Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 Biển Đông nổi sóng: Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà - Trần Đỗ Cẩm - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> Biển Đông nổi sóng: Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà - Trần Đỗ Cẩm
caoduy
post Mar 2 2010, 08:20 AM
Post #1


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 53
Country






Biển Đông nổi sóng: Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà


Trần Đỗ Cẩm

PHẦN I

MỞ ĐẦU

Vào đầu năm 1974, trong lúc tình hình chiến sự tại Việt Nam trở nên vô cùng sôi động với các trận đánh lớn diễn ra trên khắp bốn vùng chiến thuật thì ngoài khơi Biển Ðông đã xảy ra một Trận Hải Chiến có tầm vóc lịch sử giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và hải quân Trung Cộng. Ðây là lần đầu tiên kể từ khi Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn dưới thời Nhà Trần đánh thắng quân Mông Cổ, Nam quân lại đụng độ với Bắc quân trên mặt biển. Và cũng như những lần trước, tuy lực lượng của kẻ thù phương Bắc mạnh hơn gấp nhiều lần, các Chiến Sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa noi gương Thánh Tổ đã anh dũng chiến đấu, gây cho địch những tổn thất nặng nề.

Vào thời điểm đó, Tổng Thống Nixon trước đây đã dùng chính sách ‘’ngoại giao bóng bàn’’ ve vãn được Trung Cộng nên nhiều dư luận cho rằng Hoa Kỳ đã gián tiếp bàn giao Quần Ðảo Hoàng Sa cho Trung Cộng cũng như bán đứng miền Nam Việt Nam chỉ một năm sau đó. Nghi vấn này sẽ được bàn tới ở phần sau. Ðiều quan trọng cần nói ở đây là ngay trong thời gian Trận Hải Chiến xảy ra cách đây gần một phần tư thế kỷ, chính các Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không dám nghĩ rằng Hải Quân Việt Nam sẽ tham chiến vì lực lượng đôi bên quá chênh lệch. Những ‘’cố vấn’’ kiêm chuyên gia về Hải Quân này dự trù rằng các chiến hạm Việt Nam sẽ lặng lẽ rút lui bỏ mặc Quần Ðảo Hoàng Sa thân yêu rơi vào tay giặc.

Những ước đoán trên được căn cứ vào thái độ của Hải Quân Hoa Kỳ lúc đó đang làm bá chủ Biển Ðông nhưng cho biết họ đứng ngoài vòng tranh chấp. Ngoài ra, họ cũng không đồng ý việc sử dụng các khinh tốc đỉnh (PT boat) tại Ðà Nẵng, tuy với Thủy Thủ Ðoàn Việt Nam điều khiển nhưng lại do Hoa Kỳ kiểm soát. Ngay tới khi Trận Hải Chiến đã kết thúc, Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ vẫn còn từ chối tiếp cứu những Thủy Thủ Việt Nam lâm nạn, một điều trái ngược với qui luật của người đi biển. Cho tới nay, chúng tôi đã nhiều lần viết thư yêu cầu Phòng Quân Sự của Hải Quân Hoa Kỳ cung cấp những dữ kiện đã được giải mật về Trận Hải Chiến Hoàng Sa, nhưng lúc nào họ cũng trả lời ‘’không có bất cứ một tài liệu nào liên quan trong hồ sơ lưu trữ’’. Ðây là một điều rất khó tin vì lúc đó, Hải Ðoàn 77 (Task Force 77) của Hải Quân Hoa Kỳ gồm nhiều mẫu hạm và các chiến hạm yểm trợ tổng cộng gần 20 tàu chiến đang hoạt động tại vị trí ‘’Yankee’’ (Yankee Station) cách Hoàng Sa về phía Ðông Bắc không xa. Thật sự Hoa Kỳ có hoàn toàn ‘’không biết’’ hay đứng ngoài vụ tranh chấp hay không? Vì lý do gì? Mời Độc Giả tuần tự theo dõi các diễn biễn của Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa để tìm câu trả lời.

Nhưng ngoài sự dự đoán của Hoa Kỳ cũng như của Trung Cộng, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa dù đơn độc và cô thế cũng đã dùng hết sức tham chiến. Các Chiến Sĩ Áo Trắng đã can đảm nổ súng vào quân xâm lăng và chiến đấu đến tận cùng khả năng của mình. Sau Trận Hải Chiến, dư luận báo chí quốc tế đã bày tỏ nhiều thiện cảm qua những bài bình luận rất thuận lợi cho Việt Nam trong khi lên án bọn xâm lược Trung Cộng.

Trước hết, tưởng cũng cần nêu lên một vài điểm liên quan đến việc sưu tầm tài liệu để viết bài này. Nói chung, đây là việc rất khó khăn vì đa số đã bị thất lạc hoặc vùi chôn trong quá khứ.

Thứ nhất, Trận Hải Chiến xảy ra cách đây đã lâu nên những chi tiết ngay cả đối với những người đã trực tiếp tham dự không ít thì nhiều cũng bị mai một với thời gian. Vả lại, mỗi nhân chứng tùy theo vị trí và hoàn cảnh sẽ có tầm nhìn và nhận xét khác nhau, do đó việc tường thuật trung thực như một máy quay phim thiết tưởng không thể nào thực hiện được.

Thứ hai, tuy đã có một số bài viết về Hoàng Sa nhưng những tài liệu này phần lớn dựa vào ký ức nên kém chính xác và chưa đủ để nói lên tầm vóc quan trọng của biến cố lịch sử này.

Thứ ba, vì miền Nam đã bị cộng sản xâm chiến nên những tài liệu chính thức như các phúc trình hậu hành quân của các Chiến Hạm tham chiến cũng như của Bộ Tư Lệnh Hải Quân rất khó sao lục lại. Theo Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, báo Le Courier du Vietnam cho biết ngày nay còn có một Bản Tổng Kết Hải Chiến Hoàng Sa của Bộ Tư Lệnh Hải Quân trình Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lưu giữ tại Hà Nội. Chúng tôi nghe nói Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc đang sửa soạn viết về Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa, dự trù hoàn tất vào năm 1999 là ngày kỷ niệm 25 năm trận đánh. Ðây là một nguồn tin rất đáng khích lệ, vì chắc chắn Ðại Tá là người biết nhiều nhất và đủ thẩm quyền nhất để tường thuật về trận đánh do chính ông chỉ huy.

Vì những lý do trên, tuy khả năng và hoàn cảnh hỗn hợp, chúng tôi cũng cố gắng viết lại Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa, càng gần với sự thật càng tốt, căn cứ vào những tài liệu thâu thập được cũng như những lời kể lại của các nhân chứng. Tác Giả may mắn và hãnh diện được là bạn cùng Khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang với hai trong số bốn Vị Hạm Trưởng tham chiến, đó là Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 và Hải Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh, Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5. Hai Hạm Trưởng còn lại là Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự (Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16) thuộc Khóa 10 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và Cố Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà thuộc Khoá 12 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang là các Khóa sát trên và dưới trong lúc cùng học tại Nha Trang nên cũng có dịp quen biết ít nhiều. Ngoài ra, chúng tôi cũng có dịp tiếp chuyện nhiều lần với Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc là Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật trong Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa. Chúng tôi cũng cám ơn anh bạn trẻ Trương Văn Quang hiện cư ngụ tại Úc Châu đã trợ giúp sưu tầm nhiều hình ảnh và chi tiết hiếm có. Nhưng dù sao, bài viết này chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót và kém chính xác, Tác Giả mong mỏi sẽ được những người biết chuyện thẳng thắn phê bình xây và bổ túc để phần tài liệu về Trận Hải Chiến Hoàng Sa được thêm đầy đủ.

Ðể dễ dàng theo Trận Hải Chiến lịch sử tại Hoàng Sa, trước khi tường thuật chi tiết về trận chiến, chúng tôi sẽ nói qua về Quần Ðảo này và sau cùng sẽ nêu lên vài nhận xét và bình luận.

1. Biển Đông: Xác định một danh từ

Trên các bản đồ cũng như hải đồ quốc tế, vùng biển cực Tây của Thái Bình Dương nằm về phía Nam lục địa Trung Hoa thường được gọi là South China Sea. Theo thông lệ, các Nhà Hàng Hải thời xưa thường lấy tên khu vực đất liền lân cận để đặt tên vùng biển tiếp giáp. Vì vậy, trên bản đồ, chúng ta thấy những tên biển quen thuộc như: Biển Ấn Ðộ hay Ấn Ðộ Dương (Indian Ocean), Biển Nhật Bản (Sea of Japan), Vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin), Vịnh Thái Lan (Gulf of Thailand) hay Vịnh Mễ Tây Cơ (Gulf of Mexico) v.v...

Do đó, South China Sea chỉ đơn thuần được dùng để chỉ vùng biển nằm về phía Nam lục địa Trung Hoa. Tuy có chữ ‘’China’’ trong đó những danh từ này không bao hàm ý nghĩa ‘’của’’ hay ‘’thuộc về’’ Trung Hoa, cũng như Vịnh Mễ Tây Cơ không phải là tài sản riêng của Mexico. Sở dĩ cần xác định như trên để tránh những hiểu lầm, vì rất có thể khi thấy chữ ‘’China’’, một số người có thể ngộ nhận là ‘’của Trung Hoa’’. Riêng đối với người Việt Nam, tuy South China Sea ở phía Nam Trung Hoa, nhưng lại nằm về phía Ðông của Việt Nam, nên thiết tưởng ‘’Biển Ðông’’ là tên chính xác để mệnh danh vùng biển thân yêu này. Từ ngàn xưa, Tổ Tiên ta đã có danh từ Biển Ðông. Bằng chứng là những câu ca dao quen thuộc như:

Dã tràng xe xát Biển Ðông, Nhọc mình mà chũng nên công cán gì

Hoặc

Thuận vợ thuận chồng, tát Biển Ðông cũng cạn.

Trong bài ‘’Văn Tế Cá Sâu’’ bằng tiếng Nôm của Ðại Học Sĩ Nguyễn Thuyên cũng có câu như sau:

Ngạc ngư kia hỏi mày có hay,
Biển Ðông rộng rãi là nơi mày,
Phú Lương đây thuộc nơi Thánh vực,
Lạc lối đâu mà lại tới đây?

Nhận xét như trên,chúng tôi mạnh dạn đề nghị các sách báo của người Việt nên dùng danh xưng Biển Ðông để thay thế cho từ ngữ Nam Hải hay South China Sea. Ðây không những là một việc làm ‘’danh chính ngôn thuận’’, mà còn nhắc nhở chúng ta luôn luôn nhớ đến vùng biển thân thiết đã gắn liền với vận mạng Dân Tộc qua những thăng trầm của lịch sử.

2. Vị Trí

Trên bản đồ hàng hải, Quần Ðảo Hoàng Sa là một chuỗi gồm trên 100 Ðảo nhỏ nằm ngoài khơi Việt Nam, giữa kinh tuyến 111 độ-113 độ Ðông và vĩ tuyến 15 độ 45 -17 độ 05 Bắc. Nói khác đi, Quần Ðảo này cách bờ biển Ðà Nẵng chừng 170 hải lý (khoảng 300 cây số) về hướng Ðông và có khoảng cách từ 400 hải lý đến 500 hải lý (720 cây số đến 900 cây số) đối với các Hải Cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Hương Cảng và Manila. Theo tục truyền, Toán thám sát dưới Triều Vua Gia Long báo cáo Quần Ðảo này có nhiều bãi cát vàng, vì vậy nên được đặt tên là Hoàng Sa.

3. Địa Thế

Trên các hải đồ quốc tế, Quần Ðảo Hoàng Sa được gọi là Paracel Islands hay Paracels. Có người cho rằng tên Paracel bắt nguồn từ chữ Bồ Ðào Nha ‘’Paracel’’ có nghĩa là ‘’đá ngầm’’. Giả thuyết này nghe cũng khá hợp lý vì mấy thế kỷ trước đây, dân Bồ Ðào Nha (Portugal) và Tây Ban Nha (Spain) có rất nhiều đi hải thuyền nổi tiếng chu du thám hiểm vòng quanh thế giới. Ði tới đâu, họ dùng tên của nước mình để đặt cho những vùng biển hay đất lạ chưa được ghi chép trên bản đồ. Hơn nữa, các Ðảo trong vùng Hoàng Sa thường rất thấp, chỗ cao chừng vài ba thước trên mặt biển nên trông như những bãi đá ngầm khi thủy triều lên. Giả thuyết thứ hai cho rằng ‘’Paracel’’ là tên một thương thuyền thuộc Công Ty Ðông Ấn của người Anh bị mắc cạn và chìm tại vùng Hoàng Sa vào khoảng Thế Kỷ thứ 16. Chúng tôi thiết nghĩ giả thuyết thứ hai này có vẻ hữu lý hơn, vì trong Quần Ðảo Hoàng Sa có nhóm Ðảo Amphitrite là tên của một tàu Pháp gặp nạn tại Hoàng Sa khi vượt biển buôn bán với Trung Hoa vào Thế Kỷ thứ 17.

Theo các bản đồ cổ của Việt Nam, Quần Ðảo Hoàng Sa mang tên bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng vì cát tại đây thường có màu vàng, nhất là tại Ðảo Quang Hòa. Người Trung Hoa gọi vùng này là Hsisha hay Xisha Quandao tức là Tây Sa Quần Ðảo. Quần Ðảo Hoàng Sa gồm có rất nhiều Ðảo lớn, Ðảo nhỏ, cồn cát, bãi cát, đá ngầm v.v... nên rất khó xác định có tổng cộng bao nhiêu ‘’đơn vị’’. Ðảo cao nhất là Rocky Island nhô cao khỏi mặt nước chừng 20 thước. Sách cổ Việt Nam cho biết có cả thảy chừng 130 Ðảo,Cồn v.v... Tuy nhiên, trên các hải đồ quốc tế chúng ta thấy chỗ ghi nhận vài ba chục Ðảo lớn. Tưởng cũng cần nói thêm, ngoài các Ðảo, Cồn và đá nổi cao khỏi mặt nước, vùng Hoàng Sa còn có hai bãi ngầm (Bank hay Shoal) rất lớn luôn luôn chìm dưới mực nước biển, đó là Macclesfield và Scarborough Shoal nằm về hướng Ðông. Những bãi ngầm hay vùng nước cạn giữa biển này rất nguy hiểm cho các tàu bè qua lại vì khi thời tiết tốt, mặt biển trông rất phẳng lặng bình yên không có dấu hiệu đe dọa nào, chỉ khi trời nổi sóng gió mới thấy những lượng sóng bạc đầu trên các vùng bãi hay đá ngầm.

Nếu chỉ kể riêng những Ðảo (đá, đất, bãi cát, cồn...cao hơn mặt biển), Quần Ðảo Hoàng Sa được các Nhà Hàng Hải chia thành hai nhóm chính: Ðó là nhóm Trăng Khuyết và nhóm An Vĩnh.

a. Nhóm Trăng Khuyết (crescent group)

Những Ðảo thuộc nhóm này kết hợp lại thành một hình cánh cung hay lưới liềm nên được đặt tên là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm, tên quốc tế là Crescent hay Croissant. Ðây là Nhóm Ðảo quan trọng nhất nằm về phía Tây của Quần Ðảo Hoàng Sa, tức là gần với đất liền Việt Nam nhất. Nhóm này gồm 7 hòn Ðảo chính và một số bãi ngầm.

1. Ðảo Hoàng Sa (Pattle Island): Ðây là hòn Ðảo chính của Quần Ðảo, nhưng lại không phải là Ðảo lớn nhất. Ðảo này hình bầu dục, chiều dài khoảng 950 thước, chiều rộng khoảng 650 thước. Các Cơ Sở Quân Sự, Ðài Khí Tượng, Hải Ðăng, Cầu Tàu...đều đặt trên hòn Ðảo này. Những Cơ Sở này đa số được thiết lập từ thời Pháp thuộc, đều thuộc quyền sở hữu của Việt Nam Cộng Hòa. Ngoài ra còn có các kiến trúc khác như Miếu Bà, Nhà Thờ, Bia chủ quyền Việt Nam và đường xe gòng dẫn ra Cầu Tàu để chuyển vận phân bón. Vì là Ðảo chính có nhiều Cơ Sở Hành chánh nên thường dùng làm tên chung cho cả Quần Ðảo.

Ðảo Hoàng Sa đủ lớn để thiết lập một phi đạo ngắn tầm. Vào đầu năm 1974, Việt Nam Cộng Hòa dự trù xây cất một phi trường tại đây nhưng khi Toán Công Binh dò thám được tầu Hải Quân chở ra tới nơi thì Ðảo bị Trung Cộng cưỡng chiếm. Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, có một Trung Ðội Ðịa Phương Quân thuộc Chi Khu Hòa Vang thuộc Tiều Khu Quảng Nam đồn trú.

2. Ðảo Cam Tuyền (hay Hữu Nhật-Robert Island): Ðảo mang tên một Xuất Ðội dưới Triều Nhà Nguyễn tên thật là Nguyễn Hữu Nhật. Diện tích Ðảo này chừng 0.32 cây số vuông, nằm cách Ðảo Hoàng Sa chừng 3 hải lý về hướng Nam. Ðảo có một vòng san hô bao chung quanh, có chỗ ăn liền tới bờ Ðảo.

3. Ðảo Duy Mộng (Drummond Island): Hình bầu dục, cao chừng 4 thước trên mặt biển, diện tích chừng 0.41 cây số vuông. Nước tương đối sâu, tầu lớn có thể vào sát bờ chỉ cách vài ba trăm thước. Trong Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974, đa số các chiến hạm Trung Cộng tập trung quanh Ðảo này.

4. Ðảo Quang Ảnh (hay Vĩnh Lộc-Money Island): Quang Ảnh là tên một Vị Ðội Trưởng dưới Triều Nguyễn tên thật là Phạm Quang Ảnh. Vào thời Vua Gia Long, Vị Ðội Trưởng này thường đem hải thuyền ra Hoàng Sa để thu lượm hải vật. Ðảo cao chừng 6 thước, diện tích gần nửa cây số vuông. Chung quanh Ðảo có nhiều đá ngầm và san hô rất nguy hiểm cho tàu bè.

5. Ðảo Quang Hòa (Duncan Island): Là hòn Ðảo lớn nhất trong nhóm trăng khuyết với diện tích chừng nửa cây số vuông. Quanh Ðảo là bãi cát mầu vàng, có lẽ vì vậy mà cả Quần Ðảo mang tên Hoàng Sa, bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng. Vì có nhiều Ðảo nhỏ nối liền với nhau bằng những giải cát nên có một số hải đồ chia Ðảo này thành hai Ðảo Quang Hòa Ðông và Quang Hòa Tây. Chung quanh Ðảo có vòng san hô bao bọc. Trong Trận Hải Chiến giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Trung Cộng, chiến hạm đôi bên đã đụng độ nhau tại mặt Tây, chỉ cách Ðảo mấy hải lý.

6. Ðảo Bạch Qủy (Passu Island): Ðảo cấu tạo bằng san hô, rất thấp, chỉ nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống. Ðảo rất trơ trọi khiến người khó có thể sinh sống.

7. Ðảo Tri Tôn (Triton Island): Gần với đất liền Việt Nam nhất. Ðảo trơ trọi toàn đá và san hô chết.

8. Các Bãi Ngầm: Ngoài các Ðảo chính nêu trên trong vùng biển thuộc nhóm Trăng Khuyết còn có một số Bãi Ngầm đáng kể và rất nguy hiểm cho tàu bè qua lại sau đây:

* Bãi Antelope Reef: Gồm toàn san hô ngầm, nằm về phía Nam Ðảo Hữu Nhật và phía Ðông Ðảo Quang Ảnh.
BIỂN ÐÔNG NỔI SÓNG-HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA 21

* Bãi Vuladdore: Nằm về hướng Ðông Nam của nhóm Trăng Khuyết, cách chừng 20 hải lý.

* Bãi Discovery Reef: Là bãi ngầm lớn nhất. Ðây là một vòng rộng toàn san hô, chiều dài chừng 15 hải lý và rộng chừng 5 hải lý.

b. Nhóm An Vĩnh (amphitrite group)

Nằm về hướng Ðông Bắc Quần Ðảo Hoàng Sa. An Vĩnh nguyên là tên của một Xã thuộc Tỉnh Quảng Ngãi thời trước. Sách Ðại Nam Thực Lục Tiên Biên chép về Xã này như sau: ‘’Ngoài biển Xã An Vĩnh, Huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát kéo dài tới không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa Châu...Hồi Quốc Sơ đầu Triều Nguyễn có đợt đi Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân Xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra Ðảo, ba đêm thì tới nơi...’’

Nhóm An Vĩnh còn có tên là Amphitrite hay Tuyên Ðức, gồm nhiều Ðảo tương đối lớn và cao. Sau đây là một số Ðảo chính: Ðảo Phú Lâm. Ðảo Cây, còn gọi là Ðảo Cù Mộc. Ðảo Lincoln. Ðảo Trung. Ðảo Bắc. Ðảo Nam. Ðảo Tây. Ðảo Hòn Ðá.

Hải Ðảo quan trọng nhất trong Nhóm An Vĩnh là Ðảo Phú Lâm, còn gọi là Woody Island nằn cạnh Ðảo Hòn Ðá nhưng diện tích lớn hơn nhiều. Trước Ðệ Nhị Thế Chiến, người Pháp tại Ðông Dương đã khai thác những Ðảo thuộc Nhóm An Vĩnh. Họ cũng thiết lập tại đây một Ðài Khí Tượng giống như trên Ðảo Hoàng Sa. Sau Thế Chiến Thứ Hai, Pháp phái Chiến Hạm Savorgnan de Brazza đến chiếm lại các Ðảo tại vùng Hoàng Sa từ tay người Nhật vào tháng 6 năm 1946. Nhưng sau đó vì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, Pháp phải rút quân về đất liền. Lợi dụng cơ hội Hoàng Sa bị bỏ trống, Trung Hoa lấy cớ giải giới quân Nhật đã lén đổ quân lên Ðảo Phú Lâm rồi chiếm đóng luôn Ðảo này. Ngoài ra, họ cũng tiến xa hơn về phía Nam, chiếm luôn Ðảo Thái Bình (Itu Aba) thuộc Quần Ðảo Trường Sa của Việt Nam.

Vào ngày 13 tháng 1 năm 1947, người Pháp tại Ðông Dương chính thức phản kháng hành động chiếm đóng các Hải Ðảo bất hợp pháp của Trung Hoa và phái chiến hạm Le Tonkinois ra Hoàng Sa. Thấy Ðảo Phú Lâm đã bị chiếm đóng và phòng thủ kỹ lưỡng, chiến hạm này quay về Ðảo Hoàng Sa (Pattle Island) để đổ 10 quân nhân Pháp và 17 quân nhân Việt Nam lên chiếm đóng Ðảo này. Khi Trung Hoa Dân Quốc phải bỏ Hoa Lục chạy sang Ðài Loan, họ cũng rút quân ở Ðảo Phú Lâm và Thái Bình về. Mãi tới 7 năm sau khi làm chủ được lục địa, Trung Cộng mới cho quân chiếm đóng Ðảo Phú Lâm vào đêm 20 rạng ngày 21 tháng 2 năm 1956.

Trong Nhóm An Vĩnh, ngoài Phú Lâm còn có một Hòn Ðảo quan trọng khác, đó là Ðảo Lincoln, nằm về phía Ðông của Nhóm. Ðây là Ðảo lớn nhất trong Quần Ðảo Hoàng Sa với diện tích chừng 1.6 cây số vuông hay tương đương 400 acres, bề cao chừng 3-4 thước. Hiện nay, dự đoán có chừng 4.000 quân Trung Cộng trên các Ðảo tại vùng Hoàng Sa.

4. Chủ quyền Việt Nam tại Quần Đảo Hoàng Xa

Vào Thế Kỷ thứ 18, bộ sách ‘’Phủ Biên Tạp Lục’’ của ông Lê Quý Ðôn đã có nói tới Hoàng Sa và Trường Sa. Cuốn sách này cũng kể việc người Việt Nam đã khai thác hai Quần Ðảo này ngay từ thời Lê mạt. Các tài liệu khác nói về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là bộ ‘’Hoàng Việt Ðịa Dư Chí’’ được ấn hành vào năm Minh Mạng Thứ 16 tức là năm 1834. Cuốn ‘’Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí’’ của Phan Huy Chú (1782-1840).

Hơn nữa, bộ ‘’Ðại Nam Nhất Thống Chí’’ trong cuốn nói về Tỉnh Quảng Ngãi có kể việc Chúa Nguyễn cho thành lập Ðội Hoàng Sa gồm 70 người cứ mỗi năm vào tháng 3 thì ra Ðảo thu lượm hải vật rồi trở về vào tháng 8. Vào năm Minh Mạng thứ 16, Nhà Vua cũng sai quan quân dùng thuyền chở gạch đá ra dựng một Ngôi Chùa và Bia chủ quyền tại Ðảo Hoàng Sa có khắc hàng chữ nôm ‘’Minh Mạng năm Thứ 16’’. Ngoài các Sử Gia bản xứ, một số các Tác Giả người Pháp cũng nói tới chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 1836 Ðức Giám Mục Taberd đã viết trong cuốn sách ‘’Ðịa dư, lịch sử và mô tả mỗi dân tộc cùng với tôn giáo và phong tục của hội.’’ (Univer, histoire et description de tous les peuples, de leurs religion et coutumes) như sau:

‘’Tôi không kể dài dòng về những Ðảo thuộc Nam Kỳ, nhưng chỉ nhận xét rằng từ 34 năm nay, người Nam Kỳ đã chiếm cứ Nhóm Quần Ðảo Paracels mà người An Nam gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa, thực là những Hòn Ðảo nhỏ bí hiểm, gồm những mõm đá xen lẫn với các bãi cát mà những người đi biển đều kinh hãi. Tôi không rõ họ có thiết lập Cơ Sở gì ở đó không, nhưng chắc chắn rằng Hoàng Ðế Gia Long nhất định muốn mở rộng Lãnh Thổ của Hoàng Triều bằng cách chiếm Quần Ðảo này và vào năm 1816, Ngài đã long trọng trương lá cờ tại đây’’.

Trong tác phẩm ‘’Hồi Ký Về Ðông Dương’’, ông Jean Baptiste Chaigneau cũng ghi rằng Vua Gia Long đã chính thức thu nhận Quần Ðảo Hoàng Sa vào năm 1816. Khi người Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Ðông Dương, họ cũng tiếp tục lãnh nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa. Vào các năm 1895 và 1896, có hai chiếc thương thuyền tên Bellona và Iruezi Maru chở đồng cho người Anh bị đắm tại nhóm Ðảo Tuyên Ðức và bị người Trung Hoa đến đánh cướp. Ðại diện người Anh tại Bắc Kinh đòi Nhà Thanh phải bồi thường vì có một số đồng được đem về bán tại Ðảo Hải Nam. Nhưng chính quyền Nhà Thanh không chịu bồi thường, viện cớ Quần Ðảo Hoàng Sa không thuộc chủ quyền của Trung Hoa.

Các Quốc Gia trong vùng Ðông Nam Á cũng mặc nhiên công nhận chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Vào đếu Thế Kỷ 20, một Công Ty Nhật tên Motsli Bussan Kaisha đã đệ đơn xin chính quyền Pháp tại Ðông Dương cấp quyền đặc nhượng khai thác phosphate tại đây. Năm 1925, tàu Lanessan chở Phái Ðoàn Nghiên Cứu của Hải Học Viện Nha Trang ra thám sát Quần Ðảo Hoàng Sa. Phái Ðoàn này xác nhận Hoàng Sa là một phần của Lãnh Thổ Việt Nam vì dính liền với thềm lục địa Việt Nam.

Tại Hội Nghị San Francisco vào ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ Tướng Trần Văn Hữu, Trưởng Phái Ðoàn Việt Nam cũng đã lên tiếng xác nhận chủ quyền Việt Nam tại Hải Ðảo thuộc Biển Ðông. Ông tuyên bố trước Hội Nghị: ‘’Chúng ta cần phải lợi dụng mọi cơ hội để dập tắt mầm mống chiến tranh, vì vậy chúng tôi xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên các Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa từ trước đến nay vẫn luôn luôn là những thành phần của Lãnh Thổ Việt Nam’’. Trong tổng số 51 Quốc Gia tham dự, không một Quốc Gia nào (kể cả Trung Hoa) lên tiếng phản đối nên lời tuyên bố này đã được ghi vào biên bản của Hội Nghị.

Dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam đã thiết lập những Cơ Sở Hành Chánh tại Hoàng Sa qua Nghị Ðịnh số 156-SC ngày 15.6.1932 của Toàn Quyền Ðông Dương. Trong Ðạo Dụ số 10 ký ngày 30.3.1938, Hoàng Ðế Bảo Ðại sát nhập Quần Ðảo Hoàng Sa vào Tỉnh Thừa Thiên. Ngày 5.5.1938, Toàn Quyền Ðông Dương thiết lập hai Ðơn Vị Hành Chánh tại Quần Ðảo Hoàng Sa. Ðó là Ðơn Vị Trăng Khuyết và phụ cận (délégation du Croissant et dépendences) và Ðơn Vị Tuyên Ðức và phụ cận (délégation de l'Amphitrite et dépendences). Ngày 13.7.1961 dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 175-NV đặt Quần Ðảo Hoàng Sa thuộc Tỉnh Quảng Nam thay vì Tỉnh Thừa Thiên và đặt tên là Xã Ðịnh Hải thuộc Quận Hòa Vang. Dưới thời Ðệ Nhị Cộng Hòa, Nghị Ðịnh số 709-BNV-HC ngày 21.10.1969 của Thủ Tướng Chính Phủ đã sát nhập Xã Ðịnh Hải vào Xã Hòa Long cũng thuộc Quận Hòa Vang, Tỉnh Quảng Nam.

5. Bằng cớ bán nước của việt cộng

Trong lúc miền Nam Việt Nam ra sức bảo vệ các Quần Ðảo tại Biển Ðông chống lại các hành động xâm lăng của ngoại quốc thì việt cộng tại miền Bắc lại nịnh bợ, thản nhiên công nhận chủ quyền của Trung Cộng tại các Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đây là các bằng cớ:

- Vào năm 1956, Ngoại trưởng việt cộng là Ung văn Khiêm tuyên bố: ‘’Hà Nội nhìn chủ quyền của Trung Cộng đối với Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Cộng gọi là Tây Sa và Nam Sa’’.

- Trong số báo phát hành ngày 22.9.1958, tờ nhân dân, cơ quan ngôn luận chính thức của việt cộng đã đăng một bản tin với tựa đề ‘’Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định về hải phận của Trung Quốc’’. Nguyên văn bản tin này như sau:

Sáng ngày 21.9.1958, đồng chí Nguyễn Khang, Ðại Sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc, đã gặp đồng chí Cơ Bằng Phi, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm sau đây của chính phủ ta:

Thưa đồng chí Tổng Lý,

Tổng Lý Quốc Vụ Viện nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chúng tôi trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mối quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt biển.

Chúng tôi xin kính gởi đồng chí Tổng Lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội ngày 14 tháng 9 năm 1958
Phạm Văn Ðồng
Thủ Tướng chính phủ
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa

- Sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, tờ báo sài gòn giải phóng vào tháng 5 năm 1976 đã đăng một bài xã luận liên quan tới Quần Ðảo Hoàng Sa, trong đó có những câu nịnh bợ Trung Cộng rất ngớ ngẩn như sau:

‘’Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà còn là người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi (Việt Nam, Trung Quốc, sông liền sông, núi liền núi). Khi nào chúng ta muốn nhận lại Quần Ðảo này, Trung Quốc sẽ sẵn sàng giao lại’’.

Về sau, vào năm 1979, hai đồng chí thầy trò ‘’sông liền sông, núi liền núi’’ này đã dạy nhau một bài học đẫm máu tại vùng biên giới Hoa-Việt. Tới năm 1988, người thầy tín cẩn Trung Cộng đã chẳng những không giao lại Quần Ðảo Hoàng Sa cho tên đày tớ việt cộng mà còn xua quân chiếm luôn Quần Ðảo Trường Sa. Ngày 14.3.1988, tàu chiến Trung Cộng bắn chìm 3 chiến hạm của Hải quân việt cộng (một chiếc thuộc loại Shangai do Trung Cộng viện trợ trước đây, một Tuần duyên hạm PGM cũ của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, một Hải vận hạm do Nga Sô viện trợ) khiến trên 100 lính việt cộng thương vong. Trung Cộng đã dùng những bức công hàm của việt cộng công nhận chủ quyền của Trung Cộng tại Biển Ðông để làm bằng cớ. Bị bí lối, việt cộng trâng tráo giải thích trên tờ báo nhân dân số ra ngày 26.4. 1988:

‘’Ðúng là có những lời tuyên bố đó. Cần phải đặt những lời tuyên bố này đúng trong bối cảnh lịch sử của nó...Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, chống một kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự lớn hơn mình rất nhiều, Việt Nam tranh thủ được Trung Quốc gắn chặt với cuộc chiến đấu của Việt Nam càng nhiều bao nhiêu và ngăn chặn Mỹ sử dụng hai Quần Ðảo cũng như Vùng Biển Ðông chống lại Việt Nam, thì càng tốt bấy nhiêu. Phải đúng trên tinh thần đó và trong bối cảnh đó để hiểu các tuyên bố nói trên’’.


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
caoduy
post Mar 2 2010, 08:37 AM
Post #2


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 53
Country






Biển Đông nổi sóng: Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà


CHUYỆN MỘT CON TÀU

Vũ Hữu San

Lời tòa soạn:

Trong cuộc đời lang thang tỵ nạn, những Cựu Quân Nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày trước có lẽ suốt đời không quên được Ðơn Vị cuối cùng của mình. Riêng đối với những người Lính Thủy mà cuộc sống đã một thời gắn bó với con tàu, hình ảnh chiếc Chiến Hạm oai hùng đã từng phục vụ lại càng khắc sâu trong tâm tư. Bài viết sau đây của cựu Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San là ký ức về lịch sử của con tàu mang tên một trong Ngũ Hổ Tướng Ðời Trần: Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư, HQ-4 của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San xuất thân Khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Ông cũng là Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 tham dự Trận Hải Chiến tại Quần Ðảo Hoàng Sa vào năm 1974. Trong Trận Hải Chiến này, phía Trung Cộng có 2 chiến hạm bị đánh chìm, 2 chiếc khác bị hư hại nặng, phía Việt Nam có Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ-10 bị chìm.Tòa Soạn Nguyệt San Ðoàn Kết rất hân hạnh được phép đăng tải bài viết rất giá trị của Trung Tá San, đồng thời cũng cám ơn Tác Giả đã gởi bài cộng tác.

Trân trọng.
-----------------------------------


Cầm trong tay tờ đơn gia nhập Hội Cựu Quân Nhân, đọc dần xuống cuối trang, người Lính ngày xưa ấy nhìn thấy hàng chữ ghi Ðơn Vị cuối cùng. Anh cảm thấy thời gian như lắng động, tâm hồn sống trở lại hồi hai mươi mấy năm về trước. Cầm bút, anh viết một hàng chữ thật nắn nót: ‘’Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4’’. Lòng anh thêm nhớ thương dào dạt: Nhớ kỷ niệm, thương con tàu...


Trước khi về phục vụ cho Hải Quân Việt Nam, chiếc Khu Trục Hạm đó đã vang lừng tên tuổi. U.S.S. Forster-DER 334. Ra đời vào năm 1943 để đáp ứng nhu cầu của Hải Quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến Thứ Hai. Con tàu mang nhiệm vụ chính của một Chiến Hạm hộ tống Hải Ðội đặc trách phòng không và tiêu diệt Tiềm thủy đỉnh. Mang tên một Sĩ Quan Hải Quân Mỹ đã anh dũng hy sinh lúc khởi đầu cuộc chiến, Khu Trục Hạm này được kiến trúc, trang bị và rồi hạ thủy vội vã tại xưởng đóng tàu Consolidated Steel Corporation ở Orange, Taxas, vào ngày 13 tháng 11 năm 1943. Ngay lần ra khơi đầu tiên, khi bảo vệ Ðoàn thương thuyến vượt Ðại Tây Dương sang Anh Quốc, con kình ngư sơ sanh, thiếu tháng, mẹ chưa dậy đủ kỹ thuật săn mồi này hạ ngay một hơi 2 khu trục cơ Ðức Quốc và bắn hư hại nặng nhiều chiếc khác. Ðến ngày D-Day, 6.6.1944, vào lúc Quân Ðồng Minh đổ bộ lên bờ biển Normandy, Chiến Hạm đã hoàn tất mỹ mãn nhiều công tác hành quân giúp cho việc tiếp vận từ Hoa Kỳ sang Âu Châu được điều hòa.


Chiến tranh Ðại Tây Dương chấm dứt, sau khi được tuyên dương công trạng trước Hải Quân, U.S.S. Forster được chuyển đổi qua mặt trận Thái Bình Dương. Thế Chiến Thứ Hai kết liễu, con tàu trở thành một đài thăm dò khí tượng lưu động liên tiếp trong nhiều năm.


Vào đầu thập niên 1950, tình hình đột nhiên căng thẳng giữa Mỹ và Nga, có đôi lần đã tưởng xảy ra đại chiến, con tàu được gọi về, vào ngay Hải Quân Công Xưởng để cải biến và tối tân hóa thành loại Khu Trục Hạm Tiền Thám D.E.R. (Destroyer Escort Radar) với những dụng cụ điện tử đắt tiền nhất thời bấy giờ, chiến hạm được trang bị đầy đủ cả ba hệ thống ‘’mắt thần’’ về hải thám, không thám và tiền thám. Ðể có đủ chỗ cho 12 phòng liên hệ về điện tử, điện toán và kiểm pháo, hình dạng con tàu cần phải biến đổi. Phần thượng tầng kiến trúc được nối thêm bằng hợp kim nhôm, hai cột Radar vĩ đại màu đen có ba chân chống được dựng lên sừng sững ở sân giữa. Trung Tâm Chiến Báo C.I.C. (Combat Information Center) mở rộng ra hết cả chiều ngang con tàu. Hai Radar, SPS-8 (Surface Search) và TACAN (Tactical Aircraft Navigation) được thiết trí với những giàn dây trời khổng lồ vần vũ trên Ðài Chỉ Huy và một hệ thống antenna ‘’beehive’’ góc cạnh chẻ ba ở sân thượng phía sau. Trong vòng 10 năm, tới 1965: Chiến Hạm tham dự vào hệ thống báo động tiền phương DEW line (Distant Early Warning). Là một thành phần căn bản Vùng Bắc Thái Bình Dương, Khu Trục Hạm Forster có nhiệm vụ phát hiện đầu tiên về những cuộc tấn công bằng phi cơ và hỏa tiễn của cộng sản vào Lãnh Thổ Hoa Kỳ. Nhật Ký Chiến Hạm ghi nhận các công tác được thi hành mỹ mãn và đặc biệt đã được tuyển chọn làm Ðơn Vị gương mẫu của Hải Quân Hoa Kỳ. Ðài chỉ huy của Khu Trục Hạm lúc đó mang đầy huy chương và dấu hiệu Ưu Hạng E (Exellent).


Chiến Hạm được chuyển giao qua Hải Quân Việt Nam vào cuối năm 1971 tới Hải Xưởng Guam. Khu Trục Hạm mang chiến số HQ-4 và danh hiệu một trong Ngũ Hổ Tướng Ðời Trần: Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Thủy Thủ Ðoàn lúc đầu được chọn lọc và trang bị đầy đủ cấp số,trong đó có cả một Y Sĩ Hải Quân.


Khu Trục Hạm này là một niềm hãnh diện của cả Hải Quân Việt Nam, thời ấy chiếc chiến hạm chủ lực đầu tiên và độc nhất có vận tốc hơn 20 gút. Từ đó trên biển Ðông, khi nước và gió thuận chiều, dưới bảng Quốc Kỳ Việt Nam phất phới tung bay, con tàu tuần tiểu di hành có khi tới 24 hải lý một giờ.


Người đi biển thường tin rằng nhưng con tàu có linh hồn. Mỗi chuyến ra khơi, Thủy Thủ Ðoàn hay nhận được nhiều điềm lành ứng báo trước cho những chiến công sắp tới, đôi lần ngay khi toàn thể Thủy Thủ Ðoàn trang trọng xếp hàng ngay ngắn chào tiễn biệt Quân Cảng ra khơi. Có người còn kể chuyện là đã được biết trước, quả quyết với Ðồng Ðội về tốt đẹp của chuyến đi. Người Lính Thủy nào trên Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư cũng đều hay những sự linh thiêng hiển hiện đó.


Chỉ ít tháng sau khi nhận lãnh, trong lúc đang tuần dương tại vùng biển cực Bắc, Khu Trục Hạm được lệnh vượt hàng ngàn cây số đường biển hỏa tốc xuôi Nam, săn đuổi và tiêu diệt tàu địch trong Vùng Vịnh Thái Lan. Ðại Dương Nổi Sóng, chiến hạm địch tuy có ngụy trang nhưng cũng vẫn bị phát hiện và bị bắn chìm xuống lòng biển sâu, mang theo nhiều ngàn vũ khí các loại. Thủy thủ đoàn địch bị chết, bị bắt sống nhiều tên, trong đó có cả sĩ quan Hải quân cao cấp cộng sản. Chiến Hạm được tuyên dương công trạng trước Quân Ðội.


Kỹ thuật tốt, vận tốc nhanh, khả năng thám sát và tác chiến cao, Chiến Hạm không hề vắng mặt mỗi khi nhu cầu Quốc Phòng kêu gọi tới. Ðánh giặc đã hay mà bắt cướp, diệt buôn lậu cũng tài. Qua 4 năm vùng vẫy trên Biển Ðông, Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 còn nổi danh vì hai lần bắt tàu ngoại quốc buôn lậu chuyên chở bạch phiến và thuốc phiện, tịch thu hàng chục tấn ma túy. Thành tích này có tính cách Quốc Tế và là một kỷ lục khó bị phá vỡ.


Trong những năm cuối cùng của cuộc chiến, tình trạng tiếp vận yếu kém tuy có làm sút giảm khả năng chiến hạm đôi chút nhưng tinh thần người Lính Biển lúc nào cũng vẫn cao. Khi các Ðơn Vị Pháo Binh bắt đầu bị hạn chế đạn dược thì Quân Ðội bạn hành quân vùng duyên hải cần sự tăng cường về yểm trợ hải pháo. Thủy Thủ Ðoàn HQ-4 nhiều khi thức trắng đêm, tác xạ hàng ngàn trái đạn lên đầu địch quân. Hai cỗ đại pháo do đó bị soi mòn nhiều, thường phải thay nòng súng luôn luôn.


Rồi đầu năm 1974, nghe nói Vùng Ðông Hải chứa nhiều dầu khí. Trung Cộng bèn âm mưu xâm chiến Quần Ðảo Hoàng Sa. Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư lại ra khơi mang theo chuyến hải hành mỗi căm hờn của toàn dân Việt trong việc bảo vệ hải biên. Biển Ðông nổi sóng cuồng loạn vì hải chiến. Phía địch, hai Hộ Tống Hạm bị chìm tại chỗ, hai chiếc khác hư hại nặng. Tuy vậy, lực lượng trú phòng của ta trên bờ không đủ tiếp viện, lại thiếu không trợ nên các Hải Ðảo bị quân Trung Cộng tràn ngập.


Trong khi thành bại của chiến dịch là do chiến lược, chiến thuật đem áp dụng bởi những Vị Tư Lệnh cao cấp thì vinh dự của một Ðơn Vị tham dự là do thành quả tốt đẹp đã đạt được ngoài chiến trường so với khả năng tác chiến. Dù sao người Lính Thủy của Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 cũng vẫn thường kể rằng gần 200 năm sau khi Vua Quang Trung đại phá quân Thanh, lần đầu tiên họ đã đại diện cho Việt Nam đánh nhau chống kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Còn nói tới hải chiến, đây là lần thứ nhất Nam Quân tác chiến ngoài đại dương.


Sau 3 năm mang nặng tinh thần phục vụ Tổ Quốc, HQ-4 được tuyên dương công trạng hai lần trước Quân Ðội. Thủy Thủ Ðoàn hãnh diện mang dây biểu chương màu Anh Dũng Bội Tinh. Hội Ðồng Chính Phủ cũng ghi công chiến hạm bằng một huy chương Tài Chánh Bội Tinh. Thật chưa bao giờ trong Quân Chủng có một Ðơn Vị nào được vinh dự hơn.


Bình thường, Chiến Hạm được nghỉ bến sau hai năm hải hành để về sửa chữa đại kỳ, nhưng vì nhu cầu chiến trường đòi hỏi, con tàu vẫn tiếp tục công tác cho tới đầu năm 1975. Mùa Xuân năm ấy khi quân địch tràn vào, HQ-4 đang nằm trong Hải Quân Công Xưởng, tất cả máy móc, vũ khí bị tháo gỡ toàn diện đã tu trang. Con tàu tuy được vội vã ráp nối nhưng không còn kịp để ra khơi. Sứ mệnh đã an bài, những ngày oai hùng của Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư nay đành chấm dứt.


Người viết theo đoàn người ly hương, trở thành kẻ tỵ nạn lang thang nơi xứ lạ quê người. Bẵng đi 2, 3 năm, tuy có nhớ về Ðơn Vị cũ, anh chỉ mong sao cho con tàu không trở thành một phương tiện chiến tranh phục vụ kẻ thù. Niềm ao ước thành sự thực và được chứng minh một cách tình cờ vào một ngày đẹp trời nơi xứ Gia Nã Ðại. Gia đình đưa anh coi một tờ báo trong đó cộng sản tại Việt Nam cho in hình Chiến Hạm cũ của anh làm phương tiện tuyên truyền. Xem kỹ tấm ảnh, lòng anh xiết bao thanh thản. Với con mắt của một người Thủy Thủ già, bỏ qua những lớp sơn phết giả tạo mà kẻ thù đã giả trang cho Chiến Hạm, anh biết rằng con tàu thân yêu của anh vẫn còn tiếp tục nằm bến. Khu Trục Hạm ngày đó, nay thiếu hẳn hệ thống Radar hải pháo, lại mất nhiều giây trời truyền tin điện tử, đến cả những gọt nước trên Ðài Chỉ Huy và máy đo gió cũng không còn hoạt động. Với tình trạng ấy, Chiến Hạm nhất định chưa bao giờ ra khơi.


Việt cộng xâm lăng xứ Cambodge, nỗ lực chặn bớt người vượt biên tìm tự do nhưng chiếc tàu ấy vẫn chưa một lần nhúng tay vào tội ác.


Các ấn bản của Jane's Fighting Ships liên tiếp trong nhiều năm cũng xác nhận là những Chiến Hạm, Chiến Ðỉnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa ngày ấy bị bỏ lại đến nay vẫn còn chạy, chỉ riêng có Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư là bất khiển dụng vì cộng sản không thể sửa chữa được. Phải có một sự linh thiêng nào giúp cho con tàu, sau hơn 30 năm tung hoành hiên ngang khắp mặt đại dương mà ngày nay nằm trong tay địch cũng như Từ Thứ đã về Tào nhưng suốt đời không phù ngụy nghĩa.


Nói về Chiến Hạm nào, người ta hay kể tới các Hạm Trưởng của con tàu ấy. Nhiều Vị Ðô Ðốc, Ðại Tá Hải Quân Hoa Kỳ xuất thân từ U.S.S. Forster. Các Vị Chỉ Huy Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư tuy không được may mắn nhiều như vậy nhưng vẫn có nhiều điều đáng nói.


Từ xưa, số phận Hạm Trưởng và Chiến Hạm thường liên hệ với nhau. Vị Hạm Trưởng đầu tiên nhận lãnh tàu tượng trưng cho cái oai phong lẫm liệt của Phó Ðô Tướng Quân Trần Khánh Dư lúc kháng Nguyên. Sau chiến công thủy táng tàu địch, Ông là Vị Hạm Trưởng đầu tiên của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa mang cấp bậc Ðại Tá thực thụ và cũng là Vị Sĩ Quan trẻ nhất trong cấp bậc này. Thật là điều hạn hữu khi Chỉ Huy Trưởng của Hải Ðội còn thua ông một ‘’vạch vàng’’ và Tư Lệnh Hạm Ðội cũng chỉ đồng cấp với Ông mà thôi. Cũng kể từ đó, Hạm Trưởng các Chiến Hạm chủ lực thuộc Hạm Ðội của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa mới bắt đầu được mang cấp bậc Ðại Tá (captain) cho tương xứng với chức vụ, bảng cấp số và cũng là đúng với truyền thống Hải Quân Quốc Tế.


Trời đất cũng ganh ghét kẻ anh tài. Ông phải rời tàu vì nhuốm bạo bệnh sau đó ít tháng thì từ trần. Khi người viết thuyên chuyển xuống phục vụ chiến hạm một năm sau, cái hùng khí của Ông còn lẩn khuất đâu đây. Ðôi khi Thủy Thủ Ðoàn như mường tượng thấy Ông đang đứng trên Ðài Chỉ Huy dẫn lộ Chiến Hạm vượt ngàn hải lý rượt đuổi quân thù. Vết chân Ông còn như in dấu cạnh la bàn Tả Hạm nơi Ông kiên quyết ra lệnh tác xạ tiêu diệt tàu địch.


Vị Hạm Trưởng kế nhiệm mang hình ảnh sảng khoái nhưng uy nhiệm của Tướng lãnh Ðời Nhà Trần lúc nhập tiệc khao quân chiến thắng khôi phục Thăng Long. Ông có vẻ mặt vừa khoan hòa vừa cương quyết như khi người xưa đang tập trung nghị lực để chờ giờ quyết định tử chiến với quân thù tại ngoài khơi Vân Ðồn. Trong giai đoạn tương đối ít sôi động này, Ông được ghi nhận nhiều công lao yểm trợ đắc lực cho quân bạn suốt ‘’Mùa Hè Đỏ Lửa’’ và tham dự một lần chặn bắt ghe tàu buôn lậu quốc tế.


Gần hai năm cuối cùng, Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đặt dưới quyền chỉ huy của một Sĩ Quan trẻ tuổi. Ðể khuyến khích Sĩ Quan và Ðoàn Viên noi gương Vị Anh Hùng mà Chiến Hạm mang danh hiệu, Ông thường đọc Tiểu Sử Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư và đặc biệt khuyến cáo Nhân Viên thuộc lòng bài thơ ‘’Bán Than’’.


Chiến trận sôi động khắp Toàn Quốc, con tàu có nhiều dịp vùng vẫy khắp Biển Ðông cũng như trong Vịnh Thái Lan. Cộng sản mở nhiều đợt tấn công, chiến hạm như một pháo đài lưu động vừa tuần dương vừa yểm trợ quân bạn trên bờ. Hết diệt loạn trong nước lại đến chống giặc ngoại xâm. Như khi xưa Trần Khánh Dư dẹp Mông Cổ, HQ-4 được phái ra Hoàng Sa giữ nhiệm vụ chỉ huy chiến dịch trong giai đoạn đầu, sau đó dẫn đạo một Hải Ðội khi hải chiến.


Như ‘’Bán Than’’ là bài thơ nôm đầu tiên, Hạm Trưởng đời thứ ba của Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư cũng hãnh diện là người Sĩ Quan đầu tiên của Hạm Ðội được vinh dự mang đầy đủ một hàng huy chương đặc biệt trên ngực áo bên phải vì các Ðơn Vị Ông phục vụ và chỉ huy được tuyên dương công trạng tập thể nhiều lần.


Một lời thốt ra có thể vận vào với số phận. Không ai biết ngày xưa Trần Khánh Dư vì lỗi lầm gì mà phải đi bán than. Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư dù ‘’nghề mình lem luốc’’ nhưng một lòng vẫn nguyện ‘’Ở với khói hương cho vẹn kiếp’’ và ‘’xem sắt đá có bền gan?’’... Người bán than Trần Khánh Dư, sau cơn thử thách chờ đợi tại Chí Linh, lại xuất hiện để đi làm lịch sử. Linh hồn Khu Trục Hạm HQ-4 chắc vẫn mong mỏi một ngày nào gió thuận nước xuôi, lại uy dũng ra khơi vẫy vùng cho thỏa sức mà phục vụ lý tưởng Quốc Gia.


Chiến Hạm thân yêu ơi, đừng buồn nhé. Hãy can đảm lên, nhẫn nhục chờ thời để rồi lại hiên ngang tiến tới. Như xưa Trần Khánh Dư đã từng một thời vinh hiển làm Hầu tước mà số phần đổi dời, phải nhận nghiệp bán than. Sau đó từ một thân bại Tướng, ông vẫn kiên tâm quyết chiến, lật ngược cả thời cuộc trong trận đại thắng Vân Ðồn ...


Ngày mai kia, quân thù rồi cũng sẽ bị diệt vong, người lại ra khơi tạo lại danh xưa. Người viết, một thời sát cánh cùng người, tuy mỗi tuổi mỗi già, vẫn bận tâm chờ đợi ...
Vũ Hữu San


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 7th July 2025 - 07:03 PM