![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
20 Năm Giới Trẻ Miền Nam Việt Nam
Nguyễn Văn Lục Tôi đã viết những bài 20 năm văn học dịch miền Nam Việt Nam, 20 năm triết lý Tây Phương miền Nam Việt Nam, 20 năm trí thức miễn Nam nhập cuộc. Và cũng trong cái tinh thần ấy với bài này, 20 năm giới trẻ miền Nam Việt Nam. Tuổi trẻ miền Nam với những con người trẻ, trai có, gái có, với nếp sống, nếp nghĩ, phản ứng vui buồn, ứng xử trước thời cuộc, trước cuộc đời mà trong đó tôi là thành phần. Viết lại cho mình, cho bạn bè mà cho các thế hệ sắp tới nhìn lại cha anh mình. Miền Nam vào thủa ấy có khoảng ngót nghét 11 triệu dân sống rải rác từ Cà Mâu đến Bến Hải. Các cậu thanh niên có cái mốt ăn mặc rất là lạ: Họ mặc quần tây mà áo bỏ ngoài quần. Cậu nào cũng vậy. Còn các cô thì đi guốc mộc to bản như guốc Nhật, nổi bật bàn chân nhỏ bé, được kỳ cọ trắng phau. Xinh quá. Hai ống quần rộng đến chui vào được. Kỳ quá. Chiếc áo Bà ba rộng thùng thình, có hai túi. Hình như sự ăn mặc ấy hoang phí quá, không ăn khớp với thân hình. Bao nhiêu đường cong, đường eo, vùng đồi ngực nở ùn lên, vùng thung lũng hoa vàng bị khỏa lấp và san bằng hết. Trong khi đó, gái Bắc thì gọn gàng trong chiếc áo cánh vải phin nõn khít khao hằn lên tuổi con gái bên trong cái yếm. Sức sống vươn lên, lồ lộ hẳn ra. Hai tuổi trẻ, hai cách biểu hiện, hai vẻ đẹp. Hai miền hồi những năm 1955. Họ gặp nhau như một định mệnh lịch sử vào cái ngày đất nước bị cắt làm đôi. Hiệp định Genève vào ngày 21/7/1954 đã đưa họ lại gần nhau với những cú sốc văn hóa để rồi tìm ra những hòa giải và đồng thuận. Dân số miền Nam vọt lên thêm một triệu người. Tức là tăng dân số miền Nam lên 8%. Con số 8% quả là không nhỏ. Phải lo chỗ ăn, chỗ ở, chỗ học, chỗ làm ăn sinh sống, chỗ an cư lập nghiệp. Cứ tưởng tượng, mỗi ngày có vài ngàn người đến trong suốt mấy tháng trời. Công việc không hẳn là dễ. Nhưng rồi mọi chuyện cũng đâu vào đấy. Và chỉ trong một thời gian rất ngắn, những người trẻ chân ướt chân ráo ấy làm nên nhiều chuyện, nhiều kỳ tích trổi bật trong chính trị, xã hội, nhất là trong lãnh vực văn hóa, nghệ thuật. Số phận của họ nay là số phận của toàn dân miền Nam, chia xẻ những vinh quang cũng như những mất mát, thua thiệt. Ở Sàigòn, ngay khi Hiệp định Genève vừa được ký kết, thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ. Để tang cuộc chia đôi đất nước. Ông Diệm đã ra tuyên cáo cực lực chống đối việc chia đôi Việt Nam. Chỉ sau một ngày, có nghĩa là vào ngày thứ năm 22/7/1954: Toàn miền Nam treo cờ rũ. Không chấp nhận cuộc chia đôi đất nước. Cả một cuộc đổi đời cho người từ hai phía. Cách biệt và chia lìa. Phía bên kia, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Về ngọai giao, ta đã thắng lợi to: chính phủ Pháp đã thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta”. Phía miền Nam vĩ tuyến 17. Lúng túng. Trước đó, ngày 16/6/1954.Tại Cannes Bảo Đại chính thức cử ông Ngô Đình Diệm lên làm Thủ Tướng toàn quyền để đối phó với tình hình chính trị nguy ngập. Khi làm Thủ tướng, ông Diệm muốn đưa số người di cư lên tổng số 2 triệu người, trong khi đó tướng Ély ước đoán chỉ vào khoảng 200.000 người là cùng. Ông Diệm hẳn là có lý nếu quân đội Pháp tích cực hơn trong việc cứu vớt người tỵ nạn. Dù sao, con số gần một triệu người di cư vào miền Nam, tiềm năng và hứa hẹn của đám mgười trẻ từ 45 tuổi trở xuống thật không nhỏ. Ông Diệm có cái lý để kỳ vọng như vậy. Và người di cư đã không quên cái ơn ấy. Và đó phải được coi là chuyện bình thường như trăm chuyện bình thường khác. Trong khi đó, số người xin di cư hay hồi cư từ Nam ra Bắc chỉ có 4358 người. Ở đây không kể khoảng 60000 cán bộ Việt Minh ở lại miền Nam, rút vào bí mật. Nay ai đó có về quê thăm, ghé dùm xem Cái Sắn, Hố Nai, Bảo Lộc, vùng ven Bà Rịa để thấy cuộc sống người dân ở đó như thế nào? Cuộc di cư ấy mở ra cái dấu mốc lịch sử đánh dấu phân chia lằn ranh Quốc-Cộng. Bên này là Quốc Gia, bên kia là Cộng Sản Tự Do và Độc tài. Cho nên, khi bước lên tàu há mồm, người di cư nhận được một message rất rõ ràng: Passage to Freedom. Chính vì hai chữ đó mà bỏ quê hương miền Bắc ra đi. Chết sống ra đi. Liều thân mà đi không cần biết tương lai sẽ ra sao? Đây là con đường Tự Do (Hải Phòng vào Sài Gòn) Ý nghĩa đó cần được ghi khắc cho thế hệ mai sau để sau này không cho phép bất cứ ai xuyên tạc, phỉ báng cuộc di cư đó. H. Amouroux trong số báo Aurore, ra ngày 4/4/1955 diễn tả đúng cái tinh thần ấy: “Trong suốt cuộc chiến vừa qua, chúng ta đã nói rằng, mình bảo vệ sự tự do và một số giá trị tinh thần…thì hôm nay, họ cho biết rằng, họ hiểu được thế nào là tự do, dân chủ. Chúng ta, thế giới tự do và không chỉ có nước Pháp, chúng ta có thể nào bỏ rơi những con người đó mặc cho sự trả thù, đem quẳng họ lại vào bàn tay Cộng Sản và làm cho cuộc bỏ trốn kỳ diệu của họ năm 1954 hóa ra vô ích sao? Đó là cuộc đi tìm Tự Do đến miền Nam như miền đất hứa mà nhà văn Sơn Nam gọi là miền đất Lạc Thổ. Phải gọi là đất lành hay đất hứa mới thật là đúng. Đó là cuộc Nam tiến vì lý do chính trị lớn nhất trong lịch sử người Việt, dân Việt. Đó cũng là bằng chứng không chối cãi được cuộc bỏ phiếu chống lại Cộng Sản bằng đôi chân của 865.000 người di cư từ Bắc vào Nam và chấm dứt vào ngày 12/10/1954 ở Hà Nội. Và trong số gần triệu người di cư đó, theo ông Từ Uyên , cho biết rằng Bộ Tư lệnh Pháp đã dành 12 chuyến bay DC4 vào các ngày 12 và 13/8/1954 để chuyên chở giới sinh viên vào Sàigòn. Cũng theo ông Từ Uyên, ông Ngô Đình Diệm đã từ trong Nam ra Hà Nội qua trung gian của bác sĩ Phạm Hữu Chương để tiếp xúc với giới sinh viên Hà Nội cho việc tổ chức cuộc di cư này. Một cuộc họp ở một biệt thự tại phố Hàm Long gồm có bác sĩ Phạm Hữu Chương, các sinh viên Lương Trọng Cửu, Tôn Thất Cần và Từ Uyên. Chính từ buổi họp này đã đưa đến quyết định đưa khoảng 1200 sinh viên từ Bắc vào Sàigòn. Trong số những thanh niên, thiếu nữ từ miền Bắc di cư vào, họ là ai? Họ là những thanh niên thuộc giới trí thức trẻ như Vũ Khắc Khoan, Trần Thanh Hiệp, Vương Văn Bắc, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Quách Đàm, Hoàng Cơ Long, Tạ Tỵ, Lưu Trung Khảo, Lý Quốc Sỉnh, Nguyễn Khắc Ngữ, Lữ Hồ, Họa sĩ Ngym Cao Uyên, Bùi Đình Nam, Tô Đồng, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần Kim Tuyến, Phạm Việt Tuyền, Nhật Tiến, Mặc Đỗ, Hiếu Chân, Như Phong và những người trẻ còn ngối ghế Trung Học như Đỗ Quý Toàn, Lê Đình Điểu, Duyên Anh…Và hàng vạn thanh niên thiếu nữ khác nữa … Phía quân đội có các sĩ quan trẻ, cấp úy như Lê Nguyên Khang, Nguyễn Cao Kỳ, Phó Quốc Trụ, Phạm Văn Phú, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Bảo Trị, Hoàng Cơ Minh. Phần đông bọn họ, không ai quá 30 tuổi. Họa hoằn trong số ấy như Vũ Hoàng Chương lúc ấy 38 tuổi. Họ đều thành danh, có tên có tuổi ở Sài gòn sau này. Hầu hết bọn họ trở thành nhà văn, nhà báo, giáo sư đại học, đại sứ, nhà tư bản v.v… Và nếu là sĩ quan thì đều làm đến tướng cả, trừ có Phó Quốc Trụ. Có nghĩa là cuộc đời họ, sau đó đã nên ông nên bà. Tất cả những giới trẻ đó sau này phần đông trở thành những tài năng, những tên tuổi trên chính trường miền Nam Việt Nam. Đó vẻ đẹp, là niềm hãnh diện chung của mọi người. Tâm trạng lúc bấy giờ ở Hà Nội là đi hay ở. Ai đi, ai ở? Người ta gặp nhau là để bàn chuyện đi hay ở. Và cũng từ đó bày ra cảnh chợ trời bán buôn giữa kẻ đi, người ở. Nói cho đúng ra, thủ tướng Diệm ra Hà Nội ngày 30/6/1954 là để quan sát tình hình và để xem xét tổng quát kế hoạch rút quân đội Quốc gia ra khỏi Bắc Việt đồng thời giải quyết vấn đề người di cư. Người Pháp thì đã có chương trình triệt thoái binh lính Pháp ngay từ đầu tháng 6 rồi. Vì thế, lần lượt quân đội Quốc Gia được rút khỏi Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình và đầu tháng bảy, sau đó rút khỏi Nam Định rồi Phủ Lý. Trong công cuộc di cư này, ông Diệm đã phản đối quân đội Pháp đã bỏ bom giết chết hàng ngàn người ở Bùi Chu và rằng đôi khi người di cư phải trả giá 100 đồng cho mỗi người được chở đi. Sách Thập giá và lưỡi gươm, không phải, phải nói là cuốn Dieu et César chỉ viết theo lời thuật lại của dân chúng đã thổi phồng số tiền lên đến 5000 quan Pháp cho một chỗ trên thuyền bè? Người dân quê lấy đâu ra tiền cho một chồ ngôi trên thuyền như vậy? Kể từ ngày này, miền Nam tuổi trẻ thêm đa dạng, chẳng những thêm chất xám từ Bắc vô Nam. Chẳng những có cuộc di cư người mà còn có cuộc Di cư chữ nghĩa. Chữ nghĩa miền Bắc cũng lếch thếch đi theo người di cư xuống tầu há mồm vào miền Nam mà nay có thể có chữ còn chữ mất. Vào đến miền Nam, Mai Thảo viết Đêm giã từ Hà Nội. Để nhớ hay để quên? Và dưới mắt nhìn của Trần Văn Nam thì Đêm giã từ Hà Nội là tiêu biểu cho văn nghệ thời kỳ này, vì nó manh nha một lối hành văn mới, một nghệ thuật mới. Trần Mộng Tú sau này xót xa Hà Nội: Lâu lắm em mới về Hà Nội Đi trên viên gạch tuổi thơ ngây Gió mùa đông bắc làm em khóc Hà Nội, anh ơi phố rất gầy Và ta hãy làm thinh lắng nghe: Tôi xa Hà Nội năm em 16 khi vừa biết yêu… Hôm nay Sài gòn bao nnhiêu tà áo khoe màu sắc vui, nhưng riêng một người .. Hà Nội ơi … Và mỗi một người trẻ rời Hà Nội đều mang theo một mảnh Hà Nội qua hội họa, thi ca, tiểu thuyết hay âm nhạc. Thêm vào đó, còn có một số không nhỏ giới thanh niên trẻ đã học thành tài tại các nướcTây phương trở về với chính phủ miền Nam. Đây đã hẳn không phải một cuộc di cư mà là một sự chọn lựa chính trị, chọn lựa giữa Cộng Sản và Quốc Gia. Chọn lựa đứng về phía độc tài này hay phía tự do.Theo Nguyên Sa Trần Bích Lan kể lại chỉ có một nữ sinh viên dược tên Thẩm Hoàng Thư trong số các bạn bè của ông chọn về Hà Nội. Mà lý do chọn lựa hiểu được, vì bố mẹ cô ở lại Hà Nội. Đó là gia đình ông Thẩm Hoàng Tín, gia đình khá nổi tiếng mà đã có một thời ông Thẩm Hoàng Tín làm thị trưởng Hà Nội. Trong hồi ký của Võ Long Triều cũng có nhắc lại giai đoạn ấy, nhiều giới trẻ do dự trong quyết định giữa ở lại Pháp hay về miền Nam. Phần những người trẻ đã chọn miền Nam, kẻ trước người sau lần lượt rủ nhau về. Tên đứng hàng đầu của họ là Nguyên Sa Trần Bích Lan, Cung Trầm Tưởng, Trịnh Viết Thành, Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Khắc Dương (em của Nguyễn Khắc Viện), Lê Thành Trị, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Đỗ Long Vân, Nguyễn Khắc Hoạch hay Trần Hồng Châu, Nguyễn Bình An, Nguyễn Huy Lịch, Hải Linh, Ngô Duy Linh, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Đình Đầu, Trần Thái Đỉnh, Trương Bá Cần, Bùi Xuân Bào, Võ Long Triều, Huỳnh Văn Lang (Ở Mỹ về do lời kêu gọi của ông Diệm), Nguyễn Văn Trường, Bùi Xuân Bào, Trương Công Cừu, Nguyễn Văn Hanh v.v... Kể sao cho vừa. Cuộc di cư ngót một triệu người đó với giới trẻ miền Bắc cộng với các giới trẻ sẵn có ở miền Nam và các giới trẻ thanh niên về từ Âu Châu đã thay đổi phần lớn bộ mặt miền Nam về xã hội, nếp sống, sinh họat kinh tế và nhất là Văn học nghệ thuật. |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 17th June 2025 - 10:10 PM |