Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 99 Khoảnh Khắc Đời Người - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> 99 Khoảnh Khắc Đời Người, Dịch giả: Nguyễn An
BichDu
post Sep 26 2011, 04:53 PM
Post #1


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country







99 Khoảnh Khắc Đời Người

ZHANG ZI WEN
(Trương Tự Văn)

I- Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi

Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng?
Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại.
Đối với tương lai, nếu như chỉ xét về thời gian, cũng dễ dàng lý giải: phàm thời gian không có trong quá khứ mà lúc này lại không có mặt đều có thể gọi nó là tương lai. Song sinh mệnh của tôi trong thời gian tương lai đặt vào những nội dung gì, tôi cũng không biết nữa. Nếu như suy luận theo logic, có thể nói, tôi có tương lai. Nhưng đây chỉ là một khái niệm chưa được nghiệm chứng mà thôi. Sự thật trước mắt là, đối với thời gian lúc này không có mặt và nội dung không biết, đều không thể coi là cái hiện tại tôi có.
Duy chỉ có khoảnh khắc lúc này thuộc sở hữu của tôi. Duy chỉ có khoảnh khắc này, sinh mệnh của tôi mới có đầy ý nghĩa thực tại. Sinh mệnh chỉ có thể sống tại khoảnh khắc lúc này, không thể sống trong quá khứ, cũng không thể sống ở tương lai.
Khoảnh khắc thời gian là một cái gì đây? Nó vừa không thuộc quá khứ, trái lại lại không ngừng trở thành quá khứ; vừa không thuộc về tương lai nhưng lại không ngừng đón nhận tương lai. Nó vừa là một giới hạn có thể chia cắt vô hạn giống như một điểm không có chiều dài; lại là một giới hạn có thể kéo dài đến vô hạn, 38 năm có thể tính là một khoảnh khắc, trong sinh mệnh vũ trụ, toàn bộ thời gian loài người tồn tại cũng có thể xem là một khoảnh khắc. Từ đó đủ thấy khoảnh khắc chốc lát là thời gian không thể tưởng tượng được. Mà cái tôi có, chỉ có thể là khoảnh khắc thời gian, như thế tôi là một tồn tại không thể tượng tượng nổi?
Khi tôi nhảy khỏi vũng bùn của quan niệm thời gian kiểu máy móc, vứt bỏ những ngụy biện như đúng mà là sai, nhận thức được tính vô cùng sinh động của tồn tại sinh mệnh, tôi mới sáng tỏ trong lòng.

Tôi là sinh mệnh sinh động nhất trong vũ trụ, trên đường trục thời gian là một quá trình sống và trưởng thành từ đầu đến cuối luôn luôn mở rộng. Tôi vừa nhận thức được những việc phát sinh trong quá khứ không thể trở thành cái mà hiện tại tôi có, lại đem quá khứ xem là sự mở đầu của quá trình sinh mệnh, từ đó trân trọng giá trị đặt nền móng khởi nguồn của nó trong lịch trình của sinh mệnh. Hơn nữa, khi nghĩ lại đặc trưng tính toàn cục của sinh mệnh, tôi phát hiện ra “quá khứ” của tôi cũng quyết định hiện tại của tôi - tôi luôn luôn ở trạng thái trôi đi, hiện tại chẳng mấy chốc đã hóa thành quá khứ, như thế “quá khứ của tôi có thể có ý nghĩa gì cũng sẽ quyết định bởi việc làm hiện tại của tôi. Cũng chính là, tôi luôn luôn không ngừng viết nên lịch sử của mình, sự việc hôm nay đến ngày mai sẽ trở thành việc của quá khứ, muốn cho mọi việc của tôi ngày hôm qua có giá trị thì phi làm sao mỗi một sự việc của tôi hôm nay đều có giá trị.
Tương lai luôn đang mở rộng ở hiện tại, bởi vì hiện tại tôi đang luôn trù tính tưng lai, mỗi một ý nghĩa hiện tại mà tôi tạo nên cũng chính là trải ra và tích tụ cho tương lai.
Như thế, đặt mỗi một khoảnh khắc lúc này vào trong thời gian dài đằng đẵng của tính toàn cục, để cho nó vừa thể hiện quá khứ lại hiện rõ ra tưng lai, khoảnh khắc lúc này không còn là sự tồn tại trống rỗng không thể tưởng tượng được nữa, nó đã trở thành cái thực có đầy đủ nhất nối quá khứ với tương lai của tôi.
Chỉ có lúc này mới có thể nói: tôi đã có khoảnh khắc thời gian. Tôi đã nắm chắc được số phận của mình.
Với tư cách cá thể, tôi được khêu gợi từ quan niệm lịch sử của Gan đi, sinh mệnh là sự tồn tại lấy trần thế làm cơ sở dựa vào trật tự xã hội, cho nên tôi không theo đuổi mức độ tinh thần đến tột độ không ăn uống những thứ ở nhân gian - Tôi không thể vứt bỏ được ăn mặc, ở và đi lại của thế tục. Tôi hoàn toàn có thể đi theo trào lưu “đi xuống biển”. Nhưng tôi cũng có thể tiếp nhận chính những hấp dẫn của sáng tạo văn hóa. Trên thực tế, tôi đang vui sướng xiết bao trong màng lưới văn hóa tự tạo tự kiềm chế. Tôi hiểu sâu sắc rằng một khi tách rời màng lưới văn hóa sẽ có thể thật sự chỉ có hai bàn tay trắng.
Từ trong văn hóa Bandu tôi nhận được, vận động phát sinh vào thời điểm chỉ định và địa điểm chỉ định là thực thể có một không hai. Trong không gian và thời gian vô hạn, tôi không phải chính là một thực thể độc lập như vậy ư? Mặc dù nhỏ bé, nhưng sao lại cản trở sáng tạo văn hóa đặc biệt của tôi? Sinh mệnh của tôi đã diễn biến thành loại sáng tạo văn hóa đặc biệt này, tôi với tư cách là một vật thể mang vật chất văn hóa, thời gian sinh tồn có hạn; còn tôi với sinh mệnh mang tinh thần văn hóa thì sẽ cùng tồn tại với thời gian mãi hàng nghìn năm sau.
Tôi từ trong quan niệm thời gian của vĩ nhân “đều đã qua rồi, được coi là nhân vật phong lưu phải xem hiện tại”, “một vạn năm quá lâu, chỉ tranh giành phút chốc” được tỉnh ngộ triệt để cuối cùng, đã phát hiện sinh mệnh của tôi, bản thể tinh thần của tôi sẽ ở mỗi một khoảnh khắc trên đường sinh mệnh của tôi!

Một đời tôi chẳng qua là dòng thời gian do từng khoảnh khắc tạo nên, sự tồn tại của các khoảnh khắc thời gian khác nhau đã tạo nên toàn bộ sự tồn tại của tôi.
Tôi cho là hoàn toàn không có khả năng nhận thức tính tất yếu của vận động sinh mệnh của mình từng ý nghĩa triết học - Con người không thể nhận thức một cách vô cùng vô tận đối với vận mệnh của mình mà người ta chỉ có thể chịu sự chi phối của tính tất nhiên, con người nhiều lắm chỉ có thể không ngừng nhận thức tính tất nhiên mà thôi.
Nhưng, tôi hoàn toàn có thể nắm chắc mỗi một khoảnh khắc mà bản thân mình sắp sửa gặp một cách tự giác, đối với mỗi khoảnh khắc có một sự trù tính sáng suốt tự giác, đây sẽ là sự trù tính của tôi đối với vận mệnh. Đây chính là điều mà mọi người nói bám chặt thần của số phận.

II- Số phận ném tôi vào một nơi hoàn toàn xa lạ. Trước sự chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi chọn số phận thuộc về tôi

Có một ngày tỉnh lại, tôi đột nhiên phát hiện mình đang sống trong một thế giới gặp được vận may. Tôi đang đứng trước ngàn vạn nẻo đường, tung hoành ngang dọc, thành bại được mất, cũ mới lẫn lộn.
Mật mã của số phận ở đâu?
Tôi hỏi ông trời, trời không trả lời. Tôi lại hỏi đến đất, đất cứ lặng thinh.
Trước chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi lại chẳng biết đâu mà lần nữa, tôi không biết chúng mỗi cái có kết cục ra sao. Huống hồ, cơ may, hoàn cảnh tôi đều không tự chủ để chọn lựa được. Số phận hoặc cần tôi phải chịu đựng thử thách của gió Tây Bắc trên cao nguyên hoàng thổ, cũng có thể để cho tôi bay qua Thái Bình Dưng đến đất khách quê người để mạ vàng, sau đó áo gấm trở về. Một khoảnh khắc trôi qua, một sai lầm nẩy sinh trong khoảnh khắc, tôi không biết tôi sẽ trở thành một con người tôi như thế nào nữa.
Từ nay nghĩ lại quá khứ làm tôi kích động mãi là tôi cuối cùng trong vùng hoang dã mênh mông không ranh giới, từ trong sốt ruột và gắng gượng đến tột độ, đã tìm thấy một niềm tin kiên cường: bất kể thế giới phức tạp lộn xộn bao nhiêu, bất kể đời người đứng trước sự lựa chọn bao nhiêu, sẽ phi chịu đựng bao nhiêu trắc trở và dằn vặt, tóm lại là thế giới mênh mông không có bất cứ cái gì có thể vượt qua vô trật tự mà đạt tới có trật tự, vượt qua quá trình mà chiếm ngay kết qu được. Đời người cũng chỉ có thể
như vậy.
Như thế, tôi chỉ có thể bắt đầu thiết kế đối với số mệnh từ trong gắng gượng vô trật tự, từ trong “khả năng” vô cùng đa dạng, từ trong vô số những cái “có lẽ” tìm ra được một manh mối đạt được có trật tự.
1. Trù tính cơ bản: tôi cảm thấy được tôi là ai.
Muốn trả lời “tôi là ai” đương nhiên là rất khó khăn, mà muốn trù tính số phận của tôi, điều trước tiên gặp phải lại là vấn đề của “tôi là ai”.
Trong văn hiến kinh điển “áo nghĩa thư” của ấn Độ từ 600 năm trước công nguyên, đã đem cái “tự ngã” xem thành hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, khi nó khảo sát tự ngã với quan hệ nguồn gốc tạo thành thế giới liền nêu lên hai câu hỏi tự nhiên vĩnh hằng là “tôi là ai”, “tôi trong thế giới này nằm ở vị trí nào”. Từ nền văn minh ban đầu cổ Hy Lạp, Bamennid, Socrates, Plato của miền bãi biển Aisin, Lão Đam, Trang Chu của hai bên bờ sông Hoàng Hà, đến “Kinh Phệ Đà” của bên bờ ấn Độ dưng, “Thánh kinh” của môn đồ Cơ đốc giáo, bước đến nền văn hóa phục hưng và cách mạng công nghiệp cận đại kích động lòng người, thẳng tới Carxin, Heidegger, Sartre của phưng Tây hiện đại câu trả lời “Tôi là ai” vờn bay đầy trời, làm cho người ta rối mắt. Nhìn thấu sự biến ảo rối ren của nó, bất kể những nhà hiền triết thuộc dạng nào đều không vượt quá giới hạn nhất định như sau - Tôi là một động vật của văn hóa, tôi sáng tạo ra văn hóa và tự tuân theo văn hóa, sự vui vẻ và lo âu của tôi đều nằm trong mạng lưới văn hóa, đồng thời không thể xông ra khỏi ngoài mạng lưới để tự do tự tại.
Đây là kết luận của số phận, đây là kết luận của lịch sử.
Lịch sử đã từng chế giễu rất nhiều người muốn xông ra khỏi mạng lưới văn hóa để tự do tự tại, bao gồm cả vô số những anh hùng văn hóa. Hầu như đồng thời, học phái Sdorger của phưng Tây và Lý Nhĩ, Trang Chu của phưng Đông đều vắt óc nghĩ thầm thoát khỏi mạng lưới văn hóa để đồng nhất với tự nhiên trời đất, hưởng thụ tự do và yên tĩnh. Học phái Sdorger đem “thuận theo tự do để sống” làm hành vi lưng thiện chân chính, Lão Trang thì có tiếng là “vô vi vô tri” có thể “dốc sức vì đạo đến cực độ, một lòng một dạ tuân theo, mọi vật song song tiến hành mình phi tự quan sát nhiều lần”. Trên thực tế như thế nào? Không chỉ sự phát triển của lịch sử hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng của họ, họ trước sau đều không thể phá nổi mạng lưới văn hóa, mà Chinor, Lão Trang bản thân đã là một bộ phận của thủy tổ nền văn hóa của nhân loại đã trở thành một mắt xích trên mạng lưới văn hóa. ý chí tâm lý của Chinor, Kleiande một chút cũng không thể tự do nhẹ nhõm, họ đem toàn bộ luân lý đều buộc lên vai Thượng đế và số phận, cho rằng về luân lý, yêu cầu cao nhất đối với con người chính là phục tùng Thượng đế và số phận: “Dù là nghi ngờ làm tôi lạc hậu hoặc không tình nguyện, nhưng tôi cũng nhất định vĩnh viễn theo đuổi Ngưi (Ngưi tức Thượng đế, số phận)”. Vốn muốn thoát khỏi mạng lưới văn hóa, không ngờ sau khi đi vòng quanh một cái vòng lớn vẫn bị tự mình chui vào trong mạng lưới văn hóa chặt chẽ hn. Lão Trang cũng thế, vốn muốn thông qua “đạo vô vi” xung phá sự ràng buộc của văn hóa để trở về với hoài bão của tự nhiên, lại trước sau chịu sự cám dỗ sâu sắc của tinh thần vĩnh hằng siêu nghiệm, bị tự mình nhốt khóa trong “cửa nhiều điều kỳ diệu” “nhìn không thấy”, “nghe không biết”, “huyền bí thêm huyền bí”. Từ đó có thể thấy mặc dù họ có suy nghĩ phân biệt sâu sắc và chí hướng cao xa như thế nào, về phưng diện thoát ra khỏi mạng lưới văn hóa vẫn hoàn toàn tốn công vô ích. Giống như Tôn Đại thánh, mặc dù nhào lộn một cái đã đi được mười vạn tám ngàn dặm lại vẫn không thể vượt qua được lòng bàn tay của đức Phật Như Lai.
Về sau tất c những người hòng thoát khỏi ràng buộc, ẩn mình trong đào nguyên hoặc ẩn tích trong núi sâu rừng thẳm hoặc say đắm trước bình rượu dưới trăng để được tự do tự tại đều là những kẻ thất bại, họ nhiều lắm cũng chỉ tìm được cái thắng lợi tinh thần nhất thời mà tạm thời tự say sưa một phen biểu lộ: “Dựng lều ở chốn nhân gian, mà không có tiếng ngựa xe ồn ào”, “Hỏi bạn vì sao có thể như thế, lòng tự xa cách đất, người”, trong ý thức sâu kín rõ ràng là “đất này không có bạc ba trăm lạng”. “Rừng sâu người không biết, có trăng sáng lại soi”. Chẳng qua là nỗi thưng cm đặc biệt đối với người ta, không biết và thân thiết hướng về đối với người có thể biết ta. Có thể vứt bỏ “chuông trống cỗ ngon” và “ngựa đẹp áo sang”, nhưng vẫn cố chấp truy hỏi đời mình có đắc ý hay không, trời sinh ra thân tôi liệu có ích hay không, nếu như không cố chấp như thế, làm sao có thể “nhưng muốn say lâu không muốn tỉnh?” Đâu có “vạn cổ sầu” nữa?
Tôi căn bn không có cách nào chạy trốn, chỉ có thể đứng im trong mạng lưới văn hóa. Tự do chân chính của tôi cũng chỉ có thể là tự do trong mạng lưới văn hóa. Còn như trong mạng lưới văn hóa tôi có thể giành được tự do ở mức độ nào, ở ngày nay vẫn là vấn đề kinh tế, liên quan với chính trị rất ít. Trong lĩnh vực chính trị, tự do thường thường sa ngã thành công cụ của một số người có dã tâm, họ mang theo chiêu bài tự do, thậm chí lấy tự do làm lời hứa hẹn, mê hoặc dân chúng dẹp loạn một trật tự nào đó để đoạt lấy quyền lực cá nhân, đến khi mục đích dã tâm đạt được, để giữ sự thống trị của cá nhân ấy, tất nhiên có thể ngay lập tức xây dựng nên trật tự khác, chẳng bao giờ có thể cho dân chúng mà lúc ban đầu họ kích động và từng hứa hẹn có tự do chân chính, tự do c đến dân chúng chỉ làm công cụ để họ đoạt quyền. Xã hội loài người phát triển đến ngày nay, tự do về thực chất vẫn là một khái niệm kinh tế. Xã hội có trình độ sức sn xuất đến mức độ nào thì có tự do ở mức độ đó. Tự do của tôi vĩnh viễn có liên hệ với hoàn cnh kinh tế cụ thể tồn tại của tôi. Trình độ sức sn xuất càng cao, kinh tế càng phát đạt, tự do của tôi mới có thể càng nhiều. Trái lại, trình độ sức sn xuất càng thấp thì tự do càng ít. Mỗi một xã hội đều chỉ có thể đạt được tự do ở trình độ tưng ứng với mức độ sức sn xuất của nó, bất cứ ai cũng không có cách gì vượt hn trình độ này. Bất cứ hành vi nào vứt bỏ hoàn cnh sinh tồn cụ thể đều có thể làm cho tự do chỉ là lời nói suông mà chẳng có chút giá trị nào. Các nhà triết học xem điều này là quy luật tự nhiên hoặc tính tất nhiên. Spinoza trong “Luân lý học”đem tự do diễn đạt thành nhận thức đối với tất nhiên, tự do không phi là thoát khỏi tính tất nhiên mà là nhận thức tính tất nhiên. Heygel trong “Triết học lịch sử” thì lại càng tiến hành kho sát lịch sử cụ thể đối với tự do một cách sâu sắc hn, lần đầu tiên đem thực tiễn dẫn vào khái niệm tự do, cho rằng tự do là dưới tiền đề nhận thức tính tất nhiên thực hiện sự thống nhất cụ thể của chủ thể và
khách thể.

Về phưng diện nhận thức đối với tự do, Mao Trạch Đông dùng phưng thức ngôn ngữ Hán học điển hình đưa ra diễn đạt hoàn chỉnh nhất, Ông cho rằng tự do là nhận thức đối với tính tất nhiên và ci tạo đối với thế giới khách quan. Giữa nhận thức và ci tạo dùng chữ “Và” đề nối liền lại, vừa có thể thừa nhận là hai cái kế tiếp trước sau - nhận thức tất nhiên ở trước, ci tạo khách quan ở sau, giống như sự thể hiện của Mao Trạch Đông từ lâu về bước đi của đời sống tinh thần: trước tiên có nhận thức, sau mới có tin theo, cuối cùng mới có thể thực hiện trên hành động, đối với tính tất nhiên có nhận thức ở trình độ nào mới có ci tạo khách quan đạt được tự do ở trình độ đó; lại có thể đem c hai cái hiểu là đồng thời - nhận thức tất nhiên, ci tạo thế giới chủ quan đồng thời với ci tạo thế giới khách quan (cũng giống như ci tạo thế giới khách quan đồng thời với ci tạo thế giới chủ quan). Hạt nhân của quan điểm tự do của Mao Trạch Đông là: bất kể nhận thức tất nhiên hay là ci tạo khách quan đều lấy cái “tôi” làm chủ thể, tôi ở đây giành được tự do thực tại nhất mà lại biện chứng nhất. Xuất phát từ loại quan niệm tự do thời gian không gian biện chứng này, Mao Trạch Đông xem quá trình phát triển của lịch sử từ vưng quốc tất nhiên sang Vưng quốc tự do, đây là một quan điểm lịch sử tự do vĩnh viễn mở rộng, ông không dùng “thực hiện tự do” làm điểm cực cuối cùng, mà là tự giác nắm chắc tính vô hạn phát triển lịch sử, đem tự do xem là một quá trình phát triển vô hạn: quá trình vận động từ tất nhiên đến tự do.
Nhìn thấu rõ tự do như thế, tôi mới có thể vượt qua hỗn loạn tạp nham, trong mạng lưới văn hóa mới thật sự tìm được phần số phận vốn thuộc về tôi. Mặc dù tôi vẫn không thể tr lời chuẩn xác được trong mạng lưới văn hóa tôi là ai, cũng không thể nhận thức vô tận đối với số phận của tôi, nhưng tôi hoàn toàn có thể ở ni đây - trong quá trình sáng tạo văn hóa của chính tôi cm thấy một cách chân thực tôi là ai. Khonh khắc mà tôi cm thấy tôi là ai, trước tiên tôi giành được sự tỉnh ngộ của lưng tâm và sự bình yên của linh hồn. Bất kể xung quanh hỗn loạn như thế nào, bất kể tiếng ồn xung quanh bốn phía ầm ĩ đến đâu, tôi trước sau đều vững tin vào cm giác của chính tôi - đành là tôi phi sống một cách chân thực, tôi sẽ không thể không hoàn toàn nhấn mạnh cm giác này của mình.

Cứ lấy việc “đi xuống biển”, mốt đang được tôn sùng nhất của nhiều người trong c nước hiện nay để bàn. Trong tình hình hệ thống thị trường của xã hội chưa giành được sự thống nhất hài hòa với hệ thống văn hóa, đang tồn tại sự phân phối không đồng đều, c chế cạnh tranh không hoàn thiện, tôi cm thấy tôi nên dựa vào hệ thống thị trường của xã hội, thế là tôi sẽ vui vẻ đi :”xuống biển”. Tôi cm thấy tôi vẫn phi vững vàng tiến theo hệ thống văn hóa của xã hội, do đó tôi sẽ vui vẻ như trước đây làm công việc sáng tạo của tôi. Như vậy, hoặc là có may mắn để hạ cố đến tôi hoặc thất bại cũng không luyến tiếc lắm, tôi hiểu rõ đây chính là số phận của tôi. Số phận có thể sắp đặt tôi bắt đầu lại một lần, hai lần. Người đen đủi nhất chính là những người không tìm thấy cm giác tốt đẹp của mình. Hâm mộ đi xuống biển lại không dám xuống biển, không đi xuống biển lại luôn luôn nghĩ phi đi xuống biển, đã đi xuống biển lại cm thấy mất một số cái gì đó đâm ra hi luyến tiếc. Đây chính là vì đời người rất không tự do. Anh ta có thể đứng trước c may đã bỏ lỡ lại bỏ lỡ lại, số phận cũng luôn trói buộc anh ta. Xét đến điều căn bn của nó là ở chỗ anh ta không thể cm thấy một cách chân chính anh ta là ai, anh ta để cho mỗi một khonh khắc của sinh mệnh của mình đều trôi đi uổng phí trong do dự và lưỡng lự. Mắt đang nhìn mình từ thiếu niên đến trung niên, chẳng mấy chốc lại từ trung niên đến những năm xế chiều, một đời chỉ có tự than thở trống không.
Tôi quyết không thể như thế. Bắt đầu từ bây giờ tôi sẽ phi có một trù tính c bn đối với số phận của mình, xây dựng nên cm giác chân thực của mình, tìm thấy vị trí nên thuộc về mình.
Xin đừng lo lắng tôi có thể vì cm giác dâng cao mà trượt vào thuyết duy tâm. Cm giác của tôi luôn là cm giác đối với tồn tại, bao gồm cm giác đã có, hiện có và sẽ có. Sẽ có là sự tồn tại của gi tưởng, bao gồm tồn tại tưng lai có thể thực hiện và “tồn tại” tưng lai không thể thực hiện. Cái trước là một loại lý tưởng, cái sau là o tưởng, ý tưởng điên rồ. Nhưng ý tưởng điên rồ của hiện tại - trong cm giác đối với “tồn tại” mà hiện tại cho rằng tưng lai không thể thực hiện thường thường đang ẩn chứa tính sáng tạo, vận may của tôi chưa biết chừng chính sẽ tại chỗ đó.
Cm giác đối với chưa có và sẽ có sẽ là trực quan (ở đây, đối tượng của trực quan chỉ có tính không gian mà không có tính thời gian), năng lực của trực giác là tiền đề sinh ra tư duy mang tính sáng tạo trong kết qu của tư duy có tính sáng tạo, bộ phận có giá trị lý tính có thể chính là khoa học. Thiết kế có tính chất sáng tạo đời người đồng thời làm cho nó có giá trị lý tính là thiết kế cuộc đời của những người mạnh, người thắng lợi, trong đó tràn ngập trí tuệ nhân sinh rộng lớn. Tôi muốn tự giác giành được vận may thì không thể thiếu trí tuệ này.
Trong chặng đường dài từ cm giác đến khoa học, tồn tại là tính có trước, còn khoa học có giá trị thực tế nhất đối với loài người. Triết học duy tâm thì cắt đi phần đầu (tồn tại) mà bắt đầu từ cm giác cũng cắt đi phần đuôi (khoa học) chỉ nhấn mạnh ở giai đoạn trực giác và tư duy. Triết học sinh mệnh, chủ nghĩa trực quan của Baigeson cũng là dừng lại ở đây, lấy trực quan là trên hết, lấy “tự do tinh thần của khách quan” là trên hết. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chú trọng toàn bộ quá trình của sinh mệnh, vừa truy hỏi lý do tồn tại cm giác, cũng truy hỏi kết qu của trực giác và sau tư duy. Tôi kiên trì nắm ở chỗ này quyết không đem mình đặt vào trong một thế giới cm giác trống rỗng một cách cô lập.

Song, đối ứng với thời gian vật lý, trên thực tế tôi chủ yếu sống trong thời gian cm giác, trong thời gian cm giác trôi qua đi tôi thể hiện cm nhận sự tồn tại và vận động của sinh mệnh, việc này trở thành hạt nhân tinh thần mà tôi theo đuổi. Làm thế nào để trong quá trình lâu dài của thời gian cm giác, dùng trạng thái tâm lý siêu việt nhìn thẳng vào giá trị đời người, đây là một trong những vấn đề khó lớn nhất của đời người bày ra trước mắt tôi, tôi dù một khonh khắc đều không có cách nào lẩn tránh nó, tôi cũng không thể trốn tránh nó.
Thế là đối với số phận, tôi bắt đầu trù tính cụ thể thực tế hơn.
2. Quá trình và mục tiêu trù tính: tôi sống trong “lưỡng thê"
Tôi sống trong “lưỡng thê” với ý nghĩa đau khổ và vui vẻ. Tôi là đau khổ, số mệnh tôi nhất định phi tiếp nhận khổ nạn. Tôi đồng thời lại vui vẻ, tôi theo đuổi vui vẻ. Tôi đồng thời phi tri qua hai thể nghiệm tâm lý hoàn toàn trái ngược đau khổ và vui vẻ.
Ham muốn theo đuổi và gắng gượng trở thành toàn bộ bn chất của tôi. Bởi vì tôi là con người tất nhiên có ham muốn và theo đuổi của bn thân mình. Tôi vì thực hiện nó mà một phút cũng không ngừng cố gắng phấn đấu cũng chưa my may từng buông th mình. Do đó, tất c mọi khổ nạn, thất bại và gắng gượng đều sinh ra từ đó. Hn thế chúng từ trước đến sau đi kèm với c quá trình sinh mệnh của tôi. Đây đưng nhiên là một quá trình tràn ngập đau khổ. Tôi dùng vô số lần trắc trở và thất bại để thêu dệt nên mộng thành công. Có người nói tôi lúc này đây đang trong đau khổ và vô vị giống như một con lắc đang đu đưa qua lại. Tôi đang đứng trước đau khổ hai mặt, đau khổ của thất bại, đau khổ của thành công. Bởi vì tôi thật ra không xem thành công làm mục tiêu đời người của tôi, tôi chỉ từ mỗi lần thành công thể nghiệm giá trị của sinh mệnh, từ đó trong khonh khắc vô cùng ngắn ngủi giành được thành công phát ra một chút tiếng cười vui vẻ. Nhưng ngay tức khắc sinh ra một tìm tòi và theo đuổi mới, từ đó lại bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới. Hn nữa, khi mục tiêu mới còn chưa sinh ra, tức là trước khi bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới, tôi luôn cm thấy trống tri và vô vị mà trước đây chưa từng có. Đó sẽ là sự giày vò tinh thần mà thành công đem đến cho tôi.
Cho nên nói, ham muốn và gắng gượng, trắc trở và thất bại, chán ngán và đau khổ đã tạo nên toàn bộ nội dung trong quá trình sinh mệnh của tôi. ý chí kiên nhẫn, sức mạnh nhân cách của tôi, mỗi một chút thành tựu sự nghiệp của tôi đều sinh ra từ trong hàng chuỗi những khó khăn trắc trở như thế. ý nghĩa và giá trị sinh mệnh của tôi cũng chính là thực hiện trong khó khăn trắc trở như thế. Nếu như không có hàng chuỗi khó khăn trắc trở này, hoặc lẩn tránh nó thì sinh mệnh của tôi có thể trở thành hư vô. Tôi muốn sống một cách thực sự, số mệnh nhất định phi chịu đựng hàng chuỗi đau khổ và giày vò này.

Nhưng, mục tiêu của tôi thật ra không phi ở chỗ đau khổ. Tất c mọi việc làm của tôi, tất c mọi theo đuổi, đều là vì một mục tiêu cuối cùng: vui vẻ. Tôi tin tưởng vững chắc rằng đời người cần phi vui vẻ. Vui vẻ phi giống như một bài th. Vui vẻ phi giống như một con suối nhỏ róc rách tuôn đều, chy đến những con sông đẹp, chy đến tận biển c màu xanh biếc, chy đến tận những ni nó không hề hay biết.
ý chí của Tăng Điểm từng nói, được Khổng Tử tán thành, vốn chính là một mục tiêu cao nhất của đời người - Thời tiết cuối mùa xuân, sự thích nghi với mùa xuân đã quen, năm sáu chàng thanh niên, sáu by cậu thiếu niên rủ nhau ra tắm ở sông Nghi, đứng hóng mát ở Vũ Vu đài, sau đó hồ hởi ra về.
Khổng Tử, một đời hong hốt lo phiền, tích cực vào đời, sở dĩ biểu thị lặng im đối với ý chí trị quốc yên bang của mấy đệ tử trước Tăng Điểm trình bày mà lại chỉ độc nhất tán thành chí hướng của Tăng Điểm, thật ra không phi Khổng Tử sa sút nn lòng có ý nghĩ thoát khỏi trần ai, mà ở chỗ ông đã nhìn thấy mục tiêu cuối cùng của đời người là nên vui vẻ. Còn trị quốc yên bang chỉ là thủ đoạn để thực hiện mục tiêu này.
Khi tôi dựng lên mục tiêu này cho mình, tất c mọi việc làm và theo đuổi của tôi vì mục tiêu này cũng đều trở nên vui vẻ, tất c mọi đau khổ trong quá trình sinh mệnh của tôi cũng đều trở nên vui vẻ. Lúc này, tất c mọi cm giác đau khổ đều tan biến thành mây khói. Đối mặt với tất c mọi tai ách và khổ nạn, tôi cũng đều không thay đổi niềm vui, tôi chỉ cm thấy niềm vui sướng của đời người.
Lúc này, tôi mới cm thấy rằng “ăn một giỏ cm, uống một bầu nước, sống trong ngõ hẻm vắng, người khác chịu đựng nổi nỗi khổ đó, thế mà Nhan Hồi vẫn không thay đổi niềm vui vốn có”, vốn là một giới hạn của nhân cách vĩ đại biết bao.
Do đó, bất kể định mệnh của tôi phi gánh chịu bao nhiêu đau khổ, tôi vẫn yêu đời, tôi vẫn nhiệt liệt ôm hôn cuộc đời. Tôi làm cho quá trình của sinh mệnh thống nhất lại với mục tiêu một cách hài hòa. Từ đó tôi sẽ không sống trong “lưỡng thê” nữa. Dù cho khi bi thuyền ngược dòng, trong tất c mọi gian nan trắc trở của thể xác và tinh thần, tôi cũng có thể thể nghiệm được niềm vui sướng của đời người.
Song, đời người là ngắn ngủi. Khi hưởng thụ cuộc đời vui vẻ, nếu như không có giác ngộ của sinh mệnh, đời người sẽ bị một bóng đen to lớn bao trùm. Cái bóng đen này chính là: tử vong.
3. Trù tính cao nhất: Chỗ quy tụ của tôi là cái chết.
Nhịp điệu của tự nhiên làm cho tôi tất nhiên từ trẻ trai đi đến già lão, ban tặng cuối cùng sinh mệnh cho tôi là để cho tôi dập tắt ngọn lửa của sinh mệnh, đi về Thiền quốc.
Chỉ dùng logic của triết học cũng có thể suy đoán: không có cái chết thì không có sự sống. Đời người không có cái chết thì sẽ không có khái niệm của thời gian. Không có cái chết thì giá trị của sinh mệnh cũng sẽ không có
gì để nói. Cái chết đối với đời người vừa là bi tráng, đồng thời cũng là
thiêng liêng.

Chính vì chết là một việc tuyệt đối, thời gian và sinh mệnh mới hiện rõ vô cùng quý báu. Tôi chính là từ trong bài bi ca truy điệu vong linh, cm thấy được sự vô cùng trang nghiêm và hùng vĩ của bn giao hưởng
sinh mệnh.
Đành là tôi tất nhiên phải đến với tuổi già, tôi chẳng có lí do gì mà không vô cùng quý trọng những năm tháng của tuổi thanh xuân, quý trọng từng phút từng giây, quý trọng mỗi khoảnh khắc trong suốt đời người
của tôi.
Đành là tôi tất nhiên phải đi vào cõi chết, tôi không có lý do gì mà không vô cùng quý trọng sinh mệnh, tôi cần phi cố gắng trước khi chết, thực hiện giá trị sinh mệnh của tôi với mức độ lớn nhất.
Tôi từ bụi trần ai của vũ trụ đến, cuối cùng cũng tất nhiên phải trở về nơi đó.

III- Tôi biết tôi không biết. Tôi từ lời nhắc nhở của á thánh Mạnh tử chưa từng quên: Nhược điểm của một người là thích xưng là bậc thầy trước mặt người khác

Với kiến thức cạn hẹp, sự từng trải bình thường, học thức nông cạn, tôi không bao giờ dám hy vọng quyển sách này trở thành bất cứ sự chỉ giáo nào để trù tính số phận. Điều hiến tặng cho bạn đọc nhiều lắm chỉ là một chút cảm giác của cá nhân tôi đối với vận mệnh cuộc đời mà thôi. Bất kể diễn đạt ngôn ngữ của tôi dưới hình thức như thế nào, ví như đại loại là “bạn nên”, xét đến cùng vẫn chỉ là cảm giác của tôi. Tin hay không tin tùy bạn, tuyệt không có ý là “làm thầy”.
Đã là cảm giác của cá nhân, thiên kiến và sai lầm sẽ không thể tránh khỏi. Wetegenstan đã dạy người ta: Một người đối với sự việc không thể nói ra thì nên giữ im lặng. Nhưng trước mắt tôi thật ra không có ai quy định những điều gì có thể nói, những điều gì không thể nói. Thậm chí chính tôi, trước khi nói cũng thật ra không hoàn toàn biết rõ ràng tôi có thể nói điều gì và không thể nói điều gì. Bởi vì những việc có thể nói lại chưa nói, việc không thể nói lại đã nói ra, cũng không thể tránh khỏi. Đương nhiên, cuối cùng tôi cũng chỉ có thể nói ra những điều tôi có thể nói.
Đồng thời, quyển sách này cũng được xây dựng trên cơ sở đọc hàng loạt lớn tư liệu, tôi đã đứng trên vai của nhiều hiền triết vĩ nhân trong ngoài nước xưa nay và nhiều bạn bè chưa nổi tiếng. Tôi cám ơn họ một cách sâu sắc, tôi đã dẫn ra rất nhiều quan niệm và thực tiễn của họ đối với vận mệnh đời người. Cho nên, quyển sách này cũng là nhận thức và cảm thụ của tôi đối với quan niệm và thực tiễn của họ, ở đây vẫn có thể còn có sai lầm.
Như vậy, tôi vừa cầu mong không khí văn hóa khoan dung, vừa cầu mong bạn đọc chỉ ra những thiếu sót và sai lầm.
Để thức tỉnh niềm hưng phấn đọc các vấn đề khác nhau, phong cách hành văn trong sách này không phải là một vẻ, một cách điệu, hầu như là có đủ mọi phong cách pha trộn lẫn nhau - hoặc kiểu dẫn dắt, hoặc có tính biện luận, hoặc có tính kể chuyện, hoặc có tính triết lý, từ đó xét về toàn cục cũng đã hình thành một phong cách đặc biệt của quyển sách này.


--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
BichDu
post Sep 26 2011, 07:07 PM
Post #2


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country










99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 34

97. Khoảnh khắc trí nhớ suy giảm

* Biện pháp có hiệu quả hay làm nhất để phòng ngừa trí nhớ suy giảm sớm là ở chỗ có một cuộc sống có trật tự ngăn nắp.
* Sáng tạo một khi đã dừng lại thì sinh mệnh sẽ có thể tự nhiên suy sụp.
Trí nhớ giảm sút cũng là tượng trưng rõ rệt lão hóa của con người. Xem sách như mây bay nước chảy, lướt mắt sẽ qua đi, gấp sách lại trong đầu đều như trống không. Người thông thuộc chỉ mấy năm sau không nhìn đến đã nói không nổi tên chữ, nhiều nhất là chỉ có cảm giác quen mặt chữ. Lão hóa càng tệ hại hơn cả đến những người quen thuộc cũng nhận không ra nữa. Vài việc công vụ bình thường hoặc việc nhà, làm việc này thì quên việc kia. Số điện thoại thường dùng nhất cũng không nhớ, đến khi dùng đến phải đi tra sổ ghi chép. Ðôi khi cái sổ ghi chép ?phải gió? đó lại tìm mãi vẫn không thấy. Dù có ghi mã số vào khung ghi nhớ điện thoại, nhưng lại quên ghi ở nhóm thứ mấy.
Trí nhớ chiếm vị trí tương đối quan trọng trong trí lực của con người. Phàm những người có trí nhớ kém không thể trở thành người có trí lực cao được. Nếu như trí nhớ của bạn suy thoái cũng có nghĩa là toàn bộ trí lực của bạn đang suy thoái. Như thế sẽ làm cho bạn thường thường rơi vào cảnh ngộ lúng túng và khó xử, mà còn trở thành nguyên nhân chủ yếu bị một số người trẻ nào đó khinh thường. Nếu như bạn vẫn còn trí nhớ mạnh mẽ thì trí lực của bạn cũng không thể kém đi, người khác cũng sẽ không coi thường bạn được.
Trên thực tế, một người liên tục không ngừng làm việc lao động trí não, trí nhớ không dễ dàng suy thoái.
M.T. Cicero người La Mã trong một bài văn đã từng viết một câu chuyện hứng thú của một nhà viết bi kịch lớn Sofocles khi già. Sofocles khi tuổi đã cao vẫn còn đang viết kịch bản, do ông chuyên tâm dốc chí vào việc sáng tác hý kịch, tỏ ra không hề quan tâm đến tài sản. Con cái của ông vì thế sợ tài sản bị mất mát, bèn đến tòa án kiện ông yêu cầu tòa án nhận định ông đã mất trí nhớ, tước đoạt quyền quản lý tài sản của ông sẽ giống như tập tục cấm những bậc gia trưởng không giỏi quản lý tài sản nắm giữ gia tài thông thường. Sofocles sau khi bị gọi đến tòa án không hề có một câu phản bác nào đối với những lời tố cáo của các con cái, chỉ tuyên đọc thẳng trước quan tòa kịch bản "Edibuse ở Cronos" ông vừa mới viết xong bản thảo, sau đó hỏi quan tòa: "Một người đã mất hết trí nhớ liệu có thể làm việc bằng lao động trí óc được không? Có thể viết ra được kịch bản này không?". Sau đó quan tòa phán định chức năng thân thể và đầu óc của ông, tất cả đều bình thường.
Trí nhớ của con người là một cái cực kỳ phức tạp mà còn có vẻ thần bí, loài người đến nay chưa có khoa học nào có thể giải thích một cách hoàn toàn thấu triệt, vậy trí nhớ xét đến cùng là cái gì đây. Tại sao một sự việc phát sinh ở mấy mươi năm trước, sau đó cũng không hề được nhắc đến, lại vẫn làm cho người ta vẫn còn nhớ rõ ràng? Tại sao có động vật cũng có trí nhớ nhất định? Sự vật một khi đã in trên vùng phản xạ của não, thì có thể gọi ra lại, thật là không thể tưởng tượng nổi. Do lơ mơ không hay biết gì đối với những vấn đề này, khiến loài người cho đến nay vẫn chưa phát hiện ra bất cứ đường tắt nào để huấn luyện trí nhớ. Chỉ là để phòng ngừa hay quên, loài người từng phát hiện ra một số biện pháp thô thiển giúp nhớ một số việc nào đó. Ðương nhiên dùng những biện pháp này tiến hành huấn luyện đối với việc phòng ngừa trí nhớ của con người suy thoái sớm ít nhiều cũng có một vài tác dụng.
Người ta đến lúc tuổi già, nhiều người đều chú ý đến việc rèn luyện thể lực con người, như đánh bi-a, đi dạo bộ, tập thái cực quyền, vung tay v. v... nhưng lại thường thường xem nhẹ tập luyện não lực. Lại không biết quan hệ giữa hai cái não lực và thể lực cũng bổ xung và thúc đẩy lẫn nhau. Thể lực suy giảm tất nhiên đẩy nhanh não lực suy giảm, não lực suy giảm cũng tất nhiên đẩy nhanh thể lực suy giảm. Ngược lại cũng vẫn đúng. Thể lực khỏe mạnh sung sức tất nhiên có lợi cho não lực khỏe mạnh sung sức, não lực khỏe mạnh sung sức cũng tất nhiên thúc đẩy thể lực khỏe mạnh sung sức, đồng thời làm chậm sự suy yếu của thể lực. Nếu như bạn hy vọng làm chậm lão hóa giữ được trí nhớ của thời trai trẻ, khi đồng thời tập luyện thể lực chớ quên tập luyện não lực. Cả hai cái đồng thời tập luyện, bạn sẽ thu được hiệu quả gấp bội.
Nhiều người đều nói bất kể bạn bao nhiêu tuổi, mỗi ngày mất độ 15 phút đến nửa giờ, ghi nhớ lấy mấy từ ngoại ngữ, hoặc ghi nhớ lấy một câu nói hay, là biện pháp tốt để tập luyện trí nhớ, cũng là biện pháp tốt để tập luyện toàn bộ não lực.
Ðể ghi nhớ một sự việc nào đó, có ý thức lặp đi lặp lại và luôn nhắc đến nó, tức là định giờ ôn tập thì mục đích của bạn tất nhiên có thể đạt được.
Không nên luôn cho rằng mình sắp sửa xuôi tay tạm biệt nhân gian mà phải luôn gửi gắm, hy vọng tốt đẹp vào ngày mai sắp sửa đến. Như thế sống có vui có buồn, trong buồn có vui, sẽ làm cho bạn vĩnh viễn sung sức nhanh nhạy với cảm thụ từ đó tăng cường não lực.
Biện pháp hữu hiệu hay làm nhất để phòng ngừa trí nhớ suy giảm sớm là ở chỗ có một cuộc sống có trật tự ngăn nắp. Cuộc sống có tính trật tự thì không có cảm giác lộn xộn, không có cảm giác manh mối rối ren phức tạp, như thế mới thuận tiện cho việc ghi nhớ các sự việc mà chúng ta mong muốn ghi nhớ xẩy ra trong cuộc sống. Sẽ giống như gặp chỗ mỗi vòng nối của một dải xích buộc vào một vật gì đó, bởi vì là buộc vào chỗ có quy luật, khi chúng ta kiểm kê lại hồi ức thì manh mối rõ ràng, dễ dàng nhớ ra. Bằng không, sống không có quy luật, không có tính kế hoạch, hàng ngày bận bịu tíu tít, manh mối quá nhiều sẽ dễ dàng dẫn đến vứt bừa bộn, lúc thì quên cái này, lúc lại quên cái kia.
Ðương nhiên, cuộc sống gọi là có kế hoạch, trật tự ngăn nắp quyết không phải là cuộc sống đơn điệu, rập theo một khuôn khổ, khô khan chán ngấy, cuộc sống như thế có thể làm cho chúng ta buồn phiền và nhạt nhẽo. Còn không ngừng đưa vào cuộc sống những hấp dẫn và kích thích mới mẻ, không ngừng thức tỉnh nguyện vọng và ý nghĩ mới, điều này cũng nên thuộc về một nội dung quan trọng trong kế hoạch của cuộc sống.
Phương pháp căn bản làm cho cây sinh mệnh luôn luôn xanh tươi là ở chỗ sáng tạo, hãy để cho cây sinh mệnh không ngừng bài tiết ra những chất có hại, hấp thu vào chất dinh dưỡng mới mẻ dưới ánh sáng mặt trời và mưa gió. Sáng tạo một khi dừng lại thì sinh mệnh sẽ có thể tự nhiên suy sụp. Tất cả cơ thể, tất cả trí lực đều có thể theo nó tan rã. Còn có một số người tuổi tác cực cao, vẫn đầu óc sáng suốt, trí nhớ kinh người thì ở chỗ ông ta hàng ngày đều có quy luật làm cho sinh mệnh phơi phới phát ra được sức sống mới - sức sống sáng tạo.
Người tuổi cao đi vào lĩnh vực sáng tạo như thế nào đây? Việc này kỳ thực chính là làm sao để cho sinh mệnh luôn tồn tại một cách có giá trị, đảm đương nổi một phần trách nhiệm mà mình phải có phần giá trị này của sinh mệnh đôi khi không nhất định phải sáng tạo ra một việc gì. Là một người tuổi cao, từ bề ngoài sinh mệnh của họ có lẽ không thể trực tiếp nhận ra ông ta hàng ngày đang sáng tạo ra cái gì mà là mới chỉ sự tồn tại tinh thần tự giác và trí nhớ của ông ta đối với sinh mệnh của mình, hơn nữa đem tinh thần tự giác và trí nhớ này hòa trộn vào trong cảm ngộ trách nhiệm đối với thế giới và đời người, ông ta từng giờ đều có thể đem sự tồn tại của mình xem là một loại tồn tại có trách nhiệm đối với thế giới và tự mình, xem là thắng lợi của sinh mệnh chiến thắng cái chết, từ đó mà tỏ rõ lòng tự tôn và sức mạnh nhân cách của ông ta. Ngược lại với điều đó, tự sát lại là một việc vứt bỏ đối với giá trị của con người, đùn đẩy và trốn tránh đối với trách nhiệm con người cần có. Cái gọi là nhìn thấu hồng trần thanh tâm quả dục, hoặc luôn cảm thấy mình, cái khối thịt này sớm muộn đều bị Thượng đế đặt lên cán cân của cái chết, dù nó nặng nhẹ bao nhiêu, dù nó chất lượng thế nào, tất cả đều không sao cả, việc này đều là sự vứt bỏ đối với giá trị của con người. Một khi đã vứt bỏ giá trị và trách nhiệm đạo làm người của con người thì cái sinh mệnh này đương nhiên sẽ trở thành cái xác không hồn. Trí lực của nó tồn tại hay không tồn tại đều không có ý nghĩa nữa. Xét đến cùng, phương thức sinh tồn này là một sự lãng quên sâu xa đối với bản thân sinh mệnh, trí nhớ đối với ông ta cũng liền mất đi ý nghĩa rồi. Sự sa sút nhanh chóng của ông ta cũng từ đó có thể suy ra.
Khi chúng ta cảm thấy trí nhớ của mình suy thoái, đồng thời theo đó cảm thấy toàn bộ trí lực của mình đều đang suy thoái ghê ghớm, nếu chúng ta còn có thể cảm nhận được mức độ bi tráng này của sinh mệnh, thì sinh mệnh vẫn còn có hy vọng cứu vãn được. Hãy thức tỉnh lương tâm của mình, khẳng định trách nhiệm của mình để đem hết phần trách nhiệm kia của mình sẽ là tự cứu vãn sinh mệnh.

98. Khoảnh khắc đối mặt ánh tà dương

* Lúc này, khi đối mặt ánh tà dương, chúng ta mới phát hiện mình sắp bước vào buổi hoàng hôn của sinh mệnh. Do đó mà so với trẻ con càng lưu luyến sinh mệnh hơn, so với người trẻ tuổi càng không muốn xa rời cõi trần gian hơn.
* Chúng ta đã chịu không nổi những kích động mừng rỡ và những ức chế bi sầu.
Mặt trời ban mai tươi sáng đến như thế. Nó xuyên qua lớp lớp sương mù, xua tan giá lạnh, hiện ra sức sống bừng bừng, thậm chí hùng hổ dọa người.
Ngọn lửa mặt trời ban trưa cay xè, không chút hiền từ treo cao ở giữa trời của thế giới. Nó không kiêng dè tất cả những gì ở xung quanh, chỉ phóng ra và soi chiếu đến tột bực.
Mặt trời lúc gần tối đã thu lại mùi cay xè từ lâu, chỉ phóng ra vạn ánh ráng chiều phủ một lớp màu vàng óng trên mặt đất. Nó làm cho tất cả mọi thứ của thế giới bao gồm cả chính nó đều hiện ra hiền từ và giàu có đến như thế. Nó dập tắt tất cả mọi huyên náo và tranh đấu giữa trời đất, làm cho nhân gian bắt đầu đi vào hương thơm ấm áp và lặng lẽ.
Ôi, ánh tà dương!
Khi chúng ta đứng trên đầu núi, nhìn về mặt trời chiều như đang mỉm cười, vầng mặt trời chiều đã hoàn thành việc soi chiếu một ngày sắp sửa lặn xuống núi này, trong lòng chúng ta trào dâng lên niềm tự hào và lưu luyến chưa từng thấy.
Lúc này, chúng ta tịnh không tưởng tượng quá nhiều tình hình mặt trời sau khi lặn xuống núi, chúng ta biết rằng nó sau khi lặn xuống núi vẫn như lúc soi chiếu cho chúng ta, đi soi chiếu cho người khác.
Lúc này, chúng ta cũng không cần nhớ lại quá nhiều trong ngày này chúng ta đều đã làm được những gì, mặt trời rót những gì vào sinh mệnh của chúng ta, chúng ta từ trước đến nay đến với nhân gian, sống đến lúc này đây đã phát sinh những biến đổi như thế nào. Vĩ nhân trong loài người xét đến cùng có rất ít, rất ít, người ta đối với chúng ta, những người bình thường này không thể có hứng thú quan tâm mạnh mẽ. Do đó mà lúc này cần phải mượn người viết truyện hoặc những người tự mình viết truyện xét đến cùng là rất ít, rất ít.
Hãy để cho sinh mệnh của quá khứ qua đi một cách bình yên.
Thời gian tuy là quá khứ, nhưng theo thuyết ba loại người bất hủ trong sách "Xuân Thu tả truyện", người lập đức bất hủ, người lập công bất hủ, người lập ngôn bất hủ, có thể trong chúng ta có nhiều bạn đồng nghiệp là thuộc loại bất hủ rồi. Cho nên, lúc này tiến hành tự tìm hiểu sơ lược đối với sinh mệnh có lẽ có thể làm cho chúng ta được an ủi.
Về phương diện lập đức, mặc dù chúng ta không giống như Khổng Tử, Mặc Trác, Giê su, làm cho người đương thời và người đời sau đều tưởng nhớ và ngưỡng vọng. Nhưng chúng ta cũng đã từng theo đuổi tín ngưỡng vĩ đại, đã từng tìm chân lý của cuộc đời. Linh hồn của chúng ta không hổ thẹn trước mặt chân lý, nhân cách của chúng ta cũng chưa từng bị vấy bẩn. Lúc sinh thời chúng ta cũng đã từng được người ta tôn kính, về sau này cũng sẽ có thể có người nêu chúng ta để làm gương.
Về phương diện lập công, mặc dù chúng ta không giống như Prômêtê ăn trộm mồi lửa đem về cho nhân loại; không giống như Colombo phát hiện ra đại lục mới, không giống Washington tạo nên Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, vì người đương thời mở ra thế giới mới, vì lịch sử mở ra kỷ nguyên mới, vì người đời sau gieo xuống những hạt giống hạnh phúc khôn lường. Nhưng chúng ta cũng đã từng vì sự nghiệp tốt đẹp của nhân loại, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại đã từng phải rơi những giọt máu, mồ hôi và nước mắt, người đời sau khi kế tục sự nghiệp của chúng ta nhất định sẽ nhắc đến tên tuổi của chúng ta.
Về phương diện lập ngôn, mặc dù chúng ta không giống như Hômerơ để lại sử thi huy hoàng, giống như Khuất Nguyên, Lý Bạch để lại những bài thơ bất hủ, giống như Shakespeare, Tolstoi trở thành ngôi sao Bắc Ðẩu, giống Plato, Heygel, Vương Thuyền Sơn trở thành bậc Ðại sư mà ngàn thu bất hủ, giống Newton, Einstein trở thành nhà khoa học mang tính thời đại mà tiếng thơm muôn đời. Nhưng chúng ta cũng đã từng dấn thân vào sáng tạo, cũng đã từng để lại một số văn tự và trước tác, hoặc nghệ thuật, hoặc phát minh khoa học. Người đời sau sẽ tìm đến dấu chân phấn đấu của chúng ta.
Nếu như chúng ta ở trong cả ba phương diện lập đức, lập công, lập ngôn đều tìm không thấy căn cứ của bất hủ, thì chúng ta cả một đời này hoàn toàn tầm thường không có gì lạ, thậm chí u ám không có gì sáng sủa. Sự than vãn lúc này đã quá muộn! Tất cả mọi việc đều đã qua, sinh mệnh của quá khứ không thể cứu vãn lại, chúng ta không có cách tái sinh sống lại thêm một lần nữa.
Lúc này, khi đối mặt ánh tà dương, chúng ta mới phát hiện mình sắp bước vào buổi hoàng hôn của sinh mệnh, do đó mà so với trẻ con càng lưu luyến sinh mệnh hơn, so với người trẻ tuổi càng không muốn xa rời cõi trần gian. Toàn bộ lao động của chúng ta vốn cũng là vì tồn tại, lúc này mới phát hiện ra tất cả đều là lo toan vô ích. Lúc này mới nghĩ đến bất hủ là một chữ vinh quang biết bao, một mục tiêu thiêng liêng mà khó đạt tới biết bao. Lúc này mới nghĩ tới ?bất hủ? chỉ có thể gửi gắm trên các phương diện lập đức, lập công, lập ngôn của chúng ta.
Hoặc chúng ta chỉ có thể trở thành bất hủ với ý nghĩa khác. Từ định luật vạn vật bất diệt tìm thấy một tia ánh sáng. Nếu hiểu theo thuyết bất hủ xã hội của Hồ Thích, thì mọi người chúng ta đều là bất hủ cả.
Hồ Thích cho rằng: Tôi thật ra không tồn tại độc lập, mà là có liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp khăng khít với vô số cái tôi nhỏ bé, liên hệ khăng khít với toàn xã hội, toàn thế giới, với quá khứ và tương lai của thế giới cũng đều có liên hệ nhân quả. Từ những nguyên nhân trước, những nguyên nhân của vô số cái tôi nhỏ và những nguyên nhân của vô số loại thế lực khác đã hình thành một bộ phận của tôi. Tôi, cộng thêm đủ mọi nguyên nhân của trước đây, nguyên nhân của hiện tại truyền đi tiếp sẽ tạo thành vô số cái tôi nhỏ bé của tương lai. Cái tôi nhỏ bé của quá khứ, cái tôi nhỏ bé của hiện tại và cái tôi nhỏ bé của tương lai vô cùng, sẽ đời đời truyền cho nhau, lớp lớp tích đọng lại, như dòng nước chảy xiết, cuồn cuộn mãi mãi không ngừng - hình thành nên cái ta lớn. Cái tôi nhỏ bé có thể bị mất, nhưng cái ta lớn lại vĩnh viễn bất diệt. Cái tôi nhỏ bé có chết, còn cái ta lớn thì vĩnh viễn không chết, vĩnh viễn bất hủ. Cái tôi nhỏ bé mặc dù có thể chết, nhưng tất cả mọi việc làm của mỗi một cái tôi nhỏ bé, tất cả mọi công đức tội ác, lời nói hành động, bất kể là to nhỏ, sai đúng, thiện ác, từng cái từng cái đều lưu giữ lại trong cái ta lớn. Cái ta lớn lại trở thành "tấm bia ghi công trạng, lời biểu dương cái tốt, bản phán quyết tội trạng, thụy pháp xấu mà con cháu dù hiếu từ hàng trăm đời không thể sửa đổi được" từ xưa đến nay. Bởi cái ta lớn vĩnh viễn bất hủ, cho nên mọi sự nghiệp, nhân cách, cử chỉ hành động, ý niệm, công lao, tội lỗi của tất cả cái tôi nhỏ cũng đều vĩnh viễn bất hủ".
Thuyết "bất hủ" của Hồ Thích bao hàm việc chọn hướng cả hai giá trị thiện ác, mà không phải là như thông thường chúng ta nói bất hủ chỉ chọn có hướng thiện. Cho nên khi chúng ta suy ngẫm lại lịch trình của sinh mệnh như thế, có lẽ buồn vui pha mỗi thứ một nửa, có lẽ chỉ có vui mừng tự an ủi mà không có bi thương, có lẽ chỉ có riêng bi thương mà thôi. Chỉ xem xét mọi việc làm của một đời này của chúng ta xem ra sao.
Song lúc này, chúng ta đang đứng trước khoảnh khắc của ánh tà dương để tiến hành một lần tự phán xét và nghĩ lại những điều ?hủ và bất hủ?, đối với bản thân chúng ta để xét, thì hầu như đã không có giá trị nhiều nữa. Bất kể là bất hủ của điều thiện cũng như là bất hủ của điều ác, đều đã qua rồi! Không lấy vật làm vui, không lấy mình làm buồn, đáng là trạng thái tâm lý đẹp nhất của giờ phút này của chúng ta. Chúng ta đã từng chịu đựng không nổi những kích thích mừng rỡ và những ức chế của sầu bi. Công tội đúng sai, người đời sau tự nhiên sẽ có người bình luận, hãy để cho lịch sử kết thúc thôi nhé!
Lúc này, chúng ta chỉ có đang thực tế đứng trước ánh chiều tà, đang tắm gội trong ráng chiều vàng óng, hưởng thụ giờ phút đẹp đẽ nhất, kích động lòng người nhất của Mặt Trời.

99. Khoảnh khắc đi đến kết thúc cuộc đời

* Chính là do khúc nhạc bi thương tế truy điệu vong linh, mới làm nổi bật lên vẻ vô cùng trang nghiêm và vĩ đại của bản giao hưởng của
sinh mệnh.
* Mặt trời lạnh lẽo đang nhảy nhót lần cuối cùng ở tít chân trời phía Tây, đang đi về sườn núi phía bên kia để đi ngủ rồi.
Lúc mới đầu tôi đến với nhân gian, tôi khóc người ta cười; đến nay khi tôi vĩnh biệt nhân gian, tôi cười người ta lại khóc. Từ trong từng tiếng cười tiếng khóc này tôi đã thể nghiệm được một cuộc đời hoàn toàn mỹ mãn - Cuộc đời của tôi đối với bản thân tôi thật ra không có quá nhiều giá trị để nói. Giá trị của cả đời tôi chỉ ở chỗ đem lại cho người khác niềm vui và hạnh phúc. Cái chết của tôi thật ra không tạo nên đau khổ đối với bản thân tôi, chỉ là một loại giải thoát và hồi quy. Cái chết của tôi chỉ để lại cho những người sống - người thân và bạn bè của tôi những niềm nhớ nhung và luyến tiếc. Tôi đang mỉm cười đi về Thiên quốc.
Tôi, một đời không hổ thẹn với Trời, không hổ thẹn với Người, cho nên khi ánh sáng của cái chết sẽ bao trùm lên tôi, thật ra tôi không vì tiếng khóc của người khác mà động lòng. Ngoài một chút tình lưu luyến lúc ẩn lúc hiện ra, trong lòng tôi phẳng lặng như tờ. Khi tôi sống đã đủ, giới tự nhiên đã tặng cho tôi món quà cuối cùng - cái chết này, hãy để cho tôi an giấc mãi mãi ở cung tẩm dưới đất. Tôi bằng lòng đón nhận lời kêu gọi kích động lòng người này, nhắm đôi mắt lại không chút bận lòng, chờ đợi tiếng chuông vang của Thiên quốc.
Tôi biết, trong nhân gian cái bình đẳng vĩ đại nhất, triệt để nhất, chính là sinh ra và chết đi. Muôn vật sinh ra, muôn vật chết đi đều không thể chống lại được, không thể ngăn cản được. Trước cái sinh và cái chết muôn vật đều bình đẳng. Sinh so sánh với chết, giá trị của cái chết thông qua giá trị của cái sống thể hiện ra một cách gián tiếp. Chính là vì cái chết mới đột nhiên làm nổi bật lên giá trị của sinh mệnh, mới tỏ rõ sinh mệnh là đáng quý biết bao. Chính là do ánh sáng của cái chết mới làm nổi bật lên ánh sáng của sinh mệnh. Chính là do khúc nhạc bi thương tế vong linh mới làm nổi bật lên vẻ vô cùng trang nghiêm và vĩ đại của bản giao hưởng của sinh mệnh. Nếu như không có cái chết, sinh mệnh còn có ý nghĩa gì nữa?
Pofuva trong sách "Mọi người đều phải chết" đã tô nặn nên Fuxưca bất tử. Fuxưca đã từng trải 600 năm phong vân, trước mắt ông chỉ nhìn thấy kẻ đi người lại, mặt trời lên rồi lại lặn, ông ta vẫn không chết, vĩnh hằng cùng với thời gian, thế là ông không có thời gian. Vì ông sinh mệnh vĩnh viễn tồn tại, do đó trên thực tế sinh mệnh đối với ông chẳng có ích gì, ông cũng như không có sinh mệnh. Beatlivi từ chối tình yêu của Fuxưca, đã nói với ông ta một câu đủ để cho loài người chúng ta ngẫm nghĩ mãi mãi:
"Ðã đành Ngài có thể sống bằng sinh mệnh của hàng ngàn hàng vạn người, như thế thì Ngài hãy vì những người khác bỏ ra một chút hy sinh, thì có đáng là cái gì?"
- Không có cái chết, loài người không thể phát hiện ra giá trị. Ðương nhiên, không có sinh sống thì muôn đời giống như một đêm dài, đó không phải là sự tồn tại mà chúng ta có thể tưởng tượng được.
Khi ánh sáng của cái chết bao trùm lên chúng ta, chúng ta thực tế không có lý do để lo sợ và khủng khiếp. Cái chết đối sinh mệnh mà xét không nghi ngờ gì nữa là một việc tuyệt đối và tất nhiên. Chỉ cần chúng ta nghĩ đến đã là đặt mình vào trong việc tuyệt đối, vào trong việc tất nhiên, chúng ta còn lo sợ gì nữa? Con người ta chỉ có khi phải chọn lựa mới có lý do lo sợ, chỉ sợ sai lạc. Cái chết đối với chúng ta là cõi đi về không có chọn lựa nào khác, chúng ta bằng lòng cũng thế mà không bằng lòng cũng thế, vui vẻ cũng thế lo buồn cũng thế, dù thế nào cũng phải bước vào cửa chết cả. Nếu như bạn biểu hiện một dáng vẻ đáng thương hại, chứa chan hàng lệ, nơm nớp lo sợ, thê thảm không dám bước vào cửa. Ðã bước vào rồi vẫn chết không nhắm mắt, mở to miệng ra, làm cho những người đang sống nhìn thấy dáng bộ xấu xí đáng sợ của bạn, lúc này còn khổ biết mấy nữa? Người ta chỉ có thể xót thương kết cục của bạn không được trọn vẹn, cho rằng bạn vẫn còn tham lam không biết chán. Người ta có thể tiếc cho bạn vẫn đem cả lòng tham đi đến Thiên quốc. Sao không êm ả nhắm đôi mắt lại, mỉm cười để vĩnh biệt Nhân gian? Sao không vẽ lên một Dấu Chấm Hết cho việc kết thúc một sinh mệnh.
Cái chết cho dù đáng sợ, cũng nhất định không đáng sợ hơn ý thức hám trường sinh bất tử và nhất định không chết. Bạn chỉ cần nghĩ đến trên đời không có một người trường sinh bất tử cũng đã đủ ngấm ngầm diệt bỏ quyết tâm không chết của bạn. Lo sợ của cái chết cũng có thể theo đó mà tan thành mây khói.
"Kinh Thánh" đã khuyên răn người đời: Vì bạn đến từ đất bụi, sẽ vẫn phải trở về với đất bụi.
Sisairo xem cái chết nhẹ nhàng như người vứt bỏ một cái bọc quần áo. Ông nói: "Tuổi già là màn chót của đời người, khi chúng ta sống đã đủ, chúng ta nên tránh tiếp tục sống thêm, để tránh cảm thấy chán ngấy cuộc sống".
Triết học của Trung quốc đã gọi sự kết thúc sinh mệnh là "Ðại quy" - Người có sống, người có chết, chẳng qua có nghĩa là sinh mệnh, vật chất trong vũ trụ tồn tại dưới hình thức khác mà thôi. Cái chết, sự kết thúc của sinh mệnh, chỉ là vật chất sinh mệnh chuyển đổi thành một dạng khác, bắt đầu một quá trình vận động khác của vật chất. Sinh mệnh bản thân là một bộ phận của vũ trụ, từ vũ trụ đến, tất nhiên lại quay trở về vũ trụ.? Người và vũ trụ là thể cùng thông nhau. Ðiều này phải chăng đã trực tiếp khêu gợi lên lý thuyết toàn thông tin vũ trụ nhân thể đương đại?
Trang Tử cho rằng người chết cũng giống như ?bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trôi đi?, cho nên ông ta mới có thể sau khi vợ chết gõ chậu để hát.
Tất cả mọi tôn giáo đều theo đuổi cảnh trong sáng sau khi chết. Ðạo Cơ đốc theo đuổi Thiên quốc bất tử, linh hồn quy thuận vào Thượng đế. Ðạo Phật theo đuổi "đại triệt đại ngộ", viên tịch cõi Niết Bàn. Ðạo Giáo theo đuổi "thân xác thăng thiên", mọc cánh thành Tiên. Ðạo I-xlam tín ngưỡng sau khi chết sống lại, đều được Thánh A La triệu về.
Trọng thị hay coi thường đối với cái chết cũng thể hiện trong táng lễ dân gian, nhiều táng lễ dân gian đều cử hành trong không khí vui vẻ thoải mái, xem việc chết theo lẽ tự nhiên như là ?việc vui? giống như việc cưới xin và sinh con cái, đều gọi nó theo một tên chung là ?việc hiếu hỉ?. Dân tộc Duracaxư ở Indonesia gọi người chết là con của Tiên bị giáng trần. Họ tin tưởng chắc chắn linh hồn của người chết sẽ trở về đến Trời hoặc núi Linh Sơn, do đó nên không khí táng lễ cực kỳ vui vẻ, những người tham dự táng lễ đều mang những đồ trang sức cực kỳ hoa lệ, giống như chào mừng một ngày hội họ vừa múa vừa hát và mở tiệc mừng rất lớn và hậu hĩnh, chúc mừng người chết được vinh dự trở về Thiên quốc. Tất cả mọi người đều tuyệt đối không được phép lộ ra dáng vẻ bi thương, mà phải mặt mày hớn hở.
Lương Thấu Minh, một nhà Nho cuối cùng ở Trung quốc khi hấp hối sắp xa Nhân gian, đã nói với những người đứng vây quanh giường ông: "Tuổi thọ ở dương gian của tôi đã hết, không cần phải miễn cưỡng. Thuận theo ý trời, tốt nhất chớ băn khoăn. Các người đều có công việc, nên mỗi người đi làm việc của mình thôi!"
- Ðã nói lời tạm biệt với Nhân gian như thế, tự nhiên lịch sự và hào hùng biết bao nhiêu! Cũng tỏ rõ sinh mệnh là viên mãn biết dường nào!
?Mặt trời lạnh lẽo đang tiến bước cuối cùng ở phía chân trời phía Tây, đang đi về phía bên kia sườn núi để đi ngủ. Màn đêm buông xuống, một đêm dài đằng đẵng bắt đầu.
Mộ chí của nhà Triết học Suolun đã cáo thị với người ta, khi ông đi về Thiên quốc, ông hy vọng có truy điệu và khóc lóc của người thân và bạn bè đi theo ông. Ông muốn tìm được niềm an ủi cuối cùng ở đây.
Chúng ta hình như càng tán thưởng mộ chí của Ainieuxư:
Không cần rơi nước mắt kính chào tôi,
Không cần truy điệu trước linh hồn tôi.

HẾT


--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người   Sep 26 2011, 04:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 2 1- K...   Sep 26 2011, 04:56 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 3 4- K...   Sep 26 2011, 05:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 4 7- K...   Sep 26 2011, 05:06 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 5 10- ...   Sep 26 2011, 05:09 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 6 13- ...   Sep 26 2011, 05:22 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 7 16-K...   Sep 26 2011, 05:25 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 8 19- ...   Sep 26 2011, 05:27 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 9 22- ...   Sep 26 2011, 05:29 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 10 25-...   Sep 26 2011, 05:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 11 28-...   Sep 26 2011, 05:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 12 31-...   Sep 26 2011, 05:50 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 13 34-...   Sep 26 2011, 05:52 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 14 37-...   Sep 26 2011, 05:55 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 15 40-...   Sep 26 2011, 05:57 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 16 43-...   Sep 26 2011, 05:59 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 17 46-...   Sep 26 2011, 06:02 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 18 49-...   Sep 26 2011, 06:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 19 52-...   Sep 26 2011, 06:07 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 20 55-...   Sep 26 2011, 06:10 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 21 58....   Sep 26 2011, 06:28 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 22 61....   Sep 26 2011, 06:31 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 23 64....   Sep 26 2011, 06:36 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 24 67....   Sep 26 2011, 06:39 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 25 70....   Sep 26 2011, 06:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 26 73....   Sep 26 2011, 06:43 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 27 76....   Sep 26 2011, 06:46 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 28 79....   Sep 26 2011, 06:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 29 82....   Sep 26 2011, 06:51 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 30 85....   Sep 26 2011, 06:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 31 88....   Sep 26 2011, 07:01 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 32 91....   Sep 26 2011, 07:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 33 94....   Sep 26 2011, 07:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 34 97....   Sep 26 2011, 07:07 PM


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 21st July 2025 - 04:54 PM