![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Phố Cũ ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 2,691 Joined: 21-April 08 Member No.: 43 Country ![]() ![]() |
Sống chỉ một lần ![]() Chương 1: Liên tiếp mấy ngày đầu xuân của một tháng 6 dài, buổi sáng nào cũng bắt đầu với cái rào-rạt và trắng xóa đầy trời của một trận mưa lớn. Buổi chiều hôm trước nắng còn rực rỡ, vàng như lụa, chiếu xuống từ một trời xanh biếc và cao vút. Đêm sao, một biển hằng hà sa số lấp lánh. Nhưng từ nửa khuya về sáng, những đám mây đầu mùa lướt thướt lại kéo đến trong im lặng của giấc ngủ. Mây che lấp dần những chùm sao. Mây làm thấp xuống hẳn một vòm trời. Mây đêm đến che khuất hẳn cả một mùa nắng đẹp. Tò mờ sáng, giấc ngủ ngon thường bị đánh thức bởi một trận mưa. Trận mưa thật lớn, thật bàng hoàng, như một bất ngờ thảng thốt. Buổi sáng hôm nay cũng không ngoại lệ. Một trận mưa lớn đã đánh thức tôi. Trận mưa thật tàn nhẫn, đã cắt đứt một giấc mộng dịu dàng, vào đúng lúc đẹp nhất, đáng kéo dài nhất của một cơn mộng. Những giấc mơ nở hoa trong từng giấc ngủ của tôi trong mấy năm nay nhiều vô kể nhưng phảng phất cùng một khuôn mặt, cùng một bầu không khí. Tôi chỉ có một đời sống, một lối sống. Tôi chỉ có ngần ấy nhớ thương, bấy nhiêu rung động. Tôi không sống với một thế giới nào, mà chỉ sống với một người. Giấc mơ cũng thế. Chỉ có một người, một khuôn mặt hiện ra mà thôi. Đó là Trường. Trường là tên của chàng, 40 là tuổi của chàng. Những giấc mơ của tôi cao lớn và khỏe mạnh. Vóc dáng chàng cũng như vậy. Chàng đẹp như thông, khỏe như núi. Đôi mắt chàng sâu, lúc nghiêm trang thăm thẳm như biển; lúc nghịch ngợm sáng ngời như nắng. Một đường mũi thẳng, một mái tóc đen nháng, một tiếng cười vang động, một giọng nói trầm ấm... Trường sáng ngời trong giấc mơ tôi, như một đóa mặt trời. Đêm qua, tôi lại mơ thấy chàng. Trước giấc ngủ, tôi biết giấc mơ sẽ đến bởi vì trong tỉnh thức của ngày hay trong mơ màng của đêm thì cũng vậy: Trường là một hiện hữu tràn đầy trong tâm hồn và tiềm-thức của tôi. Lần này tôi mơ thấy một con đường. Đó là một con đường thôn dã ở ngoài vùng ngoại ô thành phố. Con đường nhỏ chạy giữa một thành phố bát ngát. Cỏ xanh um từng ngọn... rừng cỏ đuổi nhau tới cuối chân trời. Xa xa là một cây cầu và một con rạch nhỏ. Giấc mơ lặng lẽ thư thái, không nghe thấy dấy động dù là một tiếng nhỏ nào. Tôi đi bên Trường. Tôi ngả đầu vào vai chàng. Chúng tôi không nói nới nhau một lời nào. Cứ như thế thật lâu giữa cánh đồng mênh mông bát ngát... Nhiều lần Trường cúi xuống, tròng mắt chàng sâu thẳm bảo tôi rằng: -Im lặng là một tiếng nói kỳ diệu. Tôi hỏi: -Anh nghe thấy những gì trong sự im lặng đó? Chàng trả lời: -Tất cả! Cuộc đời và chúng ta. Từ những tiếng cười vang động đến những ý nghĩ thì thầm và sâu kín nhất. Có lẽ là thế thật. Im lặng là một tiếng nói kỳ diệu, và sự im lặng thần thánh này đã trở thành một thứ tiếng nói tôi nghe thấy hơn một lần trong những giấc mơ muôn vàn êm ái như giấc mơ dài của đêm qua. Con đường không cùng. Chân trời lùi xa. Cỏ trong giấc mộng nối nhau thành sóng. Chúng tôi đi mãi cho đến khi trận mưa buổi sáng thình lình đổ xuống con đường, và cánh đồng cỏ biến mất... Tôi giật mình tỉnh giấc, nghe thấy mưa đã ào ạt đổ trên mái nhà mình... Mọi cánh cửa sổ đều đóng kín với rèm buông che lấp. Bóng tối còn đọng đầy ở nhũng góc xó. Tôi bàng hoàng nằm im nghe mưa, chưa phân định được thực tế chung quanh! Chỉ biết giấc mơ đã tàn và sự họp mặt của tôi và Trường không còn nữa. Một tiếng đập cửa, tiếp theo là tiếng gọi lớn. -Chị Tuyền! Dậy chưa, chị Tuyền? Tiếng gọi lanh lảnh, trong như ánh sáng, vui như chim hót, hồng như tuổi trẻ của Nhã, em tôi. Tôi hơi bực bội như thầm nói: -“Con khỉ! Làm gì mà nhắng lên thế! Để im cho người ta nằm. Để im cho người nằm!” Để im cho tôi đang nghe mưa, đang mơ mộng. Trận mưa lớn đã kéo tôi ra khỏi giấc ngủ, nhưng thần trí tôi vẫn còn mông lung, mơ màng... Cái trạng thái chập chờn nửa mơ nửa tình này vẫn còn tạo được cho tôi cái ảo giác là dù giấc mộng khi vỡ tan rồi nhưng từng phiến mơ hồ, từng mảnh khói sương của mộng vẫn còn phảng phất. Mưa rào rào trên mái nhà. Mưa trắng xóa trên những tầng không gian mênh mông. Có phải là mưa vẫn còn đang lướt thướt trên những sân ga, trên những bến tàu? Giờ này chắc không phải chỉ mưa trong khu phố tôi ở mà còn mưa trên khắp các vòm trời trên khắp thế giới nữa. Tôi hình dung thấy chàng đứng đó, trên sân ga chính của một thành phố lớn. Một chuyến tàu sắp sửa rời nhà ga... Toa máy phì phà thở khói, đường sắt dài thăm thẳm trước mặt... Chàng đứng đó dưới một hàng hiên, chờ giờ tàu chạy trong mưa bay nghiêng. Chàng đội một cái mũ dạ, vành mũ che nửa vầng trán rộng. Chàng mặc một chiếc áo tơi mưa, cổ áo kéo trùm kín gáy. Bên cạnh chàng là một cái va-li lớn gắn đầy nhãn hiệu những khách sạn của các phi trường và các hải cảng quốc tế mà gót chân lữ hành của chàng đã đi qua. Trường thường hỏi tôi: -Cuộc đời một người đàn ông mang cái hình ảnh gì là cái hình ảnh đúng nhất, Tuyền biết không? Tôi đáp: -Một bóng núi. Chàng cười: -Tại sao một bóng núi? Tôi trả lời bằng một giải thích thật ‘đàn bà’, thật lãng mạn: -Vì núi cao và lớn, như một che chở. Đàn ông đẹp như thông, như núi. Đàn bà chúng em mềm yếu, cần sự che chở ấy. Đàn bà là hoa, là liễu. Trường gật gù. Tuy nhiên, sự tán đồng của chàng chỉ một phần: -Cũng đúng. Nhưng núi và thông là những hình thể đứng im một chỗ. Cao lớn và bất động. Cái bất động không thể là một hình ảnh một đời sống. Trường chỉ tay lên một tầng cao trên đầu, trên mây, trên trời và nói về cái hình ảnh và đời sống đàn ông theo ý của chàng: -Một cánh chim bằng. Tôi đang nhớ... đang nghĩ... đang thả hồn tôi cho bay theo cánh chim bằng trong buổi sáng mưa lớn này đây. Phải, phút này chắc là chàng đang đứng đó, trên một sân ga... Trong mưa vây bốn phía. Chàng thật đẹp, trước giờ lên đường. Khuôn mặt chàng rắn rỏi. Cái mũi dọc dừa, đôi lông mày rậm, cái cằm đầy nghị lực. Thân hình thoát ra sự vững chãi của một đời sống đã lăn lóc, đã thăng trầm, đã trưởng thành. Tôi nói thầm: -Anh Trường, anh ở đâu lúc này? Em đang nằm, em vừa thức. Đêm qua em mơ thấy anh. Anh ở đâu? Chân trời nào? Góc biển nào?... -Chị Tuyền, mở cửa cho em! Tôi càu nhàu, tung chăn bước ra khỏi giường. Mặt đá hoa nền nhà lạnh buốt làm tôi rùng mình. Tôi còn muốn nằm nữa trong chăn, trong bóng tối lờ mờ. Tôi muốn tiếp tục mơ mộng nữa, mơ mộng cho đến hết buổi sáng... Cánh cửa vừa mở, bị đẩy toang ra từ phía bên ngoài. Ánh sáng lùa vào làm tôi chói mắt. Tôi gắt lên. -Làm gì mà phá phách quá vậy! Nhã đẩu tôi sang một bên. Nó thoăn thoắt đi vào. Và mặc dầu còn mưa lớn, nó mở tung hết nọi cánh cửa sổ. Tôi nhẫn nhục đứng nhìn. Con nhỏ này thật lộng! Nhiều khi tôi cảm tưởng như nó không còn coi tôi ra gì nữa. Nó đụng chạm quá mạnh vào đời sống riêng tư của tôi. Đời sống tôi như một căn buồng đóng kín vừa bị nó tấn công ào ạt vào và mở hết mọi cánh cửa. Mở hết cửa cho ánh sáng lùa vào xong, Nhã thản nhiên quay trở ra, vừa đi vừa nói như truyền lệnh. -Ra rửa mặt rồi mặc quần áo! Cái con nhỏ này to gan thật! Xem chừng nó đang âm mưu đòi điều khiển cuộc sống của tôi đây. Chuyện này không thể để yên như thế được. Tôi liền gọi giật nó lại. -Nhã! Nó cũng chẳng vừa, gắt với tôi rằng. -Em đã bảo chị... Tôi nói như quát lên. -Chị bảo em chứ không phải em bảo chị. Mày là mẹ tao đấy à! Đừng có thấy tao hiền mà được đàng chân lấn đàng đầu nghe chưa! Tao đang nghỉ, mày vào phá tao còn bắt tao mặc quần áo để đi đâu mới được chứ? Nhã tủm tỉm cười. -Cáu rồi hả? -Đúng, cáu lắm! -Tám giờ rồi, bà nội. -Tám giờ hay mười giờ cũng mặc tao! -Lúc nào cũng thấy chị nằm! Lúc nào cũng thấy chị ngủ! -Mày có tự do của mày... Nhã chợt cướp lời tôi: -Và chị có tự do của chị? Đốt chọ đi. Lúc khác ngủ. Trưa nay sẽ để yên cho chị ngủ đến chiều. Nhưng hôm qua chị đã hứa đi với em phải không? Tôi ngẩn ngơ: -Đi đâu? Con nhỏ phá lên cười: -Chị ngơ ngác như một người mất hồn. Đi phố chứ còn đi đâu nữa! Tôi chợt nhớ ra. Hôm qua tôi có hứa với Nhã rằng tám giờ sáng nay hai chị em đi phố thật. Hứa rồi quên! Mới từ tối qua đến sáng nay đã quên. Đầu óc tôi hồi này lạ lùng thế nào ấy! Những mơ mộng triền miên đắm đuối... Những giờ phút mơ màng đã đẩy tôi xa vời cách biệt hẳn với thực tế quanh mình. Đúng là tôi đang ở trên cung trăng! Đáng là tôi đang đi giữa mù sương! Tâm tưởng tôi bay bổng theo những hình ảnh nào tới những cuối chân trời nào... Thần phách tôi đã bị chiếm đoạt tận cùng và toàn vẹn. Trí nhớ tôi chỉ nhớ riêng một phía và tôi đã lãng quên rằng tôi đang sống với gia đình tôi, một cuộc sống hàng ngày tẻ nhạt nhưng vẫn phải sống chứ không thể nào làm khác. -Chị quên bẵng mất! Xin lỗi. Nhã cười: -Chị thì còn nhớ được gì nữa! Thế nào, có đi không? Tôi nhìn những dòng nước lước thước bên ngoài cửa sổ, nghe tiếng mưa rào rạt trên mái mà nhăn mặt ngần ngại. -Mưa thế này! Nhã dửng dưng: -Lát nữa hết mưa. -Được rồi. Tôi ‘ký yêu’ lên đầu con nhỏ một cái nói: -Nhưng đừng có hối thúc tao nghe chưa! Tao đánh chết! Nhã cười lớn đi ra phòng ngoài. Tôi lấy quần áo vào buồng tắm. Nước lạnh chảy ào lên da thịt làm tôi rùng mình, nhưng cũng làm tôi cảm thấy tỉnh táo hơn. Tắm xong, tôi trở vào phòng ngủ, đến trước bàn phấn. Khuôn mặt người đàn bà tôi nhìn thấy trong gương buổi sáng hôm nay có một đôi mắt đẹp. Trường thường bảo mắt tôi u uẩn và sâu thẳm như nền trời ban đêm. Đôi mắt ấy sáng nay tự nhìn ngắm nó bằng một cái nhìn xao xuyến. Nhiều mùa xuân đã đi qua. Nhiều mùa nắng đã tàn, và nhiều mùa mưa đã tới. Tôi không còn trẻ trung, sáng lạng và yêu đời như Nhã được nữa. Tôi đã là một người đàn bà đứng ngỡ ngàng giữa hai lứa tuổi. Tôi đã bắt gặp ở tôi những tiếng thở dài. Những ngón tay hờ hững lùa vào mái tóc. Tai lắng nghe theo tiếng mưa rì rào ngoài trời. Tôi đăm đăm nhìn tôi trong gương, nghĩ đến mọt mùa mưa lại bắt đầu và những mùa nắng đã đi qua. Đời tôi cũng đã có những mùa nắng rực rỡ và chói lọi. Đời tôi cũng đã từng có trời xanh biếc. Đời tôi cũng có những ngày đẹp, những buổi ban mai phơi phới thênh thang. Tôi đã từng là một ngọn suối róc rách, một nhánh hoa hàm tiếu. Tà áo tôi từng là thiếu nữ, mái tóc tôi từng là thanh xuân. Nhưng rồi những mùa nắng qua đi... Trời thôi xanh, mây tới ban đêm che khuất những chùm sao... Và buổi sáng khi thức giấc, mùa mưa đã bắt đầu với những dòng nước lướt thướt trên những lùm cây và những mái nhà thành phố. Giữa một mùa mưa và một mùa nắng, ngồi trước gương tôi thấy ở tôi những thay đổi buồn rầu. Ánh mắt không còn trong được như ngày hôm trước. Nụ cười kém tươi hơn ngày hôm qua. Da mặt tuy còn mịn màng nhưng sẽ chẳng lâu đâu, những đường nhăn sẽ hiện. Đôi mắt trông buồn hơn. Tròng mắt như đã chứa đựng một tâm sự ưu phiền. Và sự rạo rực, niềm xôn xao trong tâm hồn, tôi nghe thành một khúc hát đầy đặc những âm điệu nhảy nhót đã lắng xuống như một ngọn thủy triều ào ạt dâng lên, bắt đầu rút đi. Người ta không thể trẻ đẹp được mãi. Hoa nở và tàn trong một buổi sáng. Thời gian đi qua. Thời gian là một sự tàn phá, tôi biết như vậy. Nhã đã lớn. Mới ngày nào nó còn là một đứa con nít. Mỗi lần Trường tới nó chạy ra đón, nắm tay nắm áo, đòi quà, đòi tiền đi xem chiếu bóng. Bây giờ nó đã trở thành một thiếu nữ dậy thì, đã có tâm sự, đã có tình yêu. Có nghĩa là tuổi trẻ của tôi đã hết! Biết như vậy. Biết mà vẫn ngậm ngùi. Biết, và đã thở dài. Tôi chải qua mái tóc, thoa một chút phấn hồng lên gò má, dời bàn phấn đứng lên. Phân vân trước cái tủ chừng một phút, tôi chọn một chiếc áo hàng lụa đen. Áo này hình như Trường mua tặng tôi cũng vào một buổi sáng mưa lớn như sáng nay. Hôm đó chàng nói: -Hàng lụa đen tôn nước da em lên. Hàng lụa là một nền gấm, và nước da của em là một viên kim cương đặt trên mặt gấm đó. Cô gái bán hàng cũng góp chuyện: -Ông khen bà đúng lắm. bà có một nước da thật đẹp. Chàng khoan khoái gật đầu: -Phải thế không, thưa cô. Cô bán hàng chỉ tay vào những hàng áo khác treo sát nhau như một thảm hoa màu sắc lộng lẫy. -Những hàng này mới về. Hàng nào cũng hợp với bà nhà lắm. Nhưng hôm đó, tôi đã từ chối không chịu để cho Trường mua thêm, vì chàng đã cho tôi không biết bao nhiêu quần áo, bao nhiêu đồ dùng. Tôi mỉm cười bảo cô bán hàng rằng: -Chúng tôi chưa lấy nhau. ‘Bà nhà’. Nghe vui thật! Nó bao gồm bao nhiêu ý nghĩa: gia đình, lứa đôi, vợ chồng... Nhưng chúng tôi yêu nhau, đi với nhau mặc dù chưa lấy nhau. Hôn nhân với tôi vẫn là một đợi chờ chưa đến. Chiếc áo hàng lụa đen mặc vào người ôm sát lấy thân thể tôi tạo nên một cảm-giác ấm áp đặc biệt của một tặng vật, một kỷ niệm. Tôi đeo vào một xâu chuỗi hạt trai, cũng là một tặng vật khác của Trường. Đến bên cửa sổ, tôi ngắm nhìn mưa rơi. Bầu trời thành phố sáng nay thật thấp như đụng, như chạm những ống khói và những nóc nhà. Khoảng sân sau nước chảy lênh láng. Tiếng nước dồn đổ vào những lòng cống xô đẩy, hối hả. Nhìn mưa, tôi lại nghĩ đến những sân ga, những bến tàu. Và tôi nghĩ đến Trường, với cái áo tơi trùm kín gáy chàng bên cái va-li nặng trĩu. Chàng đứng đó giữa không gian, trong mưa bay, ném mình vào những cuộc hành trình dài thăm thẳm. Bao nhiêu suy nghĩ của tôi lại bị cắt đứt bởi sự đột nhập ồn ào của Nhã. Con nhỏ thật lạ lùng. Tuy là hai chị em, nhưng tôi với nó hoàn toàn khác biệt, không giống nhau được ở một điểm nào. Tôi thư thái, trầm lặng bao nhiêu thì nó nhấp nhỏm, bồng bột bấy nhiêu. Tôi là một hồ thu lặng khép bên trong và giấu kín. Nó là một mặt biển dâng lên thành tiếng, nổ tung thành sóng; phơi bày hết lên bề mặt, đổ tràn hết ra bề ngoài. Tôi hơi khác thường, chừng như thế. Bất bình thường thì đúng hơn. Nhã lành mạnh, tươi khỏe như cái tuổi 18 của nó. Mỗi bước đi của nó khuấy động không khí chung quanh rất nhiều. Nó hót như chim, bay nhảy liên hồi trên những đầu cành tuổi trẻ. Dậy thì ở nó phơi phới, thanh xuân xanh biếc. Tôi như buổi sáng mưa xám buồn rầu, nó như ban mai nắng vàng với sức sống lấp lánh từng giây từng phút. Cánh cửa buồng mở toang, Nhã như cơn gió tràn vào. Nó đứng khựng lại. -Chị không còn cái áo nào khác nữa hả? Tôi nhìn xuống màu đen đang mặc trên người. -Em không thích? -Chị lúc nào cũng mặc đen, nâu, khi thì màu tím nhớ nhung, rồi màu lá chết. Để tang ai mà kỹ vậy? Tôi cười: -Chị già rồi, phải mặc sao cho hợp tuổi mình chứ. Những màu sắc rực rỡ bây giờ dành cho Nhã. Con nhỏ đến đứng trước mặt tôi, hất hàm vênh váo như một bà tướng. -Bao nhiêu? Tôi nhăn mặt: -Con này làm gì mà dữ vậy! Bao nhiêu là bao nhiêu cái gì? -Tuổi! Mấy trăm? Mấy chục? -Mày hỏi cung tao đấy à? Nó gật: -Cảnh-sát tư-pháp đây. Khai! Tôi làm bộ sợ hãi: -Gần 40. Nó nạt lớn: -Mới có 34 thì cứ nói là 34! Tại sao lại khai gần 40 cho nó già thêm đi! Và tại sao cứ cái áo đen đưa đám này mặc hoài! Trả lời đi! Để tang ai? Tôi đặt tay lên ngực: -Tao. -Còn sống sờ sờ tại sao lại để tang? -Sống mà cũng như đã chết! -Ghê! Chúng tôi cùng cười rũ. Hai chị em đôi khi đóng với nhau những vở kịch; làm hề, làm tuồng như thế để phá lên cười cho đỡ buồn. Có điều là tiếng cười của Nhã vui thật, hòa tan như pha-Lê. Còn tiếng cười của tôi thì có vẻ gượng gạo, không được hồn nhiên vui vẻ như thế. Lòng tôi vẫn ấm áp vì có lửa của tình yêu. Nhưng vườn tôi chừng như đã có những khoảng tối lạnh lác-đác, những bóng rợp đầu tiên phủ xuống. Tiếng cười của tôi đã len một ý buồn từ một thoáng nhớ thương như một tiếng thở dài dịu nhẹ. Tôi chỉ ra ngoài trời: -Còn mưa mà, chưa đi được. Nhã lắc đầu, không chịu. -Chờ mưa tạnh thì biết đến bao giờ! Em ghét nhất là chờ đợi. Chúng mình gọi Taxi đi ngay bây giờ! Tôi hỏi: -Ăn sáng đã chứ. -Chỉ có bánh mì và sữa là hai thứ em đã chán ngấy đến cổ. Đi ăn tiệm đi! Chị không bao em được sao? Hai chị em ra khỏi nhà lúc cơn mưa lớn đã lắng dịu. Chiếc Taxi mờ mờ hơi nước đọng trên mặt kính chở chúng tôi qua những con đường thưa thớt người qua lại. Tiếng bánh xe lăn rào rào. Thành phố trong mưa có một vẻ gì phiền muộn. Những lùm cây lướt thướt... Những hè đường ướt át... Nơi Nhã đòi ăn điểm tâm là một quán hàng sau chợ Bến Thành. Quán bán những món Bắc thuần túy như bún riêu, bún ốc, bún thang, chả giò, bún chả Thăng-Long... Chủ quán là một người ‘Bắc-Kỳ’ chính hiệu ‘Bà Lang Trọc’ với lối ăn mặc hết sức quê mùa. Bà lão mang một vành khăn đánh đai lấy mái tóc rẽ giữa; một cái áo tứ thân nâu, và một cái ruột tượng màu lam. Bà lão ngồi sau quầy với một cơi trầu trước mặt. Bà ta đang nhai trầu bỏm bẻm khi hai chị em tôi đội mưa chạy ùa vào. Thấy Nhã, bà lão hấp háy cặp mắt: -Trời mưa gió thế này mà cô Nhã cũng chịu khó nhỉ? Cái giọng nói cũng ‘Bắc đặc 100%’ của những làng xóm có những lũy tre và những ao bèo vây bọc; của những con đê chạy dài theo đường chân trời; của những ngôi đình mái cong; của những thửa vườn xinh xắn, là những hình ảnh quá khứ đã nhòa dần trong trí nhớ của tôi. Hóa ra Nhã là một khách hàng quen của tiệm ăn này. Nó rũ mưa, thân mật nói với bà lão. -Nhớ bún ốc của bà quá. Dù cho mưa nữa cũng đến. Hôm nay đến còn lôi theo cả chị tôi nữa đấy. Bà lão mỉm cười với thái độ ân cần với khách qúy. -Qúy hóa quá! Bún ốc hay bún chả? -Bún ốc. Thật nóng và thật cay. Mặc cho trời mưa. Cái tiệm bé nhỏ cũng vẫn chật người. Đa số khách là đàn bà. Nhiều bà ngồi một mình lớn tiếng gọi đồ ăn tự nhiên như đàn ông. Tôi và Nhã ngồi ghé vào một bàn còn trống hai chỗ, ngắm nhìn cảnh tượng chung quanh bằng cặp mắt bỡ ngỡ. Rất nhiều nơi chốn đối với tôi xa lạ hoàn toàn, chưa từng đặt chân đến. Tôi không nhớ những tên phố, tôi không thuộc những con đường mặc dù sống tại thành phố này đã lâu. Thường ngày, khi tan sở tôi đi thẳng về nhà thôi chứ ít đi đâu ngoại trừ những lần đi với Trường. Ngay cả những lần ấy, Trường và tôi cũng chỉ lui tới một vài nơi cố định. Đời sống tôi quả thật là ‘khép kín’. Trường vẫn thường bảo tôi là ‘người đàn bà nội trợ’, lý tưởng cho gia đình chứ không phải cho xã hội. Có lẽ chàng nói đúng. Tôi không thích giao thiệp, rất sợ những chốn đông người, khác biệt hẳn với Nhã. Món bún ốc của tiệm bà lão Bắc-Kỳ này ngon thật. Thật nóng, thật cay, và thật ‘khoái khẩu’. Ăn uống trả tiền xong ra khỏi tiệm thì may mắn làm sao trận mưa cũng tạnh hẳn. Trời vừa ‘đổ xong một lượng nước’ thật lớn nên mây đã bay đi, nhường chỗ cho nắng sắp lên. Thời tiết miền Nam là như vậy, luôn luôn tạo những cái đột ngột và bất ngờ. Hết mưa lại nắng. Hết buồn lại vui. Không biết thế nào mà lường! Mưa nắng ở đây đúng như tâm hồn con người, mang những biến thái không bao giờ báo trước. Nhã reo lên: -Có thế chứ! Nắng sắp lên rồi. Tôi nói: -Nắng hay mưa cũng thây kệ! Đừng có lôi tao di lang-thang suốt ngày ngoài đường, tao chịu không nổi đâu. Hôm nay nghỉ nhưng sáng mai tao phải đi làm rồi. Phải nghỉ ngơi. Nhã cười như muốn chế nhạo tôi: -Chị lại muốn về nhà? -Đúng vậy. -Đóng cửa kín mít lại rồi ngủ hả? Không được! Chị phải đi đi với em ít nhất đến 12 giờ trưa và chiều nay vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu với chúng em. Tôi nghe nói giẫy nẩy: -Tao không đi. Nhã phớt tỉnh như không. -Chị phải đi. Tôi nghiêm mặt: -Đừng có đùa. Không có ai bắt buộc tao được hết. Rồi buột miệng, tôi nói tiếp: -Ngoại trừ... Thấy tôi ấp-úng không nói hết câu, Nhã thích chí cười phá lên. -Ngoại trừ anh Trường? Lúc nào cũng anh Trường! Cái gì cũng anh Trường! Anh Trường vắng mặt mà chị cứ làm như anh ấy đang đứng trước mặt vậy. Tôi muốn bảo cho Nhã biết là tuy Trường vắng mặt thật nhưng hình ảnh chàng với tôi là một hiện hữu thường trực. Cho dù ở xa hay ở gần cũng vậy thôi. Trường là đối tượng duy nhất đằm thắm của tâm hồn tôi. Tôi nhìn đâu cũng chỉ thấy một mình chàng. Tôi có suy nghĩ đi đâu, ý nghĩ cũng trở lại với chàng. Chàng ở đó, trên những phiến lá xanh tôi nhìn thấy buổi sáng; trên những áng mây hồng tôi nhìn thấy buổi chiều. Hồi nãy, lúc này, lát nữa, và mãi mãi... tôi sống từ chàng sống đi, sống từ chàng sống tới. Tôi như trái đất quay, nhưng dù là quay thế nào đi chăng nữa cũng vẫn ở trong quỹ đạo mặt trời. Tôi cấu Nhã một cái thật đau. Con bé thét lên. Tôi không tha, cấu thêm một cái nữa. -Cấm mày nói đến anh Trường. Nhã làm bộ khiếp đảm: -Thì thôi! Thì thôi! Nhưng chị phải đi ăn cơm chiều nay với bọn em. Nếu không thì em sẽ nhắc đến tên anh Trường 100 lần, 1000 lần mỗi ngày đó! Tôi đành chịu thua: -Đi cũng được. Nhưng Nhã ngu lắm! -Em ngu? -Chứ sao! -Phải cắt nghĩa đàng hoàng à! Không được mạt sát một cách vô lối như vậy. -Chị không nên đi. Nhã cứ bắt đi bằng được là ngu. -Em muốn có chị mà. -Chị là người thứ ba. Thừa! -Chị cho là em với Thiều chỉ nên đi riêng với nhau? -Đúng vậy. -Chúng em lại không muốn thế. -Thế thì không chỉ riêng nàng ngu mà chàng của nàng cũng ngu quá thể! Đi riêng với nhau mới tình tứ, mới du dương với nhau được. Thêm sự chứng kiến của chị còn ra cái quái gì nữa! Nhã cười: -Không sao. Đi ăn chứ có phải hẹn hò gì đâu. Vả lại chúng em cũng sắp lấy nhau rồi. Thiếu gì lúc tay đôi. Thiếu gì lúc tình tứ. Thiều quý chị lắm, anh ấy nói ai có được một người chị gái như chị là một hạnh phúc lớn. Tôi nhún vai: -Cám ơn. Đến lượt Nhã nghiêm trang: -Em nói thật đấy. Người nào em quen cũng bảo thế chứ không riêng gì Thiều. Ai cũng bảo rằng có được người chị gái như chị là một diễm phúc, một may mắn. Nhưng riêng em thì thấy chị là người độc ác nhất, đáng ghét nhất. Hai chị em cùng cười. Tôi sau đó nhận lời đi ăn với Nhã và Thiều. Nhã hài lòng, không đem Trường ra trêu chọc tôi nữa. Rải bộ một lúc đã gần đến đường Tự Do thì những tia nắng đầu ngày bắt đầu dấy lên. Những giọt nước mưa vẫn còn nhỏ tí tách lên những lòng mái và những chùm lá. Mặt đường còn nhiều vũng nước, nhưng nắng đã lên. Sau cơn mưa, mặt trời rực rỡ chan hòa thả xuống thành phố thêm một trận mưa khác: mưa kim cương, mưa hào quang. Chúng tôi nắm tay nhau, bưóc thong dong giữa đám người qua lại. Một vài chàng trẻ tuổi đi qua còn ngoái đầu nhìn lại. Họ xì xào với nhau, có lẽ là về chúng tôi. Nhã huých nhẹ khuỷu tay: -Nói chị đấy. -Nói mày. -Nói chị. -Chị già rồi, chẳng ma nào nhìn hết. Đi chơi với Nhã ngoài đường phố bao giờ cũng có chuyện ‘đổ vấy’ cho nhau như vậy. Mỗi khi có đàn ông nhìn là chị đổ cho em, em đổ cho chị rồi cùng nhau cười khúc khích. Nhã rất xinh đẹp. Một vẻ đẹp tươi tắn phơi mở, rực rỡ như nắng bình minh, như hoa mới nở; vẻ đẹp đặc biệt của những người con gái thời đại bây giờ. Trường bảo tôi đẹp. Cái đẹp này khác với cái đẹp của Nhã. Chàng nói phải là một người đàn ông có tâm hồn, có một cặp mắt tinh tế mới khám phá được trọn vẹn những vẻ đẹp tế nhị chứa giấu của tôi. Chàng khen quá lời, tôi biết vậy. Nhưng được chàng khen, tôi cũng cảm tưởng là mình đẹp. Chứ còn bình thường đi trên hè phố giữa đám đông, người được những chàng trai trẻ xì xào nhìn ngắm tất nhiên phải là Nhã. Đi gần tới bùng binh Nguyễn Huệ, trời đã nắng lớn. Một đám trẻ con đứng vây lấy những cây nước chảy ngược trắng xóa như những bông hoa bằng những cái nhìn thích thú và mê đắm nhất của tuổi thơ. Tôi hỏi Nhã: -Đên đâu bây giờ? -Em muốn đi mua áo. -Cả áo cưới? -Vâng. Nếu có hàng đẹp cũng mua luôn. Tôi nghĩ lúc này mới là tháng 6, mới đầu mùa mưa, chuyện vui của Nhã thì mãi đến tháng 10. Còn những bốn tháng. Con nhỏ này đã sống với hạnh phúc của nó ngay từ bây giờ. Tôi cười: -Làm gì mà gấp quá thế? -Sửa soạn dần đi thì vừa. Tôi nói: -Mua bán như thế này, đáng lẽ người đưa em đi phải là Thiều mới đúng. Nhã giơ cả hai tay lên trời: -Anh ấy chẳng biết gì đâu chị ơi! Đi với em, chỉ thích vào tiệm ăn, phòng trà, rạp chiếu bóng thôi. Chẳng có con mắt mỹ thuật gì hết. Anh ấy cho em mấy hàng áo, em cất biệt, có may mặc được gì đâu! Đi với chị mới yên chí. Chị chọn hàng áo nào là hàng ấy đẹp nhất. Tôi cười: -Ai nói? Nhã nịnh: -Em nói. Nó trêu thêm: -Anh Trường nói. Tôi đấm nó một cái thật mạnh vào lưng: -Con quỷ! Đã bảo cấm nói đến anh Trường. Nó lè lưỡi: -Ghê! Hai chị em bước vào một tiệm tơ lụa ở đường Tự Do. Đã lâu lắm, tôi không đi phố, cũng không mua sắm gì hết. Cửa tiệm mới mở. Tôi chưa đến đây lần nào. Đây là một cửa tiệm tơ lụa lớn, một biển tơ lụa và một rừng vải vóc bày biện bán khắp trên những giá gỗ, tạo cho người mới dặt chân vào một cảm giác rợn ngợp. Màu sắc lộng lẫy đủ kiểu, đủ hình vây kín lấy làm cho hoa mắt. Tôi lẳng lặng đi theo Nhã qua những quầy hàng. Người đến mua sắm thật đông. Những tiếng cười nói ồn ào nổi dậy ở khắp các xó góc. Tới ngăn hàng bày những hàng lụa và gấm thường được dùng để may áo cưới, Nhã đã đứng lại rất lâu. Nó tỏ ý thích hàng này, chê hàng nọ, và bàn đến những kiểu áo cưới đang được yêu thích nhất bây giờ. Nó đồng ý với tôi là mua ngay áo cưới tháng này là hơi sớm. Mua, ngộ nhỡ lại có những hàng mới từ ngoại quốc tới, mà đẹp hơn hàng đã mua thì sao! Với Nhã, cái áo cưới là cả một vấn đề quan trọng. Sao cho phải thật vừa ý, thật hoàn toàn. Tôi đứng đàng sau Nhã, nghĩ rằng phút này tôi đã 34 rồi, nhưng vẫn chưa được sống những cảm giác rạo rực hân hoan của một người con gái sắp lên xe hoa về nhà chồng như Nhã. Với tôi vẫn là một tình yêu đợi chờ trong nhớ nhung và trong cách biệt. Phải, tôi chỉ biết chờ đợi. Qua tuần này tháng khác, qua tuần lễ này đến tuần lễ khác. Chàng ở xa. Một ngày nào đó, chàng trở về, nhưng rồi chàng sẽ lại đi nữa. Và tôi, tôi đợi chờ đến bao giờ đây? -Chị làm gì mà ngẩn người ra thế? Tôi giật mình, ra khỏi dòng mơ màng: -Nhiều hàng đẹp quá, nhìn rối cả mắt! -Chị chưa chọn cho em hàng nào hết. -Thời trang bây giờ ra làm sao, chị nào có hay! Nhã thì biết. Biết tháng này, mùa này, những người con gái bằng tuổi Nhã nghiên về những màu áo và những loại áo nào. -Mấy tháng trước là gấm Thượng Hải. Tôi gật: -Cái đó thì chị biết. Gấm Thượng Hải tháng trước đã phủ kín thành phố này. Đúng thế thật. Đàn bà là một loại người hay bắt chước nhau. Sống thành khuôn, thành nếp, và nhìn nhau mà sống. Một người đàn bà sống khác những người khác, dù chỉ một phút thôi, lập tức bị nhìn ngắm bằng một cặp mắt khác thường ngay. Như tôi chẳng hạn. Chỉ thích một màu đen, chỉ thích những màu buồn, không thích ồn ào, chỉ thích im lặng, thì với Nhã và với mọi người, trong tôi đã có một cái gì bất bình thường. Chỉ là tôi không muốn giống ai. Trường bảo tôi phải sống như thế. Là mình. Hoàn toàn. Tận cùng. Không thời trang, không bắt chước. Tôi cũng muốn sống như thế thật. Tất cả mọi người đều đua nhau mặc bằng gấm Thượng Hải. Không có tôi. Tôi là của những hàng áo màu đen. Nhã làm bộ thành thạo: -Tháng này khác rồi. -Như thế nào? -Gấm không được thích nữa. Ban nãy đi ở ngoài đường, chị không thấy đó sao? Gấm đã biến mất. Tháng này thịnh hành là màu xanh. Xanh nhạt, xanh thẫm cũng được hết. Và hoa thật lớn. Tôi cười nói đùa: -Thế tháng nào thì màu đen? Nhã đùa lại liền: -Tháng anh Trường! Con nhỏ thật tinh quái. Nó biết cứ mỗ lần nó nhắc đến anh Trường là một lần tôi chịu thua mó ngay. Lần này cũng vậy, tôi lại thua nữa. Đành lảng mau sang chuyện khác. -Em muốn mua mấy cái áo nào? -Hai, ba thôi. -Sao không mua một lần cho đủ? -Không được! Mua hết một lần làm gì còn có cớ để đi dạo phố, vào cửa tiệm nữa. Mua từ từ. Nay cái này. Mai cái khác. Như thế có dịp đi phố luôn luôn. Tôi nhìn Nhã lắc đầu. Đám con gái bây giờ tinh không quỷ quái và có những dự tính, những cách sống kỳ lạ, tôi không tài nào hiểu được. Thế giới tuổi trẻ bây giờ có những quay đảo, những quẫy lộn, những phá vỡ ngỗ nghịch kinh ngạc. Ở tuổi Nhã, tôi chưa có đời sống. Tôi ghi nhận cho tôi một thức tỉnh muộn màng, chậm chạp, trong khi ở Nhã và đám bạn bè của Nhã là một thức tỉnh trước tuổi. Thỉnh thoảng, một chiều thứ bảy, Nhã lại tổ chức cuộc họp mặt với đám bạn trai và bạn gái của nó. Chính là một trong những cuộc họp mặt đó mà Nhã và Thiều đã quen nhau, chịu nhau, và đang sửa soạn đi tới hôn nhân. Những buổi họp mặt ấy, ngôi nhà nhỏ của chị em chúng tôi vang động tiếng cười, tiếng nói của tuổi 20 sống ồn ào như một vùng biển động. Họ mở âm nhạc thật lớn. Khiêu vũ. Tranh luận về thời trang. Tôi ngồi im một góc, không làm sao hòa nhập được vào cái thế giới của Nhã. Đành là đứng ngoài nhìn vào. Phải mất 15 phút tôi mới chọn xong được cho Nhã hai hàng áo. Một hàng màu xanh nhạt, với những bông hoa màu tím than. Một hàng màu vàng tươi với hoa xanh đậm. Nhã chịu là đẹp lắm. -Chọn áo phải có chị mới được. Đám bạn gái em bảo chị chọn hàng áo là nhất, không ai bằng. Tôi cười: -Thiều có thích thế không? Nó bĩu môi: -Cần gì anh ấy thích. Tôi ngạc nhiên: -Em làm đẹp cho Thiều. Thiều phải thích mới được chứ. -Mặc! Không thích cũng ráng chịu. Em thích là anh ấy phải thích à! -Không thì sao? -Thì chết với em! Tôi bật cười: -Con nhỏ này dữ. -Hiền như chị đâu có được. Em đã nhất định như thế rồi. Đã bảo Thiều và Thiều cũng đã ưng thuận như vậy. Bị kích thích bởi sự tò mò, tôi hỏi: -Ưng thuận cái gì? -Cho em được điều khiển tất cả, quyết định hết thảy. Nghĩa là Thiều phải nghe em. -Nghe thế nào? Nhã thản nhiên: -Nghe thế thôi. Chẳng thế nào hết. Nó cười, giọng nửa đùa nửa thật: -Bắt chết phải chết. Cho sống mới được sống. Đàn bà bây giờ phải thế chị ơi! Chỉ có chị mới chịu để cho anh Trường điều khiển như thế. Thiều với em thì còn lâu! Lần này tôi không cấm nó nói đến Trường nữa. Tôi thấy cần phải bênh vực cho người vắng mặt. Nhã vơ đũa cả nắm về đàn ông như thế không dược. Tôi không phải là nó. Trường càng không phải là Thiều. Mà khác. Khác hẳn. Tôi dịu dàng: -Anh Trường khác. -Đàn ông ai cũng vậy. -Nói bậy. -Động một tí là chị bênh anh Trường chầm chập à! Tuy không thể tránh không nói đến Trường, bởi cái lẽ giản dị và luôn luôn Nhã nhắc để tìm cách trêu chọc tôi, nhưng tôi không muốn kéo dài câu chuyện. Về Trường, trước sau, hai chị em bất đồng ý kiến hoàn toàn. Vả lại, về Trường, có hàng nghìn điều kín thầm riêng tư mà tôi không muốn tỏ lộ cùng ai, kể cả với Nhã. Thái độ này của tôi cũng do Trường mà có. Nhớ một lần Trường từ Thái Lan về, chàng đến đón tôi đi chơi. Chúng tôi ngồi với nhau cả một buổ tối mùa hè trên một tiệm ăn ở tầng cao nhất của một tòa nhà lớn, Trường đã hỏi tôi về Nhã. Tôi nói: -Nó đã có người yêu. Trường hỏi: -Ai Vậy? -Một người trẻ tuổi. Chúng nó yêu nhau ngay từ lần gặp mặt thú nhất. Tên y là Thiều, con nhà giàu; đã đậu xong hai bằng Tú Tài, đang học Luật. Chúng nó định chờ cho Thiều có bằng cử nhân luật rồi mới lấy nhau. Nhưng rồi hai đứa cùng đồng ý là hông nhân không phải là một cản trở. Thành ra, anh chị làm lễ thành hôn càng sớm chừng nào, càng hay chừng nấy. Trường cười: -Em biết rõ quá nhỉ! Tôi đáp: -Chuyện! Em là chị ruột của nó mà. -Chưa đủ là một lý do. -Nó thích tâm sự với em. Nhiều đêm nó đòi ngủ chung giường, bắt nghe chuyện của nó tới sáng. Trường hỏi: -Em thì sao? Tôi nói tôi không cởi mở được như Nhã. Có những điều tôi muốn giữ bí mật như một tư hữu. -Vả lại em cũng không nói nhiều như nó được. Mà em có nói, em cũng chẳng có gì để nói. Anh thấy đó, em biết thật ít về anh. -Như thế tốt hơn. Tôi ngạc nhiên: -Em không hiểu. -Người ta chỉ nên biết về nhau vừa vặn những điều cần biết. -Như? -Như anh yêu em là đủ. Tôn trọng đời sống riêng của nhau là cái thái độ đẹp nhất của tình yêu. Hôm đó, tôi đã muốn cãi lại Trường. Là đời sống của tôi với chàng không có một đất đai riêng tư nào hết. Đời sống tôi chính là chàng. Chàng như không khí tôi thở từng giây từng phút; như mặt trời tôi nhìn thấy ở phương Đông mỗi buổi sáng; như vì sao đêm sáng trên vòm trời; là những biện hữu không rời; những có mặt thường trực. Vậy mà trên một sự thật khác, tưởng là khó tin mà lại chính là như vậy. Tôi gần như không hay biết gì về đời sống của Trường. Chàng đến với tôi giữa hai chuyến đi dài, sau những lần vắng mặt nhiều khi tới hàng năm, bảy tháng. -Anh yêu em là đủ. Em chỉ cần biết như vậy. Nghe không chịu được. Mà nghe cho kỹ, cho cùng, cũng có lý. Liên hệ giữa tôi và Trường bởi vậy cũng thật đặc biệt. Tôi nghĩ nó không giống với bất cứ thể loại liên hệ nào khác của những người yêu nhau khác. Nó thật sâu nặng. Chúng tôi cùng yêu nhau mà. Đã năm, bảy năm yêu. Năm thứ bảy cũng đằm thắm như năm thứ nhất. Nhưng nó cũng thật nhẹ nhõm. Như mây. Như khói. Tưởng như nếu một trong hai người muốn, thì chỉ cần hất nhẹ tay một cái là liên hệ ấy sẽ đứt rời ngay như một sợi chỉ mềm. Nhưng sợi chỉ ấy không bao giờ đứt. Trường là tình yêu đầu tiên và cuối cùng của tôi. Tôi đã quyết định với tôi như vậy. Ra khỏi tiệm tơ lụa, Nhã kéo tôi đi lang thang hết tiệm này đến tiệm khác, cho tới 12 giờ trưa. Cái tuổi con nhỏ đúng là cái tuổi mua sắm. Nó mua lung tung, sắm dủ thứ. Cái gì cũng thích, cũng đòi mua bằng được. Nó đưa tôi vào hàng lang Eden rồi sang hành lang Tax, càng đi cành nhanh nhẹn, không biết mỏi mệt chút nào. Gần một giờ, tôi đứng lại giữa bùng binh Nguyễn Huệ gắt lớn: -Thôi, đi về! Nhã cười: -Đâu được. Chưa đến 12 giờ. Nhã cười, nắm nghiến lấy tay tôi lôi xềnh xệch. Nhiều người đi đường quay lại cười. Tôi ngượng, khiến cho con nhỏ cười lớn hơn. Tiếng cười của Nhã giữa cái bùng binh kín đặc người đi lại cũng là một phần ảnh hưởng khác thường cho cái tâm tính, cái lối sống của đám con gái bây giờ, mà Nhã là một. Họ tự do quá thể. Họ chẳng coi ai ra gì. Họ làm chủ thành phố này. Đám đông là của họ, với những hè đường, những ngã tư, những cửa tiệm, những bùng binh. Tôi chùn người lại như một con giun la lên: -Con quỷ sứ! Mày làm cái gì thế? -Đi nữa! -Đừng có bắt nạt tao! -Chỉ có anh Trường mới bắt nạt chị. Em còn nhiều thứ phải mua mà. -Lần sau mày đi một mình. Cho vàng tao cũng không đi với mày nữa. Khuôn mặt đang tươi cười đùa nghịch của Nhã chợt buồn hẳn đi khi tôi nói với nó là lần sau tôi không đi với nó nữa. Tôi biết tại sao nó buồn. Tuy còn mấy thánh nữa mới đến ngày nó lên xe hoa về nhà chồng, nhưng cũng đã như chị em sắp sửa xa nhau vĩnh viễn. Tôi biết như vậy. Nhã cũng biết như vậy. Từ ngày mẹ chúng tôi mất đi, hai chị em nương vào nhau mà sống. Nói đến những người thân yêu ở trên đời, hai chĩ em không còn ai. Nhớ phút lâm chung, mẹ đã gọi chúng tôi lại gần giường người. Bà nói vĩnh biệt chúng tôi, dặn tôi đủ điều, trong đó có điều quan trọng nhất là phải trông coi Nhã thay bà cho đến khi nó khôn lớn, lấy chồng đi ở riêng. Tôi đã hứa với mẹ tôi trước khi người nhắm mắt. Tôi nuôi Nhã thay mẹ. Nhiều lúc nó làm nũng, làm khó tôi, vì biết tôi giữ lời hứa với mẹ, thê nào tôi cũng chịu, cũng chiều nó hết. Bây giờ, chỉ còn vài tháng nữa, lại chị em mỗi người một đời riêng. Trong đoàn tụ đã thấp thoáng mầm ly biệt là thế. Tôi nhắc đến lần sau là gợi cho nó nghĩ đến lúc chia tay. Nó đã buồn. Quả nhiên nó nói ngay: -Rồi đến lúc chị muốn cho em đi cùng, em cũng không còn đi với chị được nữa. Con nhỏ này thật dễ xúc động. Một phút trước nó cười đùa như phá. Vậy mà nói xong câu nó vừa nói, tôi ngó đã thấy Nhã nước mắt chạy vòng quanh. Tôi nắm chặt lấy tay nó: -Xin lỗi! Chị không định nói thế. Nhã bùi ngùi: -Em cũng biết chị không định nói thế. Nhưng chị đã nói, làm em buồn. Chị muốn về thật sao? Thì về! Đến lượt tôi phải dỗ dành: -Nói đùa. Nào, thiếu thứ gì nữa thì đi mua nốt. Chị chỉ hơi khát nước một chút. -Em cũng vậy. -Chị muốn vào đâu? -Tùy em. Nhã chỉ về tay cuối phố: -Ở đàng kia có một quán nước mới mở, có máy lạnh rất tối tân. Chỗ ngồi cũng lịch sự lắm. Tôi kéo tay Nhã nói đùa: -Nào, đi mau kẻo tao thay đổi ý kiến. Đúng như lời ‘giới thiệu’ của Nhã, quán nước có một hệ thống máy lạnh tối tân thật. Hơi lạnh rất đều trong một không khí rất thoáng. Bàn ghế kiểu mới, đệm thật đầy. Trang hoàng khá mỹ thuật. Chúng tôi kéo ghế ngồi xuống. Bằng một giọng thành thạo, Nhã gọi cho nó và tôi mỗi người một thứ đồ uống làm bằng trái cây. Nhã hỏi: -Quán được không chị Tuyền? Tôi gật: -Được lắm! Em phải đưa chị đến đây luôn mới được. Vừa khi ấy, một người đàn ông đi qua. Tôi ngạc nhiên khi Nhã cất tiếng gọi: -Anh Phan! Người đàn ông đã đứng tuổi, phục sức rất giản dị. Một chiếc sơ-mi trắng cụt tay, một chiếc quần tropical mầu xám nhạt. Dép mỏng ở chân và mái tóc cắt ngắn. Tuy bị gọi bất ngờ nhưng ông ta từ tốn quay lại, dáng điệu trầm tĩnh. Nụ cười hiền lành, chân thật, gây được cảm tình. -Cô Nhã! Tưởng ai! Nhã hỏi: -Anh đi một mình? -Vâng. -Mời anh ngồi cả đây cho vui. Giới thiệu với anh Phan, đâu là chị Tuyền tôi. Phan cúi đầu chào. Tôi gật đầu đáp lại. Tuy Nhã đã ngồi nhích vào một chút cho Phan có thể ngồi cùng một phía, nhưng Phan chỉ kéo ghế ngồi đối diện. Người đàn ông này biết giữa lễ, đứng đắn, không suồng sã như những người đàn ôn khác, tôi nghĩ thầm. Trông Phan có vẻ quên mùa một chút, không phải là loại người của đàn bà với những cung cách hào hoa phong nhã thường thấy. Mà là loại đàn ông không có hào quang, không tỏa ánh sáng, nhưng có thể tin tưởng được ở lòng chân thành và tâm địa ngay thẳng, ấy là tôi ‘xem tướng’ một cách hàm hồ như vậy. Tôi không tinh lắm về đàn ông. Cũng chưa thấy Phan lần nào. Đây là lần đầu. Nhã hỏi: -Anh Phan đi đâu đó? Phan cười: -Cũng như Nhã, vào đây uống nước. -Như em thế nào được! Thiều nói có bao giờ anh lui tới phòng trà hay những quán nước đông người đâu! -Không bao giờ thì cũng hơi quá. Thỉnh thoảng tôi cũng đến chứ. Nhưng tôi thích những chỗ yên tĩnh vắng vẻ hơn. Nhã nhìn Phan rồi nhìn sang tôi. -Chị Tuyền đã gặp anh Phan lần nào chưa nhỉ? Tôi trả lời: -Chưa, em ạ. Phan nói với tôi giọng bình thường, lễ độ: -Tôi đã được Nhã và Thiều nói chuyện về chị nhiều lần. Tôi hỏi: -Anh là thế nào với Thiều? Nhã nhanh miệng đáp thay cho Phan: -Anh Phan là anh họ của Thiều. Anh Phan làm việc ở ngoài Trung, mới đổi về Sàigòn được mấy tháng nay. -Anh làm ở sở nào? -Thưa, ở Nha Điền Địa. Phan đã đứng tuổi. Tôi đoán ít nhất cũng phải 40-45 gì đó. Phan lại là một công chức. Người đàn ông này không có vẻ gì là một người chơi bời, tôi nghĩ thầm. Chắc đã làm cha, làm chồng từ lâu. Tôi hỏi: -Anh được mấy cháu rồi ạ? Phan hơi lúng túng: -Thưa, hai. Hai chị em chúng tôi nhìn nhau trong khi Phan nói tiếp: -Nhà tôi đã mất được mấy năm nay. Con Nhã quỷ quái, thích nói đùa, thích trêu nghịch thiên hạ, trêu tôi trước nhất, bèn nói luôn: -Chị Tuyền em thì chưa lập gia đình. Tôi yên lặng nhìn Phan, anh chàng xem chừng lại không được tự nhiên, mạnh bạo như tôi, không dám nói đùa lại một câu nào. Ngồi chừng 15 phút, Phan xin phép cáo từ sau khi đã gọi bồi bàn lại, nhất định xin phép được trả tiền. Phan đẩy ghế đứng lên: -Mong sẽ được gặp lại chị. -Dạ. Nhã nháy mắt: -Sáng mai anh lại ra đây nhé. Phan ngơ ngác: -Sáng mai? Lại ra đây? -Chứ sao! Em sẽ có mặt ở đây, anh lại trả tiền như bữa nay. Trong khi Phan đi ra phía cửa, tôi cau mặt gắt: -Nhã! Không được hỗn! Mày lếu láo vừa chứ! -Em thích trêu anh Phan nhất à! Người đâu mà hiền lành quá trời. Hiền nhu Phật ấy. Chờ cho Phan đã ra tới ngoài đường, tôi mắng Nhã: -Trẻ không tha, già không thương. Mày không có để cho ai yên là làm sao? Nhã xua tay: -Trêu anh Phan như vừa rồi ăn thua gì. Những lần gặp ở nhà Thiều, em trêu anh ấy cả buổi. Chỉ cười khì khì. Lạ lắm, ai muốn nói gì thì nói, làm gì thì làm. Không có tức mình, không có nổi giận. Mong được gặp chị, được quen với chị lắm đấy. Nhã cười: -Đến lúc được thấy mặt, được làm quen, thì như ngồi phải ổ kiến lửa, vội vã đứng lên xin đi ngay. Quê một cục. Tôi thấy cần phải bênh vực cho người vừa đi khỏi: -Ai dám ngồi với mày? Hỗn như gấu! -Anh Phan đâu có cần ngồi với em. Chỉ muốn ngồi với chị. Em nói đến chị nhiều lắm. Và anh Phan có vẻ rất thích nghe chuyện em những lúc em nói chuyện đến chị. Tôi đập vào vai Nhã: -Mày nói đến tao làm sao? -Ca tụng ghê gớm. Nói chị là một người đàn bà hoàng toàn, một người vợ lý tưởng cho những ai muốn lập gia đình. Nghĩa là em nhất Việt Nam, chị thì ghê hơn, chị nhất thế giới. Tôi nghiêm trang thật sự. Con nhỏ này nhảm quá thể. Không có đùa với nó được nữa. Nó nói nhăng nói cuội, mình vạ lây vì nó hồi nào không biết. Tôi thành thật nghĩ tôi chỉ là một người đàn bà tầm thường, mờ nhạt trên mọi phương diện. Nghĩ về mình, tôi không tìm kiếm được cho tôi một điểm đặc biệt nào hết. Những đức tính thường được ngợi ca ở người dàn bà, tôi nghĩ tôi cũng không có. Được Trường để ý tới và yêu, tôi cho là một may mắn tình cờ. Phải, đúng là một sự tình cờ, khi tôi gặp Trường lần đầu tiên buổi chiều hôm đó. Tôi vừa ở sở ra thì trời mưa lớn. Trận mưa đầu mùa thật đột ngột. Trời buổi trưa xanh cao, nắng tới chiều còn rực rỡ, vậy mà mây kéo tới lúc nào không biết. Tôi đang đi lững thững trên hè đường, thì mội vài giọt nước thật lớn lộp bộp ném xuống, và một phút sau, trận mưa đã ào ạt quanh tôi. Không có một chiếc xe nào chạy qua. Tôi lại không mang áo mưa. Dù cũng không có. Đành là cắm đầu đến một hàng hiên gần nhất. Chạy quá nhanh, quá vội, lúc đã đến dưới hàng hiên, tôi đứng lại không kịp nên đâm xầm vào một người đàn ông. Người đàn ông đó là Trường. Chàng đang chăm chú xem một tờ báo trên tay chàng rớt xuống. Tôi đỏ mặt xi lỗi. Chàng nói không sao, mưa lớn thế kia chạy đụng vào nhau ở một chỗ ẩn trú hẹp chặt dưới mái hiên là chuyện rất thường. Thế là chúng tôi quen nhau. Sau này nhớ lại có thể nói không nhầm lẫn là tôi đã yêu ngay chàng từ buổi chiều mưa hôm đó, ở chỗ trú mưa đó. Người ta thường nói đến cái tiếng sét dữ dội và thình lình không báo trước của tình yêu. Có lẽ trong trận mưa vào mùa đột ngột, cũng đã có một tiếng sét ái tình vừa nổi dậy. Và tôi đã yêu Trường như thế, ngay từ lúc chàng còn nguyên vẹn là môt người đàn ông lạ mặt. Nhưng thôi, kỷ niệm cũ hãy hãy xếp vào một ngăn trí nhớ. Trở lại hiện tại đã. Với tiệm nước. Với Nhã. Với Phan, người đàn ông công chức hiền lành mà chúng tôi vừa gặp. -Tao cấm mày không được “bốc láo” về tao như vậy! -Đã sao? -Đành là chẳng sao, nhưng taơ không thích! Người ta không biết mày đùa, lại tưởng là thật có phải là nguy hiểm cho tao không? Nhã lại le lưỡi, làm bộ sợ hãi: -Xin chừa! Xin chừa! -Thôi đi ra. Chúng tôi ra khỏi tiệm nước. Buổi trưa hôm ấy, mãi đến một giờ, hai chị em mới về tới nhà. Mai Thảo -------------------- ![]() |
|
|
![]() |
![]() ![]()
Post
#2
|
|
![]() Phố Cũ ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 2,691 Joined: 21-April 08 Member No.: 43 Country ![]() ![]() |
Chương 2: Bữa cơm không ngon miệng chút nào hết. Nhã cũng ăn rất ít, nói là để dành bụng cho món bào ngư nấu nấm trong bữa cơm tiệm Thiều mời chiều hôm nay. Đóng cửa buồng lại, buông những tấm rèm xuống, đẩy buổi trưa nắng thật xa ngoài những khung cửa đóng lại, tôi thả mình nằm xuống mặt đệm. Mắt nhắm lại, đầu óc tôi như một bóng rợp khổng lồ phủ xuống. Và tôi lại nhớ đến Trường. Nói chuyện với chàng. Tôi với Trường luôn luôn có những buổi nói chuyện như vậy. Tôi nằm một mình, tôi tưởng tượng đến chàng, hình dung chàng ở xa, gọi chàng về gần trong tâm tưởng. Và nói chuyện. Tôi kể cho chàng nghe những gì xảy ra ở Sàigòn. Chot tôi. Cho những người chung quanh. Có như là mỗi ngày tôi làm một bản tường trình ngắn về những chuyện xảy ra mà tôi muốn nói cho chàng biết. Người đàn ông tên Phan gặp ở quán nước buổi sáng hôm nay càng làm cho tôi nhớ đến Trường nhiều hơn. So sánh, hai người đàn ông khác biệt nhau một trời một vực. Phan giống như tất cả mọi người. Phan là mẫu số chung cho tất cả những người đàn ông ta thấy ở ngoài đường, đụng đầu ở ngã tư, nhìng thấy nhưng quên ngay bởi vì họ không có một sắc thái gì đặc biệt. Đời sống của những người đàn ông này mờ nhạt, phẳng lặng, không bao giờ có những dấy động lớn lao. Trường thuộc về loại đàn ông đặc biệt. Sống với Trường là một cuộc phiêu lưu vĩ đại. Mỗi buổi sáng với chàng là một chân trời mới mở vào một này mới lạ hoàn toàn so với ngày hôm trước đó. Chàng sống như gió, như mây, không bao giờ những dấu chân chàng đi theo một con đường nhất định. Tôi cứ nghĩ miên man về Trường như vậy, cho đến khi hai mi mắt trĩu nặng dần dần. Buỏi trưa thiêm thiếp trong ngôi nhà nhỏ. Tầm mắt tôi tối lại. Những hình ảnh nhạt nhòa. Tiếng gõ cửa buồng làm tôi bừng tỉnh. Vẫn con nhỏ phá rối, giọng nó lanh lảnh: -Chị Tuyền. Tôi nằm im làm bộ ngủ say. Không được. Nó đấm cửa thình thình. -Đừng có vờ em. Em biết chị chưa ngủ. Tôi hét lớn: -Bước đi chỗ khác cho tao ngủ. -Ngủ thật không? Tôi hét lớn hơn: -Tao không đùa với mày. Tiếng Nhã ở phía ngoài: -Thôi vậy. Có cái này đưa cho chị, chị ngủ thì để lúc khác vậy. Tôi chồm khỏi giường. Tôi chạy ra mở cửa, túm chặt lấy con nhỏ: -Mày vừa nói gì? Nó nhoẻn miệng cười: -Chẳng nói gì hết. Tôi nắm chặt tay nó quắc mắt: -Mày vừa nói cái gì? Tao nghe thấy rõ ràng. Của tao thì đưa ngay đây cho tao. -Cái gì của chị mới được chứ? -Thư! Thư của tao! -Thư nào? Tôi dịu giọng: -Thư anh Trường gửi cho tao. -Làm gì có thư của anh Trường đâu. -Có! Đừng có láo! Đưa đây! Con nhỏ vùng chạy. Tôi rượt theo. Tôi nói không sai chút nào. Nhã cầm trong tay một chiếc phong bì thật. Nhìn thấy chiếc phong bì, tôi cuống lên, rượt Nhã bằng được. Nhưng tôi không chạy nhanh bằng Nhã. Nó như con thỏ, không làm sao túm lại được. Nhã đùa thật dai, thật ác. Nó chạy vòng mấy cái ghế bành, chạy quanh bàn ăn, vừa chạy vừa cười khúc khích. Đuổi không được, tôi làm bộ giận ngồi phịch xuống ghế. Khi đó nó mới chịu quay lại, nhưng vẫn chưa đưa ngay lá thư. -Sao? Còn ngủ nữa không? Tôi làm mặt nghiêm: -Không phải là chuyện cô sắp đi lấy chồng, dời khỏi nhà này mà cô hỗn với chị cô được đâu. Lời mắng không có mảy may hiệu nghiệm. Nhã điềm nhiên giơ cao lá thư lên, làm bộ xé phong bì. Tôi hoảng hốt: -Con quỷ! Mày làm gì thế? -Kiểm duyệt. Tôi quát: -Cấm! Không đưa, chiều nay đừng hòng rủ tao vào Chợ Lớn! Nhã sợ liền. Thì ra yêu là như thế. Hễ thấy cái gì động chạm đến tình yêu của mình thì cái đó làm cho mình sợ ngay. Với tôi sáng nay, cái đó là cái thư của Trường mới gửi về. Với Nhã, là bữa cơm chiều với người chồng sắp cưới của nó mà nó đã muốn tôi phải có mặt. Nhã ngoan ngoãn trao lá thư cho tôi. Và chừng như nó cũng biết rằng một lá thư tình phải được đọc một mình, trong một cảnh trí yên tĩnh hoàn toàn, Nhã bỏ xuống nhà dưới. Với lá thư của Trường trên tay, như một báu vật không có vàng bạc nào trên đời mua nổi, cái góc phòng khách bỗng nhiên được bao phủ trong một bầu không khí ấm áp lạ thường. Chừng như lúc này không còn là một buổi trưa nắng chói chang của mùa hè, mà là một buổi sáng mùa thu man mác. Thời gian ngừng lại, vây quanh niềm hạnh phúc tuyệt đối của tôi lúc này, phút này, là một lá thư. Thu hai chân lên ghế, toàn thân êm ái trong một rung động tuyệt vời, tôi cẩn thận xé tờ phong bì, lấy ra lá thư, đọc không sót một chữ. “Em yêu dấu”. Bao giờ Trường cũng mở đầu như thế: Em yêu dấu. Thư Trường viết trên thứ giấy có tên và địa chỉ của một khách sạn lớn ở Ba-Lê (1). Lá thư không dài lắm, và sự ngắn ngủi của nó là điều duy nhất làm cho tôi thất vọng. Tôi thường đòi Trường phải viết dài gấp hai, gấp ba thư này, nhưng con người hoại động, nay đây mai đó ở Trường không phải là để viết những lá thư dài, kể lể tỉ mỉ này nọ. Thư viết dài, phải từ một bàn tay đàn bà, Trường thường cười và nói đùa như vậy. Có điều là ngắn, nhưng thư Trường không bao giờ là một thiếu sót. Tôi có cảm tưởng như người khác viết 10 câu, chàng chỉ cần viết một, người khác viết 10 chuyện toàn là những chuyện rông dài không đáng nói, duy điều Trường thuật lại mới là điều đáng nói mà thôi. Lẽ tất nhiên là tôi chủ quan. Yêu là chủ quan mà! Và cũng bởi vậy mà những lá thư của Trường ngắn gọn, không văn chương, không cầu kỳ, với tôi là những lá thư hay nhất. Chữ viết của Trường là tất cả chàng. Mạnh mẽ, xô chuyển, như những hàng chữ cũng là những bước chân lúc nào cũng di chuyển, cũng bay nhảy trên những con đường. Thư này chàng kể chuyện cho tôi về mùa xuân đã về trên những hè phố Ba-Lê. Chàng nói từ mấy ngày nay, tuyết đã tan, trời đã cao, chim én đậu trên những hàng dây điện, và tuy chưa có nắng, nhưng trong không khí còn buốt lạnh đã như thấp thoáng những tia hồng đầu tiên báo tin những ngày nắng sắp về. Chàng nói chàng còn phải ở lại Ba-Lê chừng một tuần nữa. Sau đó, chàng xuống một vài thị trấn ở miền Nam nước Pháp, sau khi sang Luân-Đôn (2). Tâm hồn tôi rào rạt yêu thương khi tôi đọc tiếp đến đoạn chàng hỏi tôi về những chuyện ở nhà. Chàng nói chàng nhớ tôi, rằng “không có một người đàn bà Paris nào đẹp bằng Tuyền”, rằng chàng sẽ cố gắng thu xếp thật nhanh mọi công việc để trở về Sàigòn, chậm nhất là một tháng nữa. Tôi đọc đi đọc lại lá thư nhiều lần đến thuộc lòng từng chữ. Cuối cùng, tôi gấp lá thư lại, cẩn thận cho vào phong bì, và đặt lá thư lên ngực như một tấm mền ấm áp và thơm tho nhất. Tôi ngả đầu vào thành ghế, thả buông cho tâm hồn bay đi... ... Em đang ngồi ở đây một mình. Căn phòng vắng lặng, sáng láng. Buổi trưa thiêm thiếp ở ngoài kia với cái nắng chói chang đang làm lấp lánh những chùm lá rực rỡ những lòng đường, lung linh những phiến kính. Lá thư anh vừa đến. Lá thư vượt qua không biết bao nhiêu tầng không gian, mang hình ảnh và dấu vết anh về đây. Và bây giờ thì căn phòng này chỉ còn là sự hiện hữu tràn đầy của anh, tuy anh không có mặt. Nhớ là những lần anh tới, anh nhớ không, và anh có biết không? Anh đã đem lại sự xáo trộn lớn lao tất cả, lúc không có anh, mang một hình thái khác, tất cả, khi có anh đã đổi khác hoàn toàn. Mỗi lần anh tới, hè đường phía ngoài đã như vang động lên bởi những bước chân anh đụng tới. Rồi anh vào như gió. Cánh cửa bị đẩy toang ra. Anh đến bao giờ cũng vậy, như một thảng thốt bất ngờ, không bao giờ báo trước. Em đứng ngây người nhìn anh. Em tưởng chiêm bao. Giây phút thật thần tiên. Em chưa hiểu em như thế nào. Sự sung sướng đến cực điểm gần như làm cho em tê liệt. Anh thường hỏi với một thoáng nghịch ngợm: -Làm gì mà đứng ngây người ra thế? Phải một khoảnh khắc, em mới thoát ra được cái trạng thái tê liệt kỳ thú. Em chạy đến, ngã vào anh. Chưa có một sự đổ ngã nào tuyệt vời như vậy. Hai cánh tay anh đỡ lấy em, tiếng cười ròn rã của anh lùa vào tóc em, rồi chúng mình hôn nhau. Những cử chỉ âu yếm của anh thật đặc biệt. Khỏe mạnh, tươi sáng, rất đàn ông, nồng nàn, không đắm đuối, như anh thả lỏng cho tình cảm bốc cháy nhưng bao giờ cũng làm chủ được tình cảm của mình. Nhã thường “phá” chúng mình. Nhiều lần từ trong nhà chạy ra nó bắt gặp chúng mình đang hôn nhau, em đang nằm trong tay anh. Lúc thì nó “đằng hắng”, lúc nó cười khúc khích. Con quỷ! -Cô Nhã hồi này ra sao? Anh hay hỏi Nhã như vậy. Nó trả lời, bao giờ câu trả lời đầu tiên của nó cũng là: -Riêng phần em, em vẫn được bình thường. Nó hỏi lại: -Phần anh? Anh đùa lại: -Phần tôi cũng bình thường giống như phần Nhã. Con nhỏ nhìn sang em chỉ tay: -Chỉ có phần chị Tuyền là không được bình thường lắm mà thôi. -Tại sao vậy? Nhã làm bộ ngơ ngác: -Hỏi chị ấy! Làm sao em biết được. Sau đó anh ngồi xuống ghế, nét mặt vui vẻ thư thái. Sau một chuyến đi trên những không gian, qua những biển rộng, trở về từ những sân ga, những bến tàu xa vời, anh trở về. Và Sàigòn là hình ảnh của một bến đậu bình yên. Anh kể chuyện chuyến đi, anh hỏi chuyện ở nhà. Căn nhà nhỏ vang động tiếng cười, tiếng nói. Trong câu chuyện ríu rít sau một thời gian xa cách lâu ngày, tôi thường là kẻ im lặng nhất trong ba người. Tôi ngồi nghe Nhã và Trường nói chuyện với nhau, lặng lẽ ngắm chàng, cố gắng tìm kiếm ở chàng một đổi thay nào đó. Thường thường, sau một thời gian không thấy nhau, người ta thường thấy nhau già đi đôi chút. Mội mái tóc có thêm vài sợi bạc. Một tròng mắt đã vơi đi ánh lửa ngày nào. Một đài trán vẽ thêm những đường nhăn mới. Một nụ cười bớt tươi tắn. Một thoáng mỏi mệt trong dáng điệu, trong cử chỉ. Tất nhiên là như thế. Là có sự thay đổi đó. Thời gian là một sức mạnh tàn phá mà! Chính tôi, đời sống rất dịu dàng, ngày rất bình yên, sinh hoạt rất chừng mực, mà tôi cũng còn cảm thấy ở tôi sự tàn phá của thời gian, sự tàn phá kín trùm lên thân thể những đời người. Không một ai có thể tự hào là tránh thoát được. Riêng Trường lại không thế. Sau mỗi chuyến đi, chàng đã không già thêm một chút nào mà lại hình như trẻ lại. Chàng có một mùa xuân, một tuổi trẻ vĩnh viễn nằm trong những lên đường và những đổi đời. Gió, nắng, những chân trời xa, những con đường và những không gian mênh mông kết hợp với nhau thành một liều thuốc thần diệu. Liều thuốc này đã giữ được cho Trường một dáng đi mãi mãi nhanh nhẹn, một ánh mắt mãi mãi tươi sáng, một tiếng cười ròn rã, một tâm hồn mãi mãi trẻ trung. Chàng phải đi. Chàng không thể dừng chân ở một nơi chốn nào. Lẽ sống của chàng là viễn du. Lẽ phải của đời chàng cũng ở đó. Chàng đã nói với tôi thật nhiều về chuyện này. Một lần, tôi đã hỏi chàng: -Anh không thể dừng chân ở một chỗ? -Được chứ! Tôi ngạc nhiên: -Thế sao anh đi hoài vậy? Trường cười: -Anh sống như vậy. -Không đi là không phải là sống? -Không! (3) Nếu sống là tạo được cho những ngày tháng của mình một ý nghĩa, hơn nữa, một đam mê nào đó thì viễn du và lưu động đúng là lẽ sống của Trường thật. Những lần trở về Sàigòn gặp lại tôi, vì yêu tôi, Trường cũng được sống những ngày mà chàng nói là sung sướng chưa từng thấy. Chúng tôi đi chơi với nhau, trở về nhà, giam nhốt tình yêu thành một thế giới riêng tây trong một căn buồng đóng kín, hưởng những giây phút có thể nói là thần tiên nhất củ một đời người. Khi đó, Trường quên hết những chân trời bát ngát của chàng. Khi đó, chàng sống cho tôi, cho tình yêu của chúng tôi. Hoàn toàn. Nhưng viễn du là một người tình mà Trường chỉ lãng quên được trong mội khoảng thời gian nào đó. Tôi nhắc lại, chỉ trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi. Tôi nhớ có một lần, tôi được ở gần Trường lâu nhất. Gần sáu tháng! Tù Trung Thu năm trước tới cuối xuân năm sau. Chàng lỡ một chuyến tàu, mẹ chàng lại đau nặng. Rồi Nguyên Đán tới, đã lưu giữ bước chân giang hồ của chàng ở lại dưới vòm trời quê hương. Tôi cũng có buộc chàng ở lại nữa. Lần đó tôi đã khóc: -Chưa bao giờ anh ở nhà mừng tuổi cho em hết. Ngày Mùng Một năm nào với em cũng là ngày sầu thảm nhất. Chiều tôi, sợ những giọt nước mắt của tôi một phần, mẹ lại đau chưa khỏi, Trường đã hủy bỏ chuyến tàu sau và ở lại tới năm sau. Cái tết năm đó, với tôi là cái tết đẹp nhất của một đời người. Tết không phải chờ đến đầu giêng, mà đã vui từ mùa thu, mùa xuân không phải chờ đến mai vàng, mà mùa xuân đã ở trong lòng trong dạ. Trường đưa tôi đi chơi cùng khắp. Lúc có thêm Nhã hay một vài người bạn. Lúc chỉ có chàng và tôi. Tôi muốn gì cũng được. Tôi đòi gì chàng cũng chiều. Có Trường ở bên cạnh, tất cả đều không quan trọng nữa. Tôi xin nghỉ việc suốt thời gian Trường ở Sàigòn. Nhớ biết chừng nào, yêu biết bao nhiêu những lần có nhau năm ấy. Chúng tôi đã đi hàng giờ bên nhau, tay cầm trong tay, yên lặng không nói, trên những con đường nhỏ đấy bóng mát ở những vùng ngoại ô thành phố. Chúng tôi đã ngồi với nhau trên những bờ sông, dưới nắng của chiều tà, dưới trang của đêm xanh, nghe tiếng nước chảy rì rào trên những kè đá, nghe trời cao trên đầu, nghe sự im lặng ngọt ngào nở thành những đóa hoa thơm ngát trong hồn. Tôi sung sướng. Trường cũng sung sướng như tôi vậy. Chàng chấp nhận trong mấy tháng liền, nhịp sống bình yên phẳng lặng ở một nơi chốn nhất định khiến tôi đã tưởng rằng Trường đã thay đổi. Nghĩa là con thuyền đã về bến đậu. Nghĩa là đời mây đã hết lang thang. Nghĩa là mê thích lớn nhất của đời chàng là đó đây, sớm một chân trời này, chiều một góc biển nọ, mê thích dầu vẫn còn nhưng không còn nồng cháy nữa. Phải, cái tết Nguyên Đán năm đó, tôi đã tưởng vậy. Đã hy vọng. Đã mừng thầm trong lòng. Nhã còn nhỏ, làm gì có một quan sát tinh tế, vậy mà thái độ bất thường của Trường cũng làm cho nó ngạc nhiên. Nó cười, hỏi tôi: -Chị dùng bí quyết nào mà lần này giữ được anh Trường ở nhà lâu quá vậy? -Mày đừng nói bậy! Bí quyết gì đâu! -Chị cấm anh ấy? Tôi nghiêm trang: -Anh Trường không phải là loại đàn ông chịu để cho đàng bà cấm đoán. Anh ấy sống hoàn toàn tự do, và theo ý mình. -Thế so lần này anh ấy chịu ở gần chị em mình lâu thế? Tôi cười: -Tao không biết! Muốn biết thì hỏi anh ấy. -Đi mãi cũng chán chứ nhỉ? Tôi trả lời, nửa tin nửa ngờ ý nghĩ của mình: -Có nhiều cái thích mãi được. Thích đến trọn đời. -Chị giữ anh ấy, không cho đi nữa? -Đã bảo không giữ, cũng không cấm. Thật tình, tôi không dám tìm hiểu tại sao Trường lại ỏ nhà tới sang xuân. Tôi sung sướng là đủ. Tìm hiểu để làm gì? Đêm Giao Thừa, chuyện lạ lùng mới xảy ra: Trường chịu đưa tôi sang Lăng Ông. Chúng tôi hòa mình vào cái biển người từ nhiều ngả nườm nượp theo dòng lũ Giao Thừa chảy tới. Trường nắm chặt lấy tôi, chàng đi trước ở những chỗ đông chen, mở đường cho tôi đi theo, chàng lùi lại, nhường cho tôi đi trước ở những quãng thưa người. Chúng tôi cũng hái lộc, cũng vào chùa. Đứng trước bàn thờ hương trầm nghi ngút, tôi cũng lễ, cũng cầu nguyện cho những mong ước kín thầm của tôi được trở thành sự thật. Nhớ lúc tôi sắp lễ, chàng đứng sát sau lưng. Quay lại, tôi bắt gặp chàng đang mỉm cười. Nụ cười khoan dung, thoáng một chút tinh nghịch, giễu cợt. Chiều tôi, chàng đã tới đó. Không khí chùa đền, cảnh tượng lễ bái không bao giờ hòa nhập được vào đời sống của chàng. Biết vậy, nhưng tôi cũng cứ hỏi: -Anh cười gì vậy? Sao anh lại cười? -Cười vì thấy em nghiêm trang quá. -Đến đâu là phải thành kính, phải nghiêm trang. Em sắp lễ, cho em, cho cả anh nữa. Anh không được giễu cợt. Chàng không chịu thôi cười, nhưng đứng lùi lại một quãng cho tôi được tự nhiên. Giao Thừa năm đó tôi đã đốt hương, và đã lễ. Tâm hồ tôi phút đó xúc động hơn bao giờ hết. Phút đó tôi tin, tin hết lòng. Tin có trời, có Phật. Tin có đấng tối cao nhìn xuống trái đất muôn triệu người, trong đó có những người yêu nhau, muốn cho tình yêu mãi là xum họp và đoàn viên, và đấng tối cao sẽ nhìn thấy những điều tôi đang chân thành cầu nguyện. Mơ ước của tôi thật ra rất đơn giản. Nó nằm gọn trong ước mong duy nhất: chàng đừng bao giờ đi xa. Thế thôi. Đừng bao giờ đi xa. Nhận được thư Trường là một hạnh phúc. Mỗi lần gặp chàng lại là một hạnh phúc lớn hơn. Nhưng thay cho những trùng phùng, tôi cầu xin được ở gần Trường mãi mãi, cho dẫu sữ ở gần có thể không còn là một hạnh phúc nữa. Tóm lại, cái tết Nguyên Đán năm đó, tôi đã đinh ninh là lời nguyện cầu trong đêm Giao Thừa của tôi đã trở thành sự thật. Tôi lầm! Con thuyền chỉ trở về bến đậu một thời gian mà thôi. Và thuyền, sau một thời gian đã lại mơ tưởng viễn phương, đã lại thèm khát lên đường. Sau một cái tết thật vui, những ngày đầu năm là một khoảng thời gian xanh biếc bắt đầu có những đám mây đen che phủ. Trường không vui như trước nữa. Khuôn mặt chàng trở nên nghiêm trang, xa xôi, và thấp thoáng những nét buồn rầu. Chàng không nói gì hết. Nhưng tôi đã cảm thấy rõ ràng là như vậy. Cái bệnh thèm đi ở Trường lại nổi dậy. Những ngọn gió ngủ bắt đầu tỉnh thức. Sau một im lìm, đam mê lên đường đã lại xôn xao. Trường vẫn đưa tôi đi chơi chỗ này chỗ nọ. Nhưng tâm hồn chàng nhiều lúc đã không còn ở tại chỗ nữa mà đã ở tận đâu đâu. Nhiều khi chàng mơ màng nhìn xuống một dòng nước chảy, nín thinh thật lâu không nói. Nhiều buổi chiều chàng đứng đó, trên một đê cao, tóc lộng gió chiều, nhìn không chớp về một khoản không trước mặt. Tôi hỏi: -Anh đang nghĩ gì vậy? Chàng bừng thức, thôi dòng suy nghĩ đắm đuối, gượng cười: -Không! Tôi buồn rầu: -Nhiều lúc em có cảm tưởng như anh không cần biết có em ở bên cạnh. Trường gõ nhẹ lên đầu tôi: -Tưởng tượng! -Không đúng sao? -Không đúng! -Em linh cảm như anh lại sắp có công việc. Lại sắp đi xa. Trường thở dài, lảng sang chuyện khác. Những ngày mùa xuân năm ấy mang hình ảnh một nền trời bình yên, nhưng lúc nào cũng như có dông bão đe dọa kéo tới. Trường luôn luôn nói với tôi là chàng không đi đâu hết. Tôi biết chàng nói vậy để cho tôi được yên tâm, chứ thật ra chàng đã có những sóng ngầm viễn phương rạt rào nổi dậy. Trước sụ xao động báo tin của một đổi dời nữa, một chia tay nữa, mội lên đường nữa của Trường, tôi không có được một thái độ nào khác là sự nhẫn nại chịu đựng. Tôi không biết làm gì hơn là đợi chờ. Một buổi sáng kia, còi tầu sẽ hú lên, những vành bánh xe lăn, một chiếc máy bay sẽ cất cánh ở một phi trường, hay một chuyến tàu xuyên đại dương sẽ dời khỏi một thương cảng. Trên chiếc máy bay đó, trên chiếc tàu đó, sẽ có Trường. Không có một sợi dây tình cảm nào đủ mầu nhiệm giữ được Trường ở lại. Chàng sẽ lại đi. Và giữa hai chúng tôi sẽ lại nghìn dặm cách chia nhau. Vì đã hơn một lần như thế, mỗi lần Trường sắp đi, là tôi biết được ngay. Một phần bởi linh cảm, một phần bởi những dấu hiệu, những triệu chứng báo trước, có thể rất mơ hồ nhưng đích thực, không bao giờ nhầm lẫn. Một buổi tối, Trường đến đón tôi từ buổi chiều. Chàng phục sức rất cẩn thận, và cũng đòi tôi phải trang điểm và mặc chiếc áo nào tôi thích mặc nhất. Thấy hai chúng tôi sửa soạn sắp ra khỏi nhà, Nhã nằng nặc đòi đi theo. Mọi lần, Nhã đòi như thế là được chấp thuận liền. Trường yêu (4) Nhã coi nó như em gái. Riêng lần ấy không được. Trường bảo Nhã ở nhà khiến con nhỏ dậm chân la lối: -Anh không cho em đi thật sao? -Lần khác. -Tại sao? Trường cười: -Tại vì anh chỉ muốn đi với chị Tuyền. Nhã hỏi vặn: -Tại sao anh chỉ muốn đi với chị Tuyền thôi? Trường giải thích: -Chiều nay, tối nay là hoàn toàn của riêng chị Tuyền. Anh có một chương trình đặc biệt dành riêng cho chị ấy, cho riêng mình chị ấy. Rất tiếc không thể cho em tham dự được. Để mai. Nhã tức đến phát khóc, cũng đành ở nhà vì Trường nhất định không thay đổi ý kiến. Ra tới đường, tôi hỏi: -Sao anh không cho nó đi? -Anh chỉ muốn có hai chúng mình. Tọi hỏi: -Đi đâu bây giờ? -Em muốn đi đâu cũng được hết. Anh đã nói là buổi chiều và buổi tối hôm nay dành riêng cho em hết cả mà. Trong trường hợp em không có ý kiến thì anh thi hành cái chương trình đặc biệt. Tôi cười: -Em không có ý kiến. Vậy anh làm theo cái chương trình đặc biệt của anh đi. Kể ra cũng không có gì đặc biệt lắm. Trường nói thế chỉ bắt Nhã ở nhà. Duy có một điểm đặc biệt này là Trường săn sóc chiều chuộng tôi như chưa bao giờ tôi được săn sóc chiều chuộng như vậy. Chàng đưa tôi trở lại tất cả những nơi chốn chúng tôi đã tới, đặc biệt những nơi chốn có với tôi nhiều kỷ niệm đẹp nhất. Chúng tôi sánh vai nhau đi lại mộ lần nữa trên con đường nhỏ, giữa hai bờ cỏ mướt, bóng lá dan trên đầu. Chúng tôi ngồi với nhau một lần nữa bên bờ sông, nhìn nước chảy gờn gợn, nghe sóng vỗ dạt dạt, với con sông mênh mông trước mặt, con sông bao giờ cũng gợi cho tôi một rung động dịu dàng buồn, vì cái hình ảnh hai bờ cách biệt, bờ này bò kia muôn đời nhớ thương nhau. Buổi tối, chúng tôi đến tiệm ăn “riêng” của chúng tôi. Đó là một tiệm ăn Ý Đại Lợi (5) rất yên lặng nhưng cũng rất sang trọng trên một tầng lầu cao. Chủ nhân là một bạn thân đã lâu ngày của Trường. Những lúc muốn nói chuyện riêng, không thích bị phiền nhiễu, kéo dài bữa ăn thành một họp mặt, chúng tôi đến tiệm ăn này. Bầu không khí ở đây lắng đọng một vẻ kiểu cách trưởng giả rất Tây phương. Đèn mờ mờ tỏ tỏ. Những người bồi bàn chăm chú và kín đáo. Đám khách ăn mỗi bọn một góc cách biệt, thì thầm nói chuyện. Thành phố thật xa ở dưới chân. Bóng tối của những lùm cây vây bọc chung quanh tạo cho người ngồi trên cao có một ảo giác lơ lửng giữa không gian, gần với những lùm sao trên đầu hơn là với lũ điện đường phía dưới. Trường cho tôi hay là rượu chát của quán hàng này phong phú, nổi tiếng, gồm toàn những loại ngon nhất, có thể tìm thấy ở thành phố. Món ăn hơi lạ miệng với tôi được dọn ra một cách rất cầu kỳ sang trọng. Đến với Trường nhiều lần, tôi đâm ra thích tiệm ăn này. Lần nào thấy Trường, chủ nhân cũng vui mừng chạy ra đón từ ngoài thềm cửa. Ông ta kiếm cho chúng tôi một cái bàn nhỏ ở một góc riêng, ngồi nói chuyện với Trường một lát. Trước câu chuyện này của hai người đàn ông, thường thường tôi chỉ biết mỉm cười ngồi im. Họ nói chuyện du lịch. Họ nói chuyện lên đường. Một vài thành phố này ở miền núi đã tới, đã ngủ đêm tại một thị trấn khác miền biển, người này đã ở suốt một vụ nghỉ mát mùa hè, người kia mới chỉ đi qua. Những chuyến tầu, những phi trường, những tên khách sạc biên giới được nhắc tới. Những cái tên ấy với tôi hoàng toàn xa lạ. Một lần, chủ nhân hỏi tôi: -Bà đã đi những đâu? Tôi đỏ mặt, xấu hổ: -Thú thật với ông, tôi chưa từng đi đâu xa hết! Chủ nhân tỏ vẻ ngạc nhiên: -Chưa bao giờ? -Vâng. -Ở gần một cánh chim bằng là ông Trường mà không đi xa bao giờ hết thì thật là một chuyện lạ! Tôi gật đầu, công nhận một sự thật khó tin: -Tôi cũng thấy như vậy. Chủ nhân quay sang hỏi Trường: -Ông không mời bà đi ngoại quốc bao giờ? Trường nhìn tôi cười, không nói. Chàng có mời chứ. Không phải là tất cả những lần chàng đi, mà một lần. Trong những chuyến đi gần và ngắn, như sang Thái-Lan, Nhật-Bản... Lần nào tôi cũng từ chối. Thế đó! Còn nói gì tới những chuyến đi dài hàng 5-7 tháng. Không phải tôi không thích. Nhưng tôi không đi được. Chỉ có hai chị em, tôi không thể bỏ Nhã ở lại một mình. Thừ thuở nhỏ tới trưởng thành, hai chị em đã như thế, không bao giờ sống xa cách. Đó là lý do thứ nhất. Thứ hai, tôi không phải là một cánh chim bằng. Tôi thuộc loại đàn bà hiếu tĩnh, ở yên một chỗ, và như thế đã quen từ bao nhiêu năm. Bữa ăn kéo dài khuya hơn thường lệ. Tôi muốn nó kéo dài, không bao giờ chấm dứt. Ngồi bên cạnh Trường trong một tiệm ăn hay trên một ghế đá công viên cũng vậy, cảm giác làm cho tôi sung sướng nhất là cái cảm giác được che chở. Khi người đàn bà thấy mình nhỏ lại, bởi cái bóng dáng của người tình là một bóng dáng cao lớn kín trùm, khi đó người đàn bà mới thấy mình sung sướng hoàn toàn. Riêng với Trường và bao giờ cũng vậy, ở đâu cũng vậy, tôi đều được có niềm hạnh phúc vừa nói. Rồi người chủ tiệm ăn trở lại mời Trường một ly nữa. Y hỏi: -Bao giờ tôi được gặp lại ông? Trường buột miệng: -Tôi e rằng còn lâu lắm. Chàng không nói gì thêm nữa. Nhưng một câu nói là đủ. Chàng sắp đi xa rồi. Tôi bàng hoàng nhủ thầm. Có điều là tôi vẫn còn hy vọng. Tôi sống với đợi chờ. Tôi sống bằng hy vọng. Đợi chờ và hy vọng chính là hai khuôn mặt, hai hình thái chính yếu của đời tôi, và ở giữa là tình yêu. Tới cuối bữa ăn, Trường lấy ở trong túi áo ra một cái hộp nhỏ. Chàng mỉm cười nhìn tôi, đẩy cái hộp về phía tôi và nói giản dị: -Anh mua cho em. Tặng vật trước khi lên đường đi xa lần đó của Trường là một chuỗi dây vàng, với một viên ngọc xanh hình trái tim rất xinh xắn. Tôi đặt chiếc dây vào lòng tay, nhìn nó đăm đăm. Tôi không biết phút đó phải nên cười hay nên chảy nước mắt. Tặng vật báo hiệu một chia tay, bữa ăn là bữa tạm biệt, buổi tối đang ngồi với nhau là buổi tối cuối cùng. Tôi hoang mang cả người, tay chân gần như tê liệt. Trường phải đỡ lấy sợi dây, đeo vào cổ cho tôi. Chàng hôn nhẹ lên mái tóc tôi, chàng hỏi rất ngọt ngào: -Em không thích sao? Tôi muốn nói với chàng là ‘có’. Tất cả những tặng vật chàng cho tôi từ trước đến giờ tôi đều gìn giữ nhưn những châu báu không có một châu báu nào sánh nổi. Tôi muốn nói tình yêu của chàng đã đem lại cho tôi những giờ hút thần tiên nhất. Nhưng tôi còn muốn nói thêm là sự đợi chờ lạnh buốt và rùng rợn như một cực hình. Một phút im lặng. Rồi tôi hỏi: -Bao giờ anh đi? Trường dịu dàng: -Anh đang ngồi đây với em. Tại sao em lại hỏi anh như vậy? Tôi cúi đầu nói nhỏ: -Trả lời em đi. -Anh chưa tính gì hết. -Nhưng mà anh sắp đi rồi! Phải thế không? Trường nín thinh không trả lời. Chàng nhìn đồng hồ: -Thôi, chúng mình đi. Xuống tới đườn, Trường nhìn đồng hồ, kêu còn sớm, và đòi tôi phải đi theo chàng tới một phòng trà nghe nhạc. Tôi không còn bụng dã nào để kéo dài buổi tối nữa. Trái tim tôi đã như muốn vỡ tan thành lệ. Tất cả những ý nghĩ sầu thảm trong đầu óc tôi phút đó đã hướng tới những ngày ly cách sắp đến, ở đó tôi là một hòn đảo nhỏ cô đơn giữa một đại dương hoang vắng mênh mông. Đã định bắt Trường đưa tôi về, nghĩ thế nào, tôi lại thôi. Có một thái độ quyết liệt với Trường để làm gì? Phải! Để làm gì? Trường đã thế. Vẫn thế. Trước sau, chàng là chàng, chàng như một thực thể độc lập, tách rời, mặc dầu yêu nhau, mà tôi không bao giờ thay đổi được. Đòi Trường phải thay đổi, Trường không còn là Trường nữa. Trường sẽ trở thành một người chồng tốt, chàng sẽ là của tôi, nhưng chàng sẽ chẳng còn là gì hết. Yêu, tôi muốn tôn trọng đời sống chàng, sự tự do tôi biết đối với chàng cũng cần thiết như hơi thở, như không khí. Vả lại, đã nhiều lần như thế này rồi, mà chẳng phải lần đầu. Tôi đã quen. Tôi là người đàn bà của đợi chờ và của những chia tay. Vĩnh viễn. Người nữ ca sĩ của phòng trà, như người chủ tiệm ăn Ý Đại Lợi, là bạn thân với cả hai chúng tôi. Trường đẩy cửa, cho tôi vào giữa lúc cô ta đang hát trên giàn nhạc. Giọng người nữ danh ca này cao vút, trong vắt. Lúc trầm, thấp, lời hát u uẩn chở trong nó nững âm thanh róc rách kín khuất của một dòng suối chảy giữa một cánh rừng thu vàng rượi mênh mông. Lúc bay lên, tiếng hát tự giải phóng nó, không còn ngừng nghỉ ở một tầng cao nhất định nào, mà còn lại càng bay xa, càng bay xa vang ngân càng lớn như trên con đường tìm gặp vô tận, mỗi âm thanh nhân gấp thành muôn nghìn âm thanh khác, và những lớp sóng âm thanh ấy lớp lớp đuổi nhau trong một nhịp miên man tuôn chảy không ngừng. Bản nhạc chấm dứt với những tràng pháo tay rào rào khi chúng tôi ngồi xuống một cái bàn gần giàn nhạc. Người nữ ca sĩ tươi cười bước xuống, tới ngồi với chúng tôi. Cô ta nói đùa: -Du dương dữ! Tôi gượng cười: -Chị hát lúc nào cũng tuyệt hay. Người hát nhũn nhặn và cười lớn: -Thì tôi cũng chỉ biết hát như thế thôi, nhưng ‘hát hay’ hay không, điều đó chẳng quan trọng lắm. Quan trọng là như thế này: một người đàn bà và một người đàn ông yêu nhau, ở gần nhau. Những lời nói với nhau chính là những lời hát tuyệt vời nhất. Rất thân mật tự nhiên, cô ta hỏi tiếp: -Bao giờ Tuyền cho uống rượu đây? Tôi nhìn Trường và nói: -Làm sao mình biết được! -Đàn bà chúng mình thì không biết rồi. Chúng mình thua thiệt ở chỗ đó, không bao giờ được quyền quyết định một cái gì hết. Nhưng không biết thì hỏi cho ra nhẽ. Hỏi cho đến khi phải được trả lời mới thôi. Cô ta bấm vào cánh tay tôi: -Thế nào? Hỏi chưa? Tôi không biết trả lời thế nào hơn là đành nói đùa lại: -Rồi, chị. Người ca sĩ tỏ vẻ ngạc nhiên: -Rồi mà vẫn chỉ đi chơi với nhau thế này sao? Trường vẫn ngồi im từ đầu câu chuyện, lúc đó mới bình tĩnh lên tiếng: -Chuyện mà chị mong cho hai chúng tôi đã có rồi. Từ lâu! Sự trang nghiêm trong giọng nói của Trường càng làm cho người bạn gái của chúng tôi ngạc nhiên hơn. Chính tôi cũng ngạc nhiên không kém. -Thế mà thiên hạ chẳng biết gì hết! -Vâng! Nhưng tối nay thì chị biết rồi đấy nhé. Người hoạt náo viên bước lên giàn nhạc giới thiệu một bài hát mới. Người nữ ca sĩ xin phép đứng lên. Một lần nữa, chúng tôi lại im lặng nghe cái tiếng hát trong vắt như thủy tinh, trong suốt như pha-lê, trong veo như dòng suối. Bài hát thuật lại một câu chuyện tình trong thời chiến. Những con đường đưa người ra trận ở đó có bóng tối mà mưa bay làm nhạt nhòa đi cái hình ảnh yêu dấu. Người đàn bà trông theo. Tóc nàng bay nghiêng. Nỗi buồn của nàng lớn hơn buổi chiều phút đó đã sương giăng kín khắp. Trong xa cách đã len mầm cái chết. Thời chiến, người ra đi không hẹn ngày về. lửa đạn kín trùm làm lạc đi những con đường của đoàn viên, đánh nhòa đi những dấu chân của trùng phùng, và người đàn bà đứng lặng trông theo hình ảnh người yêu lên đường, đã bắt đầu sống ngay từ phút chia tay, những này tháng lê thê nhất của một đời người là những ngày tháng chờ đợi. Trái tim lạnh dần. Mưa đổ nhiều hơn. Chiến trường xa như ở cuối chân mây, bên kia những cánh rừng, bên kia những triền núi. Người đàn bà chờ đợi mãi như vậy, trong thời gain dài thẳm, cho đến lúc nàng có cảm tưởng như cũng hóa thân thành đá như người đàn bà trong cổ tích. Lời hát tuyệt vời của người bạn gái của chúng tôi đã kể hết được bằng âm thanh tâm sự buồn đau ấy của một đợi chờ dìm chết, một tâm hồn người còn tuyệt vọng. Tiếng hát nức nở như cũng muốn tan thành nước mắt, tiếng hát là một đôi cánh sầu bay nghiêng trong một không gian mưa, by vút trong một thời gian đêm, cuối cùng là một bản kinh cầu, và tôi nghe, tôi đã cúi đầu xuống. Chừng như Trường lắng đoán được sự xúc động của tôi, do lời hát và ý nghĩa bài hát đưa tới. Chàng đạt nhẹ tay lên cánh tay tôi. Tôi chồng bàn tay lên tay chàng. Chúng tôi cùng im lặng một phút. Rồi tôi hỏi: -Sao anh lại nói với chị Hường như thế? -Anh nói rồi... rồi giữa chúng mình, không đúng sao? -Anh cho là đúng? -Phải! Chúng mình chưa thành vợ chồng thì cũng như đã là vợ chồng. -Em muốn tin như vậy. Trường nhìn thẳn vào mặt tôi: -Em phải tin như vậy... Người ca sĩ trở xuống lần thứ hai. Cô ngồi nói chuyện với chúng tôi cho đến khi phòng trà đóng cửa. Ra tới đường, đêm đã khuya. Chúng tôi đi bên cạnh nhau, hai cái bóng đổ dài trên mặt đường, lúc tản ra, lúc hòa nhập lại theo chiều ánh sáng. Tôi nhìn hai cái bóng. Hình ảnh cuộc sống của Trường và tôi cũng vậy. Lúc tan, lúc hợp. Lúc gần gủi tưởng không có sự gần gủi nào có thể hoàn toàn như vậy. Lúc xa nhau, thì biển rộng và sông dài xa cách nhau, xa cách như mỗi người mịt mùng một đầu trái đất. Trong một phút bồng bột, tôi không muốn gìn giữ nữa. Tôi ngả hẳn đầu vào vai Trường, trong một buông thả và trao gửi tự nhiên giữa đường phố. Cũng may, đường phố thật rộng, khuya khoắt, lại có những bóng lá thấp thoáng, nên không ai nhìn thấy chúng tôi. Đêm tuyệt vời. Đêm thần tiên. Tôi có cảm tưởng như tất cả thành phố đã ngủ yên, chỉ còn hai chúng tôi. Thành phố bây giờ thuộc về hai chúng tôi hoàn toàn. Một cơn gió nổi dậy bất chợt. Luồng gió chạy dọc theo hè phố, cuốn lên những phiến lá, làm lay động cái bóng tà áo quấn quýt theo bước chân. Gió đêm lạnh, như gió mùa thu làm tôi rùng mình. Trường vòng cánh tay ôm lấy vai tôi, chàng cúi xuống: -Lạnh? Tôi gật đầu, tựa thêm mái đầu vào vai chàng. -Anh đưa em về? -Em muốn đi thế này một lát nữa. Thấy chàng nín thinh, tôi hỏi: -Được không? -Em muốn đi thế này đến sáng cũng được. -Cho tới sát giờ anh ra phi trường? Câu hỏi đột ngột làm Trường cứng người không biết trà lời tôi ra sao. Cũng là thuận miệng mà hỏi, ngờ đâu là đúng. Thế ra sáng sớm ngày hôm sau chàng đi thật, khi ánh nắng dấy lên những mặt gờ mái, khi những tiếng xe cộ thứ nhất nổi lên trên những mặt đường, khi những tiệm thứ nhất lục đục mở cửa, khi tôi còn nằm trên giường, trong căn buồng đóng kín, một chiếc máy bay đã chở chàng bay bổng lên không gian mênh mông. Khi đó, chàng không còn là của thành phố này nữa, và với tôi, chàng chỉ còn là một hình ảnh, một đối tượng xa như niềm nhớ thương và đợi chờ không cùng của người ở lại. -Sao không cho em biết? Trường dịu dàng: -Anh đang định nói. Một phút yên lặng rồi Trường hỏi: -Mà anh không nói thì em cũng biết rồi, phải thế không? -Vâng. Tôi hỏi, mắt nhìn về một khoảng thấp của đêm dài trước mặt: -Bao giờ anh đi? -Sáng mai. -Sớm hay muộn? -Sớm. -Anh cho em tiễn anh ở phi trường? -Lát nữa chúng ta chia tay nhau. -Em hỏi anh có cho em tiễn anh ở phi trường? Trường lắc đầu: -Để cho em ngủ. Cuộc tình của chúng tôi có điểm thật đặc biệt là những tiễn đưa đều ngắn ngủi như vậy. Khuôn mặt lướt thướt diễm lệ nhất của tình yêu chính là đưa tiễn, chia tay trong cảnh trí đầy xúc động của một sân ga, một bến tàu. Tôi hát bài “Biệt Ly” của Dzoãn-Mẫn vô chừng là thế... Biệt ly... Nhớ nhung từ đây... Chiếc lá rơi theo heo may... Tôi nghĩ rằng trong lúc tử ly và tạm biệt, tình yêu mới đích thực đựng đầy trong cái bình huyền diệu. Những tình cảm lúc đó đắm đuối nhất. Tâm hồn người lúc đó ngây ngất nhất. Chỉ lúc sắp chia tay, người ta mới thấy tình yêu được sự thật phóng lớn thành một thế giới. Và trước phút không thấy nhau, những người yêu nhau mới nhận thức được trọn vẹn những phút có nhau quý báu vô ngần. Đi xem chiếu bóng với Nhã, với Trường, cảnh tượng hai người yêu chia tay nhau ở nhiều cuốn phim đã làm tôi chảy nước mắt. nhã thường chế giễu tôi quá yếu đuối. Trường cũng vậy. Tôi mạnh ở những mặt khác. Chỗ đó có yếu đuối thật. Nhớ một lần, tôi đã để cho nước mắt thương cảm chảy ướt đẫm hai gò má trước một cảnh chia tay. Đó là cảnh vĩnh biệt cuối cùng trong phim ‘Toute la ville danse’ (6) thuật tả lại cuộc đời của Strauss (7). Người đàn ông đứng lại ở bến tàu. Đêm đã nghiêng về sáng. Hạnh phúc đã chấm dứt. Kè đá đã mù sương. Hai người đã đi chơi với nhau suốt đêm, như tôi đã đi chơi trọn một buổi tối với Trường. Người đàn bà không thể ở lại thêm nữa, vì chuyến tàu mà nàng bắt buộc phải là hành khách đã sửa soạn lìa bến. Người đàn ông mặc áo mưa tơi, nét mặt thảm sầu đứng đó. Tiếng nước đập róc rách. Triều dâng rồi. Và con tàu xa dần. Người đàn bà đứng thành một bóng trăng hư ảo trên boong tàu. Nàng quay nhìn trở lại. Và thay cho một vẫy tay vĩnh biệt, nàng cất tiếng hát. Chưa từng bao giờ một bài hát chia tay lại có thể não nùng nhường ấy. Trái tim đã vỡ tan trong lồng ngực. Tình yêu đã vết thương, đã chảy máu. Tiếng hát nức nở, đau đớn hơn nghìn lần tiếng khóc. Gửi cho nhau lời cuối cùng. Hát cho nhau lời vĩnh biệt. Mỗi lời hát có len một ý đau. Trong mỗi âm thanh nghẹn ngào tan trong không gian đã là nỗi chết lớn lao kín trùm của một cuộc tình, bởi quá đẹp nên quá đỗi mong manh, bởi tuyệt đối cho nên thế tất phải hoàn toàn tan vỡ. Phải! Tôi Đã khóc! Tôi đã khóc, tôi đã không cầm được nước mắt khi xem tới đoạn chia tay đó trên bến tàu thành Vienne (8).Mà chẳng cứ gì phim ‘Toute la ville danse’, mà phim nào cũng vậy. Hiện tượng của chia ly bao giờ cũng chạm đụng mạnh mẽ bàng hoàng vào tâm hồn tôi, làm rung động ở đó những đường dây tình cảm yếu mềm nhất. Nhưng đó là phim, trong phim. Ngoài đời, tôi chưa từng được (?) sống những phút chia ly não nùng như thế bao giờ. Tại sao? Bởi cái lẽ giản dị là Trường hết sức né tránh nó. Cũng như hôm đó. Chia tay của chúng tôi rất ngắn. Trên thềm cửa. Tôi hỏi: -Anh vào không? Chàng lắc đầu: -Để cho em ngủ. -Anh nhớ viết thư về ngay cho em. -Anh sẽ viết ngay. Anh đi bình yên. -Anh yêu em. Giữ gìn em cho cẩn thận. Chúng tôi hôn nhau. Cái hôn cũng ngắn, không bao giờ là một kéo dài đáng nói. Và chàng đã xa, xa ngay từ giây phút chàng quay lưng bước đi. Chú thích: (1) Ba-Lê: Paris, thủ đô Pháp-Quốc (France). (2) Luân-Đôn: London, thủ đô Anh-Quốc (England; Great Britain; United Kingdom). (3) Có lẽ tác giả chịu ảnh hưởng nhiều theo lối văn chương của Pháp. “không” đây có nghĩa là đồng ý với người vừa hỏi. Bình thường, trong trường hợp này chúng ta sẽ dùng chữ “phải”, theo lối văn chương Việt-Nam. (4) Yêu đây chỉ có nghĩa là “thương”, không phải là tình yêu trai gái. (5) Ý Đại Lợi: Italy. (6) Toute la ville danse: nghĩa là “khắp cả tỉnh khiêu vũ”; phim mang tựa đề này được làm tại Hoa-Kỳ, được Pháp chuyển âm, và trình chiếu ở Việt-Nam vào thời đầu thập niên 1970, với phụ đề Việt, Anh, Pháp. (7) Strauss: tức Johann Strauss, nhạc sĩ người Áo-Quốc (Austria), được mệnh danh là “Hoàng-Đế Luân-Vũ”. Những nhạc phẩm theo điệu luân-vũ (Waltz) nổi tiếng của ông ta được phổ biến ra nhiều thứ tiếng khác nhau trong đó có: Giòng Sông Xanh (the Blue Danube); Khúc Hát Thanh Xuân (-When We Were Young)... (8) Vienne: thủ đô của Áo-Quốc. Tiếng Anh là Vienna. -------------------- ![]() |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 16th June 2025 - 11:19 PM |