![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Bảo vệ Tổ Quốc ![]() ![]() ![]() Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country ![]() ![]() |
TRƯỜNG XƯA NGÀY ẤY
NGUYÊN HIỀN PHẦN MỘT Kim đến trường Mỹ Ðức Ðông vào một ngày mưa dầm. Sau khi nhóm họp, các giáo viên mới ra trường được chia làm ba nhóm đến nhà các anh chị giáo viên ở gần trường để lo ăn uống và nghỉ tạm qua đêm.Kim, Lệ và hai bạn khác cùng đến nhà chị Son. Trước khi xuống Mỹ Ðức Ðông Kim đã ghé Ba Dừa ở Cai Lậy, quê của Lệ, một người bạn học chung khóa sư phạm cấp tốc, và về cùng một nhiệm sở với nàng. Chiều ở nhà Lệ Kim được uống nước dừa, nước dừa ở Ba Dừa ngọt thanh làm sao ! Nhưng đến khi gần sáng Kim chợt phát lảnh rung cầm cập. Má của Lệ vội xong rượu cho Kim. Bà nói có lẽ vì cơn cảm mạo của nàng chưa dứt mà uống nước dừa nên bị vật. Không biết má của Lệ xông rượu làm sao đó mà Kim cảm thấy hơi nóng bốc lên từ dưới bàn chân, rồi lan dần cả toàn thân. Buổi sáng trước khi Kim và Lệ ra đi, bà còn nhét thêm cho Kim vài viên thuốc cảm, và căn dặn không được ăn cơm. Giờ đây Kim phải nhịn cơm ăn cháo. Khi Kim nấu xong nồi cháo thương hàn với cái trứng gà thì chiều đã sụp xuống. Hai cô giáo mới và Lệ tiếp tục mượn bếp nhà chị Son để lo cơm nước. Kim chọn một chỗ ngồi ngó ra bờ sông. Con sông Cá Thia rộng gấp ba nhánh sông chảy qua chợ Gò Công, nơi mà khi còn bé Kim đã từng ôm phao đùa với nước. Mưa ngoài trời tầm tả làm xóa mờ bên kia bờ sông thuộc xã Mỹ Lương, tạo cho Kim một nỗi buồn mênh mông. Gió thổi tạt vào tấm bạt chắn ở cửa sổ kêu lật phật, làm buốt giá lòng nàng. Ðây là ngày đầu tiên Kim thật sự bước vào cuộc đời, một cuộc đời do chính nàng chọn lựa. Kim chưa cảm thấy nhớ gia đình vì nàng đã từng xa gia đình thời kỳ học sư phạm ở Mỹ Tho, nhưng nàng thấy lẻ loi, và se thắt tự cõi lòng. “ Cô lên phía trước ngồi, phía sau này gió lắm. Cháo có bỏ tiêu không, cho ấm ! “ “ Dạ có, cám ơn anh ba ! “ “ Chừng mười phút nữa là họp đứơc rồi ! “ “ Dạ ! ” Ăn cháo xong, Kim liền bước lên nhà trên theo lời anh ba Nghĩa, hiệu trưởng của trường. Anh cũng yêu cầu các chị trong bếp cho anh vài giây phút để nói thêm đôi điều trước khi từ biệt. Khi Kim bước lên phía trên thì thấy các anh chị giáo viên khác cũng đã tề tựu đầy đủ. Anh Nghĩa giới thiệu một người đẹp ngồi xéo ở một góc bàn. “ Cô Hồng Nhung_ hiệu phó của trường.! “ Quả cô hiệu phó xứng đáng với cái tên, cô đẹp như một đóa hoa hồng mới nở. Kim thầm nghĩ ở một xã hẻo lánh như thế này có một người đẹp như cô làm hiệu phó thật là hiếm hoi. Buổi sáng Hồng Nhung về phòng giáo dục họp nên đến bây giờ mọi người mới gặp mặt. Chị Son đã đốt ngọn đèn hoa kỳ để ở giữa bàn làm cho căn phòng trở nên ấm cúng. Lệ và Kim cùng ngồi vào bàn với anh Nghĩa và Hồng Nhung, còn các anh chị khác ngồi trên bộ divan đặt ở sát vách. Mọi người lắng nghe anh Nghĩa và Hồng Nhung thay nhau hướng dẫn lối sống và làm việc với người dân ở đây. Anh Nghĩa có nét mặt và vóc dáng của một quân nhân hơn là một ông thầy giáo. Anh được biệt phái về làm hiệu trưởng của trường Mỹ Ðức Ðông vài năm trước ngày ba mươi tháng tư. Thoạt nhìn anh với nét mặt già dăn và hàm râu mép rậm rạp rất dễ làm khiếp vía học trò. Tuy nhiên khi anh cười để lộ hàm răng rắn chắc đầy khói thuốc_ một nụ cười rất đôn hậu !. Lời ăn tiếng nói của anh rất gọn gảy, chân tình, dễ tạo cảm tình với bất cứ ai. Kim nghĩ nàng sẽ làm việc được với anh. Trước khi chia tay ra về, anh Nghĩa còn nhắc các giáo viên mới ngày mai vào khoảng tám giờ sáng ban giám hiệu sẽ đưa mọi người vào các điểm trường bằng tắc ráng. Anh cũng nói thêm một câu mà hồi sáng anh đã nói trong phiên họp: “ Trường Mỹ Ðức Ðông may mắn có một đội ngủ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình....”. Có lẽ vì quá mệt và cũng nhờ mưa xuống mát trời nên đêm đó Kim ngủ thiệt ngon. Xã Mỹ Ðức Ðông thuộc huyện Cái Bè, tĩnh Tiền Giang. Ðịa hình xã Mỹ Ðức Ðông ( hay Mỹ Ðông) chạy dài theo nhánh sông Cá Thia, vắt qua quốc lộ bốn (người dân thường gọi tắt là lộ bốn) bởi cầu Mỹ Quới. Cầu Mỹ Qưới coi như là ranh giới của Bắc lộ và Nam lộ. Bắc lộ gồm các điểm trường Bà Năm, Kỳ Ðà và Kênh Lạc. Nam lộ gồm có điểm trường Mỹ Qưới nằm ngay chân cầu, ba bốn điểm trường khác nằm sọc theo dòng sông, và trường chánh nằm ngay chợ Cá Thia. Kỳ Ðà là điểm trường cuối cùng thuộc vùng hẻo lánh của xã. Ðiểm trường Bà Năm mà anh Nghĩa chỉ định Kim và Lệ về công tác cách quốc lộ chừng tám trăm mét. Buổi sáng sau khi ăn qua loa mọi người xuống tắc ráng. Ðến bấy giờ Kim mới tĩnh táo để biết rằng ngoài nàng và Lệ còn có tám giáo viên khác về Mỹ Ðức Ðông, ba nam năm nữ. Ðến bến đò mọi người dẳ thấy hai chiếc tắc ráng đã đậu sẵn. Anh Nghĩa chỉ cả bọn xuống chiếc neo sát cầu nước. Có lẽ đám giáo viên mới ai cũng như Kim chưa hề quen đi xuồng hay tắc ráng nên khi vài người trong bọn vừa bước xuống chiếc tắc ráng chòng chành như muốn nghiêng về một bên, anh Nghĩa phải yêu cầu ngồi yên. Chiếc tắc ráng dài hoằng giống như thân con cá kìm, có mui che mưa nắng, chở được khá nhiều hành khách. Hôm nay cô hiệu phó Hồng Nhung ở lại trường, chỉ có anh Nghĩa và chị Chi trưởng ban đời sống cùng đi với các giáo viên mới. Chiếc tắc ráng từ từ rời bến chạy với một tốc độ vừa phải. Nắng bắt đầu lên, phong cảnh hai bên bờ trở nên rạng rỡ. Kim chọn một chỗ ngồi thuận tiện có thể xoai lưng ra ngoài để vừa ngắm cảnh, vừa lắng nghe được mọi người trò chuyện. Con sông dài ngoằn ngèo như một con rắn khổng lồ. Hai bên bờ là rừng cây, nào xoài, ổi, cóc,...chen chúc. Có những cây xoài, cây dừa thân cong vòng de mình ra dòng sông, che mát cho những chiếc xuồng neo tại đó. Mỗi bên bờ có một lối mòn uốn khúc theo dòng sông, khi bị mất khuất trong cỏ tranh, khi bị ngắt đoạn bởi chiếc cầu khỉ nho nhỏ. Ðây là vùng nước ngọt Tiền Giang lắm trái ngọt cây lành. Kim cảm thấy mát mẻ và thích thú với sông nước hữu tình nơi này. Anh ba Nghĩa cười nói huyên thuyên. Anh nói về các điểm trường, pha lẫn những câu khôi hài, có lẽ để xóa đi nét u sầu, lo lắng của các cô giáo mới. Các điểm trường lần lượt được mọi người dến thăm viếng. Chị Chị cũng không quên gửi gạo và nhu yếu phẩm cho các giáo viên ở các điểm trường. Nhiều điểm trường mới được cất do nhu cầu của học sinh gia tăng, hầu hết là một phòng, ván lá ọp ẹp, bàn ghế được đóng sơ sài. Vùng đất này trù phú, song người dân chỉ được thật sự an tâm làm ăn sau ngày ba mươi tháng tư khi tiếng súng đã ngưng hẳn, chỉ có trường chánh Cá Thia và trường Mỹ Quới được cất từ lâu là coi tạm được mà thôi. Chiếc tắc ráng chạy qua cầu Ông Vẽ. Kim đoán từ Cá Thia ra đến cầu này phải trên một cây số. Nhà cửa bên Bắc lộ trông thưa thớt hơn. Theo lời anh Nghĩa từ vùng này trở vào trong ruộng nhiều hơn vườn. Trên đường đến trường Bà Năm có những dãy vườn mận, ổi, xoài xen nhau ...Kim thích thú bấm tay Lệ nói : “ Trời nắng đi dạy có mận ăn thích ghê, Lệ nhỉ ! “. Có những hàng dừa soi bóng xuống dòng sông. Kim tưởng tượng sẽ có lúc ngồi trên thân dừa thẩn thờ ngắm trời mây sông nước. Anh ba Nghĩa yêu cầu tắc ráng đổ lại nhà bác sáu Ban, ông trưởng ấp ở đây để giới thiệu Kim và Lệ về dạy điểm Bà Năm. Sau vài câu giới thiệu, thăm hỏi, và gửi gấm Kim và Lệ sẽ ở trọ nhà bác sáu Ban, anh Nghĩa yêu cầu bác tài chạy sang trường Bà Năm trước, anh sẽ dẫn các giáo viêni đi bộ đến sau “ Cô Kim coi chừng đi cẩn thận nha, tôi nghĩ cô không quen đi cầu tre.’Cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó đi...’ !” Anh Nghĩa vừa nói vừa chỉ chiếc cầu tre trước mặt, chênh vênh trên con rạch Bà Năm. Kim than thầm trong lòng nhưng ngại lên tiếng. Chiếc cầu đã cao lại dài, được chấp nối lỏng lẻo, rung lên theo từng bước chân đi. Kim vội lột dép ra cầm một tay, còn tay kia vịn thân tre lần dò từng bước mà đi. Ngay cả tay vịn chỉ có thể giúp cho người qua cầu có thể an tâm mà gĩu được thăng băng chớ thật sự không thể tựa vào được vì cũng quá lỏng lẻo Kim thầm nghĩ nếu một mai nàng đi qua cầu này mà bị rớt xuống thì tệ hại vô cùng. Qua khỏi cầu, đặt chân lên mặt đất rồi Kim mới hoàn hồn. Trường Bà Năm nằm trên một voi đất. Trước mặt trường là ngã ba nơi gặp gỡ của nhánh sông Cá Thia và con rạch Bà Năm; từ đó hai dòng nước họp lại thành một con sông lớn đổ vào Kỳ Ðà. Mặt sau của trường là ruộng lúa mênh mông. Cũng như những trường mới cất ở đây, trường Bà Năm chỉ có một phòng rất ọp ẹp. Sân trước cho học sinh nô đùa nằm trên đường người dân ở đây qua lại, cũng chen được một cột cờ ở giữa, khẳng khiu chịu đựng cùng mưa gió. Bên cạnh trường, cách vài bước là cái quán nhỏ xíu, treo lủng lẳng bánh kẹo ở phía trước. Nhìn qua cánh đồng, xa xa vài căn nhà rải rác, ẩn khuất trong đám cây xanh um. Vừa dến trường Lệ và Kim vội bước vào lớp dể quan sát. Anh Nghĩa cũng theo sau nói cười rổn rảng: “ Sao, hai cô có yên tâm công tác nơi này không ? “ Kim và Lệ lặng nhìn những dãy bàn ghế thô sơ, sần sùi, đầy đắp vá, cùng mĩm cười và lí nhí trả lời anh Nghĩa: “ Dạ được anh ! “ “ Thôi xuống tắc ráng đi các anh chị, để vô Kỳ Ðà còn kịp con nước ! “ Nghe tiếng anh Nghĩa hối thúc Kim và các ban vội vào khoang ngồi Anh Nghĩa đứng trên bờ từ biệt gia đình chị ba Phích, chị chủ quán,. Bác tài đã sẵn sàng cho ghe rời trường Bà Năm. Từ nơi này vào Kỳ Ðà là ruộng bạt ngàn; tuy vậy, cũng có một vài khu vườn ổi mới lên liếp. Dọc theo hai bờ sông, càng vào trong càng có nhiều điên điển, bần, bằng lăng, và dừa lá. Ðến Kỳ Ðà thì dòng sông trở nên hẹp lại. Nhà cửa hai bên sông thưa thớt. Cảnh trí buồn tẻ và hoang vắng quá !.Gió đồng thổi lồng lộng. Vài tiếng chim kêu lạc loài...khiến bốn giáo viên mới vào đây không khỏi ủ ê mày mặt. Tắc rang vừa cặp bến mọi người vội bước lên bờ. Người không ngớt chắc hít than thở là Nguyễn văn Mạnh. Mạnh và Lý thị Bảy ở Gò Công, cùng quê với Kim; chưa ai đã từng biết bơi xuồng, hay quen đi cầu tre lắc lẻo. Các giáo viên mói ngơ ngác trước một ngôi trường cheo leo, xung quanh chỉ toàn là sông rạch và ruộng lúa mênh mông. Cũng như lần trước, anh Nghĩa dẫn mọi người đến nhà dì ba Nhân để gửi gấm các giáo viên mới. Nhà dì ba Nhân ở sát một bên trường, còn bên kia giáp với đám dừa lá. Trường ở đây có hai phòng, cũng vách lá sơ sài. Giáo viên đang công tác là một cặp mới hứa hôn, sẽ ra trường chánh Cá Thia để nhường lớp lại cho các giáo viên mới ra trường năm nay. Năm rồi ở đây có ba lớp, hai giáo viên. Năm nay bốn lớp, bốn giáo viên mới, đó là Lý thị Bảy, Nguyễn văn Mạnh, Nguyễn Ngọc Hạnh và Trần Duy Lâm. Lý thị Bảy là người mà Kim chú ý nhất. Trên tắc ráng cô ngồi đối diện với Kim; Kim nghĩ nàng không dễ quên đôi mắt đẹp u buồn, có một bớt ruồi trong tròng mắt bên trái của cô _đó là dấu hiệu buồn khổ vì tình duyên (?) Khuôn mặt cô buồn rười rượi, cô ngồi co ro như con mèo ướt. Làn da trắng trẻo và lối ăn diện của cô cho Kim thấy cô khó thich ứng nơi này. Hai cô Bảy và Hạnh trông buồn bả và chán nãn ra mặt. Lâm và Mạnh vào trong xem xét phòng ốc và bàn ghế, rồi trở ra cười méo mó, không nói tiếng nào. Dì ba Nhân ở đây đã từng giúp đỡ giáo viên, rất ân cần với mọi người, nhưng rồi mọi người cũng không thể nấn ná lâu hơn. Kim và các bạn xuống tắc ráng. để lại bốn giáo viên mới và hành lý của họ. Hai cô giáo mới Bảy và Hạnh bịn rịn tiễn đưa không dằn được nước mắt_ giống như một đám cưới, lúc đàn gái ra về để cô dâu ở lại nhà chồng vậy. Tắc ráng quay trở ra đến trường Bà Năm thì đã quá trưa. Bước lên nhà bác sáu Ban là Kim cảm thấy mệt nên đi nằm một lát. Nhà bác sáu Ban rất sạch sẽ và khang trang. Qua câu chuyện thăm hỏi Kim được biết nhà bác sáu được sửa lại sau ngày ba mươi tháng tư. Nền được đôn lên cao để tránh nước tràn vào nhà vào mùa nước nổi. Nền nhà được lót gạch tàu còn mới. Cũng như những căn nhà ở vùng này, vách nhà bác sáu được làm bằng nan tre,bên trong nhà ngó ra ngoài rất rõ, nhưng ở ngoài không dễ gì nhìn lọt vào bên trong nếu không đứng sát vách ngó vào. Mái nhà lại được lợp lá chằm nên mát mẻ vô cùng. Nhà trên có hai bô ván ngựa ở sát hai bên vách; bàn thờ và một cái bàn khách hột xoài nằm ở giữa. Nhà trong có một lẩm lúa cao ngất, cái giường và một cái tủ đứng. Căn nhà bếp nối liền nhà trên, ngăn cách nhau bởi một tấm vách. Nhà bếp không có cửa, chỉ làm che đủ cho dàn bếp, và một bộ vạt để ngồi ăn cơm. Dàn bếp được cất cao, xung quanh treo lủ khủ xon nồi ơ chảo. Trong nhà bếp này đặc biệt có một cái cối đá mà bác gái cứ phải bận bịu xay mỗi lần một cối gạo đầy thành một thứ sữa bột cho con hẻo nái sồ sề nằm trên vũng sình phía sau hè. Con heo nái nhà bác sáu mỗi ngày uống ba cữ nước bột như vậy làm cho nó mâp ú. Hai bác không có con, nuôi một đứa cháu gái_ Cúc , tên đứa cháu của hai bác, thường đi làm vần công với bạn bè đến chiều tối mới về. Bác trai khoảng sáu mươi, trung người, còn gân cốt, rất ít nói, thường ngồi nhấp nháp trà ở bàn khách nhà trên. Bác gái có lẽ cùng khoảng tuổi bác trai, người gầy gò nhưng mạnh khỏe, làm việc lanh lẹ. Căn nhà bác sáu vì vậy ít tiếng cười, tiếng nói. Buổi chiều Kim ra bờ sông.Nhìn dòng sông chảy lờ lửng Kim nhớ đến bài “Chiều Trên Sông” của nhạc sỹ Phạm Duy: “ Chiều buông trên dòng sông Cửu Long....Có khi buông lửng lơ, có khi tuôn sầu u....” Kim nghĩ có lẽ nhạc sỹ Phạm Duy cũng đã từng nhìn dòng sông như nàng. Ôi con sông miền Nam hiền hòa làm sao ! Kim là người miền Nam mà đến bây giờ nàng mới thấy cái đẹp của dòng sông như các nhạc sỹ thường ca ngợi. Nhìn dòng sông tâm hồn Kim trở nên thanh thản, bình lặng như mặt nước, tạm quên đi những lo lắng, buồn phiền.... “ Ngày mai Lệ về Cai Lậy, Kim đứng lớp cho Lệ được không ? “ Kim quay lưng lại: “ Ngồi xuống một lát đi Lệ, chuyện đó được mà ! “ Lệ ngồi xuống cạnh Kim. “ Ơ đây còn nghe tiếng xe ngoài lộ bốn, ở Kỳ Ðà buồn quá Kim hả ? “ Kim vẫn dõi mắt nhìn theo đám lục bình trôi lềnh bềnh trên sông. Thỉnh thoảng vài chiếc xuồng bé tẻo teo xuôi theo dòng nhẹ tênh lã lướt. Giờ này con nước bắt đầu lên, gió cũng lên theo, làm gợn sóng vỗ vào bờ nhè nhẹ như an ủi, vỗ về... “ Về chừng nào trở lại Lệ ? “ “ Chỉ lấy đồ đạc cần dùng, châm lắm là ba ngày. “ “ Cuối tuần này tôi về, nếu thứ hai lên không kip nhờ Lệ đứng lớp giùm. “ Lệ gật đầu đồng ý. Lệ học cùng lớp với Kim ở sư phạm, lại cùng chung một tổ học tập nên khá thân tình. Lê mới lớn, yêu phải môt anh chàng có vợ học cùng lớp. Lệ buồn vụ này nên từ chối về Cai Lậy mà theo Kim về công tác ở Cái Bè, hay có ý muốn gặp lại người yêu vì anh ấy về dạy ở quê nhà An Hữu cách đây không xa (?) “ Ngày mai chị Vân ra Cá Thia rồi, Kim ở lai môt mình tội nghiệp quá! “ Lệ vừa nói vừa cười mơn như để an ũi Kim. Kim ngó vào nhà bác sáu Ban đã lên đèn, chị Vân đang cặm cụi viết sổ sách nơi bàn khách. Chi Vân là giáo viên hai năm rồi dạy tại điểm trường Bà Năm, phụ trách hai lớp. Năm nay mở ba lớp, chị Vân đứng lớp ba, Kim lớp hai và Lê lớp một. Con nước lớn rất nhanh, chạy ngâp gần hết chiếc cầu nước bằng sắt của Mỹ thời chiến tranh. Bóng tối lan dần, gió thổi lạnh hơn, mặt sông trở nên huyền ảo, xung quanh cây cối trở nên ma quái.... Kim rùng mình, cùng Lệ bước vào nhà. Hôm Kim đưa Lệ ra xe găp người bà con của Lệ làm ở phòng giáo dục Cai Lậy. Chị theo lời yêu cầu của gia đình Lệ xuồng Mỹ Ðức Ðông để kêu Lệ phải trở về làm việc ở Cai Lậy. Và Lệ phải theo chị trở về ngay ngày ấy. Chị Vân phải ra trường chánh do yêu cầu dạy Anh văn cho cấp hai, một mình Kim phải coi ba lớp. Kim mệt nhoài và khàn tiếng mà chẳng than vản được với ai. Có lẽ cũng hiểu được sự khó khăn đó, vài ngày sau anh Nghĩa xuất hiện báo cho Kim biết sẽ có hai giáo viên đổi về điểm trường Bà Năm. Kim sẽ phụ trách lớp hai, hai mươi lăm em. Cô Ý từ Hòa Khánh về sẽ phụ trách lớp ba, và cô Hảo từ Sài Gòn về sẽ phụ trách lớp một. Những năm đầu sau khi miền Nam bị tiếp thu, người từ Sài Gòn và nhũng thành phố khác lần lượt kéo nhau về quê xây dưng đòi sống mới. Gia đình Kim cũng như gia đình cô sáu Hảo nằm trong hoàn cảnh đó. Sài Gòn lúc này ăn độn bảy mươi lăm phần trăm. Cô sáu Hảo để lại hai người con gái lớn ở lại Sài Gòn sống bên ngoại để tự xoay trở. Còn cô, người chồng hưu trí, và ba con nhỏ về quê đùm bọc nhau. Cô mua ba công vườn của bác sáu Ban. Sau khi nhờ người quen thỏa thuận giá cả, gia đình cô rút gọn về đây. Nhìn đồ đạc của gia đình cô bày ngổn ngang trước sân nhà bác sáu Ban, Kim có thể đoán gia đình cô trước đây có cuộc sống kha khá. Căn nhà cô sáu Hảo được dựng lên cấp tốc, sơ sài như một túp lều lý tưởng ngay cạnh nhà bác sáu Ban. Những lúc nhàn rỗi Kim chỉ thích đến ngồi trước sân nhà cô nhìn dòng song lững lờ trôi…… -------------------- Mmm |
|
|
![]() |
![]()
Post
#2
|
|
![]() Bảo vệ Tổ Quốc ![]() ![]() ![]() Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country ![]() ![]() |
Viêc cô sáu Hảo về đứng lớp một như giúp cho Kim thoát được nạn. Quả tình Kim đã từng dạy mẫu rất khá ở trường sư pham, nhưng khi vào thực tế thì không biết dạy lớp một. Lớp dạy mẫu là một lớp đã được ổn định và có nề nếp. Còn lớp ở đây con nít mới vào học, chưa được ổn định, chúng cứ lao nhao hoài.! Lại nữa, chúng hay thưa gửi nhũng chuyện đâu đâu làm rộn cả lớp. Hoàn cảnh trường sở ở đây lại khác xa ở các thành phố. Trường sở mới xây dựng ọp ẹp trên cái nền đất lồi lõm, và do đó bàn ghế phải bị chông chênh. Bàn ghế lại làm bằng những thanh gỗ thô sơ ghép lại, không đủ chỗ cho học sinh bày tập vỡ trên bàn thì làm sao chúng có thể viết chữ đẹp được. Ấy vậy mà cô sáu Hảo khắc phục được tất cả. Cô là một giáo viên gioỉ và kỳ cựu của trường Minh Phụng ở quận năm Sài Gòn. Cô về đây cho Kim một tấm gương tốt mà nàng cần học hỏi. Cô yêu trẻ, chiu cực, và đầy sáng kiến. Cô lấp đất cho bàn ghế khỏi chông chênh, tổ chức ổn định lớp, cho đến việc bao sách vỡ, dán nhãn và đề tên cho học sinh cô cũng tự làm lấy. Cô chăm chút dạy cho học sinh nề nếp, lịch sự, lễ phép như một người mẹ dạy đám con thơ. Ngôn ngữ cô dùng để nói với học sinh giống như lối một người mẹ răn dạy con của mình trong gia dình_ thẳng thắn, gảy gọn và tự nhiên vô cùng ! Ở thôn quê cha mẹ học sinh ít khi quan tâm đến viêc ăn học của con em mình vì họ bận mưu sinh, vì họ không biết chữ, và cũng vì họ cho đó là việc của thầy cô giáo. Cứ mỗi ngày thấy đứa trẻ ôm tâp vỡ đến trường là họ yên tâm rồi. Thầy cô giáo là người thay cha mẹ dạy cho học sinh có nếp sống văn hóa, thậm chí phải nhắc nhở chúng việc giữ gìn răng, chải gỡ tóc, áo quần sạch sẽ khi ra đường....
Cô sáu có nét chữ rất đẹp, rất chân phương. Học sinh viết theo chữ của cô nhìn rất đep mắt. Ngay khi cho điểm cô sáu cũng viết con số thật ngay ngắn đề học trò bắt chước.Kim có tật cho điểm viết tháo cho nhanh, phải giật mình khi thấy học trò viết con số giống y như vậy. Từ ngày học hỏi được từ cô sáu, Kim cố gắng đổi nét chữ và chăm chút nề nếp trình bày tập vỡ cho học sinh hơn. Cô sáu nói lớp một cực nhất trong học kỳ một vì học trò chưa đươc ổn định và quen nề nếp, sang học kỳ hai thì khỏe hơn. Lớp của cô sáu học tâp tiến bộ thấy rõ. Ngược lại là lớp cô Ý. Hoàn cảnh cô Ý khá vất vả, con cô còn nhỏ, lại phải ở trọ mé chái của một lò dường ngoài lộ bốn, nơi chồng cô làm việc. Những lúc con nước lên cao mà không gặp xuồng để đi nhờ cô phài bỏ lớp. Cô đến lớp một cách mệt mõi; có lẽ vì vậy không khí lớp học của cô chừng như tẻ nhạt, lơ là.Lắm khi cô phải mang con đến trường, bé An, ba bốn tuổi gì đó. Một ngày nọ Kim nghe tin cô Ý nghỉ dạy, bị ngoài xã đội giữ, vì cô đã cầm dao giết chồng. Tin tức đến tai Kim với một luân điêu kết tội một cô giáo dữ dằn. Kim bác bỏ lập tức mà cho rằng có thể đã xảy ra điều gì đó nên cô Ý đã trở nên tức giận đối với chồng cô. Ghen tương chăng ? Nhưng tại sao lại phải cầm dao.? Dù bề ngoài Kim tỏ vẻ bênh vực cô Ý vì là đồng nghiệp vói nhau, song trong thâm tâm nàng không chấp nhận viêc cầm dao để đối phó với ai, dù bất cứ vấn đề gì. Kim nghĩ rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, và có thể tạo khó khăn cho cô Ý trong việc giáo dục học sinh tại đây. Phiên họp đầu tiên sau ngày tựu trường các giáo viên gặp lại cô Ý. Dường như mọi người tránh bàn đến việc này dù rằng ai cũng biết. Sau khi họp xong cô Ý phải gặp riêng anh Nghĩa tai văn phòng. Trên đường về chung cô Ý cho Kim và cô Hảo biết là chồng cô tư tình với một cô gái làm chung. Hai vợ chồng đã cải lẩy và xô xát, cô Ý vơ đaị con dao để tự vệ chớ không hề cố ý đả thương chồng, nhưng trong lúc nóng giận anh chồm tới nên bị sướt ở bả vai. Cô sáu nhân dịp kể về chuyện gia đình của cô, và đưa ra lời khuyên cô Ý chớ nên ghen tương làm gì, mà chỉ nên lo thân mình và đứa con thôi. Kim chỉ lắng nghe.. Nhìn chị Ý, từ nét mặt và vóc dáng của chị vẫn còn phản phất một thời hương sắc; nhưng làm mẹ và làm vợ trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, lại gặp phải người chồng tệ bạc thì hương sắc ấy phải úa tàn !!! Sau khi chuyện của chị Ý xảy ra không lâu, Kim có ghé thăm chị; nàng không khỏi chạnh lòng khi thấy chị sống trong một chái nhà ẩm thấp đầy ruồi muỗi vì ở sát cạnh lò đường, xung quanh chỗ ở toàn là bả mía, gặp mưa lên men khai nồng lên mũi thật là khó chịu. Kim đoán từ xã đội đến ban giám hiệu và cô Hảo chỉ đưa ra những lời khuyên lơn nên nhường nhịn trong đời sống vợ chồng. Kim nghĩ với một mức lương chết đói, bản thân Kim nếu không khéo dè sẻn thì không đủ sống thì làm sao chị Ý có thể sống độc lập với đứa con trai, làm sao chị có cho mình một căn nhà tươm tất !!! Hầu hết những cô giáo mới ra trường đều ở nhà dân, công tác vài ba năm thì có chồng, hoặc đổi về quê nhà. Ở quê nhà trở lên trường là Kim đã đem theo những gì cần thiết cho cuộc sống riêng tư. Kim không thích sống chung chạ với người dân vì nhiều lý do; một trong những lý do chính yếu là nàng có mang một số sách mua rẻ ở vĩa hè Sài Gòn sau khi tiếp thu, rồi dấu nhét để dành đọc. Kim thấy nàng cần tự học hỏi nhiều hơn nữa. Thế là Kim rời nhà bác sáu Ban để sang trú ngụ căn nhà tâp thể, mà đúng hơn là cái chòi lá ở sát trường, và sống ở đấy thoải mái một mình. Ở đó cũng có bất tiện của cái ăn cái ở vì chỉ vỏn vẹn có một bộ vạt chắp bằng nan tre trong chòi. Thế mà Kim vẫn cố gắng sống và vui vẻ với hoàn cảnh như vậy.. “ Giáo viên nhân dân “ là cô giáo không còn mang những đôi guốc cao gót cả tấc, không mặc những tà áo dài tha thước, không son phấn và sống cách biệt. Ði dạy nơi này Kim phải chọn áo chemise hay bà ba trắng hoặc màu để mặc với quần đen. Quần đen thuộc loại vải nhẹ bền và dễ khô, vì khi trời mưa hay lúc con nước lên cao đường đi rất sình lầy. Lại nữa, cỏ hai bên đường đi thường bệt vào quần rất dễ dơ. Ðôi khi Kim đi thành phố chơi hay ở quê nhà lên với bộ đồ mới học trò rất thích_ Học trò tiểu học rất thích cô giáo ăn diện đẹp mắt, như ngày xưa Kim đã từng lén nhìn mê mẩn cô giáo của nàng ăn diên đẹp mắt với đủ loại vải và màu sắc. Lớp học của Kim tròn trèm hai mươi lăm học sinh, đa số là con út hay áp út trong gia đình nên có những cái tên như Nguyễn văn Út., Trần thị Út, lại còn Lê văn Út một, Trần văn Út hai Huỳnh thị Út nhỏ, Ðỗ thị Út lớn... Học trò ở đây hầu hết thuộc gia đình nghèo, sống nghề làm ruộng là chính., họ bắt đầu xây dựng lại cuộc sống sau ngày ba mươi tháng tư. Vùng này trước kia là của Việt Cộng, trường Bà Năm đã từng là bãi chiến trường với bao xác chết la liệt nơi ấy. Dạy học ở đây không thể yêu cầu như ở thành phố, học sinh đi học có một bộ đồ sạch sẽ, nút áo cài đầy đủ là được lắm rồi. Lũ học trò cứ đi học kiểu đầu đội trời chân đạp đất mà vẫn mạnh khỏe quanh năm. Khi Kim về dạy ở trường Bà Năm thì phong trào bình dân học vụ ở Bắc lộ đã chìm nghĩm; nhà trường bắt buộc phải nhận những học sinh lớn tuổi vào lớp để chúng có thể tiếp tục học hành. Lớp của Kim chỉ có vài đứa lớn tuổi phải vắng mặt vào mùa cắt lúa để phụ gia đình, số còn lại chúng rất thích đến lớp học. Kim phải rất uyển chuyển để giữ học sinh cả lớp tiếp tục học trọn năm và lên lớp. Học trò tiểu học chỉ thích đi học khi đến lớp cảm thấy thoải mái, vui cùng thầy và bạn.Kim đến với học trò như để làm bạn và hướng dẫn chúng. Kim luôn luôn tạo không khí trong lớp cho học trò thích học như thích vui chơi. Nhờ chỗ Kim dạy ở cách xa ban giám hiệu nên ít khi bị dòm ngó và thanh tra. Kim không bám sát theo giáo án và trình tự mà nàng chỉ cốt yếu khêu gợi tư duy của học trò, và nhấn mạnh những gì chúng chưa biết mà thôi. Ðến khi ban giám hiệu ra biện pháp kiểm tra chặc chẻ, Kim đành phải trở nên dè dặt. Học trò của Kim có những đứa chín mười tuổi đã phụ kiếm sống với gia đình nên lớn khôn trước tuổi. Chúng biết Kim thương yêu và tân tụy với chúng, chia sẽ vói chúng nhũng gì nàng hiểu biết Măc dù vậy, Kim biết công viêc nàng làm chỉ đem lại môt kết quả nhỏ nhoi. Ðời sống người dân quá cùng khổ, chỉ biết lo cái ăn cái mặt của ngày hôm nay, chớ không dám mơ đến ngày mai ! Muc đích học trò đi học không còn gì khác hơn là biết làm con toán cộng trừ một cách căn bản và viết được một cái đơn để xin đi lại thì tương lai của chúng vẫn bị kiềm hãm trong nghèo khổ và u tối. Nơi này thiếu thốn đủ thứ, không sách báo, không TV, họa hoằn lắm mới có được một cái radio. Ở trường chánh có một thư viên nhưng chỉ chứa sách giáo khoa, còn những sách báo khác cần để đọc thêm tuyện nhiên không có. Chỉ có một phương cách để học sinh tiếp giáp vói đời sống văn hóa là cắp sách đến trường. Giáo dục không chỉ dùng lời giảng dạy, mà còn làm gương cho học sinh. Thực tế đã tạt vào mặt Kim khi nàng tình cờ nghe một đứa học trò nói với bạn của nó : “ Cô của mình lương còn không đủ sống nữa ..!!! “. Với đầu óc trẻ con học sinh không thể hiểu được sư. học cần thiết như thế nào để có thể thay đổi đời sống của chúng trong tương lai, vì ngay tự chương trình học đã không giúp cho học sinh hiểu biết một cách thưc tiễn. Và chính đời sống giáo viên bấy giờ không thể thuyết phục học sinh cố gắng ăn học lên cao_ Ăn học vừa cực nhọc vừa tốn kém mà lương không hơn đi cắt lúa ! Mỗi ngày đứng giảng dạy và khuyên răn học trò hãy cố gắng ăn học Kim cảm thấy mình đang làm một việc giống như bơi ngược dòng nước ! Sống ở đây phương tiện di chuyển chính là ghe xuồng. Hai bên bờ sông người ta vẫn đi bộ được, nhưng vào mùa nước nổi thì đi ghe xuồng vẫn tiện hơn. Thời gian đầu tiên sống ở đây có lúc Kim tự hỏi tại sao ở đây cây cối thì nhiều mà cầu kỳ thì nhỏ xíu và chấp nối vô cùng lỏng lẻo. Dần dần Kim mới hiểu ra những cây cầu đó phải làm như vậy để dễ tháo gỡ cho ghe xuồng đi qua; vì nhà nào cũng cần phải đào mương để dẫn nước vào vườn, và như vậy ghe xuồng có thể theo mương vào vườn để chở trái cây. Kim cũng tập bơi xuồng như mọi người vì tự thấy những khi đi nhờ nên bơi phụ. Trên xuồng thường có hai cây dầm để bơi. Người ngồi phía sau thường là tay bơi giỏi lái xuồng đi; người ngồi phía trước mũi bơi tiếp sức cho người phía sau. Những lúc đầu đi xuồng khi Kim bước chân lên cầu nước là nàng đạp xuồng ra, có mấy lần suýt té nhào xuống sông. Còn lúc Kim tập bơi xuồng đầu tiên thì chiếc xuồng quay lòng vòng đến chóng mặt, phải nhờ học trò kéo vào bờ. Về bơi lội thì ở đây không những người ta bơi rất gioỉ mà ngay cả trâu bò, heo, chó cũng biết bơi. Học trò ở đây mới năm sáu tuổi là chúng đã rất giỏi bơi lội lẫn bơi xuồng Vào mùa nước nổi.phụ huynh có thể vững tâm cho chúng lái xuồng đi học. Có một lần giờ ra chơi khi Kim đang ngồi chấm bài thì nghe tiếng cười giởn của học trò như ở dưới sông. Bước ra ngoài Kim mới thấy một đám học trò đang lặn hụp nô đùa như rái ở dưới sông. Kim vội gọi tất cả lên bờ. Chúng nhe răng cười trấn an nàng, và còn biểu diễn vài cú nhào lộn ngơan mục trước khi bước lên bờ. Vào lớp học mà cái quần của chúng còn rĩ nước. Từ đó Kim cấm ngặt không cho học sinh nào được tắm sông khi nàng đứng lớp ở đây, vì trách nhiệm của nàng đối với chúng, và cũng để bảo vệ nề nếp của lớp học. Dẩu đã nhét cho Kim gần một tháng lương, ba má Kim vẫn sai em gái của nàng mang lỉnh kỉnh thức ăn cho nàng. Em Kim bàng hoàng trước cảnh sống của nàng, nhưng nó biết Kim có sức chịu đựng. Tin tức gia đình vẫn không có gì thay đổi, ngoại trừ chuyện ba Kim đang lo cho đứa em trai của nàng ra đi. Kim đứng trước lớp học ngó ra bờ sông, lặng nghe đứa em gái nàng kể chuyện nhà .... Cách đây hai năm, Kim đã từng thao thức không ngủ khi nghe chuyến vượt biên đầu tiên ở Gò Công quê của nàng. Lúc đó Kim nghĩ có thể môt ngày nào đó mình phải ra đi. Chuyến đi này Kim có thể thuyết phục ba má nàng để nàng ra đi, nhưng sao trong lòng Kim lặng lẻ. Kim hỏi lại lòng mình..., vẫn không có gì thay đổi. Kim cảm thấy tâm tư của nàng thản nhiên, bình lặng như mặt nước dòng sông. Lúc khó khăn này sẽ qua đi, cuộc đời sẽ thay đổi (?). Và tự cõi lòng của Kim đang hướng về một nơi xa xăm nào đó, nơi đó Huy và các bạn của anh đang bị khổ sở đọa đày ! Bao lâu họ sẽ được thả về ? Không ai có thể biết được, nhưng Kim biết chắc là nàng không thể sống trái ngược với lòng mình, nàng chưa thể ra đi ! Ngày Kim đi dạy đầu tiên cũng là ngày nàng gặp Tùng. Kim gặp anh trên đường về nhà bác sáu Ban, lúc đó anh ngồi trên lan can phía trước nhà Hoa. Anh có dáng vẻ của người dân thành phố. Làn da anh ngăm ngăm, râu tóc rậm rạp tài tử. Trên khuôn mặt xương xương của anh, một cặp mắt to hơi lộ, có vẻ vừa mơ màng vừa thâm trầm.. Ðó cũng là ngày đầu tiên anh đến nhà Hoa và biết cô qua sự giới thiệu của một người bạn. Hoa là một cô gái có nhan sắc. Cô đẹp từ nét mặt, làn da, đến vóc dáng. Hoa và Kim làm bạn rất nhanh. Hoa đã từng sống và mua bán ở Sài Gòn nên lời lẽ của cô lịch duyệt hơn những cô gái quê ở đây. Kim được biết sau đó Tùng đã từng là tay đờn cho một ban nhạc trẻ ở Sài Gòn trước kia. Anh lớn hơn Kim, và Kim lớn hơn Hoa cách nhau hai tuổi. Tùng thường đến nhà Hoa chơi và gặp Kim ở đó. Nhiều kỹ niệm vui chơi với nhau giữa Kim, Hoa, và Tùng._ đi vườn, chơi dưới trăng, ca hát trước sân nhà....Kim thích nhất là bơi xuồng đi chơi dưới trăng; cả ba thả xuồng xuôi theo dòng , ngang qua những vườn mận,vườn ổi, và những hàng dừa soi mình trên dòng sông.... Vào khoảng tháng mười hai trở đi mận bắt đầu chin. Những chùm mận kiếng sen nặng trĩu đỏ ối de ra ngoài sông như để gợi thèm khách qua lại Lúc bấy giờ tiếng đờn của Tùng càng nghe nức lòng, và nhan sắc của Hoa càng đẹp liêu trai dưới trăng lạnh. Kim nhớ mãi những lần đi chơi vườn mận của bạn Tùng, cách trường không xa. Thường là ở nhà Hoa đã nấu sẵn một nồi cháo vịt, và làm sẵn một thao gỏi vịt bóp với thân chuối non và rau răm. Cả bọn xuống xuồng qua vườn mận vào chập tối, khoảng tám chín giờ. Vườn mận nằm khuất sau những khúc kênh rạch ngoằn ngoèo, hiển hiện dần dưới ánh trăng, đẹp như tranh vẽ, như cõi mộng ! Cái trại nằm ở một góc vườn mận nhìn ra con rạch được dưng sơ sài dưới ánh trăng lại trở nên đẹp lạ lùng như trong những phim kiếp hiệp Tàu mà Kim đã từng xem Trăng lên, tỏa ánh sáng dịu mát và làm huyền ảo cảnh vật nơi này. Ánh trăng loang loáng xuyên qua kẻ lá, qua những chùm mận chín đỏ chập chờn khoe sắc. Kim và các bạn vào trại ăn uống, ca hát hoặc đi lang thang ngắm trăng....suốt đêm, mãi đến khi trời rựng sáng mới lục đục ra về. Cứ ngỡ rằng một nơi vui chơi như thế thì tha hồ vì không ai để ý, vì xung quanh chỉ toàn là kênh rạch và đồng lúa. Không ngờ có một lần khi bạn bè còn ca hát trong trại, một người bạn của Tùng cùng Kim đang thơ thẩn ngắm cảnh đẹp dưới trăng trước sân trại thì học trò của nàng từ đâu ập đến. Chúng trìu mến nắm tay Kim hỏi han lăng xăng. Khi ấy Kim mới biết nhà Út nhỏ nằm khuất sau đám lau sậy um tùm bên cạnh vườn mận. Có lần Kim đến viếng nhà Út nhỏ đi xuồng qua phía khác nên bấy giờ ở vườn mân nàng không thể nhận ra. Kim còn nhớ ba má Út nhỏ lúc ấy đãi nàng uống trà nấu bằng đậu xanh trồng ở vườn được ran vàng nên thơm ngon lạ lùng. Kim nghĩ có lẽ lũ học trò đã rình rập và nấp ở đâu đó từ lâu. Quả đúng như người ta thường nói “Nhất quỹ, nhì ma, thứ ba học trò ! “ Khi lũ học trò rút lui xong, Kim và người bạn vội trở vào trại tiếp tục cuộc vui .... Lần nào đi chơi vườn mận Tùng cũng đem theo đàn. Chỉ có Kim và Hoa là giọng nữ thường xuyên ở đây. Ðôi khi có chị của Hoa, hoặc Hạnh ban Kim cũng đến chơi, và còn lại là ba bốn ông bạn của Tùng hết ca thì lại kể chuyện tiếu cười giởn suốt đêm. Vào khoảng Noel, qua mười hai giờ sương rớt trên mái lá nghe lộp bộp. Nơi này không khí như được thanh lọc, rất tinh khiết, rất mát mẻ và nhẹ nhàng. Khi ngừng tiếng đàn hát cười đùa, cảnh vật rất tĩnh lặng; người ta có thể nghe tiếng róc rách của lạch nước, tiếng nhảy của con ếch, hay tiếng rì rầm của tưừng loại côn trùng. Những lúc vui chơi với bạn bè như vậy, đôi khi Kim vẫn thấy lòng mình trống trãi, nàng thu mình nhìn ra ngoài không gian bất tận….... Một hôm đêm đã khuya, Kim đang mơ màng thì nghe tiếng Tùng gọi giục giã. Kim lờ đi không được nên phải thức dậy và nhin qua khe hở nơi ổ khóa. Ngoài sân, Tùng và hai người bạn trên đường đi nhậu về ghé ngang qua, mùi rượu thoảng nồng lên mũi của Kim Tùng kê mặt vào vách để khẩn khoản Kim mở cửa cho anh vào. Kim nghĩ nếu có điều gì không phải một tiếng la của nàng cũng đủ làm cho chị ba Phích chạy sang, và có thể ba má bé Tư gần đó cũng đến; và trong ba người ăn nhậu, có lẽ cũng còn một người tĩnh táo. Nghĩ vậy Kim bình tĩnh mở cửa cho mọi người vào. Kim tỏ vẻ bình thường chào hỏi nhưng cố tình làm như buồn ngủ. Có hơi men Tùng nói chuyện với Kim săng sái hơn mọi ngày, nhưng một hồi rồi cũng kiếu từ. Kim nhớ ánh mắt của Tùng lúc ấy rất ấm áp và nồng nàn vẫn không làm vấy lên trong Kim một nỗi xao động. Kim giữ kín việc này, nhưng chị ba Phích kế bên đã nghe. Hôm sau Kim sang nhà chị chơi, chị hỏi nên nàng phải nói sơ qua cho chị biết. Vài hôm sau đó, một buổi trưa Tùng đến nói lời xin lỗi Kim. Nhân dịp này Kim xác định cho Tùng biết quan hệ giữa nàng và Tùng không thể đi xa hơn được. Không lâu Hoa và Tùng thành hôn. Kim mừng cho Hoa, dự lễ hỏi lẫn lễ cưới. Kim được biết gia đình Tùng sống ở Sài Gòn, nhà và vườn ở dưới quê bên Mỹ đức Tây là của ông bà để lại cho anh em Tùng sau này. Sau ngày cưới, Kim và cặp Hoa Tùng ít gặp nhau dần. Không lâu sau đó, vợ chồng Tùng cũng về Sài Gòn sinh sống. Bẳng đi một thời gian Kim mới gặp lại Hoa, nàng đã có một con trai với Tùng gần một tuổi. Lúc này trông Hoa xấu ra, tàn tạ...!!! Nhớ tới nhan sắc của nàng ngày xưa và những đêm trăng vui chơi với nhau, Kim luống ngậm ngùi....!!! -------------------- Mmm |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 23rd July 2025 - 06:54 AM |