Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 Hoả ngục đỏ, mối tình tôi - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> Hoả ngục đỏ, mối tình tôi, Lucien Trọng
caoduy
post Jul 27 2014, 11:28 AM
Post #1


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 53
Country







Hoả ngục đỏ, mối tình tôi


Chương 1

Cũng như biết bao thanh niên cùng lứa tuổi, tôi sinh ra trong cảnh điêu tàn đổ nát của quê hương. Trận chiến Đông Dương lần thứ nhứt đã nổ ra vài tháng trước, sau trận oanh tạc Hải Phòng và sau cuộc nổi dậy ở Hà Nội của Hồ Chí Minh.

Cha tôi vào lúc đó đang làm việc tại một hãng xe hơi của người Pháp ở Sài Gòn . Mặc dù chỉ là thường dân, nhưng vì có dính líu với người Pháp nên chúng tôi sợ bị Việt Minh trả thù. Mẹ tôi bèn thu xếp về Bến Tre, nơi quê ngoại tôi cùng với chi và anh tôi lúc ấy mới lên năm và ba tuổi. Mẹ tôi đang mang thai tôi gần ngày sanh. Mang chức Huyện, ông ngoại tôi là một đại điền chủ giàu có, nhưng rất quảng đại và rất được tá điền thương mến. Ông có nhiều vợ, và gia quyến rất đông đảo đó sống an nhàn trong một căn nhà rộng rãi và âm u với những cột to chạm trổ rất tinh vi.

Thế nhưng giặc giả cũng tràn lần tới Bến Tre và ngày mà nhà ông ngoại tôi bị đốt cháy, trên đường chạy loạn, mẹ tôi sanh tôi ra trong hầm trú ẩn, một cái hố bên đường giữa tiếng đạn bom và khói lửa ngập trời. Mẹ tôi định tìm cách về Sài Gòn , nhưng lúc đó đường sá bị phá hoại rất nhiều, cầu cống sập đổ, lưu thông bị tắt nghẻn, nên chúng tôi bị kẹt tại Mỹ Tho, với hai bàn tay trắng và mấy bao bố tời để đắp cho đỡ lạnh. Rất may lúc ấy có hai người con gái của tá điền, chị Đồng và chị Cúc, theo má tôi vì hai chị rất thương má tôi đã giúp đỡ nhiều cho gia đình hai chị. Vì sanh non ngày nên tôi là một đứa bé ốm yếu, nhăn nhúm và bịnh hoạn. Hai chị phải đi gánh nước mướn và bán dừa để nuôi chúng tôi vì má tôi cứ ốm đau sau khi sanh ra tôi.

Một tối nọ, tôi làm kinh và nóng sốt liên miên, mẹ tôi lo sợ ẵm tôi đi thầy thuốc cùng với chị Đồng mặc dù đã giới nghiêm. Khi tới trạm kiểm sóat của lính Lê Dương, chúng tôi bị chận lại. Mặc dầu mẹ tôi và chị Đồng đã giả trang cho xấu xí, quần áo xốc xếch và mặt mũi lem luốc bùn sình, bọn lính vẫn đoán thấy vẻ đẹp mặn mà của chị Đồng nên chận giữ chị lại. Mẹ tôi nhờ nét xanh xao và đứa con nhỏ trên tay nên được cho đi thong thả. Tình trạng của tôi rất nguy ngập nên chị Đồng vẫn bình tĩnh khuyên mẹ tôi hãy tiếp tục đi, chị sẽ tùy cơ ứng biến. Mẹ tôi đành để chị lại với bọn lính Lê Dương. Sáng hôm sau chị trở về nhà và liệt giường liệt chiếu, mẹ tôi phải bán chiếc áo dài lụa đen cuối cùng để thuốc thang cho chị.

Sau đó chị sanh ra một đứa con lai. Khi gởi con cho má chị nuôi dưỡng, chị ở lại săn sóc tôi cho đến ngày thời cuộc đưa đẩy, chị lập gia đình nhưng sau khi gẫy đổ, chị đi bán bar và sau đó theo chồng về Mỹ.

Lúc bấy giờ ai cũng tưởng tôi sẽ đi đời nhà ma, nhưng ngược lại, tôi vẫn sống và chính anh tôi bấy giờ lên 3 tuổi, lại mất đi sau một cơn bệnh chỉ vài ngày. Lúc ấy làng xã bị thiêu rụi, ai còn lo tới chuyện làm giấy tờ, nên từ đó tôi mang khai sanh của anh tôi, và tôi được hưởng luôn cái tên ba má đã đặt cho anh là Trọng, có vẽ như quan trọng và quá trang nghiêm không hợp tí nào với bản tánh của tôi. Vì tôi cứ bị đau bệnh luôn, mẹ tôi đặt cho một cái tên xấu xí cho dễ nuôi: “Nhường” hay là nhường nhịn, khiêm nhường. Tôi thấy cái tên này hợp với tôi hơn. Lạ thay sau đó tôi hết bệnh hoạn và lại mập mạp, sổ sữa ra.

Một năm sau đó, tình hình lắng dịu và chúng tôi trở về cuộc sống tương đối nhàn nhã ở Sài Gòn .

Sau trận chiến Điện Biên Phủ vào năm 1954, nước Pháp thua trận nhường chỗ cho người Mỹ và giặc giả vẫn tiếp diễn mà còn ác liệt hơn .Lúc đó tôi được 7 tuổi , và giữa cảnh điêu tàn của quê hương, tôi còn cô đơn hơn nữa. Mặc dầu gia đình tôi theo đạo Phật, nhưng tôi được theo học trường Dòng và từ đó tôi lại mang thêm tên thánh Lucien, biểu tượng của “ánh sáng”: tôi lại chui rút thêm vào bóng tối của cái vỏ ốc mà tôi đã tự tạo ra.

Sau khi thi xong bằng Tú Tài, tôi được sang Pháp tiếp tục học về Thủy Lâm, và sau một thời gian tu nghiệp ở Hoa Kỳ, tôi trở về quê hương để phục vụ; trái với một số bạn bè vẫn muốn ở lại xứ người để lập nghiệp, vì tôi biết rằng không một nơi nào đẹp bằng quê hương tôi.

Tôi được tuyển làm giảng viên tại trường Đại Học Nông Lâm Súc ở Sài Gòn . Song song với chức quản thủ thư viện, tôi giữ luôn chức vụ Trưởng Phòng Sinh Viên Vụ trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng ở Sài Gòn vào năm 1973-1975.

Tôi thấy cần phải nói đôi câu về tư thế chánh trị của tôi, không phải để biện minh điều gì mà chỉ tỏ rằng tôi là một nhân chứng tầm thường như bao nhiêu người Việt Nam khác, sanh ra trong thời loạn, không biết phải theo bên nào, vì bên nào cũng có những cái hay, nhưng cũng có những cái dở. Tôi không phải là một nhà văn, nên lời tôi nói rất giản dị, rất chân thành, tôi chỉ muốn bày tỏ nỗi uất nghẹn của một người dân mất nước .

Tôi không phải là một chánh trị gia, nên nhận xét về phương diện này của tôi kém phần sâu sắc, vả lại bản tánh nghê sĩ của tôi khiến tôi ghét những gì thuộc về chánh trị. Tôi ưa âm nhạc, hội hoạ và điện ảnh hơn.

Sau một thời gian nhập ngũ, tôi được biệt phái trở về dạy học. Tôi không thích chế độ của Nguyễn Văn Thiệu vì sự tham nhũng đầy dẫy và vì có quá nhiều bất công trong xã hội. Với sự hiện diện của lính Mỹ, dĩ nhiên cảnh đĩ điếm lan tràn và các tệ đoan xã hội khác phải hiện lên. Nhưng dầu sao đó cũng là một chế độ tự do, nhưng dân được tư do tư tưởng, tín ngưỡng, đi laị, được tự do buôn bán, tự do sống theo ý mình.

Mặc dầu có những hạn chế do tình trạng chiến tranh, mặc dầu có những phần tử tham nhũng trong thành phần chánh phủ, nhưng người dân vẫn sống tự do và vì vậy nên người dân Miền Nam không bao giờ chấp nhận chế độ Cộng Sản, dầu phải đánh đổi sinh mạng mình để vượt biển tìm tự do.

Khi tôi du học trở về Việt Nam , năm đó tôi vừa 24 tuổi. Tôi rất thích hội hoạ, tôi vẽ rất nhiều tranh sơn dầu và tổ chức nhiều cuộc triển lãm, phần đông để giúp đồng bào chiến nạn. Đó cũng là một cách cho tôi giải toả những ước mơ thầm kính và cố quên đi “nỗi cô độc của con tim và sự vô nghĩa của cuộc sống”.

Khi tôi hồi hương, phản ứng đầu tiên của tôi khi thấy Sài Gòn đầy lính Mỹ và bar, ổ điếm trá hình, cùng nhà tắm hơi, dancing, là sự khó chịu và uất ức. Thế nhưng sau khi biết được sự bành trướng mau lẹ của Việt Cộng và những thủ đoạn của chúng thì tôi đành chấp nhận thế chẳng đặng đừng. Tuy nhiên cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với tôi, tôi vẫn cho là một sự mất mát lớn, mặc dầu chính gia đình ông đã đưa đến thảm hoạ cho ông .

Sài Gòn đầy dẫy ngựa xe, lụa là, máy móc, tủ lạnh, ti-vi. Sài Gòn nhộn nhịp xa hoa. Sài Gòn muôn màu muôn mặt. Đằng sau những khu nhà nhiều tầng là những khu bàn cờ, những khu ổ chuột với những căn nhà ọp ẹp bằng lá, bằng tôle, bằng cây, bằng giấy cứng, bằng giẻ rách.

Có ai đã ví Sài Gòn như một cô gái đẹp diêm dúa, sống hưởng thụ vội vàng và không nghĩ đến ngày mai.. Tham nhũng lan tràn, vì đó là một tệ trạng luôn luôn đi đôi với một chế độ độc tài. Thế nhưng người dân vẫn vui sống, dầu cuộc sống có chật vật, dầu ngày mai có bấp bênh, dầu cuộc chiến vẫn tiếp diễn ác liệt sau khi người Mỹ ra đi.

Ngày ở trường Đại Học Nông Nghiệp, lúc bấy giờ được gọi là Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp, những cuộc biểu tình của sinh viên tổ chức vẫn thường được diễn ra. Nhờ địa điểm khá thuận tiện, nằm trên đường Cường Để, giữa Đại Học Văn Khoa và Dược Khoa, không xa mấy Trường Luật, nên trong nhiều cuộc biểu tình, tồi đều có mặt, dầu vì lý do gì, tôi vẫn đứng theo hàng ngũ của sinh viên, có lẽ vì tuổi trẻ, có lẽ vì tôi luôn luôn chống lại những gì hiện hữu . Ông Khoa Trưởng bấy giờ rất trẻ và là bạn của tôi, thường rầy rà:

- Trời ơi, anh làm Trưởng ban Sinh Viên Vụ,
lẽ ra anh phải trông chừng cho sinh viên đừng lộn xộn, anh lại theo tụi nó biểu tình thì chết rồi. Anh coi chừng, trong đám sinh viên có tụi VC trá hình trà trộn để gây rối loạn đó.

Và ông rất có lý. Trong các phiên họp Hội đồng Giáo Sư, tôi vẫn tìm mọi cách để xin can thiệp cho sinh viên bị bắt trong những cuộc biểu tình. Hình như Công An có theo dõi tôi, và đã có lần gọi tôi đến để dằn mặt vu vơ, nhưng lúc bấy giờ anh rể tôi có chức vụ quan trọng trong quân đội, có thể là một bảo đảm cho hành vi chánh trị của tôi, nên tôi chưa hề bị bắt.

Ngày 30-4-1975, Miền Nam yêu thương, Miền Nam dịu hiền nào ngờ lại phải rơi vào tay Cộng Sản quá hấp tấp, quá vội vàng, sau cuột “Tổng nổi dậy” hụt của năm 1968. Trong khi Cộng Sản lấn chiếm miền Trung và các thành phố lần lượt rơi vào tay chúng, thì tôi đang dự một cuộc hội thảo về Nông Nghiệp tại Manille với các nước của A.S.E.A.N.

Các đồng nhiệp Phi Luật Tân của tôi đều khuyên tôi nên nán lại chờ đợi thời cuộc và nếu cần thì xin tỵ nạn chánh trị, nhưng tôi một phần vì nóng ruột muốn có mặt bên gia đình khi hữu sự, một mặt nữa tôi lại nghĩ mặc dầu Miền Nam có thể rơi vào tay Cộng Sản, nhưng nếu chịu khó hoà mình, thì cũng có thể sống tại quê hương yêu dấu. Nghĩ vậy nên tôi quyết định về Sài Gòn sau khi cuộc hội thảo chấm dứt.

Ngày 5-4-1975, tôi trở về Sài Gòn trong một bầu không khí ngột ngạt và kinh hoàng. Đồng bào đổ xô tản cư từ Miền Trung vào Sài Gòn có lẻ vì “quá thương” Bác và Đảng nên phải chạy bán sống bán chết để tránh xa. Các tỉnh lần lượt rơi như sung chín và rốt cuộc Sài Gòn bị bao vây tứ phía.

Những ngày cuối cùng của tháng Tư, những quang cảnh hỗn độn khiếp đảm diễn ra tại Sài Gòn với sự hấp tấp ra đi của những người Mỹ còn sót lại, những cảnh hôi của chung quanh các cư xá Mỹ, những cảnh chen lấn tại Tân Sơn Nhất và khu bến tàu. Tiếng súng không ngừng nổ và những đêm sau cùng, Sài Gòn hấp hối trong sự kinh hoàng. Có lẽ nếu tướng Dương Văn Minh không đầu hàng thì Sài Gòn sẽ chỉ còn là đống gạch vụn vì bị pháo kích liên miên.

Sau khi lệnh ngưng bắn được tung ra thì một quang cảnh lạ lùng được tiếp nối: tiếng súng nổ dòn tan để chào mừng sự chấm dứt của một cuộc chiến tương tàn. Người dân Miền Nam thành thật hân hoan đón mừng tin ngừng bắn, nhưng chánh quyền Hà Nội lại tưởng lầm rằng sự vui mừng đó dành riêng cho họ.

Binh sĩ liệng bỏ vũ khí, quân phục Người dân sống trong sự hồi hộp để đó chờ sự chuyển tiếp với sự dè dặt và lo sợ , vì gia đình nào cũng có chồng con đi lính cho chính quyền cũ.

Để mong mỏi chính quyền mới khỏi “để ý” đến gia đình mình, mọi người đua nhau đi mua cờ đỏ về treo và xoá bỏ hấp tấp các cờ vàng ba sọc đỏ sơn trước nhà. Có sống trong quang cảnh khó tả của Sài Gòn trong những ngày đó thì mới thấy được rằng: mặc dù chánh quyền cũ có tham nhũng, có khắt khe đến thế nào cũng không bằng sự khó thở, ngột ngạt của chánh quyền Hà Nội chỉ được đứng vững nhờ sự man trá và khủng bố.

Trong những cuộc biểu tình khổng lồ, chỉ có một thiểu số dân thật tình tham dự một cách tích cực, còn lại một số lớn bị ép buộc có mặt với lòng lo âu và cay đắng. Ta không thể nào trách được một số người Miền Nam vì sự sinh tồn phải tham gia vào chế độ mới, vì sự sống của gia đình và của chính họ. Lính “bộ đội” lan tràn vào Sài Gòn và các tỉnh Miền Nam. Cũng có những cảnh thân mật và cảm động được diễn ra vì “ba mươi năm mới có ngày nầy”. Có những cảnh sum họp đầy nước mắt , nhưng ai có ngờ đâu nước mắt sẽ không ngừng chảy sau ngày hội ngộ.

Sài Gòn không có cảnh máu chảy qúa lộ liễu như ở Nam Vang, và vì dân chúng biểu lộ sự vui mừng bởi “hoà bình” đã được vãn hồi nên quốc tế xem đó là biểu tượng của một sự “nổi dậy” đòi tự do. Những ai còn ảo tưởng sẽ mau lẹ nhận thấy rằng chế độ Cộng Sản đã hoàn toàn làm chủ Miền Nam, và những danh từ “lấy tình thương xoá bỏ hận thù” đều là một sự bịp bợm dối trá. Các cửa tiệm đều hàng loạt bị đóng cửa, bảng hiệu hạ xuống để chỗ trống rổng chơi vơi. Thay vào đó là những biểu ngữ đỏ, những chân dung cụ Hồ to, cụ Hồ nhỏ, cụ đang đưa tay chào, cụ đang mỉm cười, cụ có mặt ở khắp mọi nhà, leo lên luôn cả trên bàn thờ tổ tiên. Biểu ngữ thường là chỉ có mấy câu lập đi lập lại “không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do”, màu đỏ ở khắp mọi nơi, màu đỏ khiêu chiến, màu đỏ của máu tươi.

Hàng loạt người bị bắt âm thầm trong đêm tối, hàng loạt sĩ quan và công chức bị gọi đi học tập cải tạo “trong một tháng”. Loa phóng thanh chát chúa giọng đanh đá của các xướng ngôn viên bẻ miệng bẻ mồm chửi rủa Mỹ Ngụy.

Sài Gòn ngộp thở, Sài Gòn bị kềm kẹp lần lần trong hai gọng sắt.

Tất cả các tờ báo đều bị đóng cửa, chỉ còn hai tờ “Sài Gòn Giải Phóng” và tờ “Nhân Dân” từ Bắc mang vào.

Đường xe lửa Xuyên Việt được vội vàng tái lập để đưa các cán bộ từ Bắc vào Nam, và vơ vét của cải Miền Nam chở ngược ra Bắc. Nếu không có lý do hoặc không thuộc “gia đình cách mạng” thì đừng hòng leo lên “đường tàu Thống Nhất” nầy . Các trò chơi xưa, các thú tiêu khiển cũ đều bị cấm đoán, thay vào đó là họp hành để tố cáo lẫn nhau, hoặc những trò tủn mủn như “thiếu nhi đi lượm rác” hoặc “đi vét mương Xã Hội Chủ Nghĩa”.

Người dân phải làm mọi thứ đó với sự câm nín. Một cử chỉ phản đối sẽ bị cho là phản động và đưa thẳng vào nhà giam. Tôi đã quyết định ra đi. Không dám cho gia đình hay vì sợ bị cản trở, tôi âm thầm tìm đường vượt biển. Lúc đó đang có chiến dịch đốt sách báo “nhảm nhí” và nhạc “ru ngủ”, và một cuộc đổi tiền đang rục rịch tiến hành.

Tôi bán chiếc xe Daihatsu nhỏ với giá 3 triệu đồng thời bấy giờ và với số tiền đó, ngày 10-6-1975, một tháng sau khi Cộng Sản đặt nền móng cai trị tại Miền Nam, tôi ra đi với một bộ đồ cũ, bằng một tâm sự lo âu và rã rời.

Chiếc tàu đánh cá nhỏ chưa kịp rời Vàm Láng thì tên tài công đã mật báo với công an. Trong khi chờ đợi các hành khách lần lượt xuống tàu thì công an đã bao vây bằng nhiều tàu Hải Quân cũ. Lúc đó tôi đang ở trong khoang tàu. Tôi nhất quyết không thể sống chung với Cộng Sản, nên đã mang theo bột thạch tín hoà với ít nước trong một chai thuốc nhỏ mắt và hai ống thuốc ngủ. Trời ơi, trong khi di chuyển chai thuốc đã bể . Không còn suy nghĩ nữa, tôi nuốt trọn hai ống thuốc ngủ valium..

Ngoài kia mặt trời lên cao, những hàng dừa rũ ngọn trên mặt nước lấp lánh bạc. Đất nước thân yêu thôi xin vĩnh biệt. Trong thoáng chốc mơ hồ, tôi như rơi vào khoảng không mù mịt…

Ba má ơi, con đi đây …


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
caoduy
post Jul 27 2014, 11:31 AM
Post #2


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 53
Country




Chương 3

Ngày hôm đó, chúng tôi được chỉ định để vét một con kinh bị đất lỡ và cây cỏ mọc gần bít kín. Nói về các “con kinh ta đào” của chính quyền Hà Nội bày ra để đày đoạ dân miền Nam, tôi nhận xét rằng có một số kinh cần thiết để cho sự di chuyển của thuyền ghe, và một số kinh dùng cho sự canh tác. Thế nhưng , có một số kinh mà bọn tù cải tạo chúng tôi phải đào lại không có mục đích gì ngoài sự đày đoạ chúng tôi. Các kinh đó nằm trong những vùng đất đầy phèn chua, nơi mà không có gì mọc được ngoài những ruộng đưng. Đưng là một thứ cỏ lác mọc hoang nơi các đầm lầy, được dùng để lợp nhà hoặc đan đệm.

Đào đất sình là một công tác giản dị nhưng ôi thôi khổ sở vì dụng cụ thô sơ, cuốc xuổng thì mòn lẳng, cán cây lại cứng đơ nên đất sình dính vào dá, liệng không đi.

Hôm đó tôi được chỉ định công tác trên một khoảng độ mười thước kinh. “Đực Râu”, tên “antenne” hướng dẫn chúng tôi dùng một que cây để đo phần đất của mỗi người . Hắn đi lại trên đê, tay cầm cây que như thống chế đi duyệt binh, thấy thật dễ giận. Trong khi đó, chúng tôi lội bì bõm trong bùn, cố moi sình để đắp lên bờ. Leo lên gần bờ thì mớ đất đã tan đi đâu mất. Tôi muốn chảy nước mắt và thẫn thờ nhìn phần công tác của mình, tự hỏi biết chừng nào mới xong. Thật ra từ hồi còn là sinh viên, tôi cũng hay đi bơi lội và thích thể thao nên đối với tôi, mặc dầu “lao động” quá sức tôi vẫn cố gắng hoàn thành. Nhưng tôi căm hận vì việc đào kinh này chẳng đem lại lợi ích gì cho “nhân dân” cả. Đây chỉ là một trong những sự ngu xuẩn của bọn cầm quyền mới này mà thôi.

Lúc ấy, Lý làm việc bên cạnh tôi nên hắn thấy tôi tiu nghỉu như vậy bèn tội nghiệp:

- Thôi bồ, ráng lên đi! Tôi làm xong sẽ giúp cho bồ!

Các bạn đồng đội khác cũng hì hụp lặn nhào trong bùn sình, trong khi tên Đực Râu ngồi hút thuốc lào. Ở xa xa mấy cán bộ võ trang đang nói chuyện trên bờ đê.

Tôi bì bõm lội trong sình và làm xong một phần tư phần được chỉ định trong khi Lý đã làm hơn nửa phần của hắn.

Tôi thấy Lý leo lên bờ để nghỉ xã hơi. Thấy Lý ngồi xuống bờ đê, tôi định kêu hắn trở xuống thì đã nghe giọng hách dịch của Đực Râu:

- Ê, thằng kia ! Ai cho mày nghỉ mà mày ngồi đó ?

Hắn ta làm một du kích, sau theo chiêu hồi và được trưởng trại tin dùng nên hắn rất lên mặt.

Tôi định ra hiệu cho Lý xuống làm tiếp, vì thật ra chúng tôi cũng được phép nghỉ mệt chốc lát, nhưng phải nghỉ tại chỗ, nghĩa là đứng dưới kinh. Chỉ khi nào có phép mới được lên bờ để ngồi nghỉ. Lý vẫn ngồi và thản nhiên trả lời:

- Tôi đã gần xong phần công tác, nghỉ mệt một chút không được sao ? Lội dưới nước mệt lắm chớ phải như ngồi trên bờ đâu.

Một sự im lặng bỗng nhiên bao trùm lên chỗ chúng tôi làm việc. Những cặp mắt lờ đờ mệt mỏi bỗng sáng lên, chúng tôi thoả mãn vì có người đã nói lên ý nghĩ của chúng tôi.

Đực Râu giật mình, hắn ta ngạc nhiên vì có người dám trả lời lại hắn.

- Ê, thằng kia, lại đây tao biểu!

Hắn hách dịch gọi Lý, hai tay bẻ cong cong cây que. Tụi chúng tôi ngưng móc đất, buông vội dá xẻng để theo dõi. Lý điềm nhiên đứng dậy, và khi đến gần Đực Râu khoảng một thước, Lý đứng lại chờ đợi.

Mấy tháng lao động đã làm cho Lý hơi gầy, song thân thể vẫn còn khoẻ mạnh. Tôi thoáng thấy nụ cười xênh xếch trên khoé môi Lý và chợt mong rằng Lý sẽ tặng cho Đực Râu một quả đấm vào bộ mặt khả ố của hắn, nhưng tôi lại sợ cho những hậu quả mà Lý sẽ gánh chịu. Đực Râu đang hoang mang không biết xử trí ra sao, vì khi nhìn lại thân thể gầy còm của hắn, bề cao thì thua hẳn Lý, hắn sợ sẽ bị Lý đánh trả lại, vì cán bộ lúc đó ở khá xa. Khi họ can thiệp thì hắn đã tơi bời hoa lá. Chắc hắn nghĩ vậy nên dùng kế hoãn binh:

- Đồ làm biếng, đi tiếp tục làm xong phần công tác của mày, khi về trại sẽ tính sau.

Lời hăm doạ làm cho hắn lấy lại phong độ. Hắn quay qua đám tù tiu nghỉu đang tiềc rẻ vì không xem được một màn thoả đáng, nói:

- Tụi bay làm gì đứng đó? đi làm tiếp tục. Đồ phản động.

Tôi thấy mến Lý từ đó. Sau trận cãi vã đó, chúng tôi lặng lẽ làm việc và sau khi xong công tác, Lý âm thầm sang làm tiếp phần của tôi còn dang dở.

Trên con đường về trại, tôi âm thầm lo sợ cho buổi kiểm thảo chiều nay. Thật vậy, đêm hôm đó, trong buổi học tập sau phần sơ khởi thường xuyên, Năm Sơn, gã trưởng phòng với khuôn mặt phì nộn và nhiều đa nghi, đã được báo cáo liền sau khi chúng tôi đi công tác về, vội đề nghị với Đực Râu báo cáo về công tác trong ngày.

Chúng tôi mỏi mệt sau một ngày làm việc nên gần kiệt sức, nhưng vẫn không dám dựa vào vách lá. Phần tôi thì đã dự bị sẵn một cái gối rơm để chèn sau lưng, nên không lấy gì khổ sở lắm. Tuy nhiên trống ngực tôi đánh liên hồi khi Đực Râu kể lại mẩu chuyện ban sáng và thêm thắt:

- Anh Lý đã cãi lệnh công tác và định hành hung người hướng dẫn. Anh Lý khinh khi “lao động” trong khi cụ Hồ đã bảo “lao động là vinh quang”. Anh Lý đã đi ngược lại đường hướng của nhân dân. Đề nghị tập thể báo cáo lên cán bộ trưởng trại để làm gương.

Báo cáo lên trưởng trại đồng nghĩa với đi vào conex vài tháng sau là theo ông bà. Năm Sơn cũng không ưa gì Đực Râu, nên hỏi lại tập thể:

- Anh Lý có gì để bào chữa không? Xin tập thể cho ý kiến.

Lý lấp vấp trả lời. Đực Râu khôn khéo gài cho Lý nổi giận. Tập thể mệt mỏi không có ý kiến gì. Năm Sơn liền hỏi:

- Nếu tập thể không có ý kiến, thì tôi lấy quyết định. Có ai còn gì để nói nữa không?

Tôi ngạc nhiên nghe tôi nói, giọng lạc hẳn vì quá xúc động. Tập thể im lặng quay nhìn tôi. Lần hồi tôi lấy lại bình tĩnh:

- Thưa trưởng phòng, thưa tập thể. Trưa nay tôi làm việc gần anh Lý, nên xin làm nhân chứng. Quả thật anh Lý có lên bờ ngồi nghỉ, nhưng khi bị quở trách thì anh Lý tiếp tục làm việc và đã xong phần công tác. Có lẽ vì quá mệt mỏi nên anh Lý có trả lời lại với trưởng nhóm, nhưng tôi không nghe anh Lý có lời lẽ khi khi lao động. Xin tập thể xét lại.

Căn phòng im phăng phắc. Bỗng nhiên, anh trưởng nhóm Hai Lung từ nãy giờ chưa có ý kiến, lên tiếng làm tập thể nín thở để theo dõi. Hai Lung khi xưa là thư ký ở xã, nay cũng là một “antenne” nhưng rất được cảm tình của anh em.

Hai Lung đưa tay về phía trước:

- Xin có ý kiến. Để tập thể có chút thời giờ sửa soạn đi ngủ vì đã gần giờ giới nghiêm, tôi xin vắn tắt: anh Lý thuộc nhóm của tôi, nhưng hôm nay vì có công tác ở văn phòng nên tôi không có mặt tại Kinh Một. Nhưng tôi xác nhận rằng anh Lý lao động tốt. Nếu lần này anh Lý có vi phạm kỷ luật thì tôi xin đề nghị tập thể phạt cảnh cáo anh Lý, bằng cách làm “tự kiểm” và nộp cho trưởng phòng, đồng thời hứa với tập thể không tái phạm nữa. Xin tập thể cho ý kiến.

Căn phòng nhộn nhịp lại. Kẻ nói tới, người nói lui. Bị nhốt lâu ngày không có gì để nói, người ta thèm nói; chuyện gì cũng bàn từ chuyện mua một cây chổi đến chuyện lỗi lầm nhò nhặt của nhau. Sau cùng Năm Sơn lên tiếng:

- Tôi kết luận: tập thể cảnh cáo anh Lý, nhưng không báo cáo lên trưởng trại. Đề nghị bế mạc họp.

Lý đã thoát khỏi conex trong đường tơ kẽ tóc. Chiều hôm sau, Lý nhận một tờ giấy và một cây viết Bic để làm “tự kiểm”…

Tôi thấy Lý tần ngần một lúc lâu hình như suy nghĩ lắm và sau cùng đến chỗ tôi nằm để nhờ viết dùm:

- Bồ viết dùm tôi đi, Biết gì mà viết bây giờ? Thiệt là rắc rối. – Hắn đỏ mặt nói.

Vỡ lẽ ra thì hắn ta viết chữ Việt cũng chưa thạo, nói gì đến “tự kiểm”. Và cũng nhờ dịp đó mà tôi hiểu rõ gia cảnh của Lý hơn, dễ thông cảm với Lý hơn nữa.

Gia đình Lý sinh sống ở Nam Vang từ lâu đời rồi, và làm ăn buôn bán rất phát đạt, cho đến năm 1970 khi có chuyện hiềm khích giữa hai chính phủ Miên-Việt, Việt Kiều hồi hương đổ xô về Việt Nam để tránh sự giết chóc và từ đó bắt đầu một cuộc đời trôi nổi cho Lý.

Má Lý vội vã mang mớ hành lý và 3 đứa con trở về Việt Nam trước để tránh nạn, còn ba Lý ở lại để thu xếp và cố gắng cứu vớt chút vốn liếng, hẹn sẽ sang Việt Nam sau. Ba Lý biệt tích luôn từ đó.

Má Lý chờ đợi tuyệt vọng và một năm sau đó lập gia đình để cố gắng nuôi con. Lý là con lớn, năm đó đã 14, 15 tuổi. Ở Nam Vang Lý học chữ Miên và khi qua Việt Nam, không thích đi học tiếp, vì miếng cơm manh áo và vì hai đứa em gái còn nhỏ dại. Má Lý định cư tại Mỹ Tho, nơi còn vài người thân thuộc. Khi người cha ghẻ bước chân vào nhà, thì Lý bắt đầu cuộc sống lưu lạc vì không hợp với người chồng sau của mẹ, vả lại Lý không nghĩ rằng cha mình đã chết. Nó bỏ nhà đi rong với đám bạn bụi đời, và làm tất cả các nghề, bán báo, đánh giày, khuân vác ở bến tàu, đạp xích-lô và sau cùng khi “giải phóng” về thì hắn ta đang làm nghề dẫn mối và bảo vệ các cô gái ăn sương.

Lẽ dĩ nhiên trong cuộc đời gian truân ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, Lý dã có dịp vào tù ra khám với những tội lặt vặt như đánh lộn hay bài bạc. Chưa đầy hai mươi tuổi mà Lý đã nhìn đời với cặp mắt chán chường, đời đã dạy cho Lý những bài học chua cay. Hắn ta thù đời vì đời nhiều bất công, nhưng khi Miền Nam bị chiếm đóng, thì Lý lại đâm ra ghét bọn người mới đến cầm quyền. Trong một buổi say sưa, Lý đánh lại một tên bộ đội khi tên này định lên mặt trong một quán rượu. Và Lý bị bắt nhốt tại trại giam Mỹ Tho một tháng sau ngày 30 tháng 4. Lý được đưa tới trại Mỹ Phước Tây chỉ vài ngày trước khi tôi đến.

Sau này tôi được biết rằng Lý gợi chuyện với tôi và chia bánh tét cho tôi vì hôm đó tôi ăn mặc bộ đồ cũ mèm để khỏi bị để ý khi vượt biên. Khi biết được rõ chuyện tôi là giảng viên đại học, Lý ngỡ ngàng, nhưng có lẽ đã rõ tính tình tôi nên hắn đâm ra mến tôi và từ đó chúng tôi thân thiết với nhau hơn nữa.

“Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, thời gian dài lê thê. Chúng tôi ăn uống cực khổ, làm việc như những con vật và bị bạc đãi, đánh đập khi vi phạm kỷ luật., nhưng sao vẫn sống. Con người sinh ra để ham sống, dầu hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Nhưng sự cô đơn làm cho con người mau bi quan và chán nản. Từ khi có bạn, cuộc đời tôi như bớt phần tủi cực. Trên con đường dài hun hút, dầu miệng đắng lưỡi khô, chúng tôi kể nhau nghe những mẩu chuyện vui và cười lên như trẻ con. Nỗi nhớ nhà cũng phôi pha và cuộc đời có ý nghĩa hơn. Thời gian sau nầy, khẩu phần chúng tôi từ 12 kí gạo một tháng bị giảm xuống còn có 9 kí, và phần canh cũng chỉ còn có ít cọng rau hay một chút bí rợ với nước muối. Lý rất lanh lợi và trên đường đi công tác, luôn luôn tìm ra rau muống hoặc rau mồng tơi về nấu ăn dậm cho đỡ đói. Lý cũng khá khoẻ, nên hay tìm vác củi khô về để nấu nước uống, vì nước ở đây rất độc, uống nước sống dễ bị thổ tã. Từ hồi vào trại tôi đã thấy nhiều người bệnh bị đưa ra nằm ngoài “vườn mì” nghĩa là nghĩa địa gần chỗ trồng mì.

Lý lo phần ăn uống, tôi thì dở nên đành chịu lép, cũng may có tài vá quần áo nên cũng được nhờ. Khi nào rảnh tôi hay vá quần áo cho tôi và lL, chả lẽ mình không xài vào được việc gì sao. Nghĩ lại cũng vui vui.

«Đội» chúng tôi được 50 người, hôm nọ được chỉ định đi cắt lúa. Ở đây trồng lúa xạ, vì nước ngập rẩt cao. chỉ có loại lúa này theo nước nên mọc được . Lúa xạ thưa và ít hột, nên cắt lúa rất mệt mà khó đạt chỉ tiêu, nghĩa là phần công tác được giao, khoảng một ôm lớn chừng một thước rưỡi bề vòng. Cắt lúa hay bị đứt tay vì lá lúa bén mà tôi không quen, nên Lý hay giúp đỡ tôi. Trong những dịp đó, tôi lại thấy quê hương mình đẹp làm sao, trên đồng lúa vàng lố nhố vài chiếc nón lá thật hữu duyên.

Thật ra lúc sau này, chúng tôi làm công tác cho cán bộ, vì họ đề cao chế độ vô sản, nhưng họ lại muốn có gia sản riêng, xe cộ hoặc đất đai, ruộng vườn.

Chánh quyền Hà Nội chủ xướng việc đấu tranh giai cấp, nhưng chính giới lãnh đạo lại làm nảy sinh ra một giai cấp thống trị chuyên chế, sống phè phởn trên đa số dân vô sản. Chính tôi cũng đã phản đối sự bất công trong xã hội cũ, những tưởng chánh quyền Cộng Sản sẽ đem lại cho dân chúng sự no ấm. Nếu như giới lãnh đạo đòi hỏi dân chúng “hy sinh” thì lẽ ra chính họ phải làm gương bằng cách tự nghiêm khắc với họ. Đằng này sự tham nhũng càng lan tràn, càng lộ liễu, và càng sâu rộng hơn. “Đừng nghe những gì họ nói mà phải nhìn những gì họ làm”, thật đúng thay.

Nói về chuyện ăn uống mà không nói về chuyện cầu xí thì thật là thiếu sót. Mà nói thì lại kỳ quá. Nhưng sự thật là trong trại chúng tôi có một ao cá tra thật lớn, trên làm cầu và dưới thả bèo nuôi cá, thật là nhất cử lưỡng tiện. Đi tiểu tiện cũng có giờ giấc, bởi vì bọn tù chỉ được phép đi ra áo cá tra buổi sáng từ 4 giờ tới 5 giờ, và buổi chiều từ 6 giờ. Ngoài giờ đó, cửa cầu đóng kín: ao cá được rào kẽm gai cẩn thận. Họ sợ bọn tù lén bắt cá để ăn.

Thật ra, “đi” cách này rất thích thú khi có gió mát nhưng khi mùa mưa tới, nước ngập tràn lan và nước trong ao bắt đầu mặn thì công việc nuôi cá phải đình chỉ lại. Bọn chúng tôi phải lặn hụp trong đầm lục bình dơ bẩn để lưới tất cả đám cá tra ở trong ao. Tôi thực hành công tác một cách thản nhiên. Nghĩ rằng tới bước đường cùng này, còn gì mà giữ gìn nữa. Với tâm trí thảnh thơi như vậy, mà khi đối diện với…thực tế tôi phải rùng mình. Nhớ lại có lúc phải gánh phân đi tưới cải, tôi cảm thấy mắt mình hơi cay cay. Từ đó tôi sợ phải ăn cá và sợ luôn cả ăn cải. Thế nhưng không ăn lấy gì mà sống.

Hết mùa nuôi cá, nhưng vì vấn đề vệ sinh vẫn tiếp tục nên trưởng trại ra lệnh chúng tôi đào những hố thật to, bắt ngang đó những miếng ván gập ghềnh. Vậy là xong những hầm cầu dã chiến. Từ đây, mỗi lần đi vệ sinh là một cực hình đối với tôi. Đây là cách nhắc nhở bọn tù chúng tôi là nhân phẩm chúng tôi không còn gì nữa cả.

Nếu họ đánh đập và chưởi mắng chúng tôi thì chúng tôi cũng buồn có một, mà bắt buộc chúng tôi sống như những con thú vật, thì chúng tôi buồn cho thân phận chúng tôi gấp mười. gâp trăm lần. Thêm vào đó sự tủi nhục được tái diễn hằng ngày qua những giờ điểm danh. Nếu điểm danh ngoài sân cỏ thì còn đỡ vì chúng tôi đứng có hàng có lối như quân đội, có đội trưởng báo cáo số hiện diện và cán bộ đếm lại kiểm soát. Còn điểm danh trong phòng khi trời mưa thì phải ngồi lom khom như con chó. Gặp phải cán bộ dữ dằn thì phải nhận thêm vài cây gậy khi ngồi không ngay hàng thẳng lối. Lạ thay, lúc ấy mọi việc đối với tôi rất thường: một khi mình chấp nhận thì mọi sự phũ phàng không có chỗ bám víu: tôi vẫn là tôi và họ không làm gì được tôi. Lý và tôi thường kể nhau nghe về chuyện gia đình, vì chúng tôi xa gia đình quá lâu mà không tin tức, không gặp mặt, không một hy vọng được một ngày thả tự do. Chúng tôi bị làm “giấy lý lịch” năm, bảy lần, nhưng tội trạng thì không thấy đem ra xét xử. Thật ra có ngườ bị bắt mà không có tội rõ rệt, nếu họ phải đem ra toà án nhân dân mà không có tội gỉ để gán thì cũng khó xử họ.

Rồi ngày qua ngày, Tết lại gần đến. Ngoài con số các bạn bị bệnh thổ tả, tiêu chảy hay sốt rét lần hồi đi ra nằm ngoài vườn mì, một số khác bị đạp mìn trên nông trường, có người cụt giò, có người bỏ mạng. Còn chúng tôi vẫn lây lất sống trong nạn đói thường xuyên. Có người bắt chuột để ăn, hoặc luộc rong rêu làm canh ăn đỡ đói. Đa số chúng tôi xanh như tàu lá, có người bị bệnh thủng, xem tướng tá thì tưởng là mập, mà khi đụng ngón tay sờ vào người thì dấu tay in rõ ràng trên da thịt

Chúng tôi thèm một miêng mắm ruổc xào thịt, chúng tôi thèm một miếng bánh bông lan. Đối với tôi hạnh phúc đó đã quá tầm tay chúng tôi rồi. Phải thâý một đám tù gầy còm bươi móc trong đống rác để tìm một củ mì thúi, một chút khoai sùng, mới thấy thấm thía câu «lấy tình thương xoá bỏ hận thù”của Phạm Văn Đồng và Tôn Đức Thắng. Theo thiển ý của tôi thì cụ Hồ là người nhân ái, trót lỡ theo chủ nghĩa vô thần, nhưng chắc cũng là người thương dân. Nếu cụ còn sống thì “có lẽ” không có cảnh này. Hay là rốt cuộc bọn họ cũng như nhau: chủ nghĩa và nguyên lý của đảng bắt buộc họ phải hành động như vậy?

Bỗng dưng vài tuần trước Tết, chúng tôi được thông báo rằng “thể theo chánh sách khoan hồng của nhà nước” năm nay chúng tôi được biên thư về cho gia đình để báo rằng ngày 30 Tết chúng tôi được gặp mặt người nhà, và có thể mỗi người được nhận một gói quà. Tin tức chuyền nhanh trong trại. Lần đầu tiên một niềm vui đến vói chúng tôi.

Chúng tôi được nhận mỗi người một tờ giấy và một cây viết Bic được đưa chuyền nhau để viết thư. Phải làm thật nhanh vì cả đội mà chỉ có 2 cây viết. Từ khi “giải phóng” xong thì giấy và viết trở thành “tư liệu” của Bộ Quốc Phòng nhà nước, nên họ “quản lý” chặt chẽ, kẻo bọn phản động chúng tôi có thể dùng đó để để “liên lạc phản cách mạng”. Thật buồn cười cho bọn ngu dốt mà lại thích dùng chữ hay. Dân Miền Nam ghét nhất cách họ dùng chữ thật kêu để chỉ định những gì tầm thường nhất. Tóm lại, chúng tôi “tranh thủ” để “hoàn thành công tác”… viết thư trong buổi sáng.

Tôi nhắn má tôi lên thăm, nói rằng “chúng tôi vẫn mạnh khoẻ” và đang ở đây rất “thoải mái” và “đang học tập tốt để sớm trở về đoàn tụ gia đình”. Tôi xin má tôi đem cho tôi một bộ bà ba đen, một hũ mắm ruốc và ít cục kẹp vì nghe thèm ngọt.

Lý định trả giấy viết, vì không muốn biên thư cho gia đình để xin xỏ. Tánh nó là như vậy, không ưa nịnh hót hay xin xỏ ai , cả gia đình hắn mà hắn đã bỏ từ lâu. Tôi dằng lấy giấy viết và cằn nhằn Lý:

- Sao bồ kỳ quá vậy ? Nghe lời tôi dùm một lần coi. Hay là để tôi biên cho. Thiệt là cứng đầu. Bồ biết không, tôi nghĩ rằng thế nào gia đình bồ cũng mừng khi được tin bồ vẫn mạnh khoẻ. Sẵn đó xin luôn ít cái quần mà bận, riết rồi coi như ăn mày, mang chài mang lưới vậy mà chịu sao? Với lại, bồ hứa sẽ giới thiệu em gái bồ cho tui mà. Bồ cứ hẹn giờ thăm cùng lúc với má và chị tôi thì tôi sẽ chỉ má tôi và chị tôi cho bồ xem. Không nghe lời thì đừng thèm nói chuyện với tôi nữa.

Sau khi làm trận làm thượng với Lý, nói qua nói lại, nói trả nói treo, nói bóng nói gió, rốt cuộc Lý bực mình quá bèn chịu thua và biên ít hàng về cho má hắn.

Tôi cảm thấy vui vui vì đã làm cho Lý nghe lời tôi. Đây là bằng chứng của mối cảm tình nó dành cho tôi. Tên bụi-đời-không-thuốc-chữa như nó, chưa biết nghe ai, chưa biết sợ ai, nay rất nghe lời tôi, và rất sợ tôi giận. Vì tôi giận dai lắm.


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 16th June 2025 - 12:59 PM