![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,312 Joined: 10-April 08 Member No.: 12 Country ![]() ![]() |
Kim Các Tự
Nguyên tác: Kinkaku-ji - The Temple of the Golden Pavilion Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch Chương 1 Ngay từ khi tôi còn thơ ấu, Ba vẫn thường kể câu chuyện về Kim Các Tự cho tôi nghe. Tôi ra đời trên một mũi biển hiu quạnh nhô ra ra biển Nhật Bản ở phía đông bắc Maizuru. Tuy nhiên, nguyên quán của Ba không ở đây mà ở Shiraku, miền ngoại ô phía đông thành phố Maizuru. Ba được thúc đẩy gia nhập giáo hội và trở nên tu sĩ trụ trì một ngôi chùa tên một mỏm đất xa xôi. Ba lập gia đình ở nơi này và sinh ra một đứa con trai, ấy chính là tôi vậy. Trong khắp miền lân cận ngôi chùa, trên mỏm đất Nariu, không hề có một trường trung học nào thích hợp cho tôi. Kết cục, tôi phải rời cha mẹ đến ngụ ở nhà chú tôi tại sinh quán của Ba ngày trước; trong thời gian sống ở nơi này, tôi theo trường trung học Đông Maizuru, cuốc bộ đi học cũng như lúc về nhà. Bầu trời nơi quê cũ của Ba rất trong sáng. Nhưng mỗi năm vào tháng mười một và mười hai ngay trong những ngày trên trời dường như không có lấy một cụm mây, mỗi ngày chúng tôi vẫn bị bốn năm trận mưa rào đột ngột đổ ụp xuống đầu. Tôi nghĩ là chính vì miền đất này mà tôi đã có cái tâm tính thực là hay thay đổi. Vào những chiều tháng Năm, sau khi đi học về, tôi thường ngồi trong phòng học trên tầng gác thứ nhì trong căn nhà chú tôi và mơ màng ngắm nhìn những vì ngọn đồi trước mặt. Ánh chiều tà lấp lánh trên các cành lá non bao phủ sườn đồi trông như giữa những cánh đồng người ta đã dựng lên một bức bình phong bằng hoàng kim óng ánh. Mỗi khi trông thấy cái này, tôi lại tưởng tượng đến hình ảnh Kim Các Tự. Mặc dù thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy Kim Các Tự thật sự trong các tấm ảnh và các sách giáo khoa, song hình ảnh chế ngự tâm hồn tôi vẫn là hình ảnh Kim Các Tự theo lời Ba miêu tả. Ba chưa bao giờ kể cho tôi nghe là Kim Các Tự thật sự óng ánh hoàng kim hoặc có một vẻ gì na ná như thế; tuy vậy, theo Ba, trên khắp trái đất này chẳng có gì đẹp đẽ cho bằng Kim Các Tự hết. Vả lại, chính mặt chữ và chính âm ận của từ ngữ đã gán cho Kim Các Tự một vài tính chất hoang đường nào đó in sâu trong tâm khảm tôi. Khi nhìn ánh mặt trời, tôi cảm thấy chắc chắn đó là một ánh hoàng kim do ngôi chùa vô hình rọi đến. Hiệp lộ Yoshizaka, ranh giới giữa huyện Fukui và phủ Kyoto thực sự nằm ở hướng đối nghịch, tôi vẫn quen nhìn thấy Kim Các Tự hiện hình vụt lên bầu trời buổi sớm giữa những ánh triêu dương trong khi mặt trời lên sau những rặng đồi chập chùng ở phía đông. Như thế là Kim Các Tự hiển hiện ở khắp mọi nơi. Chừng nào mà tôi chưa được thực sự để mắt ngắm nhìn, Kim Các Tự vẫn còn giống như bể cả. Vì mặc dù vịnh Maizuru chỉ cách làng Shiraku nơi tôi cư ngụ có ba dặm rưỡi về phía Tây, những ngọn đồi vẫn chặn lấp không cho người ta nhìn thấy nước bể; tuy vậy trong không khí luôn luôn phảng phất một thứ dự cảm về bể cả; một đôi khi gặp thời tiết xấu, từng đàn chim hải âu bay xà xuống những cánh đồng kế cận để tìm chỗ ẩn náu. Tôi vốn yếu đuối và tôi vẫn luôn luôn bị những thằng bạn khác đánh bại trong những cuộc chạy đua hay là đánh thiết bổng. Ngoài ra, ngay từ khi lọt lòng tôi đã mắc tật nói lắp và cái tật này lại càng làm cho tôi có khuynh hướng khép kín không ưa giao tế hơn. Và ai nấy đều biết tôi là con một thầy tu ở chùa. Một vài thằng bé tai ác vẫn thường chế nhạo tôi bằng cách bắt chước một tu sĩ nói lắp trong khi ông ta đang khó nhọc mà lắp bắp từng câu kinh. Trong một quyển sách của chúng tôi có một câu truyện trong đó xuất hiện một nhà trinh thám nói lắp và mấy thằng kia thường đặc biệt cao giọng đọc những đoạn đó cho tôi nghe. Chẳng cần phải nói là tật nói lắp của tôi đã dựng một chướng ngại vật giữa tôi và ngoại giới. Tôi vẫn thường vấp váp khi phát ra âm thanh đầu tiên. Cái âm thanh đầu tiên này giống như một cái chìa khóa của cánh cửa ngăn cách thế giới nội tâm của tôi và thế giới và thế giới ngoại tại, và tôi chưa bao giờ được thấy cái chìa khóa này xoay vặn trơn tru trong ổ khóa. Phần lớn người đời nhờ tài nói năng trôi chẩy có thể giữ cho cánh cửa giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài luôn mở rộng để cho không khí tự do qua lại giữa hai thế giới này, nhưng với tôi thì điều đó hoàn toàn không thể có được. Trên chìa khóa đã có một lớp rỉ sắt dầy đặc mất rồi. Khi một kẻ nói lắp vật lộn một cách tuyệt vọng để thốt ra được âm thanh đầu tiên, hắn ta thực giống như một con chim bé nhỏ đang cố gắng gỡ mình ra khỏi một vũng bùn dầy đặc. Cuối cùng khi nó xoay xỏa để tự giải thoát thì đã quá muộn mất rồi. Tất nhiên là có những lúc mà thực tế của thế giới bên ngoài dường như đã chờ đợi tôi, khoanh tay nơi nó đứng trong khi tôi đang cố gắng vật lộn để tự giải thoát. Nhưng cái thực tại đang đợi chờ tôi không phải là một thực tại tốt tươi. Khi mà cuối cùng sau biết bao cố gắng mới tới được thế giới bên ngoài tôi chỉ còn thấy một thực tại vừa mới tức thời thay đổi màu sắc và vượt ra ngoài tiêu điểm - một thực tại đã mất hết các màu sắc mới mẻ mà tôi coi là thích hợp với chính mình, và đến lúc đó đã bốc ra một mùi hôi hôi ung ủng. Như ai nấy có thể tưởng tượng dễ dàng, một thiếu niên như tôi sẽ đi tới chỗ ôm ấp hai hình thức tương phản về ước vọng quyền lực ý chí. Trong sử học, tôi thích thú những đoạn kể lại truyện cá bạo quân. Tôi tự thấy mình như là một bạo chúa lầm lì nói lắp: những kẻ thị tòng của tôi sẽ dán mắt theo dõi từng sắc diện của tôi và sẽ sống cả ngày lẫn đêm trong hãi hùng run rẩy kinh sợ tôi. Không cần phải biện minh cho sự tàn ngược của tôi bằng những lời nói rõ ràng trơn tru. Chỉ riêng sự lầm lì ít nói của tôi cũng thừa đủ để biện minh tất cả mọi cung cách tàn ngược. Một mặt tôi thường thích thú tưởng tượng xem mình sẽ lần lượt trừng trị từng người một, gieo rắc hình phạt lên đầu các giáo sư và các bạn học vẫn hằng đày đọa tôi mỗi ngày làm sao, một mặt tôi lại tưởng tượng ra mình là một đại nghệ sĩ được trời phú cho một thị lực quang minh tột độ - một vị vương giả chân thực của thế giới nội tại. Dáng vẻ bên ngoài của tôi không ra gì, nhưng chính vì thế mà thế giới nội tại của tôi lại phong phú hơn của bất kỳ một ai khác. Với một thiếu niên phải chịu một cố tật không sao sửa chữa được như tôi, kết cục đi đến chỗ nghĩ rằng mình như là một con người được bí mật lựa chọn, há chẳng phải là một điều tự nhiên hay sao? Tôi cảm thấy như là ở một nơi nào đó trên cõi đời này có một sứ mệnh đang chờ đợi chờ tôi mà cho đến nay tôi vẫn chưa hề hay biết gì cả. Tâm trí tôi vẫn còn ghi nhớ mãi một biến cố suốt từ lúc đó đến nay. Trường trung học Đông Maizuru có những bãi đất rộng rãi chung quanh có những ngọn đồi thực là ngoạn mục và những tòa nhà sáng sủa tân kỳ. Vào một ngày trong tháng năm, một cựu học sinh đã tốt nghiệp ở trường chúng tôi ngày trước bây giờ là sinh viên trong Hải Quân Cơ Khí Học Hiệu tại Maizuru được nghỉ lễ một ngày và trở về thăm lại trường cũ. Anh ta có nước da xạm nắng thật là quyến rũ và cái mũi thực là to lớn mạnh mẽ nhô ra từ dưới cái mũ lưỡi trai mà anh ta kéo sụp xuống tận mắt; từ đầu tới chân anh ta thật là một trang anh hùng hoàn toàn. Bấy giờ anh ta đứng lại kể cho các đàn em nghe cuộc sống khắc khổ trong hiện tại của anh ta với tất cả những quy luật nhà binh khe khắt. Tuy nhiên, mặc dù dụng tâm miêu tả một cuộc đời đầy những gian khổ, anh ta vẫn nói với một giọng như thể là anh ta đang kể cho chúng tôi nghe những truyện về một cuộc đời xa hoa cực độ. Mỗi cử chỉ của anh ta đều đầy vẻ ngạo mạn kiêu căng, nhưng dù còn ít tuổi, anh ta cũng thấy cần phải làm dáng khiêm nhượng. Khung ngực anh ta trong bộ đồng phục có viền hoa ưỡn ra như là khung ngực của một hình người nơi mũi tàu khi con tầu đang rẽ sóng lướt gió trên mặt biển. Anh ta lúc đó đang ngồi trên một bậc đá thoai thoải chạy xuống sân chơi nhà trường. Chung quanh anh ta một nhóm học sinh xúm xít hăm hở lắng nghe từng lời anh ta nói, và trong những thửa vườn trên dốc đồi, những bông hoa tháng Năm đang nở rộ - nào hoa mã lan, hoa thượng uyển đâu, nào hoa dã trượng nhân, hoa sồ bạch cúc; và trên đầu họ rủ buông những nụ hoa mộc lan trắng đang nở tưng bừng. Cả người nói lẫn những người nghe đều bất động như những pho tượng kỷ niệm. Tôi không ngồi riêng một mình trên sân đất cách xa họ một vài thước. Tôi vẫn có cái cung cách như thế. Đó là cung cách của tôi đối với những bông hoa tháng Năm và đối với với bộ đồng phục đầy kiêu hãnh cùng những chuỗi cười trong trẻo vang vang của họ. Lúc này anh chàng hùng trẻ tuổi lại quan tâm đến tôi hơn là đến những kẻ sùng bái anh ta. Chỉ có riêng tôi là không có vẻ cúi mình trước cái oai phong của anh chàng và điều đó làm cho anh chàng thấy lòng tự ái bị xúc phạm. Anh ta hỏi những thằng khác xem tên tôi là gì. “Hầy, Mizoguchi!” Anh ta gọi to; đó là lần thứ nhất anh ta để mắt nhìn tới tôi. Tôi trừng trừng nhìn lại anh ta, không nói lấy một lời. Trong cái nụ cười mà lúc này anh ta hướng về phía tôi, tôi có thể khám phá một cái gì giống như sự hợm hĩnh phỉnh phờ của một người có quyền lực. “Tại sao chú mày không trả lời ta câu nào vậy? Câm đấy ư?” “Tơ… tô… tôi nói lắp,” một trong những thằng ngưỡng mộ anh ta thay tôi mà trả lời và tất cả bọn đều phá ra cười ha hả. Cái tiếng cười chế nhạo này làm tôi lóa mắt làm sao! Đối với tôi, có một cái gì rực rỡ - rực rỡ như ánh sáng phản chiếu từ các chòm lá cây - trong cái tiếng cười vang vang ác độc của lũ bạn học vốn là cái đặc điểm của những thiếu niên cùng lớp tuổi chúng nó. “Sao, chú mày nói lắp ư? Tại sao không vào Hải Quân Cơ Khí Học Hiệu? Họ sẽ dùng roi quất cho chú mày hết hẳn nói lắp chỉ trong một ngày thôi!” Tôi không biết mình xoay xỏa ra sao nhưng tức thời vọt miệng trả lời được một câu rõ ràng. Những lời nói trôi chẩy tuôn ra chẳng hề do ý chí của tôi lấy một mảy may. “Tôi sẽ chẳng vào trường ấy. Tôi sắp trở thành tu sĩ”. Tất cả mọi người đều im lặng. Anh chàng anh hùng trẻ tuổi cúi đầu, nhặt một cọng cỏ và đưa lên miệng. “Vậy thì,” anh ta nói, “một năm nào đó, đến lúc nằm xuống mồ, tôi sẽ cho anh một việc gì đó để mà làm.” Cuộc chiến Thái Bình Dương đã thực sự bùng nổ. Vào lúc này chắc chắn là tôi đã trải qua kinh nghiệm của một sự tự giác nào đó - ý thức rằng tôi sẽ giơ cả hai tay đứng đợi chờ trong một thế giới đen tối. Rằng một ngày nào đó những bông hoa tháng Năm, những bộ đồng phục, những thằng bạn học xấu tính nết của tôi, tất cả sẽ tìm đến những bàn tay giang ra của tôi. Chợt có ý thức là chính tôi đương nắm chặt thế giới, đang ép nó xuống tận dưới đáy… Nhưng một ý thức như vậy thì quá nặng nề để có thể trở nên một nguồn kiêu hãnh cho một thiếu niên như tôi. Niềm kiêu hãnh phải là một cái gì nhẹ nhàng hơn, tươi vui hơn, sáng sủa hơn, rực rỡ hơn. Tôi muốn một cái gì đó có thể thấy được. Tôi muốn niềm kiêu hãnh của mình phải là một cái gì mà tất cả mọi người đều có thể trông thấy được. Chẳng hạn như thanh đoản kiếm mà hắn đeo lủng lẳng ngang lưng đúng là một vật như thế. Cái loại kiếm này mà tất cả học sinh trung học đều trầm trồ ca ngợi ngắm nghía thực là một đồ trang sức đẹp đẽ. Người ta bảo các sinh viên trong Hải Quân Học Viện vẫn thường lén lút dùng các thanh kiếm của mình để vót nhọn bút chì. Tôi nghĩ thực là thanh lịch biết bao khi dùng một biểu tượng trang nghiêm như thế vào những việc tầm thường đại loại như vậy. Chàng thanh niên lúc đó đã cởi bỏ bộ đồng phục Cơ Khí Học Hiệu ra và đem treo lên cái hàng rào sắt sơn mà trắng. Cái quần dài và áo sơ mi trắng treo ngay đó gần sát tất cả những bông hoa - phải, đúng là chúng tỏa ra mùi mồ hôi lấm tấm trên làn da của anh chàng thanh niên ấy. Một con ong lầm lẫn hạ cánh đậu trên cái áo chen hoa trắng tinh chói rạng. Cái mũ lưỡi trai có viền thêu vàng óng nằm trên một phần bờ rào; thực là nghiêm chỉnh y như là trên đầu người đội, kéo sụp xuống tận mắt. Chủ nhân của nó được một thằng đàn em mời ra thử sức và đã đi đến đài đấu vật ở phía sau để tỉ thí một keo. Nhìn vào những đồ vật mà anh ta đã để ra một chỗ, tôi có ấn tượng là đang nhìn một thứ mộ phần danh dự. Những bông hoa xum xuê của tháng Năm càng làm tăng cảm giác này. Cái mũ phản ánh sắc đen huyền của vành lưỡi trai, và thanh kiếm cùng cái thắt lưng da treo ngay bên cạnh, tất cả đều đã tách rời khỏi thân mình anh ta ra một vẻ đặc biệt trữ tình. Chính tự chúng cũng hoàn toàn như là ký ức của tôi về chàng sinh viên ấy - thật vậy, đối với tôi chúng trông giống như những di vật của một trang thanh niên anh hùng sau khi đã lên đường ra trận. Tôi để ý canh chừng chắc chắn là không có ai quanh quẩn gần đó. Tôi nghe tháy tiếng hoan hô từ phía bãi đấu vật vọng lại. Tôi móc từ trong túi quần ra một con dao díp mà tôi vẫn dùng để gọt bút chì; rồi tôi leo lên hàng rào và khắc lên bao kiếm đẹp đẽ màu đen nhiều vết dao nham nhở… Nghe tôi kể truyện như thế thiên hạ có thể vội vàng phán đoán là tôi phải có cơ chất cả một thanh niên thi sĩ. Nhưng cho đến ngày hôm nay, chẳng những tôi chưa hề viết một bài thơ nào mà còn chưa viết ngay cả một đoạn nhật ký trên cuốn sổ tay nữa. Tôi không hề cảm thấy một thôi thúc đặc biệt nào muốn vượt qua người khác bằng cách vun bồi năng lực nào mới để nhờ đó có thể bù đắp lại những điểm mà tôi thua kém hẳn thiên hạ. Nói cách khác, tôi quá ngạo mạn để có thể rở thành một nghệ sĩ. Ước mơ muốn trở thành một bạo quân hay một đại nghệ sĩ của tôi không bao giờ vượt quá giai đoạn của một mộng mơ, và tôi chẳng hề thấy có một mảy may ước muốn thực hiện một cái gì bằng cách thực sự mó tay vào công việc. Vì rằng việc không được người khác hiểu mình đã trở nên nguồn gốc kiêu hãnh duy nhất và thực sự của tôi, nên tôi không bao giờ cảm thấy một xung động muốn biểu hiện các sự vật và làm cho người khác hiểu được một điều gì mà tôi biết rõ. Tôi nghĩ những điều mà kẻ khác có thể nhìn thấy thì không phải những điều được số mệnh dành riêng cho tôi. Sự cô độc của tôi ngày càng béo phì ra giống hệt một con lợn. Đột nhiên tôi hồi tưởng tới một bi kịch xẩy ra trong làng tôi. Mặc dù không ai tưởng tượng là tôi thực sự có một chút liên hệ nào với biến cố này, đến bây giờ tôi vẫn còn không làm sao gạt được cảm giác rõ rệt là mình có tham gia vào biến cố đó. Qua biến cố này đột nhiên tôi thấy mình đối diện với tất cả mọi sự. Với cuộc đời, với thú vui xác thịt, với lường gạt phản trắc, với thù hận và tình yêu - phải, với tất cả những sự có thể có trên đời. Và ký ức của tôi vẫn ưa phủ nhận cái yếu tố sùng cao trong tấ cả những sự vật này. Có một thiếu nữ xinh đẹp sống trong căn nhà cách nhà chú tôi hai căn. Tên nàng là Uiko. Mắt nàng to và trong sáng. Có lẽ gia đình nàng giầu có nên nàng có thái độ kiêu kỳ. Mặc dù thiên hạ có thói quen đề cao cô nàng, người ta không thể tưởng tượng cô nàng nghĩ gì khi chỉ có một mình. Có lẽ Uiko hãy còn là một trinh nữ, nhưng những mụ đàn bà ghen tị vẫn thường nhỏ to tán gẫu với nhau về nàng và bảo rằng này có cái tướng vẻ của một thạch nữ chẳng sinh đẻ gì được. Ngay sau khi tốt nghiệp trường Nữ Trung Học, Uiko trở nên một nữ khán hộ tình nguyện tại Y Viện Hải Quân Maizuru. Y viện gần nhà nên nàng có thể đi làm bằng xe đạp. Nàng phải có mặt ở sở vào sáng sớm tinh sương, nên phải ra đi từ lúc trời còn mờ sáng, khoảng chừng hai giờ trước khi tôi đi học. Một tối, tôi nằm đắm mình trong những tư tưởng mịt mù, nghĩ đến thân hình Uiko. Đêm đó tôi ngủ không yên và khi trời còn tối, tôi lén ra khỏi giường xỏ chân vào đôi giầy tập thể dục va mò ra ngoài bóng tối của một bình minh mùa hạ. Đêm đó chẳng phải là đêm đầu tiên mà tôi tự họa ra cho mình hình ảnh của thân hình Uiko. Có một cái gì thỉnh thoảng len lỏi qua tâm trí tôi dần dần kết hợp vào hình ảnh đó. Thân mình Uiko dường như là một sự kết tụ những ý nghĩ của tôi, chìm đắm trong một bóng tối mịt mù, vừa trắng trẻo mà vừa mềm mại, cuối cùng kết tụ lại thành hình thịt da ngọt ngào hương thơm. Tôi thường hay nghĩ tới sự nồng ấm mà những ngón tay tôi sẽ cảm thấy khi sờ vào làn da thịt này. Tôi cũng nghĩ tới cảm giác mềm mại dẻo dai dưới đầu ngón tay và làn hương thơm có lẽ giống như hương thơm của phấn hoa vậy. Tôi chạy thẳng theo con đường còn tối mịt mù. Những cục đá không làm cho tôi chệch choạng bước chân và màn tối mở rộng trên con đường trước mặt. Tôi tới một nơi mà con đường mở rộng sau khi chờ đợi. Tôi đã chạy hết hơi tới đây, nhưng bây giờ dã nghỉ ngơi dưới bóng cây cử; chính tôi cũng không biết mình định làm gì nữa. Tuy nhiên, tôi đã biết sống cách biệt thế giới bên ngoài quá nhiều và do đó đã ôm ấp ảo tưởng rằng một khi nhẩy vọt ra thế giới bên ngoài, việc gì cũng trở nên dễ dàng, việc gì cũng có thể làm được. Mấy con muỗi xúm nhau lại đốt hai chân tôi. Tôi nghe thấy tiếng gà gáy ở nơi này nơi nọ. Tôi nhìn lên con đường. Tôi thấy ở phía xa một cái gì trăng trắng và mịt mờ. Tôi nghĩ đó là màu sắc bình minh, nhưng thực ra đó là Uiko. Nàng đang đạp xe. Đèn xe bật sáng. Chiếc xe đạp lặng lẽ lướt trên mặt đường. Tôi rời gốc cây cử lao đầu chạy ra đứng ngay trước mũi xe. Chiếc xe nghiêng ngả mãi mới cấp tốc dừng lại được. Và rồi tôi cảm thấy mình hóa đá. Ý chí của tôi, dục vọng của tôi - tất cả đều biến thành đá hết. Thế giới bên ngoài đã mất hết tương quan với thế giới bên trong của tôi, và một lần nữa, lại bao vây lấy tôi và khoác lấy tấm áo hiện hữu tích cực. Cái “Tôi” đã lén lút lẻn khỏi nhà ông chú, đã xỏ chân vào đôi giầy tập thể dục màu trắng và đã chạy theo con đường còn tối mịt mờ cho đến lúc tới cây cử này - cái “Tôi” này chỉ thúc đẩy con người bên trong của mình xả hết tốc lực mà chạy đến đây. Trong những mái nhà trường nét mịt mờ của thôn làng mới nhô khỏi bóng tối của bình minh, trong những lùm cây tối đen, trong những mỏm núi đen xì của rặng Thanh Diệp Sơn, phải, và ngay cả trong Uiko lúc này đang đứng trước mặt tôi, hoàn toàn không có một ý vị nào hết. Có một cái gì đó đã ban cho tất cả những cái này một thực tại to lớn, vô nghĩa, đen ngòm đã được đem cho tôi, đè nén lên tôi với một sức nặng từ xưa đến giờ tôi chưa từng thấy. Như thông lệ, tôi nghĩ chỉ có lời nói là có thể cứu thoát tôi khỏi tình trạng này. Đó là một ngộ nhận đặc biệt của tôi. Khi cần phải hành động, tôi luôn luôn chuyên chú đến ngôn từ, và vì ngôn từ chui ra khỏi miệng tôi một cách khó khăn như thế nên tôi chỉ chuyên tâm nghĩ đến chúng và quên hết mọi hành động. Tôi thấy đường như hành động vốn là những việc chói lòa, rực rỡ, luôn luôn phải có những ngôn từ cũng chói lòa, cũng rực rỡ như thế đi kèm. Tôi chẳng nhìn đến cái gì hết cả. Như tôi nhớ lại, ban đầu Uiko hoảng sợ; nhưng khi thấy rõ là tôi, nàng chỉ chăm chú nhìn vào miệng tôi mà thôi. Tôi phỏng đoán là nàng đang nhìn vào cái lỗ hổng đen sì hư hỏng này, cái lỗ hổng bé nhỏ méo mó này vấy đất bẩn như là cái tổ của một con vật nhỏ bé ngoài ruộng đồng, và bây giờ đang vặn vẹo một cách vô nghĩa trong ánh sáng ban mai - nàng chỉ nhìn đến cái miệng của tôi mà thôi. Và nàng đã đắc ý thấy rằng nàng không hề có một mảy may sức lực nào sắp sửa phát ra từ cái miệng này để móc nối tôi với thế giới bên ngoài, nàng cảm thấy yên lòng. “Trời đất ơi!” Nàng nói. “Thực là một điều kỳ cục quá chừng. Mà anh chỉ là một thằng nói lắp”. Trong giọng nói Uiko có cái vẻ tươi mát của một làn gió nhẹ sớm mai. Nàng bấm chuông xe đạp kêu vang và một lần nữa lại đặt chân lên bàn đạp. Nàng vòng xe quanh tôi, làm như là muốn tránh một tảng đá trên đường đi vậy. Mặc dù chẳng có một ma nào quanh đó, Uiko vẫn nhấn đi nhấn lại cái chuông xe một cách chế giễu và trong khi nàng đạp xe ra xa, tôi còn nghe thấy tiếng chuông xe vọng lại từ những cánh đồng phía xa. Tối hôm đó, và Uiko về mách nhà, mẹ nàng đã sang nhà chú tôi. Chú tôi lúc thường vốn ôn hòa là thế, vậy mà hôm đó cũng mắng tôi như tất nước vuốt mặt không kịp. Tôi nguyền rủa Uiko và rồi cầu mong sao nàng lăn ra mà chết; và một vài tháng sau lời nguyền rủa của tôi biến thành sự thật. Từ đó đến giờ tôi vững tin vào sức mạnh của những lời nguyền rủa. Khi ngủ cũng như khi thức lúc nào tôi cũng cầu mong Uiko chết đi. Tôi ước ao con người đã chứng kiến sự sỉ nhục của tôi phải tiêu tan đi mất. Chỉ khi không còn một nhân chứng nào nữa niềm sĩ nhục của tôi mới có thể tuyệt diệt trên mặt đất này. Những người khác đều là chứng nhân. Nếu không còn một người nào nữa tồn tại thì trên đời này không có sự xấu hổ nào nữa. Điều mà tôi đã nhìn thấy trên nét mặt Uiko, sau cặp mắt nàng long lanh như mặt nước trong ánh sáng mịt mờ của buổi bình minh, thuộc về thế giới của những kẻ khác - nghĩa là thế giới của những kẻ khác, những kẻ không bao giờ để chúng ta yên thân, những kẻ đứng sẵn sàng làm kẻ tiếp tay, kẻ làm chứng cho những tội ác của chúng ta. Cần phải tiêu diệt hết tất cả những người khác. Nếu muốn tôi có thể thực sự đối diện với mặt trời, thì chính cái thế giới này phải được hủy diệt… Hai tháng sau khi về nhà mách lỗi của tôi, Uiko từ bỏ việc làm ở Bệnh Viện Hải Quân và nằm lì ở nhà. Trong xóm người ta thì thào bàn tán đủ mọi thứ truyện. Rồi tới cuối thu xẩy ra biến cố. Chúng tôi chẳng bao giờ có thể nghĩ là một tên đào ngũ khỏi Hải Quân đã đến ẩn náu ở trong thôn làng. Một hôm vào khoảng giữa trưa, một nhân viên hiến binh tới trụ sở hội đồng xã. Tuy nhiên việc một nhân viên hiến binh tới làng không phải là một điều hiếm thấy, vì thế cũng chẳng làm chúng tôi quan tâm gì nhiều. Đó là một ngày trong sáng gần cuối tháng mười. Tôi đã đi học như thường lệ, đã làm xong các bài buổi tối ở nhà và sửa soạn leo lên giường đi ngủ. Khi sắp sửa tắt đèn, tôi đưa mắt nhìn qua cửa sổ và nghe thấy tiếng người chạy rầm rập dọc theo đường xá trong thôn; họ thở hổn ha hổn hển như một bầy chó. Tôi đi xuống cầu thang. Chú thím tôi đã thức dậy và chúng tôi cùng bước ra ngoài. Một trong những thằng bạn học cùng trường với tôi đang đứng trước cổng lớn vào nhà. Nó trợn tròn đôi mắt vì kinh ngạc. “Hiến binh vừa mới bắt Uiko.” Nó réo lên cho chúng tôi nghe. “Họ đã dẫn cô nàng đến đằng kia kìa. Chúng ta hãy tới đó xem đi!” Tôi vội vã xỏ chân vào đôi dép và bắt đầu chạy. Đó là một đêm trăng sáng nên thơ, và đó đây những cánh đồng vừa gặt, những cọng giạ in bóng lồ lộ trên mặt đất. Sau một khóm cây, tôi có thể thấy những bóng người đen xì đang chuyển động. Uiko mặc một cái áo đen đang ngồi bệt ngay trên đất. Khuôn mặt nàng trắng bệch. Đứng xung quanh nàng là bốn năm người hiến binh cùng song thân của nàng. Một người hiến binh đang cầm một cái gì trông giống như một hộp đồ ăn và đang giận dữ quát tháo. Thân phụ nàng quay đầu hết bên này tới bên nọ, lúc thì xin lỗi người hiến binh, lúc thì trách móc con gái mình. Thân mẫu nàng ngồi sụp trên mặt đất và đang khóc thút thít. Chúng tôi đứng chăm chú theo dõi quang cảnh đó từ cuối một thửa ruộng lúa. Số người đứng xem mỗi lúc một gia tăng, và trong đêm họ lặng lẽ đứng sát vào nhau vai người này chạm vai người khác. Trên đầu chúng tôi mặt trăng treo lơ lửng nhỏ bé như là đang teo lại. Thằng bạn học thì thầm vào tai tôi mà giải thích. Dường như là Uiko đã lấy trộm hộp đồ ăn đem ra khỏi nhà và đang đi sang làng bên thì bị nhân viên cảnh bị, đã nằm phục kích từ trước, tóm được. Hiển nhiên là nàng định đem hộp đồ ăn cho người đào ngũ. Uiko đã giao du thân mật với người đào ngũ này trong khi nàng làm việc ở Bệnh Viện Hải Quân. Kết cục nàng có thai và bị sa thải. Người hiến binh lúc này đang cật vấn nàng về chỗ ẩn náu của kẻ đào ngũ, nhưng Uiko chi ngồi trơ ra đó không hề nhúc nhích mảy may và nhất định giữ im lặng một cách ngoan cố. Về phần tôi, tôi chỉ có thể chăm chăm nhìn vào khuôn mặt Uiko, không chớp mắt. Trông nàng giống như một người đàn bà điên vừa bị bắt. Khuôn mặt nàng hoàn toàn bất động dưới ánh trăng. Cho đến lúc đó, chưa bao giờ tôi thấy một khuôn mặt lại tràn đầy dáng vẻ cự tuyệt đến như thế. Tôi nghĩ khuôn mặt tôi là một khuôn mặt đã bị thế giới cự tuyệt, nhưng khuôn mặt Uiko thì đang cự tuyệt thế giới. Ánh trăng chan hòa trên trán nàng, trên mắt nàng, trên má nàng, trên sóng mũi nàng; nhưng trên khuôn mặt bất động của nàng chỉ có ánh trăng tràn ngập. Nếu như nàng chỉ đưa mắt hay chỉ nhếch miệng lấy một chút xíu mà thôi, cái thế giới mà nàng đang nỗ lực cự tuyệt đó sẽ coi là một dấu hiệu để ào ào tràn ngập vào trong con người nàng. Tôi nín thở giương mắt nhìn. Nhìn vào cái khuôn mặt mà lịch sử đã bị đứt đoạn vào đúng điểm này và sẽ không chịu nói lấy một điều nào hoặc tới quá khứ hoặc tới tương lai. Một đôi khi chúng ta nhìn thấy một khuôn mặt như thế trên một khúc cây vừa mới bị đốn xuống. Mặt dù khúc cây bị chặt ngang ngoài mặt hãy còn màu sắc tươi mát, nhưng ở điểm này tất cả mọi sự tăng trưởng đã ngưng hẳn lại; nó bị bất chợt phơi bày ra một thế giới vốn không phải là một thế giới của nó - và ở trên mặt khúc cây bị chặt ngang này. Chúng ta thấy một khuôn mặt lạ lùng do những mắt gỗ đẹp đẽ vẽ nên. Một khuôn mặt chường ra thế giới này chỉ để mà cự tuyệt… Tôi không sao ngăn được cái ý nghĩ là chẳng còn bao giờ, hoặc trong đời Uiko hoặc trong đời chính tôi, người đứng xem, lại có một lúc nào nữa được thấy khuôn mặt nàng xinh đẹp cho bằng lúc này. Nhưng cái đó không kéo dài như là tôi mong đợi. Vì đột nhiên khuôn mặt đẹp đẽ của nàng bị biến dạng. Uiko vụt đứng dậy. Tôi có cảm tưởng là trong lúc đó tôi thấy nàng mỉm miệng cười. Tôi có cảm tưởng là tôi thấy hàm răng trắng bong của nàng lóng lánh dưới ánh trăng. Tôi không thể nói gì hơn về sự biến dạng này, vì khi Uiko đứng lên khuôn mặt nàng chìm dưới bóng cây chứ không ở ngoài ánh trăng sáng nữa. Thực ra đáng tiếc cho tôi không nhìn thấy được sự thay đổi trên khuôn mặt Uiko vào lúc mà nàng quyết định phản bội. Giả như tôi đã thực sự nhìn thấy tất cả mọi chi tiết sự đổi thay trên khuôn mặt nàng thì rất có thể trong con người tôi đã nẩy nở một tinh thần khoan dung tha thứ cho tất cả mọi thứ xấu xa trên đời. Uiko chỉ tay về phía hốc núi Kahara ở làng bên. “A! vậy ra nó ở trong Kim Cương Viện!” Người hiến binh kêu to. Lúc đó tôi thấy trong lòng mình nẩy sinh một niềm thích thú rộn rã thực là trẻ con. Toán hiến binh quyết định chia ra làm nhiều tốp riêng rẽ và bao vây kín cả Kim Cương Viện. Người ta kêu gọi dân làng đến trợ lực. Vì một hứng thú đầy ác ý, tôi gia nhập toán thứ nhất cùng với năm sáu thiếu niên khác. Uiko đi trước toán chúng tôi làm người hướng đạo. Tôi phải ngạc nhiên khi thấy những bước chân vững vàng tin tưởng của nàng trong khi nàng cất bước đằng trước chúng tôi trên con đường sáng trăng, có hiến binh kèm theo hai bên. Kim Cương Viện vốn vẫn lừng danh. Viện được xây trong một hốc núi cách xa thôn làng Yasuoka chừng mười lăm phút đi bộ và được người ta biết đến vì cây cử do Thân vương Takaoka trồng và ngọn tháp ba tầng trang nhã mà người ta vẫn cho là công trình tạo tác của Hidari Jingoro. Vào mùa hè chúng tôi thường đến đó tắm ở thác nước đàng sau dẫy đồi. Bức tường ngôi chánh điện dựng ngay sát bên cạnh dòng sông. Cỏ hoang mọc đầy trên những tảng đất long lở, bông cỏ trắng phau lấp lánh trong đêm. Gần cổng vào chính điện cây sơn trà đang tưng bừng nở hoa. Toán chúng tôi lặng lẽ cất bước dọc theo bờ sông. Ngự đường của Kim Cương Viện nằm ngay trên đầu chúng tôi. Khi bước qua cái hoàn mộc kiều, người ta thấy ngôi tháp ba tầng nằm bên tay phải: rừng cây với la thu đỏ rực trải dài bên tay trái, và ở sâu tít trong các lùm cây là một trăm lẽ năm bậc thềm đá rong rêu phủ đầy nằm cao ngất ngưỡng. Các bậc thềm đều bằng đá vôi và thực là trơn trượt. Trước khi đi ngang qua cái hoàn mộc kiều, những người hiến binh quay nhìn lại phía sau đưa tay ra hiệu cho toán chúng tôi dừng bước. Người ta bảo rằng ngày xưa vẫn có một cái cổng Nhân Vương Môn do hai nhà điêu khắc lừng danh Unkei và Tankei dựng lên ở nơi này. Phía ngoài là những ngọn đồi trên thung lũng Kujuku thuộc về vùng đất Kim Cương Viện. Chúng tôi nín thở. Những người hiến binh thúc giục Uiko tiếp tục tiến bước. Nàng một mình băng qua cây hoàn mộc kiều, và một lúc sau chúng tôi đi theo nàng. Phần dưới các bậc thềm đá vẫn đắm chìm trong bóng tối những phần trên lại chan hòa ánh trăng. Chúng tôi ẩn mình đó đây phía dưới các bậc thềm. Lá cây bắt đầu nhuốm màu hung hung đỏ vào mùa thu, nhưng dưới ánh trăng trông lại như ngã sang màu đen. Căn chính điện của Kim Cương Viện ở phía trên các bậc thềm đá. Một độ điện chạy xiên từ đó tới một không ngự đường có lẽ như để trình diễn các điệu vũ thần nhạc. Căn không ngự đường này đã được xây dựng theo kiểu mẫu vũ đài Thanh Thủy, vươn ra ngoài không trung và có những cây cột gỗ bắc dọc bắc ngang nâng đỡ cho tựa vào vách núi. Cả căn ngự đường, độ điện lẫn tổ hợp kèo cột bằng gỗ đều phơi mình cho mưa gió dập vùi, đều bóng lộn trong sạch trắng tinh như một bộ xương. Khi mà lá cây nhuốm sắc thu đỏ rực, màu đỏ của lá cây pha trộn thực là đẹp mắt vơi màu trắng của tòa kiến trúc trắng toát như bộ xương này; nhưng về đêm cái khung gỗ nhuốm trắng loang lỗ ánh trăng trông lại có vẻ huyền bí và ma quái. Đường như kẻ đào ngũ đang ẩn núp trong căn ngự đường bên trên vũ đài. Những người hiến binh muốn dùng Uiko làm mồi nhử để bắt hắn. Là những nhân chứng của sự bắt bớ sắp xảy ra trước mặt, chúng tôi núp mình và nín thở. Mặc dù khí đêm lạnh đến cuối tháng mười đang bao phủ thân mình, tôi vẫn thấy hai má nóng bừng. Uiko một mình leo lên một trăm lẻ năm bậc thềm đá vôi. Kiêu hãnh như một mụ đàn bà điên khùng. Nét mặt nàng nhìn nghiêng trắng trẻo đẹp đẽ nổi bật lên giữa tấm áo đen và mái tóc huyền. Giữa những vì sao, giữa những áng mây êm, giữa những núi đồi viền lấy bầu trời với nhiều hình bóng tráng lệ của các chòm cây tùng bách nhọt hoắt, giữa những đốm trăng lọt qua lá cành, giữa những tòa kiến trúc sừng sững long lanh trắng toát - giữa tất cả những cái đó, vẻ đẹp tươi sáng trong sự phản trắc do Uiko làm tôi say mê. Người con gái này một mình bước lên những bậc thềm đá trắng tinh, kiêu hãnh ưỡn ngực ra đằng trước. Sự phản trắc của nàng cũng giống như sự phản trắc của các vì sao và những chòm tùng bách nhọn hoắt. Nói cách khác, nàng đương ở trong cùng một thế giới với chúng tôi, những nhân chứng, và nàng đương chấp nhận cái thiên nhiên đang vây quanh tất cả chúng tôi. Nàng đương bước lên những bậc thêm ấy, như là đại biểu của chúng tôi. Và tôi không sao ngăn được mình nghẹn thở mà nghĩ rằng: “Do sự phản trắc của nàng, cuối cùng nàng cũng chấp nhận tôi. Bây giờ nàng là của tôi!” Tới một điểm nào đó, cái mà chúng ta gọi là biến cố sẽ biến mất khỏi ký ức. Cái con người Uiko đang leo lên một trăm lẻ năm bậc thềm rong rêu phủ đầy ấy đến bây giờ hãy còn hiển hiện trước mắt tôi. Đối với tôi dường như nàng cứ vĩnh viễn cất bước leo lên không bao giờ ngừng. Nhưng từ điểm này trở đi, nàng trở nên một con người hoàn toàn khác biệt. có lẽ là cái con người Uiko đang leo lên những bậc thềm ấy một lần nữa lại phản bội tôi, phản bội chúng tôi. Từ điểm này trở đi nàng không còn cự tuyệt thế giới trong cái toàn thể của nó nữa. Mà nàng cũng không hoàn toàn chấp nhận nó. Nàng tự cúi mình theo mệnh lệnh riêng lòng đam mê ái dục; nàng tự hạ mình xuống hàng ngũ một người đàn bà đã trao thân cho riêng một người đàn ông mà thôi. Vì lẽ đó mà tôi chỉ còn nhớ được những gì xẩy ra tiếp theo như là quang cảnh trong một bức thạch ấn xưa cũ nào đó. Uiko bước dọc theo độ điện và cất tiếng gọi vào căn ngự đường tối om. Bóng một người đàn ông hiện ra. Uiko nói điều gì đó với người này. Người đàn ông chĩa khẩu súng lục về phía các thềm đá và nổ súng. Từ một bụi cây gần đó những người hiến binh chĩa súng tay mà bắn trả lại. Người đàn ông đang sửa soạn nổ súng một lần nữa thì Uiko quay mình về phía độ điện và bắt đầu co giò chạy. Người ấy bắn hết phát nọ đến phát kia vào lưng nàng. Uiko ngã lăn ra. Người ấy chĩa họng súng lục vào thái dương mình và nổ súng lần nữa. Trước tiên các hiến binh, rồi sau tất cả những người khác, chen nhau chạy lên các bậc thềm và đổ xô về phía hai xác chết. Tôi vẫn im lặng ẩn mình dưới bóng các lá thu đỏ ối. Những khung cột gỗ bắc dọc bắc ngang của ngôi chùa chồng chất lên nhau ở phía trên đầu tôi. Tiếng giầy của mọi người, trong khi họ cất bước dọc theo những tấm ván độ điện trên đầu tôi, nhẹ nhàng từ trên vang xuống. Ánh vài ba ngọn đèn bấm chạy dọc ngang chiếu rọi từ lan can độ điện tới những cành cây lá hung hung đỏ. Tôi chỉ nghĩ là tất cả những việc này đã xẩy ra trong một quá khứ xa xôi. Những người kém nhạy cảm chỉ bị nhiễu loạn khi nào trong thấy máu đổ thực sự. Tuy nhiên, lúc máu đã đổ ra rồi thì tấn bi kịch cũng đã chấm dứt. Tôi ngủ thiếp đi. Khi thức dậy, tôi thấy ai nấy đều đã bỏ đi nơi khác cả rồi. Hiển nhiên họ đã quên tịt mất tôi. Không gian đầy tiếng chim ríu rít và ánh mặt trời buổi sáng chiếu rọi qua cành lá đỏ hung trên những cây xung quanh. Tòa kiến trúc như bộ xương trắng trên đầu tôi dường như sống lại khi được mặt trời rọi sáng từ phía dưới. Lặng lẽ và kiêu hãnh, căn không ngự đường hắt bóng vào thung lũng lá cành nhuốm đỏ. Tôi đứng dậy, run rẩy, tự chà sát thân mình để kích thích sự tuần hoàn. Trong thân xác tôi chỉ còn sự giá lạnh. Tất cả chỉ còn là sự giá lạnh mà thôi Trong những ngày nghỉ mùa xuân năm kế Ba tới chơi nhà chú tôi. Trên bộ đồng phục dân sự thời chiến, cha tôi choàng chiếc áo cà sa. Ông nói là ông sẽ đưa tôi đi Kyoto trong vài ba ngày. Bệnh phổi của Ba đã trầm trọng hơn nhiều và tôi buồn lòng khi thấy Ba suy sút đến thế. Chẳng phải chỉ riêng tôi mà chú thím tôi, tất cả đều cố gắng can Ba đừng đi Kyoto nữa, nhưng ông không chịu nghe theo. Sau này khi nghĩ tới việc đó tôi mới biết là Ba muốn tự mình dẫn tôi tới ra mắt viện chủ Kim Các Tự trong khi Ba còn sống trên thế gian này. Tới thăm Kim Các Tự đối với tôi dĩ nhiên đã là một mơ ước từ bao nhiêu lâu, nhưng nghĩ tới việc thực hiện một cuộc hành trình với Ba dù Ba đã cố gắng hết sức vẫn khiến bất cứ ai nhìn ông phải thấy ngay là Ba đang ốm rất nặng - tôi không thấy gì làm thích thú. Khi mà thời gian đối mặt với Kim Các Tự tới gần, cái Kim Các Tự mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy tận mắt, lòng tôi mỗi lúc lại thêm trù trừ. Dù thế nào đi nữa, điều cốt yếu là Kim Các Tự phải thật đẹp đẽ. Do đó, tôi đem đánh cá tất cả không phải lên cái đẹp khách quan của chính ngôi chùa cho bằng cái khả năng tưởng tượng ra vẻ đẹp của nó nơi riêng tôi. Tôi hoàn toàn thông hiểu về những điều liên hệ tới Kim Các Tự, ít nhất là trong phạm vi hiểu biết của một thiếu niên vào tuổi tôi. Qua một cuốn sách nghệ thuật, tôi đã học lời giải thích sơ lược sau đây về lịch sử Kim Các Tự. “Ashikaga Yoshimitsu (1358-1408) được gia đình Saionji nhượng lại Bắc sơn điện và biến nó thành một biệt thự rộng lớn. Những tòa kiến trúc chủ yếu là Xá Lợi điện, Hộ Ma đường, Sám Pháp đường và Pháp Thủy viện xây dựng theo kiến trúc Phật giáo cùng Thần điện. Công Khanh gian Hội Sở, Thiên Kính các, Truyền điện và Khán Tuyết đính theo lối kiến trúc có quan hệ với các trú xá. Xá lợi điện là kiến trúc được xây dựng cẩn thận nhất và về sau được gọi là Kim Các Tự. Thực khó mà xác định nó đã mang cái tên này lần đầu tiên vào lúc nào, nhưng có vẻ sau cuộc biến loạn Ojin (1467-77). Trong thời đại Bummei (1469-87) tên này được phổ biến và trở nên thông dụng. “Kim Các Tự là một kiến trúc ba tầng hình tháp nhìn xuống một uyển trì (Kính Triều trì). Có lẽ đã được hoàn tất vào khoảng năm thứ năm đời Oei (1389). Hai từng dưới được xây theo kiểu tẩm điện với lối kiến trúc cổ truyền và có những cánh cửa chớp có thể xếp lại, nhưng tầng thứ ba là một căn phòng sáu thước vuông xây theo kiểu Thiền đường thuần túy của nhà Phật ở giữa có sạn đường hộ, hai bên phải và trái có hoa đầu song. Mái lợp bằng vỏ cây trắc bách diệp dựng theo kiểu bảo bình, bên trái có một con chim phượng hoàng bằng đồng thau đứng cao chót vót. Điếu điện với cái mái nhấp nhô vươn ra ngoài đối diện cái ao làm cho các kiến trúc chung quanh bớt phần đơn điệu. Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên, điều hòa hai lối trú xá và Phật đường. Như thế ngôi thần điện này đã biểu lộ thị hiếu của Ashikaga Yoshimitsu, con người từng hết lòng thâu nhập văn hóa Hoàng triều và diễn tả trung thực khí vị của đương thời. “Sau khi Yoshimitsu qua đời, theo di mệnh của ông, Bắc Sơn điện được biến thành một Thiền sát và được gọi là Lộc Uyển tự. Sau đó, những kiến trúc này được chuyển đi nơi khác hoặc bị bỏ mặc cho hoang phế. May mắn là còn lại Kim Các Tự…” Như một vầng trăng lơ lửng trong bầu trời ban đêm, Kim Các Tự đã được xây dựng để tượng trưng cho những thời đại đen tối. Như thế cái Kim Các Tự trong mộng tưởng của tôi tất phải có bóng tối làm bối cảnh. Trong cái bóng tối âm u này, những cây cột đẹp đẽ, mảnh mai của tòa nhà đứng lặng lẽ và vững vàng tỏa từ bên trong ra một ánh sáng lắt leo. Dù cho thiên hạ có nói gì về Kim Các Tự chăng nữa, nó vẫn phải tiếp tục đứng đó lặng lẽ phơi bầy công trình kiến tạo mĩ lệ, tiêm tế của mình trước mặt thế giới và chịu cho bóng tối vây kín khắp chung quanh. Tôi cũng thường nghĩ đến con phượng hoàng bằng đồng thau nhự trị trên mái Kim Các Tự và đã đứng đó mãi mãi phơi mình trong mưa nắng gió sương với năm tháng. Con chim vàng óng thần bí này chẳng bao giờ cất tiếng gaysáng, chẳng bao giờ vỗ cánh - thực vậy, hiển nhiên tự nó đã quên phứt mình là một con chim. Tuy nhiên, nếu bảo rằng trông nó không có vẻ như đang bay thì thật là không đúng sự thực. Những còn chim khác bay trong không gian, nhưng con phượng hoàng vàng óng này vĩnh viễn bay qua thời gian trên đôi cánh chói rạng. Thời gian đập vào đôi cánh ấy và bềnh bồng trôi lại đằng sau. Để tung cánh bay, con phượng hoàng đứng yên bất động, với ánh nhìn giận dữ trong cặp mắt, giương đôi cánh giữa trời, ve vẩy lông đuôi và kiêu hùng giăng đôi chân oai nghi vàng óng. Trong những khi nghĩ ngợi mông lung như thế tôi thấy Kim Các Tự giống như một con tầu đẹp đẽ nào đó đang vượt qua mặt biển thời gian. Cuốn sách mĩ thuật nói đến “những tòa nhà lộng gió thiếu tường”, và cả điều này nữa cũng đem hình dạng một con tầu vào trong trí tưởng tượng của tôi. Cái ao nơi tòa nhà ba tầng hình chiếc tầu này soi bóng có thể được coi là tượng trưng cho bể cả. Kim Các Tự đã băng mình qua một đêm vô tận. Một chuyến vượt biển mà người ta đoán trước được kết quả. Ban ngày, con tầu kỳ dị này hạ neo với một dáng vẻ thơ ngây và chịu phơi mình cho người ta ngắm nhìn; nhưng khi đêm đến, bóng tối bao quanh làm cho nó có một thế mới và nó bồng bềnh trôi xa với cái mái như một cánh buồm lớn căng phồng. Thực không phải nói quá lời khi bảo rằng vấn đề tối sơ mà tôi thực sự phải đối phó trên đời là giữa hai con người này. Chẳng bao lâu nữa, khi đến tuổi, tôi sẽ bị gọi vào lính. Tuy nhiên, tôi vẫn không tin chắc là ngay khi đã ở trong binh đội, tôi lại có thể sống trung thành với nhiệm vụ của mình như chàng hạ sĩ quan ngồi trước mặt tôi đây. Dù sao đi chăng nữa, trong hiện tại hiển nhiên tôi đang chễm chệ ngồi giữa hai thế giới. Mặc dù hãy còn ít tuổi như thế này, tôi vẫn ý thức, dưới vầng trán xấu xí bướng bỉnh của mình, rằng chiến tranh đang làm môi giới đem lại gần nhau thế giới của sự chết mà cha tôi coi sóc thế giới của sự sống mà những thanh niên chiếm giữ. Chính tôi cũng có thể trở nên một người móc nối giữa hai thế giới này. Nếu tôi bị giết trong cuộc chiến, thực rõ rệt là trước con đường rẽ ngang đang nằm trước mặt, dù tôi có chọn con đường nào đi nữa thì kết cục cũng vẫn là một chẳng có mảy may khác biệt nào hết. Tôi cố gắng chăm sóc Ba mỗi khi ông ho. Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy dòng sông bên ngoài khung cửa sổ toa tầu. Dòng sông xanh đậm hầu như sẫm mầu giống hệt mầu sulfat đồng dùng trong những thí nghiệm hóa học. Mỗi lần con tầu chui khỏi một đường hầm, thung lủng Hozu lại hiện ra trước mặt có lúc ở khá xa đường tầu có lúc lại bất chợt ở sát ngay bên. Dòng nước xanh đậm uốn khúc như một cái dòng dọc bốn bên có những tảng đá nhẵn nhụi bao quanh. Ba có đem một vài nắm cơm gạo trắng trong hộp đựng bữa ăn và ông thấy xấu hổ khi mở hộp ra trước mắt mọi người trong toa tầu. “Không phải là gạo chợ đen đâu,” ông nói cho tất cả mọi người đều nghe biết. “Đó là đồ cúng dường của các đạo hữu. Mình có thể vui sướng và biết ơn mà ăn thứ cơm gạo này.” Ba nói để cho tất cả mọi người trên toa tầu ai ai cũng có thể nghe thấy, nhưng khi bắt đầu ăn thực sự thì ông chỉ ăn được có một nắm nhỏ xíu. Tôi không nghĩ là đoàn tầu cổ lổ đầy mồ hóng này thực sự chạy tới đô thị. Tôi nghĩ nó đang chạy đến nhà ga của tử thần. Một khi tư tưởng này đã lẫn vào đầu óc tôi, mỗi lần con tầu chui qua một đường hầm, tôi lại thấy có cái mùi của một lò đốt xác người. Dù sao cuối cùng khi đứng trước tổng môn của Lộc Uyển tự, tôi vẫn thấy tim nện thình thịch trong lồng ngực. Bây giờ tôi sắp sửa được thấy một trong những cái đẹp vào hạng nhất trên đời. Mặt trời đã bắt đầu lặn xuống và sương mù đã phủ kín núi đồi. Có nhiều du khách khác bước chân qua cổng vào khoảng cùng một lúc với cha con chúng tôi. Gác chuông đứng bên trái cổng vào, xung quanh có cả một rừng mai còn đầy những cánh hoa tàn. Một cây lịch lớn mọc trước huyền quang của chính điện. Ba đứng trước cửa và nói với người đưa đường xin phép đi vào. Viện trưởng viết mấy chữ cho biết ông ta đang bận tiếp một lai khách và yêu cầu chúng tôi vui lòng chờ đơi chừng hai ba mươi phút nữa. “Mình hãy dùng thời gian này đi một vòng mà ngắm Kim Các Tự,” Ba nói. Hiển nhiên, Ba muốn cho tôi thấy rằng ông được nể nang đôi chút ở nơi này nên ông thử cố đi qua tham quan môn, cái cổng dành cho du khách mà không trả tiền mua vé vào cửa. Nhưng từ thời gian mười mấy năm trước lúc ba thường hay tới thăm nơi này, cả người bán vé và vừa lẫn người thu vé vào cửa tự dạo đó đều đã đổi hết cả rồi. “Lần sau mình tới đây,” Ba nói với một giọng lạnh lùng, “chắc là họ lại thay đổi nữa mất”. Nhưng tôi cảm thấy là Ba không còn thực sự tin tưởng vào cái “lần sau” ấy nữa. Tôi vội vã cất bước gần như chạy lên đàng trước Ba. Tôi cố ý hành động như một thằng bé con vui mừng hớn hở. (Chỉ trong những trường hợp cố làm ra vẻ như thế tôi mới có được dáng vẻ của một thiếu niên.) Rồi Kim Các Tự mà tôi vẫn hằng mơ tưởng bấy lâu phơi bày trọn vẹn hình dáng trước mặt tôi làm cho tôi thất vọng hết chỗ nói. Tôi đứng bên bờ ao Kính Hồ, và bên kia bờ nước, Kim Các Tự phơi bày chính diện của mình dưới ánh chiều tà. Thấu Thanh bị che khuất một nửa xa về một chút về phía bên trái. Kim Các Tự rọi bóng hình tuyệt đẹp trên mặt ao, nơi những cây hoa súng và lá những cây thủy thảo đang nổi bồng bềnh. Bóng hình này còn đẹp hơn chính Kim Các Tự nữa. Ánh mặt trời đang ngả về Tây phản chiếu trên mặt ao rập rờn phía dưới các mái hiên của cả ba tầng lầu. So sánh với ánh sáng bao quanh, ánh sáng phản chiếu dưới các mái hiên thực quá rực rỡ, chói chan; Kim Các Tự cho tôi cảm tưởng là nó đang kiêu hãnh ưỡn mình ra đằng sau. “Thế nào,” ba hỏi “thực là đẹp phải không?” Tầng thứ nhất gọi là Pháp Thủy viện, tầng thứ nhì là Triều Âm động và tầng thứ ba là Cứu Cánh đính. Ba đặt bàn tay gầy guộc ốm yếu trên vai tôi. Tôi thay đổi vị trí một vài lần và nghiêng đầu ngắm nhìn theo nhiều góc cạnh khác nhau; tuy nhiên, Kim Các Tự chẳng hề gây nên một cảm xúc nào trong lòng tôi hết. Nó chỉ là một tòa kiến trúc ba tầng cổ kính, tối tăm và nhỏ bé. Con phượng hoàng trên nóc mái giống như một con quạ khoang hạ cánh xuống đó để nghĩ ngơi. Chẳng những tòa nhà đã không làm tôi xúc động mạnh mẽ vì vẻ đẹp mà còn làm tôi có ý niệm là nó thật lạc điệu và bất điều hòa nữa. Tôi ngạc nhiên tự hỏi có thể nào cái đẹp lại là một sự vật không đẹp đẽ như thế này sao? Nếu là một thiếu niên khiêm nhượng và chuyên cần có lẽ tôi đã thấy tiếc là mình không có đủ khả năng thẩm thức nghệ thuật trước khi tỏ ra chán nản một cách vội vã như thế. Nhưng đau xót vì thất vọng ở cái mà mình kỳ vọng quá nhiều đã làm cho tôi mất hết mọi ý thức phản tỉnh. Tôi chợt nghĩ có thể Kim Các Tự đã hóa trang để che giấu vẻ đẹp chân thực của mình. Để tự vệ chống lại con người, có thể nào cái đẹp đã lừa gạt con mắt người nhìn mình hay không? Tôi phải đến gần Kim Các Tự hơn nữa; tôi phải loại bỏ những trở ngại đối với tầm mắt mình; tôi phải xem xét lại toàn bộ từng li từng tí với đôi mắt của mình nhìn tới tận hạch tâm của cái đẹp. Vì rằng tôi chỉ tin vào cái đẹp mà người ta có thể nhìn thấy bằng mắt, thái độ của tôi trong lúc đó thực là đương nhiên. Với vẻ tôn kính, bây giờ Ba dắt tôi đi lên hành lang trống tung của Pháp Thủy viện. Trước hết tôi nhìn tới mô hình Kim Các Tự, thực hiện một cách khéo léo, nằm trong một lồng kính. Tôi thích mô hình này lắm. Nó gần với Kim Các Tự trong mộng tôi hơn. Quan sát hình ảnh nhỏ bé hoàn hảo của Kim Các Tự trong chính ngôi thần điện này tôi nhớ đến hàng loạt những sự chiếu ứng vô hạn khi một tiểu vũ trụ được đặt trong một đại vũ trụ và rồi một tiểu vũ trụ nhỏ hơn nữa đặt trong một tiểu vũ trụ nhỏ bé kia. Đó là lần đầu tiên tôi có thể mơ mộng. Mơ đến Kim Các Tự nhỏ bé nhưng hoàn hảo còn nhỏ hơn cả mô hình này nữa; và đến Kim Các Tự rộng lớn hơn tòa nhà thực sự không biết bao nhiêu lần mà kể cho xiết - thực vậy, rộng lớn đến độ hầu như bao trùm cả thế giới. Tuy nhiên, tôi không đứng ì mãi một chỗ trước mô hình. Kế đó Ba dẫn tôi tới bức tượng gỗ của Yoshimitsu vốn lừng danh là Bảo Vật Quốc Gai. Bức tượng được gọi là Lộc Uyển Viện Điện Đạo Nghĩa, gọi theo cái tên của Yoshimitsu lúc ông cắt tóc đi tu. Bức tượng này nữa, tôi cũng chẳng thấy nó đẹp chỗ nào cả, chỉ là một hình ảnh kỳ cục nhuốm đầy mồ hóng. Sau đó, chúng tôi lên Triều Âm động tầng thứ nhì ngắm nhìn những bức họa trên trần mà người ta bảo là tác phẩm của Kano Masanobu, vẽ những thiên thần đang tấu nhạc. Trên tầng thứ ba Cứu Cánh đính, tôi thấy những dấu vết đáng buồn của lá cây bằng vàng ban đầu phủ kín khắp bên trong tầng này. Nhìn tất cả những thứ này tôi chẳng thấy đẹp ở chỗ nào cả. Tôi dựa mình vào hàng lan can mảnh mai và lơ đãng nhìn xuống cái ao đang lấp lánh ánh mặt trời chiều. Mặt nước trông như một tấm gương, như một tấm gương cổ bằng đồng nhẵn thín; và Kim Các Tự rọi thẳng bóng mình trên mặt gương này. Bầu trời buổi chiều phản ánh trên làn nước, ở tít dưới những cây hoa súng và những cây thủy thảo. Bầu trời này khác hẳn bầu trời trên đầu chúng tôi. Trong trẻo và sáng sủa, từ phía dưới và từ bên trong, nó nuốt trọn thế giới trần tục của chúng tôi, và Kim Các Tự đắm chìm trong đó như là một cái neo tầu thực lớn bằng vàng ròng đã biến sắc thành đen tuyền vì rỉ sắt. Hòa thượng Tayama Dosen, viện chủ Kim Các Tự, vốn là bạn của Ba từ khi hai người cùng học trong một thiền đường nào đó. Cả hai đều đã sinh hoạt ba năm tại thiền đường này và sống chung với nhau trong thời gian đó. Cả hai thanh niên đều tham dự chuyên môn đạo trường tại Tướng Quốc Tự (cũng được kiến tạo dưới thời tướng quân Yoshimitsu) và sau khi qua một vài thủ tục cổ xưa của Thiền phái, cả hai đều gia nhập hàng ngũ tăng sĩ. ngoài tất cả những cái đó, mãi về sau, tôi còn được sư phụ Dosen cho biết, trong một ngày mà ông vui vẻ trò chuyện với tôi, rằng ông và ba chẳng những đã cùng nhau chia xẻ những tháng ngày huấn luyện khắc khổ, trong một vài buổi tối, sau khi đã đến giờ đi ngủ, hai người còn cùng nhau leo tường ra ngoài và tìm mua vui thú nơi những cô gái bán phấn buôn hương nữa. Ba và tôi đã đi một vòng bái kiến Kim Các Tự rồi trở lại huyền quan của ngôi chánh điện. Người ta dẫn dắt chúng tôi đi xuống một hành lang rộng dài và chỉ lối đi vào phòng viện chủ, nằm trong Đại Thư Viện, nhìn xuống hoa viên có cây lục chu tùng lừng tiếng. Tôi ngồi đó thẳng người cứng nhắc trong bộ đồng phục học sinh, nhưng ba lúc đó lại có vẻ dễ chịu bất ngờ. Mặc dù Ba và Viện chủ đã cùng xuất thân từ một Thiền đường, song về ngoại diện, thực khó lòng mà hai người lại có thể khác biệt nhau hơn. Ba thì quéo quắt vì bệnh tật, trông nghèo nàn, làn da có vẻ khô khan, trắng bệch. Hòa thượng Dosen, trái lại, trông giống như một cái bánh ngọt hồng đào. Trên chiếc kỷ của ông chồng chất những gói hàng chưa mở, tạp chí, sách vở, thư từ từ nhiều nơi trong nước gởi tới và có vẻ như biểu hiện sự trù phú của ngôi thần điện. Ông đưa những ngón tay tròn trặn múp míp nhặt cái kéo và khéo mở tung một trong cái gói đồ. “Đó là cái bánh ngọt từ Đông Kinh gửi đến,” ông giải thích. “Trong lúc này ít khi anh thấy được một cái bánh như thế. Người ta cho tôi hay họ không còn phân phát loại bánh này cho các cửa hiệu nữa mà đem nạp hết cho quân đội hay công sở.” Chúng tôi uống thứ trà Nhật Bản thực ngon và ăn một cái bánh ngọt Tây Phương mà từ trước đến giờ tôi chưa hề được nếm mùi bao giờ. Tôi càng thấy căng thẳng bao nhiêu thì những mẫu bánh vụn càng rơi trên cái quần nỉ đen bóng của tôi nhiều bấy nhiêu. Ba và Viện chủ đang tỏ bầy sự bất bình phẫn nộ về việc giới quân đội và quan liêu chỉ kính trọng những Thần Xã và coi rẽ những ngôi chùa Phật giáo - thực ra không những chỉ coi nhẹ mà còn thực sự áp chế nữa; rồi hai người thảo luận về phương cách quản trị hay nhất cho các ngôi chùa trong tương lai. Viện chủ là một người mập mạp. Dĩ nhiên, khuôn mặt ông có những nếp nhăn, song mỗi nếp nhăn có vẽ như đã được lau đi hết sạch. Khuôn mặt ông tròn trặn, nhưng ông ta có cái mũi dài khiến người ta có cảm tưởng là nhựa cây chảy ra kết đặc lại ở đó. Tuy nét mặt ông có dáng vẻ khá dễ dãi, song hình dáng cái đầu cạo nhẵn - dường như là nơi tập trung tất cả tinh lực của ông - lại có dáng vẻ dữ dằn của một con vật. Câu truyện của hai người tu sĩ xoay về những ngày họ cùng sống với nhau trong tăng đường. Tôi đang ngắm nhìn cây lục chu tùng trong hoa viên. Người ta uốn thấp các cành lá của một cây thông lớn và cuốn lại với nhau thành hình một con thuyền với những cành lá ở đằng mũi được nâng cao lên hơn ở các phần còn lại. Hiển nhiên là có một đoàn thể đã đến vãng cảnh ngay trước giờ đóng cửa vườn và tôi nghe thấy tiếng người ồn ào từ phía Kim Các Tự ở bên kia bờ đường vọng lại. Tiếng chân và tiếng nói của họ tan chìm trong làn không khí buổi chiều mùa xuân: tiếng động họ gây ra êm nhẹ và tròn trặn, chẳng hề có dấu vết gì đặc sắc nhọn. Rồi thì bước chân họ lùi xa như làn sóng thủy triều, tôi thấy thật đúng là tiếng chân của chúng sinh băng qua trái đất này. Tôi ngước mắt nhìn con phượng hoàng trên nóc Kim Các Tự; nó đang thu hút tất cả ánh sáng tàn lụi của chiều hôm. “Anh ạ… cái thằng bé này.” Nghe thấy Ba nói, tôi quay lại nhìn. Trong căn phòng hầu như tối om, Ba đang sắp sửa đem phó thác cả tương lai tôi cho sư phụ Dosen. “Tôi nghĩ chẳng còn sống được bao lâu nữa,” Ba nói, “tôi muốn xin anh đến lúc ấy trông nom cho thằng bé này.” Mặc dù là một tu sĩ và quen an ủi người khác trong những dịp tương tự, thượng tọa Dosen không có một lời an ủi êm dịu nào trong dịp này, nhưng chỉ trả lời “Được lắm, tôi sẽ trông nom nó.” Điều làm tôi thực sự ngạc nhiên là sau đó hai người vui vẻ quay sang kể cho nhau nghe những giai thoại về cái chết của những tu sĩ nổi tiếng. Một vị đã nói lúc sắp qua đời “Ôi ta không muốn chết.” Một vị khác kết thúc cuộc đời mình bằng chính những lời của Goethe: “Cho thêm ánh sáng.” Lại còn một tu sĩ lừng danh nữa vẫn còn tự mình xem xét lại tiền quĩ của chùa cho đến lúc nhắm mắt lìa đời. Người ta mời chúng tôi ăn cơm tối, mà người theo đạo Phật gọi là “dược thạch” và sắp đặt để chúng tôi ngủ lại đêm đó ở trong chùa. Sau bữa cơm, tôi Ba đi ngắm Kim Các Tự một lần nữa. Vì mặt trăng lưng trời đã ló dạng. Ba bị kích động quá nhiều vì cuộc tái ngộ với vị viện chủ sau bao nhiêu năm xa cách nên hết sức mệt mỏi, nhưng khi nghe tôi nói đến Kim Các Tự ông liền ra ngay, dựa mình trên vai tôi mà thở hổn hển. Mặt trăng mọc lên sau riềm núi Fudo. Ánh trăng chiếu rọi phía sau Kim Các Tự. Ngôi chùa hình như đã xếp hình ảnh tối om phức tạp của mình lai và lặng lẽ chìm xuống; chỉ còn những khung cửa hoa đầu song trên Cứu Cánh đính là để cho bóng trăng êm ả len vào. Tầng Cứu Cánh đính không có tường riêng, và vì thế nóc vẻ là ánh trăng mờ nhạt đã chọn nơi này làm chỗ cư ngụ. Từ phía đảo Ashiwara có tiếng chim đêm vọng lại trong khi chúng bay về phía xa. Tôi thấy rõ sức nặng những bàn tay quắt quéo của Ba tỳ trên vai mình. Khi liếc nhìn lên vai, tôi thấy dưới ánh trăng một bộ xương bàn tay trắng hếu. Sau khi tôi trở về Yasuoka, Kim Các Tự đã làm tôi thất vọng biết bao nhiêu khi nhìn thấy lần đầu, đến lúc này lại gợi lại vẻ đẹp của nó trong lòng tôi càng ngày càng sâu đậm hơn cho đến lúc trở thành một Kim Các Tự còn đẹp đẽ hơn là trước khi tôi được nhìn tận mắt nữa. Tôi không nói được vẻ đẹp đó nằm ở chỗ nào. Dường như những gì được nuôi dưỡng trong các cơn mộng tưởng của tôi một sớm đã trở thành thực sự và bây giờ lại có thể được dùng làm động lực thôi thúc các cơn mộng tưởng khác nữa. Bây giờ tôi không còn đeo đuổi cái huyễn ảnh của Kim Các Tự trong phong cảnh và trong các sự vật nữa. Dần dà Kim Các Tự càng ngày càng hiện diện trong tôi một cách sâu xa và vững chắc hơn trước. Mỗi một cây cột, một khung cảnh hoa đầu song, cái mái nhà, con chim phượng hoàng ở trên nóc đều bềnh bồng rõ rệt trước mắt tôi như là tôi có thểâ giơ tay sờ mó chúng được. Phần nhỏ bé nhất của ngôi chùa cũng hòa hợp hoàn toàn với toàn bộ kiến trúc phức tạp của nó. Giống hệt như là nghe một vài nốt nhạc và thấy toàn thể khúc nhạc tuôn trào qua tâm trí: bất kỳ bộ phận nào của Kim Các Tự mà tôi nhặt ra cũng làm cho toàn bộ kiến trúc vang âm trong con người của tôi cả. “Khi Ba bảo con rằng trên mặt đất này không có gì đẹp bằng Kim Các Tự thì quả thật là đúng.” Đó là lời lẽ trong lá thư đầu tiên tôi viết cho Ba. Sau khi đưa tôi trở lại nhà chú, Ba tức thời trở về chùa của ông trên mỏm đất xa xôi. Và như để trả lời lá thư của tôi, một bức điện tín do má gửi đến báo tin là Ba bị một trận thổ huyết kinh khủng và ông đã lìa đời. -------------------- Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian |
|
|
![]() |
![]() ![]()
Post
#2
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,312 Joined: 10-April 08 Member No.: 12 Country ![]() ![]() |
Chương 2
Vì Ba qua đời, nên quãng đời niên thiếu thực sự của tôi đã chấm dứt. Tôi vẫn thường ngạc nhiên khi thấy rằng quãng đời thơ ấu của mình làm sao lại có thể hoàn toàn thiếu sót cái mà người đời gọi là mối quan tâm tới nhân gian cho đến thế. Tới khi nhận ra rằng mình chẳng hề đau buồn chút nào về việc Ba qua đời, sự ngạc nhiên này biến thành mối cảm hoài thờ thẫn nào đó không còn được gọi là kinh ngạc nữa. Tôi vội vã trở về làng, và khi tôi tới nơi, Ba đã nằm yên trong quan tài rồi. Tôi đã đi bộ đến tận Uchiura và từ đó đi thuyền dọc theo vịnh tới Nariu mất trọn một ngày. Đó là thời kỳ nóng nực trong ngay trước mùa mưa và mặt trời rọi nắng hừng hực hết ngày này sang ngày khác. Ngay sau khi tôi nhìn thi hài Ba lần cuối, người ta đem chở quan tài tới hỏa trường tên mỏm đất để hỏa táng bên bờ bể. Cái chết của người tu sĩ trụ trì một ngôi chùa miền quê thực là một việc dị kỳ. Dị kỳ bởi vì quá thích thiết. Có thể nói vị tu sĩ ấy vẫn là trung tâm tinh thần cho toàn thể địa phương, là người trông nom cuộc sống của đạo hữu trong vùng, là người mà họ ủy thác trọn vẹn cuộc đời sau khi họ nhắm mắt. Ấy thế mà chính con người này lại chết trong ngôi chùa của mình. Như thể ông đã hoàn tất chức vụ của mình một cách quá trung thực, như thể chính con người vẫn hằng đi đó đi đây giảng dậy cho thiên hạ nên nhắm mắt lìa đời như thế nào, đã tự mình thực hiện một cuộc biểu diễn cho mọi người xem và do một sự lầm lẫn nào đó đã nhắm mắt lìa đời thực sự. Thực vậy, quan tài của Ba có vẻ như đã được đặt ở một chỗ quá ư thích hợp, trong đó người ta đã dụng ý xếp đặt đủ mọi thứ để đón nhận. Má tôi, người tu sĩ trẻ tuổi cùng các dạo hữu trong vùng đều đứng khóc trước quan tài. Người tu sĩ trẻ tuổi ấp úng tụng kinh có vẻ như vẫn còn phải tùy thuộc vào chỉ thị của Ba, lúc đó đang nằm trong quan tài trước mặt anh ta. Khuôn mặt Ba chìm trong những đóa hoa đầu mùa hạ. Có cái gì đáng sợ trong sắc cực kỳ tươi tắn của những bông hoa này. Trông như là chúng đang ghé mắt nhìn xuống đáy một cái giếng. Vì khuôn mặt một người chết chìm xuống một mực sâu vô hạn dưới cái bề mặt lúc sinh thời, chẳng để lại chút gì cho những người còn sống nhìn thấy ngoại trừ khuôn hình của một mặt nạ; thực thế nó chìm sâu đến nỗi chẳng bao giờ người ta có thể lôi được nó lên trên mặt nước nữa. Khuôn mặt một người chết có thể cho chúng ta thấy rõ hơn bất kỳ cái gì khác trên cõi đời này là chúng ta bị tách xa khỏi cuộc sống thực sự của vật chất đến như thế nào và chúng ta đã không thể nắm được phương cách hiện hữu của vật chất đến mức độ nào. Đó là lần đầu tiên tôi phải đương đầu với một cảnh huống như thế, trong đó tinh thần đã bị cái chết biến thành một vật thể thực sự và bây giờ toi cảm thấy là mình dần dà bắt đầu hiểu được lý do vì sao mà hoa xuân, mặt trời, bàn học, nhà trường, bút chì - tất cả đều là vật chất, thực vậy - vẫn luôn luôn có vẻ lạnh lùng đến thế đối với tôi, vẫn luôn luôn có vẻ hiện hữu ở một nơi nào thực xa cách với chính thân tôi. Má và nhiều đạo hữu khác lúc này đang đưa mắt nhìn tôi trong khi tôi đối diện với Ba lần cuối. Tính ngang bướng của tôi, tuy vậy, sẽ không chịu chấp nhận lối loại suy với thế giới của người sống mà từ ngữ “đối diện” ám chỉ. Bởi vì đó thực không giống một cuộc đối diện mảy may nào hết, tôi chỉ đưa mắt nhìn khuôn mặt vô hồn của Ba mà thôi. Người ta chỉ đưa mắt nhìn thi hài. Tôi chỉ đưa mắt nhìn mà thôi. Biết rằng việc đưa mắt nhìn (nghĩa là việc nhìn vào một người nào đó như người ta vẫn thường làm không hề có một ý thức đặc biệt nào) là một chứng có cho thấy những ai còn sống vẫn còn quyền lợi và rằng việc đưa mắt nhìn này có thể là biểu lộ sự ác độc - tất cả những điều này bây giờ đến với tôi như một thể nghiệm mới mẻ. Như vậy, đứa thiếu niên, chưa bao giờ cao giọng cất tiếng hát, chưa bao giờ chạy quanh la hét đến vỡ lồng ngực, lúc này đang tự mình xác định sự hiện hữu của chính mình. Mặc dù thiếu can đảm về nhiều phương diện trong lúc này tôi không hề cảm thấy xấu hỗ chút nào khi quay khuôn mặt sáng sủa ráo hoảnh không một giọt lệ về phía những người đang đến dự đám tang. Ngôi chùa ở trên một mỏm núi trên bờ bể. Phía sau những người đưa đám, những dám mây mùa hè đang cuồn cuộn trên mặt nước mênh mông của biển Nhật Bản và ngăn chặn tầm mắt tôi lại. Bây giờ người tu sĩ bắt đầu tụng bài kinh trước khám thờ Phật, bài kinh vẫn thường được đọc khi chuyển cữu và tôi đọc theo. Căn chính điện tối om. Lá phướng treo giữa hàng cột, những đồ vàng mã lấp lánh trên bàn thờ, chiếc lư trầm và những bình hoa tất cả đều chói sáng lung linh dưới ánh những ngọn bạch lạp. Thỉnh thoảng một làn gió biển lùa vào bên trong, thổi phồng tay áo tăng y của ôi. Trong khi tụng kinh tôi vẫn thường xuyên cảm thấy được dáng vẻ các đám mây mùa hạ trong lúc chúng chiếu hắt ánh sáng chói lòa vào khóe mắt tôi. Ánh sáng chói chang bên ngoài luôn luôn rọi vào một bên mặt tôi. Nó mới chói chan, rạng rỡ làm sao - cái sự khinh nhờn lấn ép này!… Khi đám tang chỉ còn cách hỏa trường chừng hơn hai trăm thước đột nhiên một trận mưa rào đổ ụp xuống đầu chúng tôi. May thay chúng tôi vừa đi ngay trước cửa căn nhà của một dạo hữu khá giả trong vùng nên chúng tôi có thể tìm chỗ trú mưa cùng với cả cái quan tài, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình tới bãi đất hỏa thiêu. Lò hỏa táng nằm trên một bãi nhỏ đầy đá của một mỏm đất nhô ra bể ở phía đông nam ngôi làng. Hiển nhiên nơi này đã được dùng để hỏa táng từ những thời xa xưa, vì khói không lan từ chỗ này về các ngôi nhà trong thôn. Xa khỏi nơi này biển động dữ dội trong khi các làn sóng lớn cuồn cuộn thi nhau xô lên phía trước, dâng lên cao rồi hạ xuống thấp những giọt nước mưa thường xuyên làm mặt nước xao động, nhăn nhó. Trong tối tăm mịt mù những giọt nước mưa lạnh lùng tiếp tục xuyên thủng mặt nước, không hay biết gì tình trạng dao động dị thường của mặt bể. Nhưng thỉnh thoảng một trận gió bể bất thần thổi hắt nước mưa vào những vách đá trắng phếch trở nên đen sì y như vừa bị phun đầy mực. Chúng tôi đi qua một con đường hầm và đến địa điểm. Trong khi các người phu trà tì sửa soạn đồ hỏa táng, chúng tôi đứng trong đường hầm để tránh mưa. Tôi chẳng thể thoáng nhìn thấy ngay lấy quang cảnh bể cả. Chẳng có gì ngoài những đợt sóng cùng những tảng đá ướt át, đen sì và cơn mưa. Trong khi họ đổ dầu lên lớp ván quan tài, mưa rơi lên quan tài lộp độp. Họ châm lửa vào quan tài. Dầu đốt hiện bị hạn chế, nhưng vì đây là đám tang của một tu sĩ nên họ đã xoay xỏa được một số dầu khá lớn, và bây giờ ngọn lửa đang vật lộn với trận mưa, đang bốc cao trong không khí, rít lên như tiếng roi quất mạnh. Mặc dù đang ban gnày, ngọn lửa trong suốt nổi bật giữa làn khói dầy đặc. Làn khói cuồn cuộn dâng lên và tạ dần về phía vách đá bên bờ bể; rồi thỉnh thoảng ngọn lửa uyển chuyển uốn mình vươn cao giữa cơn mưa tầm tã. Bất chợt có tiếng một vật gì bị nứt tung gây ra một tiếng nổ kinh hồn. Nắp quan tài bất tung. Tôi nhìn má đang đứng sát ngay bên cạnh. Bà đứng đó hai tay ghì chặt chuỗi tràng hạt. Khuôn mặt bà cứng dắn kinh khủng trông có vẻ nhỏ bé và quắt queo đến nỗi tưởng như có thể thu gọn vào một lòng bàn tay. Theo di ngôn của Ba, tôi tới Kyoto va trở thành một sa di tại Kim Các Tự. Lúc đó tôi được xuống tóc đi tu dưới sự chứng giám của thượng tọa trù trì. Ông xuất tiền cho tôi đi học; đổi lại, tôi hầu hạ ông, lo việc quét dọn và làm những việc vặt vãnh trong nhà. Nói theo thế tục, địa vị của tôi tương đương với địa vị một anh học trò được nuôi ăn cho ở trong chùa. Vừa mới vào chùa tôi nhận ra ngay rằng, sau khi viên quản liêu bị gọi nhập ngũ, những người duy nhất còn sót lại chỉ là những người già cả và những người hết sức ít tuổi. Dù sao đi nữa, việc đến đây ở đối với tôi cũng là một nguồn an ủi lớn lao. Chẳng bao giờ tôi còn bị chọc ghẹo là con của một thầy chùa như tôi đã từng bị tụi học trò con nhà tục gia ở trường trung học chọc ghẹo nữa, bởi lẽ ở đây ai cũng như ai, điểm khác biệt duy nhất là tôi nói lắp và bơi xấu hơn những người khác. Việc học của tôi ở trường trung học Đông Maizuru đã bị gián đoạn trước khi tôi tốt nghiệp; nhưng nhờ hòa thượng Tayama Dosen giúp đỡ nên bây giờ tôi sắp sửa tiếp tục sự học ở trường trung học thuộc học viện Rinzai. Tôi sẽ bắt đầu học ở đó trong học kỳ mùa thu này, sẽ bắt đầu trong non một tháng. Tuy thế tôi biết rằng ngay khi khởi sự vào trường mới, tôi sẽ bị động viên lao động trong một xưởng máy nào đó. Lúc này tôi đang ở trước những hoàn cảnh mới. Tôi hãy còn được nghỉ hè vài tuần lễ nữa. Những ngày nghỉ hè trong thời gian cư tang của tôi, những ngày nghỉ hè lặng lẽ lạ lùng trong giai đoạn cuối cùng của chiến tranh năm Chiêu Hòa thứ mười chín (1914). Cuộc đời khuôn phép của một chú sa di của tôi trôi qua một cách êm ả và mãi mãi sau này khi nghĩ lại tôi cảm thấy đó là những ngày nghỉ tuyệt đối cuối cùng trong đời tôi. Đến bây giờ tôi vẫn có thể nghe rõ mồn một tiếng ve sầu kêu ra rả. Kim Các Tự mà lúc này tôi được thấy lại sau mấy háng trời đang đứng lặng im thanh bình trong ánh nắng cuối hạ. Vì vừa mới gia nhập hàng ngũ tăng lữ nên tôi có cái đầu cạo bóng nhẵn thín. Tôi có cảm giác là không khí đã ôm chặt đầu tôi; tôi có cảm giác nguy hiểm lạ kỳ là những tư tưởng bên trong đầu tôi đang tiếp xúc với những hiện tượng ngoại giới qua một màng da mong manh nhạy cảm. Khi ngước mắt nhìn Kim Các Tự với cái đầu mới này của mình, tôi cảm thấy tòa kiến trúc đó đang thẩm nhập trong tôi, không những chỉ qua đôi mắt mà còn qua cả mái đầu tôi nữa. Cũng giống như đầu tôi nóng lên khi ánh mặt trời chiếu vào và mát đi khi gió lạnh ban chiều chợt thổi tới. “Hỡi Kim Các Tự! Cuối cùng ta đã tới sống bên ngươi!” Tôi thì thầm lòng tự nhủ lòng trong khi ngưng tay quét lá vàng một lát. “Chẳng cần là phải ngay trong tức khắc, nhưng xin ngươi thỉnh thoảng hãy kết thân với ta và phơi bầy bí mật của ngươi cho ta được thấy. Ta cảm thấy vẻ đẹp của ngươi là cái gì ta sắp sửa thấy được tới nơi, thế nhưng đến lúc này vẫn còn chưa thấy được. Xin hãy để cho ta nom thấy rõ cái Kim Các Tự thực sự hơn là hình ảnh của ngươi trong tâm trí ta. Và hơn nữa, nếu thực sự ngươi đẹp đến nỗi không gì ở thế giới này có thể sánh kịp thì xin nói cho ta hay tại sao ngươi lại đẹp đẽ như thế, tại sao ngươi lại cần phải đẹp đẽ như thế.” Mùa hè năm ấy Kim Các Tự dường như đã dùng những tin tức đáng buồn từ chiến trường hàng ngày đến với chúng tôi như một thứ lá chắn để nó rọi bóng rạng rỡ chói chan hơn bao giờ hết. Vào tháng sáu quân Mỹ đổ bộ ở Saipan và Đồng minh đang cố gắng vượt qua đồng bằng Normandy. Số du khách tới vãn cảnh chùa giãm sút rõ rệt và Kim Các Tự dường như đang vui hưởng sự cô đơn, sự tĩnh mịch này. Cuộc chiến loạn, sự bất an, các đống xác người và máu xương chồng chất tự nhiên đã làm tăng thêm vẻ đẹp của Kim Các Tự. Bởi vì ngày từ đầu Kim Các Tự đã được xây dựng trong sự bất an, đã được bao nhiêu người chủ trì trong lòng có nhiều hắc ám - trong đó có cả một vị tướng quân - góp công xây dựng. Lối thiết kế tán loạn của ba tầng gác, trong đó nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật chỉ có thể thấy một sự pha trộn các dạng thứ, hẳn rằng đã được khai triển thật tự nhiên từ ý định tìm kiếm một kiểu thức có thể kết tinh tất cả những bất an qui tụ xung quanh. Giả sử, Kim Các Tự đã được kiến tạo theo một dạng thức an định thì có lẽ nó đã không bao nhiếp chịu đựng được sự bất an và tất nhiên có lẽ đã băng hoại từ lâu rồi. Tuy vậy, đã biết bao lần tì tay trên cán chổi ngước mắt nhìn lên Kim Các Tự, tôi vẫn thấy lạ lùng hết sức là tòa kiến trúc này đã thực sự tồn tại ở trước mắt. Kim Các Tự mà tôi đã được nhìn khi nghỉ đúng một đêm ở đây trong lần viếng thăm trước cùng với Ba đã không đem lại cảm giác này cho tôi. Lúc này tôi khó lòng tin được drằng Kim Các Tự vẫn hằng luôn luôn ở đây ngay trước mặt tôi trong khi những năm tháng dài lê thê trôi qua. Trong những ngày sống ở Maizuru, khi nghĩ về Kim Các Tự tôi cảm thấy dường như thể vẫn hằng đứng mãi tại một góc thành phố Kyoto, nhưng bây giờ tôi đã tới và sống ở đây, ngôi thiền đường ấy chỉ hiện ra trước mắt tôi khi nào tôi thực sự ngắm nhìn nó, và ban đêm khi tôi nằm ngủ trong chính điện thì dường như nó không còn tồn tại nữa. Cứ thế trong một ngày tôi thường ra ngắm Kim Các Tự không biết bao nhiêu lần trước sự cười cợt của các sa di bè bạn. Tôi vẫn luôn luôn ngạc nhiên không biết bao nhiêu khi nhận thấy ngôi chùa vẫn thực sự ở đó, và lúc trở vào chính điện sau khi đã ngắm nhìn chán chê con mắt, tôi cảm thấy nếu chợt quay lưng chạy ra ngắm lại lần nữa thì có lẽ ngôi chùa sẽ biến dạng và tiêu tan đi y hệt hình bóng Eurydice, người bạn đời của nhà nhạc sĩ tài danh Orphée vậy. Khi đã quét hét một vòng xung quanh Kim Các Tự, tôi leo lên đồi ở phía sau chùa để tránh tia nắng mặt trời vào buổi sáng mỗi lúc một nóng bức hơn; tôi đi lên con đường nhỏ và bước về phía Tịch Giai đình. Vẫn chưa tới giờ mở cửa vườn và chẳng thấy bóng dáng người nào cả. mấy chiếc phi cơ chiến đấu, có lẽ thuộc phi đội ở Maizuru, ầm ầm lao ngang đầu trong khi bay khá thấp trên Kim Các Tự, rồi lại mất hút để lại đằng sau những tiếng ầm ĩ chối tai. Trong khu đồi núi đằng sau chùa có một cái ao quạnh hiu đầy những cây hoa súng, được người ta gọi là An Dân trạch. Giữa ao có một gò đất nhỏ; trên gò ấy có ngọn tháp Bạch Xà Mông năm từng bằng đá đứng sừng sững. Tiếng chim hót líu lo tràn ngập bầu không khí ban mai; chẳng ai trông thấy con chim nào, song toàn thể khu rừng đều xôn xao tiếng chim ríu rít. Trước mặt ao cỏ mùa hè mọc đầy kết thành từng đám. Một hàng rào thấp ngăn cách lối đi nhỏ với đám cỏ rậm rạp này. Một thiếu niên mặc áo sơ mi trắng đang nằm gần hàng rào, ở bên cạnh một cái cào tre đứng dựng vào thân cây phong thấp. Thiếu niên ấy vụt nhổm người dậy mạnh bạo như thể đang khoét thủng hẳn làn không khí êm dịu mùa hè đang rập rờn trên đầu chúng tôi; tuy nhiên, khi nhìn thấy tôi, hắn ta chỉ nói: “Ồ, thế ra mày đấy ư?” Tôi mới được giới thiệu với thằng này vào tối hôm trước. Nó tên là Tsurukawa, từ một ngôi chùa trù phú ngoại ô Tokyo tới đây. Gia đình nó đã cung cấp cho nó thừa thãi đủ mọi thứ, nào học phí, tiền tiêu vặt, nào thức ăn; và qua liên hệ nào đó với hòa thượng trụ trì nó đã được gửi đến Kim Các Tự để nó có thể nếm mùi sự tu luyện dành cho những sa di bình thường. Nó đã trở về thăm nhà trong dịp nghỉ hè mãi tới chiều tối hôm trước mới trở lại Kyoto, Tsurukawa nói năng lưu loát bằng một giọng Tokyo nghe thật hay. Hỏi ra tôi mới biết nó dự định học trường trung học thuộc học viện Rinzai mùa thu ấy theo cùng lớp với tôi, và ngay từ đêm qua, tôi bị ngỡ ngàng khôn tả vì cái miệng lưỡi liến láu vui vẻ của nó. Lúc này khi nghe thấy nó nói: “Ồ, thế ra mày đấy ư?” tôi thấy miệng mình cứng ngắt không sao thốt được ra lời. Có vẻ như nó cho rằng sự im lặng của tôi như một thứ phê bình. “ Như thế là được lắm rồi mày ạ. Mình đâu cần phải quét tất cả cẩn thận đến thế. Đằng nào đi nữa khi khách vãn cảnh tới đây, đâu đó lại đều bẩn hết ngay mà. Ngoài ra, mùa này cũng không có nhiều khách vãn cảnh đến đây đâu.” Tôi chợt bật ra một tiếng cười. Cái tiếng cười mà tôi thường buộc ra một cách vô ý thức dường như đã khiến cho một số người cảm thấy thân tình với tôi. Vì thế chẳng phải là lúc nào tôi cũng có trách nhiệm về những ấn tượng phức tạp mà tôi hằng gây ra nơi người khác. Tôi leo qua hàng rào và đến ngồi tựa lưng bên cạnh Tsurukawa. Nó nằm gối đầu lên cánh tay. Tôi nhận thấy tay phía bên ngoài cánh tay làn da xạm nắng, song phần bên trong thì trắng trẻo đến nỗi mình có thể nhìn thấy tất cả những mạch máu qua làn da. Ánh sáng mặt trời ban mai len lỏi lai láng qua các lùm cây và rải rác những bóng hình sáng xanh trên mặt cỏ. Tôi có trực giác cảm thấy liền là thằng này sẽ chẳng hề yêu mến Kim Các Tự như tôi. Bởi lẽ sự thiên chấp của tôi đối với ngôi chùa này đã hoàn toàn bắt cỗi rễ từ sự xấu xí của chính thân tôi. Tsurukawa nói: “Tao nghe nói là ba mày mới qua đời.” “Phải, đúng thế.” Tsurukawa mau mắn đưa mắt nhìn sang bên,và rồi chẳng hề cố gắng che giấu là mình say dắm lối suy luận trẻ con ra làm sao, nó nói: “Sở dĩ mày thích Kim Các Tự đến như thế là vì nó nhắc nhở mày nhớ tới ba mày, có phải thế không? nghĩa là ta muốn nói, mỗi khi nhìn đến ngôi chùa này là mầy nhớ lại ba mày trước kia đã thích Kim Các Tự đến mực nào?” Tôi thấy hài lòng là sự suy luận chỉ đúng nửa vời của nó đã không gây ra một nét thay đổi nào trên khuôn mặt không chút cảm động của tôi. Hiển nhiên là Tsurukawa đã sắp xếp một cách chính xác những tình cảm của con người vào trong những ngăn kéo nhỏ bé gọn gàng trong phòng ngủ của nó, giống như trẻ con vẫn thường thích phân loại các côn trùng thuộc loại khác nhau; và rồi thỉnh thoảng nó lại khoái lôi ra để thực hiện một vài thí nghiệm. “Này, Ba mày qua đời làm mày buồn lắm phải không? Vì thế trông mày lúc nào cũng có vẻ buồn buồn. Tao đã nghĩ như vậy ngay từ khi mới gặp mày lần đầu vào đêm qua.” Dẫu sao, những lời nhận xét của nó chẳng hề làm cho tôi khó chịu chút nào. Thực vậy, cảm tưởng của nó cho rằng trông tôi có vẻ buồn rầu đã khiến tôi an tâm và tự do, miệng tôi thốt ra được những lời nói nhẹ nhàng trôi chảy. “Truyện đó cũng chẳng có gì đáng buồn mày ạ.” Lấy tay giụi đôi lông mày dài ngang trán, Tsurukawa trố mắt nhìn tôi: “Ơ!” nó nói. “Thế có nghĩa là mày ghét ba mày có phải vậy không? Hoặc ít nhất là mày cũng không ưa ông ấy.” “Tao chẳng có điều gì ghét bỏ mà tao cũng chẳng có điều gì yêu mến gì Ba tao hết.” “Vậy thì tại sao mày lại không buồn?” “Nói gì thì nói, sự thực nó là như thế. Chính tao cũng chẳng hiểu tại sao nữa.” Đụng đầu phải vấn đề khó khăn này, Tsurukawa bèn nhỏm dậy ngồi thẳng người trên cỏ. “Trong trường hợp ấy,” nó nói, “chắc hẳn là mày đã gặp phải một truyện đau buồn nào khác.” “Thực tình tao cũng chẳng biết nữa,” tôi đáp. Sau khi nói vậy, tôi phân vân tự hỏi không biết tại sao tôi lại cứ hay gợi sự hoài nghi trong tâm trí kẻ khác cho đến thế. Còn đối với chính tôi thì chẳng hề có chút hoài nghi nào hết. Sự việc thực là quá rõ rệt: tình cảm của tôi bắt nguồn từ tật nói lắp của tôi mà ra. Những tình cảm ấy chẳng bao giờ xuất hiện đúng lúc. Do đó, tôi cảm thấy dường như sự kiện Ba qua đời và sự kiện tôi buồn rầu là hai sự việc cô lập, cách biệt với nhau, không hề móc nối và không hề có đụng chạm tới nhau. Chỉ một chút lệch lạc về thời gian, chỉ một sự chậm trễ nhỏ nhặt đã làm cho những tình cảm và những biến cố mà tôi đã hiểu biết quay lại trạng thái rời rạc ban đầu; trạng thái này, theo như chỗ tôi biết, có lẽ là trạng thái căn bản của chúng. Khi tôi buồn, nỗi buồn đột phát mà không cần một lý do nào hết: nó không hề có một liên hệ nào với một sự kiện hoặc một động lực nào cả. Một lần nữa, câu truyện lại phải kết thúc vì tôi không làm sao giải thích được tí gì cho người bạn mới đang ngồi đối diện tôi cả. Rút cuộc Tsurukawa phá ra cười. “Mày là một con người kỳ cục phải không mày?” nó nói. Mảnh áo sơ mi trắng trên bụng nó rập rờn gợn nếp theo tiếng cười. Tia nắng mặt trời rọi qua những cành lá đu đưa khiến tôi cảm thấy sung sướng. Giống như cái áo sơ mi nhăn nhúm của thằng thiếu niên, cuộc đời của tôi cũng nhăn nheo gợn nếp. Tuy nhiên, dù cho có bị nhăn nheo gợn nếp dưới ánh sáng mặt trời cái áo sơ mi trắng của nó mới rạng rỡ làm sao! Có lẽ cả tôi cũng thế nữa. Tách rời thế giới bên ngoài trong sinh hoạt riêng tư của nó, ngôi chùa tiếp tục sống theo những nghi thức thông thường của thiền tự. Vì đang vào mùa hè nên mỗi buổi sáng chúng tôi đều thức dậy vào lúc năm giờ. Thức dậy ở đây được gọi là “khai định”. Vừa thức dậy, chúng tôi tụng kinh khóa sáng. Công tác này được gọi là “tam thời hồi hướng”, vì chúng tôi đọc những bài kinh ấy ba lần. Sau đó, chúng tôi quét dọn bên trong và lau nền nhà. Rồi đến bữa ăn sáng gọi là “chúc tọa”. Chúng tôi vừa ăn cháo vừa lắng nghe tụng bài kinh đặc biệt của chúc tọa. Chúc hữu thập lợi Nhiêu ích hành nhân. Quả báo vô biên Cứu cánh thường lạc. Cháo có mười điều lợi Nhiều ích lợi cho người. Quả báo không biên giới Cứu cánh thường an vui. Sau khi ăn sáng, chúng tôi bắt tay vào những công việc vặt như nhổ cỏ, quét vườn và chặt củi. Sau đó, vào những ngày đi học, thời gian cho chúng tôi đi tới trường. Rồi, sau khi đi học về một lát, chúng tôi lại dùng “dược thạch” hoặc cơm chiều. Tiếp theo thường là buổi giải nghĩa về kinh điển nhà Phật của hòa thượng trụ trì. Đến chín giờ tối bắt đầu buổi “khai chẩm”, nghĩa là giờ đi ngủ. Đó là cuộc sống hàng ngày của tôi và mỗi ngày dấu hiệu đánh thức tôi dậy là tiếng chuông của viên quản liêu trông nom bếp nước và nghi thức trong giờ ăn. Trước kia vốn có chừng mười hai mười ba người sống ngay trong Kim Các Tự, nghĩa là trong điện Lộc Uyển tự, nhưng vì bị trưng dụng vào quân vụ và lao động nên trong chùa ngoài ông già phụ dịch khoảng bảy mươi tuổi và bà già gần sáu mươi tuổi lo việc thổi nấu, vị chấp sự và phó chấp sự, chỉ còn có ba đứa chúng tôi. Những người già thực đã phủ đầy rong rêu nửa sống nửa chết còn bọn trẻ chúng tôi hãy còn hoàn toàn là trẻ con. Viên chấp sự cũng gọi là phó ti hết sức bận rộn với cái việc kế toán trong chùa. Một vài ngày sau khi tới chùa, tôi được giao phó công việc đem báo tới tận phòng hòa thượng trụ trì (mà chúng tôi gọi là “Lão sư phụ”). Báo tới hàng ngày vào khoảng thời gian khi chúng tôi đã làm xong những công việc quét dọn. Đối với lũ chúng tôi có mấy đứa mà quét phải dọn lau chùi từng hành lang của ngôi chùa có tới ba mươi phòng trong một thời gian ngắn ngủi thì thực là một công việc nặng nhọc. Sau khi làm xong công việc, tôi ra ngoài huyền quan thu nhặt báo chí đem vào; tôi đi qua hành lang phía trước căn sứ giả, rồi vòng quanh phía sau “khách điện” và cứ thế len theo các hành lang kế tiếp tới Đại Thư Viện nơi Lão sư phụ đang chờ đợi. Các hành lang tôi đi qua đều hãy còn ẩm ướt vì mới được lau chùi; ở những chỗ trũng trên gỗ những vũng nước lấp lánh dưới ánh mặt trời sáng ban mai và làm ướt chân tôi tới tận mắt cá. Vì đang giữa mùa hè nên cái đó lại làm cho tôi có một cảm giác thích thú. Đoạn, tôi quì xuống ở phía ngoài bức mành phòng Lão sư phụ, con có vào được không ạ?” “Ừm!” tiếng trả lời vọng ra. Trước khi bước vào căn phòng, tôi lấy riềm tấm áo cà sa lau kỹ đôi chân ướt; đó là một cái trò huyền bí mà tôi đã học được của mấy thằng bạn chú tiểu. Tôi ngửi thấy cái mùi vị tươi mát, nồng nặc của thế tục phát ra từ mực in trên tờ báo; lén lút liếc vội hàng chữ lớn đầu bài tôi đọc: “Đế đô không tránh khỏi bị không tập hay chăng?” Kể ra cũng kỳ diệu, nhưng cho mãi tới lúc này tôi chưa hề nghĩ đến truyện Kim Các Tự bị máy bay oanh tạc. Vì Saipan đã thất thủ nên việc không tập vào chính quốc là điều từ lâu người ta đã cho rằng không thể tránh được, và nhà cầm quyền đã đẩy mạnh kế hoạch di tản một phần thành phố Kyoto; tuy nhiên, theo như chỗ tôi biết, dường như không hề có mối liên hệ giữa cuộc sống bán vĩnh cửu của Kim Các Tự với những tại họa do các cuộc không tập gây ra. Trong lòng tôi nghĩ là tòa Kim Cương bất hoại của Kim Các Tự và cái ngọn núi lửa khoa học do bom đạn gây ra phải biết rõ sự khác biệt hoàn toàn giữa bản chất của chúng, và tôi cũng nghĩ nếu hai thứ đó gặp nhau, chúng sẽ tự động tránh né lẫn nhau. Thế nhưng, sự thực vẫn là Kim Các Tự đang có nguy cơ bị thiêu tàn trong một cuộc không tập. Thực vậy, nếu mội việc cứ tiếp tục theo cái đà này thì Kim Các Tự chắc chắn sẽ trở thành tro bụi. Từ lúc mà ý tưởng này đã bắt rễ trong lòng, tôi thấy vẻ đẹp bi đát của Kim Các Tự mỗi ngày lại một gia tăng. Đó là một buổi chiều cuối hạ, một hôm trước ngày khai trường. Hòa thượng trụ trì cùng viên phó chấp sư đã rời chùa để lo một pháp sự. Tsurukawa rủ tôi đi xem chiếu bóng, nhưng vì tôi không có vẻ mặn mà nên nó cũng cảm thấy mất hứng, Tsurukawa vẫn có cái thói như thế. Đã được phép vắng mặt trong một vài giờ nên chúng tôi thắng bộ, đầu đội mũ học viện Rinzai, chân đi ghệt bó chặt lấy ông quần kaki, rồi rời chính đường. Ngôi chùa đắm mình trong hơi nóng hừng hực của một ngày mùa hạ và không có người khách nào tới vãn cảnh chùa cả. “Thế bây giờ bọn mình đi đâu đây?” Tsurukawa nói. Tôi trả lời rằng trước khi đi bất cứ một nơi nào, tôi cần phải ngắm lại kỹ lưỡng Kim Các Tự, bởi vì từ ngày mai trở đi, hàng ngày chúng tôi chẳng còn được ngắm nó vào giờ này nữa, và hơn thế trong khi chúng tôi xa chùa làm việc trong công trường, rất có thể Kim Các Tự bị máy bay oanh tạc mà cháy tiêu đi. Tôi ấp úng lắp bắp giải thích điều tôi muốn nói; Tsurukawa vừa lắng nghe vừa tỏ vẻ ngạc nhiên và nóng nẩy. Khi tôi chấm đứt câu nói ngắn ngủi này, mồ hôi đổ ra như suối trên mặt như thể là tôi dã nói năng điều gì rất đáng hổ thẹn. Tsurukawa là người duy nhất tôi bộc lộ cho hay sự quyến luyến lạ kỳ của tôi đối với Kim Các Tự. thế nhưng, trên vẻ mặt nó không có gì khác ngoài cái dáng bực bội mà tôi vẫn thường thấy trên mặt những người đang cố gắng tìm hiểu những lời nói lắp bắp ấp a ấp úng của tôi. Đó là những bộ mặt tôi gặp hàng ngày. Trong trường hợp tôi phơi bày những điều bí mật, trong trường hợp tôi nói cho người khác hay những cảm xúc nôn nao tràn ngập tâm hồn vì một hình ảnh đẹp nào đó, trong trường hợp tôi cố gắng bộc lộ những điều chất chứa trong tim gan - cái mà tôi đụng đầu ấy là một bộ mặt giống như bộ mặt này. Đó không phải là bộ mặt mà thiên hạ thường chường ra cho nhìn nhau nhìn. Bộ mặt này đang bắt chước y hệt vẻ hoạt kê của chính tôi; nói cho ngay, đó là tấm gương khủng khiếp phản ánh chính tôi. Vào những lúc như thế này, cho dẫu bộ mặt người có đẹp đẽ đến thế nào đi nữa, nó cũng sẽ biến dạng thành một cái gì xấu xí giống như bộ mặt của chính tôi. Ngay khi tôi nhận thấy điều này, điều quan trọng tôi muốn diễn tả đã tan vỡ thành một cái gì vô giá trị như mảnh ngói lợp nhà vậy. Mặt trời mùa hạ rọi thẳng những tia sáng chói chang giữa Tsurukawa và tôi. Trong khi nó chờ đợi cho tôi dứt lời, khuôn mặt trẻ trung của nó bóng lộn những mỡ. Đôi lông mày nó lấp lánh màu vàng trong ánh nắng và hai lỗ mũi nó nở phồng lên vì hơi nóng ngột ngạt. Tôi dứt lời. Và ngay khi vừa mới dứt lời, tôi liên cảm thấy tức giận điên cuồng. Suốt từ khi gặp Tsurukawa cho tới giờ, chưa một lần nào nó chọc ghẹo tôi vì tật nói lắp. “Tại sao?” Tôi căn vặn nó như vậy để nó giải thích thái độ khoan dung của mình. Như tôi vẫn thường kể lại, sự chê cười khinh miệt lắm khi còn làm tôi ưng ý hơn cả sự đồng tình nữa. Một nụ cười dịu dàng khôn tả thoáng hiện trên khuôn mặt Tsurukawa, và rồi nó nói: “Vì lẽ tao là thằng đếch có thêm bận tâm đến những điều ấy.” Tôi bàng hoàng kinh ngạc. Là người được nuôi nấng trong hoàn cảnh quê mùa thô lậu, tôi thực không quen với cái thứ dịu dàng tử tế như thế. Sự dịu dàng, tử tế của Tsurukawa đã dậy cho tôi biết rằng dù cho đời tôi không còn vướng mắc tật nói lắp nữa, tôi vẫn có thể là tôi. Tôi cảm thấy hoàn toàn thú vị ngay khi bị lột trần như nhộng. Đôi mắt Tsurukawa với hàng mi dài bao quanh đã gạn lọc tật nói lắp của tôi ra ngoài và chấp nhận nguyên vẹn phần còn lại trong con người của tôi. Cho đến lúc ấy, tôi vẫn hằng sống trong ảo tưởng kỳ lạ rằng việc không ngó ngàng gì đến tật nói lắp của tôi tự nó cũng tương đương như việc tru diệt chính sự hiện hữu của cái tôi vậy. Tôi cảm thấy trong mình có sự hòa hợp và cảm thấy hạnh phúc. Thực chẳng có gì lạ là từ đó đến nay chưa bao giờ tôi có thể quên được cái hình ảnh của Kim Các Tự dưới mắt tôi lúc đó. Hai đứa chúng tôi đi qua chỗ người phục dịch già nua đang thiu thiu ngủ; chúng tôi men theo lối mòn vắng tanh dọc theo tường chùa rồi đi tới phía trước Kim Các Tự. Lúc này tôi vẫn nhớ cảnh đó rõ mồn một. Hai đứa thiếu niên chúng tôi đứng đó vai kề vai bên cạnh Kính Triều trì, mình mặc sơ mi trắng và chân đi đôi ủng ống da. Trước mặt hai bóng người ấy, Kim Các Tự đứng sừng sững không có gì ngăn cách. Vào mùa hạ cuối cùng ấy, vào dịp nghỉ hè cuối cùng ấy, vào chính ngày cuối cùng ấy - tuổi trẻ của chúng tôi là đà ngây ngất ở ven bờ. Kim Các Tự cũng đứng ở ven bờ này đối diện với chúng tôi, đối thoại với chúng tôi. Tới mức độ này, sự chờ đợi cuộc không tập đã đem chúng tôi xích lại gần ngôi chùa hơn. Ánh mặt trời âm thầm cuối hạ đã lát những phiến vàng mỏng len mái Cứu Cánh đính, và làn ánh sáng từ trên hắt thẳng xuống đã làm bên trong Kim Các Tự đắm chìm vào một màn tối âm u. Cho đến mãi lúc ấy, sự bất tử với thời gian của ngôi chùa đã luôn luôn đè nặng tâm trí tôi và ngăn cách tôi với nó. Nhưng việc nó sắp bị đạn bom thiêu hủy tới nơi đã làm cho vận mệnh của nó lại gần vận mệnh của chính chúng tôi. Có thể rằng Kim Các Tự sẽ bị hủy diệt - trước cả chúng tôi nữa. Khi nghĩ như thế, tôi thấy dường như ngôi chùa đang sống cùng cuộc đời như đời chúng tôi vậy. Các núi đồi xung quanh với hàng tùng đỏ ửng đang tràn ngập tiếng ve sầu kêu ra rả, như thể vô số những tăng sĩ vô hình đang ngân nga đọc bài thần chú tiêu tai diệt họa bằng tiếng Phạn: “Khư khư khư tư khư, hồng hồng phọc la nhập phọc la, hựu nhập phọc là hựu nhập phọc la!” Tôi nghĩ tòa nhà kiến trúc xinh đẹp sắp sửa trở thành một đống tro tàn. Kết cục, hình ảnh Kim Các Tự trong tâm tưởng tôi dần dần trở nên trùng hợp với Kim Các Tự trong chùa thực tế, y như là một bức họa đã được in lại trên một bức lụa vẽ trùng hợp với bức họa nguyên thủy; cái mái chùa trong tâm tưởng của tôi in trùng lên cái mái chùa thực sự. Thấu Thanh in trùng lên thấu thanh nhô ra bờ ao, những hàng song sắt in trùng lên hàng song sắt của Triều Âm động, những hoa đầu song in trùng lên cá hoa đầu song của Cứu Cánh đính. Kim Các Tự không còn là một kiến trúc bất động nữa. Có thể nói, nó đã trở thành một tượng trưng cho tính cách phù du của thế giới hữu hình. Do suy tư này, bay giờ ngôi chùa thực sự trở nên đẹp đẽ hơn ngôi chùa nằm trong tâm tưởng tôi. Ngày mai, bởi vì tất cả chúng tôi đều biết, lửa sẽ từ trên trời cao trút xuống như mưa; lúc đó, những hàng cột mảnh mai, những đường nét ưu nhã của mái chùa kia sẽ biến thành tro tàn, và chúng tôi sẽ chẳng bao giờ còn được nhìn thấy chúng lần thứ hai. Nhưng lúc này đây ngôi chùa với đường nét tiêm tế xinh đẹp đang lộng lẫy đứng trước mặt chúng tôi, đang đắm mình trong làn ánh sáng chói chang của lửa hạ. Phía viền núi nhiều đám mây hùng vĩ ùn ùn nhô lên cao giống như những đám mây tôi cảm thấy trong khóe mắt mình lúc người ta tụng kinh trong đám tang Ba. Những đám mây ấy chứa đầy một thứ ánh sáng tù động đang ngoái nhìn nét kiến trúc của ngôi chùa. Dưới làn ánh sáng cuối hạ mãnh liệt này, Kim Các Tự dường như mất hết đường nét khác nhau đã tạo nên nó; nó khư khư ôm lấy cuộn tròn trong lòng mình bóng tối giá lạnh âm u; và với nét mờ thần bí, nó hoàn toàn lãng quên thế giới chói chang đang bao quanh nó. Chỉ có con phượng hoàng trên mái chùa là bám chặt móng vào chỗ đậu và gắng sức giữ khỏi bị loạng choạng dưới ánh mặt trời chói lòa. Khó chịu vì tôi mê mải ngắm nhìn ngôi chùa không chán mắt, Tsurukawa nhặt một hòn sỏi, rồi với dáng điệu mềm mại của người bắt banh, nó ném cục sỏi nhỏ vào ngay giữa cái bóng phản ánh mà Kim Các Tự hắt lên trên mặt Kính Triều trì. Những vành sóng gợn lan rộng qua đám cây hoa súng và nét kiến trúc mảnh mai, ngoạn mục chợt vỡ tan thành trăm nghìn mảnh nhỏ. Từ lúc đó cho đến lúc chiến tranh chấm dứt khoảng một năm sau là thời gian tôi thân thiết nhất với Kim Các Tự, luôn luôn lo lắng tới sự an toàn và hoàn toàn mê mải đắm say vẻ đẹp của nó. Đó là một thời kỳ đường như tôi đã kéo được Kim Các Tự xuống một chiều cao ngang với mình, và tin tưởng vào điều này, tôi có thể yêu nó mà không cảm thấy mảy may sợ sệt. Cho đến bây giờ ngôi chùa vẫn chưa hề gây một ảnh hưởng xấu xa hoặc đem chất độc nào của nó tới tôi cả. Tôi thấy phấn khởi khi biết Kim Các Tự và tôi đang cùng trải qua một nỗi nguy nan trên cuộc đời này và tôi thấy ở đó một môi giới kết tôi với cái đẹp. Tôi cảm thấy là giữa tôi và cái điều từ trước đến giờ vẫn hằng xa cách, vẫn hằng cự tuyệt chính tôi, đến lúc này đã có một cây cầu liên lạc. Tôi hầu như say sưa ngây ngất nghĩ rằng cái ngọn lửa hủy diệt tôi chắc chắn cũng sẽ hủy diệt cả Kim Các Tự nữa. Cùng chịu một tai họa, cung chịu một vận mệnh dưới ngọn lửa chẳng lành, ngôi chùa và tôi đã tới để sống trong những thế giới thuộc cùng một thứ bực. Cũng giống như cái nhục thể yếu ớt, xấu xí của tôi, nhục thể của ngôi chùa tuy nó cứng dắn, vồn gồm toàn chất tro than dễ cháy. Nhiều lúc tôi nghĩ tôi có thể chạy trốn khỏi nơi này mang theo một mình ngôi chùa giấu kín trong thịt xương, trong thân xác tôi - y như một tên ăn trộm nuốt một viên ngọc quí khi đang trên đường đào tẩu. Suốt trong năm đó tôi không học một bài kinh hoặc đọc một cuốn sách nào; trái lại, hết ngày này qua ngày khác, từ sáng đến tối, tôi chỉ bận rộn những bài học tu thân, giáo lý, huấn luyện quân sự và làm quen với các công tác cưỡng chế ngoài công trường. Bản tính tôi vốn đã thích mơ màng đó lại càng thêm mạnh mẽ hơn; và nhờ có chiến tranh cuộc sống con người lại càng thêm xa cách với tôi. Đối với bọn thiếu niên chúng tôi chiến tranh là một thứ kinh nghiệm giống như một thứ mơ mộng hoảng hốt thiếu hẳn thực chất. Chiến tranh là một cái gì na ná khu biệt lập trong bệnh viện ngăn cách con người với những ý vị của cuộc đời. Khi chiếc máy bay B.29 đầu tiên oanh kích Tokyo vào tháng 11 năm Chiêu Hòa thứ chín (1944) thì ai cũng nghĩ Kyoto sẽ bị không tập chỉ trong nay mai. Tôi âm thầm mê mộng là toàn thể Kyoto sẽ đắm chìm thành biển lửa. Thành phố này lo lắng quá nhiều đến việc bảo vệ những di vật cổ truyền; bao nhiêu những thần xã, những Phật các khác màu khác kiểu đang cố gắng quên những ngọn lửa chói rực đã phát sinh từ bên trong. Khi tưởng tượng trận đại loạn Ojin đã biến thành phố này thành hoang phế ra làm sao, tôi cảm thấy Kyoto mất đẹp một đôi phần vì đã quá lâu không biết đến tình trạng bất an của ngọn lửa chinh chiến. Ngày mai có thể Kim Các Tự sẽ bị thiêu hủy. Cái hình thái ấy đã lấp đầy không gian từ trước đến giờ sẽ biến mất luôn. Ngay cả con chim phượng hoàng bất tử trên mái chùa cũng sẽ như con chim phượng hoàng trong truyện cổ, sẽ vỗ cánh bay vút đi xa. Và chính Kim Các Tự từ trước đến giờ bực bội, khó chịu vì hình thái của nó, sẽ tách rời được cái neo ràng buộc thân mình và sẽ nhẹ nhàng phiêu diêu nơi này nơi nọ, gieo rắc ánh sáng nhạt mờ trên mặt hồ và trên các làn sóng biển đen ngòm. Mặc dù tôi đã đợi chờ, đợi chờ khá lâu, song Kyoto vẫn chưa bao giờ bị không tập cả. Ngay cả khi tôi đọc trên báo ngày mùng chín tháng ba năm sau đăng tin cả một dãy phố thương mại trong thành phố Tokyo đắm chìm trong lửa và mức tàn phá thật khủng khiếp, thì Kyoto vẫn sống yên ổn dưới bầu trời trong sáng đầu Xuân xa hẳn mọi tai họa. Đến lúc gần như tuyệt vọng trong đợi chờ tôi đành cố gắng tự thuyết phục rằng bầu trời đầu Xuân ấy đã chứa đựng lửa đỏ và tàn phá bên trong, y như một cửa sổ có kính óng ánh che dấu những gì ẩn đằng sau. Như tôi đang nói ở trên mối quan tâm của tôi đối với nhân gian thật là mỏng manh. Sự qua đời cả Ba và cảnh bần cùng của Má chẳng ảnh hưởng gì đến sinh hoạt nội tâm của tôi hết. Tôi mơ ước một cái gì giống như một máy ép khổng lồ từ trên trời ụp xuống nhân gian dứt hết mọi bi kịch theo quy mô của nhân gian và nghiền nát hết mọi vật chất của nhân gian trong cùng một điều kiện như nhau. Không cần phân biệt đẹp, xấu ra sao. Đôi khi tôi thấy vẻ trong sáng khác thường của bầu trời đầu Xuân giống như ánh sáng của một lưỡi rìu khổng lồ lạnh ngắt nào đó đang lấp lánh trên mặt đất. Thế rồi tôi chỉ việc chờ đợi cho nó rơi xuống nhanh đến độ không còn cho ai kịp suy nghĩ gì hết. Cho đến bây giờ vẫn còn một cái gì làm tôi cảm thấy lạ lùng khó hiểu. Xét tự căn nguyên tôi không hề bị những tư tưởng hắc ám chi phối. Điều quan tâm của tôi, vấn đề thực sự của tôi chỉ là cái đẹp mà thôi. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh này đã chẳng có tác dụng gì đến tôi bằng cách đem theo vào đầu óc tôi những tư tưởng hắc ám. Khi tập trung tư tưởng vào cái đẹp, người ta có thể chạm trán với những tư tưởng hắc ám ở trong thế giới này mà không hay biết gì hết. Tôi dám nói rằng nhân gian vẫn có phong thái như vậy. *** Tôi còn nhớ một truyện xảy ra ở Kyoto lúc chiến tranh gần chấm dứt. Một truyện tưởng như không làm sao tin được, nhưng không phải chỉ riêng một mình tôi mà bên tôi còn có cả Tsurukawa mục kích nữa. Một hôm điện bị cắt, Tsurukawa và tôi cùng đến thăm chùa Nam Thiền. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đến thăm chùa Nam Thiền. Chúng tôi vượt qua một con đường rộng lớn rồi bước lên một cái cầu gỗ bắc ngang nơi hạ thủy các con tàu. Đó là ngày tháng năm trong sáng. Bến hạ thủy không còn được sử dụng nữa, các đường rầy chạy xuống con dốc đã han rĩ và hầu như hoàn toàn đã bị cỏ dại phủ đầy. Giữa đám cỏ dại, những bông hoa hình chữ thập nhỏ bé, mỏng manh đang run rẩy trong gió. Ở mặt dốc khởi đầu bến hạ thủy, nước sông dơ bẩn và tù đọng. Chúng tôi đứng bên bờ hoàn toàn chìm đắm dưới bóng lá cây anh đào. Đứng trên chiếc cầu nhỏ bé, chúng tôi lơ đễnh ngắm nhìn mặt nước. Giữa những hồi tưởng về chiến tranh, những giây lát lơ là ngắn ngủi như thế này đã để lại nhiều ấn tượng thật là tươi sáng. Những giây phút phóng tâm ngắn ngủi ấy rải rác trong thời gian, giống như những mảng trời xanh ngó qua đám mây, kể cũng kỳ lạ khi một giây lát này lại còn mãi mãi tươi mát trong tâm trí tôi, y như thể ký ức về một niềm khoái lạc thống thiết. “Đẹp, phải không?” Tôi nói và mỉm cười lơ đãng. “Ừ”, Tsurukawa đáp, rồi nó cũng nhìn tôi và mỉm cười. Hai đứa chúng tôi cảm thấy rõ rệt rằng hai ba giờ đồng hồ ngắn ngủi này hoàn toàn là của chúng tôi. Bên cạnh con đường đất rộng trải sỏi có một con lạch nước trong văn vắt, trong đó những loài thủy thảo xinh đẹp đang ngả nghiêng theo dòng nước chẩy. Chẳng mấy chốc cửa Sơn Môn lừng danh hiện ra ngay trước mắt chúng tôi. Chẳng có một bóng người nào trong chùa. Giữa chòm lá xanh tươi những viên ngói của mái tháp chùa rực rỡ lạ kỳ, như thể có quyển sách nạm bạc khổng lồ nào đã được đặt lên đó, vào một thời gian nào có nghĩa gì không? Ở một nơi nào đó, vào một thời gian nào đó, đối với tôi chiến tranh dường như đã trở thành một sự kiện tinh htần kỳ quái không hề tồn tại trong ý thức con người. Có lẽ chính ở cửa Sơn Môn này mà Ishikawa Goémon, tay trộm khét tiếng thời xưa, đã đặt bàn chân lên hàng lan can mà thưởng thức cảnh hoa nở rộ ở phía dưới cho đến chán mắt. Hai đứa chúng tôi cảm thấy mình trở laọi tâm hồn con trẻ và, tuy đã đến cuối mùa hoa anh đào, lá xanh mọc ra, chúng tôi nghĩ phải làm sao thưởng ngoạn cảnh sắc này cũng trong dáng điệu của Goémon ngày trước. Chúng tôi trả ít tiền vào cửa rồi leo lên các bậc thềm thực dốc, gỗ đã ngả màu đen kịt. Trong căn điện ở thượng từng, nơi tập dượt các vũ điệu tôn giáo ngày trước, Tsurukawa va đầu vào cái trần nhà thấp. Tôi bật cười, nhưng ngay sau đó chính tôi cũng chợt va đầu mình vào cái trần thấp lè tè ấy. Hai đứa chúng tôi rẽ lối khác, leo lên bậc thềm cuối cùng rồi tới lầu thượng. Sau khi trèo lên những bậc thềm, chật chội như trong một cái huyệt, rồi cảm thấy thân thể mình bất thần được phơi ra cảnh trí rộng lớn bên ngoài thực là một sự căng thẳng khoái trá. Chúng tôi đứng đó một lúc ngắm nhìn những lá cây anh đào, những ngọn thông trong khu rừng cây um tùm thuộc thần cung Heian trải dài ra tận phía xa ngoài các dẫy nhà, những núi - Arashiyama, Kitanokata, Kifume, Minoura, Kompira - tất cả vươn lên mờ ảo khói sương mãi tới đầu những đường phố Kyoto. Sau khi đã ngắm nhìn no mắt, chúng tôi cởi giầy rồi bước vào trong điện cung kính như hai chú tiểu gương mẫu. Trong căn ngự đường u ám này có hai mươi bốn chiếc chiếu cói trải trên sàn. Ở chính giữa là phong tượng đức Thích Ca, và những cặp mắt vàng óng của mười sáu vị La Hán rực sáng trong bóng tối. Người ta gọi nơi này là Ngũ phượng lâu. Cũng như Kim Các Tự, Nam Thiền tự cũng thuộc về tông Rinzai, nhưng trong Kim Các Tự theo phái Tướng quốc tự thì nơi này là đại bản sơn của phái Nam Thiền tự. Chúng tôi đứng đó giống như hai anh học sinh trung học tầm thường, tay cầm quyển sách chỉ dẫn, mắt nhìn quanh những bức họa sắc màu rực rỡ trên trần nhà mà người ta bảo là tác phẩm của Tanyu Moniroby xuất thân từ trường phái Kano và Hogan Tokuetsu xuất thân từ trường phái Tosa. Ở một phía trần nhà có hình vẽ các vì tiên đang giang cánh bay ngang bầu trời, đang thổi sáo và gẩy đàn tì bà. Ở chỗ khác, có hình một con già lăng tần già đang vỗ cánh bay, miệng ngậm cành hoa mẫu đơn trắng. Đây là con chim có giọng hót tuyệt dịu sống trên núi Thiên Trúc Tuyết Sơn, nửa trên mình nó là thân hình một người con gái mụ mẫm và nửa dưới mình nó có hình thù một con chim. Ở chính giữa trần nhà có vẻ một hình con chim hoang đường ấy mà người ta bảo là bạn thân của con chim ở trên nó Kim Các Tự; nhưng con này giống như cái cầu vồng rực rỡ, hoàn toàn khác hẳn với con chim vàng óng mà tôi từng quá quen thuộc kia. Chúng tôi quỳ xuống trước pho tượng đức Thích Ca và chắp tay niệm kinh. Sau đó chúng tôi bước ra khỏi ngự đường. Đi từ lầu thượng lết xuống dưới thật là khó nhọc. Chúng tôi dựa lưng vào lan can, quay mặt về hướng Nam gần bực thềm cuối cùng chỗ chúng tôi đã trèo qua. Tôi thấy dường như ở một chỗ nào đó tôi có thể nhìn thấy một cái xoáy nước sặc sỡ, nhỏ bé, xinh đẹp trước mắt mình. Hẳn đây phải là một dư ảnh của những màu sắc ngưng tụ phong phú thật giống như con chim già lăng tần già kia đang núp mình đâu đó giữa đám lá xanh rờn trải rộng ra khắp nơi ở phía dưới và như thế nó đang để cho tôi thoáng nhìn thấy một góc đôi cánh mỹ miều. Tuy nhiên, không phải như thế. Dưới mắt chúng tôi cách một con đường là am Thiên Thụ. Một con đường nhỏ, trải đá hình vuông, góc hòn nọ ăn khít với góc hòn kia, chạy băng qua khu vườn, nơi có những cây thấp, lặng lẽ đã được trồng theo một lối đơn giản; con đường này dẫn tới một tọa phu rộng rãi có cửa kéo mở toang. Người ta có thể nhìn thấy từng chi tiết trong tọa phu và các giá gỗ xiêu vẹo. Một tấm thảm màu đỏ tươi trải trên nền nhà: hiển nhiên là phòng này thường được dùng làm nơi hiến trà và cho thuê làm lễ trà đạo. Một thiếu phụ đang ngồi đó. Chính hình ảnh người đàn bà trẻ tuổi này đã phản ánh trong mắt tôi. Trong thời chiến tranh không bao giờ người ta thấy một người đàn bà mặc áo kimono dài tay lộng lẫy như người ấy. Bất kỳ ai ra khỏi nhà mà mặc áo như người này chắc chắn thế nào cũng bị thiên hạ dè bỉu, chê trách là không biết sống thanh đạm vì lòng yêu nước, và thế nào cũng phải quay về nhà mà thay áo. Tấm áo thật là sặc sỡ. Tôi không nhìn thấy rõ hàng vải, song thấy nhiều bông hoa đã được vẽ và thêu tay trên nền vải màu nước xanh, đồng thời giải dây lưng màu son vàng cuốn quanh người đang óng ánh những sợi chỉ vàng; thật dường như thể không khí xung quanh đang rực sáng vì vẻ rực rỡ của tấm áo nàng mặc. Người thiếu phụ trẻ đẹp đang ngồi trên nền nhà dáng vẻ hết sức chững chạc, có thể nói là khoe khoang nữa, nét mặt nàng nhìn nghiêng trắng bệch lồ lộ như thể được khắc nổi, vì mới thoạt nhìn tôi ngăn mình tự hỏi không biết có phải nàng thực sự là một con người hãy còn sống hay không. “Trời đất ơi!” Tôi lắp bắp đến cực độ nói không ra lời. “Có thực là nàng còn sống hay không vậy?” “Đó cũng là điều tao đang nghỉ. Trông nàng thật giống hệt một con búp bê, phải không mày? Tsurukawa vừa đáp vừa dựa hẳn người vào lan can và dán đôi mắt vào người thiếu phụ. Đúng lúc ấy một vị sĩ quan lục quân trẻ tuổi trong bộ quân phục xuất hiện ở cuối căn phòng. Người ấy ngồi xuống thực thẳng người cách thiếu phụ độ hai thước và đối diện với nàng. Hai người ngồi trước mặt nhau, im lặng một lúc lâu. Nàng đứng dậy rồi lặng lẽ biến mình trong bóng tối hành lang. Một lát sau, nàng trở lại, hai tay bưng một chén trà, đôi tay áo buông dài phất phơ trong gió nhẹ. Nàng quì ngay trước mặt chàng trai và dâng một tách trà. Sau khi mời chàng theo đúng nghi thức, nàng quay lại chỗ ngồi lúc nẫy. Chàng trai nói một điều gì đó. Chàng vẫn chưa uống tách trà. Thời gian kế tiếp có vẻ kéo dài và căng thẳng một cách kỳ lạ. Nàng cúi gục đầu và thực thấp. Chính vào giây phút ấy xẩy ra điều không thể làm sao tin được. Vẫn ngồi tại chỗ trong tư thế thực là nghiêm chỉnh, bất chợt thiếu phụ tháo tung cổ áo. Tai tôi hầu như nghe rõ tiếng lụa sột soạt trong lúc nàng kéo vạt áo ra khỏi sợi dây lưng. Thế rồi bộ ngực trắng nõn của nàng lộ ra. Tôi nín thở. Ngàng tự đưa hai bàn tay nàng nâng một bầu vú căng phồng nõn nà vạch ra ngoài. Người sĩ quan chìa tách trà đậm màu ra rồi quì gối lần đến trước nàng. Thiếu phụ đưa cả hai tay nắn bóp bầu vú mình. Tôi chẳng thể nói là đã nhìn thấy tất cả, song tôi cảm thấy rõ mồn một như thể cảnh ấy đã xẩy ra đầy đủ trước mắt tôi; chất sữa âm ấm, trắng toát đã từ vú nàng bắn vọt vào chất trà xanh thẩm sủi bọt bên trong cái tách, chất sửa ấy đã hòa tan vào chất nước trong khi để sót lại những giọt sửa trắng ở trên đầu vú; mặt nước trà phẳng lặng kia đã bị cái bầu vú trắng nõn ấy làm đục màu và sủi bọt. Chàng trai nâng tách nước lên miệng và uống cạn tách trà huyền bí ấy. Thiếu phụ kéo áo che kín bộ ngực căng tròn. Tsurukawa và tôi hai đứa trố mắt nhìn cảnh ấy. Về sau nghĩ lại cố tìm một cách giải thích thuận tai, chúng tôi đi đến một kết luận hẳn đó phải là một nghi thức biệt ly giữa một sĩ quan sắp sửa lên đường ra trận với người thiếu phụ đã mang trong bụng đứa con của mình. Tuy nhiên, sự xúc động ấy khiến chúng tôi không sao tìm được một câu giải thích nào. Cứ mãi giương mắt mà nhìn trân trân, chúng tôi không kịp để ý là chàng và nàng đã rời khỏi tọa phu, chẳng để lại gì đằng sau ngoại trừ tấm thảm lớn màu đỏ. Tôi nhìn thấy nét mặt nàng trắng trẻo xoay nghiêng, nổi bật lên như khắc và tôi nhìn thấy khung ngực nàng trắng nõn trắng nà. Sau khi nàng đã ra đi, trong suốt thời gian còn lại trong ngày hôm đó rồi cả ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa tôi cứ chăm chăm nghĩ mãi đến một điều. Tôi nghĩ thiếu phụ ấy không phải là ai khác mà chính là Uiko đã trở lại cõi trần. -------------------- Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 22nd July 2025 - 03:44 AM |