gì cả? Tôi đoán đây là tên Huệ, y tá, có lần tên Tân nói với tôi về y. Để y tiêm xong, tôi hỏi y với giọng còn run run xúc động: - Thưa ông, đây là đâu ạ? Mặt y tươi tỉnh nhìn tôi: - Bệnh xá! Rồi y hạ thấp giọng, tình cảm: - Đêm qua, tôi tưởng anh đi luôn rồi. Anh có một sức sống kỳ diệu! Vừa nói, y vừa đứng dậy, cầm khay thuốc sang phòng bên. Tôi nằm, miên man nhớ lại lần lượt; chiếu tối hôm qua, tự nhiên tôi thấy người như nhẹ nhàng, không còn cảm giác đau đớn và ngứa ngáy nữa…Rồi, không biết làm sao, tôi như thấy mình về lại Sài Gòn. Tôi gặp mẹ tôi. Người còn cho tôi một cuốn sách chữ vàng rất dầy, và nói: “Đây là một cuốn sách quý lắm!”…Như vậy, chắc là tôi đã xỉu đi. Rồi một cán bộ nào đó, vô tình đi kiểm tra các buồng, thấy tôi như vậy, nên đã gọi người và xin lệnh đưa tôi xuống bệnh xá. Âu đây, cũng là cơ trời, số của tôi chưa chết được! Nghĩ tới đây, tôi lại thấy người bắt đầu ngứa ngáy. Tôi thử nhấc hai chân, thấy hơi nằng nặng, nhưng được. Tôi lựa thế, cố gắng ngồi dậy. Tuy hơi khó khăn, nhưng tôi ngồi dậy được, và tôi bắt đầu gãi. Chỗ tôi nằm là một căn buồng nhỏ, chẳng có ai. Bỗng cửa mở, tôi thoáng nhìn ra một căn phòng rộng ở bên cạnh, có nhiều giường cá nhân, trên đó, lố nhố một số người gầy như những bộ xương đang nằm. Mụ Dậu vào, mắt mụ sáng lên nhìn tôi: - Hôm qua, tôi tưởng anh chết rồi! Tôi nhìn mụ bằng con mắt cám ơn. Tôi thoáng có ý nghĩ, làm cách nào xin được thuốc ghẻ? Thấy mụ định đi ra, tôi đánh bạo lên tiếng: - Thưa bà, ghẻ tôi ngứa lắm. Xin bà cho tôi thuốc…? Mụ vừa gật đầu, vừa đi ra. Thái độ của mụ tỏ vẻ tích cực giúp tôi chữa ghẻ. Mót giải, nhìn quanh, tôi thấy một cái bô ở góc buồng, tôi cố gắng tụt xuống và chậm chạp lê bước đến chỗ cái bô. Tôi cảm thấy khỏe hơn ngày hôm qua, hôm kia nhiều. Mấy bữa đó, tôi không còn đi được. Như thế, có thể nhờ được tiêm thuốc nên tôi hồi sức. Tôi trở về giường. Hai chân tôi vẫn sưng múp, nặng chình chịch. Tôi mệt mỏi nằm xuống, đúng lúc đó tên Huệ mở cửa đi vào, theo sau là một anh tù hình sự, bưng một tô cháo, khói bay nghi ngút. Huệ đưa cho tôi một lọ thuốc ghẻ: Thầy y có vẻ dễ chịu, tôi hỏi: - Thưa ông, tôi được ở đây bao lâu? Vẻ mặt đắn đo, y dè dặt: - Tôi không rõ, nhưng chắc vài ngày. Tôi hỏi, vì tôi sợ trở về xà lim lại bị cùm. Tôi cố ăn hết bát cháo nấu muối. Mồ hôi vã ra và tôi thấy nhẹ hẳn người. Không có điều kiện tắm, tôi gãi mạnh những nốt ghẻ cho bong vảy. Trong buồng không có ai, tôi cởi hết quần áo ra bôi, bôi đi bôi lại. Tôi tích cực bôi, mong mấy ngày cho khỏi, vì sợ rằng về xà lim, tôi lại bị cùm, không thể chữa được. Chiều hôm đó, khoảng 4 giờ tôi lại được một tô cháo nóng nữa. Tôi vừa ăn xong, tên Lê Phó Giám thị vào buồng với tên Bằng. Y nhìn tôi với vẻ mặt dễ chịu: - Anh có thấy không, đáng lẽ anh đã chết đêm qua rồi, nhưng lòng nhân đạo của đảng đã cứu sống anh. Đảng và cách mạng đã đưa sự sống trở về cho anh. Anh phải ghi ơn đó suốt đời anh. Tôi đã cho lệnh y tế bồi dưỡng anh một tuần cơm cám. Để đáp lại công ơn cứu tử này, anh hãy dốc lòng thành thật khai báo. Đời anh còn dài, anh sẽ có ngày được hưởng lượng khoan hồng của đảng và nhà nước, trở về xã hội làm lại cuộc đời. Tôi thấy y cứ nói đi nói lại, vẫn loanh quanh chỉ có thế, vì vậy, để cho qua chuyện, tôi chậm chạp từng lời: - Trong nơi sâu kín của trái tim này, tôi xin biết ơn đảng và cách mạng, trực tiếp là các ông. Tôi vừa nói, vừa để tay lên ngực. Với một giọng gia ơn, tên Lê tiếp tục: - Tôi thông cảm điều kiện sức khỏe của anh, tôi đã đề nghị trên tạm thời tha cùm cho anh. Ngay chiều nay trở lại xà lim, anh hãy suy nghĩ cho sâu, quyết tâm từ bỏ những tội lỗi sai lầm trước đây bằng cách khai báo hết mọi âm mưu thủ đoạn làm hại nhân dân, làm hại cách mạng của bè lũ Mỹ Diệm với đảng và nhà nước. Chỉ có một con đường duy nhất đó, anh mới được hưởng lượng khoan hồng của đảng. Nó nói, mặc nó nói, tôi cũng chẳng chú ý nghe. Điều tôi chú ý lắng nghe nhất là ba chữ:”Tạm tha cùm”. Chỉ nghe ba chữ này, tôi thấy người tự nhiên nhẹ hẳn đi, như có một nguồn sinh lực ở đâu tràn vào cơ thể. Tên Lê và tên Bằng đã đi rồi, tôi vẫn ngồi yên. Hồn tôi vẫn rung rinh nhảy múa, có cảm giác như một phiến đá nặng nề hằng ngày đè chĩu trên vai, nay được hất xuống rồi, dù rằng tạm bợ. Khoảng 5 giờ chiều, trại chung đã vào hết, tên Bằng vào bảo tôi đi theo y về xà lim. Mùa Hè, lúc này mặt trời chưa đi ngủ, ánh nắng nghiêng nghiêng phản chiếu từ những bức tường nhà trại chung, làm cho cảnh vật sáng lên một mầu vàng ửng. Dăm con chim sẻ ríu rít trên cành bàng, như chia xẻ với nỗi hân hoan đang tràn ứ trong lòng tôi. Nhìn những chiếc lá bàng đang thời kỳ con gái mơn mởn, sau những ngày Đông giá khẳng khiu khô cằn, tôi liên tưởng tới đời mình, mới vừa từ cõi chết trở về, để rồi lại tiếp tục bì bõm lặn lội trong đường hầm đen tối; đâu đã được thảnh thơi đùa rỡn với gió chiều như những chiếc lá bàng kia. Tên Bằng dẫn tôi về xà lim II, nhưng lại mở cửa đưa tôi vào buồng số 2. Như thế càng gần cổng trại chung, càng gần chiếc loa lắm mồm hàng ngày. Thấy tên Bằng hôm nay có vẻ dễ chịu tử tế, tôi khẩn khoản: - Thưa ông, tôi có cái bó chổi dùng làm gối để ở buồng số 4, xin ông bớt chút công mở cửa cho tôi lấy…? Y ngơ ngác, không hiểu, tôi phải nói thêm: - Đó là những cái cuống chổi thanh hao đã cùn, tôi không có gối, nên đã buộc, bó với nhau làm gối. Vừa rồi xuống bệnh xá, tôi còn để lại buồng số 4. Y chạy lại mở cửa con buồng 4. Tôi thấy y hỏi gì người bên trong. Như vậy, buồng 4 lại có người mới rồi. Một lúc, y trở lại bảo tôi: - Vào nhà tắm xem sao? Tôi vội chạy sang buồng 8 ngay đối diện. Tôi đã nhìn thấy cái “gối” của toi ướt nhẻm, vất ở một xó sàn, hãy còn dính đầy phân. Thôi đành! Tôi vội vàng mở vòi nước, đập đập cái “gối” xuống nền cho phân trôi đi, vẫy khô, rồi nhanh nhẹn chạy vào buồng. Như vậy là hôm nay y đã dễ dãi với tôi nhiều rồi. Cửa đóng. Căn buồng này không được sạch, nhưng đã có cái chổi thanh hao, tôi cảm thấy khoáng đãng tự do thoải mái. Chân tôi, tuy chưa được nhanh nhẹn, nhưng từ nãy, do sự hoan hỉ ở trong lòng, tôi cứ thích lăng xăng làm việc. Tôi quét sạch hai sàn, dưới nền, hốt hết váo cái bô. Chai thuốc ghẻ vẫn nằm trong túi, tôi lại cởi hết quần áo tích cực diệt ghẻ. Đêm hôm đó, để chống muỗi, với hai bộ quần áo, mặc một bộ, bộ còn lại, tôi lấy cái quần mặc dài xuống dưới cho hai ống quần phủ che kín hai bàn chân, thắt giải rút ở ngay đầu gối, còn chiếc áo thì trùm lên mặt, cho hai tay lên đầu luôn. Trời nóng, mồ hôi ra ướt đẫm, đắp như vậy khó thở, nhưng còn hơn là để muỗi cắn. Mới được tha cùm, tâm tư còn nhiều sôi nổi, lại thêm mấy ngày thoa thuốc ghẻ, bớt ngứa, đêm hôm ấy, tôi ngủ một giấc thật thoải mái tự do. Hôm sau, lại là ngày tắm giặt, tôi cào hết mọi mụn ghẻ, về buồng bôi thuốc, ghẻ đỡ đi rất nhiều. Chỉ 3 ngày sau, người tôi lại sức hẳn. Hàng ngày, tôi loanh quanh trong buồng ung dung, nhàn hạ. Tôi tò mò cố đọc những giòng chữ nhỏ, những người tù trước đã ghi vào tường bằng một cọng thép hay một cái đinh”. - Trần Minh Châu, tức Cập. Vụ án tình báo 1958. Tôi chẳng hiểu “Trần Minh Châu” là ai, chẳng hiểu “vụ tình báo” này từ 1954 cài lại, hay mới ở miền Nam ra như tôi bây giờ. Rồi một vài hàng chữ nữa rất mờ, nói đến “…vụ án chiếc ấn vàng của Bảo Đại…”. Phần do trình độ, người viết chữ nguệch ngoạc, phần vì đã lâu ngày rồi, chữ mờ, tôi cố gắng nhưng không thể đọc hết được, dù viết rất nhiều. Tôi chỉ thấy ghi 1957…Một vài vụ vượt tuyến… Tôi đang ngồi tỉ mẩn, mò mẫm tìm tòi, đọc những hàng chữ ghi trên tường, cửa con xoạch mở. Mụ Hoa chỉ tôi! - Đi cung! Từ ngày tôi bị cùm do chấp pháp, để đến nỗi phải bò và suýt chết, trong lòng tôi căm lắm. Vì thế, tôi đã chủ trương sẵn. Khi ra tới phòng cung, tôi thấy lại vẫn là ghế đã dành sẵn cho can phạm. Tên Nhuận nhìn tôi, giọng đạo đức giả: - Dạo này anh có khỏe không? Sao anh gầy thế? Tôi cũng nhạt nhẽo: - Cảm ơn ông, tôi bình thường! Tên Thành nói với giọng ra vẻ tình cảm: - Chúng tôi bận việc, lâu lắm không gặp anh. Hôm nay, chúng tôi vào thăm anh. Tôi tin rằng với thời gian lâu như vậy, chắc anh đã biến chuyển tốt. Vậy, hôm nay anh có cần gì nói với chúng tôi không? Chúng tôi sẽ đáp ứng những ý kiến mới của anh! Thấy chúng không hề nói gì đến việc cùm kẹp tôi cả, tôi cần nói ý cho chúng biết là từ nay đừng nói gì đến “chính nghĩa” nữa: - Thưa các ông, từ ngày các ông ra lệnh cùm tôi hai chân, nếu không do một sự may mắn tình cờ, làm sao tôi sống để mà nghĩ với ngợi… Cả hai tên đều mở to mắt, ra vẻ ngạc nhiên. Tên Thành vội vàng: - Hả? Anh bị cùm hai chân à? Ai nói với anh là chúng tôi cùm anh? Đúng là Cộng Sản! Tôi tin là chúng biết hết mọi diễn tiến suốt thời gian cùm tôi, cho tới khi bọn chúng phải đưa tôi xuống bệnh xá để cứu sống. Thế mà, bây giờ chúng lại ra vẻ ngạc nhiên như không hề biết gì cả. Thật là trắng trợn! Tôi càng suy nghĩ, tôi càng thấy chúng lòng lang, dạ sói mà lại cố che giấu dưới bộ mặt từ bi, nhân hậu. Tôi thấy nóng người lên, chẳng biết sợ nữa, nhìn thẳng vào mặt chúng, tôi trả lời: - Tôi ân hận là đã thành thật khai báo hết với các ông! Tên Nhuận đứng giỗ dậy, đập bàn, chỉ ty vào mặt tôi: - Anh láo! Anh trả lời trước cán bộ nhà nước như vậy hả? Tôi vẫn ngẩng đầu, cứng rắn: - Tôi tin tưởng các ông là chính nghĩa, nên tôi đã ngày đêm moi óc, nhớ lại hết mọi sự việc để khai báo với các ông. Ra ngoài Bắc, tôi cũng đã không hoạt động gì cho bè lũ Mỹ Diệm; thế mà giờ đây các ông lại dùng những hình thức tra tấn khai thác củ thực dân, Đế quốc đối với tôi. Để rồi tôi, một thanh niên khỏe mạnh, không chịu nổi với bao nhiêu ngày đêm hành hạ, đến nổi phải bò đi. Rồi cho tới khi, thấy rằng tôi sẽ không sống được nữa, các ông mới tạm tha. Tôi giơ hai tay và vạch hai chân ra: - Đây, các ông xem, hai bàn chân tôi vẫn còn sưng phù, đầy ghẻ lở. Tôi đề nghị các ông cho lệnh bắn tôi đi, tôi cảm tạ các ông! Tên Nhuận cười nhạt, tên Thành vẫn ngồi yên. Một lúc, tên Nhuận nói lớn tiếng: - Chúng tôi đã nói, chúng tôi không cho lệnh cùm anh! Để chúng tôi sẽ hỏi các đồng chí bên trại giam xem thế nào. Chúng tôi muốn cùm anh, chúng tôi sẽ nói thẳng, chứ cần gì phải giấu anh. Còn anh muốn chết? Sẽ được chết! Loại người như anh, cũng không để sống làm gì. Anh đã ăn nhiều bơ thừa sữa cặn của Mỹ và tay sai. Bơ thừa, sữa cặn đã thấm vào xương vào tủy anh rồi, nên anh mới dốc một lòng, một dạ hại dân, hại nước. Anh đã quyết tâm là một tên bán nước, để anh sống làm gì, hại cơm nhân dân! Tôi không chịu dược nữa rồi. Tôi nói với sự phẫn uất căng đầy: - Tôi nói với các ông là, tôi, một thanh niên, giòng máu Việt Nam đang cuồn cuồn chảy trong cơ thể này. Với luơng tâm và danh dự: Nếu nước Việt Nam yêu quý này có giặc ngoại xâm, tôi sẽ là một trong những người lính đứng hàng đầu, cầm súng chiến đấu với kẻ thù, để bảo vệ cho giải giang sơn gầm vóc này. Tôi sẽ sẵn sàng chết cho quê hương, không phải vì tiền, cũng không phải vì danh vọng. Tôi không ưa gì người Mỹ, và tôi cũng chống đối đến cùng tất cả những kẻ nào muốn thống trị đất nước tôi, xâm phạm vào chủ quyền độc lập của mảnh đất hình chữ “S” này!... Tôi thấy cả hai đứa đều tím mặt lại. Trong cái thế này, tôi nghĩ phải xoa dịu chúng, vì vậy tôi nói thêm: - Tôi là một người yêu nước với cả tâm hồn tôi, có chăng chỉ là tôi đã yêu…lầm! Dù gì, hai tên cũng thấy tôi đang nói lên những lời từ trái tim đang sục sôi bầu nhiệt huyết. Chúng không thể phủ nhận được điều đó, vì thế tên Thành mỉm cười nói giọng dàn hòa: - Anh yêu nước như thế là tốt! Vậy, tại sao anh không chịu nói hết với cách mạng, mọi âm mưu thủ đoạn Mỹ Diệm giao cho anh, ra ngoài miền Bắc này? Tôi lợi dụng câu nói của y để đẩy đưa: - Chính vì thế, không phải đợi đến bây giờ các ông hỏi. Tôi đã thấy có trách nhiệm ngay từ lúc đầu, tôi đã khai báo ngay âm mưu, ý đồ của địch giao cho tôi. Các ông đã hiểu rõ lòng tôi, vậy từ nay, tôi đề nghị đừng dùng những từ bán nước, hại dân đối với tôi. Hai đưa cười không trả lời. Một lúc sau, tên Nhuận hỏi với giọng nửa đùa, nửa thăm dò: - Này tôi hỏi thực anh, anh còn điều gì không đồng ý với xã hội chủ nghĩa nữa, khiến anh không chịu khai hết sự thật? Tôi đã hỏi cung nhiều rồi, nhưng tôi chưa thấy ai khó khăn như anh cả. Người ta ai ai cũng vậy, khi đã thấy được ánh sáng chính nghĩa, đều thành khẩn khai báo mọi chi tiết. Chỉ riêng anh cứ khư khư ôm mãi. Rồi y tươi nét mặt thổi và dụ dỗ: - Anh biết không, chúng tôi suy nghĩ về anh rất nhiều, chúng tôi muốn giải quyết thất tôt cho anh. Người như anh về với cách mạng thật có lợi cho nhà nước. Đối với đảng, gỗ cong có việc cong, gỗ thẳng có việc thẳng. Biết đâu, anh hoạt động cho kẻ dịch, vì phi nghĩa nên không thành công, còn hoạt động cho cách mạng, với tài của anh, anh lại chả gặt hái được nhiều kết quả có lợi cho nhân dân?! Tôi cười và nói cho qua chuyện: - Cảm ơn các ông, các ông nói đùa vậy. Tôi là một kẻ quê mùa lại còn trẻ, có biết gì đâu mà các ông nói là tài. Bây giờ thân tôi đã bị bắt, đã có tội với cách mạng, tôi chỉ biết ăn năn đền tội; ngoài ra, tôi không có một ý nghĩ gì khác. Trước khi chúng cho tôi về, tên Nhuận còn cố ra vẻ thân mật: - Bình về suy nghĩ kỹ nhé! Chúng tôi sẽ giải quyết rất tốt cho anh! Tôi lặc lè theo tên Bằng về xà lim, vừa cười thầm trong bụng cho cái trò hề rẻ tiền của chúng. Về mặt gì khác, tôi có thể còn ngây thơ chưa hiểu chúng, chứ về mặt này, tôi không còn lạ gì tim đen của chúng cả. Chẳng qua chúng đã dùng đủ mọi cách rồi mà không có kết quả. Bây giờ, chúng lại đưa mồi ra nhử. Tôi luôn xác định rõ, không mơ hồ: Chấp pháp với bị can (người còn đang trong thời gian thẩm tra khai thác, chưa thành án), cũng có thể ví như người câu cá với con cá, hai ranh giới, hai quyền lợi đối nghịch nhau. Mơ hồ miếng mồi, đớp vào, không lên bờ vào giỏ đợi chờ làm thịt, thì cũng rách mõm, toạc môi. Hôm nay, đã mồng 5 tháng 6 rồi. Đang độ giữa Hè, trời nóng như nung. Tôi được thả cùm đã hơn nửa tháng. Hai bàn chân tôi sau một tuần ăn cơm cám, đã rút lại. Những nốt ghẻ do tôi tích cực bôi thuốc đã thành sẹo. Còn một vài mụn nữa đã đóng vảy đen, hết ngứa, chắc cũng gần khỏi. Như thế, tôi đã ra miền Bắc được một năm lẻ tám ngày, và bị bắt vào Hỏa Lò 20 ngày nữa thì tròn năm. Bây giờ chỉ còn khổ vì nóng và muỗi. Hai cái thật mâu thuẫn nhau. Nóng cỡi trần, vén quần cao lên như quần đùi để ngủ thì đỡ nóng. Nhưng muỗi nhiều quá. Ăn đã triền miên không đủ no, đêm mà để nhiều muỗi hút máu, sớm muộn cũng bị bệnh. Vậy, lại phải mặc áo, che kín người, chân tay, mặt mũi. Thế mà, vì ngủ mệt, trở mình, chỗ nào hở ra, sáng dậy lại thấy đầy nốt muỗi. Quần áo đêm nào cũng ướt đẫm mồ hôi, thật hôi hám! Thôi đành, thân tù mà! Người ta vẫn nói: “Thằng tù, thằng hủi, thằng bổ củi, thằng đốt than” mà lại! |
|
|
![]()
Post
#41
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Tám
Cái Giá Phải Trả của “Người Hùng Điện Biên Phủ"... Đang sáng, trời bỗng tối sầm lại. Mới 2 giờ chiều mà như 6 giờ tối. Tôi dịch về phía cuối sàn, ngồi lên chiếc cùm, rõi mắt ra ngoài chiếc cửa sổ. Một mảnh trời đẹp, dài theo mép cửa sổ, xám xịt nặng chĩu nước. Một làn chớp xanh lè nháng lên, kèm theo một tiếng nổ làm rung rinh cõi lòng. Rồi như tiếng đại bác liên hồi nổ, ầm ầm, ì ì chạy suốt từ phía này sang phía kia, rền van trên bầu trời. Trong ngục tù tăm tối vắng lặng, một mình ngồi nghe sấm chớp rền rĩ, tôi cảm thấy thật cô đơn, heo hút, cách biệt với thế giới loài người. Nằm giữa lòng Hà Nội một năm rồi, mà không hề biết biến chuyển gì của Hà Nội. Gió bắt đầu thổi mạnh, mưa bắt đầu rơi…..Đầu tiên là những hạt lộp độp trên mái ngói, sau đó là ào ào như trời đổ nước xuống. Không khí dịu hẳn lại. Ngồi nghe mưa gió ngoài trời, tôi nghĩ đến cuộc đời hẩm hiu, bất hạnh của mình cũng quay cuồng trong gió mưa của đời. Mưa gió của đất trời thì chóng qua đi, còn mưa gió của đời, thì ôi thôi, dài lê thê, biết bao giờ mới dứt?!..... Tôi cứ ngồi bồng bềnh với giòng suy tưởng ngược xuôi. Tôi nhớ đến cũng một buổi chiều mưa rơi trên thành đô ngày nào…..Hôm ấy, để tránh một trận mưa, tôi nhào vào trú dưới mái hiên của một ngôi nhà bên đường Tú Xương. Cho đến lúc trời đã nặng hạt, từ một góc đường, một cô gái cũng đang đạp vội chiếc xe đạp, đến gần chỗ tôi đang trú. Cô hâp tấp dắt xe lên hè, chợt nhìn thấy tôi, cô lúng túng, nửa muốn vào, nửa muốn đi ra, trong khi trời đang đổ mưa ầm ầm. Vì lúng túng, cô đánh rớt chiếc cặp xuống vũng nước đang chảy ào ào ở mé đường…..Cuối cùng, cô đành vào mái hiên tôi đang trú, mặt ửng hồng, e ấp chả dám nhìn tôi. Cô chừng 18, 19 tuổi, có mái tóc dài óng ả buông xõa sau lưng, bám lất phất những hạt mưa lóng lánh. Đôi mắt huyền long lanh rụt rè, càng làm tăng nét dịu hiền của bộ mặt. Trời càng mưa to, phố càng vắng. Mái hiên vừa hẹp lại vừa nhỏ, nếu cùng đứng ở giữa thì không ướt. Nhưng, vì không dám đứng sát gần nhau, nên cô đứng một phía và tôi đứng một phía. Cả hai đều bị mưa hắt, ướt từ đầu gối trở xuống. Cách nhau có hơn một thước, mà không ai dám quay lại. Mưa cứ rơi và hai người cứ đứng. Với cô ấy, tôi không hiểu thế nào, chứ lòng tôi thì thấy vấn vương, ngập ngừng, nhưng tôi chẳng biết và chẳng dám nói cái gì. Ngay quay lại nhìn, tôi còn không dám, huống chi mở miệng nói năng. Tôi cứ đứng bần thần ngơ ngẩn, tiếc là mình tại sao không đủ can đảm, ra nhặt ngay chiếc cặp cho cô ấy khi nãy!? Đường trơn, phố nhỏ, mưa cứ rơi dầm dề. Gần một tiếng đồng hồ sau, mưa mới tạnh. Lúc tôi dẫn chiếc xe solex xuống đường, cô cũng dắt xe đạp đi ra, hai người đi về hai phía. Trước khi bước chân lên xe, tôi mới dám ngoái lại nhìn, như luyến lưu, như mất mát. Khi đó, cũng là lúc cô nghiêng nón nhìn lại, để rồi hai người đi về hai ngả cuộc đời. Chẳng bao giờ gặp nhau nữa, và cũng chẳng biết nhau là ai…..Bây giờ, cũng một trận mưa rơi, nhưng tôi đang ngồi trong ngục tối một mình. Tôi buông một tiếng thở dài không chủ định, như vĩnh biệt những đoạn đời đã qua….. Tôi cứ ngồi đăm chiêu để hồn lửng lơ về đây đó, mưa đã ngừng lúc nào tôi cũng không hay. Mãi tới khi nghe tiếng cửa buồng xịch mở, tôi mới giật mình nhìn ra: Một người cao lớn, có bộ râu quai nón, đang ôm túm một cái chăn bộ đội mầu cứt ngựa lách cửa đi vào, theo sau là lão Tư. Tên Tư nhìn hết buồng một lượt, rồi ra đóng cửa lại. Tôi và người mới vào gật đầu chào nhau. Để ghệ bọc chăn lên sàn xi măng, tay vẫn còn cầm túm bốn góc cái chăn, anh nhìn suốt lượt trong buồng. Cuối cùng, anh mở to mắt chăm chú nhìn hai cái cùm sắt to lù lù phía cuối sàn. Câu đầu tiên, anh nói với tôi: - Hai cái cùm, trông ghê quá nhỉ! Có lẽ Hỏa Lò đây do thực dân Pháp xây lên, vì thế, chế độ ta giữ lại để làm lưu niệm, cho mọi người thấy sự tàn ác của Đế quốc! Tôi chưa hiểu anh là dạng thế nào, nên tôi chỉ cười, không trả lời. Anh lúi húi mở gói chăn ra, nào màn, nào quần áo, đặc biệt có cả cái điếu con, diêm và thuốc lào. Mọi thứ đều lộn xộn, có lẽ vừa bị khám xong, trước khi chúng cho anh vào buồng. Anh vừa sắp xếp các thứ lại, vừa hỏi tôi: - Anh bị bắt lâu chưa? Tôi nói thẳng: - Một năm rồi! Anh dướn mắt to lên, ngạc nhiên: - Anh nói đùa đấy chứ? Làm gì mà một năm? Tôi lại cười, hỏi lại anh: - Còn anh? - Mới ngày hôm nay. Bắt ở Vinh hồi sáng, đưa về đây ngay. Trông anh có vẻ dữ tướng, thế mà trao đổi qua vài câu nói, kết hợp với thái độ lại tỏ ra hiền, cởi mở. Vì thế, tôi vồn vã: - Anh bị bắt vì tội gì? - Vượt tuyến! Rồi anh ngửng lên, hất hàm: - Còn anh? Tôi nói như đùa: - Cũng vượt tuyến! Anh mở to mắt, ngửng lên nhìn tôi nữa. Để anh khỏi ngỡ ngàng, tôi tiếp: - Nhưng từ Nam ra Bắc! Anh càng ngạc nhiên hơn nữa, anh ngừng xếp dọn, quay hẳn người ra hỏi: - Anh thích chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc? - Không những tôi không thích, mà còn chống. Chứng cớ, tôi đang nằm trong nhà tù của họ. Mặt anh cau hẳn lại, dáng băn khoăn: - Như thế nghĩa là…? - Nghĩa là, tôi là người của chính quyền Sài Gòn, đột nhập Hà Nội để hoạt động tình báo. Anh có vẻ hân hoan ra mặt. Buổi tối hôm ấy, chúng tôi trao đổi tâm sự để biết sơ lược về nhau. Anh tên là Hoàng Hùng, 40 tuổi, quê ở Hải Phòng. Anh theo cách mạng từ ngày 19 tháng 8 năm 1945, Khi đó, anh 21 tuổi. Anh là bộ đội, năm 1958 chuyển ngành về Bộ Tài Chính. Năm 1959, anh lập gia đình và hiện có hai con, còn nhỏ. Muốn được thêm sáng tỏ về anh, tôi hỏi tiếp: - Như vậy, nguyên nhân và động cơ nào khiến anh vượt tuyến vào Nam? Mặt hiện lên nét đăm chiêu, anh chậm rãi: - Vấn đề nguyên nhân và động cơ phức tạp lắm. Thong thả tôi sẽ kể cho anh nghe, vì nó không phải bắt nguồn từ một điểm! - Thế vì sao anh bị bắt? Vẻ mặt anh buồn buồn: - Chỉ vì một anh bạn muốn từ giã người yêu ở Vinh, nên câu chuyện bị lộ. Tối hôm đó, tôi chỉ biết sơ về anh như vậy, và anh cũng tỏ vẻ háo hức muốn biết một vài nét về tôi cũng như về cả hội miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Anh lấy chiếc điếu con con, gói thuốc lào và bao diêm, quay sang tôi hỏi: - Bình có hút thuốc lào không? Thấy anh là một người vui vẻ cởi mở, tôi cũng thấy vui vui. Hơn nữa, anh là một cán bộ đã theo Cộng Sản tứ 1945, hẳn qua anh tôi sẽ hiểu thêm về Cộng Sản trong quá trình. Nghĩ như thế, nên tôi cũng tươi nét mặt: - Tôi chưa hút thuốc lào bao giờ….. Chợt tôi nhớ đã có lần hút ở nhà lão chủ tịch Phong ở Kỳ Phương. Nhưng tôi không đề cập tới chuyện đó, nói tiếp: - Nhưng, để đỡ sầu, tôi sẽ hút thử….. Nói xong, tôi chồm sang bên sàn của anh. Nhìn anh vê điếu thuốc lào cho vào nỏ điếu, dáng ngồi nghiêng nghiêng, làm râu quai nón xồm xoàm vì mấy ngày không cạo. Nét mặt rắn rỏi, nói lên anh là một con người đã có nhiều xông xáo trong gian khổ, hiểm nguy. Anh bật diêm, đưa chiếc điếu lên miệng. Nhìn ngọn lửa que diêm bập bùng nhỏ to theo điệu nhắp của từng nhịp hút “rẹt, rẹt, rẹt…..” Rồi cuối cùng, một tiếng rít dài và nhọn lanh lảnh như tiếng con dế cái hứng lòng gọi bồ rong đêm khuya, làm cho điếu thuốc chui tọt vào nõ điếu. Gân cổ căng lên, anh bỏ điếu xuống sàn, nhắm mắt, ngửa mặt lên trần, miệng tròn như chữ “O”. Từ đấy, như một ống khói tầu thỷ chạy than, khói theo nhau tuôn ra, dẫy dọn, ngập ngừng lửng lơ bay lên trần nhà, rồi tan loãng vào không gian… Ngực anh phập phồng, hổn hển, mắt anh lơ mơ, đờ đẫn. Ngắm anh, tôi chưa hút mà cũng thấy lơ ngơ, dập dờn. Tôi vê một điếu và bắt chước anh. Nhưng, khi kéo một hơi dài, tôi bị sặc, ho chảy cà nước mắt ra. Người cũng rần rật đê mê, ngây ngất bập bềnh như bơi trên biển sóng. Mải chuyện trò rao đổi, tối hôm ấy, mãi khi chiếc loa “nghẹt thở”, chúng tôi mới đi ngủ. Anh nhìn sang, thấy tôi không có mùng mền, quần áo gì cả, anh ái ngại bảo tôi: - Hai anh em nằm quay đầu ngược xuôi, chui vào mùng tôi ngủ đi, kẻo muỗi cắn chết! Hơn một năm rồi, tôi đã chịu được, nhưng vì lòng mến anh, tôi cũng chui vào mùng ngủ chung. Chiếc sàn chỉ rộng 65 phân nên quá chật chội, trời lại nóng. Để khỏi ảnh hưởng đến giấc ngủ của anh, tôi nằm một lúc rồi chui ra ngoài, về sàn mình. Tôi lại mần mò làm thủ tục che muỗi như mọi khi. Anh thấy tôi chỉ có cái gối làm bằng mấy bó cuống chổi, liền ném cho tôi cái vỏ ba lô, giọng thương cảm: - Bình hãy lấy tạm cái này gối đỡ! Lòng tôi len lén dâng lên một niềm xúc cảm. Tình nghĩa đùm bọc của người cùng một nước như ấp ủ hồn tôi. Trước khi chìm vào giấc ngủ muộn, tôi miên man nghĩ ngợi. Anh và tôi, trước đây đứng trong hai chiến tuyến đối lập. Vậy mà giờ đây, do những bối cảnh của cuộc đời, do những thực tiễn của đất nước đẩy đưa, lại gặp nhau trong một hoàn cảnh này, để rồi thể hiện lên như một chân lý về cái thiện mỹ của con người cùng chung một quê hương, một dân tộc. Điều đó, cho phép tôi hiểu và tin tưởng rằng, dù Cộng Sản dùng bất cứ hình thức nào, cũng không thể đổi thay được bản chất chân chính của con người…Từ suy tư ấy, trong đầu tôi lạo lóe lên một nét nữa: Một con người như Hoàng Hùng, với tội vượt tuyến, tại sao Cộng Sản lại đưa vào nằm với tôi, một tình báo của miền Nam? Tôi hiểu, chúng làm việc gì cũng đều có nghiên cứu, nhất là những việc như thế này, lại càng cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn. Tôi băn khoăn lý luận, phân tích, để ít ra dự đoán gần đúng như ý định của chúng. Nếu đúng như tôi dự đoán, việc chúng đưa Hoàng Hùng vào nằm với tôi có phần tốt cho tôi. Chúng đánh giá phần nào, tôi là một người tiến bộ theo hướng nhìn của chúng? Tôi nhớ lại, trong một lần đi cung đã lâu, chúng có hỏi vì sao tôi lại thích xã hội chủ nghĩa. Lúc đó, tôi đã ngẫm nghĩ xem nói gì để chúng có thể tin được. Chúng đâu có phải tay mơ, dễ qua mặt chúng, muốn nói gì thì nói được đâu! Phải có biện chứng “lô gích”, hợp tình, hợp lý mới hòng làm cho chúng tin. Cuối cùng tôi đã nói với nội dung như sau: - Tôi thích xã hội chủ nghĩa, không phải mới đây, mà đã từ xa xưa lắm rồi. Ngay từ lúc tôi còn là một cậu bé 10, 12 tuổi. Tôi đã đậu bằng Tiểu học với hạng Ưu ở Huyện nhà, dưới chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Những buổi đi cắm trại, những ngày hoạt động thiếu nhi, tôi thường được đi chơi với rất nhiều anh bộ đội. Các anh ấy cũng mến tôi, thường dẫn tôi đi chơi đây đó, có khi mang cả về đơn vị của các anh ấy. Nhiều anh bộ đội “Cụ Hồ” luôn ngự trị trong một góc trái tim nhỏ bé của tôi. Lớn lên, do cuộc mưu sinh, do những biến chuyển cuả đất nước, tôi ra Hà Nội, rồi vào Sài Gòn. Một phần, hình ảnh anh bộ đội vẫn chưa mờ nhạt trong tôi; phần khác, tư duy và kiến thức dần trưởng thành theo tuổi đời. Từ trước, tôi vẫn ngưỡng mộ, cảm phục các nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tôi hiểu họ là những người có nhiều kiến thức, uyên bác cổ kim. Họ tìm tòi, phát kiến ra nhiều tư tưởng sâu sắc, có lợi cho nhân quyền xã hội, có lợi cho thời đại mới của loài người. Họ là những người đi tiên phong, chỉ đường và hướng dẫn tư tưởng quần chúng. Sau những biến thiên của đất nước, hầu hết các nhà văn, nhà thơ nhà báo đều ở lại với chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, kể cả sau 1954. Còn ở miền Nam, chỉ có một số cá biệt. Như thế, phải chăng chế độ miền Bắc là đúng, là chính nghĩa? Từ những suy nghĩ đó, dù sau này, vì hoàn cảnh tôi phải làm việc cho chế độ miền Nam, tôi vẫn có một phương châm như kim chỉ nam: “Nếu tôi không làm gì có lợi cho chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng dứt khoát không bao giờ làm hại”. Đấy là lý do tôi nêu lên, khi chúng hỏi cung tôi. Rồi trong thực tế, với tên Hoàn, người chúng dùng làm “khổ nhục kế” với tôi. Tên Phạm Huy Tân, loại chó chết cơ hội chủ nghĩa, tôi cũng thường kể, hoặc nói những khía cạnh tiêu cực của chế độ Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Vậy bây giờ, đưa Hoàng Hùng, một anh bộ đội lão thành, thích chế độ miền Nam, cho vào cùng buồng với tôi,một người của chính quyền miền Nam. Cộng sản, tính lợi dụng tôi làm ruỗng nát lòng mơ tưởng, của Hùng bằng những tư tưởng, mà chúng cho là tôi đã có? Tôi nghĩ, chỉ có như thế, mới giải đáp thỏa đáng trường hợp Hùng và tôi giam chung với nhau. Sáng hôm sau, anh Hùng dậy, sau khi hút thuốc lào, còn sờ và ngắm nghía cái cùm. Anh quay sang tôi: - Tụi thực dân dã man thực. Cùm người ta thế này, thì chỉ có chết thôi! Nghe anh nói, tôi cũng hơi băn khoăn. Một người Cộng Sản, hầu như cả cuộc đời chiến đấu, nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử trong hàng ngũ Cộng Sản, mà lại phát biểu như vậy ư? Không gì bằng thực tế sẽ trả lời anh! Anh còn ở xà lim này, chỉ ít ngày nữa anh sẽ nghe thấy tiếng cùm, tiếng khóa thôi. Nghĩ như vậy, tôi cũng chỉ nhìn anh, cười không nói gì. Cửa con xoạch mở, mụ Hoa chỉ tay vào Hùng, bảo đi cung. Buổi trưa Hùng về, chiều lại tiếp tục đi cung, mãi 5 giờ mới về. Sau khi cửa đóng, Hùng quay lại tôi, giọng ngạc nhiên: - Này, Bình này, sao nhiều tù thế nhỉ? Tôi đi qua sân trại chung, đầy tù?! Ơ! Tôi mở to mắt ngạc nhiên nhìn anh: - Tôi tuởng câu đó phải để tôi hỏi anh mới đúng chứ! Tôi là người của chế độ khác mới đến, anh phải giải thích cho tôi điểm đó mới phải. Vậy, trước đây anh nghĩ thế nào? Nét mặt Hùng rất thành thật: - Suốt cuộc đời, tôi ở bộ đội, đến khi chuyển ngành công tác ở Hà Nội. Thỉnh thoảng trên đường phố, tôi gặp dăm ba người mặc quần áo sọc, quét dọn ở đường, hoặc làm lao động nặng nhọc ở một khu vực nào đó, do một anh công an coi. Theo hiểu biết và quan điểm của tôi, dưới chế độ cách mạng, phải không có nhà tù nữa. Bời vì, khi cách mạng dựng ngọn cờ khởi nghĩa, đánh đuổi thực dân, tuyên bố phá nhà tù để xây trường học cơ mà. Nhưng bao giờ cũng vậy, trong một xã hội, tất yếu phải có người chưa tự giác cao, có lúc gây ra tội lỗi, sai phạm. Đó chỉ là nhất thời, vậy chỉ cần một số ngày giáo dục, một vài biện pháp bắt buộc lao động, cũng chỉ nhằm mục đích giáo dục con người. Nhưng, ngay những số này, cũng rất là hạn hữu. Ngồi nghe anh lý luận, tôi càng khiếp sợ cho sự khéo léo, tinh vi của Cộng Sản. Một người như Hoàng Hùng mà cũng chỉ như một con ngựa kéo xe, hai bên mắt bị che kín. Chỉ được nhìn thẳng về phía trước, bảo đi là đi, bảo đứng là đứng. Tôi phải có trách nhiệm, lựa lời dần dần cho anh biết thực tế. Nhưng bây giờ tôi chỉ nói với anh một cách đơn giản: - Thực tế sẽ hoàn toàn không giống như anh đã nghĩ đâu! Tôi tin rằng những ngày tới, anh sẽ hiểu biết nhiều hơn bằng những sự việc thực tế, và bằng mắt thấy tai nghe. Anh về muộn, tôi đã lấy sẵn cơm nước vào cho anh. Ăn xong, tên Tư mở cửa. Từ sáng, anh chưa được rửa mặt, vì thế khi tên Tư sắp đóng cửa, Hùng tiến ra: - Báo cáo đồng chí, cho tôi ra rửa sơ cái mặt? Tên Tư quắc mắt nhìn Hùng: - Từ nay, tôi cấm anh không được gọi tôi là đồng chí! Anh là một người tù, không ai là đồng chí với anh cả, nghe chưa! Hùng mở to mắt ngạc nhiên, hai quai hàm bạnh ra, cuối cùng nuốt hận, Hùng chỉ nói: - Xin lỗi, tôi quên! Lúc vào ngồi, Hùng có nét đăm chiêu. Qua một thời gian, tôi được biết rõ về Hùng như sau: Anh là con một gia đình giầu có ở Hải Phòng. Đang học Trung học thì tiếng súng ngày 19/9/1945 bùng nổ. Với bầu nhiệt huyết của người con trai Việt, chỉ biết yêu nước, yêu dân đơn thuần. Anh đã theo tiếng gọi của núi sông, thoát ly gia đình, cầm súng giết giặc để bảo vệ quê hương. Anh nhiệt tình hăng say học tập, chiến đấu nên ngay cuối tháng 12/1945 anh đã là Tiểu đội truởng trong Trung Đoàn Thủ Đô. Đơn vị anh đã giành giật với thực dân Pháp từng khu phố của Thủ Đô năm 1946. Cuối cùng, sau khi rút lui về chiến khu, anh đã nổ lực chiến đấu vào sinh ra tử bao nhiêu chiến trường. Hết ở đồng bằng, lại Đông Khê, Cao Bắc Lang. Biên chế đổi thay hết: Từ Sư ”312”, Sư Đoàn Đồng Bằng, tới Sư “320”, v.v… Cuối cùng là chiến dịch Điện Biên. Chính Đại Đội anh đã cắm lá cờ đỏ sao vàng lên nó hầm tướng De Castrie. (Ngay từ cuối 53 đầu 54, chính phủ, bộ quốc phòng Pháp đã gắn lon Thiếu Tướng cho De Castrie, bằng cách từ trên máy bay thả lon, xuống ngay chiến lũy Điện Biên). Bao nhiêu bạn bè đồng lứa với anh lúc đầu, lần lượt nằm xuống hết cho quê hương. Còn sót người nào, ngày nay không là “D” Trưởng, cũng là “E” Phó. Bản thân anh, cao nhất cũng chỉ là “D” Phó, tức Tiểu đoàn phó. Mãi tới khi chuyển ngành năm 1958, anh cũng vẫn là “D” Phó. Chỉ vì, suốt quá trình, anh vẫn có cái đuôi là con tư sản. Do thái độ trong học tập, cũng như trong sinh hoạt tổ chức, anh càng bất mãn, nên đôi lúc cũng có thái độ bất cần. Anh tâm sự: - Bình thử tưởng tượng xem, những ngày họp đảng, họp tổ v.v… Ngay các chiến sĩ dưới quyền mình đi đâu cũng không thèm cho mình biết. Rồi cứ nhỏ to thầm thì chuyện này, chuyện kia. Mình có hỏi đến, chúng nó trả lời việc này đồng chí không nên biết. Mình là thằng chiến đấu chịu đựng biết bao gian khổ. Bao nhiêu lần tưởng tan xương nát thịt, may nhờ hồng phúc nhà mình, còn sống sót, thế mà bị đối xử phân biệt, Bình nghĩ có hận không? Không phải một mình tôi, một số người nữa cũng bị như tôi. Cho nên, khi Sư đoàn tôi về tiếp quản Thủ Đô 10/10/1954, từ địa điểm xuất phát vùng Tây Bắc, trên đường về chúng tôi bắn phi đạn như mưa, gặp cây cối, núi rừng hai bên đường, đều bắn chơi. Tôi ngày càng chán chường, nên có những hành động tiêu cực, chểnh mảng trong học tập. Cũng như trong công tác. Mãi đầu 1958, tôi xin chuyển ngành mới được về công tác ở Bộ Tài Chính, làm phó phòng điều hành. Năm 1959, tôi lấy em gái một người bạn hiện nay là Tiểu đoàn trưởng. Ngay ở Bộ Tài Chính, hiện tượng đối xử phân biệt với tôi cũng vẫn thế. Bởi vậy, tôi đi làm là phải đi làm, nhưng làm sao hăng hái tích cực được nữa. Trong số những bạn bè quen biết thời gian công tác ở Hà Nội, có một anh là sinh viên Văn Khoa năm thứ hai, thời trước 1954. Sau bị đuổi khỏi trường, ngày ngày lang thang cùng mấy người bạn làm sơn mài, mà vẫn đói rách không đủ ăn. Trong quá trình quan hệ, dọ dẫm, thử thách, khi hiểu về nhau, chúng tôi đã có lần nhen nhúm tư tưởng đi Nam. Chúng tôi tìm hiểu, nghe ngóng một thời gian, thấy rằng: Sài Gòn, cũng như Hà Nội trước 54, là một xã hội đầy dẫy thối nát, với toàn loại chính khách xôi thịt đớp hít, chỉ lo cho gia đình cũng như bản thân làm sao được “vinh thân phì gia”. Còn nói đến quê hương dân tộc, chỉ nói đến ở cái mồm. Nhưng, từ ngày cụ Ngô Đình Diệm về nước, Sài Gòn đã đổi khác. Cả cuộc đời cụ đã lo cho nước, cho dân. Cụ đem ấm no hạnh phúc lại cho người dân thực sự, vì vậy dân tin, dân yêu. Mọi người dân miền Bắc, khi Cộng Sản đến tuyên truyền đã không còn nghe theo lời chúng nữa. Vấn đề đã làm cho Bộ Chính Trị Trung Ương đảng điên đầu. Dân chúng thường thầm thì bàn tán, ít nhiều mang trong lòng niềm hy vọng hướng về Nam. Do đó, chúng tôi hoạch định một đường hướng, rồi quyết tâm ra đi, bỏ cả vợ con lại, khi nào về giải phóng hãy hay. Từ đó, tôi lại tỏ ra tích cực rong công tác. Đồng chí Bộ Trưởng là bộ đội cũng chuyển ngành, có sự đồng cảm nên rất thương và tin tưởng tôi. Tôi thường được giữ một số giấy phép cấp cho cán bộ hàng tháng đi công tác, có đóng dấu và chữ ký sẵn của Bộ Trưởng. Tôi lấy 3 cái, điền tên của anh bạn và tôi vào công tác ở Vĩnh Linh, để giải quyết một số vấn đề về tài chính. Chúng tôi hẹn ngày, giờ ra đi. Khi tới Vinh, anh bạn còn vào gặp một người yêu ở đấy. Trong lúc từ giã yêu thương, thế nào đó, anh đã thổ lộ mọi chuyện với người yêu. Cô này lại là công an mật, nên khi chúng tôi lên xe vào Vĩnh Linh, công an đến xét hỏi giấy tờ và bắt về đây….. Những ngày không đi cung, những buổi tối nằm không, tôi thường gợi chuyện anh. Anh cũng mến tôi, nên anh đã kể lại cho tôi nghe bao nhiêu trên đánh ly kỳ. Bao nhiêu câu chuyện ngộ nghĩnh của một số Tướng, Tá trong bối cảnh phức tạp của vùng núi rừng chiến khu Việt Bắc. Anh Hùng, thường ngày vẫn đi cung liên tục, đôi khi cũng có ngày không gọi. Anh rất thích nghe chuyện miền Nam. Anh tỉ mẩn hỏi giá từng ký gạo, cân thịt bò, cho đến rau cỏ và những sinh hoạt thông thường của xã hội miền Nam. Tôi chỉ cần trung thực kể lại cho anh nghe những điều gì tôi biết. Nhiều cái anh không thể tưởng tượng được. Nhưng sự thật bao giờ cũng có hồn, có giá trị nội tại của sự việc. Vì thế, ngồi nghe tôi nói, anh càng tỏ chán chường ghê sợ đời sống lầm than, cơ cực như con vật của đồng bào miền bắc. Tôi thường kể cho anh nghe một vài nét diễn tiến chính, của xã hội từ ngày cụ Ngô Đình Diệm về nước. Tuy vậy, tôi chưa dám nói những điều gì sâu sắc của cá nhân mình, cũng như của chế độ miền Nam. Tôi định rằng, chưa vội, hãy dần dần tùy theo điều kiện. Mục đích, giúp anh nhận chân rõ được bản chất, của từng sự việc và phần nào thực trạng, của đất nước. Những lúc anh đi cung, anh thường để diêm và thuốc lào mời tôi hút tự do. Bấy giờ, mỗi ngày tôi hút 3 điếu, và cũng chính do anh Hùng mà tôi đã biết, hút thuốc lào từ đó. Mấy bữa nay đi cung về, hình như có nhiều điều suy nghĩ căng thẳng, anh ít nói hẳn đi. Tối, anh thường mắc mùng đi ngủ sớm, kêu nhức đầu. Tôi hiểu anh đang gặp khó khăn, sự việc của anh có điều căng thẳng. Do ý thức tế nhị chưa muốn đi sâu vào sự việc của anh. Tôi tính mai kia dần dần sẽ lựa lời thăm hỏi, để nhân đó phần nào góp ý giúp anh chăng. Anh vào đây đã được ngót một tháng rồi, vợ con anh vẫn chưa được gặp. Chiều nay, cũng như mọi khi, tôi đang ngồi buồn bâng khuâng suy nghĩ, chờ anh đi cung về, để biết diễn tiến cung kẹo của anh. Bát cơm của anh tôi đã lấy vào, vẫn lạnh lẽo chơ vơ trên cái cùm ở cuối sàn anh. Cửa mở, anh Hùng đi cung về, tôi thấy anh lách cửa vào, mặt đỏ dừ, hai môi mím chặt. Tôi chưa kịp hiểu và có thái độ gì, đã thấy tên Tư mặt hầm hầm rút chốt cùm. Y bảo Hùng chuyển bát cơm từ chỗ cái cùm lên phía đầu nằm, rồi y nhấc nửa tên cái cùm lên, trong khi Hùng mặt tím bầm, ngồi ghệ ở sàn. Tên Tư quát: - Bỏ chân vào! Hùng lừ lừ nhấc một chân cho vào. Tên Tư quát tiếp: - Bỏ cả chân kia nữa! Mặt Hùng lại biến sang đỏ. Tôi hiểu anh bị một áp lực nào đó, kìm hãm ghê lắm. Không nói năng gì, anh bỏ nốt chân kia. Tôi chưa hiểu nguyên nhân nào khiến tên Tư có vẻ căm hận Hùng. Y nhấc cao chân, rồi đạp mạnh vào nửa cái cùm trên, cho dập mạnh xuống. Sắt trên sắt dưới dập mạnh vào nhau, đồng thời người của Hùng cũng giật lên một cái. Tôi nhìn chỗ cùm, thấy một giòng máu đang rỉ chảy từ trên cùm xuống sàn. Tôi hiểu rằng, khi Hùng cho chân vào, chân đã to, anh lại vô ý để bắp chân nằm bè ra mép lỗ. Vì vậy, khi hai nửa cùm dập lại, thì bắp chân anh bị dập đứt. Tên Tư, coi như không thấy, ra chốt cùm rồi đóng khóa cửa lại. Hùng không nói một lời, mắt nhắm nghiền, nằm ngửa, mặt lại tím bầm. Tôi suy nghĩ, tội vượt tuyến đâu đến nỗi cùm như vậy! Có thể, do sự phẫn uất của một người đã hiến dâng cả một đời cho chế độ, bây giờ lại bị đối xử không ra gì, nên anh Hùng đã thể hiện thái độ căm phẫn nào đó đối với chúng chăng? Tôi cũng không ngờ sự việc, đã trả lời cho câu hỏi của anh, khi mới vào xà lim này, về “cái cùm của thực dân Pháp”, lại quá đầy đủ như vậy. Giòng máu từ chân anh đã đọng lại, nhưng anh vẫn nằm yên. Tôi thấy không đành lòng, bước xuống để một tay lên vai anh: - Anh Hùng! Hãy cố gắng gượng ngồi dậy, ăn tí cơm đã! Anh chỉ lắc đầu, không nói một lời, thái độ tỏ vẻ đừng quấy rầy anh. Tôi hiểu, anh lớn tuổi hơn tôi nhiều, anh đang có những suy nghĩ quyết liệt của đời anh. Tôi phải tôn trọng những phút riêng tư thiêng liêng ấy, thong thả sẽ nói chuyện với anh sau. Tôi về chỗ mình, cũng buồn, nghĩ thương cho một đời của anh. Bao nhiêu công lao sinh tử, để rồi bây giờ là đây? Cửa con xoạch mở! Mặt tên Tư. Y đóng cửa con lại, mở cửa lớn. Đứng ở giữa cửa, y quát to: - Anh có ăn cơm không? Hùng vẫn cứ nghiến răng, nhắm mắt nằm yên. Tên Tư, quay sang tôi gằn giọng: - Mang bát cơm ra ngoài! Tôi thấy rất ngại ngần, nhưng mình là tên tù, tôi đành chậm chạp cầm bát cơm đưa ra. Y đóng cửa đến “xầm” một cái. Tiếng chiếc loa lại léo nhéo vang lên, hết giờ làm việc. Tôi về sàn ngồi, lòng cũng không yên. Ngồi mãi, rồi tôi cũng nằm xuống nhắm mắt, nghĩ ngợi miên man. Đến chừng 6 giờ chiều, giọng ồm ồm của anh Hùng bỗng vang lên: - Bình! Hãy mắc giúp tôi cái màn! Tôi ngồi dậy, quay sang anh. Anh nói mà mắt vẫn nhắm nghiền. Tôi lục cái màn của anh trên đầu sàn, tìm mấy cái lỗ ở trên tường loay hoay mắc màn cho anh. Tôi hơi lúng túng, hơn một năm ở xà lim, vì không có màn nên cũng chẳng để ý. Tường không có đinh, chỉ có những lỗ nhỏ. Những người trước đã khoét lỗ vào tường, lấy sợi dây nhỏ, thắt nút thành một cục rồi nhét vào lỗ và lấy cơm phết chặt, khô đi rất cứng, chắc. Còn đầu sợi dây, bẻ một đoạn chổi thanh hao chừng 2, 3 phân buộc lại, thành cái khuy để mắc màn. Mãi tôi mới mắc xong màn cho anh. Tôi cũng hất đuôi màn, che hết cả chân anh. Mọi khi cũng giờ này, trước khi đi ngủ, tôi bắn một điếu thuốc lào cho say sưa rồi đi nằm. Nhưng bữa nay, anh đang trong tình trạng như thế, tôi cũng chẳng còn lòng dạ nào để say sưa. Ngồi mãi một mình cũng buồn, mới 8 giờ tối. Tôi cũng chuẩn bị những thủ tục che muỗi của tôi để đi ngủ. Tôi nằm, nhưng không sao ngủ được. Tôi nghĩ đến chân anh Hùng to, tuy người anh khỏe, nhưng làm sao nằm ngửa mãi được. Tôi hiểu rằng, anh cũng không bị cùm lâu đâu, nhiều lắm cũng chỉ một tuần. Chân anh quá to, anh sẽ khó xoay sở để ỉa đái dễ dàng như tôi được. Hơn nữa, tôi biết anh cũng không thể chịu đựng được lâu. Tôi cứ nằm trằn trọc vơi đầy bao nổi niềm về cuộc đời, về đất nước. Thân anh Hùng đã vậy, thân mình cũng tái tê trăm ngả thương đau. Tiếng loa tắt ngấm đã lâu, có lẽ cũng hơn 11 giờ rồi. Tôi bỗng nghe tiếng khìn khịt, như tiếng một con gà bị cắt tiết. Tôi vội nằm xoay người lại, liếc sang màn anh Hùng. Dưới ánh đèn 40 watts ở giữa trần, tôi cố căng mắt nhìn qua lần vải thưa của chiếc màn, đã ngả mầu vàng của anh. Tôi thấy mờ mờ một mầu đỏ xậm lan to dần chỗ ngực, trên lần vải áo “may ô” anh vẫn mặc. Tôi hiểu, anh qua phẫn uất và chán chường cảnh đời lầm than, khổ đau của anh, nên anh tự tử. Tôi cho rằng, có thể anh có một cái đinh, thọc mạnh vào mạch máu; hoặc, anh ghé răng cắn những mạch máu ở cổ tay. Chứ trong xà lim, lấy cái gì ra để tự tử được! Tôi cũng suy nghĩ, dù sao trước đây, trong những năm tháng miệt mài hăng say lập công với Cộng Sản. Ít ra anh Hùng cũng đã làm ngã gục nhiều người lính chiến, mang trong mình dòng máu Quốc Gia chống Cộng Sản. Vậy, cần để anh thấm thía những sai lầm anh đã làm, để anh thấm đậm hơn “chính nghĩa bịp bợm” của cái gọi là “cách mạng nhân dân” mà anh đã từng phục vụ. Từ ý nghĩ đó, tôi vẫn nằm yên như ngủ say. Nhưng, những tiếng phì phì như tắc nghẹn của anh, đã làm tôi lại phải mở mắt liếc sang. Giòng máu đỏ đã loang ra đến ngoài màn, chảy xuống nền nhà thành một vũng. Tôi không thể nằm được nữa rồi. Ngồi bật dậy, tôi bước chân xuống đất, chồm sang bên sàn anh. Tôi nhấc màn lên. Máu đỏ lòm, ướt đẫm chiếc áo may ô và một khoảng chiếc chăn bộ đội. Mắt anh vẫn nhắm nghiền, mặt anh xám ngoét. Tôi xúc động, lay lay tay anh: - Anh Hùng! Tại sao anh làm thế? Anh không được chết, người đáng chết là tôi đây này. Anh còn phải sống vì trách nhiệm với vợ anh, con anh, và cần sống để nhìn rõ được nhiều sự thật, mà trước đây mơ hồ. Anh vẫn nằm im, không nói gì với tôi cả. Không làm sao được nữa, tôi vội đứng lên sàn, ngửa mặt ra ngoài phía cửa sổ, gào to: - Báo cáo cán bộ, buồng 2 có người tự tử! Im lặng. Bên ngoài chỉ có tiếng gió rì rào của đêm thâu. Tôi lại gào lên lần nữa. Vẫn im lặng. Lần này, tôi cho miệng ra sát cửa sổ. Mới mở miệng hô “Báo Cáo…” Chưa hết câu, cửa con đã xoạch mở. Giọng một người lạ: - Cái gì? Chắc gì đã nhìn thấy vũng máu còn đỏ xậm dưới nền nhà, dù vậy tôi vẫn nói và chỉ tay sang phía màn anh Hùng: - Anh này tự tử… Tiếng chìa khóa lẻng xẻng mở cửa. Một người lạ mặt mặc thường phục, tôi chưa thấy bao giờ, khẩu súng ngắn đeo trễ một bên hông. Y vào, nhấc cái màn, rồi y nhìn xuống hai cái chân ở trong cùm cũng có máu đã đen xậm. Y vội vàng ra, đóng cửa lại. Khoảng 5 phút . Hôm nay, tôi mới lại thấy mặt tên Thế, cái tên khốn nạn đã đánh tôi khi tôi mới vào xà lim năm ngoái. Y còn đang mặc quần đùi, cởi trần. Chúng rút cùm, nhấc hai chân anh Hùng ra, và giật cái màn xuống. Ngoài cửa đã có cái băng ca bằng gỗ. Tên mặc thường phục, hất chân của anh Hùng ra. Bây giờ tôi mới nhìn rõ, tay trái của anh: cổ tay và khủy tay đều rách nát, đầy máu. Trên cổ anh, ngay chỗ yết hấu, mấy cái bong bóng máu to nhỏ bám ở vết cắt vẫn phập phồng. Tên Nhiễm đã tìm thấy, giơ lên một lưỡi “lam” mỏng. Tên Nhiễm cầm hai tay anh Hùng, tên Thế hai chân, khênh ra ngoài cửa. Tới cửa, quay lại tôi Nhiễm nói: - Tất cả những vật dụng gì của anh ấy, anh bỏ ra! Tôi thu gọn hết, cả cái điếu con, diêm và thuốc lào. Trong lúc quá vội vàng, nên thứ gì của anh Hùng tôi cũng vơ gọn lại. Sau này, tôi tiếc cái điếu và thuốc lào mãi. Buồng tanh ngòm! Tôi đề nghị tên Nhiễm cho tôi lấy một bô nước dội. Sau khi thấy y gật đầu, tôi chạy ra làm 3 bộ nước dội lên sàn và dưới nền. Xong việc, chúng đóng cửa và khóa ngay, lúc đó đã 12 giờ đêm. Tôi lấy chổi quét nước trên sàn xuống, rồi quét nền cho nước chảy xuống một cái lỗ nhỏ dưới nền nhà, chỗ sát tường phía đầu nằm. Đêm đã khuya, vắng lặng, trong buồng vẫn sặc lên mùi tanh của máu! Từ đó, tới lúc có tiếng loa, tôi cứ thấp thỏm không làm sao ngủ được. Chẳng hiểu anh Hùng sống hay chết! Tôi đoán rằng, trong lúc chúng khám, khi anh mới vào Hỏa Lò, anh vẫn giấu được một lưỡi “lam” chắc để cạo râu. Vì là tôi vượt tuyến, đâu chúng khám kỹ như khám tôi. Tôi cứ triền miên nghĩ ngợi, hết ngả nọ đường kia, chợt nhìn đến cái vỏ ba lô anh cho tôi mượn để gối đầu, vẫn còn đây. Hồi đêm vì quá khẩn cấp và căng thẳng, tôi quên khuấy đi. Ngày mai, tôi sẽ báo cáo cán bộ để trả lại anh. Với miền Bắc, đó cũng là một tài sản quý giá. Một ý nghĩ nữa lại lóe lên trong óc tôi. Để biết rõ anh ra sao, cứ để 2, 3 ngày nữa hãy báo cáo. Như vậy, trong thời gian đó, nếu cán bộ đến hỏi cái ba lô, có nghĩa anh Hùng không sao cả, nên đã nhờ cán bộ đến lấy lại. Ngược lại, nếu mấy ngày nữa, không thấy gì, tôi báo cáo trả mà cán bộ cầm đi, anh Hùng cũng vẫn còn sống. Tuy rằng không chắc chắn lắm, nhưng như vậy cũng ang áng đoán được sự việc. Mấy hôm au, tôi thật là thèm thuốc. Thèm thuốc, lại nhớ đến anh Hùng. Một buổi, sau khi tôi trả bát xong, lúc tên Tư sắp đóng cửa, tôi cầm cái ba lô, tiến ra trước mặt y: - Báo cáo cán bộ! Anh Hùng, mấy hôm trước nằm ở đây, thấy tôi không có cái gì gối đầu, anh đã cho tôi mượn để gối. Đêm hôm anh ấy tự tử, vội quá tôi quên trà, xin gửi cán bộ để trả lại cho anh. Y nhìn cái vỏ ba lô bằng vải bộ đội, cũng đã cũ, một phía túi đã rách, đoạn thủng thẳng: - Thôi, cho anh! Tôi lộ vẻ băn khoăn: - Thưa ông, cái này của anh Hùng, chắc gì anh đồng ý cho tôi? Y hất tay đuổi tôi vào, vừa đóng cửa vừa nói: - Tôi nói cho là cho! Đừng nói nhiều! Cửa đóng rồi, tôi vẫn đứng cầm cái ba lô ngẩn ngơ, bần thần. Như vậy, anh Hùng đã chết thật rồi ư? Vợ anh, con anh ở đâu, có biết gì không? Anh Hùng ơi! Còn bao nhiêu điều nữa tôi định nói với anh, và cũng còn bao nhiêu điều nữa tôi muốn hỏi anh. Thế mà, anh đã vội vàng bỏ hết, bỏ cả vợ dại con thơ, để ôm một mối uất hờn, oan nghiệt ra đi….. Tự nhiên, tôi buông một tiếng thở dài nhè nhẹ, lê thê như lời than vãn não ruột, cho một kiếp người vô nghĩa. Chuyện của anh Hùng làm cho tôi hàng tuần lễ, đêm nào cũng thấp thỏm ngủ không yên. Thỉnh thoảng, những lúc giật mình thức giấc, tôi lại liếc sang sàn bên. Hình ảnh anh Hùng nằm thẳng cẳng, hai mắt nhắm nghiền, hai chân trong cùm, máu me bê bết như mới vừa đây….. |
|
|
![]()
Post
#42
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Chín
Mùa Đông Thứ Hai… Sáng hôm nay, tên Bằng vào gọi tôi đi cung sớm. Phòng cung chỉ có tên Nhuận. Ngay khi nhìn thấy tôi, y tỏ vẻ tươi cười niềm nở. Sau khi chỉ ghế cho tôi ngồi, y săn đón hỏi: - Hôm nay tôi gặp anh, chắc anh sẽ cho tôi biết nhiều điều mới lạ! Tôi tin là hơn nửa tháng nay, anh đã suy nghĩ kỹ để nhìn thấy vấn đề rồi. Bây giờ, tôi để anh tự do nói, anh hãy mạnh bạo nói đi! Chính anh đưa tay ra mở cửa, cho anh vào tương lai đó! Ngồi nghe y nói, tôi tỏ vẻ rất khổ tâm và đau xót. Khi y giục, tôi mới tỏ thật nỗi tuyệt vọng của mình: - Thưa ông, lâu không được gặp các ông, tôi vẫn hy vọng rằng các ông và nhà nước đã xác minh được lòng thành khẩn cùa tôi với cách mạng. Thế nhưng, bây giờ ông lại bảo tôi mở cửa vào tương lai, thì tôi còn biết làm sao được nữa! Và như vậy, nhà nước vẫn chưa kết luận được sự việc của tôi. Đã hơn một năm rồi, tôi mòn mỏi đợi chờ. Y không cười nữa, nghiêm giọng: - Thôi được, chúng tôi vẫn sẵn sàng mở cửa chờ đón anh, cách mạng luôn luôn giang tay cứu vớt những con dân bị lầm đường lạc lối. Muộn còn hơn không! Bây giờ, anh hãy nói lại chi tiết, tả tỉ mỉ ngôi nhà tranh ở Cầu Cống, nơi tên Hòa đã huấn luyện anh. Ngồi nghe y nói, trong dạ tôi cũng hơi lo. Qua tấm ảnh Phan và tôi chụp chung, chắc chắn chúng có người của chúng trong ấy. Bây giờ, tên Nhuận bắt tôi tả lại, như vậy có nghĩa là chúng có thể thẩm tra xác minh. Nhưng đã trót khai trước đây nhiều lần, tôi thường lấy nhà một người Tầu bên Chợ Lớn mà tôi quen biết. Tôi đã đến chơi mấy lần nên nhớ để tả, còn không gian là ngõ Cầu Cống, Khánh Hội; do đó, lúc này tôi chỉ việc moi óc nhớ lại toàn cảnh nhà người Tầu đó để ghi lại. Tuy vậy, trong lòng tôi cũng đầy băn khoăn lắng lo. Tôi nói, nó ngồi ghi, chỗ nào chưa sáng tỏ nó hỏi lại. Mãi gần hết giờ, nó mới cho về. Ngay chiều đó, lại gọi nữa. Khi tôi ra tới nơi, y đưa cho tôi 5 tờ giấy, chỉ cái bàn con ở góc phòng: - Anh hãy ngồi viết tỉ mĩ chi tiết: dụng cụ, đồ đạc…bên trong nhà, bên ngoài nhà. Đường đi từ Khánh Hội vào. Rồi một tờ, anh hãy vẽ một sơ đồ, có chú thích từ phía Sài Gòn sang qua cầu Khánh Hội, cho tới ngõ ngôi nhà đó. Tôi cầm giấy về chỗ bàn con ngồi, óc căng ra. Phải chăng đây là khúc nút, để chúng sẽ cởi tung toàn bộ sự việc ra? Tôi đã suy nghĩ, đào sâu, xét kỹ, nhưng thấy không còn cách nào cả. Mà một khi tôi đã hiểu là không còn cách nào khác, chỉ còn một con đường duy nhất trước mặt, tôi sẽ đường hoàng dấn bước. Bản sơ đồ, thoáng trông có vẻ rõ ràng chi tiết, đường nét sáng tỏ, nhưng nếu đi vào thực tế, chỉ có mù trời. Tôi vẫn để những kẻ hở để phòng hờ sau này. Chiều về tới xà lim, tôi thấy cửa buồng đang mở. Tên Tư đang cầm mấy miếng vải sọc ở cái quần rách của tôi. Thấy tôi về, y sừng sộ hỏi: - Những mảnh vải này, anh xé ở đâu ra? Thấy thái độ của lão như thế, tôi hơi ngạc nhiên trình bầy: - Thưa ông, đấy là ở một bộ quần áo cũ, trại phát cho tôi một năm trước, khi tôi mới vào. Nó đã bở, rách cả hai đầu gối, đũng quần cũng đã bục ra. Tôi phải xé từ đầu gối làm khăn mặt, còn phía trên tôi làm quần đùi, thay đổi lúc mặc trong buồng. Vừa nói, tôi vữa cởi giải rút quần, chỉ quần trong cho y xem. Đến đây, phản xạ cấp thời cho tôi hiểu là chúng đang tìm cớ để cùm tôi. Gần hai tháng nay rồi, hàng ngày tên Tư coi tôi, y còn lạ gì hàng ngày, tôi vẫn mặc chiếc quần đùi rách đi đổ bô, cũng như ra vào lấy cơm, sao y không hỏi. Đến hôm nay, tôi đi cung, chắc y đã được lệnh đến buồng, tìm một lý do để cùm tôi. Các mặt khác thuộc về nội quy, tôi không sai phạm. Không cón cớ gì, chỉ còn cái quần rách. Quần, vải đã cũ, ở xà lim đã hơn một năm, mùa Hè thường phải mặc đêm, mồ hôi ướt đẫm, lại không được giặt thường xuyên, như vậy, làm gì không mục! Thế là y ghép tôi vào tội phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa. Y ra rút cùm, bắt tôi bỏ chân vào. Ôi thân tù, chúng làm thế nào chả phải chịu! Tôi đành phải bỏ chân vào mà lòng tái tê, héo úa. Y xách cả mấy miếng vải hôi hám, mốc meo của tôi đi. Như thế là mới thả cùm chừng gần một tháng, giờ lại cùm. Lại gian khổ bắt đầu. Trời đã cuối tháng 8, vào Thu, cuộc sống của tôi ở trong tù lại bắt đầu…mất ”tự do”. Lại những ngày dài tăm tối với chiếc cùm oan nghiệt, heo hút, cô đơn. Cứ ngày này, qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, và tháng này qua tháng khác, bao nhiêu đau thương tủi cực chất chồng, mò mẫm lặn lội trong vũng bùn đời…lao lý. Chiều hôm đó, sau giờ tan tầm chừng một lúc, các cán bộ đã lấy hết xe ra về. Cảnh sinh hoạt của Hỏa Lò đã vào giờ vắng lặng, chỉ còn tiếng loa léo nhéo đều đều như mọi khi. Chợt tôi nghe tiếng huyên náo, ồn ào của một tốp người, từ phía cổng Hỏa Lò đi vào phía cổng trại chung. Tiếng tên Nhiễm cao giọng: - Sao hôm nay về muộn thế? Rõ ràng tiếng tên Tân trả lời, giọng thổn thức: - Báo cáo cán bộ, bây giờ tòa mới xử xong! Giọng tên Nhiễm gằn mạnh: - Các anh oan lắm sao, còn khóc? Các anh mang theo những cái gì váo đấy? Một vài tiếng xụt xịt, tiếng hỉ mũi, rồi một giọng nói như rên: - Báo cáo cán bộ, có mấy gia đình vợ con lên, cho ít quà… - Anh là Chương à? Anh, tòa xử bao nhiêu năm? Một giọng khàn khàn nghẹn ngào: - Báo cáo, chung thân! - Thế anh kia bao nhiêu năm? Giọng ồm ồm: - Báo cáo, 20 năm! - Còn anh này? Tiếng tên Tân nói trong nức nở: - Báo cáo, 15 năm! Tiếng tên Lê từ trên gác phía ngoài cổng, nói vọng vào: - Đồng chí Nhiễm cho họ vào đi, rồi lên đây tôi nhờ chút việc! Những bước chân xào xạo lẫn với những tiếng xụt xịt của hàng chục người đi qua cổng, nhỏ dần rồi mất hút. Lòng tôi vẫn còn ngỡ ngàng suy nghĩ về tên Tân, đến lời nhận định về vụ án của y, khi tôi hỏi: “Có thể tôi không phải ra tòa. Nếu có ra, cũng từ 2 đến 3 năm là cùng!”. Ngây thơ như thế, nên các cậu khóc là phải rồi! Chủ quan, rồi bị quật một đòn mới choáng váng như búa bổ. Âu đây cũng là một sự việc, để tôi suy ngẫm sau này….. Thấm thoát, trời lại chuyển sang Đông. Những ngón chân, ngón tay của tôi lại bắt đầu sưng nhức. Cứ mỗi độ Đông về, đời tôi càng cay đắng! Sáng hôm nay, tiếng loa vừa ngừng bặt, giờ làm việc đã đến. Tiếng tên Lê phó giám thị ầm ầm quát tháo với vẻ rất bực bội, đang đi dần vào phía cổng trại chung, nơi có một số cán bộ mới tới, đang buộc khóa xe đạp. Giọng tên Lê dội lên đanh đanh: - Hôm qua, đồng chí nào lấy xe đạp của tôi đi? Một giọng rụt rè trả lời: - Báo cáo đồng chí…hôm qua quả tình…..tôi không ra phố. Có lẽ đồng chí Thế?!..... Lê càng bực tức: - Các anh lấy xe không bao giờ hỏi tôi cả. Cứ mỗi lần tôi đi, lại thấy xe không mất “má” phanh, cũng xỉ lốp; không bẹp chắn bùn, cũng đứt dây phanh…..Tôi đi sửa xong, mấy bữa sau, lại tình trạng ấy. Khóa rồi, vẫn mở đi! Có tiếng cười rúc rích nho nhỏ, tiếng tên Lê gào lên hồng hộc: - Tôi nói cho các anh biết là, chưa phải giai đoạn Cộng Sản chủ nghĩa đâu nhé! Lần sau, anh nào lấy xe đừng trách tôi! Qua mẫu đối thoại trên, tôi thấy lũ cán bộ này, từ tên Lê trở xuống. Trong tâm tư vẫn mang một niềm tin về viễn ảnh rực rỡ, hào quang ngày mai của chủ nghĩa Cộng Sản. Từ đấy, tôi cũng thấy được tâm trạng chung của chung của quần chúng nhân dân và cán bộ miền Bắc trong giai đoạn đó (1963). (Tôi không nói những trướng hợp cá biệt), vẫn chưa nhìn rõ chiếc bánh mầu sắc huy hoàng rực rỡ, mùi vị thơm ngon tuyệt thế của chủ nghĩa Cộng Sản, chỉ là chiếc bánh vẽ. Họ chưa thấy được rằng, cái “thiên đường Cộng Sản” ấy, không bao giờ có thể hiện thực, trong xã hội loài người này cả. Thực tế biện chứng như toán học: A cộng B bằng C, thì dứt khoát, không bao giờ A lại lớn hơn C. Chỉ kém hơn, hoặc bằng, trong trường hợp B bằng không mà thôi. Sáng hôm nay, ngày 16 tháng 10, tên Tư mở từng buồng cho ra đổ bô. Xong, y chỉ vào đống chăn ở một góc nền lối đi, cho mỗi người mượn một cái, và tùy người cho mượn áo trấn thủ. Đến lượt tôi, có lẽ lúc này ở xà lim ấy tôi là người ở lâu nhất. Hàng ngày tôi và y vẫn nhìn thấy nhau, vì thế, y có vẻ dễ dãi; chỉ vào đống chăn, y dịu giọng bảo tôi: - Anh không có quần áo, tôi cho anh chọn một cái chăn dầy và một cái áo trấn thủ! Tôi lựa một cái chăn dầy và một cái áo trấn thủ, còn tốt đến 80%. Nghĩ đến những ngày rét giữa Đông sắp tới, tôi đành xề, xuống nước với y: - Thưa ông, tôi không có màn cũng như quần áo, lạnh quá, chân tay của tôi bắt đầu sưng buốt (tôi vừa chỉ ngón chân và gơi tay cho y xem). Đề nghị xin ông, chốc nữa nếu còn thừa, xin ông cho mượn một cái chăn nữa? Tôi xin cảm ơn ông! Y không nói gì cả, hất hàm bảo tôi vào đi. Thôi đành vào buồng! Được cái chăn dầy, trong dạ cũng hý hửng rồi! Tôi đã bỏ chân vào cùm, vẫn chưa thấy y đóng chốt. Tội gì! Tôi lại khe khẽ lấy chân ra. Tuy ngồi, tuy đứng loanh quoanh, nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm không yên. Mắt cứ luôn luôn liếc về chiếc cùm, thành ra được nghỉ cùm một lúc mà lòng vẫn không được thoải mái. Những người ở xà lim có chăn riêng ở nhà mang theo, vẫn đều được mượn thêm một cái. Khi tên Tư mở các buồng cho mượn chăn hết lượt, y đến mở cửa buồng tôi. Tôi tiến ra phía cửa, y chỉ vào 3 cái chăn ở dưới nền: - Anh xếp lại, để trên ghế kia! Tôi cho anh mượn một cái nữa! Nỗi vui mừng hưng phấn như ngày còn bé nhận được quà, chạy ùa vào lòng tôi. Sau khi xếp chăn lên ghế, tôi vội vàng ôm chiếc chăn nữa vào buồng, như ôm niềm ấm êm hạnh phúc cho những ngày Đông rét sắp tới. |
|
|
![]()
Post
#43
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi
“...Thắng Lợi Bất Ngờ Của Việt Cộng”... Miền Nam Đảo Chánh. Hôm nay là mồng 2 tháng 11 rồi Những trận mưa phùn đầu Đông làm ẩm ướt cả không gian, cả ngày u ám không có mặt trời. Thỉnh thoảng một cơn lạnh tái tê len qua cửa sổ, luồn vào trong xà lim, như đem theo niềm cô đơn băng giá, để đầy đọa thêm người tù đói khổ. Cũng như những buổi trưa khác, tôi đang nằm lặn ngụp trong nỗi đầy vơi trăm hướng, của cuộc đời tù tội, mặc cho tiếng léo nhéo của chiếc loa lắm mồm. Chợt nghe một giọng the thé: “…..Theo nguồn tin mới nhận được, cái gọi là Hội Động Tướng Lãnh của Ngụy Quân Sài Gòn đã làm một cuộc đảo chính, lật đổ chế độ độc tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm…..”. Tim tôi như thắt lại, tôi bò nhổm dậy, mắt mở to, tai vểnh lên như muốn hút hết mọi âm thanh của chiếc loa. Phía bên ngoài, một số cán bộ cũng đang huyên náo, bàn tán xôn xao. Một tiếng quát nhẹ của một người nào đó: - Các đồng chí hãy yên lặng, để nghe đã! Tiếng loa vẫn oang oang: “…..Quân đảo chính đã làm chủ tình hình. Anh em Ngô Đình Diệm đang bị bao vây dưới hầm dinh Gia Long. Không khí Sài Gòn rất căng thẳng và nghẹt thở…..” Tôi bàng hoàng và hoang mang cực độ. “Vận nước đã đến ngày điêu linh rồi chăng?”, tôi than thầm. Đây là sự thực hay tuyên truyền của Cộng Sản? Tuyên truyền nào cũng có nguyên tắc của nó. Có những sự việc: “Không” không thể nói thành “Có” được…..Về lý trí, tôi biết đây là một sự việc thực. Nhưng về mặt tình cảm, tôi cố níu kéo, cho là một chuyện tuyên truyền của Cộng Sản, nhằm gây hoang mang cho tinh thần mọi người, chứ không có thực. Từ khi bị bắt, tôi chưa bao giờ đọc kinh cả. Thế mà hôm nay, trước mối hiểm nguy cho một cá nhân, nhưng cũng có thể là mối nguye cho cả dân tộc. Tôi không biết làm sao, chỉ còn biết cầu xin Chúa, cầu xin đấng tối cao hãy che chở cho cụ Ngô, người mà cả cuộc đời tôi kính yêu, trọng nể. Thường ngày, sáng cũng như chiều, tôi chờ đợi bữa cơm như tâm trạng ngày còn bé mong mẹ về chợ. Càng gần giờ cơm, tai càng vểnh lên nghe ngóng âm thanh những tiếng xền xệt, bình bịch của tiếng chân mấy người tù hình sự, khênh chiếc chõng có thùng nước nóng và một số bát cơm vào lối đi giữa của xà lim. Tiếng “kịch” của chiếc chõng để xuống nền; tiếng “xàn xạc” của đít thùng tôn đựng nước cọ xuống nền xi măng…Rồi lại chờ lắng nghe tiếng chân cán bộ với tâm trạng xốn xang: Sao cán bộ đi đâu mãi, không thấy trở về cho tù ăn cơm. Để rồi khi nghe tiếng lẻng xẻng của chùm chìa khóa. Tôi chắc rằng, mắt tôi phải sáng lên: Hạnh phúc đã đến rồi! Đoi khi tôi cũng bị mừng hụt, vì đó chỉ là tiếng chìa khóa của cán bộ Hoa, Bằng, hoặc Kim vào gọi một người nào đó đi cung….. Hôm nay trái lại, cơm đã khênh lên lúc nào tôi cũng không hay. Mãi tới khi cán bộ mở cửa buồng, bảo ra lấy cơm, tôi mới giật mình choàng dậy, như vừa tỉnh một giấc mơ nhiều máu lửa. Lấy cơm vào rồi, tâm hồn tôi vẫn còn lững lơ đâu đấy, không còn cái thú thèm khát, vồ vập ăn như mọi ngày. Đầu óc tôi đang xáo trộn bao nhiêu nỗi chất chồng, đường nọ, ngả kia vối niềm thấp thỏm mong chóng đến 5 giờ chiều, để nghe bản tin xem tình hình Sài Gòn diễn tiến như thế nào. Mong mãi, rồi cũng đến 5 giờ. Phải nói rằng, từ ngày về miền Bắc, chưa bao giờ tâm tạng tôi lại bồi hồi háo hức, tập trung tư tưởng để lắng nghe tiếng loa như vây giờ. Tiếng loa mà tôi vẫn ghét như một “con mụ chửi thuê lắm mồm!”… Tình hình Sài Gòn vẫn căng thẳng. Vẫn thiết quân luật ngày đêm, nhưng có chiều hướng phe đảo chánh đã thành công đến 90%. Họ đang gửi tối hậu thư bắt ông Diệm phải ra hàng, nếu không họ sẽ cho dinh Gia Long tan thành bình địa…..Qua bài bình luận của Hà Nội, chúng cố ý tỏ ra khách quan, (ra cái điều đứa nào trong chúng mày, tao cũng phải diệt). Nhưng ai cũng ngửi thấy, chúng mong muốn phe đảo chính thành công. Người chúng sợ nhất, cho nên chúng thù nhất, là Ngô Đình Diệm. Bộ chính trị của chúng đang phải điên đầu, tính trăm mưu ngàn kế, để làm sao hạ được ông Ngô Đình Diệm xuống, bằng bất kể giá nào. Thế mà, bây giờ lại có những kẻ thay chúng để làm công việc đó, hẳn chúng đang bắt tay nhau với những đôi mắt long lanh chào mừng “Thắng lợi không ngờ!”. Đêm hôm nay nằm hoài không ngủ được, tôi trằn trọc suốt năm canh mong chờ trời sáng để nghe “con mẹ lắm mồm”. Đôi chân vẫn giá buốt trong cùm, tấm thân gầy thấp thỏm suốt đêm thâu! Tiếng gió Bấc than gào như tiếng núi sông báo hiệu với con cháu giống Lạc Hồng, vận nước đã đến ngày tơi tả thê lương. Mùng 3 tháng 11. Sau một đêm dài thao thức quằn quại, hôn mê giữa chán chường và hy vọng, tôi thấy bản tin sáng hôm nay, cũng chưa nói lên điều gì rõ ràng lắm. Có tin anh em Ngô Đình Diệm đã chui vào đường hầm bí mật, ôm theo một va li vàng và kim cương (?). Sau bữa cơm sáng, tôi lại nằm đợi nghe bản tin buổi trưa, nhưng vì suốt đêm qua không ngủ, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Mãi cho tới khi quản giáo mở cửa cho đi đổ bô buổi chiều, tôi mới choàng thức dậy. Cơm chiều xong, cũng như hôm qua, tôi ngồi chờ đợi tới 5 giờ chiều. Hôm nay, lòng tôi không mềm rũ như hôm qua. Óc tôi liên tưởng tới cuộc đảo chính ngày 11-11-1960. Biết đâu chẳng có một thế cờ quật ngược lại phe đảo chính. Một niềm hy vọng nhen nhúm dâng lên trong lòng tôi. Tôi không thấy hồi hộp lo lắng như hôm trước, khi bản nhạc dạo quen thuộc của đài phát thanh Hà Nội trỗi dậy trước giờ phát thanh. Và, cũng là lúc báo hiệu giờ tan tầm của các nhà máy, xí nghiệp. Những tiếng gọi hỏi nhau í ới, những tiếng rì rầm bàn tán của bọn cán bộ, tập trung tại chỗ để xe đạp để lấy xe, hôm nay hình như đông hơn mọi ngày. Có thể trước khi về, chúng còn muốn nán lại ít phút để nghe bản tin, chúng cũng nôn nóng đợi chờ. Chúng không ngờ, cách một bức tường dầy 50 phân, có một người, và có thể một số người, cũng đang nôn nóng đợi chờ như chúng. Hai sự chờ đợi này chắc hẳn mâu thuẫn đối nghịch nhau. Tiếng ả xướng ngôn viên rành rọt: “…..Theo nguồn tin vừa nhận được: Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu trốn đến một ngôi nhà thờ ở Chợ Lớn, do một linh mục người Tầu tên là Tam trông coi. Ở đây, do lòng căm phẫn cả quần chúng, nên có người đã tố cáo với phe đảo chính. Phe đảo chính đã đến bắt Diệm và Nhu lên một xe bọc thép M-113. Trên đường giải về Bộ Tổng Tham Mưu, khi qua đường Hồng Thập Tự, phe đảo chính đã hạ sát Nhu và Diệm bằng nhiều phát súng ngắn và dao găm. Hai tên đã chết ngay tại chỗ trên xe bọc thép…..”. Tai tôi ù lên! Mũi tôi như nghẹt thở! Cái cửa sổ và mấy chiếc lá nho bên ngoài kia như đang nhẩy múa quay cuồng trước mặt tôi “Có thật không?”, tôi tự hỏi, “Hay đây chỉ là một cơn ác mộng?”. Những tiếng reo hò của lũ cán bộ ngoài sân như nhắc nhở tôi “Đừng mơ hồ nữa!”. Có hai tên vừa chạy ra phía cổng, vừa hò to: - Ngô Đình Diệm đổ rồi! - Ngô Đình Diệm bị giết rồi! Chao ôi! Tiếng hò làm một luồng lạnh buốt từ xương sống chạy ngược lên gáy ôi. Tóc gáy tôi như dựng lên, người tôi nổi gai ốc. Tiếng hò đã ra tới cổng rồi, dư âm của nó còn như vặn xé trái tim đã đầy ắp khổ đau của tôi. Chúng ta nhiều người đã thấy, nói chung, những tên cán bộ Cộng Sản thường lầm lì, lạnh lùng ít nói. Không giống như các anh Thiếu úy, Trung úy của ta, thường tươi cười, có khi nô đùa trước người khác. Đối với bọn cán bộ trại giam, những nét đó lại càng rõ hơn. Thế mà hôm nay, chúng hò reo, nhảy lên. Điều đó, nói lên nổi vui mừng to lớn quá, chúng không kìm hãm nổi, nên đã để bộc phát ra như vậy. Trong chúng ta, những ai đã ít nhiều hiểu Cộng Sản đều thấy rằng, cái mũi của chúng tương đối thính lắm. Cho nên nếu khi nào chúng ca tụng, đề cao một cá nhân, một tồ chức hay một quốc gia nào, điều đó có nghĩa là cá nhân đó, tổ chức đó, hay quốc gia đó đã hoặc đang làm những điều thiệt hại cho thế giới tự do, và có lợi cho Cộng Sản. Ngược lại, khi chúng chê bai, chửi bới cá nhân, tổ chức, quốc gia, v.v… có nghĩa cá nhân đó, tổ chức đó, quốc gia đó đã làm những điều trái nghịch lại. Mặt khác, cứ đo lường sự hung hãn chửi bới, cũng như tâng bốc ủng hộ của chúng, sẽ thấy được mức độ lợi hại hoặc hại của đối tượng, cho phe ta hay phe địch…..Điều này gần như trở thành một công lý, chỉ trừ một vài trường hợp hạn hữu cá biệt, mới không đúng, khi chúng dụng ý gây mâu thuẫn. Trong bối cảnh của nước Việt Nam lúc này, một nhà nước do Cộng Sản chiếm đóng thống trị. Còn một nửa, Cộng Sản đã đặt một chân lên, bằng cái gọi là “Mặt trận giải phóng” với những khu vực bưng biền, với một số thôn bản xen kẽ. Ngay trong nội bộ miền Nam, chính quyền chưa đủ thời gian, hoặc chưa đủ khả năng để khẳng định được ai là người của đối phương, ai là người của ta. Lòng dân còn ngang ngửa, chưa biết ai là chính, ai là tà! Vậy làm chính trị, ai cũng phải thấy là: Bất cứ một cuộc binh biến nào trong lúc này, bất cứ một vụ lộn xộn thay ngôi đổi chủ nào, cũng đều nguy hiểm, có lợi ghê gớm cho Cộng Sản. Nghĩa là thiệt hại ghê gớm cho phe quốc gia! Về ông Diệm, thử nhìn tất cả các bộ mặt gọi là chính khách ở miền Nam, ai hơn hoặc bằng ông Diệm? Dù ông Diệm cũng còn nhiều điểm chưa đúng! Nếu không có cái tốt hoàn toàn, chúng ta phải chọn cái tốt vừa vậy. Huống chi, “Nhân vô thập toàn”. Không làm, mới không phạm sai lầm! Bất cứ ai, làm việc, hành động, tất yếu phải có những điều sai lầm. Vậy, trong quá trình xử sự công việc, ông Diệm có điểm gì sai? Tôi cũng như quần chúng thuộc loại dân đen, thấp cổ bé họng, không thể sửa chữa được cho ông đã đành. Nhưng, nếu một ông Tướng không thể sửa được, nhiều các ông Tướng phải sửa được. Một ông Bộ Trưởng không thể sửa được, đa số các Bộ Trưởng sẽ sửa được. Một dân biểu không sửa được, thì cả Quốc Hội, v.v…với điều kiện: vì dân, vì nước, đạt quyền lợi của Tổ Quốc lên trên hết! Không bằng biện pháp này, thì phương pháp khác. Nếu quyết tâm các ngài sẽ sửa chữa được cho ông Diệm, nhất là khi những cái sai lầm ấy không phải là cơ bản. Tóm lại, Duong Văn Minh và bè lũ đã lật đổ và giết chết ông Diệm, phải nhận một trong hai lỗi lầm, hoặc cả hai sau đây: - Không nhìn thấy cái lợi ghê gớm cho Cộng Sản. - Nhìn thấy, nhưng vẫn gục đầu mà làm. Không một lý do nào, không một biện luận nào, không một quốc tế này, tình hình kia, có thể phủ nhận thỏa đáng hai điểm trên. Vậy, nếu ở điểm: 1) Các ông làm chính trị, các ông không nhín thấy một điểm sơ giản như thế. Các ông không đủ khả năng lãnh đạo quần chúng nhân dân là chúng tôi đâu! Hãy nằm im đi! Dẹp! 2) Các ông đã để cá nhân các ông lên trên Tổ Quốc. Loại này cho đi tầu suốt! Những điểm lợi cho Cộng Sản thì nhiều, nhưng điểm ghê gớm nhất là: Khi một chế độ có cuộc đảo chính, mà cuộc đảo chính đó chỉ có mục đích tranh giành quyền lợi cá nhân, muốn ăn chia xôi thịt. Lúc đó sẽ xẩy ra tình trạng gì? Trong chính quyền: Cán bộ thuộc mọi lãnh vực, quân đội cũng như hành chính; ngoài nhân dân ai ai cũng thế, đều tự thấy đây là một xã hội không ổn định, một chế độ lộn xộn. Như vậy, tất yếu lại sẽ có cuộc đảo chính khác. Không tin tưởng được nữa, hảy lo thủ cho bản thân! Cũng chẳng còn dám ủng hộ ai! Có gì là chắc nữa đâu! Lòng dân ly tán, lòng quân nghiêng ngả. Điểm mạnh của một cá nhân, một tập thể, một quốc gia là ở tinh thần, chứ không phải thể chất, vũ khí hay tiền bạc. Vậy, tinh thần của cán bộ và người dân như trên, rã rượi không còn lòng tin. Làm sao chống cộng?!..... Ngay lúc này, Cộng Sản miền Bắc đã ngửi thấy điều đó, là tinh thần quân dân miền Nam đã và đang bị khủng hoảng. Chứng cớ, sau những buổi họp bàn thảo luận của đảng, ít ngày sau, chính những tên chấp pháp đã nói thẳng vào mặt tôi: - Chúng tôi nói thực cho anh biết, tình hình miền Nam lúc này…..Nếu không do vấn đề chính trị quốc tế, vuốt mặt vướng mũi, chúng tôi chỉ cần 5 sư đoàn tinh nhuệ đánh dọc từ Bến Hải vào tới Sài Gòn, không khó khăn lắm…..Chỉ cần nghe tin có đại bình đến, lòng quân, lòng dân đã như trên thì chỉ có chạy. Càng gây hỗn loạn, để rồi cuối cùng tất cả đều phải buông súng….. Đó không phải là những lời nói huyênh hoang không có cơ sở. Tôi nhìn bao quát miền Nam, rồi nhìn toàn diện miền Bắc lúc bấy giờ, tôi thừa nhận lời tuyên bố đó có giá trị. Thực vậy, nếu ai nhìn quán triệt vấn đề sẽ thấy: Khi lòng quân và dân nghiêng ngả thì sẽ rơi vào cái thế “Cuốn chiếu” tất yếu. Kẻ thù dùng một lực lượng tối đa; thần tốc, vũ bão chiếm điểm A, thì điểm B sẽ chạy. Điểm B chạy, thì C, D, E lần lượt cuốn vó hết. Lúc này, thì người có tài thánh cũng đành chịu đứng nhìn, sự hỗn độn, vô chính phủ của quân đội lẩn dân chúng bồng bế chạy mà thôi. Một vấn đề nghiêm trọng nữa, không hiểu những người chủ trương hạ ông Diệm, trong đó có những Tướng, Tá và cả một số người Mỹ, có biết và luờng được những gì xẩy ra trên nửa nước phía Bắc Việt Nam này hay không? Có thấy được sự khủng hoảng, rã rượi tinh thần của người dân miền Bắc ở mức độ nào hay không? Tôi tin rằng, dù cho họ uống sâm nhung, đầu óc họ cũng không thể nghĩ được mức độ tai hại đến như thế! Về việc hạ bệ ông Diệm đã trở thành cái nhân nẩy mầm, để cây trưởng thành cho tới khi kết trái, là 30 tháng 4 năm 1975! Quả thế, mọi từng lớp quảng đại quần chúng nhân dân miền Bắc, sau 8, 9 năm bị lũ Cộng Sản khát máu, dùng bạo lực sắt thép để kìm kẹp thống trị. Họ vẫn nhẫn nhục chịu đựng ngày củng như đêm. Những khi thấy lầm than tăm tối, trong lòng họ vẫn trỗi lên những niềm hy vọng sáng tươi ở chân trời phía Nam, nơi có cụ Ngô mà lũ lãnh đạo miền Bắc ăn không ngon, ngủ không yên. Không những chúng không làm gì được miền Nam, chúng còn đang lo ngay chỗ ngồi của chúng ở miền Bắc cũng không vững. Vì sẽ có ngày Bắc tiến! Bây giờ, niềm hy vọng của họ tan tành, vì cuộc sống, vì nồi cơm, họ đành phải tích cực yêu cái chế độ hiện tại vậy. Hàng triệu tấm lòng như thế, dần dần trở thành triệu triệu những giòng nước nhỏ, góp lại thành thác cuồng xô vỡ bờ tháng 4/75. Những người quật cường, có tính năng hoạt động, hoặc bộc phát do cá nhân, hoặc đã tổ chức thành những tập thể để chiến đấu với lũ cộng tham tàn khắp nơi, từ rừng sâu, góc biển, đến thôn làng thành phố…..Cũng biết bao người đã sa vào tay giặc, và đang bị giam cầm đầy ải trong ngục tù. Nhưng, những người trong tù cũng như những người còn đang chiếc đấu bên ngoài, vẫn kiên trì dũng cảm chịu đựng gian khổ, chiến đấu với lũ cộng thù, để chờ đại quân miền Nam ra giải phóng. Bây giờ, hy vọng của họ trở thành mây khói. Thậm chí, nhiều cá nhân cũng như tổ chức đã tuyệt vọng đầu hàng giặc, àm tôi đã gặp ở các trại trung ương sau này. Hôm nay, mồng 4 tháng 11. Đã 8 giờ sáng rồi, trời còn âm u đen kịt. Mưa rơi nhì nhẹt suốt đêm thâu, mà giờ đây vẫn còn dầm dề, rả rích như giọt lệ sầu của người Mẹ hiền núi sông đang rã rượi, vật vã khóc thuơng đàn con Việt gặp một tai ương đau đớn. Cả đêm qua, tôi đã bàng hoàng mê tỉnh với những giấc mộng hãi hùng. Người tôi rã rượi như một tầu lá úa trong mưa dầm gió Bấc. Đôi chân gầy vẫn giá buốt trong cùm gông, những ngón chân, ngón tay càng sưng lên nhức buốt. Nhưng cái đau đớn của thể xác bây giờ chỉ là thứ yếu, nhường chỗ cho cái đau ruỗng nát cả niềm tin. Cái đau tan tác cả một hướng đời, bơ vơ lạc lõng như con thuyền mục nát trên đại dương, đang bị bão tố dập vùi không còn định hướng. Tôi nằm lịm đi, đang ngụp lặn trong một trời khổ đau, bỗng cửa con xoạch mở. Tôi mệt nhọc, chống tay bò dậy nhìn ra. Chiếc mũi và cặp kính trắng thập thò qua song cửa con. Một giọng miền Nam quen quen: - Anh dạo này có khỏe không? Chà, tên Võ, tên chánh giám thị Hỏa Lò, hơn một năm trước đã vào tha cùm tôi. Tôi vội vàng tươi tỉnh: - Cảm ơn ông, tôi vẫn thường thường….. Y nói với vẻ hồ hởi: - Hôm qua anh có nghe đài không? Tôi đã thấy chạm vấn đề, nên cộc lốc: - Có! Như tràn từ một nỗi hân hoan trong lòng, y xì ra: -Đối với chúng tôi, miền Nam bây giờ không còn đối thủ nữa. Tôi nói với anh là vấn đề thống nhất chỉ còn là thời gian thôi. Á! Thì ra y mừng quá! Y không biết thổ lộ với ai cho đã, bằng nói với một người từ miền Nam ra. Cho nên, mới sáng sớm y đã vào xà lim không kể gì mưa gió, gặp tôi để cho giãn cái bọc sướng vui của y ra. Mà lão sướng vui bao nhiêu, thì tôi ngược lại bấy nhiêu. Cho nên, để câu chuyện qua nhanh càng tốt, tôi chậm chạp trả lời: - Thưa ông, tôi cũng nghĩ vậy! Trước khi đóng cửa con lại, y cười cởi mở: - Thôi nhé! Hãy cố giữ gìn sức khỏe! Hôm nay sao lịch sự thế! Khi vui người ta cũng dễ dãi…..Hai hôm sau, mụ Hoa vào gọi tôi đi cung. Khi tôi ra phòng cung, tôi thấy 3 tên Đức, Nhuận và Thành. Mặt tên nào cũng tươi roi rói, sau khi chỉ ghế cho tôi ngồi, tên Đức đã hỏi ngay: - Mấy ngày nay, anh có theo dõi đài không? - Thưa ông, có! - Anh thấy thế nào? Dù đang cúi xuống, tôi cũng biết là cả 6 con mắt của chúng đang tập trung theo dõi thái độ của tôi. Vì vậy, tôi trả lời, vẻ bình thản: - Thưa ông, nghe đâu có vụ đảo chính, và họ đã giết anh em Ngô Đình Diệm rồi! Tên Nhuận giọng thử ý: - Tôi biết mấy hôm nay anh buồn lắm, vì chủ anh đã chết rồi! Tôi nghĩ, như vậy là tốt cho anh đấy! Anh không còn phải mắc mớ điều gì nữa. Hãu tự cứu lấy mình, hãy khai báo hết với cách mạng. Còn như thằng Dương Văn Minh và một lũ Tướng, Tá, anh cũng biết đấy, chỉ là đồ bỏ! Rồi đây, chúng nó chỉ tranh giành nhau làm tay sai cho Mỹ, không hơn không kém! Tôi vờ ngạc nhiên: - Thưa ông, tôi buồn, hôm nào tôi chả buồn. Còn ông nói Ngô Đình Diệm là chủ của tôi, không đúng. Bởi vì tôi cũng chưa được nhìn thấy ông Diệm bao giờ cả. Hơn nữa, tôi cũng chẳng có ân huệ hay hận thù gì với ông ta. Còn khai báo, ngay từ đầu, tôi đã thành thật khai báo hết rồi, chứ không phải đợi tới bây giờ…. Tên Thành vội vàng cướp lời tôi: - Anh nói vậy mà nghe được à!? Diệm là người Công giáo, anh cũng là người Công giáo, tất nhiên anh phải ủng hộ ông ta chứ? Tôi vẫn tỏ vẻ ngạc nhiên, cãi lại: - Thưa các ông, như tôi đã nói với các ông nhiều lần trước đây, bố mẹ và họ hàng nhà tôi chỉ làm thuơng mại, buôn bán. Chỉ có mình tôi do sự bồng bột của tuổi trẻ, do ảnh hưởng của phim ảnh nên đã ngây thơ nhận nhiệm vụ của họ, ra ngoài miền Bắc. Chứ thực lòng tôi, ai là Tổng Thống, ai là Chủ Tịch cũng thế, vì tôi có hiểu gì về họ đâu! Vả lại, đối với tôi bây giờ, họ lại càng vô nghĩa nữa. Tôi đã chán ghét họ nhiều lắm rồi! Thành lộ vẻ ngạc nhiên, gằn giọng: - Sao anh lại cho là vô nghĩa đối với anh? Mặt rầu rầu, tôi trả lời: - Tôi bây giờ đã hiểu! Ngay khi ông Diệm còn sống, tôi đã thuộc loại đứa con đem bỏ chợ. Không một ai ở Sài Gòn lúc này còn nhớ đến tôi, có chăng chỉ còn bố mẹ và các em tôi. Huống chi, tôi sống hay chết, những người đảo chính còn quan tâm đến làm gì. Như vậy rõ ràng họ cón có nghĩa gì với tôi đâu…..? Có lẽ tên Đức thấy chỉ là những câu đối đáp lằng nhằng, không đưa đến vấn đề gì, nên y đổi giọng: - Theo anh, tình hình miền Nam rồi sẽ như thế nào? - Thưa ông, tôi chẳng biết gì để nhận định. Nhưng, tôi cho rằng với tình hình như thế, rồi đây các Tướng sẽ tranh giành nhau, cắn xé nhua, xã hội sẽ càng lộn xộn. Chắc rằng “mặt trân giải phóng” do đảng lãn đạo sẽ đứng lên cướp chính quyền một cách dễ dàng. Cả 3 đứa sáng mắt lên, tên Nhuận cười rộ: - Khá lắm, anh làm tham mưu được đấy! Tôi lúng túng, dè dặt: - Tôi hiểu các ông cười chế nhạo tôi. Các ông hỏi, tôi phải trả lời. Tôi nghĩ thế nào, thì nói thế, chứ tôi làm sao để biết được những vấn đề lớn ấy. Tên Đức nghiêm giọng: - Tôi nói thẳng cho anh biết, trong điều kiện tình hình hiện nay, vì lý do chính trị quốc tế, vì những khía cạnh liên quan ràng buộc, nếu không, chúng tôi chỉ cần 5 sư đoàn, đánh từ Bến Hải dọc vào tới Sài Gòn, không khó khăn gì lắm! Nghe y nói tôi tỏ vẻ rất tin tưởng: - Như vậy, tôi thật mừng! Các ông sẽ vào bắt được cả Cục Tình Báo Miền Nam. Lúc đó, cách mạng sẽ hiểu được sự thành khẩn của tôi. Để chúng tin hơn, tôi nói một vài sự việc lơ mơ: - Về ông Diệm này, tôi nhớ đến vụ đảo chính (1-1-1960). Lúc đó,dư luận dân chúng miền Nam rất chê ông Diệm. Từ trước, ông vẫn lấy cây trúc ẩn biểu hiện lòng dạ thanh liêm, đạo đức trong sáng của ông. Từ những ý nghĩ cho đến lời nói, tất cả đều là mẫu mực tiết khí của người quân tử. Khi ông ta bị ở vào cái thế cùng quẫn, bị “hội đồng cách mạng” lúc đó vây hãm trong Dinh Độc Lập. Ông đã tuyên bố trên làn sóng điện, trước quốc dân đồng bào, cam kết với “hội đồng cách mạng” là ông bằng lòng chấp nhận sự thỏa hiệp với “hội đồng cách mạng”: như một sự đầu hàng. Thế nhưng, sau đó, khi một số đơn vị ở các quân khu về tiếp ứng, phá được vòng vây và dẹp phe đảo chính, ông Diệm đã nuốt lời hứa, lời cam kết trước đó. Như thế, ông ta đâu còn là bậc quân tử mà cây trúc là biểu hiện? Cả 3 đứa cùng cười, tên Đức giọng phân tích: - Diệm xử sự như vậy, không có gì sai cả. Chỗ này, ông ta đã hành động rất đúng. Bởi vì, lời nói hay lời cam kết trong lúc bị uy hiếp, cưỡng bức, hay dưới một áp lực, đều không có giá trị. Ngồi nhìn và nghe y nói, tôi thấy y cũng có kiến thức và hiểu biết. Từ những sự phân tích trên, tôi chợt suy ngẫm thêm: Thời đại ngày nay, trong kho tàng lý luận muôn mặt, muôn màu mà Cộng Sản đang lợi dụng, ta không nên lạ lùng ngạc nhiên khi thấy Cộng Sản xé bỏ tất cả những lời cam kết, những hiệp định chính tay chúng đã trang trọng ký kết. Chúng vẫn có muôn ngàn lý do để giải thích cho đồng bọn và những người dân dưới quyền chung một cách hợp lý. (Chúng chỉ giữ lại những hiệp định, những lời cam kết nào, chúng thấy có lợi cho chúng mà thôi). Lời giải thích của chúng sẽ: nào là lúc đó do áp lực kinh tế, vì dân chúng quá đói khổ, khi đó tình hình biên giới căng thẳng, lúc đó v.v… và v.v… Vậy, cá nhân hay quốc gia nào đừng thắc mắc, than vãn trách móc chúng, mà hãy trách sự ngây thơ ấu trĩ của chính mình, vì chưa hiểu rõ bản chất của chúng mà thôi!... |
|
|
![]() ![]()
Post
#44
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Mốt
Cái Chết Ám Ảnh Người Tù Trong Xà Lim “Án Chém”… Giai đoạn này, thỉnh thoảng chúng mới gọi cung tôi, lúc thì điểm này, lúc thì điểm kia bắt tôi khai lại. Chúng hy vọng dùng thời gian để lung lạc tôi, do đó chúng vẫn khích lệ, phỉnh phờ, xen lẫn đe dọa, hòng một lúc nào đó tôi không kìm hãm được, phải khai những điều mới với chúng. Nhưng, lúc này tâm hồn tôi như chết rồi! Trời đất đối với tôi bây giờ chỉ còn là một màu đen kịt. Tôi không còn sức phấn đấu nữa! Tôi căm hận cuộc đời, căm hận cả con người. Ngày đêm, tôi chỉ nghĩ đến cái chết! Chết là giải pháp đẹp nhất để giải quyết hết mọi khổ đau, dằn vặt, vò xé trái tim đã nhăn nhúm rỉ máu vì cuộc đời đã chà đạp, bóp nặn quá nhiều. Chân tôi vẫn trong cùm, đêm ngày sưng buốt. Đi cung, gặp chấp pháp bây giờ tôi căm hận, không cần nói đến cùm nữa. Chấp pháp lại càng không bao giờ nói đến hay hỏi tôi bị cùm thế nào, nên tình trạng cứ thế trôi đi. Một hôm, vào cuối tháng 1 năm 1964, tên Tư mở cùm, mở cửa buồng, bảo tôi ôm chăn chiếu chuyển đi chỗ khác. Tôi vội vàng vơ gọn chăn chiếu, ôm một bọc đi theo y. Ra khỏi xà lim II, y bảo tôi đi trước, chỉ vào phía trong sân trại chung, y đi đàng sau. Theo hướng y ra hiệu bằng tay, tôi tập tễnh đi mãi vào phía trong cùng đến một cái cổng sắt nhỏ, cánh cửa cũng bằng sắt. Một bức tường thấp chừng 2 mét rưỡi xây vòng cung, bên trên chăng 5, 6 lần dây điện trần, chạy dọc theo tường, ngăn cách với sân trại chung bên ngoài. Y đẩy cửa, tôi bước vào một cái sân nhỏ, diện tích khoảng 25m x 10m. Ở phía góc sân có chăng một số dây thép để phơi quần áo. Trên sân rụng đầy lá bàng khô, do một cành bàng to vươn vào từ cây bàng lớn ngoài trại chung, cạnh bức tường. Quang cảnh thật là im lìm, vắng lặng. Tiếng sột soạt của những chiếc lá bàng khô, nghe rõ mồn một theo từng bước chân của y và tôi khi đi qua sân. Vào một căn nhà sài, tối lờ mờ, tôi thấy một cái bàn và một cái ghế trong một khu trống, có lẽ là phòng trực xà lim. Y tiến đến trước buồng số 3, mở cửa rồi cúi xuống rút chốt cùm. Đã ở xà lim khá lâu, tôi cũng có chút ít kinh nghiệm. Mặc y đứng chờ, tôi vào buồng, cúi xuống gầm sàn lấy cái chổi thanh hao quét rác bụi, trên chiếc sàn tôi sẽ nằm.Tôi bỏ bọc chăn chiếu lên sàn, rồi lại cúi xuống kéo cái bô ra khỏi gầm sàn, mở nắp. Bên trong, phân và nước giải của người ở trước đã đen xì. Tôi ôm bô phân ra cửa: - Báo cáo ông cho đổ phân, vì phân đã lâu ngày, khó ngửi quá! Y nhìn vào bô, ngần ngừ, rồi gật đầu. Chỉ tay về phía cạnh buống số 1, y nói: - Khẩn trương lên, vào đổ bô đúng lỗ cầu tiêu, rồi lấy một bô nước dội cho sạch! Tôi bước vào cánh cửa chỉ định, ngay phía ngách trái là một lỗ cầu tiêu, bên ngoài là một chỗ rộng có một vòi nước to, cao hơn mặt nền chừng 1 mét để tắm giặt. Vừa tráng bô, tôi vừa suy nghĩ về cái “cầu tiêu”. Chắc hẳn cầu tiêu này dành riêng cho cán bộ, chứ tù làm gì có thời gian để được vào đó đi cầu. Khi trở ra, tôi liếc nhìn thấy xà lim I sâu hun hút rất nhiều buồng, ngay đối diện với buồng số 3 của tôi là buồng số 14. Như vậy, xà lim này to gần bằng cả hai xà lim III và II gộp lại. Tôi chợt nhớ, có lần tên Tân nói với tôi là xà lim I thời Pháp thuộc, gọi là “xà lim án chém”. Tên Tư thấy tôi còn lúi húi đút chiếc bô vào gầm sàn, y quát: - Bỏ chân vào, dềnh dàng mãi! Tôi vội vàng nhấc cùm và cho một chân vào. Trước khi chốt cùm, y còn thò cổ vào nhìn rõ chân tôi đã ở trong cùm chưa, y mới đóng và khóa cửa. Tiếng chân lão lạo xạo đạp lên những chiếc lá khô ngoài sân, xa dần ra phía cỗn. Lại im lặng. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng sột soạt của những chiếc lá khô theo từng cơn gió lăn lóc, trên sân gạch phía bên ngoài. Tôi đang đưa mắt nhìn toàn bộ căn buồng, đột nhiên một giọng ồm ồm cất lên: - Anh bạn buồng số 3 mới vào, khỏe không? Tôi ngạc nhiên, vểnh tai nghe, phán đoán. Tiếng nói phát ra từ mãi tít phía trong, chắc của một buồng nào đó. Vì tôi chưa nắm rõ, cho nên tôi chỉ ho một tiếng to như đáp lại, không trả lời. Trong ánh sáng tờ mờ, toàn bộ căn buồng cũng giống như bên xà lim II, chỉ khác ở miếng cửa sổ lớn phía sau đóng bè ra một cái khung gỗ, bọc kín cửa sổ, như một cái hòm không có đáy để không khí vào buồng. Có thể vì lâu ngày, những tấm ván co rút, nên hở từng khe rộng. Qua những khe hở này, tôi nhìn thấy bức tường Hỏa Lò là một trại giam lớn do Pháp nghiên cứu xây lên. Nhưng, đến tay Cộng Sản, vì chúng cũng đã từng đi tù nhiều, chúng đã thấy được những kẽ hở tù nhân có thể lợi dụng để liên lạc, gọi hỏi với tù nhân bên trong xà lim. Vì đầu óc tôi đang ngâm dầm trong “hũ” sầu đau não nề, nên tôi chẳng thiết suy nghĩ thêm. Nằm lịm dần vào đêm thâu nới nỗi niềm nghẹn uất, xen lẫn những tiếng thở dài khắc khoải chập chờn, mãi tới khi, tôi mơ màng nghe tiếng chìa khóa lẻng xẻng, tiếng cửa đóng ình ình, tôi mới dậy. Trời đã sáng tỏ. Quản giáo đã đến làm việc từ bao giờ, đang mờ cửa cho các buồng ra đổ bô. Không một tiếng nói. Chỉ có những tiếng đóng cửa, tiếng mở cửa, với những tiếng bước chân xèn sẹt nhiều lần, và lâu. Như thế, hầu như buồng nào cũng có người. Đến lượt buồng tôi. Sau khi được rút chốt cùm và mở cửa, tôi khập khiễng ôm bô nước tiểu đi ra. À, tên cán bộ Chiến. Tôi thấy y một vài lần những buổi tôi đi cung. Y là Thượng sĩ, người miền Bắc, thái độ và tác phong của y như một nhà quân sự: Lạnh lùng, ăn nói cộc lốc, đôi lúc có ánh mắt nhìn phớt đời, một nét hơi khác với những tên công an khác. Rồi cho đến lúc lấy cơm, cũng như trả bát của các buồng, tôi không hề nghe thấy một tiếng nói, dù nhỏ. Tất cả chỉ là những âm thanh của sự vật, những tiếng xèn xẹt vội vã của đôi bàn chân người, qua lại phía trước cửa buồng tôi. Những ngày sau đó cũng thế, ngày nào cũng như ngày nào, im lìm vắng lặng. Nhiều lúc, tôi cảm tưởng như đang ngồi trong một cái nhà mồ hoang vắng nơi nghĩa địa, tha ma, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Trời đã sang Xuân, nhưng cơn rét cuối Đông vẫn kéo dài. Vẫn còn những trận gió mùa Đông Bắc về muộn, đem theo những giá buốt hành hạ những kẻ khốn cùng. Ngón chân và ngón tay của tôi vẫn mọng đỏ, ngứa buốt đêm ngày. Những tháng trước đây, tôi chịu đựng một cách kiên trì bao nhiêu gian khổ, cùm kẹp, đói khát, đau đớn, nhưng trong tôi vẫn còn một niềm tin, một cái đích là Tổ Quốc miền Nam tự do của tôi, đang trên đà tăng trưởng một mặt: Kinh tế giầu mạnh, quần sự hùng cường, lòng dân thống nhất, để một ngày nào đó đè bẹp được lũ cộng đỏ bạo tàn. Cứu nhân dân miền Bắc khỏi cảnh tăm tối lầm than rên siết, đưa ánh sáng mặt trời đến khắp nơi trên nửa Bắc của Tổ Quốc Việt Nam thân yêu này, trong đó có tôi. Dù rằng, do những khắc nghiệt của cảnh sống tù đầy tôi có mất đi, vẫn còn ôm ấp trong lòng một niềm tin như vậy mà chết. Nhưng bây giờ, nhìn về miền Nam, tôi phải cụp mắt cúi đầu xuống. Một nỗi tủi hận len lén rỉ dần vào tim tôi. Trước đây, trái tim tôi đã chết một nửa vì tôi sa cơ vào bàn tay kẻ thù, phải bao nhiêu đắng cay uất hận, nửa đó đã đen xì, lạnh lẽo; nhưng, tôi vẫn còn một nửa đỏ, nửa này vẫn còn cuồn cuộn máu hồng tươi thắm, sôi sục ngày đêm, có cơ làm ấm lai cả một trái tim. Nay, nửa đỏ còn lại của trái tim đó đã dần dần đen xạm, hết sinh khí, hết nhựa đời…..Tư tưởng chết nhen nhúm dần, ám ảnh tôi suốt ngày đêm, cứ lởn vởn như một nghiệp chướng trói chặt tấm thân tàn. Đêm nay cũng như nhiều đêm trước, sau một giấc ngủ đầy khắc khoải với bao nỗi đắng cay của kiếp tù đầy, tôi mở mắt mệt nhọc ngồi dậy. Chẳng biết lúc này là giờ nào trong đêm, như thường lệ tôi lựa thế đúng một chân xuống đất, cúi xuống gầm sàn lấy cái bô lên, để chuẩn bị đi đại tiện. Vì ăn uống không đủ, lại còn bị cùm cứ phải nằm yên một chỗ, nên thường đi về đêm. Sau khi đã để cái bô lên sàn, đúng nơi thuận tiện nhất, tôi lựa nghiêng chiếc chân trong cùm, quỳ môt chân để ngồi lên bô. Trời vẫn lạnh như cắt da thịt, tôi khoác chiếc chăn, mặt nhăn nhó vì ngón chân, ngón tay bị cước, vì cạnh cùm đang nghiến vào ống xương chân, vì miệng bô đã nhiều chỗ rỉ sét hằn sâu vào hai bên mông, vì thế ngồi gò bó, người phải gù vẹo đi một bên, và vì táo bón…Cho nên, chừng 20 phút sau, quá đau mỏi, tôi dịch người để chuyển thế. Vô ý, cả bô phân và nước giải đổ nằm ra sàn. Còn người tôi lạng trượt, bật ngửa đầu xuống nền. Do cái chân trong cùm nên đầu tôi không thể xuống tới nền, nhưng cái chân bị cùm khứa mạnh đứt một miếng to, máu loãng chảy chan hòa. Lưng đập vào mép sàn đau điếng, mãi tôi mới bò dậy được. Chăn chiếu, quần áo đầy nước giải, đây đó dăm ba hòn phân trên chăn, trên sàn. Trời sét buốt như kim châm vào da thịt. Ôi! Kiếp tù, còn cảnh nào cay đắng hơn. Tay chân quần áo chỗ nào cũng nước đái. Chỗ cổ chân đau buốt, máu vẫn chảy, tôi chỉ biết lấy tay bóp hai mép đứt để đỡ chảy. Máu bây giờ loãng quá không đông được! Không có cái gì, một miếng giấy hay miếng vải để buộc cho máu cầm. Làm sao được nữa hả trời! Một tay nắm vết thuơng, một tay lật chiếc bô lên, rồi cũng chính mình phải bốc những hòn phân của mình vào bô. Tôi cố lựa thế nhấc cái bô xuống nền, rồi cũng phải dùng bàn tay để vét những vũng nước giải, trên sàn xuống dưới nền. Vì nước giải ướt, người tôi tự nhiên run lên cầm cập, hai hàm răng cứ canh cách đánh vào nhau. Thôi đành máu chảy kệ máu, tôi cố hai tay vắt chỗ chăn ướt, còn một khoảng khô, tôi cứ phải cuốn đại vào người cho đỡ lạnh đã. Nhưng, người tôi vẫn cứ run bần bật, không có cái gì là ấm cà. Cuộc đời nhiều lửa quá! Cho tôi xin một ngọn lửa đời, người ơi! Vết thuơng ở chân tôi, khi nãy máu đã ngưng chảy, nhưng bây giờ vì cái chân cũng run lật bật, làm vết thương rung động, máu lại rỉ ra. Cứ như thế này, tôi cũng chưa biết mình sẽ ra sao. Bỗng chiếc cửa con xoạch mở. Tôi chả nhìn rõ ai, vội vàng lập cập: - Báo cáo cán bộ…! Một giọng khàn cộc lốc: - Cái gì? - Thưa cán bộ, chân tôi bị thuơng, máu chảy ra không cầm được, xin cán bộ cho tôi một tí thuốc lào hao thuốc lá, tôi rịt cho cầm máu?... Tôi cố chỉ chỗ máu chảy, nhưng tôi biết ở vị trí chỗ cửa con như thế, không thể nào nhìn góc độ này được, nên tôi quệt một tay xuống chỗ máu dưới sàn đã đông tím lại, rồi giơ bàn tay đầy máu ra. Vẫn khàn khàn như tiếng ngan đực: - Làm sao bị thuơng? - Thưa ông, tôi đi ngoài ngồi trên bô bị trượt ngã….. Không một tiếng trở lại, cửa con đóng lại. Tôi cũng chẳng có thể đoán được người đó là ai, dù ngày mai tôi có gặp. Có thể, người đó không hút thuốc lá cũng như thuốc lào, đã phải đi xin người khác. Một hành động đúng nghĩa của tiếng “Người!” Trong những lúc thế này, thuốc lào, thuốc lá đắp vết thuơng là một thần dược. Chỉ một tí là cầm máu. Máu không chảy nữa, và hơi ấm trong người đã có chút ít, mặt sàn và chiếu cũng khô một chút, nên tôi thấy đỡ run, nhưng người tôi vẫn rã rời như sắp hết hơi thở. Không nằm được nữa vì chăn chiếu hãy còn ẩm ướt, tôi lấy chiếc vỏ ba lô vẫn gối đầu, giở ra trùm kín cổ, rồi ngồi nghiêng, dựa vào tường nhắm mắt chờ trời sáng. Tôi cứ ngồi nghe ngóng tiếng đêm thâu với cõi lòng đã rửa nát, tả tơi. Tôi nhìn thấy những ngày tới của đời mình, còn đầy rẫy chất chồng thương đau. Để bấu víu vào kiếp sống, tôi phải cố tìm một đốm lửa, dù là đốm lửa sắp tàn trong cái đêm đen dày đặc, cả bốn phương đều mịt mùng tăm tối này…..Nhìn lại suốt quá trình của đời mình, từng mảnh đời to nhỏ xê dịch đẩy xô, theo ngọ cuồng lưu của kiếp người: - Học hành không thành đạt; đời vẫn lang thang, dật dờ, tay trắng. - Nhiệm vụ bé nhỏ đất nước trao cho, không có tài, khả năng lại hèn kém, nên đã thất bại, rơi vào tay kẻ thù. - Đối với gia đình phụ mẫu, thiếu bổn phận làm con, làm anh. Chưa có một việc nhỏ nào gọi là đền công ơn trời biển, của đấng sinh thành. - Trước đây, khi còn ở Sài Gòn, thường tỏ với cơ quan và các linh mục mình là một thanh niên coi thường nguy hiểm, coi cái chết như một giấc ngủ. Nhưng trong thực tế, đêm hôm chúng đưa đi bắn, đã són đái toát mồ hôi ra. Như thế, rõ ràng là một người hèn, sợ chết. Đời một con người hèn kém tầm thường như vậy, có gì để đáng sống cho tốn cơm xã hội, cho chật chỗ loài người! Tuy đạo Công Giáo cấm ngặt con chiên tự tử. Nhưng, tôi đã cầu xin Chúa và Mẹ Maria quá nhiều rồi. Lòng tin của tôi đối với Chúa cũng khủng hoảng, tan hoang như lòng người dân miền Nam đối với chính quyền lúc này. Nhìn khắp bốn phương, tôi không còn một điểm nào để bấu víu, dù cho tạm bợ, để sống. Huống chi trước mắt, với sự hành hạ đày đọa của kẻ thù như thế này, trước sau, sớm muộn gì tôi cũng sẽ chết. Như vậy, tôi còn phải chịu nhiều khổ đau cay đắng, tủi hận nữa, rồi cũng chế! Như thế, quả là vô lý, uất ức! Tôi được sinh ra làm một con người giống như mọi người khác, tại sao tôi không có chủ quyền với bản thân tôi? Thượng Đế dã ban cho tôi cái quyền tối ưu thiêng liêng của con người là sự tự do. Cộng sản đã tước đoạt của tôi hết: từ miếng ăn, tấm áo, đến cả những động tác thong dong tối thiểu nhất của cơ thể. Chỉ còn sự sống của tôi. Quyền tối thượng này chỉ dành cho Chúa và tôi mà thôi. Vậy, Chúa ơi! Ở niềm tin này, con xin giành lấy chủ quyền sự sống của Chúa với con, khỏi tay lũ chó má vô thần. Con xin quyết định lấy sự sống của con. Sau bao ngày đêm đấu tranh tư tưởng gay gắt, cuối cùng, tôi quyết định từ giã cõi đời này. Chết trong lúc này là chiến thắng kẻ thù, là xóa sạch hết mọi vấn đề. Từ đấy, óc tôi dập dờn nghĩ đến bố mẹ, các em, họ hàng, bạn bè quen biết. Nghĩ đến các nhà bác học, những học giả, những nhân vật nổi danh. Có những người đã phải trải qua bao nhiêu năm công phu mệt mài học tập, nghiên cứu, bao nhiêu năm lăn lộn làm nên những sự nghiệp lẫy lừng có lợi cho dân, cho nước, cho xã hội loài người. Họ đáng muôn ngàn lần sống, lại lăn đùng ra chết, để lại tiếc thương cho nhân quần xã hội như: Quang Trung, Nguyễn Thái Học, Pascal, Kennedy, Khái Hưng, Hàn Mạc Tử, Bethoven, v.v… Họ đáng sống, cần sống, thì lại chết. Còn loại thấp hèn vô ích như tôi, cần chết thì lại sống. Nếu cái chết của tôi được thay cho những người ấy, cũng còn có chút ý nghĩa….. Đã quyết định rồi, bây giờ, tôi chỉ còn…..tìm cách chết! Tôi nhìn lên cái thế của chiếc cửa sổ phía sau. Tôi nhìn đến bộ quần áo sọc họ vừa phát cho tôi ngày 16 tháng 10 vừa qua, vải hãy còn bền tốt. Tôi nghĩ đến lão Kim già mắt lơ mơ, hay trực vào những ngày Chủ Nhật…..dần dần tôi hình thành một kế hoạch nhỏ để… chết!... Ngay hai ngày hôm sau, tôi bắt đầu thực hiện kế hoạch. Hàng ngày, lợi dụng những lúc cán bộ mở cửa, hay đóng cửa buồng cũng như cửa nhà tắm, có những tiếng xọc xạch ầm ầm, tôi xé quần ra thành những miếng dài dọc theo quần, mỗi miếng rộng độ 4, 5 phân. Vải còn tốt nên rất dai, lúc đầu tôi phải dùng răng cắn ra, rồi từ chỗ cắn mới xé được. Xé vào những lúc ồn ào có hai điểm lợi: có âm thanh che lấp tiếng xé vải, và chắc chắn nhất, là cán bộ đang bận mở hay đóng cửa, không thể rình ở chỗ cửa con. Rồi chỉ cần đánh một chiếc thừng dài độ 1 mét 20 đến 1 mét 40 là được rồi. Thế mà cũng phải mất hơn 4 ngày. Trong quá trình, lúc đi đổ bô cũng như lúc lấy cơm, trả bát, tôi đều phải cuốn trong người, bởi vì bất chợt cán bộ hay vào ngó buồng, đôi khi lục tung chăn chiếu khám xét, khi mình còn ở trong buồng tắm. Lúc bện thừng, tôi thường phải làm trong chăn, hoặc ngồi thế gập chân lên cùm, rồi quay phía trong sát góc, từ chỗ cửa con nhìn vào không thể nhìn thấy. Cửa con thường bất chợt mở chẳng có một quy luật nào. Hoặc, cán bộ có thể đứng bên ngoài rình nhìn vào mà không cần mở cửa con, theo một cái khe phía trên cửa nhỏ, để quan sát theo dõi được nửa buồng. Vì chưa quen đánh thừng, sau nhiều lần rút kinh nghiệm, cuối cùng, tôi đã có một chiếc dây dài 1 mét 40 phân, đánh loại thừng 3 sợi vặn rất săn, đường kính chừng 2 phân rưỡi, rất nhẵn nhụi bền chắc. Tôi luôn quấn trong người để hễ có thời cơ là thực hiện tiếp kế hoạch. Trong thời gian này, có hai lần gọi tôi đi cung. Cũng truy hỏi, cũng dọa nạt, cũng nhử mồi. Nếu những tên chấp pháp tinh ý, sẽ thấy tôi không còn những nét lo âu, sợ sệt, hoặc băn khoăn đấu trí như mọi khi, và nếu chúng sờ vào bụng tôi, sẽ thấy một cái dây to tướng đang được quấn chặt ở trong quần. Tôi còn gần một bao diêm, từ ngày nào Hà Tĩnh lấy đồ chôn, tên Thành mua cho, tôi vẫn giữ, hàng ngày tôi vẫn thỉnh thoảng lấy ra nhìn nhãn hiệu trên bao diêm, hình một anh công nhân đang cầm búa giơ lên cao, chẳng biết sẽ…nện vào cái gì? Tôi cũng thường lấy ra nhìn chiếc lược và bó tăm, trong đó vẫn còn “lõi” chì mật. Bây giờ, tâm tư của tôi lúc nào cũng như sắp giã từ cõi đời này. Tôi nhìn bất kỳ một cái gì cũng với ánh mắt vĩnh biệt, từ cái chăn, chiếc chiếu, cho đến đôi dép Thái Lan đã mòn, đứt một quai, cả chiếc lược sừng con duy nhất còn lại, khi còn ở Sài Gòn. Tôi cứ thường lấy những que diêm ra xếp thành chữ trên sàn: “Đặng Chí Bình chi mộ!” trong một cái khung hình chữ nhật cũng bằng que diêm, như mộ bia, rồi ngồi nhìn những chữ đó hàng giờ, với bao nhiêu nỗi đầy vơi của kiếp người. Trong cái tắc tị của tinh thần, tôi suy nghĩ đến thuyết luân hồi của nhà Phật. Tôi nhắm mắt, hình dung mơ màng, khi tôi chết đi, kiếp sau biết đâu tôi chẳng là vị tướng tài ba chỉ huy một đoàn quân hàng chục vạn người, đập tan lũ cộng thù, giải phóng đồng bào miền Bắc mà kiếp này, tôi đã không làm được. Hoặc biết đâu, tôi lại đầu thai làm con, của một trong lũ Bộ Chính Trị miền Bắc, lớn lên, chính tôi sẽ là người đào mồ chôn cái chế độ, gọi là xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Nếu tôi đầu thai là một phụ nữ, tôi sẽ là một cô gái hiền dịu, tôi sẽ khôn khéo đem cái sắc đẹp của tôi để phục vụ Tổ Quốc, phục vụ nhân dân, góp phần tiêu diệt lũ cộng thù của dân tộc. Nếu không, ít ra tôi cũng có một lập trường rõ ràng, là chỉ yêu và lấy những ai một lòng thực sự vì dân vì nước, trong lúc quê hương dân tộc đang hồi lầm than nghiêng ngửa như lúc này. Chứ, dứt khoát tôi không lấy những loại chỉ suốt đời lao vào công việc, cũng như học hành, đạt những bằng cấp cao để cốt vinh thân phì gia, quên hết cả giống nòi. Loại này, nói đến quê hương, Tổ Quốc, chỉ nói ở cái lỗ miệng, còn thực tế lại chỉ lo tranh giành địa vị, nấp dưới những bình thường này nọ để …..xui người khác ăn cứt gà. Những loại đó, đừng hòng! Bởi vì, chính thái độ của người phụ nữ có tác dụng huyền diệu giáo dục và nâng cao tinh thần của nam nhi rất nhiều. Ngược lại, cũng do thái độ của nữ giới đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người trai. Họ chỉ biết lăn xả vào tìm tiền và danh vọng để phục vụ…..phụ nữ. Tôi cứ hình dung, tưởng tượng, đặt giả thuyết là tất cả những người Việt Nam thân yêu của chúng ta, từ gia đình đến học đường, cho đến ngoài xã hội, ngoài những vấn đề giáo dục học vấn, phải hun đúc những người thanh niên thấy rõ trách nhiệm với quê hương dân tộc, nhất là khi đất nước gặp cảnh lâm nguy, lầm than…..và, riêng với nữ giới, ngay từ khi còn nhỏ trong gia đình cũng như trong học đường, đã được giáo dục uốn nắn, khích lệ để được trang bị một quan điểm, lập trường là chỉ yêu và lập gia đình với những thanh niên có lòng vì dân vì nước thực sự, đồng thời, phải biết khinh bỉ chán ghét những người thanh niên nào chỉ nghĩ đến mình, đến đại vị, đến phú quý giầu sang, dù quê hương tan tành, dù dân tộc có rên xiết thê lương. Mặt khác, ngoài xã hội, từ báo chí đến các phương tiện tuyên truyền, cũng như quan niệm trong quần chúng, bằng mọi khía cạnh, phải đề cao cổ vũ những người phụ nữ nào đó những hành động cao đẹp ấy, nêu lên những tấm gương chói sáng cụ thể bằng người thực, việc thực, v.v…..một cách đích đáng. Nếu được như vậy, tôi dám hy vọng rằng, chỉ trong một hay hai thế hệ là cùng, lúc đó thanh niên Việt Nam sẽ không thiếu gì người tài, không thiếu gì người lăn xả vào hiểm nguy khi vận nước gặp hồi nước sôi, lửa bỏng; và ngày mai của dân tộc ta, sẽ không thiếu những gương anh dũng, quyết tử vì Tổ Quốc như Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Hoàng Thụy Năm, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ v.v… Thế giới lúc đó, khi nói đến Việt Nam, sẽ phải nói với thái độ như nói tới nước Nhật hay Do Thái vậy. Hầu hết thế giới và chúng ta, khi nói tới dân tộc Nhật, thường chỉ chú ý tới tinh thần võ sĩ đạo của người Nhật là sẵn sàng chết cho quê hương, mà quên là người con gái Nhật đã góp phần chủ yếu để cho nhân dân Nhật có nét tự hào đó. Chúng ta, ai cũng thấy rất đon giản là, một người vợ miệt mài ra sức làm cho người chồng một bữa ăn ngon, nếu người chồng biết ca ngợi, đề cao đích đáng, hãy tin đi, sẽ có và còn nhiều bữa ăn như thế, hoặc hơn thế nữa. Ngược lại, người chồng lại thờ ơ, không có một thái độ, hay một lời nói để khen ngợi bữa ăn đó, lần sau it khi có; nếu còn có, người làm cũng chỉ vì ở cái thế bắt buộc mà thôi….. Óc tôi cứ chảy dài theo dòng suy tưởng vào một giấc mơ. Giấc mơ ấy, có lẽ cuối cùng cũng vẫn chỉ là…..một giấc mơ! Thân tôi hèn, chí tôi thiển; hơn nữa, vì hoàn cảnh bất hạnh đau thương của tôi, tôi đang muốn tìm đến cái chết để lìa bỏ cõi đời này. Chỉ mai kia, tôi đã về với cát bụi mây ngàn…..Trước khi trở về lòng đất mẹ, tôi chỉ biết kêu gọi những bậc Cha Anh, những nhân vật lỗi lạc, những người giầu có, người góp công, người góp của, cùng chung một mục đích để làm những việc này một cách tận tâm, tận lực, lăn xả cho mục đích, giấc mơ đó sẽ hiện thực được, và sẽ trở thành truyền thống yêu nước quên mình của quảng đại nhân Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Khi đó, hẳn là tôi không còn trên cõi đời này, nhưng, những uất khí không còn trong bộ xương nữa. Tôi mở mắt ra, như bừng tỉnh một cơn mê để trở về với thực tại. Tôi xoay lại thế ngồi, nhìn lên cửa sổ phía sau, từ mặt sàn xi măng đến mép dưới của cửa sổ cao độ 1 mét 50 phân. Bức tường dày 50 phân. Một hàng song sắt to tướng ở giữa, ngăn đôi cái độ dày của bức tường, phía trong 15 phân, phía ngoài 35 phân. Một lượt lưới thép ép sát phía trong song sắt. Lưỡi thép đan thành những lỗ hở vuông mỗi bề 3 phân. Tôi xoay lại thế ngồi khác để nhìn cái chân trong cùm. Vì muốn tạo điều kiện cho kế hoạch ngày tới, từ hàng nửa tháng trước, tôi đã lấy cái quần đùi rách, quấn chân tôi thành một cục như một cái tổ. Mỗi lần mở cùm thay chân, tôi chỉ việc rút ra rồi lại đút chân kia vào. Cá biệt, có tên cán bộ cẩn thận, trước khi đóng chốt cùm, còn vào nhìn kỹ, khi trông rõ cái chân tôi nằm trong cùm rồi, mới chịu ra đóng chốt, và đóng cửa. Bốn Mươi Hai Chạm Mặt Tử Thần Chờ mãi rồi thời cơ cũng đến. Hôm ấy là Chủ Nhật. Chiến, cán bộ trực xà lim nghỉ, một cán bộ khác vào thay thế trực ngày Chủ Nhật. Thực là trời giúp để tôi thực hiện được kế hoạch. Gần 8 giờ, tôi nghe tiếng mở cổng xà lim, tiếng chân nhè nhẹ và tiếng chùm chìa khóa lọc xọc. Khi vào tới bàn trực, tiếng xô ghế, rút ngăn kéo bàn, rồi đóng lại, tiếng ném chùm chìa khóa lên bàn, tiếng khì khì thở lúc nặng, lúc nhẹ. Không sai vào đâu nữa, đúng lão Kim già rồi! Lão này, phần vì già phải đeo kính trắng, mắt nhìn tơ lơ mơ; nhưng phần chính, so với các tên công an khác, lại tương đối dễ tính. Có lần, y trông thấy một người đứng lên sàn nhìn ngoài, lại chỉ mắng và giáo dục mấy câu chứ không cùm. Cũng vì thế, hôm nào lão trực, hết buồng này báo cáo hỏi cái này, lại tới buồng kia hỏi cái khác, xà lim hôm ấy có vẻ rộn ràng hẳn lên. Lại còn điều này cũng rất đặc biệt, khác hẳn với những tên công an ác ôn kia, trước khi mở cửa cho các buồng ra đổ bô, lão đi mở cửa con suốt một lượt, thấy buồng nào bị cùm là cúi xuống rút chốt cùm ngay. Rồi cho tới khi tù ra đổ bô, lấy cơm ăn, xong lúc trả bát vô, bấy giờ lão mới cùm lại. Buổi chiều cũng như vậy. Tôi suy nghĩ mãi vẫn chưa hiểu vì sao lão có lòng rộng rãi với người tù như thế. Có thể lão đã già rồi, trông lão phải hơn 60 tuổi; đầu lão tóc đã bạc hơn một nửa, mà lão chỉ có cái lon Thượng sĩ. Lão sắp sửa xuống lỗ, trong tâm tư chắc lão muốn có chút phúc đức để khi chết được thanh thản. Phần khác, theo tên Tân nói, lão là cán bộ lưu dụng, đã là cai tù ở Hỏa Lò. Vì thế, thời 1954 trở về nước, cũng có thể khi ấy, những tên Cộng Sản bị tù mua chuộc và lợi dụng lão, rồi kết nạp lão vào tổ chức. Như vậy, lão đã có nhiều thời gian sinh hoạt, giao tế trong quỹ đao quốc gia, đã thấy được lẽ thiện ác, ân oán ở đời. Bây giờ, 10 năm sau, cũng vẫn…coi tù, thực tế cũng vẫn là anh cai tù. Hơn nữa, hẳn phần nào lão đã thấy được thực chất cái chế độ mà trước đây lão tưởng bở. Cho nên, cuối cùng lão tự hiểu là trong đời: Ở hiền gặp lành; càng khôn ngoan lắm, càng oan trái nhiều. Dầu sao, đây cũng chỉ là sự suy đoán của tôi về lão, trong khi thiếu cơ sở cụ thể, vì vậy, chưa hẳn đã là đúng. Cửa mở, đến lượt buồng tôi đi đổ bô. Tôi ôm bô vào nhà tắm, thoáng nhìn bộ mặt lão, lòng tôi dâng lên một mối băn khoăn. Hôm nay, tôi sẽ phải lợi dụng cặp mắt kém và tính tốt của lão. Nếu thực hiện được mục đích của mình, lão sẽ phải bị kiểm thảo tơi bời, có khi còn bị kỷ luật hoặc hạ từng công tác nữa. Lương tâm tôi áy náy, thấp thỏm. Nhưng, tên cán bộ Chiến, trực chính xà lim, đầy khôn ngoan, quỷ quái, xem chừng tôi không thể lừa y được. Còn tên Điền, phụ trách việc nhận quà tiếp tế của thân nhân tù, và tên Bằng “mắt lồi” vẫn không kém phần tinh quái. Chỉ còn có lão Kim già này thôi. Đành vậy! Chẳng lẽ chỉ vì những suy nghĩ về lương tâm vụn vặt “tiểu tư sản” đó, lại bỏ cả mục đích của mình sao? Vì thế, ngay từ lúc trưa, tôi lấy chiếc ba lô vẫn gối đầu, gấp cuốn lại thành một đoạn dài, thay cho khúc chân từ đầu gối xuống cổ chân. Buổi chiều, khi lão Kim đến rút cùm cho tù nhân đi đổ bô lấy cơm. Trong khi chờ đến lượt buồng mình, tôi tập thử mấy động tác cho thực nhanh, nhuần nhuyễn, hầu như chỉ trong một phút; cởi quần, co một chân vào sát mông, mặc quần, ngồi ngay vào sàn. Lấy cái ba lô đã buộc sẵn, đút vào chỗ ống quần không có chân, để nối với cái túi vẫn đút bàn chân mọi khi. Làm đi làm lại hai, ba lần cho thuần thục. Từ sáng, tôi đã để ý khi lão mở một buồng nào cho ra trả bát, múc nước (ở thùng nước đặt tại mé hè chỗ bàn trực) lão thường ra theo, ngồi vào bàn, có khi cầm chùm chìa khóa đập chơi xuống bàn, có khi mở sổ trực ra nhìn. Dáng điệu chậm chạp, cho tới khi tù cầm gáo nước đi vào buồng, bấy giờ từ bàn lão mới đứng dậy, đi theo vào đóng và khóa cửa. Thời gian từ bàn lão đi theo tới cửa buồng khoảng hơn một phút. Thừa sức để tôi làm những động tác đã thực tập. Gần 4 giờ chiều, đến giờ lão mở các buồng cho trả bát, tôi cũng hơi hồi hộp. Lão mở buồng số 1. Chẳng hiểu buồng số 1 báo cáo hỏi lão cái gì, một lúc lâu đến 5 phút, lão mới đóng cửa cài then và khóa. Buồng số 2 từ hôm tôi đến không thấy mở cửa bao giờ, vậy là không có người. Rồi cửa buồng tôi mở. Tôi lấy dáng đi chậm chạp. Lúc đặt bát cũng như khi múc nước, tôi liếc nhanh, thấy lão ngồi vào bàn, rút ngăn kéo đang lục tìm cái gì. Tôi trở vào buồng. Hơi căng thẳng, tôi làm rất lẹ, trong khi tai vểnh lên nghe tiếng bước chân lão. Tôi vừa hoàn thành xong, và lấy cái chăn khoác lên người thì bước chân lão đi vào. Khi tới buồng tôi, lão thò cổ vào buồng nhìn tôi một lúc, rồi nhìn chân tôi. Tim tôi hơi thắt lại. Tại sao lão lại nhìn tôi lạ lùng thế? Tôi vẫn ngồi yên như vậy, chờ cho lão mở hết các buồng…..Rồi đợi đến 5 giờ, một tên cán bộ khác đến nhận thay “ca”, đi mở các cửa con kiểm tra…..Mãi đến 6 giờ, xà lim mới trở về yên tĩnh, vắng lặng. Từ chiều, bao nhiêu tâm tư, trí có mải tập trung để thực hiện xong bước đầu của kế hoạch, bây giờ tôi như mới hoàn hồn, trở về với nỗi đầy vơi của kẻ sắp giã từ cõi đời. Tôi ngồi gục đầu rũ rượi, ngụp lặn trong một trời khổ đau, uất hận. Óc tôi cứ bập bềnh nổi trôi trên giòng sông thê lương. Trước đây, tôi từng nghe nói đến những người chán đời tự tử, mỗi người mỗi tình huống khác nhau. Còn tôi, tôi vẫn tha thiết với cuộc đời, tôi không chán đời, lòng tôi vẫn khao khát với cuộc sống con người. Nhưng, chỉ vì một cái thế, điều kiện hoàn cảnh đã dồn tôi đến chỗ phải xa lìa cuộc sống. Yêu thuơng đời tha thiết, mà phải xa lìa! Một nỗi đau dầy vò, cấu xé dâng lên đè tôi gục xuống sàn, lịm dần vào đêm thâu… để chờ giờ khởi sự. Đêm khuya im vắng, thỉnh thoảng một tiếng rên rỉ vọng lên từ một buồng nào đó. Đôi khi một tiếng rú giật lên, dài lê thê vang vào đêm trường của một ai đó, chắc trong một cơn ác mộng hãi hùng. Lúc này, chắc hẳn 1, 2 giờ khuya, có tiếng bước chân lạo xạo bên ngoài, phía sau xà lim. Có lẽ là tiếng bước chân của một tên công an vũ trang đi tuần tra. Tôi bò dậy, cởi cuộn thừng, tôi vận cuốn chung quanh bụng ra, giấu dưới chân. Tôi tìm bó tăm, cởi ra, lấy sợi ny lông “chì mật”. Tôi muốn mẩu “chì mật” này sẽ theo tôi về lòng đất, vì thế, tôi đút sâu vào hậu môn. Tôi đang loay hoay đút mẩu “chì mật” thì thoáng nghe có tiếng bước chân, động lá khô ngoài sân xà lim, tôi vội vàng nằm xuống, lấy chăn đắp che kín cả người, cả cùm, chỉ để hở cái mặt. Một lúc, cửa sổ nhỏ bật mở. Như vật là một tên cán bộ đến thay “ca” trực. Cứ hai tiếng một “ca”. Tôi lại bò dậy, lấy cuộn dây dưới chăn ra. Trước hết, tôi thắt chặt nút một đầu dây, rồi lại buộc thanh một nút tuột thòng lọng. Vừa buộc, tôi vừa nhìn lên hàng song sắt ở cửa sổ là một mét rưỡi. Từ mặt sàn xuống đến nền nhà là 60 phân. Như vậy, từ mép dưới của cửa sổ xuống tới mặt nền là 2m10. Tôi hiểu, thường thường người ta muốn thắt cổ tự tử, phải làm sao khi đã thắt rồi, dù muốn cởi ra cũng không được nữa. Bởi vì, con người ai cũng thế, khi sắp tắt thở, do phản xạ tự nhiên, không còn theo ý định của mình nữa, sẽ tìm mọi cách để thở. Như vậy, việc thắt cổ ấy sẽ khó thực hiện được, nếu tôi đứng trên sàn, buộc dây lên song cửa sổ, rồi đạp chân cho người treo lủng lẳng xuống nền nhà, lúc đau đớn vì không thở được, tôi sẽ vùng vẫy với hai tay lên mép cửa sổ, để kéo người lên; hoặc dạng hai chân ra để đứng vào hai sàn bên, làm sao chết được. Vì thế, tôi phải trèo lên mép cửa sổ, rồi thắt theo lối chuyên môn đặc biệt do nghề nghiệp dạy cho, mới hy vọng…..chết được! Trong lúc lúi húi buộc dây, tôi nhìn sợi dây oan nghiệp sẽ kết liễu đời mình. Một niềm xúc động tự nhiên trào vào lòng. Hình ảnh mẹ tôi hiện ra nhìn tôi đăm đăm Rồi hình ảnh bố tôi, các em tôi. Tôi nghĩ đến Cục Tình Báo miền Nam. Nghĩ đến miền Nam thân yêu cách xa vời vợi…Tôi khóc. Không phải vì tôi sợ chết (chứng tỏ tôi đang tìm đến với tử thần). Cũng không phải tôi tiếc thương cõi đời này. Đó chỉ là những giọt lệ tủi hận, của một kiếp người chết trong tăm tối, âm thầm uất nghẹn. Rồi đây, không một ai của miền Nam, kể cả bố mẹ và các em tôi, biết là tôi chết trong tủi hận thế này. “Xin bố mẹ tha tội cho đứa con bất hạnh này!” Tôi lẩm bẩm, quỳ lên, hướng về miền Nam lạy 3 lần, xin vĩnh biệt cuộc đời!... Tôi đứng lên, thọc một đầu dây vào lưới thép, thắt thật chặt vào chân một cái song sắt. Tôi trèo lên cửa sổ. Ngoài mối thòng lọng, bên trên tôi thắt một nút nữa. Nút này tôi chỉ thắt hờ một lần, để nếu kéo mạnh hai đầu, dây sẽ rút chặt lại. Tôi leo hai chân lên như ngồi xổm ở mép cửa sổ. Tôi đút đầu váo cái mút thắt hờ phía trên. Hai tay quàng xuống phía dưới hai đầu gối, rồi đút vào cái thòng lọng và rút buộc chặt hai cổ tay lại. Lúc này, tôi chỉ cần đẩy nhẹ cho người lạng ngã ra là xong. Khi ấy, nút thòng lọng đã buộc chặt hai tay mình, muốn rút ra cũng không được nữa vì cả sức nặng của cơ thể. Hai chân càng đè nặng hai tay, sẽ rút chặt cái nút ở cổ. Vì sức mạnh của cơ thể, càng giẫy dụa, nút ở cổ tay càng chặt và nút ở cổ càng rút vào. Lúc này, người tự tử không muốn chết nữa cũng đành phải gặp tử thần để về lòng đất thôi. Trừ khi…..có người khác cứu. Chỉ 5 phút ngồi trên mép cửa sổ, tôi đã làm xong tất cả, chỉ cần đẩy nhẹ người ra một cái là xong hết mọi chuyện! Bỗng, một tiếng quát to vang lên trong đêm khuya, ngay dưới cửa sổ, phía đàng sau xà lim: - Anh kia! Trèo lên đó làm gì đấy! Tôi giật mình, vội hất người ra lao xuống nền, đầu thoáng nghĩ: Chỉ mười phút thôi! Nghĩa là chỉ trong 10 phút, không còn cứu được nữa. Tôi chỉ thấy cổ mình bị giật mạnh, rồi đầu tôi nóng ran như lửa đốt. Và, tôi không biết gì nữa… Hết tập I Tuyệt vọng sau cuộc đảo chính giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tác giả đã tự treo cổ trong tù để kết liễu đời mình. Cái gì đã khiến ông sống lại; để tiếp tục giai đoạn dở sống dở chết trong lao tù Việt Cộng? Xin xem tiếp Hồi Ký Thép Đen tập II. |
|
|
![]()
Post
#45
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
T H É P Đ E N
Tập II (Chương 43 -- 82) Bốn Mươi Ba Chưa dứt... nghiệp!... Mãi tới khi thấy mũi cay xè, tôi mở mắt thấy lố nhố mấy người, rồi tôi cứ nấc lên, và không thở được nữa. Tôi lại mê man. Đầu tôi vẫn nóng như nung, và như vang vang một hồi còi ai thổi rất dài, đôi lúc ngân nga như tiếng sáo diều…..Rồi tôi tỉnh lại. Mãi một lúc lâu, tôi mới nhìn rõ một người mặc quần áo xanh đang đè chặt ngực tôi. Tôi cảm thấy khó thở. Cố gắng lắm, tôi cũng chỉ thở được khò khè. Bây giờ, tai tôi mới nghe được tiếng người nói, nhưng rất nhỏ: - Sống rồi! Người mặc quần áo xanh mặt trắng trẻo, chừng tuổi tôi, cầm tay tôi và nhìn tôi với một vẻ đầy thuơng cảm. Anh ta cúi sát tai tôi nói: - Đừng dại mà tự tử. Hãy cố gắng mà sống! Tôi muốn với anh ta lời cảm ơn, nhưng tôi không nói được, chỉ đưa mắt nhìn anh ta với vẻ biết ơn. Một lúc sau, tôi thấy một người mặc áo “blouse” trắng ôm khay thuốc đi vào. À, ông Huệ y tá. Ông ta cầm chiếc ống nghe trên khay thuốc đeo vào tai, rồi vạch ngực áo tôi lên, đặt ống nghe chỗ này, chỗ khác. Lúc này tôi đã nghe rõ hơn chung quanh, có hai tên áo vàng là tên Nhiễm vẫn trực xà lim III và tên Kế trực ở ngoài trại chung. Tên Kế tay đang cầm sợi dây thừng bằng vải của tôi, một phía đầu dây có vết cắt. Y tá Huệ nghe ngực tôi một lúc, rồi lấy một gói thuốc gì, bột vàng vàng đổ vào một chiếc ly nhỏ cùng với một chút nước còn lại, trong cái gáo dừa ở buồng tôi. Y quấy một lúc rồi đổ vào miệng tôi, dịu giọng: - Anh uống cái này đi! Cổ họng đau quá không nuốt được, nên tôi chỉ nhấp từng ngụm nhỏ. Ly nước chỉ có một chút mà tôi uống mãi mới hết. Mùi thuốc gì hăng hăng như mùi rau cải bẹ xuống. Sau đó, y lấy chai dầu nóng, dùng bông xoa chung quanh cổ của tôi. Vừa xoa, y vừa nói: - Anh chết thiệt thân anh thôi! Đừng nghĩ quẩn mà dại như thế! Tôi nằm nghe, chẳng muốn nói gì. Vả lại, cũng không nói được. Một lúc sau, chúng ra hết và đóng cửa buồng lại. Lúc này trời đã sáng! Phần đau, phần mệt, tôi lại lịm đi lúc nào không biết….. Mãi tới khi nghe tiếng người gọi, tôi mở mắt ra, trời đã sáng rõ. Tên Chiến, cán bộ trực xà lim, quắc mắt nhìn tôi: - Hôm qua, anh dám đánh lừa cán bộ Kim rồi thắt cổ hả? Tôi nhìn y nhưng không nói được. Y có vẻ bực tức, một lúc, có lẽ hiểu tôi không nói được vì thấy cái cổ sưng to lên của tôi. Y trở ra đóng cửa, và mở các buồng cho ra đổ bô. Đến khoảng 9 giờ, cửa lại mở. Lần này là tên Trì, Thượng Úy Phó Giám Thị và tên Chiến đứng sau lưng y. Tên Trì với giọng miền Trung nặng chịch: - Anh định tự tử theo chân Ngô Đình Diệm? Tôi nhìn y, lắc đầu. Y cười nửa miệng, nói với giọng giễu cợt: - Anh muốn trung thành với Ngô Đình Diệm, anh ôm bí mật xuống lỗ để báo cáo với y hỉ? Thái độ của lão thật đểu cáng, tôi quay mặt vào phía trong nằm im. Trước khi ra, y còn quay lại đe: - Rồi đây, đến lúc muốn sống cũng không đuợc sống! Tôi hiểu, với cộng sản, dù tòa án của chúng đã xử anh tử hình và chờ ngày đem bắn, anh tự tử chúng cũng vẫn cứu sống, để rồi chính chúng thi hành bản án. Chúng muốn bóc lột cả chủ quyền thiêng liêng nhất là sự sống, quyền sở hữu sơ đẳng của con người. Huống chi, tôi vẫn còn đang trong thời gian bị khai thác. Chúng phải cần tôi sống để moi chứ. Cả buổi sáng hôm ấy, chúng không cho tôi ăn uống gì. Vì thế, tôi càng mệt lả, nằm li bì mãi tới chiều. Tới giờ cơm, tên Chiến mới mở cửa, nhìn tôi quát: - Bò dậy, ra lấy cháo! Cả người mệt lả vì đau và vì từ chiều hôm qua tới giờ không có gì trong bụng, tôi cố gượng dậy mà mắt hoa lên. Nhưng, tôi hiểu là nếu không cớ gắng ra lấy cháo ăn, càng đói càng khổ mình, chứ chúng không bao giờ bưng vào cho. Những người tù hình sự làm việc bưng thùng cơm ở ngoài kia thì lại không được phép trông thấy người trong xà lim, nên chắc chắn chúng cũng không cho mang giúp vào. Tôi chập choạng đứng lên, tưởng muốn ngã. Cổ tôi sưng to, không quay đi quay lại được. Tôi vịn sàn, vịn cửa, rồi hai tay lần theo tuờng lảo đảo, chậm chạp ra chỗ lấy cơm. Tới nơi, tôi thấy chỉ là một bát nước cháo. Tôi cảm thấy mệt quá, ngồi bệt ngay xuống hè, cố nâng bát cháo lên húp. Thấy mằn mặn, chắc có pha ít muối. Tên Chiến không muốn mất thì giờ, định giục tôi mang bát cháo vào trong buồng, nhưng khi nhìn thấy tay tôi bưng bát cháo húp còn run run chực đổ xuống nền mấy lần, nên y chỉ thúc: - Mau lên! Vì bụng đói, tôi cố gắng húp. Nhưng, cái cổ đau, cuống họng của tôi bây giờ hình như bé đi, tôi chỉ húp được từng chút một, và mỗi lần nuốt xuống như có mảnh chai cào vào cuống họng, rát như bỏng. Phải đến mười lăm phút sau, tôi mới húp hết bát cháo. Tên Chiến tỏ ý rất bực bội, tôi vừa bỏ bát xuống, y đã cộc lốc: - Vào! Tôi lại chậm chạp đứng lên, lần theo tường lảo đảo vào buồng. Hai ngày húp nước cháo, rồi sau đó ăn cháo 3 ngày. Bây giờ, tay trái của tôi bỗng dưng xuội hẳn ra như bị liệt; còn phía trên đỉnh đầu, suốt ngày đêm cứ cắn như kim châm. Tôi hiểu rằng đây là những phản ứng hậu quả của cơ thể vì việc thắt cổ tự tử. Ngay ngày thứ ba, khi bắt đầu được ăn cháo, chúng đã bắt tôi bỏ chân vào cùm rồi. Tâm trạng tôi lúc này thực buồn nản ghê gớm. Đúng là cái nghiệp mình phải trả, chưa dứt được. Muốn chết cũng không xong! Bây giờ, lại mang bệnh đau óc và xuội tay. Sống như thế này, còn khổ biết chừng nào! Tôi nằm nhớ lại hôm tôi thắt cổ, và suy đoán qua những hiện tượng lúc đó. Phải rồi, khi tôi trèo lên mép cửa sổ, chắc chắn là ánh đèn điện giữa trần của căn buồng, đã chiếu bóng tôi xuống lối đi phía chân tường, sát bên ngoài buồng giam (nhưng vẫn là bên trong Hỏa Lò). Một tên công an vũ trang thỉnh thoảng đi tuần tra bên ngoài, phía sau xà lim, hoặc đang đứng canh trên một vọng gác gần đó, giữa đêm khuya vắng lặng, thoáng thấy một bóng loay hoay ở cửa sổ, hẳn y nghi là có tù đang chuẩn bị tìm cách trốn, nên đã bí mật theo dõi và tiến sát gần cửa sổ. Lúc bấy giờ, một phần do tâm trạng của một kẻ sắp lìa bỏ cõi đời, chẳng quan tâm đến những sự việc chung quanh nữa; phần khác, vì tôi không có định trốn, nên tôi chỉ chú ý đến việc thực hiện “kế hoạch” tự tử của mình mà không để ý gì đến sự việc bên ngoài. Vì vậy, tôi đã không phát hiện kịp. Sau khi theo dõi một lúc, thấy tôi loay hoay với thừng dây tròng vào cổ, y đã đoán được ý đồ của tôi nên quát hỏi. Rồi mặt khác, y chạy ngay vào báo cho cán bộ. Rồi, có lẽ y cũng theo cán bộ vào buồng tôi. Như thế, y phải là cấp chỉ huy của công an vũ trang, và phải quen biết cán bộ quản giáo, y mới vào buồng giam đặc biệt này được. Vậy, tên mặc quần áo công an vũ trang “màu xanh” vuốt ngực tôi và nhìn với vẻ thiện cảm chính là người đã quát tôi bên ngoài cửa sổ chăng? Nghĩ lại, tôi không biết nên trách vì mình không chết được là tại y, hay cảm ơn vì còn sống được là nhờ y? Bần thần một lúc, tôi thấy trong lòng mình như dâng lên một mối thiện cảm với y. Do từ một bộ óc còn chút tình người, từ một trái tim vẫn còn đỏ máu tươi nhân đạo trong chế độ đã hết tình người. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, anh vẫn là một cây sen quý. Vậy mà, tôi chả biết anh là ai, dù mai đây có gặp lại! Tóm lại, từ ngày vào Hỏa Lò tới nay, đã ba lần tôi đến sát với cái chết. Chúa, Trời vẫn bắt tôi phải sống để nhận những đắng cay, tủi nhục của một kiếp lao tù. Sau 5 ngày ăn cháo, cổ tôi dần dần đỡ đau, bây giờ, tôi đã nói được, nhưng vẫn khào khào như con ngan đực. Người tôi đã đói rã rời triền miên vì 5 ngày ăn cháo, nên cơ thể càng cồn cào, mệt mỏi. Tuy nhiên, một điều làm tôi phấn khởi hơn là nhờ sự tích cực tập cử động, cánh tay trái của tôi từ từ đã đưa lên đưa xuống được; sau nhiều lần dùng tay mặt giúp sức đưa lên đưa xuống. Có hưng phấn một chút vì tay trái cử động được, thì lại lo âu thêm vì cái đầu ngày càng nhức nhiều hơn. Cái bệnh đau đầu này làm tôi lo sợ không ít. Ngày thứ 6 kể từ ngày tự tử hụt, tôi bắt đầu được ăn cơm. Bây giờ, bữa cơm thường rất lâu, vì tôi phải nhai thật kỹ từng miếng nhỏ. Tên Chiến thông cảm, nên tới giờ trả bát, y mở hết các buồng khác trước, rồi sau cùng mới mở buồng tôi. Chiều hôm đó, tên Chiến mở cửa gọi tôi ra bàn trực. Tôi không biết sẽ có chuyện gì. Sau khi bảo tôi ngồi, y nghiêm mặt, lạnh lùng: - Hôm chủ nhật vừa qua, anh đã đánh lừa cán bộ, do vô tình đã không cùm anh. Rồi anh xé quần áo trại đánh thừng, đang đêm tự tử. Anh đã vi phạm trầm trọng nội quy xà lim. Hôm nay, tôi gọi anh ra đây, cho phép anh viết kiểm điểm. Anh chuẩn bị ra sao, đánh lừa cán bộ thế nào, vì sao anh định tự tử?.....Tùy theo bản viết kiểm điểm của anh thành khẩn trình bầy và nhận khuyết điểm đến đâu, cách mạng sẽ theo đó để có biện pháp xử lý. Nói xong, y mở ngăn kéo rút ra 3 tờ giấy trắng, đưa một cây bút với lọ mực cho tôi, rồi chỉ vào cái ghế: - Hãy đem ghế ra góc sân kia ngồi viết! Tôi đem cái ghế ra góc sân như y bảo, rồi ngồi bệt, ghệ xuống hè, để giấy lên mặt ghế làm bàn. Nội dung chính tôi viết: Tôi xác định là có tội với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bởi vì rõ ràng tôi đã xâm nhập vào Thủ Đô Hà Nội. Nhưng, vì có lòng thích xã hội chủ nghĩa, nên tới Hà Nội tôi đã không hoạt động gì cho chính quyền miền Nam cả. Khi bị bắt, tôi đã thành khẩn khai báo tất cả sự thực ngay từ đầu. Nhưng, đã gần 2 năm rồi, tôi vẫn bị cùm kẹp ở trong xà lim. Nghĩ rằng trước sau cũng chết và quá đau thương tủi hận vì nhà nước và cách mạng không hiểu cho lòng thành thực của mình, nên tôi đã tìm cách tự tử. Còn sống ngày nào, thì chỉ là những ngày tâm tư bị dằn vặt khổ đau, v.v… Tôi đang viết, bỗng nhiên có tiếng đập vào cánh cổng xà lim thình thình. Tên Chiên ngồi ở bàn hất tay bảo tôi: - Vào ngay nhà tắm, đóng cửa lại! Tôi hiểu là có người đi cung được cán bộ giong về. Ở xà lim, tù nhân khác buồng không được phép nhìn thấy nhau. Một lúc, chắc hẳn đã đưa tù đó vào buồng rồi, tôi nghe tên Chiến nói to: - Nhà tắm ra đi! Có lúc cũng đang viết, cán bộ vào gọi buồng nào đó đi cung, tôi cũng lại phải chạy vào nhà tắm….. Tuy ngồi viết, nhưng tâm tư tôi cũng đầy vơi với bao nhiêu nỗi niềm của cuộc đời. Nhìn những tảng mây trắng đang lững lờ theo gió bay về phương Nam xa xôi, lòng tôi như muốn nhắn nhủ, gởi gắm nỗi nhớ thương chất chồng đang đầy ắp trong tôi về phương trời bên ấy. Một đàn sẻ năm, sáu con vụt sà đáp xuống phía cuối góc sân, nhảy nhót tung tăng, ríu rít chuyện trò với nhau. Sân xà lim vắng lặng đìu hiu, làm gì có đồ ăn cho chúng. Chỉ có những đám rêu xanh mọc bám dài theo chân tường. Chúng thi nhau mổ lấy, mổ để, chẳng hiểu món ăn của chúng là những ngọn rêu xanh, hay những chú côn trùng trong đám rêu xanh ấy? Tôi chợt nhớ lại những đoạn đời ấu thơ nơi quê nhà. Bạn bè dăm ba đứa cũng nhảy nhót tung tăng suốt ngày. Bây giờ, tôi ngồi đây, trong cảnh này! Một tiếng thở dài nhè nhẹ lê thê như tự xót thương cho số phận của mình! Ngày ấy, nay còn đâu! Mùi rêu xanh ẩm mốc, mùi của những chiếc lá bàng khô, và mùi cống rãnh xông lên, tất cả quyện lại thành một thứ mùi hăng hăng, nồng nồng như mùi của một ngôi chùa hoang, hay miếu cổ. Càng làm tăng lên sự tịnh mịch hoang vắng của xà lim. Mặc dù nơi đây nằm giữa thủ đô Hà Nội. Đầu tôi lại tự nhiên cắn nhức, tôi viết đại cho xong, rồi đưa nộp cho y. Lúc đó, cũng đã gần hết giờ buổi chiều. Sáng hôm sau, vừa đến giờ làm việc, cửa buồng tôi đã xịch mở, tên Chiến tay cầm một tờ giấy, nhìn tôi lạnh lùng: - Anh hãy nghe lệnh kỷ luật của Ban Giám Thị: “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – Bộ Công An Lệnh kỷ luật Tên: Đặng Chí Bình xé quần trại, đánh lừa cán bộ, vi phạm trầm trọng nội quy xà lim. Nay quyết định: Cùm hai chân trong thời gian 7 ngày. Kể từ ngày…..tới ngày….. Ban Giám Thị trại, Phó Giám Thị Lê Trì.” Chao ôi! Lại cùm ư! Cổ tôi hãy còn sưng, tiếng nói của tôi còn chưa rõ, đầu tôi vẫn đau nhức như kim châm mà không có thuốc, bây giờ lại cùm hai chân! Tuy nói chỉ 7 ngày, nhưng như những lần trước đây, làm sao tôi tin được, mà sống cũng không sống được! Y trở ra, rút chốt cùm, và bắt tôi bỏ cả 2 chân vào. Như cái xác không hồn, như cái mày, tôi theo lệnh hắn cho thêm chân nữa vào cùm….. This post has been edited by Violet: Jun 5 2008, 08:53 PM |
|
|
![]()
Post
#46
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Bốn
Đường dây tài liệu “M”... bị lộ?... Mùa hè thứ hai đã bắt đầu. Chúng đã thu chăn lại. Tuy trời chưa nóng, nhưng muỗi đã mỗi ngày một nhiều. Tôi nằm vật ra, nhắm mắt, để mặc cho giòng tư tưởng tràn dâng như sóng biển sầu. Tôi chợt nghĩ đến cái biên bản kỷ luật mà tên Chiến đọc. Chúng chẳng nói tới chuyện tôi xé quần để làm gì. Tôi xé quần áo đánh thừng tự tử! Vậy mà trong biên bản, chẳng có một câu nào, hay một ý nào nói đến việc tự tử của tôi cả. Trong dạ cũng hơi băn khoăn, nhưng thôi cũng mặc, chúng muốn nhào nặn thế nào kệ chúng. Thâm mình bây giờ, có còn là của mình nữa đâu! Đầu tôi cứ cắn nhức không thể chịu được. Nó như muốn nổ tung ra. Không thể nào nằm yên được nữa, tôi chống tay bò dậy, lấy hai tay đập đập vào đầu. Tôi đã báo cáo với tên Chiến mấy ngày nay, nhưng vẫn chả có viên thuốc nào, cũng chẳng thấy mặt mũi y tá đâu. Suốt cho đến chiều tối, tôi không thể nằm được, ngồi lên thì đầu đỡ nhức hơn. Nhưng, ngồi mãi hai chân mỏi rừ trong cùm. Tôi rũ rượi dựa vào tường, cố gắng chịu đựng cơn đau, cái mỏi. Đột nhiên, có tiếng đập cửa ầm ầm của một buồng nào đó, rồi im lặng. Chừng một phút sau đập nữa, mấy lần như vậy. Tiếng chân của tên Chiến từ phía ngoài vừa đi vào, vừa quát: - Buồng nào làm cái gì vậy? Một giọng nói như gào: - Tôi ở xà lim đã ba tháng rồi! Hơn một tháng nay không thấy gọi hỏi gì tôi cả. Đề nghị cho tôi gặp chấp pháp để xem sự việc của tôi như thế nào? Ngày nào cũng để tôi thế này, chịu sao được! À ra buồng số 10, dẫy đối diện với tôi, ở phía trong. Giọng tên Chiến chắc đanh: - Câm ngay cái mồm! Anh muốn gặp chấp pháp, phải nghiêm túc đề nghị, không được làm ầm xà lim! Lần sau, tôi cùm cổ anh lại! Giọng số 10, bỗng dưng, như nức nở: - Xin cán bộ cho tôi gặp chấp pháp. Tôi sợ lắm rồi! Suốt ngày ngồi trong cái buồng con một mình thế này, tôi điên mất! Tên Chiến dịu giọng: - Được rồi, nằm im đi, tôi sẽ phản ánh cho! Tôi chẳng hiểu buồng số 10 tội gì. Không bị cùm, mà còn như thế! Qua tiếng nói, tôi đoán chắc khoảng 25, 30 tuổi. Xà lim lại trở về im ắng, chỉ còn tiếng rên ư ử phía trong, không rõ là buồng nào. Tôi vào xà lim I đến nay đã ba, bốn tháng rồi, từ lúc mới vào tôi chỉ nghĩ đến cái chết nên chẳng còn tâm trí đâu mà để ý đến các buồng khác ở chung quanh, như hồi còn ở xà lim II và III. Hàng ngày, bao nhiêu chuyện xảy ra trong cái xà lim nhiều buồng như thế này, tôi cũng chả cần biết. Vì vậy, vào đây đã lâu, tôi vẫn chưa biết gì, dù là khái niệm về các buồng. Ngay bây giờ đây, ngoài hai cái chân trong cùm nhức mỏi, tôi còn phải ôm đầu để chống đỡ với cơn đau từng chập. Đêm đã khuya, thế mà tôi vẫn chưa dám nằm. Đầu đã đau như búa bổ, nhưng óc vẫn cứ suy nghĩ đầy vơi hết chuyện này, chuyện kia của cuộc đời. Người ta nói rằng: “Sầu héo!” Nghĩa là khi sầu, người ta sẽ kém ăn, ít ngủ, người sẽ gầy đi, teo lại, cho nên mới bảo là sầu héo chăng? Một ý nghĩ buồn cười chợt đến trong óc tôi: Nếu ai sầu buồn thì thở ra khói đen. Nếu người nào càng sầu nhiều, khói càng nhiều, càng đen. Miền Bắc này, chắc luôn luôn ngày đêm sẽ bị khói đen bao phủ. Nhất là Hỏa Lò khói sẽ đen kịt, sẽ phải đốt đèn điện ngày đêm, may ra mới thấy đường đi!... Sáng hôm sau, mới gần tới giờ làm việc, cán bộ chưa mở cửa các buồng cho đổ bô, tên Điền coi nhà tiếp tế vào gọi tôi đi cung. Đã khá lâu, gần một tháng rồi, không gọi. Hôm nay không biết có chuyện gì? Ra tới phòng cung, tôi thấy hai tên Đức và Thành. Cả hai nhìn tôi chằm chằm, nhất là cổ tôi bây giờ vẫn còn một vết thâm nâu chung quanh. Tôi đoán mau như vậy, bởi vì vừa đây, trên đường đi cung qua một cài hè trước một phòng khách có cánh cửa kính, tình cờ hôm nay mở ra, thoáng nhìn qua tấm kính, tôi đã bần thần ngạc nhiên không thể ngờ được con người trong kính lại là tôi. Thật là kinh khủng! Cùm kẹp, khổ đau và lo lắng cung kẹo đã tàn phá con người tôi đến thế. Đồng thời, tôi cũng chú ý đến cái cổ của tôi, mặc dù chín ngày rồi, vết thân vẫn còn. Tên Thành chỉ ghế dịu giọng: - Anh ngồi đi! Lâu rồi, chúng tôi không gặp anh. Dạo này anh có khỏe không? Vẫn chỉ là một câu hỏi xã giao lấy lệ như mọi khi của chúng. Cũng như những lần trước, tôi cúi đầu dè dặt: - Dạ, tôi vẫn đều đều!..... Tên Đức, từ nãy lúi húi mở cặp hồ sơ, rút ra một số giấy tờ, bây giờ y mới lên tiếng: - Lâu nay, anh có theo dõi đài không? Phải nói, ít lâu nay, tâm trí tôi cứ lẩn quẩn ngày đêm với những ý nghĩ của người sắp lìa bỏ cõi đời, nên chuyện gì tôi cũng không cần biết nữa. Phần khác, 4 cái loa to ở xa mãi giữa sân trại chung, chĩa ra 4 dẫy buồng chung quanh, nên trong xà lim chỉ nghe loáng thoáng. Thêm nữa, là buồng số 3 của tôi lại nằm mãi phía trong, càng khó nghe hơn. Dù vậy, tôi vẫn trả lời: - Thưa ông, tai tôi dạo này nghe rất kém, nên không rõ! Tên Đức ngần ngừ một lúc, rồi hỏi: - Vậy anh có biết hiện nay, ở miền Nam đang đảo chính xoành xoạch không? Tôi biết là y chỉ muốn làm ruỗng nát thêm lòng tôi ra, nên tôi trả lời cộc lốc: - Không ạ! Những câu hỏi bâng quơ từ nãy tới giờ chỉ là mở đề, lúc này với vẻ mặt lạnh lùng, tên Đức bất chợt hỏi - Khi anh ra Hà Nội, anh thường ra đền Ngọc Sơn để làm gì? Tôi hơi điếng người. Có vấn đề liên quan đến tài liệu “M” rồi chăng? Dù không nhìn thẳng, tôi cũng biết chúng đang theo dõi nét mặt của tôi. Tôi vẫn bình thản, và để thăm dò, tôi trả lời: - Thưa các ông, như tôi đã viết và trình bày nhiều lần trước đây, Hà Nội nói chung, và riêng đền Ngọc Sơn không những là một thắng cảnh nổi tiếng của đất nước, đối với riêng tôi, nơi đó còn mang nhiều kỷ niệm của buổi ấu thời, nên tôi thường ra thăm lại. Tên Đức đứng bật dậy, giơ tay chặn không cho tôi nói nữa, y quắc mắc: - Anh đừng dùng luận điệu cũ rích đó nữa! Tôi nói cho anh biết: Anh đã ra đền Ngọc Sơn để liên lạc với một cô gái! Hiện nay, chúng tôi đã nắm được đầy đủ vấn đề. Vậy, dù anh có không nói ra, cũng không được nữa đâu! Do đó, khôn hồn anh hãy khai rõ mọi chi tiết. Bây giờ, đừng trách gì chúng tôi nữa! Tôi thấy tim mình tưởng chừng như thắt lại. Nghe từng lời, từng ý nó nói, óc tôi suy nghĩ rất nhanh, và nét mặt vẫn không biến đổi. Tới bây giờ đã gần hai năm rồi, phải chăng đường giây “M” hoạt động, chúng đã “vồ” được? Nếu không, tại sao mãi tới bây giờ chúng mới hỏi? Nhưng, tại sao chúng chỉ nói đến đền Ngọc Sơn, mà không nói đến vườn hoa “Con Cóc”? Như vậy, nếu sự việc liên quan tới tài liệu “M”, có thể hiểu theo hai chiều hướng: 1) Do từ Sài Gòn. Nhưng, Sài Gòn không thể biết tôi giao tài liệu ở đâu. Chỉ biết nơi gặp đã được chỉ định là trên cầu Thê Húc. 2) Do đường giây “M”. Bây giờ bị chúng “vồ” được rồi, đường giây “M” đã phải khai báo ra. Nhưng nếu đã khai gặp ở đền Ngọc Sơn, sẽ phải khai nhận tài liệu ở vườn hoa “Con Cóc”, chứ ở đền Ngọc Sơn không có gì cả. Cuối cùng, để biết rõ thêm ý chúng, tôi trả lời, mắt giả vờ mở to ngạc nhiên: - Các ông làm tôi thật ngạc nhiên, tôi không hề nói chuyện với một cô gái nào trong đền Ngọc Sơn cả! Tên Đức quắc mắt, gầm lên, đập mạnh tay xuống bàn: - Đến giờ phút này, anh còn ngoan cố như thế! Vậy anh có lợi dụng mấy đứa trẻ con để gặp cô gái ấy không? Tên Thành từ nãy vẫn ngồi yên, bây giờ cũng gắt: - Anh Bình! Anh phải biết điều. Anh không khai thật ra, những hình phạt đau đớn sẽ đến với anh ngay sau đây! Anh sẽ hối không kịp! Trong khi chúng quát nạt, óc tôi cứ nghĩ tiếp. Dứt khoát không phải do người của chúng nằm trong Cục ở Sài Gòn rồi. Bởi vì, nếu đã biết một, thì phải biết hai, có khi phải biết cả ba là khác. Nghĩa là nếu đã biết tài liệu “M”, phải biết tài liệu “X”, hoặc 3 lá thư của Linh Mục Hoàng Quỳnh. Khichúng quát tháo xong, tôi đã rõ nguyên nhân rồi. Thì ra là thế! Tôi cảm thấy người nhẹ nhõm hẳn lên. Nếu tôi không bình tĩnh và tỉnh táo tính toán, tôi có khi đã “không khảo mà xưng rồi!” Suýt nữa!...Tôi đã tưởng phen này chắc chết với chúng. Thật là hú vía! Vì thế, làm như chợt nhớ ra, tôi tươi mặt ngửng lên: - Trời ơi! Tôi nhớ ra rồi, các ông đa nghi thật. Phải nói đó là một chị phụ nữ, chứ không phải là một cô gái. Hôm đó…tôi không còn nhớ ngày nào; tôi ra đền Ngọc Sơn chơi như mọi khi. Ngồi nhìn mấy em nô đùa, đuổi nhau. Các em vui đùa, nhưng các em lại dùng những câu rất tục tĩu, tôi nghĩ ngay người lớn cũng ít khi nói những câu này…Lúc đó, một chị cũng ở gần đấy mới tiến lại chỗ các em, chị nói là chị mới ở quê ra Hà Nội. Chị khuyên các em không nên nói tục bậy bạ, ví các em là cháu ngoan Bác Hồ, là mầm non của Đảng vĩ đại, đang ra sức vun trồng, là thiếu nhi Thủ Đô, lá cờ đầu vẻ vang của cả nước v.v… Nhưng không ngờ, có thể vì thấy chị là phụ nữ, lại là một phụ nữ quê mùa nên các em đã chửi lại, thậm chí chúng còn lấy những cục đá con ném chị nữa… Tôi thấy chị đó có ý thức tốt đối với xã hội, nên tôi đã đứng lên nghiêm giọng mắng các em… Phải nói, tôi và chị ấy cũng không hề nói chuyện với nhau… và tôi cũng không hề biết tên chị là gì. Tên Đức và Thành nghe tôi nói như vậy có vẻ bớt nóng, nhưng tên Đức vẫn còn khẳng quyết: - Anh đã lợi dụng lúc ấy để trao tài liệu cho chị ta! Câu nói của y càng làm sự việc sáng tỏ. Do đó, tôi cũng bình tĩnh khẳng định: - Tôi không biết vì sao các ông lại biết được sự việc ấy. Trước đây, những chuyện như vậy, cũng như hàng nghìn việc của một người, một ngày đi ra phố đã gặp, tôi kể với các ông làm gì. Nếu hôm nay các ông không nhắc đến, tôi cũng quên luôn. Vì vậy, tôi xin đoan quyết là: Tôi không hề nói chuyện hay đưa bất cứ một cái gì cho chị ta. Các ông đã biết rõ, các ông cứ điều tra, nếu tôi sai, tôi xin chịu hình phạt nặng nhất của nhà nước. Tên Đức vẫn nạt nộ: - Anh đừng già mồm nữa, anh tưởng chúng tôi không biết à! Anh ra miền Bắc, bất cứ anh làm cái gì chúng tôi cũng biết hết. Anh đi những đâu, làm cái gì, anh tưởng chúng tôi là mộc đấy à? Thấy y nói như vậy, để đánh một đòn sâu hơn nữa, tôi cười nói: - Vâng, bây giờ các ông đã biết hết rồi. Bởi vì, ngay từ khi tôi bị bắt, tôi đã thành khẩn khai chi tiết mọi sự thật rồi. Y lại quát to hơn: - Anh không khai chúng tôi cũng đã biết, anh hiểu không? Tôi vẫn cười, nhìn y bằng ánh mắt không tin. Trong khi đó, tôi suy đoán: Tại sao cho đến bây giờ, chúng mới hỏi tôi sự việc ấy. Điều tôi thấy trước mắt là, cho đến bây giờ, vụ án của tôi chúng vẫn chưa tin, chúng vẫn còn đang điều tra. Còn để trả lời câu hỏi trên, vì chỉ đứng một phía cho nên thiếu cơ sở cụ thể, do đó tôi chỉ dám nói có thể ở mấy điểm sau đây: Chúng chưa thỏa mãn về vụ án của tôi, nên chúng phải nghiên cứu lại toàn bộ vấn đề. Từng ngóc ngách, từng khía cạnh, đều phải rà lại; trong đó, chúng cũng nghiên cứu chi tiết lại toàn bộ những bản tường thuật báo cáo của những tên đã theo dõi tôi. Rồi để thẩm tra lại, chúng gọi tôi lên, và để đè chừng bắt bóng, chúng cứ khẳng quyết như sự thật là vậy, rồi xem thái độ của tôi ra sao. Như vậy, tôi chẳng có gì lo lắng nữa, vì thực sự tôi chẳng liên quan cóc khô gì với chị đó cả. Tên Thành nhìn tôi một lúc, rồi đột nhiên hỏi: - Anh muốn tự tử để theo chân Ngô Đình Diệm phải không? Anh định tự tử để chôn chặt sự bí mật của anh à? Tôi tỏ nét mặt buồn buồn, rồi trả lời như tôi đã viết trong tờ kiểm điểm. Tên Thành cười, nói như khích: - Tôi không tin như anh nói. Anh là một người khôn ngoan, lại có chí, anh sẽ không tự tử vì sự khổ cực của giam giữ. Tôi cũng cười: - Thưa ông, tôi có chí quái gì đâu. Bất cứ lúc nào tôi cũng không thiết cuộc sống này. Ngay bây giờ đây, tôi cũng không muốn sống nữa. Tên Đức thấy cứ nói những chuyện không đâu, hơn nữa cũng gần hết giờ, nên nói: - Thôi, cho anh về suy nghĩ để khai rõ sự việc của anh với chị phụ nữ đó trong đền Ngọc Sơn. Tôi đứng lên, nhưng nói một cách khẳng quyết: - Thưa ông, tôi không có gì để suy nghĩ nữa. Chuyện đơn giản như thế, tôi đã thưa rõ rồi! Trên đường về xà lim, lòng tôi trĩu nặng ưu tư, như vậy, vụ án của tôi vẫn chưa ổn. Chúng vẫn còn chưa tin, Vậy, với điều kiện có thể, một mặt chúng sẽ tăng cường nhiều biện pháp, thủ đoạn để khai thác tôi; mặt khác, chúng chỉ thị cho những bộ phận của chúng nằm vùng ở miền Nam tìm tòi những gì có liên quan, dính dáng đến tôi, để hòng làm sáng tỏ vụ án. Chỉ còn mong một điều, một điều không may cho tôi là tôi đã bị chúng phát hiện ngay ngày thứ 3, khi vừa tới Hà Nội. Nhưng, chính từ điểm bất lợi có tính cách quyết định này, mặt trái của sự việc ấy cũng có một điều lợi nhỏ cho tôi: Vì chúng đã theo dõi mọi hành động, đường đi nước bước của tôi từ những ngày đầu này, nên chúng rồi sẽ có thể tin được là tôi đã “không làm gì”, đúng như “lời tôi đã khai báo”. Tôi đã tự phân tích để xác định vấn đề theo chiều hướng như thế, và….. điều đó cũng làm cho bệnh đau óc của tôi càng trầm trọng thêm. Ngay chiều hôm ấy, có tiếng khóa loạch xoạch mở cửa buồng, tôi nhìn ra, một người chừng 30 tuổi ôm một túm bọc chăn màn lách cửa bước vào. Phía ngoài cửa buồng, tên Chiến nói với người mới: - Anh hãy để chăn màn, quần áo của anh ở sàn bên này. Ra đi cung đã! Anh đó ngơ ngác đặt bọc quần áo xuống, liếc nhìn hai chân của tôi đang trong cùm, rồi vội vàng ra theo tên Chiến. Cửa đóng rồi, tôi nhìn thoáng sang bọc chăn màn. Vì lúng lúng vội vàng, anh đó đã để tung tóe cả ra. Tôi thấy rất nhiều bao diêm và thuốc lào, vài khúc bánh mì nhỏ, mấy cái keo giấy…..Nhưng, thuốc lào và bao diêm đã thu hút hết tâm trí của tôi rồi. Tôi cũng băn khoăn chẳng hiểu anh này tội gì, vừa vào đã bị gọi đi cung ngay? Một mặt, có người vào nằm thêm với mình, cũng đỡ buồn. Nhưng mặt khác, trong trường hợp tôi đang bị cùm hai chân, những buổi cơm nước, đổ bô, tôi sẽ không được mở cùm nữa. Như vậy, hai cái chân không được cử động, sẽ càng chóng bị liệt. Gần hết giờ làm việc, cửa mở, anh đó đi cung về. Khi nãy, lúc tôi ra lấy cơm, tên Chiến bảo tôi lấy một gáo dừa nữa múc nước và cầm thêm một suất cơm vào cho anh mới. Vì vậy, suất cơm của anh tôi vẫn để ở cuối chỗ cái cùm bên phía sàn của anh. Sau khi cửa đóng, vì tôi đã có kinh nghiệm, nên bảo anh, khi thấy anh quay lại lúi húi định sắp xếp các thứ: - Anh hãy ăn cơm đã. 15 phút nữa, cán bộ sẽ mở cửa bắt trả bát ngay! Anh quay lại nhìn tôi, dáng vừa ngỡ ngàng lại vừa buồn buồn, hai mắt cứ mở to nhìn hai cái chân của tôi trong cùm: - Tôi mệt lắm, không muốn ăn! Tôi hiểu ngay, anh mới bị bắt, đầu óc còn đang căng thẳng đầy lo lắng, còn bụng dạ thiết đến ăn uống, nhất lại là cơm tù. Trong khi ấy, bụng tôi vẫn đói, ăn cho đã bây giờ phải 3 suất! Nhưng, do lòng tự trọng, làm sao tôi dám mở miệng nói “để tôi ăn cho” được. Anh nhìn chân tôi, có vẻ băn khoăn hỏi: - Anh làm sao mà bị cùm thế? Thấy anh chả hiểu được tình tiết, nên tôi chỉ trả lời đơn giản: - Tôi bị kỷ luật! Tôi hỏi lại anh ngay: - Anh bị bắt bao giờ? - Một tuần rồi! Tôi ngạc nhiên: - Thế mấy ngày trước, anh bị giam ở đâu? - Buồng số 9 ở ngoài trại chung! - Bị bắt về tội gì? - Tôi lái xe khách, đường Tây Bắc, chở hàng lậu. Như vậy, anh này bị tôi hình sự. Vậy, tại sao phải vào xà lim? Tôi tỏ vẻ tình cảm, hỏi anh: - Tội hình sự ít vào xà lim lắm. Vậy, đang ở trại chung, vì sao anh lại phải dọn vào đây? Nét mặt anh cũng đăm chiêu: - Tôi cũng chẳng hiểu sao nữa. Từ hôm tôi bị bắt vào, mới đi cung 3 lần. Xe tôi chỉ chở có 5 ký chè búp, có khi phải bị từ 3 tới 6 tháng. Anh vẫn cứ nhìn hai cái chân tôi: - Anh bị bắt về tội gì, cùm ghê thế? Tôi đã suy đoán được vấn đề. Chắc hẳn là chúng sợ tôi lại tìm cách tự tử nếu để tôi một mình. Những tội chính trị khác cho vào giam với tôi, chúng xét thây không có lợi. Cho nên, mang một anh hình sự vào nằm với tôi một thời gian, vô thuởng vô phạt. Như thế, anh này chắc cũng chẳng ở lâu với tôi. Nghĩ vậy, tôi trả lời: - Tôi là giáo viên trường Phổ Thông Cấp II ở Phủ Lý. Tôi theo tư tưởng “xét lại”. Anh cười hồn nhiên, vẻ vô tâm: - Các anh làm chính trị ghê nhỉ! Rồi như anh chẳng quan tâm đến vấn đề “chính chị, chính em”, anh nhìn suốt sàn tôi một lượt rồi hỏi: - Anh có hút thuốc lào không? - Cũng có hút chút ít, nhưng tôi chưa có gia đình tiếp tế! Anh vồn vã, tự nhiên: - Ồ, thuốc lào tôi thiếu gì! Anh hút phè ra thì thôi! Vừa nói, anh vừa kéo ra một buộc 5 gói thuốc lào…Qua một lúc chuyện trò, tôi thấy anh kiến thức hạn hẹp, nhưng ở anh, thể hiện ra là một con người khinh bạc, giang hồ, vì thế tôi cũng tự nhiên: - Tôi thấy anh có điếu đâu? - Sẽ làm, có ngay! Làm bằng bao diêm, có cơm dán rồi. Giữa lúc ấy, cửa mở. Tôi biết là phải trả bát. Bát cơm vẫn để nguyên, anh ta không ăn. Tôi vội giở cái quần đùi rách ra, nói: - Anh hãy đổ suất cơm vào đây: đem trả, phí đi, vừa để tôi ăn, vừa dán điếu! Anh đó, tên Đà, vừa đổ bát cơm vào chiếc quần lót rách tôi đang giơ ra, vừa trách tôi: - Thế mà từ nãy anh không ăn. Tôi cũng quên không mời, không biết anh đói. Lúc trưa, tôi “quất” 3 cái bánh chưng con với khúc bánh mì, bây giờ hãy còn no. Trả bát xong, anh vào, lúi húi lấy hộp thuốc đánh răng bằng nhôm. Anh dùng tay bóp phía đầu ra, rồi chỉ bằng cái đầu cán bàn chải đánh răng, anh hì hục, loay hoay. Có lúc anh mài mài xuống sàn xi măng. Chỉ một lúc sau, đã có một chiếc nõ điếu bằn nhôm con con, xinh xắn. Anh lấy ra 3 bao diêm không. Anh dùng những tờ giấy bàn gói thuốc lào, phết bánh chưng dán 3 bao diêm vào với nhau để làm thân điếu. Vừa miệt mài làm, anh vừa chuyện trò với tôi. Với thái độ lính tráng, bụi đời, anh vất sang tôi hai cái bánh: - Đừng ăn cơm nguội đó nữa. Ăn mấy chiếc bánh này này! Thấy anh chỉ có ba, bốn cái bánh; hơn nữa, rồi đây anh sẽ đói, nên tôi xua tay: - Đừng phí phạm như vậy, anh Đà ạ! Còn dài ngày, rồi đây anh sẽ đói nhiều. Tôi ăn chỗ cơm này, tốt chán rồi! Tôi ném trả lại cho anh 2 cái bánh. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, anh đã làm xong cái điếu vuông vắn, rất xinh. Anh “bắn” điếu thuốc đầu tiên với nét mặt thỏa mãn, say sưa. Rồi, anh đưa điếu, diêm và thuốc sang cho tôi. Điếu kiểu này, hút hơi khó khăn, vậy mà tôi cũng say đáo để. Phải nói, đêm hôm đó tình cờ lại có thêm suất cơm, tôi ăn xong rồi nằm nghe cái bụng trổi lên những khúc nhạc đê mê, dịu dàng, êm tai. Con tì, con vị cũng rủ nhau tham gia vào buổi “dạ vũ” độc nhất vô nhị từ gần hai năm nay này. Mà quái, cái đầu của tôi hôm nay cũng như hưởng ứng ít nhiều với cuộc vui đó, vì thấy đỡ nhức hẳn đi… Những ngày sau đó, qua những lúc trao đổi, chuyện trò, tôi hiểu được sơ sơ về anh. Anh đã đi bộ đội, và đã phục viên được 4 năm nay. Nhờ chạy vạy, xoay sở mạnh nên anh được lái xe đường trường cùng Tây Bắc. Anh có vợ và hai con. Theo anh, trên miền Bắc hiện nay, nghề lái xe khách đường dài là dễ kiếm ăn nhất, và nhất là nếu lại biết cách “móc ngoặc” với khách. Thỉnh thoảng chở giấu hàng lậu cho khách như chè, gạo, v.v… thì cũng kiếm ăn ra trò. Anh có khả năng kiếm ăn giỏi, nên tính anh rất rộng rãi, lính tráng, khác hẳn với tên Hoàn, tên Tân và cả anh Hoàng Hùng. This post has been edited by Violet: Jun 5 2008, 08:57 PM |
|
|
![]()
Post
#47
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Lăm
Chuyển biến tinh thần... Một điều thật phấn chấn trong lòng tôi! Đúng 7 ngày sau khi bị cùm hai chân, hôm đó vào sáng thứ Ba, tôi đang nằm bơi lội trong nỗi sầu khổ đau vì hai cái chân mỏi nhức trong cùm, với cái đầu cứ cắn buốt từng cơn, bổng cửa buồng xịch mở. Tên Chiến bước vào, trước 4 con mắt mở to của tôi và anh Đà, không biết có chuyện gì với người nào trong chúng tôi. Tên Chiến nhìn tôi, vẻ trịnh trọng: - Hôm nay, lệnh ban giám thị chỉ cùm anh một chân! Tôi thấy như truyền vào cơ thể một nguồn sinh lực, vội vàng nhấc cùm và nhấc chân ra. Tôi ôm cái bô, cùng anh Đà đi vào nhà tắm. Trên đường đi, nhìn thoáng mặt tên Chiến, hôm nay tôi thấy mặt y trông thật dễ coi; hai con mắt y đăm đăm nhấp nháy nhìn tôi nhơn nhơn với cái vẻ như vừa ban ân huệ cho một người cùng khổ. Từ nay, chỉ phải cùm một chân, tôi nằm ngồi sẽ bớt được trăm phần khó khăn. Chỉ còn cái đầu, vẫn ngày đêm hành hạ tôi, như Phật Bà Quan Âm hành ông Tề Thiên Đại Thánh ngày xưa! Những ngày sau đó, đầu tôi càng cắn nhức, nhiều lúc như muốn điên lên. Trước kia, thỉnh thoảng một tháng, có khi đôi ba tháng, tôi mới bị nhức đầu một lần. Tôi chỉ ngậm 1 viên Aspirine, hay Aspro, tan hết viên thuốc là khỏi. Nhưng, từ sau ngày tôi thắt cổ không chết, hậu quả đến với tôi là chứng bệnh quái ác này. Tôi cứ nằm miên man, có vẫn không ngừng nghĩ suy vơi đầy. Tôi nhìn, rồi suy ngẫm, biết bao nhiêu gian khổ từ ngày tôi bị bắt. Biết bao nhiêu lần tôi sát nách với cái chết chỉ trong tấc gang. Giòng suy tư về những chìm nổi của kiếp người, cứ chảy dài trong tâm tưởng tôi. Từ những thực tiễn đau thuơng, tôi thấy rằng: Đời một con người chỉ là một chuỗi dài những con dấu cộng giữa những giai đoạn thuận tiện và khó khăn. Khi ở giai đoạn thuận tiện, con người hớn hở, vui tươi, nụ cười không tắt trên môi. Ngược lại, khi ở giai đoạn khó khăn, mặt mày sầu héo khóc lóc, than van, oán trời, oán đất. Vậy, sự sầu héo, đau thuơng, rên rỉ này có thể thay đổi cái công thức của một đời người trên, trở thành chỉ là những giai đoạn thuận tiện được hay không? Hỏi là trả lời. Ai cũng thấy là không thể được, trừ phi không phải là người. Như vậy, sự sầu héo, rên rỉ đó đã không giải quyết được gì, còn mang một cái hại, tùy theo mức độ. Trước nhất, khi anh sầu héo, chán nản, anh sẽ bi quan, tiêu cực mọi mặt trong cuộc sống. Mặt mày ủ dột như thần sầu. Ngay ngồi lên nằm xuống cũng chán chường, chậm chạp, nhìn đâu cũng thấy một mầu xám úa. Suốt ngày đêm chỉ thở vắn than dài, thì trí óc còn làm sao thoải mái khôn ngoan, minh mẫn để hòng tìm ra một phương cách cải tiến từ giai đoạn khó khăn sang thuận tiện? Huống chi, đã xông vào miền bão tố, vùng lửa đạn để chiến đấu. “Ngay những ai kia, đã chiến thắng mà không từng chiến bại? Ai khoe khôn, mà đã chẳng từng bị dại, đôi ba lần?” Tôi đã sai lầm, sai lầm trầm trọng gần hai năm nay, cứ ngày đêm rên rỉ ngụp lặn trong biển sầu. Cuối cùng, không những tôi không giải quyết được vấn đề, mà còn đa mang thêm những di hại nữa. Phải dũng cảm chấp nhận mọi thương đau trên đường đi tới: Trên đường đi, nhiều cay đắng âm thầm, Hãy nhận lấy để dồn vào………sâu kín! Bằng xuơng, bắng máu, tôi mới rút ra một thực tế: Không được phép chán cuộc sống này, bao giờ cũng phải trang bị tư tưởng lạc quan tích cực cho mình. Tôi nhớ đến một câu danh ngôn của Pháp, nhưng không nhớ tên tác giả: “Quand on n’a pas ce que l’on aime; il faut aimer ce que l’on a!”(*). Bây giờ tôi có cái gì? Ngày 2 bữa cơm ngon tuyệt vời. Mỗi bữa cơm, cứ thấp thỏm đợi chờ, mong ngóng. Rồi khi được hưởng thụ, có cái sướng vập vồ, khao khát mà khi còn ở ngoài đời, một bữa ăn sang nhất cũng không thú bằng, sướng bằng. {(*) Khi mình không có cái mình thích, thì hãy thích cái mình có}. Bởi vì trong thực tế, hạnh phúc của cuộc đời có cái tiêu chuẩn quái náo đâu. Cho nên, người xưa đã rút ra: “Tri túc, tiễn túc, đãi túc hà thời túc, Tri nhàn, tiễn nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn”. Và, tôi cũng xin làm theo cụ Nguyễn Công Trứ. Theo sách sử, mãi tới năm 42 tuổi, cụ mới thành đạt. Còn trước đó, cụ đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, gian nan, nghèo túng. Với “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch”…..Trong những giai đoạn này, ngoài những giờ nhào nặn văn chương để chuẩn bị cho ngày tới, cụ phải tự tạo cho mình những cái cụ chưa có thể có, bằng cách tìm một lối thoát cho tinh thần. Nghĩa là siêu thoát, để quên cái thực tại bần hàn. Tóm lại, nếu không có cái mình thích, hãy thích những cái mình có. Cái “có” của tôi trong cảnh này tuy cũng có, nhưng có phần hạn hẹp, tôi phải tạo nên “cái” tôi chưa có vậy. Do đó, tôi thả hồn bay khắp phương trời, tha hồ theo ý muốn; và tôi vẫn nhởn nhơ nhìn tụi cộng sản. “Mày bắt đượcTrước nhất, khi anh sầu héo, chán nản, anh sẽ bi quan, tiêu cực mọi mặt trong cuộc sống. Mặt mày ủ dột như thần sầu. Ngay ngồi lên nằm xuống cũng chán chường, chậm chạp, nhìn đâu cũng thấy một mầu xám úa. Suốt ngày đêm chỉ thở vắn than dài, thì trí óc còn làm sao thoải mái khôn ngoan, minh mẫn để hòng tìm ra một phương cách cải tiến từ giai đoạn khó khăn sang thuận tiện? Huống chi, đã xông vào miền bão tố, vùng lửa đạn để chiến đấu. “Ngay những ai kia, đã chiến thắng mà không từng chiến bại? Ai khoe khôn, mà đã chẳng từng bị dại, đôi ba lần?” Tôi đã sai lầm, sai lầm trầm trọng gần hai năm nay, cứ ngày đêm rên rỉ ngụp lặn trong biển sầu. Cuối cùng, không những tôi không giải quyết được vấn đề, mà còn đa mang thêm những di hại nữa. Phải dũng cảm chấp nhận mọi thương đau trên đường đi tới: Trên đường đi, nhiều cay đắng âm thầm, Hãy nhận lấy để dồn vào………sâu kín! Bằng xuơng, bắng máu, tôi mới rút ra một thực tế: Không được phép chán cuộc sống này, bao giờ cũng phải trang bị tư tưởng lạc quan tích cực cho mình. Tôi nhớ đến một câu danh ngôn của Pháp, nhưng không nhớ tên tác giả: “Quand on n’a pas ce que l’on aime; il faut aimer ce que l’on a!”(*). Bây giờ tôi có cái gì? Ngày 2 bữa cơm ngon tuyệt vời. Mỗi bữa cơm, cứ thấp thỏm đợi chờ, mong ngóng. Rồi khi được hưởng thụ, có cái sướng vập vồ, khao khát mà khi còn ở ngoài đời, một bữa ăn sang nhất cũng không thú bằng, sướng bằng. {(*) Khi mình không có cái mình thích, thì hãy thích cái mình có}. Bởi vì trong thực tế, hạnh phúc của cuộc đời có cái tiêu chuẩn quái náo đâu. Cho nên, người xưa đã rút ra: “Tri túc, tiễn túc, đãi túc hà thời túc, Tri nhàn, tiễn nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn”. Và, tôi cũng xin làm theo cụ Nguyễn Công Trứ. Theo sách sử, mãi tới năm 42 tuổi, cụ mới thành đạt. Còn trước đó, cụ đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, gian nan, nghèo túng. Với “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch”…..Trong những giai đoạn này, ngoài những giờ nhào nặn văn chương để chuẩn bị cho ngày tới, cụ phải tự tạo cho mình những cái cụ chưa có thể có, bằng cách tìm một lối thoát cho tinh thần. Nghĩa là siêu thoát, để quên cái thực tại bần hàn. Tóm lại, nếu không có cái mình thích, hãy thích những cái mình có. Cái “có” của tôi trong cảnh này tuy cũng có, nhưng có phần hạn hẹp, tôi phải tạo nên “cái” tôi chưa có vậy. Do đó, tôi thả hồn bay khắp phương trời, tha hồ theo ý muốn; và tôi vẫn nhởn nhơ nhìn tụi cộng sản. “Mày bắt được tao, mày giam tao, cùm tao, nhưng đố tụi mày giam cùm được tư tưởng của táo đấy” Một quan điểm nữa. Tôi nhớ đến một câu trứ danh của Madame de Maintenon: “Nếu khi nào anh bị đau khổ, bất hạnh, liều thuốc thần tuyệt vời để chữa khỏi, là anh hãy chỉ nghĩ đến những người đang khổ đau, bất hạnh hơn anh!”. (Quand vous vous trouvez malheureux, songez aux plus malheureux que vous; c’est un remède qu’est infaillible!). Theo quan điểm của tôi, những tư tưởng thuộc loại “Hoa Thơm Cỏ Lạ” của phương Tây và Cổ Học Tinh Hoa của phương Đông đều được rút tỉa ra từ cuộc sống thực tiễn của loài người, qua nhiều thời đại. Tất nhiên, chẳng phải chúng ta chỉ áp dụng nó một cách dập khuôn, cứng ngắc. Mà phải suy lý, phân tích để thích ứng với thực tế, thời đại của chúng ta. Nghĩa là có bổ sung, hoặc sửa đổi đôi chút, nhưng tôi thấy điều này cũng chỉ hạn hữu. Điều quan trọng là ta có áp dụng nghiêm chỉnh hay không mà thôi. Thí dụ: Anh bị cùm một chân, hãy chỉ nghĩ đến người A, người B đang bị cùm hai chân, đến C cụt chân, đến D lòa đôi mắt v.v… Nếu chêm vào đấy, anh nghĩ đến hình ảnh của một người bạn anh đang ở Sài Gòn. Đang đèo một cô gái trên xe vespa Italy phây phây lượn lờ trên phố phường để khoe hương, khoe sắc, tất nhiên hiệu lực sẽ giảm đi. Chỉ có một đêm mầy mò suy nghĩ, sáng hôm sau, tôi nhìn cuộc đời đã thay đổi hẳn, không cón cái mầu xám xịt, héo úa của mọi khi. Tinh thần của tôi được nâng cao rõ rệt. Nhân sinh quan của tôi thay đổi hẳn. Cũng từ đấy, tôi suy nghĩ đến cơ thể của mình. Tôi đang mang cái bệnh đau đầu quái ác này, lại không có thuốc chữa, vậy chính mình phải tự cứu lấy mình. Tôi nghĩ đến phương pháp Dưỡng Sinh (relaxation) của phương Tây, Yoga của Ấn Độ, Đề Khí Vận Công của nghiệp võ, và phương pháp Cốc Đại Phong của Trung Quốc. Tôi rút tỉa những tinh túy nhất, phù hợp với thực tế của cơ thể tôi trong điều kiện này. Tôi cũng lại nhớ đến phương pháp “Long Live” mà một tờ tuần báo Mỹ, đã có công phỏng vấn 100 cụ già nhất, ở khắp nơi trên thế giới (Tất nhiên toàn những cụ trên 100 tuổi cả), rồi đúc kết lại. Câu hỏi chính là: “Vì sao cụ sống lâu như thế?”. Tùy theo chủ quan của mỗi cụ. Các cụ trả lời từ nguyên nhân chính, đến nguyên nhân phụ. Sau đó, tôi trộn lộn tất cả, rồi tự rút ra một phương pháp tạm gọi là “A”, để áp dụng cho chính mình. Tôi cứ áp dụng, rồi lại bổ sung, hoặc sửa chữa, sao cho phải đạt được 3 điểm: - Không mất nhiều thời gian. - Đơn giản, có thể ở đâu và lúc nào cũng làm được. - Hiệu quả cao nhất. Phương pháp “A” chỉ cần từ 15 đến 20 phút mỗi ngày. Nằm thẳng cẳng. Đầu không gối gì, để chân và tay ở tư thế hoàn toàn thoải mái, hơi thở đều đều, từ tốn, mắt nhắm lại. Lúc đó, sẽ thấy một mầu, có thể là mầu xanh, vàng, hồng, đỏ v.v… Dùng ý chí chế ngự sao cho chỉ còn một mầu duy nhất, hiện ra trong óc mình. Như vậy vừa đạt được tinh thần chế ngự mạnh, lại vừa giữ được óc nghỉ ngơi, không một sự việc gì có thể xâm nhập. Những ngày đầu hơi khó khăn, để chế ngự duy nhất một mầu. Nhưng với quyết tâm, sẽ làm được, và dần dần trở thành thói quen. Tôi cứ thực hiện như vậy một cách nghiêm chỉnh. Vì không có đồng hồ, tôi phải nhẩm đếm 300 lần bằng hơi thở, để ước định thời gian tập. Sau này thế nào không biết chứ ngay trước mắt, tập xong, mở mắt ra, tôi cảm thấy tinh thần sảng khoái, mắt sáng ra như sau khi chợp được một giấc ngủ ngon. Còn về mặt tập thể dục. Tôi nghĩ rằng, trên đời này không có một vị thuốc nào, kể cả cao, sâm, nhung…..có thể tốt, bổ bằng thể dục, với điều kiện làm sao cho đúng. Bởi vì, qua thực tiễn cuộc sống, kết hợp với sự suy lý phân tích, ta phải thấy: Ngay cơm gạo là thứ bổ nhất để nuôi sống con người, nhưng nếu ăn quá độ thì không bội thực, cũng làm cho con người mệt mỏi, tức bụng, còn yếu, mệt hơn khi chưa ăn. Tập thể dục, hay tập võ cũng vậy, đừng thấy người ta làm sao, rồi mình cũng làm thế. Cơ thể con người tuy có nhiều cái chung, nhưng cũng có nhiều cái riêng. Về mức độ, lại hoàn toàn khác nhau. Anh A ăn 3 bát cơm, không sao, rất khỏe, nhưng, anh B ăn 3 bát cơm, sẽ khó chịu, muốn bệnh. Anh A cữ 10 lần tạ, khỏe ra, ngực, tay nở nang; anh B muốn cố gắng để cho sức khỏe bằng anh A, nên cũng tập như vậy, da tái lại, gầy đi, nhiều khi còn bị một số chứng bệnh về tim nữa. Từ những suy luận trên, tôi tập một số động tác thể dục thích ứng với cơ thể ngồi tù một chỗ; ăn vừa không đủ no, vừa thiếu chất dinh dưỡng, lại bị cùm một, hoặc hai chân. Một điều nữa, con người sống được là do hai yếu tố chính là thực phẩm và khí trời. Cả hai thứ đều cần thiết và gắn bó với nhau như một chất hữu cơ. Có thứ này mà thiếu thứ kia, con người cũng không sống được. Tuy vậy, về mặt nào đó, không khí cần thiết hơn. Cụ thể, nhịn ăn một vài ngày, không chết; nhưng chỉ cần thiếu không khí trong 10, 20 phút, là đời đi tong! Thế mà, không khí lại vô vàn, vô tận ngay chung quanh ta. Cộng sản chỉ có thể hành người tù về thực phẩm, về cái dạ dầy. Nhưng, về không khí, chúng đành chịu thua. Vậy, tôi phải biết lợi dụng tối đa- Hiệu quả cao nhất. Phương pháp “A” chỉ cần từ 15 đến 20 phút mỗi ngày. Nằm thẳng cẳng. Đầu không gối gì, để chân và tay ở tư thế hoàn toàn thoải mái, hơi thở đều đều, từ tốn, mắt nhắm lại. Lúc đó, sẽ thấy một mầu, có thể là mầu xanh, vàng, hồng, đỏ v.v… Dùng ý chí chế ngự sao cho chỉ còn một mầu duy nhất, hiện ra trong óc mình. Như vậy vừa đạt được tinh thần chế ngự mạnh, lại vừa giữ được óc nghỉ ngơi, không một sự việc gì có thể xâm nhập. Những ngày đầu hơi khó khăn, để chế ngự duy nhất một mầu. Nhưng với quyết tâm, sẽ làm được, và dần dần trở thành thói quen. Tôi cứ thực hiện như vậy một cách nghiêm chỉnh. Vì không có đồng hồ, tôi phải nhẩm đếm 300 lần bằng hơi thở, để ước định thời gian tập. Sau này thế nào không biết chứ ngay trước mắt, tập xong, mở mắt ra, tôi cảm thấy tinh thần sảng khoái, mắt sáng ra như sau khi chợp được một giấc ngủ ngon. Còn về mặt tập thể dục. Tôi nghĩ rằng, trên đời này không có một vị thuốc nào, kể cả cao, sâm, nhung…..có thể tốt, bổ bằng thể dục, với điều kiện làm sao cho đúng. Bởi vì, qua thực tiễn cuộc sống, kết hợp với sự suy lý phân tích, ta phải thấy: Ngay cơm gạo là thứ bổ nhất để nuôi sống con người, nhưng nếu ăn quá độ thì không bội thực, cũng làm cho con người mệt mỏi, tức bụng, còn yếu, mệt hơn khi chưa ăn. Tập thể dục, hay tập võ cũng vậy, đừng thấy người ta làm sao, rồi mình cũng làm thế. Cơ thể con người tuy có nhiều cái chung, nhưng cũng có nhiều cái riêng. Về mức độ, lại hoàn toàn khác nhau. Anh A ăn 3 bát cơm, không sao, rất khỏe, nhưng, anh B ăn 3 bát cơm, sẽ khó chịu, muốn bệnh. Anh A cữ 10 lần tạ, khỏe ra, ngực, tay nở nang; anh B muốn cố gắng để cho sức khỏe bằng anh A, nên cũng tập như vậy, da tái lại, gầy đi, nhiều khi còn bị một số chứng bệnh về tim nữa. Từ những suy luận trên, tôi tập một số động tác thể dục thích ứng với cơ thể ngồi tù một chỗ; ăn vừa không đủ no, vừa thiếu chất dinh dưỡng, lại bị cùm một, hoặc hai chân. Một điều nữa, con người sống được là do hai yếu tố chính là thực phẩm và khí trời. Cả hai thứ đều cần thiết và gắn bó với nhau như một chất hữu cơ. Có thứ này mà thiếu thứ kia, con người cũng không sống được. Tuy vậy, về mặt nào đó, không khí cần thiết hơn. Cụ thể, nhịn ăn một vài ngày, không chết; nhưng chỉ cần thiếu không khí trong 10, 20 phút, là đời đi tong! Thế mà, không khí lại vô vàn, vô tận ngay chung quanh ta. Cộng sản chỉ có thể hành người tù về thực phẩm, về cái dạ dầy. Nhưng, về không khí, chúng đành chịu thua. Vậy, tôi phải biết lợi dụng tối đakhông khí để bù lại phần nào, điều chúng muốn hành tôi về thực phẩm, và những mặt khác của sơ thể. Tôi nhớ lại, khi tôi vào lớp Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, họ đo “pi nhê”. Khi đo vòng ngực, bắt thở hết ra để đo, rồi hít vào thật đầy, đo. Hai lần đo cộng lại chia đôi. Khoảng cách, thở ra hít vào của mỗi người khác nhau. Có người thì 3, 4 hay 5 phân; cá biệt, có anh tới 8, 9 phân. Sự rộng, hẹp này, hoàn toàn không phụ thuộc vào người có ngực nở, to con hay nhỏ con. Người ta gọi khoảng cách đó là khoảng “Sống” của mỗi người. Có người to con, khoảng “Sống” lại nhỏ hơn người bé con. Như vậy, nếu việc gì làm cần sự dẻo dai, bền bỉ, lâu mệt, người có khoảng “Sống” lớn sẽ hơn người có khoảng “Sống” nhỏ. Thí dụ như chạy, hay trèo núi chẳng hạn, nhiều người to con, trông rất “văm”, thế mà chỉ một lúc là phờ râu tôm. Ai cũng biết, phổi con người thở ra thán khí (CO2): khí dơ, có hại; và hít vào là dưỡng khí (O2). Vậy, lá phổi cũng như miếng vải trắng, muốn nhuộm được tốt nhất, phải giặt sạch chất dơ bẩn. Nghĩ như vậy, mỗi buổi sáng, tôi đứng một chân xuống đất, tập một số động tác, và bắt đầu tập thở. Trước hết, tôi thở ra, từ từ, rất dài; hết hơi rồi. Nhưng trong phổi còn thán khí nhưng đọng, chưa ra hết, tôi lại tiếp tục thở ra cho đến khi không còn thở ra được nữa. Bấy giờ, tôi mới hít vào và cố gắng hít thật nhiều cho căng lồng ngực. Để cho các tế bào phổi đủ thời gian tiếp nhận hết dưỡng khí, tôi lại ưỡn ngực, ngưng một, hai giây, rồi mới từ từ thở ra. Cứ như vậy, 10 lần thôi. Điều quan trọng nhất là không cần tập nhiều, (vì tập nhiều thường mất nhiều thời gian nên chóng chán) nhưng phải tập thường xuyên, ngày nào cũng tập. Tất cả chỉ mất 10 hay 15 phút. Tôi thấy cơ thể mình có tiến triển theo chiều hướng tốt. Tinh thần cũng vậy. Thế là tôi nâng quyết tâm, dù thế nào, ngày nào cũng sẽ tập như vậy, như rửa mặt và ăn cơm, cho tới khi chết. Chỉ bỏ tập trong trường hợp bị ốm bịnh, không ăn được cơm. Từ đấy, ngày nào cũng vậy, dù buồn vui, dù gặp bao nhiêu chuyện bất ngờ, căng thẳng, tôi vẫn giữ quyết tâm tập thể dục và một lần làm phương pháp “A”. Thậm chí, có điều kiện nằm không, mỗi ngày tôi làm phương pháp “A” hai lần. Một lần buổi sáng và một lần trước khi đi ngủ. Một điều lợi tôi thấy ngay là trước khi ngủ, tập xong, gối đầu lên gối, chỉ 5, 10 phút là ngủ ngay. Óc không căng thẳng như mọi khi cứ trằn trọc 2, 3 tiếng vẫn không ngủ được. Hơn nữa, tôi thấy bệnh quái ác nhức đầu của mình có vẻ giảm đi, những cơn đau đầu thưa dần. Anh Đà ở buồng tôi chừng hơn 20 ngày… Một hôm, vào buổi chiều, tên Chiến mở cửa bảo anh ôm hết quần áo ra trại chung. Vì chân bị cùm, tôi không thể giúp đỡ dọn với anh, đành rằng trong tù chả có quái gì nhiều, nhưng nó cũng là một hành động tình cảm khi anh đi, và có nhiều hy vọng là…..không bao giờ thấy và gặp lại nhau nữa. Do đó, tôi chỉ ngồi nhìn anh gấp chăn màn, bằng ánh mắt tiễn chào lưu luyến. Trước mặt tên Chiến, anh cầm một gói thuốc lào, cái điếu, và một bao diêm đưa cho tôi: - Anh giữ cái điếu này lại mà hút, tôi được ra trại chung! Tôi xúc động trước tấm lòng của anh, dù vậy, tôi vẫn nói: - Anh mang điếu đi theo để hút, vì đó cũng là kỷ niệm của anh! Anh cười, giọng phớt đời: - Ồ, ngoài trại chung thiếu gì. Anh em đông, nhiều người có. Tên Chiến thò cổ vào quát: - Mau lên, dềnh dàng mãi! Anh ôm bọc chăn màn ra còn ngoái cổ lại: - Anh ở lại khỏe! Cửa đóng rồi, tôi vẫn còn mân mê cái điếu, suy nghĩ mãi về ân tình của một người cùng khổ, tặng cho một người khốn cùng khác. Tôi lại trở về tình trạng ở một mình. Tên Chiến có lẽ hàng ngày quan sát thái độ của tôi, thấy tôi năng nổ lạc quan, không còn ủ rĩ lầm lì, đến độ con ruồi đậu vào mũi cũng không buồn đuổi. Tất nhiên, y đã có báo cáo với cấp trên, và chúng thấy chẳng cần người ở với tôi, kẻo sợ tôi lại tự tử nữa. Ngay chính ánh mắt của y bây giờ, tôi nhìn hàng ngày cũng dường như có chút thiện cảm, không lạnh lùng, ác cảm như trước. Trong những lần ra đổ bô, lấy cơm, trả bát, nhiều lúc bắt gặp ánh mắt của y nhìn tôi với vẻ tò mò. Tôi hơi băn khoăn, không hiểu y có ý định gì đối với tôi, trong khi bản chất của y là một kẻ phớt đời, nói ít mà làm mạnh. Buồng nào tỏ ra ngang bướng, y trị đến nơi. Y nghiêm như vậy nên xà lim rất im lặng. Thỉnh thoảng cũng có vụ tuyệt thực, của một buồng nào đó, y mở cửa, thấy không ra lấy cơm, y chỉ hỏi vì sao không ăn, Tùy theo cách trả lời, nếu người tù tỏ ra không muốn ăn để chết, v.v… Y đóng cửa và nói rằng: - Tôi sẽ không mở cửa buồng anh nữa. Khi nào anh cần ăn, báo cáo tôi! Và, y đã làm như lời nói, không nom, nhìn gì đến nữa. Y vẫn thường nói to với những buồng nào tuyệt thực: - Anh nào muốn chết, cho chết luôn! Y rất ghét thái độ hèn nhát, hoặc nịnh bợ, trong khi hầu như đa số các tên cán bộ khác lại rất thích. |
|
|
![]() ![]()
Post
#48
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Sáu
Mài sắt... nên kim!... Hôm nay là Chủ Nhật. Vào những ngày này, xà lim càng im vắng, vì rất ít khi cán bộ vào gọi buồng nào đi cung. Trời đã vào gần giữa hạ. Không khí hanh khô. Từ những đám rêu xanh ngoài đầu hè, những ẩm mốc (không bao giờ có ánh mặt trời ở các buồng xà lim) bốc lên một mùi nồng nồng, khăn khẳn riêng biệt. Tôi đang ngồi nhìn những nốt muỗi cắn trên tay, chân, mình mẩy và suy nghĩ, phải tìm một cái gì đó để chống đỡ với lũ muỗi này, đột nhiên cửa sổ con mở. Tên Điền thò một ngón tay vào chỉ tôi, giọng cộc lốc: - Đi cung! Rồi y cúi xuống rút chốt cùm, mở cửa lớn. Tôi cũng hơi một chút băn khoăn lẫn ngạc nhiên. Ngay ngày thường, bây giờ thỉnh thoảng chúng mới lại gọi tôi. Còn Chủ Nhật, hầu như từ 7, 8 tháng nay, không bao giờ còn gọi nữa. Vậy sao hôm nay lại gọi bất ngờ như thế này, có chuyện gì đây? Trên đường đi cung, tôi phải đi qua sân trại chung. Cả một cái sân rộng bao la càng làm tăng thêm sự vắng lặng trong ngày Chủ Nhật. Khi đi tới cổng trại chung, bên cạnh xà lim II, nơi ghi dấu một đoạn đời tù, với bao nhiêu gian khổ ngày ấy. Hình ảnh một thân hình da bọc xương, đầy ghẻ lở, hai chân trong cùm, để rồi cuối cùng suýt gặp tử thần, nhưng được may mắn cứu sống. Tôi chợt nghĩ, ở cả 3 xà lim, tôi đều có dịp đến trước ngưỡng cửa nhà…..thần chết, rồi lại trở về. Tử thần chưa đón nhận tôi! Xà lim III, đang đêm đem đi bắn; xà lim II, phải đem xuống bệnh xá để cứu sống; xà lim I, chính tôi đã tìm đến cái chết. Rồi đây, trên đường đời phía trước, còn những gì chờ đợi tôi nữa? Khi tên Điền dẫn tôi qua sân trại chung, quen như mọi khi, tôi rẽ về phía trái, nơi có những phòng tôi thường đi cung, nhưng tên Điền ra hiệu tay về phía phải: - Đi rẽ phía này! Ngay đầu dẫy là một căn phòng lớn, phòng của ban giám thị Hỏa Lò. Tôi hơi ngạc nhiên, khi y ra hiệu bảo tôi vào Ngay từ cửa, tôi thoáng nhìn thấy có 5, 6 người bên trong: Một người đầu hói, tóc đã bạc một nửa, hơi gầy nhưng cao, kính trắng. Áo “vét”, dáng rất nghiêm, lạnh lùng ngồi ở giữa. Bên phải là ông Trì đeo lon Thượng Úy; bên trái là tên Lê, lon Trung Úy. Cả hai đều là Phó Giám Thị. Thái độ hai tên Trì và Lê hôm nay cũng rất trang nghiêm. Còn 2, 3 người nữa ngồi ở ghế bành dài, phía trái buồng, tôi chưa kịp nhìn. Hơi ngỡ ngàng, tôi bước vào. Không khí trong phòng đang yên lặng, tôi mới bước chân qua cửa, bỗng rổn vang lên giọng tên đầu bạc: - Hứ, ừ…ừ! Cặp mắt cứ như…..điện ấy! Tôi biết tất cả những con mắt của chúng đều tập trung vào mình. Tôi tiến đến gần chỗ chiếc ghế đẩu để trước bàn, dành cho người tù, tôi đứng yên. Giọng miền Trung nặng chịch của tên Trì: - Cho anh ngồi! Tôi ngồi xuống, lẳng lặng suy nghĩ, không biết tên già này là ai, y tỏ ra rất tinh quái. Không khí im lặng, nặng nề kéo dài đến 1 phút. Thật là…lâu! Không một tiếng động. Bỗng, giọng tên già lanh lảnh: - Anh Bình! Hãy ngẩng mặt lên nhìn…..tôi! Tôi đường hoàng ngẩng mặt lên, nhìn thẳng vào … mắt y. Lão phải 60 tuổi, hay ngoài, hai mắt sáng long lanh sau cặp kính trắng. Quắc mắt, lão nhìn vào mắt tôi, như thôi miên một lúc, rồi chỉ một ngón tay dài ngoẵng vào mặt tôi, ngoáy ngoáy, quay tròn mấy vòng, giọng rành rọt: - Trong óc anh đang cuộn lên những mưu mô, thủ đoạn chống đối. Chúng đang lộ ra trong mắt anh kia kìa! Anh quay xoắn vào bao nhiêu vòng, rồi sẽ phải mở nó ra bấy nhiêu vòng. Vừa nói, y vừa quay quay ngược lại vòng ngón tay của y, rồi với một giọng như ra lệnh: - Thôi, cho về! Tôi đứng dậy đi ra, theo tên Điền vào xà lim, lòng ấm ức, đầy băn khoăn. Chỉ 10 phút, không hỏi han gì. Như vậy, y là ai? Buổi gặp y ngắn ngủi chỉ 10 phút, nhưng đã ghi hằn nét trong lòng tôi. Cho mãi tới bây giờ, đã 21 năm rồi, hình ảnh buổi Chủ Nhật gặp lão ấy vẫn chưa phai mờ, vẫn như hiện rõ nét trong trí tôi. Giờ đây, chắc lão đã “ngủm” củ kiệu rồi, nhưng tôi vẫn còn không biết lão là ai? Làm gì? Phải nói, trong suốt 18 năm 4 tháng lao tù của tôi, lão là một trong hai tên tinh quái mà tôi về. Về xà lim, suốt buổi chiều và tối hôm ấy, tôi vẫn còn băn khoăn suy nghĩ về buổi gặp lão già, không tên đó mãi. Buổi trưa hôm sau, một buổi trưa nắng hạ gay gắt ngoài trời, trong xà lim ẩm thấp. Bầu không khí như trong trẻo nhè nhẹ vào lòng toi, trong khi tôi lim dim cặp mắt, nằm nghĩ đến…..nhà xí ở buồng tắm. Ngay cạnh lỗ cầu tiều có một thùng gỗ nhỏ, đã mục vì ẩm thấp lâu ngày, đựng những giẻ rách và giấy đi cầu đã dùng rồi. Cầu tiêu này chỉ dành cho cán bộ. Cán bộ nam ít khi vào đây, vì quá xa. Ban tối, tôi thường thấy mấy cán bộ nữ vào nhà tiêu là nhiều. Có thể xà lim I sâu mãi trong này nên im vắng, cho nên cán bộ nữ thường vào tắm rửa. Tất nhiên, tôi chỉ nghe âm thanh để phán đoán. Hơn nưa, những lúc vào đổ bô, liếc nhìn trong thùng gỗ đựng giấy chùi, tôi còn thấy giẻ rách, hoặc băng màn vệ sinh của phụ nữ. Nhiều khi tôi thấy có những mảnh vải to bằng 2, 3 bàn tay, hoặc những rẻo vải của thợ may, cắt thừa từ quần áo ra. Vì vậy, tôi đã hình thành một phương pháp chống muỗi, bằng những thứ vật liệu “vất đi” đó. Sự bẩn, hay sạch trong hoàn cảnh này, chỉ là tương đối thôi. Nghĩ vậy, tôi thực hiện ngay ý định ngay trong những ngày sau đó. Mỗi ngày 2 lần đổ bô, một tuần hai lần tắm, tôi sẽ tranh thủ nhặt rất nhanh những giẻ và vải…..chùi đít đó. Nhặt được mảnh nào, tôi đem ra vòi nước vò cho sạch phân, rồi về buồng phơi ra. Tôi sẽ chọn những mảnh dài, còn tốt, rút sợi rồi se thành chỉ. Để làm kim, tôi sẽ lấy một cái tăm cật, mài thật xuôi và nhọn; đít kim làm bằng cách mài thật mỏng phía ruột tre, còn phía cật ngâm nước cho mềm rồi uốn đầu vào, lấy một sợi tóc buộc chặt hai vòng. Khéo tay một chút là thành một cái kim có lỗ hẳn hoi, tuy rằng khâu mũi hơi thưa, nhưng được. Từ nhỏ, chưa bao giờ có dịp mó vào kim, nhưng bây giờ vì hoàn cảnh, nên tôi phải tập, lúc đầu sẽ xấu, lo gì, rồi sẽ đẹp lần thôi. Khâu vá thì phải có con dao. Tôi nghĩ mãi, không đào đâu ra. Dạo này, chúng ít gọi cung tôi. Hàng ngày, tôi chỉ loanh quanh từ buồng vào nhà tắm. Vì vậy, mỗi lần vào nhà tắm tôi đổ bô như máy, mắt nhìn ngay vào thùng đựng giấy, giẻ chùi, tay bới vội lên vài lần. Chúng cũng nghèo, nên giẻ chùi thật linh tinh, đủ loại. Thậm chí, chúng còn dùng cả lá cây để chùi nữa. Có tí giẻ, chúng chùi thật kỹ, nên…..đầy phân. Tôi cứ đưa vào vòi nước, vò đại, rồi vắt khô, nhét vào cạp quần; trong khi mắt còn nhìn khắp buồng tắm xem có cái gì có thể làm con dao. Cuối cùng tôi đã tìm được. Ở chỗ nép cửa sổ trong buồng tắm, tấm sắt nhỏ ép bên trong vì lâu ngày, nước mưa làm rỉ một góc phía dưới. Chỗ rỉ không đều nhau, nên lồi ra một khoảng to bằng ngón tay cái. Tội vội bẻ. Bẻ mấy lần chưa gẫy, bên ngoài tên Chiến đã quát: - Nhà tắm ra đi! (Mỗi buồng chỉ được 5 phút). - Vâng! Thôi để lần sau bẻ tiếp vậy. Về buồng, dù một chân vẫn bị cùm, tôi cũng thấy vui vui. Bây giờ có thể tìm được dao rồi. Có dao, sẽ giải quyết được nhiều chuyện. Lúi húi móc những miếng vải lại từng miếng cho thật khô, rồi phơi rải ra phía trên đầu sàn. Trên đó còn thừa một khoảng, vì bị cùm, nên tôi phải thụt người xuống đến 30 phân ấy. Tôi dự định sẽ khâu hai cái túi chân, hai cái túi tay và một cái …..túi đầu. Vì thế, tôi phải kiếm nhiều giẻ. Lúc đầu, tôi phải kiếm nhiều giẻ. Lúc đầu, sợ thiếu cho nên trong thùng giẻ to, giẻ nhỏ tôi lấy hết. Nếu nên cán bộ nào đi cầu, ngồi để ý nhìn vào thùng gỗ nhỏ, chắc sẽ lấy làm lạ, không biết bao nhiêu giẻ chùi dạo này đi đâu mất hết. Ngày hôm sau, tôi đã bẻ được miếng sắt nhỏ sây. Nó méo mó, đường kính độ một phân. Tôi mài miếng sắt nhỏ đó vào một chỗ nhám như đá mài ở sàn xi măng. Tôi cũng phải lựa lúc an toàn mới dám mài. Chúng nó mà bắt được, cũng là phạm nội quy. Chỉ trong một ngày, tôi đã hoàn thành một con dao khá sắc bén. Tuy nó không được già lắm, nhưng cắt được móng tay, sau khi ngâm móng tay vào nước một lúc. Còn vắt vải và chỉ thì…..tuyệt cú mèo! Kỳ này, ngày nào tôi cũng có công việc làm. Hết rút sợi, lại se chỉ, lúc thì mài kim. Hơn một tuần sau, tôi đã bắt đầu khâu. Sau một hồi tính toán nghĩ suy, đầu tiên, tôi khâu nối những miếng vải lại với nhau thành một miếng to theo ý muốn. Rồi tôi khâu một đôi túi tay bằng nhau, mỗi cái cũng phải 4, 5 miếng vải, đủ mầu. Vì có dao (cùn thì lại mài, đá mài có sẵn là sàn xi măng), nên cắt đo cũng dễ dàng. Đến 2 cái túi chân, tôi mất nhiều ngày kiếm vải và công khâu hơn. Nhất là bây giờ kim tre xem ra bất tiện, lúc kéo lên kim cứ bị móc vải, tôi phải mài và bọc lại mãi, mất nhiều thời gian. Tôi chợt nghĩ là phải làm được một cái kim…..sắt, thì mới thật tiện lợi. Nghĩ thì dễ, nhưng đào đâu ra…..một mẩu sắt bây giờ? Vì đã có ý định tìm kim sắt, nên tôi ngừng khâu, hàng ngày chỉ lo kiếm vải, rút sợi và se chỉ thôi. Con dao của tôi bây giờ thực đắc dụng. Những lúc ngồi buồn buồn, lại dùng cắt được cả râu nữa. Tay cứ sờ sờ, thấy sợi nào dài là cắt, cắt cả lông mũi nữa. Thật là tuyệt vời! Vì vậy, tôi phải có chỗ giấu tốt, nếu bất ngờ phải chuyển buồng, không bị mất. Nghĩa là phải luôn mang theo bên mình, và làm sao cho chúng không khám thấy, mà lúc lấy dùng cũng dễ. Sau một lúc suy nghĩ, tôi thấy không tiện gì bằng ở ngay hai mép vạt áo, chỗ gấu áo dưới khuy và cúc cuối cùng. Tôi chỉ cần lấy dao rạch nhẹ phía trong một tí, vừa con dao đút vào, như một cái túi, lại luôn đi với người, mà chẳng ai để ý. Cái ý định làm kim luôn lẩn quẩn trong đầu, nên bất cứ lúc nào có dịp được ra khỏi buồng như: Lấy cơm, đổ bô, hoặc trả bát hay đi cung…..mắt tôi thường để ý mọi vật. Một hôm, đến lượt buồng tôi ra đổ bô, như thường lệ sau khi làm xong ở nhà tắm, tôi báo cáo: - Báo cáo, nhà tắm xong! Tên Chiếu ngồi ở bàn quát: - Ra đi! Tôi ôm bô về buồng: mọi khi, y ở bàn cũng đứng lên theo vào đóng cửa. Nhưng hôm nay, khi tôi đi ngang qua bàn y, y nói nhẹ: - Cất bô vào buồng, rồi ra đây tôi gặp! Vào buồng, trước hết, tôi mó mấy miếng giẻ tôi vừa nhặt và nhét trong cạp quần ra, dù hãy còn ướt, tôi cũng đút đại dưới cái gối “vỏ ba lô”. Trong dạ hơi băn khoăn, không biết có chuyện gì? Tôi ra, vừa từ từ tiến đến chỗ bàn y, vừa chuẩn bị tinh thần để đối ứng với những việc bất ngờ. Y ngẩng lên, đút mấy cuốn sổ đang xem trên mặt bàn vào ngăn kéo, rồi chỉ ghế: - Anh ngồi đi! Giọng y có vẻ êm dịu. Sau khi tôi ngồi, y có vẻ ngập ngừng, dè dặt: - Anh ra Hà Nội bằng đường nào? Tôi hơi ngạc nhiên, dù vậy tôi vẫn chậm rãi trả lời: - Dạ, bằng hải thuyền! - Anh đổ bộ ở đâu? Tôi vẫn dè dặt: - Hà Tĩnh ạ! - Anh ra bao lâu thì bị bắt? - Gần một tháng! - Ở miền Nam, anh ở đâu? - Dạ, Sài Gòn! - Miền Nam, dân thường bị đói, vậy hàng năm, chết nhiều không? Tôi mở to mắt nhìn y ngạc nhiên. Y cũng khựng lại, khi thấy thái độ của tôi như vậy: - Thưa ông, ở miền Nam, tôi đã sống 8 năm, tôi chưa hề nghe cái từ “chết đói” bao giờ cả. - Thật à? Nghe tôi nói, mặt y vừa ngẩn ra, vừa ngạc nhiên, y chỉ thốt ra một câu “thật à?” như nửa tin, nửa không tin! Tôi chậm rãi, nói tiếp: - Thực ra, nhà tôi nghèo, vì vậy, tôi phải xin vào trại sinh di cư để đi học, ở đó chính phủ nuôi ăn. Ngay khi còn ở nhà với bố mẹ, tôi cũng chẳng biết bao nhiêu tiền một ký gạo, vì hâu như mọi người không ai chú ý đến gạo ăn. Mà có khi nào bàn đến, cũng chỉ bàn xem chỗ nào bán món ăn ngon thôi. Còn ở trại, trong bữa cơm, trại sinh thường nắm cơm nho nhỏ để ném nhau, mỗi khi họ trêu đùa nhau trong bữa ăn. Đôi khi họ còn dùng cả những mẩu bánh mì trong phòng ăn, để ném nhau nữa. Ngoài xã hội, mỗi khu phố đều có những quán cơm, gọi là “quán cơm xã hội”. Ở đấy, họ chỉ lấy tiền thức ăn, còn cơm, tha hồ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Mỗi bữa chỉ có 5 đồng. Chúng tôi là học sinh nghèo, cũng ít khi hoặc chả bao giờ vào đấy ăn, vì ngượng, sợ những bạn học khác thuộc những gia đình giầu có nhìn thấy, cười. Để ông ý niệm được, tôi xin nói là lúc đó, tức 1962 về trước, Bộ Lao Động Miền Nam ấn định lương tối thiểu cho một ngày làm của một người đàn ông là 45 đồng, đàn bà 42 đồng. Lương này gọi là lương “phù động”, quy định cho một người không biết nghề nghiệp gì, chỉ làm các việc linh tinh như quét dọn, khuân vác, v.v… Nhưng, người ta ít chịu đi làm lắm, vì lười, và vì xấu hổ. Hơn nữa, ở đâu họ cũng không đói, nên họ không cần đi làm kiểu ít tiền như thế. Vậy ông thử tính, với lương công nhân hạng bét, họ cũng làm một ngày, ăn bốn ngày. Trong khi ở miền Bắc này, tôi thấy, làm ngày nào, ngày ấy mới có ăn, mà phải làm cố gắng với hết cả sức lực của mình. Mặt y cứ bần thần suy nghĩ. Một lúc, y nói vẻ ngập ngừng: - Lúc nào anh kể cho tôi nghe câu chuyện anh ra miền Bắc, mỗi ngày một ít. Tôi sẽ gọi anh ra đây! Tôi gật đầu đồng ý. Với những kinh nghiệm nghề nghiệp, tôi “ngửi” thấy y là một người tò mò muốn biết cuộc sống thực tế của miền Nam. Với chức cai tù này, y chỉ biết tội chính của người tù dưới quyền y có trách nhiệm quản lý, nhưng không được quyền biết chi tiết nội dung tội của người đó, nhất là về chính trị. Qua một lúc nói chuyện, nhiều lần mắt y lấm lét liếc ra phía cổng, thái độ ngập ngừng như muốn dặn tôi không được nói với ai là y đã hỏi chuyện tôi; nhưng, có lẽ vì tự ái của một cán bộ nên y lại thôi, để chờ dịp khác thuận tiện. Phần tôi, tôi đã xác định rõ ràng, loại tội như tôi đã rơi vào tay cộng sản, chẳng bao giờ chúng tha, nhất là lúc đất nước lại chia đôi thế này. Vậy, đằng nào cũng thế, sợ quái gì. Tùy theo điều kiện cho phép, sẽ cho y biết thực một số nét về xã hội miền Nam. Đấy cũng chỉ là trách nhiệm của một người bình thường. Giữa người và người, thấy một người khác hiểu lầm điểm A ra điểm B, mà mình biết rõ, mình phải nói, thế thôi. Trong lúc ngồi nói chuyện, y có những nét không được tự nhiên, vừa như băn khoăn sợ sệt, vừa như ham muốn hiểu sự thật nhiều vấn đề mà y bán tin, bán nghi. Y ngồi hỏi chuyện tôi mà cứ nhấp nhỏm không yên. Rồi khi có tiếng động ở cổng, y vội vàng ra hiệu bảo tôi vào. Tôi cũng liếc nhanh, chỉ là lão Bằng vào đi cầu, hay gọi buồng nào đó đi cung thôi. Những ngày sau đó, tôi để ý thấy y nhìn tôi thiện cảm, nhưng chẳng bao giờ y gọi tôi nữa. Như vậy, trước hết tôi khẳng định là không phải y muốn moi móc, khai thác tôi để lấy tin báo cáo lên trên. Bởi vì nếu muốn moi tin, y phải gọi tôi ra trò chuyện nhiều lần nữa, vì câu chuyện đang có chiều hướng thuận lợi cho y muốn tìm hiểu. Như thế, chỉ có thể là y tò mò muốn biết, lại vừa sợ tôi vô tình ra chấp pháp nói rằng cán bộ xà lim gọi ra hỏi chuyện. Hỏi như vậy trong khi không được lệnh, là y có khuyết điểm. Khuyết điểm này lại về tư tưởng. Cuối cùng, vì chỗ đứng và vì nồi cơm, dù tò mò thích biết rõ những điều mình nghi ngờ nhưng y cũng đành chịu vậy thôi. Điều này cũng cho tôi thấy, ngay trong hàng ngũ cán bộ của chúng, nhiều tên tư tưởng cũng đã rạn nứt, bán tin, bán nghi về những lời “thánh kinh” của đảng dạy bảo rồi. Ngay chiều hôm ấy, khi ra lấy cơm, tôi thoáng nhìn thấy ở đầu chiếc nan gỗ sắp long, của cái chõng bằng cây, nhà bếp vẫn khênh thùng nước và cơm, có một cái đinh khoảng 5 phân đã thò đầu ra đến một phần ba rồi. Làm sao mà lấy được đây? Ác cái là, những lúc lấy cơm, tên Chiến thường đứng ngay đấy nhìn, bởi vì trước đây nhiều lần có hiện tượng xẩy ra là buồng được ra lấy cơm trước, cán bộ không để ý, dã bốc một nắm của bát khác bỏ vào bát mình. Có khi bốc cả canh, cả rau nữa, dù là rau muống già nấu muối, đen xì và cũng chỉ được vài gắp, trong cái bát nhỏ.Nhất là hôm nào, lâu lâu có bữa tươi, có mấy miếng thịt heo, hoặc thịt trâu, cán bộ càng phải coi kỹ, kẻo những anh ra sau chịu thiệt. Dù rằng bị cán bộ bắt được, phải bị cùm, có khi còn bị sỉ vả ở xà lim, nhưng mỗi người, mỗi buồng, chả ai trông thấy ai, nên họ đâu có ngượng. Nhiều lúc trả bát, nhiều khi tên cán bộ nào lười không đi ra, đi vô theo, thường đứng ở cửa buồng chờ tù ra đặt trả bát, rồi múc gáo nước đi vào, y chỉ việc đóng cửa cài then thôi. Tôi phải chờ thời cơ, trong lòng cũng hơi lo, nhỡ ở dưới nhà bếp, tên nào nhìn thấy chiếc đinh như vậy, ngứa mắt lấy búa đóng lại thì hỏng. Phải chờ chực mãi; 4 ngày sau mới có dịp. Hôm đó, đúng lúc tôi trả bát, bỗng có tiếng huỳnh huỵch ở buồng số 12, tên Chiến vội chạy vào xem. Thời cơ đến, tôi chả cần biết chuyện đó là chuyện gì, lẹ làng như máy, tôi cúi xuống rút chiếc đinh tôi đã nhắm từ mấy hôm trước. Chiếc đinh đã lúc lắc, nhưng vì đầu chiếc đinh nhỏ, nên kéo ra đau tay quá. Mắm môi, mắm lợi mà không kéo nó ra được. Không có cái gì, tôi vơ vội tà áo của mình làm lót tay, nghiến răng rút. Vừa rút được xong, cửa cổng xà lim xịch mở, tên Kế, cán bộ ngoài trại chung đi vào. Thật hú vía, nếu lão vào sớm một chút, hỏng cả việc. Tôi càm gáo nước đi vào. Bây giờ tôi mới chú ý nghe tiếng quát của lão Chiến, trong lúc y đang cúi rút chốt hai cái cùm, với hai người bên trong buồng số 12: - Cho chân vào! Chốt cùm vào xong, y lại mắng: - Các anh là con vật à? Tù trong xà lim còn đánh nhau! Lúc nãy, vì tập trung chú ý vào việc nhổ đinh, nên tôi không biết vì sao họ đánh nhau. Nhưng, dù sao chăng nữa, câu tên Chiến mắng vẫn đúng với họ. Tôi chẳng biết họ là ai, tội gì, nhưng qua việc này, họ cũng đáng chê! Tên Chiến trở lại buồng tôi cài then cửa, rồi mở cửa nhỏ nhìn vào, thấy chân tôi đã ngoan ngoãn để trong cùm rồi. Y chốt then cùm, xong mới trở vào buồng số 7 gọi cung, vì tên Kế đang đứng chờ. Cửa đóng rồi, tôi quay lưng lại phía cửa, lấy cái đinh ra coi, nó hơi bị cong queo. Lợi dụng những kẻ hở của chiếc cùm sắt, hoay hoay một lúc, tôi đã uốn được chiếc đinh thẳng ra. Nhìn chiếc đinh, tay mân mê: “To quá”, tôi ngẫm nghĩ, mãi đến khi nào mới thành…cái kim!”. Hơn nữa, tôi có được mài tự do đâu. Không nghe ngóng, che giấu cẩn thận, lại một chân nữa vào cùm như chơi. Mà còn mất cả cái đinh, tôi đã tốn nhiều tâm óc mới lấy được, mục đích là để hoàn thành những đồ dùng chống muỗi. Tất cả mọi thứ đã đủ rồi, chỉ còn mỗi cái kim nữa thôi, là sẽ hoàn toàn mục tiêu. Nghĩ như vậy, tôi nâng cao quyết tâm mài. Tôi tìm những giờ an toàn để mài. Ban đêm, im lặng qua, thậm chí có những đêm mất ngủ, tôi còn nghe rõ tiếng gãi bụng rồn rột ở buồng số 14. Buồng số 2 không mở cửa bao giờ. Buồng số 1 ở phía trái, cách một buồng số 2. Buồng 4 ngay cạnh phía phải cùng dẫy; buồng 14 ở ngay đối diện. Ba buồng này; 1, 4 và 14 ban đêm tôi nghe thấy cả những tiếng thở dài, tiếng kéo bô, mở bô, đi giải, hay đi cầu. Vậy bây giờ tôi mài, tất nhiên họ cũng biết, và có thể các buồng phía trong cũng nghe thấy, chỉ có điều họ không biết tôi mài cái gì. Tóm lại, ban đêm tiếng mài nghe rõ, nhưng cũng có lợi điểm là nếu để ý lắng nghe, khi cán bộ vừa mở cổng xà lim, cách xa đến 40 mét, thì trong này đã biết có người vào rồi. Vì vậy, tôi thường mài về đêm, và vào ngày Chủ Nhật. Đầu tiên, tôi đè thẳng cây kim xuống sàn. Cứ đẩy dọc. Một lúc, cái đinh nóng quá, tôi phải lót tay 3, 4 lần vải mà vẫn nóng; sau phải mài nước. Tôi chủ định mài vuông 4 mặt cho nhỏ dần. Khi nào cái đinh bé theo ý muốn, tôi mới mài tròn, và mài nhọn. Điều may là trước đây, tôi đã là thợ kim hoàn, nên tính toán kết hợp với sự khéo tay, cũng không khó khăn lắm, chỉ mất nhiều công. Nhiều lúc mài, tay mỏi rời, tôi thấy cũng nản, định bỏ cuộc vì cái đinh…..to quá, mài lại không được tự do, vừa mỏi tay, vừa căng thẳng tinh thần. Những lúc như thế, óc tôi lại nhớ đến bài học thuộc lòng, trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư lúc còn nhỏ: Có Chí Thì Nên Làm trai chí ở cho bền. Chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con. Khi nên trời giúp công cho, Làm trai năm liệu, bẩy lo mới hào. Trời sinh, trời chẳng phụ nào, Công danh gặp hội, anh hào ra tay. Trí khôn sẵn để dạ này. Có công mài sắt, có ngày…..nên kim. Một thoáng mây buồn vương trong trí tôi! Như vậy, tôi chỉ có thể hiện thực được vế dưới của bài học, cái vế…mài đinh thành kim. Còn vế trên, vừa bất tài, lại vừa mang số phận hẩm hiu nữa, nên đành chịu thua. Không có tài đã là một điều bất hạnh rồi, lại gặp buổi không may, vào xà lim ngồi, đáng quá rồi! Mặc dù đã thừa nhận như vậy, nhưng tôi vẫn không khỏi cảm thấy vướng vất một nỗi uất nghẹn, tủi hờn. Uất nghẹn, tủi hờn của một người không đủ khả năng, để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Chỉ một áng mây đen lững lờ trôi qua, thế mà tay tôi như chùn lại không muốn mài nữa. Nổi buồn nguy hiểm thật, làm chậm bước trên đường đi tới. Thôi tạm biệt mi! Đối với Francois Sagan thì “Bonjour Tristesse”, nhưng tôi thì phải nói “Adieu Tristesse!” mới đúng. Lại bắt tay vào việc. Thật vất vả, hơn nửa tháng trời tôi mới hoàn thành chiếc kim. Do sự khéo tay của nghề vàng, tôi đã biến một chiếc đinh thành chiếc kim thật óng nhọn; nhất là phía đít kim, mài mỏng, uốn gấp lại, rồi mài thành một cái lỗ nhỏ xúi, rất vừa ý. Trong quá trình, tôi vừa làm vừa nghiên cứu, mới đầu chưa tốt, rồi dần dần thành tốt, thành đẹp. Tôi giấu chiếc kim này thật bí mật, ngay trong cái quai ba lô ở đầu giường. Tôi vẫn để chiếc kim tre đấy, phòng hờ cán bộ nào khác thắc mắc, hỏi lấy kim ở đâu để khâu, thì giơ ra. Bây giờ có kim rồi, tôi khâu rất nhanh. Khâu mãi cũng quen tay, nên tôi khâu ngày càng nhanh, mà lại đẹp. Lần lượt tôi khâu đến 2 cái túi chân. Tôi khâu cái túi dài lên quá bắp chân. Tối đến, tôi cho 2 chân vào túi, kéo hai ống quần trùm ra, rồi lấy hai sợi dây buộc lại như đi ủng. Hai tay cũng hai cái túi dài quá cổ tay. Tôi khâu dính liền hai sợi dây vào thành túi, khi cho tay vào rồi, chỉ việc cầm dây cuốn hai vòng, rồi giắt đầu dây chặt lại. Còn trên đầu là cái túi to. Tôi đã cố dành những mảnh giẻ lớn và mỏng để khâu túi … đầu. Lúc đầu, tôi chỉ khâu một cái túi, rồi chui đầu vào. Túi dài xuống bên dưới cổ, cho váo trong cổ áo, rồi khuy áo cổ lại. Nằm một lúc, rất nóng và bí hơi, khó thở. Tôi suy nghĩ, trên đầu có tóc, muỗi không đốt được, vậy có thể tháo phía trên ra, rồi khâu vào như cạp quần, xỏ luồn sợi dây nhỏ để thắt lại, muốn để lỗ to nhỏ tùy ý. Tôi thực hiện như ý nghĩ, xong đội túi vào. Nằm xuống một lúc, thấy vẫn nóng, vẫn khó thở. Tôi lại nghĩ, lỗ mũi mình luôn luôn thở ra hít vào, dù là ngủ, vậy các chú muỗi không dám đến cắn. Tôi lại khoét ra một lỗ rất xinh, lại khâu viền nữa, thò vừa cái chỏm mũi ra và hai lỗ mũi. Thế là ổn rồi! Bây giờ đang đầu tháng 8 dương lịch, vẫn đang giữa mùa hè, trời nóng ghê gớm. Tối đến vẫn phải đóng bộ như trên. Các đồng chí muỗi của cộng sản, từ này chỉ đứng ngoài khóc thôi, nghe các chú! Nhưng sáng dậy, mồ hôi ướt đẫm quần áo. Mùa hè nóng như vậy, ngay cởi trần, và chỉ mặc quần đùi, mà mồ hôi còn ra nhễ nhại, huống chi mặc quần áo, lại che tay chân, trùm kín đầu. Cũng đành, phải chịu đựng chứ biết làm sao! Cũng trong khoảng thời gian này, nhiều đêm tôi phải dậy đột ngột. Có những đêm tôi đang ngủ ngon lành, tôi giật mình thức dậy vì những tiếng đập cửa buồng thình thình. Tôi ngồi lên, mất một lúc mới tháo được túi trùm đầu ra, thì lại nghe người bên ngoài buông thõng một câu: - Thôi, nằm xuống đi! Vài lần xẩy ra như vậy làm tôi ngạc nhiên, nhưng sau tôi hiểu ra. Tên cán bộ đi tuần đêm, thấy tôi nằm thẳng cẳng, tay chân, đầu đều bó kín, nghĩ là tôi tự tử, hay chết rồi không chừng, y liền đập cửa gọi. Đến khi tôi ngồi dậy, rút đầu ra khỏi túi, y đã hiểu là tôi làm như vậy chỉ để chống muỗi, nên y lại bảo nằm xuống… Với tên cán bộ nào thấy như vậy rồi, thì lần sau y không gọi nữa. Nhưng, những tên cán bộ khác lại phải gọi. Mà một đêm thường phải đến 3, 4 tên trực trong khoảng từ 10 giờ tối, đến 5 giờ sáng. Cũng may, dần dần tất cả tụi cán bộ Hỏa Lò đều biết, nên đêm đêm tôi đỡ phải giật mình thức giấc nữa. Chỉ còn những trường hợp đột Bây giờ có kim rồi, tôi khâu rất nhanh. Khâu mãi cũng quen tay, nên tôi khâu ngày càng nhanh, mà lại đẹp. Lần lượt tôi khâu đến 2 cái túi chân. Tôi khâu cái túi dài lên quá bắp chân. Tối đến, tôi cho 2 chân vào túi, kéo hai ống quần trùm ra, rồi lấy hai sợi dây buộc lại như đi ủng. Hai tay cũng hai cái túi dài quá cổ tay. Tôi khâu dính liền hai sợi dây vào thành túi, khi cho tay vào rồi, chỉ việc cầm dây cuốn hai vòng, rồi giắt đầu dây chặt lại. Còn trên đầu là cái túi to. Tôi đã cố dành những mảnh giẻ lớn và mỏng để khâu túi … đầu. Lúc đầu, tôi chỉ khâu một cái túi, rồi chui đầu vào. Túi dài xuống bên dưới cổ, cho váo trong cổ áo, rồi khuy áo cổ lại. Nằm một lúc, rất nóng và bí hơi, khó thở. Tôi suy nghĩ, trên đầu có tóc, muỗi không đốt được, vậy có thể tháo phía trên ra, rồi khâu vào như cạp quần, xỏ luồn sợi dây nhỏ để thắt lại, muốn để lỗ to nhỏ tùy ý. Tôi thực hiện như ý nghĩ, xong đội túi vào. Nằm xuống một lúc, thấy vẫn nóng, vẫn khó thở. Tôi lại nghĩ, lỗ mũi mình luôn luôn thở ra hít vào, dù là ngủ, vậy các chú muỗi không dám đến cắn. Tôi lại khoét ra một lỗ rất xinh, lại khâu viền nữa, thò vừa cái chỏm mũi ra và hai lỗ mũi. Thế là ổn rồi! Bây giờ đang đầu tháng 8 dương lịch, vẫn đang giữa mùa hè, trời nóng ghê gớm. Tối đến vẫn phải đóng bộ như trên. Các đồng chí muỗi của cộng sản, từ này chỉ đứng ngoài khóc thôi, nghe các chú! Nhưng sáng dậy, mồ hôi ướt đẫm quần áo. Mùa hè nóng như vậy, ngay cởi trần, và chỉ mặc quần đùi, mà mồ hôi còn ra nhễ nhại, huống chi mặc quần áo, lại che tay chân, trùm kín đầu. Cũng đành, phải chịu đựng chứ biết làm sao! Cũng trong khoảng thời gian này, nhiều đêm tôi phải dậy đột ngột. Có những đêm tôi đang ngủ ngon lành, tôi giật mình thức dậy vì những tiếng đập cửa buồng thình thình. Tôi ngồi lên, mất một lúc mới tháo được túi trùm đầu ra, thì lại nghe người bên ngoài buông thõng một câu: - Thôi, nằm xuống đi! Vài lần xẩy ra như vậy làm tôi ngạc nhiên, nhưng sau tôi hiểu ra. Tên cán bộ đi tuần đêm, thấy tôi nằm thẳng cẳng, tay chân, đầu đều bó kín, nghĩ là tôi tự tử, hay chết rồi không chừng, y liền đập cửa gọi. Đến khi tôi ngồi dậy, rút đầu ra khỏi túi, y đã hiểu là tôi làm như vậy chỉ để chống muỗi, nên y lại bảo nằm xuống… Với tên cán bộ nào thấy như vậy rồi, thì lần sau y không gọi nữa. Nhưng, những tên cán bộ khác lại phải gọi. Mà một đêm thường phải đến 3, 4 tên trực trong khoảng từ 10 giờ tối, đến 5 giờ sáng. Cũng may, dần dần tất cả tụi cán bộ Hỏa Lò đều biết, nên đêm đêm tôi đỡ phải giật mình thức giấc nữa. Chỉ còn những trường hợp đột xuất, cán bộ Sở Công An sang đi kiểm tra ban đêm, dĩ nhiên không biết, lại đập cửa. Bây giờ, tôi lại thấy hai cái túi tay hơi bất tiện, ở chỗ muốn cầm cái gì, hay buộc dây chẳng hạn, cũng khó. Kẹt nhất là việc…..gãi, vì không có ngón tay. Tôi lại nghĩ việc cải tiến thành đôi…..”găng”, có những ngón tay đỡ lùng thùng. Và, tôi bắt đầu tiến hành, chỉ mươi ngày sau, tôi đã kiếm được mấy miếng giẻ to. Tôi chọn 4 miếng to nhất, xòe bàn tay ra, rồi đặt úp xuống miếng vải. Làm sao, có cái gì để vẽ đây? Tôi nhìn quanh, à cái chổi Thanh Hao kia! Tôi lấy một đoạn cuống, đốt cháy đến đâu tôi dầm vào gáo nước tới đó. Thế là tôi đã có một cục than nhỏ! Tôi nhẹ tay vẽ theo hình những ngón tay xòe ra, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cắt dần theo đường vẽ, được hai miếng cho tay này, và hai miếng cho phía kia. Rồi khâu, khâu xong lộn ngược ra, tôi thấy ở những kẽ giữa hai ngón tay, dồn vào một cục, trông không ra làm sao cả. Tôi lại nghiên cứu, dần dần cũng giải quyết được. Dây buộc ở cổ tay, đêm ngủ giẫy giọn thế nào cứ bị tuột ra. Để tránh tình trạng này, tôi lấy hai cái cúc ở áo cũ, đính vào phía trên cổ tay áo mỗi bên; trên cổ tay “găng” cài vào, mà lại không bị tuột khi ngủ, dù tay có vung vẩy. Bây giờ, tay đeo “găng”, có ngón, gãi cũng được. Ban đêm như vậy người tôi che kín hết, chỉ thò ra ngoài có cái chỏm mũi thôi, vậy mà có nhiều con muỗi cũng thật tinh khôn và dũng cảm. Có hôm, tôi mới đóng bộ, còn nằm thả hồn theo gió mây, chưa ngủ, một chú muỗi đậu vào đốt. Tôi chờ, lừa tay khẽ nện cho chú một phát. Mở túi đầu ra, tôi nhìn thấy máu và một chú muỗi bẹp dí. Lúc này, vào nhà xí, chỉ khi nào thấy miếng giẻ to và còn tốt, tôi mới lấy để chuẩn bị khâu “bí tất” cho mùa Đông tới. Tôi lấy được một miếng vải hoa cũ, tôi khâu một cái túi để đựng kim tre, chỉ và giẻ vụn, bao diêm, cái điếu, lược, bàn chải đánh răng v.v… Bên ngoài cái túi đó, tôi khâu thêm một cái túi nhỏ xíu, để đựng mấy cái tăm. Mỗi cái tăm, tôi dùng ít nhất cũng một tháng, cho tới khi mục gẫy mới thôi. Mỗi lần xỉa răng xong, tôi lại cầm gáo nước đổ một tí để rửa, rồi cắm vào một cái lỗ nhỏ, tôi đã làm sẵn ở túi đựng tăm. Gói tăm, lúc mới bị bắt vào có 24 cái, giờ đã hơn hai năm rồi mà vẫn còn tới 10 cái. Tôi đính dây vào chiếc túi và móc treo cái túi đựng đồ linh tinh này vào cái cuống chổi Thanh Hao, tôi đã cắm sẵn ở một lỗ đinh trên tường. Cuộc sống cũng thấy nề nếp, ung dung hơn trước. Tôi lại hí hoáy tập thêu chữ “B” hoa thật to ngoài chiếc túi ấy. Trông cũng đẹp chán! Dạo này, một điều làm tôi hưng phấn là, kể từ ngày tôi quyết tâm tập thể dục và phương pháp “A” hàng ngày, cho tới nay mới được hơn ba tháng. Vậy mà bệnh nhức đầu quái ác của tôi đã khỏi hẳn, lúc nào tôi cũng không hay. Thêm nữa, tinh thần của tôi tương đối sảng khoái, thanh thoát. Ngay dáng dấp, phong độ của tôi cũng nhanh nhẹn hẳn lên. Thế là, hàng ngày ngoài những lúc lúi húi, loay hoay thêu cái này, vá cái kia, tôi ngồi tập thêu chữ, thêu cành hoa, v.v….Xấu thôi! Nhưng là những tác phẩm, do chính tay mình tạo ra, ngắm nhìn cũng thấy vui vui, thấy cõi lòng nhè nghẹ, lâng lâng như được bồi thêm sinh khí. Hơn là cứ ngồi không, hết nhìn cái cùm, lại nhìn cái bô, với 4 bức tường chật hẹp….. |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 23rd July 2025 - 08:08 AM |