Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 20 Năm Giới Trẻ Miền Nam Việt Nam - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> 20 Năm Giới Trẻ Miền Nam Việt Nam
Violet
post Oct 11 2008, 08:08 AM
Post #1


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



20 Năm Giới Trẻ Miền Nam Việt Nam




Nguyễn Văn Lục

Tôi đã viết những bài 20 năm văn học dịch miền Nam Việt Nam, 20 năm triết lý Tây Phương miền Nam Việt Nam, 20 năm trí thức miễn Nam nhập cuộc. Và cũng trong cái tinh thần ấy với bài này, 20 năm giới trẻ miền Nam Việt Nam.

Tuổi trẻ miền Nam với những con người trẻ, trai có, gái có, với nếp sống, nếp nghĩ, phản ứng vui buồn, ứng xử trước thời cuộc, trước cuộc đời mà trong đó tôi là thành phần. Viết lại cho mình, cho bạn bè mà cho các thế hệ sắp tới nhìn lại cha anh mình.

Miền Nam vào thủa ấy có khoảng ngót nghét 11 triệu dân sống rải rác từ Cà Mâu đến Bến Hải. Các cậu thanh niên có cái mốt ăn mặc rất là lạ: Họ mặc quần tây mà áo bỏ ngoài quần. Cậu nào cũng vậy. Còn các cô thì đi guốc mộc to bản như guốc Nhật, nổi bật bàn chân nhỏ bé, được kỳ cọ trắng phau. Xinh quá. Hai ống quần rộng đến chui vào được. Kỳ quá. Chiếc áo Bà ba rộng thùng thình, có hai túi. Hình như sự ăn mặc ấy hoang phí quá, không ăn khớp với thân hình. Bao nhiêu đường cong, đường eo, vùng đồi ngực nở ùn lên, vùng thung lũng hoa vàng bị khỏa lấp và san bằng hết.

Trong khi đó, gái Bắc thì gọn gàng trong chiếc áo cánh vải phin nõn khít khao hằn lên tuổi con gái bên trong cái yếm. Sức sống vươn lên, lồ lộ hẳn ra.

Hai tuổi trẻ, hai cách biểu hiện, hai vẻ đẹp. Hai miền hồi những năm 1955. Họ gặp nhau như một định mệnh lịch sử vào cái ngày đất nước bị cắt làm đôi.

Hiệp định Genève vào ngày 21/7/1954 đã đưa họ lại gần nhau với những cú sốc văn hóa để rồi tìm ra những hòa giải và đồng thuận.

Dân số miền Nam vọt lên thêm một triệu người. Tức là tăng dân số miền Nam lên 8%. Con số 8% quả là không nhỏ. Phải lo chỗ ăn, chỗ ở, chỗ học, chỗ làm ăn sinh sống, chỗ an cư lập nghiệp. Cứ tưởng tượng, mỗi ngày có vài ngàn người đến trong suốt mấy tháng trời. Công việc không hẳn là dễ. Nhưng rồi mọi chuyện cũng đâu vào đấy. Và chỉ trong một thời gian rất ngắn, những người trẻ chân ướt chân ráo ấy làm nên nhiều chuyện, nhiều kỳ tích trổi bật trong chính trị, xã hội, nhất là trong lãnh vực văn hóa, nghệ thuật.

Số phận của họ nay là số phận của toàn dân miền Nam, chia xẻ những vinh quang cũng như những mất mát, thua thiệt.

Ở Sàigòn, ngay khi Hiệp định Genève vừa được ký kết, thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ. Để tang cuộc chia đôi đất nước. Ông Diệm đã ra tuyên cáo cực lực chống đối việc chia đôi Việt Nam. Chỉ sau một ngày, có nghĩa là vào ngày thứ năm 22/7/1954:

Toàn miền Nam treo cờ rũ. Không chấp nhận cuộc chia đôi đất nước.

Cả một cuộc đổi đời cho người từ hai phía. Cách biệt và chia lìa. Phía bên kia, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Về ngọai giao, ta đã thắng lợi to: chính phủ Pháp đã thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta”.

Phía miền Nam vĩ tuyến 17. Lúng túng. Trước đó, ngày 16/6/1954.Tại Cannes Bảo Đại chính thức cử ông Ngô Đình Diệm lên làm Thủ Tướng toàn quyền để đối phó với tình hình chính trị nguy ngập. Khi làm Thủ tướng, ông Diệm muốn đưa số người di cư lên tổng số 2 triệu người, trong khi đó tướng Ély ước đoán chỉ vào khoảng 200.000 người là cùng. Ông Diệm hẳn là có lý nếu quân đội Pháp tích cực hơn trong việc cứu vớt người tỵ nạn.

Dù sao, con số gần một triệu người di cư vào miền Nam, tiềm năng và hứa hẹn của đám mgười trẻ từ 45 tuổi trở xuống thật không nhỏ. Ông Diệm có cái lý để kỳ vọng như vậy. Và người di cư đã không quên cái ơn ấy. Và đó phải được coi là chuyện bình thường như trăm chuyện bình thường khác.

Trong khi đó, số người xin di cư hay hồi cư từ Nam ra Bắc chỉ có 4358 người. Ở đây không kể khoảng 60000 cán bộ Việt Minh ở lại miền Nam, rút vào bí mật.

Nay ai đó có về quê thăm, ghé dùm xem Cái Sắn, Hố Nai, Bảo Lộc, vùng ven Bà Rịa để thấy cuộc sống người dân ở đó như thế nào?
Cuộc di cư ấy mở ra cái dấu mốc lịch sử đánh dấu phân chia lằn ranh Quốc-Cộng. Bên này là Quốc Gia, bên kia là Cộng Sản Tự Do và Độc tài. Cho nên, khi bước lên tàu há mồm, người di cư nhận được một message rất rõ ràng: Passage to Freedom. Chính vì hai chữ đó mà bỏ quê hương miền Bắc ra đi. Chết sống ra đi. Liều thân mà đi không cần biết tương lai sẽ ra sao?

Đây là con đường Tự Do (Hải Phòng vào Sài Gòn)
Ý nghĩa đó cần được ghi khắc cho thế hệ mai sau để sau này không cho phép bất cứ ai xuyên tạc, phỉ báng cuộc di cư đó. H. Amouroux trong số báo Aurore, ra ngày 4/4/1955 diễn tả đúng cái tinh thần ấy: “Trong suốt cuộc chiến vừa qua, chúng ta đã nói rằng, mình bảo vệ sự tự do và một số giá trị tinh thần…thì hôm nay, họ cho biết rằng, họ hiểu được thế nào là tự do, dân chủ. Chúng ta, thế giới tự do và không chỉ có nước Pháp, chúng ta có thể nào bỏ rơi những con người đó mặc cho sự trả thù, đem quẳng họ lại vào bàn tay Cộng Sản và làm cho cuộc bỏ trốn kỳ diệu của họ năm 1954 hóa ra vô ích sao?

Đó là cuộc đi tìm Tự Do đến miền Nam như miền đất hứa mà nhà văn Sơn Nam gọi là miền đất Lạc Thổ. Phải gọi là đất lành hay đất hứa mới thật là đúng. Đó là cuộc Nam tiến vì lý do chính trị lớn nhất trong lịch sử người Việt, dân Việt. Đó cũng là bằng chứng không chối cãi được cuộc bỏ phiếu chống lại Cộng Sản bằng đôi chân của 865.000 người di cư từ Bắc vào Nam và chấm dứt vào ngày 12/10/1954 ở Hà Nội.

Và trong số gần triệu người di cư đó, theo ông Từ Uyên , cho biết rằng Bộ Tư lệnh Pháp đã dành 12 chuyến bay DC4 vào các ngày 12 và 13/8/1954 để chuyên chở giới sinh viên vào Sàigòn. Cũng theo ông Từ Uyên, ông Ngô Đình Diệm đã từ trong Nam ra Hà Nội qua trung gian của bác sĩ Phạm Hữu Chương để tiếp xúc với giới sinh viên Hà Nội cho việc tổ chức cuộc di cư này. Một cuộc họp ở một biệt thự tại phố Hàm Long gồm có bác sĩ Phạm Hữu Chương, các sinh viên Lương Trọng Cửu, Tôn Thất Cần và Từ Uyên.

Chính từ buổi họp này đã đưa đến quyết định đưa khoảng 1200 sinh viên từ Bắc vào Sàigòn.

Trong số những thanh niên, thiếu nữ từ miền Bắc di cư vào, họ là ai?

Họ là những thanh niên thuộc giới trí thức trẻ như Vũ Khắc Khoan, Trần Thanh Hiệp, Vương Văn Bắc, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Quách Đàm, Hoàng Cơ Long, Tạ Tỵ, Lưu Trung Khảo, Lý Quốc Sỉnh, Nguyễn Khắc Ngữ, Lữ Hồ, Họa sĩ Ngym Cao Uyên, Bùi Đình Nam, Tô Đồng, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần Kim Tuyến, Phạm Việt Tuyền, Nhật Tiến, Mặc Đỗ, Hiếu Chân, Như Phong và những người trẻ còn ngối ghế Trung Học như Đỗ Quý Toàn, Lê Đình Điểu, Duyên Anh…Và hàng vạn thanh niên thiếu nữ khác nữa …

Phía quân đội có các sĩ quan trẻ, cấp úy như Lê Nguyên Khang, Nguyễn Cao Kỳ, Phó Quốc Trụ, Phạm Văn Phú, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Bảo Trị, Hoàng Cơ Minh.

Phần đông bọn họ, không ai quá 30 tuổi. Họa hoằn trong số ấy như Vũ Hoàng Chương lúc ấy 38 tuổi. Họ đều thành danh, có tên có tuổi ở Sài gòn sau này. Hầu hết bọn họ trở thành nhà văn, nhà báo, giáo sư đại học, đại sứ, nhà tư bản v.v… Và nếu là sĩ quan thì đều làm đến tướng cả, trừ có Phó Quốc Trụ.

Có nghĩa là cuộc đời họ, sau đó đã nên ông nên bà.

Tất cả những giới trẻ đó sau này phần đông trở thành những tài năng, những tên tuổi trên chính trường miền Nam Việt Nam.

Đó vẻ đẹp, là niềm hãnh diện chung của mọi người.

Tâm trạng lúc bấy giờ ở Hà Nội là đi hay ở. Ai đi, ai ở? Người ta gặp nhau là để bàn chuyện đi hay ở. Và cũng từ đó bày ra cảnh chợ trời bán buôn giữa kẻ đi, người ở.

Nói cho đúng ra, thủ tướng Diệm ra Hà Nội ngày 30/6/1954 là để quan sát tình hình và để xem xét tổng quát kế hoạch rút quân đội Quốc gia ra khỏi Bắc Việt đồng thời giải quyết vấn đề người di cư. Người Pháp thì đã có chương trình triệt thoái binh lính Pháp ngay từ đầu tháng 6 rồi. Vì thế, lần lượt quân đội Quốc Gia được rút khỏi Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình và đầu tháng bảy, sau đó rút khỏi Nam Định rồi Phủ Lý.

Trong công cuộc di cư này, ông Diệm đã phản đối quân đội Pháp đã bỏ bom giết chết hàng ngàn người ở Bùi Chu và rằng đôi khi người di cư phải trả giá 100 đồng cho mỗi người được chở đi. Sách Thập giá và lưỡi gươm, không phải, phải nói là cuốn Dieu et César chỉ viết theo lời thuật lại của dân chúng đã thổi phồng số tiền lên đến 5000 quan Pháp cho một chỗ trên thuyền bè? Người dân quê lấy đâu ra tiền cho một chồ ngôi trên thuyền như vậy?

Kể từ ngày này, miền Nam tuổi trẻ thêm đa dạng, chẳng những thêm chất xám từ Bắc vô Nam. Chẳng những có cuộc di cư người mà còn có cuộc Di cư chữ nghĩa. Chữ nghĩa miền Bắc cũng lếch thếch đi theo người di cư xuống tầu há mồm vào miền Nam mà nay có thể có chữ còn chữ mất.

Vào đến miền Nam, Mai Thảo viết Đêm giã từ Hà Nội. Để nhớ hay để quên? Và dưới mắt nhìn của Trần Văn Nam thì Đêm giã từ Hà Nội là tiêu biểu cho văn nghệ thời kỳ này, vì nó manh nha một lối hành văn mới, một nghệ thuật mới. Trần Mộng Tú sau này xót xa Hà Nội:

Lâu lắm em mới về Hà Nội
Đi trên viên gạch tuổi thơ ngây
Gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy

Và ta hãy làm thinh lắng nghe:

Tôi xa Hà Nội năm em 16 khi vừa biết yêu…
Hôm nay Sài gòn bao nnhiêu tà áo khoe màu sắc vui, nhưng riêng một người .. Hà Nội ơi …

Và mỗi một người trẻ rời Hà Nội đều mang theo một mảnh Hà Nội qua hội họa, thi ca, tiểu thuyết hay âm nhạc.

Thêm vào đó, còn có một số không nhỏ giới thanh niên trẻ đã học thành tài tại các nướcTây phương trở về với chính phủ miền Nam. Đây đã hẳn không phải một cuộc di cư mà là một sự chọn lựa chính trị, chọn lựa giữa Cộng Sản và Quốc Gia. Chọn lựa đứng về phía độc tài này hay phía tự do.Theo Nguyên Sa Trần Bích Lan kể lại chỉ có một nữ sinh viên dược tên Thẩm Hoàng Thư trong số các bạn bè của ông chọn về Hà Nội. Mà lý do chọn lựa hiểu được, vì bố mẹ cô ở lại Hà Nội. Đó là gia đình ông Thẩm Hoàng Tín, gia đình khá nổi tiếng mà đã có một thời ông Thẩm Hoàng Tín làm thị trưởng Hà Nội.

Trong hồi ký của Võ Long Triều cũng có nhắc lại giai đoạn ấy, nhiều giới trẻ do dự trong quyết định giữa ở lại Pháp hay về miền Nam. Phần những người trẻ đã chọn miền Nam, kẻ trước người sau lần lượt rủ nhau về. Tên đứng hàng đầu của họ là Nguyên Sa Trần Bích Lan, Cung Trầm Tưởng, Trịnh Viết Thành, Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Khắc Dương (em của Nguyễn Khắc Viện), Lê Thành Trị, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Đỗ Long Vân, Nguyễn Khắc Hoạch hay Trần Hồng Châu, Nguyễn Bình An, Nguyễn Huy Lịch, Hải Linh, Ngô Duy Linh, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Đình Đầu, Trần Thái Đỉnh, Trương Bá Cần, Bùi Xuân Bào, Võ Long Triều, Huỳnh Văn Lang (Ở Mỹ về do lời kêu gọi của ông Diệm), Nguyễn Văn Trường, Bùi Xuân Bào, Trương Công Cừu, Nguyễn Văn Hanh v.v... Kể sao cho vừa.

Cuộc di cư ngót một triệu người đó với giới trẻ miền Bắc cộng với các giới trẻ sẵn có ở miền Nam và các giới trẻ thanh niên về từ Âu Châu đã thay đổi phần lớn bộ mặt miền Nam về xã hội, nếp sống, sinh họat kinh tế và nhất là Văn học nghệ thuật.


Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
Violet
post Oct 11 2008, 09:30 AM
Post #2


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



Những truyện ngắn của Thảo Trường, ngay từ lúc anh bắt đầu cầm bút thường cũng là những truyện có tầm cỡ, có chủ đề, muốn gửi gắm, muốn nói lên một điều gì. Chẳng hạn câu truyện về Một người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp. Trong đó tác giả mô tả một người đàn bà sống giữa hai lằn đạn, Quốc gia ban ngày, Việt Minh ban đêm. Đứa trẻ ra đời không biết là con ai? Điều đó nói lên thân phận người đàn bà trong chiến tranh. Câu truyện thật là cảm động nói lên cái phi lý của cuộc chiến tranh này. Rồi ông Trung úy đầy lòng mẫn cảm đã nhận đứa bé làm con nuôi để ít ra nó cũng có một người làm cha nó. Ông đã viết một bức thư cho nó để năm nó đủ 18 thì mở ra đọc. Trong lá thư ông viết:” Không biết sau này con sẽ sống ở xã hội nào, nhưng cha chỉ xin con một điều: Trước khi hành động, trước khi tranh đấu, trước khi làm Cách Mạng, trước khi biểu tình, trước khi lật đổ một chế độ, trước khi đi hành quân, trước khi thuyết pháp, trước khi tham nhũng, trước khi cờ bạc, trước khi phá phách, trước khi hy sinh, nghĩa là trước khi có bất cứ quyết định gì thì ba xin con, con hãy nghĩ tới người đàn bà đã có mang con, những người mẹ mà không biết bao nhiêu chủ nghĩa, những điều đao to búa lớn đã tra tấn bà. 22

Vì thế, nhà văn nay không còn là kẻ đứng ngoài mà là dấn thân, nhập cuộc..

THế hệ thanh niên trên dưới 30 tuổi, kể từ 63 trở đi với cái chết từng ngày, từng giờ, chết đủ kiểu. Nay thì giã từ thứ văn chương phòng trà, văn chương trú ẩn, thứ văn chương tháp ngà, cười đùa trên xác người lính ngoài mặt trận.

Đồi Gia Hựu dài cơn đồng thiếp
Thăm hỏi nhau, mày còn mạnh giỏi
Còn nguyên lành thân xác phàm phu
Bao giờ giải ngũ, bao giờ có phép
Lúc nào vào lính nhớ cho tao biết
Vợ con mày mấy đứa ra sao

Một ngày kia, bạn của Sự, Phạm Nhã Dự trước mộ bia của bạn đã làm bài thơ như sau:
Bưu điện Sài Gòn

Trở lại Phan Rang lần này nữa
Thăm mày, không biết ngắn hay lâu
Thăm mày đù má mày đã chết
Hay chỉ thăm cỏ mọc xanh mầu
Chiều này sao gió nhiều mày nhỉ
Gió nổi trong tao đến lạnh mình
Đù má nhang mày sao chẳng cháy
Đốt mãi que diêm đến lạ lùng

Và tâm trạng của một người lính từ vùng hỏa tuyến trở về thành phố. Lời thơ cao ngạo, bất cần đời, chán nản mà tội nghiệp. Có cái gì đó đau xót về sự tuyệt vọng, về một sự hy sinh có thể trở thành vô nghĩa?

Mai ta đụng chạm ta còn sống
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui.
(Thơ Nguyễn Bắc Sơn)

Và thêm một đoạn vào cuộc đời:

Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ
Bước giày đinh lạng quạng một đời trai
Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý
Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai

(Thơ Cao Tần trong bài Cảm Khoái, 1977)

Một vài kỷ niệm để thấy rằng chiến tranh nào cũng là một bi kịch nhân 2, 3 lần . Chúng tôi có một người bạn, chẳng may, anh bị rớt tú tài 2 và phải nhập trường Võ bị Quốc Gia Đàlạt. Mẹ anh khóc lóc so sánh với trường hợp của tôi để buồn. Chắc anh cũng buồn. Nhưng số anh rất là hên. Cả đời lính chiến trận. Thân thể anh không một vết sứt mẻ. Trước khi mất nước, anh đeo lon đại tá Lữ đoàn trưởng, mang cả một binh đội đi theo anh. Giọt nước mắt tiễn đưa của mẹ anh hẳn nay là giọt vui mừng?

Tôi vẫn nghĩ anh là loại người hùng của tuổi trẻ miền Nam. Nếu gặp anh, cần phải chào đại tá, tôi xin được ngả mũ chào, vì những người như anh mà cái quân đội ấy đã một thời làm kẻ hào hùng.

Ở đâu cũng có những kẻ hèn và nhiều kẻ hèn, nhưng nhờ đó kẻ hào hùng thêm rõ mặt.

Các phong trào phản chiến ở miền Nam

Chiến tranh như thế, mỗi ngày mỗi ác liệt. Bom đạn trút xuống vô tình. Phản chiến có mặt dưới nhiều khuôn dạng khác nhau. Không phải chỉ có một phong trào phản chiến mà có nhiều xu hướng khác nhau: có Thích Nhất Hạnh, có Thích Trí Quang, có nhóm trí thức Hành trình với Thế Nguyên, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, có nhóm Thái độ của Thế Uyên, có Trịnh Công Sơn, nhưng lại có Phạm Duy, có nhóm dân biểu đối lập như nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung mà ta có thể tạm gọi là thành phần thư ba.

Cũng đừng quên một điều quan trọng, có thứ phản chiến của người Mỹ ngay trên đất Mỹ và một số sinh viên hải ngoại theo đuôi. Cuộc thăm dò dư luận Mỹ năm 1967 cho thấy 46% dân chúng Mỹ cho rằng tiến hành cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam là một sai lầm.

Ngày 10/4/1971, 500 phụ nữ Hoa Kỳ biểu tình trước Ngũ Giác Đài, đầu não của cuộc chiến tranh Việt Nam, để phản đối chiến tranh.

50 quân nhân Mỹ đang chiến đấu tại Việt Nam đã gửi đăng một bức thư trên tờ Nữu Ước thời báo kêu gọi dân Mỹ tham gia biểu tình chống chiến tranh Việt Nam vào cuối tháng tháng tư với đầy đủ tên họ và cấp bậc của từng người.

Và trước đó, một cô gái Việt Nam, chị Phan Thị Mai, hay Nhất Chi Mai đã tự thiêu tại chùa Từ Nghiêm và để lại chúc thư như sau:

Sao người Mỹ tự thiêu
Sao thế giới biểu tình
Sao Việt Nam im tiếng
Không dám nói hòa bình

4 năm sau, trên tờ Tin Sáng, số ngày 02-06-1971 đã đăng lại toàn văn ngày lễ kỷ niệm Nhất Chi Mai với câu thơ của liệt nữ:

Xin đem thân làm đuốc
Xin soi sáng u minh
Xin lòng người thức tỉnh
Xin Việt Nam hòa bình …

Don Luce (nhân viên IVS, sẽ trình bày ở Phần sau về vấn đề này ) trước khi bị trục xuất ra khỏi Việt Nam đã viết như thế này:” Tôi thấy đã đến lúc tôi và tất cả những người ngoại quốc phải rời khỏi Việt Nam.Thời gian đã điểm từ lâu. Tôi tin tưởng rằng các bạn có thể giải quyết những vấn đề và tôi chắc chắn các bạn không cần những người cố vấn vĩ đại.

Tôi sẽ không trở lại Sài gòn cho đến khi có hòa bình. Và tôi sẽ không trở lại Việt Nam cho đến khi nào quốc gia các bạn thật sự độc lập. Ngày đó chúng ta sẽ ăn phở tại quán phở 79 và đi chuyến xe buýt qua Đồng Xoài và DakSon đến Ban Mê Thuột, ra LạcThiện tới Đà lạt .. Và chúng ta sẽ tiếp tục đi tới Đồng Hới, Vinh, Thanh Hóa và ra Hànội. (trích dẫn sách dưới dạng bản thảo, dành cho người quen biết)

Cuối cùng, để lẩn trốn tâm trạng bất lực và lo sợ trong cuộc chiến này, sẽ có vô số hình thức, đa dạng, đủ kiểu về sự lẩn trốn như sẽ trình bày sau đây.

Nhưng trước hết, cần tìm hiểu nguyên nhân nào đưa dắt con người đến chọn lựa thái độ phản chiến? Hãy nhìn một vài con số:

Năm 1950: có 327 cố vấn Mỹ
Năm 1960: lên 600.
Năm 1961: 3200
Năm 1963: 16500
Năm 1964: 23.000 Tướng W. Westmoreland và sau ông Diệm.
Năm 1965: 180.000
Năm 1966: 389.000
Năm 1967: 463.000
Năm 1968: 495.000 sau tết Mậu Thân
Năm 1969: 541.500

Mặc dầu quân số Mỹ tăng lên nửa triệu người, nó vẫn là thứ chiến tranh có giới hạn limited war, chiến tranh không lấy thắng. Nó vô lý như thế đấy. Mặc dầu quân Mỹ tốn hơn nửa tỉ đô la trong một năm để bỏ bom miền Bắc vào những năm ác liệt nhất. Mặc dầu thế giới lên án những cuộc bỏ bom này biến Bắc Việt trở về thời kỳ đồ đá. Người ta ước lượng các cuộcc bỏ bom miền Bắc gây thiệt hại khoảng 300 triệu đô la, nhưng thiệt hại về số mày bay bị rơi lại tốn kém 900 triệu đô la cho Mỹ. Vào năm 1967, mỗi tháng hàng triệu tấn quân nhu đổ vào bến cảng Sài gòn mà tính ra mỗi người lính Mỹ tiêu dùng 50 kgr đủ lọai mỗi ngày. Trong khi đó, quân đội Bắc Việt chỉ cần tiếp liệu 1500 tấn mỗi ngày là đủ cho các binh đội của họ. Quân đội đó không có máy bay, tầu chiến, xăng nhớt đủ dùng. Ấy là không kể, họ không cần đến thuốc gội đầu, kem cạo râu, lade, rượu mạnh và ngay cả áo đi mưa mặc vào lúc trời nắng cho lính Mỹ.

Theo Bộ truởng Quốc Phòng Mc Namare, tổn phí chiến tranh Việt Nam vào tháng sáu 1967 tính ra là 21 tỉ đô la. Cũng là nhiều. 3% sản lượng quốc gia của Mỹ. Nhưng thật chẳng nghĩa lý gì so với 48% chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ hai và 12% trong chiến tranh Cao Ly.

Nhưng mặc dầu vậy, 46% dân chúng Mỹ sót của không tán thành cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Cuộc dội bom miền Bắc thật khủng khiếp. Theo báo Le Monde, số ra ngày 14/11/1971, từ năm 1965 đến năm 1971, trên 13 triệu tấn bom đạn đã được trút xuống Đông Dương với sức phá hoại tương đương với 670 trái bom nguyên tử cỡ bom nguyên tử liệng xuống Hiroshima vào năm 1945.

Người ta ví von những trái bom thả xuống miền Bắc là những chùm nho phẫn nộ. Nhưng thực sự, mức độ tàn phá nó không khủng khiếp như người ta tưởng. Con số nói lên sự thật phũ phàng như thế nào. Hồi tháng 3/1945, chỉ trong một đêm Mỹ dội bom thành phố Tokyo, có 84 ngàn người chết. Trong khi đó các cuộc bỏ bom ở Hà nội và Hải Phòng của không quân Mỹ chỉ gây tổn hại tất cả là 1138 người chết ở Hà nội và 305 ở Hải Phòng.

Con số thật là nhỏ không đáng kể. Vì chính quyền Hà nội đã sơ tán dân chúng đi hết rồi.
Chiến tranh đó rồi cuối cùng sẽ dẫn đưa đến một thứ chiến tranh hao mòn và chiến tranh cân não, nản chí và đi đến thua cuộc .

Các tướng Kỳ, Khánh, Thi thì đều mong muốn mang chiến tranh sang bên kia vĩ tuyến 17, để hàng 2, 3 sư đoàn cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh ra làm nhiều khúc. Chặn đường tiếp tế, quân đội Bắc Việt phải rút về. Sau này, theo lời ông Bùi Tín kể lại, bộ tham mưu chiến lược Cộng sản chỉ có một điều lo sợ: quân đội Mỹ vượt qua Vĩ tuyến 17 thì chiến cuộc đã hẳn là khác. Người Mỹ sợ không dám làm, sợ bóng gió Trung Cộng và Nga Sô can thiệp. Mãi sau này mới quyết định hành quân sang Hạ Lào thì đã quá trễ, vì cộng Sản đã đủ mạnh để có thể đương đầu với Mỹ ở cấp sư đoàn rồi.

Cuộc hành quân sang Hạ Lào kết thúc vào ngày thứ năm 25/3/1971. Đó là một cuộc thảm bại của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trên tờ Trắng Đen, số ra ngày 23/3/1971 có chụp một bức hình cho thấy, binh sĩ đã bám vào hai cái càng phía dưới trực thăng để tháo chạy. Và trên tờ Chính Luận cho thấy xe tăng quân đội VNCH cố tháo chạy trong cuộc triệt thoái với lời ghi:” quân đội VNCH đã rút khỏi Lào sớm hơn dự định do sức phản úng quá dữ dằn của Cộng quân (Chính Luận số 26/3/1971)

Cũng trên Chính Luận, có lời bình luận gay gắt đối với Mỹ như chưa từng có:” con đường nhục nhã là con đường đầu hàng trá hình để rồi không phải chỉ mất ít nhiều quyền lợi mà mất luôn thế giá siêu cường và trở nên một thứ bè bạn tráo trở hèn mạt”

Cuộc hành quân sang Hạ Lào là một sự hy sinh không nhỏ đối với quân đội VNCH thời kỳ đó.

Chưa kể, nhất là từ năm 1965, mỗi người lính Mỹ luân phiên đánh trận chỉ một năm sau đó được rút về. Rút về từng cá nhân mà không phải một đơn vị. Một năm chỉ vừa đủ thời gian để người lính rút kinh nghiệm chiến đấu, làm quen với trận mạc thì lại đã được thay thế bằng một tân binh hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến trường. Cứ giả dụ cứ 6 tháng, một đại đội được thay thế bằng một nửa số người mới, tinh thần đâu để binh lính đánh trận? Ai cũng chỉ chờ hết hạn bằng an trở về.

Trong cuộc chiến đó, người Mỹ không biết ai là kẻ thù, ai là bạn. Và vì thế kẻ thù như ở khắp nơi. Và rồi cái nóng, cái mưa và đỉa vắt cũng là thứ kẻ thù tệ hại như chính Việt Cộng. Mỗi một ngày là những thử thách đối với họ để tồn tại.

Và Tim O'Brien của người Mỹ đã viết về những hoài niệm chiến tranh trong bài: If I Die in a combat Zone.

Trong một cuộc chiến tranh mà ta biết chắc là không chiến thắng, dù có đổ thêm hàng trăm ngàn binh lính nữa, cũng sẽ không thay đổi được diện mạo cuộc chiến. Tâm trạng chán nản, bất an dần đưa đến tinh thần phản chiến, ước vọng hòa bình.

Phong trào phản chiến chỉ thực sự xuất hiện từ năm từ 1964/1969, nghĩa là sau khi lật đổ nền đệ nhất Cộng Hòa. Và có nhiều hình thức khác nhau. Phần lớn các phong trào này đều do giới trẻ phát động. Bởi vì họ là nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến này. Chính họ chứ không ai khác phải ra ngoài mặt trận và có thể phơi thây nơi chiến trường.

Ước vọng hòa bình là một ước vọng thâm sâu và chính đáng của con người. Nhưng ước vọng hòa bình là một chuyện, nhưng hòa bình với giá nào lại là chuyện khác.
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 17th June 2025 - 05:33 PM