Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 Kim Các Tự - Mishima Yukio - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> Kim Các Tự - Mishima Yukio
WildFlowers
post Jun 14 2008, 09:59 AM
Post #1


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,312
Joined: 10-April 08
Member No.: 12
Country



Kim Các Tự


Nguyên tác: Kinkaku-ji - The Temple of the Golden Pavilion
Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch


Chương 1

Ngay từ khi tôi còn thơ ấu, Ba vẫn thường kể câu chuyện về Kim Các Tự cho tôi nghe.

Tôi ra đời trên một mũi biển hiu quạnh nhô ra ra biển Nhật Bản ở phía đông bắc Maizuru. Tuy nhiên, nguyên quán của Ba không ở đây mà ở Shiraku, miền ngoại ô phía đông thành phố Maizuru. Ba được thúc đẩy gia nhập giáo hội và trở nên tu sĩ trụ trì một ngôi chùa tên một mỏm đất xa xôi. Ba lập gia đình ở nơi này và sinh ra một đứa con trai, ấy chính là tôi vậy.

Trong khắp miền lân cận ngôi chùa, trên mỏm đất Nariu, không hề có một trường trung học nào thích hợp cho tôi. Kết cục, tôi phải rời cha mẹ đến ngụ ở nhà chú tôi tại sinh quán của Ba ngày trước; trong thời gian sống ở nơi này, tôi theo trường trung học Đông Maizuru, cuốc bộ đi học cũng như lúc về nhà.

Bầu trời nơi quê cũ của Ba rất trong sáng. Nhưng mỗi năm vào tháng mười một và mười hai ngay trong những ngày trên trời dường như không có lấy một cụm mây, mỗi ngày chúng tôi vẫn bị bốn năm trận mưa rào đột ngột đổ ụp xuống đầu. Tôi nghĩ là chính vì miền đất này mà tôi đã có cái tâm tính thực là hay thay đổi.

Vào những chiều tháng Năm, sau khi đi học về, tôi thường ngồi trong phòng học trên tầng gác thứ nhì trong căn nhà chú tôi và mơ màng ngắm nhìn những vì ngọn đồi trước mặt. Ánh chiều tà lấp lánh trên các cành lá non bao phủ sườn đồi trông như giữa những cánh đồng người ta đã dựng lên một bức bình phong bằng hoàng kim óng ánh. Mỗi khi trông thấy cái này, tôi lại tưởng tượng đến hình ảnh Kim Các Tự.

Mặc dù thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy Kim Các Tự thật sự trong các tấm ảnh và các sách giáo khoa, song hình ảnh chế ngự tâm hồn tôi vẫn là hình ảnh Kim Các Tự theo lời Ba miêu tả. Ba chưa bao giờ kể cho tôi nghe là Kim Các Tự thật sự óng ánh hoàng kim hoặc có một vẻ gì na ná như thế; tuy vậy, theo Ba, trên khắp trái đất này chẳng có gì đẹp đẽ cho bằng Kim Các Tự hết. Vả lại, chính mặt chữ và chính âm ận của từ ngữ đã gán cho Kim Các Tự một vài tính chất hoang đường nào đó in sâu trong tâm khảm tôi.

Khi nhìn ánh mặt trời, tôi cảm thấy chắc chắn đó là một ánh hoàng kim do ngôi chùa vô hình rọi đến. Hiệp lộ Yoshizaka, ranh giới giữa huyện Fukui và phủ Kyoto thực sự nằm ở hướng đối nghịch, tôi vẫn quen nhìn thấy Kim Các Tự hiện hình vụt lên bầu trời buổi sớm giữa những ánh triêu dương trong khi mặt trời lên sau những rặng đồi chập chùng ở phía đông.

Như thế là Kim Các Tự hiển hiện ở khắp mọi nơi. Chừng nào mà tôi chưa được thực sự để mắt ngắm nhìn, Kim Các Tự vẫn còn giống như bể cả. Vì mặc dù vịnh Maizuru chỉ cách làng Shiraku nơi tôi cư ngụ có ba dặm rưỡi về phía Tây, những ngọn đồi vẫn chặn lấp không cho người ta nhìn thấy nước bể; tuy vậy trong không khí luôn luôn phảng phất một thứ dự cảm về bể cả; một đôi khi gặp thời tiết xấu, từng đàn chim hải âu bay xà xuống những cánh đồng kế cận để tìm chỗ ẩn náu.

Tôi vốn yếu đuối và tôi vẫn luôn luôn bị những thằng bạn khác đánh bại trong những cuộc chạy đua hay là đánh thiết bổng. Ngoài ra, ngay từ khi lọt lòng tôi đã mắc tật nói lắp và cái tật này lại càng làm cho tôi có khuynh hướng khép kín không ưa giao tế hơn. Và ai nấy đều biết tôi là con một thầy tu ở chùa. Một vài thằng bé tai ác vẫn thường chế nhạo tôi bằng cách bắt chước một tu sĩ nói lắp trong khi ông ta đang khó nhọc mà lắp bắp từng câu kinh. Trong một quyển sách của chúng tôi có một câu truyện trong đó xuất hiện một nhà trinh thám nói lắp và mấy thằng kia thường đặc biệt cao giọng đọc những đoạn đó cho tôi nghe.

Chẳng cần phải nói là tật nói lắp của tôi đã dựng một chướng ngại vật giữa tôi và ngoại giới. Tôi vẫn thường vấp váp khi phát ra âm thanh đầu tiên. Cái âm thanh đầu tiên này giống như một cái chìa khóa của cánh cửa ngăn cách thế giới nội tâm của tôi và thế giới và thế giới ngoại tại, và tôi chưa bao giờ được thấy cái chìa khóa này xoay vặn trơn tru trong ổ khóa. Phần lớn người đời nhờ tài nói năng trôi chẩy có thể giữ cho cánh cửa giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài luôn mở rộng để cho không khí tự do qua lại giữa hai thế giới này, nhưng với tôi thì điều đó hoàn toàn không thể có được. Trên chìa khóa đã có một lớp rỉ sắt dầy đặc mất rồi.

Khi một kẻ nói lắp vật lộn một cách tuyệt vọng để thốt ra được âm thanh đầu tiên, hắn ta thực giống như một con chim bé nhỏ đang cố gắng gỡ mình ra khỏi một vũng bùn dầy đặc. Cuối cùng khi nó xoay xỏa để tự giải thoát thì đã quá muộn mất rồi. Tất nhiên là có những lúc mà thực tế của thế giới bên ngoài dường như đã chờ đợi tôi, khoanh tay nơi nó đứng trong khi tôi đang cố gắng vật lộn để tự giải thoát. Nhưng cái thực tại đang đợi chờ tôi không phải là một thực tại tốt tươi. Khi mà cuối cùng sau biết bao cố gắng mới tới được thế giới bên ngoài tôi chỉ còn thấy một thực tại vừa mới tức thời thay đổi màu sắc và vượt ra ngoài tiêu điểm - một thực tại đã mất hết các màu sắc mới mẻ mà tôi coi là thích hợp với chính mình, và đến lúc đó đã bốc ra một mùi hôi hôi ung ủng.

Như ai nấy có thể tưởng tượng dễ dàng, một thiếu niên như tôi sẽ đi tới chỗ ôm ấp hai hình thức tương phản về ước vọng quyền lực ý chí. Trong sử học, tôi thích thú những đoạn kể lại truyện cá bạo quân. Tôi tự thấy mình như là một bạo chúa lầm lì nói lắp: những kẻ thị tòng của tôi sẽ dán mắt theo dõi từng sắc diện của tôi và sẽ sống cả ngày lẫn đêm trong hãi hùng run rẩy kinh sợ tôi. Không cần phải biện minh cho sự tàn ngược của tôi bằng những lời nói rõ ràng trơn tru. Chỉ riêng sự lầm lì ít nói của tôi cũng thừa đủ để biện minh tất cả mọi cung cách tàn ngược. Một mặt tôi thường thích thú tưởng tượng xem mình sẽ lần lượt trừng trị từng người một, gieo rắc hình phạt lên đầu các giáo sư và các bạn học vẫn hằng đày đọa tôi mỗi ngày làm sao, một mặt tôi lại tưởng tượng ra mình là một đại nghệ sĩ được trời phú cho một thị lực quang minh tột độ - một vị vương giả chân thực của thế giới nội tại. Dáng vẻ bên ngoài của tôi không ra gì, nhưng chính vì thế mà thế giới nội tại của tôi lại phong phú hơn của bất kỳ một ai khác. Với một thiếu niên phải chịu một cố tật không sao sửa chữa được như tôi, kết cục đi đến chỗ nghĩ rằng mình như là một con người được bí mật lựa chọn, há chẳng phải là một điều tự nhiên hay sao? Tôi cảm thấy như là ở một nơi nào đó trên cõi đời này có một sứ mệnh đang chờ đợi chờ tôi mà cho đến nay tôi vẫn chưa hề hay biết gì cả.

Tâm trí tôi vẫn còn ghi nhớ mãi một biến cố suốt từ lúc đó đến nay. Trường trung học Đông Maizuru có những bãi đất rộng rãi chung quanh có những ngọn đồi thực là ngoạn mục và những tòa nhà sáng sủa tân kỳ.

Vào một ngày trong tháng năm, một cựu học sinh đã tốt nghiệp ở trường chúng tôi ngày trước bây giờ là sinh viên trong Hải Quân Cơ Khí Học Hiệu tại Maizuru được nghỉ lễ một ngày và trở về thăm lại trường cũ.

Anh ta có nước da xạm nắng thật là quyến rũ và cái mũi thực là to lớn mạnh mẽ nhô ra từ dưới cái mũ lưỡi trai mà anh ta kéo sụp xuống tận mắt; từ đầu tới chân anh ta thật là một trang anh hùng hoàn toàn. Bấy giờ anh ta đứng lại kể cho các đàn em nghe cuộc sống khắc khổ trong hiện tại của anh ta với tất cả những quy luật nhà binh khe khắt. Tuy nhiên, mặc dù dụng tâm miêu tả một cuộc đời đầy những gian khổ, anh ta vẫn nói với một giọng như thể là anh ta đang kể cho chúng tôi nghe những truyện về một cuộc đời xa hoa cực độ. Mỗi cử chỉ của anh ta đều đầy vẻ ngạo mạn kiêu căng, nhưng dù còn ít tuổi, anh ta cũng thấy cần phải làm dáng khiêm nhượng. Khung ngực anh ta trong bộ đồng phục có viền hoa ưỡn ra như là khung ngực của một hình người nơi mũi tàu khi con tầu đang rẽ sóng lướt gió trên mặt biển. Anh ta lúc đó đang ngồi trên một bậc đá thoai thoải chạy xuống sân chơi nhà trường. Chung quanh anh ta một nhóm học sinh xúm xít hăm hở lắng nghe từng lời anh ta nói, và trong những thửa vườn trên dốc đồi, những bông hoa tháng Năm đang nở rộ - nào hoa mã lan, hoa thượng uyển đâu, nào hoa dã trượng nhân, hoa sồ bạch cúc; và trên đầu họ rủ buông những nụ hoa mộc lan trắng đang nở tưng bừng.

Cả người nói lẫn những người nghe đều bất động như những pho tượng kỷ niệm. Tôi không ngồi riêng một mình trên sân đất cách xa họ một vài thước. Tôi vẫn có cái cung cách như thế. Đó là cung cách của tôi đối với những bông hoa tháng Năm và đối với với bộ đồng phục đầy kiêu hãnh cùng những chuỗi cười trong trẻo vang vang của họ.

Lúc này anh chàng hùng trẻ tuổi lại quan tâm đến tôi hơn là đến những kẻ sùng bái anh ta. Chỉ có riêng tôi là không có vẻ cúi mình trước cái oai phong của anh chàng và điều đó làm cho anh chàng thấy lòng tự ái bị xúc phạm. Anh ta hỏi những thằng khác xem tên tôi là gì.

“Hầy, Mizoguchi!” Anh ta gọi to; đó là lần thứ nhất anh ta để mắt nhìn tới tôi. Tôi trừng trừng nhìn lại anh ta, không nói lấy một lời. Trong cái nụ cười mà lúc này anh ta hướng về phía tôi, tôi có thể khám phá một cái gì giống như sự hợm hĩnh phỉnh phờ của một người có quyền lực.

“Tại sao chú mày không trả lời ta câu nào vậy? Câm đấy ư?”

“Tơ… tô… tôi nói lắp,” một trong những thằng ngưỡng mộ anh ta thay tôi mà trả lời và tất cả bọn đều phá ra cười ha hả. Cái tiếng cười chế nhạo này làm tôi lóa mắt làm sao! Đối với tôi, có một cái gì rực rỡ - rực rỡ như ánh sáng phản chiếu từ các chòm lá cây - trong cái tiếng cười vang vang ác độc của lũ bạn học vốn là cái đặc điểm của những thiếu niên cùng lớp tuổi chúng nó.

“Sao, chú mày nói lắp ư? Tại sao không vào Hải Quân Cơ Khí Học Hiệu? Họ sẽ dùng roi quất cho chú mày hết hẳn nói lắp chỉ trong một ngày thôi!”

Tôi không biết mình xoay xỏa ra sao nhưng tức thời vọt miệng trả lời được một câu rõ ràng. Những lời nói trôi chẩy tuôn ra chẳng hề do ý chí của tôi lấy một mảy may.

“Tôi sẽ chẳng vào trường ấy. Tôi sắp trở thành tu sĩ”.

Tất cả mọi người đều im lặng. Anh chàng anh hùng trẻ tuổi cúi đầu, nhặt một cọng cỏ và đưa lên miệng.

“Vậy thì,” anh ta nói, “một năm nào đó, đến lúc nằm xuống mồ, tôi sẽ cho anh một việc gì đó để mà làm.”

Cuộc chiến Thái Bình Dương đã thực sự bùng nổ. Vào lúc này chắc chắn là tôi đã trải qua kinh nghiệm của một sự tự giác nào đó - ý thức rằng tôi sẽ giơ cả hai tay đứng đợi chờ trong một thế giới đen tối. Rằng một ngày nào đó những bông hoa tháng Năm, những bộ đồng phục, những thằng bạn học xấu tính nết của tôi, tất cả sẽ tìm đến những bàn tay giang ra của tôi. Chợt có ý thức là chính tôi đương nắm chặt thế giới, đang ép nó xuống tận dưới đáy… Nhưng một ý thức như vậy thì quá nặng nề để có thể trở nên một nguồn kiêu hãnh cho một thiếu niên như tôi.

Niềm kiêu hãnh phải là một cái gì nhẹ nhàng hơn, tươi vui hơn, sáng sủa hơn, rực rỡ hơn. Tôi muốn một cái gì đó có thể thấy được. Tôi muốn niềm kiêu hãnh của mình phải là một cái gì mà tất cả mọi người đều có thể trông thấy được. Chẳng hạn như thanh đoản kiếm mà hắn đeo lủng lẳng ngang lưng đúng là một vật như thế.

Cái loại kiếm này mà tất cả học sinh trung học đều trầm trồ ca ngợi ngắm nghía thực là một đồ trang sức đẹp đẽ. Người ta bảo các sinh viên trong Hải Quân Học Viện vẫn thường lén lút dùng các thanh kiếm của mình để vót nhọn bút chì. Tôi nghĩ thực là thanh lịch biết bao khi dùng một biểu tượng trang nghiêm như thế vào những việc tầm thường đại loại như vậy.

Chàng thanh niên lúc đó đã cởi bỏ bộ đồng phục Cơ Khí Học Hiệu ra và đem treo lên cái hàng rào sắt sơn mà trắng. Cái quần dài và áo sơ mi trắng treo ngay đó gần sát tất cả những bông hoa - phải, đúng là chúng tỏa ra mùi mồ hôi lấm tấm trên làn da của anh chàng thanh niên ấy. Một con ong lầm lẫn hạ cánh đậu trên cái áo chen hoa trắng tinh chói rạng. Cái mũ lưỡi trai có viền thêu vàng óng nằm trên một phần bờ rào; thực là nghiêm chỉnh y như là trên đầu người đội, kéo sụp xuống tận mắt. Chủ nhân của nó được một thằng đàn em mời ra thử sức và đã đi đến đài đấu vật ở phía sau để tỉ thí một keo.

Nhìn vào những đồ vật mà anh ta đã để ra một chỗ, tôi có ấn tượng là đang nhìn một thứ mộ phần danh dự. Những bông hoa xum xuê của tháng Năm càng làm tăng cảm giác này. Cái mũ phản ánh sắc đen huyền của vành lưỡi trai, và thanh kiếm cùng cái thắt lưng da treo ngay bên cạnh, tất cả đều đã tách rời khỏi thân mình anh ta ra một vẻ đặc biệt trữ tình. Chính tự chúng cũng hoàn toàn như là ký ức của tôi về chàng sinh viên ấy - thật vậy, đối với tôi chúng trông giống như những di vật của một trang thanh niên anh hùng sau khi đã lên đường ra trận.

Tôi để ý canh chừng chắc chắn là không có ai quanh quẩn gần đó. Tôi nghe tháy tiếng hoan hô từ phía bãi đấu vật vọng lại. Tôi móc từ trong túi quần ra một con dao díp mà tôi vẫn dùng để gọt bút chì; rồi tôi leo lên hàng rào và khắc lên bao kiếm đẹp đẽ màu đen nhiều vết dao nham nhở…

Nghe tôi kể truyện như thế thiên hạ có thể vội vàng phán đoán là tôi phải có cơ chất cả một thanh niên thi sĩ. Nhưng cho đến ngày hôm nay, chẳng những tôi chưa hề viết một bài thơ nào mà còn chưa viết ngay cả một đoạn nhật ký trên cuốn sổ tay nữa. Tôi không hề cảm thấy một thôi thúc đặc biệt nào muốn vượt qua người khác bằng cách vun bồi năng lực nào mới để nhờ đó có thể bù đắp lại những điểm mà tôi thua kém hẳn thiên hạ. Nói cách khác, tôi quá ngạo mạn để có thể rở thành một nghệ sĩ. Ước mơ muốn trở thành một bạo quân hay một đại nghệ sĩ của tôi không bao giờ vượt quá giai đoạn của một mộng mơ, và tôi chẳng hề thấy có một mảy may ước muốn thực hiện một cái gì bằng cách thực sự mó tay vào công việc.

Vì rằng việc không được người khác hiểu mình đã trở nên nguồn gốc kiêu hãnh duy nhất và thực sự của tôi, nên tôi không bao giờ cảm thấy một xung động muốn biểu hiện các sự vật và làm cho người khác hiểu được một điều gì mà tôi biết rõ. Tôi nghĩ những điều mà kẻ khác có thể nhìn thấy thì không phải những điều được số mệnh dành riêng cho tôi. Sự cô độc của tôi ngày càng béo phì ra giống hệt một con lợn.

Đột nhiên tôi hồi tưởng tới một bi kịch xẩy ra trong làng tôi. Mặc dù không ai tưởng tượng là tôi thực sự có một chút liên hệ nào với biến cố này, đến bây giờ tôi vẫn còn không làm sao gạt được cảm giác rõ rệt là mình có tham gia vào biến cố đó.

Qua biến cố này đột nhiên tôi thấy mình đối diện với tất cả mọi sự. Với cuộc đời, với thú vui xác thịt, với lường gạt phản trắc, với thù hận và tình yêu - phải, với tất cả những sự có thể có trên đời. Và ký ức của tôi vẫn ưa phủ nhận cái yếu tố sùng cao trong tấ cả những sự vật này.

Có một thiếu nữ xinh đẹp sống trong căn nhà cách nhà chú tôi hai căn. Tên nàng là Uiko. Mắt nàng to và trong sáng. Có lẽ gia đình nàng giầu có nên nàng có thái độ kiêu kỳ. Mặc dù thiên hạ có thói quen đề cao cô nàng, người ta không thể tưởng tượng cô nàng nghĩ gì khi chỉ có một mình. Có lẽ Uiko hãy còn là một trinh nữ, nhưng những mụ đàn bà ghen tị vẫn thường nhỏ to tán gẫu với nhau về nàng và bảo rằng này có cái tướng vẻ của một thạch nữ chẳng sinh đẻ gì được.

Ngay sau khi tốt nghiệp trường Nữ Trung Học, Uiko trở nên một nữ khán hộ tình nguyện tại Y Viện Hải Quân Maizuru. Y viện gần nhà nên nàng có thể đi làm bằng xe đạp. Nàng phải có mặt ở sở vào sáng sớm tinh sương, nên phải ra đi từ lúc trời còn mờ sáng, khoảng chừng hai giờ trước khi tôi đi học.

Một tối, tôi nằm đắm mình trong những tư tưởng mịt mù, nghĩ đến thân hình Uiko. Đêm đó tôi ngủ không yên và khi trời còn tối, tôi lén ra khỏi giường xỏ chân vào đôi giầy tập thể dục va mò ra ngoài bóng tối của một bình minh mùa hạ.

Đêm đó chẳng phải là đêm đầu tiên mà tôi tự họa ra cho mình hình ảnh của thân hình Uiko. Có một cái gì thỉnh thoảng len lỏi qua tâm trí tôi dần dần kết hợp vào hình ảnh đó. Thân mình Uiko dường như là một sự kết tụ những ý nghĩ của tôi, chìm đắm trong một bóng tối mịt mù, vừa trắng trẻo mà vừa mềm mại, cuối cùng kết tụ lại thành hình thịt da ngọt ngào hương thơm. Tôi thường hay nghĩ tới sự nồng ấm mà những ngón tay tôi sẽ cảm thấy khi sờ vào làn da thịt này. Tôi cũng nghĩ tới cảm giác mềm mại dẻo dai dưới đầu ngón tay và làn hương thơm có lẽ giống như hương thơm của phấn hoa vậy.

Tôi chạy thẳng theo con đường còn tối mịt mù. Những cục đá không làm cho tôi chệch choạng bước chân và màn tối mở rộng trên con đường trước mặt.

Tôi tới một nơi mà con đường mở rộng sau khi chờ đợi. Tôi đã chạy hết hơi tới đây, nhưng bây giờ dã nghỉ ngơi dưới bóng cây cử; chính tôi cũng không biết mình định làm gì nữa. Tuy nhiên, tôi đã biết sống cách biệt thế giới bên ngoài quá nhiều và do đó đã ôm ấp ảo tưởng rằng một khi nhẩy vọt ra thế giới bên ngoài, việc gì cũng trở nên dễ dàng, việc gì cũng có thể làm được.

Mấy con muỗi xúm nhau lại đốt hai chân tôi. Tôi nghe thấy tiếng gà gáy ở nơi này nơi nọ. Tôi nhìn lên con đường. Tôi thấy ở phía xa một cái gì trăng trắng và mịt mờ. Tôi nghĩ đó là màu sắc bình minh, nhưng thực ra đó là Uiko.

Nàng đang đạp xe. Đèn xe bật sáng. Chiếc xe đạp lặng lẽ lướt trên mặt đường. Tôi rời gốc cây cử lao đầu chạy ra đứng ngay trước mũi xe. Chiếc xe nghiêng ngả mãi mới cấp tốc dừng lại được.

Và rồi tôi cảm thấy mình hóa đá. Ý chí của tôi, dục vọng của tôi - tất cả đều biến thành đá hết. Thế giới bên ngoài đã mất hết tương quan với thế giới bên trong của tôi, và một lần nữa, lại bao vây lấy tôi và khoác lấy tấm áo hiện hữu tích cực. Cái “Tôi” đã lén lút lẻn khỏi nhà ông chú, đã xỏ chân vào đôi giầy tập thể dục màu trắng và đã chạy theo con đường còn tối mịt mờ cho đến lúc tới cây cử này - cái “Tôi” này chỉ thúc đẩy con người bên trong của mình xả hết tốc lực mà chạy đến đây. Trong những mái nhà trường nét mịt mờ của thôn làng mới nhô khỏi bóng tối của bình minh, trong những lùm cây tối đen, trong những mỏm núi đen xì của rặng Thanh Diệp Sơn, phải, và ngay cả trong Uiko lúc này đang đứng trước mặt tôi, hoàn toàn không có một ý vị nào hết. Có một cái gì đó đã ban cho tất cả những cái này một thực tại to lớn, vô nghĩa, đen ngòm đã được đem cho tôi, đè nén lên tôi với một sức nặng từ xưa đến giờ tôi chưa từng thấy.

Như thông lệ, tôi nghĩ chỉ có lời nói là có thể cứu thoát tôi khỏi tình trạng này. Đó là một ngộ nhận đặc biệt của tôi. Khi cần phải hành động, tôi luôn luôn chuyên chú đến ngôn từ, và vì ngôn từ chui ra khỏi miệng tôi một cách khó khăn như thế nên tôi chỉ chuyên tâm nghĩ đến chúng và quên hết mọi hành động. Tôi thấy đường như hành động vốn là những việc chói lòa, rực rỡ, luôn luôn phải có những ngôn từ cũng chói lòa, cũng rực rỡ như thế đi kèm.

Tôi chẳng nhìn đến cái gì hết cả. Như tôi nhớ lại, ban đầu Uiko hoảng sợ; nhưng khi thấy rõ là tôi, nàng chỉ chăm chú nhìn vào miệng tôi mà thôi. Tôi phỏng đoán là nàng đang nhìn vào cái lỗ hổng đen sì hư hỏng này, cái lỗ hổng bé nhỏ méo mó này vấy đất bẩn như là cái tổ của một con vật nhỏ bé ngoài ruộng đồng, và bây giờ đang vặn vẹo một cách vô nghĩa trong ánh sáng ban mai - nàng chỉ nhìn đến cái miệng của tôi mà thôi. Và nàng đã đắc ý thấy rằng nàng không hề có một mảy may sức lực nào sắp sửa phát ra từ cái miệng này để móc nối tôi với thế giới bên ngoài, nàng cảm thấy yên lòng.

“Trời đất ơi!” Nàng nói. “Thực là một điều kỳ cục quá chừng. Mà anh chỉ là một thằng nói lắp”.

Trong giọng nói Uiko có cái vẻ tươi mát của một làn gió nhẹ sớm mai. Nàng bấm chuông xe đạp kêu vang và một lần nữa lại đặt chân lên bàn đạp. Nàng vòng xe quanh tôi, làm như là muốn tránh một tảng đá trên đường đi vậy. Mặc dù chẳng có một ma nào quanh đó, Uiko vẫn nhấn đi nhấn lại cái chuông xe một cách chế giễu và trong khi nàng đạp xe ra xa, tôi còn nghe thấy tiếng chuông xe vọng lại từ những cánh đồng phía xa.

Tối hôm đó, và Uiko về mách nhà, mẹ nàng đã sang nhà chú tôi. Chú tôi lúc thường vốn ôn hòa là thế, vậy mà hôm đó cũng mắng tôi như tất nước vuốt mặt không kịp. Tôi nguyền rủa Uiko và rồi cầu mong sao nàng lăn ra mà chết; và một vài tháng sau lời nguyền rủa của tôi biến thành sự thật. Từ đó đến giờ tôi vững tin vào sức mạnh của những lời nguyền rủa.

Khi ngủ cũng như khi thức lúc nào tôi cũng cầu mong Uiko chết đi. Tôi ước ao con người đã chứng kiến sự sỉ nhục của tôi phải tiêu tan đi mất. Chỉ khi không còn một nhân chứng nào nữa niềm sĩ nhục của tôi mới có thể tuyệt diệt trên mặt đất này. Những người khác đều là chứng nhân. Nếu không còn một người nào nữa tồn tại thì trên đời này không có sự xấu hổ nào nữa. Điều mà tôi đã nhìn thấy trên nét mặt Uiko, sau cặp mắt nàng long lanh như mặt nước trong ánh sáng mịt mờ của buổi bình minh, thuộc về thế giới của những kẻ khác - nghĩa là thế giới của những kẻ khác, những kẻ không bao giờ để chúng ta yên thân, những kẻ đứng sẵn sàng làm kẻ tiếp tay, kẻ làm chứng cho những tội ác của chúng ta. Cần phải tiêu diệt hết tất cả những người khác. Nếu muốn tôi có thể thực sự đối diện với mặt trời, thì chính cái thế giới này phải được hủy diệt…

Hai tháng sau khi về nhà mách lỗi của tôi, Uiko từ bỏ việc làm ở Bệnh Viện Hải Quân và nằm lì ở nhà. Trong xóm người ta thì thào bàn tán đủ mọi thứ truyện. Rồi tới cuối thu xẩy ra biến cố.

Chúng tôi chẳng bao giờ có thể nghĩ là một tên đào ngũ khỏi Hải Quân đã đến ẩn náu ở trong thôn làng. Một hôm vào khoảng giữa trưa, một nhân viên hiến binh tới trụ sở hội đồng xã. Tuy nhiên việc một nhân viên hiến binh tới làng không phải là một điều hiếm thấy, vì thế cũng chẳng làm chúng tôi quan tâm gì nhiều.

Đó là một ngày trong sáng gần cuối tháng mười. Tôi đã đi học như thường lệ, đã làm xong các bài buổi tối ở nhà và sửa soạn leo lên giường đi ngủ. Khi sắp sửa tắt đèn, tôi đưa mắt nhìn qua cửa sổ và nghe thấy tiếng người chạy rầm rập dọc theo đường xá trong thôn; họ thở hổn ha hổn hển như một bầy chó. Tôi đi xuống cầu thang. Chú thím tôi đã thức dậy và chúng tôi cùng bước ra ngoài. Một trong những thằng bạn học cùng trường với tôi đang đứng trước cổng lớn vào nhà. Nó trợn tròn đôi mắt vì kinh ngạc.

“Hiến binh vừa mới bắt Uiko.” Nó réo lên cho chúng tôi nghe. “Họ đã dẫn cô nàng đến đằng kia kìa. Chúng ta hãy tới đó xem đi!”

Tôi vội vã xỏ chân vào đôi dép và bắt đầu chạy. Đó là một đêm trăng sáng nên thơ, và đó đây những cánh đồng vừa gặt, những cọng giạ in bóng lồ lộ trên mặt đất.

Sau một khóm cây, tôi có thể thấy những bóng người đen xì đang chuyển động. Uiko mặc một cái áo đen đang ngồi bệt ngay trên đất. Khuôn mặt nàng trắng bệch. Đứng xung quanh nàng là bốn năm người hiến binh cùng song thân của nàng. Một người hiến binh đang cầm một cái gì trông giống như một hộp đồ ăn và đang giận dữ quát tháo. Thân phụ nàng quay đầu hết bên này tới bên nọ, lúc thì xin lỗi người hiến binh, lúc thì trách móc con gái mình. Thân mẫu nàng ngồi sụp trên mặt đất và đang khóc thút thít.

Chúng tôi đứng chăm chú theo dõi quang cảnh đó từ cuối một thửa ruộng lúa. Số người đứng xem mỗi lúc một gia tăng, và trong đêm họ lặng lẽ đứng sát vào nhau vai người này chạm vai người khác. Trên đầu chúng tôi mặt trăng treo lơ lửng nhỏ bé như là đang teo lại.

Thằng bạn học thì thầm vào tai tôi mà giải thích. Dường như là Uiko đã lấy trộm hộp đồ ăn đem ra khỏi nhà và đang đi sang làng bên thì bị nhân viên cảnh bị, đã nằm phục kích từ trước, tóm được. Hiển nhiên là nàng định đem hộp đồ ăn cho người đào ngũ. Uiko đã giao du thân mật với người đào ngũ này trong khi nàng làm việc ở Bệnh Viện Hải Quân. Kết cục nàng có thai và bị sa thải. Người hiến binh lúc này đang cật vấn nàng về chỗ ẩn náu của kẻ đào ngũ, nhưng Uiko chi ngồi trơ ra đó không hề nhúc nhích mảy may và nhất định giữ im lặng một cách ngoan cố.

Về phần tôi, tôi chỉ có thể chăm chăm nhìn vào khuôn mặt Uiko, không chớp mắt. Trông nàng giống như một người đàn bà điên vừa bị bắt. Khuôn mặt nàng hoàn toàn bất động dưới ánh trăng.

Cho đến lúc đó, chưa bao giờ tôi thấy một khuôn mặt lại tràn đầy dáng vẻ cự tuyệt đến như thế. Tôi nghĩ khuôn mặt tôi là một khuôn mặt đã bị thế giới cự tuyệt, nhưng khuôn mặt Uiko thì đang cự tuyệt thế giới. Ánh trăng chan hòa trên trán nàng, trên mắt nàng, trên má nàng, trên sóng mũi nàng; nhưng trên khuôn mặt bất động của nàng chỉ có ánh trăng tràn ngập. Nếu như nàng chỉ đưa mắt hay chỉ nhếch miệng lấy một chút xíu mà thôi, cái thế giới mà nàng đang nỗ lực cự tuyệt đó sẽ coi là một dấu hiệu để ào ào tràn ngập vào trong con người nàng.

Tôi nín thở giương mắt nhìn. Nhìn vào cái khuôn mặt mà lịch sử đã bị đứt đoạn vào đúng điểm này và sẽ không chịu nói lấy một điều nào hoặc tới quá khứ hoặc tới tương lai. Một đôi khi chúng ta nhìn thấy một khuôn mặt như thế trên một khúc cây vừa mới bị đốn xuống. Mặt dù khúc cây bị chặt ngang ngoài mặt hãy còn màu sắc tươi mát, nhưng ở điểm này tất cả mọi sự tăng trưởng đã ngưng hẳn lại; nó bị bất chợt phơi bày ra một thế giới vốn không phải là một thế giới của nó - và ở trên mặt khúc cây bị chặt ngang này. Chúng ta thấy một khuôn mặt lạ lùng do những mắt gỗ đẹp đẽ vẽ nên. Một khuôn mặt chường ra thế giới này chỉ để mà cự tuyệt…

Tôi không sao ngăn được cái ý nghĩ là chẳng còn bao giờ, hoặc trong đời Uiko hoặc trong đời chính tôi, người đứng xem, lại có một lúc nào nữa được thấy khuôn mặt nàng xinh đẹp cho bằng lúc này. Nhưng cái đó không kéo dài như là tôi mong đợi. Vì đột nhiên khuôn mặt đẹp đẽ của nàng bị biến dạng.

Uiko vụt đứng dậy. Tôi có cảm tưởng là trong lúc đó tôi thấy nàng mỉm miệng cười. Tôi có cảm tưởng là tôi thấy hàm răng trắng bong của nàng lóng lánh dưới ánh trăng. Tôi không thể nói gì hơn về sự biến dạng này, vì khi Uiko đứng lên khuôn mặt nàng chìm dưới bóng cây chứ không ở ngoài ánh trăng sáng nữa.

Thực ra đáng tiếc cho tôi không nhìn thấy được sự thay đổi trên khuôn mặt Uiko vào lúc mà nàng quyết định phản bội. Giả như tôi đã thực sự nhìn thấy tất cả mọi chi tiết sự đổi thay trên khuôn mặt nàng thì rất có thể trong con người tôi đã nẩy nở một tinh thần khoan dung tha thứ cho tất cả mọi thứ xấu xa trên đời.

Uiko chỉ tay về phía hốc núi Kahara ở làng bên.

“A! vậy ra nó ở trong Kim Cương Viện!” Người hiến binh kêu to.

Lúc đó tôi thấy trong lòng mình nẩy sinh một niềm thích thú rộn rã thực là trẻ con. Toán hiến binh quyết định chia ra làm nhiều tốp riêng rẽ và bao vây kín cả Kim Cương Viện. Người ta kêu gọi dân làng đến trợ lực. Vì một hứng thú đầy ác ý, tôi gia nhập toán thứ nhất cùng với năm sáu thiếu niên khác. Uiko đi trước toán chúng tôi làm người hướng đạo. Tôi phải ngạc nhiên khi thấy những bước chân vững vàng tin tưởng của nàng trong khi nàng cất bước đằng trước chúng tôi trên con đường sáng trăng, có hiến binh kèm theo hai bên.

Kim Cương Viện vốn vẫn lừng danh. Viện được xây trong một hốc núi cách xa thôn làng Yasuoka chừng mười lăm phút đi bộ và được người ta biết đến vì cây cử do Thân vương Takaoka trồng và ngọn tháp ba tầng trang nhã mà người ta vẫn cho là công trình tạo tác của Hidari Jingoro. Vào mùa hè chúng tôi thường đến đó tắm ở thác nước đàng sau dẫy đồi.

Bức tường ngôi chánh điện dựng ngay sát bên cạnh dòng sông. Cỏ hoang mọc đầy trên những tảng đất long lở, bông cỏ trắng phau lấp lánh trong đêm. Gần cổng vào chính điện cây sơn trà đang tưng bừng nở hoa. Toán chúng tôi lặng lẽ cất bước dọc theo bờ sông.

Ngự đường của Kim Cương Viện nằm ngay trên đầu chúng tôi. Khi bước qua cái hoàn mộc kiều, người ta thấy ngôi tháp ba tầng nằm bên tay phải: rừng cây với la thu đỏ rực trải dài bên tay trái, và ở sâu tít trong các lùm cây là một trăm lẽ năm bậc thềm đá rong rêu phủ đầy nằm cao ngất ngưỡng. Các bậc thềm đều bằng đá vôi và thực là trơn trượt.

Trước khi đi ngang qua cái hoàn mộc kiều, những người hiến binh quay nhìn lại phía sau đưa tay ra hiệu cho toán chúng tôi dừng bước. Người ta bảo rằng ngày xưa vẫn có một cái cổng Nhân Vương Môn do hai nhà điêu khắc lừng danh Unkei và Tankei dựng lên ở nơi này. Phía ngoài là những ngọn đồi trên thung lũng Kujuku thuộc về vùng đất Kim Cương Viện.

Chúng tôi nín thở.

Những người hiến binh thúc giục Uiko tiếp tục tiến bước. Nàng một mình băng qua cây hoàn mộc kiều, và một lúc sau chúng tôi đi theo nàng. Phần dưới các bậc thềm đá vẫn đắm chìm trong bóng tối những phần trên lại chan hòa ánh trăng. Chúng tôi ẩn mình đó đây phía dưới các bậc thềm. Lá cây bắt đầu nhuốm màu hung hung đỏ vào mùa thu, nhưng dưới ánh trăng trông lại như ngã sang màu đen.

Căn chính điện của Kim Cương Viện ở phía trên các bậc thềm đá. Một độ điện chạy xiên từ đó tới một không ngự đường có lẽ như để trình diễn các điệu vũ thần nhạc. Căn không ngự đường này đã được xây dựng theo kiểu mẫu vũ đài Thanh Thủy, vươn ra ngoài không trung và có những cây cột gỗ bắc dọc bắc ngang nâng đỡ cho tựa vào vách núi. Cả căn ngự đường, độ điện lẫn tổ hợp kèo cột bằng gỗ đều phơi mình cho mưa gió dập vùi, đều bóng lộn trong sạch trắng tinh như một bộ xương. Khi mà lá cây nhuốm sắc thu đỏ rực, màu đỏ của lá cây pha trộn thực là đẹp mắt vơi màu trắng của tòa kiến trúc trắng toát như bộ xương này; nhưng về đêm cái khung gỗ nhuốm trắng loang lỗ ánh trăng trông lại có vẻ huyền bí và ma quái.

Đường như kẻ đào ngũ đang ẩn núp trong căn ngự đường bên trên vũ đài. Những người hiến binh muốn dùng Uiko làm mồi nhử để bắt hắn.

Là những nhân chứng của sự bắt bớ sắp xảy ra trước mặt, chúng tôi núp mình và nín thở. Mặc dù khí đêm lạnh đến cuối tháng mười đang bao phủ thân mình, tôi vẫn thấy hai má nóng bừng.

Uiko một mình leo lên một trăm lẻ năm bậc thềm đá vôi. Kiêu hãnh như một mụ đàn bà điên khùng. Nét mặt nàng nhìn nghiêng trắng trẻo đẹp đẽ nổi bật lên giữa tấm áo đen và mái tóc huyền.

Giữa những vì sao, giữa những áng mây êm, giữa những núi đồi viền lấy bầu trời với nhiều hình bóng tráng lệ của các chòm cây tùng bách nhọt hoắt, giữa những đốm trăng lọt qua lá cành, giữa những tòa kiến trúc sừng sững long lanh trắng toát - giữa tất cả những cái đó, vẻ đẹp tươi sáng trong sự phản trắc do Uiko làm tôi say mê. Người con gái này một mình bước lên những bậc thềm đá trắng tinh, kiêu hãnh ưỡn ngực ra đằng trước. Sự phản trắc của nàng cũng giống như sự phản trắc của các vì sao và những chòm tùng bách nhọn hoắt. Nói cách khác, nàng đương ở trong cùng một thế giới với chúng tôi, những nhân chứng, và nàng đương chấp nhận cái thiên nhiên đang vây quanh tất cả chúng tôi. Nàng đương bước lên những bậc thêm ấy, như là đại biểu của chúng tôi. Và tôi không sao ngăn được mình nghẹn thở mà nghĩ rằng: “Do sự phản trắc của nàng, cuối cùng nàng cũng chấp nhận tôi. Bây giờ nàng là của tôi!”

Tới một điểm nào đó, cái mà chúng ta gọi là biến cố sẽ biến mất khỏi ký ức. Cái con người Uiko đang leo lên một trăm lẻ năm bậc thềm rong rêu phủ đầy ấy đến bây giờ hãy còn hiển hiện trước mắt tôi. Đối với tôi dường như nàng cứ vĩnh viễn cất bước leo lên không bao giờ ngừng.

Nhưng từ điểm này trở đi, nàng trở nên một con người hoàn toàn khác biệt. có lẽ là cái con người Uiko đang leo lên những bậc thềm ấy một lần nữa lại phản bội tôi, phản bội chúng tôi. Từ điểm này trở đi nàng không còn cự tuyệt thế giới trong cái toàn thể của nó nữa. Mà nàng cũng không hoàn toàn chấp nhận nó. Nàng tự cúi mình theo mệnh lệnh riêng lòng đam mê ái dục; nàng tự hạ mình xuống hàng ngũ một người đàn bà đã trao thân cho riêng một người đàn ông mà thôi.

Vì lẽ đó mà tôi chỉ còn nhớ được những gì xẩy ra tiếp theo như là quang cảnh trong một bức thạch ấn xưa cũ nào đó. Uiko bước dọc theo độ điện và cất tiếng gọi vào căn ngự đường tối om. Bóng một người đàn ông hiện ra. Uiko nói điều gì đó với người này. Người đàn ông chĩa khẩu súng lục về phía các thềm đá và nổ súng. Từ một bụi cây gần đó những người hiến binh chĩa súng tay mà bắn trả lại. Người đàn ông đang sửa soạn nổ súng một lần nữa thì Uiko quay mình về phía độ điện và bắt đầu co giò chạy. Người ấy bắn hết phát nọ đến phát kia vào lưng nàng. Uiko ngã lăn ra. Người ấy chĩa họng súng lục vào thái dương mình và nổ súng lần nữa.

Trước tiên các hiến binh, rồi sau tất cả những người khác, chen nhau chạy lên các bậc thềm và đổ xô về phía hai xác chết. Tôi vẫn im lặng ẩn mình dưới bóng các lá thu đỏ ối. Những khung cột gỗ bắc dọc bắc ngang của ngôi chùa chồng chất lên nhau ở phía trên đầu tôi. Tiếng giầy của mọi người, trong khi họ cất bước dọc theo những tấm ván độ điện trên đầu tôi, nhẹ nhàng từ trên vang xuống. Ánh vài ba ngọn đèn bấm chạy dọc ngang chiếu rọi từ lan can độ điện tới những cành cây lá hung hung đỏ.

Tôi chỉ nghĩ là tất cả những việc này đã xẩy ra trong một quá khứ xa xôi. Những người kém nhạy cảm chỉ bị nhiễu loạn khi nào trong thấy máu đổ thực sự. Tuy nhiên, lúc máu đã đổ ra rồi thì tấn bi kịch cũng đã chấm dứt. Tôi ngủ thiếp đi. Khi thức dậy, tôi thấy ai nấy đều đã bỏ đi nơi khác cả rồi. Hiển nhiên họ đã quên tịt mất tôi. Không gian đầy tiếng chim ríu rít và ánh mặt trời buổi sáng chiếu rọi qua cành lá đỏ hung trên những cây xung quanh. Tòa kiến trúc như bộ xương trắng trên đầu tôi dường như sống lại khi được mặt trời rọi sáng từ phía dưới. Lặng lẽ và kiêu hãnh, căn không ngự đường hắt bóng vào thung lũng lá cành nhuốm đỏ.

Tôi đứng dậy, run rẩy, tự chà sát thân mình để kích thích sự tuần hoàn. Trong thân xác tôi chỉ còn sự giá lạnh. Tất cả chỉ còn là sự giá lạnh mà thôi

Trong những ngày nghỉ mùa xuân năm kế Ba tới chơi nhà chú tôi. Trên bộ đồng phục dân sự thời chiến, cha tôi choàng chiếc áo cà sa. Ông nói là ông sẽ đưa tôi đi Kyoto trong vài ba ngày. Bệnh phổi của Ba đã trầm trọng hơn nhiều và tôi buồn lòng khi thấy Ba suy sút đến thế. Chẳng phải chỉ riêng tôi mà chú thím tôi, tất cả đều cố gắng can Ba đừng đi Kyoto nữa, nhưng ông không chịu nghe theo. Sau này khi nghĩ tới việc đó tôi mới biết là Ba muốn tự mình dẫn tôi tới ra mắt viện chủ Kim Các Tự trong khi Ba còn sống trên thế gian này.

Tới thăm Kim Các Tự đối với tôi dĩ nhiên đã là một mơ ước từ bao nhiêu lâu, nhưng nghĩ tới việc thực hiện một cuộc hành trình với Ba dù Ba đã cố gắng hết sức vẫn khiến bất cứ ai nhìn ông phải thấy ngay là Ba đang ốm rất nặng - tôi không thấy gì làm thích thú. Khi mà thời gian đối mặt với Kim Các Tự tới gần, cái Kim Các Tự mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy tận mắt, lòng tôi mỗi lúc lại thêm trù trừ. Dù thế nào đi nữa, điều cốt yếu là Kim Các Tự phải thật đẹp đẽ. Do đó, tôi đem đánh cá tất cả không phải lên cái đẹp khách quan của chính ngôi chùa cho bằng cái khả năng tưởng tượng ra vẻ đẹp của nó nơi riêng tôi.

Tôi hoàn toàn thông hiểu về những điều liên hệ tới Kim Các Tự, ít nhất là trong phạm vi hiểu biết của một thiếu niên vào tuổi tôi. Qua một cuốn sách nghệ thuật, tôi đã học lời giải thích sơ lược sau đây về lịch sử Kim Các Tự.

“Ashikaga Yoshimitsu (1358-1408) được gia đình Saionji nhượng lại Bắc sơn điện và biến nó thành một biệt thự rộng lớn. Những tòa kiến trúc chủ yếu là Xá Lợi điện, Hộ Ma đường, Sám Pháp đường và Pháp Thủy viện xây dựng theo kiến trúc Phật giáo cùng Thần điện. Công Khanh gian Hội Sở, Thiên Kính các, Truyền điện và Khán Tuyết đính theo lối kiến trúc có quan hệ với các trú xá. Xá lợi điện là kiến trúc được xây dựng cẩn thận nhất và về sau được gọi là Kim Các Tự. Thực khó mà xác định nó đã mang cái tên này lần đầu tiên vào lúc nào, nhưng có vẻ sau cuộc biến loạn Ojin (1467-77). Trong thời đại Bummei (1469-87) tên này được phổ biến và trở nên thông dụng.

“Kim Các Tự là một kiến trúc ba tầng hình tháp nhìn xuống một uyển trì (Kính Triều trì). Có lẽ đã được hoàn tất vào khoảng năm thứ năm đời Oei (1389). Hai từng dưới được xây theo kiểu tẩm điện với lối kiến trúc cổ truyền và có những cánh cửa chớp có thể xếp lại, nhưng tầng thứ ba là một căn phòng sáu thước vuông xây theo kiểu Thiền đường thuần túy của nhà Phật ở giữa có sạn đường hộ, hai bên phải và trái có hoa đầu song. Mái lợp bằng vỏ cây trắc bách diệp dựng theo kiểu bảo bình, bên trái có một con chim phượng hoàng bằng đồng thau đứng cao chót vót. Điếu điện với cái mái nhấp nhô vươn ra ngoài đối diện cái ao làm cho các kiến trúc chung quanh bớt phần đơn điệu. Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên, điều hòa hai lối trú xá và Phật đường. Như thế ngôi thần điện này đã biểu lộ thị hiếu của Ashikaga Yoshimitsu, con người từng hết lòng thâu nhập văn hóa Hoàng triều và diễn tả trung thực khí vị của đương thời.

“Sau khi Yoshimitsu qua đời, theo di mệnh của ông, Bắc Sơn điện được biến thành một Thiền sát và được gọi là Lộc Uyển tự. Sau đó, những kiến trúc này được chuyển đi nơi khác hoặc bị bỏ mặc cho hoang phế. May mắn là còn lại Kim Các Tự…”

Như một vầng trăng lơ lửng trong bầu trời ban đêm, Kim Các Tự đã được xây dựng để tượng trưng cho những thời đại đen tối. Như thế cái Kim Các Tự trong mộng tưởng của tôi tất phải có bóng tối làm bối cảnh. Trong cái bóng tối âm u này, những cây cột đẹp đẽ, mảnh mai của tòa nhà đứng lặng lẽ và vững vàng tỏa từ bên trong ra một ánh sáng lắt leo. Dù cho thiên hạ có nói gì về Kim Các Tự chăng nữa, nó vẫn phải tiếp tục đứng đó lặng lẽ phơi bầy công trình kiến tạo mĩ lệ, tiêm tế của mình trước mặt thế giới và chịu cho bóng tối vây kín khắp chung quanh.

Tôi cũng thường nghĩ đến con phượng hoàng bằng đồng thau nhự trị trên mái Kim Các Tự và đã đứng đó mãi mãi phơi mình trong mưa nắng gió sương với năm tháng. Con chim vàng óng thần bí này chẳng bao giờ cất tiếng gaysáng, chẳng bao giờ vỗ cánh - thực vậy, hiển nhiên tự nó đã quên phứt mình là một con chim. Tuy nhiên, nếu bảo rằng trông nó không có vẻ như đang bay thì thật là không đúng sự thực. Những còn chim khác bay trong không gian, nhưng con phượng hoàng vàng óng này vĩnh viễn bay qua thời gian trên đôi cánh chói rạng. Thời gian đập vào đôi cánh ấy và bềnh bồng trôi lại đằng sau. Để tung cánh bay, con phượng hoàng đứng yên bất động, với ánh nhìn giận dữ trong cặp mắt, giương đôi cánh giữa trời, ve vẩy lông đuôi và kiêu hùng giăng đôi chân oai nghi vàng óng.

Trong những khi nghĩ ngợi mông lung như thế tôi thấy Kim Các Tự giống như một con tầu đẹp đẽ nào đó đang vượt qua mặt biển thời gian. Cuốn sách mĩ thuật nói đến “những tòa nhà lộng gió thiếu tường”, và cả điều này nữa cũng đem hình dạng một con tầu vào trong trí tưởng tượng của tôi. Cái ao nơi tòa nhà ba tầng hình chiếc tầu này soi bóng có thể được coi là tượng trưng cho bể cả. Kim Các Tự đã băng mình qua một đêm vô tận. Một chuyến vượt biển mà người ta đoán trước được kết quả. Ban ngày, con tầu kỳ dị này hạ neo với một dáng vẻ thơ ngây và chịu phơi mình cho người ta ngắm nhìn; nhưng khi đêm đến, bóng tối bao quanh làm cho nó có một thế mới và nó bồng bềnh trôi xa với cái mái như một cánh buồm lớn căng phồng.

Thực không phải nói quá lời khi bảo rằng vấn đề tối sơ mà tôi thực sự phải đối phó trên đời là giữa hai con người này. Chẳng bao lâu nữa, khi đến tuổi, tôi sẽ bị gọi vào lính. Tuy nhiên, tôi vẫn không tin chắc là ngay khi đã ở trong binh đội, tôi lại có thể sống trung thành với nhiệm vụ của mình như chàng hạ sĩ quan ngồi trước mặt tôi đây. Dù sao đi chăng nữa, trong hiện tại hiển nhiên tôi đang chễm chệ ngồi giữa hai thế giới. Mặc dù hãy còn ít tuổi như thế này, tôi vẫn ý thức, dưới vầng trán xấu xí bướng bỉnh của mình, rằng chiến tranh đang làm môi giới đem lại gần nhau thế giới của sự chết mà cha tôi coi sóc thế giới của sự sống mà những thanh niên chiếm giữ. Chính tôi cũng có thể trở nên một người móc nối giữa hai thế giới này. Nếu tôi bị giết trong cuộc chiến, thực rõ rệt là trước con đường rẽ ngang đang nằm trước mặt, dù tôi có chọn con đường nào đi nữa thì kết cục cũng vẫn là một chẳng có mảy may khác biệt nào hết.

Tôi cố gắng chăm sóc Ba mỗi khi ông ho. Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy dòng sông bên ngoài khung cửa sổ toa tầu. Dòng sông xanh đậm hầu như sẫm mầu giống hệt mầu sulfat đồng dùng trong những thí nghiệm hóa học. Mỗi lần con tầu chui khỏi một đường hầm, thung lủng Hozu lại hiện ra trước mặt có lúc ở khá xa đường tầu có lúc lại bất chợt ở sát ngay bên. Dòng nước xanh đậm uốn khúc như một cái dòng dọc bốn bên có những tảng đá nhẵn nhụi bao quanh.

Ba có đem một vài nắm cơm gạo trắng trong hộp đựng bữa ăn và ông thấy xấu hổ khi mở hộp ra trước mắt mọi người trong toa tầu.

“Không phải là gạo chợ đen đâu,” ông nói cho tất cả mọi người đều nghe biết. “Đó là đồ cúng dường của các đạo hữu. Mình có thể vui sướng và biết ơn mà ăn thứ cơm gạo này.”

Ba nói để cho tất cả mọi người trên toa tầu ai ai cũng có thể nghe thấy, nhưng khi bắt đầu ăn thực sự thì ông chỉ ăn được có một nắm nhỏ xíu.

Tôi không nghĩ là đoàn tầu cổ lổ đầy mồ hóng này thực sự chạy tới đô thị. Tôi nghĩ nó đang chạy đến nhà ga của tử thần. Một khi tư tưởng này đã lẫn vào đầu óc tôi, mỗi lần con tầu chui qua một đường hầm, tôi lại thấy có cái mùi của một lò đốt xác người.

Dù sao cuối cùng khi đứng trước tổng môn của Lộc Uyển tự, tôi vẫn thấy tim nện thình thịch trong lồng ngực. Bây giờ tôi sắp sửa được thấy một trong những cái đẹp vào hạng nhất trên đời.

Mặt trời đã bắt đầu lặn xuống và sương mù đã phủ kín núi đồi. Có nhiều du khách khác bước chân qua cổng vào khoảng cùng một lúc với cha con chúng tôi. Gác chuông đứng bên trái cổng vào, xung quanh có cả một rừng mai còn đầy những cánh hoa tàn.

Một cây lịch lớn mọc trước huyền quang của chính điện. Ba đứng trước cửa và nói với người đưa đường xin phép đi vào. Viện trưởng viết mấy chữ cho biết ông ta đang bận tiếp một lai khách và yêu cầu chúng tôi vui lòng chờ đơi chừng hai ba mươi phút nữa.

“Mình hãy dùng thời gian này đi một vòng mà ngắm Kim Các Tự,” Ba nói.

Hiển nhiên, Ba muốn cho tôi thấy rằng ông được nể nang đôi chút ở nơi này nên ông thử cố đi qua tham quan môn, cái cổng dành cho du khách mà không trả tiền mua vé vào cửa.

Nhưng từ thời gian mười mấy năm trước lúc ba thường hay tới thăm nơi này, cả người bán vé và vừa lẫn người thu vé vào cửa tự dạo đó đều đã đổi hết cả rồi.

“Lần sau mình tới đây,” Ba nói với một giọng lạnh lùng, “chắc là họ lại thay đổi nữa mất”.

Nhưng tôi cảm thấy là Ba không còn thực sự tin tưởng vào cái “lần sau” ấy nữa.

Tôi vội vã cất bước gần như chạy lên đàng trước Ba. Tôi cố ý hành động như một thằng bé con vui mừng hớn hở. (Chỉ trong những trường hợp cố làm ra vẻ như thế tôi mới có được dáng vẻ của một thiếu niên.) Rồi Kim Các Tự mà tôi vẫn hằng mơ tưởng bấy lâu phơi bày trọn vẹn hình dáng trước mặt tôi làm cho tôi thất vọng hết chỗ nói.

Tôi đứng bên bờ ao Kính Hồ, và bên kia bờ nước, Kim Các Tự phơi bày chính diện của mình dưới ánh chiều tà. Thấu Thanh bị che khuất một nửa xa về một chút về phía bên trái. Kim Các Tự rọi bóng hình tuyệt đẹp trên mặt ao, nơi những cây hoa súng và lá những cây thủy thảo đang nổi bồng bềnh. Bóng hình này còn đẹp hơn chính Kim Các Tự nữa. Ánh mặt trời đang ngả về Tây phản chiếu trên mặt ao rập rờn phía dưới các mái hiên của cả ba tầng lầu. So sánh với ánh sáng bao quanh, ánh sáng phản chiếu dưới các mái hiên thực quá rực rỡ, chói chan; Kim Các Tự cho tôi cảm tưởng là nó đang kiêu hãnh ưỡn mình ra đằng sau.

“Thế nào,” ba hỏi “thực là đẹp phải không?” Tầng thứ nhất gọi là Pháp Thủy viện, tầng thứ nhì là Triều Âm động và tầng thứ ba là Cứu Cánh đính. Ba đặt bàn tay gầy guộc ốm yếu trên vai tôi.

Tôi thay đổi vị trí một vài lần và nghiêng đầu ngắm nhìn theo nhiều góc cạnh khác nhau; tuy nhiên, Kim Các Tự chẳng hề gây nên một cảm xúc nào trong lòng tôi hết. Nó chỉ là một tòa kiến trúc ba tầng cổ kính, tối tăm và nhỏ bé. Con phượng hoàng trên nóc mái giống như một con quạ khoang hạ cánh xuống đó để nghĩ ngơi. Chẳng những tòa nhà đã không làm tôi xúc động mạnh mẽ vì vẻ đẹp mà còn làm tôi có ý niệm là nó thật lạc điệu và bất điều hòa nữa. Tôi ngạc nhiên tự hỏi có thể nào cái đẹp lại là một sự vật không đẹp đẽ như thế này sao?

Nếu là một thiếu niên khiêm nhượng và chuyên cần có lẽ tôi đã thấy tiếc là mình không có đủ khả năng thẩm thức nghệ thuật trước khi tỏ ra chán nản một cách vội vã như thế. Nhưng đau xót vì thất vọng ở cái mà mình kỳ vọng quá nhiều đã làm cho tôi mất hết mọi ý thức phản tỉnh.

Tôi chợt nghĩ có thể Kim Các Tự đã hóa trang để che giấu vẻ đẹp chân thực của mình. Để tự vệ chống lại con người, có thể nào cái đẹp đã lừa gạt con mắt người nhìn mình hay không? Tôi phải đến gần Kim Các Tự hơn nữa; tôi phải loại bỏ những trở ngại đối với tầm mắt mình; tôi phải xem xét lại toàn bộ từng li từng tí với đôi mắt của mình nhìn tới tận hạch tâm của cái đẹp. Vì rằng tôi chỉ tin vào cái đẹp mà người ta có thể nhìn thấy bằng mắt, thái độ của tôi trong lúc đó thực là đương nhiên.

Với vẻ tôn kính, bây giờ Ba dắt tôi đi lên hành lang trống tung của Pháp Thủy viện. Trước hết tôi nhìn tới mô hình Kim Các Tự, thực hiện một cách khéo léo, nằm trong một lồng kính. Tôi thích mô hình này lắm. Nó gần với Kim Các Tự trong mộng tôi hơn. Quan sát hình ảnh nhỏ bé hoàn hảo của Kim Các Tự trong chính ngôi thần điện này tôi nhớ đến hàng loạt những sự chiếu ứng vô hạn khi một tiểu vũ trụ được đặt trong một đại vũ trụ và rồi một tiểu vũ trụ nhỏ hơn nữa đặt trong một tiểu vũ trụ nhỏ bé kia. Đó là lần đầu tiên tôi có thể mơ mộng. Mơ đến Kim Các Tự nhỏ bé nhưng hoàn hảo còn nhỏ hơn cả mô hình này nữa; và đến Kim Các Tự rộng lớn hơn tòa nhà thực sự không biết bao nhiêu lần mà kể cho xiết - thực vậy, rộng lớn đến độ hầu như bao trùm cả thế giới.

Tuy nhiên, tôi không đứng ì mãi một chỗ trước mô hình. Kế đó Ba dẫn tôi tới bức tượng gỗ của Yoshimitsu vốn lừng danh là Bảo Vật Quốc Gai. Bức tượng được gọi là Lộc Uyển Viện Điện Đạo Nghĩa, gọi theo cái tên của Yoshimitsu lúc ông cắt tóc đi tu.

Bức tượng này nữa, tôi cũng chẳng thấy nó đẹp chỗ nào cả, chỉ là một hình ảnh kỳ cục nhuốm đầy mồ hóng. Sau đó, chúng tôi lên Triều Âm động tầng thứ nhì ngắm nhìn những bức họa trên trần mà người ta bảo là tác phẩm của Kano Masanobu, vẽ những thiên thần đang tấu nhạc. Trên tầng thứ ba Cứu Cánh đính, tôi thấy những dấu vết đáng buồn của lá cây bằng vàng ban đầu phủ kín khắp bên trong tầng này. Nhìn tất cả những thứ này tôi chẳng thấy đẹp ở chỗ nào cả.

Tôi dựa mình vào hàng lan can mảnh mai và lơ đãng nhìn xuống cái ao đang lấp lánh ánh mặt trời chiều. Mặt nước trông như một tấm gương, như một tấm gương cổ bằng đồng nhẵn thín; và Kim Các Tự rọi thẳng bóng mình trên mặt gương này. Bầu trời buổi chiều phản ánh trên làn nước, ở tít dưới những cây hoa súng và những cây thủy thảo. Bầu trời này khác hẳn bầu trời trên đầu chúng tôi. Trong trẻo và sáng sủa, từ phía dưới và từ bên trong, nó nuốt trọn thế giới trần tục của chúng tôi, và Kim Các Tự đắm chìm trong đó như là một cái neo tầu thực lớn bằng vàng ròng đã biến sắc thành đen tuyền vì rỉ sắt.

Hòa thượng Tayama Dosen, viện chủ Kim Các Tự, vốn là bạn của Ba từ khi hai người cùng học trong một thiền đường nào đó. Cả hai đều đã sinh hoạt ba năm tại thiền đường này và sống chung với nhau trong thời gian đó. Cả hai thanh niên đều tham dự chuyên môn đạo trường tại Tướng Quốc Tự (cũng được kiến tạo dưới thời tướng quân Yoshimitsu) và sau khi qua một vài thủ tục cổ xưa của Thiền phái, cả hai đều gia nhập hàng ngũ tăng sĩ. ngoài tất cả những cái đó, mãi về sau, tôi còn được sư phụ Dosen cho biết, trong một ngày mà ông vui vẻ trò chuyện với tôi, rằng ông và ba chẳng những đã cùng nhau chia xẻ những tháng ngày huấn luyện khắc khổ, trong một vài buổi tối, sau khi đã đến giờ đi ngủ, hai người còn cùng nhau leo tường ra ngoài và tìm mua vui thú nơi những cô gái bán phấn buôn hương nữa.

Ba và tôi đã đi một vòng bái kiến Kim Các Tự rồi trở lại huyền quan của ngôi chánh điện. Người ta dẫn dắt chúng tôi đi xuống một hành lang rộng dài và chỉ lối đi vào phòng viện chủ, nằm trong Đại Thư Viện, nhìn xuống hoa viên có cây lục chu tùng lừng tiếng.

Tôi ngồi đó thẳng người cứng nhắc trong bộ đồng phục học sinh, nhưng ba lúc đó lại có vẻ dễ chịu bất ngờ. Mặc dù Ba và Viện chủ đã cùng xuất thân từ một Thiền đường, song về ngoại diện, thực khó lòng mà hai người lại có thể khác biệt nhau hơn. Ba thì quéo quắt vì bệnh tật, trông nghèo nàn, làn da có vẻ khô khan, trắng bệch. Hòa thượng Dosen, trái lại, trông giống như một cái bánh ngọt hồng đào. Trên chiếc kỷ của ông chồng chất những gói hàng chưa mở, tạp chí, sách vở, thư từ từ nhiều nơi trong nước gởi tới và có vẻ như biểu hiện sự trù phú của ngôi thần điện. Ông đưa những ngón tay tròn trặn múp míp nhặt cái kéo và khéo mở tung một trong cái gói đồ.

“Đó là cái bánh ngọt từ Đông Kinh gửi đến,” ông giải thích. “Trong lúc này ít khi anh thấy được một cái bánh như thế. Người ta cho tôi hay họ không còn phân phát loại bánh này cho các cửa hiệu nữa mà đem nạp hết cho quân đội hay công sở.”

Chúng tôi uống thứ trà Nhật Bản thực ngon và ăn một cái bánh ngọt Tây Phương mà từ trước đến giờ tôi chưa hề được nếm mùi bao giờ. Tôi càng thấy căng thẳng bao nhiêu thì những mẫu bánh vụn càng rơi trên cái quần nỉ đen bóng của tôi nhiều bấy nhiêu.

Ba và Viện chủ đang tỏ bầy sự bất bình phẫn nộ về việc giới quân đội và quan liêu chỉ kính trọng những Thần Xã và coi rẽ những ngôi chùa Phật giáo - thực ra không những chỉ coi nhẹ mà còn thực sự áp chế nữa; rồi hai người thảo luận về phương cách quản trị hay nhất cho các ngôi chùa trong tương lai.

Viện chủ là một người mập mạp. Dĩ nhiên, khuôn mặt ông có những nếp nhăn, song mỗi nếp nhăn có vẽ như đã được lau đi hết sạch. Khuôn mặt ông tròn trặn, nhưng ông ta có cái mũi dài khiến người ta có cảm tưởng là nhựa cây chảy ra kết đặc lại ở đó. Tuy nét mặt ông có dáng vẻ khá dễ dãi, song hình dáng cái đầu cạo nhẵn - dường như là nơi tập trung tất cả tinh lực của ông - lại có dáng vẻ dữ dằn của một con vật.

Câu truyện của hai người tu sĩ xoay về những ngày họ cùng sống với nhau trong tăng đường. Tôi đang ngắm nhìn cây lục chu tùng trong hoa viên. Người ta uốn thấp các cành lá của một cây thông lớn và cuốn lại với nhau thành hình một con thuyền với những cành lá ở đằng mũi được nâng cao lên hơn ở các phần còn lại. Hiển nhiên là có một đoàn thể đã đến vãng cảnh ngay trước giờ đóng cửa vườn và tôi nghe thấy tiếng người ồn ào từ phía Kim Các Tự ở bên kia bờ đường vọng lại. Tiếng chân và tiếng nói của họ tan chìm trong làn không khí buổi chiều mùa xuân: tiếng động họ gây ra êm nhẹ và tròn trặn, chẳng hề có dấu vết gì đặc sắc nhọn. Rồi thì bước chân họ lùi xa như làn sóng thủy triều, tôi thấy thật đúng là tiếng chân của chúng sinh băng qua trái đất này. Tôi ngước mắt nhìn con phượng hoàng trên nóc Kim Các Tự; nó đang thu hút tất cả ánh sáng tàn lụi của chiều hôm.

“Anh ạ… cái thằng bé này.” Nghe thấy Ba nói, tôi quay lại nhìn. Trong căn phòng hầu như tối om, Ba đang sắp sửa đem phó thác cả tương lai tôi cho sư phụ Dosen.

“Tôi nghĩ chẳng còn sống được bao lâu nữa,” Ba nói, “tôi muốn xin anh đến lúc ấy trông nom cho thằng bé này.”

Mặc dù là một tu sĩ và quen an ủi người khác trong những dịp tương tự, thượng tọa Dosen không có một lời an ủi êm dịu nào trong dịp này, nhưng chỉ trả lời “Được lắm, tôi sẽ trông nom nó.”

Điều làm tôi thực sự ngạc nhiên là sau đó hai người vui vẻ quay sang kể cho nhau nghe những giai thoại về cái chết của những tu sĩ nổi tiếng. Một vị đã nói lúc sắp qua đời “Ôi ta không muốn chết.” Một vị khác kết thúc cuộc đời mình bằng chính những lời của Goethe: “Cho thêm ánh sáng.” Lại còn một tu sĩ lừng danh nữa vẫn còn tự mình xem xét lại tiền quĩ của chùa cho đến lúc nhắm mắt lìa đời.

Người ta mời chúng tôi ăn cơm tối, mà người theo đạo Phật gọi là “dược thạch” và sắp đặt để chúng tôi ngủ lại đêm đó ở trong chùa. Sau bữa cơm, tôi Ba đi ngắm Kim Các Tự một lần nữa. Vì mặt trăng lưng trời đã ló dạng.

Ba bị kích động quá nhiều vì cuộc tái ngộ với vị viện chủ sau bao nhiêu năm xa cách nên hết sức mệt mỏi, nhưng khi nghe tôi nói đến Kim Các Tự ông liền ra ngay, dựa mình trên vai tôi mà thở hổn hển.

Mặt trăng mọc lên sau riềm núi Fudo. Ánh trăng chiếu rọi phía sau Kim Các Tự. Ngôi chùa hình như đã xếp hình ảnh tối om phức tạp của mình lai và lặng lẽ chìm xuống; chỉ còn những khung cửa hoa đầu song trên Cứu Cánh đính là để cho bóng trăng êm ả len vào. Tầng Cứu Cánh đính không có tường riêng, và vì thế nóc vẻ là ánh trăng mờ nhạt đã chọn nơi này làm chỗ cư ngụ.

Từ phía đảo Ashiwara có tiếng chim đêm vọng lại trong khi chúng bay về phía xa. Tôi thấy rõ sức nặng những bàn tay quắt quéo của Ba tỳ trên vai mình. Khi liếc nhìn lên vai, tôi thấy dưới ánh trăng một bộ xương bàn tay trắng hếu.

Sau khi tôi trở về Yasuoka, Kim Các Tự đã làm tôi thất vọng biết bao nhiêu khi nhìn thấy lần đầu, đến lúc này lại gợi lại vẻ đẹp của nó trong lòng tôi càng ngày càng sâu đậm hơn cho đến lúc trở thành một Kim Các Tự còn đẹp đẽ hơn là trước khi tôi được nhìn tận mắt nữa. Tôi không nói được vẻ đẹp đó nằm ở chỗ nào. Dường như những gì được nuôi dưỡng trong các cơn mộng tưởng của tôi một sớm đã trở thành thực sự và bây giờ lại có thể được dùng làm động lực thôi thúc các cơn mộng tưởng khác nữa.

Bây giờ tôi không còn đeo đuổi cái huyễn ảnh của Kim Các Tự trong phong cảnh và trong các sự vật nữa. Dần dà Kim Các Tự càng ngày càng hiện diện trong tôi một cách sâu xa và vững chắc hơn trước. Mỗi một cây cột, một khung cảnh hoa đầu song, cái mái nhà, con chim phượng hoàng ở trên nóc đều bềnh bồng rõ rệt trước mắt tôi như là tôi có thểâ giơ tay sờ mó chúng được. Phần nhỏ bé nhất của ngôi chùa cũng hòa hợp hoàn toàn với toàn bộ kiến trúc phức tạp của nó. Giống hệt như là nghe một vài nốt nhạc và thấy toàn thể khúc nhạc tuôn trào qua tâm trí: bất kỳ bộ phận nào của Kim Các Tự mà tôi nhặt ra cũng làm cho toàn bộ kiến trúc vang âm trong con người của tôi cả.

“Khi Ba bảo con rằng trên mặt đất này không có gì đẹp bằng Kim Các Tự thì quả thật là đúng.” Đó là lời lẽ trong lá thư đầu tiên tôi viết cho Ba. Sau khi đưa tôi trở lại nhà chú, Ba tức thời trở về chùa của ông trên mỏm đất xa xôi. Và như để trả lời lá thư của tôi, một bức điện tín do má gửi đến báo tin là Ba bị một trận thổ huyết kinh khủng và ông đã lìa đời.




--------------------
Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
WildFlowers
post Jun 14 2008, 10:08 AM
Post #2


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,312
Joined: 10-April 08
Member No.: 12
Country



Chương 9


Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà thay vì răn dậy tôi như ông thường làm. Lão sư phụ, lần này đúng ngay vào lúc cần phải răn dậy, lại ban cho tôi một ân huệ. Năm ngày sau khi Kashiwagi tới đòi tiền, Lão sư phụ gọi tôi vào phòng ông và đưa cho tôi ba ngàn bốn trăm yen để đóng học phí trong phân kỳ thứ nhất, ba trăm năm mươi yen để đi xe điện và năm trăm yen để mua giấy bút. Theo khuôn phép nhà trường, lẽ ra chúng tôi phải nộp học phí trước dịp hè, nhưng sau những gì đã xẩy ra, tôi chẳng lúc nào có thể tưởng tượng là Lão sư phụ lại sẽ cho tôi tiền cả. Tôi nghĩ là dù cho có ý định trả học phí cho tôi đi nữa nhưng lúc này thừa biết là tôi chẳng đáng tin cậy lúc nào, lẽ ra ông nên gửi thẳng tiền đến đại học mới phải.

Tôi biết rõ hơn ông rằng dù cho bây giờ có trao tiền cho tôi, sự tin cậy của ông đối với tôi cũng là sự tin cậy giả dối. Ân huệ Lão sư phụ đã ban cho tôi mà không thèm nói một lời, tôi thấy na ná giống như làn thịt da hồng hào, mềm mại của ông. Cái làn da thịt tràn đầy giả dối, cái làn da thịt tin cậy vào cái gì xứng đáng được tin cậy, cái làn da thịt không hề bị sự hủ bại phạm tới, cái làn da thịt hồng hồng, âm ấm lặng lẽ sinh sôi nẩy nở.

Cũng y như lúc nhìn thấy người cảnh sát ở lữ quán Yura, tôi đã sợ hết hồn e rằng đã bị phát giác, bây giờ tôi lại lo sợ hết hồn, sợ rằng Lão sư phụ đã thấy rõ kế hoạch của tôi và đang cố gắng làm cho tôi bỏ lỡ cơ hội quyết ý thành động bằng cách cho tôi tiền. Tôi cảm thấy mình sẽ chẳng bao giờ có đủ can đảm để quyết ý hành động chừng nào còn cất giữ món tiền mà ông đã cho. Tôi phải tìm đủ cách để tiêu hết món tiền ấy càng sớm càng tốt. Tôi phải tìm cách tiêu hết béng món tiền ấy để một khi biết được Lão sư phụ sẽ nổi giận đùng đùng tống cổ tôi ra khỏi chùa ngay tức khắc.

Hôm ấy đến phiên tôi làm bếp. Trong khi đang rửa bát sau bữa dược thạch, vô tình tôi nhìn về hướng phòng ăn. Ai nấy đều đã đi hết, và căn phòng vắng lặng im lìm. Ngay cửa vào có một cây cột lớn đen bóng màu bồ hóng. Trên cột có treo một tấm bảng hoàn toàn đổi mầu vì ám khói. Tôi đọc thấy:

A-đa-cổ tự phù

Cẩn thận phòng hỏa

Tôi có thể mường tượng tấy được hình dạng xanh xao, mờ nhạt của ngọn lửa bị tù hãm trong tấm bùa hộ mệnh này. Có cái gì tươi đẹp trước đây lúc này đang rập rờn sau tấm hộ phù nhạt mờ và bệnh hoạn. Tôi tự hỏi liệu người ngoài có ai tin tôi hay không khi tôi nói rằng trong những ngày này ảo ảnh của ngọn lửa đã thúc đẩy tôi với một sức mạnh không thua gì nhục dục. Tuy vậy, có phải là điều tự nhiên hay không khi ý chí sống còn của tôi hoàn toàn dựa vào ngọn lửa là nhục dục của tôi nữa cũng phải hướng về phía ấy? Dục vọng của tôi đã un đúc hình dáng dịu dàng, mềm mại của ngọn lửa; và ý thức được rằng tôi đang ngắm nhìn chúng qua cây cột đen xì, bóng lộn những lưỡi lửa đang dịu dàng, uốn éo trong lúc này. Thực là mong manh những bàn tay, bàn chân, lồng ngực của ngọn lửa ấy.

Tối 18 tháng 6 tôi nhét tiền vào trong túi lẻn ra ngoài chùa và cắm đầu đi về khu Bắc Tân Địa, thường được gọi là Gobancho. Tôi đã nghe nói là ở đây người ta tính tiền rất rẻ và đối đãi rất thân thiết đối với các bọn chú tiểu trong chùa. Từ Lộc Uyển tự đến Gobancho phải đi bộ mất hơn nữa giờ. Trời đêm ẩm ướt. Mặt trăng lờ mờ chiếu qua nền trời đầy mây mỏng. Tôi mặc áo chẽn, quần kaki và đi guốc. Dĩ nhiên một vài giờ sau tôi phải trở về chùa vẫn ăn mặc quần áo y hệt như thế. Làm sao tôi có thể thuyết phục được chính mình rằng cái thằng tôi gói mình trong những quần áo như thế lại là một con người hoàn toàn khác biệt.

Thật rõ ràng chỉ vì muốn sống nên tôi đang dự định thiêu hủy Kim Các Tự, nhưng việc tôi đang làm lúc này thì lại đúng là sự chuẩn bị để chết. Cũng như một thằng trai tân đã quyết ý tự sát phải mò đến nhà thổ cho nên bây giờ tôi hớn hở đến xóm lầu xanh. Nhưng xin cứ an tâm. Khi một thằng con trai như thế mò tới một ổ điếm thì thật chẳng khác gì hắn đã ký tên mình vào một tờ giấy để những khoảng trống, mặc dù có thể mất tân, song hắn quyết chẳng bao giờ trở thành “một con người khác.”

Bây giờ tôi không còn phải sợ cái sự nhỡ tầu ấy nữa - cái sự nhỡ tầu mà tôi đã nhiều lần trải qua vào giây phút khẩn trương khi Kim Các Tự len vào giữa tôi với đàn bà con gái. Bởi lẽ tôi chẳng còn có một mộng mơ hoặc mục đích nào tham dự vào nhân sinh bằng đàn bà con gái nữa. Cuộc đời tôi bây giờ đã đóng chặt vào cái vật khác ấy, do đó, tất cả hành vi của tôi trước kia chỉ là những thủ tục âm u, thảm đạm đã đưa đẩy tôi tới tình trạng hiện tại.

Cứ thế tôi vừa nói với mình vừa đi về phía Gobancho. Nhưng rồi thì những lời nói của Kashiwagi vang dậy trong tôi: “Bọn buôn phấn bán hương chẳng có lên giường với khách tìm hoa vì thương yêu gì cả. Những ông già lụ khụ, những tên ăn mày, những thằng chột mắt, những cậu bảnh trai - cả ngay những thằng hủi một khi chưa biết sự thực. Sự đối đãi bình đẳng này đã khiến cho nhiều người cảm thấy yên lòng và khiến họ sẽ ưng chịu ngay người đàn bà đầu tiên mà họ gặp. Tuy nhiên, cái bình đẳng tính này không làm tớ ưng ý chút nào cả. Tớ không sao chịu được cái ý nghĩ rằng một người đàn bà lại tiếp đón bình đẳng một người đàn ông hoàn toàn bình thường và một người nào đó giống như chính tớ làm như thể hai đứa có cùng một tư cách như nhau. Tớ thấy việc đó chẳng khác gì sự tự mình bôi nhọ, khinh nhờn hết sức đáng sợ.”

Nghĩ đến những lời nói này bây giờ tôi thấy bực mình vô kể. Thực vậy, trường hợp khác hẳn trường hợp Kashiwagi. Ngoài tật nói lắp ra, tôi là một con người đều đặn, bình thường, và không có lý do gì tôi lại chẳng coi sự thiếu hấp dẫn của mình chỉ là một thứ xấu xí hết sức tầm thường.

Tôi tự hỏi không biết đàn bà có một trực giác nào khiến họ nhận thấy ngay những dấu vết của kẻ tội phạm có thiên tài trên vầng trán xấu xí của tôi hay không? Ý nghĩ ngớ ngẫn này tức khắc làm tôi khó chịu. Tôi chậm bước chân lại. Cuối cùng tôi thấy chán nghĩ ngợi và chẳng còn rõ liệu mình có còn nuôi dưỡng ý định làm cho mình mất tân rồi thiêu hủy Kim Các Tự hoặc thiêu hủy Kim Các Tự để rồi mất tân hay không nữa. Thế rồi chẳng ra đâu vào đâu tôi chợt nghĩ đến lời nói cao đẹp tempa kannan (“Thiên bộ gian nan”) và trong lúc cất bước trên đường tôi cứ lẫm nhẩm mãi Thiên bộ gian nan, Thiên bộ gian nan. Chẳng mấy chốc tôi tới một chỗ mà các phòng chơi bi da ồn ào, sáng choáng và các quán rượu nhường chỗ cho một dẫy phố dài tối om, im lìm từng quãng đều đặn lại có những ngọn đèn sáng trưng và những ngọn đèn giấy trắng đục rọi sáng. Từ lúc ra khỏi chùa, tôi không làm sao xua đuổi được cái không tưởng là Uiko hãy còn sống và nàng đang náu mình chính ở nơi cái không tưởng này. Điều đó đã đem lại cho tôi nhiều sức mạnh. Vì đã quyết tâm thiêu hủy Kim Các Tự nên tôi quay lại cái trạng thái tươi mới, trắng trong vào thời kỳ niên thiếu của mình và tôi nghĩ rằng bây giờ nếu mình có gặp lại những con người và sự vật mà mình đã gặp ngay từ buổi đầu cuộc sống thì lại càng hay càng tốt chứ sao.

Tờ bây giờ trở đi tôi sẽ sống thực. Tuy nhiên kể cũng lạ lùng là hết ngày nay sang ngày khác đủ thứ ý nghĩ không lành đã dồn đến tụ tập trong tôi, và tôi cảm thấy rằng thần chết có thể đến thăm tôi vào bất cứ lúc nào. Tôi chỉ cầu mong cái chết buông tha cho tôi cho đến khi nào tôi phóng hỏa đốt xong Kim Các Tự cái đã. Trước kia tôi ít khi đau ốm và bây giờ tôi không thấy dấy hiệu ốm đau nào cả. Tuy vậy, càng ngày tôi càng cảm thấy rõ rệt là sự kiểm soát những điều kiện khác nhau khiến cho tôi sống trên đời là cái trách nhiệm đè riêng trên vai tôi. Riêng mình tôi phải chịu đựng cái gánh nặng của trọng trách này.

Hôm trước, khi đang quét dọn, tôi đã bị một cái dầm tre ở cán chổi đâm vào ngón tay, và cứ riêng một vết thương nhỏ xíu này thôi cũng đã đủ làm cho tôi khó chịu. Tôi nhớ đến tuyện một thi nhân đã chết chỉ vì bị một cái gai hoa hồng đâm vào ngón tay. Những con người tầm thường quanh tôi chẳng bao giờ chết vì những lý do như thế. Nhưng tôi đã trở nên một con người quí giá và thực không thể nói trước là vận mệnh đã dành sẵn cho tôi một cái chết như thế nào. May thay ngón tay tôi không sưng mủ; và hôm nay khi bấm mạnh vào, tôi chỉ cảm thấy hơi đau một chút mà thôi.

Tôi chẳng cần nói thêm là trước khi đến xóm Gobancho, tôi đã chú ý không xao lãng một sự giữ gìn vệ sinh nào hết. Hôm trước tôi đã tới một hiệu thuốc tại khu khá xa thành phố, nơi không ai biết mặt tôi hết và đã tự mình mua một gói ống bọc băng cao su phòng ngừa vi trùng. Nhưng cái màng ống bọc cao su bợt bợt mỏng teo này có một mầu sắc thực là ốm yếu. Tối hôm trước tôi đã lấy ra một cái và lắp thử. Vì cái “vật đó” của tôi ngỏng lên giữa những đồ vật khác trong phòng - bức tranh Phật trên đó tôi đã nghịch ngợm lấy bút chì đỏ bôi quết nghuệch ngoạc, tấm lịch của Hiệp Hội Du Lịch Kyoto, những bản kinh văn dùng trong các khóa lễ Thiền lâm chẳng may đã giở ra đúng vào đoạn có bài kệ Phật Đính Tôn Thắng Đà La Ni, những chiếc quần đùi bẩn thỉu, chiếc chiếu rơm rách nát của tôi - trông nó giống như một bức tượng Phật ủ ê nào đó, nhẵn thín, xam xám, không có mắt mũi gì cả. Hình dạng xấu xí của nó làm tôi nhớ tới cái hành vi hung bạo gọi là “La thiết” - cắt của quí - mà ngày nay chỉ còn thấy ghi chép trong những cuốn sách sử nào đó từ xưa để lại.

Tôi đi vào một phố hẻm hai bên đèn giấy treo thành hàng. Khoảng hơn một trăm căn nhà dọc theo phố này đều xây cất theo cùng một kiểu. Người ta bảo nếu một tội nhân nào đó muốn trốn tránh luật pháp, mà đem thân phận mình trao phó cho tay anh chị cai quản khu này thì sẽ có thể ẩn náu rất dễ dàng. Hiển nhiên là khi có người tìm bắt, tay anh chị ấy chỉ cần bấm vào một cái nút, chuông sẽ reo vang trong tất cả mọi căn nhà chứa báo nguy cho kẻ phạm tội biết là cảnh sát đang lùng bắt.

Nhà nào cũng có một cửa liếp tối om bên cạnh cửa ra vào, và nhà nào cũng có hai tầng. Những mái nhà lợp ngói thảy đều cao bằng nhau cũ kỹ, nặng nề vươn cao mãi lên dưới mặt trăng ấm áp. Những tấm mành xanh thẫm với những chữ “Tây Hiên” nhuộm trắng treo lửng lơ ở mỗi cửa ra vào và phía sau những bức mành này người ta có thể nhìn thấy những mụ Tú trong các lầu xanh khác nhau mặc áo khoác ngoài màu trắng và đang khom người về phía trước để dòm ngó những người đi lại.

Tôi chẳng có một chút quan niệm nào về khoái lạc. Tôi cảm thấy dường như trật tự thông thường của sự vật đã xa lìa tôi hết, dường như tôi đã tự mình xa lìa tất cả mọi hàng ngũ; và giờ đây hình như tôi đang kéo lê đôi chân mỏi mệt qua một vùng đất hoang lạnh hoàn toàn. Cái dục vọng ẩn núp trong tôi đã ôm chặt đầu gối mà quỳ xuống chìa cho tôi thấy cái lưng lì lượm. Tôi nghĩ là mình có nghĩa vụ phải tiêu hết món tiền này tại chỗ này. Tôi đã tiêu hết món tiền mà Lão sư phụ đã cho tôi để trả học phí và như thế tôi sẽ cho Lão sư phụ một cái cớ rất là hợp lý để tống cổ tôi ra khỏi chùa. Tôi thấy rõ rành rành là không hề có một mâu thuẫn đặc biệt nào trong ý nghĩ này; tuy nhiên nếu bản tâm tôi như vậy điều đó có nghĩa là tôi hẳn phải yêu thương Lão sư phụ lắm lắm.

Có thể lúc đó vẫn còn quá sớm nên chưa có đông khách mò tới Gobancho. Dầu sao đi nữa ngoài đường phố có ít người một cách lạ kỳ. Tiếng guốc tôi đi vang lên lóc cóc trong làn không khí ban đêm.

Giọng nói đều đều của mụ Tú dường như kéo theo qua làn không khí ẩm ướt giăng mắc trong mùa mưa khi họ réo gọi những người tình cờ đi qua. Ngón chân tôi bám chặt lấy đôi quai quốc đã lỏng lẻo. Và tôi nghĩ thế này. Giữa đám đèn sáng muôn màu muôn vẻ ấy mà tôi đã nhìn thấy từ đỉnh núi Fudo vào cái đêm chiến tranh chấm dứt, chắc hẳn tôi đã ngắm những ngọn đèn của chính đường phố này.

Tại chính chỗ lúc này tôi đang đi tới hẳn có Uiko đang chờ đợi tôi. Tại một ngã tư tôi nhìn thấy một căn nhà gọi là Otaki (Đại Lang). Chẳng chút đắn đo tôi chọn bừa chỗ này và bước qua những tấm màn cửa màu xanh đi vào trong. Tôi chợt thấy mình đứng trong một căn phòng lát gạch. Có ba cô gái đang ngồi ở cuối phòng. Trông họ thật giống như những người đang chán chường, mỏi mệt ngồi chờ xe lửa vậy. Một người trong bọn mặc quốc phục quấn một chiếc khăn quàng quanh cổ. Hai người kia mặc đầm. Một người đang cuối xuống; cô ả đã kéo chiếc bít tất dài xuống thấp và đang gãi lấy gãi để bắp chân. Không có Uiko ở đây. Việc nàng không có mặt ở đây khiến tôi cảm thấy an lòng dễ chịu.

Cô gái đang gãi chân ấy ngẩng mặt lên trông giống một con chó được ai gọi đến. Lớp phấn trắng dầy và lớp sơn đỏ chát trên khuôn mặt tròn xoe đầy đặn của nàng trông nổi bật lên như trong bức vẽ một đứa trẻ con. Tuy nhiên nói ra thì có vẻ kỳ cục, nàng đã nhìn tôi với dáng vẻ có thiện ý thực sự. Đó đúng là cái nhìn đối với một người đi qua trước mặt mình ở góc đường. Ánh mắt nàng tuyệt nhiên không hề nhận thấy cái dục vọng đang tràn dâng trong tôi.

Vì không có Uiko ở đó, nên tôi thấy chọn cô gái nào cũng vậy mà thôi. Tôi vẫn chưa hết mê tín là nếu tôi mà chọn lựa hay đợi chờ trước là thế nào tôi cũng lại sẽ thất bại. Cũng như những cô gái này không hề chọn lựa khách hàng tôi cũng không thể chọn lựa cô gái nào cả. Tôi phải chắc bụng rằng cái quan niệm khủng khiếp về cái đẹp, thường làm cho con người trở nên bất lực khi hành động, vào lúc này sẽ không len vào ngăn cách tôi với ý định của tôi.

“Cậu thích em nào?” mụ Tú nói. Tôi chỉ người con gái lúc nãy ngồi gãi chân. Sự ngứa ngáy ở chân người con gái ấy - có lẽ vì bị một con muỗi vo ve bay lượn quanh sàn nhà đốt chân, thực đã là cái tơ duyên giữa tôi với lại cô nàng. Vì sự ngứa ngáy đó, nàng sẽ được quyền làm chứng nhân cho tôi sau này. Người con gái đứng dậy và đi tới gần tôi, nhẹ nhàng vuốt tay áo chẽn của tôi. Tôi nhận thấy nàng chúm môi cười.

Trong khi trèo những bậc thang tối om, cũ kỹ để lên tầng hai, một lần nữa tôi lại nghĩ đến Uiko. Tôi lan man nghĩ vào lúc này nàng đã đi ra khỏi cái thế giới đang tồn tại vào lúc này nàng đã đi ra khỏi cái thế giới đang tồn tại vào lúc này như thế nào. Vì nàng đã đi khỏi nơi này, cho nên dù cho có đưa mắt tìm kiếm nàng ở bất cứ chỗ nào chắc chắn là tôi chẳng thể tìm ra nàng nữa. Tôi thấy hình như Uiko đã đi ra ngoài thế giới này của chúng ta để đi tắm hoặc làm một việc gì đại khái cũng tầm thường đơn giản như thế.

Trong lúc Uiko hãy còn sống tôi cảm thấy dường như nàng có thể tự do ra vào cái thế giới nhị trùng như thế này. Ngay cả vào lúc xảy ra tấn bi kịch ấy, đúng vào lúc tưởng như nàng đang cự tuyệt thế giới, nàng đã hơn một lần chịu đựng thế giới. Đối với Uiko có lẽ cái chết chỉ là một việc tầm thường. Chỗ máu nàng để lại trên độ điện của Kim Cương viện có lẽ đã là một cái gì giống như bụi phấn trên cánh con bươm bướm rơi rớt lại vào buổi sáng khi mình mở cửa sổ ra và con bươm bướm ấy tức khắc bay đi.

Ngay giữa tầng nhì có một lan can vây quanh một khoảng trống nơi luồng không khí thường từ dưới sân trong bốc lên; một dây phơi quần áo giăng suốt từ đầu gồi này tới đầu gồi kia trên đó treo một cái váy đỏ, một vài tấm quần áo lót của đàn bà và một cái áo ngủ. Căn phòng tối như bưng và cái áo ngủ lờ mờ buông xuống trông giống như một hình người.

Một cô gái đang ca hát trong một căn phòng. Tiếng ca của cô bé bềnh bồng êm nhẹ; thỉnh thoảng có giọng đàn ông lạc lõng chen vào. Lời ca chấm dứt và một lúc im lặng ngắn ngủi tiếp theo. Rồi người con gái phá lên cười như thể một sợi dây đã bị giựt đứt.

“Haruka đó,” người con gái ngồi với tôi quay về phía mụ chủ mà nói.

“Con ấy lúc nào cũng thế mà,” mụ chủ nói, “lúc nào cũng thế.” Nói rồi mụ quay phắt tấm lưng vuông như cánh phản về phía căn phòng, nơi phát ra tiếng cười. Họ chỉ cho tôi một căn phòng nhỏ bé chán ngắt. Một thứ bục gỗ chiếm chỗ của cái giường và trên đó ai đã tình cờ đặt một bức tranh thần đem may mắn Hoteil (Bố Đại) và hình một con mèo đang uốn éo. Trên tường có dán một bản điều lệ tỉ mỉ và còn có treo cả tấm lịch nữa. Qua cửa sổ mở toang thỉnh thoảng mình có thể nghe thấy tiếng chân những khách tìm hoa khi họ lang thang qua đường phố này.

Mụ chủ hỏi liệu tôi muốn ở lại chốc lát hay suốt cả đêm. Đi một lần phải trả bốn trăm yen. Tôi gọi đem ít rượu và bánh ngọt. Mụ chủ đi xuống dưới nhà lấy những thứ tôi gọi nhưng người con gái vẫn chưa đến ngồi bên tôi. Mãi đến lúc mụ chủ mang rượu đi lên và cô gái đến ngồi cạnh bên tôi trên chiếc chiếu rơm. Bấy giờ nhìn nàng gần hơn tôi mới thấy dưới mũi nàng hơi đỏ vì xoa gãi dữ quá. Hiển nhiên, cô ả có thói quen giết thì giờ bằng cách xoa gãi không những đôi chân và khắp cả mình mẩy. Rồi ngắm kỹ, tôi thấy cái mầu đo đỏ này có thể chỉ là một vệt quệt của lớp son dầy đặc. Xin đừng ngạc nhiên về truyện tôi đã quan sát tỉ mỉ đén thế. Xét cho cùng, đây là lần đầu tiên tôi mò đến nhà chứa và tôi háo hức tìm kiếm tất cả những chứng cứ của sự khoái lạc mà tôi có thể nhìn thấy. Tôi nhìn thấy mọi vật rõ rành rành như một bảng khắc bằng đồng; từng chi tiết đều hiển hiện rõ ràng tại một cự li nhất định trước mắt tôi.

“Trước đây em đã gặp cậu rồi phải không?” người còn gái nói sau khi xưng tên là Mariko.

“Tôi mới tới đây lần đầu tiên cô ạ.”

“Thực hả? Lần đầu tiên cậu tới một chỗ thế này ư?”

“Phải, cứ cho là thế đi. Thảo nào tay cậu cứ run lập cập.”

Cho đến lúc nàng nói câu này tôi mới nhận ra rằng bàn tay đang nâng ly rượu của tôi đang run lẩy bẩy.

“Nếu quả như vậy, Mariko ạ,” mụ chủ xía lời “đêm nay mày gặp may rồi phải không?” “Vâng, con sẽ biết có thực thế hay không ngay đây mà,” Mariko lững lờ nói. Trong lối nói của cô ả không có lấy một tí gì là khêu gợi cả, và tôi nhận thấy tâm hồn Mariko đang thơ thẩn rong chơi ở một nơi nào đó chẳng hề quan hệ tới thân xác tôi hoặc thân thể nàng hết, giống như một đứa trẻ gái bị tách ra khỏi đám bạn bè đang chơi với nó vậy. Mariko mặc một chiếc áo bluse xanh lợt và một cái áo màu vàng. Nhìn hai bàn tay nàng, tôi thấy chỉ có hai ngón tay cái bôi thuốc đánh móng tay màu đỏ. Có lẽ nàng đã mượn người bạn cái bàn chải đánh móng tay và đánh móng tay của mình chơi cho vui.

Thế rồi hai đứa chúng tôi leo lên giường. Mariko gác một chân lên cái nệm trải rộng trên chiếc chiếu rơm và kéo sợi dây dài lủng lẳng bên cạnh chiếc chụp đèn. Mầu sắc rực rỡ của chiếc nệm vải bông in hình lòe loẹt hiện rõ mồn một dưới ánh đèn điện. Một con búp bê của Pháp núp mình trong hốc tường lộng lẫy.

Tôi cởi quần áo một cách vụng về. Mariko choàng qua vai một cái áo ngủ rộng thùng thình màu hồng nhạt và khéo léo trút bỏ xiêm áo ở bên trong. Gầm giường ngủ có một bình nước lã, tôi làm một hơi mấy cốc liền. Đang quay mặt phía khác, Mariko nghe thấy tiếng uống nước ừng ực.

“Ồ, anh là thằng bợm nước hả!” nàng vừa nói vừa cười sằng sặc.

Khi hai đứa đã vào giường và nằm quay mặt vào nhau, cô ả khẽ đặt ngón tay lên đầu mũi tôi vừa cười vừa hỏi: “Có thực đây là lần đầu tiên anh đi chơi không đấy?”

Dù ánh đèn cạnh giường lờ mờ tôi cũng không quên lõ mắt ngắm nhìn. Vì nhìn như thế này mới chứng tỏ rằng tôi đang sống. Ngoài ra, đây là lần đầu tiên tôi được nghe nhìn thấy mắt người khác gần ngay mắt mình cho đến thế. Cái viễn cận pháp vẫn hằng chi phối thế giới của tôi đến lúc này đã bị sụp đổ. Một kẻ lạ mặt đã táo bạo xông vào cuộc sống của tôi. Cái hơi ấm áp, mùi thơm rẻ tiền trên da thịt tấm thân người lạ mặt ấy đã phối hợp lại dần dần tràng dâng cho đến khi nhận chìm toàn thể con người tôi trong đó. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy rằng thế giới của tha nhân có thể tan biến giống như thế này.

Tôi đang bị đưa đẩy, giống như một đơn vị phổ biến thông thường của toàn thể. Chưa bao giờ tôi tưởng tượng rằng có một ai đó lại có thể đưa đẩy tôi như thế này. Sau khi tôi đã cởi hết quần áo, trút bỏ nhiều thứ phụ thuộc khác nữa - cả cái tật nói lắp, vẻ xấu xí cùng sự nghèo nàn nữa - tối hôm đó, tôi đã thực sự đạt được khoái cảm thể xác, tuy nhiên tôi vẫn không tin chính tôi là người đã hưởng niềm khoái cảm ấy. Xa xa một cảm giác từ lâu từng tránh né tôi bây giờ dâng lên tràn trề và sụp đổ ngay sau đó. Tôi vội tách mình ra khỏi thân thể cô gái rồi tựa cằm lên chiếc gối. Cả một bên đầu tê tê vì lạnh, tôi lấy nắm tay vỗ nhẹ vào chỗ ấy. Thế rồi tôi hoàn toàn có cảm giác rằng tất cả đều bỏ rơi tôi trong tình trạng vật vờ. Tuy nhiên, tất cả vẫn chưa đủ sức làm tôi rơi nước mắt.

Sau khi hai đứa đã hành sự xong xuôi, chúng tôi nằm bên nhau trò chuyện. Tôi mơ màng nghe tiếng cô gái kể truyện nàng đã từ Nagoga trôi dạt tới nơi này như thế nào. Nhưng tất cả ý nghĩ của tôi đều hướng thẳng về Kim Các Tự. thực ra đấy chỉ là những ý nghĩ trừu tượng về ngôi chùa hoàn toàn khác hẳn những ý nghĩ quen thuộc, tù đọng, cặn bã, đầy nhục cảm của tôi.

“Anh không trở lại nơi này nữa, phải không?” Mariko hỏi, và qua lời nói của nàng, tôi cảm thấy nàng già hơn tôi ít ra một hai tuổi. Đúng, rõ ràng là nàng phải già hơn tôi. Hai bầu vú nàng ngồn ngộn trước mắt tôi, ướt đẫm mồ hôi. Chỉ là hai khối thịt, hai bầu vú Mariko và quyết chẳng bao giờ có thể trải qua sự biến mạo lạ kỳ để trở thành Kim Các Tự. Tôi lấy đầu ngón tay rụt rè sờ vào cặp vú nàng.

“Chắc là anh thấy những cái này lạ mắt lắm phải không?” Mariko nói. Sau đấy, nàng ngồi nhỏm dậy chăm chăm nhìn vào một bên ngực rồi đưa tay nâng vú lên và lắc nhẹ như thể đang chơi đùa với một con vật nhỏ bé. Thịt da nàng rung rinh nhè nhẹ làm tôi nhớ lại mặt trời chiều trên vịnh Maizuru. Cung cách mặt trời chiều biến sắc thật nhanh hình như kết hợp trong lòng tôi cùng với tính chất biến đổi mau lẹ của thịt da người con gái. Tôi cảm thấy yên lòng khi tưởng tượng rằng giống như mặt trời chiều đang bị chôn vùi trong những lớp mây chập chùng, dầy đặc, lớp da thịt rung trước mắt tôi kia chẳng mấy chốc rồi cũng sẽ vùi sau trong nấm mồ âm u của đêm tối.

Hôm sau tôi lại mò đến cùng “cửa hiệu” ấy và đòi cho được cũng cô gái ấy. Chẳng phải vì tôi hãy còn khối tiền, mà còn vì cái hành vi tôi mơi làm lần đầu tiên ấy hình như chẳng thấm thía vào đâu so với sự sướng khoái ngây ngất mà tôi vẫn hằng tưởng tượng, vì thế tôi thấy cần là phải thử lại một lần nữa và mang cái hành vi ấy gần hơn chút nữa với nguồn vui thú ngất ngây trong tưởng tượng của tôi. Một trong nhiều điểm khác người của tôi là những hành vi tôi thực hiện trong cuộc đời luôn luôn có khuynh hướng kết liễu y như những bản sao trung thực của những gì tôi vẫn tưởng tượng. Hoặc hơn thế, tôi muốn nói không phải sự tưởng tượng mà là nguồn gốc những ký ức của mình. Tôi không làm sao vượt qua được cái cảm giác là mỗi thí nghiệm mà tôi trải qua trong đời đều là được chính tôi thí nghiệm trước đó dưới một hình thức thú vị hơn. Ngay cả trong trường hợp một hành vi nhục thể như thế này, tôi cảm thấy rằng vào lúc nào đó và tại nơi nào đó mà tôi không thể nhớ rõ nữa - có lẽ cùng với Uiko - tôi đã được biết một hình thức khoái lạc nhục thể mãnh liệt hơn, một khoái cảm đủ khiến cho sướng đến tê dại cả người. Việc này đã khơi nguồn những niềm vui sau này của tôi, và thực thế, những niềm vui ấy chỉ có nghĩa như là việc lấy tay vốc từng vốc nước ra khỏi quá khứ.

Thực vậy tôi cảm thấy rằng một lúc nào đó trong quá khứ xa xôi tôi đã mục kích tại nơi nào đó một ánh hoàng hôn tráng lệ không gì sánh kịp. Có phải vì tội của tôi nên những buổi mặt trời lặn đã nhìn thấy về sau chẳng nhiều thì ít luôn luôn nhạt mờ?

Hôm qua cô gái đã tiếp đãi tôi rất nồng hậu như thể tôi là khách hàng quen thuộc vì thế trong lần viếng thăm ngày hôm nay tôi đã mang theo một quyển sách nhét vào túi áo. Quyển này thuộc loại sách bỏ túi mà tôi dã mua được mấy hôm trước ở một hiệu sách cũ. Đó là quyển Tội Phạm và Hình Phạt của Bequaria. Cuốn này do môt học giả người Ý chuyên về hình pháp ở thế kỷ mười tám viết; nó đã trở thành một món ăn cổ điển và Khải mông chủ nghĩa và Hợp lý chủ nghĩa; sau khi đọc được mấy trang tôi đã vất nó sang một bên. Tuy vậy, tôi chợt nghĩ ra rất có thể cô bé lại thích thứ nhan đề cuốn sách ấy.

Mariko chào đón tôi cũng với nụ cười mủm mỉm như hôm qua. Vẫn nụ cười ấy, nhưng “hôm qua” thì chằng hề để lại một dấu vết nào. Vẻ thân thiện của nàng đối với tôi là sự thân thiện mà thiên hạ bầy tỏ với một người lạ khi tình cờ nhìn thấy ở một góc đường phố. Có lẽ chỉ vì thân hình cô gái này tự nó cũng giống như một góc phố.

Tôi ngồi trong một phòng nhỏ với Mariko và mụ chủ. Chúng tôi nhấm nháp chút rượu và tôi cũng tỏ ra khéo léo trong cách trao đổi ly rượu theo cổ lệ.

“Cậu truyền ly rất đúng cách khi đưa cho cô bạn tình của câu, có đúng không nào?” Mụ chủ nói: “Trông cậu hãy còn trẻ nhưng tôi nhận thấy cũng ra dáng lắm đấy!”

“Nhưng, nếu mỗi ngày anh đều mò đến đây như thế này”, Mariko góp truyện, “liệu có bị Hòa thượng trách mắng hay không?”

Như vậy là họ đã biết rõ tông tích tôi rồi, tôi nghĩ; họ biết tôi là người trong một ngôi chùa.

“Này, đừng tưởng em không khám phá ra đâu!” Mariko nói khi nhận tấy tôi có vẻ ngạc nhiên. “Bây giờ tất cả thanh niên đều để tóc dài theo lối công tử. Hễ thấy chàng nào cắt tóc cụt lủn sát da đầu như anh đây này là mình có thể nói ngay là anh chàng là người trong một ngôi chùa nào đó. Tụi em biết đủ mọi truyện về bọn họ trong những nhà như thế này. Vì lẽ đây là nơi những người bây giờ đã trở nên những tu sĩ nổi tiếng thường tới lui khi họ còn trẻ tuổi. Mà này có nên hát một bài nghe chơi không nhỉ?” Thế là Mariko liền hát ngay một bài dân ca nói về những công việc khác nhau của một người đàn bà con gái nào đó ngoài hải cảng.

Sau đó hai đứa chúng tôi leo lên giường và tôi đã hành sự thật trơn tru trong cái khung cảnh bây giờ đã trở nên quen thuộc. Lần này tôi thực sự cảm thấy đã thấp thoáng thấy niềm lạc thú; tuy nhiên, đó không phải thứ khoái lạc tôi hằng tưởng tượng, nhưng chỉ là cảm giác thỏa mãn hỗn độn, ồn ào mà tôi đang tự thích ứng với sự đọa lạc.

Khi hành sự xong xuôi Mariko mới cho tôi một lời răn dậy giọng đầy cảm thương khiến càng thấy rõ là nàng lớn tuổi hơn tôi. Lời nàng nói làm tôi cụt hứng trong chốc lát.

“Em nghĩ là anh chẳng nên đi lại quá nhiều một nơi như thế này”. Mariko nói. “Anh là người đứng đắn đàng hoàng. Em dám chắc như vậy. Không nên say đắm với loại thú vui này, anh ạ. Anh nên đem nghị lực dồn hết vào công việc của mình. Đó là điều duy nhất chao anh. Dĩ nhiên, em thích anh lại đây chơi với em. Nhưng anh hiểu tại sao em lại đang nói với anh như thế này chứ? Vì em coi anh như một người em trai vậy”.

Có lẽ Mariko đã học được lối nói năng này trong một cuốn tiểu thuyết ba xu nào đó. Lời nói của nàng chẳng có một chút cảm xúc sâu xa đặc biệt nào hết. Mariko chỉ bịa ra một câu truyện tình tự nho nhỏ hy vọng lôi cuốn tôi vào thôi. Hẳn là cô nàng đang chờ đợi tôi đáp lại bằng những giọt nước mắt.

Nhưng tôi đã không làm như vậy. Thay vì thế, tôi chộp lấy cuốn Tội Phạm và Hình Phạt ở bên gối và dí vào trước mắt nàng. Mariko ngoan ngoãn giở đọc lướt mấy trang. Rồi chẳng nói chẳng rằng nàng đặt quyển sách lại chỗ cũ. Nàng hoàn toàn không thèm để ý đến nó nữa.

Tôi chỉ ước mong sao Mariko sẽ cảm thấy một vài dự tưởng nào đó về sự run rủi của vận mệnh đã khiến nàng gặp tôi. Tôi ước mong rằng nàng sẽ đi gần tới chỗ ý thức thêm chút nữa là nàng đang giúp một tay vào sự phá hủy thế giới. Dù sao đi nữa cả cô gái này cũng không thể coi câu truyện này là câu truyện không đáng quan tâm. Tôi thấy sốt ruột và sau đã phải buột ra điều đáng lẽ tôi không nên nói: “Trong một tháng - phải, trong vòng một tháng thôi, em sẽ thấy báo chí nói nhiều đến anh. Xin hãy nghĩ đến anh khi việc ấy xẩy ra”.

Nói xong tôi thấy tim mình nện thình thịch. Nhưng Mariko lại phá ra cười. Nàng cười to đến nỗi rung rinh cả hai bầu vú, và nàng liếc tôi và cố gắng cắn ống tay áo để nín tiếng cười, nhưng một lần nữa nàng lại phá ra cười sằng sặc đến độ run rẩy cả người. Tôi biết chắc chính Mariko cũng chẳng thể nào cắt nghĩa được tại sao nàng lại thấy buồn cười cho đến thế. Thấy vẻ mặt tôi ngỡ ngàng, nàng mới dứt tiếng cười.

“Có cái gì buồn cười thế hở?” Tôi hỏi. Thực là một câu hỏi ngớ ngẩn.

“Anh là thằng nói dối chính tông, có phải không? Ô, thực buồn cười quá! Anh thực là thằng nói dối kinh khủng!”

“Anh đâu có nói dối điều gì”.

“Ô, thôi xin ngừng lại đi!” Mariko vừa nói vừa phá ra cười một lần nữa. “Cười đến chết mất. Anh đang giết chết em đó! Toàn là những lời nói láo. Ấy thế mà cái mặt anh cứ nhơn nhơn ra được.”

Tôi nhìn nàng cười. Có lẽ nàng buồn cười chỉ vì tôi đã nói lắp một cách lạ lùng khi đặc biệt nói đến tương lai. Rõ ràng là nàng hoàn toàn không hề tin những lời tôi đã nói ra một chút xíu nào.

Mariko chẳng có một chút tin tưởng nào hết. Giả như có một trận động đất nổi lên ngay trước mắt, thì nàng cũng chẳng tin nào. Nếu cả thế giới này có sụp đổ, riêng người con gái này có lẽ sẽ thoát nạn. Bởi vì Mariko chỉ tin vào những sự việc xảy ra theo lối lý luận riêng của mình. Cái lối lý luận này không chấp nhận sự sụp đổ của thế giới và vì thế nhất định chẳng bao giờ có một cái gì có thể tạo cơ hội khiến Mariko nghĩ đến một điều như thế. Về điểm này nàng giống Kashiwagi. Mariko là một Kashiwagi đàn bà, một Kashiwagi không biết suy tưởng.

Câu truyện giữa hai đứa chúng tôi chấm dứt thì Mariko nhỏm dậy, hai vú vẫn phơi trần và nàng bắt đầu ngân nga giọng mũi mà cất tiếng hát. Tiếng ngân nga giọng mũi của nàng hòa điệu với tiếng vỗ cánh vù vù của một con ruồi đang bay lượn quanh đầu nàng. Bay được một lúc tình cờ con ruồi nhào xuống đậu trên một bầu vú nàng.

“Ồ, nhột quá!” nói vậy xong nàng lại không có ý muốn xua đuổi nó đi.

Mỗi khi con ruồi đậu vào bầu vú nàng nó cứ bám chặt lấy. Tôi lấy làm ngạc nhiên Mariko không tỏ vẻ khó chịu chút nào hết khi bị một côn trùng âu yếm, vuốt ve, vỗ về theo lối này.

Tôi nghe tiếng mưa rơi trên mái hiên. Tiếng mưa rơi ào ào như thể trời chỉ mưa ở riêng một nơi này mà thôi. Tôi nghe tiếng mưa rời hình như đã sợ hãi đến mê lịm đi vì đã lang thang tới khu phố riêng biệt và đã hoàn toàn lạc lói không biết đường về. Tiếng mưa rơi đường như bị cắt rời khỏi đêm tối bao la, cũng như tôi vậy; đó là âm thanh thuộc về một thế giới cục hạn, giống như cái thế giới nhỏ bé đang được ánh đèn lờ mờ để đầu giường soi sáng.

Vì loài ruồi ưa thích sự rữa nát liệu Mariko đã bắt đầu rữa nát hay chưa? Có phải việc người con gái này hoàn toàn không tin tưởng gì hết đã chứa đựng sự tan rửa ung thối không? có phải vì thế nàng đã sống trong một thế giới tuyệt đối của riêng mình mà con ruồi đã bay tới hỏi thăm nàng hay không? Thật khó mà tôi hiểu nổi.

Rồi đột nhiên Mariko lăn ra ngủ như chết. Nàng nằm đó giống như một xác chết, và trên bầu vú tròn trặn lập lòa dưới ánh đèn đầu giường, cả con ruồi nữa cũng nằm bất động; hiển nhiên là nó cũng đã ngủ thiu thiu.





Tôi không bao giờ trở lại Otaki. Tôi đã làm xong những việc cần phải làm. Bây giờ chỉ còn có việc chờ Lão sư phụ khám phá ra là tôi đã tiêu sạch tiền học phí ra làm sao và tống cổ tôi khỏi chùa.

Tuy nhiên, tôi không gợi cho Lão sư phụ biết tí gì cách tôi tiêu nhẵn cả món tiền ấy. Tôi chẳng cần phải thú tội; Lão sư phụ phải đánh hơi thấy hành vi của tôi mà tôi chẳng cần phải thú tội gì hết.

Kể ra tôi cũng thấy khó mà giải thích cho chính mình nghe tại sao tôi muốn nhắm mắt tin tưởng, ỷ lại trọn vẹn vào sức mạnh của Lão sư phụ một khi sự thể đã như thế. Tại sao tôi lại muốn mượn sức mạnh của Lão sư phụ? Tại sao tôi lại để cho quyết định tối hậu của mình phải căn cứ vào việc bị Lão sư phụ tống cổ ra khỏi chùa? Bởi lẽ, như tôi đã nói từ lâu, tôi đã sớm thấy cái bản chất vô lực của Lão sư phụ.

Vài ngày sau khi mò đến nhà chứa lần thứ hai, tôi đã có dịp thấy rõ cái khía cạnh đặc biệt này của Lão sư phụ. Sáng sớm hôm đó, trước khi cổng vườn mở, Lão sư phụ đi tản bộ một vòng quanh Kim Các Tự. Đây là điệu thật hãn hữu đối với ông. Ông đi lên về phía tôi và những chú tiểu khác đang quét sân chùa và nói đôi ba lời thường lệ cảm ơn sự cố gắng của chúng tôi. Thế rồi, trong tấm áo trắng bong lạnh lẽo, ông bước lên những bậc thềm đá dẫn đến Tịch giai đình. Hiển nhiên ông lên đó ngồi nghỉ một mình, sửa soạn trà uống cho thảnh thơi tâm thần.

Bầu trời mang dấu vết của một buổi bình minh chói lọi. Đó đây, những đám mây hãy còn phản ánh đỏ rực đang băng qua nền trời màu xanh. Trông thật như thể những đám mây ấy vẫn chưa khắc phục được nỗi e thẹn, rụt rè của chúng.

Khi chúng tôi đã quét dọn xong xuôi, những người khác trong nhóm quay về chính điện. Riêng mình tôi đi theo con đường dẫn qua Tịch giai đình phía sau Đại Thư Viện. Tôi cầm chổi và trèo lên các bậc thềm dẫn tới một điểm gần trà thất trong Tịch giai đình. Cành lá hãy còn ướt sũng nước mưa đổ xuống từ đêm hôm trước. Ánh sáng chói chan buổi sớm phản chiếu trên vô số những giọt sương mai lốm đốm mầu hồng nhạt trên các bụi cây gần đó, trông như loại dâu đỏ trái mùa đã mọc ở đây. Những cái mạng nhện dăng từ giọt sương mai này sang giọt sương mai khác cũng hơi nhuốm hồng và tôi thấy chúng đang rung rinh.

Sau khi ngắm nhìn hết một lượt, tôi thấy một nỗi cảm động tràn ngập cõi lòng không biết vì sao những sự vật trên trái đất này lại có thể phản ánh những màu sắc trên trời một cách mẫn cảm cho đến thế. Ngay cả màn mưa thấm đượm giăng mắc quanh khắp ngôi chùa cũng được hưởng những gì từ trên trời cao buông xuống. Mọi vật đều ướt át như thể chúng đã được hưởng nguồn ân sủng tràn trề nào đó sự rữa nát đã pha trộn với vẻ mát tươi. Bởi lẽ những sự vật trên trái đất này không hề biết một phương thuật nào để cự tuyệt bất kỳ cái gì.

Sát ngay bên Tịch giai đình ngọn Củng Bắc lâu nổi tiếng đứng nghễu nghện; tên gọi tháp này bắt nguồn từ câu: “Bắc thần chi cư kỳ sở. Chúng tinh củng chi - sao Bắc Đẩu ngự đến nơi này trên các vì sao khác đều tới chầu phục”. Tuy nhiên, Củng Bắc lâu bây giờ không còn giống cái tháp thời xưa khi Yoshimitsu đang cầm quyền. Nó đã được tái thiết khoảng một trăm năm trước đây theo hình tròn cho thích hợp với các trà tịch. Vì Lão sư phụ không có ở trong Tịch giai đình chắc hẳn ông phải ở trong Củng bắc lâu.

Tôi không muốn một mình gặp Lão sư phụ. Tôi lặng lẽ đi theo hàng rậu, cúi khom người để khỏi bị người nào ở phía bên kia nhìn thấy.

Cửa Củng Bắc lâu mở toang. Trong hộc tường tôi nhìn thấy bức họa quen thuộc của Tanyama Okyo. Trong hốc tường cũng còn có một bàn thờ Phật nho nhỏ đẽo bằng gỗ bạch đàn nhưng đã bị năm tháng biến thành màu đen kể từ khi được rước từ xứ Thiên Trúc về. Bên trái tôi nhìn thấy cái giá bằng gỗ tang bằng đóng theo kiểu Rikyu, tôi cũng còn nhìn thấy bức họa trên tấm cửa kéo nữa. Mọi vật đều ở đó như tôi đã đoán trước chỉ trừ hình bóng Lão sư phụ là tôi chẳng thấy đâu. Bất giác tôi nhô đầu khỏi hàng rậu và nhìn quanh.

Trong một góc phòng tối tăm gần cây cột lớn tôi nhìn thấy một cái gì trông giống một cái bao lớn màu trắng. Nhìn kỹ hơn, tôi thấy đó là Lão sư phụ, thân hình ông cúi gặp hẳn xuống trong chiếc áo màu trắng; ông ngồi đó khom người úp đầu xuống gối và hai ống tay áo dài phủ lên kín mặt.

Lão sư phụ vẫn ngồi trong tư thế cũ hoàn toàn bất động. Nhưng tôi là đứa đang đứng đó ngắm nhìn ông thì lại thấy nôn nao cả người vì một tình cảm dạt dào.

Ban đầu tôi nghĩ là Lão sư đã lâm bệnh kịch liệt cấp kỳ và hiện đang mê sảng. Tôi phải đến bên ông ngay tức khắc và sẵn sàng giúp đỡ ông. Thế nhưng vừa có ý nghĩ như thế thì có một cái gì nắm giữ tôi lại. Tôi chẳng còn chút yêu thương nào đối với Lão sư và kể từ ngày mai trở đi tôi có thể thi hành cái quyết tâm phóng hỏa đốt chùa vào bất cứ lúc nào. Trong những trường hợp như thế này mà đến giúp đỡ ông thì thật chỉ là đạo đức giả. Hơn nữa, lại có sự nguy hiểm là nếu quả thực là tôi mà giúp đỡ ông thì hòa thượng sẽ cảm tạ và yêu thương tôi và kết quả là tôi sẽ mềm lòng không thực hiện được quyết định của mình nữa.

Bây giờ thì tôi đã ngắm Lão sư phụ kỹ lưỡng rồi; ông không có dáng vẻ gì là bị đau yếu hết. Dù cho việc gì đã xẩy ra với ông đi nữa trong cái tư thế gục đầu khom mình trong căn trà thất nhỏ bé, ông đã hoàn toàn mất hết uy tín mất rồi. có một cái gì ti tiện, xấu xa trong cái tư thế đó, giống như tư thế một con thú đang ngủ thiếp đi vậy. Tôi nhận thấy tay áo ông hơi hơi run run và quả tình như thể có một sức nặng vô hình nào đó đang tì mạnh lên lưng ông.

Sức mạnh vô hình này là cái gì vậy? Nó có làm cho mình khổ não hay không? Hoặc giả, phải chăng Lão sư phụ đã tự mình cảm thấy không sao chịu đựng nổi sự vô lực của mình?

Khi đã quen tai với sự im lặng này, tôi mới nhận thấy Lão sư phụ đang thấp giọng thì thầm một điều gì đó. Tiếng thì thầm ấy nghe giống như một đoạn kinh văn, tuy nhiên tôi không biết đó là một đoạn kinh nào. Đột nhiên một ý nghĩ vụt hiện làm tan vỡ niềm kiêu căng của tôi. Lão sư phụ có một sinh hoạt tinh thần tối tăm mà bọn chúng tôi chẳng đứa nào hay biết gì hết; và so với cuộc sống này những sự xấu xa nho nhỏ, những điều tội lỗi nho nhỏ, những sự biếng lười nho nhỏ mà tôi đã ra công phạm vào xét ra thực tầm thường không thể nào tả được.

À, thế ra vậy đó. Cái thế ngồi khom mình của Lão sư phụ trong lúc này thật giống hệt cái tư thế “đinh cật” nghĩa là tư thế của một hành cước tăng chỉ muốn năn nỉ xin nhập chúng tăng đường nhưng đã bị cự tuyệt và đang gục đầu ngồi trên khăn gói tay nải suốt cả ngày ngoài cửa huyền quan. Nếu một cao tăng như Lão sư phụ thực sự bắt chước lối điều hành của một tu sĩ lang thang mới tới, hẳn là ông phải được trời ban cho một mức độ khiêm hư khủng khiếp. Nhưng cái sự khiêm hư này của người ấy hướng về cái gì? Cũng y như sự khiêm hư của cọng lá trên cây, của sương mai vương mắc trên mạng nhện đã hướng thẳng về ánh mặt trời vì thế có lẽ Lão sư phụ đang tự mình hướng về sự khiêm hư của mình về nguồn gốc cũng điều ác và những tội nghiệp; có lẽ ông đang để mặc cho những điều này phản ánh một cách tự nhiên trên con người ông trong khi ông ngồi đó khom mình trong tư thế của một con thú.

Nhưng không phải thế. Bỗng dưng tôi thấy ông đang tỏ bầy thái độ khiêm hư đối với chính tôi. Chẳng còn có thể nghi ngờ gì nữa. Ông đã biết là tôi sắp sửa đi qua nơi này và chính tôi mà ông đã lựa cái tư thế này để cho tôi nhìn thấy. Lão sư phụ đã hoàn toàn ý thức được sự vô lực của chính mình và sau cùng ông đã chọn lựa phương pháp huấn giới lặng lẽ cực kỳ mỉa mai này để âm thầm vò xé tim tôi ra từng mảnh nhỏ, để đánh thức cho tình thương xót chỗi dậy trong tôi, để khiến tôi phải quỳ gối khẩn nguyện.

Trong khi ngắm Lão sư phụ khom mình ngồi đó trong dáng vẻ tôi cho là khiêm hư, thật khó lòng mà tôi tránh khỏi đắm chìm trong xúc động. Mặc dù tôi cố gắng đem hết sức mình phủ nhận nguồn xúc động ấy song sự thật vẫn là tôi đang sắp sửa gục ngã trước sự ái mộ đối với Lão sư phụ. Nhưng cái ý nghĩ ông đã lựa chọn tư thế này chính vì đặc biệt muốn cho tôi nhìn thấy đã làm mọi truyện thay đổi ngược hẳn lại và khiến tôi thấy lòng mình lại càng cứng dắn hơn trước nhiều.

Đúng vào lúc này tôi quyết định thi hành kế hoạch phóng hỏa không cần dựa vào một điều kiện tiên quyết nào chẳng hạn như việc bị Lão sư phụ tống cổ ra khỏi chùa. Tôi và Lão sư phụ đã trở nên hai con người sống trong hai thế giới khác biệt và không còn ảnh hưởng tí gì đến nhau nữa. Tôi thoát khỏi tất cả mọi trở ngại. Bây giờ tôi có thể thi hành mọi quyết định của mình theo bất cứ cách nào và vào bất cứ lúc nào tôi thích chứ không còn mong đợi bất kỳ cái gì từ một sức mạnh bên ngoài nào khác nữa.

Ánh hồng chói chan của buổi sớm nhạt dần trên nền trời, đồng thời mây đã tụ lại từng đám và ánh mặt trời tươi sáng đã rút ra khỏi Củng Bắc lâu. Lão sư phụ vẫn khom mình ngồi đó. Tôi vội vã rảo bước rời khỏi nơi này.

Vào ngày 25 tháng 6 chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Điều tôi linh cảm rằng thế giới sắp sửa sụp đổ tan tành trở thành sự thực. Tôi phải vội vã mau tay lên mới được.





--------------------
Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 21st July 2025 - 08:25 PM