Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 20 Năm Giới Trẻ Miền Nam Việt Nam - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> 20 Năm Giới Trẻ Miền Nam Việt Nam
Violet
post Oct 11 2008, 08:08 AM
Post #1


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



20 Năm Giới Trẻ Miền Nam Việt Nam




Nguyễn Văn Lục

Tôi đã viết những bài 20 năm văn học dịch miền Nam Việt Nam, 20 năm triết lý Tây Phương miền Nam Việt Nam, 20 năm trí thức miễn Nam nhập cuộc. Và cũng trong cái tinh thần ấy với bài này, 20 năm giới trẻ miền Nam Việt Nam.

Tuổi trẻ miền Nam với những con người trẻ, trai có, gái có, với nếp sống, nếp nghĩ, phản ứng vui buồn, ứng xử trước thời cuộc, trước cuộc đời mà trong đó tôi là thành phần. Viết lại cho mình, cho bạn bè mà cho các thế hệ sắp tới nhìn lại cha anh mình.

Miền Nam vào thủa ấy có khoảng ngót nghét 11 triệu dân sống rải rác từ Cà Mâu đến Bến Hải. Các cậu thanh niên có cái mốt ăn mặc rất là lạ: Họ mặc quần tây mà áo bỏ ngoài quần. Cậu nào cũng vậy. Còn các cô thì đi guốc mộc to bản như guốc Nhật, nổi bật bàn chân nhỏ bé, được kỳ cọ trắng phau. Xinh quá. Hai ống quần rộng đến chui vào được. Kỳ quá. Chiếc áo Bà ba rộng thùng thình, có hai túi. Hình như sự ăn mặc ấy hoang phí quá, không ăn khớp với thân hình. Bao nhiêu đường cong, đường eo, vùng đồi ngực nở ùn lên, vùng thung lũng hoa vàng bị khỏa lấp và san bằng hết.

Trong khi đó, gái Bắc thì gọn gàng trong chiếc áo cánh vải phin nõn khít khao hằn lên tuổi con gái bên trong cái yếm. Sức sống vươn lên, lồ lộ hẳn ra.

Hai tuổi trẻ, hai cách biểu hiện, hai vẻ đẹp. Hai miền hồi những năm 1955. Họ gặp nhau như một định mệnh lịch sử vào cái ngày đất nước bị cắt làm đôi.

Hiệp định Genève vào ngày 21/7/1954 đã đưa họ lại gần nhau với những cú sốc văn hóa để rồi tìm ra những hòa giải và đồng thuận.

Dân số miền Nam vọt lên thêm một triệu người. Tức là tăng dân số miền Nam lên 8%. Con số 8% quả là không nhỏ. Phải lo chỗ ăn, chỗ ở, chỗ học, chỗ làm ăn sinh sống, chỗ an cư lập nghiệp. Cứ tưởng tượng, mỗi ngày có vài ngàn người đến trong suốt mấy tháng trời. Công việc không hẳn là dễ. Nhưng rồi mọi chuyện cũng đâu vào đấy. Và chỉ trong một thời gian rất ngắn, những người trẻ chân ướt chân ráo ấy làm nên nhiều chuyện, nhiều kỳ tích trổi bật trong chính trị, xã hội, nhất là trong lãnh vực văn hóa, nghệ thuật.

Số phận của họ nay là số phận của toàn dân miền Nam, chia xẻ những vinh quang cũng như những mất mát, thua thiệt.

Ở Sàigòn, ngay khi Hiệp định Genève vừa được ký kết, thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ. Để tang cuộc chia đôi đất nước. Ông Diệm đã ra tuyên cáo cực lực chống đối việc chia đôi Việt Nam. Chỉ sau một ngày, có nghĩa là vào ngày thứ năm 22/7/1954:

Toàn miền Nam treo cờ rũ. Không chấp nhận cuộc chia đôi đất nước.

Cả một cuộc đổi đời cho người từ hai phía. Cách biệt và chia lìa. Phía bên kia, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Về ngọai giao, ta đã thắng lợi to: chính phủ Pháp đã thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta”.

Phía miền Nam vĩ tuyến 17. Lúng túng. Trước đó, ngày 16/6/1954.Tại Cannes Bảo Đại chính thức cử ông Ngô Đình Diệm lên làm Thủ Tướng toàn quyền để đối phó với tình hình chính trị nguy ngập. Khi làm Thủ tướng, ông Diệm muốn đưa số người di cư lên tổng số 2 triệu người, trong khi đó tướng Ély ước đoán chỉ vào khoảng 200.000 người là cùng. Ông Diệm hẳn là có lý nếu quân đội Pháp tích cực hơn trong việc cứu vớt người tỵ nạn.

Dù sao, con số gần một triệu người di cư vào miền Nam, tiềm năng và hứa hẹn của đám mgười trẻ từ 45 tuổi trở xuống thật không nhỏ. Ông Diệm có cái lý để kỳ vọng như vậy. Và người di cư đã không quên cái ơn ấy. Và đó phải được coi là chuyện bình thường như trăm chuyện bình thường khác.

Trong khi đó, số người xin di cư hay hồi cư từ Nam ra Bắc chỉ có 4358 người. Ở đây không kể khoảng 60000 cán bộ Việt Minh ở lại miền Nam, rút vào bí mật.

Nay ai đó có về quê thăm, ghé dùm xem Cái Sắn, Hố Nai, Bảo Lộc, vùng ven Bà Rịa để thấy cuộc sống người dân ở đó như thế nào?
Cuộc di cư ấy mở ra cái dấu mốc lịch sử đánh dấu phân chia lằn ranh Quốc-Cộng. Bên này là Quốc Gia, bên kia là Cộng Sản Tự Do và Độc tài. Cho nên, khi bước lên tàu há mồm, người di cư nhận được một message rất rõ ràng: Passage to Freedom. Chính vì hai chữ đó mà bỏ quê hương miền Bắc ra đi. Chết sống ra đi. Liều thân mà đi không cần biết tương lai sẽ ra sao?

Đây là con đường Tự Do (Hải Phòng vào Sài Gòn)
Ý nghĩa đó cần được ghi khắc cho thế hệ mai sau để sau này không cho phép bất cứ ai xuyên tạc, phỉ báng cuộc di cư đó. H. Amouroux trong số báo Aurore, ra ngày 4/4/1955 diễn tả đúng cái tinh thần ấy: “Trong suốt cuộc chiến vừa qua, chúng ta đã nói rằng, mình bảo vệ sự tự do và một số giá trị tinh thần…thì hôm nay, họ cho biết rằng, họ hiểu được thế nào là tự do, dân chủ. Chúng ta, thế giới tự do và không chỉ có nước Pháp, chúng ta có thể nào bỏ rơi những con người đó mặc cho sự trả thù, đem quẳng họ lại vào bàn tay Cộng Sản và làm cho cuộc bỏ trốn kỳ diệu của họ năm 1954 hóa ra vô ích sao?

Đó là cuộc đi tìm Tự Do đến miền Nam như miền đất hứa mà nhà văn Sơn Nam gọi là miền đất Lạc Thổ. Phải gọi là đất lành hay đất hứa mới thật là đúng. Đó là cuộc Nam tiến vì lý do chính trị lớn nhất trong lịch sử người Việt, dân Việt. Đó cũng là bằng chứng không chối cãi được cuộc bỏ phiếu chống lại Cộng Sản bằng đôi chân của 865.000 người di cư từ Bắc vào Nam và chấm dứt vào ngày 12/10/1954 ở Hà Nội.

Và trong số gần triệu người di cư đó, theo ông Từ Uyên , cho biết rằng Bộ Tư lệnh Pháp đã dành 12 chuyến bay DC4 vào các ngày 12 và 13/8/1954 để chuyên chở giới sinh viên vào Sàigòn. Cũng theo ông Từ Uyên, ông Ngô Đình Diệm đã từ trong Nam ra Hà Nội qua trung gian của bác sĩ Phạm Hữu Chương để tiếp xúc với giới sinh viên Hà Nội cho việc tổ chức cuộc di cư này. Một cuộc họp ở một biệt thự tại phố Hàm Long gồm có bác sĩ Phạm Hữu Chương, các sinh viên Lương Trọng Cửu, Tôn Thất Cần và Từ Uyên.

Chính từ buổi họp này đã đưa đến quyết định đưa khoảng 1200 sinh viên từ Bắc vào Sàigòn.

Trong số những thanh niên, thiếu nữ từ miền Bắc di cư vào, họ là ai?

Họ là những thanh niên thuộc giới trí thức trẻ như Vũ Khắc Khoan, Trần Thanh Hiệp, Vương Văn Bắc, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Quách Đàm, Hoàng Cơ Long, Tạ Tỵ, Lưu Trung Khảo, Lý Quốc Sỉnh, Nguyễn Khắc Ngữ, Lữ Hồ, Họa sĩ Ngym Cao Uyên, Bùi Đình Nam, Tô Đồng, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần Kim Tuyến, Phạm Việt Tuyền, Nhật Tiến, Mặc Đỗ, Hiếu Chân, Như Phong và những người trẻ còn ngối ghế Trung Học như Đỗ Quý Toàn, Lê Đình Điểu, Duyên Anh…Và hàng vạn thanh niên thiếu nữ khác nữa …

Phía quân đội có các sĩ quan trẻ, cấp úy như Lê Nguyên Khang, Nguyễn Cao Kỳ, Phó Quốc Trụ, Phạm Văn Phú, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Bảo Trị, Hoàng Cơ Minh.

Phần đông bọn họ, không ai quá 30 tuổi. Họa hoằn trong số ấy như Vũ Hoàng Chương lúc ấy 38 tuổi. Họ đều thành danh, có tên có tuổi ở Sài gòn sau này. Hầu hết bọn họ trở thành nhà văn, nhà báo, giáo sư đại học, đại sứ, nhà tư bản v.v… Và nếu là sĩ quan thì đều làm đến tướng cả, trừ có Phó Quốc Trụ.

Có nghĩa là cuộc đời họ, sau đó đã nên ông nên bà.

Tất cả những giới trẻ đó sau này phần đông trở thành những tài năng, những tên tuổi trên chính trường miền Nam Việt Nam.

Đó vẻ đẹp, là niềm hãnh diện chung của mọi người.

Tâm trạng lúc bấy giờ ở Hà Nội là đi hay ở. Ai đi, ai ở? Người ta gặp nhau là để bàn chuyện đi hay ở. Và cũng từ đó bày ra cảnh chợ trời bán buôn giữa kẻ đi, người ở.

Nói cho đúng ra, thủ tướng Diệm ra Hà Nội ngày 30/6/1954 là để quan sát tình hình và để xem xét tổng quát kế hoạch rút quân đội Quốc gia ra khỏi Bắc Việt đồng thời giải quyết vấn đề người di cư. Người Pháp thì đã có chương trình triệt thoái binh lính Pháp ngay từ đầu tháng 6 rồi. Vì thế, lần lượt quân đội Quốc Gia được rút khỏi Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình và đầu tháng bảy, sau đó rút khỏi Nam Định rồi Phủ Lý.

Trong công cuộc di cư này, ông Diệm đã phản đối quân đội Pháp đã bỏ bom giết chết hàng ngàn người ở Bùi Chu và rằng đôi khi người di cư phải trả giá 100 đồng cho mỗi người được chở đi. Sách Thập giá và lưỡi gươm, không phải, phải nói là cuốn Dieu et César chỉ viết theo lời thuật lại của dân chúng đã thổi phồng số tiền lên đến 5000 quan Pháp cho một chỗ trên thuyền bè? Người dân quê lấy đâu ra tiền cho một chồ ngôi trên thuyền như vậy?

Kể từ ngày này, miền Nam tuổi trẻ thêm đa dạng, chẳng những thêm chất xám từ Bắc vô Nam. Chẳng những có cuộc di cư người mà còn có cuộc Di cư chữ nghĩa. Chữ nghĩa miền Bắc cũng lếch thếch đi theo người di cư xuống tầu há mồm vào miền Nam mà nay có thể có chữ còn chữ mất.

Vào đến miền Nam, Mai Thảo viết Đêm giã từ Hà Nội. Để nhớ hay để quên? Và dưới mắt nhìn của Trần Văn Nam thì Đêm giã từ Hà Nội là tiêu biểu cho văn nghệ thời kỳ này, vì nó manh nha một lối hành văn mới, một nghệ thuật mới. Trần Mộng Tú sau này xót xa Hà Nội:

Lâu lắm em mới về Hà Nội
Đi trên viên gạch tuổi thơ ngây
Gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy

Và ta hãy làm thinh lắng nghe:

Tôi xa Hà Nội năm em 16 khi vừa biết yêu…
Hôm nay Sài gòn bao nnhiêu tà áo khoe màu sắc vui, nhưng riêng một người .. Hà Nội ơi …

Và mỗi một người trẻ rời Hà Nội đều mang theo một mảnh Hà Nội qua hội họa, thi ca, tiểu thuyết hay âm nhạc.

Thêm vào đó, còn có một số không nhỏ giới thanh niên trẻ đã học thành tài tại các nướcTây phương trở về với chính phủ miền Nam. Đây đã hẳn không phải một cuộc di cư mà là một sự chọn lựa chính trị, chọn lựa giữa Cộng Sản và Quốc Gia. Chọn lựa đứng về phía độc tài này hay phía tự do.Theo Nguyên Sa Trần Bích Lan kể lại chỉ có một nữ sinh viên dược tên Thẩm Hoàng Thư trong số các bạn bè của ông chọn về Hà Nội. Mà lý do chọn lựa hiểu được, vì bố mẹ cô ở lại Hà Nội. Đó là gia đình ông Thẩm Hoàng Tín, gia đình khá nổi tiếng mà đã có một thời ông Thẩm Hoàng Tín làm thị trưởng Hà Nội.

Trong hồi ký của Võ Long Triều cũng có nhắc lại giai đoạn ấy, nhiều giới trẻ do dự trong quyết định giữa ở lại Pháp hay về miền Nam. Phần những người trẻ đã chọn miền Nam, kẻ trước người sau lần lượt rủ nhau về. Tên đứng hàng đầu của họ là Nguyên Sa Trần Bích Lan, Cung Trầm Tưởng, Trịnh Viết Thành, Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Khắc Dương (em của Nguyễn Khắc Viện), Lê Thành Trị, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Đỗ Long Vân, Nguyễn Khắc Hoạch hay Trần Hồng Châu, Nguyễn Bình An, Nguyễn Huy Lịch, Hải Linh, Ngô Duy Linh, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Đình Đầu, Trần Thái Đỉnh, Trương Bá Cần, Bùi Xuân Bào, Võ Long Triều, Huỳnh Văn Lang (Ở Mỹ về do lời kêu gọi của ông Diệm), Nguyễn Văn Trường, Bùi Xuân Bào, Trương Công Cừu, Nguyễn Văn Hanh v.v... Kể sao cho vừa.

Cuộc di cư ngót một triệu người đó với giới trẻ miền Bắc cộng với các giới trẻ sẵn có ở miền Nam và các giới trẻ thanh niên về từ Âu Châu đã thay đổi phần lớn bộ mặt miền Nam về xã hội, nếp sống, sinh họat kinh tế và nhất là Văn học nghệ thuật.


Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
Violet
post Oct 11 2008, 09:29 AM
Post #2


Nữ Hoàng Lướt Mạng
***

Group: Sinh Họat
Posts: 1,895
Joined: 9-April 08
Member No.: 10
Country



20 năm giới trẻ miền Nam Việt Nam

Nguyễn Văn Lục

Và như lời nhận xét của Phạm Duy: “Phải công nhận việc xây dựng Trung Tâm Điện Ảnh là một công trình lớn của chính quyền Ngô Đình Diệm vì đây là nơi đào tạo những chuyên viên điện ảnh đầu tiên.”

Thời ông Diệm, Trung tâm điện ảnh chủ yếu làm những phim tài liệu, phim thời sự, trong nỗ lực phục vụ cho quần chúng. Tôi còn nhớ, khi đi xem phim, trước khi vào phim chính, thường có những khúc phim thời sự nói về nông thôn, về sinh hoạt dân sự vụ. Coi cũng thích thú lắm vì được hiểu biết thêm về sinh hoạt nông thôn Việt Nam.

Thời TT Ngô Đình Diệm có lập ra Trung Tâm Điện Ảnh và Câu lạc bộ Văn hóa và từ Trung Tâm này đã tạo ra những đạo diễn và diễn viên nổi tiếng như Đoàn Châu Mậu, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Long, Lê Quỳnh, Kiều Chinh.

Mặc dầu vậy, trong suốt 20 năm điện ảnh miền Nam, có khá nhiều người trẻ thiết tha với điện ảnh, nhưng kết quả thật quá khiêm tốn. Phim Việt Nam không cạnh tranh nổi với phim ngoại quốc

Giới trẻ như chúng tôi đã một thời mê say những phim ngoại quốc.Các phim xã hội như Người ăn cắp xe đạp (le voleur de bicyclette), Kẻ đánh giầy (Sciucia) của đạo diễn Vittorio de Sica và nhất là Con đường (La Strada) của đạo diễn Fellini. Hay những phim Nhật như Địa ngục môn (Rashomon, một trong 10 phim vĩ đại nhất thế giới).

Ngành Hội Họa:


Cũng vậy ngành hội họa chỉ là một bộ môn nghệ thuật biệt đãi dành cho một thiểu số người có khả năng thưởng ngoạn. Hai nhà trường về hội họa, một ở Gia Định, một ở Huế chỉ nhằm đào tạo các nhân viên giảng huấn trong các trường Trung học. Một vài tên tuổi thế hệ đầu tiên như Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Hoàng Tích Chu rồi tiếp theo với Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Trung Tín, Trần Lương, Trương Tân và thế hệ trẻ ở miền Nam như Nguyễn Trung, Duy Thanh, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Lê Tài Điển, Nguyễn Lâm, Nguyễn Phước, Đỗ Quang Em, Thái Tuấn, Bé Ký, Hồ Thành Đức, Trịnh Cung vv…

Và những bất ngờ đến ngạc nhiên: Nhạc sĩ Văn Cao và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Nguyễn Đồng, một giáo sư triết. Họ đều là những họa sĩ cả đấy.

Bộ môn Kịch: Đến bộ môn kịch cũng không khá gì hơn, nếu không nói là trong 20 năm đó, nó thoi thóp sống. Người ta nhắc đến Vũ Khắc Khoan với Thần Tháp Rùa, Thành Cát Tư Hãn, Những người không chịu chết và vở kịch Thằng Cuội. Hồi còn sinh viên, tôi đã được coi vở kịch Thành Cát Tư Hãn và múa vũ Trấn Thủ lưu đồn. Tất cả đều do một tay anh Đinh Ngọc Mô, lúc đó còn là sinh viên, đồng học với tôi, đạo diễn. Nhìn cái phong cách tổ chức, lòng hăng say và tài đạo diễn cũng như đóng kịch của anh thật đáng nể lắm. Kể là hay. Kể là đặc biệt. Tiếc thay cho cái tài của Đinh Ngọc Mô.

Vũ Khắc Khoan

Anh cũng là người sau này điều khiển chương trình Đố vui để học trên đài truyền hình của Việt Nam.

Chúng ta hãy đặt mình vào bối cảnh thời đó, sơ khởi, mầy mò, học mót, học lỏm Vậy mà Đinh Ngọc Mô làm cho chương trình hấp dẫn đến lạ Suýt păng đến nghẹt thở. Độc giả nào đã có coi chương trình này có thể cho mọi người biết, điều tôi nói có sai không? Chắc là không quá. Đinh Ngọc Mô tự nhiên như chỗ không người, diễn xuất như thật làm khán thính giả nể phục.

Chương trình Đố vui để học là một trong những chương trình thu hút khán giả của đài truyền hình Sài gòn. Chương trình Hot lắm. Rất tiếc nay còn đâu? Chỉ thấy những cô cậu diễn xuất mất tự nhiên, vụng về và đôi khi vô duyên nữa.

Truyền hình Việt Nam sở dĩ có được là do món quà của TT Johnson tặng cho Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ sau khi dự hội nghị Thượng đỉnh Honolulu về. Sau 1975, Đinh Ngọc Mô bạo bệnh và chết ở Montréal, Canada. Chết rất trẻ. Chân ướt chân ráo đến xứ người, anh đã lo tổ chức các hội diễn Văn Hóa cổ truyền trong các dịp tết đầu năm như múa Trấn Thủ lưu đồn. Mong là con cái cụ Đinh Bá Hoàn đọc bài này như một tưởng niệm một thanh niên trí thức trẻ đã sớm ra đi.

Sau này, Vũ Tiến Thủy cũng cho biết ở trại tỵ nạn Fort Chaffee, Arkansas, anh đã cùng với chính tác giả Vũ Khắc Khoan đóng vở Thành Cát Tư Hãn, trong đó, anh đóng vai Sơn ca.

Những người trẻ có lòng với văn hóa nghệ thuật không thiếu và xin được vinh danh họ.

Trước 75, có một số vở kịch của các kịch tác gia như Samuel Beckett, Eugene Ionesco được dịch ra trên giấy. Nhưng kịch chỉ chính thức là kịch khi ta được diễn, được xem, được chứng kiến cái không khí kịch, sống thực trên sân khấu. Nhưng những vở kịch trên giấy chẳng bao giờ chúng có cái cơ may được diễn thành kịch trên sân khấu.

Những vở kịch của Doãn Quốc Sĩ như Trái cây đau khổ, Nhật Tiếnvới Người kéo màn, Trần Lê Nguyễn với Quán nửa khuya, Bão thời đại, Phan Tùng Mai với Người mua mộng. Có bao giờ có được cơ hội trình diễn trên sân khấu chưa?

Đó cũng là bi kịch của kịch của miền Nam Việt Nam. Và nó chẳng khác gì cái vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Ngồi đó để mơ, để tưởng về một Hằng Nga chẳng bao giờ xuất hiện.


Người ta cũng nhắc đến Dương Kiền, Lưu Quang Thuận, Thao Thao và lâu đời hơn cả có Vi Huyên Đắc với vở Kim Tiền. Tác giả Minh Khôi nhận xét:” Ít ra điều này cũng cho thấy kịch nghệ vẫn là một thiếu vắng lớn trong sinh hoạt văn hóa và giải trí trong cộng đồng Việt ngoài nước.”

Khoảng giữa 63 với cơn lốc chính trị và Chiến tranh leo thang

Cơn lốc chính trị 63 và những gì tiếp theo sau đó đã hình thành lên những suy nghĩ, những ưu tư của giới thanh niên và từ đó, nó mang dấu ấn của cả một thời kỳ. Nó thật rõ nét. Và chỉ cần đọc lại văn chương thời kỳ ấy, nó sẽ chỉ cho ta biết người trẻ nghĩ gì, phản ứng ra sao?

Nếu từ 1955 và ít ra cho đến 1960. Đó là thời kỳ ổn định. Văn chương, nghệ thuật như có cánh mà bay, nhiều hương sắc và nhiều tìm tòi sáng tạo.

Trong sự tìm tòi ấy trước hết nó có khả năng phủ nhận, dứt khoát lên đường, chia tay ý thức hệ với nhóm Tự Lực Văn Đoàn và từ đó nảy ra nhu cầu đi tìm cái mới. Cái mới ở đây thật ra cũng chỉ là cái cũ của người. Đó là các triết lý và văn chương hiện sinh của thập niên 1945/1955 của Pháp. Tất cả nhờ vào sách dịch chuyển tải từ người sang ta. Theo Võ Phiến cũng như Trần Trọng Đăng Đàn, trong Văn Hóa, Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954/1975, kết quả điều tra vào tháng 7/1976 đã đưa ra một kết quả đến kinh ngạc như sau về số sách dịch trên toàn miền Nam: Sách dịch từ tiếng Đức có 57 đầu sách, Ý 58, Nhật 71, Anh 97, Mỹ 273, Pháp 499, Đài Loan và Hương Cảng 358, Nga 120, còn lại các nước khác 38. Ngót nghét gần 2000 đầu sách. Đó là thời gian trỗi dậy, nở rộ.

Hai cuốn sách đầu tiên nằm trong hướng này là của Nguyễn Nam Châu: Những nhà Văn hóa mới và Sứ mệnh văn nghệ, 1958. Tiếp đó, Cô Liêu, tức Vũ Đình Lưu, ông đã bị giết hại ở Vũng Tàu, đã đưa Francoise Sagan, đứa con hoang của triết học hiện sinh, vào cửa chính văn học Việt Nam với bài: Sứ mệnh văn chương của Sagan. Vào năm 1959, Nguyễn Vỹ dịch: Bonjour tristesse, Buồn ơi chào mi. Lê Huy Oanh cũng dịch lại: Bonjour tristesse thành: Buồn ơi, xin chào. Nguyễn Văn Trung tiếp nối với bài Trường hợp Sagan hay vấn đề luân lý trong tiểu thuyết. Nguyễn Minh Hoàng: dịch Un certain sourire, Có một nụ cười. Bửu Ý dịch: Dans un mois, dans un an. Một tháng nữa,một năm nữa. Đinh Bá Kha dịch: Les merveilles nuages , Những đám mây huyền diệu.

Françoise Sagan (1935-2004)

F. Sagan trở thành hiện tượng dịch trong văn học VN lúc bấy giờ với lối viết ngắn, với lối sống, lối nghĩ thẳng băng, thản nhiên đến vô tình. Quan hệ tình dục ngang trái, bất thường, lập dị, tàn bạo. Nó quyến rũ lạ thường. Vì nó mới, vì nó lạ.

Đặc biệt các nhà văn nữ thập niên 63 trở đi như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Thụy Vũ không ai bảo ai mà như vô tình xếp hàng theo phong cách Sagan. Chẳng ai dám bảo họ bắt chước, nhưng phảng phất không khí Sagan trong truyện của họ. Sống ngoài vòng, buông thả, liên hệ tình dục đậm đặc, sống sượng, thô bạo. Cái cảm giác đọc xong các nhà văn này là họ còn đi xa hơn các nhà văn nam giới, xa hơn cả Sagan trong những mô tả tính dục. Chẳng hạn, Sagan tả những liên hệ tính dục một cách phơn phớt, không cố ý đào sâu, không đậm đặc “không mặn” như Túy Hồng hay Nguyễn thị Thụy Vũ. Đọc những nhà văn viết mặn này xong là khát nước.

Trong khi đó, tôi đọc Sagan, cuốn nào cũng vậy phơn phớt, hờ hững, lững lờ chán nản, cụt, hụt hẫng, không màu mè, không diêm dúa. Bởi vì mục đích của Sagan không phải là mô tả những scènes tình dục cho bằng muốn nhắn gửi: cuộc đời chẳng có gì quan trọng, ngay cả như chuyện làm tình. Luân lý cũng vậy, cuộc đời cũng vậy. Cuộc đời trong một tháng, một năm, một ngày, có gì là lạ. Vẫn thế. Thản nhiên, vô cảm. Cái điều mà bà muốn nhắn gửi là cuộc đời này chẳng có ý nghĩa gì, cuộc sống khô rồi, tầm thường, vô nghĩa, phi lý, chẳng ra làm sao. Có sao thì cũng chẳng ra làm sao?

Vậy thì các nhà văn nữ của ta muốn nhắn gửi gì qua những mô tả tình dục đó?

Cho nên vấn đề là điều muốn nhắn gửi và đó chính là chiều kích của tác phẩm, sứ điệp muốn nhắn gửi. Nhà văn lớn hay nhỏ là ở chỗ ấy. Chỗ chiều kích.

Dù sao thì tôi cũng nhận ra một điều: chiến tranh mỗi ngày mỗi tăng cường độ chết chóc. Con người bắt đầu nhìn thấy chiến tranh không phải là ở xa xôi đâu đó, ì ầm ở một chỗ nào vọng về. Nhưng nay chiến tranh đã về thành phố, chả chỗ nào là yên thân, cái chết có thể xảy ra ở bất cứ đâu? Nó đụng đến ngay chính những người ruột thịt của mình.

Phải chăng từ chỗ đó mà các nhà văn nữ, đại diện giới trẻ thành phố, phóng bút mà không ngại ngùng?

Phải chăng chiến tranh này hiện diện không phải bằng súng đạn mà bằng thái độ buông thả, buông xuôi ngay trên thân xác người phụ nữ lúc hoan lạc?

Nào có còn những lúc:

Em buông tóc thề
Tìm mê theo cơn lốc về

Hay:

Lùa nắng cho buồn vào tóc em
Bàn tay xanh xao đón ưu phiền
Ngày xưa sao lá thu không vàng
Và nắng chưa vào trong mắt em

Và phải nói như thế nào về các nhà văn nữ hải ngoại như Dương Như Nguyện, Nguyễn Thị Thanh Bình, Mai Ninh, Trân Sa, Đặng Thơ Thơ, Lê Quỳnh Mai, Đỗ Lê Anh Đào, Lê Thị Thấm Vân? Đứng trước những nhà văn này, Túy Hồng trở thành một học trò tiểu học bập bẹ chuyện yêu đương.

Về phần những nhà văn thập niên 55-65 đã có phần chùn bước và mất hướng chăng? Bắt đầu là những Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, chỗ của họ mỗi ngày mỗi thu hẹp lại. Rồi đến những Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, Bình Nguyên Lộc, Duy Lam, Thanh Nam, Võ Phiến, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền?

Họ viết được gì trong hoàn cảnh đất nước bom đạn như thế?

Đây là một dấu hiệu đáng lo ngại cho một số nhà văn đã thành danh như Mai Thảo. Ai sẽ thay thế họ? Bởi vì người ta thấy rằng Mai Thảo của thập niên 1955/1963 thì cũng không khác gì Mai Thảo của thập niên 1963/1975 vã cũng không khác bao nhiêu vào năm 1979 khi ra nước ngoài. Ông vẫn là ông, bất kể những biến thiên xáo trộn chính trị, xã hội đang rúng động và có thể đang sụt lở dưới chân ông?

Đó là sự trì trệ, ngưng đọng trong sáng tạo. Không đem lại được cái gì mới thì không được kể là văn học. Bởi vì Văn học đố kỵ với cái sáo mòn.

Đó cũng là trường hợp những Thanh Tâm Tuyền, Thanh Nam, Minh Đức Hoài Trinh, Duy Lam. Và những tên tuổi khác nữa.

Trong số đó, họa chăng chỉ có Nguyên Sa, sau khi thụ huấn, khóa 24, trường Sĩ quan Thủ Đức đã tự phủ nhận chính những đưa con tinh thần của mình: Thơ văn của ông không còn như trước nữa.

Không nói tao sợ mày phiền
Nói ra với rượu tao buồn gấp hai
Em mày đi lấy chồng rồi
Gặp tao ngoài ngõ ngậm ngùi nhìn nhau
Tao nhìn tao thấy mày đau
Nó nhìn nó thấy trong tao có mày

Và ông nghĩ rằng vai trò của họ: “Nhà văn, nhà thơ chỉ có số phận dân tộc mà nó có”

Đất nước chuyển mình, văn chương chuyển đổi. Những giây phút thanh bình, ngắn ngủi thời đệ 1 Cộng Hòa không còn nừa. Tuổi trẻ miền Nam ban đêm bị đánh thức vì tiếng bom đạn vọng về. Giấc ngủ không yên.

Có nhiều cách để tự mỗi người chọn lựa thích hợp

Một số nhà văn trẻ hơn, nay họ là những sĩ quan của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, mỗi ngày họ trực diện với chiến tranh và từ những cảm nghiệm ấy, với tư cách nhà văn, họ biểu đạt những băn khoăn trăn trở của họ. Họ là những nhà văn như: Duyên Anh, Nhật Tiến, Túy Hồng, Thảo Trường, Thế Uyên, Phan LạcTiếp, Phan Nhật Nam, Lê Tất Điều hay là Cao Tần, Nguyễn Quốc Trụ, Hồ Trường An, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Thế Vinh, Kiệt Tấn.

Thế Uyên viết 10 ngày phép của một người lính. 10 ngày phép không phải để xả láng, để chơi mà là để suy nghĩ, để bày tỏ những bực bội về những suy nghĩ vụn vặt về người lính, về những trí thức phòng trà vv..

Cuốn sách thứ hai của Thế Uyên: Nghĩ trong một xã hội tan rã. Vẫn là những băn khoăn của một sĩ quan, hơn hết là một trí thức đi tìm nguyên nhân của một xã hôi tan rã, đặt lại vấn đề chiến tranh và hòa bình, viện trợ và nhận viện trợ.

Nhà văn nay không còn là kẻ đứng ngoài mà là dấn thân , nhập cuộc.-

Ghi chú : Bài viết có vài chi tiết không hòan tòan chính xác nhưng tác giả đã nhắc ta nhớ lại nhiều sự kiện mà đống tro tàn thời gian đã phủ đi nhiều điều quan trọng.
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 17th June 2025 - 10:24 PM