![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,312 Joined: 10-April 08 Member No.: 12 Country ![]() ![]() |
Kim Các Tự
Nguyên tác: Kinkaku-ji - The Temple of the Golden Pavilion Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch Chương 1 Ngay từ khi tôi còn thơ ấu, Ba vẫn thường kể câu chuyện về Kim Các Tự cho tôi nghe. Tôi ra đời trên một mũi biển hiu quạnh nhô ra ra biển Nhật Bản ở phía đông bắc Maizuru. Tuy nhiên, nguyên quán của Ba không ở đây mà ở Shiraku, miền ngoại ô phía đông thành phố Maizuru. Ba được thúc đẩy gia nhập giáo hội và trở nên tu sĩ trụ trì một ngôi chùa tên một mỏm đất xa xôi. Ba lập gia đình ở nơi này và sinh ra một đứa con trai, ấy chính là tôi vậy. Trong khắp miền lân cận ngôi chùa, trên mỏm đất Nariu, không hề có một trường trung học nào thích hợp cho tôi. Kết cục, tôi phải rời cha mẹ đến ngụ ở nhà chú tôi tại sinh quán của Ba ngày trước; trong thời gian sống ở nơi này, tôi theo trường trung học Đông Maizuru, cuốc bộ đi học cũng như lúc về nhà. Bầu trời nơi quê cũ của Ba rất trong sáng. Nhưng mỗi năm vào tháng mười một và mười hai ngay trong những ngày trên trời dường như không có lấy một cụm mây, mỗi ngày chúng tôi vẫn bị bốn năm trận mưa rào đột ngột đổ ụp xuống đầu. Tôi nghĩ là chính vì miền đất này mà tôi đã có cái tâm tính thực là hay thay đổi. Vào những chiều tháng Năm, sau khi đi học về, tôi thường ngồi trong phòng học trên tầng gác thứ nhì trong căn nhà chú tôi và mơ màng ngắm nhìn những vì ngọn đồi trước mặt. Ánh chiều tà lấp lánh trên các cành lá non bao phủ sườn đồi trông như giữa những cánh đồng người ta đã dựng lên một bức bình phong bằng hoàng kim óng ánh. Mỗi khi trông thấy cái này, tôi lại tưởng tượng đến hình ảnh Kim Các Tự. Mặc dù thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy Kim Các Tự thật sự trong các tấm ảnh và các sách giáo khoa, song hình ảnh chế ngự tâm hồn tôi vẫn là hình ảnh Kim Các Tự theo lời Ba miêu tả. Ba chưa bao giờ kể cho tôi nghe là Kim Các Tự thật sự óng ánh hoàng kim hoặc có một vẻ gì na ná như thế; tuy vậy, theo Ba, trên khắp trái đất này chẳng có gì đẹp đẽ cho bằng Kim Các Tự hết. Vả lại, chính mặt chữ và chính âm ận của từ ngữ đã gán cho Kim Các Tự một vài tính chất hoang đường nào đó in sâu trong tâm khảm tôi. Khi nhìn ánh mặt trời, tôi cảm thấy chắc chắn đó là một ánh hoàng kim do ngôi chùa vô hình rọi đến. Hiệp lộ Yoshizaka, ranh giới giữa huyện Fukui và phủ Kyoto thực sự nằm ở hướng đối nghịch, tôi vẫn quen nhìn thấy Kim Các Tự hiện hình vụt lên bầu trời buổi sớm giữa những ánh triêu dương trong khi mặt trời lên sau những rặng đồi chập chùng ở phía đông. Như thế là Kim Các Tự hiển hiện ở khắp mọi nơi. Chừng nào mà tôi chưa được thực sự để mắt ngắm nhìn, Kim Các Tự vẫn còn giống như bể cả. Vì mặc dù vịnh Maizuru chỉ cách làng Shiraku nơi tôi cư ngụ có ba dặm rưỡi về phía Tây, những ngọn đồi vẫn chặn lấp không cho người ta nhìn thấy nước bể; tuy vậy trong không khí luôn luôn phảng phất một thứ dự cảm về bể cả; một đôi khi gặp thời tiết xấu, từng đàn chim hải âu bay xà xuống những cánh đồng kế cận để tìm chỗ ẩn náu. Tôi vốn yếu đuối và tôi vẫn luôn luôn bị những thằng bạn khác đánh bại trong những cuộc chạy đua hay là đánh thiết bổng. Ngoài ra, ngay từ khi lọt lòng tôi đã mắc tật nói lắp và cái tật này lại càng làm cho tôi có khuynh hướng khép kín không ưa giao tế hơn. Và ai nấy đều biết tôi là con một thầy tu ở chùa. Một vài thằng bé tai ác vẫn thường chế nhạo tôi bằng cách bắt chước một tu sĩ nói lắp trong khi ông ta đang khó nhọc mà lắp bắp từng câu kinh. Trong một quyển sách của chúng tôi có một câu truyện trong đó xuất hiện một nhà trinh thám nói lắp và mấy thằng kia thường đặc biệt cao giọng đọc những đoạn đó cho tôi nghe. Chẳng cần phải nói là tật nói lắp của tôi đã dựng một chướng ngại vật giữa tôi và ngoại giới. Tôi vẫn thường vấp váp khi phát ra âm thanh đầu tiên. Cái âm thanh đầu tiên này giống như một cái chìa khóa của cánh cửa ngăn cách thế giới nội tâm của tôi và thế giới và thế giới ngoại tại, và tôi chưa bao giờ được thấy cái chìa khóa này xoay vặn trơn tru trong ổ khóa. Phần lớn người đời nhờ tài nói năng trôi chẩy có thể giữ cho cánh cửa giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài luôn mở rộng để cho không khí tự do qua lại giữa hai thế giới này, nhưng với tôi thì điều đó hoàn toàn không thể có được. Trên chìa khóa đã có một lớp rỉ sắt dầy đặc mất rồi. Khi một kẻ nói lắp vật lộn một cách tuyệt vọng để thốt ra được âm thanh đầu tiên, hắn ta thực giống như một con chim bé nhỏ đang cố gắng gỡ mình ra khỏi một vũng bùn dầy đặc. Cuối cùng khi nó xoay xỏa để tự giải thoát thì đã quá muộn mất rồi. Tất nhiên là có những lúc mà thực tế của thế giới bên ngoài dường như đã chờ đợi tôi, khoanh tay nơi nó đứng trong khi tôi đang cố gắng vật lộn để tự giải thoát. Nhưng cái thực tại đang đợi chờ tôi không phải là một thực tại tốt tươi. Khi mà cuối cùng sau biết bao cố gắng mới tới được thế giới bên ngoài tôi chỉ còn thấy một thực tại vừa mới tức thời thay đổi màu sắc và vượt ra ngoài tiêu điểm - một thực tại đã mất hết các màu sắc mới mẻ mà tôi coi là thích hợp với chính mình, và đến lúc đó đã bốc ra một mùi hôi hôi ung ủng. Như ai nấy có thể tưởng tượng dễ dàng, một thiếu niên như tôi sẽ đi tới chỗ ôm ấp hai hình thức tương phản về ước vọng quyền lực ý chí. Trong sử học, tôi thích thú những đoạn kể lại truyện cá bạo quân. Tôi tự thấy mình như là một bạo chúa lầm lì nói lắp: những kẻ thị tòng của tôi sẽ dán mắt theo dõi từng sắc diện của tôi và sẽ sống cả ngày lẫn đêm trong hãi hùng run rẩy kinh sợ tôi. Không cần phải biện minh cho sự tàn ngược của tôi bằng những lời nói rõ ràng trơn tru. Chỉ riêng sự lầm lì ít nói của tôi cũng thừa đủ để biện minh tất cả mọi cung cách tàn ngược. Một mặt tôi thường thích thú tưởng tượng xem mình sẽ lần lượt trừng trị từng người một, gieo rắc hình phạt lên đầu các giáo sư và các bạn học vẫn hằng đày đọa tôi mỗi ngày làm sao, một mặt tôi lại tưởng tượng ra mình là một đại nghệ sĩ được trời phú cho một thị lực quang minh tột độ - một vị vương giả chân thực của thế giới nội tại. Dáng vẻ bên ngoài của tôi không ra gì, nhưng chính vì thế mà thế giới nội tại của tôi lại phong phú hơn của bất kỳ một ai khác. Với một thiếu niên phải chịu một cố tật không sao sửa chữa được như tôi, kết cục đi đến chỗ nghĩ rằng mình như là một con người được bí mật lựa chọn, há chẳng phải là một điều tự nhiên hay sao? Tôi cảm thấy như là ở một nơi nào đó trên cõi đời này có một sứ mệnh đang chờ đợi chờ tôi mà cho đến nay tôi vẫn chưa hề hay biết gì cả. Tâm trí tôi vẫn còn ghi nhớ mãi một biến cố suốt từ lúc đó đến nay. Trường trung học Đông Maizuru có những bãi đất rộng rãi chung quanh có những ngọn đồi thực là ngoạn mục và những tòa nhà sáng sủa tân kỳ. Vào một ngày trong tháng năm, một cựu học sinh đã tốt nghiệp ở trường chúng tôi ngày trước bây giờ là sinh viên trong Hải Quân Cơ Khí Học Hiệu tại Maizuru được nghỉ lễ một ngày và trở về thăm lại trường cũ. Anh ta có nước da xạm nắng thật là quyến rũ và cái mũi thực là to lớn mạnh mẽ nhô ra từ dưới cái mũ lưỡi trai mà anh ta kéo sụp xuống tận mắt; từ đầu tới chân anh ta thật là một trang anh hùng hoàn toàn. Bấy giờ anh ta đứng lại kể cho các đàn em nghe cuộc sống khắc khổ trong hiện tại của anh ta với tất cả những quy luật nhà binh khe khắt. Tuy nhiên, mặc dù dụng tâm miêu tả một cuộc đời đầy những gian khổ, anh ta vẫn nói với một giọng như thể là anh ta đang kể cho chúng tôi nghe những truyện về một cuộc đời xa hoa cực độ. Mỗi cử chỉ của anh ta đều đầy vẻ ngạo mạn kiêu căng, nhưng dù còn ít tuổi, anh ta cũng thấy cần phải làm dáng khiêm nhượng. Khung ngực anh ta trong bộ đồng phục có viền hoa ưỡn ra như là khung ngực của một hình người nơi mũi tàu khi con tầu đang rẽ sóng lướt gió trên mặt biển. Anh ta lúc đó đang ngồi trên một bậc đá thoai thoải chạy xuống sân chơi nhà trường. Chung quanh anh ta một nhóm học sinh xúm xít hăm hở lắng nghe từng lời anh ta nói, và trong những thửa vườn trên dốc đồi, những bông hoa tháng Năm đang nở rộ - nào hoa mã lan, hoa thượng uyển đâu, nào hoa dã trượng nhân, hoa sồ bạch cúc; và trên đầu họ rủ buông những nụ hoa mộc lan trắng đang nở tưng bừng. Cả người nói lẫn những người nghe đều bất động như những pho tượng kỷ niệm. Tôi không ngồi riêng một mình trên sân đất cách xa họ một vài thước. Tôi vẫn có cái cung cách như thế. Đó là cung cách của tôi đối với những bông hoa tháng Năm và đối với với bộ đồng phục đầy kiêu hãnh cùng những chuỗi cười trong trẻo vang vang của họ. Lúc này anh chàng hùng trẻ tuổi lại quan tâm đến tôi hơn là đến những kẻ sùng bái anh ta. Chỉ có riêng tôi là không có vẻ cúi mình trước cái oai phong của anh chàng và điều đó làm cho anh chàng thấy lòng tự ái bị xúc phạm. Anh ta hỏi những thằng khác xem tên tôi là gì. “Hầy, Mizoguchi!” Anh ta gọi to; đó là lần thứ nhất anh ta để mắt nhìn tới tôi. Tôi trừng trừng nhìn lại anh ta, không nói lấy một lời. Trong cái nụ cười mà lúc này anh ta hướng về phía tôi, tôi có thể khám phá một cái gì giống như sự hợm hĩnh phỉnh phờ của một người có quyền lực. “Tại sao chú mày không trả lời ta câu nào vậy? Câm đấy ư?” “Tơ… tô… tôi nói lắp,” một trong những thằng ngưỡng mộ anh ta thay tôi mà trả lời và tất cả bọn đều phá ra cười ha hả. Cái tiếng cười chế nhạo này làm tôi lóa mắt làm sao! Đối với tôi, có một cái gì rực rỡ - rực rỡ như ánh sáng phản chiếu từ các chòm lá cây - trong cái tiếng cười vang vang ác độc của lũ bạn học vốn là cái đặc điểm của những thiếu niên cùng lớp tuổi chúng nó. “Sao, chú mày nói lắp ư? Tại sao không vào Hải Quân Cơ Khí Học Hiệu? Họ sẽ dùng roi quất cho chú mày hết hẳn nói lắp chỉ trong một ngày thôi!” Tôi không biết mình xoay xỏa ra sao nhưng tức thời vọt miệng trả lời được một câu rõ ràng. Những lời nói trôi chẩy tuôn ra chẳng hề do ý chí của tôi lấy một mảy may. “Tôi sẽ chẳng vào trường ấy. Tôi sắp trở thành tu sĩ”. Tất cả mọi người đều im lặng. Anh chàng anh hùng trẻ tuổi cúi đầu, nhặt một cọng cỏ và đưa lên miệng. “Vậy thì,” anh ta nói, “một năm nào đó, đến lúc nằm xuống mồ, tôi sẽ cho anh một việc gì đó để mà làm.” Cuộc chiến Thái Bình Dương đã thực sự bùng nổ. Vào lúc này chắc chắn là tôi đã trải qua kinh nghiệm của một sự tự giác nào đó - ý thức rằng tôi sẽ giơ cả hai tay đứng đợi chờ trong một thế giới đen tối. Rằng một ngày nào đó những bông hoa tháng Năm, những bộ đồng phục, những thằng bạn học xấu tính nết của tôi, tất cả sẽ tìm đến những bàn tay giang ra của tôi. Chợt có ý thức là chính tôi đương nắm chặt thế giới, đang ép nó xuống tận dưới đáy… Nhưng một ý thức như vậy thì quá nặng nề để có thể trở nên một nguồn kiêu hãnh cho một thiếu niên như tôi. Niềm kiêu hãnh phải là một cái gì nhẹ nhàng hơn, tươi vui hơn, sáng sủa hơn, rực rỡ hơn. Tôi muốn một cái gì đó có thể thấy được. Tôi muốn niềm kiêu hãnh của mình phải là một cái gì mà tất cả mọi người đều có thể trông thấy được. Chẳng hạn như thanh đoản kiếm mà hắn đeo lủng lẳng ngang lưng đúng là một vật như thế. Cái loại kiếm này mà tất cả học sinh trung học đều trầm trồ ca ngợi ngắm nghía thực là một đồ trang sức đẹp đẽ. Người ta bảo các sinh viên trong Hải Quân Học Viện vẫn thường lén lút dùng các thanh kiếm của mình để vót nhọn bút chì. Tôi nghĩ thực là thanh lịch biết bao khi dùng một biểu tượng trang nghiêm như thế vào những việc tầm thường đại loại như vậy. Chàng thanh niên lúc đó đã cởi bỏ bộ đồng phục Cơ Khí Học Hiệu ra và đem treo lên cái hàng rào sắt sơn mà trắng. Cái quần dài và áo sơ mi trắng treo ngay đó gần sát tất cả những bông hoa - phải, đúng là chúng tỏa ra mùi mồ hôi lấm tấm trên làn da của anh chàng thanh niên ấy. Một con ong lầm lẫn hạ cánh đậu trên cái áo chen hoa trắng tinh chói rạng. Cái mũ lưỡi trai có viền thêu vàng óng nằm trên một phần bờ rào; thực là nghiêm chỉnh y như là trên đầu người đội, kéo sụp xuống tận mắt. Chủ nhân của nó được một thằng đàn em mời ra thử sức và đã đi đến đài đấu vật ở phía sau để tỉ thí một keo. Nhìn vào những đồ vật mà anh ta đã để ra một chỗ, tôi có ấn tượng là đang nhìn một thứ mộ phần danh dự. Những bông hoa xum xuê của tháng Năm càng làm tăng cảm giác này. Cái mũ phản ánh sắc đen huyền của vành lưỡi trai, và thanh kiếm cùng cái thắt lưng da treo ngay bên cạnh, tất cả đều đã tách rời khỏi thân mình anh ta ra một vẻ đặc biệt trữ tình. Chính tự chúng cũng hoàn toàn như là ký ức của tôi về chàng sinh viên ấy - thật vậy, đối với tôi chúng trông giống như những di vật của một trang thanh niên anh hùng sau khi đã lên đường ra trận. Tôi để ý canh chừng chắc chắn là không có ai quanh quẩn gần đó. Tôi nghe tháy tiếng hoan hô từ phía bãi đấu vật vọng lại. Tôi móc từ trong túi quần ra một con dao díp mà tôi vẫn dùng để gọt bút chì; rồi tôi leo lên hàng rào và khắc lên bao kiếm đẹp đẽ màu đen nhiều vết dao nham nhở… Nghe tôi kể truyện như thế thiên hạ có thể vội vàng phán đoán là tôi phải có cơ chất cả một thanh niên thi sĩ. Nhưng cho đến ngày hôm nay, chẳng những tôi chưa hề viết một bài thơ nào mà còn chưa viết ngay cả một đoạn nhật ký trên cuốn sổ tay nữa. Tôi không hề cảm thấy một thôi thúc đặc biệt nào muốn vượt qua người khác bằng cách vun bồi năng lực nào mới để nhờ đó có thể bù đắp lại những điểm mà tôi thua kém hẳn thiên hạ. Nói cách khác, tôi quá ngạo mạn để có thể rở thành một nghệ sĩ. Ước mơ muốn trở thành một bạo quân hay một đại nghệ sĩ của tôi không bao giờ vượt quá giai đoạn của một mộng mơ, và tôi chẳng hề thấy có một mảy may ước muốn thực hiện một cái gì bằng cách thực sự mó tay vào công việc. Vì rằng việc không được người khác hiểu mình đã trở nên nguồn gốc kiêu hãnh duy nhất và thực sự của tôi, nên tôi không bao giờ cảm thấy một xung động muốn biểu hiện các sự vật và làm cho người khác hiểu được một điều gì mà tôi biết rõ. Tôi nghĩ những điều mà kẻ khác có thể nhìn thấy thì không phải những điều được số mệnh dành riêng cho tôi. Sự cô độc của tôi ngày càng béo phì ra giống hệt một con lợn. Đột nhiên tôi hồi tưởng tới một bi kịch xẩy ra trong làng tôi. Mặc dù không ai tưởng tượng là tôi thực sự có một chút liên hệ nào với biến cố này, đến bây giờ tôi vẫn còn không làm sao gạt được cảm giác rõ rệt là mình có tham gia vào biến cố đó. Qua biến cố này đột nhiên tôi thấy mình đối diện với tất cả mọi sự. Với cuộc đời, với thú vui xác thịt, với lường gạt phản trắc, với thù hận và tình yêu - phải, với tất cả những sự có thể có trên đời. Và ký ức của tôi vẫn ưa phủ nhận cái yếu tố sùng cao trong tấ cả những sự vật này. Có một thiếu nữ xinh đẹp sống trong căn nhà cách nhà chú tôi hai căn. Tên nàng là Uiko. Mắt nàng to và trong sáng. Có lẽ gia đình nàng giầu có nên nàng có thái độ kiêu kỳ. Mặc dù thiên hạ có thói quen đề cao cô nàng, người ta không thể tưởng tượng cô nàng nghĩ gì khi chỉ có một mình. Có lẽ Uiko hãy còn là một trinh nữ, nhưng những mụ đàn bà ghen tị vẫn thường nhỏ to tán gẫu với nhau về nàng và bảo rằng này có cái tướng vẻ của một thạch nữ chẳng sinh đẻ gì được. Ngay sau khi tốt nghiệp trường Nữ Trung Học, Uiko trở nên một nữ khán hộ tình nguyện tại Y Viện Hải Quân Maizuru. Y viện gần nhà nên nàng có thể đi làm bằng xe đạp. Nàng phải có mặt ở sở vào sáng sớm tinh sương, nên phải ra đi từ lúc trời còn mờ sáng, khoảng chừng hai giờ trước khi tôi đi học. Một tối, tôi nằm đắm mình trong những tư tưởng mịt mù, nghĩ đến thân hình Uiko. Đêm đó tôi ngủ không yên và khi trời còn tối, tôi lén ra khỏi giường xỏ chân vào đôi giầy tập thể dục va mò ra ngoài bóng tối của một bình minh mùa hạ. Đêm đó chẳng phải là đêm đầu tiên mà tôi tự họa ra cho mình hình ảnh của thân hình Uiko. Có một cái gì thỉnh thoảng len lỏi qua tâm trí tôi dần dần kết hợp vào hình ảnh đó. Thân mình Uiko dường như là một sự kết tụ những ý nghĩ của tôi, chìm đắm trong một bóng tối mịt mù, vừa trắng trẻo mà vừa mềm mại, cuối cùng kết tụ lại thành hình thịt da ngọt ngào hương thơm. Tôi thường hay nghĩ tới sự nồng ấm mà những ngón tay tôi sẽ cảm thấy khi sờ vào làn da thịt này. Tôi cũng nghĩ tới cảm giác mềm mại dẻo dai dưới đầu ngón tay và làn hương thơm có lẽ giống như hương thơm của phấn hoa vậy. Tôi chạy thẳng theo con đường còn tối mịt mù. Những cục đá không làm cho tôi chệch choạng bước chân và màn tối mở rộng trên con đường trước mặt. Tôi tới một nơi mà con đường mở rộng sau khi chờ đợi. Tôi đã chạy hết hơi tới đây, nhưng bây giờ dã nghỉ ngơi dưới bóng cây cử; chính tôi cũng không biết mình định làm gì nữa. Tuy nhiên, tôi đã biết sống cách biệt thế giới bên ngoài quá nhiều và do đó đã ôm ấp ảo tưởng rằng một khi nhẩy vọt ra thế giới bên ngoài, việc gì cũng trở nên dễ dàng, việc gì cũng có thể làm được. Mấy con muỗi xúm nhau lại đốt hai chân tôi. Tôi nghe thấy tiếng gà gáy ở nơi này nơi nọ. Tôi nhìn lên con đường. Tôi thấy ở phía xa một cái gì trăng trắng và mịt mờ. Tôi nghĩ đó là màu sắc bình minh, nhưng thực ra đó là Uiko. Nàng đang đạp xe. Đèn xe bật sáng. Chiếc xe đạp lặng lẽ lướt trên mặt đường. Tôi rời gốc cây cử lao đầu chạy ra đứng ngay trước mũi xe. Chiếc xe nghiêng ngả mãi mới cấp tốc dừng lại được. Và rồi tôi cảm thấy mình hóa đá. Ý chí của tôi, dục vọng của tôi - tất cả đều biến thành đá hết. Thế giới bên ngoài đã mất hết tương quan với thế giới bên trong của tôi, và một lần nữa, lại bao vây lấy tôi và khoác lấy tấm áo hiện hữu tích cực. Cái “Tôi” đã lén lút lẻn khỏi nhà ông chú, đã xỏ chân vào đôi giầy tập thể dục màu trắng và đã chạy theo con đường còn tối mịt mờ cho đến lúc tới cây cử này - cái “Tôi” này chỉ thúc đẩy con người bên trong của mình xả hết tốc lực mà chạy đến đây. Trong những mái nhà trường nét mịt mờ của thôn làng mới nhô khỏi bóng tối của bình minh, trong những lùm cây tối đen, trong những mỏm núi đen xì của rặng Thanh Diệp Sơn, phải, và ngay cả trong Uiko lúc này đang đứng trước mặt tôi, hoàn toàn không có một ý vị nào hết. Có một cái gì đó đã ban cho tất cả những cái này một thực tại to lớn, vô nghĩa, đen ngòm đã được đem cho tôi, đè nén lên tôi với một sức nặng từ xưa đến giờ tôi chưa từng thấy. Như thông lệ, tôi nghĩ chỉ có lời nói là có thể cứu thoát tôi khỏi tình trạng này. Đó là một ngộ nhận đặc biệt của tôi. Khi cần phải hành động, tôi luôn luôn chuyên chú đến ngôn từ, và vì ngôn từ chui ra khỏi miệng tôi một cách khó khăn như thế nên tôi chỉ chuyên tâm nghĩ đến chúng và quên hết mọi hành động. Tôi thấy đường như hành động vốn là những việc chói lòa, rực rỡ, luôn luôn phải có những ngôn từ cũng chói lòa, cũng rực rỡ như thế đi kèm. Tôi chẳng nhìn đến cái gì hết cả. Như tôi nhớ lại, ban đầu Uiko hoảng sợ; nhưng khi thấy rõ là tôi, nàng chỉ chăm chú nhìn vào miệng tôi mà thôi. Tôi phỏng đoán là nàng đang nhìn vào cái lỗ hổng đen sì hư hỏng này, cái lỗ hổng bé nhỏ méo mó này vấy đất bẩn như là cái tổ của một con vật nhỏ bé ngoài ruộng đồng, và bây giờ đang vặn vẹo một cách vô nghĩa trong ánh sáng ban mai - nàng chỉ nhìn đến cái miệng của tôi mà thôi. Và nàng đã đắc ý thấy rằng nàng không hề có một mảy may sức lực nào sắp sửa phát ra từ cái miệng này để móc nối tôi với thế giới bên ngoài, nàng cảm thấy yên lòng. “Trời đất ơi!” Nàng nói. “Thực là một điều kỳ cục quá chừng. Mà anh chỉ là một thằng nói lắp”. Trong giọng nói Uiko có cái vẻ tươi mát của một làn gió nhẹ sớm mai. Nàng bấm chuông xe đạp kêu vang và một lần nữa lại đặt chân lên bàn đạp. Nàng vòng xe quanh tôi, làm như là muốn tránh một tảng đá trên đường đi vậy. Mặc dù chẳng có một ma nào quanh đó, Uiko vẫn nhấn đi nhấn lại cái chuông xe một cách chế giễu và trong khi nàng đạp xe ra xa, tôi còn nghe thấy tiếng chuông xe vọng lại từ những cánh đồng phía xa. Tối hôm đó, và Uiko về mách nhà, mẹ nàng đã sang nhà chú tôi. Chú tôi lúc thường vốn ôn hòa là thế, vậy mà hôm đó cũng mắng tôi như tất nước vuốt mặt không kịp. Tôi nguyền rủa Uiko và rồi cầu mong sao nàng lăn ra mà chết; và một vài tháng sau lời nguyền rủa của tôi biến thành sự thật. Từ đó đến giờ tôi vững tin vào sức mạnh của những lời nguyền rủa. Khi ngủ cũng như khi thức lúc nào tôi cũng cầu mong Uiko chết đi. Tôi ước ao con người đã chứng kiến sự sỉ nhục của tôi phải tiêu tan đi mất. Chỉ khi không còn một nhân chứng nào nữa niềm sĩ nhục của tôi mới có thể tuyệt diệt trên mặt đất này. Những người khác đều là chứng nhân. Nếu không còn một người nào nữa tồn tại thì trên đời này không có sự xấu hổ nào nữa. Điều mà tôi đã nhìn thấy trên nét mặt Uiko, sau cặp mắt nàng long lanh như mặt nước trong ánh sáng mịt mờ của buổi bình minh, thuộc về thế giới của những kẻ khác - nghĩa là thế giới của những kẻ khác, những kẻ không bao giờ để chúng ta yên thân, những kẻ đứng sẵn sàng làm kẻ tiếp tay, kẻ làm chứng cho những tội ác của chúng ta. Cần phải tiêu diệt hết tất cả những người khác. Nếu muốn tôi có thể thực sự đối diện với mặt trời, thì chính cái thế giới này phải được hủy diệt… Hai tháng sau khi về nhà mách lỗi của tôi, Uiko từ bỏ việc làm ở Bệnh Viện Hải Quân và nằm lì ở nhà. Trong xóm người ta thì thào bàn tán đủ mọi thứ truyện. Rồi tới cuối thu xẩy ra biến cố. Chúng tôi chẳng bao giờ có thể nghĩ là một tên đào ngũ khỏi Hải Quân đã đến ẩn náu ở trong thôn làng. Một hôm vào khoảng giữa trưa, một nhân viên hiến binh tới trụ sở hội đồng xã. Tuy nhiên việc một nhân viên hiến binh tới làng không phải là một điều hiếm thấy, vì thế cũng chẳng làm chúng tôi quan tâm gì nhiều. Đó là một ngày trong sáng gần cuối tháng mười. Tôi đã đi học như thường lệ, đã làm xong các bài buổi tối ở nhà và sửa soạn leo lên giường đi ngủ. Khi sắp sửa tắt đèn, tôi đưa mắt nhìn qua cửa sổ và nghe thấy tiếng người chạy rầm rập dọc theo đường xá trong thôn; họ thở hổn ha hổn hển như một bầy chó. Tôi đi xuống cầu thang. Chú thím tôi đã thức dậy và chúng tôi cùng bước ra ngoài. Một trong những thằng bạn học cùng trường với tôi đang đứng trước cổng lớn vào nhà. Nó trợn tròn đôi mắt vì kinh ngạc. “Hiến binh vừa mới bắt Uiko.” Nó réo lên cho chúng tôi nghe. “Họ đã dẫn cô nàng đến đằng kia kìa. Chúng ta hãy tới đó xem đi!” Tôi vội vã xỏ chân vào đôi dép và bắt đầu chạy. Đó là một đêm trăng sáng nên thơ, và đó đây những cánh đồng vừa gặt, những cọng giạ in bóng lồ lộ trên mặt đất. Sau một khóm cây, tôi có thể thấy những bóng người đen xì đang chuyển động. Uiko mặc một cái áo đen đang ngồi bệt ngay trên đất. Khuôn mặt nàng trắng bệch. Đứng xung quanh nàng là bốn năm người hiến binh cùng song thân của nàng. Một người hiến binh đang cầm một cái gì trông giống như một hộp đồ ăn và đang giận dữ quát tháo. Thân phụ nàng quay đầu hết bên này tới bên nọ, lúc thì xin lỗi người hiến binh, lúc thì trách móc con gái mình. Thân mẫu nàng ngồi sụp trên mặt đất và đang khóc thút thít. Chúng tôi đứng chăm chú theo dõi quang cảnh đó từ cuối một thửa ruộng lúa. Số người đứng xem mỗi lúc một gia tăng, và trong đêm họ lặng lẽ đứng sát vào nhau vai người này chạm vai người khác. Trên đầu chúng tôi mặt trăng treo lơ lửng nhỏ bé như là đang teo lại. Thằng bạn học thì thầm vào tai tôi mà giải thích. Dường như là Uiko đã lấy trộm hộp đồ ăn đem ra khỏi nhà và đang đi sang làng bên thì bị nhân viên cảnh bị, đã nằm phục kích từ trước, tóm được. Hiển nhiên là nàng định đem hộp đồ ăn cho người đào ngũ. Uiko đã giao du thân mật với người đào ngũ này trong khi nàng làm việc ở Bệnh Viện Hải Quân. Kết cục nàng có thai và bị sa thải. Người hiến binh lúc này đang cật vấn nàng về chỗ ẩn náu của kẻ đào ngũ, nhưng Uiko chi ngồi trơ ra đó không hề nhúc nhích mảy may và nhất định giữ im lặng một cách ngoan cố. Về phần tôi, tôi chỉ có thể chăm chăm nhìn vào khuôn mặt Uiko, không chớp mắt. Trông nàng giống như một người đàn bà điên vừa bị bắt. Khuôn mặt nàng hoàn toàn bất động dưới ánh trăng. Cho đến lúc đó, chưa bao giờ tôi thấy một khuôn mặt lại tràn đầy dáng vẻ cự tuyệt đến như thế. Tôi nghĩ khuôn mặt tôi là một khuôn mặt đã bị thế giới cự tuyệt, nhưng khuôn mặt Uiko thì đang cự tuyệt thế giới. Ánh trăng chan hòa trên trán nàng, trên mắt nàng, trên má nàng, trên sóng mũi nàng; nhưng trên khuôn mặt bất động của nàng chỉ có ánh trăng tràn ngập. Nếu như nàng chỉ đưa mắt hay chỉ nhếch miệng lấy một chút xíu mà thôi, cái thế giới mà nàng đang nỗ lực cự tuyệt đó sẽ coi là một dấu hiệu để ào ào tràn ngập vào trong con người nàng. Tôi nín thở giương mắt nhìn. Nhìn vào cái khuôn mặt mà lịch sử đã bị đứt đoạn vào đúng điểm này và sẽ không chịu nói lấy một điều nào hoặc tới quá khứ hoặc tới tương lai. Một đôi khi chúng ta nhìn thấy một khuôn mặt như thế trên một khúc cây vừa mới bị đốn xuống. Mặt dù khúc cây bị chặt ngang ngoài mặt hãy còn màu sắc tươi mát, nhưng ở điểm này tất cả mọi sự tăng trưởng đã ngưng hẳn lại; nó bị bất chợt phơi bày ra một thế giới vốn không phải là một thế giới của nó - và ở trên mặt khúc cây bị chặt ngang này. Chúng ta thấy một khuôn mặt lạ lùng do những mắt gỗ đẹp đẽ vẽ nên. Một khuôn mặt chường ra thế giới này chỉ để mà cự tuyệt… Tôi không sao ngăn được cái ý nghĩ là chẳng còn bao giờ, hoặc trong đời Uiko hoặc trong đời chính tôi, người đứng xem, lại có một lúc nào nữa được thấy khuôn mặt nàng xinh đẹp cho bằng lúc này. Nhưng cái đó không kéo dài như là tôi mong đợi. Vì đột nhiên khuôn mặt đẹp đẽ của nàng bị biến dạng. Uiko vụt đứng dậy. Tôi có cảm tưởng là trong lúc đó tôi thấy nàng mỉm miệng cười. Tôi có cảm tưởng là tôi thấy hàm răng trắng bong của nàng lóng lánh dưới ánh trăng. Tôi không thể nói gì hơn về sự biến dạng này, vì khi Uiko đứng lên khuôn mặt nàng chìm dưới bóng cây chứ không ở ngoài ánh trăng sáng nữa. Thực ra đáng tiếc cho tôi không nhìn thấy được sự thay đổi trên khuôn mặt Uiko vào lúc mà nàng quyết định phản bội. Giả như tôi đã thực sự nhìn thấy tất cả mọi chi tiết sự đổi thay trên khuôn mặt nàng thì rất có thể trong con người tôi đã nẩy nở một tinh thần khoan dung tha thứ cho tất cả mọi thứ xấu xa trên đời. Uiko chỉ tay về phía hốc núi Kahara ở làng bên. “A! vậy ra nó ở trong Kim Cương Viện!” Người hiến binh kêu to. Lúc đó tôi thấy trong lòng mình nẩy sinh một niềm thích thú rộn rã thực là trẻ con. Toán hiến binh quyết định chia ra làm nhiều tốp riêng rẽ và bao vây kín cả Kim Cương Viện. Người ta kêu gọi dân làng đến trợ lực. Vì một hứng thú đầy ác ý, tôi gia nhập toán thứ nhất cùng với năm sáu thiếu niên khác. Uiko đi trước toán chúng tôi làm người hướng đạo. Tôi phải ngạc nhiên khi thấy những bước chân vững vàng tin tưởng của nàng trong khi nàng cất bước đằng trước chúng tôi trên con đường sáng trăng, có hiến binh kèm theo hai bên. Kim Cương Viện vốn vẫn lừng danh. Viện được xây trong một hốc núi cách xa thôn làng Yasuoka chừng mười lăm phút đi bộ và được người ta biết đến vì cây cử do Thân vương Takaoka trồng và ngọn tháp ba tầng trang nhã mà người ta vẫn cho là công trình tạo tác của Hidari Jingoro. Vào mùa hè chúng tôi thường đến đó tắm ở thác nước đàng sau dẫy đồi. Bức tường ngôi chánh điện dựng ngay sát bên cạnh dòng sông. Cỏ hoang mọc đầy trên những tảng đất long lở, bông cỏ trắng phau lấp lánh trong đêm. Gần cổng vào chính điện cây sơn trà đang tưng bừng nở hoa. Toán chúng tôi lặng lẽ cất bước dọc theo bờ sông. Ngự đường của Kim Cương Viện nằm ngay trên đầu chúng tôi. Khi bước qua cái hoàn mộc kiều, người ta thấy ngôi tháp ba tầng nằm bên tay phải: rừng cây với la thu đỏ rực trải dài bên tay trái, và ở sâu tít trong các lùm cây là một trăm lẽ năm bậc thềm đá rong rêu phủ đầy nằm cao ngất ngưỡng. Các bậc thềm đều bằng đá vôi và thực là trơn trượt. Trước khi đi ngang qua cái hoàn mộc kiều, những người hiến binh quay nhìn lại phía sau đưa tay ra hiệu cho toán chúng tôi dừng bước. Người ta bảo rằng ngày xưa vẫn có một cái cổng Nhân Vương Môn do hai nhà điêu khắc lừng danh Unkei và Tankei dựng lên ở nơi này. Phía ngoài là những ngọn đồi trên thung lũng Kujuku thuộc về vùng đất Kim Cương Viện. Chúng tôi nín thở. Những người hiến binh thúc giục Uiko tiếp tục tiến bước. Nàng một mình băng qua cây hoàn mộc kiều, và một lúc sau chúng tôi đi theo nàng. Phần dưới các bậc thềm đá vẫn đắm chìm trong bóng tối những phần trên lại chan hòa ánh trăng. Chúng tôi ẩn mình đó đây phía dưới các bậc thềm. Lá cây bắt đầu nhuốm màu hung hung đỏ vào mùa thu, nhưng dưới ánh trăng trông lại như ngã sang màu đen. Căn chính điện của Kim Cương Viện ở phía trên các bậc thềm đá. Một độ điện chạy xiên từ đó tới một không ngự đường có lẽ như để trình diễn các điệu vũ thần nhạc. Căn không ngự đường này đã được xây dựng theo kiểu mẫu vũ đài Thanh Thủy, vươn ra ngoài không trung và có những cây cột gỗ bắc dọc bắc ngang nâng đỡ cho tựa vào vách núi. Cả căn ngự đường, độ điện lẫn tổ hợp kèo cột bằng gỗ đều phơi mình cho mưa gió dập vùi, đều bóng lộn trong sạch trắng tinh như một bộ xương. Khi mà lá cây nhuốm sắc thu đỏ rực, màu đỏ của lá cây pha trộn thực là đẹp mắt vơi màu trắng của tòa kiến trúc trắng toát như bộ xương này; nhưng về đêm cái khung gỗ nhuốm trắng loang lỗ ánh trăng trông lại có vẻ huyền bí và ma quái. Đường như kẻ đào ngũ đang ẩn núp trong căn ngự đường bên trên vũ đài. Những người hiến binh muốn dùng Uiko làm mồi nhử để bắt hắn. Là những nhân chứng của sự bắt bớ sắp xảy ra trước mặt, chúng tôi núp mình và nín thở. Mặc dù khí đêm lạnh đến cuối tháng mười đang bao phủ thân mình, tôi vẫn thấy hai má nóng bừng. Uiko một mình leo lên một trăm lẻ năm bậc thềm đá vôi. Kiêu hãnh như một mụ đàn bà điên khùng. Nét mặt nàng nhìn nghiêng trắng trẻo đẹp đẽ nổi bật lên giữa tấm áo đen và mái tóc huyền. Giữa những vì sao, giữa những áng mây êm, giữa những núi đồi viền lấy bầu trời với nhiều hình bóng tráng lệ của các chòm cây tùng bách nhọt hoắt, giữa những đốm trăng lọt qua lá cành, giữa những tòa kiến trúc sừng sững long lanh trắng toát - giữa tất cả những cái đó, vẻ đẹp tươi sáng trong sự phản trắc do Uiko làm tôi say mê. Người con gái này một mình bước lên những bậc thềm đá trắng tinh, kiêu hãnh ưỡn ngực ra đằng trước. Sự phản trắc của nàng cũng giống như sự phản trắc của các vì sao và những chòm tùng bách nhọn hoắt. Nói cách khác, nàng đương ở trong cùng một thế giới với chúng tôi, những nhân chứng, và nàng đương chấp nhận cái thiên nhiên đang vây quanh tất cả chúng tôi. Nàng đương bước lên những bậc thêm ấy, như là đại biểu của chúng tôi. Và tôi không sao ngăn được mình nghẹn thở mà nghĩ rằng: “Do sự phản trắc của nàng, cuối cùng nàng cũng chấp nhận tôi. Bây giờ nàng là của tôi!” Tới một điểm nào đó, cái mà chúng ta gọi là biến cố sẽ biến mất khỏi ký ức. Cái con người Uiko đang leo lên một trăm lẻ năm bậc thềm rong rêu phủ đầy ấy đến bây giờ hãy còn hiển hiện trước mắt tôi. Đối với tôi dường như nàng cứ vĩnh viễn cất bước leo lên không bao giờ ngừng. Nhưng từ điểm này trở đi, nàng trở nên một con người hoàn toàn khác biệt. có lẽ là cái con người Uiko đang leo lên những bậc thềm ấy một lần nữa lại phản bội tôi, phản bội chúng tôi. Từ điểm này trở đi nàng không còn cự tuyệt thế giới trong cái toàn thể của nó nữa. Mà nàng cũng không hoàn toàn chấp nhận nó. Nàng tự cúi mình theo mệnh lệnh riêng lòng đam mê ái dục; nàng tự hạ mình xuống hàng ngũ một người đàn bà đã trao thân cho riêng một người đàn ông mà thôi. Vì lẽ đó mà tôi chỉ còn nhớ được những gì xẩy ra tiếp theo như là quang cảnh trong một bức thạch ấn xưa cũ nào đó. Uiko bước dọc theo độ điện và cất tiếng gọi vào căn ngự đường tối om. Bóng một người đàn ông hiện ra. Uiko nói điều gì đó với người này. Người đàn ông chĩa khẩu súng lục về phía các thềm đá và nổ súng. Từ một bụi cây gần đó những người hiến binh chĩa súng tay mà bắn trả lại. Người đàn ông đang sửa soạn nổ súng một lần nữa thì Uiko quay mình về phía độ điện và bắt đầu co giò chạy. Người ấy bắn hết phát nọ đến phát kia vào lưng nàng. Uiko ngã lăn ra. Người ấy chĩa họng súng lục vào thái dương mình và nổ súng lần nữa. Trước tiên các hiến binh, rồi sau tất cả những người khác, chen nhau chạy lên các bậc thềm và đổ xô về phía hai xác chết. Tôi vẫn im lặng ẩn mình dưới bóng các lá thu đỏ ối. Những khung cột gỗ bắc dọc bắc ngang của ngôi chùa chồng chất lên nhau ở phía trên đầu tôi. Tiếng giầy của mọi người, trong khi họ cất bước dọc theo những tấm ván độ điện trên đầu tôi, nhẹ nhàng từ trên vang xuống. Ánh vài ba ngọn đèn bấm chạy dọc ngang chiếu rọi từ lan can độ điện tới những cành cây lá hung hung đỏ. Tôi chỉ nghĩ là tất cả những việc này đã xẩy ra trong một quá khứ xa xôi. Những người kém nhạy cảm chỉ bị nhiễu loạn khi nào trong thấy máu đổ thực sự. Tuy nhiên, lúc máu đã đổ ra rồi thì tấn bi kịch cũng đã chấm dứt. Tôi ngủ thiếp đi. Khi thức dậy, tôi thấy ai nấy đều đã bỏ đi nơi khác cả rồi. Hiển nhiên họ đã quên tịt mất tôi. Không gian đầy tiếng chim ríu rít và ánh mặt trời buổi sáng chiếu rọi qua cành lá đỏ hung trên những cây xung quanh. Tòa kiến trúc như bộ xương trắng trên đầu tôi dường như sống lại khi được mặt trời rọi sáng từ phía dưới. Lặng lẽ và kiêu hãnh, căn không ngự đường hắt bóng vào thung lũng lá cành nhuốm đỏ. Tôi đứng dậy, run rẩy, tự chà sát thân mình để kích thích sự tuần hoàn. Trong thân xác tôi chỉ còn sự giá lạnh. Tất cả chỉ còn là sự giá lạnh mà thôi Trong những ngày nghỉ mùa xuân năm kế Ba tới chơi nhà chú tôi. Trên bộ đồng phục dân sự thời chiến, cha tôi choàng chiếc áo cà sa. Ông nói là ông sẽ đưa tôi đi Kyoto trong vài ba ngày. Bệnh phổi của Ba đã trầm trọng hơn nhiều và tôi buồn lòng khi thấy Ba suy sút đến thế. Chẳng phải chỉ riêng tôi mà chú thím tôi, tất cả đều cố gắng can Ba đừng đi Kyoto nữa, nhưng ông không chịu nghe theo. Sau này khi nghĩ tới việc đó tôi mới biết là Ba muốn tự mình dẫn tôi tới ra mắt viện chủ Kim Các Tự trong khi Ba còn sống trên thế gian này. Tới thăm Kim Các Tự đối với tôi dĩ nhiên đã là một mơ ước từ bao nhiêu lâu, nhưng nghĩ tới việc thực hiện một cuộc hành trình với Ba dù Ba đã cố gắng hết sức vẫn khiến bất cứ ai nhìn ông phải thấy ngay là Ba đang ốm rất nặng - tôi không thấy gì làm thích thú. Khi mà thời gian đối mặt với Kim Các Tự tới gần, cái Kim Các Tự mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy tận mắt, lòng tôi mỗi lúc lại thêm trù trừ. Dù thế nào đi nữa, điều cốt yếu là Kim Các Tự phải thật đẹp đẽ. Do đó, tôi đem đánh cá tất cả không phải lên cái đẹp khách quan của chính ngôi chùa cho bằng cái khả năng tưởng tượng ra vẻ đẹp của nó nơi riêng tôi. Tôi hoàn toàn thông hiểu về những điều liên hệ tới Kim Các Tự, ít nhất là trong phạm vi hiểu biết của một thiếu niên vào tuổi tôi. Qua một cuốn sách nghệ thuật, tôi đã học lời giải thích sơ lược sau đây về lịch sử Kim Các Tự. “Ashikaga Yoshimitsu (1358-1408) được gia đình Saionji nhượng lại Bắc sơn điện và biến nó thành một biệt thự rộng lớn. Những tòa kiến trúc chủ yếu là Xá Lợi điện, Hộ Ma đường, Sám Pháp đường và Pháp Thủy viện xây dựng theo kiến trúc Phật giáo cùng Thần điện. Công Khanh gian Hội Sở, Thiên Kính các, Truyền điện và Khán Tuyết đính theo lối kiến trúc có quan hệ với các trú xá. Xá lợi điện là kiến trúc được xây dựng cẩn thận nhất và về sau được gọi là Kim Các Tự. Thực khó mà xác định nó đã mang cái tên này lần đầu tiên vào lúc nào, nhưng có vẻ sau cuộc biến loạn Ojin (1467-77). Trong thời đại Bummei (1469-87) tên này được phổ biến và trở nên thông dụng. “Kim Các Tự là một kiến trúc ba tầng hình tháp nhìn xuống một uyển trì (Kính Triều trì). Có lẽ đã được hoàn tất vào khoảng năm thứ năm đời Oei (1389). Hai từng dưới được xây theo kiểu tẩm điện với lối kiến trúc cổ truyền và có những cánh cửa chớp có thể xếp lại, nhưng tầng thứ ba là một căn phòng sáu thước vuông xây theo kiểu Thiền đường thuần túy của nhà Phật ở giữa có sạn đường hộ, hai bên phải và trái có hoa đầu song. Mái lợp bằng vỏ cây trắc bách diệp dựng theo kiểu bảo bình, bên trái có một con chim phượng hoàng bằng đồng thau đứng cao chót vót. Điếu điện với cái mái nhấp nhô vươn ra ngoài đối diện cái ao làm cho các kiến trúc chung quanh bớt phần đơn điệu. Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên, điều hòa hai lối trú xá và Phật đường. Như thế ngôi thần điện này đã biểu lộ thị hiếu của Ashikaga Yoshimitsu, con người từng hết lòng thâu nhập văn hóa Hoàng triều và diễn tả trung thực khí vị của đương thời. “Sau khi Yoshimitsu qua đời, theo di mệnh của ông, Bắc Sơn điện được biến thành một Thiền sát và được gọi là Lộc Uyển tự. Sau đó, những kiến trúc này được chuyển đi nơi khác hoặc bị bỏ mặc cho hoang phế. May mắn là còn lại Kim Các Tự…” Như một vầng trăng lơ lửng trong bầu trời ban đêm, Kim Các Tự đã được xây dựng để tượng trưng cho những thời đại đen tối. Như thế cái Kim Các Tự trong mộng tưởng của tôi tất phải có bóng tối làm bối cảnh. Trong cái bóng tối âm u này, những cây cột đẹp đẽ, mảnh mai của tòa nhà đứng lặng lẽ và vững vàng tỏa từ bên trong ra một ánh sáng lắt leo. Dù cho thiên hạ có nói gì về Kim Các Tự chăng nữa, nó vẫn phải tiếp tục đứng đó lặng lẽ phơi bầy công trình kiến tạo mĩ lệ, tiêm tế của mình trước mặt thế giới và chịu cho bóng tối vây kín khắp chung quanh. Tôi cũng thường nghĩ đến con phượng hoàng bằng đồng thau nhự trị trên mái Kim Các Tự và đã đứng đó mãi mãi phơi mình trong mưa nắng gió sương với năm tháng. Con chim vàng óng thần bí này chẳng bao giờ cất tiếng gaysáng, chẳng bao giờ vỗ cánh - thực vậy, hiển nhiên tự nó đã quên phứt mình là một con chim. Tuy nhiên, nếu bảo rằng trông nó không có vẻ như đang bay thì thật là không đúng sự thực. Những còn chim khác bay trong không gian, nhưng con phượng hoàng vàng óng này vĩnh viễn bay qua thời gian trên đôi cánh chói rạng. Thời gian đập vào đôi cánh ấy và bềnh bồng trôi lại đằng sau. Để tung cánh bay, con phượng hoàng đứng yên bất động, với ánh nhìn giận dữ trong cặp mắt, giương đôi cánh giữa trời, ve vẩy lông đuôi và kiêu hùng giăng đôi chân oai nghi vàng óng. Trong những khi nghĩ ngợi mông lung như thế tôi thấy Kim Các Tự giống như một con tầu đẹp đẽ nào đó đang vượt qua mặt biển thời gian. Cuốn sách mĩ thuật nói đến “những tòa nhà lộng gió thiếu tường”, và cả điều này nữa cũng đem hình dạng một con tầu vào trong trí tưởng tượng của tôi. Cái ao nơi tòa nhà ba tầng hình chiếc tầu này soi bóng có thể được coi là tượng trưng cho bể cả. Kim Các Tự đã băng mình qua một đêm vô tận. Một chuyến vượt biển mà người ta đoán trước được kết quả. Ban ngày, con tầu kỳ dị này hạ neo với một dáng vẻ thơ ngây và chịu phơi mình cho người ta ngắm nhìn; nhưng khi đêm đến, bóng tối bao quanh làm cho nó có một thế mới và nó bồng bềnh trôi xa với cái mái như một cánh buồm lớn căng phồng. Thực không phải nói quá lời khi bảo rằng vấn đề tối sơ mà tôi thực sự phải đối phó trên đời là giữa hai con người này. Chẳng bao lâu nữa, khi đến tuổi, tôi sẽ bị gọi vào lính. Tuy nhiên, tôi vẫn không tin chắc là ngay khi đã ở trong binh đội, tôi lại có thể sống trung thành với nhiệm vụ của mình như chàng hạ sĩ quan ngồi trước mặt tôi đây. Dù sao đi chăng nữa, trong hiện tại hiển nhiên tôi đang chễm chệ ngồi giữa hai thế giới. Mặc dù hãy còn ít tuổi như thế này, tôi vẫn ý thức, dưới vầng trán xấu xí bướng bỉnh của mình, rằng chiến tranh đang làm môi giới đem lại gần nhau thế giới của sự chết mà cha tôi coi sóc thế giới của sự sống mà những thanh niên chiếm giữ. Chính tôi cũng có thể trở nên một người móc nối giữa hai thế giới này. Nếu tôi bị giết trong cuộc chiến, thực rõ rệt là trước con đường rẽ ngang đang nằm trước mặt, dù tôi có chọn con đường nào đi nữa thì kết cục cũng vẫn là một chẳng có mảy may khác biệt nào hết. Tôi cố gắng chăm sóc Ba mỗi khi ông ho. Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy dòng sông bên ngoài khung cửa sổ toa tầu. Dòng sông xanh đậm hầu như sẫm mầu giống hệt mầu sulfat đồng dùng trong những thí nghiệm hóa học. Mỗi lần con tầu chui khỏi một đường hầm, thung lủng Hozu lại hiện ra trước mặt có lúc ở khá xa đường tầu có lúc lại bất chợt ở sát ngay bên. Dòng nước xanh đậm uốn khúc như một cái dòng dọc bốn bên có những tảng đá nhẵn nhụi bao quanh. Ba có đem một vài nắm cơm gạo trắng trong hộp đựng bữa ăn và ông thấy xấu hổ khi mở hộp ra trước mắt mọi người trong toa tầu. “Không phải là gạo chợ đen đâu,” ông nói cho tất cả mọi người đều nghe biết. “Đó là đồ cúng dường của các đạo hữu. Mình có thể vui sướng và biết ơn mà ăn thứ cơm gạo này.” Ba nói để cho tất cả mọi người trên toa tầu ai ai cũng có thể nghe thấy, nhưng khi bắt đầu ăn thực sự thì ông chỉ ăn được có một nắm nhỏ xíu. Tôi không nghĩ là đoàn tầu cổ lổ đầy mồ hóng này thực sự chạy tới đô thị. Tôi nghĩ nó đang chạy đến nhà ga của tử thần. Một khi tư tưởng này đã lẫn vào đầu óc tôi, mỗi lần con tầu chui qua một đường hầm, tôi lại thấy có cái mùi của một lò đốt xác người. Dù sao cuối cùng khi đứng trước tổng môn của Lộc Uyển tự, tôi vẫn thấy tim nện thình thịch trong lồng ngực. Bây giờ tôi sắp sửa được thấy một trong những cái đẹp vào hạng nhất trên đời. Mặt trời đã bắt đầu lặn xuống và sương mù đã phủ kín núi đồi. Có nhiều du khách khác bước chân qua cổng vào khoảng cùng một lúc với cha con chúng tôi. Gác chuông đứng bên trái cổng vào, xung quanh có cả một rừng mai còn đầy những cánh hoa tàn. Một cây lịch lớn mọc trước huyền quang của chính điện. Ba đứng trước cửa và nói với người đưa đường xin phép đi vào. Viện trưởng viết mấy chữ cho biết ông ta đang bận tiếp một lai khách và yêu cầu chúng tôi vui lòng chờ đơi chừng hai ba mươi phút nữa. “Mình hãy dùng thời gian này đi một vòng mà ngắm Kim Các Tự,” Ba nói. Hiển nhiên, Ba muốn cho tôi thấy rằng ông được nể nang đôi chút ở nơi này nên ông thử cố đi qua tham quan môn, cái cổng dành cho du khách mà không trả tiền mua vé vào cửa. Nhưng từ thời gian mười mấy năm trước lúc ba thường hay tới thăm nơi này, cả người bán vé và vừa lẫn người thu vé vào cửa tự dạo đó đều đã đổi hết cả rồi. “Lần sau mình tới đây,” Ba nói với một giọng lạnh lùng, “chắc là họ lại thay đổi nữa mất”. Nhưng tôi cảm thấy là Ba không còn thực sự tin tưởng vào cái “lần sau” ấy nữa. Tôi vội vã cất bước gần như chạy lên đàng trước Ba. Tôi cố ý hành động như một thằng bé con vui mừng hớn hở. (Chỉ trong những trường hợp cố làm ra vẻ như thế tôi mới có được dáng vẻ của một thiếu niên.) Rồi Kim Các Tự mà tôi vẫn hằng mơ tưởng bấy lâu phơi bày trọn vẹn hình dáng trước mặt tôi làm cho tôi thất vọng hết chỗ nói. Tôi đứng bên bờ ao Kính Hồ, và bên kia bờ nước, Kim Các Tự phơi bày chính diện của mình dưới ánh chiều tà. Thấu Thanh bị che khuất một nửa xa về một chút về phía bên trái. Kim Các Tự rọi bóng hình tuyệt đẹp trên mặt ao, nơi những cây hoa súng và lá những cây thủy thảo đang nổi bồng bềnh. Bóng hình này còn đẹp hơn chính Kim Các Tự nữa. Ánh mặt trời đang ngả về Tây phản chiếu trên mặt ao rập rờn phía dưới các mái hiên của cả ba tầng lầu. So sánh với ánh sáng bao quanh, ánh sáng phản chiếu dưới các mái hiên thực quá rực rỡ, chói chan; Kim Các Tự cho tôi cảm tưởng là nó đang kiêu hãnh ưỡn mình ra đằng sau. “Thế nào,” ba hỏi “thực là đẹp phải không?” Tầng thứ nhất gọi là Pháp Thủy viện, tầng thứ nhì là Triều Âm động và tầng thứ ba là Cứu Cánh đính. Ba đặt bàn tay gầy guộc ốm yếu trên vai tôi. Tôi thay đổi vị trí một vài lần và nghiêng đầu ngắm nhìn theo nhiều góc cạnh khác nhau; tuy nhiên, Kim Các Tự chẳng hề gây nên một cảm xúc nào trong lòng tôi hết. Nó chỉ là một tòa kiến trúc ba tầng cổ kính, tối tăm và nhỏ bé. Con phượng hoàng trên nóc mái giống như một con quạ khoang hạ cánh xuống đó để nghĩ ngơi. Chẳng những tòa nhà đã không làm tôi xúc động mạnh mẽ vì vẻ đẹp mà còn làm tôi có ý niệm là nó thật lạc điệu và bất điều hòa nữa. Tôi ngạc nhiên tự hỏi có thể nào cái đẹp lại là một sự vật không đẹp đẽ như thế này sao? Nếu là một thiếu niên khiêm nhượng và chuyên cần có lẽ tôi đã thấy tiếc là mình không có đủ khả năng thẩm thức nghệ thuật trước khi tỏ ra chán nản một cách vội vã như thế. Nhưng đau xót vì thất vọng ở cái mà mình kỳ vọng quá nhiều đã làm cho tôi mất hết mọi ý thức phản tỉnh. Tôi chợt nghĩ có thể Kim Các Tự đã hóa trang để che giấu vẻ đẹp chân thực của mình. Để tự vệ chống lại con người, có thể nào cái đẹp đã lừa gạt con mắt người nhìn mình hay không? Tôi phải đến gần Kim Các Tự hơn nữa; tôi phải loại bỏ những trở ngại đối với tầm mắt mình; tôi phải xem xét lại toàn bộ từng li từng tí với đôi mắt của mình nhìn tới tận hạch tâm của cái đẹp. Vì rằng tôi chỉ tin vào cái đẹp mà người ta có thể nhìn thấy bằng mắt, thái độ của tôi trong lúc đó thực là đương nhiên. Với vẻ tôn kính, bây giờ Ba dắt tôi đi lên hành lang trống tung của Pháp Thủy viện. Trước hết tôi nhìn tới mô hình Kim Các Tự, thực hiện một cách khéo léo, nằm trong một lồng kính. Tôi thích mô hình này lắm. Nó gần với Kim Các Tự trong mộng tôi hơn. Quan sát hình ảnh nhỏ bé hoàn hảo của Kim Các Tự trong chính ngôi thần điện này tôi nhớ đến hàng loạt những sự chiếu ứng vô hạn khi một tiểu vũ trụ được đặt trong một đại vũ trụ và rồi một tiểu vũ trụ nhỏ hơn nữa đặt trong một tiểu vũ trụ nhỏ bé kia. Đó là lần đầu tiên tôi có thể mơ mộng. Mơ đến Kim Các Tự nhỏ bé nhưng hoàn hảo còn nhỏ hơn cả mô hình này nữa; và đến Kim Các Tự rộng lớn hơn tòa nhà thực sự không biết bao nhiêu lần mà kể cho xiết - thực vậy, rộng lớn đến độ hầu như bao trùm cả thế giới. Tuy nhiên, tôi không đứng ì mãi một chỗ trước mô hình. Kế đó Ba dẫn tôi tới bức tượng gỗ của Yoshimitsu vốn lừng danh là Bảo Vật Quốc Gai. Bức tượng được gọi là Lộc Uyển Viện Điện Đạo Nghĩa, gọi theo cái tên của Yoshimitsu lúc ông cắt tóc đi tu. Bức tượng này nữa, tôi cũng chẳng thấy nó đẹp chỗ nào cả, chỉ là một hình ảnh kỳ cục nhuốm đầy mồ hóng. Sau đó, chúng tôi lên Triều Âm động tầng thứ nhì ngắm nhìn những bức họa trên trần mà người ta bảo là tác phẩm của Kano Masanobu, vẽ những thiên thần đang tấu nhạc. Trên tầng thứ ba Cứu Cánh đính, tôi thấy những dấu vết đáng buồn của lá cây bằng vàng ban đầu phủ kín khắp bên trong tầng này. Nhìn tất cả những thứ này tôi chẳng thấy đẹp ở chỗ nào cả. Tôi dựa mình vào hàng lan can mảnh mai và lơ đãng nhìn xuống cái ao đang lấp lánh ánh mặt trời chiều. Mặt nước trông như một tấm gương, như một tấm gương cổ bằng đồng nhẵn thín; và Kim Các Tự rọi thẳng bóng mình trên mặt gương này. Bầu trời buổi chiều phản ánh trên làn nước, ở tít dưới những cây hoa súng và những cây thủy thảo. Bầu trời này khác hẳn bầu trời trên đầu chúng tôi. Trong trẻo và sáng sủa, từ phía dưới và từ bên trong, nó nuốt trọn thế giới trần tục của chúng tôi, và Kim Các Tự đắm chìm trong đó như là một cái neo tầu thực lớn bằng vàng ròng đã biến sắc thành đen tuyền vì rỉ sắt. Hòa thượng Tayama Dosen, viện chủ Kim Các Tự, vốn là bạn của Ba từ khi hai người cùng học trong một thiền đường nào đó. Cả hai đều đã sinh hoạt ba năm tại thiền đường này và sống chung với nhau trong thời gian đó. Cả hai thanh niên đều tham dự chuyên môn đạo trường tại Tướng Quốc Tự (cũng được kiến tạo dưới thời tướng quân Yoshimitsu) và sau khi qua một vài thủ tục cổ xưa của Thiền phái, cả hai đều gia nhập hàng ngũ tăng sĩ. ngoài tất cả những cái đó, mãi về sau, tôi còn được sư phụ Dosen cho biết, trong một ngày mà ông vui vẻ trò chuyện với tôi, rằng ông và ba chẳng những đã cùng nhau chia xẻ những tháng ngày huấn luyện khắc khổ, trong một vài buổi tối, sau khi đã đến giờ đi ngủ, hai người còn cùng nhau leo tường ra ngoài và tìm mua vui thú nơi những cô gái bán phấn buôn hương nữa. Ba và tôi đã đi một vòng bái kiến Kim Các Tự rồi trở lại huyền quan của ngôi chánh điện. Người ta dẫn dắt chúng tôi đi xuống một hành lang rộng dài và chỉ lối đi vào phòng viện chủ, nằm trong Đại Thư Viện, nhìn xuống hoa viên có cây lục chu tùng lừng tiếng. Tôi ngồi đó thẳng người cứng nhắc trong bộ đồng phục học sinh, nhưng ba lúc đó lại có vẻ dễ chịu bất ngờ. Mặc dù Ba và Viện chủ đã cùng xuất thân từ một Thiền đường, song về ngoại diện, thực khó lòng mà hai người lại có thể khác biệt nhau hơn. Ba thì quéo quắt vì bệnh tật, trông nghèo nàn, làn da có vẻ khô khan, trắng bệch. Hòa thượng Dosen, trái lại, trông giống như một cái bánh ngọt hồng đào. Trên chiếc kỷ của ông chồng chất những gói hàng chưa mở, tạp chí, sách vở, thư từ từ nhiều nơi trong nước gởi tới và có vẻ như biểu hiện sự trù phú của ngôi thần điện. Ông đưa những ngón tay tròn trặn múp míp nhặt cái kéo và khéo mở tung một trong cái gói đồ. “Đó là cái bánh ngọt từ Đông Kinh gửi đến,” ông giải thích. “Trong lúc này ít khi anh thấy được một cái bánh như thế. Người ta cho tôi hay họ không còn phân phát loại bánh này cho các cửa hiệu nữa mà đem nạp hết cho quân đội hay công sở.” Chúng tôi uống thứ trà Nhật Bản thực ngon và ăn một cái bánh ngọt Tây Phương mà từ trước đến giờ tôi chưa hề được nếm mùi bao giờ. Tôi càng thấy căng thẳng bao nhiêu thì những mẫu bánh vụn càng rơi trên cái quần nỉ đen bóng của tôi nhiều bấy nhiêu. Ba và Viện chủ đang tỏ bầy sự bất bình phẫn nộ về việc giới quân đội và quan liêu chỉ kính trọng những Thần Xã và coi rẽ những ngôi chùa Phật giáo - thực ra không những chỉ coi nhẹ mà còn thực sự áp chế nữa; rồi hai người thảo luận về phương cách quản trị hay nhất cho các ngôi chùa trong tương lai. Viện chủ là một người mập mạp. Dĩ nhiên, khuôn mặt ông có những nếp nhăn, song mỗi nếp nhăn có vẽ như đã được lau đi hết sạch. Khuôn mặt ông tròn trặn, nhưng ông ta có cái mũi dài khiến người ta có cảm tưởng là nhựa cây chảy ra kết đặc lại ở đó. Tuy nét mặt ông có dáng vẻ khá dễ dãi, song hình dáng cái đầu cạo nhẵn - dường như là nơi tập trung tất cả tinh lực của ông - lại có dáng vẻ dữ dằn của một con vật. Câu truyện của hai người tu sĩ xoay về những ngày họ cùng sống với nhau trong tăng đường. Tôi đang ngắm nhìn cây lục chu tùng trong hoa viên. Người ta uốn thấp các cành lá của một cây thông lớn và cuốn lại với nhau thành hình một con thuyền với những cành lá ở đằng mũi được nâng cao lên hơn ở các phần còn lại. Hiển nhiên là có một đoàn thể đã đến vãng cảnh ngay trước giờ đóng cửa vườn và tôi nghe thấy tiếng người ồn ào từ phía Kim Các Tự ở bên kia bờ đường vọng lại. Tiếng chân và tiếng nói của họ tan chìm trong làn không khí buổi chiều mùa xuân: tiếng động họ gây ra êm nhẹ và tròn trặn, chẳng hề có dấu vết gì đặc sắc nhọn. Rồi thì bước chân họ lùi xa như làn sóng thủy triều, tôi thấy thật đúng là tiếng chân của chúng sinh băng qua trái đất này. Tôi ngước mắt nhìn con phượng hoàng trên nóc Kim Các Tự; nó đang thu hút tất cả ánh sáng tàn lụi của chiều hôm. “Anh ạ… cái thằng bé này.” Nghe thấy Ba nói, tôi quay lại nhìn. Trong căn phòng hầu như tối om, Ba đang sắp sửa đem phó thác cả tương lai tôi cho sư phụ Dosen. “Tôi nghĩ chẳng còn sống được bao lâu nữa,” Ba nói, “tôi muốn xin anh đến lúc ấy trông nom cho thằng bé này.” Mặc dù là một tu sĩ và quen an ủi người khác trong những dịp tương tự, thượng tọa Dosen không có một lời an ủi êm dịu nào trong dịp này, nhưng chỉ trả lời “Được lắm, tôi sẽ trông nom nó.” Điều làm tôi thực sự ngạc nhiên là sau đó hai người vui vẻ quay sang kể cho nhau nghe những giai thoại về cái chết của những tu sĩ nổi tiếng. Một vị đã nói lúc sắp qua đời “Ôi ta không muốn chết.” Một vị khác kết thúc cuộc đời mình bằng chính những lời của Goethe: “Cho thêm ánh sáng.” Lại còn một tu sĩ lừng danh nữa vẫn còn tự mình xem xét lại tiền quĩ của chùa cho đến lúc nhắm mắt lìa đời. Người ta mời chúng tôi ăn cơm tối, mà người theo đạo Phật gọi là “dược thạch” và sắp đặt để chúng tôi ngủ lại đêm đó ở trong chùa. Sau bữa cơm, tôi Ba đi ngắm Kim Các Tự một lần nữa. Vì mặt trăng lưng trời đã ló dạng. Ba bị kích động quá nhiều vì cuộc tái ngộ với vị viện chủ sau bao nhiêu năm xa cách nên hết sức mệt mỏi, nhưng khi nghe tôi nói đến Kim Các Tự ông liền ra ngay, dựa mình trên vai tôi mà thở hổn hển. Mặt trăng mọc lên sau riềm núi Fudo. Ánh trăng chiếu rọi phía sau Kim Các Tự. Ngôi chùa hình như đã xếp hình ảnh tối om phức tạp của mình lai và lặng lẽ chìm xuống; chỉ còn những khung cửa hoa đầu song trên Cứu Cánh đính là để cho bóng trăng êm ả len vào. Tầng Cứu Cánh đính không có tường riêng, và vì thế nóc vẻ là ánh trăng mờ nhạt đã chọn nơi này làm chỗ cư ngụ. Từ phía đảo Ashiwara có tiếng chim đêm vọng lại trong khi chúng bay về phía xa. Tôi thấy rõ sức nặng những bàn tay quắt quéo của Ba tỳ trên vai mình. Khi liếc nhìn lên vai, tôi thấy dưới ánh trăng một bộ xương bàn tay trắng hếu. Sau khi tôi trở về Yasuoka, Kim Các Tự đã làm tôi thất vọng biết bao nhiêu khi nhìn thấy lần đầu, đến lúc này lại gợi lại vẻ đẹp của nó trong lòng tôi càng ngày càng sâu đậm hơn cho đến lúc trở thành một Kim Các Tự còn đẹp đẽ hơn là trước khi tôi được nhìn tận mắt nữa. Tôi không nói được vẻ đẹp đó nằm ở chỗ nào. Dường như những gì được nuôi dưỡng trong các cơn mộng tưởng của tôi một sớm đã trở thành thực sự và bây giờ lại có thể được dùng làm động lực thôi thúc các cơn mộng tưởng khác nữa. Bây giờ tôi không còn đeo đuổi cái huyễn ảnh của Kim Các Tự trong phong cảnh và trong các sự vật nữa. Dần dà Kim Các Tự càng ngày càng hiện diện trong tôi một cách sâu xa và vững chắc hơn trước. Mỗi một cây cột, một khung cảnh hoa đầu song, cái mái nhà, con chim phượng hoàng ở trên nóc đều bềnh bồng rõ rệt trước mắt tôi như là tôi có thểâ giơ tay sờ mó chúng được. Phần nhỏ bé nhất của ngôi chùa cũng hòa hợp hoàn toàn với toàn bộ kiến trúc phức tạp của nó. Giống hệt như là nghe một vài nốt nhạc và thấy toàn thể khúc nhạc tuôn trào qua tâm trí: bất kỳ bộ phận nào của Kim Các Tự mà tôi nhặt ra cũng làm cho toàn bộ kiến trúc vang âm trong con người của tôi cả. “Khi Ba bảo con rằng trên mặt đất này không có gì đẹp bằng Kim Các Tự thì quả thật là đúng.” Đó là lời lẽ trong lá thư đầu tiên tôi viết cho Ba. Sau khi đưa tôi trở lại nhà chú, Ba tức thời trở về chùa của ông trên mỏm đất xa xôi. Và như để trả lời lá thư của tôi, một bức điện tín do má gửi đến báo tin là Ba bị một trận thổ huyết kinh khủng và ông đã lìa đời. -------------------- Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian |
|
|
![]() |
![]()
Post
#2
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,312 Joined: 10-April 08 Member No.: 12 Country ![]() ![]() |
Chương 7
Kinh nghiệm tổng quát của tôi về cuộc đời dường như chỉ là một thứ số không. Giống y như trong một dẫy dài những tấm gương soi dưới hàng hiên một hình ảnh cứ phản chiếu mãi mãi cho đến vô hạn. Những sự vật mà tôi mới nhìn thấy đã phản chiếu rõ rệt trên hình ảnh những sự vật mà tôi đã nhìn thấy trong quá khứ và tôi cảm thấy mình đang bị những sự vật trương tự dẫn dắt đi sâu tới tận cùng hành lang, vào một căn phòng mênh mang tối tăm nào đó. Chúng ta không bao giờ đụng đầu với vận mệnh của mình một cách bất ngờ. Một người sau này bị hành án tử hình - cứ mỗi khi nhìn thấy một cột điện trên đường đi làm, cứ mỗi khi băng qua một khúc đường xe lửa - là anh ta lại luôn luôn mường tượng trong óc mình hình ảnh nơi hành án và rồi dần dần trở nên quen thuộc với hình ảnh đó. Do đó, trong kinh nghiệm của tôi không hề có cái gì chồng chất tích lũy. Không một lớp đất nào đủ dầy để có thể làm nên một ngọn núi bằng cách chồng hết lớp đất này đến lớp đất kia. Ngoài Kim Các Tự ra, tôi không hề cảm thấy thân thiết với bất kỳ một sự vật nào trên đời, thực vậy, tôi cũng thấy mình cách biệt chẳng hề thắm thiết với những kinh nghiệm đã qua của chính mình nữa. Tuy nhiên, có một điều tôi biết chắc là trong mớ kinh nghiệm này có những tiểu bộ phận chưa bị cái biển thời gian tối om nuốt chửng, chẳng hề tan biến trong sự lặp lại vô nghĩa và bất tận - đã móc nối với nhau và sẽ làm thành một bức họa xấu xí, gớm ghiếc nào đó. Vậy thì những tiểu bộ phận đặc biệt ấy là những cái gì vậy? Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại tới chúng. Tuy nhiên, những mảnh kinh nghiệm vãi vung, chói sáng này lại cũng còn thiếu cả phép tắc lẫn ý vị hơn cả những mảnh vỏ chai mà mình thấy bên vệ đường nữa. Tôi không thể làm sao tin được rằng những mảnh vụn này là những miếng vỡ nát của cái mà trong quá khứ đã được tạo hình cho thành một sự vật có dáng vẻ đẹp đẽ tuyệt vời. Bởi vì trong sự khiếm khuyết hoàn toàn về ý vị và phép tắc hết sức khó coi của chúng mỗi mảnh vụn đã bị vứt bỏ rã rời này đường như vẫn còn mơ đến tương lai. Phải, tuy chúng chỉ là những mảnh vụn mà thôi, song mỗi một mảnh vụn vẫn nằm ở đó trơ trơ lặng lẽ để mơ đến tương lai! Đến một tương lai! Đến một tương lai chẳng bao giờ có thể bình phục hay là khôi phục, một tương lai chẳng bao giờ đưa tay với tới được, một tương lai từ trước đến giờ chưa có ai nghe thấy, nhìn thấy. Những hoài niệm mơ hồ như thế đôi khi cũng đem lại cho tôi một miềm hưng phấn trữ tình mà chính tôi cũng phải thấy là không thích hợp với mình. vào những dịp như thế nếu may mắn vào đêm có trăng tôi sẽ mang sáo ra thổi ngay bên Kim Các Tự. Bây giờ tôi đã đạt đến mức độ có thể chơi bài “Ngự Sở Xa” của Kashiwagi mà không cần nhìn vào bản âm nhạc. Âm nhạc thật giống như là mộng mơ. Ngược lại, đồng thời nó cũng giống như một trạng thái thức tỉnh còn rõ rệt hơn cả hình thức của những giờ tỉnh táo thông thường của chúng ta nữa. Tôi vẫn thường tự hỏi trong hai cái này cái nào thực sự là âm nhạc? Nhiều khi âm nhạc có khả năng làm đảo lộn hai cái trái ngược nhau này. Và có những lúc dường như tôi đã có thể hóa thân thành điệu nhạc “Ngự Sở Xa” mà tôi đang chơi. Tinh thần tôi hằng quen với niềm vui khi hóa thân thành âm nhạc. Bởi vì đối với tôi, khác hẳn trường hợp Kashiwagi, âm nhạc quả thực là một nguồn an ủi. Lần nào thổi sáo xong, tôi cũng thường tự hỏi: “Tại sao Kim Các Tự lại làm ngơ trước sự hóa thân này của tôi? Tại sao nó chẳng chê trách hoặc can thiệp khi tôi hóa thân thành âm nhạc như thế này? Chưa có một lần nào ngôi chùa lại làm ngơ đối với tôi khi tôi cố gắng hóa thân vào hạnh phúc và khoái lạc của cuộc đời. Trong tất cả mọi trường hợp như thế, ngôi chùa vẫn có thói quen ngăn cản tức khắc cố gắng của tôi và ép buộc tôi quay về với chính mình. Tại sao Kim Các Tự lại chỉ cho phép tôi được ngây ngất hoạc tìm lãng quên trong âm nhạc mà thôi?” Mỗi khi nghĩ ngợi như thế, tôi lại thường thấy sức lôi cuốn của âm nhạc phai tàn chỉ vì Kim Các Tự đã cho phép tôi được hưởng nguồn vui đặc biệt này. Nhân vì ngôi chùa đã mặc nhiên chấp nhận việc làm của tôi cho nên âm nhạc, mặc dù có giống cuộc đời đến thế nào đi nữa, cũng đã trở thành một hình thức đó thì sự hóa thân ấy tự nó lại càng chỉ có thể là một cái gì tạm bợ. Tôi không muốn để thiên hạ nghĩ là mình đã cúi đầu cam chịu và co đầu rút cổ lại chỉ vì đã hai lần điêu đứng với đàn bà cuộc sống. Cho đến cuối năm Chiêu Hòa thứ hai mươi ba (1948) tôi vẫn còn bao nhiêu là cơ hội nữa, kể cả sự dẫn dắt của Kashiwagi; rồi chẳng hề sờn lòng nhụt chí, tôi bắt tay vào việc. Tuy nhiên, kết quả luôn luôn vẫn như thế. Giữa con gái và chính tôi, giữa cuộc đời và chính tôi, lúc nào cũng có Kim Các Tự đứng sừng sững. Do đó, khi tôi cố nắm lấy vật gì thì vừa chạm vào tay tôi vật đó tức thời biến thành tro bụi và cái triển vọng trước mắt tôi biến ngay thành bãi sa mạc. Có một lần khi dừng tay làm việc ngồi nghỉ trong thửa ruộng sau nhà bếp tình cờ tôi có dịp quan sát một con ong sà xuống một bông hoa cúc mùa hè nho nhỏ màu vàng. Nó bay tới giang rộng đôi cánh màu vàng óng ánh. Chọn một bông giữa biết bao hoa cúc rồi cứ vo vo bay lượn xung quanh. Tôi cố gắng nhìn bông hoa qua con mắt của con ong. Bông hoa cúc đứng im xòe rộng cánh vàng vàng và mượt mịn. Trông nó thật xinh đẹp y như một Kim Các Tự nhỏ bé và thật hoàn toàn y như Kim Các Tự vậy; tuy nhiên nó không biến dạng trở thành ngôi chùa và vẫn giữ nguyên hình dạng chỉ là một bông hoa cúc mùa hè. Đúng thế, nó vẫn cứ là một bông cúc chẳng hề đổi thay, một bông hoa, một hình thái không hề bao hàm một ám thị siêu hình nào hết. Nhờ biết giữ những tiết độ trong cuộc sống, nó đã tỏa ra một mỹ cảm tràn tề và trở thành một đối tượng thích hợp cho dục vọng của con ong mật. Ẩn mình và thở hút nơi đó làm một đối tượng cho cái dục vọng vù vù, bay lượn, quấn quít không có dạng hình ấy mới thật là điều thần bí biết bao. Dần dà hình thái ấy mỗi lúc một mong manh hơn trông như thể sắp sửa tan vỡ, nó rung rinh và run rẫy. Điều này thật hoàn toàn tự nhiên, bởi vì chính hình thái đoan chính của bông cúc đã được đúc khuôn theo dục vọng của con ong và chính vẻ đẹp của nó đã bừng nở trong dự cảm về dục vọng ấy. Bấy giờ là lúc ý vị của hình thái bông hoa sắp sửa chói rạng trong cuộc đời. Chính hình thái ấy là sự đúc khuôn của cuộc đời. Luôn luôn trôi chẩy không có khuôn đúc; đồng thời sư ïbay lượn của cuộc đời không hình dáng lại là sự đúc khuôn cho tất cả mọi hình thái ở trần gian này… Cứ như thế con ong mật nhào đầu châm sâu vào bông hoa và khi phấn hoa đã bám đầy mình, nó say sưa ngất lịm. Khi đã đón tiếp con ong mật vào trân thân thể mình, bông cúc mùa hè đã tự trở thành như một con ong vàng óng, rực rỡ, có mặc áo giáp và tôi ngắm bông hoa cúc lắc mình dữ dội như thể sắp lìa cuống hoa mà bay đi bất kỳ lúc nào. Ánh sáng và cái việc làm dưới ánh sáng hầu như đã làm tôi choáng váng. Rồi đúng vào lúc rời bỏ cái nhìn của con ong để trở về với cái nhìn của chính mình, tôi chợt nhận thấy rằng con mắt tôi từ nẫy đến giờ vẫn ngắm cảnh này ở đúng vị trí con mắt của Kim Các Tự. Quả thực là như thế. Cũng như tôi đã rời bỏ cái nhìn của con ong trở về cái nhìn của chính mình vào những giờ phút ấy cuộc đời nhích lại gần tôi, tôi lại từ bỏ con mắt của chính mình và đem con mắt Kim Các Tự làm mắt mình vậy. Và chính vào những giây phút như thế ngôi chùa thường chen vào giữa để ngăn cách thân tôi với cuộc đời. Tôi trở về với con mắt của chính mình. Trong thế giới sự vật bao la, mông lung này, con ong mật và bông cúc mùa hè chỉ còn đó để được “phối liệt”. Con ong mật bay lượn và bông hoa cúc rung rinh chẳng khác nào ngọn gió rì rào lấy mảy may. Trong cái thế giới băng gái im lìm này mọi vật đều đồng cách với nhau, và cái hình thái đã tỏa ra một sức lôi cuốn mãnh liệt như thế đã chết rồi, tuyệt rồi. bông hoa cúc chẳng còn đẹp vì hình thái của nó nữa, nhưng vì cái tên gọi mơ hồ là “hoa cúc” mà chúng ta gán cho nó và vì sự hứa hẹn chứa đựng trong cái tên gọi ấy. Vì không phải là con ong nên tôi không bị bông hoa cúc quyến rũ và vì tôi không phải là bông cúc nên chẳng con ong nào thèm muốn tôi hết. Mối ràng buộc thân thiết của tôi trước đây đối với các hình thái và với dòng đời đến nay đã tan biến mất rồi, thế giới đã bị vứt bỏ vào trong tính cách tương đối và chỉ còn có thời gian là chuyển động mà thôi. Tôi không muốn nhiều lời kể lể dài dòng, tôi chỉ muốn nói là khi cái Kim Các Tự vĩnh viễn, tuyệt đối xuất hiện và khi con mắt tôi biến thành con mắt Kim Các Tự thì thế giới quanh tôi đã biến thành dạng theo chiều hướng tôi đã mô tả, và theo chiều hướng là trong cái thế giới biến đổi này chỉ có Kim Các Tự là giữ nguyên được hình thái cùng vẻ đẹp riêng biệt của nó, đồng thời biến tất cả những cái khác thành cát bụi. Kể từ khi giẫm chân lên bụng cô gái điếm ấy ở trông sân chùa và đặc biệt từ sau cái chết đột ngột của Tsurukawa, tôi vẫn hằng tự mình nhắc đi nhắc lại câu hỏi này: “Thế nhưng có thể nào vẫn có tội ác hay không?” Một ngày thứ bảy tháng giêng năm Chiêu Hòa, thứ 24 (1948), lợi dụng một buổi chiều nhàn rỗi, tôi đến một rạp chiếu bóng hạng ba. Sau khi xem phim xong, đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu lần tôi mới lại đi bộ một mình qua khu phố Shinkyogoku. Giữa đám người đông đúc, bất chợt tôi thấy mình đang đi cạnh một khuôn mặt rất quen thuộc, nhưng trước khi tôi có thể nghĩ ra người đó là ai, khuôn mặt ấy đã chìm vào trong làn sóng người đang cuồn cuộn trên hè phố rồi biến mất đằng sau lưng tôi. Đàu đội mũ dạ mềm, mình khoác áo choàng hạng sang, cổ quấn khăn quàng, người ấy đang đi với một người con gái mặc chiếc áo nogài đỏ ửng, rõ ràng là một cô gái geisha. Khuôn mặt hồng hào mụ mẫm, dáng vẻ sạch sẽ như trẻ con của người đàn ông thật khác hẳn khuôn mặt, dáng vẻ của đa số các thân sĩ, trung niên thông thường, cái mũi dài - đúng rồi, tất cả là những nét đặc biệt của Lão sư phụ và chỉ có cái mũ dạ mềm là che giấu được những nét đặc biệt ấy đi trong chốc lát mà thôi. Tuy chẳng có gì phải xấu hổ vì chính mình, song tôi sợ rằng tôi đã bị thượng tọa nhìn thấy. Vì lẽ ngay sau đó tôi cảm thấy phải tránh sao cho khỏi trở thành nhân chứng cho cuộc chơi hoang của Lão sư phụ rồi âm thầm dây dưa tới truyện tin cậy hoặc không tin cậy đối với ông. Rồi rôi thấy một con chó đi qua đám đông dưới trời đêm trong sáng. Con chó này to lớn, lông sù sì và hiển nhiên đã quen đi lại ở những chỗ đông người, vì nó len lách rất khéo qua chân những người đàn bà ăn vận hoa mỹ và những người đàn ông trong những bộ động phục quân đội chiếm đóng, rồi thỉnh thoảng dừng lại đánh hơi bên ngoài một cửa hiệu bán đồ cổ, chẳng hề thay đổi kể từ thời Shogoin Yatsunashi. Lúc đó là lần đầu tiên tôi có thể nhìn rõ khuôn mặt con chó dưới ánh đèn của hiệu ấy. Một mắt nó bị bẹp dí, máu và mủ động lại ở nơi đuôi mắt trông giống như một viên mã não. Con mắt lành lặn thì đang nhìn thẳng xuống mặt đất. Phần lông sù sì trên lưng kết chặt lại với nhau thành cụm lớn dắn chắc. Tôi không hiểu tại sao con chó này lại làm tôi chú ý. Có lẽ bởi vì khi lang thang ngoài phố nó đã bướng bỉnh mang theo trong mình một thế giới hoàn toàn khác hẳn đường phố phồn hoa, sáng rực này. Nó đi qua một thế giới tối đen tràn ngập khứu giác. Thế giới này chồng chất lên thế giới phố xá của nhân gian và quả thực ánh đèn của đô thị, lời ca phát ra từ những đĩa hát, tiếng cười vang vang của con người đang bị những mùi tối tăm dai dẳng đe dọa. Vì lẽ trật tự của mùi ấy xác thật hơn, và mùi nước đái bám ở những cái chân ướt át của con chó quả thực có dây dưa với cái mùi khó ngửi thoang thoảng do nội tạng con người tiết ra. Trời rét như cắt. Mấy người thanh niên trông giống những tay chạy hàng chợ đen trong khi đi xuống phố đã bẻ những cây thông tang hoàn trong dịp đầu năm hãy còn bầy ở ngoài một vài cửa hiệu mặc dù những ngày nghỉ lễ đã chấm dứt. Họ xòe lòng bàn tay đeo găng da để xem ai đã bứt được nhiều nhất. Một người trong bọn chỉ nắm được vài chiếc lá thông trong tay; một người khác có cả một cành thông nho nhỏ. Họ phá ra cười rồi đi mất hút. Tôi thấy mình đang đi theo con chó. Có lúc đã nghĩ là mất hút nó rồi, nhưng lại thấy nó hiện ra ngay tức khắc. Nó rẽ vào con đường dẫn tới Kawaramachi. Tôi cứ bước theo sau nó và đi tới chỗ đường xe điện chạy. Khu này tối hơn là khu Shikyogoku. Con chó biến đâu mất. Tôi dừng lại và đưa mắt nhìn quanh khắp bốn phía.Tôi đi dến góc phố và cứ tiếp tục kiếm tìm nó. Vừa lúc đó một chiếc xe hơi có tài xế lái thuê, khung xe bóng lộn dừng lại trước mặt tôi. Người tài xế mở cửa và liền đó một thiếu nữ bước lên xe, tôi nhìn nàng chằm chằm. Người đàn ông sắp sửa bước theo cô gái lên xe, nhưng khi nhận ra tôi, người ấy chôn chân tại chỗ. Đó là Lão sư phụ. Tôi chẳng hiểu trời đất run rủi làm sao mà Lão sư phụ lúc nẫy đã vượt qua tôi đến bây giờ lại đụng đầu tôi đánh đốp như thế này. Dù sao đúng là Lão sư phụ rồi, tôi còn nhớ rõ tấm áo người con gái mặc bước vào trong xe màu đỏ thẫm. Lúc này thì không còn cách nào tránh né nữa. Những cuộc chạm trán đã làm tôi bàng hoàng chấn động cả người mà chẳng nói được câu nào. Trước khi tôi lắp bắp thốt ra được một lời thì những âm thanh ngọng nghịu cứ sôi lên ở trong miệng tôi. Cuối cùng khuôn mặt tôi phơi bầy một tình cảm hoàn toàn ngoài ý muốn của mình. Thực ra, tôi đã làm một điều hoàn toàn không đúng chỗ: tôi đã nhìn về phía Lão sư phụ và bật ra một tiếng cười. Tôi không thể giải thích tiếng cười này. Hình như nó đã từ bên ngoài đi tới rồi đột nhiên chui vào miệng tôi. Tuy nhiên, khi Lão sư phụ nhìn thấy tôi cười, nét mặt ông thay đổi hẳn. “Thằng nhãi con điên khùng này!” ông nói “Có phải mày định theo dõi tao hay không thì bảo?” Nói rồi ông bước vào xe, đóng cửa đánh sầm như đập vào mặt tôi. Khi chiếc xe đã đi rồi tôi mới biết ra Lão sư phụ quả thực đã nhìn thấy tôi lúc ông và tôi chạm trán nhau ở Shinkyogoku. Ngày hôm sau tôi cứ chờ đợi mãi Lão sư phụ gọi mình lên mắng mỏ. Nếu vậy tôi sẽ có cơ hội để tỏ bầy tự sự. Nhưng, cũng như lần trước, sau hôm tôi giẫm chân lên bụng con điếm, lần này Lão sư phụ cũng vẫn hành hạ tôi bằng cách bắt tôi chịu một cuộc khảo vấn không lời. Vào đúng lúc đó tôi nhận được một lá thứ nữa của Má. Bà cũng vẫn chấm dứt lá thư bằng những lời dặn dò thường lệ là chỉ sống trong hy vọng được nhìn thấy tôi trở thành sư trưởng trụ trì Kim Các Tự. “Thằng nhãi con điên khùng kia có phải mày định theo dõi tao hay không thì bảo?” khi tôi nhớ lại những lời Lão sư phụ đã gầm lên với tôi thì mỗi lúc tôi lại càng thấy những lời đó không xứng hợp chút nào. Nếu làmột tu sĩ Thiền tông thuần thành hơn, có đầu óc rộng rãi và hài hước hơn thì có lẽ Lão sư đã chẳng bao giờ dùng những lời mắng nhiếc tầm thường như thế đối với môn đệ của mình. Đáng lẽ ông phải ban ra một lời răn dậy đanh thép, hữu hiệu hơn. Dĩ nhiên, bây giờ Lão sư phụ chẳng làm sao rút lại lời nói của mình, nhưng tôi biết chắc thật ra ông đã hiểu lầm khi cho rằng tôi có dụng tâm theo dõi ông và đã tỏ ý cười nhạo ông như thể tôi đã gặp ông phạm vào một điều phi pháp nào đó; do vậy ông phát cáu và tự nhiên tỏ ra giận dữ một cách tầm thường. Dù sự thực có thế nào đi nữa việc Lão sư phụ không nói một lời lại trở nên mầm mống khó chịu cứ càng ngày càng đè nặng lên tôi. Sự tồn tại của Lão sư phụ đã trở thành một sức mạnh vĩ đại, nó đã trở thành y như hình bóng của con bướm đêm bay lượn chập chờn trước mắt như trêu tức người ta. Khi có người mời đi làm lễ ở bên ngoài, Lão sư phụ có thói quen mang theo một hoặc hai thị tăng. Ngày trước vào những dịp này lúc nào cũng có mặt ông Phó ti, nhưng mới đây, do đường lối gọi là dân chủ hóa nên thường thường năm người chúng tôi - ông Phó ti, ông Điện ti, tôi và hai đồ đệ nữa - thay phiên nhau tháp tùng Lão sư phụ. Ông quản liêu, vốn nổi tiếng nghiêm khắc trong bọn chúng tôi, đã bị gọi nhập ngũ và đã bị chết trận rồi. Công việc của ông ta nay đã có ông Phó ti bốn mươi lăm tuổi kiêm nhiệm. Sau khi Tsurukawa qua đời, có một đồ đệ mới xuất gia đến bổ sung trong chùa. Đúng lúc ấy có một thượng tọa trụ trì một ngôi chùa (chùa thuộc cùng một phái với Tướng quốc tự) mới qua đời và Lão sư phụ của chúng tôi được mời đến dự những nghi thức nhập viện của vị trụ trì tân mệnh. Thì ra đã đến phiên tôi theo hầu Lão sư. Vì Lão sư phụ không tỏ ý gì tránh né việc tôi theo hầu nên tôi hy vọng là có dịp may để giãi bầy cho ông nghe trên đường đi hoặc lúc trở về. Thế nhưng vào đêm trước buổi lễ lại có sự sắp đặt cho người đồ đệ mới cùng đi. Thế là mọi hy vọng của tôi bị đe dọa nặng nề. Những ai đã từng quen đọc văn học Ngũ sơn hẳn còn nhớ bài thuyết pháp nhân dịp Ishimuro Zenkyu nhập viện ở Vạn Thọ tự tại Kyoto vào Khang An nguyên niên (1361). Những lời thuyết pháp hoa mỹ và vị tân mệnh trụ trì nói ra khi nhập viện và khi đi từ sơn môn tới Phật điện qua Thổ Địa đường, Tổ Sư đường và sau cùng đến biệt phòng Phương trượng đã được truyền lại cho chúng tôi. Chỉ tay về hướng sơn môn ông đã dõng dạc nói những lời giọng đầy vui thích khi gánh vác trách nhiệm của vị tân mệnh trụ trì: “Đứng trong Thiên vực cửu trùng, đứng trước cổng Đế thành Vạn thọ, hai tay không ta mở khóa cổng, hai chân không ta trèo lên đỉnh Côn Lôn linh thiêng.” Lễ dâng hương bắt đầu. Thoạt tiên vị tu sĩ làm lễ Tự pháp hương để tỏ lòng báo ân vị Tự pháp sư. Thời xưa, khi Thiền tông chưa bị giam hãm trong quán lệ và khi người ta coi trọng hơn hết sự tỉnh ngộ của mỗi cá nhân thì người đệ tử thường lựa chọn sư phụ của mình hơn là sư phụ chọn lựa đệ tử. Vào thời đó, không những người đệ tử thụ nghiệp nơi vị sư phụ đầu tiên đã dẫn dắt cho mình mà còn ở nhiều vị sư phụ khác nữa; và trong buổi lễ Tự pháp hương này, thường nêu tên vị sư phụ mình nguyện sẽ tiếp nối nghiệp cho ai nấy cùng biết. Trong khi đứng xem nghi thức dâng hương trang trọng này, tôi tự hỏi khi đến lượt mình hành lễ tự pháp hương ở Lộc Uyển tự liệu tôi có theo tục lệ mà nêu tên Lão sư phụ hay không. Có lẽ tôi sẽ phá vỡ cái tục lệ đã kéo dài trong bảy trăm năm và nêu tên một vị nào khác. Sự giá lạnh trong Phương trượng vào buổi chiều đầu xuân này, mùi thơm ngào ngạt của năm loại hương, vòng anh lục lấp lánh đằng sau bộ Tam cụ túc (bình hoa, đài nến và lò hương) và vòng hào quang rực rỡ bao quanh pho tượng Phật, vẻ tươi sáng và những tấm cà sa trên mình các tu sĩ được mời đến dự lễ… và nếu một ngày kia tôi thấy chính mình phải làm lễ dâng hương theo nghi lễ Tự Pháp? Tôi tưởng tượng ra dáng vẻ của mình trong buổi lễ tân mệnh trụ trì. Làn không khí giá lạnh buổi đầu xuân sẽ cổ vũ cho tôi vui vẻ làm nghịch lại tập quán cổ truyền. Lão sư phụ sẽ đến dự lễ; và ông sẽ ngỡ ngàng không nói nên lời và sẽ giận dữ đến xám xanh mày mặt. Vì lẽ tôi sẽ đọc một tên không phải tên ông. Một tên khác? Nhưng vị sư phụ khác đã dậy đỗ tôi bước vào con đường tỉnh ngộ chân thực là ai? Tôi đang tắc tị. Tật nói lắp của tôi đã bít lối không cho cái tên vị sư phụ đó thoát ra khỏi miệng tôi. Tôi lắp bắp; và trong lúc lắp ba lắp bắp thì một cái tên khác bắt đầu buột ra - tôi bắt đầu nói “Cái Đẹp” và “Hư Vô”. Thế là tất cả mọi người hiện diện trong buổi lễ đều phá ra cười, và tôi đứng như trời trồng, vụng về, cứng ngắc giữa tiếng cười của mọi người. Tôi bất chợt tỉnh mộng. Lão sư phụ có vài việc phải làm; và với tư cách một thị tăng, tôi có bổn phận tiếp tay cho ông. Đối với một thị tăng được hiện diện trong một dịp lễ như thế này thật là một điều rất đáng tự hào; đặc biệt là trong trường hợp tôi, vì lẽ Thượng tọa trụ trì Lộc Uyển tự là bậc thượng thủ trong hàng tân khách. Khi Lão sư phụ của tôi đã niêm hương xong, ông lấy cái chùy gọi là “bạch chùy” gõ một tiếng để chứng minh rằng vị tân mệnh trù trì hôm nay không phải là một Nhạn phù đồ, nghĩa là, một nhạn phường chủ hay một anh tăng sĩ tiếm vị. Ông ê a tụng “Pháp duyên long tượng chúng Đương quan đệ nhất nghi” rồi cầm bạch chùy gõ khẽ một tiếng nữa. Lúc đó tôi mới thấy được quyền lực huyền diệu của Lão sư phụ. * * * Tôi không thể làm sao chịu được cảnh Lão sư phụ cứ lặng lẽ buông trôi câu truyện vừa qua mà không nói một lời, nhất là tôi không biết rồi ra sự im lặng này sẽ kéo dài bao lâu. Nếu tôi được trời phú cho tình cảm nào đó của con người thì tại sao tôi lại không hy vọng tìm thấy ở người đời như ở Lão sư phụ mà tôi thường tiếp xúc, những tình cảm tương ứng. Dù là yêu hay ghét cũng được. Gần đây tôi có cái thói quen đốn mạt là mỗi khi có dịp cứ quan sát vể mặt Lão sư phụ, nhưng chẳng một lần nào có thể phát hiện những tình cảm đặc biệt trên khuôn mặt ấy. Nét mặt thản nhiên của ông chẳng phải là lạnh lùng. Có thể là khinh miệt, nhưng nếu quả như vậy, thì đó không phải là sự khinh miệt đối với tôi như một cá nhân mà với một cái gì tổng quát, một cái gì chẳng hạn ông đã hướng về nhân gian nói chung hoặc về những khái niệm trừu tượng khác nhau. Vào khoảng thời gian này tôi cố ép mình gọi ra hình ảnh cái đầu tựa đầu loài thú của Lão sư và những hành vi nhục thể khó coi của ông. Tôi tưởng tượng ra ông đang làm việc bài tiết và tôi cũng mường tượng ra ông khi ông nằm ngủ với người con gái mặc tấm áo choàng đỏ rực ấy! Tôi nhìn thấy những nét thản nhiên, không chút tình cảm trên khuôn mặt ông và một dáng vẻ có thể là tươi cười, có thể là đau đớn chợt lộ trên khuôn mặt ông khi khuôn mặt ấy đờ đẫn vì khoái cảm. Da thịt ông mềm mại, mịn mát khi tan biến vào da thịt cũng mịn mát, mềm mại của người con gái và khi hai thân hình ấy quyện chặt vào nhau không làm sao phân biệt được. Cái bụng phưỡn của ông áp chặt vào cái bụng phình của cô gái. Tuy nhiên, kể cũng kỳ lạ, dù có tưởng tượng đến đâu đi nữa lúc nào tôi cũng chỉ thấy nét mặt lạnh lùng thản nhiên không lộ chút tình cảm nào của Lão sư phụ với dáng vẻ như loài thú trong khi bài tiết hoặc lúc tính giao và chẳng bao giờ có một cái gì lấp kín khoảng trống giữa hai cái này cả. Cực đoan này được trực tiếp biến sang cực đoan kia, ở giữa chẳng hề có một sắc hợp tình cảm nào trong cuộc sống thường nhật móc nối. Chỉ có một điều duy nhất có chút xíu liên hệ đó là lời mắng mỏ có vẻ thô lỗ của Lão sư phụ vào chiều hôm ấy: “Thằng nhãi con điên khùng kia, có phải mày định theo dõi tao hay không thì bảo?” Sau khi suy nghĩ và chờ đợi đến mệt đừ cả người, cuối cùng tôi thấy mình có một thèm muốn hết sức mạnh mẽ, dai dẳng: chỉ cần làm sao bắt gặp được một cái nhìn ghét bỏ rõ rệt trên mặt Lão sư phụ. Kết quả của tất cả những ý nghĩ đó là một sự sắp đặt hết sức điên rồ, trẻ con và bất lợi rõ rệt cho tôi; nhưng tôi không làm sao còn có thể tự kiềm chế nữa. Tôi cũng chẳng thèm để ý là cái trò chơi ác này sẽ chỉ làm cho Lão sư phụ hiểu lầm tôi thêm khi trước kia ông đã nghĩ rằng tôi đã dụng tâm theo dõi ông. Tôi gặp Kashiwagi ở đại học và hỏi nó tên cùng địa chỉ cửa hiệu ấy. Kashiwagi cho tôi biết liền mà chẳng hề hỏi đến lý do. Tôi đi ngay đến cửa hiệu ấy xem xét tỉ mĩ một lô ảnh khổ bưu thiếp chụp các cô danh kỹ trong khu Kỳ viên. Mới đầu tôi thấy những bộ mặt trát phấn dầy cộm của các cô gái ấy trông đều giống hệt như nhau, nhưng nhìn kỹ một lúc tôi thấy nhiều nét khác biệt nhỏ nhặt bắt đầu hiện rõ. Qua lớp son phấn lồ lộ bây giờ tôi có thể phân biệt rõ những sắc điệu biểu hiện bản chất từng khuôn mặt ấy - tối tăm hoặc sáng sủa, lanh lợi thông minh hoặc đẹp đẽ đần độn, ủ dột hoặc hớn hở, bất hạnh hoặc may mắn. Cuối cùng tôi giở tới tấm hình mình đang muốn tìm. Dưới ánh đèn điện sáng trưng của cửa hiệu, hình ảnh phản chiếu lấp lánh trên mặt giấy bóng lộn thật khó mà nhìn rõ tấm ảnh, nhưng khi đã soi theo đúng chiều ánh sáng tôi có thể nhận ra đích thực đấy là khuôn mặt cô gái mặc áo choàng đỏ chót. “Xin cho tôi tấm ảnh này,” tôi nói với người bán hàng. Sự táo bạo đặc biệt của tôi vào lúc này tương ứng hoàn toàn với việc tôi đã hoàn toàn thay đổi và thấy trong lòng nhẹ nhõm, ngập tràn một niềm vui sướng không thể giải thích được kể từ lúc quyết tâm thực hiện sách lược của mình. Mới đầu tôi có ý định chọn lúc nào Lão sư phụ đi vắng để cho ông không biết được là ai đã làm việc đó, nhưng bây giờ nỗi hăm hở mới có của tôi đã dẫn dắt tôi đến chỗ lựa chọn cái phương pháp nguy hiểm là làm thế nào để không ai có thể lầm lẫn về trách nhiệm của tôi cả. Tôi vẫn có bổn phận đem báo buổi sáng tới phòng Lão sư phụ. Một buổi sớm tháng ba, khi trời hãy còn gái lạnh, như thường lệ tôi đi ra cổng ngoài lấy báo đem vào. Tim tôi đập thình thịch lúc tôi rút trong túi ra tấm ảnh cô gái ở khu Kỳ viên để đem nhét vào trong tờ báo. Mặt trời buổi sáng chiếu vào cây tô thiết mộc ngay giữa tiền đình có hàng rậu vây quanh. Vỏ cây tô thiết cứng dắn sù sì biến màu rõ rệt dưới ánh sáng mặt trời. Bên trái là cây bồ đề nhỏ. Một vài con chim nhược cuối màu đậu trên cành cất mấy tiếng hót êm nhẹ nghe như tiếng tràng hạt cọ vào nhau. Vào lúc này trong năm vẫn còn chim nhược thì kể cũng lạ, nhưng cái mớ lông tơ vàng vàng, li ti ấy mà tôi nhìn thấy trước ánh mặt trời xuyên qua cành cây, thực chẳng thể thuộc về loài chim nào khác. Những hòn sỏi trắng óng nằm lặng lẽ trong tiền đình. Tôi cẩn thận đi men theo hành lang, cho chân khỏi bước vào những vũng nước còn sót lại đó đay khi vừa lau nhà xong. Cửa phòng Lão sư phụ trong Đại Thư Viện đóng kín mít. Hãy còn sớm quá nên tấm liếp kéo bằng giây trắng còn chiếu sáng chói lọi. Tôi quì ở ngoài hành lang và nói như thường lệ: “Thưa, con có thể vào được không?” Nghe tiếng Lão sư phụ cho phép tôi ẩn tấm cửa kéo bước vào phòng rồi đặt tờ báo gấp nhẹ vào một góc bàn giấy. Lão sư phụ đang bận đọc một cuốn sách nên không nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi lui bước, khép cửa lại và vừa từ từ đi theo hành lang trở lại phòng mình vừa cố gắng hết sức để giữ bình tĩnh. Khi tới phòng riêng, tôi ngồi xuống hoàn toàn buông mình theo khích động rộn rã cho tới lúc rời chùa đi học. Chưa bao giờ trong đời mình tôi lại trong chờ một cái gì với hy vọng như thế. Mặc dù đã dụng ý làm cho Lão sư phụ tức giận, song cái khung cảnh lúc này đây tôi đang đợi chờ lại chỉ chứa đầy nguồn nhiệt tình của giây phút mà hai con người đi đến chỗ hiểu biết lẫn nhau. Có lẽ Lão sư phụ sẽ bất thình lình nhẩy bổ vào phòng tôi và tha thứ cho tôi. Và nếu ông tha thứ cho tôi, có lẽ lần đầu tiên trong đời mình tôi sẽ đạt tới cái tình cảm trong sáng, thuần khiết trong đó Tsurukawa đã luôn luôn sống. Lão sư phụ và tôi sẽ ôm lấy nhau, và tất cả những gì còn lại sau đó chỉ là sự tiếc rằng sao chúng tôi đã hiểu nhau quá chậm. Giấc mơ này không kéo dài lâu, nhưng thực khó mà giải thích rằng tại sao tôi lại có thể buông mình theo những không tưởng dớ dẩn như thế dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Khi lạnh lùng bằng cái hành vi ngu dại này tức là tôi đã tự gạt bỏ tên mình khỏi danh sách những người có thể kế nghiệp ông và như thế, tự mình tôi đã dọn đường cho việc vĩnh viễn không bao giờ có hy vọng trở thành chủ nhân Kim Các Tự nữa - trong suốt thời gian này tôi bị cái mục tiêu tức thời lôi cuốn, chấp trước đến nỗi quên hết sự tha thiết trọn đời của mình đối với Kim Các Tự. Tôi vểnh tai nghe ngóng phía phòng Lão sư phụ trong Đại Thư Viện. Tôi chẳng nghe thấy một tiếng động nào hết. Bây giờ tôi bắt đầu chờ đợi con thịnh nộ của Lão sư phụ, chờ đợi tiếng la hét như sấm rền của ông. Về phần mình, tôi cảm thấy nếu có bị đánh đập, đá cho ngã lăn xuống sàn nhà và nện cho chảy máu lênh láng thì chẳng có gì đáng hối tiếc nữa. Nhưng về phía Đại Thư Viện vẫn hoàn toàn im lặng; trong lúc tôi ngồi trong phòng chờ đợi không một tiếng động nào tới gần. Rồi lúc rời Lộc Uyển tự để đi đến trường, tôi thấy lòng mình hoàn toàn trống rỗng, rã rời và hoang lạnh. Tôi không thể tập trung tư tưởng vào bài giảng và khi vị giáo sư hỏi tôi một câu thì tôi đã trả lời sai bét chẳng ăn thua gì đến câu hỏi khiến cho ai nấy đều bật cười. Tôi liếc mắt nhìn Kashiwagi và thấy rằng có mình nó là thờ ơ với việc này và đang nhìn ra cửa sổ. Hẳn là nó cũng biết cái bi kịch đang diễn ra trong lòng tôi. Khi tôi trở về chùa vẫn chẳng có gì thay đổi hết cả. Nếp sinh hoạt vĩnh viễn, ngột ngạt, đen tối trong chùa đã trở thành khuôn phép chắc chắn đến nỗi giữa ngày này với ngày khác chẳng làm sao có được sự khác biệt nào cả. Mỗi tháng có hai buổi giảng nghĩa giáo điển; hôm nay chính là ngày có buổi giảng bài như thế. Mọi người trong chùa đều tụ tập ở phòng Lão sư phụ để nghe ông thuyết giảng. Tôi trộm nghĩ là ông sẽ khéo léo lấy cớ giảng kinh Vô Môn Quan để trách mắng tôi trước mặt tất cả mọi người. Tôi có lý do đặc biệt để tin tưởng điều này. Tôi cảm thấy có một thứ can đảm đầy nam tính đã thúc đẩy tôi tôi ngồi ngay trước mặt Lão sư phụ trong buổi thuyết giảng tối nay. Tôi thấy Lão sư phụ sẽ đáp lại bằng cách chính ông bày tỏ một đức tính tốt đẹp của bậc nam nhi: ông sẽ giẫm chân lên sự đạo đức giả và cáo bạch cho mọi người trong chùa biết rõ hành trạng của mình rồi sau đó sẽ chỉnh tôi một trận vì cái hành vi tồi tệ của tôi. Tất cả mọi người ở trong chùa đã tụ tập xong đâu vào đấy dưới ngọn đèn lờ mờ, ai nấy đều cầm trong tay một bản kinh Vô Môn Quan. Đêm tối lạnh lẽo, song chỉ có một cái bếp lò nhỏ đặt ngay cạnh Lão sư phụ để sưởi ấm. Tôi nghe thấy tiếng người hắt hơi. Họ ngồi đó, cả già lẫn trẻ, bóng hình lúc đậm lúc nhạt in trên các khuôn mặt cúi khom, và trên nét mặt họ có cái gì hết sức đờ đẫn. Người đồ đệ mới, ban ngày đi dậy ở một trường tiểu học, là một anh chàng cận thị và cái kính trắng cứ tuột mãi xuống sống mũi xương xương của anh ta. Chỉ riêng tôi cảm thấy được sức mạnh trong cơ thể mình. Ít nhất đó là điều tôi đã tưởng tượng. Lão sư phụ mở cuốn kinh của ông, rồi đưa mắt nhìn quanh khắp một vòng hết chúng tôi. Tôi đưa mắt nhìn theo cái nhìn của ông. Tôi muốn ông thấy rõ là tôi hoàn toàn không hề cúi mặt nhìn xuống. Nhưng khi cặp mắt có những múi thịt múp míp bao quanh đưa đến chỗ tôi, chúng lại chẳng tỏ ra có mảy may cảm hứng nào và rồi lướt nhìn qua các bộ mặt khác. Bài thuyết giảng bắt đầu. Tôi chỉ những chờ đợi cái giây phút khi bất chợt bài giảng chuyển vào vấn đề của mình. Tôi chăm chú lắng nghe. Giọng lão sư phụ cao vút kéo dài. Không có một tiếng nói nào phát ra từ nội tâm ông hết. Đêm hôm đó tôi không sao ngủ được. Trong lúc trằn trọc, tôi thấy lòng mình tràn ngập một sự khinh miệt đối với Lão sư phụ và một niềm ước muốn chế diễu cái thói đạo đức giả của ông. Thế nhưng, sau đó dần dần một cảm giác hối hận chỗi dậy trong lòng tôi và bắt đầu xoa dịu những ý nghĩ ngạo mạn của tôi. Sự khinh miệt của tôi đối với thói đạo đức giả của Lão sư phụ, kỳ diệu thay lại liên hệ với sự suy nhược dần dần của tâm hồn tôi, và kết cục tôi đâm ra có ý nghĩ là riêng đối với tôi thực ra Lão sư phụ chẳng là cái quái gì hết, vì vậy dù cho tôi có năn nỉ xin ông tha thứ thì cũng chẳng phải là một sự thất bại. Tâm hồn tôi sau khi đã trèo lên tận đỉnh một con dốc thật cao bây giờ đang lao xuống chân dốc thật nhanh. Tôi định tâm vào sáng hôm sau sẽ tới xin lỗi Lão sư phụ. Sáng hôm sau, tôi lại quyết định sẽ tới xin lỗi vào một lúc nào đó trong ngày. Tôi nhận thấy nét mặt Lão sư phụ chẳng mảy may thay đổi. Đó là một ngày lộng gió. Sau khi ở đại học về, bất đồ tôi mở ngăn kéo ra. Tôi nhìn thấy một cái gì gói kín trong bao giấy trắng. Đó là tấm ảnh. Trên tờ giấy không có một chữ nào. Hiển nhiên, Lão sư phụ đã chủ tâm dùng phương pháp này để kết thúc vấn đề. Ông không có ý hoàn toàn bỏ qua hành vi tôi, nhưng muốn tôi thấy rõ là hành vi đó chẳng có hiệu lực gì hết. Tuy nhiên cung cách đem trả lại tấm ảnh lạ kỳ của ông đã khiến cho trí óc tôi tưởng tượng đến hàng chuỗi hình ảnh. “Như vậy Lão sư cũng đã đau khổ rồi!” tôi nghĩ vậy. Trước khi xử sự như thế này hẳn ông đã phải trải qua bao nỗi ưu phiền ghê gớm. Hẳn là bây giờ ông phải ghét tôi kinh khủng. Chắc không phải ông đâm ra ghét tôi vì tôi đã làm cho ông bó buộc phải cư xử một cách khó coi như vậy. Chỉ vì một tấm ảnh này mà Lão sư phụ bó buộc phải hành động lén lút ngay trong ngôi thiền tự của riêng ông. Ông đã phải lén lút men theo hành lang vào lúc không có một ai ở đó. Rồi lẻn vào phòng một tên đồ đệ, nơi từ trước đến nay ông chưa bao giờ đặt chân tới và mở ngăn kéo của tôi ra y như một kẻ phạm tội. Đúng thế, bây giờ ông đã có đủ thập phần lý do để mà ghét tôi.” Nghĩ vậy tôi chợt thấy lòng mình tràn ngập một niềm vui khó tả. Rồi tôi bắt tay vào một công việc thích thú. Tôi lấy kéo cắt tấm ảnh cô gái ra thành nhiều mảnh nhỏ. Xong đâu đấy tôi lấy một tờ giấy cứng ở cuốn vở của tôi gói ghém cẩn thận những mảnh vụn ấy trong hai lớp giấy rồi nắm chặt gói giấy trong tay đi ra tới chỗ gần Kim Các Tự. Sự quân xứng u uất thường lệ vẫn tràn ngập ngôi chùa nhô cao dưới bầu trời đêm sáng trăng lộng gió. Hàng cột mảnh mai đứng xích lại gần nhau; dưới ánh trăng rọi thẳng xuống những hàng cột trông tựa các sợi dây đàn còn chính ngôi chùa lại giống như một nhạc khí khổng lồ dị dạng. Mặt trăng lúc thấp lúc cao đã gây nên ấn tượng khác thường này. Đêm nay thấy thực là rõ. Tuy vậy, gió lùa qua khoảng trống giữa các sợi dây đàn câm nín ấy lại chẳng tạo nên một tiếng đàn nào cả. Tôi cúi xuống nhặt một hòn đá, gói vào trong tờ giấy rồi buộc thật chặt vào gói giấy. Thế rồi những mảnh vụn của tấm hình khuôn mặt cô gái, do sức nặng của hòn đá, chìm xuống đáy Kính Triều trì. Sóng nước lăn tăn trải dài khắp bốn phía chẳng mấy lúc đã lan tới bờ nước ngay dưới chân tôi. Việc tôi đột nhiên chạy trốn khỏi chùa vào tháng mười một năm ấy là kết quả của sự tích lũy những sự việc này. Về sau nghĩ lại tôi nhận ra rằng sự trốn chạy có vẻ đột ngột thực ra đã được tiến hành từ lâu qua biết bao thời kỳ phân vân và ưu lự. Tuy nhiên, tôi lại thích nghĩ rằng đó là vì một vài rung động đột ngột thôi thúc. Vì tự căn bản, trong con người tôi thực hoàn toàn thiếu sót những xung động mô phỏng. Chẳng hạn trong trường hợp một người tối hôm trước đã dự định đi thăm một thân phụ vào ngày hôm sau, nhưng tới lúc ra khỏi nhà đứng trước nhà ga, người đó lại đột nhiên đổi ý và quyết định tới thăm một người bạn chè chén của mình, như vậy trong trường hợp này người đời có thể nào nói là có một xung động thuần túy hay không? Phải chăng sự đổi ý đột nhiên của người đó là thứ hành vi phục thù đối với ý chí của mình? Thực ra, có phải đó là cái gì có ý thức hơn sự chuẩn bịtừ lâu để đi thăm mộ hay không? Cái động cơ trực tiếp đã khiến tôi phải bỏ chùa chạy trốn là việc hôm trước Lão sư phụ đã nói rõ cho tôi hay: “Trước đây đã có lúc ta định bụng cho con kế vị ta sau này, nhưng bây giờ ta có thể nói thẳng cho con hay là ta không còn giữ ý định đó nữa.” Đó là lần đầu tiên tôi nghe thấy một lời tuyên cáo như thế, song lẽ ra tôi nên đoán trước và đợi chờ một lời tuyên cáo như vậy mới phải. Tôi không thể làm rabộ là lời nói của Lão sư phụ như một tiếng sét đánh ngang tai hoặc đã làm cho tôi sững sờ hoảng hốt. Tuy vậy, tôi vẫn thích nghĩ là những lời nói của Lão sư phụ đã va chạm làm nổ bùng và một xung động đột nhiên đã gây ra việc tôi bỏ chùa trốn chạy. Sau khi đã chắc chắn là làm cho Lão sư phụ ghét bỏ mình vì cái trò chơi ác về tấm hình, tôi bắt đầu xao lãng việc học hành tại trường; điều đó thực rành rành ai cũng thấy rõ. Thành tích của tôi trong năm dự bị là 84 điểm trong khi hai môn khá nhất: Hoa ngữ và Lịch sử và 748 điểm tổng cộng tất cả các môn; như vậy được xếp hạng 24 trong lớp học 84 người cả thảy. Tôi chỉ vắng mặt tất cả có 4 giờ trong số 464 giờ học. Sang năm thứ nhì, tổng cộng tôi chỉ được có 693 điểm và tụt xuống thứ 35 trong 77 sinh viên. Nhưng sang đến năm thứ ba tôi mới thực sự xao lãng việc học hành - chẳng phải vì có tiền để rong chơi mà chi vì thích biếng lười không chịu học. Và tình cờ học kỳ mới trong năm thứ ba lại bắt đầu ngay sau câu truyện về tấm ảnh. Khi học kỳ thứ nhất chấm dứt, nhà trường gửi giấy về chùa yêu cầu chú ý đến sự thụt lùi của tôi và tôi bị Lão sư phụ gọi lên trách mắng và thành tích quá tệ, số giờ vắng mặt quá nhiều, nhưng điều làm Lão sư phụ giận dữ nhất là trong một học kỳ chỉ có ba ngày giảng dậy về “Tiếp tâm” (môn học đặc biệt cho tăng sĩ Thiền tông) thì tôi đều trốn học cả ba. Cả một năm chỉ có chín ngày giảng dậy về “Tiếp tâm” chia làm ba lần, mỗi lần ba ngày trước những dịp nghỉ dầu mùa hạ, mùa đông và mùa xuân, và mọi việc đều theo đúng các hình thức trong những đạo trường chuyên môn. Lão sư phụ đặc biệt cho gọi tôi lên tận phòng riêng của ông để nghe ông trách mắng, việc này tự nó là một điều hiếm thấy. Tôi cúi đầu đứng yên. Trong thâm tâm tôi đang chờ đợi Lão sư sẽ xoay sang một câu truyện nào đó; nhưng không, ông đã chẳng hề đả động tí gì đến câu truyện tấm ảnh cả, mà ông cũng chẳng nhắc nhở gì tới câu truyện cô gái điếm cùng việc cô này đến làm tiền ông. Chính từ dạo này trở đi Lão sư phụ có thái độ lãnh đạm rõ rệt đối với tôi. Nói cho đúng ra đó thực là điều tôi hằng mong đợi, là chứng tích tôi thêm được thấy và tôi coi điều này như là một thứ thắng lợi. Tuy nhiên, muốn đạt được sự thắng lợi ấy thì tôi chỉ cần cứ việc lười biếng. Trong học kỳ đầu tiên của năm thứ ba tôi vắng mặt 60 giờ - gấp năm lần tổng số giờ vắng mặt trong cả năm thứ nhất. Trong suốt những giờ vắng mặt ấy tôi không hề đọc một quyển sách nào, mà tôi cũng chẳng có tiền để đi tìm thú vui. Đôi khi tôi cũng có nói chuyện với Kashiwagi, song thường thường tôi chỉ ngồi một mình không làm gì hết; và như vậy những ký ức của tôi về đại học Otani thường pha trộn một cách thân mật với những ký ức về sự vô vi lười biếng. Sư vô vi lười biếng này có lẽ là một lối thực tập “Tiếp tâm” đặc biệt của tôi về Thiền học, và khi đã đắm mình vào sự thực tập ấy, chẳng có một lúc nào tôi cảm thấy chán nãn hết. Có một lần tôi ngồi hàng giờ trên bãi cỏ ngắm một đàn kiến thi nhau khênh những mẫu đất nhỏ xíu. Thực không phải đàn kiến đã làm cho tôi thích thú. Một bận khác tôi đang ngớ ngẫn không biết trong bao lâu bên ngoài đại học ngắm đợt khói mong manh bốc lên từ ống khói xưởng máy ở đằng sau nhà trường. Thực không phải làn khói đó đã lôi cuốn cảm hứng của tôi. Vào những giờ phút như thế, tôi cảm thấy dường như đã đắm mình trọn vẹn vào cuộc sống của chính cái tôi. Thế gian bên ngoài nhiều phần đã nguội đi và từ lúc ấy lại được hâm nóng lại. Tôi biết nói ra sao nhỉ? Tôi cảm thấy thế giới bên ngoài đã lốm đốm loang lở và lại có dọc vằn ngang nữa. Bản thân bên trong của tôi và thế giới bên ngoài đã thay đổi vị trí một cách từ từ không theo một quy tắc nào cả. Cái phong cảnh vô ý vị vẫn hằng bao quanh tôi chợt sáng rực lên trước mắt tôi; trong lúc sáng rực, phong cảnh ấy xông xáo, len lách tìm đường chui vào trong tôi và chỉ những phần còn lại không chui vào được là tiếp tục óng ánh ngoài xa một cách sinh động. Những phần chói sáng ấy có thể là lá cờ trên nóc một xưởng máy hoặc một vết dơ trên tường hay chiếc guốc cũ kỹ nát mục vứt bỏ trên bãi cỏ. Dần dần tất cả sống dậy trong tôi - và rồi chúng lại chết đi. Hoặc giả liệu tôi có nên nói, tất cả mọi hình thức tư tưởng không thành hình? Những sự việc trọng yếu dắt tay đi đôi với những việc tầm thường nhất, và những sự kiện chính trị ở châu âu mà tôi đọc thấy trong báo sáng nay trở nên có liên hệ khắng khít với chiếc guốc gỗ cũ kỹ đang nằm ở dưới chân tôi đây. Tôi suy nghĩ hàng giờ về cái góc nhọn do đầu một ngọn cỏ tạo thành. Có lẽ từ ngữ “suy nghĩ” không được thích đáng cho lắm. Cái quan niệm lạ lùng, vớ vẫn này của tôi không có quá trình sinh hoạt liên tục, nhưng cứ xuất hiện rồi lại biến đi như một điệp khúc trong bản nhạc nào đó. Tại sao cái góc nhọn ấy lại phải nhọn hoắt đến thế? Giả như nếu nó là một góc bẹt thì liệu sự xếp loại của “cỏ” có bị mất đi không và liệu thiên nhiên có tránh khỏi bị băng hoại từ một góc bẹt trong toàn thể hay không? Khi một cái cực tiểu lấy ra khỏi thiên nhiên thì liệu toàn thể thiên nhiên có biến dạng hay không? Cứ theo phương pháp này tâm trí tôi vẩn vơ suy nghĩ hết từ quan điểm này đến quan điểm khác. Việc Lão sư phụ trách mắng tôi chẳng mấy chốc trong chùa ai ai cũng biết, do đó đối với tôi họ có thái độ thù nghịch rõ rệt hơn. Người đồ đệ đã từng ghen ghét tôi về việc tôi được gửi lên đại học bây giờ bất kỳ lúc nào nom thấy tôi hắn cũng hinh hích cười một cách đắc ý. Tôi tiếp tục sống ở trong chùa trong suốt mùa hè và mùa thu, và ít khi hé miệng chuyện trò với ai. Vào buổi sáng trước ngày tôi bỏ chùa trốn đi Lão sư phụ bảo ông Phó ti gọi tôi vào phòng Lão sư phụ. Hôm đó là ngày mồng chín tháng mười một. Vì sắp sửa rời chùa lên trường nên tôi mặc bộ đồ đồng phục. Khuôn mặt phúng phính của Lão sư phụ vẫn tươi tắn như thường lệ, nhưng để sửa soạn nói cho tôi hay điều gì không vui, khuôn mặt ấy chợt đanh lại một cách lạ kỳ. Tuy nhiên, với riêng tôi thì tôi lại lấy làm thích thú là được thấy Lão sư phụ nhìn tôi như thể đang nhìn một tên hủi. Đó chính là nét mặt tôi thật tình mong được nhìn thấy nơi ông một ánh mắt có mang tình cảm của con người. Lão sư phụ quay mặt nơi khác không nhìn tôi. Trong lúc nói, ông xoa hai bàn tay vào nhau hơ trên lò sưởi. Hai bàn tay ông thịt da mềm mại chỉ tạo nên một âm thanh khe khẻ, thế nhưng tôi lại nghe thấy như vang vang và hình như phá tan vẻ trong sáng của làn không khí buổi sáng sớm đầu mùa đông. Sự cọ sát giữa da thịt một ông hòa thượng với chính da thịt ông ta tạo nên một cảm giác thân mật không cần thiết. “Ba con ở dưới suối vàng sẽ buồn rầu xiết bao khi biết sự thể đã đến như thế này!” Ông nói. “Hãy xem lá thư này! Một lần nữa nhà trường lại gửi một lá thư lời lẽ rất gay gắt. Con nên suy ngẫm xem nếu cứ tiếp tục như thế này thì sự thể sẽ ra sao.” Và rồi ông bắt thẳng sang những điều ông muốn nói. “Trước đây đã có lúc ta định bụng cho con kế vị ta sau này, nhưng bây giờ ta có thể nói thẳng cho con hay là ta không còn giữ ý định đó nữa.” Tôi ngồi im lặng một lúc lâu. Rồi tôi nói: “Như vậy tức là thầy bỏ rơi con phải không?” “Có thực là con nghĩ rằng ta sẽ không bỏ rơi con sau vụ này không?” Lão sư phụ nói sau một lúc im lặng. Tôi không trả lời, nhưng ngay sau đó tôi nghe thấy chính mình lắp bắp thốt ra một điều gì về một việc hoàn toàn khác biệt. “Bạch thầy, thầy biết rõ con từng chân tơ kẽ tóc. Con nghĩ con không biết rõ về thầy từ kẽ tóc chân tơ.” “Và giả như thực sự con biết hết thì đã sao đâu.” Hòa thượng nói, trong mắt ông hiện ra một ánh u-ám. “Con có biết hết thì cũng chẳng đi đến đâu. Thật hoàn toàn vô ích mà.” Từ trước đến giờ chưa lần nào tôi nhìn thấy một khuôn mặt nào lại hoàn toàn xa rời cuộc đời này đến như vậy. Từ trước đến giờ chưa làn nào tôi nhìn thấy khuôn mặt một con người mặc dù đã nhúng tay vào mọi thú vị của cuộc sống, nào bạc tiền, nào đàn bà con gái, lại hoàn toàn khinh miệt cuộc đời này cho đến thế? Lòng tôi tràn ngập những hiềm ố như thể tôi đang đứng trước một cái xác chết nhưng hãy còn âm ấm, da dẽ hãy còn hồng hào. Vào lúc ấy tôi thấy lòng mình tràn ngập ước muốn mãnh liệt, thống thiết xa lánh tất cả mọi khung cảnh bao quanh mình, dù chỉ trong một chốc lát. Sau khi lui gót khỏi phòng Lão sư phụ, tôi thấy cái ước muốn đó lại càng dữ dội hơn nhiều khiến tôi chẳng thể nghĩ đến điều gì khác nữa. Tôi lấy cái khăn gói cuộn quyển từ điển Phật giáo và chiếc sáo Kashiwagi đã cho tôi lại. Khi tới trường mang theo cặp sách và khăn gói này tôi thấy ý định ra đi cứ ám ảnh mãi đầu óc. Bước vào cổng trường, tôi vui lòng hết sức khi thấy Kashiwagi đang đi đằng trước, tôi kéo tay nó lại và dẫn ra vệ đường. Tôi bảo nó cho tôi vay ba nghìn yen và giữ lấy cuốn tự điển và chiếc sáo muốn làm gì thì làm. Lúc này, trên khuôn mặt nó không hề có một dấu vết nào của cái dáng vẻ sáng khoái triết học quen thuộc nó hằng có mỗi khi đưa ra một nghịch thuyết. Nó nheo mắt lại nhìn tôi, ánh mắt như có lờ mờ sương khói. “Mày có nhớ lời khuyên con trai của ông bố anh chàng Laerter trong bi kịch Hamlet hay không? ‘Đừng bao giờ cho ai vay tiền mà cũng đừng bao giờ đi vay tiền ai, vì cho vay tiền thì thường mất cả tiền lẫn bạn.’ “Tớ đâu còn bố nữa mà nói,” tôi đáp. “Nhưng hãy cùng nhau bàn tính lại xem nào. Tớ không biết liệu có thể cào cấu đâu được đủ ba ngàn yen hay không? Tôi đã định bụng nói phăng cho Kashiwagi nghe những lời thiếu phụ dậy cắm hoa kể lại về cái mánh khóe móc tiền đàn bà con gái của nó nhưng rồi đột nhiên tôi cố tự kiềm chế lại. “Trước hết mình nên thu xếp cho xong cuốn từ điển và chiếc sáo này đi đã.” Nói rồi Kashiwagi quay ngoát lại đi ra phía cổng trường. Tôi cũng quay lại và bước theo, cất bước thật chậm để khỏi vượt qua nó. Nó bắt đầu kể cho tôi nghe truyện thằng bạn sinh viên làm chủ tịch câu lạc bộ Quang Minh đã bị bắt vì bị tình nghi buôn tiền chợ đen. Thằng này đã được phóng thích vào tháng chín và sau đó gặp nhiều khó khăn ghê gớm, vì không được thiên hạ tin dùng như trước nữa. Ngay từ mùa xuân, Kashiwagi đã đặc biệt chú ý đến thằng chủ tịch hội Quang Minh và hai đứa chúng tôi vẫn thường hay nói chuyện về thằng ấy! Cả hai chúng tôi đều tin chắc rằng thằng ấy đối với xã hội hãy còn mạnh thế lắm; và hiển nhiên là chúng tôi không thể ngờ rằng chỉ hai tuần lễ sau thằng ấy đã tự tử. “Cậu cần món tiền ấy để làm gì vậy?” Kashiwagi đột nhiên hỏi. Dường như nó đặt một câu hỏi thực là kỳ cục. “Tớ muốn đi lang thang đến một nơi nào đó.” “Thế rồi cậu có trở lại không?” “Có lẽ.” “Tại sao cậu lại chuồn vậy?” “Tớ muốn chạy trốn tất cả những gì vây bọc thân tớ, chạy trốn cái mùi vô lực mà mọi người quanh tớ tiết ra nồng nặc. Lão sư phụ cũng vô lực. Vô lực một cách khủng khiếp. Tớ cũng biết rõ điều ấy nữa.” “Thế cậu cũng muốn xa lánh cả Kim Các Tự nữa ư?” “Đúng thế! Xa lánh cả Kim Các Tự nữa.” “Thế Kim Các Tự cũng vô lực à?” “Không, tất nhiên là Kim Các Tự không vô lực! Nó là căn nguyên tạo ra sự vô lực của mọi người.” “Phải rồi, cậu nghĩ đến điều đó là phải,” Kashiwagi nói; và nó vừa nhún nhẩy bước ra vừa chặc lưỡi một cách vui vẻ. Tôi theo nó bước vào một cửa hiệu bán đồ cổ nho nhỏ, giá lạnh, nơi nó bán chiếc sáo. Người ta chỉ trả nó bốn trăm yen thôi. Sau đó, chúng tôi dừng lại ở một cửa hiệu bán sách cũ và xoay xỏa bán cuốn từ điển được có một trăm yen. Hãy còn thiếu hai nghìn năm trăm yen nữa. Kashiwagi dẫn tôi về nhà trọ để lấy. Sau khi đã đưa cho tôi mượn tiền nó mới đưa ra một đề nghị thực là kỳ lạ. Nó giải thích, cái sáo là vật nó cho tôi mượn nên tôi phải hoàn lại còn cuốn từ điển thì có thể coi như món quà tặng. Vậy là tôi mới chỉ trả lại nó những gì vốn là của nó, và số tiền bán đồ được năm trăm yen cũng thuộc về nó nốt. Khi thêm vào hai ngàn năm trăm yen thì số tiền cho vay đương nhiên là ba nghìn yen. Về số tiền ba nghìn yen này, mỗi tháng Kashiwagi muốn nhận được mười phân lãi đến khi nào tôi trả hết nợ. Theo lời Kashiwagi, so với số tiền lời thực là cao ba mươi tư phần trăm của câu lạc bộ Quang Minh thì vay lãi như thế này còn nhẹ hơn nhiều. Và tính tiền lãi thấp như thế này ấy là nó đã ban cho tôi một ân huệ. Nó rút ra một tờ giấy dầy, một nghiên mực rồi thịnh trọng ghi lại các điều kiện cho vay. Đoạn nó bảo tôi điểm chỉ vào từ giấy chứng vay tiền đó. Vì chán chẳng buồn nghĩ đến tương lai, tôi liền nhúng tay cái vào nghiên mực rồi ấn mạnh lên tờ biên nhận vay nợ. Tim tôi đập thình thịch vì sốt ruột. Rời nhà trọ Kashiwagi với ba nghìn yen trong túi tôi lên xe điện đến tận trước công viên Thuyền Cương mới xuống xe. Tôi lao đầu chạy lên các bậc thềm đá vòng vèo dẫn đến thần xã Kiến Huân. Tôi định xin một quẻ thẻ để xem thánh dậy ra sao về cuộc hành trình của mình. Ngay từ dưới chân các bậc thềm đá người ta đã có thể nhìn thấy chính điện của thần xã Nghĩa Chiếu Đạo Hà, màu đỏ sặc sỡ và cả hai con cáo có lưới sắt vây quanh. Mỗi con cáo ngoạm một cuốn giấy và bên trong những vành tai vểnh lên nhọn hoắt của chúng cũng sơn màu đỏ choét. Hôm ấy trời giá lạnh. Thỉnh thoảng gió lại rập rờn len lách qua những làn ánh sáng mặt trời mỏng manh. Ánh nắng yếu ớt xuyên qua các hàng cây làm cho những bậc thềm đá trông như có rải một lớp tro mịn. Trông như là tro bẩn vì ánh sáng mờ nhạt quá. Tôi chạy thẳng một hơi ngược lên các bậc thềm đá, và khi tới cái tiền đình rộng rãi trước Kiến Huân thần xã thì người tôi ướt đẫm mồ hôi. Ngay trước mắt tôi là một hàng thềm đá nữa dẫn thẳng tới Bái điện. Mái ngói bằng phẳng chạy dài xuống phía các bậc thềm. Hai bên lối đi dẫn tới ngôi đền có những cây thông nho nhỏ uốn éo vươn mình dưới bầu trời mùa đông. Xã vụ sở với vách gỗ mầu đã cũ thì ở bên phải và trên cửa có treo một tấm biển ghi những chữ: “Sở Nghiên Cứu Vận Mệnh”. Giữa Xã vụ sở và Bái điện là căn Thổ tàng màu trắng. Phía ngoài có mấy cây sam cành lá lưa thưa, nhô lên dưới những đám mây trắng đục, giá lạnh đang lửng lơ, rải rác trên đầu tôi chứa đầy một thứ ánh sáng tang tóc. Từ đấy người ta có thể nhìn thấy những ngọn núi phía tây thành phố Kyoto. Vị thần chủ tể ở Kiến Huân thần xã là Nobunaga (Tín Trường). Ngay con cả của vị thần này là Nobutada (Tín Trung) cũng được thờ ở bên cạnh. Đây là một miếu thờ đơn giản chỉ có hàng lan can màu đỏ chót vây quanh bái điện là làm tăng thêm màu sắc. Tôi trèo lên các bậc thềm và cúi đầu vái lậy. Sau đó tôi nhắc cái ống hình lục giác cũ kỹ đặt trên một cái giá gần ngay hộp đựng tiền cúng tạ. Tôi lắc mạnh cái ống gỗ, một thanh tre vót nhẵn có khắc chữ nhô ra khỏi miệng ống. Trên đó có viết con số “14” bằng mực Tàu. Tôi lui gót quay lại. “Một bốn, một bốn,” tôi lẩm bẩm một mình trong lúc đi xuống các bậc thềm. Âm thanh của các con số dường như đông đặc lại trên lưỡi tôi và dần dần có một vài ý vị. Tôi đi đến cổng ngoài của xã vụ sở và đánh tiếng. Một người đàn bà dứng tuổi hiện ra. Hiển nhiên, mụ đang giặt giũ gì đó và đang vội vã chùi tay vào cái khăn quấn trước người. Mặt lạnh lùng như tiền, mụ nhận ở tay tôi số tiền mười yen đã quy định trước. “Số bao nhiêu?” mụ hỏi. “Mười bốn.” “Xin đứng đợi đàng kia.” Tôi ngồi xuống đầu hè và đợi. Tôi chợt nghĩ nếu mà vận mệnh tôi lại được quyết định bởi những bàn tay sần sùi, ướt át của mụ đàn bà này thì thực là vô nghĩa quá chừng. Tuy vậy cũng chẳng sao vì tôi tới thần xã này đúng là để đánh bạc mà tìm kiếm một sự vô nghĩa như thế. Phía bên trên kia cánh cửa kéo bằng giấy, tôi nghe tiếng chuông ở ngăn kéo cổ lỗ kêu leng keng trong lúc rõ ràng là mụ đàn bà đang gắng sức lôi ngăn kéo ra một cách khó khăn. Rồi tôi lại nghe thấy tiếng xé giấy và một lúc sau cánh cửa kéo hé mở. “Đây cậu ơi.” Người đàn bà vừa nói vừa đưa ra một tờ giấy mỏng dính rồi sau đó đóng cửa lại. Ngón tay trỏ ướt át của mụ ta đã để lại một vệt ướt trên một góc tờ giấy. Tôi đọc quẻ thẻ “Số mười bốn - Hung,” quẻ thẻ ghi vậy. “Nhữ hữu thử gian giả loại vi bát thập thần sở diệt. - Nếu còn lẩn quất nơi này, người sẽ bị tám mươi vị thần tiêu diệt. Sau khi đã bị đem dí những hòn đá nung vào người, những mũi tên nhọn cấm sâu vào thịt và nhiều cực hình khác nữa, theo lời dạy của tổ thần, hoàng tử Okuri đã rời bỏ xứ này. Đây là điềm triệu người phải lén lút trốn đi.” Lời giải thích in dưới toàn nói đến những điều bất an và bất như ý trên con đường trước mặt tôi. Những lời giải thích ấy không làm tôi hoảng sợ. Tôi tìm những điều khá ghi ở phía dưới cùng tờ giấy và khoản mục nói về xuất hành. “Xuất hành - Hung. Hết sức tránh đi về hướng Tây Bắc.” Đọc thấy thế rồi, tôi bèn quyết định đi về hướng Tây Bắc. Xe lửa đi Tsuruga rời ga Kyoto lúc bảy giờ kém năm sáng. Ở chùa cứ năm giờ rưỡi sáng là lúc thức dậy ra khỏi giường. Vào sáng mồng mười khi tôi thức dậy và thay ngay quần áo, mặc bộ đồng phục sinh viên không một ai tỏ vẻ nghi ngờ gì hết. Mọi người trong chùa vẫn có thói quen làm ra vể không thèm nhìn đến tôi. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh công việc trong chùa luôn luôn hỗn độn một chút. Người thì bận quét dọn, người thì lo lau chùi, công việc quét dọn lau chùi kéo dài cả tiếng đồng hồ cho tới sáu giờ rưỡi. Tôi ra ngoài và bắt đầu quét tiền đình. Tôi dự định ra đi ngay khỏi chùa không mang theo vật gì hết, như thể tôi đã đột nhiên biến mất một cách thần kỳ. Cái chổi và tôi lướt nhẹ trên lối đi trải đá sỏi tỏa màu trắng nhợt dưới ánh sáng buổi sớm tinh sương. Rồi bất chợt chiếc chổi sẽ rơi xuống, tôi sẽ biến đi và không còn gì sót lại trong ánh bình minh nhạt mờ ngoại trừ những viên sỏi trắng nằm im trên lối đi. Đó, tôi tưởng tượng sự ra đi của mình phải như thế đó! Chính cái lý do này tôi đã không cáo biệt Kim Các Tự. Cần nhất là tôi phải bất chợt bứt mình khỏi toàn cảnh đã vây hãm tôi và - cái toàn cảnh giam hãm này gồm có cả Kim Các Tự. Tôi hướng ngọn chổi dần dần về phía tổng môn. Qua các cành thông tôi còn nhìn thấy những ngôi sao lấp lánh. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực. Bây giờ tôi phải ra đi. Từ ngữ này hình như đang rập rờn bay trong không khí. Dù cho nó có xẩy ra điều gì đi nữa tôi vẫn phải ra đi - ra đi khỏi cái hoàn cảnh, cái quan niệm của tôi về cái đẹp đã từng kìm kẹp tôi bấy lâu, cái nỗi khảm kha bất ngộ, cái tật nói lắp và mọi điều kiện trong cuộc sống của tôi. Cái chổi buột khỏi tay tôi rơi vào bóng tối của làn cỏ giống như một quả chín rụng khỏi cành cây. Tôi len lét bước về phía tổng môn, núp mình sau các thân cây. Khi đãqua khỏi tổng môn rồi, tôi bắt đầu co giò vắt chân lên vai mà chạy. Chuyến xe điện đầu tiên buổi sáng chạy tới gần. Tôi bước lên. Trên xe chỉ vẻn vẹn có mấy người; trong có vẻ là những người lao động. Tôi dầm mình ngay dưới ánh ngọn đèn điện chói chang trong toa xe. Tôi cảm thấy đường như suốt cả đời chưa bao giờ mình đã ngồi vào một chỗ sáng sủa như thế. Tôi ghi nhớ rõ mồn một từng chi tiết của cuộc hành trình. Tôi đã trốn đi và biết rõ mình sẽ tới nơi nào. Tôi quyết định đến một quận mà đã có lần tôi tới thăm trong một cuộc du ngoạn với cả trường khi tôi còn ở trung học. Thế nhưng trong lúc dần dần tiến tới nơi đó, những cảm xúc của tôi về ra đi và giải phóng lại mạnh mẽ đến nỗi tôi cảm thấy như thể đang tiến về một nơi chưa bao giờ biết tới. Tôi đang đi trên toa tầu chạy trên con đường quen thuộc từng dẫn tôi về cố quận của mình; những dưới mắt tôi, con tầu cũ kỹ đen mầu bồ hóng này chưa bao giờ lại có vẻ xa lạ như lúc này và cũng chưa bao giờ có những màu tươi mát đến như thế. Nhà ga, tiếng loa phóng thanh rè rè vang âm trong không khí bình minh, tất cả lặp lại cùng một tình cảm duy nhất, gia tăng cường độ tình cảm ấy và phát tỏa ra trước mắt tôi một triển vọng hết sức trữ tình. Ánh sáng ban mai cắt sân ga rộng lớn thành nhiều khu. Tiếng giầy dép chạy lẹp kẹp trên sân ga, tiếng chuông nhà ga dai dẳng đều đều, tiếc guốc gỗ khua lép kép, màu sắc một quả cam mật mà một người bàn hàng ở sân ga nhặt trong thúng giơ lên - tất cả hiện ra đối với tôi như là một ám thị hoặc điềm báo của một sự vật to lớn mà từ đây tôi đã đem trao phó hết cả thân mình. Từng mảnh nhà ga đơn độc, dù nhỏ bé đến thế nào, cũng đều tập trung vào cái tình cảm nổi bật của tôi về sự biệt ly và xuất phát. Sân ga bắt đầu lui lại phía sau tôi với một dáng vẻ rất chững chạc. Tôi cảm thấy rõ ràng như vậy. Đúng thế, tôi cảm thấy cái mặt phẳng xi măng cốt sắt không có chút tình cảm đã được rọi sáng ra sao bởi cái vật đang chuyển động, xa rời và ra đi. Tôi ngả lưng vào thành tầu. Đây thực là một lối nói buồn cười; tuy nhiên, không có một lối nói nào khác để bảo chứng cho cái ý nghĩ mơ hồ và vị trí của tôi đang dần dần xa cách và di chuyển khỏi nhà ga xe lửa Kyoto. Đã bao đêm rồi, trong khi nằm trong Lộc Uyển tự, tôi đã từng nghe thấy tiếng còi những chuyến tầu chở hàng hóa rúc lên khi chạy qua gần vườn hoa trong chùa và tôi không khỏi lấy làm lạ là chính mình lúc này lại đang ngồi một trong những con tầu ấy ngày đêm cứ vun vút lao mình về phía không biết mỏi mệt. Bây giờ chúng tôi đang đi mau men theo gần dòng sông Hozu mà trước đây lâu lắm tôi đã nhìn thấy khi đi trên con tầu này cùng với ông bố bệnh tật ốm đau. Miền đất nằm giữa nơi này và Sonobe về phía tây dẫy núi Atago và dẫy núi Arashi có một khí hậu hoàn toàn khác hẳn thành phố Kyoto. Có thể đó là do ảnh hưởng của các luồng không khí. Trong ba tháng mười, mười một và chạp cứ vào khoảng mười một giờ đêm luôn luôn có một lớp sương mù từ mặt sông Hozu dâng lên bao phủ khắp địa phương cho đến khoảng mười giờ sáng hôm sau. Thật hiếm khi lại thấy một khoảng trống trong lớp sương mù ấy khi nó từ mặt đất dâng lên rồi bồng bềnh trôi về phía xa. Cái mảnh ruộng vườn trải rộng mờ mờ ở hai bên con tầu, và những thửa ruộng đã gặt hái rồi và bây giừ đang khoác một màu xanh thẫm. Một vài gốc cây rải rác, to nhỏ ngăn cách những thửa ruộng với nhau. Người ta chặt hết những cành lá sà thấp xuống và lấy những tấm chiếu rơm quấn quanh: các thân cây khẳng khiu (trong quận gọi là “chưng lung” hay nồi nấu hơi) để khi các thân cây lần lượt nhô ra khỏi sương mù chúng sẽ trông giống như hồn ma của những thân cây. Có lần một cây liễu to lớn hiện ra hết sức rõ rệt ngay sát cửa sổ con tầu. Ở dưới là cánh đồng lúa màu tro hầu như không nhìn thấy rõ; những cành liễu ướt át, buông nặng rủ xuống một cách buồn thảm và toàn thân cây liễu nhẹ nhàng đu đưa trong làn sương mù. Lúc mới ra khỏi Kyoto thì lòng tôi thật là vui thích, đến lúc này đang bị những truy ức về những người đã chết đè nặng. Khi tôi nhớ lại Uiko, ba tôi và Tsurukawa thì một niềm thương yêu trìu mến khó tàn hai dâng lên trong lòng tôi và tôi tự hỏi phải chăng trên đời này tôi chỉ có thể thương yêu những người đã chết mà thôi. Dù sao đi nữa, đem so với những người còn sống, những con người đã chết mới thực dễ yêu làm sao. Toa xe lửa hạng ba không đông người lắm, người ta ngồi đó - những con người sống mà mình thực khó lòng thương yêu nổi - đang bận hút thuốc lá hoặc bóc vỏ cam mật mà ăn. Bên cạnh tôi là một người viên chức già chắc là làm việc ở một công đoàn nào đó. Ông ta đang nói tiếng oang oang với một người đàn ông khác. Cả hai đều mặc những bộ quần áo cũ kỹ, nhầu nát mà tôi nhìn thấy cả phần vải rách mướp, vằn sọc lòi ra khỏi ống tay áo mỗi người. Một lần nữa tôi lại thấy rõ rệt là khi người ta trở nên già nua, vẻ tầm thường chẳng hề giảm bớt chút nào. Những bộ mặt xạm nắng, nhăn nheo con nhà bách tính ấy, những giọng nói khàn khàn vì hơi rượu ấy có thể nói đã tiêu biểu cho tinh hoa của một loại tầm thường nào đó. Họ đang bàn bạc xem phải tìm đến những ai để xin gia công đóng góp cho công đoàn của họ. Một ông lão hói đầu ngồi đó, nét mặt điềm nhiên. Ông lão không góp lấy một lời nào vào một câu truyện mà chỉ lấy cái khăn mặt bông lau đi lau lại hai bàn tay khiến cho ban đầu chiếc khăn trắng toát song bây giờ vì lau mãi nên đã hóa ra thành màu vàng khè. “Nhìn hai bàn tay đen xì của tôi này!” ông lão khẽ nói. “Khói than làm bẩn hết cả rồi vì tôi ngồi ở đây. Thật khó chịu quá chừng!” “Có lần cụ viết thơ cho báo phàn nàn về truyện khói tầu có phải không, thưa cụ?” Một người đàn ông khác, lúc này đã bắt đầu góp chuyện lên tiếng. “Dạ, thưa không,” ông lão hói đầu nói, “Nhưng thật nó làm mình khó chịu quá đi - cái khói tàu này này!” Tuy không lắng tai nghe, song tôi vẫn phải nghe những lời chuyện trò của họ. nghe thấy trong câu truyện, những người này cứ nhắc đi nhắc lại mãi đến Kim Các Tự và Ngân Các Tự. Họ đều đồng ý với nhau là phải đòi hỏi cho kỳ được sự đóng góp cụ thể của hai ngôi chùa này. Tiền thu vào cửa của Ngân Các Tự chỉ bằng nửa ở Kim Các Tự, vậy mà cũng đã là một món tiền khá lớn rồi. Một người đưa ra tỉ dụ là hàng năm Kim Các Tự thu vào có lẽ tới hơn năm triệu yen. Chi phí thực sự cho ngôi chùa Thiền tông, kể cả tiền điện nước, cũng không thể vượt quá hai mươi vạn yen trong một năm. Vậy thử hỏi số tiền thừa trữ lại để làm gì? Thật là dễ hiểu quá mà. Hòa thượng trụ trì đã bắt các chú tiểu của mình ăn cơm nguội trong khi mỗi đêm ông đem tiền cho gái ở xóm Kỳ Viên. Hơn nữa, chùa chiền lại được miễn thuế. Thật là như thể chùa chiền ở xứ này đã được hưởng trị ngoại pháp quyền vậy. Mình phải đốc thúc cho thật dữ dội để yêu cầu những ngôi chùa ấy đóng góp mới được!” Câu truyện họ nói cứ thế mà tiếp diễn. Khi họ ngừng, ông lão đầu hói, vẫn lấy cái khăn mặt bông lau chùi tay mình, lúc đó mới cất tiếng: “Chà, khó chịu quá đi thôi!”. Lời ông đã kết luận thay cho mọi người. Bấy giờ tay ông không còn một vệt than đen nào nữa; hai bàn tay ấy đã được lau chùi, đánh bóng và toát ra cái ánh bóng lộn giống như một đồ gỗ chạm trổ đẹp mắt. Những bàn tay đã làm sẵn của ông lão thực giống như một đôi găng tay hơn bất kỳ một cái gì khác. Nghe có vẻ lạ, nhưng đây thực là lần đầu tiên tôi có dịp được nghe những lời phê bình của thế gian. Sống trong Kim Các Tự, chúng tôi thẩy đều thuộc về thế giới tăng lữ, và ngay trường đại học cũng nằm trong thế giới ấy. Chưa bao giờ chúng tôi trao đổi với nhau những lời phê bình liên quan đến ngôi chùa cả. Vậy mà câu truyện giữa những người viên chức già nua này chẳng hề làm tôi ngạc nhiên chút nào hết. Những điều họ nói với nhau đối với tôi chỉ là sự thực rành rành. Chúng tôi thì phải ăn cơm nguội. Hòa thượng thì đi chơi ở xóm Kỳ Viên. Sự thực rành rành ra đấy. Nhưng điều làm cho tôi tức tối không sao chịu nổi ấy là chính bản thân tôi đã phải được hiểu bằng cái phương pháp hiểu biết mà những viên chức già này vừa mới phơi bầy ra. Nếu tôi đã được người ta hiểu bằng những lời nói của thiên hạ thì thật là không chịu nổi. Vì lẽ những lời nói của tôi thì khác hẳn. Xin nhớ cho rằng ngay cả khi nhìn thấy Lão sư phụ đi chơi với cô danh kỹ xóm Kỳ viên ấy tôi cũng chẳng hề vì đạo đức mà có ý ghét bỏ ông lấy một mảy may. Vì những lý do này cuộc nói chuyện của mấy ông viên chức già đã bay ra khỏi tâm trí tôi, chỉ còn rơi rớt lại một sự ghét bỏ mơ hồ và một mùi vị tầm thường khó tan biến. Tôi không có ý định cầu mong thiên hạ ủng hộ những tư tưởng của chính mình. Mà tôi cũng chẳng có ý định tạo nên một khuôn khổ cho những tư tưởng của mình để cho thế gian có thể hiểu được dễ dàng hơn. Như tôi đã nói nhiều lần, việc không được người khác hiểu thấu chính là lý do tồn tại của tôi. Đột nhiên cánh cửa toa tầu mở ra và một người bán hàng xuất hiện, trước ngực đeo lủng lẳng một cái rỗ lớn. Anh ta rao hàng bằng một giọng khàn khàn. Bất giác tôi thấy bụng rỗng và mua một hộp đồ ăn trưa. Bữa ăn gồm có miến màu lục trong đó hải thảo hiển nhiên đã được dùng thay cho bột gạo. Sương mù đã tan, nhưng bầu trời vẫn chưa sáng. Ở phía chân ngọn núi Tamba, tôi nhìn thấy những cây dâu tằm mọc lên trên mặt đất khô cằn và những căn nhà trong đó người ta đang làm giấy viết. Vịnh Maizuru. Cái tên này đã làm cho lòng tôi xốn xang, cảm động y như trong quá khứ vậy. Kể từ thời niên thiếu trong thôn Shiraku gần đó, “Maizuru” đã trở nên một thứ tên gọi chung để nói đến vùng biển mà mình không nhìn thấy và về sau từ ngữ này dùng tiêu biểu cho một dự cảm về biển cả. Cái vùng biển vô hình ấy không thể nhìn thấy rõ rệt từ đỉnh núi Thanh Diệp, nhô lên đằng sau thôn Shiraku. Tôi đã hai lần trèo lên đỉnh núi ấy. Vào lần thứ hai chẳng ngờ tôi đã nhìn thấy một hạm đội liên hiệp đang hạ neo tại quân cảng Maizuru. Những chiếc tàu chiến đang cắm neo trong vịnh nước óng ánh ấy rất có thể nằm trong một thế phân phối bí mật nào đó. Tất cả mọi thứ xung quanh hạm độ này đều chìm trong một màn cơ mật khiến mình không khỏi nghi ngờ tự hỏi là liệu hạm đội ấy có thực sự tồn tại hay không. Kết quả là nhìn xa hạm đội liên hiệp này trông giống như một đàn chim biển uy nghi màu đen mà người ta đã biết tên trong ảnh mà thôi. Chúng có vẻ dường như đang vui thích với cuộc tắm gội bí mật trong vịnh này, dưới con mắt canh chừng che chở của một con chim già lão oai nghi và hình như hớn hở vui đùa mà không biết rằng đang có người nhìn ngắm. Tiếng người soát vé kéo tôi trở về thực tại khi ông ta bước vào toa xe và báo cho biết chuyến tàu sắp đến ga Tây Maizuru. Trong đám hành khách bây giờ không không còn một người nào thuộc đám thủy binh ấy trước đây đã vội vã khoác quân trang sắp sửa xuống tầu. Tất cả đều đã thay đổi. Nơi này đã biến thành một hải cảng ngoại quốc. Các bảng tên đường phố bằng tiếng Anh ngạo mạn xuất hiện ở những ngã tư và quân đội Mỹ đi lại đông như kiến. Dưới bầu trời đầy mây đầu mùa đông như một làn gió lạnh đượm mùi muối biển thổi hắt xuống con đường trước kia đã được thiết bị đặc biệt để cho quân đội sử dụng. Làn gió có mùi vị của chất vô cơ, có mùi sắt hoen rỉ hơn là mùi hương của một làn gió biển. Giải nước biển nhỏ hẹp, tựa như một kênh đào, chạy sâu vào trung tâm thành phố; mặt nước phẳng lặng như chết, một chiếc tiểu hạm đĩnh Hoa Kỳ đang nằm hạ neo sát ngay bờ biển - tất cả đều phảng phất một hương vị hòa bình, thật thế, nhưng một chính sách vệ sinh thái quá đã cướp mất của quân cảng này cái sức sống nhục thể hổn độn xưa kia của nó và làm cho toàn thể thành phố trông giống như một thứ bệnh viện. Tôi không hề nghĩ là mình sẽ gặp mặt biển ở đây trong một thân tình nào hết, nhưng dĩ nhiên là rất có thể một chiếc xe Jeep nào đó từ đằng sau chạy tới và hất tôi lăn tòm xuống biển để đùa chơi. Khi nghĩ về điều này vào giây phút này, tôi mới nhận ra rằng cái xung động đã hối thúc tôi ra đi đã chứa đựng một thân tình với biển cả; tuy nhiên, đó không phải là chỗ biển có hải cảng nhân tạo giống như ở Maizuru, nhưng mà là một chỗ biển dữ dằn dậy sóng vẫn còn duy trì sinh lực hoang dại ban đầu, giống như vùng biển mà tôi đã được tiếp xúc trong thời niên thiếu tại quê cũ ở mũi Nariu. Đúng thế, đó là vùng biển sóng cồn, giận dữ luôn luôn phẫn nộ điên cuồng mà người ta vẫn thấy dọc theo bờ Nhật Bản hải. Do đó, tôi quyết định đi về phía Yura. Về mùa hè, bãi biển này đông nghịt những người đi tắm biển, nhưng vào mùa này thì vắng teo chẳng có ma nào trừ mặt biển cùng mặt đất đang dùng sức mạnh tối tăm mà vật lộn với nhau. Từ Tây Maizuru đến Yura phải đi mắt chừng mười cây số. Chân tôi hãy con mang máng nhờ đường đi. Con đường men theo vùng bể thấp ở phía Tây Maizuru băng qua đường xe lửa Miyazu theo góc thước thợ, vượt qua đèo Takajiri và đổ tới sông Yura. Rồi thì, sau khi đã qua cầu Okawa, nó chạy theo sông Yura tiến về hướng bắc dọc theo bờ sông phía Tây. Từ chỗ này trở đi, nó chỉ việc chạy theo dòng sông mà ra tới cửa biển. Tôi rời thành phố và bắt đầu đi dọc theo con đường. Trong lúc bước đi, chân cẳng tôi mỏi như và tôi tự hỏi: “Mình sẽ tìm thấy gì ở Yura? Mình hy vọng tìm được một minh chứng nào mà mình đã phải khổ công đến như thế này? Hẳn rằng ở đó chẳng có gì hết chỉ trừ một vùng biển Nhật Bản và một bãi biển vắng tanh?” Tuy nhiên, chân cẳng tôi lại không muốn chậm bước. Tôi đang cố gắng đi tới một nơi bất cứ là một nơi nào cũng được. Địa danh cái nơi tôi đang cắm đầu đi tới chẳng hề có một ý nghĩa gì hết. Tôi cảm thấy trong lòng nẩy sinh một niềm hăng hái - một thứ hăng hái hầu như vô đạo đức - để đối đầu với nơi mình đi tới bất kể là nơi nào. Thỉnh thoảng ánh nắng dịu dàng lại rực lên và chiếu qua cái ngọn cây cử to lớn bên vệ đường một cách mời mọc. Tuy nhiên, không biết vì lý do nào đó, tôi cảm thấy không thể trùng trình chậm trễ được. Tôi không có thì giờ để nghỉ ngơi nữa. Thay vì thấy phong cảnh một mặt dốc thoai thoải dẫn xuống một lưu vực rộng rãi, đột nhiên tôi lại nhìn thấy dòng sông Yura xuất hiện từ một đường hẹp triền núi. Nước xanh biếc, và tuy mặt sông khá rộng, song dòng nước cứ lững lờ trôi xuôi dưới bầu trời đầy mây và trông như thể nó đang miễn cưỡng bò ra ngoài biển. Khi tôi tới bờ sông phía Tây thì trên đường chẳng còn một chiếc xe hơi hoặc một khách bộ hành nào nữa. Chốc chốc tôi lại nhìn thấy một vườn cam mật gần bên vệ đường, nhưng chẳng thấy một bóng người nào cả. Khi qua một ngôi làng nhỏ bé tên là Kazue, tôi nghe tiếng rẽ cỏ sột soạt. Đó là một con chó và chỉ có mặt nó là nhô ra khỏi đám cỏ. Râu nó đen nhánh. Tôi biết vùng này sở dĩ được nổi tiếng (theo lời đồn không đáng tin cậy cho lắm) vì là nơi cư ngụ của một thổ hào ngày xưa tên Sansho Dayu; tuy nhiên, tôi không có ý định dừng chân lại ở chỗ này và tôi cứ đi qua mà chẳng buồn để ý nữa. Vì lẽ tôi đang mãi mê nhìn dòng sông. Giữa sông đang có một cồn đất lớn có hàng tre bao bọc xung quanh. Tuy trên mặt đường chẳng có tí gió nào, song hàng tre trên cồn đất đang nghiêng ngã trước gió. Cồn đất có bốn năm mẫu ruộng tưới bằng nước mưa; Tuy vậy tôi chẳng nhìn thấy một nông phu nào cả. Người duy nhất tôi nhìn thấy là một người đàn ông đứng quay lưng về phía tôi, tay cầm cần câu. Đã lâu lắm rồi tôi chưa nhìn thấy một bóng người nào nên tôi cảm thấy thân thiện với người này liền. Dường như ông ta đang câu cá đối. Tôi nghĩ bụng như vậy là tôi chưa xa cửa sông được bao nhiêu. Thế rồi tiếng bụi tre cọt kẹt, ngả nghiêng vì gió, đã làm chìm cả tiếng dòng sông. Có cái gì giống như một làn sương mù đang dâng lên trên cồn đất: chắc là mưa đang bắt đầu rơi. Hạt mưa đang tẩm ướt bờ sông khô nứt trên cồn đất; và trước khi tôi nhận ra thì cơn mưa đã đổ ào ào trên đầu tôi. Trong lúc đang ngắm cồn đất và dần dần bị ướt hết người, tôi nhận thấy bây giờ ở bên đó không có dấu vết gì của cơn mưa cả. Người đàn ông đang đứng chẳng hề nhúc nhích tí nào kể từ lúc tôi thoạt nhìn thấy ông ta đến giờ. Chẳng mấy chốc cơn mưa cũng tạt qua khỏi chỗ tôi đang đứng. Cứ mỗi lúc rẽ trên một khúc đường tôi lại chỉ nhìn thấy toàn là những cỏ dại và cây thu thảo. Nhưng liền sau đó khi đã tới gần, tôi thấy cửa sông hiện ra ngay trước mặt tôi. Vì lẽ một luồng gió biển hết sức mạnh đã tạt mạnh vào mũi tôi. Càng gần đến khúc cuối dòng sông Yura càng có lắm cồn đất quạnh hiu. Nước sông đang đổ ra cửa biển nên đã bị nước mặn lấn át: tuy nhiên, riêng mặt sông thì càng ngày lại càng êm lặng hơn và không cho thấy một điềm báo trước nào về những gì sắp xảy ra cả - thật giống hệt một người vừa bị ngất xỉu và rồi nhắm mắt lìa đời mà không lúc nào tỉnh lại. Cửa sông hẹp lạ lùng. Mặt biển pha trộn mịt mờ với những đám mây đen chồng chất trên cao, chen lộn và lấn át cả dòng sông. Muốn nhìn thấy rõ mặt biển hơn, tôi phải đi bộ một quảng đường khá xa nữa trong khi gió từ đồng ruộng ào ào thổi về phái tôi. Gió đang hất mạnh trên khắp mặt biển mênh mông. Chính vì mặt biển mà trận gió đã lãng phí sức lực trên những thửa ruộng vắng người này. Và biển này là một vùng biển đầy hơi nước đã bao phủ cả miền đất lạnh lẽo lộng gió này. Một vùng biển hách dịch có sức chi phối mãnh liệt. Ra khỏi cửa sông những đợt sóng đè lên nhau, hết đợt này đến đợt khác và để lộ dần dần cả cái mặt biển xám ngắt mênh mông. Một hòn đảo trông giống như một cái mũ dạ nổi bồng bềnh trên dòng sông. Đó là đảo Kammuri được dùng làm đất nương thân cho một loài chim hiếm được giữ gìn làm vật kỷ niệm của thiên nhiên gọi là omizunagi. Tôi quyết định bước vào một thửa ruộng. Tôi nhìn xung quanh. Đây là một mảnh đất hoang lạnh. Vào lúc ấy trong óc tôi lóe lên một ý nghĩ mơ hồ. Nhưng tôi chưa kịp ý thức được thì nó đã biến mất và tôi cũng không nắm được ý nghĩa nữa. Tôi đứng đó một lúc, nhưng ngọn gió lạnh buốc thốc vào người tôi đã đánh tan hết mọi ý tưởng trong tôi. Tôi bắt đầu đi trong gió. Những thửa ruộng khô cằn cứng như đá tạo thành một miền đất hoang vu. Màu cỏ vàng úa; màu xanh duy nhất không úa vàng ấy là màu của những cây cỏ trông giống như rêu bám chặt vào mặt đất, và cả những cây cỏ này nữa cũng có một vẻ quắt queo, rập nát. Đất đã trộn lẫn với cát mất rồi. Tôi nghe thấy một âm thanh đục cùn run rẩy. Rồi tôi nghe thấy tiếng người. Chính vào lúc này quay lưng lại luồng gió dữ dội và ngước mắt nhìn đỉnh Yuragateke ở sau lưng mà tôi nghe thấy tiếng này. Tôi nhìn xem có ai quanh đó hay không. một con đường nhỏ men theo các bờ đá thấy chạy xuống biển. Tôi biết người ta đang dần dần làm những công sự để che chở cho những vách đá ấy chống lại sức xâm thực. Những cột xi măng dựng lên khắp đó đây trông giống như những bộ xương người trắng hếu và có một cái gì vô cùng tươi mát quanh những cây cột xi măng mới cắm xuống đất ấy. Tiếng động run rẩy đục cùn phát ra từ cái máy trộn xi măng. Lắc nghiền cho xi măng rơi xuống cái khuôn. Một nhóm công nhân mặt mũi đỏ gay nhìn tôi một cách tò mò khi tôi đi qua trong bộ đồng phục sinh viên. Tôi liếc mắt nhìn về phía họ. Ấy, chúng tôi chỉ đưa mắt chào hỏi nhau như vậy mà thôi. Cuồn cuộn theo hình nón, nước biển rút mạnh và mau ra khỏi bải cát. Lúc bước qua bãi cát mang chất đá hoa cương đó về phía bờ nước, tôi thấy lòng mình tràn ngập niềm vui khi nghĩ rõ ràng là tôi đang tiến dần từng bước về phía cái ý nghĩa duy nhứt đã lóe sáng qua đầu óc tôi trong giây lát trước đây. Gió thổi lạnh buốt, và vì tôi không đeo găng nên hai bàn tay hầu như tê cóng nhưng vãn chẳng làm tôi để ý đến mảy may. Đúng, đích thực đây là bờ biển Nhật Bản! Đây là cội nguồn của tất cả mọi bất hạnh, đủ mọi tư tưởng hắc ám của tôi. Đó là mặt biển hoang dại. Sóng cuồn cuộn không ngừng dâng về phía trước thành từng khối lớn ít khi để cho mình có thể nhìn thấy những vực sâu xam xám, bằng phẳng nằm giữa đợt sóng này với đợt sóng kia. Những đám mây đen chồng chất trên mặt biển bao la, và đồng thời vừa cho thấy một dáng vẻ xinh xắn. Vì rằng những đám mây chồng chất nặng nề, mênh mang ấy có một đường viền nhẹ nhàng lạnh lẽo như đường viền chạy quanh cái lông vũ mảnh mai nhất nhưng ở chính giữa nó bao bọc một khoảng trời xanh xám mà mình không chắc là có thực hay không nữa. Phía sau mặt biển xám ngắt như chì dẫy núi tím sẫm nhô lên đằng mũi biển. Tất cả đều thấm đượm mùi dao động và bất động, với một sức mạnh tối tăm luôn luôn chuyển động, với cái cảm giác ngưng kết của khoáng vật. Bất giác tôi nhớ lại điều Kashiwagi nói với tôi vào hôm hai đứa chúng tôi mới gặp lần đầu. Chính vào lúc khi người ta ngồi trên một bãi cỏ cắt tỉa cẩn thậtn vào một buổi chiều Xuân đẹp trời, mơ màng ngắm mặt trời rọi qua lá cây và tạo thành những hoa nắng trên mặt cỏ - chính vào những lúc như thế trong lòng chúng ta đột nhiên trỗi dậy cái ý tàn ác. Bây giờ tôi đang đối đầu với sóng biển và ngọn gió bấc hoang lạnh. Ở đây không có buổi chiều Xuân đẹp đẽ, không có bãi cỏ cắt tỉa gọn gàng. Nhưng cái thiên nhiên hoang lạnh trước mắt tôi nay lại mơn trớn lòng tôi, xoắn xuýt thân mật với cuộc sống của tôi hơn bất cứ một bãi cỏ nào vào một buổi chiều Xuân. Ở đây tôi có thể tự túc. Ở đây tôi không bị bất cứ cái gì uy hiếp hết cả. Có phải cái tưởng niệm lúc này đây xẩy đến trong tôi là một tưởng niệm tàn ngược theo nghĩa của Kashiwagi không? Tôi không rõ, nhưng dù sao đi nữa thì tưởng niệm đột nhiên trỗi dậy trong tôi cũng đã phát lộ cái ý nghĩ của điều khải thị đã từng lóe sáng thoáng qua óc tôi trước đây và chính nó đã làm cho tôi rực sáng từ bên trong. Tôi vẫn chưa cố gắng nghĩ cho sâu, song đã bị cái tưởng niệm ấy nằm trọn như thể bị ánh sáng tràn ngập. Tuy nhiên, tưởng niệm ấy cho đến lúc đó chưa bao giờ có trong tôi, đang bắt đầu lớn mạnh kinh khủng ngay khi mới chào đời. Chẳng những không hề khống chế, chính tôi lại còn bị cuốn tròn trong tưởng niệm ấy. Và đây là cái tưởng niệm đang bao trùm thân tôi: “Ta phải hỏa thiêu Kim Các Tự.” -------------------- Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 21st July 2025 - 08:23 PM |