![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Phố Cũ ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 2,691 Joined: 21-April 08 Member No.: 43 Country ![]() ![]() |
Trại súc vật (Kì 1) ![]() Lời giới thiệu của người dịch Trại Súc Vật được in ở Anh ngày 17 tháng 8 năm 1945 và một năm sau thì được in ở Mĩ. Trước đó George Orwell đã cho xuất bản 9 đầu sách với tổng số bản in cả ở Anh và Mĩ là 195 500 cuốn. Sau chiến tranh thế giới thứ II do thiếu giấy nên số lượng bản in hạn chế, tuy vậy cho đến khi Orwell mất vào tháng giêng năm 1950 đã có tất cả 25 500 cuốn Trại Súc Vật được in ở Anh và 590 000 cuốn được in ở Mĩ. Điều đó nói lên thành công to lớn và ngay lập tức của tác phẩm. Sinh thời Orwell tác phẩm này đã được dịch ra tất cả các ngôn ngữ chính của châu Âu cũng như các thứ tiếng như Telugu (một dân tộc thuộc bắc Ấn Độ), Ba Tư, Aixlen và Ukraine. Sau hơn 50 năm, kể từ lần xuất bản đầu tiên, tác phẩm đã được dịch ra 68 thứ tiếng trên thế giới và thuờng xuyên được tái bản. Trong lần bình chọn 100 tác phẩm hay nhất trong thế kỉ XX do nhà sách Random House tiến hành, Trại Súc Vật được xếp thứ 31. ![]() Goerge Orwell (1903-1950) Nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell xin giới thiệu Trại Súc Vật, một trong hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông với lời tựa cho lần xuất bản bằng tiếng Ukraine do chính Orwell viết. Lời tựa này được Orwell viết bằng tiếng Anh (bản gốc đã bị thất lạc), theo đề nghị của người tổ chức dịch thuật và phân phối tác phẩm này cho những người Ukraine chạy trốn chế độ Xô viết và sống trong các trại tạm cư do quân đội Anh và Mĩ thiết lập trên đất Đức. Lời tựa được dịch sang tiếng Ukraine dành cho lần xuất bản đầu tiên vào năm 1947, nhà sách Penguin Classic trong lần xuất bản năm 2000 đã cho dịch lại và in kèm với lời giới thiệu của Malcolm Bradbury. Sau tác phẩm Trại Súc Vật, George Orwell còn viết một tác phẩm nổi tiếng 1984. Tác phẩm này nằm ở vị trí 13 trong bảng tổng sắp của nhà sách Randomhouse đã nói ở trên. Tin rằng một ngày gần đây tác phẩm bất hủ này cũng sẽ ra mắt độc giả tiếng Việt. LỜI GIỚI THIỆU CỦA GEORGE ORWELL CHO LẦN XUẤT BẢN BẰNG TIẾNG UKRAINE Tôi được yêu cầu viết lời giới thiệu cho bản dịch tác phẩm Trại Súc Vật sang tiếng Ukraine. Tôi nhận thức rõ rằng tôi đang viết cho những độc giả mà tôi không có một chút hiểu biết nào và họ cũng chưa từng có cơ hội tìm hiểu tôi. Trong lời giới thiệu chắc chắn độc giả muốn tôi kể về quá trình sáng tác tác phẩm Trại Súc Vật, nhưng trước tiên tôi muốn tự kể về mình và những trải nghiệm đã dẫn tôi đến quan điểm chính trị hiện nay. Tôi sinh năm 1903 tại Ấn Độ. Lúc đó, cha tôi là một viên chức trong bộ máy hành chính Anh quốc ở đấy, gia đình tôi thuộc tầng lớp trung lưu, gồm các quân nhân, tu sĩ, viên chức chính phủ, giáo sư, luật sư, bác sĩ v.v... Tôi tốt nghiệp trung học tại Eton, một trường công lập thuộc loại đắt nhất nước Anh thời đó. Nhưng tôi được vào học ở đây là do được nhận học bổng, chứ cha tôi không thể có tiền để gửi tôi vào học những trường như thế. Ngay sau khi thôi học (lúc đó tôi chưa đủ 20 tuổi) tôi đi Miến Điện và tham gia lực lượng cảnh sát Hoàng gia tại đây. Tôi làm ở đó năm năm. Việc này hoàn toàn không hợp với tôi, tôi trở nên căm ghét chủ nghĩa đế quốc, mặc dù lúc đó tinh thần quốc gia ở Miến Điện chưa cao và quan hệ giữa người Anh và người Miến cũng chưa đến nỗi nào. Sau khi về lại Anh quốc vào năm 1927, tôi giải ngũ và bắt đầu viết văn: thời gian đầu không có thành công đáng kể nào. Trong những năm 1928-1929, tôi sống ở Paris, chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết, nhưng không có nhà xuất bản nào chịu in (tôi đã xé bỏ hết). Những năm sau đó tôi phải tay làm hàm nhai, đôi khi phải nhịn đói. Chỉ từ năm 1934 tới nay tôi mới sống được bằng ngòi bút. Trong thời gian này, tôi đã sống nhiều tháng giữa những người nghèo khổ và bất hảo, ăn xin và ăn cắp tại những khu vực tồi tệ nhất của những khu phố nghèo. Lúc đầu tôi phải nhập bọn với họ vì không có tiền, nhưng sau này tôi lại rất thích lối sống đó. Tôi đã dành nhiều tháng trời để nghiên cứu đời sống thợ mỏ ở miền Bắc nước Anh. Cho đến năm 1930, nói chung, tôi vẫn chưa phải là người theo phái xã hội. Thực ra, tôi vẫn chưa xác định được quan điểm chính trị của mình. Tôi trở thành người theo trường phái xã hội vì căm thù cách người ta đàn áp và khinh thường tầng lớp công nhân công nghiệp nghèo khổ chứ không phải vì thán phục xã hội theo kế hoạch hoá về mặt về mặt lí luận. Tôi lập gia đình năm 1936. Cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha nổ ra ngay trong những ngày đó. Hai vợ chồng tôi đều muốn đi Tây Ban Nha để chiến đấu cho chính phủ nước này. Chúng tôi sẵn sàng lên đường, sáu tháng sau đó, khi tôi viết xong cuốn sách mà tôi đã khởi sự từ trước. Tôi đã ở mặt trận Aragon gần Huesca sáu tháng liền, cho đến khi bị một phát đạn bắn tỉa xuyên qua cổ. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, những người ngoại quốc hoàn toàn không hiểu được cuộc đấu tranh giữa các đảng phái ủng hộ chính phủ Tây Ban Nha. Do một loạt sự tình cờ, tôi không tham gia các Binh đoàn Quốc tế như đa số những người ngoại quốc khác mà chiến đấu trong hàng ngũ của lực lượng vũ trang POUM, đảng của những người theo phái Troskist Tây Ban Nha. Vì vậy, giữa năm 1947 khi những người Cộng sản nắm được quyền kiểm soát (hay một phần quyền kiểm soát) chính phủ Tây Ban Nha và bắt đầu săn đuổi những người Troskist thì cả hai vợ chồng tôi đều trở thành nạn nhân. Chúng tôi may mắn đi khỏi được Tây Ban Nha, thậm chí không bị bắt lần nào. Nhiều bạn bè của chúng tôi đã bị bắn bỏ, một số bị tù đày nhiều năm, số khác thì mất tích. Những cuộc săn người ở Tây Ban Nha xảy ra đồng thời với những cuộc thanh trừng vĩ đại ở Liên Xô. Thực chất những vụ thanh trừng ở Tây Ban Nha và ở Nga chỉ là một (gọi là âm mưu với bọn phát xít) và nếu nói về Tây Ban Nha thì tôi có đầy đủ cơ sở để tin rằng đấy là những vụ kết án oan. Qua đó, tôi đã nhận được một bài học đắt giá: nó dạy tôi rằng bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn trị dễ dàng lèo lái dư luận ở những nước dân chủ đến mức nào. Hai vợ chồng tôi đã chứng kiến những người vô tội bị quẳng vào nhà giam chỉ vì họ bị nghi là không theo đường lối chính thống. Khi trở về Anh, chúng tôi thấy rất nhiều người thạo tin và nhạy bén tin vào những bản án kì quặc về âm mưu phản bội và phá hoại do báo chí tường thuật từ những vụ án ở Moscow. Và tôi thực sự hiểu ra ảnh hưởng tiêu cực của huyền thoại Xô viết đối với phong trào xã hội ở phương Tây. Đến đây tôi xin dừng lại một chút để trình bày thái độ của tôi đối với chế độ Xô viết. Tôi chưa đến thăm Nga bao giờ và hiểu biết của tôi về nước Nga chỉ là kiến thức do thu lượm được từ báo chí, sách vở. Ngay cả nếu có đủ sức tôi cũng sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Liên Xô: tôi sẽ không kết án Stalin và các cộng sự của ông ta chỉ vì những phương pháp dã man và phi dân chủ của họ. Có thể là trong những điều kiện như thế, dù có muốn, họ cũng không thể hành động khác được. Nhưng mặt khác, đối với tôi, điều cực kì quan trọng là nhân dân Tây Âu phải nhận rõ chế độ Xô viết như nó đang là. Từ năm 1930, tôi nhìn thấy rất ít bằng chứng là Liên Xô đang tiến đến cái có thể thực sự gọi là Chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, có những chỉ dấu rõ ràng rằng xã hội ấy đang chuyển hoá thành xã hội có tôn ti trật tự và những người cầm quyền, cũng như mọi giai cấp cầm quyền khác, chẳng thấy có lí do gì để rời bỏ quyền lực, đã làm tôi choáng váng. Hơn nữa, công nhân và trí thức ở những nước như Anh quốc lại không hiểu rằng Liên Xô hôm nay đã khác hẳn Liên Xô năm 1917. Một phần vì họ không chịu hiểu (nghĩa là họ muốn tin rằng có một nước xã hội chủ nghĩa quả thực đang tồn tại ở đâu đó), một phần vì họ quen với cuộc sống tự do và ôn hoà, họ không biết gì về chủ nghĩa toàn trị. Cần phải nhớ rằng nước Anh chưa phải là nước hoàn toàn dân chủ. Đây vẫn là nước tư bản với những đặc quyền đặc lợi giai cấp (ngay cả bây giờ, sau cuộc chiến tranh có xu hướng làm cho mọi người bình đẳng hơn) và sự chênh lệch gay gắt về tài sản. Nhưng dù sao, ở đây người dân đã có cuộc sống không có những xáo trộn lớn suốt mấy trăm năm qua, luật pháp tương đối công chính, tin tức và số liệu của chính quyền có thể tin được và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là người ta có thể giữ và ủng hộ quan điểm của thiểu số mà không bị bất kì đe dọa chết người nào. Trong hoàn cảnh như vậy người ta không thể nào hiểu được những hiện tượng như trại tập trung, cưỡng ép di cư hàng lọat, bỏ tù không cần xét xử, kiểm duyệt báo chí v.v... Tất cả những điều đọc được trên báo chí về những nước như Liên Xô được tự động phiên dịch sang các thuật ngữ của nước Anh và họ ngây thơ tin ngay những điều dối trá của bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn trị đó. Cho đến năm 1939, và cả sau này nữa, đa số người Anh không hiểu được thực chất chế độ phát-xít ở Đức và nay họ cũng có ảo tưởng tương tự như vậy đối với Liên Xô. Điều đó đặc biệt có hại đối với phong trào Xã hội Anh và gây hậu quả xấu đối với chính sách đối ngoại của nước Anh. Theo tôi, tin rằng nước Nga là nước xã hội chủ nghĩa và mọi hành vi của những người cầm quyền ở đó đều nên được tha thứ, nếu không nói là phải theo, là sự phản bội đối với lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong mười năm gần đây tôi đã đi đến kết luận rằng phá tan huyền thoại Xô viết là việc làm vô cùng cần thiết, nếu ta muốn tái sinh phong trào xã hội chủ nghĩa. Ngay sau khi trở về từ Tây Ban Nha tôi đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô viết dưới dạng một câu chuyện dễ hiểu và dễ dịch sang các thứ tiếng khác. Nhưng chi tiết của câu chuyện vẫn chưa có, cho đến một hôm (khi đó tôi sống ở nông thôn) tôi trông thấy một cậu bé, khoảng mười tuổi, đang đánh một chiếc xe ngựa to trên một con đường hẹp, cứ mỗi lần con ngựa định quay ngang là cậu bé lại ra roi. Trong đầu tôi bỗng loé lên ý nghĩ rằng nếu loài vật nhận thức được sức mạnh của chúng thì con người không thể nào còn điều khiển được chúng nữa và con người bóc lột loài vật cũng hệt như các tầng lớp hữu sản bóc lột giai cấp vô sản vậy. Tôi tiến hành phân tích học thuyết của Marx trên quan điểm của súc vật. Đối với loài vật thì rõ ràng là luận điểm về đấu tranh giai cấp giữa người với người chỉ là một sự lừa mị, vì mỗi khi cần bóc lột súc vật là tất cả mọi người lại đoàn kết với nhau để chống lại chúng: cuộc đấu tranh thực sự là cuộc đấu tranh giữa loài vật và loài người. Từ đây việc tạo ra tác phẩm không còn khó nữa. Tôi bận nhiều việc khác, không có thì giờ, cho nên mãi đến năm 1943 tôi vẫn chưa bắt đầu viết truyện này và cuối cùng tôi đã đưa thêm một số sự kiện, thí dụ như Hội nghị Teheran là sự kiện xảy ra trong thời gian tôi viết. Như vậy là đường hướng chính của câu chuyện đã nằm trong đầu tôi suốt sáu năm, trước khi tôi thực sự đưa nó lên mặt giấy. Tôi không có ý bình luận tác phẩm, nếu tác phẩm không có sức thuyết phục thì có nghĩa là tác phẩm ấy đã thất bại. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai điểm: thứ nhất, mặc dù nhiều tình tiết được lấy từ lịch sử của cuộc Cách mạng Nga, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa tượng trưng và trật tự đã được thay đổi cho cân đối với cốt truyện. Điểm thứ hai thường bị các nhà phê bình bỏ qua, nguyên nhân có thể là vì tôi chưa nhấn đúng mức. Nhiều độc giả sau khi đọc xong có cảm tưởng rằng cuốn sách đã dừng lại ở sự hoà giải hoàn toàn giữa loài lợn và loài người. Nhưng đấy không phải là ý của tôi, ngược lại, tôi cố ý kết thúc ở chỗ chỉ rõ sự bất hoà, vì tôi viết chuyện này ngay sau Hội nghị Teheran, mọi người lúc đó đều nghĩ rằng Hội nghị này sẽ thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp nhất có thể có giữa Liên Xô và phương Tây. Cá nhân tôi không tin rằng quan hệ tốt đẹp đó có thể kéo dài được lâu, và như các sự kiện cho thấy, tôi đã không lầm. Tôi không biết phải nói gì thêm nữa. Nếu độc giả nào quan tâm đến cá nhân tôi thì tôi xin nói thêm rằng tôi đã goá vợ, hiện tôi đang sống với con trai ba tuổi, tôi là nhà văn chuyên nghiệp, nhưng từ khi bắt đầu cuộc chiến thì tôi làm việc chủ yếu như một phóng viên. Tôi thường viết cho tờ Tribune, một tờ tuần báo đại diện cho phái tả của đảng Lao động. Những cuốn sách sau đây của tôi có thể được độc giả quan tâm: Những ngày ở Miến điện (câu chuyện về Miến điện), Tưởng nhớ Catalonia (viết về những trải nghiệm của tôi trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha) và tác phẩm Phê bình (các bài viết về văn học đương đại Anh, được viết chủ yếu từ quan điểm xã hội học hơn là quan điểm thuần tuý văn chương). 1947 Chương I Ông Jones, chủ Điền Trang đóng cửa chuồng gà, nhưng vì say quá nên quên đóng cửa chuồng lợn. Với chiếc đèn bão trong tay, đung đưa, khi sang phải, khi sang trái, ông lảo đảo đi qua sân, tới cửa sau thì lấy chân đạp ủng ra và bước vào bếp để uống nốt vại bia cuối cùng trong ngày rồi leo lên giường, nơi vợ ông, bà Jones đã ngáy khò khò. Ngay khi đèn trong phòng ngủ vừa tắt, đây đó bỗng dậy lên những tiếng sột soạt, thì thầm. Ngày hôm đó có tin đồn rằng Thủ Lĩnh, một con lợn đực trắng, từng được huy chương trong một cuộc triển lãm, đêm hôm trước có một giấc mơ kì lạ và muốn kể cho mọi loài cùng nghe. Chúng thoả thuận với nhau là ngay sau khi ông Jones đi ngủ thì sẽ tập trung trong nhà kho lớn. Tất cả các con vật trong trang trại đều kính trọng Thủ Lĩnh (chúng gọi nó như vậy, mặc dù khi đi dự triển lãm nó có tên là Willingdon Điển Trai) và sẵn sàng hi sinh giấc ngủ để được nghe nó nói chuyện. Thủ Lĩnh ngồi trên một cái bục có nệm rơm phía trong cùng nhà kho, dưới ánh sáng của chiếc đèn bão treo trên xà nhà. Nó đã mười hai tuổi, mặc dù thời gian gần đây có béo thêm, với những chiếc răng nanh thò cả ra, nhưng trông nó vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt, phúc hậu. Những con khác bắt đầu lục tục kéo tới, mỗi con tìm một chỗ ngồi thuận lợi. Đầu tiên là ba con chó Bluebell, Jessie và Pincher, sau đó là lũ lợn; chúng ngồi trên đống rơm phía trước bục. Lũ gà leo lên bậu cửa sổ, đám bồ câu đậu trên rui mè, bọn bò và cừu nằm phía sau lũ lợn và bắt đầu công việc nhai lại của chúng. Hai con ngựa kéo xe tên là Chiến Sĩ và Bà Mập cùng vào, từ từ lại gần cái bục, trước mỗi bước, chúng đều thận trọng quan sát để không giẫm bẹp một con thú nhỏ nào ở bên dưới lớp rơm. Bà Mập, một con ngựa cái trung niên hiền lành, thân hình đã sồ sề vì bốn lần sinh nở. Chiến Sĩ, một con tuấn mã cao đến gần hai mét và khoẻ bằng hai con ngựa khác. Vì có một vệt trắng dọc sống mũi nên trông nó có vẻ đần, thực ra cu cậu cũng không thuộc loại thông minh, nhưng bù lại, nó được các con khác tôn trọng vì tính kiên định và hay lam hay làm. Sau đó là đến con dê trắng tên là Mona và con lừa tên là Benjamin. Benjamin là con vật già nhất bọn, nhưng cũng là con xấu tính nhất. Benjamin ít nói, nhưng hễ mở miệng là y như rằng nó tìm cách giễu cợt, ví dụ có lần nó tuyên bố rằng Thượng Đế tạo cho nó cái đuôi để đuổi ruồi, nhưng giá đừng có cả đuôi lẫn ruồi thì còn thích hơn. Nó là con vật duy nhất không bao giờ cười. Nếu hỏi tại sao thì nó bảo: chẳng có lí do gì. Mặc dù vậy và tuy không nói ra, nhưng nó rất trung thành với Chiến Sĩ, chủ nhật nào hai con cũng yên lặng gặm cỏ bên nhau ở bãi giữ ngựa phía sau khu vườn. Hai con ngựa vừa nằm xuống thì bầy vịt con mồ côi lao vào nhà kho, chúng vừa kêu chiếp chiếp khe khẽ vừa chạy loanh quanh, mong tìm một chỗ an toàn. Bà Mập lấy chân trước khoanh thành một khu cho chúng, lũ vịt con mau chóng chui vào đó rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Ngay trước khi buổi nói chuyện bắt đầu thì Mollie, một ả ngựa cái dốt nát, màu trắng, chuyên kéo chiếc xe nhỏ của ông Jones, vừa đi vừa nhai một cục đường, mới õng ẹo bước vào. Nó lập tức chiếm ngay vị trí phía trước cái bục và lắc lư bờm để mong những con khác chú ý đến dải ruy băng đỏ trang điểm trên đó. Cuối cùng là một con mèo, nó nhìn quanh và vẫn như mọi khi, cố tìm cho mình một chỗ thật ấm, rồi chen vào nằm giữa Chiến Sĩ và Bà Mập, chị chàng sung sướng phát ra những tiếng gừ… gừ… trong cổ họng, mặc Thủ Lĩnh muốn nói gì thì nói. Thế là tất cả các con vật trong Điền Trang đã có mặt đầy đủ, chỉ trừ con quạ Moses, nó ngủ trên hàng rào ngay bên ngoài cửa sau. Khi Thủ Lĩnh thấy tất cả đã an vị và sẵn sàng lắng nghe thì húng hắng ho lấy giọng và bắt đầu: "Thưa các đồng chí! Như các đồng chí đã biết, đêm qua tôi có một giấc mơ kì lạ. Nhưng tôi sẽ nói chuyện đó sau. Đầu tiên tôi muốn nói với các đồng chí một số việc hoàn toàn khác. Thưa các đồng chí, tôi nghĩ rằng tôi không ở lại với các đồng chí được bao lâu nữa, vì vậy tôi cho rằng trước khi chết mình phải có trách nhiệm chia sẻ với các đồng chí những kinh nghiệm mà tôi đã tích lũy được trong suốt cuộc đời mình. Tôi đã có một cuộc đời phải nói là dài và tôi đã suy nghĩ rất nhiều khi nằm một mình trong chuồng, tôi nghĩ rằng tôi có thể nói là tôi hiểu đời không thua bất kì con vật nào trên thế gian này. Đó là điều tôi muốn nói với các đồng chí. Bây giờ, thưa các đồng chí, thực chất đời sống của chúng ta là gì? Chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật. Cuộc đời của chúng ta là khổ sai, khốn nạn và yểu mệnh. Chúng ta sinh ra, chúng ta được một khẩu phần vừa đủ để khỏi chết vì đói, những con nào có thể làm thì phải làm đến kiệt sức và khi không làm được nữa thì chúng ta bị giết một cách vô cùng dã man, tàn bạo. Không có con vật nào ở nước Anh này biết đến hạnh phúc và niềm vui ngay khi vừa tròn một tuổi. Không có con vật nào ở nước Anh này được tự do. Cuộc sống của loài vật là cuộc sống nghèo khổ và nô lệ: sự thật trần trụi là như thế đấy. Nhưng đấy có phải là qui luật của tự nhiên không? Chả lẽ nước ta lại nghèo đến độ không nuôi nổi những động vật sống ở đây ư? Không, ngàn vạn lần không, thưa các đống chí. Đất Anh màu mỡ, thời tiết thuận hòa, thừa sức cung cấp thức ăn cho một số lượng động vật lớn hơn hiện nay rất nhiều. Chỉ nội cái trang trại của chúng ta đã có thể nuôi được một tá ngựa, hai chục bò, hàng trăm cừu và tất cả đều có thể sống trong tiện nghi và phẩm giá mà nay chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Thế thì tại sao chúng ta lại cứ tiếp tục sống trong điều kiện khốn nạn thế này? Bởi vì hầu như toàn bộ những gì chúng ta làm ra đều bị con người chiếm đoạt hết. Đấy là nguyên nhân tất cả các vấn nạn của chúng ta. Nói ngắn gọn bằng một từ là: Con Người. Con Người là kẻ thù của chúng ta. Nếu không còn người nữa thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không còn bị đói, không còn phải làm công việc khổ sai nữa. Người là giống vật duy nhất chỉ ăn mà không làm. Người không làm ra sữa, không đẻ ra trứng, người không thể kéo cày, không chạy nhanh bằng thỏ. Nhưng nó lại là chủ của tất cả chúng ta. Nó bắt chúng ta làm việc, cướp lấy mọi thành quả lao động của chúng ta, chỉ cho chúng ta ăn vừa đủ để không chết đói mà thôi. Chúng ta phải cày bừa, phân chúng ta bón ruộng, thế mà chúng ta có gì? Chẳng có gì ngoài da bọc xương. Các đồng chí bò đang ngồi trước mặt tôi đây, năm vừa qua các đồng chí cho bao nhiêu lít sữa? Thế số sữa mà đáng lẽ dùng để nuôi các chú bò con ấy đi đâu? Kẻ thù của chúng ta đã uống đến giọt cuối cùng. Còn các bạn gà, năm vừa qua các bạn đã đẻ bao nhiêu trứng, trong đó có bao nhiêu quả nở thành gà con? Lão Jones và gia nhân đã mang ra chợ bán lấy tiền hết rồi. Bà Mập, bốn đứa con của bà, niềm vui và chốn nương tựa lúc tuổi cao bóng xế của bà đâu rồi? Chúng đã bị đem bán khi vừa tròn một tuổi, bà sẽ không bao giờ được gặp lại chúng nữa. Một khẩu phần ăn chết đói và cái chuồng, công cho bốn lần vượt cạn cũng như công việc đồng áng của bà chỉ có thế mà thôi! Nhưng dù khốn nạn như thế chúng ta cũng có được sống trọn tuổi trời đâu. Riêng tôi thì chẳng có gì phải phàn nàn, vì thực ra tôi đã gặp may. Năm nay tôi đã mười hai tuổi rồi, tôi có hơn bốn trăm đứa con. Trời đất sinh ra giống lợn là như thế. Nhưng cuối cùng thì cũng chẳng có con vật nào thoát khỏi lưỡi dao oan nghiệt. Tất cả các bạn lợn thịt đang ngồi trước mặt tôi đây, trong vòng một năm nữa tất cả các bạn sẽ phải từ giã cõi đời trên tấm phản mổ. Tất cả chúng ta, bò, lợn, gà, cừu, không ai trong chúng ta tránh khỏi cái kết cục khủng khiếp đó. Số phận của loài ngựa và loài chó cũng chẳng tốt đẹp hơn. Đồng chí Chiến Sĩ nữa, ngay khi cơ bắp của đồng chí vừa yếu đi thì lão Jones sẽ bán đồng chí cho lão mổ ngựa, hắn sẽ cắt cổ đồng chí rồi hầm dừ cho lũ chó săn ăn. Những con chó già, rụng răng sẽ bị lão Jones buộc một viên gạch vào cổ và quăng xuống hồ. Thưa các đồng chí, chả lẽ các đồng chí không thấy rằng tất cả mọi khổ đau trong cuộc đời này của chúng ta chính là do con người mà ra hay sao? Nếu chúng ta loại bỏ được Con Người thì mọi thành quả lao động của chúng ta sẽ thuộc về chúng ta. Nếu làm được thế thì chỉ sau một đêm chúng ta sẽ trở nên giàu có và tự do. Thế thì chúng ta phải làm gì? Làm việc, không kể ngày đêm, cả bằng sức mạnh và tài năng để lật đổ ách thống trị của loài người! Khởi nghĩa! Các đồng chí - đấy là thông điệp của tôi. Tôi không biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa sẽ xảy ra, có thể trong tuần tới, cũng có thể là một trăm năm nữa, nhưng tôi biết rõ, như tôi đang nhìn thấy những cọng rơm bên dưới chân tôi đây rằng sớm muộn gì rồi công bằng cũng sẽ được thiết lập. Các đồng chí hãy nghĩ đến điều đó trong suốt cuộc đời còn lại ngắn ngủi của mình! Ngoài ra, hãy chuyển thông điệp của tôi đến các thế hệ tương lai, để các thế hệ đó tiếp tục cuộc đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng. Các đồng chí hãy kiên định. Không được dao động. Đừng có nghe theo lời tuyên truyền rằng Con Người và các loài vật cùng có chung quyền lợi, rằng sự thịnh vượng của loài này cũng là sự thịnh vượng của loài kia. Bịp bợm hết. Con Người không quan tâm đến quyền lợi của ai, nó chỉ quan tâm đến chính nó mà thôi. Các loài vật chúng ta phải đoàn kết nhất trí, phải có tinh thần đồng chí trong cuộc đấu tranh này. Tất cả loài người đều là kẻ thù. Tất cả các con vật đều là đồng chí." Đúng lúc đó thì tiếng ồn ào nổi lên. Chả là trong khi Thủ Lĩnh đang nói thì có bốn con chuột cống bò ra khỏi hang và cũng đến nghe. Mấy con chó đã trông thấy và may là lũ chuột kịp chạy vào hang, không thì đã mất mạng rồi. Thủ Lĩnh phải giơ chân lên đề nghị im lặng. "Thưa các đồng chí", nó nói, "có một vấn đề cần phải giải quyết. Những con thú hoang như chuột cống và thỏ, chúng là bạn hay là kẻ thù của chúng ta? Đề nghị biểu quyết. Tôi xin đặt vấn đề với hội nghị như sau: Chuột có phải là đồng chí không?" Cuộc bỏ phiếu được thực hiện ngay, đa số tán thành coi chuột là đồng chí. Chỉ có bốn phiếu chống, đấy là ba con chó và một con mèo, nhưng sau này mới phát hiện ra rằng mèo ta bỏ cả phiếu thuận lẫn phiếu chống. Thủ Lĩnh tiếp tục: "Tôi xin nói thêm một chút nữa. Tôi chỉ muốn nhắc lại rằng nhiệm vụ của các đồng chí là phải luôn luôn tranh đấu với Con Người và tất cả những gì do nó tạo ra. Tất cả những loài hai chân đều là kẻ thù. Tất cả những loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. Các đồng chí lại phải luôn luôn nhớ rằng chúng ta không được bắt chước loài người trong cuộc đấu tranh chống lại chúng. Ngay cả khi đã chiến thắng, chúng ta cũng không được tập nhiễm các thói xấu của chúng. Không có con vật nào được sống trong nhà, ngủ trên giường, mặc quần áo, uống rượu, hút thuốc, sử dụng tiền hoặc tham gia buôn bán. Tất cả phong tục của loài người đều là có hại. Quan trọng nhất là không con nào được áp chế con nào. Khoẻ cũng như yếu, thông minh tài trí cũng như bình thường, tất cả chúng ta đều là anh em. Không được giết hại lẫn nhau. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng. Và bây giờ, thưa các đồng chí, tôi sẽ kể cho các đồng chí nghe giấc mơ của tôi tối hôm qua. Tôi không thể mô tả được. Tôi mơ thấy trái đất khi con người đã biến đi rồi. Giấc mơ này làm sống dậy trong trí tôi một việc như sau: Cách đây đã lâu, khi tôi còn là một chú lợn nhỏ, mẹ tôi cùng với các cô bác lợn khác thường hát một bài hát có từ ngày xưa: họ chỉ nhớ nhạc điệu và ba từ đầu tiên thôi. Lúc bé tôi cũng thuộc nhạc điệu, nhưng tôi đã quên từ lâu. Thế mà đêm qua, trong giấc mơ, tôi đã nhớ lại tất cả, hơn thế nữa, tôi còn nhớ lại được cả lời bài hát, tôi tin chắc rằng ngày xưa các loài vật đã từng hát như thế, nhưng sau này họ quên và mấy thế hệ gần đây thì hoàn toàn không biết hát nữa. Bây giờ tôi sẽ hát cho các đồng chí nghe. Tôi đã già, giọng không còn trong, nhưng khi tôi dạy nhạc điệu cho các đồng chí thì các đồng chí sẽ hát hay hơn. Bài hát tên là: Súc Sinh Anh quốc". Thủ lĩnh già hắng giọng và bắt đầu hát. Giọng đúng là đã khàn, nhưng nó hát cũng không đến nỗi tồi, giai điệu hỗn hợp giữa kiểu "Clementine" và "La Cucuracha". Lời bài hát như sau: "Súc sinh Anh quốc Súc sinh muôn nơi Lắng nghe niềm vui mới Của một ngày mai sáng tươi Đồng cỏ núi đồi Mãi mãi xanh ngời Khi lũ người Không còn là ách trên vai Chạc, chạc không còn Cương, cương cũng không Roi vọt, chửi mắng Chỉ là quá khứ tối tăm Ta giàu, ta có Vườn cây, đồng lúa Đậu, sắn, ngô, khoai Là của chúng ta từ đây Mặt trời sáng soi Nước càng ngọt tươi Gió mát muôn đời Là ngày tự do tương lai Súc sinh Anh quốc Súc sinh muôn nơi Lắng nghe niềm vui mới Của một ngày mai sáng tươi" Bài hát đã làm cho lũ súc vật kích động tột độ. Một số con kịp bắt theo ngay trước khi Thủ lĩnh hát hết bài. Ngay những con ngu dốt nhất cũng nắm được nhạc điệu và thuộc mấy từ, còn những con thông minh hơn, như lũ chó và lũ lợn, thì thuộc lòng cả bài ngay trong vài phút đầu. Sau vài lần tập, cả trang trại đã cùng đồng ca được bài Súc Sinh Anh quốc. Mỗi loài hát một giọng, bò rống, chó sủa, cừu kêu be be, ngựa hí, vịt kêu cạp cạp. Chúng khoái bài hát đến độ hát liền một mạch năm lần và chúng có thể hát mãi như thế suốt đêm nếu không bị ngăn trở. Đáng tiếc là tiềng ồn ào đã làm ông Jones thức giấc, ông bước xuống giường vì tin chắc là có một con cáo đã lọt vào sân. Ông tìm khẩu súng vẫn thường dựng ở góc phòng và bắn một lọat đạn ghém lên trời. Có mấy viên găm vào tường nhà kho và cuộc họp mau chóng kết thúc. Từng con quay về chỗ ngủ của mình. Gia cầm nhảy lên ổ, còn gia súc thì nằm xuống đống rơm và chẳng bao lâu sau cả trang trại đã chìm vào giấc ngủ. Blog Phạm Nguyên Trường -------------------- ![]() |
|
|
![]() |
![]() ![]()
Post
#2
|
|
![]() Phố Cũ ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 2,691 Joined: 21-April 08 Member No.: 43 Country ![]() ![]() |
Trại súc vật (Kì 8) ![]() George Orwell - Phạm Nguyên Trường dịch Chương VIII Vài ngày sau, khi nỗi sợ hãi do vụ thảm sát tạo ra đã lắng xuống thì có mấy con đã nhớ được, hay tưởng là nhớ được rằng Điều Răn Thứ Sáu nói: "Loài vật không được giết hại lẫn nhau". Dù không dám nói ra khi đứng gần lũ chó và lợn, nhưng cả bọn đều cho là những vụ giết chóc vừa qua không phù hợp với Điều Răn Thứ Sáu. Bà Mập yêu cầu Benjamin đọc cho nghe Điều Răn Thứ Sáu, nhưng cũng như mọi khi, Benjamin bảo rằng nó không dây vào những chuyện như vậy. Bà Mập đành đi tìm Muriel để nhờ đọc. Điều ấy được viết như sau: "Loài vật không được giết hại lẫn nhau nếu không có lí do". Hoá ra là chúng đã quên mấy từ cuối. Nhưng như vậy là Điều Răn này vẫn được tôn trọng, những tên phản bội liên kết với Tuyết Tròn đáng bị giết quá đi chứ. Năm nay chúng còn làm việc vất vả hơn năm trước rất nhiều. Ngoài những công việc thường nhật của trang trại, chúng còn phải xây dựng lại cối xay gió với những bức tường dày gấp đôi, mà lại phải hoàn thành đúng kế họach. Có những lúc chúng thấy phải làm nhiều hơn mà lại được ăn không khác gì thời còn ông Jones. Sáng chủ nhật nào Chỉ Điểm cũng cầm một mảnh giấy dài và đọc cho chúng nghe các số liệu chứng minh rằng sản lượng các loại lương thực, thực phẩm đều tăng, khi thì hai trăm, khi thì ba trăm, khi thì năm trăm phần trăm. Chúng chẳng thấy có lí do gì để nghi ngờ, nhất là vì chúng đã quên, chẳng còn nhớ gì quá khứ trước ngày Khởi Nghĩa nữa. Tuy thế, đôi khi chúng thấy thà số liệu ít đi mà thức ăn nhiều thêm thì vẫn hơn. Mọi mệnh lệnh bây giờ đều được Chỉ Điểm hay một con lợn khác đưa xuống. Napoleon chỉ xuất hiện nửa tháng một lần. Mỗi lần nó xuất hiện thì ngoài bầy chó hộ tống còn có một con gà trống màu đen đi trước, giống như lính thổi kèn trong đội kị binh, con gà này bao giờ cũng gáy "Ò ó o…" thật to trước khi Napoleon hắng giọng bắt đầu bài diễn văn. Có tin nói rằng ngay trong ngôi nhà chính Napoleon cũng có một phòng riêng, tách biệt hẳn với những con lợn khác. Nó ăn riêng, khi ăn bao giờ cũng có hai con chó đứng hầu, bát đĩa đều bằng sứ, trước đây, hồi còn ông Jones những thứ này vốn để trong tủ phòng khách và chỉ đem ra dùng trong những ngày lễ trọng. Có thêm một quyết định mới là từ nay sẽ bắn súng chào mừng ba lần, một lần vào ngày sinh của Napoleon và hai lần khác vào những ngày lễ lớn của trại. Bây giờ chúng không xưng hô với Napoleon đơn giản như trước nữa. Tên nó luôn đi kèm với những từ như "Lãnh tụ của chúng ta, Đồng chí Napoleon", lũ lợn còn cố gắng phát minh ra các tên mới như: Cha của các loài vật, Nỗi khiếp sợ của giống người, Người bảo vệ của loài cừu, Bạn của loài vịt v.v... Mỗi khi nói về trí tuệ, lòng nhân từ, tình yêu thương sâu như trời biển của Napoleon dành cho súc vật, đặc biệt là những con còn phải sống trong vòng nô lệ tối tăm của các trang trại khác là nước mắt Chỉ Điểm lại chảy ướt đẫm hai gò má. Mọi thành tích đều được qui về cho Napoleon. Có thể nghe thấy hai con gà mái tâm sự: "Dưới sự dẫn dắt của Đồng chí Napoleon, Lãnh tụ của chúng ta, tôi đã đẻ được năm quả trứng trong sáu ngày vừa rồi"; hay hai con bò vừa uống nước vừa nói: "Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của đồng chí Napoleon mà nước dạo này mới ngọt làm sao!". Tâm trạng chung của trại được thể hiện trong bài thơ mang tên: "Đồng chí Napoleon" do Kế Tục sáng tác: Đồng chí Napoleon! Người là cha của những đứa trẻ mồ côi, Là suối nguồn hạnh phúc muôn đời, Là vầng thái dương chiếu sáng bầu trời. Ánh mắt người ấm mãi lòng tôi. Đồng chí Napoleon! Người cho tôi bữa ăn lúc đói lòng. Người cho tôi nệm rơm ấm mùa đông. Người ngồi canh, Cho bầy con giấc ngủ yên lành. Con ơi! Hạnh phúc muôn đời, Là nhờ Đồng chí Napoleon. Tên cha tên mẹ tên chồng, Con có thể quên. Nhưng tên người, Vầng thái dương chiếu sáng đời đời Con phải nhớ mãi không thôi: Napoleon, Napoleon, người ơi! Napoleon chấp nhận bài thơ và bảo viết lên bức tường nhà kho lớn, bên cạnh Bảy Điều Răn. Bên trên bài thơ là hình Napoleon nhìn nghiêng do Chỉ Điểm vẽ bằng sơn trắng. ![]() Trong khi đó, Napoleon, qua trung gian là Whymper, đang tiến hành những cuộc đàm phán rắc rối với Frederick và Pilkington. Vẫn chưa bán được đống gỗ. Frederick muốn mua lắm, nhưng lại trả giá quá thấp. Đồng thời lại có tin đồn rằng Frederick và lũ gia nhân đang âm mưu tấn công Trại Súc Vật để phá cối xay gió vì lão ghét cay ghét đắng ngôi nhà này. Nghe nói Tuyết Tròn vẫn đang trốn trong Trại Keo. Đến giữa mùa hè thì lũ súc vật lại được một phen hoảng loạn khi nghe đồn có ba con gà tự thú đã bị Tuyết Tròn xúi giục mưu sát Napoleon. Chúng bị hành quyết ngay lập tức và các biện pháp an ninh nghiêm ngặt hơn cho Napoleon đã được thực hiện. Từ nay trở đi, ban đêm sẽ có bốn con chó, mỗi con canh một góc giường, đồng thời để tránh bị đầu độc, một con chó tên là Pinkeye được phân công nếm tất cả thức ăn trước khi Napoleon dùng. Cũng khoảng thời gian đó có tin Napoleon đã quyết định bán gỗ cho Pilkington; hơn thế, nó còn dự định sẽ thiết lập việc trao đổi sản phẩm thường xuyên giữa Trại Súc Vật và Trại Cáo nữa. Quan hệ giữa Napoleon và Pilkington, dù chỉ mới qua trung gian là Whymper, đã trở nên khá thân tình. Pilkington, cũng như mọi người nói chung, chẳng bao giờ được lũ súc vật tin, nhưng dù sao thì chúng cũng thích hơn Frederick là người chúng vừa ghét vừa sợ. Càng đến cuối mùa hè, khi mà cối xay gió đã sắp xong, thì tin đồn về cuộc tấn công phản trắc càng tăng. Có người nói rằng Frederick dự định dùng đội quân gồm hai mươi người đầy đủ súng ống để tấn công và đã mua chuộc chính quyền cũng như cảnh sát để được tự do hành sự. Ngoài ra, tin tức về những việc làm thất đức của hắn đối với các con vật trong Trại Keo cũng được tiết lộ. Hắn đánh đến chết một con ngựa già, hắn bỏ đói bầy bò, hắn ném một con chó vào bếp lò, chiều nào hắn cũng kích động cho bọn gà trống đá nhau, mà không đá nhau suông, hắn còn buộc dao cạo râu vào cựa gà để tìm cảm giác mạnh nữa. Khi nghe nói các đồng chí của mình bị đối xử một cách man rợ như vậy thì máu con nào cũng sôi lên vì giận, đôi khi chúng thét lên đòi kéo nhau đi tấn công Trại Keo, đuổi cổ giống người đi, giành lại tự do cho lũ súc vật ở đó. Nhưng Chỉ Điểm khuyên chúng tránh hành động một cách nóng vội và hãy tin tưởng vào đường lối chiến lược của Đồng chí Napoleon. Lòng căm thù đối với Frederick tăng lên từng ngày. Một hôm, vào ngày chủ nhật, Napoleon xuất hiện trong nhà kho để giải thích cho lũ súc vật là nó chưa bao giờ nghĩ sẽ bán gỗ cho Frederick, nó bảo những loại như vậy không xứng đáng để nó giao tiếp. Những con bồ câu vẫn được phái đi kêu gọi súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa bị cấm không được lai vãng đến gần Trại Cáo, khẩu hiệu: "Đả đảo loài người!" được thay bằng: "Đả đảo Frederick!". Đến cuối mùa hè thì một tội ác nữa của Tuyết Tròn được phát hiện. Lần này là cánh đồng lúa mì mọc đầy cỏ dại - sau khi điều tra mới phát hiện ra rằng ban đêm Tuyết Tròn đã lẻn vào trại rồi trộn hạt cỏ vào thóc giống. Một con ngỗng đực đồng phạm trong vụ này đã thú nhận tội lỗi với Chỉ Điểm và sau đó nuốt ngay một quả cà độc dược tự sát. Lũ súc vật còn được thông báo rằng, không phải như nhiều con vẫn tin, Tuyết Tròn chưa bao giờ được phong danh hiệu Súc vật Anh hùng bậc I. Chuyện ấy là do chính Tuyết Tròn bịa ra ngay sau chiến dịch Chuồng bò. Nó không những không được khen thưởng mà con bị phê phán nặng nề vì đã tỏ ra hèn nhát khi lâm trận. Cũng như mọi khi, tin này làm một số con bối rối, nhưng Chỉ Điểm đã nhanh chóng thuyết phục được chúng rằng thực ra là do chúng mau quên mà thôi. Cối xay gió được xây dựng xong vào mùa thu, đúng vào lúc thu hoạch vụ mùa, chúng đã phải làm việc đến kiệt sức. Dù còn phải lắp thiết bị nữa, Whymper đang đàm phán để mua, nhưng cái chính là đã xây xong nhà xưởng rồi. Biết bao nhiêu khó khăn, chưa có kĩ thuật và kinh nghiệm, lại còn bị Tuyết Tròn phá hoại, thế mà chúng vẫn hoàn thành công tác xây dựng đúng ngày giờ đã định! Dù rất mệt mỏi, lũ súc vật vẫn cố đi nhiều vòng quanh cối xay gió, lòng đầy tự hào, lúc này trông nó còn đẹp hơn lần xây đầu tiên. Đấy là chưa nói tường lần này dày gấp đôi lần trước. Bây giờ muốn phá mà không có thuốc nổ không xong! Và khi chúng nghĩ đến khối lượng công việc đã làm, những khó khăn đã vượt qua, những đổi thay sẽ tới khi cách quạt cối xay gió bắt đầu quay, khi máy phát điện bắt đầu chạy; khi chúng nghĩ đến những chuyện đó thì bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến, chúng cùng nhau chạy vòng quanh cối xay gió, vừa chạy vừa reo hò ầm ĩ. Chính Napoleon, được mấy con chó và con gà trống hộ tống, cũng tới xem, nó chúc mừng cả lũ nhân dịp hoàn thành công trình và tuyên bố sẽ đặt tên công trình là Nhà máy Napoleon. Hai ngày sau, lũ súc vật được mời tới dự một phiên họp đặc biệt trong nhà kho. Chúng không thể nào tin được khi nghe Napoleon nói đã bán gỗ cho Frederick. Ngày mai xe của Frederick sẽ tới chở. Hoá ra thời gian qua Napoleon giả vờ thân thiện với Pilkington nhưng lại bí mật đàm phán với Frederick. Mọi quan hệ với Trại Cáo đều bị cắt, một công hàm chứa đầy các từ ngữ có tính xúc phạm được gửi cho Pilkington. Đám bồ câu được lệnh tránh Trại Keo và thay khẩu hiệu "Đả đảo Frederick" thành "Đả đảo Pilkington". Đồng thời Napoleon cũng cam đoan với lũ súc vật rằng lời đồn về vụ tấn công Trại Súc Vật là hoàn toàn vô căn cứ, cũng như việc Frederick đối xử tàn tệ với gia súc đã bị thổi phồng quá đáng. Chắc là Tuyết Tròn và tay sai đã tung ra các tin này. Hoá ra là Tuyết Tròn không những không trốn trong Trại Keo mà còn chưa bao giờ đến đấy nữa, thực ra là nó đang sống, theo người ta nói, thì khá sung túc trong Trại Cáo: nó đã bán mình cho Pilkington từ lâu. Lũ lợn được dịp đưa Napoleon lên chín tầng mây. Giả vờ thân thiện với Pilkington, nó đã buộc Frederick phải trả thêm hai mươi bảng. Chỉ Điểm còn nói rằng Napoleon là một con heo siêu quần vì nó không bao giờ tin ai, không tin bất cứ con nào, không tin cả Frederick. Frederick muốn thanh toán bằng sec, nghĩa là bằng một tờ giấy có ghi rõ số tiền có thể nhận khi cần. Nhưng Napoleon tỏ ra khôn hơn hắn ta nhiều. Nó đòi thanh toán bằng tiền mặt, loại năm bảng, mà phải trả đủ tiền thì mới được mang gỗ đi. Frederick đã thanh toán hết, số tiền này đủ mua toàn bộ thiết bị cho cối xay gió. Gỗ được chuyển đi khá nhanh. Khi số gỗ trong sân đã được đưa đi hết thì lũ súc vật lại được mời tham gia một cuộc họp đặc biệt để cùng kiểm tra số tiền do Frederick giao. Napoleon, ngực đeo hai tấm huy chương, miệng cười rất tươi, nằm ngả người trên nệm rơm, bên cạnh là cái đĩa sứ chất đầy những tập tiền mới cứng. Lũ súc vật lần lượt đi ngang qua, tha hồ ngắm nghía. Chiến Sĩ còn đưa mũi hít, những tờ giấy mới khẽ rung lên và phát ra tiếng kêu loạt xoạt. Ba ngày sau thì xảy ra một vụ náo loạn. Hôm đó, Whymper, mặt trắng bệch như người sắp chết, phóng xe đạp như điên vào sân trại, vừa tới nơi đã quẳng xe xuống đất rồi vội vàng lao vào toà nhà chính. Gần như ngay lập tức người ta nghe thấy tiếng thét kinh hoàng phát ra từ phòng Napoleon. Tin tức truyền khắp trại nhanh như lửa chớp. Tiền do Frederick thanh toán là giả hết! Hắn đã ăn không số gỗ rồi! Napoleon lập tức hạ lệnh tập trung và tuyên bố kết án tử hình Frederick. Thằng ấy đáng bị thiêu sống - nó bảo như vậy. Đồng thời nó cũng nói phải chuẩn bị tinh thần để đối phó với những tình huống xấu nhất. Frederick và gia nhân của hắn có thể tấn công bất cứ lúc nào. Phải cử lính canh trên mọi ngả đường dẫn vào trại. Ngoài ra, nó còn cử bốn con bồ câu mang theo thông điệp hữu hảo sang Trại Cáo để mong bình thường hóa quan hệ. Ngay sáng hôm sau Frederick đã tổ chức tấn công. Lũ súc vật đang chuẩn bị ăn sáng thì con canh gác chạy vào báo rằng Frederick cùng gia nhân đã vượt qua cổng chính của trại. Không lưỡng lự, lũ súc vật lập tức xông lên, nhưng lần này chúng phải chiến đấu vất vả hơn chiến dịch Chuồng bò nhiều. Cả thảy có mười lăm người với khoảng nửa tá súng, ngay từ xa hơn một trăm mét họ đã nổ súng rồi. Tiếng súng vang lên đinh tai nhức óc, đạn ghém vãi như trấu, lũ súc vật không ngờ cuộc chiến lại dữ dội đến như thế nên mặc dù Napoleon và Chiến Sĩ ra sức động viện, chúng vẫn lùi dần. Một số con đã bị thương. Chúng chạy vào nấp trong các toà nhà rồi ghé mắt nhìn qua các lỗ thủng trên tường. Toàn bộ bãi chăn thả lớn, kể cả cối xay gió đã lọt vào tay địch quân. Ngay cả Napoleon cũng tỏ ra bối rối. Nó yên lặng đi đi lại lại, cái đuôi xoắn cứ đập hết bên này sang bên kia. Thỉnh thoảng nó lại nhìn về hướng Trại Cáo. Nếu Pilkington mang quân tiếp viện tới thì may ra mới có thể đánh đuổi được địch quân. Nhưng đúng lúc đó thì bốn con bồ câu được phái đi trước đó một ngày đã quay về. Một con ngậm miếng giấy trên ghi hai chữ "Đáng kiếp". Trong khi đó, Frederick và gia nhân đã tiến gần đến cối xay gió. Lũ súc vật chăm chú theo dõi, tiếng thì thầm lo lắng bắt đầu nổi lên. Có hai người mang búa và xà beng tới. Chắc là họ định phá cối xay gió. "Không xong đâu!", Napoleon gào lên, "Tường cối xay gió dày lắm, chúng không làm gì được đâu. Phải mất cả tuần là ít. Cứ bình tĩnh, các đồng chí!" Nhưng Benjamin vẫn không rời mắt khỏi mọi động tĩnh. Hai người đang dùng búa và xà beng đào một cái hố ngay dưới chân tường cối xay gió. Benjamin gật gù cái mõm dài ngoằng, có vẻ như nó còn cảm thấy thú vị nữa. "Tôi vẫn nghĩ như thế", nó bảo, "các vị có biết chúng đang làm gì không? Chúng sẽ cho thuốc nổ vào hố đấy." Lũ súc vật sợ hãi chờ đợi. Không con nào dám liều mạng xông ra. Rồi chúng thấy bọn người chạy tản ra tứ phía. Một tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên. Lũ bồ câu bay vọt lên, còn các con khác, trừ Napoleon thì vội nằm bẹp xuống, mặt dúi xuống đất. Khi ngẩng đầu lên thì chúng thấy một đám khói đen còn trùm lên khu vực cối xay gió. Khói tan dần. Cối xay gió đã bị đánh sập hoàn toàn! ![]() Cảnh tượng làm lũ súc vật lập tức tỉnh ngộ. Hành động tàn bạo, bất lương đó làm cho chúng vô cùng tức giận. Không cần mệnh lệnh, chúng đồng loạt lao lên, xông thẳng vào địch quân, miệng gầm lên những tiếng thét căm hận đòi trả thù. Đạn ghém vãi như mưa trên lưng cũng không làm chúng nao núng. Chúng sẵn sàng hi sinh tất cả. Frederick và gia nhân bắn liên hồi kì trận và khi lũ súc vật đến gần thì dùng gậy đánh, chân đá. Một con bò, ba con cừu, hai con ngỗng bị giết, hầu như con nào cũng bị thương. Napoleon, đứng đằng sau chỉ huy cũng bị đạn bắn vào đuôi. Nhưng một số gia nhân của Frederick cũng bị sứt đầu mẻ trán. Ba người bị Chiến Sĩ đạp vỡ đầu, một người bị bò húc thủng bụng, một người nữa bị chó cắn rách quần. Khi chín con chó thuộc đội cận vệ của Napoleon được lệnh bọc sườn và vừa sủa vừa lao vào tấn công thì lũ người hoảng loạn. Họ hiểu rằng sắp bị bao vây. Frederick hạ lệnh rút lui, thế là địch quân hốt hoảng bỏ chạy. Lũ súc vật đuổi theo đến tận sát biên giới và tiếp tục húc vào mông người khi họ chui qua lỗ hàng rào ngăn cách hai trại. Chúng đã thắng, nhưng chúng cũng đã kiệt sức vì mệt và bị thương. Chúng từ từ quay trở về trang trại. Cảnh hi sinh của đồng đội làm chúng cảm động đến trào nước mắt. Chúng đứng lặng bên cạnh đống xà bần của cối xay gió. Cối xay gió không còn, bao nhiêu công sức đã bị xoá sạch! Ngay cả móng cũng bị phá hỏng gần hết. Lần trước, khi xây lại, chúng còn có thể sử dụng những viên đá cũ. Bây giờ thì đá cũng không còn. Vụ nổ đã làm đá bắn vung vãi khắp nơi, xa đến cả trăm mét. Khi chúng về gần đến trang trại thì Chỉ Điểm, không con nào nhìn thấy nó khi lâm trận, bỗng ở đâu tiến lại, đuôi vẫy nhặng lên có vẻ rất hài lòng. Lũ súc vật nghe thấy tiếng súng. "Sao lại bắn súng thế nhỉ?", Chiến Sĩ hỏi "Để chào mừng chiến thắng", Chỉ Điểm gào lên. "Chiến thắng nào?", Chiến Sĩ lại nói. Các đầu gối của nó đều bị rách, móng sắt thì bị tuột, bàn chân cũng bị thương, hai chân sau còn dính hàng chục mảnh đạn. "Sao lại chiến thắng nào, thưa các đồng chí? Không phải là chúng ta vừa giải phóng đất đai, đất đai thiêng liêng của Trại Súc Vật của chúng ta đấy ư?" "Nhưng chúng đã đánh sập cối xay gió, hai năm xây dựng chứ có ít đâu!" "Thế thì đã sao? Chúng ta sẽ xây cái khác. Nếu muốn chúng ta có thể xây sáu cái một lúc. Có thể đồng chí chưa đánh giá hết chiến công vĩ đại vừa rồi của chúng ta. Kẻ thù đã chiếm được chính mảnh đất mà chúng ta đang đứng đây. Bây giờ, nhờ sự lãnh đạo của đồng chí Napoleon, chúng ta đã giành lại được từng tấc đất của chúng ta." "Chúng ta giành lại chính đất của mình", Chiến Sĩ nói. "Đấy chính là chiến thắng chứ còn gì nữa", Chỉ Điểm bảo. Cuối cùng chúng cũng lê được về đến sân trại. Những mảnh đạn còn nằm trong chân Chiến Sĩ nhức nhối không thể chịu nổi. Nó đã mường tượng được những nỗi cực nhọc, vất vả của quá trình xây dựng lại từ đầu cối xay gió và trong thâm tâm đã sẵn sàng lao vào công việc. Nhưng đây cũng là lần đầu tiên nó ý thức được rằng nó đã mười một tuổi rồi, sức vóc không còn được như mọi năm nữa. Nhưng khi nhìn thấy lá cờ xanh đang tung bay, nghe thấy loạt súng chào mừng, hôm đó bắn những bảy loạt và nhất là sau khi nghe Napoleon cám ơn vì đã dũng cảm chiến đấu thì chúng thực sự cảm thấy vừa giành được một chiến thắng vĩ đại. Những con hi sinh được chôn cất chu đáo. Đoàn đưa tang do chính Napoleon dẫn đầu, phía sau là một chiếc xe song mã được dùng làm xe tang do Chiến Sĩ và Bà Mập kéo. Chúng nghỉ việc hai ngày liền để mừng chiến thắng. Chúng tổ chức hát, đọc diễn văn chào mừng và bắn súng; mỗi con gia súc được phát một quả táo, mỗi con gia cầm được sáu mươi gram thóc, mỗi con chó được ba cái bánh xốp. Sau đó có thông báo rằng trận đánh này được gọi là chiến dịch Cối xay gió, Napoleon quyết định thiết lập một danh hiệu mới gọi là "Huân chương cờ xanh" và gắn cho chính mình. Trong niềm vui chung dạt dào đó, không con nào còn nghĩ đến vụ tiền giả vừa rồi nữa. Sau đó mấy ngày thì lũ lợn phát hiện được một thùng whisky trong tầng hầm của ngôi nhà chính. Chiều hôm đó những con khác bỗng nghe thấy tiếng hát vọng ra từ ngôi nhà chính và điều làm chúng ngạc nhiên hơn nữa là có cả những đoạn của bài "Súc Sinh Anh Quốc". Rồi vào khoảng chín giờ rưỡi, lúc đó trời vẫn còn sáng, chúng thấy Napoleon chui ra khỏi cửa sau, đầu đội chiếc mũ phớt cũ của ông Jones, nó chạy nước kiệu quanh sân một vòng rồi đi vào. Sáng hôm sau một không khí im lặng bao trùm cả toà nhà chính. Không thấy một con lợn nào hay bất cứ động tĩnh gì xung quanh toà nhà. Mãi đến khoảng chín giờ Chỉ Điểm mới xuất hiện, mắt cu cậu trông đờ dẫn, đuôi buông thõng, chân bước uể oải, rõ là đang mệt nặng. Nó gọi tất cả lại và nói có một tin quan trọng cần phải thông báo. Đồng chí Napoleon đang hấp hối! Tiếng gào khóc dậy lên. Chúng vội mang rơm đến trải xuống trước cửa ngôi nhà chính, không con nào dám bước mạnh. Nước mắt lưng tròng, chúng thì thầm hỏi nhau sẽ làm gì nếu như chẳng may lãnh tụ có mệnh hệ nào. Có tin đồn Tuyết Tròn đã đầu độc Napoleon. Mười một giờ Chỉ Điểm lại xuất hiện. Chỉ Điểm bảo rằng trước khi từ gĩa cõi đời, đồng chi Napoleon đã kí một nghị định, từ nay con nào uống rượu thì sẽ bị kết án tử hình. Đến chiều có tin Napoleon đã đỡ và sáng hôm sau thì Chỉ Điểm thông báo rằng lãnh tụ đang bình phục. Chiều hôm đó Napoleon đã ngồi dậy làm việc và sáng hôm sau thì có tin là nó đã hạ lệnh cho Whymper mua ở Willingdon mấy cuốn sách dạy cất rượu bia. Một tuần sau Napoleon ra lệnh cày đám đất trước đây định dành làm bãi cỏ cho những con về hưu. Lũ súc vật được nghe giải thích rằng miếng đất ấy cằn cỗi quá, phải trồng cấy một thời gian để lấy màu, nhưng sau này mới rõ là Napoleon định trồng lúa mạch ở đó. Cũng khoảng thời gian này đã xảy ra một sự kiện mà hầu như không con nào hiểu. Hôm ấy, đã gần nửa đêm, bỗng có tiếng động lớn vang lên ở ngoài sân, tất cả đều lao ra khỏi chuồng. Trăng hôm đó rất tỏ, cả bọn nhìn thấy gần đầu hồi nhà kho lớn, nơi có chép "Bảy Điều Răn", một cái thang gãy làm đôi. Gần đấy là Chỉ Điểm, lúc đó đã bất tỉnh nhân sự, cái đèn bão cùng một hộp sơn màu trắng lăn lóc bên cạnh. Mấy con chó lập tức đứng thành vòng tròn xung quanh Chỉ Điểm và dìu nó về nhà chính khi nó vừa gượng dậy được. Có vẻ như ngoài Benjamin ra thì không con nào hiểu đã xảy ra chuyện gì, nhưng nó chỉ lắc đầu, không nói câu nào. Mấy ngày sau, Muriel, trong khi đọc lại Bảy Điều Răn đã phát hiện ra chúng còn nhớ sai một điều nữa. Chúng tưởng rằng Điều răn thứ năm là "Không con vật nào được uống rượu", nhưng chúng đã quên mất ba từ. Thực ra Điều Răn đó như sau: "Không con vật nào được uống rượu đến say xỉn" -------------------- ![]() |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 15th June 2025 - 08:58 PM |