![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Bảo vệ Tổ Quốc ![]() ![]() ![]() Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country ![]() ![]() |
TRƯỜNG XƯA NGÀY ẤY
NGUYÊN HIỀN PHẦN MỘT Kim đến trường Mỹ Ðức Ðông vào một ngày mưa dầm. Sau khi nhóm họp, các giáo viên mới ra trường được chia làm ba nhóm đến nhà các anh chị giáo viên ở gần trường để lo ăn uống và nghỉ tạm qua đêm.Kim, Lệ và hai bạn khác cùng đến nhà chị Son. Trước khi xuống Mỹ Ðức Ðông Kim đã ghé Ba Dừa ở Cai Lậy, quê của Lệ, một người bạn học chung khóa sư phạm cấp tốc, và về cùng một nhiệm sở với nàng. Chiều ở nhà Lệ Kim được uống nước dừa, nước dừa ở Ba Dừa ngọt thanh làm sao ! Nhưng đến khi gần sáng Kim chợt phát lảnh rung cầm cập. Má của Lệ vội xong rượu cho Kim. Bà nói có lẽ vì cơn cảm mạo của nàng chưa dứt mà uống nước dừa nên bị vật. Không biết má của Lệ xông rượu làm sao đó mà Kim cảm thấy hơi nóng bốc lên từ dưới bàn chân, rồi lan dần cả toàn thân. Buổi sáng trước khi Kim và Lệ ra đi, bà còn nhét thêm cho Kim vài viên thuốc cảm, và căn dặn không được ăn cơm. Giờ đây Kim phải nhịn cơm ăn cháo. Khi Kim nấu xong nồi cháo thương hàn với cái trứng gà thì chiều đã sụp xuống. Hai cô giáo mới và Lệ tiếp tục mượn bếp nhà chị Son để lo cơm nước. Kim chọn một chỗ ngồi ngó ra bờ sông. Con sông Cá Thia rộng gấp ba nhánh sông chảy qua chợ Gò Công, nơi mà khi còn bé Kim đã từng ôm phao đùa với nước. Mưa ngoài trời tầm tả làm xóa mờ bên kia bờ sông thuộc xã Mỹ Lương, tạo cho Kim một nỗi buồn mênh mông. Gió thổi tạt vào tấm bạt chắn ở cửa sổ kêu lật phật, làm buốt giá lòng nàng. Ðây là ngày đầu tiên Kim thật sự bước vào cuộc đời, một cuộc đời do chính nàng chọn lựa. Kim chưa cảm thấy nhớ gia đình vì nàng đã từng xa gia đình thời kỳ học sư phạm ở Mỹ Tho, nhưng nàng thấy lẻ loi, và se thắt tự cõi lòng. “ Cô lên phía trước ngồi, phía sau này gió lắm. Cháo có bỏ tiêu không, cho ấm ! “ “ Dạ có, cám ơn anh ba ! “ “ Chừng mười phút nữa là họp đứơc rồi ! “ “ Dạ ! ” Ăn cháo xong, Kim liền bước lên nhà trên theo lời anh ba Nghĩa, hiệu trưởng của trường. Anh cũng yêu cầu các chị trong bếp cho anh vài giây phút để nói thêm đôi điều trước khi từ biệt. Khi Kim bước lên phía trên thì thấy các anh chị giáo viên khác cũng đã tề tựu đầy đủ. Anh Nghĩa giới thiệu một người đẹp ngồi xéo ở một góc bàn. “ Cô Hồng Nhung_ hiệu phó của trường.! “ Quả cô hiệu phó xứng đáng với cái tên, cô đẹp như một đóa hoa hồng mới nở. Kim thầm nghĩ ở một xã hẻo lánh như thế này có một người đẹp như cô làm hiệu phó thật là hiếm hoi. Buổi sáng Hồng Nhung về phòng giáo dục họp nên đến bây giờ mọi người mới gặp mặt. Chị Son đã đốt ngọn đèn hoa kỳ để ở giữa bàn làm cho căn phòng trở nên ấm cúng. Lệ và Kim cùng ngồi vào bàn với anh Nghĩa và Hồng Nhung, còn các anh chị khác ngồi trên bộ divan đặt ở sát vách. Mọi người lắng nghe anh Nghĩa và Hồng Nhung thay nhau hướng dẫn lối sống và làm việc với người dân ở đây. Anh Nghĩa có nét mặt và vóc dáng của một quân nhân hơn là một ông thầy giáo. Anh được biệt phái về làm hiệu trưởng của trường Mỹ Ðức Ðông vài năm trước ngày ba mươi tháng tư. Thoạt nhìn anh với nét mặt già dăn và hàm râu mép rậm rạp rất dễ làm khiếp vía học trò. Tuy nhiên khi anh cười để lộ hàm răng rắn chắc đầy khói thuốc_ một nụ cười rất đôn hậu !. Lời ăn tiếng nói của anh rất gọn gảy, chân tình, dễ tạo cảm tình với bất cứ ai. Kim nghĩ nàng sẽ làm việc được với anh. Trước khi chia tay ra về, anh Nghĩa còn nhắc các giáo viên mới ngày mai vào khoảng tám giờ sáng ban giám hiệu sẽ đưa mọi người vào các điểm trường bằng tắc ráng. Anh cũng nói thêm một câu mà hồi sáng anh đã nói trong phiên họp: “ Trường Mỹ Ðức Ðông may mắn có một đội ngủ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình....”. Có lẽ vì quá mệt và cũng nhờ mưa xuống mát trời nên đêm đó Kim ngủ thiệt ngon. Xã Mỹ Ðức Ðông thuộc huyện Cái Bè, tĩnh Tiền Giang. Ðịa hình xã Mỹ Ðức Ðông ( hay Mỹ Ðông) chạy dài theo nhánh sông Cá Thia, vắt qua quốc lộ bốn (người dân thường gọi tắt là lộ bốn) bởi cầu Mỹ Quới. Cầu Mỹ Qưới coi như là ranh giới của Bắc lộ và Nam lộ. Bắc lộ gồm các điểm trường Bà Năm, Kỳ Ðà và Kênh Lạc. Nam lộ gồm có điểm trường Mỹ Qưới nằm ngay chân cầu, ba bốn điểm trường khác nằm sọc theo dòng sông, và trường chánh nằm ngay chợ Cá Thia. Kỳ Ðà là điểm trường cuối cùng thuộc vùng hẻo lánh của xã. Ðiểm trường Bà Năm mà anh Nghĩa chỉ định Kim và Lệ về công tác cách quốc lộ chừng tám trăm mét. Buổi sáng sau khi ăn qua loa mọi người xuống tắc ráng. Ðến bấy giờ Kim mới tĩnh táo để biết rằng ngoài nàng và Lệ còn có tám giáo viên khác về Mỹ Ðức Ðông, ba nam năm nữ. Ðến bến đò mọi người dẳ thấy hai chiếc tắc ráng đã đậu sẵn. Anh Nghĩa chỉ cả bọn xuống chiếc neo sát cầu nước. Có lẽ đám giáo viên mới ai cũng như Kim chưa hề quen đi xuồng hay tắc ráng nên khi vài người trong bọn vừa bước xuống chiếc tắc ráng chòng chành như muốn nghiêng về một bên, anh Nghĩa phải yêu cầu ngồi yên. Chiếc tắc ráng dài hoằng giống như thân con cá kìm, có mui che mưa nắng, chở được khá nhiều hành khách. Hôm nay cô hiệu phó Hồng Nhung ở lại trường, chỉ có anh Nghĩa và chị Chi trưởng ban đời sống cùng đi với các giáo viên mới. Chiếc tắc ráng từ từ rời bến chạy với một tốc độ vừa phải. Nắng bắt đầu lên, phong cảnh hai bên bờ trở nên rạng rỡ. Kim chọn một chỗ ngồi thuận tiện có thể xoai lưng ra ngoài để vừa ngắm cảnh, vừa lắng nghe được mọi người trò chuyện. Con sông dài ngoằn ngèo như một con rắn khổng lồ. Hai bên bờ là rừng cây, nào xoài, ổi, cóc,...chen chúc. Có những cây xoài, cây dừa thân cong vòng de mình ra dòng sông, che mát cho những chiếc xuồng neo tại đó. Mỗi bên bờ có một lối mòn uốn khúc theo dòng sông, khi bị mất khuất trong cỏ tranh, khi bị ngắt đoạn bởi chiếc cầu khỉ nho nhỏ. Ðây là vùng nước ngọt Tiền Giang lắm trái ngọt cây lành. Kim cảm thấy mát mẻ và thích thú với sông nước hữu tình nơi này. Anh ba Nghĩa cười nói huyên thuyên. Anh nói về các điểm trường, pha lẫn những câu khôi hài, có lẽ để xóa đi nét u sầu, lo lắng của các cô giáo mới. Các điểm trường lần lượt được mọi người dến thăm viếng. Chị Chị cũng không quên gửi gạo và nhu yếu phẩm cho các giáo viên ở các điểm trường. Nhiều điểm trường mới được cất do nhu cầu của học sinh gia tăng, hầu hết là một phòng, ván lá ọp ẹp, bàn ghế được đóng sơ sài. Vùng đất này trù phú, song người dân chỉ được thật sự an tâm làm ăn sau ngày ba mươi tháng tư khi tiếng súng đã ngưng hẳn, chỉ có trường chánh Cá Thia và trường Mỹ Quới được cất từ lâu là coi tạm được mà thôi. Chiếc tắc ráng chạy qua cầu Ông Vẽ. Kim đoán từ Cá Thia ra đến cầu này phải trên một cây số. Nhà cửa bên Bắc lộ trông thưa thớt hơn. Theo lời anh Nghĩa từ vùng này trở vào trong ruộng nhiều hơn vườn. Trên đường đến trường Bà Năm có những dãy vườn mận, ổi, xoài xen nhau ...Kim thích thú bấm tay Lệ nói : “ Trời nắng đi dạy có mận ăn thích ghê, Lệ nhỉ ! “. Có những hàng dừa soi bóng xuống dòng sông. Kim tưởng tượng sẽ có lúc ngồi trên thân dừa thẩn thờ ngắm trời mây sông nước. Anh ba Nghĩa yêu cầu tắc ráng đổ lại nhà bác sáu Ban, ông trưởng ấp ở đây để giới thiệu Kim và Lệ về dạy điểm Bà Năm. Sau vài câu giới thiệu, thăm hỏi, và gửi gấm Kim và Lệ sẽ ở trọ nhà bác sáu Ban, anh Nghĩa yêu cầu bác tài chạy sang trường Bà Năm trước, anh sẽ dẫn các giáo viêni đi bộ đến sau “ Cô Kim coi chừng đi cẩn thận nha, tôi nghĩ cô không quen đi cầu tre.’Cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó đi...’ !” Anh Nghĩa vừa nói vừa chỉ chiếc cầu tre trước mặt, chênh vênh trên con rạch Bà Năm. Kim than thầm trong lòng nhưng ngại lên tiếng. Chiếc cầu đã cao lại dài, được chấp nối lỏng lẻo, rung lên theo từng bước chân đi. Kim vội lột dép ra cầm một tay, còn tay kia vịn thân tre lần dò từng bước mà đi. Ngay cả tay vịn chỉ có thể giúp cho người qua cầu có thể an tâm mà gĩu được thăng băng chớ thật sự không thể tựa vào được vì cũng quá lỏng lẻo Kim thầm nghĩ nếu một mai nàng đi qua cầu này mà bị rớt xuống thì tệ hại vô cùng. Qua khỏi cầu, đặt chân lên mặt đất rồi Kim mới hoàn hồn. Trường Bà Năm nằm trên một voi đất. Trước mặt trường là ngã ba nơi gặp gỡ của nhánh sông Cá Thia và con rạch Bà Năm; từ đó hai dòng nước họp lại thành một con sông lớn đổ vào Kỳ Ðà. Mặt sau của trường là ruộng lúa mênh mông. Cũng như những trường mới cất ở đây, trường Bà Năm chỉ có một phòng rất ọp ẹp. Sân trước cho học sinh nô đùa nằm trên đường người dân ở đây qua lại, cũng chen được một cột cờ ở giữa, khẳng khiu chịu đựng cùng mưa gió. Bên cạnh trường, cách vài bước là cái quán nhỏ xíu, treo lủng lẳng bánh kẹo ở phía trước. Nhìn qua cánh đồng, xa xa vài căn nhà rải rác, ẩn khuất trong đám cây xanh um. Vừa dến trường Lệ và Kim vội bước vào lớp dể quan sát. Anh Nghĩa cũng theo sau nói cười rổn rảng: “ Sao, hai cô có yên tâm công tác nơi này không ? “ Kim và Lệ lặng nhìn những dãy bàn ghế thô sơ, sần sùi, đầy đắp vá, cùng mĩm cười và lí nhí trả lời anh Nghĩa: “ Dạ được anh ! “ “ Thôi xuống tắc ráng đi các anh chị, để vô Kỳ Ðà còn kịp con nước ! “ Nghe tiếng anh Nghĩa hối thúc Kim và các ban vội vào khoang ngồi Anh Nghĩa đứng trên bờ từ biệt gia đình chị ba Phích, chị chủ quán,. Bác tài đã sẵn sàng cho ghe rời trường Bà Năm. Từ nơi này vào Kỳ Ðà là ruộng bạt ngàn; tuy vậy, cũng có một vài khu vườn ổi mới lên liếp. Dọc theo hai bờ sông, càng vào trong càng có nhiều điên điển, bần, bằng lăng, và dừa lá. Ðến Kỳ Ðà thì dòng sông trở nên hẹp lại. Nhà cửa hai bên sông thưa thớt. Cảnh trí buồn tẻ và hoang vắng quá !.Gió đồng thổi lồng lộng. Vài tiếng chim kêu lạc loài...khiến bốn giáo viên mới vào đây không khỏi ủ ê mày mặt. Tắc rang vừa cặp bến mọi người vội bước lên bờ. Người không ngớt chắc hít than thở là Nguyễn văn Mạnh. Mạnh và Lý thị Bảy ở Gò Công, cùng quê với Kim; chưa ai đã từng biết bơi xuồng, hay quen đi cầu tre lắc lẻo. Các giáo viên mói ngơ ngác trước một ngôi trường cheo leo, xung quanh chỉ toàn là sông rạch và ruộng lúa mênh mông. Cũng như lần trước, anh Nghĩa dẫn mọi người đến nhà dì ba Nhân để gửi gấm các giáo viên mới. Nhà dì ba Nhân ở sát một bên trường, còn bên kia giáp với đám dừa lá. Trường ở đây có hai phòng, cũng vách lá sơ sài. Giáo viên đang công tác là một cặp mới hứa hôn, sẽ ra trường chánh Cá Thia để nhường lớp lại cho các giáo viên mới ra trường năm nay. Năm rồi ở đây có ba lớp, hai giáo viên. Năm nay bốn lớp, bốn giáo viên mới, đó là Lý thị Bảy, Nguyễn văn Mạnh, Nguyễn Ngọc Hạnh và Trần Duy Lâm. Lý thị Bảy là người mà Kim chú ý nhất. Trên tắc ráng cô ngồi đối diện với Kim; Kim nghĩ nàng không dễ quên đôi mắt đẹp u buồn, có một bớt ruồi trong tròng mắt bên trái của cô _đó là dấu hiệu buồn khổ vì tình duyên (?) Khuôn mặt cô buồn rười rượi, cô ngồi co ro như con mèo ướt. Làn da trắng trẻo và lối ăn diện của cô cho Kim thấy cô khó thich ứng nơi này. Hai cô Bảy và Hạnh trông buồn bả và chán nãn ra mặt. Lâm và Mạnh vào trong xem xét phòng ốc và bàn ghế, rồi trở ra cười méo mó, không nói tiếng nào. Dì ba Nhân ở đây đã từng giúp đỡ giáo viên, rất ân cần với mọi người, nhưng rồi mọi người cũng không thể nấn ná lâu hơn. Kim và các bạn xuống tắc ráng. để lại bốn giáo viên mới và hành lý của họ. Hai cô giáo mới Bảy và Hạnh bịn rịn tiễn đưa không dằn được nước mắt_ giống như một đám cưới, lúc đàn gái ra về để cô dâu ở lại nhà chồng vậy. Tắc ráng quay trở ra đến trường Bà Năm thì đã quá trưa. Bước lên nhà bác sáu Ban là Kim cảm thấy mệt nên đi nằm một lát. Nhà bác sáu Ban rất sạch sẽ và khang trang. Qua câu chuyện thăm hỏi Kim được biết nhà bác sáu được sửa lại sau ngày ba mươi tháng tư. Nền được đôn lên cao để tránh nước tràn vào nhà vào mùa nước nổi. Nền nhà được lót gạch tàu còn mới. Cũng như những căn nhà ở vùng này, vách nhà bác sáu được làm bằng nan tre,bên trong nhà ngó ra ngoài rất rõ, nhưng ở ngoài không dễ gì nhìn lọt vào bên trong nếu không đứng sát vách ngó vào. Mái nhà lại được lợp lá chằm nên mát mẻ vô cùng. Nhà trên có hai bô ván ngựa ở sát hai bên vách; bàn thờ và một cái bàn khách hột xoài nằm ở giữa. Nhà trong có một lẩm lúa cao ngất, cái giường và một cái tủ đứng. Căn nhà bếp nối liền nhà trên, ngăn cách nhau bởi một tấm vách. Nhà bếp không có cửa, chỉ làm che đủ cho dàn bếp, và một bộ vạt để ngồi ăn cơm. Dàn bếp được cất cao, xung quanh treo lủ khủ xon nồi ơ chảo. Trong nhà bếp này đặc biệt có một cái cối đá mà bác gái cứ phải bận bịu xay mỗi lần một cối gạo đầy thành một thứ sữa bột cho con hẻo nái sồ sề nằm trên vũng sình phía sau hè. Con heo nái nhà bác sáu mỗi ngày uống ba cữ nước bột như vậy làm cho nó mâp ú. Hai bác không có con, nuôi một đứa cháu gái_ Cúc , tên đứa cháu của hai bác, thường đi làm vần công với bạn bè đến chiều tối mới về. Bác trai khoảng sáu mươi, trung người, còn gân cốt, rất ít nói, thường ngồi nhấp nháp trà ở bàn khách nhà trên. Bác gái có lẽ cùng khoảng tuổi bác trai, người gầy gò nhưng mạnh khỏe, làm việc lanh lẹ. Căn nhà bác sáu vì vậy ít tiếng cười, tiếng nói. Buổi chiều Kim ra bờ sông.Nhìn dòng sông chảy lờ lửng Kim nhớ đến bài “Chiều Trên Sông” của nhạc sỹ Phạm Duy: “ Chiều buông trên dòng sông Cửu Long....Có khi buông lửng lơ, có khi tuôn sầu u....” Kim nghĩ có lẽ nhạc sỹ Phạm Duy cũng đã từng nhìn dòng sông như nàng. Ôi con sông miền Nam hiền hòa làm sao ! Kim là người miền Nam mà đến bây giờ nàng mới thấy cái đẹp của dòng sông như các nhạc sỹ thường ca ngợi. Nhìn dòng sông tâm hồn Kim trở nên thanh thản, bình lặng như mặt nước, tạm quên đi những lo lắng, buồn phiền.... “ Ngày mai Lệ về Cai Lậy, Kim đứng lớp cho Lệ được không ? “ Kim quay lưng lại: “ Ngồi xuống một lát đi Lệ, chuyện đó được mà ! “ Lệ ngồi xuống cạnh Kim. “ Ơ đây còn nghe tiếng xe ngoài lộ bốn, ở Kỳ Ðà buồn quá Kim hả ? “ Kim vẫn dõi mắt nhìn theo đám lục bình trôi lềnh bềnh trên sông. Thỉnh thoảng vài chiếc xuồng bé tẻo teo xuôi theo dòng nhẹ tênh lã lướt. Giờ này con nước bắt đầu lên, gió cũng lên theo, làm gợn sóng vỗ vào bờ nhè nhẹ như an ủi, vỗ về... “ Về chừng nào trở lại Lệ ? “ “ Chỉ lấy đồ đạc cần dùng, châm lắm là ba ngày. “ “ Cuối tuần này tôi về, nếu thứ hai lên không kip nhờ Lệ đứng lớp giùm. “ Lệ gật đầu đồng ý. Lệ học cùng lớp với Kim ở sư phạm, lại cùng chung một tổ học tập nên khá thân tình. Lê mới lớn, yêu phải môt anh chàng có vợ học cùng lớp. Lệ buồn vụ này nên từ chối về Cai Lậy mà theo Kim về công tác ở Cái Bè, hay có ý muốn gặp lại người yêu vì anh ấy về dạy ở quê nhà An Hữu cách đây không xa (?) “ Ngày mai chị Vân ra Cá Thia rồi, Kim ở lai môt mình tội nghiệp quá! “ Lệ vừa nói vừa cười mơn như để an ũi Kim. Kim ngó vào nhà bác sáu Ban đã lên đèn, chị Vân đang cặm cụi viết sổ sách nơi bàn khách. Chi Vân là giáo viên hai năm rồi dạy tại điểm trường Bà Năm, phụ trách hai lớp. Năm nay mở ba lớp, chị Vân đứng lớp ba, Kim lớp hai và Lê lớp một. Con nước lớn rất nhanh, chạy ngâp gần hết chiếc cầu nước bằng sắt của Mỹ thời chiến tranh. Bóng tối lan dần, gió thổi lạnh hơn, mặt sông trở nên huyền ảo, xung quanh cây cối trở nên ma quái.... Kim rùng mình, cùng Lệ bước vào nhà. Hôm Kim đưa Lệ ra xe găp người bà con của Lệ làm ở phòng giáo dục Cai Lậy. Chị theo lời yêu cầu của gia đình Lệ xuồng Mỹ Ðức Ðông để kêu Lệ phải trở về làm việc ở Cai Lậy. Và Lệ phải theo chị trở về ngay ngày ấy. Chị Vân phải ra trường chánh do yêu cầu dạy Anh văn cho cấp hai, một mình Kim phải coi ba lớp. Kim mệt nhoài và khàn tiếng mà chẳng than vản được với ai. Có lẽ cũng hiểu được sự khó khăn đó, vài ngày sau anh Nghĩa xuất hiện báo cho Kim biết sẽ có hai giáo viên đổi về điểm trường Bà Năm. Kim sẽ phụ trách lớp hai, hai mươi lăm em. Cô Ý từ Hòa Khánh về sẽ phụ trách lớp ba, và cô Hảo từ Sài Gòn về sẽ phụ trách lớp một. Những năm đầu sau khi miền Nam bị tiếp thu, người từ Sài Gòn và nhũng thành phố khác lần lượt kéo nhau về quê xây dưng đòi sống mới. Gia đình Kim cũng như gia đình cô sáu Hảo nằm trong hoàn cảnh đó. Sài Gòn lúc này ăn độn bảy mươi lăm phần trăm. Cô sáu Hảo để lại hai người con gái lớn ở lại Sài Gòn sống bên ngoại để tự xoay trở. Còn cô, người chồng hưu trí, và ba con nhỏ về quê đùm bọc nhau. Cô mua ba công vườn của bác sáu Ban. Sau khi nhờ người quen thỏa thuận giá cả, gia đình cô rút gọn về đây. Nhìn đồ đạc của gia đình cô bày ngổn ngang trước sân nhà bác sáu Ban, Kim có thể đoán gia đình cô trước đây có cuộc sống kha khá. Căn nhà cô sáu Hảo được dựng lên cấp tốc, sơ sài như một túp lều lý tưởng ngay cạnh nhà bác sáu Ban. Những lúc nhàn rỗi Kim chỉ thích đến ngồi trước sân nhà cô nhìn dòng song lững lờ trôi…… -------------------- Mmm |
|
|
![]() |
![]()
Post
#2
|
|
![]() Bảo vệ Tổ Quốc ![]() ![]() ![]() Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country ![]() ![]() |
PHẦN HAI
Năm 1978 là năm Cái Bè bị thất mùa vì nạn sâu rầy. Vùng này có nhiều ruộng thâu hoạch rất cao; trung bình mỗi công ruộng được ba mươi lăm gia lúa, nhưng năm ấy bị thất trắng, và lại thêm nạn nước nổi. Nhà trường phải ra thông báo nếu học sinh nào đói quá học không nỗi giáo viên phải cho ra về ngay. Tuy vây Kim biết có những gia đình con em của họ trở về cũng khônng có sẵn cái gì để đỡ dạ. Kim đi dạy buồi chiều, ra về lúc con nước bắt đầu lên Bấy giờ Kim thấy nước chảy cuồn cuộn một cách dữ dội, sức nước mạnh khủng khiếp. Trên đường mòn lần ra quốc lộ bốn Kim phải níu mấy nhánh mận, ổi, hay bất cứ nhánh cây nào có thể cho nàng một điểm tựa để đi mà không xẩy chân lọt rớt xuống sông. Sau khi tựu trường dạy được gần một tháng thì anh Nguyên, hiệu trưởng mới ra thông báo nghỉ tạm thời chờ con nước rút xuống. Kim vội ôm khăn gói về Gò Công, bỏ lại gia đình cô sáu Hảo lần đầu tiên chóng chỏi với nạn lũ lụt ở đây. Sau một tháng nước rút xuống dần, giáo viên được lệnh trở về nhiệm sở. Cây cối nhà cửa nơi này không bị hư hại vì con nước lên cao tràn trề rồi lại rút xuống ngay Thời gian lũ lụt cuộc sống của người dân có phần khó khăn, nhưng khi con nước giựt xuống để lại một lớp phù sa làm trù phú ruông vườn. Kim đã từng học phù sa sông Cửu Long bồi đắp ruộng vườn màu mỡ từ những năm tiểu học mà đến nay mới thấy thật sự.ra sao. Trường lớp bị nước lũ tràn ngập , khi nước rút xuống bàn ghế dơ bê bết; Kim phải bỏ ra môt ngày lau chùi. Năm nay Kim dẫn học trò lớp một của cô Hảo lên lớp hai. Lũ học trò lớp nào cũng nhổ giò nhanh chóng, chúng lớn nhanh như thổi. Qua một năm dưới sự hướng dẫn của cô Hảo học trò đã quen nề nếp. Do đó năm nay việc ổn định lớp học được nhanh chóng, Kim cứ theo chương trình đã định sẵn mà dạy cho kịp học kỳ. Cô sáu luôn luôn dạy buổi sáng. Chị Ý bận rộn với bé An nên đứng lớp buổi trưa. Kim luôn luôn giành dạy buổi chiều, vì có lúc Kim về thăm nhà trở lên vào sáng thứ hai vẫn còn kịp đứng lớp. Ðôi khi Kim phải đứng lớp ba giúp chị Ý, hay lớp bốn ngoài Mỹ Quới của cô Bảy. Nơi dồng quê hẻo lánh này môn vẽ là môn học xa xỉ, vì không học sinh nào có được hai cây chì màu ! Kim phải cho học sinh vẽ hoa hình học,không phải đòi hỏi tô phết nhiều. Về thủ công thì chỉ cho chúng dùng sình nắn đồ vật, con vật. Không có bản đồ và quả cầu, Kim phải dùng phấn vẽ trên bảng để giảng dạy. Môn khoa học thường thức học về cây lúa, cây đậu... thì lý thú nhất vì học trò biết nhiều hơn cô giáo, Kim chỉ giúp chúng hiểu biết ở khía cạnh khoa học mà thôi. Qua một thời gian dạy học ở đây Kim mới thấy rằng yêu cầu học sinh giữ sách vở sạch sẽ là một điều rất khó khăn. Lắm khi chúng làm việc gì đó tay chân dín sình đất, đến giờ đi học rửa sơ qua rồi vội vàng ôm cặp đến trường. Muốn tập cho học sinh có thói quen tốt vệ sinh, Kim phải kiểm soát tay chân của chúng thường xuyên, nhưng cũng không thể quá gay gắt vì đời sống người dân ở đây quá khốn khó. Kim có thể nhìn qua bề ngoài của học trò để có thể đoán được gia đình của mỗi đứa như thế nào. Kim đã từng đi quan hệ với một số phụ huynh học sinh ở vùng này, nàng thấy giáo dục chỉ thành công khi có sự kết hợp giữa nhà và trường.Học sinh cấp hai ở vùng này chỉ có vài ba đứa. Học sinh cấp hai khác xa với học sinh cấp một:_ chúng ăn mặc sạch sẽ, nói năng lịch sự và hiểu biết hơn học sinh cấp một. Tất nhiên phụ huynh của các em học sinh cấp hai có quan tâm đến sự giáo dục con em họ. Kim thường so sánh như vậy để học trò hiểu được sự học hành rất quan trọng trong việc giúp chúng phát triển nhân cách Má của Ngọc, học trò của Kim, là con gái lớn của dì ba Nhân trong trường Kỳ Ðà, sáng chủ nhật sẽ vào trong ấy ăn giổ. Chị mời Kim cùng đi với chị, sẵn vào chơi với bạn bè dạy ở trong ấy đang ở trọ nhà dì ba. Buổi sáng vào khoảng chín giờ, nước sông lên cao như muốn tràn qua khỏi bờ, Ngọc và mẹ cho xuồng đổ lại đón Kim. Chị năm, mẹ Ngọc, chào đón Kim với nụ cười thật tươi, để lộ những cái răng vàng khè phía trước. Chị năm và Ngọc hôm nay mặc áo mới, loại vải được mua rẻ mỗi kỳ nhu yếu phẩm. Trơng xuồng có một thúng nếp, và một túi khoai lang đỏ, có lẽ đó là phần đi đám của chị năm. Kim đem hai phong bánh in được bọc giấy kiếng đỏ mua ở quán chị ba Phích đặt lên thúng cho khỏi ướt. Kim ôm cái túi xách trong lòng rồi ngồi phệt lên đôi dép da, xoay lưng lại chị năm. “ Cô vào chơi là quí rồi, mua bánh trái mần chi vậy ? “ Kim nói tảng lờ: “ Anh năm không đi sao chị ? “ “ Bửa nay anh năm phải lo đi canh mua dầu lửa, ngót một tháng rồi tụi tôi phải mua giá ngoài. Cô có đủ dầu để xài không ? “ “ Vừa đủ chị à ! “ Thật ra số dầu mà Kim lảnh được mỗi tháng chỉ đủ xài với cái đèn bóng nhỏ xíu mà thôi. Cứ mỗi tháng xe dầu về, người ta sắp hàng nối đuôi dài dọc, chờ đợi cả buổi nhể nhại mồ hôi để được phân phối một ít dầu. Nhà cô sáu Hảo khi có trăng mới thức chơi tới khuya, còn thường khi thì phải tắt đèn đi ngủ sớm. “ Thì tại anh hai đi câu tôm mỗi đêm mới hao dầu ! “ Ngọc nói xen vào. “ Không đi câu lấy tiền đâu mua tấm áo tấm quần ? Năm nay ruộng thất mà không có nó phụ là chết cứng ! Sang năm ba mày ráng làm ba vụ coi ra làm sao. Phải ráng làm ! “ Chị năm nói như để nhắc nhỡ chính mình. “ Mua vải kỳ sau để cho con và thằng Nam mỗi đứa một bộ đồ ăn Tết, nghe má ! “ “ Ừ mà, nhắc hoài ! “ Nghe chị năm và Ngọc nói chuyện nhà, trong đầu Kim khái quát được căn bản kinh tế gia đình chị thu nhập được là nhờ một mẫu ruộng làm hai vụ mỗi năm, và chút ít tôm cá của con sông con rạch. Ruộng ở đây cũng làm theo kiểu giao khoán như ở Gò Công, lời ăn lỗ chịu, nhưng nhờ ruông tốt nên nông dân làm còn có ăn. Người dân cũng được mua xăng dầu và phân bón để làm mùa cùng là những nhu yếu phẩm như đường, bột ngọt, xà bông, vải vóc..với giá chính thức.Những nhu cầu này mua của nhà nước không đủ dùng nên người dân phải mua thêm ngoài chợ đen với giá cao. Trong khi.phần thu nhập được rất giới hạn, phần chi xuất lại nhiều và chịu phải giá cao nên đời sống của gia đình anh chị năm hay những nông dân khác thường gặp khó khăn. Trong tình trạng như vậy, nếu thất mùa hay chị năm sanh thêm nữa thì cái vòng nghèo khổ lẩn quẩn lại càng không lối thoát ! Xuồng theo con nước đi rất nhanh. Càng đi vào trong đồng trống càng mênh mông. Con đường đi men theo bờ sông bị nước tràn qua, không còn phân biệt được đâu là bờ đâu là sông, mà chỉ thấy như toàn là một biển nước. Cảnh vật trông hoang vắng, tịch liêu !. ” Ðường như vầy sao người ta đi được chị năm ? “ “ Còn đi được cô ơi, người ta đi quen rồi. Ở đây là vậy, mười bảy nước nhảy khỏi bờ mà ! Chắc dưới cô cũng vậy (?). “ “ Dạ, nhưng mãi đến gần Tết nước mới dâng cao. “ Ngọc ngồi bơi phụ đằng trước mũi, xây lưng lại Kim, mái tóc cháy nắng được kẹp gọn gàng bởi một cái kẹp bướm mới mua. Em năm nay mới mười tuổi nhưng khuôn mặt nom như đã mười hai mười ba, da mặt lấm tấm lông ben “ Con nước ở đâu chẳng vậy cô.(?) “ Có lẽ do tới tháng đó nước mới đổ xuống tới dưới. “ Chị năm vừa giải thích vừa chào bà già ngồi trong nhà trên bờ đang têm trầu “ Dì ba, khỏe hả dì ? “ “ Ờ, bây vô trỏng hả ? “ “ Dạ “ “ Bây nhắn tao gửi lời thăm bà ba nha ! “ Giọng bà già nói rướng theo, chiếc xuồng lao nhanh theo dòng nước. Gió thổi mát lạnh.Sóng lăn tăn dập vào mạn xuồng nghe như vỗ về, hòa với nhịp bơi đều đặn tạo thành một âm thanh nghe đến thích tai. Kim ghiền cái âm thanh ấy . Cứ mỗi sáng thức giấc dậy sớm, Kim thích nằm nghe tiếng xuồng ghe qua lại, tiếng dầm bơi đều đặn, tiêng nước vẩy nghe mát tai, tiếng ai đó trên xuồng chuyện trò thoảng qua. Ðứng trên bờ Kim thấy người dân ở đây bơi xuồng nhịp nhàng như tạo thành một điệu vũ trên song…. Chẳng mấy chốc đã tới nhà dì ba. Bảy và Hạnh đang phụ rửa chén ngoài cầu nước. Vài chiếc xuồng của ai đó neo vào thân cây bần sát bên cầu. Bảy tươi cười hỏi lớn giọng: “ Phái đoàn vô tới kìa! Chị năm, anh năm đâu ? “ “ Ở nhà canh mua dầu lửa, mua xong ổng vô sau với sắp nhỏ. Thầy cô trong này mạnh hết hả ? ” “ Dạ !. “ Quay sang Kim Bảy ân cần nắm tay nàng dẫn lên cầu nước. Hạnh chọc quê Kim: “ Bảy không nắm tay dám Kim té lọt lắm à nha ! “ Hạnh làm Kim nhớ lại ngày đầu tiên vào Kỳ Ðà, cũng tại chỗ này, nếu không có anh Nghĩa nắm tay Kim kịp lúc thì nàng đã té nhào xuống sông vì cái tật bước lên cầu nước là đạp xuồng ra. .. Kim nói chống chế, tự mãn: “ Hứ, ta biết bơi xuồng rồi cưng à ! “ “ Gioi ! Rồi sẽ có dịp trổ tài.! “ Hạnh cười trả lời Kim Ngọc khệ nệ mang túi khoai lang, còn chị năm bưng thúng nếp. Kim và hai bạn nhường bước cho chị và Ngọc vào trong trước. Ði ngang qua Bảy và Hạnh, Ngọc không quên chào hai cô. Kim ngó vào nhà dì ba. Nhà dì ba cất quá thấp, vách lá xơ rơ. Căn nhà không có cửa sổ , chỉ có cửa trước và cửa sau. Cửa trước cũng làm bằng mái lá được chống đỡ bởi một cây đòn. Do đó căn nhà nhìn thấy thiếu ánh sáng và không được khang trang. Bên kia bờ sông vài căn nhà lá xiu vẹo cùng một kiểu nhà của dì ba, đứng sát nhau như để che đỡ. Xa xa vài căn nhà rải rác, cũng vách lá sơ sài, cheo heo trên đồng lúa mênh mông. Kim theo Hạnh và Bảy mang chén bát vào trong. Trên bàn khách bày la liệt đồ cúng. Bàn thờ dặt sau cái bàn khách, chưng đầy hoa quả. Mạnh và Lâm đang ngồi trên bô ngựa nói chuyện với vài người khách. Sau khi giới thiệu và chào hỏi xã giao, ba cô giáo xuống bếp xúm lại tỉa thấu chua. Hôm nay nấu ăn đãi trong nhà, khách khứa mời vào ngày mai. Nhà dì ba không được rộng lắm, cũng không được vững chải. Song trên một diên tích khiêm tốn vẫn chứa được hai bộ ngựa, cái bàn khách và bàn thờ ở nhà trước, tất cả được làm bằng một thứ gỗ sơ sài.Nhà trứơc hay còn được gọi là nhà trên cách phòng trong một tấm chắn làm bằng lá chằm. Một cái giường và có thể là một bồ lúa ở phòng trong hay nhà trong, vì lúc ấy Kim thấy cái bồ đã được cuộn lại để ở một góc phòng.. Nền nhà được đắp đất sơ sài, chỉ được lẳn đi ở những lối ra vào. Phòng trong quần áo máng giăng giăng. Tộ chén làm đám để một góc phòng, ngay trên nền đất. Vài cái khạp có lẽ để chứa nếp, hay đậu, hoặc thức ăn khô được đặt sát vách dưới chân giường. Cái bếp chỉ là một mái lá de ra nối liền với cánh cửa duy nhất bên trái của phòng trong, cũng như muốn dổ xiu. Cái mái này cũng vừa đủ chỗ để che cho ba ông lò được đặt phía trên một cái bệ, trên vách và phía dưới cái bệ lủ khủ xon nồi. Dì ba có hai người con trai lớn hy sinh cho chế độ mói trong chiến tranh. Người con trai thứ tư bị đau nặng mất sớm. Do đó dí thương người con rễ thứ năm, ba của Ngọc như con ruột. Dì chỉ còn một cô con gái út, cô Lựu, năm nay sẽ gả lấy chồng Dì ba và người con gái út đã chèo ghe đi chợ Mỹ Ðức Tây từ khuya sớm. Rựng sáng ra là hai người đã về đến nhà. Năm nay mặc dù thất mùa nhưng dì có suôi mới, phải làm cái đám coi được một chút “ Cô Kim thấy ở đây buồn không ? Sao cô nào mới vô đây cũng khóc hết vậy ? “ “ Trước lạ sau quen dì ơi.! Bây giờ tụi nó hết khóc rồi, biết đâu chừng chịu ở lại đây luôn nữa. “ Dì ba miệng nhai trầu cười ha hả. Dì bợ cái thúng đậu xanh đã đãi sạch vỏ ngoài sông, đem gát lên cái cối đá cho ráo nước. Dì là hình ảnh của một người mẹ già gầy gò chịu đựng và tình cảm mà Kim thường thấy trong các phim chiến tranh Việt Nam. Dì cũng như bác ba Hớn, sống trong vùng do Việt Cộng kiểm soát, phải chịu đựng mất mát và hy sinh cho họ. Cuộc sống của những kẻ đã sống nhờ vào người dân ở đây đã thay đổi, đã thật sự được cách mạng. Nhưng người dân ở đây vẫn tiếp tục gánh vác, tiếp tục sống nghèo khổ, và ly cách Ở đây hầu như nhà nào cũng có người hy sinh cho chế độ mới. Thời chiến tranh qua rồi, nhưng dường như người dân ở đây vẫn quen lối sống nay chết mai, không màn đến tương lai dài hạn. Hoặc dẩu họ có muốn cuộc đời thay đổi cũng không được vì họ không được giáo dục và hương dẫn, vì thiếu thốn những phương tiện để học hỏi, vì sau vụ mùa khi đóng thuế xong chẳng còn đức bao nhiêu ! Hầu như đồng tiền tạo được chỉ dồn vào cái đám giồ trả nợ miệng, hoặc đám hỏi cưới, và ăn cái Tết. Sự nghèo khó đã có gốc rễ ở thôn quê, vẫn không vươn lên nỗi sau những năm giải phóng và cải cách ! Thanh niên ở đây lớn lên làm ruộng xong là vui chơi thỏa thích, nhậu nhẹt li bì. Như để bù lại số bị mất mát trong chiến tranh, thanh niên ở nơi này lập gia đình rất sớm. Ðời sống độc thân của các giáo viên như bọn Kim “ lỗi thời “đối với họ. Buổi chiều xuống, các cô xúm lại gói bánh ếch, bánh tét. Bánh được gói rất nhiều để đãi và chia cho bà con ngày mai. Con heo duy nhất cũng được đem ra thọc tiết, một phần nấu đãi và một phần được giữ lại để chia cho người trong họ có phần ăn ruộng hương hỏa của ông bà, theo tục lệ . Cơm nước buổi chiều xong thì trời đã sập tối; mọi người tụ tập ở nhà trên. Chồng sắp cưới của Lựu từ xóm trong đã có mặt từ lúc nào. Anh năm và hai con trai cũng mới vào tới. Anh có giọng ca vọng cổ ấm áp và mùi mẩn, đã làm chị năm mê mết một thời. Mỗi người lần lượt hát một bài. Kim ca một đoạn vọng cổ nghe lóm được của lũ học trò, được vỗ tay bôm bốp: “ Con rạch Cá Thia chảy về Tắc Cẩu, con sáu sang sông ......Trời tháng tư, em mặc áo hoa cà. Qua ngõ nhà anh em kéo nghiêng vành nón, giả bộ vô tình làm rớt cánh bằng lăng...” Trong lúc mọi người còn đang ca hát rộn rã, Kim và Bảy ra bờ sông ngắm trăng, hai bạn ngồi trên khúc cây mới được cắt để nay mai làm bàn học Bảy thầm thì: “ Cuộc sống ở đây như cách biệt với thế giới bên ngoài quá hả Kim ? Không có Lâm và Mạnh là ta bỏ trốn rồi ! ” “ Ráng một hai năm nữa là ra ngoai rồi. Mi có định xin về Gò Công không ? “ “ Chắc rồi, nghe nói phải công tác ít nhất trên ba năm ! “ Khi ra trường sư phạm Kim tình nguyện đi xa vì muốn có cuộc sống riêng tư an ổn sau những cú sóc kinh tế gia đình do những việc làm ăn may rủi của ba nàng. Kim được mãn nguyện thật sự. Sông nước Cái Bè làm tâm trí Kim dịu lại. Kim hài lòng với cuộc sống hiện tại nên chưa có ý định xin đổi dời nhiệm sở như các bạn khác. “ Học trò ở đây ngoan không , Bảy ? ” “ Ðược lắm, nhưng khó khăn đủ thứ ! Sách mói lảnh bị rách hư nhiều quá. Học cụ không có một món ! Mi dạy làm sao ? “ “ Cố gắng bằng mọi cách để tạo hứng thú cho học sinh học và hiểu bài là được rồi ! “ Thật tìnht Kim không rõ tiền niên liêm mỗi năm học trò đóng dùng vào việc gì sau khi nộp đầy đủ cho phòng giáo dục. Bảy tần ngần một hồi rồi nói nhỏ giọng: “ Mi có thấy anh chàng ngồi hút thuốc ở góc bộ ngựa không ? _ ngồi sát bên Lâm đó. “ “ Bảy à, ta thấy hắn chú ý mi lắm Ai đó vậy ? “ “ Cháu gọi dì ba bằng dì, làm xã đội phó ở Mỹ ÐứcTây, lớn hơn ta hai tuổi, vợ mới mất năm rồi, có hai con. “ Kim hiểu ngay câu kết của chuyện lòng này, đó chỉ là một cuộc đeo đuổi vô vọng ! “ Mi nói về chàng của mi cho ta nghe đi Bảy ! “ Bảy ngước nhìn bóng trăng treo lơ lửng trên cây bằng lăng “ Buồn lắm ! Kể chuyên của mi đi ! “ “ Ði học tập mút mùa rồi ! “ “... Anh Vinh đang làm xây dựng ở Long Ðịnh. Anh bị thương nặng nên đi học tập ngắn hạng thôi. “ “ Thời gian mi học sư phạm Vinh ghé đón hoài đó hở ? “ “ Ừ! “ “ Tới đâu rồi ? “ “ Chẳng tới đâu cả, bà già không thuận nên cứ im lặng, từ ngày xuống đây là không còn tin tức gì với nhau “ “ Làm sao quen nhau ? “ “ Bạn của anh ta, thân với anh ta từ lúc ta còn nhỏ; nhưng bà già không chịu vì bà kết tình nghĩa với gia đình anh Sang ở Sài Gòn nên chỉ muốn gả ta về nơi đó, bà phản đối dữ lắm ! “ Kim đã quen độc lập quyết định cho mình nên cảm thấy ái ngại cho hoàn cảnh của Bảy vô cùng. “ Hạnh phúc cho mình thì mình phải chọn lựa lấy chớ, mi ! “ “ Mi nghĩ ta nên phải làm sao ? “ “Mi nên về thăm anh Vinh ! Khi nào thấy có đủ điều kiện để kết hôn thì làm đám cưới. “ “ Má ta không dự ! Bà chỉ muốn gả ta cho anh Sang. Gia đình anh Sang và gia đình ta đã quen biết từ lâu, giao hảo thân mật. Anh ấy thương ta,....nhưng ta cảm thấy không hợp mi à ! “ “ Mi và Vinh ráng chờ vài năm nữa là bác gái cũng phải chịu, không thôi để làm mắm hay chi (?) “ Có tiếng ai dưới sông ca lanh lảnh chuyện tình Lan và Ðiệp. Kim ngó ra khoảng xa mù nơi có ánh đèn câu. Dần dần một chiếc xuồng nhẹ nhàng lướt tới, tiếng dầm bơi rất khoan thai. “ Bé ba, học trò Lâm đó Kim, nó ở bên kia sông, câu tôm tài lắm ! “ “ Một hai năm nữa là nó có vợ được rồi ! “ “ Chắc mẽm là vậy ! “ Kim chỉ về phía trong Kỳ Ðà: “ Có vô trong đó chơi bao giờ chưa Bảy ? “ “ Ði một lần vói Lâm “ “ Ðường đi được không ? “ “ Xấu lắm! Mùa này phải đi xuồng.! “ “ Dân ở trong đó đông không Bảy ? “ “ Khá đông, đông hơn ở đây nhiều, trai gái mới lớn đông lắm ! “ Bé ba đã cột xuồng xong, có lẽ nó đã nhận ra cô Bảy đang ngồi với Kim nên lên tiếng chào hỏi: “ Sao hai cô ngồi ngoài này không vào trong chơi ? Buổi tối ở đây mù mắt dữ lắm ! “ Quả tình, càng về đêm mù mắc càng nhiều. Cái tên Bé ba nhưng thực ra nó cao lớn như một thanh niên. Ở tuổi Bé ba đúng ra phải vào lớp bình dân học vụ. Bây giờ Kim mới hiểu ra chương trình bình dân học vụ ở Bắc lộ bị thất bại vì người dân ở đây phải lo sinh kế là chính. Khi cái bụng không no thì làm sao cái đầu có thể học nỗi. Lại còn cái nạn không có đủ dầu đốt ! Bên trong mọi người bắt đầu ngừng hát để chơi lô tô. Thằng Bé ba kêu lô tô giọng giòn ran như mấy ông bán hàng rao ngoài chợ. Kim và Bảy vào trong. Dì ba còn thức để canh nồi bánh. Chị năm, Hạnh và Lựu dọn cháo lòng mời mọi người. Ăn xong, Kim và hai bạn vào phòng trong chuyên trò với Lựu và hai cô em họ, rồi nàng đặt lưng xuống giường ngủ thiếp lúc nào không hay. Khuya sớm bọn đàn bà con gái thức dậy lo nấu nướng đãi khách. Ðến sáng ra thì xuồng ghe đã đậu ngoài bến tấp nập, tiếng cười nói chào hỏi rộn ràng. Hạnh và Lâm đúng lớp buổi sáng, Kim và Bảy phụ lo sắp bánh và trái cây tráng miệng cho khách, còn Mạnh thì phụ tiếp khách ở nhà trên. Khách ngồi chen chúc làm thành hai hàng dọc trên mỗi bộ ngựa và bàn khách. Một cái bàn tròn và một chục ghế đẩu mới mượn được ở đâu đó để đãi khách, cũng nhen vào được một khoảng ở phía trước. Kim đã từng dự vài đám giỗ ở vùng này nên nàng biết thức ăn để đãi ở đây thường là nhất định phải có món gà nấu khóm, thịt kho tàu, canh chua,... và một giạ bún mà Lựu đã bơi xuồng đi lấy từ sáng sớm. Không biết ai đó đã làm món cơm rượu nếp than mà Kim thích nhất. Vùng này nổi tiếng về nếp than, và gạo nhum nấu cháo ăn thơm và béo đặc biệt. Mọi người ăn uống thật tình no say; nhất là bàn mấy ông, khi hơi men bốc lên đỏ mặt rồi thì nói cười như vỡ chợ. Ðám con nít cũng được dịp ăn uống no nê rồi chạy giởn cùng sân, hay vào ra rộn ràng. Cái đàm giỗ để tưởng nhớ đến người đã khuất, nhưng cũng là dịp để người ta hội họp chia sẽ vui buồn, và ăn nhâu thả dàn. ! Kim nghĩ ít ra người dân ở đây phải có những ngày hội tụ như vậy thì mới vui mà sống. nỗi ở đời.Kim đã từng sống ở Sài Gòn, nơi mà mọi người đều cố gắng cho cuộc sống của mình mỗi ngày một cao hơn, đầy đủ hơn. Sau tháng tư năm bảy lăm, đời sống người dân ở Sài Gòn gặp nhiều khó khăn, song họ không ngừng lèo lách để lấy lại phong cách thị thành..Ngược lại nơi này cuộc sống quá dơn sơ, quá thấp ! Nơi này như tách biệt với thế giới bên ngoài. Người dân ở đây không biết đến những cuộc trốn thoát ra nước ngoài âm thầm nhưng lôi cuốn cả nước. Lo ăn lo mặc đến nhọc lòng, họ quên hay cố quên họ đã từng được hứa hẹn một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc và tươi sáng. Chính mơ ước đó đã giúp họ hy sinh rất nhiều cho chế độ mới, nhưng rồi họ bị phản bội.! Những người đã sống bám vào họ nay có một cuộc đời quá đầy đủ ân sủng và hào quang của đảng, còn họ cũng như đa số nông dân của đất nước, là thành phần chính đã tạo cơm ăn cho mọi người vẫn sống trong nghèo khổ và tăm tối_ Khoảng cách quá lớn giữa tầng lớp cán bộ và nông dân, giữa thành thị và nông thôn.!!! Sự thiếu thốn chất liệu văn hóa trong đời sống ở nông thôn đã tạo nên những mắc xích thất bại cho bản thân và gia đình nông dân. Và thứ giáo dục mà Kim và các bạn mang đến những người trẻ ở đây không giúp thay đổi cuộc sống của họ ở một múc độ nhỏ hẹp và cần thiết nhất. Người dân quê sống nhờ vào ruộng vườn nhưng chỉ biết ruộng vườn qua những kinh nghiệm thô sơ, họ hoàn toàn không có một phương tiện học hỏi, cũng không được hướng dẫn làm ăn, nhưng phải chịu trả thuế nặng nề theo mức qui định. Con nước xoay vào khoảng mười một giờ. Ăn uống xong Kim vội từ giả mọi người để xuống xuồng của một người quen về trường cho kịp giờ dạy buổi chiều. Có thêm một số giáo viên mới về nên Hạnh và Bảy được đổi ra trường Mỹ Quới ở ngay cầu Ông Vẽ. Hai cô dược chị Lành cho ở trọ. Chị Lành khoảng trên ba mươi tuổi, là con di lớn của dì ba, một thương gia giàu có ở Sài Gòn. Chị dan díu với một người đàn ông đã có gia đình, có một con trai nhỏ ba tuổi. Dì ba mua cuộc đất ở gần trường Ông Vẽ cho chị về đấy sống để dứt tình với người đàn ông đó. Chị cho Hạnh và Bảy ở chung cho có bạn. Kim cũng không muốn cô Hảo nặng lo ăn uống cho mình, lại muốn có bạn bè cùng lứa tuổi vui chơi với nhau nên cũng xin chị Lành cho dọn ra ở ngoài ấy. Nhà chị Lành mới cất, rất xinh xắn gọn gàng. Trước nhà là hai công ruộng, phía sau là ba công vườn xoài, bên cạnh nhà là cái ao, nước ra vô thông với mương vườn. Cuộc nhà đất đó lý tưởng cho một cặp vợ chồng son hạnh phúc. Rất tiếc cuộc đời của chị Lành không được như vậy.! Nếu khéo sống thì với cơ ngơi ấy chị Lành có thể sống đắp đổi với bé Tâm, con trai chị. Nhưng có lẽ chị đã quen cảnh đời mua bán bôn chen ở thành phố nên đời sống nơi thôn quê không đủ sức hấp dẫn chị. Chị nhảy ra mua bán gạo lậu_ một mặt hàng đang lên cơn sốt của thị trường bấy giờ. Gạo ở vùng bốn lùi lậu lên Sài Gòn sẽ được giá cao gấp ba. Muốn đem được gạo lên xe phải có giấy xác nhận được phép đem theo đủ ăn một cách hợp lý. Nhà nước lập ra nhiều trạm kiểm soát để bắt gạo lậu. Tại các chợ có ban kinh tế thường trực rình rập để bắt những con buôn gạo lậu. Chị Lành như bị cơn ghiền trong những cuộc ăn thua. Chị thường xuyên vắng nhà. Bọn Kim chia nhau trấn giữ nhà chị. Bảy và Hạnh ngủ trên giường ở nhà trước. Nhà trong có giường của chị Lành thường bỏ trống, và cái divan nhỏ là chỗ của Kim, nằm ngay cửa sau. Cái cửa này ăn thông với nhà bếp, được vừng kín đáo, nhỏ vừa đủ cho một người vào đó nấu nướng, và chỉ có một lối ra ngoài phía phải. Ðến đó ở không lâu Kim và hai bạn biết được sự quan hệ thân thiết giữa chị Lành và anh ba hội trưởng hội phụ huynh của trường Mỹ Qưới. Những khi chị Lành ở nhà, anh ba thường đến chuyện trò vui vẻ thật lâu mới về. Anh vốn nghiêm nghị, khó tính như ônng cụ đối với vợ con ở nhà; song nói chuyện với chị Lành thì trẻ trung, cởi mở như thể được biến thành con người khác vậy . Chị Lành có vóc dáng tròn tria và trắng trẻo hơn vợ anh ba. Những lúc nói chuyện với anh trông chị đẹp hợn, duyên dáng hơn. Chị Lành thường kể cho bọn Kim và anh ba nghe về những người bạn của chị, và những cuộc vui chơi ở Sài Gòn trước kia. Anh ba thường kể thời đi học bên Vĩnh Long, và những mối tình đã trãi qua.... Anh thường dí dỏm gọi những người con gái mới lớn là “ tuổi đào hoa sơ khai “ . Anh ba và chị Lành đúng là một căp tương xứng. Kim và hai bạn vui với cái vui của hai người, tuy không ai nói ra nhưng ai cũng ái ngại nếu tình cảm của họ tiến xa hơn Ra ở nhà chị Lành mỗi lần họp ở Cá Thia là Kim đỡ phải đi bộ. Ðia hình xã Mỹ đức Ðông dài hoằng và phải qua nhiều cầu kỳ kênh rạch nên các trường Bà Năm, Kỳ Ðà và Kênh Lạc ở Bắc lộ ít được ban giám hiệu viếng thăm. Ngược lại các giáo viên ở các điểm này thường tránh những công tác chung ở trường chánh, hoặc khi trường chánh có tổ chức gì các học sinh trường điểm cũng ít tham dự. Khi có một thông báo gì ban giám hiệu cần phổ biến, phải đến ngày thứ hai các trường điểm mới có thể đáp ứng được. Sau này với số lượng giáo viên và học sinh của -------------------- Mmm |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 23rd July 2025 - 06:52 AM |