![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 13,947 Joined: 18-November 08 Member No.: 775 Age: 53 Country ![]() ![]() |
![]() Biển Đông nổi sóng: Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà Trần Đỗ Cẩm PHẦN I MỞ ĐẦU Vào đầu năm 1974, trong lúc tình hình chiến sự tại Việt Nam trở nên vô cùng sôi động với các trận đánh lớn diễn ra trên khắp bốn vùng chiến thuật thì ngoài khơi Biển Ðông đã xảy ra một Trận Hải Chiến có tầm vóc lịch sử giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và hải quân Trung Cộng. Ðây là lần đầu tiên kể từ khi Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn dưới thời Nhà Trần đánh thắng quân Mông Cổ, Nam quân lại đụng độ với Bắc quân trên mặt biển. Và cũng như những lần trước, tuy lực lượng của kẻ thù phương Bắc mạnh hơn gấp nhiều lần, các Chiến Sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa noi gương Thánh Tổ đã anh dũng chiến đấu, gây cho địch những tổn thất nặng nề. Vào thời điểm đó, Tổng Thống Nixon trước đây đã dùng chính sách ‘’ngoại giao bóng bàn’’ ve vãn được Trung Cộng nên nhiều dư luận cho rằng Hoa Kỳ đã gián tiếp bàn giao Quần Ðảo Hoàng Sa cho Trung Cộng cũng như bán đứng miền Nam Việt Nam chỉ một năm sau đó. Nghi vấn này sẽ được bàn tới ở phần sau. Ðiều quan trọng cần nói ở đây là ngay trong thời gian Trận Hải Chiến xảy ra cách đây gần một phần tư thế kỷ, chính các Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không dám nghĩ rằng Hải Quân Việt Nam sẽ tham chiến vì lực lượng đôi bên quá chênh lệch. Những ‘’cố vấn’’ kiêm chuyên gia về Hải Quân này dự trù rằng các chiến hạm Việt Nam sẽ lặng lẽ rút lui bỏ mặc Quần Ðảo Hoàng Sa thân yêu rơi vào tay giặc. Những ước đoán trên được căn cứ vào thái độ của Hải Quân Hoa Kỳ lúc đó đang làm bá chủ Biển Ðông nhưng cho biết họ đứng ngoài vòng tranh chấp. Ngoài ra, họ cũng không đồng ý việc sử dụng các khinh tốc đỉnh (PT boat) tại Ðà Nẵng, tuy với Thủy Thủ Ðoàn Việt Nam điều khiển nhưng lại do Hoa Kỳ kiểm soát. Ngay tới khi Trận Hải Chiến đã kết thúc, Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ vẫn còn từ chối tiếp cứu những Thủy Thủ Việt Nam lâm nạn, một điều trái ngược với qui luật của người đi biển. Cho tới nay, chúng tôi đã nhiều lần viết thư yêu cầu Phòng Quân Sự của Hải Quân Hoa Kỳ cung cấp những dữ kiện đã được giải mật về Trận Hải Chiến Hoàng Sa, nhưng lúc nào họ cũng trả lời ‘’không có bất cứ một tài liệu nào liên quan trong hồ sơ lưu trữ’’. Ðây là một điều rất khó tin vì lúc đó, Hải Ðoàn 77 (Task Force 77) của Hải Quân Hoa Kỳ gồm nhiều mẫu hạm và các chiến hạm yểm trợ tổng cộng gần 20 tàu chiến đang hoạt động tại vị trí ‘’Yankee’’ (Yankee Station) cách Hoàng Sa về phía Ðông Bắc không xa. Thật sự Hoa Kỳ có hoàn toàn ‘’không biết’’ hay đứng ngoài vụ tranh chấp hay không? Vì lý do gì? Mời Độc Giả tuần tự theo dõi các diễn biễn của Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa để tìm câu trả lời. Nhưng ngoài sự dự đoán của Hoa Kỳ cũng như của Trung Cộng, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa dù đơn độc và cô thế cũng đã dùng hết sức tham chiến. Các Chiến Sĩ Áo Trắng đã can đảm nổ súng vào quân xâm lăng và chiến đấu đến tận cùng khả năng của mình. Sau Trận Hải Chiến, dư luận báo chí quốc tế đã bày tỏ nhiều thiện cảm qua những bài bình luận rất thuận lợi cho Việt Nam trong khi lên án bọn xâm lược Trung Cộng. Trước hết, tưởng cũng cần nêu lên một vài điểm liên quan đến việc sưu tầm tài liệu để viết bài này. Nói chung, đây là việc rất khó khăn vì đa số đã bị thất lạc hoặc vùi chôn trong quá khứ. Thứ nhất, Trận Hải Chiến xảy ra cách đây đã lâu nên những chi tiết ngay cả đối với những người đã trực tiếp tham dự không ít thì nhiều cũng bị mai một với thời gian. Vả lại, mỗi nhân chứng tùy theo vị trí và hoàn cảnh sẽ có tầm nhìn và nhận xét khác nhau, do đó việc tường thuật trung thực như một máy quay phim thiết tưởng không thể nào thực hiện được. Thứ hai, tuy đã có một số bài viết về Hoàng Sa nhưng những tài liệu này phần lớn dựa vào ký ức nên kém chính xác và chưa đủ để nói lên tầm vóc quan trọng của biến cố lịch sử này. Thứ ba, vì miền Nam đã bị cộng sản xâm chiến nên những tài liệu chính thức như các phúc trình hậu hành quân của các Chiến Hạm tham chiến cũng như của Bộ Tư Lệnh Hải Quân rất khó sao lục lại. Theo Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, báo Le Courier du Vietnam cho biết ngày nay còn có một Bản Tổng Kết Hải Chiến Hoàng Sa của Bộ Tư Lệnh Hải Quân trình Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lưu giữ tại Hà Nội. Chúng tôi nghe nói Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc đang sửa soạn viết về Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa, dự trù hoàn tất vào năm 1999 là ngày kỷ niệm 25 năm trận đánh. Ðây là một nguồn tin rất đáng khích lệ, vì chắc chắn Ðại Tá là người biết nhiều nhất và đủ thẩm quyền nhất để tường thuật về trận đánh do chính ông chỉ huy. Vì những lý do trên, tuy khả năng và hoàn cảnh hỗn hợp, chúng tôi cũng cố gắng viết lại Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa, càng gần với sự thật càng tốt, căn cứ vào những tài liệu thâu thập được cũng như những lời kể lại của các nhân chứng. Tác Giả may mắn và hãnh diện được là bạn cùng Khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang với hai trong số bốn Vị Hạm Trưởng tham chiến, đó là Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 và Hải Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh, Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5. Hai Hạm Trưởng còn lại là Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự (Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16) thuộc Khóa 10 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và Cố Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà thuộc Khoá 12 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang là các Khóa sát trên và dưới trong lúc cùng học tại Nha Trang nên cũng có dịp quen biết ít nhiều. Ngoài ra, chúng tôi cũng có dịp tiếp chuyện nhiều lần với Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc là Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật trong Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa. Chúng tôi cũng cám ơn anh bạn trẻ Trương Văn Quang hiện cư ngụ tại Úc Châu đã trợ giúp sưu tầm nhiều hình ảnh và chi tiết hiếm có. Nhưng dù sao, bài viết này chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót và kém chính xác, Tác Giả mong mỏi sẽ được những người biết chuyện thẳng thắn phê bình xây và bổ túc để phần tài liệu về Trận Hải Chiến Hoàng Sa được thêm đầy đủ. Ðể dễ dàng theo Trận Hải Chiến lịch sử tại Hoàng Sa, trước khi tường thuật chi tiết về trận chiến, chúng tôi sẽ nói qua về Quần Ðảo này và sau cùng sẽ nêu lên vài nhận xét và bình luận. 1. Biển Đông: Xác định một danh từ Trên các bản đồ cũng như hải đồ quốc tế, vùng biển cực Tây của Thái Bình Dương nằm về phía Nam lục địa Trung Hoa thường được gọi là South China Sea. Theo thông lệ, các Nhà Hàng Hải thời xưa thường lấy tên khu vực đất liền lân cận để đặt tên vùng biển tiếp giáp. Vì vậy, trên bản đồ, chúng ta thấy những tên biển quen thuộc như: Biển Ấn Ðộ hay Ấn Ðộ Dương (Indian Ocean), Biển Nhật Bản (Sea of Japan), Vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin), Vịnh Thái Lan (Gulf of Thailand) hay Vịnh Mễ Tây Cơ (Gulf of Mexico) v.v... Do đó, South China Sea chỉ đơn thuần được dùng để chỉ vùng biển nằm về phía Nam lục địa Trung Hoa. Tuy có chữ ‘’China’’ trong đó những danh từ này không bao hàm ý nghĩa ‘’của’’ hay ‘’thuộc về’’ Trung Hoa, cũng như Vịnh Mễ Tây Cơ không phải là tài sản riêng của Mexico. Sở dĩ cần xác định như trên để tránh những hiểu lầm, vì rất có thể khi thấy chữ ‘’China’’, một số người có thể ngộ nhận là ‘’của Trung Hoa’’. Riêng đối với người Việt Nam, tuy South China Sea ở phía Nam Trung Hoa, nhưng lại nằm về phía Ðông của Việt Nam, nên thiết tưởng ‘’Biển Ðông’’ là tên chính xác để mệnh danh vùng biển thân yêu này. Từ ngàn xưa, Tổ Tiên ta đã có danh từ Biển Ðông. Bằng chứng là những câu ca dao quen thuộc như: Dã tràng xe xát Biển Ðông, Nhọc mình mà chũng nên công cán gì Hoặc Thuận vợ thuận chồng, tát Biển Ðông cũng cạn. Trong bài ‘’Văn Tế Cá Sâu’’ bằng tiếng Nôm của Ðại Học Sĩ Nguyễn Thuyên cũng có câu như sau: Ngạc ngư kia hỏi mày có hay, Biển Ðông rộng rãi là nơi mày, Phú Lương đây thuộc nơi Thánh vực, Lạc lối đâu mà lại tới đây? Nhận xét như trên,chúng tôi mạnh dạn đề nghị các sách báo của người Việt nên dùng danh xưng Biển Ðông để thay thế cho từ ngữ Nam Hải hay South China Sea. Ðây không những là một việc làm ‘’danh chính ngôn thuận’’, mà còn nhắc nhở chúng ta luôn luôn nhớ đến vùng biển thân thiết đã gắn liền với vận mạng Dân Tộc qua những thăng trầm của lịch sử. 2. Vị Trí Trên bản đồ hàng hải, Quần Ðảo Hoàng Sa là một chuỗi gồm trên 100 Ðảo nhỏ nằm ngoài khơi Việt Nam, giữa kinh tuyến 111 độ-113 độ Ðông và vĩ tuyến 15 độ 45 -17 độ 05 Bắc. Nói khác đi, Quần Ðảo này cách bờ biển Ðà Nẵng chừng 170 hải lý (khoảng 300 cây số) về hướng Ðông và có khoảng cách từ 400 hải lý đến 500 hải lý (720 cây số đến 900 cây số) đối với các Hải Cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Hương Cảng và Manila. Theo tục truyền, Toán thám sát dưới Triều Vua Gia Long báo cáo Quần Ðảo này có nhiều bãi cát vàng, vì vậy nên được đặt tên là Hoàng Sa. 3. Địa Thế Trên các hải đồ quốc tế, Quần Ðảo Hoàng Sa được gọi là Paracel Islands hay Paracels. Có người cho rằng tên Paracel bắt nguồn từ chữ Bồ Ðào Nha ‘’Paracel’’ có nghĩa là ‘’đá ngầm’’. Giả thuyết này nghe cũng khá hợp lý vì mấy thế kỷ trước đây, dân Bồ Ðào Nha (Portugal) và Tây Ban Nha (Spain) có rất nhiều đi hải thuyền nổi tiếng chu du thám hiểm vòng quanh thế giới. Ði tới đâu, họ dùng tên của nước mình để đặt cho những vùng biển hay đất lạ chưa được ghi chép trên bản đồ. Hơn nữa, các Ðảo trong vùng Hoàng Sa thường rất thấp, chỗ cao chừng vài ba thước trên mặt biển nên trông như những bãi đá ngầm khi thủy triều lên. Giả thuyết thứ hai cho rằng ‘’Paracel’’ là tên một thương thuyền thuộc Công Ty Ðông Ấn của người Anh bị mắc cạn và chìm tại vùng Hoàng Sa vào khoảng Thế Kỷ thứ 16. Chúng tôi thiết nghĩ giả thuyết thứ hai này có vẻ hữu lý hơn, vì trong Quần Ðảo Hoàng Sa có nhóm Ðảo Amphitrite là tên của một tàu Pháp gặp nạn tại Hoàng Sa khi vượt biển buôn bán với Trung Hoa vào Thế Kỷ thứ 17. Theo các bản đồ cổ của Việt Nam, Quần Ðảo Hoàng Sa mang tên bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng vì cát tại đây thường có màu vàng, nhất là tại Ðảo Quang Hòa. Người Trung Hoa gọi vùng này là Hsisha hay Xisha Quandao tức là Tây Sa Quần Ðảo. Quần Ðảo Hoàng Sa gồm có rất nhiều Ðảo lớn, Ðảo nhỏ, cồn cát, bãi cát, đá ngầm v.v... nên rất khó xác định có tổng cộng bao nhiêu ‘’đơn vị’’. Ðảo cao nhất là Rocky Island nhô cao khỏi mặt nước chừng 20 thước. Sách cổ Việt Nam cho biết có cả thảy chừng 130 Ðảo,Cồn v.v... Tuy nhiên, trên các hải đồ quốc tế chúng ta thấy chỗ ghi nhận vài ba chục Ðảo lớn. Tưởng cũng cần nói thêm, ngoài các Ðảo, Cồn và đá nổi cao khỏi mặt nước, vùng Hoàng Sa còn có hai bãi ngầm (Bank hay Shoal) rất lớn luôn luôn chìm dưới mực nước biển, đó là Macclesfield và Scarborough Shoal nằm về hướng Ðông. Những bãi ngầm hay vùng nước cạn giữa biển này rất nguy hiểm cho các tàu bè qua lại vì khi thời tiết tốt, mặt biển trông rất phẳng lặng bình yên không có dấu hiệu đe dọa nào, chỉ khi trời nổi sóng gió mới thấy những lượng sóng bạc đầu trên các vùng bãi hay đá ngầm. Nếu chỉ kể riêng những Ðảo (đá, đất, bãi cát, cồn...cao hơn mặt biển), Quần Ðảo Hoàng Sa được các Nhà Hàng Hải chia thành hai nhóm chính: Ðó là nhóm Trăng Khuyết và nhóm An Vĩnh. a. Nhóm Trăng Khuyết (crescent group) Những Ðảo thuộc nhóm này kết hợp lại thành một hình cánh cung hay lưới liềm nên được đặt tên là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm, tên quốc tế là Crescent hay Croissant. Ðây là Nhóm Ðảo quan trọng nhất nằm về phía Tây của Quần Ðảo Hoàng Sa, tức là gần với đất liền Việt Nam nhất. Nhóm này gồm 7 hòn Ðảo chính và một số bãi ngầm. 1. Ðảo Hoàng Sa (Pattle Island): Ðây là hòn Ðảo chính của Quần Ðảo, nhưng lại không phải là Ðảo lớn nhất. Ðảo này hình bầu dục, chiều dài khoảng 950 thước, chiều rộng khoảng 650 thước. Các Cơ Sở Quân Sự, Ðài Khí Tượng, Hải Ðăng, Cầu Tàu...đều đặt trên hòn Ðảo này. Những Cơ Sở này đa số được thiết lập từ thời Pháp thuộc, đều thuộc quyền sở hữu của Việt Nam Cộng Hòa. Ngoài ra còn có các kiến trúc khác như Miếu Bà, Nhà Thờ, Bia chủ quyền Việt Nam và đường xe gòng dẫn ra Cầu Tàu để chuyển vận phân bón. Vì là Ðảo chính có nhiều Cơ Sở Hành chánh nên thường dùng làm tên chung cho cả Quần Ðảo. Ðảo Hoàng Sa đủ lớn để thiết lập một phi đạo ngắn tầm. Vào đầu năm 1974, Việt Nam Cộng Hòa dự trù xây cất một phi trường tại đây nhưng khi Toán Công Binh dò thám được tầu Hải Quân chở ra tới nơi thì Ðảo bị Trung Cộng cưỡng chiếm. Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, có một Trung Ðội Ðịa Phương Quân thuộc Chi Khu Hòa Vang thuộc Tiều Khu Quảng Nam đồn trú. 2. Ðảo Cam Tuyền (hay Hữu Nhật-Robert Island): Ðảo mang tên một Xuất Ðội dưới Triều Nhà Nguyễn tên thật là Nguyễn Hữu Nhật. Diện tích Ðảo này chừng 0.32 cây số vuông, nằm cách Ðảo Hoàng Sa chừng 3 hải lý về hướng Nam. Ðảo có một vòng san hô bao chung quanh, có chỗ ăn liền tới bờ Ðảo. 3. Ðảo Duy Mộng (Drummond Island): Hình bầu dục, cao chừng 4 thước trên mặt biển, diện tích chừng 0.41 cây số vuông. Nước tương đối sâu, tầu lớn có thể vào sát bờ chỉ cách vài ba trăm thước. Trong Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974, đa số các chiến hạm Trung Cộng tập trung quanh Ðảo này. 4. Ðảo Quang Ảnh (hay Vĩnh Lộc-Money Island): Quang Ảnh là tên một Vị Ðội Trưởng dưới Triều Nguyễn tên thật là Phạm Quang Ảnh. Vào thời Vua Gia Long, Vị Ðội Trưởng này thường đem hải thuyền ra Hoàng Sa để thu lượm hải vật. Ðảo cao chừng 6 thước, diện tích gần nửa cây số vuông. Chung quanh Ðảo có nhiều đá ngầm và san hô rất nguy hiểm cho tàu bè. 5. Ðảo Quang Hòa (Duncan Island): Là hòn Ðảo lớn nhất trong nhóm trăng khuyết với diện tích chừng nửa cây số vuông. Quanh Ðảo là bãi cát mầu vàng, có lẽ vì vậy mà cả Quần Ðảo mang tên Hoàng Sa, bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng. Vì có nhiều Ðảo nhỏ nối liền với nhau bằng những giải cát nên có một số hải đồ chia Ðảo này thành hai Ðảo Quang Hòa Ðông và Quang Hòa Tây. Chung quanh Ðảo có vòng san hô bao bọc. Trong Trận Hải Chiến giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Trung Cộng, chiến hạm đôi bên đã đụng độ nhau tại mặt Tây, chỉ cách Ðảo mấy hải lý. 6. Ðảo Bạch Qủy (Passu Island): Ðảo cấu tạo bằng san hô, rất thấp, chỉ nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống. Ðảo rất trơ trọi khiến người khó có thể sinh sống. 7. Ðảo Tri Tôn (Triton Island): Gần với đất liền Việt Nam nhất. Ðảo trơ trọi toàn đá và san hô chết. 8. Các Bãi Ngầm: Ngoài các Ðảo chính nêu trên trong vùng biển thuộc nhóm Trăng Khuyết còn có một số Bãi Ngầm đáng kể và rất nguy hiểm cho tàu bè qua lại sau đây: * Bãi Antelope Reef: Gồm toàn san hô ngầm, nằm về phía Nam Ðảo Hữu Nhật và phía Ðông Ðảo Quang Ảnh. BIỂN ÐÔNG NỔI SÓNG-HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA 21 * Bãi Vuladdore: Nằm về hướng Ðông Nam của nhóm Trăng Khuyết, cách chừng 20 hải lý. * Bãi Discovery Reef: Là bãi ngầm lớn nhất. Ðây là một vòng rộng toàn san hô, chiều dài chừng 15 hải lý và rộng chừng 5 hải lý. b. Nhóm An Vĩnh (amphitrite group) Nằm về hướng Ðông Bắc Quần Ðảo Hoàng Sa. An Vĩnh nguyên là tên của một Xã thuộc Tỉnh Quảng Ngãi thời trước. Sách Ðại Nam Thực Lục Tiên Biên chép về Xã này như sau: ‘’Ngoài biển Xã An Vĩnh, Huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát kéo dài tới không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa Châu...Hồi Quốc Sơ đầu Triều Nguyễn có đợt đi Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân Xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra Ðảo, ba đêm thì tới nơi...’’ Nhóm An Vĩnh còn có tên là Amphitrite hay Tuyên Ðức, gồm nhiều Ðảo tương đối lớn và cao. Sau đây là một số Ðảo chính: Ðảo Phú Lâm. Ðảo Cây, còn gọi là Ðảo Cù Mộc. Ðảo Lincoln. Ðảo Trung. Ðảo Bắc. Ðảo Nam. Ðảo Tây. Ðảo Hòn Ðá. Hải Ðảo quan trọng nhất trong Nhóm An Vĩnh là Ðảo Phú Lâm, còn gọi là Woody Island nằn cạnh Ðảo Hòn Ðá nhưng diện tích lớn hơn nhiều. Trước Ðệ Nhị Thế Chiến, người Pháp tại Ðông Dương đã khai thác những Ðảo thuộc Nhóm An Vĩnh. Họ cũng thiết lập tại đây một Ðài Khí Tượng giống như trên Ðảo Hoàng Sa. Sau Thế Chiến Thứ Hai, Pháp phái Chiến Hạm Savorgnan de Brazza đến chiếm lại các Ðảo tại vùng Hoàng Sa từ tay người Nhật vào tháng 6 năm 1946. Nhưng sau đó vì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, Pháp phải rút quân về đất liền. Lợi dụng cơ hội Hoàng Sa bị bỏ trống, Trung Hoa lấy cớ giải giới quân Nhật đã lén đổ quân lên Ðảo Phú Lâm rồi chiếm đóng luôn Ðảo này. Ngoài ra, họ cũng tiến xa hơn về phía Nam, chiếm luôn Ðảo Thái Bình (Itu Aba) thuộc Quần Ðảo Trường Sa của Việt Nam. Vào ngày 13 tháng 1 năm 1947, người Pháp tại Ðông Dương chính thức phản kháng hành động chiếm đóng các Hải Ðảo bất hợp pháp của Trung Hoa và phái chiến hạm Le Tonkinois ra Hoàng Sa. Thấy Ðảo Phú Lâm đã bị chiếm đóng và phòng thủ kỹ lưỡng, chiến hạm này quay về Ðảo Hoàng Sa (Pattle Island) để đổ 10 quân nhân Pháp và 17 quân nhân Việt Nam lên chiếm đóng Ðảo này. Khi Trung Hoa Dân Quốc phải bỏ Hoa Lục chạy sang Ðài Loan, họ cũng rút quân ở Ðảo Phú Lâm và Thái Bình về. Mãi tới 7 năm sau khi làm chủ được lục địa, Trung Cộng mới cho quân chiếm đóng Ðảo Phú Lâm vào đêm 20 rạng ngày 21 tháng 2 năm 1956. Trong Nhóm An Vĩnh, ngoài Phú Lâm còn có một Hòn Ðảo quan trọng khác, đó là Ðảo Lincoln, nằm về phía Ðông của Nhóm. Ðây là Ðảo lớn nhất trong Quần Ðảo Hoàng Sa với diện tích chừng 1.6 cây số vuông hay tương đương 400 acres, bề cao chừng 3-4 thước. Hiện nay, dự đoán có chừng 4.000 quân Trung Cộng trên các Ðảo tại vùng Hoàng Sa. 4. Chủ quyền Việt Nam tại Quần Đảo Hoàng Xa Vào Thế Kỷ thứ 18, bộ sách ‘’Phủ Biên Tạp Lục’’ của ông Lê Quý Ðôn đã có nói tới Hoàng Sa và Trường Sa. Cuốn sách này cũng kể việc người Việt Nam đã khai thác hai Quần Ðảo này ngay từ thời Lê mạt. Các tài liệu khác nói về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là bộ ‘’Hoàng Việt Ðịa Dư Chí’’ được ấn hành vào năm Minh Mạng Thứ 16 tức là năm 1834. Cuốn ‘’Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí’’ của Phan Huy Chú (1782-1840). Hơn nữa, bộ ‘’Ðại Nam Nhất Thống Chí’’ trong cuốn nói về Tỉnh Quảng Ngãi có kể việc Chúa Nguyễn cho thành lập Ðội Hoàng Sa gồm 70 người cứ mỗi năm vào tháng 3 thì ra Ðảo thu lượm hải vật rồi trở về vào tháng 8. Vào năm Minh Mạng thứ 16, Nhà Vua cũng sai quan quân dùng thuyền chở gạch đá ra dựng một Ngôi Chùa và Bia chủ quyền tại Ðảo Hoàng Sa có khắc hàng chữ nôm ‘’Minh Mạng năm Thứ 16’’. Ngoài các Sử Gia bản xứ, một số các Tác Giả người Pháp cũng nói tới chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 1836 Ðức Giám Mục Taberd đã viết trong cuốn sách ‘’Ðịa dư, lịch sử và mô tả mỗi dân tộc cùng với tôn giáo và phong tục của hội.’’ (Univer, histoire et description de tous les peuples, de leurs religion et coutumes) như sau: ‘’Tôi không kể dài dòng về những Ðảo thuộc Nam Kỳ, nhưng chỉ nhận xét rằng từ 34 năm nay, người Nam Kỳ đã chiếm cứ Nhóm Quần Ðảo Paracels mà người An Nam gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa, thực là những Hòn Ðảo nhỏ bí hiểm, gồm những mõm đá xen lẫn với các bãi cát mà những người đi biển đều kinh hãi. Tôi không rõ họ có thiết lập Cơ Sở gì ở đó không, nhưng chắc chắn rằng Hoàng Ðế Gia Long nhất định muốn mở rộng Lãnh Thổ của Hoàng Triều bằng cách chiếm Quần Ðảo này và vào năm 1816, Ngài đã long trọng trương lá cờ tại đây’’. Trong tác phẩm ‘’Hồi Ký Về Ðông Dương’’, ông Jean Baptiste Chaigneau cũng ghi rằng Vua Gia Long đã chính thức thu nhận Quần Ðảo Hoàng Sa vào năm 1816. Khi người Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Ðông Dương, họ cũng tiếp tục lãnh nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa. Vào các năm 1895 và 1896, có hai chiếc thương thuyền tên Bellona và Iruezi Maru chở đồng cho người Anh bị đắm tại nhóm Ðảo Tuyên Ðức và bị người Trung Hoa đến đánh cướp. Ðại diện người Anh tại Bắc Kinh đòi Nhà Thanh phải bồi thường vì có một số đồng được đem về bán tại Ðảo Hải Nam. Nhưng chính quyền Nhà Thanh không chịu bồi thường, viện cớ Quần Ðảo Hoàng Sa không thuộc chủ quyền của Trung Hoa. Các Quốc Gia trong vùng Ðông Nam Á cũng mặc nhiên công nhận chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Vào đếu Thế Kỷ 20, một Công Ty Nhật tên Motsli Bussan Kaisha đã đệ đơn xin chính quyền Pháp tại Ðông Dương cấp quyền đặc nhượng khai thác phosphate tại đây. Năm 1925, tàu Lanessan chở Phái Ðoàn Nghiên Cứu của Hải Học Viện Nha Trang ra thám sát Quần Ðảo Hoàng Sa. Phái Ðoàn này xác nhận Hoàng Sa là một phần của Lãnh Thổ Việt Nam vì dính liền với thềm lục địa Việt Nam. Tại Hội Nghị San Francisco vào ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ Tướng Trần Văn Hữu, Trưởng Phái Ðoàn Việt Nam cũng đã lên tiếng xác nhận chủ quyền Việt Nam tại Hải Ðảo thuộc Biển Ðông. Ông tuyên bố trước Hội Nghị: ‘’Chúng ta cần phải lợi dụng mọi cơ hội để dập tắt mầm mống chiến tranh, vì vậy chúng tôi xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên các Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa từ trước đến nay vẫn luôn luôn là những thành phần của Lãnh Thổ Việt Nam’’. Trong tổng số 51 Quốc Gia tham dự, không một Quốc Gia nào (kể cả Trung Hoa) lên tiếng phản đối nên lời tuyên bố này đã được ghi vào biên bản của Hội Nghị. Dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam đã thiết lập những Cơ Sở Hành Chánh tại Hoàng Sa qua Nghị Ðịnh số 156-SC ngày 15.6.1932 của Toàn Quyền Ðông Dương. Trong Ðạo Dụ số 10 ký ngày 30.3.1938, Hoàng Ðế Bảo Ðại sát nhập Quần Ðảo Hoàng Sa vào Tỉnh Thừa Thiên. Ngày 5.5.1938, Toàn Quyền Ðông Dương thiết lập hai Ðơn Vị Hành Chánh tại Quần Ðảo Hoàng Sa. Ðó là Ðơn Vị Trăng Khuyết và phụ cận (délégation du Croissant et dépendences) và Ðơn Vị Tuyên Ðức và phụ cận (délégation de l'Amphitrite et dépendences). Ngày 13.7.1961 dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 175-NV đặt Quần Ðảo Hoàng Sa thuộc Tỉnh Quảng Nam thay vì Tỉnh Thừa Thiên và đặt tên là Xã Ðịnh Hải thuộc Quận Hòa Vang. Dưới thời Ðệ Nhị Cộng Hòa, Nghị Ðịnh số 709-BNV-HC ngày 21.10.1969 của Thủ Tướng Chính Phủ đã sát nhập Xã Ðịnh Hải vào Xã Hòa Long cũng thuộc Quận Hòa Vang, Tỉnh Quảng Nam. 5. Bằng cớ bán nước của việt cộng Trong lúc miền Nam Việt Nam ra sức bảo vệ các Quần Ðảo tại Biển Ðông chống lại các hành động xâm lăng của ngoại quốc thì việt cộng tại miền Bắc lại nịnh bợ, thản nhiên công nhận chủ quyền của Trung Cộng tại các Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đây là các bằng cớ: - Vào năm 1956, Ngoại trưởng việt cộng là Ung văn Khiêm tuyên bố: ‘’Hà Nội nhìn chủ quyền của Trung Cộng đối với Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Cộng gọi là Tây Sa và Nam Sa’’. - Trong số báo phát hành ngày 22.9.1958, tờ nhân dân, cơ quan ngôn luận chính thức của việt cộng đã đăng một bản tin với tựa đề ‘’Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định về hải phận của Trung Quốc’’. Nguyên văn bản tin này như sau: Sáng ngày 21.9.1958, đồng chí Nguyễn Khang, Ðại Sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc, đã gặp đồng chí Cơ Bằng Phi, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm sau đây của chính phủ ta: Thưa đồng chí Tổng Lý, Tổng Lý Quốc Vụ Viện nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chúng tôi trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mối quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gởi đồng chí Tổng Lý lời chào rất trân trọng. Hà Nội ngày 14 tháng 9 năm 1958 Phạm Văn Ðồng Thủ Tướng chính phủ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - Sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, tờ báo sài gòn giải phóng vào tháng 5 năm 1976 đã đăng một bài xã luận liên quan tới Quần Ðảo Hoàng Sa, trong đó có những câu nịnh bợ Trung Cộng rất ngớ ngẩn như sau: ‘’Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà còn là người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi (Việt Nam, Trung Quốc, sông liền sông, núi liền núi). Khi nào chúng ta muốn nhận lại Quần Ðảo này, Trung Quốc sẽ sẵn sàng giao lại’’. Về sau, vào năm 1979, hai đồng chí thầy trò ‘’sông liền sông, núi liền núi’’ này đã dạy nhau một bài học đẫm máu tại vùng biên giới Hoa-Việt. Tới năm 1988, người thầy tín cẩn Trung Cộng đã chẳng những không giao lại Quần Ðảo Hoàng Sa cho tên đày tớ việt cộng mà còn xua quân chiếm luôn Quần Ðảo Trường Sa. Ngày 14.3.1988, tàu chiến Trung Cộng bắn chìm 3 chiến hạm của Hải quân việt cộng (một chiếc thuộc loại Shangai do Trung Cộng viện trợ trước đây, một Tuần duyên hạm PGM cũ của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, một Hải vận hạm do Nga Sô viện trợ) khiến trên 100 lính việt cộng thương vong. Trung Cộng đã dùng những bức công hàm của việt cộng công nhận chủ quyền của Trung Cộng tại Biển Ðông để làm bằng cớ. Bị bí lối, việt cộng trâng tráo giải thích trên tờ báo nhân dân số ra ngày 26.4. 1988: ‘’Ðúng là có những lời tuyên bố đó. Cần phải đặt những lời tuyên bố này đúng trong bối cảnh lịch sử của nó...Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, chống một kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự lớn hơn mình rất nhiều, Việt Nam tranh thủ được Trung Quốc gắn chặt với cuộc chiến đấu của Việt Nam càng nhiều bao nhiêu và ngăn chặn Mỹ sử dụng hai Quần Ðảo cũng như Vùng Biển Ðông chống lại Việt Nam, thì càng tốt bấy nhiêu. Phải đúng trên tinh thần đó và trong bối cảnh đó để hiểu các tuyên bố nói trên’’. -------------------- KHAI TỬ ĐẢNG!
|
|
|
![]() |
![]()
Post
#2
|
|
![]() Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 13,947 Joined: 18-November 08 Member No.: 775 Age: 53 Country ![]() ![]() |
![]() Biển Đông nổi sóng: Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà TƯỜNG THUẬT TRẬN HẢI CHIẾN LỊCH SỬ HOÀNG SA Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc Lời Tòa Soạn: Chúng tôi vừa nhận được hung tin: Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, người chỉ huy Trận Hải Chiến tại Quần Ðảo Hoàng Sa vào năm 1974, đã đột ngột từ trần tại Dallas, Texas vào hồi 10 giờ 30 sáng Thứ Sáu ngày 12 tháng 2 năm 1999, hưởng thọ 64 tuổi. Trong khoảng 10 năm vừa qua, chúng tôi liên lạc rất thường xuyên với Ðại Tá Ngạc để yêu cầu ông viết về Trận Hải Chiến Hoàng Sa, nhưng vì nhiều lý do, ông vẫn do dự. Mãi tới cuối năm 1998, vào dịp Lễ Giáng Sinh, ông mới gởi tới Tòa Soạn Nguyệt San Ðoàn Kết bài ‘’Tường Thuật Về Trận Hải Chiến Hoàng Sa’’ do chính ông viết nhân dịp kỷ niệm 25 năm trận đánh lịch sử này. Ngoài ra, ông cũng đã cho phép chúng tôi phỏng vấn và cung cấp nhiều hình ảnh hiếm có cùng những chi tiết quý báu về vị trí của các Chiến Hạm tham chiến để Tòa Soạn có thể sửa lại các phóng đồ về Trận Hải Chiến cho thêm chính xác. Chúng tôi dự định xuất bản số đặc biệt về Trận Hải Chiến Hoàng Sa nhân ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm nay, nhưng chưa kịp thực hiện thì Hải Ðội Trưởng Hà Văn Ngạc đã vội vã giã từ các Chiến Hữu. Xin thành thật phân ưu cùng tang quyến. Ðúng 25 năm trước, vào mùa Xuân Giáp Dần năm 1974, Hải Ðội Trưởng Hà Văn Ngạc đã anh dũng chỉ huy các Chiến Hạm Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa chận đánh quân xâm lăng Trung Cộng tại Hoàng Sa. Giờ đây, hương linh Chiến Hữu Hà Văn Ngạc vừa trở lại với Hoàng Sa để tiếp tục bảo vệ chủ quyền chính đáng của Tổ Quốc Việt Nam tại Biển Ðông. Trân trọng. Trần Ðỗ Cẩm Chủ Nhiệm Nguyệt San Ðoàn Kết, Austin Texas Ðôi Lời Trước Khi Viết: Ðã 25 năm kể từ ngày tôi tham dự Trận Hải Chiến Hoàng Sa, tôi chưa từng trình bày hay viết mô tả lại về trận đánh này ngay cả có nhiều lần tôi đã thất hứa với các bậc tiên sinh yêu cầu tôi thuật lại chi tiết của cuộc đụng độ. Dù thắng hay bại, chỉ có một điều duy nhất không thể chối cãi được là các Chiến Hữu các cấp của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa trong Trận Hải Chiến đã anh dũng chiến đấu bằng phương tiện và kinh nghiệm có trong tay để chống lại một kẻ xâm lăng truyền kiếp của Dân Tộc hầu bảo vệ lãnh thổ của Tổ Quốc. Trước một thù địch có sức mạnh gấp bội, dù cuộc chiến có hạn chế hay kéo dài hoặc mở rộng, phần cuối là chúng ta vẫn phải tạm lùi bước trước các cuộc cường tập của đối phương để tìm kiếm một cơ hội thuận tiện khác hầu khôi phục lại phần đất đã bị cưỡng chiếm. Hôm nay nhân ngày Tết Kỷ Mão, tôi viết những giòng này để tưởng niệm anh linh các liệt sĩ đã hy sinh khi cùng tôi chiến đấu chống kẻ xâm lăng trên các mảnh đất xa vời của Tổ Quốc, một số đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng biển Hoàng Sa như để thêm một chứng tích lịch sử của chủ quyền Quốc Gia, một số khác đã bỏ mình trên biển cả khi tìm đường thoát khỏi sự tàn bạo của người phương Bắc. Có nhiều Chiến Hữu Hải Quân đã từng hăng say viết lại một trang sử oai hùng của Hải Quân và toàn Quân Lực Việt Nam của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa, nhưng đã thiếu xót nhiều chi tiết chính xác mà vào những năm trước 1975 chưa được phép phổ biến, và cũng vì phải lưu lạc khắp thế giới tự do nên các Chiến Hữu đó đã không thể liên lạc để tham khảo cùng tôi. Nhiều chi tiết về giờ giấc và về vị trí bạn và địch, cũng như tên họ của các cấp có liên hệ tới biến cố, vì không có tài liệu truy lục, nên chỉ có thể viết vào khoảng gần đúng nhất. Tôi chỉ tường thuật trung thực những chi tiết theo khía cạnh của một người chỉ huy chiến thuật được biết và cũng mong mỏi các Chiến Hữu nào còn có thể nhớ chắc chắn các chi tiết quan trọng khác, tôi sẽ sẵn sàng tiếp nhận qua Tòa Soạn này, để sửa lại tài liệu này cho đúng. Hà Văn Ngạc ------------------------------------------------ ‘’Tân xuân Giáp Dần Hoàng Sa chiến Nam ngư hải ngoại huyết lưu hồng’’ Hai câu thơ với lời hành văn vận theo sấm Trạng Trình đã được truyền khẩu rất nhanh khi Hải Ðội Ðặc Nhiệm Hoàng Sa trở về tại Ðà Nẵng vào sáng sớm ngày 20 tháng 4 năm 1974. Và câu thơ này do chính Hải Quân Ðại Tá Nguyễn Viết Tân (Thủ khoa Khóa 5 của tôi) lúc đó đang giữ chức Vị Chỉ Huy Trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải, đọc cho tôi nghe. Từ ngày đó tới nay đã đúng 25 năm, và do sự khuyến khích của các bậc Thượng Trưởng của Hải Quân Việt Nam, những chi tiết về diễn tiến chưa từng tiết lộ của Trận Hải Chiến cần được ghi lại để làm chứng liệu lịch sử. Sau Trận Hải Chiến, những ưu và khuyết điểm về chiến thuật và chiến lược của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đến nay nếu nêu ra thì sợ không còn mất giá trị thực tiễn nào để có thể làm những bài học cho những biến cố kế tiếp. Vì vậy một vài điều nếu có nêu ra tại đây thì chỉ để ghi lại tình trạng và khả năng khi Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa khi đã phải đương đầu với Trung Cộng, là một quốc gia vào thời điểm đó, đã sẵn có một lực lượng hùng hậu về Hải lục không quân gấp bội của Việt Nam Cộng Hòa. Một điềm hãnh diện cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ là đã không những phải sát cánh với lực lượng bạn chống lại kẻ nội thù là cộng sản miền Bắc trong nội địa, lại vừa phải bảo vệ những Hải Ðảo xa xôi, mà lại còn phải chiến đấu chống kẻ xâm lăng, đã từng biết bao lần dày xéo đất nước trong suốt lịch sử lập quốc và dành quyền độc lập của xứ sở. So sánh với các cuộc hành quân ngoại biên vào các năm 1970-1971 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sang đất Kampuchia và Hạ Lào, thì Quân Lực ta chỉ chiến đấu ngang ngửa với cộng sản tại Việt Nam ẩn náu trên đất nước láng giềng mà thôi. Phải thành khẩn mà nhận rằng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa ngoài nội thù còn phải chống ngoại xâm mà đã rất khó tiên liệu để chuẩn bị một cuộc chiến chống lại một lực lượng Hải quân Trung Cộng tương đối dồi dào hơn cả chúng ta về phẩm cũng như lượng. Hải Quân Việt Nam ta đã có những gánh nặng về hành quân để yểm trợ Lực Lượng bạn và hành quân ngăn chặn các vụ chuyển quân lén lút của việt cộng qua biên giới Miên Việt trong vùng sông ngòi cũng như các vụ tiếp tế quân dụng của chúng vào vùng duyên hải. Trước khi đi vào chi tiết của Trận Hải Chiến lịch sử này, chúng ta thử nhắc sơ lược lại cấu trúc Nhân Sự của thượng tầng chỉ huy và của các Ðơn Vị tham chiến của Hải Quân vào lúc biến cố: - Tư Lệnh Hải Quân: Ðề Ðốc Trần Văn Chơn. - Tư Lệnh Phó Hải Quân: Phó Ðề Ðốc Lâm Ngươn Tánh - Tham Mưu Trưởng Hải Quân: Phó Ðề Ðốc Diệp Quang Thủy - Tư Lệnh Hạm Ðội: Hải Quân Ðại Tá Nguyễn Xuân Sơn - Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải: Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại - Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội Tuần Dương: Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc,(Hải Ðội 3) và là Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật Trận Hải Chiến. - Hạm Trưởng Khu Trục Hạm HQ4: Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San - Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm HQ5: Hải Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh - Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm HQ16: Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự - Hạm Trưởng Hộ Tống Hạm HQ10: Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà (truy thăng Hải Quân Trung Tá) - Trưởng Toán Hải Kích đổ bộ: Hải Quân Ðại Úy Nguyễn Minh Cảnh. Lý do tôi đã có mặt tại Hoàng Sa Rất nhiều Chiến Hữu trong Hải Quân đã không rõ nguyên cớ nào mà tôi đã có mặt để đích thân chỉ huy tại chỗ Trận Hải Chiến Hoàng Sa. Sự có mặt của tôi bắt nguồn từ khi tôi được Hội Ðồng Ðô Ðốc chỉ định tôi tăng phái cho Vùng I Duyên Hải khoảng từ cuối năm 72 đầu 1973. Lý do tăng phái của tôi đến Vùng I Duyên Hải tôi không được biết trước cho đến khi tôi tới Quân Khu 1, tôi mới được biết nhiệm vụ chính của tôi là chuẩn bị một trận thư hùng giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải quân Bắc Việt mà lúc đó, tin tình báo xác nhận là cộng sản đã được viện trợ các cao tốc đỉnh loại Komar của Nga Sô trang bị hỏa tiễn Hải-Hải (surface to surface). Vào thời gian đó Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa chỉ có khả năng chống đỡ thự động loại vũ khí này. Cuộc hải chiến tiên liệu có thể xảy ra khi lực lượng Hải quân cộng sản tràn xuống để hỗ trợ cho quân bộ của chúng khi chúng muốn tái diễn cuộc cường tập xuất phát từ phía Bắc sông Bến Hải như vào ngày cuối tháng 3 năm 1972 để khởi phát các cuộc tấn công suốt Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. Tôi lưu lại Vùng I Duyên Hải chừng hai tuần lễ hầu nghiên cứu để thiết kế. Kế hoạch chính của cuộc hải chiến này là sử dụng nhiều Chiến Hạm và Chiến Ðỉnh (WPB và PCF) để giảm bớt sự thiệt hại bằng cách trải nhiều mục tiêu trên mặt biển cùng một lúc. Song song với việc này là các Chiến Hạm và Chiến Ðỉnh phải sử dụng đèn chiếu sáng và hỏa pháo cầm tay như là một cách chống hỏa tiễn thự động. Ngoài ra Hải Quân cũng cần đặt ra sự yểm trợ của Pháo Binh của Quân Ðoàn I để tác xạ ngăn chận và tiêu diệt lực lượng Hải quân cộng sản tại phía Bắc Cửa Việt trước khi họ tràn xuống phía Nam để đủ tầm phóng hỏa tiễn. Sau khi đã thuyết trình tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải cùng các Chỉ Huy Trưởng các Ðơn Vị Duyên Phòng và Duyên Ðoàn, Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải chấp thuận kế hoạch và đưa kế hoạch lên thuyết trình tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I và Quân Khu I. Buổi thuyết trình tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I do đích thân Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chủ tọa, ngoài Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải còn có Ðại Tá Hà Mai Việt Trưởng Phòng 3 Quân Ðoàn, Ðại Tá Khiêu Hữu Diêu, Ðại Tá Nguyễn Văn Chung Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Ðoàn và một số rất ít các Sĩ Quan Phụ Tá. Nhu cầu yểm trợ Pháo Binh cho cuộc hải chiến được chấp thuận ngay và Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Ðoàn hứa sẽ phối trí pháo binh, đặc biệt là Pháo Binh 175 ly để thỏa mãn kế hoạch của Hải Quân, khi được yêu cầu. Kể từ khi được chỉ định tăng phái, tôi thường có mặt tại Vùng I Duyên Hải mỗi tháng chừng hai tuần tùy theo công việc của tôi tại Hải Ðội, nhưng chưa lần nào Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Bộ Tư Lệnh Hạm Ðội hoặc Vùng I Duyên Hải chỉ thị tôi phải có mặt trong vùng. Khi có mặt tại vùng tôi thường tìm hiểu tình hình tổng quát tại Quân Khu I cũng như đi hoặc tháp tùng Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải thăm viếng các Ðơn Vị Lục Quân bạn cấp Sư Ðoàn, Lữ Ðoàn hay Trung Ðoàn. Trở lại Trận Hải Chiến Hoàng Sa, vào khoảng ngày 11 tháng giêng năm 1974, chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Kissinger rời Trung Cộng, thì đột nhiên Ngoại Trưởng Trung Cộng lại một lần nữa tuyên bố về chủ quyền của họ trên các Quần Ðảo Hoàng và Trường Sa. Tôi rất lưu ý tin này vì tôi đã chỉ huy công cuộc đặt quân trú phòng đầu tiên trên Ðảo Nam Yết vùng Trường Sa vào cuối mùa Hè 1973. Vài ngày sau, vì Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa Vương Văn Bắc còn bận công cán ngoại quốc, thì Phát Ngôn Viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa bác bỏ luận cứ của Trung Cộng và tái xác nhận một lần nữa chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các Quần Ðảo đó. Ngày 16 tháng giêng năm 1974, tôi từ Sài Gòn đi Vũng Tàu để chủ tọa lễ trao quyền chỉ huy Tuần Dương Hạm HQ-5 Trần Bình Trọng đang neo tại chỗ, chờ Tân Hạm Trưởng là Hải Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh (tôi không còn nhớ tên Cựu Hạm Trưởng). Khi trở về Sài Gòn, lúc theo dõi bản tin tức hàng ngày của Ðài Truyền Hình thì thấy Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc hùng hồn và nghiêm trọng khi tuyên bố chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên 2 Quần Ðảo Hoàng và Trường Sa. Tôi thấy có chuyện bất ổn có thể xảy ra tại Vùng I Duyên Hải nhất là việt cộng có lẽ được Trung Cộng hỗ trợ tạo ra tình thế rắc rối ngoài Hải Ðảo để thu hút Lực Lượng của Hải Quân Việt Nam, và đương nhiên cộng sản sẽ lợi dụng để tràn xuống dưới vĩ tuyến 17 như đã dự liệu. Nên sáng sớm ngày 17, không kịp thông báo đến Tư Lệnh Hạm Ðội, tôi lên Phi Trường Tân Sơn Nhất và đến thẳng ngay Trạm Hàng Không Quân Sự. Tôi gặp ngay một Vị Thượng Sĩ Không Quân Trưởng Trạm và nói là tôi cần đi gấp ra Ðà Nẵng. Vị Thượng Sĩ trình với tôi là danh sách hành khách đã đầy đủ cho chuyến bay và giới thiệu tôi gặp Vị Trung Úy Phi Công Trưởng phi cơ C-130. Sau khi trình bày lý do khẩn cấp đi Ðà Nẵng của tôi, Vị Phi Công Trưởng trang trọng mời tôi lên phi cơ ngồi vào ghế phụ trong phòng phi công. Ðến Ðà Nẵng khoảng 9:00 sáng, tôi mới kêu điện thoại cho Hải Quân Ðại Tá Nguyễn Hữu Xuân, Tư Lệnh Phó Vùng cho xe đón tôi tại Phi Trường. Ðến Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải tôi mới được biết chi tiết những gì đang xảy ra tại Hoàng Sa, và được biết thêm là chiếc Tuần Dương Hạm HQ-5, mà tôi vừa chủ tọa trao quyền chỉ huy ngày hôm qua tại Vũng Tàu sẽ có mặt tại Quân Cảng vào buổi chiều tối cùng với Biệt Ðội Hải Kích. Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải cũng cho tôi hay và giữ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ bút của Tổng Thống vừa tới thăm Bản Doanh trước đây, nhưng tôi không hỏi về chi tiết cũng như xin xem thủ bút vì tôi nghĩ đó là chỉ thị riêng từ giữa Tổng Thống và một Vị Tướng lãnh. Vị Tư Lệnh này còn cho tôi hai chọn lựa: Một là chỉ huy các Chiến Hạm ngay tại Bộ Tư Lệnh Vùng, hai là đích thân trên Chiến Hạm. Tôi đáp trình ngay là: Tôi sẽ đi theo các Ðơn Vị của tôi. Từ ngày được thuyên chuyển về Hạm Ðội, không như các Vị tiền nhiệm, tôi thường xa Bộ Chỉ Huy để đi theo các Chiến Hạm trong công tác tuần dương. Mọi chuyện công tác, sự hiện diện của tôi đã mang lại cho Nhân Viên Chiến Hạm niềm phấn khởi sau nhiều ngày phải xa Căn Cứ. Tôi thường lưu ý các Vị Hạm Trưởng đến việc huấn luyện nội bộ hoặc thao dượt chiến thuật với Chiến Hạm khác khi được phép. Ðến khoảng buổi chiều thì Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải còn hỏi tôi có cần thêm gì, tôi trình xin thêm một Chiến Hạm nữa vì cần hai chiếc khi di chuyển trong trường hợp bị tấn công trên hải trình, chứ không phải vì số lượng chiến hạm Trung Cộng đang có mặt tại Hoàng Sa. Chiếc Hộ Tống Hạm (PCE) HQ-10 Nhật Tảo được chỉ định xung vào Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm, với lý do chính là chiếc Hộ Tống Hạm này đang Tuần Dương ngay khu vực cửa khẩu Ðà Nẵng nên giảm bớt thời gian di chuyển, Chiến Hạm chỉ có một máy chánh khiển dụng mà thôi. Ngoài ra Vị Tư Lệnh Hải Quân Vùng còn tăng phái cho tôi Hải Quân Thiếu Tá Toàn (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Chí Toàn, Khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang), mà tôi chưa biết khả năng nên trong suốt thời gian tăng phái tôi chỉ trao nhiệm vụ giữ liên lạc với các Bộ Tư Lệnh cho Vị Sĩ Quan này. Tôi dùng cơm chiều gia đình cùng Tư Lệnh Hải Quân Vùng tại tư thất trong khi chờ đợi Tuần Dương Hạm HQ-5 tới. Sau bữa ăn, Tư Lệnh Hải Quân Vùng đích thân đi bộ tiễn chân tôi ra Cầu Quân Cảng. Sau trận chiến, Vị Ðô Ðốc này có thổ lộ cùng tôi là ông đã tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi. Như vậy là Trận Hải Chiến đã dự liệu là sẽ có thể xảy ra, và chắc Vị Ðô Ðốc đã mật trình về Tư Lệnh Hải Quân thường có mặt tại Bộ Tư Lệnh. Tuần Dương Hạm HQ-5 rời bến khoảng 09:00 tối và tôi trao nhiệm vụ đi tới Hoàng Sa cho Hạm Trưởng HQ-5 là Vị Hạm Trưởng thâm niên hơn (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: HQ-5 và HQ-10 cùng đi Hoàng Sa, Hạm Trưởng HQ-5 là Trung Tá Quỳnh thuộc Khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, thâm niên hơn Hạm Trưởng HQ-5 là Thiếu Tá Thà thuộc Khóa 12 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang). Sự hiện diện của tôi trên Chiến Hạm này đã làm Tân Hạm Trưởng, vừa nhậm chức 2 ngày trước, được vững tâm hơn vì chức Tân Hạm Trưởng chưa nắm vững được tình trạng Chiến Hạm cũng như Nhân Viên thuộc hạ. Các Chiến Hạm đều giữ im lặng vô tuyến ngoại trừ các báo cáo định kỳ về vị trí. Những diến tiến ngày hôm trước Trận Hải Chiến Khoảng 8 hay 9:00 giờ sáng ngày 18, hai Chiến Hạm HQ-5 và HQ-10 đã đến gần Hoàng Sa, và trong tầm âm thoại bằng máy VRC46 (hậu thân của máy PRC25 nhưng với công xuất mạnh hơn) để liên lạc bằng bạch văn, vì tầm hữu hiệu của máy chỉ ở trong Vùng Hoàng Sa mà thôi, tôi nói chuyện với Hạm Trưởng HQ-4 Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, lúc đó đang là Sĩ Quan thâm niên hiện diện, để được am tường thêm tình hình cũng như thông báo về sự hiện diện của tôi, vừa là Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội vừa là để thay thế quyền chỉ huy mọi hoạt động, theo đúng thủ tục ghi trong Hải Quy. Sau khi được trình bày chi tiết các diễn tiến, tôi có lời khen ngợi Hạm Trưởng này và chia sẻ những khó khăn mà Vị này đã trải qua trong những ngày trước khi tôi có mặt tại vùng. Vào khoảng xế trưa, thì có 4 Chiến Hạm (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: HQ-4, HQ-5, HQ-10 và HQ-16) đều tập trung trong vùng lòng chảo của Quần Ðảo Hoàng Sa và Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm được thành hình. Nhóm chiến binh thuộc Tuần Dương Hạm HQ-16 và Khu Trục Hạm HQ-4 đã đổ bộ và trương Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa trên các Ðảo Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lộc (Money) và Duy Mộng (Drummond) từ mấy ngày qua vẫn được giữ nguyên vị trí phòng thủ để giữ Ðảo. Sau khi quan sát các chiến hạm Trung Cộng lờn vờn phía Bắc Ðảo Quang Hòa (Duncan), tôi quyết định ngay là Hải Ðoàn sẽ phô trương lực lượng bằng một cuộc thao diễn chiến thuật tập đội để tiến về phía Ðảo Quang Hòa với hy vọng là có thể đổ bộ Hải Kích như các Chiến Hạm ta đã làm trước đây. Lúc này trời quang đãng, gió nhẹ và biển êm. Tất cả Chiến Hạm đều phải vào nhiệm sở tác chiến,những các dàn hải pháo và vũ khí đại liên phải ở trong thế thao diễn. Khởi hành từ Nam Ðảo Hoàng Sa để tiến về Ðảo Quang Hòa, 4 Chiến Hạm vào đội hình hàng dọc, dẫn đầu là Khu Trục Hạm HQ-4, theo sau là Tuần Dương Hạm HQ-5 làm chuẩn hạm đã có trương hiệu kỳ Hải Ðội, thứ ba là Tuần Dương Hạm HQ-16 và sau cùng là Hộ Tống Hạm HQ-10, tốc độ chừng 6 gút, khoảng cách giữa các Chiến Hạm là hai lần khoảng cách tiêu chuẩn (tức 1000 yard), phương tiện truyền tin là kỳ hiệu và quang hiệu, và âm thoại bằng VRC46 hoặc PRC25 chỉ sử dụng để tránh hiểu lầm ám hiệu vận chuyển chiến thuật mà thôi. Chừng nửa giờ sau khi Hải Ðoàn vận chuyển vào đội hình hướng về phía Ðảo Quang Hòa thì hai chiến hạm Trung Cộng loại Kronstad mang số hiệu 271 và 274 bắt đầu phản ứng bằng cách vận chuyển chặn trước hướng đi của Hải Ðoàn, nhưng Hải Ðoàn vẫn giữ nguyên tốc độ, trong khi đó thì hai chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: Ðây là hai trục lôi hạm tức là tàu vớt mìn loại T43) cùng 2 chiếc ngư thuyền ngụy trang 402 và 407 (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: Ngư thuyền số 402 mang tên Nam Ngư) của họ vẫn nằm nguyên vị trí sát bờ Bắc Ðảo Quang Hòa. Tôi đã không chú tâm đến 2 chiếc chiến hạm nhỏ của địch vì cho rằng, hai chiếc này chỉ là loại phụ mà thôi (sau này, khi sưu tầm tài liệu về Trận Hải Chiến Hoàng Sa, Hải Quân Thiếu Tá Trần Ðỗ Cẩm truy ra theo số hiệu là loại Trục lôi hạm và chắc trang bị vũ khí nhỏ hơn) còn hai chiếc tàu tiếp tế ngụy trang nhỏ ngư thuyền thì không đáng kể. Hành động chặn đường tiến của Chiến Hạm ta đã từng được họ sử dụng trong mấy ngày trước đây khi các Chiến Hạm ta đổ quân lên các Ðảo Cam Tuyền, Vĩnh Lộc và Duy Mộng để xua quân của Trung Cộng rời Ðảo. Chiếc Kronstad 271 bắt đầu xin liên lạc bằng quang hiệu để xin liên lạc, Tuần Dương Hạm HQ5 trả lời thuận và nhận công điện bằng Anh ngữ: ‘’These islands belong to the People Republic of China (phần này tôi nhớ không chắc chắn) since Ming dynasty STOP Nobody can deny’’ (Phần này tôi nhớ rất kỹ vì tôi có phụ nhận quang hiệu). Tôi cho gởi ngay một công điện khái quát như sau: ‘’Please leave our territorial water immediately’’ Công điện của chiến hạm Trung Cộng được lập đi lập lại ít nhất 3 lần sau khi họ nhận được công điện của Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm Việt Nam Cộng Hòa, và Chiến Hạm ta cũng tiếp tục chuyển lại công điện yêu cầu họ rời khỏi Lãnh Hải của Việt Nam Cộng Hòa. Vì 2 Chiến Hạm Kronstad Trung Cộng cố tình chặn đường tiến của Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm với tốc độ khá cao, nếu Hải Ðoàn tiếp tục tiến thêm thì rất có thể gây ra vụ đụng tàu, tôi đưa Hải Ðoàn trở về phía Nam Ðảo Hoàng Sa và vẫn giữ tình trạng ứng trực cũng như theo dõi các chiến hạm Trung Cộng, họ cũng lại tiếp tục giữ vị trí như cũ tại phía Bắc và Tây Bắc Ðảo Quang Hòa. Sự xuất hiện thêm 2 Chiến Hạm của Hải Quân Việt Nam vào trong vùng chắc chắn đã được chiếc Kronstad 271 của Trung Cộng, được coi như chiến hạm chỉ huy, báo cáo về Tổng hành dinh của họ, và việc tăng viện có thể được coi như đã được chuẩn bị. Với hành động quyết liệt ngăn chặn ta không tiến được đến Ðảo Quang Hòa, tôi cho rằng họ muốn cố thủ Ðảo này. Việc đổ bộ quân để xua đuổi họ ra khỏi Ðảo, lúc đó tôi hy vọng, chỉ có thể phải thực hiện bất thần để tránh hành động ngăn chặn của họ và có Lực Lượng Hải Kích với trang phục người nhái, may ra họ có thể phải nhượng bộ, như Tuần Dương Hạm HQ-16 và Khu Trục Hạm HQ-4 đã thành công trong mấy ngày trước đó. Nếu họ tấn công thay vì nhượng bộ, Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm buộc phải sẵn sàng chống trả. Vào khoảng 8 giờ tối, tôi yêu cầu Tuần Dương Hạm HQ-16 chuyển Phái Ðoàn Công Binh của Quân Ðoàn I sang Tuần Dương Hạm HQ-5 bằng xuồng. Phái Ðoàn Công Binh Quân Ðoàn I do Thiếu Tá Hồng hướng dẫn đã vào gặp tôi tại phòng ăn Sĩ Quan có theo sau Ông Kosh thuộc Cơ Quan DAO Hoa Kỳ tại Ðà Nẵng. Tôi cho cả hai hay là tình hình sẽ khó tránh khỏi một cuộc đụng độ nên tôi không muốn các Nhân Viên không Hải Quân có mặt trên Chiến Hạm và tôi sẽ đưa họ lên Ðảo. Tôi cũng yêu cầu Tuần Dương Hạm HQ-5 cấp cho tất cả một ít lương khô. Riêng ông Kosh thì tôi yêu cầu Hạm Trưởng HQ-5 đưa cho ông 1 bịch thuốc lá 10 bao Capstan. Tôi tiễn chân tất cả Phái Ðoàn xuống xuồng và vẫy tay chào họ khi xuồng bắt đầu hướng về Ðảo Hoàng Sa. Kể từ giờ phút đó tới nay tôi không có dịp nào gặp lại ông Kosh để thăm hỏi ông và yêu cầu ông cho trả lại Tuần Dương Hạm HQ-5 bịch thuốc lá Capstan vì thuốc lá này thuộc Quân Tiếp Vụ của Chiến Hạm xuất ra ứng trước. Riêng Thiếu Tá Hồng thì tôi đã có dịp thăm hỏi ông tại Los Angeles vào năm 1996, cũng theo lời ông thì ông đã viết xong vào trước năm 1975, một cuốn ký sự về thời gian bị bắt làm tù binh trong lục địa Trung Hoa nhưng không được Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị cho xuất bản vì chưa phải lúc thuận tiện. Vào khoảng 10 giờ tối, tôi trực tiếp nói chuyện bằng vô tuyến với tất cả Hạm Trưởng để cho hay là tình hình sẽ khó tránh được một cuộc đụng độ, và yêu cầu các Vị này chuẩn bị các Chiến Hạm và huy động tinh thần Nhân Viên để sẵn sàng chiến đấu. Tôi biết rõ cuộc chiến nếu xảy ra thì tất cả Nhân Viên đều không đủ kinh nghiệm cho các cuộc hải chiến, vì từ lâu các Chiến Hạm chỉ chú tâm và đã thuần thuộc trong công tác tuần dương ngăn chận hoặc yểm trợ hải pháo mà thôi, nếu có những Nhân Viên đã phục vụ trong các Giang Ðoàn tại các vùng sông ngòi thì họ chỉ có những kinh nghiệm về chiến đấu chống các mục tiêu trên bờ và với vũ khí tương đối nhỏ hơn và dễ dàng trấn áp đối phương bằng hỏa lực hùng hậu. Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh hành quân, tôi không còn nhớ được xuất xứ, có thể là của Vùng I Duyên Hải, được chuyển mã hóa trên băng tần SSB (single side band) (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: Ðây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải gởi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân Hoàng Sa) 1). Lệnh hành quân vừa được nhận vừa mã dịch ngay nên không bị chậm trễ, và lệnh này ghi rõ quan niệm hành quân như sau: Tái chiếm một cách hòa bình Ðảo Quang Hòa. Lệnh hành quân cũng không ghi tình hình địch và lực lượng trừ bị nhưng những kinh nghiệm từ trước tới nay nhất là trong hai năm tôi đảm nhận trách vụ Tham Mưu Phó Hành Quân tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân, tôi dự đoán Trung Cộng, vì đã thiết lập một căn cứ tiền phương tại Ðảo Phú Lâm thuộc nhóm Tuyên Ðức nằm về phía Ðông-Bắc Ðảo Hoàng Sa sát vĩ tuyến 17, nên họ đã có thể đã phối trí tại đây lực lượng trừ bị, và hơn nữa trên Ðảo Hải Nam còn có một căn cứ Hải quân rất lớn và một Không lực hùng hậu với các phi cơ MIG 19 và 21 với khoảng cách gần hơn là từ Ðà Nẵng ra. Việc Trung Cộng lấn chiếm những Ðảo không có quân trú phòng của ta trong vùng Hoàng Sa, đã phải được họ chuẩn bị và thiết kế chu đáo từ lâu trước khi tái tuyên bố chủ quyền. Trong khi đó việc Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa phát hiện sự hiện diện của họ chỉ có từ khi Tuần Dương Hạm HQ-16 được lệnh đến thăm viếng định kỳ và chở theo Phái Ðoàn Công Binh Quân Ðoàn I ra thám sát Ðảo để dự kiến việc thiết lập một phi đạo ngắn. Ngay sau khi hoàn tất nhận lệnh hành quân, tôi chia Hải Ðoàn thành hai Phân Ðoàn Ðặc Nhiệm: Phân Ðoàn I là nỗ lực chính gồm Khu Trục Hạm HQ-4 và Tuần Dương Hạm HQ-5 do Hạm Trưởng Khu Trục Hạm HQ-4 chỉ huy. Phân Ðoàn II là nỗ lực phụ gồm Tuần Dương Hạm HQ-16 và Hộ Tống Hạm HQ-10 do Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm HQ-16 chỉ huy. Nhiệm vụ là Phân Ðoàn II giữ nguyên vị trí trong lòng chảo Hoàng Sa để tiến về Ðảo Quang Hòa vào buổi sáng. Phân Ðoàn I khởi hành vào 12:00 đêm đi bọc về phía Tây rời xuống phía Nam sẽ có mặt tại Nam Ðảo Quang Hòa vào 06:00 sáng ngày hôm sau tức là ngày 19 để đổ bộ Biệt Ðội Hải Kích. Phân Ðoàn I phải đi bọc ra phía Tây Quần Ðảo thay vì đi thẳng từ Ðảo Hoàng Sa xuống Ðảo Quang Hòa là để tránh việc các chiến hạm Trung Cộng có thể lại vận chuyển ngăn chặn đường tiến của Chiến Hạm như họ đã làm vào buổi chiều, vả lại việc hải hành tập đội về đêm trong vùng có bãi cạn và đá ngầm có thể gây trở ngại cho các Chiến Hạm, nhất là Khu Trục Hạm còn có bốn SONAR (máy dò Tiềm thủy đỉnh), hy vọng hải trình như vậy sẽ tạo được yếu tố bất ngờ. Hơn nữa về mùa gió Ðông-Bắc, việc đổ bộ vào phía Tây-Nam sẽ tránh được sóng biển cho xuồng bè. Nên ghi nhận tại điềm này là kể từ năm 1973, Toán cố vấn Hải Quân Hoa Kỳ tại Hạm Ðội mà Trưởng Toán là Hải Quân Ðại Tá Hamn (tên họ) đã nhiều lần yêu cầu tháo gỡ máy Sonar trên các Khu Trục Hạm. Phó Ðề Ðốc Nguyễn Thành Châu (lúc đó còn mang cấp Hải Quân Ðại Tá) Tư Lệnh Hạm Ðội đã trao nhiệm vụ cho tôi thuyết phục họ giữ máy lại để dùng vào việc huấn luyện. Mãi đến khi Hải Quân Ðại Tá Nguyễn Xuân Sơn nhận chức Tư Lệnh Hạm Ðội một thời gian, tôi vẫn tiếp tục liên lạc với Toán cố vấn, và sau cùng họ mới bằng lòng giữ máy lại với tính cách để huấn luyện. Thực ra một Khu Trục Hạm mà thiếu máy thám xuất tiềm thủy đỉnh thì khả năng tuần thám và tấn công sẽ giảm đi nhiều. Diễn tiến Trận Hải Chiến ngày 19 tháng giêng năm 1974 Ðúng 6:00 sáng ngày 19, trời vừa mờ sáng, Phân Ðoàn I đã có mặt tại Tây Nam Ðảo Quang Hòa, thủy triều lớn, tầm quan sát trong vòng 1.50 đến non 2.00 hải lý, trời có ít mây thấp nhưng không mưa, gió Ðông Bắc thổi nhẹ, biển tương đối êm tuy có sóng ngầm. Phân Ðoàn I tiến sát Ðảo khoảng hơn 1 hải lý, Tuần Dương Hạm HQ-5 nằm gần bờ hơn một chút để thuận tiện đổ bộ Hải Kích. Hai chiếc Kronstad 271 và 274 bị bất ngờ rõ rệt nên thấy họ đã vận chuyển lúng túng và không thực hiện được hành động ngăn cản như họ đã từng làm vào chiền hôm trước. Tôi cũng bị bất ngờ là hai chiếc chủ lực địch lại có mặt cùng một nơi để sẵng sàng đối đầu mà tôi không phải tìm kiếm họ, như tôi đã coi họ như là mục tiêu chính. Họ đã phải luồn ra khỏi khu lòng chảo vào ban đêm, nhưng không hiểu là họ có theo dõi được đường tiến quân của Phân Ðoàn I hay không. Vào giờ này thì họ đã phải biết rõ là Tuần Dương Hạm HQ-5 là Chiến Hạm chỉ huy của ta và cũng đã phải biết được hỏa lực của chiếc Khu Trục Hạm. Biệt Ðội Hải Kích do Hải Quân Ðại Úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy đã được tôi chỉ thị là không được nổ súng và lên bờ yên cầu toán quân của họ rời Ðảo. Trong Biệt Ðội này có một Chiến Sĩ Hải Kích Ðỗ Văn Long và luôn cả Hải Quân Ðại Úy Nguyễn Minh Cảnh là những Chiến Sĩ đã tham dự cuộc hành quân đầu tiên Trần Hưng Ðạo 22 (nếu tôi không lầm) cũng do tôi chỉ huy để xây cất Doanh Trại và đặt quân trú phòng đầu tiên trên Ðảo Nam Yết thuộc Quần Ðảo Trường Sa vào cuối mùa Hè năm 1973. Một lần nữa, khi Biệt Ðội Hải Kích xuống xuồng cao su, tôi đích thân ra cầu thang căn dặn và nhấn mạnh về việc đổ bộ mà không được nổ súng, và khi bắt liên lạc được với họ thì yêu cầu họ rời khỏi Ðảo. Tôi không chắc là cuộc đổ bộ sẽ thành công vì quân Trung Cộng trên Ðảo đã phải tổ chức bố phòng cẩn mật tiếp theo sự thất bại của họ trên các Ðảo khác đã nói ở trên, trong khi đó Biệt Ðội Hải Kích lại không có được hỏa lực chuẩn bị bãi đổ bộ. Một lần nữa tôi lại chỉ thị cho các Hạm Trưởng chuẩn bị để chiến đấu. Nếu cuộc đổ bộ thất bại thì với hỏa lực của 2 khẩu 76 ly tự động trên Khu Trục Hạm HQ4, một Chiến Hạm chủ lực của Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm, sẽ có đủ khả năng loại ít nhất là hai chiến hạm chủ lực Trung Cộng ra khỏi vòng chiến không mấy khó khăn, còn quân bộ của Trung Cộng trên Ðảo thì tôi tin chỉ là một mục tiêu thanh toán sau cùng. Tôi còn có ý định là sẽ điều động chiếc Khu Trục Hạm vượt vùng hơi cạn trực chỉ hướng Bắc vào thẳng vùng lòng chảo để tăng cường cho Phân Ðoàn II nếu cần sau khi đã loại xong 2 chiếc Kronstad mà tôi luôn luôn cho là mục tiên chính. Tôi rất vững lòng vào hỏa lực của chiến hạm chủ lực vì tôi đã được tường trình đầy đủ về khả năng của hải pháo 76 ly tự động khi Khu Trục Hạm này yểm trợ hải pháo tại Vùng Sa Huỳnh trong nhiệm kỳ Hạm Trưởng của Hải Quân Trung Tá Nguyễn Quang Tộ. Biệt Ðội Hải Kích tiến vào Ðảo bằng 2 xuồng cao su, từ Chiến Hạm ta, việc quan sát sự bố phòng của Trung Cộng trên Ðảo không được rõ ràng. Các chiến hạm Trung Cộng cũng không có phản ứng gì đối với xuồng của Hải Kích. Theo báo cáo của Biệt Ðội Trưởng Hải Kích thì Chiến Sĩ Hải Kích Ðỗ Văn Long là người đầu tiên tiến vào Ðảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đã bị hỏa lực trong bờ bắn tử thương ngay tại bãi biển. Hải Quân Trung Úy Lê Văn Ðơn (xuất thân từ Bộ Binh) tiến vào để thâu hồi tử thi của Liệt Sĩ Long cũng lại bị tử thương ngay gần xuồng nên tử thi Vị Sĩ Quan này được thâu hồi ngay. Việc thất bại đổ bộ được báo cáo ngay về Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) thì đích thân Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa hay Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải ra lệnh vắn tắt có hai chữ: ‘’khai hỏa’’ bằng bạch văn cho Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm và không có chi tiết gì khác hơn. Tôi nhận biết được khẩu lệnh trên băng siêu tần số SSB (single side band) không phải là của Nhân Viên Vô Tuyến mà phải là của cấp Ðô Ðốc, nhưng từ đó đến nay tôi vẫn tin rằng là của Tư Lệnh Hải Quân mà tôi đã quen thuộc giọng nói, nên tôi đã không kiểm chứng thêm về sau. Tôi trở nên yên tâm hơn vì khẩu lệnh khai hỏa đã giải tỏa trách nhiệm của tôi ghi trong phần quan niệm của lệnh hành quân là tái chiếm một cách hòa bình. Tôi đích thân vào máy siêu tần số trình ngay là chưa có thể khai hỏa được vì phải chờ triệt thoái Biệt Ðội Hải Kích về Chiến Hạm, họ còn trên mặt biển và ở vào vị thế rất nguy hiểm. Riêng tử thi của Liệt Sĩ Hải Kích Ðỗ Văn Long tôi lệnh không cho vào lấy vì có thể gây thêm thương vong. Tôi tin rằng tử thi của Liệt Sĩ Long sẽ không khó khăn để thâu hồi khi toán quân bộ Trung Cộng được tiêu diệt sau đợt các chiến hạm của họ bị loại hoàn toàn khỏi vòng chiến. Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, Biệt Ðội Hải Kích được hoàn tất thu hồi về Tuần Dương Hạm HQ-5 với Hải Quân Trung Úy Lê Văn Ðơn tử thương. Trong khi đó thì tôi chỉ thị cho các Chiến Hạm chuẩn bị tấn công, mỗi Chiến Hạm tấn công một chiến hạm địch, và bám sát địch trong tầm hải pháo 40 ly (khoảng 3 cây số), vì loại hải pháo này có nhịp tác xạ cao, dễ điều chỉnh và xoay hướng nhanh hơn. Tôi không tin tưởng nhiều vào hải pháo 127 ly và khả năng điều khiển chính xác của Nhân Viên vì hải pháo chỉ có thể tác xạ từng phát một, nạp đạn nặng nề và chậm xoay hướng nên tốt hơn là trực xạ. Tất cả các Chiến Hạm phải cùng khai hỏa một lúc theo lệnh khai hỏa của tôi để tạo sự bất ngờ và sẽ gây thiệt hại trước cho các chiến hạm Trung Cộng. Vì tầm quan sát còn rất hạn chế, nên từ Tuần Dương Hạm HQ-5 không quan sát được Tuần Dương Hạm HQ-16 và Hộ Tống Hạm HQ-10 cũng như hai chiến hạm khác và hai ngư thuyền ngụy trang của Trung Cộng nên tôi không rõ các chiến hạm này bám sát các chiến hạm Trung Cộng được bao nhiêu, nhưng tôi đã tin rằng Phân Ðoàn II không có bận tâm về việc đổ bộ nên có nhiều thì giờ hơn để thi hành kế hoạch tấn công và sẽ dễ dàng chế ngự được hai chiến hạm phụ của địch cùng hai ngư thuyền. Riêng Tuần Dương Hạm HQ-5 và Khu Trục Hạm HQ-4 đã nghiêm chỉnh thi hành lệnh. Trước khi ban hành lệnh khai hỏa tôi lần nữa hỏi các Chiến Hạm đã sẵn sàng chưa và nhấn mạnh một lần nữa là phải khai hỏa đồng loạt để đạt yếu tố bất ngờ. Các Hạm Trưởng đích thân trên máy VRC46 lần lượt báo cáo sẵn sàng. Tôi rất phấn khởi vì giờ tấn công hoàn toàn do tôi tự do quyết định, không phải lệ thuộc vào lệnh của thượng cấp và vào ý đồ chiến thuật của địch. Ðịch lúc này đã tỏ ra không có một ý định gì cản trở hay tấn công Chiến Hạm ta. Hải Quân Ðại Tá Ðỗ Kiểm, Tham Mưu Phó Hành Quân tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân còn đặc biệt cho tôi hay là có Chiến Hạm bạn ở gần, nhưng với sự hiểu biết của tôi, tôi không có một chút tin tưởng gì vào đồng minh này vì kể từ tháng 2 năm 1972 khi Hoa Kỳ và Trung Cộng đã chấm dứt sự thù nghịch nên Hải Quân của họ sẽ không một lý do gì lại tham dự vào việc hỗ trợ Hải Quân Việt Nam trong vụ tranh chấp về lãnh thổ. Họa chăng họ có thể cứu vớt những người sống sót nếu các Chiến Hạm Hải Quân Việt Nam lâm nạn. Nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc tìm kiếm những Nhân Viên từ Hộ Tống Hạm HQ-10 và các Toán đã đổ bộ lên trấn giữ các Ðảo đã đào thoát để trở về đất liền, chúng ta không nhận thấy một hành động nhân đạo nào từ phía đồng minh kể cả phi cơ không tuần. Khoảng 10:24 sáng thì lệnh khai hỏa tấn công được ban hành và tôi vào Trung Tâm Chiến Báo trực tiếp báo cáo bằng máy siêu tần số SSB, tôi đã cố ý giữ ống nói sau khi tôi chấm dứt báo cáo để tiếng nổ của hải pháo cũng được truyền đi trên hệ thống này. Cuộc khai hỏa tấn công đã đạt được yếu tố bất ngờ cho các chiến hạm địch vì tôi cho rằng họ vẫn tin là các hành động của Chiến Hạm cũng tương tự như trong những vài ngày trước, khi Hải Quân Việt Nam đổ quân trên các Ðảo Cam Tuyền, Vĩnh Lộc và Duy Mộng và nhất là cuộc phô diễn lực lượng của Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm ngày hôm trước Hải Quân Việt Nam đã không có một hành động khiêu khích nào,mà còn chấp thuận giữ liên lạc bằng quang hiệu. Chiếc Kronstad 271 nằm về hướng Tây gần Ðảo Quang Hòa, hướng mũi về phía Tây là mục tiêu của Tuần Dương Hạm HQ-5 đang hướng mũi vào bờ tức là phía Ðông, đặt mục tiêu về phía Tả Chiến Hạm (tức là phía Bắc). Chiếc này bị trúng đạn ngay từ phút đầu, vận chuyển rất chậm chạp nên đã là mục tiêu rất tốt cho Tuần Dương Hạm HQ-5. Hỏa lực của chiếc Kronstad 271 này không gây nhiều thiệt hại cho Tuần Dương Hạm HQ-5, nhưng có thể đã gây thiệt hại nặng cho Hộ Tống Hạm HQ-10 nằm về phía Bắc. Khu Trục Hạm HQ-4 nằm về phía Tây Nam của Tuần Dương Hạm HQ-5 đặt mục tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía Bắc tức là Tả Hạm của Chiến Hạm. Nhưng chẳng may, HQ-4 báo cáo bị trở ngại tác xạ ngay từ phút đầu tiên và phải chờ sửa chữa. Việc này đã làm đảo lộn các dự tính của tôi và làm tôi bối rối. Sau vài phút thì Chiến Hạm này xin bắn thử và kết quả là vẫn bị trở ngại và cần tiếp tục sửa chữa thêm, nhưng tôi vẫn còn chút hy vọng. Khu Trục Hạm HQ-4 vài phút sau lại xin tác xạ thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết quả, tuy nhiên Chiến Hạm này vẫn phải tiếp tục bám sát mục tiêu của mình trong tầm các loại đại liên nên đã bị thiệt hại nhiều bởi hỏa lực của chiếc Kronstad 274, và đại liên đã không áp đảo được hỏa lực của địch. Trên Tuần Dương Hạm HQ-5, tôi sử dụng chiếc máy PRC25 trước ghế Hạm Trưởng bên Hữu Chiến Hạm của Ðài Chỉ Huy để liên lạc với các Chiến Hạm, tôi vừa rời ghế để ra ngoài quan sát hai phía thì một trái đạn loại nổ mạnh gây một lỗ lủng khoảng nửa thước đường kính và làm nát máy PRC25, nên từ phút này trở đi tôi phải vào tận Trung Tâm Chiến Báo để dùng máy VRC46. Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm HQ-5 đứng cạnh Ðài Chỉ Huy bên Tả Chiến Hạm với Sĩ Quan Hải Pháo để dễ quan sát mục tiêu được chỉ định, nên tôi thường nói trực tiếp với Hạm Trưởng tại nơi này. Trung Tâm Chiến Báo của Chiến Hạm này chỉ quen thuộc dùng Radar vào việc hải hành, vả lại trời mù,mây thấp, Radar có nhiều nhiễu xạ nên tôi không được rõ về vị trí của Phân Ðoàn II và các chiến hạm của địch còn nằm trong khu lòng chảo Hoàng Sa. Sau chừng 15 phút thì Tuần Dương Hạm HQ-16 báo cáo là bị trúng đạn hầm máy, tàu bị nghiêng nên khả năng vận chuyển giảm sút, buộc phải lui ra ngoài vòng chiến để sửa chữa và cũng không còn liên lạc được với Hộ Tống Hạm HQ-10, không biết rõ tình trạng và chỉ thấy Nhân Viên đang đào thoát. Tôi nhận thấy một Tuần Dương Hạm đã vận chuyển nặng nề mà chỉ còn một máy và bị nghiêng, nếu tiếp tục chiến đấu thì sợ là một mục tiêu tốt cho địch, nên tôi đã không ra phản lệnh. Ngoài ra, Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm HQ-16 là một Vị Sĩ Quan ít tích cực hơn, nên tôi không mấy tin tưởng là Vị này có thể vượt qua được các khó khăn kỹ thuật để cố gắng tiếp tục tấn công. Khu Trục Hạm HQ-4 đã bị thiệt hại nhiều sau khi phải bám sát chiến hạm địch trong tầm đại liên, nên tôi ra lệnh cho Khu Trục Hạm HQ-4 phải rút ra khỏi vòng chiến ngay và chỉ thị cho Tuần Dương Hạm HQ-5 yểm trợ cho chiếc này khi tiến ra xa, vì tất nhiên Hải Ðội Ðặc Nhiệm không thể để bị thiệt hại một Khu Trục Hạm mà Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa chỉ có tổng cộng 2 chiếc mà thôi. Khi Khu Trục Hạm HQ-4 ra khỏi vùng chiến, lại không bị chiếc Kronstad 274 truy kích hoặc tác xạ đuổi theo, ngược lại chiếc này của địch có phần rãnh tay hơn để tấn công Tuần Dương Hạm HQ-5 vào phía Hữu Chiến Hạm hầu giảm bớt hỏa lực của Chiến Hạm ta như để cứu vãn chiếc 271 đang bị tê liệt. Vào giờ này thì tin tức từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân tại Sài Gòn do chính Tham Mưu Phó Hành Quân cho hay là một Phi Ðội khu trục cơ F5 đã cất cánh để yểm trợ cho Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm. Do sự liên lạc từ trước với Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn I Không Quân tại Ðà Nẵng, tôi hiểu là phi cơ F5 chỉ có thể yểm trợ trong vòng 5 tới 15 phút mà thôi vì khoảng cách từ Ðà Nẵng tới Hoàng Sa quá xa so với nhiên liệu dự trù. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi cơ cất cánh, Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững tâm chiến đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao dượt hỗn hợp nào giữa Không Quân và Hải Quân nên tôi rất lo âu về sự nhận dạng của Phi Công để phân biệt giữa Chiến Hạm của Hải Quân Việt Nam và chiến hạm Trung Cộng, nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi cơ có thể gây tác xạ nhầm mục tiêu. Máy VRC 46 trong Trung Tâm Chiến Báo phải chuyển sang tần số Không-Hải và đích thân tôi dùng danh hiệu để bắt liên lạc với phi cơ. Một viên đạn xuyên nổ trúng ngay Trung Tâm Chiến Báo từ Hữu Hạm, sát gần ngay nơi tôi đứng, làm Trung Tâm bị phát hỏa. Các Nhân Viên trong Trung Tâm còn mãi núp sau bàn hải đồ thì tôi nhanh tay với một bình cứu hỏa gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa. Tôi bị té ngã vì vấp chân vào bàn hải đồ, bàn chân trái bị đau một vài ngày. Tôi vẫn tiếp tục liên lạc với phi cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần số về liên lạc với các Chiến Hạm khác vì cuộc giao tranh đã đến độ khốc liệt hơn. Sau phút này thì Tuần Dương Hạm HQ-5 bị trúng nhiều đạn làm Sĩ Quan Trưởng Khẩu 127 ly tử thương và hải pháo bị bất khiển dụng vì phần điện điều khiển pháo tháp tê liệt, và máy siêu tần số SSB không còn liên lạc được vì giây trời bị sập rớt xuống sàn tàu, Hiệu Kỳ Hải Ðội bị rách nát phần đuôi. Tôi ra ngoài quan sát phía Tả Hạm và được nghe báo cáo là hầm đạn phát hỏa. Tôi nói ngay với Hạm Trưởng là cần phải làm ngập hầm đạn. Khẩu hải pháo 40 ly đạn Tả Hạm bị bất khiển dụng vì bị trúng đạn vào khối nạp đạn và khẩu 40 ly Hữu Hạm bị hư hại nhẹ. Tôi yêu cầu Hạm Trưởng là chỉ nên cho tác xạ tăng viên mà thôi, vì nhu cầu phòng không rất có thể xảy ra trong một thời gian ngắn. Bất thần về phía Ðông vào khoảng 11:25 sáng cách xa chừng 8 đến 10 hải lý, xuất hiện một chiến hạm của Trung Cộng loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa tiễn loại Hải-Hải (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: Ðây là loại khinh tốc đỉnh Komar) đang tiến vào vùng giao tranh với một tốc độ cao, quan sát được bằng một viễn kính và không một Chiến Hạm nào báo cáo khám phá được bằng Radar từ xa. Tôi dự đoán loại chiến hạm này ít khi được điều động từng chiếc một, và tin là có thể thêm ít nhất một chiếc theo sau. Với tình trạng của Hải Ðội Ðặc Nhiệm: Một Hộ Tống Hạm bị loại khỏi vòng chiến, một Tuần Dương Hạm bị thương nơi hầm máy, một Khu Trục Hạm và một Tuần Dương Hạm chỉ còn hỏa lực rất hạn chế, cộng với nguy cơ bị tấn công bằng cả hỏa tiễn Hải-Hải cũng như bằng phi cơ rất có thể xảy ra, nên tôi triệt thoái phần còn lại của lực lượng là Khu Trục Hạm HQ-4 và Tuần Dương Hạm HQ-5 ra khỏi vùng Hoàng Sa tiến hướng Ðông-Nam về phía Subic Bay (Hải Quân Công Xưởng của Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân). Tôi cũng cầu nguyện Ðức Thánh Trần, Thánh Tổ của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa ban cho tôi một trận mưa để giảm tầm quan sát và khả năng tấn công của phi cơ địch. Sau khi hai Chiến Hạm còn lại rút ra khỏi vùng giao tranh chừng 10 phút thì một trận mưa như đã đổ xuống toàn vùng Quần Ðảo Hoàng Sa. Các Chiến Hạm ta đã không bị truy kích và phi cơ địch cũng chưa xuất hiện. Mục đích tôi hướng về phía Ðông-Nam là để tránh bị phục kích của Tiềm thủy đỉnh Trung Cộng tại hải trình Hoàng Sa Ðà Nẵng, và khi ra ngoài xa lãnh hải thì nếu còn bị tấn công bằng phi cơ hoặc Tiềm thủy đỉnh thì may ra Đồng Minh Hải Quân Hoa Kỳ có thể cấp cứu chúng tôi dễ dàng hơn theo tinh thần cấp cứu hàng hải quốc tế. Nếu chúng tôi không còn bị tấn công thì việc đến Subic Bay Phi Luật Tân để xin sửa chữa trước khi hồi hương là một điều khả dĩ được thượng cấp chấp thuận. Tuần Dương Hạm HQ-5 phải mất gần một giờ mới kéo lên được giây trời khẩn cấp để tái lập sự liên lạc bằng máy siêu tần số SSB. Hầm đạn phía mũi của Chiến Hạm đã bị làm ngập, mũi bị chúc xuống nên tốc độ có bị thuyên giảm. Chính trong thời gian mất liên lạc, Bộ Tư Lệnh tại Sài Gòn cũng như tại Ðà Nẵng rất bối rối cho sự an toàn của hai Chiến Hạm và bản thân tôi. Chính Tư Lệnh Hạm Ðội tại Sài Gòn cũng đã đưa tin mất liên lạc đến với gia đình tôi. Vào khoảng 01:00 trưa, hai Chiến Hạm HQ-4 và HQ-5 đã cách Hoàng Sa chừng 10 hải lý, trời nắng và quang đãng. Tư Lệnh Hải Quân đích thân ra lệnh cho cả hai Chiến Hạm phải trở lại Hoàng Sa và đánh chìm nếu cần, tôi nhận được giọng nói của Ðô Ðốc. Lệnh đã được thi hành nghiêm chỉnh ngay tức khắc. Sau khi liên lạc vô tuyến siêu tần số được điều hòa trở lại thì mới báo cáo chi tiết về tổn thất và tình trạng lúc bấy giờ của các hai Chiến Hạm được chuyển đầy đủ. Trên Tuần Dương Hạm HQ-5 tôi cũng được thông báo về Tuần Dương Hạm HQ-16 sẽ được Tuần Dương Hạm HQ-6 tới hộ tống về Căn Cứ Hải Quân Ðà Nẵng. Ðến khoảng 02:30 chiều, khi cả hai Chiến Hạm đang trở về Hoàng Sa, qua ngang Hòn Tri Tôn, nghĩa là còn cách Ðảo Hoàng Sa chừng 1 giờ rưỡi hải hành nữa, thì hai Chiến Hạm được phản lệnh trở về Ðà Nẵng. Lúc này trời đã nắng, mây cao nên rất dễ dàng cho việc hải hành. Trong một cuộc đến thăm Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa tại Tư Dinh vào khoảng tháng 2 năm 1974, thì Vị Ðô Ðốc này đã tiết lộ rằng nếu biết được sớm tình trạng của Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm thì Tư Lệnh đã cho lệnh trở về Căn Cứ trước sớm hơn. Trên đường về, tôi vẫn ra lệnh cho các Chiến Hạm giữ nguyên nhiệm sở tác chiến và nhất nhất các Nhân Viên không ở trong nhiệm sở phòng máy phải túc trực trên boong để tránh tổn thất về nhân mạng trong trường hợp bị Tiềm thủy đỉnh Trung Cộng phục kích bằng ngư lôi. Nhưng may mắn là điều tôi dự liệu đã không xảy ra. Các Chiến Hạm đã khởi sự ngay thu dọn các tổn thất về vật liệu và thu hồi các dự liệu tác xạ. Tôi tò mò mở đài phát thanh BBC vào sáng sớm ngày 20, thì họ chỉ vỏn vẹn loan tin một Trận Hải Chiến đã xảy ra trong vùng Quần Ðảo Hoàng Sa giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, mới bên thiệt hại 1 chiến hạm và không thêm một chi tiết nào khác. Tôi tỏ ra khâm phục đài này về sự loan tin nhanh chóng và xác đáng. Tôi đã không hút thuốc từ nhiều tháng qua, nhưng tôi muốn hút một vài điều thuốc cho tinh thần bớt căng thẳng sau gần 48 tiếng đồng hồ liên tục không được nghỉ ngơi, tôi yêu cầu Hạm Trưởng dùng hệ thống liên hợp để loan báo xem có Nhân Viên nào còn thuốc lá cho tôi xin một ít để hút. Tôi không ngờ là các Nhân Viên tuần tự mang đến cho tôi hơn 2 chục bao cả loại trong khẩu phần C của Đồng Minh và các loại thuốc trong thương trường lúc bấy giờ, tôi lấy làm cảm động về sự ưu ái của các Nhân Viên trên Chiến Hạm này. Vào khoảng 2 giờ đêm tôi soạn thảo một sơ đồ hành quân và các chi tiết về tổn thất để chuẩn bị thuyết trình khi về tới Căn Cứ. Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng giêng thì hai Chiến Hạm của Phân Ðoàn I về tới Căn Cứ an toàn. Tuần Dương Hạm HQ-16 cũng đã về bến trước đó ít lâu. Một điều mà các Nhân Viên của các Chiến Hạm và riêng tôi rất cảm động là trên Cầu Thương Cảng Ðà Nẵng là nơi đã được chỉ định cho các Chiến Hạm cập bến, đã có sự hiện diện của các Vị Ðô Ðốc Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, Ðô Ðốc Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, một số đông Sĩ Quan cùng Nhân Viên của các Ðơn Vị Hải Quân Vùng Ðà Nẵng cùng các Trại Gia Binh đã túc trực đón đoàn Chiến Hạm trở về với rừng biểu ngữ : ‘’Hải QuânViệt Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ đến giọt máu cuối cùng’’. ‘’Một ý chí: Chống cộng. Một lời thề: Bảo vệ Quê Hương’’. ‘’Hoan hô tinh thần chiến đấu anh dũng của các Chiến Sĩ Hải Quân tham dự Hải Chiến Hoàng Sa’’. ‘’Hoan hô tinh thần bất khuất của các Chiến Sĩ Hải Chiến Hoàng Sa’’. Sau khi di tản các Chiến Sĩ thương vong và tử vong lên Căn Cứ thì chỉ có 3 Vị Ðô Ðốc cùng Hải Quân Ðại Tá Nguyễn Viết Tân Chỉ Huy Trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải lên Tuần Dương Hạm HQ-5 và vào Phòng Khách của Hạm Trưởng để dự cuộc thuyết trình về trận đánh. Ba Vị Hạm Trưởng đều có mặt để trình bày chi tiết về Chiến Hạm của mình. Các Vị Ðô Ðốc cũng không hỏi thêm tôi về những yếu tố đã đưa đến những quyết định chiến thuật của tôi, nhất là quyết định triệt thoái phần còn lại của Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm ra khỏi vùng Hoàng Sa. Sau phần thuyết trình các Vị Ðô Ðốc đã đi quan sát sự thiệt hại của các Chiến Hạm và ủy lạo Nhân Viên các cấp. Tôi cũng được nghe Ðô Ðốc Tư Lệnh Phó đề nghị với Tư Lệnh Hải Quân là sẽ không có thuyết trình cho Tư Lệnh Quân Ðoàn I. Sau chừng một giờ thì Trung Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn I Quân Khu I cũng tới thăm viếng và được hướng dẫn quan sát một vòng các Chiến Hạm để nhận định sự thiệt hại. Kết quả của Trận Hải Chiến Một cách tổng quát thì sự thiệt hại của hai đối thủ được kể như tương đương trong Trận Hải Chiến. Mỗi bên bị tổn thất một chiến hạm, như Ðài BBC loan tin vào sáng sớm ngày 20 tháng giêng, phía Việt Nam Cộng Hòa là Hộ Tống Hạm HQ-10, phía Trung Cộng là chiếc Kronstad 271 (được coi là chiến hạm chỉ huy) còn một số khác thì chịu một sự hư hại trung bình hoặc trên trung bình. Hai chiếc nhỏ hơn 389 và 396 cùng hai ngư thuyền ngụy trang theo tôi ước lượng chỉ hư hỏng hơi nặng mà thôi vì tầm hỏa lực của ta trội hơn. Riêng chiếc Kronstad 271 có thể bị tổn thất nhiều nhân viên hơn vì trúng nhiều hải pháo của Tuần Dương Hạm HQ-5 vào thượng tầng kiến trúc, trong khi đó chiếc 274 thì tổn thất được coi là nhẹ hơn cả vì chỉ bị tấn công nhiều bằng đại liên và ít hải pháo về sau này. Tuy nhiên trong các Trận Hải Chiến thì người ta thường kể về số Chiến Hạm bị loại khỏi vòng chiến hơn là sự thương vong về nhân mạng. Riêng trên Hộ Tống Hạm HQ-10, theo các Nhân Viên đã đào thoát về được đất liền, thì Vị Hạm Trưởng và Hạm Phó đều bị thương nặng, nhưng Hạm Trưởng đã từ chối di tản và quyết ở lại tuẫn tiết cùng Chiến Hạm của mình theo truyền thống của một Sĩ Quan Hải Quân và một Nhà Hàng Hải. Hạm Phó được Nhân Viên dìu đào thoát được nhưng đã phải bỏ mình trên mặt biển vì vết thương quá nặng. Vụ này làm tôi nhớ lại, theo lời kể của các bậc Tiên Sinh, thì khi Hải quân Pháp hành quân trên sông (nếu không lầm thì là Sông Ðáy) một chiến hạm loại trợ Chiến hạm (LSSL) hay Giang pháo hạm (LSIL) đã bị trúng đạn đài chỉ huy, làm tử thương cả hai Hạm Trưởng và Hạm Phó cùng một lúc, sĩ quan cơ khí đã phải lên thay thế tiếp tục chỉ huy. Sau kinh nghiệm này, Hải quân Pháp không cho Hạm Trưởng và Hạm Phó có mặt cùng một nơi khi lâm trận. Cá nhân tôi lúc đó đã không có chút thì giờ để nhớ tới kinh nghiệm mà các bậc Tiên Sinh đã truyền lại tôi mà áp dụng. Một điều lạ là Trung Cộng có đủ khả năng tuy khiêm nhượng, vào lúc cuối trận chiến, vì có thêm tăng viện đến kịp thời, nhưng đã bỏ rơi cơ hội truy kích khi lực lượng ta triệt thoái, hay sử dụng hỏa tiễn Hải-Hải vì lực lượng ta vẫn còn nằm trong tầm hữu hiệu của loại vũ khí này. Tôi cho rằng có thể họ đã bận tâm vào việc cứu vãn chiếc Kronstad 271 và quân bộ trên Ðảo Quang Hòa, hoặc họ đã không nhận được lệnh tấn công, và chỉ đương nhiên chống trả tự vệ mà thôi. Tôi nhận rằng ước tính của tôi về phản ứng của địch đã cao hơn như thực tế đã xảy ra. Việc Hải Quân Việt Nam khai hỏa tấn công sau khi thất bại đổ bộ đã tạo cho Trung Cộng có nguyên cớ vì bị tấn công mà phải hành động, nên đã dùng cường lực cưỡng chiếm các Ðảo vào ngày sau. Theo các Quân Nhân trú phòng trên Ðảo Hoàng Sa thì sáng sớm ngày hôm sau tức là ngày 20 tháng giêng, Trung Cộng đã huy động một lực lượng hùng hậu kết hợp Hải lục không quân đổ bộ tấn chiếm Ðảo Hoàng Sa và các Ðảo kế cận mà các chiến binh Hải quân đang chiếm giữ. Theo ký giả Lê Vinh, một Cựu Sĩ Quan Hải Quân, đã từng đảm trách chức vụ Thư Ký của Ủy Ban Nghiên Cứu Trận Hải Chiến cho biết, thì vào thời gian Trận Hải Chiến, Hải Quân Hoa Kỳ đã chuyển cho Hải Quân Việt Nam một tin tức về 42 Chiến hạm Trung Cộng với 2 Tiềm thủy đỉnh đang tiến xuống Hoàng Sa. Dù nhiều hay ít thì lực lượng của họ sẽ trội hơn Lực Lượng Hải Quân Việt Nam có thể điều động tới. Nếu hai Chiến Hạm còn lại của Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm phải lưu lại Hoàng Sa như lệnh ban ra lúc đầu, với khả năng chiến đấu đã bị giảm sút nhiều thì sự bảo tồn của hai Chiến Hạm này rất mong manh. Thế cho nên phản lệnh cho hai Chiến Hạm phải trở về Căn Cứ được kể như là đúng lúc và sát với thực tế hơn. Trung Cộng đã bắt giữ tất cả Quân Nhân và Dân Chính Việt Nam trên Ðảo Hoàng Sa và Toán Hải Quân đổ bộ thuộc Khu Trục Hạm HQ-4 trên Ðảo Vĩnh Lộc (sát phía Nam Ðảo Hoàng Sa) mà Trưởng Toán là Hải Quân Trung Úy Lê Văn Dũng (sau được vinh thăng Hải Quân Ðại Úy tại mặt trận), làm tù binh đưa về giam giữ đầu tiên tại Ðảo Hải Nam. Riêng ông Kosh là Nhân Viên của Cơ Quan DAO Hoa Kỳ tại Ðà Nẵng thì được trao trả cho Hoa Kỳ sớm nhất tại Hồng Kông. Còn các Nhân Viên Việt đã bị họ nhồi sọ về chủ nghĩa của họ trong suốt thời gian tại Quảng Ðông,và trao trả về Việt Nam tới ranh giới Hồng Kông và Trung Cộng. Ðô Ðốc Tư Lệnh Phó Hải Quân đã được đề cử đích thân đến Hồng Kông tiếp nhận. Các Chiến Sĩ từ Trung Cộng hồi hương đều được đưa vào Tổng Y Viện Cộng Hòa điều trở về các bệnh trạng gây ra do các hành động ngược đãi trong khi bị giam cầm trên lục địa Trung Hoa. Thế là cuối cùng thì Việt Nam Cộng Hòa đã mất nốt nhóm Ðảo Nguyệt Thiềm phía Nam của cả Quần Ðảo Hoàng Sa cho tới ngày hôm nay. Các Chiến Sĩ Hải Quân đào thoát từ Hoàng Sa, sau nhiều ngày trôi dạt trên mặt biển, một số đã được chính các Tuần Duyên Ðỉnh của Hải Quân cứu vớt, một số đã được các thương thuyền trên hải trình Singapore Hồng Kông bắt gặp. Tất cả các Chiến Sĩ thoát hiểm được đưa về điều trị tại các Tổng Y Viện Duy Tân (Ðà Nẵng) hay Cộng Hòa, và còn được Thủ Tướng Chính Phủ, các Vị Tư Lệnh Quân Ðoàn, và các Vị Ðô Ðốc Hải Quân đến thăm hỏi và ủy lạo. Công cuộc chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa Khi phần thăm viếng của Thượng cấp kết thúc, thì tất cả các Chiến Hữu bắt tay ngay vào việc sửa chữa và tái tiếp tế đạn dược để chuẩn bị tấn kích tái chiếm Hoàng Sa. Một Toán thợ thượng thặng của Hải Quân Công Xưởng cũng đã được điều động từ Sài Gòn ra để phụ lực với Chuyên Viên của Thủy Xưởng Ðà Nẵng. Riêng Tuần Dương Hạm HQ-16, tuy không bị họ hỏi nhiều trên thượng tầng kiến trúc, nhưng các chuyên viên đã tháo gỡ được đầu viên đạn đã xuyên lủng hầm máy. Viên đạn này là một loại đạn xuyên phá và không nổ 127 ly của Tuần Dương Hạm HQ-5 bị lạc. Kinh nghiệm cho thấy là loại đầu đạn không nổ nếu trúng nước thì đạn đạo sẽ thay đổi rất nhiều vì đầu đạn nhọn bị nước làm chuyển hướng đi rất xa. Tin này do đích thân Tư Lệnh Phó Hải Quân mang đến cho tôi. Ðó là một điều không may mắn cho Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm Hoàng Sa, nhưng trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào, sẽ nhầm lẫn về mục tiêu, về bạn và địch, về vị trí tác xạ đều đã xảy ra ít nhất là tại chiến trường Việt Nam. Hơn nữa trong cuộc hải chiến này, Tuần Dương Hạm HQ-5 đã tác xạ cả trăm đại pháo 127 ly, mà chỉ có một viên bị lạc, nên vẫn còn là điều may mắn. Việc Chiến Hạm bị trúng 1 viên đạn của bạn cùng với việc hai khẩu hải pháo 76 ly tự động trên Khu Trục Hạm HQ-4 đã bị trở ngại kỹ thuật ngay từ phút đầu của cuộc chiến, là hai nhược điểm chiến thuật mà Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa chỉ muốn phổ biến hạn chế vào đầu năm 1974 là thời điểm, mà nhiều sự phân tích đáng tin cho rằng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã lợi dụng biến cố Hoàng Sa để tránh né sự chỉ trích của các phần tử đối lập lúc đó đang rất mạnh. Sau ít ngày sửa chữa, thì Tuần Dương Hạm HQ-16 chỉ đủ khả năng tự hải hành về Quân Cảng Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể. Khu Trục Hạm HQ-4 không sửa chữa tại chỗ được hai khẩu 76 ly tự động. Tuần Dương Hạm HQ-5, sau khi tái tiếp tế đạn và hàn vá các hư hại đã cùng HQ-6 ra khơi tìm kiếm các Nhân Viên đào thoát khỏi Vùng Hoàng Sa. Các phi cơ C130 đã bay lượn trong một vùng duyên hải hạn chế để tránh sự hiểu nhầm về hành động khiêu khích của Việt Nam đối với Trung Cộng. Các phi cơ hướng dẫn các Chiến Hạm xem xét các vật trôi trên mặt biển nhưng vẫn chưa cấp cứu được Nhân Viên nào ngoại trừ vỏ một thùng xăng dự trữ. Tôi vẫn có mặt trên Tuần Dương Hạm HQ-5 để tham dự cuộc tìm kiếm. Riêng Hộ Tống Hạm HQ-10, vì mất liên lạc nên tôi đã không biết được tình trạng cuối cùng của Chiến Hạm, nhưng chúng tôi vẫn còn một hy vọng tuy mong manh là Chiến Hạm này chưa chìm hẳn và có thể trôi dạt về phía Duyên Hải miền Trung trong mùa gió Ðông Bắc. Với Tuần Dương Hạm HQ-6 đã có mặt trong vùng và vừa hoàn tất hộ tống Tuần Dương Hạm HQ-16 từ nửa đường Hoàng Sa-Ðà Nẵng về bến, cùng với HQ-17 (Hạm Trưởng Hải Quân Trung Tá Trần Ðình Trụ) điều động từ Trường Sa tới tăng cường đã kết hợp với Tuần Dương Hạm HQ-5 thành một Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm mới với nhiệm vụ chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa. Mặc dầu nhiều Sĩ Quan thâm niên hơn tôi có mặt tại chỗ, nhưng tôi vẫn được chỉ định tiếp tục chỉ huy. Một cuộc thao dượt chiến thuật và thực tập tác xạ đã diễn ra trong vòng một ngày tại vùng một Ðảo nhỏ nằm về phía Bắc Vùng Cù Lao Chàm phía Ðông-Nam Ðà Nẵng. Sau cuộc thao dượt, tôi trình bày kết quả việc huấn luyện trong các buổi thuyết trình hành quân tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng, vẫn được Tư Lệnh Phó Hải Quân chủ tọa. Nhưng cuối cùng thì công cuộc tái chiếm Hoàng Sa được hủy bỏ. Tuy vẫn được tín nhiệm để chỉ huy, nhưng tôi tin rằng cuộc phản kích tái chiếm sẽ thất bại ngoại trừ đó là một chiến thuật thí quân nằm trong một chiến lược cao hơn. Với các Tuần Dương Hạm cũ kỹ (WHEC) sử dụng trong lực lượng phòng vệ duyên hải Hoa Kỳ (US Coast guard) từ lâu, được trang bị vào công tác tuần tiễu hơn là để chiến đấu, vừa chậm chạp và vận chuyển nặng nề, nên khó chống trả lại với các chiến hạm chiến đấu tối tân hơn. Loại này chỉ có một hải pháo 127 ly, còn 2 hải pháo 40 ly đã được Hải Quân Việt Nam đặt thêm vào lái tàu là nơi đã được dùng làm sàn đáp trực thăng. Trong thời gian tại Căn Cứ, Tư Lệnh Phó Hải Quân ít nhất đã hai lần tập hợp Nhân Viên tất cả các Chiến Hạm có mặt tại chỗ để chỉ thị không được có hành động kiêu ngạo về chiến tích của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Ðể làm gương cho tất cả Nhân Viên thuộc quyền, tôi đã giữ một thái độ rất khiêm nhượng và im lặng. Tôi chưa bao giờ thảo luận hoặc trình bày chi tiết với bất cứ một ai hay một tổ chức nào, về những yếu tố đã đưa đến các quyết định chiến thuật của tôi trong trận đánh. Tôi lưu lại Vùng I Duyên Hải chừng hơn một tuần lễ, đã được cùng Phó Ðề Ðốc Tư Lệnh Hải Quân vùng I Duyên Hải xuất hiện trên Ðài Chỉ Huy cũng của Tuần Dương Hạm HQ-5 để thực hiện một phóng sự cho Ðài Truyền Hình Quân Ðội. Sau đó tôi trở về nhiệm sở chính tại Sài Gòn. Tôi còn được đến phòng thâu hình của Quân Ðội cùng các Vị Hạm Trưởng và một vài Hạ Sĩ Quan Trưởng Pháo Khẩu để trình bày các chiến tích. Tuy nhiên tôi không đề cập nhiều chi tiết và nhường lời lại nhiều hơn cho các Hạm Trưởng vì tôi nghĩ rằng các Vị này đáng được đề cao vì đã đích thân huy động tinh thần Nhân Viên và can đảm trực tiếp chiến đấu. Ít lâu sau tôi phải theo học Khóa Chỉ Huy Tham Mưu Ðặc Biệt tại Long Bình, đặc biệt vì khóa gồm nhiều các Sĩ Quan đang đảm trách những vai trò then chốt của Quân Lực và các Ðại Ðơn Vị. Khi Phó Ðề Ðốc Phụ Tá Hành Quân Biển của Tư Lệnh Hải Quân đến thuyết trình tại Trường về tổ chức của Hải Quân Việt Nam, thì một câu hỏi đầu tiên của Khóa Sinh là về hải chiến Hoàng Sa. Ðô Ðốc đã chuyển câu hỏi này cho tôi đang ngồi trong Hội Trường, quả thật vụ này đã trao cho tôi một trái banh khó đỡ. Tôi đáp lại câu hỏi vọn vẹn ngay là: Các Quý Vị đã nghiên cứu về trận đánh Ấp Bắc, thì Trận Hải Chiến Hoàng Sa cũng gần tương tự. Sau câu trả lời của tôi thì không một câu hỏi nào về trận Hoàng Sa được nêu ra thêm. Xin ghi thêm vào nơi này, trận Ấp Bắc đã làm cho Quân Lực bị bất ngờ về chiến thuật của địch, có sự sai lầm về ước tính tình báo và nhầm lẫn về chiến thuật điều quân. Vào những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam tôi được biệt phái giữ chức về Phụ Tá Hải Quân cho Trung Tướng Chỉ Huy Trưởng Trường Chỉ Huy Tham Mưu Liên Quân đồn trú tại Long Bình. Phần sau Trận Hải Chiến Sau Trận Hải Chiến, Hải Quân được nhiều vinh danh như trận chiến đã nêu cao và nối tiếp được tinh thần chống Bắc xâm của Dân Tộc. Trận Hải Chiến được liên tục ca ngợi hàng ngày trên các phương tiện truyền thông của Quân Ðội cũng như ngoài dân sự để thêm vào với: Bình Long Anh Dũng, Kontum Kiêu Hùng v.v.... Hoàng & Trường Sa với Việt Nam là một. Cũng như Trận Hải Chiến mà phần đông Nhân Dân Việt Nam mới được biết đến phần Lãnh thổ năm xa với trong Biển Ðông mà Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa từ ngày thành lập đã âm thần bảo vệ và tuần tiểu. Nói về Trận Hải Chiến, dù Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa giữ thử có thắng được trận ngày đầu, thì chúng ta khó lường được sự tổn thất nếu Hải Quân còn ở lại để cố thủ Hoàng Sa. Phó Ðề Ðốc Chủ Tịch Ủy Ban Nghiên Cứu về Trận Hải Chiến khi vụ này đích thân thăm viếng Khu Trục Hạm HQ-4 khi đang nằm trong ở lần sửa chữa đã nói riêng với tôi: Thế là vừa đủ, ý của vụ này nói là không nên tiếp tục chiến đấu thêm ít nhất là vào thời điểm đó Hải Quân còn phải đảm nhận nhiều công tác tiểu trừ cộng sản trong đất liền. Ðó là chưa kể việc tấn chiếm phần còn lại của Quần Ðảo Hoàng Sa có thể đã nằm trong các đường lối đi đêm chiến lược của các cường quốc. Tôi nghĩ rằng nếu chiếc Khu Trục Hạm HQ-4 không bị trở ngại kỹ thuật và trận chiến đã xảy ra gần như tôi đã dự liệu và mong muốn, nghĩa là ta thắng trận đầu, thì cường lực Hải lục không quân của chúng huy động ngày hôm sau không những đủ sức tràn ngập quân trú phòng và lại còn đủ sức truy kích Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa trong một vùng rộng lớn hơn. Tôi đã tin tưởng rằng Quân Ðoàn I Quân Khu I đã phải đặt trong tình trạng báo động đề phòng sự tấn công của Trung Cộng ngay sau khi Trận Hải Chiến diễn ra. Một Phi Tuần chiến đấu cơ F5 của Sư Ðoàn I Không Quân tại Ðà Nẵng đã sẵn sàng trên phi đạo nhưng không được lệnh cất cánh từ cấp cao để yểm trợ cho Hải Quân vì có thể là e ngại sự châm ngòi cho một cuộc chiến mới, hoặc chỉ hạn chế trận chiến tới mức có thể chấp nhận được trong một thế chính trị. Một lần nữa, giả dụ rằng ta cứ để Trung Cộng có mặt trên Ðảo Quang Hòa, Trận Hải Chiến đã không xảy ra thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục hiện diện trên Ðảo Hoàng Sa, tuy nhiên có thể phải trải thêm quân trên các Ðảo Cam Tuyền, Vĩnh Lộc và Duy Mộng, để tránh sự lấn chiếm, cộng thêm là Hải Quân Việt Nam phải thường xuyên tuần tiểu với một Hải Ðoàn tương đối mạnh. Nhưng dần dà họ cũng sẽ lấn chiếm theo kế hoạch bành trướng thế lực của họ trong Vùng Ðông Nam Á. Có thể Trung Cộng đã trả đũa hay dập theo khuôn mẫu Việt Nam Cộng Hòa khi ta đã đặt quân trú phòng trên Ðảo Nam Yết và Sơn Ca nằm phía Nam và Ðông cùng trên một vòng đai san hô với Ðảo Thái Bình, đã bị Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) chiếm đóng từ khi Nhật Bản thua trận Ðệ Nhị Thế Chiến. Người Trung Hoa dù là lục địa hay Hải Ðảo, đã từng nhiều lần tuyên bố là lãnh thổ của họ, không những vùng này mà thôi mà cả toàn vùng Hoàng Sa Trường Sa. Phải thành khẩn mà nhận rằng, khi Việt Nam Cộng Hòa đặt quân trú phòng trên các Ðảo còn bỏ trống trong Vùng Trường Sa như Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử Ðông, Song Tử Tây, Trường Sa v.v.., chúng ta đã không gặp một hành động đối kháng về quân sự nào từ phía Trung Hoa Dân Quốc hoặc Phi Luật Tân hay Mã Lai Á. Một suy luận nữa là có thể Trận Hải Chiến là một cuộc điều chỉnh sự nhường quyền chiếm giữ từ một nhược tiểu đến một cường quốc theo một chiến lược hoàn cầu mà vài cường quốc đã ngầm thỏa thuận trước. Chúng ta có thể nhớ lại cuộc tấn công hùng hậu của Anh Quốc trong cuộc tranh chấp Ðảo Falkland (Nam Mỹ Châu) vào thập niên 80, mà Á Căn Ðình (Argentina) vẫn luôn coi như lãnh thổ của họ. Họ đã chiến đấu mạnh mẽ trên mặt ngoại giao và buộc phải chiến đấu trên mặt quân sự sau khi ngoại giao thất bại. Về mặt quân sự, họ biết trước là khó chống lại Anh quốc với lực lượng khá dồi dào, nhưng họ đã phải chiến đấu trong khả năng của họ, họ biết tự kiềm chế cường độ chiến tranh để giảm thiểu tổn thất. Kết quả là Ðảo Falkland đã về tay Anh Quốc. Tuy Ðảo Falkland rộng lớn hơn về diện tích và nguồn lợi cũng như dân sự, quân lực hai đối thủ đưa vào cuộc đụng độ hùng hậu hơn, mức độ chiến tranh nặng hơn, nhưng hai trận Falkland và Hoàng Sa đã gần tương tự nhau về tính chất của một cuộc chiến. Người Pháp, trong chiến tranh tại Ðông Dương sau 1945, vì chiến cuộc gia tăng tại nội địa, đã phải bỏ ngõ hoàn toàn nhóm Ðảo Tuyên Ðức phía Bắc, và bỏ ngõ nhóm Nguyệt Thiềm phía Nam trong vài năm. Riêng nhóm Tuyên Ðức phía Bắc đã do Trung Hoa Dân Quốc cưỡng chiếm trong ít lâu, nhưng sau đó họ đã phải rút về vì sự thất trận của họ trong lục địa. Về sau, Hiệp Ðịnh Ba Lê 1954 lại đề ra Khu Phi Quân Sự dọc theo vỹ tuyến 17, đã làm cho Việt Nam Cộng Hòa đã không thể tích cực hiện diện tới nhóm Tuyên Ðức Bắc Ðảo Hoàng Sa thuộc nhóm Nguyệt Thiềm. Xét về sự phòng thủ, so sánh với Ðảo Thái Bình trong Vùng Trường Sa thì thế bố trí trên Ðảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa đã thua kém rất xa, và không thể đủ sức để có thể chống lại một cuộc cường kích thủy bộ. Trên Ðảo không có công sự nặng, chỉ có khoảng một Trung Ðội Ðịa Phương Quân với vũ khí cá nhân và một vài quan sát viên khí tượng. Trong khi đó Ðảo Thái Bình, khi Nhật chiếm đóng trong Ðệ Nhị Thế Chiến, họ đã xây cất nhiều công sự nặng. Sau này khi Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) chiếm đóng, chắc chắn họ đã tăng cường mọi cơ cấu phòng thủ, lại có trang bị các khẩu đại pháo chống chiến hạm, đưa quân số trú phòng có thể tới cấp hơn Tiểu Ðoàn và do một Vị Ðại Tá Thủy Quân Lục Chiến chỉ huy. Ngoài ra việc tuyên bố chủ quyền của Trung Cộng trên cả hai Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa được nhận xét chỉ diễn ra sau cuộc thăm viếng Trung Cộng của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Kissinger. Ít nhất là Hoa Kỳ và Trung Cộng đã ngầm có nhiều thỏa thuận về chiến lược hay ít nhất cũng đồng ý là Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào các hành động của Trung Cộng trong vùng. Ðối với Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ đã không muốn can dự vào sự bảo vệ Lãnh thổ. Trong ngày hải chiến thì các đối tác viên tại Bộ Tổng Tham Mưu đã khẳng định đó là công chuyện riêng của Việt Nam. Quan niệm của Hoa Kỳ trong việc mở rộng Lực Lượng Hải Quân chỉ là vừa đủ để hành quân yểm trợ hỏa lực và ngăn chận trong vùng sông ngòi và duyên hải mà thôi. Công cuộc xây cất một hệ thống thám báo liên tục từ Bến Hải đến Vịnh Thái Lan là một công tác cao, cả về kỹ thuật lẫn tài chánh với mục tiêu duy nhất là kiểm soát hữu hiệu sự xâm nhập lén lút bằng đường biển của cộng sản Bắc Việt vào vùng duyên hải. Việc viện trợ hai chiếc Khu Trục Hạm, vì là loại tấn công, nên sau 1973 họ đã nhiều lần đòi tháo gỡ máy dò Tiềm thủy đỉnh như đã trình bày, làm như vậy là sự giảm khả năng của loại này một nửa. Vũ khí tấn công trên mặt biển và trên không của Khu Trục Hạm là hai dàn hải pháo 76 ly tự động với nhịp tác xạ khoảng 60 viên một phút. Với hỏa lực tấn công mạnh mẽ như vậy, Hải Quân Hoa Kỳ, vào những năm cuối của cuộc chiến, song song với kế hoạch rút lui, đã không bỏ sót cơ hội cắt đứt hay ít nhất cũng trì hoãn việc tiếp tế cỗ phần thay thế cho loại hải pháo tối tân này. Sau Trận Hải Chiến, để nêu gương hy sinh của các Chiến Sĩ bỏ mình trên Đại Dương, Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã có nghiên cứu một kiến trúc dự định xin phép Ðô Thành Sài Gòn-Chợ Lớn xây cất trong khu vực cột cờ Thủ Ngữ bên sông Sài Gòn. Riêng Hội Ðồng Ðô Thành đã đồng ý trên nguyên tắc là sẽ có một đường phố mang tên Ngụy Văn Thà. Một buổi lễ kỷ niệm lần thứ nhất Trận Hải Chiến Hoàng Sa đã được tổ chức vào ngày 19 tháng giêng năm 1975 do Tư Lệnh Hải Quân, Ðô Ðốc Lâm Ngươn Tánh chủ tọa nhưng tôi không được thông báo để đến tham dự. Hàng năm cứ mỗi Tết Nguyên Ðán đến, dù vào tháng giêng hay không, tôi luôn luôn có ít phút tưởng niệm dành cho các Liệt Sĩ đã hy sinh và cũng tưởng nhớ tới Chiến Sĩ đã anh dũng cùng tôi chiến đấu trong Trận Hải Chiến Hoàng Sa, mà số đông đang lưu lạc trong vùng đất tự do. Họ là những anh hùng đã xả thân để bảo vệ Lãnh Thổ của Tiền Nhân xây dựng từ bao thế kỷ. Mong rằng tài liệu này sẽ mang lại niềm hãnh diện cho toàn thể các Chiến Sĩ Hải Quân đã tham dự trận đánh mà tôi đã có vinh dự chỉ huy. Dallas,Texas, Mùa Xuân Kỷ Mão Hà Văn Ngạc -------------------- KHAI TỬ ĐẢNG!
|
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 7th July 2025 - 12:33 PM |