![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Tôi Phải Sống
Lời Mở Đầu - Bút Ký Năm Quý Mùi 2003 Kính Dâng Lên Mẹ Việt Nam Với tâm tình Vọng Cố Hương Để Tưởng Nhớ Hương Hồn Cha Má Để nhớ ơn Sinh Thành Dưỡng Dục Anh Linh các người anh Đặng Văn Tiếp Trịnh Tiếu Lâm Thành Văn Để nhớ thời gian trong trại tù Thanh Cẩm Vong Linh người em Đỗ Thanh Bình (Bình Thanh) Để nhớ tình anh em kết nghĩa trong tù Những người đã nằm xuống trong cuộc chiến tương tàn trên quê hương. Để chia sẻ quãng đời bất hạnh Lạy Chúa! Xin cho lời con nguyện cầu. Tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa” TỰA Tháng 6 năm nay (2003), từ Tân Tây Lan, linh mục Nguyễn Hữu Lễ gọi điện thoại và ngỏ ý muốn tôi viết lời tựa cho cuốn bút ký “Tôi phải sống" mà ông vừa hoàn tất. Tôi nhận lời không một chút đắn đo vì coi đó là một vinh dự. Tác phẩm này, từ lâu tôi vẫn mong được đọc vì chính bản thân tôi cũng muốn làm một công việc tương tự nhưng không gặp điều kiện thuận lợi để thực hiện. Sau khi nhận bản thảo, tôi lao vào đọc cuốn bút ký một cách mê say, không ngừng nghỉ. Trải dài trên hơn 400 trang giấy, tác phẩm này được chia thành 11 chương. Mỗi chương gồm một số bài viết có vóc dáng như những bài luận văn được trau chuốt tận tình để quảng bá những dòng suy nghĩ cần phổ biến. Dọc theo chiều dài của tập bút ký, những tình cảnh éo le và những trạng huống hiểm nghèo, bi đát, trong các trại tù cộng sản đã được tác giả thuật lại sống động và trung thực, với một văn phong nhẹ nhàng và tự nhiên như hơi thở. Mặc dầu không phải là một pho truyện trinh thám nhưng người đọc luôn luôn ở trong trạng thái nôn nóng vì muốn biết tác giả viết gì thêm trong những trang kế tiếp. Các liều lượng hỉ, nộ, ai, lạc được phân bổ hài hòa và sử dụng một cách cân nhắc để tránh cho nội dung tác phẩm sự nhàm chán thường gặp. Lược qua những dòng viết tâm tình ta được biết tác giả sinh ra và lớn lên tại một vùng quê thuộc tỉnh Vĩnh Long. Gia đình theo đạo Công Giáo và cư ngụ trong vòng đai của ngôi thánh đường nhỏ trong làng có tên là nhà thờ Bưng Trường. Ngày tác giả mở mắt chào đời là ngày đất nước đang bị chiến tranh tàn phá. Tiếng bom đạn và những xác chết trôi sông, đối với tác giả cũng như đối với các bạn cùng lứa tuổi, là những âm thanh và cảnh tượng quen thuộc hàng ngày. Kiếp sống lầm than, cơ cực và hoàn toàn thiếu an ninh của người dân thôn dã đã làm mủi lòng người thanh niên mới lớn giàu lòng bác ái. Ta hãy đọc những dòng viết sau đây của tác giả khi ông chuẩn bị bước vào đời. “Tôi nghĩ tới con đường làm linh mục năm tôi 20 tuổi sau khi học xong ban trung học. “Cái nhìn của tôi về hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ... đã ảnh hưởng tới sự lựa chọn của tôi. Tôi quyết định chọn đời linh mục vì tôi biết trong cương vị đó tôi sẽ phục vụ người dân thấp cổ bé miệng hữu hiệu hơn.” ( trang 51 ). Thụ phong linh mục năm 1970, lúc vừa tròn 27 tuổi, tác giả hăng say làm công việc cứu nhân độ thế, nhưng không may, chưa được bao lâu, thì họa cộng sản đổ sập xuống miền Nam, và chính bản thân ông cũng bị cuốn vào vòng lao lý như hàng triệu người công dân vô tội khác của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày 30 tháng Tư đen của năm định mệnh 1975, ông lê gót chân, hết nhà tù này đến trại giam khác, từ Nam chí Bắc, để chịu kiếp đọa đầy mà những người cộng sản Việt Nam đã nhẫn tâm áp dụng đối với đồng bào ruột thịt, trong ý đồ vừa trả thù vừa tránh hậu họa sau này cho cái chế độ sâu dân mọt nước. Tắm máu đã không xẩy ra sau khi miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm bằng võ lực, nhưng những gì mà độc giả cảm nhận sau khi đọc cuốn bút ký của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, sẽ còn ghê tởm, thâm độc và ác nghiệt gấp triệu lần. Một phần bút ký “Tôi Phải Sống" tả lại cái khung cảnh hãi hùng của 13 năm tù cộng sản. Vì phải tiếp giáp hàng ngày với thần chết trong suốt quãng đời cơ cực ấy nên tác giả đã xuống quyết tâm phải tồn tại để làm nhân chứng sống cho một giai đoạn cực kỳ thảm thương của đất nước và thay đổi quan điểm sai lầm của một phần dân tộc về một thứ chủ nghĩa ngoại lai đã lỗi thời và đã đi vào sọt rác của lịch sử. Những chương trong bút ký liên quan đến hệ thống trại tù của cộng sản Việt Nam đã được tác giả ghi lại với một bút pháp tuyệt vời, với một mức độ chính xác chưa từng thấy và với một tấm lòng tha thứ, bao dung hiếm có ngay cả đối với những người rắp tâm tiêu diệt bản thân mình. Đọc tác phẩm này, nếu độc giả không phải là người mau nước mắt thì cũng sẽ rùng mình ghê sợ và xót thương cho số phận của những con người Việt Nam bị chính đồng bào mình đầy đọa xuống đáy tầng của địa ngục trần gian. Mức độ độc ác và tàn nhẫn không thua kém gì những “holocaust" Đức Quốc Xã dành cho người Do Thái trong Thế Chiến thứ hai. Chế độ tù trong xã hội cộng sản Việt Nam là sản phẩm của một chính sách hủy diệt dấu tay kinh tởm ngoài sức tưởng tượng của con người. Với một thời gian giam giữ vô hạn định giữa bốn bức tường kiên cố của các trại tù hôi hám thiết lập tại những nơi thâm sơn cùng cốc, chính sách này đã biến con người thành con vật. Bằng phép thuật khủng bố tư tưởng nó đã tạo nên những tên phản thầy phản Chúa, phản lại lý tưởng mình theo đuổi. Bằng chủ trương "bỏ đói" nó đã đưa dẫn tù nhân tới chỗ giết nhau chỉ vì một miếng cơm hay mẫu bánh. Thậm chí nó đã thúc đẩy con người nghĩ cả đến việc ăn thịt đồng cảnh để sống còn. Tác giả Nguyễn Hữu Lễ đã thuật lại những "chuyện khó tin nhưng có thật" đó với những giọt nước mắt chảy ngược vào tim vì chính ông là nạn nhân của những hiện tượng kinh hoàng vừa nói. Mặc dù vậy sau khi xếp sách lại chúng ta mới cảm nhận được hết sự chan hòa với tâm tình yêu mến quê hương và dân tộc của một Linh mục tù nhân, chứng nhân và là nạn nhân của bao nhiêu tình cảnh đau thương. Tác giả kết luận: “Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn sáng của bình minh dân tộc” "Xã hội tù’” của CSVN là hình ảnh thu hẹp của một xã hội lớn hơn: xã hội Việt Nam sau ngày 30 tháng tư đen tối. Mười ba năm dài đằng đẵng, với thiên chức của một vị linh mục, tác giả đã thành công trong việc cảm hóa và cải tà quy chính rất nhiều đối tượng đã mất hết tính người vì chính sách trại giam của cộng sản. Mong rằng tác giả cũng sẽ thành công một lần thứ hai khi trở lại đời sống bình thường, cho đúng với ước nguyện của ông lúc ban đầu, cho dân tộc được hưởng không khí tự do và cho tổ quốc có điều kiện vươn lên cùng nhân loại văn minh. Maryland ngày 20 tháng 6 năm 2003 Nguyễn Cao Quyền |
|
|
![]() |
![]()
Post
#2
|
|
Bảo vệ tổ quốc ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 1,585 Joined: 11-April 08 Member No.: 18 Country ![]() ![]() |
Bước Chân Vào Đời
Tôi thụ phong Linh mục năm 1970, lúc vừa 27 tuổi. Một tháng sau, tôi về làm cha phó tại xứ đạo Hòa Khánh, ngay trong thị xã Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc tương đối nhỏ với khoảng hai trăm ngàn dân, đa số là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Thị xã Sa Đéc nằm bên bờ sông Cửu Long, cách bắc Mỹ Thuận gần 30 cây số. Nhờ sự giao thông thuận tiện, cả đường thủy lẫn đường bộ, nên Sa Đéc là một trong những tỉnh trù phú của miền đồng bằng sông Cửu Long. Đa số dân chúng sống dọc hai bên bờ sông và trồng cây ăn trái trên những khu đất bồi màu mỡ. Một số khác làm ruộng trong các vùng sâu hơn về phía trong, nhưng phát đạt nhất vẫn là về thương mại. Người dân Sa Đéc hiền hòa và hiếu khách, một phần do bản chất của người dân miền quê, phần khác cũng do ảnh hưởng phong thổ cây xanh bóng mát, tạo cho người dân vùng này cảnh sống an nhàn, gần gũi và hòa hợp với thiên nhiên. Tôi còn nhớ mãi những hình ảnh nhẹ nhàng dễ thương trong những lần đi thuyền máy trên nhánh sông nhỏ vào các buổi trưa hè để vô làm việc trong xứ đạo nhỏ tại xã Tân Phú Trung, cách tỉnh lỵ 12 cây số. Thuyền máy lướt nhẹ trên dòng sông nước trong veo, hai bên bờ rợp bóng mát dưới những tàn cây to đủ loại, nhiều nhất là cây cà-na, loại cây có trái to bằng ngón tay cái, hai đầu nhọn túm lại như hình dáng con thoi. Hai bên bờ sông là con đường đất khá rộng mà xe hơi loại nhỏ có thể đi được. Nấp sau khoảng sân rộng là những ngôi nhà ngói, phần nhiều là cổ xưa, nằm hướng ra bờ sông. Trước mỗi nhà có cầu bến để lên, xuống ghe thuyền và làm nơi tắm giặt. Cầu bến thường là đúc bằng xi-măng cốt sắt, có khi bằng hai tấm vỉ sắt có lỗ tròn, loại vỉ sắt dùng làm sân bay dã chiến. Có khi cầu bến làm bằng những tấm ván ghép lại, bên trên có đóng mấy “con lươn” to bằng ngón chân cái, cách quãng nằm ngang cho đỡ trơn trợt, một đầu cầu gác lên bờ, đầu kia dốc sâu xuống mí nước. Vào những trưa hè êm ả, các cô thôn nữ thường ngồi trên cầu bến giặt giũ. Một vài cô khác tươi cười đứng chải tóc dưới tàn cây cà-na rợp bóng mát. Các nàng ăn mặc thật đơn giản, chiếc áo bà ba trắng ôm sát lấy người, làm nổi bật mái tóc đen óng ả được vén qua một bên vai ra trước ngực phủ dài xuống thân. Nàng thôn nữ, một tay nắm trọn lọn tóc ghì vào dưới cằm, tay kia chải nhẹ phần tóc còn lại ở dưới, vừa nghiêng nghiêng đầu, lơ đễnh đưa mắt nhìn chiếc thuyền máy đang chậm chậm lướt qua. Hình ảnh đó tô đậm thêm cho nét đẹp của một vùng quê an bình, mà dân chúng được thừa hưởng của thiên nhiên ở miền nước ngọt cây lành. Hình như tôi đã được nhìn thấy ở đâu một bức tranh thủy mạc vẽ cảnh tương tự như thế. Khi tôi bắt đầu cuộc đời Linh mục năm 1970 cũng là lúc chiến cuộc miền Nam tới hồi ác liệt. Hình ảnh và tin tức chiến tranh nhan nhãn khắp nơi. Báo chí và đài phát thanh ngày nào cũng đầy dẫy tin chiến sự. Miền Nam lúc bấy giờ bắt đầu co cụm lại trong các thành phố, vì các vùng quê phần nhiều mất an ninh, nhưng thủ đô Sài Gòn và các thành phố lớn vẫn ồn ào náo nhiệt như không có gì xảy ra. Người dân đô thị chỉ nghe nói tới chiến tranh, nhưng phần đông không tận mắt chứng kiến hoặc chưa thấy sự đe dọa trực tiếp tới mạng sống và tài sản, nên mọi người cứ vui sống an nhàn. Tin tức chiến sự trên báo chí dần dà trở thành quá quen thuộc. Những con số thương vong trong các trận đánh của hai phe lâm chiến dần trở thành những con số thống kê vô nghĩa, không còn gây chú ý đối với những người sống trong các vùng an toàn ở hậu phương. Thỉnh thoảng có xảy ra các vụ Việt cộng đặt mìn hay pháo kích vào thủ đô Sài Gòn hoặc vào các thành phố, trường học, gây kinh hoàng trong một thời gian rồi đâu lại vào đấy. Ai có nhiệm vụ phải đánh giặc thì lo đánh giặc, người nào may mắn không phải ra trận và đang sống ở các khu vực an toàn thì cứ vui sống, hưởng thụ và lo làm giàu. Sự hiện diện của nửa triệu lính Mỹ và một số khá đông quân đội các nước đồng minh tại miền Nam lúc bấy giờ đã tạo nên một hình thái xã hội thật đặc biệt, một xã hội sống thác loạn, ồn ào và đầy mánh mung của thời buổi chiến tranh. Trong khi đó, tình hình an ninh tại những nơi xa thành thị hoặc ở vùng quê càng ngày càng sa sút. Người dân quê phải chịu cảnh một cổ hai tròng, ban ngày lúc còn mặt trời thì thuộc sự kiểm soát của Quốc gia, bóng đêm về nằm trong tay Việt cộng. Người dân quê đóng thuế cho Quốc gia một, thì đóng thuế cho Việt cộng mười. Ai trốn thuế Quốc-gia nếu bị bắt có thể đi tù, còn ai trốn thuế “đảm phụ quốc phòng” của Việt cộng, thì bị chặt đầu mổ bụng, để răn đe kẻ khác. Chính mắt tôi đã chứng kiến cảnh tượng dã man một cách hãi hùng này tại quê nhà tôi. Việt cộng trà trộn trong dân, ẩn nấp trong nhà dân, ăn cơm của dân, dùng tiền thuế của dân và dùng dân làm bia đỡ đạn trong trong các cuộc biểu tình chống đối chánh quyền Quốc gia. Thậm chí, có trường hợp chánh quyền địa phương bắt giam những người dân đóng thuế cho Việt cộng, trong khi chánh quyền không thể bảo vệ được cho người dân khỏi bàn tay sắt máu của họ. Người dân ở nông thôn xa xôi khốn khổ không biết kêu ai, chỉ còn biết kêu trời, mà trời thì cao quá làm sao nghe thấy! Trong bối cảnh miền Nam chiến tranh khói lửa và hỗn tạp như vậy, cộng với một chánh quyền mang nhiều tai tiếng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã dẫn đưa xã hội miền Nam vào một cuộc sống mất phương hướng. Uy quyền Quốc gia là yếu tố tinh thần cần thiết nhất cho một nước, nhất là trong thời chiến, nhưng miền Nam lại thiếu hẳn yếu tố đó. Người ta phanh phui rất nhiều về vụ tham nhũng thối nát của Chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu, về tệ nạn mua quan bán chức, về những ông bà lớn lợi dụng quyền uy để buôn lậu đủ các loại hàng, kể cả hàng quốc cấm. Có “vị” còn dám bán cả súng đạn cho Việt cộng lấy tiền bỏ túi! Thiên hạ lúc bấy giờ còn nói chính ông Nguyễn Văn Thiệu là một tay tham nhũng gộc, một thứ “hạm” nuốt trôi tài sản Quốc Gia và tiền viện trợ Mỹ. Phong trào chống tham nhũng do cha Trần Hữu Thanh, một Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế phát động, tung ra những bản cáo trạng tố cáo đích danh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và một số tướng lãnh, đã được nhiều người hưởng ứng. Có người còn tỏ ra hiểu chuyện, nói vanh vách ra cái ghế tỉnh trưởng giá bao nhiêu tiền, muốn làm quận trưởng phải “chạy” bao nhiêu và còn cho biết cái “bót” quận trưởng quận Năm trong Chợ Lớn được đấu giá cao nhất, vì đây là một chức vụ béo bở! Các ông quận trưởng trong vùng Chợ Lớn, tuy lúc mới về khá gầy ốm hom hem, nhưng được mấy chú Ba Tàu “tốt bụng” vỗ béo cho, chẳng mấy chốc mà trở nên mập béo, phát tài, phát tướng! Sự thật về tệ nạn tham nhũng đúng tới mức nào tôi không rõ, điều tôi biết một cách chắc chắn là ở miền Nam lúc bấy giờ, ai may mắn nắm giữ được chức vụ tốt trong chánh quyền thì làm giàu nhanh, mà chức Tổng Thống dĩ nhiên là tốt nhất! Tôi còn nhớ có lần ông Trần Văn Hương khi còn làm Thủ tướng đã than: “Nếu diệt hết tham nhũng lấy ai làm việc nước!” Vì những người làm việc nước, đồng thời cũng đang bận vơ vét tiền của như vậy nên miền Nam lúc bấy giờ tuy có chánh quyền nhưng không có uy quyền, có Tổng Thống nhưng không có người lãnh đạo quốc gia. Khi bắt đầu cuộc đời Linh mục cũng là lúc tôi phải va chạm với thực tế về sự bất công của xã hội mà trước đây tôi chỉ thấy và nghe. Thực tế cho tôi biết nạn người bóc lột người, người đè nén người trong đất nước tôi nặng nề và ác độc hơn tôi tưởng. Giới chức trong chánh quyền các cấp, ít nhất là ở cấp mà tôi có dịp tiếp xúc, thì họ thực sự là “cha mẹ của dân”. Họ đè nén người dân, bóc lột và vơ vét của công, của tư một cách vô tội vạ. Trong hai năm đầu phục vụ tại Sa Đéc, tôi đã phải đương đầu và đụng chạm nặng nề với giới chức đứng đầu hành chánh của tỉnh, khi ông cùng với viên chức Ty Xã Hội nuốt trôi hết vật liệu cất nhà mà Bộ Xã Hội cấp cho mấy ngàn Việt Kiều hồi hương từ Cam Bốt chạy về các tỉnh biên giới phía Nam. Lúc đó tôi là thành viên trong Ủy Ban Cứu Trợ Việt Kiều Hồi Hương của tỉnh Sa Đéc. Ngoài ra còn có những vị chức sắc tôn giáo đã làm lu mờ giáo lý cao cả của tôn giáo mà họ là người rao giảng. Sự nhập nhằng giữa tôn giáo và chính quyền lúc bấy giờ đã tạo ra những “lãnh chúa áo đen”. Họ lợi dụng chức vị tôn giáo để mưu cầu danh lợi riêng tư, và con người của họ, làm dân chúng khiếp sợ. Năm 1972, tôi được đổi về làm phó xứ Cái Đôi tại quận Long Toàn, tỉnh Trà Vinh, một giáo xứ xa xôi và lẻ loi nằm tận bờ biển Ba Động. Tại đây tôi mới thực sự chia sẻ nỗi đau của bà con trong vùng như chính nỗi đau của riêng tôi. Nhiều người dân trong vùng chạy đến với tôi khóc lóc kêu van vì ông quận trưởng hà hiếp, bóc lột, tham nhũng, hãm hiếp gái tơ và đè đầu cỡi cổ người dân đen trong quận một cách tàn nhẫn. Người dân, nhất là những người không thuộc về xứ đạo chỉ biết khóc mà không biết kêu ai. Tệ hơn nữa, ngài quận trưởng lại là bạn thân của cha sở. Trong hoàn cảnh ấy tôi đã công khai đứng về phía dân chúng và thách thức quyền lực của viên chức chính quyền bất nhân này. Cuối cùng tiếng nói người dân đã thắng. Viên quận trưởng phải rời chức vụ và bị giam vào quân lao Cần Thơ. Phần tôi đã phải trả cái giá khá đắt cho việc làm này, là bị thất sủng trong hàng ngũ các Linh mục thuộc Giáo phận Vĩnh Long, nhưng tôi không coi đó là điều đáng buồn. Ngược lại, tôi thấy vui và hạnh phúc vì đã có dịp sống với lý tưởng mà tôi đã lựa chọn khi tôi muốn trở thành một Linh mục. |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 22nd July 2025 - 11:39 AM |