Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 Trường Xưa Ngày Ấy - Nguyên Hiền ( Cựu Nữ Sinh Gia Long ) - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> Trường Xưa Ngày Ấy - Nguyên Hiền ( Cựu Nữ Sinh Gia Long )
M&N
post Mar 21 2009, 02:09 PM
Post #1


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country



TRƯỜNG XƯA NGÀY ẤY

NGUYÊN HIỀN

PHẦN MỘT


Kim đến trường Mỹ Ðức Ðông vào một ngày mưa dầm. Sau khi nhóm họp, các giáo viên mới ra trường được chia làm ba nhóm đến nhà các anh chị giáo viên ở gần trường để lo ăn uống và nghỉ tạm qua đêm.Kim, Lệ và hai bạn khác cùng đến nhà chị Son.
Trước khi xuống Mỹ Ðức Ðông Kim đã ghé Ba Dừa ở Cai Lậy, quê của Lệ, một người bạn học chung khóa sư phạm cấp tốc, và về cùng một nhiệm sở với nàng. Chiều ở nhà Lệ Kim được uống nước dừa, nước dừa ở Ba Dừa ngọt thanh làm sao ! Nhưng đến khi gần sáng Kim chợt phát lảnh rung cầm cập. Má của Lệ vội xong rượu cho Kim. Bà nói có lẽ vì cơn cảm mạo của nàng chưa dứt mà uống nước dừa nên bị vật. Không biết má của Lệ xông rượu làm sao đó mà Kim cảm thấy hơi nóng bốc lên từ dưới bàn chân, rồi lan dần cả toàn thân. Buổi sáng trước khi Kim và Lệ ra đi, bà còn nhét thêm cho Kim vài viên thuốc cảm, và căn dặn không được ăn cơm. Giờ đây Kim phải nhịn cơm ăn cháo. Khi Kim nấu xong nồi cháo thương hàn với cái trứng gà thì chiều đã sụp xuống. Hai cô giáo mới và Lệ tiếp tục mượn bếp nhà chị Son để lo cơm nước.
Kim chọn một chỗ ngồi ngó ra bờ sông. Con sông Cá Thia rộng gấp ba nhánh sông chảy qua chợ Gò Công, nơi mà khi còn bé Kim đã từng ôm phao đùa với nước. Mưa ngoài trời tầm tả làm xóa mờ bên kia bờ sông thuộc xã Mỹ Lương, tạo cho Kim một nỗi buồn mênh mông. Gió thổi tạt vào tấm bạt chắn ở cửa sổ kêu lật phật, làm buốt giá lòng nàng. Ðây là ngày đầu tiên Kim thật sự bước vào cuộc đời, một cuộc đời do chính nàng chọn lựa. Kim chưa cảm thấy nhớ gia đình vì nàng đã từng xa gia đình thời kỳ học sư phạm ở Mỹ Tho, nhưng nàng thấy lẻ loi, và se thắt tự cõi lòng.
“ Cô lên phía trước ngồi, phía sau này gió lắm. Cháo có bỏ tiêu không, cho ấm ! “
“ Dạ có, cám ơn anh ba ! “
“ Chừng mười phút nữa là họp đứơc rồi ! “
“ Dạ ! ”
Ăn cháo xong, Kim liền bước lên nhà trên theo lời anh ba Nghĩa, hiệu trưởng của trường. Anh cũng yêu cầu các chị trong bếp cho anh vài giây phút để nói thêm đôi điều trước khi từ biệt. Khi Kim bước lên phía trên thì thấy các anh chị giáo viên khác cũng đã tề tựu đầy đủ. Anh Nghĩa giới thiệu một người đẹp ngồi xéo ở một góc bàn.
“ Cô Hồng Nhung_ hiệu phó của trường.! “
Quả cô hiệu phó xứng đáng với cái tên, cô đẹp như một đóa hoa hồng mới nở. Kim thầm nghĩ ở một xã hẻo lánh như thế này có một người đẹp như cô làm hiệu phó thật là hiếm hoi. Buổi sáng Hồng Nhung về phòng giáo dục họp nên đến bây giờ mọi người mới gặp mặt. Chị Son đã đốt ngọn đèn hoa kỳ để ở giữa bàn làm cho căn phòng trở nên ấm cúng. Lệ và Kim cùng ngồi vào bàn với anh Nghĩa và Hồng Nhung, còn các anh chị khác ngồi trên bộ divan đặt ở sát vách. Mọi người lắng nghe anh Nghĩa và Hồng Nhung thay nhau hướng dẫn lối sống và làm việc với người dân ở đây. Anh Nghĩa có nét mặt và vóc dáng của một quân nhân hơn là một ông thầy giáo. Anh được biệt phái về làm hiệu trưởng của trường Mỹ Ðức Ðông vài năm trước ngày ba mươi tháng tư. Thoạt nhìn anh với nét mặt già dăn và hàm râu mép rậm rạp rất dễ làm khiếp vía học trò. Tuy nhiên khi anh cười để lộ hàm răng rắn chắc đầy khói thuốc_ một nụ cười rất đôn hậu !. Lời ăn tiếng nói của anh rất gọn gảy, chân tình, dễ tạo cảm tình với bất cứ ai. Kim nghĩ nàng sẽ làm việc được với anh. Trước khi chia tay ra về, anh Nghĩa còn nhắc các giáo viên mới ngày mai vào khoảng tám giờ sáng ban giám hiệu sẽ đưa mọi người vào các điểm trường bằng tắc ráng. Anh cũng nói thêm một câu mà hồi sáng anh đã nói trong phiên họp: “ Trường Mỹ Ðức Ðông may mắn có một đội ngủ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình....”. Có lẽ vì quá mệt và cũng nhờ mưa xuống mát trời nên đêm đó Kim ngủ thiệt ngon.
Xã Mỹ Ðức Ðông thuộc huyện Cái Bè, tĩnh Tiền Giang. Ðịa hình xã Mỹ Ðức Ðông ( hay Mỹ Ðông) chạy dài theo nhánh sông Cá Thia, vắt qua quốc lộ bốn (người dân thường gọi tắt là lộ bốn) bởi cầu Mỹ Quới. Cầu Mỹ Qưới coi như là ranh giới của Bắc lộ và Nam lộ. Bắc lộ gồm các điểm trường Bà Năm, Kỳ Ðà và Kênh Lạc. Nam lộ gồm có điểm trường Mỹ Qưới nằm ngay chân cầu, ba bốn điểm trường khác nằm sọc theo dòng sông, và trường chánh nằm ngay chợ Cá Thia. Kỳ Ðà là điểm trường cuối cùng thuộc vùng hẻo lánh của xã. Ðiểm trường Bà Năm mà anh Nghĩa chỉ định Kim và Lệ về công tác cách quốc lộ chừng tám trăm mét.

Buổi sáng sau khi ăn qua loa mọi người xuống tắc ráng. Ðến bấy giờ Kim mới tĩnh táo để biết rằng ngoài nàng và Lệ còn có tám giáo viên khác về Mỹ Ðức Ðông, ba nam năm nữ. Ðến bến đò mọi người dẳ thấy hai chiếc tắc ráng đã đậu sẵn. Anh Nghĩa chỉ cả bọn xuống chiếc neo sát cầu nước. Có lẽ đám giáo viên mới ai cũng như Kim chưa hề quen đi xuồng hay tắc ráng nên khi vài người trong bọn vừa bước xuống chiếc tắc ráng chòng chành như muốn nghiêng về một bên, anh Nghĩa phải yêu cầu ngồi yên. Chiếc tắc ráng dài hoằng giống như thân con cá kìm, có mui che mưa nắng, chở được khá nhiều hành khách. Hôm nay cô hiệu phó Hồng Nhung ở lại trường, chỉ có anh Nghĩa và chị Chi trưởng ban đời sống cùng đi với các giáo viên mới.
Chiếc tắc ráng từ từ rời bến chạy với một tốc độ vừa phải. Nắng bắt đầu lên, phong cảnh hai bên bờ trở nên rạng rỡ. Kim chọn một chỗ ngồi thuận tiện có thể xoai lưng ra ngoài để vừa ngắm cảnh, vừa lắng nghe được mọi người trò chuyện. Con sông dài ngoằn ngèo như một con rắn khổng lồ. Hai bên bờ là rừng cây, nào xoài, ổi, cóc,...chen chúc. Có những cây xoài, cây dừa thân cong vòng de mình ra dòng sông, che mát cho những chiếc xuồng neo tại đó. Mỗi bên bờ có một lối mòn uốn khúc theo dòng sông, khi bị mất khuất trong cỏ tranh, khi bị ngắt đoạn bởi chiếc cầu khỉ nho nhỏ. Ðây là vùng nước ngọt Tiền Giang lắm trái ngọt cây lành. Kim cảm thấy mát mẻ và thích thú với sông nước hữu tình nơi này.
Anh ba Nghĩa cười nói huyên thuyên. Anh nói về các điểm trường, pha lẫn những câu khôi hài, có lẽ để xóa đi nét u sầu, lo lắng của các cô giáo mới. Các điểm trường lần lượt được mọi người dến thăm viếng. Chị Chị cũng không quên gửi gạo và nhu yếu phẩm cho các giáo viên ở các điểm trường. Nhiều điểm trường mới được cất do nhu cầu của học sinh gia tăng, hầu hết là một phòng, ván lá ọp ẹp, bàn ghế được đóng sơ sài. Vùng đất này trù phú, song người dân chỉ được thật sự an tâm làm ăn sau ngày ba mươi tháng tư khi tiếng súng đã ngưng hẳn, chỉ có trường chánh Cá Thia và trường Mỹ Quới được cất từ lâu là coi tạm được mà thôi.

Chiếc tắc ráng chạy qua cầu Ông Vẽ. Kim đoán từ Cá Thia ra đến cầu này phải trên một cây số. Nhà cửa bên Bắc lộ trông thưa thớt hơn. Theo lời anh Nghĩa từ vùng này trở vào trong ruộng nhiều hơn vườn. Trên đường đến trường Bà Năm có những dãy vườn mận, ổi, xoài xen nhau ...Kim thích thú bấm tay Lệ nói : “ Trời nắng đi dạy có mận ăn thích ghê, Lệ nhỉ ! “. Có những hàng dừa soi bóng xuống dòng sông. Kim tưởng tượng sẽ có lúc ngồi trên thân dừa thẩn thờ ngắm trời mây sông nước. Anh ba Nghĩa yêu cầu tắc ráng đổ lại nhà bác sáu Ban, ông trưởng ấp ở đây để giới thiệu Kim và Lệ về dạy điểm Bà Năm. Sau vài câu giới thiệu, thăm hỏi, và gửi gấm Kim và Lệ sẽ ở trọ nhà bác sáu Ban, anh Nghĩa yêu cầu bác tài chạy sang trường Bà Năm trước, anh sẽ dẫn các giáo viêni đi bộ đến sau
“ Cô Kim coi chừng đi cẩn thận nha, tôi nghĩ cô không quen đi cầu tre.’Cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó đi...’ !”
Anh Nghĩa vừa nói vừa chỉ chiếc cầu tre trước mặt, chênh vênh trên con rạch Bà Năm. Kim than thầm trong lòng nhưng ngại lên tiếng. Chiếc cầu đã cao lại dài, được chấp nối lỏng lẻo, rung lên theo từng bước chân đi. Kim vội lột dép ra cầm một tay, còn tay kia vịn thân tre lần dò từng bước mà đi. Ngay cả tay vịn chỉ có thể giúp cho người qua cầu có thể an tâm mà gĩu được thăng băng chớ thật sự không thể tựa vào được vì cũng quá lỏng lẻo Kim thầm nghĩ nếu một mai nàng đi qua cầu này mà bị rớt xuống thì tệ hại vô cùng. Qua khỏi cầu, đặt chân lên mặt đất rồi Kim mới hoàn hồn.
Trường Bà Năm nằm trên một voi đất. Trước mặt trường là ngã ba nơi gặp gỡ của nhánh sông Cá Thia và con rạch Bà Năm; từ đó hai dòng nước họp lại thành một con sông lớn đổ vào Kỳ Ðà. Mặt sau của trường là ruộng lúa mênh mông. Cũng như những trường mới cất ở đây, trường Bà Năm chỉ có một phòng rất ọp ẹp. Sân trước cho học sinh nô đùa nằm trên đường người dân ở đây qua lại, cũng chen được một cột cờ ở giữa, khẳng khiu chịu đựng cùng mưa gió. Bên cạnh trường, cách vài bước là cái quán nhỏ xíu, treo lủng lẳng bánh kẹo ở phía trước. Nhìn qua cánh đồng, xa xa vài căn nhà rải rác, ẩn khuất trong đám cây xanh um.
Vừa dến trường Lệ và Kim vội bước vào lớp dể quan sát. Anh Nghĩa cũng theo sau nói cười rổn rảng:
“ Sao, hai cô có yên tâm công tác nơi này không ? “
Kim và Lệ lặng nhìn những dãy bàn ghế thô sơ, sần sùi, đầy đắp vá, cùng mĩm cười và lí nhí trả lời anh Nghĩa:
“ Dạ được anh ! “
“ Thôi xuống tắc ráng đi các anh chị, để vô Kỳ Ðà còn kịp con nước ! “
Nghe tiếng anh Nghĩa hối thúc Kim và các ban vội vào khoang ngồi Anh Nghĩa đứng trên bờ từ biệt gia đình chị ba Phích, chị chủ quán,. Bác tài đã sẵn sàng cho ghe rời trường Bà Năm. Từ nơi này vào Kỳ Ðà là ruộng bạt ngàn; tuy vậy, cũng có một vài khu vườn ổi mới lên liếp. Dọc theo hai bờ sông, càng vào trong càng có nhiều điên điển, bần, bằng lăng, và dừa lá. Ðến Kỳ Ðà thì dòng sông trở nên hẹp lại. Nhà cửa hai bên sông thưa thớt. Cảnh trí buồn tẻ và hoang vắng quá !.Gió đồng thổi lồng lộng. Vài tiếng chim kêu lạc loài...khiến bốn giáo viên mới vào đây không khỏi ủ ê mày mặt.
Tắc rang vừa cặp bến mọi người vội bước lên bờ. Người không ngớt chắc hít than thở là Nguyễn văn Mạnh. Mạnh và Lý thị Bảy ở Gò Công, cùng quê với Kim; chưa ai đã từng biết bơi xuồng, hay quen đi cầu tre lắc lẻo. Các giáo viên mói ngơ ngác trước một ngôi trường cheo leo, xung quanh chỉ toàn là sông rạch và ruộng lúa mênh mông. Cũng như lần trước, anh Nghĩa dẫn mọi người đến nhà dì ba Nhân để gửi gấm các giáo viên mới. Nhà dì ba Nhân ở sát một bên trường, còn bên kia giáp với đám dừa lá. Trường ở đây có hai phòng, cũng vách lá sơ sài. Giáo viên đang công tác là một cặp mới hứa hôn, sẽ ra trường chánh Cá Thia để nhường lớp lại cho các giáo viên mới ra trường năm nay. Năm rồi ở đây có ba lớp, hai giáo viên. Năm nay bốn lớp, bốn giáo viên mới, đó là Lý thị Bảy, Nguyễn văn Mạnh, Nguyễn Ngọc Hạnh và Trần Duy Lâm. Lý thị Bảy là người mà Kim chú ý nhất. Trên tắc ráng cô ngồi đối diện với Kim; Kim nghĩ nàng không dễ quên đôi mắt đẹp u buồn, có một bớt ruồi trong tròng mắt bên trái của cô _đó là dấu hiệu buồn khổ vì tình duyên (?) Khuôn mặt cô buồn rười rượi, cô ngồi co ro như con mèo ướt. Làn da trắng trẻo và lối ăn diện của cô cho Kim thấy cô khó thich ứng nơi này. Hai cô Bảy và Hạnh trông buồn bả và chán nãn ra mặt. Lâm và Mạnh vào trong xem xét phòng ốc và bàn ghế, rồi trở ra cười méo mó, không nói tiếng nào.
Dì ba Nhân ở đây đã từng giúp đỡ giáo viên, rất ân cần với mọi người, nhưng rồi mọi người cũng không thể nấn ná lâu hơn. Kim và các bạn xuống tắc ráng. để lại bốn giáo viên mới và hành lý của họ. Hai cô giáo mới Bảy và Hạnh bịn rịn tiễn đưa không dằn được nước mắt_ giống như một đám cưới, lúc đàn gái ra về để cô dâu ở lại nhà chồng vậy. Tắc ráng quay trở ra đến trường Bà Năm thì đã quá trưa. Bước lên nhà bác sáu Ban là Kim cảm thấy mệt nên đi nằm một lát.
Nhà bác sáu Ban rất sạch sẽ và khang trang. Qua câu chuyện thăm hỏi Kim được biết nhà bác sáu được sửa lại sau ngày ba mươi tháng tư. Nền được đôn lên cao để tránh nước tràn vào nhà vào mùa nước nổi. Nền nhà được lót gạch tàu còn mới. Cũng như những căn nhà ở vùng này, vách nhà bác sáu được làm bằng nan tre,bên trong nhà ngó ra ngoài rất rõ, nhưng ở ngoài không dễ gì nhìn lọt vào bên trong nếu không đứng sát vách ngó vào. Mái nhà lại được lợp lá chằm nên mát mẻ vô cùng. Nhà trên có hai bô ván ngựa ở sát hai bên vách; bàn thờ và một cái bàn khách hột xoài nằm ở giữa. Nhà trong có một lẩm lúa cao ngất, cái giường và một cái tủ đứng. Căn nhà bếp nối liền nhà trên, ngăn cách nhau bởi một tấm vách. Nhà bếp không có cửa, chỉ làm che đủ cho dàn bếp, và một bộ vạt để ngồi ăn cơm. Dàn bếp được cất cao, xung quanh treo lủ khủ xon nồi ơ chảo. Trong nhà bếp này đặc biệt có một cái cối đá mà bác gái cứ phải bận bịu xay mỗi lần một cối gạo đầy thành một thứ sữa bột cho con hẻo nái sồ sề nằm trên vũng sình phía sau hè. Con heo nái nhà bác sáu mỗi ngày uống ba cữ nước bột như vậy làm cho nó mâp ú.
Hai bác không có con, nuôi một đứa cháu gái_ Cúc , tên đứa cháu của hai bác, thường đi làm vần công với bạn bè đến chiều tối mới về. Bác trai khoảng sáu mươi, trung người, còn gân cốt, rất ít nói, thường ngồi nhấp nháp trà ở bàn khách nhà trên. Bác gái có lẽ cùng khoảng tuổi bác trai, người gầy gò nhưng mạnh khỏe, làm việc lanh lẹ. Căn nhà bác sáu vì vậy ít tiếng cười, tiếng nói.

Buổi chiều Kim ra bờ sông.Nhìn dòng sông chảy lờ lửng Kim nhớ đến bài “Chiều Trên Sông” của nhạc sỹ Phạm Duy: “ Chiều buông trên dòng sông Cửu Long....Có khi buông lửng lơ, có khi tuôn sầu u....” Kim nghĩ có lẽ nhạc sỹ Phạm Duy cũng đã từng nhìn dòng sông như nàng. Ôi con sông miền Nam hiền hòa làm sao ! Kim là người miền Nam mà đến bây giờ nàng mới thấy cái đẹp của dòng sông như các nhạc sỹ thường ca ngợi. Nhìn dòng sông tâm hồn Kim trở nên thanh thản, bình lặng như mặt nước, tạm quên đi những lo lắng, buồn phiền....
“ Ngày mai Lệ về Cai Lậy, Kim đứng lớp cho Lệ được không ? “
Kim quay lưng lại:
“ Ngồi xuống một lát đi Lệ, chuyện đó được mà ! “
Lệ ngồi xuống cạnh Kim.
“ Ơ đây còn nghe tiếng xe ngoài lộ bốn, ở Kỳ Ðà buồn quá Kim hả ? “
Kim vẫn dõi mắt nhìn theo đám lục bình trôi lềnh bềnh trên sông. Thỉnh thoảng vài chiếc xuồng bé tẻo teo xuôi theo dòng nhẹ tênh lã lướt. Giờ này con nước bắt đầu lên, gió cũng lên theo, làm gợn sóng vỗ vào bờ nhè nhẹ như an ủi, vỗ về...
“ Về chừng nào trở lại Lệ ? “
“ Chỉ lấy đồ đạc cần dùng, châm lắm là ba ngày. “
“ Cuối tuần này tôi về, nếu thứ hai lên không kip nhờ Lệ đứng lớp giùm. “
Lệ gật đầu đồng ý. Lệ học cùng lớp với Kim ở sư phạm, lại cùng chung một tổ học tập nên khá thân tình. Lê mới lớn, yêu phải môt anh chàng có vợ học cùng lớp. Lệ buồn vụ này nên từ chối về Cai Lậy mà theo Kim về công tác ở Cái Bè, hay có ý muốn gặp lại người yêu vì anh ấy về dạy ở quê nhà An Hữu cách đây không xa (?)
“ Ngày mai chị Vân ra Cá Thia rồi, Kim ở lai môt mình tội nghiệp quá! “
Lệ vừa nói vừa cười mơn như để an ũi Kim. Kim ngó vào nhà bác sáu Ban đã lên đèn, chị Vân đang cặm cụi viết sổ sách nơi bàn khách. Chi Vân là giáo viên hai năm rồi dạy tại điểm trường Bà Năm, phụ trách hai lớp. Năm nay mở ba lớp, chị Vân đứng lớp ba, Kim lớp hai và Lê lớp một. Con nước lớn rất nhanh, chạy ngâp gần hết chiếc cầu nước bằng sắt của Mỹ thời chiến tranh. Bóng tối lan dần, gió thổi lạnh hơn, mặt sông trở nên huyền ảo, xung quanh cây cối trở nên ma quái.... Kim rùng mình, cùng Lệ bước vào nhà.
Hôm Kim đưa Lệ ra xe găp người bà con của Lệ làm ở phòng giáo dục Cai Lậy. Chị theo lời yêu cầu của gia đình Lệ xuồng Mỹ Ðức Ðông để kêu Lệ phải trở về làm việc ở Cai Lậy. Và Lệ phải theo chị trở về ngay ngày ấy. Chị Vân phải ra trường chánh do yêu cầu dạy Anh văn cho cấp hai, một mình Kim phải coi ba lớp. Kim mệt nhoài và khàn tiếng mà chẳng than vản được với ai. Có lẽ cũng hiểu được sự khó khăn đó, vài ngày sau anh Nghĩa xuất hiện báo cho Kim biết sẽ có hai giáo viên đổi về điểm trường Bà Năm. Kim sẽ phụ trách lớp hai, hai mươi lăm em. Cô Ý từ Hòa Khánh về sẽ phụ trách lớp ba, và cô Hảo từ Sài Gòn về sẽ phụ trách lớp một.

Những năm đầu sau khi miền Nam bị tiếp thu, người từ Sài Gòn và nhũng thành phố khác lần lượt kéo nhau về quê xây dưng đòi sống mới. Gia đình Kim cũng như gia đình cô sáu Hảo nằm trong hoàn cảnh đó. Sài Gòn lúc này ăn độn bảy mươi lăm phần trăm. Cô sáu Hảo để lại hai người con gái lớn ở lại Sài Gòn sống bên ngoại để tự xoay trở. Còn cô, người chồng hưu trí, và ba con nhỏ về quê đùm bọc nhau. Cô mua ba công vườn của bác sáu Ban. Sau khi nhờ người quen thỏa thuận giá cả, gia đình cô rút gọn về đây. Nhìn đồ đạc của gia đình cô bày ngổn ngang trước sân nhà bác sáu Ban, Kim có thể đoán gia đình cô trước đây có cuộc sống kha khá. Căn nhà cô sáu Hảo được dựng lên cấp tốc, sơ sài như một túp lều lý tưởng ngay cạnh nhà bác sáu Ban. Những lúc nhàn rỗi Kim chỉ thích đến ngồi trước sân nhà cô nhìn dòng song lững lờ trôi……




--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
M&N
post Mar 21 2009, 02:13 PM
Post #2


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country



Học kỳ một qua nhanh chóng.thời tiết bắt đầu se lạnh, khô ráo. Vào buổi chiều, nhìn những tia nắng ong vàng còn thoi thóp trên đồng lúa, gió hây hây thổi...làm Kim nhớ đến Tết.
Phiên họp sau học kỳ một rất quan trọng: bình bầu công đoàn, bầu giáo viên gặp khó khăn cần trợ cấp, và văn nghệ Tết.
Năm nay ngoài số giáo viên mới ra trường còn có một cô từ miền Bắc về_ chị Ðào. Chồng chị Ðào là người miền Nam tập kết ra Bắc, anh bị phỏng rất nặng vì pháo B 52. Chị Ðào mang chồng và hai con nhỏ về sống bên quê hương nhà chồng, và chị ký thác đời chị ở nơi này với người chồng đau khổ đó! Những phút giây bở ngỡ đầu tiên qua nhanh, Kim và các bạn xúm quanh chị nghe kể chuyện ngoài miền Bắc, chia sẻ nỗi đau khổ vói nhau....Và tất cả thống nhất bầu chị làm công đoàn trưởng.
Có lần Kim và các bạn đến thăm gia đình chị Ðào, nhìn thấy anh mà lòng Kim đau xót. Chắc hẳn anh đã từng bị nhiều đau nhức khủng khiếp lắm. Hình hài anh không còn ra gì nữa, xương da bị co quắp lại ! Khuôn mặt anh bị móp méo ghê khiếp, nhưng đôi mắt vẫn còn được linh động. Ngay cả giọng nói của anh cũng không được rõ, cứ như phải lập cà lập cập mới nói được một tiếng (!)
Từ nhà chị Ðào, bên kia sônng, xa xa là nhà chị tư Niệm. Chồng chị mất tích trong chiến tranh, để lại chị phải nuôi ba đúa con nhỏ và một cha già. “ Tư khổ lắm !!!....” Chị vẫn thường than như vậy với các bạn đồng nghiệp !. Mỗi khi có dịp đi xuồng ngang qua nhà chị, Kim và các bạn thường gọi hỏi thăm : “ Tư ơi Tư, khỏe không Tư ???...”.
Ngoài trường chánh có anh Cung bị pháo cắt đi một chân trong chiến tranh. Anh có đôi mắt sâu và buồn, vẫn làm tốt công việc tài vụ cho trường. Nhà trường lúc nào cũng ân cần giúp đỡ anh, và đời anh thật may mắn có một người vợ tốt và cũng là đồng nghiệp, lúc nào cũng yêu thương anh.
Chiến tranh đã qua nhưng đau khổ vẫn còn Tuy vậy, nhũng con người đau khổ đó vẫn phải sống theo nhịp sống của cuộc đời.

So với những anh chị đã lập gia đình, đám giáo viên mới như chim mới rời tổ, rất là “ trẻ, khỏe, nhiệt tình “ như anh Nghĩa đã nói. Chị Châu mói về đã lảnh chức trưởng ban văn nghệ, và tổ chức văn nghệ mừng Tết ngay năm đầu tiên.
Văn nghệ là một điều rất hấp dẫn đối với hoc trò, nhất là học trò ở Bắc lộ, sống trong chiến tranh và nghèo khổ, chỉ có thể ca theo radio vài câu vọng cổ là vui vẻ lắm rồi. Lóp học của Kim có môt giờ cho ca nhạc vào cuối tuần. Hầu như không bao giờ Kim bỏ giờ này, dù cho buồn bực hay mệt mõi. Thầy ca trước, trò ca sau, rất hăng hái Kim tập học trò ca khá nhiều bài, qua đó rèn luyện lối phát âm, văn từ và phát triển cảm xúc. Học trò ở đây phát âm rất dở chữ r và tr. Chữ “rồi “ thì đọc là “gồi ” chữ trong đọc là “chong “
Không phải điểm trường nào cũng tham gia văn nghệ. Ở điểm trường Bà Năm thì đây là lần đầu tiên học trò của Kim được ra trường chánh tham gia văn nghệ, cho nên chúng rất phấn khích và xôn xao tập dợt. Văn nghê năm đó lớp Kim vũ bài “ Ðồng Lúa Reo “ Bài ca nói về sự vui sướng của người nông dân khi được mùa, bù lại bao công lao khó nhọc. Kim chọn năm em trai vũ điệu đập bồ, còn năm em gái thì cắt lúa, và bé Lan con cô sáu Hảo ca cho các em vũ. Có lần tập văn nghệ, bé Tư không thể tham dự được vì phải trông em, nó cũng ráng ẳm em bé đúng lấp ló bên ngoài ngó vào lớp. Thấy vậy Kim phải gọi vào, vừa ẳm em thế cho nó, vừa gõ nhịp cho học trò vũ.
Ngày tổ chức văn nghệ học trò mặc quần áo mới xum xuê đi với cô Ý, cô Hảo và Kim ra trường chánh. Nhìn chúng hớn hở nói cưỏi như đàn chim non lòng Kim cảm thấy vui lây. Ðêm văn nghệ thầy trò Kim rực rỡ trình diễn trước sân khấu, được tán thưởng nồng nhiệt Ðêm đó học trò ngủ lại trường. Sáng hôm sau Kim đưa chúng sang sông, và nhờ cô sáu Hảo và cô Ý đưa về trường. Kim ở lại trường chánh chơi thêm một ngày, đi vườn mua trái cây rồi về quê ăn Tết.

Qua Tết con nước ở đây cạn dần. Con rạch Bà Năm vào những lúc nước ròng chỉ còn là một rảnh nước nhỏ. Bấy giò học trò đi học phải lội qua nhũng con rạch cạn; có chỗ phải chờ con nước lớn lên mới có thể đi xuồng qua bên kia bờ để đến trường. Do hoàn cảnh như vậy việc giở giấc phải rất uyển chuyển. Họcsinh vào lớp có thể sớm hơn hay trể hơn qui đinh là chuyện thường ở đây, và đôi khi giáo viên phải bỏ bớt một hai môn phụ nào đó.

Mùa nước cạn cũng là mùa người ta mò hến. Con hến nhỏ xíu không mấy có thịt, nhưng biết cách làm lấy thịt nấu cháo hay nấu canh ăn rất ngọt. Lúc này cũng là lúc trái cây ở đây rộ như mận, xoài, ổi, sầu riêng , mít, chôm chôm
Bấy giờ những đoàn chiếu phim bắt đầu về chiếu ở trường cầu Ông Vẽ, hoặc chợ Mỹ đức Tây. Người trong Kỳ Ðà, Kênh Lạc, hay gần trường Bà Năm có thể đi bộ ra xem. Những phim được chiếu thường là phim của các nước Ðông Âu như phim Trên Từng Cây Số, Người Cà, hay phim chiến tranh Việt Nam như Mùa Gió Chướng, Cánh Ðồng Hoang... Ðến khuya mọi người ra về đi ngang qua trường Bà Năm cười nói huyên thuyên. Có khi ai đó nói vói vào cho Kim nghe “Chị chín ơi ! Chị còn thức hả chị chín ? “ “ Cô giáo chắc chưa ngủ ? “ Nhìn ra ngoài, Kim thấy vài bó đuốc chập chờn. Nơi này người ta dùng lá dừa khô quấn lại để làm đuốc, đi một đổi phải phất phất cho lửa bắt cháy tiếp. Kim đã từng tập đi đuốc nhưng không bao giờ được cả.

Bấy giờ cũng là mùa thủy lợi. Từng đoàn người mang cuốc xẻn lầm lũi đi ngang qua trường. Có lần vài thanh niên đứng bên ngoài ngó vào lớp, Kim nghe loáng thoáng “ Cô giáo trẻ quá, chắc vài hôm nữa tôi xin vào học ”. Nguyễn văn Lưu lớp phó của Kim làm bộ ho, nhưng cuối cùng Kim nghe là “ be he....he...”. Kim phải vờ làm rớt cây viết và cuối xuống lượm để dấu miệng cười cái lém lĩnh của thằng bé.

Kim có thói quen đọc sách trước khi ngủ. Một hôm đọc sách đến lúc muốn thiu thiu ngủ thì Kim nghe tiếng của một người thanh niên gọi nàng: “ Kim ơi ! Kim ! “. Kim đoán có lẽ người thanh niên đó đã ngó qua lỗ hổng ở ổ khóa, và biết nàng còn thức. Kim bật ngồi dậy đến bên cửa hỏi vọng ra:
“ Anh là ai ? Ðến kiếm tôi có chuyện gì giờ này ??? “
Người thanh niên nói nhanh, giọng trầm ấm:
“ Kim, Kim không nhớ tôi sao ? Hồi chiều đi ngang qua lớp...tôi chào Kim đó ! “
Kim nhớ lại gần cuối giờ có hai thanh niên đi ngang qua lớp học. Người đi bên trong vóc dáng trung trung, nước da ngâm ngâm, mặc áo sọc, mĩm cười chào Kim mà nàng không biết là ai.
“ Tôi gặp Kim vài lần trên đường từ cầu Mỹ Hưng vào trong này. Có lần tôi đã dẫn Kim qua những chiếc cầu....”
Nhớ lại thời gian đầu tiên đến đây Kim chỉ biết đi ngã cầu Mỹ Hưng. Ngã này đi dọc theo con rạch Bà Năm phải qua rất nhiều cầu kỳ nhỏ xíu và lắc lẻo. Lúc đó Kim đi chưa quen nên nhiều khi phải đứng chờ người nắm tay đưa qua cầu. Nhưng làm sao Kim nhớ nàng đã nhờ ai, khi tâm tư nàng chưa được ổn định vì cảnh lạ đường xa. Nhưng dẩu gì thì cái việc một nam một nữ nói chuyện giữa đêm khuya khoắc như thế này không thuận cho Kim chút nào !
“ Anh ơi ! Sao anh không đến gặp tôi giữa ban ngày ? Anh biết đó, đời sống của tôi ở đây luôn luôn có học sinh và phụ huynh dòm ngó, anh thông cảm cho tôi !!! “
“ Tôi hiểu ! Xin lỗi Kim , nhưng ngày mai tôi phải đi xa....!!! Ban ngày có học trò vây quanh Kim nên tôi khó nói lắm !....Tôi đến để từ giả Kim.Tôi không biết cuộc đời tôi trong tương lai có như ý hay không, nhưng phải nói....những ngày qua, mỗi lần đi ngang qua đây thấy Kim là lòng tôi vui. Thôi Kim trở vào ngủ đi ! Chúc Kim vui vẻ ! “
“ Chúc anh đi bình an ! “
Kim nhìn anh đi khuất trong bóng đêm rồi trở lại vặn nhỏ cây đèn, leo lên vạt ngủ thiếp lúc nào không hay.
Một tuần lễ sau Kim nghe có một chuyến ra đi. Vùng này hầu như không ai nghĩ đến chuyện vượt biên. Gia đình ra đi là người Sài Gòn về đây tạm sống qua ngày để chờ cơ hội. Kim không biết người thanh niên dêm ấy có đi chuyến vượt biên đó hay không.. Nhưng cũng từ ngày ấy Kim không bao giờ gặp lại anh nữa . Kim cũng đổi hướng đi ra quốc lộ bốn bằng ngã cầu Ông Vẽ. Từ trường đi dọc thae nhánh sông Cá Thia ra đến cầu Ông Vẽ ngoài quốc lộ bốn chỉ qua hai ba chiếc cầu gòn.

Về quê nghỉ hè không đầy hai tháng Kim phải trở lại trường để học chính trị. Học chính trị được tổ chức từng cụm trường. Kim và các bạn phải về trường Mỹ đức Tây để học chung với các giáo viên trường khác như Mỹ Lợi, Mỹ Lương và An Thái Ðông..
Ở quê lên Kim thấy trường sở thật hư hại, vách lá bị long ra, bàn ghế bị xiêu vẹo ! Vách ngăn chỗ Kim ở và lớp học bị xé toạt một lỗ lớn ! Ai đã vào chỗ Kim ở để lục phá đồ đạc ??? Thật ra những gì Kim để lại đây có mất cũng chẳng hề gì, nhưng sự việc xảy ra như vậy không làm cho Kim an tâm ở đó nữa.
Trước khi về quê Kim đã đến bác sáu Ban, là trưởng ấp ở đây, và chị ba Phích ở kế bên để nhờ trông coi trường sở. Trường sở ở đây thành lập sau ngày ba mươi tháng tư là do người dân hoàn toàn đóng góp. Tuy nhiên tinh thần bảo vệ của công ở đây còn thấp kém, ngay cả học sinh có đứa cũng không ý thức điều này dù rằng cô giáo vẫn thường nhắc nhở.

Một người có tiếng nói quan trọng ở đây là bác ba Hớn. Ông là một trong nhũng người đã sống và cam chịu ở đất này từ thời chiến tranh. Con trai bác đã hy sinh cho chế độ mới, để lại bác những đứa cháu còn nhỏ phải nuôi dưỡng. Trường sở và cầu kỳ ở đây đều cậy nhờ vào tay bác. Kim phải đến trình bày cho bác ba biết tự sự và quyết định của nàng sang nhà cô sáu Hảo ăn ở luôn nơi ấy. Bác ba định gần tựu trường nửa tháng sẽ mượn thêm anh hội trưởng hội phụ huynh ở đây cùng bác tu sửa lại trường. Cô Ý, cô Hảo và Kim cũng sẽ có mặt khi ấy.

Năm này bác ba trông già hơn, dù vậy ông vẫn còn khỏe và miệng còn nhai trầu. Cá nhân Kim rất quí mến bác dù ít có dịp tiếp xúc với ông. Bác là một mẫu người nông dân nhiệt tình, yêu quê hương dù trong một tầm nhìn hạn hẹp do hoàn cảnh đời sống của bác.Vóc dáng bác to lớn, giọng nói của bác lúc nào cũng sang sảng khẳng khái.Tuy là một gia đình liệt sĩ, bác không vì vậy mà bảo vệ sự sai trái của chính quyền bấy giờ. Bác hầu như chẳng màng sự khen chê. Bác sống một cách chân thật và rất xây dựng. Chính vì vậy mà bác được sự nể nang của hầu hết mọi người ở đây, ngay cả chính quyền xã ấp. Bác là hình ảnh gần gũi nhất mà Kim muốn học trò ở đây noi theo.

Kim đến sống với gia đình cô sáu Hảo thoải mái gần như trong gia đình của mình. Cô là một người vợ, người mẹ mà Kim nghĩ không ai có thể hơn được trong hoàn cảnh của cô. Cô giả từ cuộc sống ở Sài Gòn về đây móc mương, đấp bờ, làm vườn như mọi người ở đây. Cô đã năm lăm tuổi. Cô nói với Kim là trước đây cô chỉ mong khi được hưu trí ở nhà giăng võng nằm đọc truyện Tàu. Nhưng bây giờ hoàn cảnh đã đổi thay, cô vui với việc chăm sóc vườn tược mỗi ngày. Gia đình của cô ở đây vẫn còn nhiều khó khăn, song cô không màng dựa vào sự giúp đỡ của hai người con gái lớn còn đang làm việc ở Sài Gòn. Ðứa con nhỏ nhất của cô là Lan và anh nó là Ðức còn đang học cấp hai, và Thúy là chị của hai đứa bị tiểu đường đã nghĩ học từ lâu. Nỗi đau khổ lớn nhất của cô là mất đi một người con trai trưởng vì bị tiểu đường khi đang còn học y khoa. Cô biết Thúy cũng đang trên đường đi đến cái chết một ngày rất gần ! Cô từng nói với Kim “ Chỉ cần mỗi tháng một mũi insulin là Thúy có thể kéo dài sự sống ...“ Từ khi tiền bạc gia đình đã cạn kiệt, đời sống của Thúy bị rút ngắn dần ! Nhìn Thúy Kim không thể tưởng được rằng em đã là một cô gái xinh xắn và thông minh.

Sống với cô sáu Hảo Kim học hỏi được rất nhiều, nhưng việc nấu ăn thì không tài nào Kim khéo được như cô cả. Ăn uống bấy giờ rất đạm bạc, nhiều khi phải ăn như ăn chay vì thiếu thịt cá trầm trọng, nhưng cô nấu ăn rất ngon mà không cần nhiều bột ngọt. Ðến ăn chung với gia đình cô sáu vừa vui vừa được ngon miệng nên Kim bắt đầu lên cân. Kim liền từ chối sự tiếp tế lương thực của gia đình từ khi ấy.

Mùa học chính trị đầu tiên năm ấy chị Vân cũng ra ở chung với gia đình cô sáu Hảo. Kim và chị ngủ chung với nhau trên bộ vạt phía trước. Gia đình chị Vân cũng ở Sài Gòn và mới hồi hương về Gò Công như gia đình Kim. Cô sáu Hảo, Kim và chị Vân cảm thấy gần gũi nhau hơn qua những kỹ niệm sống ở Sài Gòn khi xưa, và thân phận hồi hương ngày hôm nay. Chị Vân nói với Kim: ” Gia đình tao hồi hương hoàn toàn thất bại; sự khó khăn quá mức ! Ruộng xấu mà làm kiểu giao khoán bị lỗ, có vụ chỉ giao trọn đủ số cho nhà nước là mừng rồi. Còn trồng rau cải gặp đụng chợ thì giá rẻ thúi, bỏ công sức ! Cái khó khăn đó không thể nào tự mình giải quyết được nên cứ sống trong nghèo khó lẩn quẩn !!!….”
Kim rất thông cảm với chị Vân. Ở Gò Công bấy giờ làm ruộng giao khoán có nghĩa là chính phủ qui định một công ruộng phải đươc bao nhiêu lúa, phải đóng cho nhà nước bao nhiêu, lời ăn lỗ chịu; nhà nước chỉ bán một số xăng dầu và phân bón theo giá qui định mà thôi, không đủ dùng thì nông dân phải ra chợ đen mua thêm. Những khi ba Kim làm lúa được trúng thì đã phải giao cho nhà nước hết phân nữa, phần còn lại đủ ăn trong năm nhưng tính ra gần như mua gạo ăn, nhưng được cái gạo ngon, và có té ra cám, thóc, hay lúa lép cho gà vịt nuôi trong nhà.Kim tự hỏi những nông dân chỉ sống nhờ vào ruộng lúa thì khi thất mùa làm sao họ sống ? _Những năm làm ruộng giao khoán như vậy nhiều người ở Gò Công đã phải bỏ làng xóm đi làm công ở xứ la quê người !
Cô sáu Hảo cũng nói: “ Chương trình kinh tế mới bị thất bại vì người dân không được giúp đỡ và hướng dẫn, hoặc sự giúp đỡ chiếu lệ. Cũng may gia đình tôi về đây ! Có nhiều người Ở Sài Gòn sợ bị xua đi vùng kinh tế mới lo vội mua đất trồng trặc bị thất bại hoài phải bỏ cuộc, giống như họ đổ tiền vào một cuộc làm ăn vô định vậy. Thay đổi chế độ sẽ có một số người được đổi đời, kẻ lên voi người xuống chó. Ðó là số phận, biết sao bây giờ ! “
Chị Vân sống ở đây trước nên biết ăn bánh xèo lá cách, bông điên điển chấm cá kho; và chị còn dạy Kim ăn rau má sống, nhổ cải trời nấu canh. Kim và chị Vân cùng gia đình cô sáu vui trong đời sống đạm bạc. Những buổi sáng sáng chiều chiều đi bộ học chính trị, nhìn những chuyến xe liên tĩnh ào ào lướt qua trên quốc lộ bốn đưa những con người đi bôn chen trong cuộc sống khó khăn, Kim cảm thấy mình thong dong và bình yên lạ.

Học chính trị chẳng có gì thích thú vì cứ nhai tới nhai lui “ Ðảng ta ...dương cao bốn ngọn cờ....ba dòng thác cách mạng...yêu xã hội chủ nghĩa là yêu nước...”. Lớp học chính trị thường bị bế tắc khi đem chính sách ra đối chiếu với thực trạng cuộc sống. Anh Nghĩa cho thảo luận một cách lấy lệ. Ðây là năm anh phải ra khỏi ngành vì cái gốc quân nhân biệt phái của anh. Anh không buồn bả chi về vụ này, và có lẽ anh đã chuẩn bị cho anh đời sống ruộng vườn ở đâu đó. Bảy và Kim thích kể lại cái thuở ban đầu gặp anh Nghĩa ở phòng giáo dục. Anh bắt gặp Kim và Bảy xì xào và cười lém lĩnh, vội hỏi:
“ Hai đứa nói xấu gì anh đó ? “
Kim thành thật trả lời:
“ Con Bảy kể lại lúc gặp anh ở phòng giáo dục để lảnh tụi em về trường, lúc đó nhìn anh thấy ‘ngầu’ lắm, nên than trong bụng là ‘ Thôi rồi ! Cuộc đời của mình bị sa vào tay tướng cướp ! ‘ “
Anh Nghĩa cười khà khà, để lộ hàm răng đầy khói thuốc.
Ðám giáo viên trẻ coi anh như người anh cả . Những ngày cuối năm tập dợt văn nghệ , sau khi nhâm nhi một ít rượu anh cứ ca hoài một câu “Hôm nay ngày cưới em, kìa hoa hồng kìa xác pháo....”. Kim và các bạn thừa cơ hội bắt anh kể chuyên tình của anh cho nghe. Nhớ đến anh Nghĩa là nhớ đến khẩu hiệu “ Cơm, áo, gạo, tiền “ được đề cập sau khi họp chuyên môn xong.
Năm nay ở trường cần một giáo viên đi học ở trường đoàn về sinh hoạt với học sinh. Anh Nghĩa đề nghị Kim. Anh gọi Kim nói chuyện riêng với nhau:
“ Kim à, cái thời của tụi anh coi như đã qua, bây giờ chỉ trông cậy vào những thế hệ sau..Em nên đi học trường đoàn, vì đó là bước căn bản nếu em muốn cuộc đời em tiến xa hơn…. “
“ Dạ, cám ơn anh ba, nhưng anh cho em một thời gian..Mai em trả lời nha anh ba ! “
Tuy nói là vậy nhưng Kim có linh cảm đời sống của nàng sẽ không an ổn với cái nghề dạy trẻ. Tâm tư Kim thường đối kháng với những điều tai nghe mắt thấy, với chữ nghĩa rỗng tuết và thực tế tệ hại. Mặc dù anh Nghĩa nói vậy nhưng Kim biết rằng trong chế độ đảng trị người không có tuổi đảng không có tiếng nói, chỉ phải tùng phục làm theo chỉ thị mà thôi. Và con đường vào đảng chỉ dành cho những ai có lý lich gia đình trong sáng, hay đã từng tham gia cách mạng mà thôi..Kim quyết định nhanh chóng nhường lại cho Lý thị Bảy khóa học ở trường đoàn. Bảy có giọng hát nhạc thiếu nhi rất hay, và nàng cũng rất nhiệt tình trong công tác.
Thế rồi cũng đi qua mau những ngày học tập chính trị, thảo luận, ca hát, ăn cơm lon guigoz, và trông chờ hàng nhu yếu phẩm.



--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 23rd July 2025 - 06:54 AM