![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Bảo vệ Tổ Quốc ![]() ![]() ![]() Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country ![]() ![]() |
Bàn về thơ Đường luật
Thơ Đường luật (Luật thi) Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng: “Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của luật thi như sau: a. Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết. b. Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo. c. Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm. Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối. Về đối ngẫu, Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là: Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối. Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là: 1. Chính danh đối, như càn khôn đối với nhật nguyệt. 2. Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao. 3. Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách. 4. Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu. 5. Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng. 6. Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì. (theo sách Thi uyển loại cách) Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoặc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một. Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc sáu câu toàn đối, hoặc tám câu toàn đối. Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên. Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau: các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết). -------------------- Mmm |
|
|
![]() |
![]()
Post
#2
|
|
![]() Bảo vệ Tổ Quốc ![]() ![]() ![]() Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country ![]() ![]() |
Phép dụng tự
Thơ Đường thường dùng thực tự ít dùng hư tự. Các nhà thi học đời sau thường nhận xét rằng: "Thơ mà dùng hư tự không hay". Đó là lời của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên. Người đồng thời cùng họ Triệu là Phạm Phanh nói thêm: "Thơ dùng nhiều thực tự thì mạnh, dùng nhiều hư tự thì yếu". Tạ Trăn cũng nói: "Dùng nhiều thực tự thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hư tự thì ý phồn mà lời yếu". Xét kỹ thì Cổ Thi thường dùng hư tự, Luật Thi thường dùng thực tự. Đường nhân hay dùng thực tự, Tống nhân hay dùng hư tự. Nói là chuyên dùng, ưa dùng ... là chuyên dùng nhiều, ưa dùng nhiều tự loại này hơn tự loại kia đó thôi. Hư tự dùng để đẩy đưa lời thơ, để gắn nối chữ này với chữ nọ. Dùng nhiều thực tự quá câu thơ thành nặng nề. Dùng nhiều hư tự quá câu thơ trở nên lỏng lẻo bên lời, cạn cợt bên ý. Phải sử dụng sao cho thích ứng, cho cân xứng. Như thế mới là diệu thủ. Trong làng thơ Quốc âm, bà Huyện Thanh Quan hay dùng thực tự, bà Hồ Xuân Hương hay dùng hư tự. Tôn Thọ Tường thường dùng thực tự, Trần Tế Xương thường dùng hư tự. Dùng nhiều thực tự thì thơ cô đọng chững chàng. Dùng hư tự vừa phải thì thơ nhẹ nhàng bay bướm. Xin dẫn chứng: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương (Bà Huyện Thanh Quan) Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn (Tôn Thọ Tường) Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu Lòng nương tiếng địch bến vi lô (Tú Xương) Sóng lớp phế hưng coi đã rộn Chuông hồi kim cổ lắng càng mau (Bà Huyện Thanh Quan) Nghi ngút tro tàn nền đạo nghĩa Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh (Tôn Thọ Tường) Thà không trời đất không chi cả Còn có non sông có lẽ nào (Phan Sào Nam) Chiếc bá buồn vì phận mỏng mênh Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng Nửa mạn phong ba luống bập bềnh Cầm lái mặc ai lăm đổ bến Giang chèo thây khách rắp xuôi ghềnh Ấy ai thăm ván căm lòng vậy Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh (Hồ Xuân Hương) Đó là những câu dùng hư tự nhiều mà hay, nhất là câu thơ của Phan Sào Nam thật là hy hữu. Dùng hư tự mà không khéo thì câu thơ thành non nớt, không truyền được cảm, mặc dù trong thơ có nhiều tình: Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa Gang tấc xem bằng mấy dặm xa Một kiếp đã đành rằng để vậy Chín trùng có thấu đến chăng là Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy Tan mặt buồn tênh cái nhện sa Ví biết thân này chi khó bấy Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà Đó là một bài thơ được truyền tụng nhan đề CUNG OÁN. Trong sách "Phép làm thơ" của Diên Hương chép là của Ôn Như Hầu. Theo Quách Tấn nhận xét thì không phải, vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất già dặn, chải chuốt. Thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc đã nổi danh là điêu luyện đến mức, và những câu sau đây, chỉ vài câu còn truyền tụng thôi, cũng đủ chứng minh rằng những câu thơ quá dễ dãi trên đây không phải là di sản của Ôn Như Hầu: Cõi thế lênh đênh thuyền hạo kiếp Lẽ trời lồng lộng võng huyền cơ (Cảm tác - Ôn Như Hầu) Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm Bâng khuâng chuyện những mấy trăm năm (Nghe ếch kêu - Ôn Như Hầu) Lời thơ tự nhiên, lưu loát chớ không quê vụng như bài CUNG OÁN trên. Bài CUNG OÁN có nhiều chữ dư, tức là những chữ không cần thiết, chỉ đem vào cho đủ vế mà thôi. Chúng ta nên tránh. Chẳng những tránh dùng chữ thừa, mà còn tránh dùng một chữ đến 2 hoặc 3 lần, trừ khi cố ý nhấn mạnh, cố ý làm nổi bật một tứ thơ. Lỗi bị trùng chữ rất thường xảy ra. Đến các bậc lão luyện vẫn nhiều khi vấp phải. Như Tố Như trong bài Vọng Phu Thạch. Nhưng vì bài thơ có giá trị của viên ngọc liên thành, cho nên những vết nhỏ kia có thể bỏ qua. Tuy nhiên nếu viên ngọc toàn mỹ thì càng quý bội phần. Tản Đà thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi. Tiên sinh có bài THEO VOI ĂN BÃ MÍA cũng bị phạm lỗi này. Chúng ta không phải như Tố Như, Tản Đà nên đừng bắt chước. Huống nữa đã là lỗi thì dù là của bậc đại gia văn chương đi nữa cũng không nên lấy đó làm gương. Tránh những chữ vô dụng, tránh những chữ trùng điệp. Lại còn phải tránh: 1. Điệp thanh. 2. Điệp âm. 3. Điệp vận. -------------------- Mmm |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 17th June 2025 - 08:23 AM |