Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 Tôi Phải Sống - Linh mục Nguyễn Hữu Lễ - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> Tôi Phải Sống - Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
white pages
post May 30 2008, 09:57 AM
Post #1


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Tôi Phải Sống
Lời Mở Đầu - Bút Ký

Năm Quý Mùi 2003

Kính Dâng Lên Mẹ Việt Nam
Với tâm tình Vọng Cố Hương

Để Tưởng Nhớ

Hương Hồn Cha Má
Để nhớ ơn Sinh Thành Dưỡng Dục

Anh Linh các người anh
Đặng Văn Tiếp
Trịnh Tiếu
Lâm Thành Văn
Để nhớ thời gian trong trại tù Thanh Cẩm

Vong Linh người em
Đỗ Thanh Bình (Bình Thanh)
Để nhớ tình anh em kết nghĩa trong tù

Những người đã nằm xuống
trong cuộc chiến tương tàn trên quê hương.
Để chia sẻ quãng đời bất hạnh

Lạy Chúa! Xin cho lời con nguyện cầu.
Tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa”


TỰA

Tháng 6 năm nay (2003), từ Tân Tây Lan, linh mục Nguyễn Hữu Lễ gọi điện thoại và ngỏ ý muốn tôi viết lời tựa cho cuốn bút ký “Tôi phải sống" mà ông vừa hoàn tất. Tôi nhận lời không một chút đắn đo vì coi đó là một vinh dự. Tác phẩm này, từ lâu tôi vẫn mong được đọc vì chính bản thân tôi cũng muốn làm một công việc tương tự nhưng không gặp điều kiện thuận lợi để thực hiện.

Sau khi nhận bản thảo, tôi lao vào đọc cuốn bút ký một cách mê say, không ngừng nghỉ. Trải dài trên hơn 400 trang giấy, tác phẩm này được chia thành 11 chương. Mỗi chương gồm một số bài viết có vóc dáng như những bài luận văn được trau chuốt tận tình để quảng bá những dòng suy nghĩ cần phổ biến. Dọc theo chiều dài của tập bút ký, những tình cảnh éo le và những trạng huống hiểm nghèo, bi đát, trong các trại tù cộng sản đã được tác giả thuật lại sống động và trung thực, với một văn phong nhẹ nhàng và tự nhiên như hơi thở. Mặc dầu không phải là một pho truyện trinh thám nhưng người đọc luôn luôn ở trong trạng thái nôn nóng vì muốn biết tác giả viết gì thêm trong những trang kế tiếp. Các liều lượng hỉ, nộ, ai, lạc được phân bổ hài hòa và sử dụng một cách cân nhắc để tránh cho nội dung tác phẩm sự nhàm chán thường gặp.

Lược qua những dòng viết tâm tình ta được biết tác giả sinh ra và lớn lên tại một vùng quê thuộc tỉnh Vĩnh Long. Gia đình theo đạo Công Giáo và cư ngụ trong vòng đai của ngôi thánh đường nhỏ trong làng có tên là nhà thờ Bưng Trường. Ngày tác giả mở mắt chào đời là ngày đất nước đang bị chiến tranh tàn phá. Tiếng bom đạn và những xác chết trôi sông, đối với tác giả cũng như đối với các bạn cùng lứa tuổi, là những âm thanh và cảnh tượng quen thuộc hàng ngày. Kiếp sống lầm than, cơ cực và hoàn toàn thiếu an ninh của người dân thôn dã đã làm mủi lòng người thanh niên mới lớn giàu lòng bác ái. Ta hãy đọc những dòng viết sau đây của tác giả khi ông chuẩn bị bước vào đời. “Tôi nghĩ tới con đường làm linh mục năm tôi 20 tuổi sau khi học xong ban trung học. “Cái nhìn của tôi về hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ... đã ảnh hưởng tới sự lựa chọn của tôi. Tôi quyết định chọn đời linh mục vì tôi biết trong cương vị đó tôi sẽ phục vụ người dân thấp cổ bé miệng hữu hiệu hơn.” ( trang 51 ).

Thụ phong linh mục năm 1970, lúc vừa tròn 27 tuổi, tác giả hăng say làm công việc cứu nhân độ thế, nhưng không may, chưa được bao lâu, thì họa cộng sản đổ sập xuống miền Nam, và chính bản thân ông cũng bị cuốn vào vòng lao lý như hàng triệu người công dân vô tội khác của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Sau ngày 30 tháng Tư đen của năm định mệnh 1975, ông lê gót chân, hết nhà tù này đến trại giam khác, từ Nam chí Bắc, để chịu kiếp đọa đầy mà những người cộng sản Việt Nam đã nhẫn tâm áp dụng đối với đồng bào ruột thịt, trong ý đồ vừa trả thù vừa tránh hậu họa sau này cho cái chế độ sâu dân mọt nước. Tắm máu đã không xẩy ra sau khi miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm bằng võ lực, nhưng những gì mà độc giả cảm nhận sau khi đọc cuốn bút ký của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, sẽ còn ghê tởm, thâm độc và ác nghiệt gấp triệu lần.

Một phần bút ký “Tôi Phải Sống" tả lại cái khung cảnh hãi hùng của 13 năm tù cộng sản. Vì phải tiếp giáp hàng ngày với thần chết trong suốt quãng đời cơ cực ấy nên tác giả đã xuống quyết tâm phải tồn tại để làm nhân chứng sống cho một giai đoạn cực kỳ thảm thương của đất nước và thay đổi quan điểm sai lầm của một phần dân tộc về một thứ chủ nghĩa ngoại lai đã lỗi thời và đã đi vào sọt rác của lịch sử.

Những chương trong bút ký liên quan đến hệ thống trại tù của cộng sản Việt Nam đã được tác giả ghi lại với một bút pháp tuyệt vời, với một mức độ chính xác chưa từng thấy và với một tấm lòng tha thứ, bao dung hiếm có ngay cả đối với những người rắp tâm tiêu diệt bản thân mình. Đọc tác phẩm này, nếu độc giả không phải là người mau nước mắt thì cũng sẽ rùng mình ghê sợ và xót thương cho số phận của những con người Việt Nam bị chính đồng bào mình đầy đọa xuống đáy tầng của địa ngục trần gian. Mức độ độc ác và tàn nhẫn không thua kém gì những “holocaust" Đức Quốc Xã dành cho người Do Thái trong Thế Chiến thứ hai.

Chế độ tù trong xã hội cộng sản Việt Nam là sản phẩm của một chính sách hủy diệt dấu tay kinh tởm ngoài sức tưởng tượng của con người. Với một thời gian giam giữ vô hạn định giữa bốn bức tường kiên cố của các trại tù hôi hám thiết lập tại những nơi thâm sơn cùng cốc, chính sách này đã biến con người thành con vật. Bằng phép thuật khủng bố tư tưởng nó đã tạo nên những tên phản thầy phản Chúa, phản lại lý tưởng mình theo đuổi. Bằng chủ trương "bỏ đói" nó đã đưa dẫn tù nhân tới chỗ giết nhau chỉ vì một miếng cơm hay mẫu bánh. Thậm chí nó đã thúc đẩy con người nghĩ cả đến việc ăn thịt đồng cảnh để sống còn. Tác giả Nguyễn Hữu Lễ đã thuật lại những "chuyện khó tin nhưng có thật" đó với những giọt nước mắt chảy ngược vào tim vì chính ông là nạn nhân của những hiện tượng kinh hoàng vừa nói. Mặc dù vậy sau khi xếp sách lại chúng ta mới cảm nhận được hết sự chan hòa với tâm tình yêu mến quê hương và dân tộc của một Linh mục tù nhân, chứng nhân và là nạn nhân của bao nhiêu tình cảnh đau thương. Tác giả kết luận: “Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn sáng của bình minh dân tộc”

"Xã hội tù’” của CSVN là hình ảnh thu hẹp của một xã hội lớn hơn: xã hội Việt Nam sau ngày 30 tháng tư đen tối. Mười ba năm dài đằng đẵng, với thiên chức của một vị linh mục, tác giả đã thành công trong việc cảm hóa và cải tà quy chính rất nhiều đối tượng đã mất hết tính người vì chính sách trại giam của cộng sản. Mong rằng tác giả cũng sẽ thành công một lần thứ hai khi trở lại đời sống bình thường, cho đúng với ước nguyện của ông lúc ban đầu, cho dân tộc được hưởng không khí tự do và cho tổ quốc có điều kiện vươn lên cùng nhân loại văn minh.



Maryland ngày 20 tháng 6 năm 2003

Nguyễn Cao Quyền


Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
white pages
post May 30 2008, 10:08 AM
Post #2


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,585
Joined: 11-April 08
Member No.: 18
Country



Vùng Bóng Đen


Lúc bấy giờ vì thời cuộc đổi thay và cuộc sống có nhiều áp lực từ mọi phía nên tôi rất buồn phiền. Trong vai trò một cha sở, một mặt tôi lo chỉnh đốn lại đời sống của họ đạo sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá, mặt khác tôi phải thường xuyên đương đầu với những vấn đề do một chính quyền vô thần luôn chống báng và tìm hết mọi cách để triệt hạ tôn giáo gây nên. Trong tình thế đó, tôi đã cố sống nhẫn nhục chờ cho cơn sốt thời cuộc qua đi, để tôi có thể sống yên thân để phục vụ dân chúng trong vùng nói chung, và cách riêng là giáo dân trong họ đạo thuộc về trách nhiệm của tôi.

Trong cuộc sống bình dị của một Linh mục trong xứ đạo nhà quê, thực ra chẳng bận rộn gì nhiều. Hàng ngày tôi làm lễ vào buổi chiều, vì sáng ngày dân chúng còn bận đi làm ruộng hay làm cá. Tôi dành phần lớn thời giờ trong ngày đi thăm viếng giáo dân và bà con trong vùng nói chung, không phân biệt tôn giáo. Tôi không thể tổ chức các lớp học giáo lý, vì nhà nước cấm, nhưng dạy giáo lý dưới hình thức những lần tập trung trẻ con và thanh niên tới giúp “tăng gia sản xuất”, bằng việc trồng rau, trồng khoai mì, trồng mía... chung quanh nhà thờ. Ngoài các việc bổn phận trong họ đạo, lúc rảnh rỗi tôi tìm cách giải sầu bằng hai cách: câu cá và học đàn Vọng Cổ.

Tôi mê câu cá ngay từ nhỏ, bởi tôi được sinh ra và lớn lên ở ruộng đồng có nhiều sông rạch và tôm cá ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cái “máu” câu cá nó đã nằm sẳn trong huyết quản tôi từ những năm còn thơ ấu, còn chạy nhảy tung tăng ở ruộng đồng nhà quê. Sau này khi lớn lên rồi cũng vậy. Ngay cả sau khi đã làm Linh mục rồi, mỗi khi có dịp cầm cần câu trong tay ngồi bên bờ sông là tôi quên hết sự đời. Nếu được ngồi trên chiếc thuyền đang thả neo giữa dòng sông rộng mênh mông mà câu cá thì không còn gì thú vị hơn.

Vùng La Mã nơi tôi ở lúc đó là vùng nước lợ, còn gọi là nước "pha chè”, không mặn mà cũng không ngọt hẳn, vì là nhánh sông sát gần ngay biển. Khúc sông này có rất nhiều tôm cá, nhất là cá ngát là loại cá không vảy và có ba gai, hai cái ở hai bên mang và một ở giữa lưng. Nếu ai vô ý bị cá ngát đâm phải thì chỉ còn nước ngồi đó mà kêu trời. Có lần chính tôi là một nạn nhân bị gai cá ngát đâm vào ngón tay, nọc độc trong gai cá hành tôi đau nhức không chịu thấu và lên cơn sốt suốt một ngày. Cánh tay bị cá đâm sưng to lên gần bằng bắp đùi!

Mặc dù vậy, khi cánh tay vừa hết sưng là tôi lại xuống sông câu cá. Có những lần câu được rất nhiều cá tôi phải mang tới cho giáo dân và bà con trong vùng. Nói chung, câu cá là thú giải trí thanh tao và vô thưởng vô phạt, dù vậy có lần tôi suýt bị rắc rối to vì câu cá.

Một hôm tôi đang ngồi trên chiếc tam bản, tiếng miền Bắc gọi là thuyền, thả neo dưới bến nhà thờ để câu cá. Bổng từ xa có một người lạ mặt, đội mũ tai bèo khăn rằn quấn cổ, chèo chiếc xuồng nhỏ hướng về phía tôi. Cách ăn mặc “mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ” là cái mốt thời thượng lúc bấy giờ. Nhìn thấy hình ảnh đó thôi, cũng đủ cho tôi biết, hoặc đoán biết người đó là ai, và trong lòng tôi bắt đầu nghi ngại. Tới nơi anh ta cập ghe vào hỏi tôi:

- Anh là ai và ngồi làm gì ở đây?

Tôi lấy làm lạ vì câu hỏi đó, nhưng cũng trả lời:

- Tôi là cha sở nhà thờ La Mã, tôi đang câu cá.

Người lạ mặt hỏi tiếp, giọng thắc mắc:

- Anh câu cá, mà cần câu anh đâu?

Tôi ngạc nhiên quá, hay anh này muốn giỡn chơi. Nhưng cách anh ta nói rất nghiêm túc, vả lại anh này là người tôi mới gặp lần đầu thì làm gì có chuyện đùa giỡn. Tôi trả lời :

- Anh hỏi gì vậy, thì tôi đang cầm cần câu đây anh không thấy à?

Người lạ mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn trừng trừng vào cần câu máy tôi đang cầm trong tay, anh chỉ cần câu và hỏi:

- Cái loại máy có cần ăng-ten và ''dây trời'' này, có kêu được máy bay B52 không?

Tôi ném cần câu lên thuyền ngạc nhiên kêu lên:

- Anh nói cái gì? Cái gì mà có... B52 trong này?

Anh ta đứng lặng thinh tỏ vẻ nghi ngờ, làm tôi biết ngay là anh ta chưa bao giờ có dịp trông thấy cái mà người ta gọi là “cần câu máy”. Gọi là “câu máy” nhưng thực ra nó chỉ là cái trục, để quấn dây cước vào và thả dây cước ra bên trong những cái khoen bằng sắt chạy dài theo cần câu khá dài, bằng chất nhựa dẻo, để thả xuống sông câu cá. Biết như vậy tôi vội quay nhanh dây cước lên, chỉ cho anh thấy ở cuối đầu dây có cục chì và lưỡi câu, móc vào lưng con tôm đang quơ râu quơ càng dùng làm mồi câu cá ngát! Chừng đó anh mới tin là cái mà tôi đang cầm trong tay không phải là cây ăng-ten của một loại máy truyền tin hiện đại với “dây trời” có thể gọi ... B52! Cũng may là anh hỏi trực tiếp tôi, nếu anh âm thầm báo cáo loại... máy này lên cấp trên và nói tôi có dụng cụ gọi pháo dài bay B52 chắc là đời tôi đã khốn nạn sớm hơn rồi!

Thú giải trí thứ hai của tôi là học đàn Vọng Cổ. Lúc đó ở gần nhà thờ có một thanh niên ngoại giáo mù mắt tên là Tám Chánh. Tuy không có đạo nhưng anh hay tới nhà thờ chơi. Anh Tám Chánh có biệt tài đàn Vọng Cổ rất hay và anh dạy cho nhiều người, nhưng chỉ dạy văn nghệ thôi chứ không lấy tiền. Tôi thường mời anh tới nhà xứ chơi để đàn hát và dạy tôi đánh đàn cổ nhạc, lâu ngày rồi hai người thân nhau. Tám Chánh rất vui tánh, thích tìm hiểu và hỏi tôi về nhiều chuyện, từ chính trị, tôn giáo, xã hội. Tôi rất thương người bạn chẳng may bị mù lòa này. Tôi nghe kể lại, lúc còn nhỏ cho tới lúc 3 tuổi, anh Tám Chánh là đứa trẻ bình thường như bao nhiêu trẻ con khác cho tới lúc anh bị đau mắt. Lúc đó sự hiểu biết về y học của dân chúng trong vùng này còn thô sơ. Không hiểu tại sao có người bày với gia đình anh lấy cựa gà trống mài ra hoà với nước và nhỏ vào mắt sẽ khỏi bệnh. Không ngờ sau khi nhỏ vào mắt, chẳng những không khỏi bệnh mà chất nước ấy còn làm nổ tung cả hai tròng con mắt của anh. Bây giờ trên mặt anh chỉ còn lại hai cái hố sâu hoắm, thay vì hai tròng con mắt, và mí mắt anh lúc nào cũng nháy liên hồi. Nghe qua chuyện đó tôi càng thương anh nhiều hơn.

Nhớ có lần anh hỏi một câu làm tôi quá cảm động. Lúc đó tôi có nuôi một con chó Bắc Kinh nhỏ, tên là chó His. Lần nào tới chơi anh Tám Chánh cũng ôm nựng chó His vì nó rất hiền và dễ thương, có lần vừa vuốt lưng nó, anh hỏi tôi:

- Chó His màu gì hả cha?

Tôi đáp:

- Màu trắng có đốm màu vàng.

Anh suy nghĩ một lúc hỏi tiếp

- Màu vàng là thế nào hả cha?

Bỗng nhiên tôi tấy tắt nghẹn ở cổ khi thương cho hoàn cảnh người bạn tật nguyền không thấy được màu sắc là vẻ đẹp của cuộc đời. Thấy tôi yên lặng anh hỏi tiếp.

- Cha, nói cho con nghe đi, màu vàng ra sao hả cha?

Tôi cố trả lời tiếng được tiếng mất.

- Tôi không giải thích được anh Tám ạ!

Vừa nói tôi vừa chớp nhanh mí mắt.

Tình bạn chúng tôi càng ngày càng sâu đậm và anh Chánh tận tình chỉ dạy tôi các “ngón” đàn, tức là kỹ thuật chơi đàn Vọng Cổ. Có lần trong một buổi tật dượt, tôi hỏi anh:

- Anh Tám này, sao tiếng đàn của anh nghe não nề, hay quá là hay, còn tôi đánh đàn như cứ nghe rầm rầm như tiếng vỗ thùng thiếc, tập hoài hổng được?

Anh Tám trả lời một câu làm tôi nín lặng:

- Muốn có tiếng đàn như con, cha phải móc hai mắt của cha liệng đi.

Thì ra người bạn mù của tôi đã gửi hết tâm tư u buồn của kiếp người bất hạnh vào tiếng đàn của mình. Anh có sáng tác ra 6 câu Vọng Cổ, có tên là “Chuyện đời tôi”, diễn tả tâm trạng u buồn trong kiếp sống lặng lẽ âm thầm của anh. Mỗi lần ngồi nghe anh vừa đàn vừa hát bản Vọng Cổ đó, tôi xúc động vô cùng. Nhưng anh chỉ ca bản đó ở chỗ riêng tư và không bao giờ ca khi có đông người, cho dù yêu cầu cách mấy anh cũng không nhận lời.

Có những lần tôi tới nhà thăm anh, trong lúc mọi người đi vắng, anh Tám Chánh ngồi đánh đàn một mình các say sưa không biết có tôi đứng bên. Lúc đó tôi bất giác nói một mình: "Anh Tám nói đúng, người có đôi mắt sáng không thể nào có được tiếng đàn này!”

Tôi rất thích thể điệu âm nhạc Vọng Cổ, và sau này tôi cũng biết đa số các người miền Nam cũng đều thích như tôi. Nhất là khi anh Tám Chánh đã dạy tôi đánh đàn vọng cổ và chơi được chút ít thì càng say mê hơn. Nhớ lại thời gian đó có đôi ba lần tôi cũng phải đi đào đất làm thủy lợi chung với bà con trong vùng. Vì đi đào thủy lợi khá xa trong mấy ngày liền nên chúng tôi mang theo gạo để nấu cơm. Ban ngày đào đất, chiều lại, tôi và một số thanh niên tập trung tại sân nhà một người dân nào đó trong vùng để nấu ăn và sau đó ngồi quây quần nhau đàn hát cổ nhạc trước lúc đi ngủ. Nếu đêm đó có trăng nữa thì càng nên thơ! Khổ nỗi, tôi thích Vọng Cổ mà lại không biết hát, mặc dù vậy nghe những người hát Vọng Cổ thật mùi có chỗ làm tôi rưng rưng nước mắt. Có mấy người chọc tôi là “mít ướt”, nghĩa là dễ khóc, nhưng không hiểu sao khi nghe một vài bài Vọng Cổ thương tâm tôi không cầm lòng được.

Lúc tôi mới về họ đạo La Mã, là lúc mà cơn sốt thời cuộc lên cao ngất từng mây. Có những con người bị sơn sốt thời cuộc hành căng quá không chịu nổi, họ phải làm hết mọi cách để chứng tỏ mình là người "cách mạng”. Thậm chí có kẻ tìm cách triệt hạ người khác, mà họ cho là “không cách mạng”, để chứng tỏ mình là người “cách mạng”. Có lần, tôi đi xe gắn máy từ Bến Tre về họ đạo, khi gần tới nhà bị mấy anh du kích “cách mạng” chặn lại trên đường. Một anh mặt mày đen đúa, mang súng AK, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, bước tới giật lấy cái mũ lưỡi trai tôi đang đội ném xuống đất, giận dữ quát:

- Tới lúc này mà anh còn đội kết của thằng Kỳ à?

Tôi chẳng hiểu anh ta muốn nói gì, nên hỏi lại:

- Anh nói gì tôi không hiểu, đây là kết của tôi mua chứ của thằng Kỳ nào?

Anh du kích bực mình, chỉ vào mặt tôi đe dọa:

- Đây là loại kết đồi trụy của thằng Nguyễn Cao Kỳ nó đội anh hiểu chưa? Bộ anh muốn bắt chước thằng Kỳ hả?

Tôi chợt hiểu ra vì ông Nguyễn Cao Kỳ có lần đội kết đen giống như vậy, nên cái loại kết đó đương nhiên trở thành đồi trụy! Tôi chẳng hỏi thêm gì, chỉ đứng yên một cách ngán ngẩm và chịu trận cho anh du kích mắng nhiếc một hồi và cho tôi đi. Lúc nổ máy xe chạy đi rồi, tôi mới mỉm cười nghĩ thầm là mất cái kết đen, tôi vẫn còn may mắn. Nếu anh “cách mạng” lúc nãy nói cái quần tôi đang mặc là quần của...‘‘thằng Kỳ”, chắc là hôm đó tôi gặp chuyện ngượng ngùng chết người!

Nhưng sự đời, hể cái gì lên quá cao rồi cũng có lúc cũng phải xẹp xuống. Cơn sốt thời cuộc trong vùng La Mã này cũng theo quy luật đó. Sau đó không lâu, trong xã phát động đợt học tập “đóng nghĩa vụ”, và tất cả mọi người ai có vườn có ruộng đều phải tới học tập. Họ đạo cũng có mấy công đất vườn trồng dừa, nên tôi cũng phải có mặt. Điều tôi ghi nhận rất rỏ là cơn sốt thời cuộc đã làm cho nhiều người trở thành điên loạn mấy tháng trước đây đột nhiên trở thành cơn giá băng sau đợt học tập đóng nghĩa vụ này.

Đợt học tập để bắt người dân đóng thuế, nhưng được gọi cái tên đẹp là “đóng nghĩa vụ’’ này, được tổ chức ngay trong một lớp của trường học họ đạo của tôi. Có mấy cán bộ cấp tỉnh xuống giúp cho chánh quyền địa phương, dạy cho người dân biết cách đóng “nghĩa vụ” thế nào cho nó tốt.

Sau đợt học tập, với nhiều bài thuyết giảng tràng giang đại hải, mỗi gia đình có ruộng có vườn được “cách mạng” ban chỉ tiêu đóng thuế cắt cổ. Một chỉ tiêu đóng thuế nặng chưa từng thấy. Ngay cả trong chế độ mà người ta gọi là “Mỹ Ngụy” cũng chưa bao giờ bà con trong vùng này phải đóng thuế vườn thuế ruộng với chỉ tiêu cắt cổ như thế.

Cơn sốt thời cuộc trong vùng tôi, ngày hôm đó, vụt xẹp đi như bánh xe bơm cứng, bị cán phải đinh. Nhiều gia đình cách mạng quá phẫn uất, chửi rủa tùm lum vì cái chỉ tiêu “đóng nghĩa vụ” chóng mặt vừa mới được cách mạng ưu ái ban cho. Có mấy bà “mẹ chiến sĩ ” đã lớn tuổi, miệng nhai trầu bỏm bẻm, ăn nói rất bạo mồm bạo miệng. Vì bực quá chịu không nỗi nên chửi thẳng, theo cái kiểu người ta thường ví : “trâu già không sợ dao phay”. Có bà phùng mang, trợn má đứng chửi giữa đám đông ai nghe thì nghe: "Đéo mẹ chúng bây ! Nếu tao biết nông nỗi này thì ngày trước tao đấm đách có thèm mà chứa chấp tụi bây trong nhà tao!" Sau đó tôi biết, bà con bực thì chửi cho hả hơi còn “nghĩa vụ” thì vẫn phải đóng đủ. Vì đóng thuế không đủ “cách mạng” sẽ có biện pháp khác, và không ai muốn rơi vào biện pháp đó, cho dù là những “gia đình cách mạng”, hoặc những người vẫn nghĩ là mình có công với cách mạng!

Tình trạng giữa tôi và chánh quyền địa phương càng ngày càng trở nên căng thẳng. Do đó, tôi biết sự có mặt của tôi lúc bấy giờ là một chướng ngại và là cái gai trong con mắt của nhiều người, ngay cả những người có mặt trong họ đạo trước tôi. Sau gần một năm, tôi cảm thấy không thể sống và làm việc hữu hiệu tại giáo xứ. Hơn nữa, má tôi đang đau ốm nặng, nên tôi trình bày hoàn cảnh với Giám mục và được chấp thuận cho tôi được ra khỏi họ đạo. Tôi được lệnh bàn giao họ đạo lại cho cha Quang, cha sở họ đạo Cái Bông để về nhà quê lo lắng cho mẹ già. Cha Quang đã từng phụ trách họ đạo này trước khi cộng sản chiếm miền Nam, cha Quang là anh của cha Thạnh, người bạn Linh mục thân nhất của tôi, lúc bấy giờ đang làm cha sở họ đạo Quới Sơn cũng thuộc tỉnh Bến Tre.

Thạnh và tôi cùng tuổi. Chúng tôi chơi thân ngay từ những năm còn học ở Tiểu Chủng-viện Vĩnh Long. Năm 1963 chúng tôi lên Sài Gòn và học chung lớp trong bảy năm tại Đại Chủng viện Thánh Giuse, số 6 đường Cường Để. Đại Chủng viện Thánh Giuse là chủng viện miền, đào tạo linh mục cho 7 địa phận miền Nam, vì lúc bấy giờ các địa phận, tiếng miền Bắc là giáo phận, chưa có Đại Chủng-viện riêng. Sau khi mãn khóa, Thạnh và tôi cùng được thụ phong Linh mục vào năm 1970, và cả hai về làm việc tại địa phận Vĩnh Long vì chúng tôi thuộc về địa phận này.

Về địa dư, địa phận Vĩnh Long bao gồm bốn tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và Sa Đéc với khoảng trên dưới 150.000 giáo dân. Thạnh được bổ nhiệm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, còn tôi làm phó xứ Sa Đéc, cách nhau độ 20 cây số. Thỉnh thoảng chúng tôi tới lui thăm nhau và tình bạn càng thêm thắm thiết. Tuy là đôi bạn thân, nhưng cuộc đời của Thạnh và tôi rất khác biệt nhau. Thạnh có cuộc sống trầm lặng, tánh tình hòa dịu và vóc dáng ốm yếu. Tuy thế cuộc đời ưu đãi anh về nhiều phương diện. Sau hai năm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa, Thạnh được bổ nhiệm làm cha sở họ đạo Quới Sơn, gần cầu bắc Rạch Miễu, trong tỉnh Bến Tre vào đầu năm 1973. Khi cộng-sản chiếm miền Nam, Thạnh vẫn đang ở đó. Tôi nghĩ là Thạnh sẽ còn ở Quới Sơn lâu dài, vì từ ngày chiếm được miền Nam, nhà nước cộng-sản đã trắng trợn can thiệp vào nội bộ các tôn giáo, không cho các Giám mục được quyền thuyên chuyển các Linh mục. Muốn đổi một Linh mục nào phải có sự đồng ý của chánh quyền, nói chung là ai đang ở đâu cứ ở đó.

Phần tôi khác hẳn với Thạnh, cuộc sống tôi đầy thăng trầm và nhiều biến động. Đúng là số kiếp của mỗi con người. Dù ai không muốn tin cũng phải tin rằng ở trên đời mỗi người đều có một cái số mà văn hào Nguyễn Du đã nói lên từ lâu:

“Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”

Điều thật trớ trêu, sau khi bàn giao họ đạo cha cha Quang xong, chánh quyền sở tại, xã Hiệp Hưng, lại không cấp cho tôi giấy đi đường. Họ không cho tôi rời khỏi xã, lấy lý do là sau khi bầu cử Quốc Hội khóa 6, là Quốc Hội chung cho cả nước, có lệnh không cho ai rời khỏi địa điểm cư trú. Tôi hiểu ngay việc gì sẽ xảy ra cho tôi sau lời giải thích này và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Hôm sau, tôi trở lại Ủy ban Nhân dân xã Hiệp Hưng để xin giấy đi đường một lần nữa để về quê thăm má tôi đang đau nặng. Qua thái độ cứng rắn quyết liệt của tôi, họ đã buộc lòng phải cấp cho tôi giấp phép đi đường chỉ có hiệu lực trong 3 ngày.

Quê tôi ở tỉnh Vĩnh Long, cách Bến Tre hơn trăm cây số và phải qua 2 lần bắc, tiếng miền Bắc gọi là phà, bắc Rạch Miễu nối liền hai tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho và bắc Mỹ Thuận trên đường từ Sài Gòn xuống các tỉnh miền Tây.

Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic
white pages   Tôi Phải Sống - Linh mục Nguyễn Hữu Lễ   May 30 2008, 09:57 AM
white pages   Chiếc Nôi Dân Tộc Tôi lên tiếng gọi...   May 30 2008, 09:58 AM
white pages   Nhà Chung Hà Nội Vừa tới ngõ rẽ vào ...   May 30 2008, 09:59 AM
white pages   Hồng Y Trịnh Văn Căn Từ trước tới g...   May 30 2008, 10:00 AM
white pages   Vị Giám Mục Phụ Tá Chúng tôi đi xuố...   May 30 2008, 10:00 AM
white pages   Nét Truyền Thống Còn 10 phút nữa tới ...   May 30 2008, 10:01 AM
white pages   Vết Tích Thời Gian Sau bữa ăn, tôi bư...   May 30 2008, 10:01 AM
white pages   Cuốn Phim Quay Chậm Sau khi thăm cha Sinh, ...   May 30 2008, 10:03 AM
white pages   Chương 1: Bước Ngoặt Cuộc Đời 1 Bư...   May 30 2008, 10:06 AM
white pages   Vùng Bóng Đen Lúc bấy giờ vì thời cu...   May 30 2008, 10:08 AM
white pages   Vùng Kỷ Niệm Ngày tôi rời giáo xứ ra...   May 30 2008, 10:08 AM
white pages   Chuyến Đò Ngang Ra khỏi tỉnh Bến Tre t...   May 30 2008, 10:09 AM
white pages   Những Giá Trị Tinh Thần Trong cơn tức ...   May 30 2008, 10:10 AM
white pages   Việt Nam Đau Thương Trong lúc đứng cúi...   May 30 2008, 10:12 AM
white pages   Cuộc Cờ Người Đồng thời với phần...   May 30 2008, 10:12 AM
white pages   Tỉnh Cơn Mê Đứng nhìn trời, nhìn nư...   May 30 2008, 10:13 AM
white pages   Thành Phố Mỹ Tho Hành khách đi phà đô...   May 30 2008, 10:13 AM
white pages   Đường Xưa Lối Cũ Rời thành phố Mỹ...   May 30 2008, 10:13 AM
white pages   Chuyện Một Chiếc Cầu Vì lượng lưu t...   May 30 2008, 10:14 AM
white pages   Tuổi Thơ Thời Chiến Trong cảnh nhốn n...   May 30 2008, 10:15 AM
white pages   Tình Cảnh Gia Đình Sau khi qua bắc Mỹ T...   May 30 2008, 10:15 AM
white pages   Xa Rời Điểm Tựa Khi tới ngã ba Trung L...   May 30 2008, 10:15 AM
white pages   Bước Thời Gian Lúc tôi đang ngồi nhắ...   May 30 2008, 10:16 AM
white pages   Ơn Sinh Thành Dưỡng Dục Trong những n...   May 30 2008, 10:16 AM
white pages   Các Nữ Tu Ngoài gia đình với nhiều k...   May 30 2008, 10:16 AM
white pages   Chân Trời Mới Tôi sống với kỷ niệm...   May 30 2008, 10:18 AM
white pages   Cái Thú Nhà Quê Tuổi trẻ tôi lớn lên...   May 30 2008, 10:19 AM
white pages   Sợ Trường Học Hàng ngày tôi vẫn ph...   May 30 2008, 10:19 AM
white pages   Nhận Diện Cuộc Đời Sau hai năm học t...   May 30 2008, 10:20 AM
white pages   Thảm Cảnh Gia Đình Năm 1953, khi vừa tr...   May 30 2008, 10:20 AM
white pages   "Thày Bảng Mới" Năm 1955, lúc t...   May 30 2008, 10:20 AM
white pages   Thời Kỳ Phá Ngu Tôi thi đậu bằng ti...   May 30 2008, 10:21 AM
white pages   Tuổi Trẻ Ngô Nghê Những năm đó tầm ...   May 30 2008, 10:21 AM
white pages   Biến Cố Vĩ Đại Cũng trong năm 1957 nà...   May 30 2008, 10:22 AM
white pages   Nôn Nao Cùng Cực Lúc này thầy Quý ở t...   May 30 2008, 10:22 AM
white pages   Khổ Vì Cái Quần Vừa đi được mấy b...   May 30 2008, 10:22 AM
white pages   Thế Giới Mới Con đường từ bắc Mỹ...   May 30 2008, 10:23 AM
white pages   Tô Phở Đầu Đời Cũng trong dịp đi S...   May 30 2008, 10:23 AM
white pages   Những Cuộc "Họp Báo" Sau một ...   May 30 2008, 10:23 AM
white pages   Hai Vị Linh Mục Cuối năm 1957, cha Lê V...   May 30 2008, 10:24 AM
white pages   Cảnh Chợ Chiều Từ sau biến cố đó k...   May 30 2008, 10:24 AM
white pages   Bước Đầu Lên Tỉnh Cuộc đời tôi m...   May 30 2008, 10:25 AM
white pages   Ý Hướng Làm Linh Mục Sau khi thi đậu t...   May 30 2008, 10:25 AM
white pages   Cuộc Đảo Chánh Tôi còn nhớ trưa ngày...   May 30 2008, 10:25 AM
white pages   Xáo Trộn Chính Trị Sau cái chết của T...   May 30 2008, 10:26 AM
white pages   Khủng Hoảng Uy Quyền Trong hoàn cảnh ch...   May 30 2008, 10:26 AM
white pages   Bước Chân Vào Đời Tôi thụ phong Linh ...   May 30 2008, 10:27 AM
white pages   Kết Thúc Ván Cờ Qua những năm đầu tr...   May 30 2008, 10:27 AM
white pages   Trở Về Thực Tại Đang thả hồn theo d...   May 30 2008, 10:28 AM
white pages   Cảnh Tượng Hãi Hùng Chiếc Wolkswagen ti...   May 30 2008, 10:29 AM
white pages   Chặng Cuối Đoạn Đường Khi xe ngừng ...   May 30 2008, 10:29 AM
white pages   Chương Hai: "Đêm Tân Hôn" Giữa T...   May 30 2008, 10:29 AM
white pages   Đi Về Đâu? “Cuộc đời mình rồi s...   May 30 2008, 05:52 PM
white pages   Người Bạn Bất Đắc Dĩ Tôi thở dài...   May 30 2008, 05:53 PM
white pages   Chiều Cao Nguyên Chiếc xe chạy vào khu d...   May 30 2008, 05:53 PM
white pages   Điểm Hẹn Tôi đoán không lầm, chiếc ...   May 30 2008, 05:54 PM
white pages   Quận Lỵ Biên Giới Đức Lập là một ...   May 30 2008, 05:54 PM
white pages   Chim Rẽ Đàn Vừa qua khỏi cổng trại ...   May 30 2008, 05:55 PM
white pages   Hạnh ngộ bất ngờ Tôi ngồi trong lán...   May 30 2008, 05:55 PM
white pages   Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì Khi chiếc Lan...   May 30 2008, 05:56 PM
white pages   Cơn Sốt Thời Cuộc Trong đêm khuya tha...   May 30 2008, 05:57 PM
white pages   Trò Hề Thế Sự Tôi không thể nhớ h...   May 30 2008, 05:57 PM
white pages   Quay Về Thực Tại Giờ này đã quá kh...   May 30 2008, 05:58 PM
white pages   Chương Ba: Tàu Sông Hương 3 Tàu Sông Hư...   May 30 2008, 05:59 PM
white pages   Trại Gia Ray Nhóm chúng tôi từ trại Ph...   May 30 2008, 06:00 PM
white pages   “Đại Hội” Ruồi Xanh Sau hai ngày đ...   May 30 2008, 06:00 PM
white pages   Đợi Chờ Trong Đau Khổ Một lúc tôi m...   May 30 2008, 06:01 PM
white pages   Người Bạn Tù Linh Mục Lúc đó cha V...   May 30 2008, 06:01 PM
white pages   Chuyện Năm Xưa Chúng tôi sống yên ổn...   May 30 2008, 06:02 PM
white pages   Vĩnh biệt Cha Khâm Và chuyện gì sẽ t...   May 30 2008, 06:03 PM
3 Pages V   1 2 3 >


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 22nd July 2025 - 12:14 PM