Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 99 Khoảnh Khắc Đời Người - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> 99 Khoảnh Khắc Đời Người, Dịch giả: Nguyễn An
BichDu
post Sep 26 2011, 04:53 PM
Post #1


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country







99 Khoảnh Khắc Đời Người

ZHANG ZI WEN
(Trương Tự Văn)

I- Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi

Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng?
Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại.
Đối với tương lai, nếu như chỉ xét về thời gian, cũng dễ dàng lý giải: phàm thời gian không có trong quá khứ mà lúc này lại không có mặt đều có thể gọi nó là tương lai. Song sinh mệnh của tôi trong thời gian tương lai đặt vào những nội dung gì, tôi cũng không biết nữa. Nếu như suy luận theo logic, có thể nói, tôi có tương lai. Nhưng đây chỉ là một khái niệm chưa được nghiệm chứng mà thôi. Sự thật trước mắt là, đối với thời gian lúc này không có mặt và nội dung không biết, đều không thể coi là cái hiện tại tôi có.
Duy chỉ có khoảnh khắc lúc này thuộc sở hữu của tôi. Duy chỉ có khoảnh khắc này, sinh mệnh của tôi mới có đầy ý nghĩa thực tại. Sinh mệnh chỉ có thể sống tại khoảnh khắc lúc này, không thể sống trong quá khứ, cũng không thể sống ở tương lai.
Khoảnh khắc thời gian là một cái gì đây? Nó vừa không thuộc quá khứ, trái lại lại không ngừng trở thành quá khứ; vừa không thuộc về tương lai nhưng lại không ngừng đón nhận tương lai. Nó vừa là một giới hạn có thể chia cắt vô hạn giống như một điểm không có chiều dài; lại là một giới hạn có thể kéo dài đến vô hạn, 38 năm có thể tính là một khoảnh khắc, trong sinh mệnh vũ trụ, toàn bộ thời gian loài người tồn tại cũng có thể xem là một khoảnh khắc. Từ đó đủ thấy khoảnh khắc chốc lát là thời gian không thể tưởng tượng được. Mà cái tôi có, chỉ có thể là khoảnh khắc thời gian, như thế tôi là một tồn tại không thể tượng tượng nổi?
Khi tôi nhảy khỏi vũng bùn của quan niệm thời gian kiểu máy móc, vứt bỏ những ngụy biện như đúng mà là sai, nhận thức được tính vô cùng sinh động của tồn tại sinh mệnh, tôi mới sáng tỏ trong lòng.

Tôi là sinh mệnh sinh động nhất trong vũ trụ, trên đường trục thời gian là một quá trình sống và trưởng thành từ đầu đến cuối luôn luôn mở rộng. Tôi vừa nhận thức được những việc phát sinh trong quá khứ không thể trở thành cái mà hiện tại tôi có, lại đem quá khứ xem là sự mở đầu của quá trình sinh mệnh, từ đó trân trọng giá trị đặt nền móng khởi nguồn của nó trong lịch trình của sinh mệnh. Hơn nữa, khi nghĩ lại đặc trưng tính toàn cục của sinh mệnh, tôi phát hiện ra “quá khứ” của tôi cũng quyết định hiện tại của tôi - tôi luôn luôn ở trạng thái trôi đi, hiện tại chẳng mấy chốc đã hóa thành quá khứ, như thế “quá khứ của tôi có thể có ý nghĩa gì cũng sẽ quyết định bởi việc làm hiện tại của tôi. Cũng chính là, tôi luôn luôn không ngừng viết nên lịch sử của mình, sự việc hôm nay đến ngày mai sẽ trở thành việc của quá khứ, muốn cho mọi việc của tôi ngày hôm qua có giá trị thì phi làm sao mỗi một sự việc của tôi hôm nay đều có giá trị.
Tương lai luôn đang mở rộng ở hiện tại, bởi vì hiện tại tôi đang luôn trù tính tưng lai, mỗi một ý nghĩa hiện tại mà tôi tạo nên cũng chính là trải ra và tích tụ cho tương lai.
Như thế, đặt mỗi một khoảnh khắc lúc này vào trong thời gian dài đằng đẵng của tính toàn cục, để cho nó vừa thể hiện quá khứ lại hiện rõ ra tưng lai, khoảnh khắc lúc này không còn là sự tồn tại trống rỗng không thể tưởng tượng được nữa, nó đã trở thành cái thực có đầy đủ nhất nối quá khứ với tương lai của tôi.
Chỉ có lúc này mới có thể nói: tôi đã có khoảnh khắc thời gian. Tôi đã nắm chắc được số phận của mình.
Với tư cách cá thể, tôi được khêu gợi từ quan niệm lịch sử của Gan đi, sinh mệnh là sự tồn tại lấy trần thế làm cơ sở dựa vào trật tự xã hội, cho nên tôi không theo đuổi mức độ tinh thần đến tột độ không ăn uống những thứ ở nhân gian - Tôi không thể vứt bỏ được ăn mặc, ở và đi lại của thế tục. Tôi hoàn toàn có thể đi theo trào lưu “đi xuống biển”. Nhưng tôi cũng có thể tiếp nhận chính những hấp dẫn của sáng tạo văn hóa. Trên thực tế, tôi đang vui sướng xiết bao trong màng lưới văn hóa tự tạo tự kiềm chế. Tôi hiểu sâu sắc rằng một khi tách rời màng lưới văn hóa sẽ có thể thật sự chỉ có hai bàn tay trắng.
Từ trong văn hóa Bandu tôi nhận được, vận động phát sinh vào thời điểm chỉ định và địa điểm chỉ định là thực thể có một không hai. Trong không gian và thời gian vô hạn, tôi không phải chính là một thực thể độc lập như vậy ư? Mặc dù nhỏ bé, nhưng sao lại cản trở sáng tạo văn hóa đặc biệt của tôi? Sinh mệnh của tôi đã diễn biến thành loại sáng tạo văn hóa đặc biệt này, tôi với tư cách là một vật thể mang vật chất văn hóa, thời gian sinh tồn có hạn; còn tôi với sinh mệnh mang tinh thần văn hóa thì sẽ cùng tồn tại với thời gian mãi hàng nghìn năm sau.
Tôi từ trong quan niệm thời gian của vĩ nhân “đều đã qua rồi, được coi là nhân vật phong lưu phải xem hiện tại”, “một vạn năm quá lâu, chỉ tranh giành phút chốc” được tỉnh ngộ triệt để cuối cùng, đã phát hiện sinh mệnh của tôi, bản thể tinh thần của tôi sẽ ở mỗi một khoảnh khắc trên đường sinh mệnh của tôi!

Một đời tôi chẳng qua là dòng thời gian do từng khoảnh khắc tạo nên, sự tồn tại của các khoảnh khắc thời gian khác nhau đã tạo nên toàn bộ sự tồn tại của tôi.
Tôi cho là hoàn toàn không có khả năng nhận thức tính tất yếu của vận động sinh mệnh của mình từng ý nghĩa triết học - Con người không thể nhận thức một cách vô cùng vô tận đối với vận mệnh của mình mà người ta chỉ có thể chịu sự chi phối của tính tất nhiên, con người nhiều lắm chỉ có thể không ngừng nhận thức tính tất nhiên mà thôi.
Nhưng, tôi hoàn toàn có thể nắm chắc mỗi một khoảnh khắc mà bản thân mình sắp sửa gặp một cách tự giác, đối với mỗi khoảnh khắc có một sự trù tính sáng suốt tự giác, đây sẽ là sự trù tính của tôi đối với vận mệnh. Đây chính là điều mà mọi người nói bám chặt thần của số phận.

II- Số phận ném tôi vào một nơi hoàn toàn xa lạ. Trước sự chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi chọn số phận thuộc về tôi

Có một ngày tỉnh lại, tôi đột nhiên phát hiện mình đang sống trong một thế giới gặp được vận may. Tôi đang đứng trước ngàn vạn nẻo đường, tung hoành ngang dọc, thành bại được mất, cũ mới lẫn lộn.
Mật mã của số phận ở đâu?
Tôi hỏi ông trời, trời không trả lời. Tôi lại hỏi đến đất, đất cứ lặng thinh.
Trước chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi lại chẳng biết đâu mà lần nữa, tôi không biết chúng mỗi cái có kết cục ra sao. Huống hồ, cơ may, hoàn cảnh tôi đều không tự chủ để chọn lựa được. Số phận hoặc cần tôi phải chịu đựng thử thách của gió Tây Bắc trên cao nguyên hoàng thổ, cũng có thể để cho tôi bay qua Thái Bình Dưng đến đất khách quê người để mạ vàng, sau đó áo gấm trở về. Một khoảnh khắc trôi qua, một sai lầm nẩy sinh trong khoảnh khắc, tôi không biết tôi sẽ trở thành một con người tôi như thế nào nữa.
Từ nay nghĩ lại quá khứ làm tôi kích động mãi là tôi cuối cùng trong vùng hoang dã mênh mông không ranh giới, từ trong sốt ruột và gắng gượng đến tột độ, đã tìm thấy một niềm tin kiên cường: bất kể thế giới phức tạp lộn xộn bao nhiêu, bất kể đời người đứng trước sự lựa chọn bao nhiêu, sẽ phi chịu đựng bao nhiêu trắc trở và dằn vặt, tóm lại là thế giới mênh mông không có bất cứ cái gì có thể vượt qua vô trật tự mà đạt tới có trật tự, vượt qua quá trình mà chiếm ngay kết qu được. Đời người cũng chỉ có thể
như vậy.
Như thế, tôi chỉ có thể bắt đầu thiết kế đối với số mệnh từ trong gắng gượng vô trật tự, từ trong “khả năng” vô cùng đa dạng, từ trong vô số những cái “có lẽ” tìm ra được một manh mối đạt được có trật tự.
1. Trù tính cơ bản: tôi cảm thấy được tôi là ai.
Muốn trả lời “tôi là ai” đương nhiên là rất khó khăn, mà muốn trù tính số phận của tôi, điều trước tiên gặp phải lại là vấn đề của “tôi là ai”.
Trong văn hiến kinh điển “áo nghĩa thư” của ấn Độ từ 600 năm trước công nguyên, đã đem cái “tự ngã” xem thành hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, khi nó khảo sát tự ngã với quan hệ nguồn gốc tạo thành thế giới liền nêu lên hai câu hỏi tự nhiên vĩnh hằng là “tôi là ai”, “tôi trong thế giới này nằm ở vị trí nào”. Từ nền văn minh ban đầu cổ Hy Lạp, Bamennid, Socrates, Plato của miền bãi biển Aisin, Lão Đam, Trang Chu của hai bên bờ sông Hoàng Hà, đến “Kinh Phệ Đà” của bên bờ ấn Độ dưng, “Thánh kinh” của môn đồ Cơ đốc giáo, bước đến nền văn hóa phục hưng và cách mạng công nghiệp cận đại kích động lòng người, thẳng tới Carxin, Heidegger, Sartre của phưng Tây hiện đại câu trả lời “Tôi là ai” vờn bay đầy trời, làm cho người ta rối mắt. Nhìn thấu sự biến ảo rối ren của nó, bất kể những nhà hiền triết thuộc dạng nào đều không vượt quá giới hạn nhất định như sau - Tôi là một động vật của văn hóa, tôi sáng tạo ra văn hóa và tự tuân theo văn hóa, sự vui vẻ và lo âu của tôi đều nằm trong mạng lưới văn hóa, đồng thời không thể xông ra khỏi ngoài mạng lưới để tự do tự tại.
Đây là kết luận của số phận, đây là kết luận của lịch sử.
Lịch sử đã từng chế giễu rất nhiều người muốn xông ra khỏi mạng lưới văn hóa để tự do tự tại, bao gồm cả vô số những anh hùng văn hóa. Hầu như đồng thời, học phái Sdorger của phưng Tây và Lý Nhĩ, Trang Chu của phưng Đông đều vắt óc nghĩ thầm thoát khỏi mạng lưới văn hóa để đồng nhất với tự nhiên trời đất, hưởng thụ tự do và yên tĩnh. Học phái Sdorger đem “thuận theo tự do để sống” làm hành vi lưng thiện chân chính, Lão Trang thì có tiếng là “vô vi vô tri” có thể “dốc sức vì đạo đến cực độ, một lòng một dạ tuân theo, mọi vật song song tiến hành mình phi tự quan sát nhiều lần”. Trên thực tế như thế nào? Không chỉ sự phát triển của lịch sử hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng của họ, họ trước sau đều không thể phá nổi mạng lưới văn hóa, mà Chinor, Lão Trang bản thân đã là một bộ phận của thủy tổ nền văn hóa của nhân loại đã trở thành một mắt xích trên mạng lưới văn hóa. ý chí tâm lý của Chinor, Kleiande một chút cũng không thể tự do nhẹ nhõm, họ đem toàn bộ luân lý đều buộc lên vai Thượng đế và số phận, cho rằng về luân lý, yêu cầu cao nhất đối với con người chính là phục tùng Thượng đế và số phận: “Dù là nghi ngờ làm tôi lạc hậu hoặc không tình nguyện, nhưng tôi cũng nhất định vĩnh viễn theo đuổi Ngưi (Ngưi tức Thượng đế, số phận)”. Vốn muốn thoát khỏi mạng lưới văn hóa, không ngờ sau khi đi vòng quanh một cái vòng lớn vẫn bị tự mình chui vào trong mạng lưới văn hóa chặt chẽ hn. Lão Trang cũng thế, vốn muốn thông qua “đạo vô vi” xung phá sự ràng buộc của văn hóa để trở về với hoài bão của tự nhiên, lại trước sau chịu sự cám dỗ sâu sắc của tinh thần vĩnh hằng siêu nghiệm, bị tự mình nhốt khóa trong “cửa nhiều điều kỳ diệu” “nhìn không thấy”, “nghe không biết”, “huyền bí thêm huyền bí”. Từ đó có thể thấy mặc dù họ có suy nghĩ phân biệt sâu sắc và chí hướng cao xa như thế nào, về phưng diện thoát ra khỏi mạng lưới văn hóa vẫn hoàn toàn tốn công vô ích. Giống như Tôn Đại thánh, mặc dù nhào lộn một cái đã đi được mười vạn tám ngàn dặm lại vẫn không thể vượt qua được lòng bàn tay của đức Phật Như Lai.
Về sau tất c những người hòng thoát khỏi ràng buộc, ẩn mình trong đào nguyên hoặc ẩn tích trong núi sâu rừng thẳm hoặc say đắm trước bình rượu dưới trăng để được tự do tự tại đều là những kẻ thất bại, họ nhiều lắm cũng chỉ tìm được cái thắng lợi tinh thần nhất thời mà tạm thời tự say sưa một phen biểu lộ: “Dựng lều ở chốn nhân gian, mà không có tiếng ngựa xe ồn ào”, “Hỏi bạn vì sao có thể như thế, lòng tự xa cách đất, người”, trong ý thức sâu kín rõ ràng là “đất này không có bạc ba trăm lạng”. “Rừng sâu người không biết, có trăng sáng lại soi”. Chẳng qua là nỗi thưng cm đặc biệt đối với người ta, không biết và thân thiết hướng về đối với người có thể biết ta. Có thể vứt bỏ “chuông trống cỗ ngon” và “ngựa đẹp áo sang”, nhưng vẫn cố chấp truy hỏi đời mình có đắc ý hay không, trời sinh ra thân tôi liệu có ích hay không, nếu như không cố chấp như thế, làm sao có thể “nhưng muốn say lâu không muốn tỉnh?” Đâu có “vạn cổ sầu” nữa?
Tôi căn bn không có cách nào chạy trốn, chỉ có thể đứng im trong mạng lưới văn hóa. Tự do chân chính của tôi cũng chỉ có thể là tự do trong mạng lưới văn hóa. Còn như trong mạng lưới văn hóa tôi có thể giành được tự do ở mức độ nào, ở ngày nay vẫn là vấn đề kinh tế, liên quan với chính trị rất ít. Trong lĩnh vực chính trị, tự do thường thường sa ngã thành công cụ của một số người có dã tâm, họ mang theo chiêu bài tự do, thậm chí lấy tự do làm lời hứa hẹn, mê hoặc dân chúng dẹp loạn một trật tự nào đó để đoạt lấy quyền lực cá nhân, đến khi mục đích dã tâm đạt được, để giữ sự thống trị của cá nhân ấy, tất nhiên có thể ngay lập tức xây dựng nên trật tự khác, chẳng bao giờ có thể cho dân chúng mà lúc ban đầu họ kích động và từng hứa hẹn có tự do chân chính, tự do c đến dân chúng chỉ làm công cụ để họ đoạt quyền. Xã hội loài người phát triển đến ngày nay, tự do về thực chất vẫn là một khái niệm kinh tế. Xã hội có trình độ sức sn xuất đến mức độ nào thì có tự do ở mức độ đó. Tự do của tôi vĩnh viễn có liên hệ với hoàn cnh kinh tế cụ thể tồn tại của tôi. Trình độ sức sn xuất càng cao, kinh tế càng phát đạt, tự do của tôi mới có thể càng nhiều. Trái lại, trình độ sức sn xuất càng thấp thì tự do càng ít. Mỗi một xã hội đều chỉ có thể đạt được tự do ở trình độ tưng ứng với mức độ sức sn xuất của nó, bất cứ ai cũng không có cách gì vượt hn trình độ này. Bất cứ hành vi nào vứt bỏ hoàn cnh sinh tồn cụ thể đều có thể làm cho tự do chỉ là lời nói suông mà chẳng có chút giá trị nào. Các nhà triết học xem điều này là quy luật tự nhiên hoặc tính tất nhiên. Spinoza trong “Luân lý học”đem tự do diễn đạt thành nhận thức đối với tất nhiên, tự do không phi là thoát khỏi tính tất nhiên mà là nhận thức tính tất nhiên. Heygel trong “Triết học lịch sử” thì lại càng tiến hành kho sát lịch sử cụ thể đối với tự do một cách sâu sắc hn, lần đầu tiên đem thực tiễn dẫn vào khái niệm tự do, cho rằng tự do là dưới tiền đề nhận thức tính tất nhiên thực hiện sự thống nhất cụ thể của chủ thể và
khách thể.

Về phưng diện nhận thức đối với tự do, Mao Trạch Đông dùng phưng thức ngôn ngữ Hán học điển hình đưa ra diễn đạt hoàn chỉnh nhất, Ông cho rằng tự do là nhận thức đối với tính tất nhiên và ci tạo đối với thế giới khách quan. Giữa nhận thức và ci tạo dùng chữ “Và” đề nối liền lại, vừa có thể thừa nhận là hai cái kế tiếp trước sau - nhận thức tất nhiên ở trước, ci tạo khách quan ở sau, giống như sự thể hiện của Mao Trạch Đông từ lâu về bước đi của đời sống tinh thần: trước tiên có nhận thức, sau mới có tin theo, cuối cùng mới có thể thực hiện trên hành động, đối với tính tất nhiên có nhận thức ở trình độ nào mới có ci tạo khách quan đạt được tự do ở trình độ đó; lại có thể đem c hai cái hiểu là đồng thời - nhận thức tất nhiên, ci tạo thế giới chủ quan đồng thời với ci tạo thế giới khách quan (cũng giống như ci tạo thế giới khách quan đồng thời với ci tạo thế giới chủ quan). Hạt nhân của quan điểm tự do của Mao Trạch Đông là: bất kể nhận thức tất nhiên hay là ci tạo khách quan đều lấy cái “tôi” làm chủ thể, tôi ở đây giành được tự do thực tại nhất mà lại biện chứng nhất. Xuất phát từ loại quan niệm tự do thời gian không gian biện chứng này, Mao Trạch Đông xem quá trình phát triển của lịch sử từ vưng quốc tất nhiên sang Vưng quốc tự do, đây là một quan điểm lịch sử tự do vĩnh viễn mở rộng, ông không dùng “thực hiện tự do” làm điểm cực cuối cùng, mà là tự giác nắm chắc tính vô hạn phát triển lịch sử, đem tự do xem là một quá trình phát triển vô hạn: quá trình vận động từ tất nhiên đến tự do.
Nhìn thấu rõ tự do như thế, tôi mới có thể vượt qua hỗn loạn tạp nham, trong mạng lưới văn hóa mới thật sự tìm được phần số phận vốn thuộc về tôi. Mặc dù tôi vẫn không thể tr lời chuẩn xác được trong mạng lưới văn hóa tôi là ai, cũng không thể nhận thức vô tận đối với số phận của tôi, nhưng tôi hoàn toàn có thể ở ni đây - trong quá trình sáng tạo văn hóa của chính tôi cm thấy một cách chân thực tôi là ai. Khonh khắc mà tôi cm thấy tôi là ai, trước tiên tôi giành được sự tỉnh ngộ của lưng tâm và sự bình yên của linh hồn. Bất kể xung quanh hỗn loạn như thế nào, bất kể tiếng ồn xung quanh bốn phía ầm ĩ đến đâu, tôi trước sau đều vững tin vào cm giác của chính tôi - đành là tôi phi sống một cách chân thực, tôi sẽ không thể không hoàn toàn nhấn mạnh cm giác này của mình.

Cứ lấy việc “đi xuống biển”, mốt đang được tôn sùng nhất của nhiều người trong c nước hiện nay để bàn. Trong tình hình hệ thống thị trường của xã hội chưa giành được sự thống nhất hài hòa với hệ thống văn hóa, đang tồn tại sự phân phối không đồng đều, c chế cạnh tranh không hoàn thiện, tôi cm thấy tôi nên dựa vào hệ thống thị trường của xã hội, thế là tôi sẽ vui vẻ đi :”xuống biển”. Tôi cm thấy tôi vẫn phi vững vàng tiến theo hệ thống văn hóa của xã hội, do đó tôi sẽ vui vẻ như trước đây làm công việc sáng tạo của tôi. Như vậy, hoặc là có may mắn để hạ cố đến tôi hoặc thất bại cũng không luyến tiếc lắm, tôi hiểu rõ đây chính là số phận của tôi. Số phận có thể sắp đặt tôi bắt đầu lại một lần, hai lần. Người đen đủi nhất chính là những người không tìm thấy cm giác tốt đẹp của mình. Hâm mộ đi xuống biển lại không dám xuống biển, không đi xuống biển lại luôn luôn nghĩ phi đi xuống biển, đã đi xuống biển lại cm thấy mất một số cái gì đó đâm ra hi luyến tiếc. Đây chính là vì đời người rất không tự do. Anh ta có thể đứng trước c may đã bỏ lỡ lại bỏ lỡ lại, số phận cũng luôn trói buộc anh ta. Xét đến điều căn bn của nó là ở chỗ anh ta không thể cm thấy một cách chân chính anh ta là ai, anh ta để cho mỗi một khonh khắc của sinh mệnh của mình đều trôi đi uổng phí trong do dự và lưỡng lự. Mắt đang nhìn mình từ thiếu niên đến trung niên, chẳng mấy chốc lại từ trung niên đến những năm xế chiều, một đời chỉ có tự than thở trống không.
Tôi quyết không thể như thế. Bắt đầu từ bây giờ tôi sẽ phi có một trù tính c bn đối với số phận của mình, xây dựng nên cm giác chân thực của mình, tìm thấy vị trí nên thuộc về mình.
Xin đừng lo lắng tôi có thể vì cm giác dâng cao mà trượt vào thuyết duy tâm. Cm giác của tôi luôn là cm giác đối với tồn tại, bao gồm cm giác đã có, hiện có và sẽ có. Sẽ có là sự tồn tại của gi tưởng, bao gồm tồn tại tưng lai có thể thực hiện và “tồn tại” tưng lai không thể thực hiện. Cái trước là một loại lý tưởng, cái sau là o tưởng, ý tưởng điên rồ. Nhưng ý tưởng điên rồ của hiện tại - trong cm giác đối với “tồn tại” mà hiện tại cho rằng tưng lai không thể thực hiện thường thường đang ẩn chứa tính sáng tạo, vận may của tôi chưa biết chừng chính sẽ tại chỗ đó.
Cm giác đối với chưa có và sẽ có sẽ là trực quan (ở đây, đối tượng của trực quan chỉ có tính không gian mà không có tính thời gian), năng lực của trực giác là tiền đề sinh ra tư duy mang tính sáng tạo trong kết qu của tư duy có tính sáng tạo, bộ phận có giá trị lý tính có thể chính là khoa học. Thiết kế có tính chất sáng tạo đời người đồng thời làm cho nó có giá trị lý tính là thiết kế cuộc đời của những người mạnh, người thắng lợi, trong đó tràn ngập trí tuệ nhân sinh rộng lớn. Tôi muốn tự giác giành được vận may thì không thể thiếu trí tuệ này.
Trong chặng đường dài từ cm giác đến khoa học, tồn tại là tính có trước, còn khoa học có giá trị thực tế nhất đối với loài người. Triết học duy tâm thì cắt đi phần đầu (tồn tại) mà bắt đầu từ cm giác cũng cắt đi phần đuôi (khoa học) chỉ nhấn mạnh ở giai đoạn trực giác và tư duy. Triết học sinh mệnh, chủ nghĩa trực quan của Baigeson cũng là dừng lại ở đây, lấy trực quan là trên hết, lấy “tự do tinh thần của khách quan” là trên hết. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chú trọng toàn bộ quá trình của sinh mệnh, vừa truy hỏi lý do tồn tại cm giác, cũng truy hỏi kết qu của trực giác và sau tư duy. Tôi kiên trì nắm ở chỗ này quyết không đem mình đặt vào trong một thế giới cm giác trống rỗng một cách cô lập.

Song, đối ứng với thời gian vật lý, trên thực tế tôi chủ yếu sống trong thời gian cm giác, trong thời gian cm giác trôi qua đi tôi thể hiện cm nhận sự tồn tại và vận động của sinh mệnh, việc này trở thành hạt nhân tinh thần mà tôi theo đuổi. Làm thế nào để trong quá trình lâu dài của thời gian cm giác, dùng trạng thái tâm lý siêu việt nhìn thẳng vào giá trị đời người, đây là một trong những vấn đề khó lớn nhất của đời người bày ra trước mắt tôi, tôi dù một khonh khắc đều không có cách nào lẩn tránh nó, tôi cũng không thể trốn tránh nó.
Thế là đối với số phận, tôi bắt đầu trù tính cụ thể thực tế hơn.
2. Quá trình và mục tiêu trù tính: tôi sống trong “lưỡng thê"
Tôi sống trong “lưỡng thê” với ý nghĩa đau khổ và vui vẻ. Tôi là đau khổ, số mệnh tôi nhất định phi tiếp nhận khổ nạn. Tôi đồng thời lại vui vẻ, tôi theo đuổi vui vẻ. Tôi đồng thời phi tri qua hai thể nghiệm tâm lý hoàn toàn trái ngược đau khổ và vui vẻ.
Ham muốn theo đuổi và gắng gượng trở thành toàn bộ bn chất của tôi. Bởi vì tôi là con người tất nhiên có ham muốn và theo đuổi của bn thân mình. Tôi vì thực hiện nó mà một phút cũng không ngừng cố gắng phấn đấu cũng chưa my may từng buông th mình. Do đó, tất c mọi khổ nạn, thất bại và gắng gượng đều sinh ra từ đó. Hn thế chúng từ trước đến sau đi kèm với c quá trình sinh mệnh của tôi. Đây đưng nhiên là một quá trình tràn ngập đau khổ. Tôi dùng vô số lần trắc trở và thất bại để thêu dệt nên mộng thành công. Có người nói tôi lúc này đây đang trong đau khổ và vô vị giống như một con lắc đang đu đưa qua lại. Tôi đang đứng trước đau khổ hai mặt, đau khổ của thất bại, đau khổ của thành công. Bởi vì tôi thật ra không xem thành công làm mục tiêu đời người của tôi, tôi chỉ từ mỗi lần thành công thể nghiệm giá trị của sinh mệnh, từ đó trong khonh khắc vô cùng ngắn ngủi giành được thành công phát ra một chút tiếng cười vui vẻ. Nhưng ngay tức khắc sinh ra một tìm tòi và theo đuổi mới, từ đó lại bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới. Hn nữa, khi mục tiêu mới còn chưa sinh ra, tức là trước khi bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới, tôi luôn cm thấy trống tri và vô vị mà trước đây chưa từng có. Đó sẽ là sự giày vò tinh thần mà thành công đem đến cho tôi.
Cho nên nói, ham muốn và gắng gượng, trắc trở và thất bại, chán ngán và đau khổ đã tạo nên toàn bộ nội dung trong quá trình sinh mệnh của tôi. ý chí kiên nhẫn, sức mạnh nhân cách của tôi, mỗi một chút thành tựu sự nghiệp của tôi đều sinh ra từ trong hàng chuỗi những khó khăn trắc trở như thế. ý nghĩa và giá trị sinh mệnh của tôi cũng chính là thực hiện trong khó khăn trắc trở như thế. Nếu như không có hàng chuỗi khó khăn trắc trở này, hoặc lẩn tránh nó thì sinh mệnh của tôi có thể trở thành hư vô. Tôi muốn sống một cách thực sự, số mệnh nhất định phi chịu đựng hàng chuỗi đau khổ và giày vò này.

Nhưng, mục tiêu của tôi thật ra không phi ở chỗ đau khổ. Tất c mọi việc làm của tôi, tất c mọi theo đuổi, đều là vì một mục tiêu cuối cùng: vui vẻ. Tôi tin tưởng vững chắc rằng đời người cần phi vui vẻ. Vui vẻ phi giống như một bài th. Vui vẻ phi giống như một con suối nhỏ róc rách tuôn đều, chy đến những con sông đẹp, chy đến tận biển c màu xanh biếc, chy đến tận những ni nó không hề hay biết.
ý chí của Tăng Điểm từng nói, được Khổng Tử tán thành, vốn chính là một mục tiêu cao nhất của đời người - Thời tiết cuối mùa xuân, sự thích nghi với mùa xuân đã quen, năm sáu chàng thanh niên, sáu by cậu thiếu niên rủ nhau ra tắm ở sông Nghi, đứng hóng mát ở Vũ Vu đài, sau đó hồ hởi ra về.
Khổng Tử, một đời hong hốt lo phiền, tích cực vào đời, sở dĩ biểu thị lặng im đối với ý chí trị quốc yên bang của mấy đệ tử trước Tăng Điểm trình bày mà lại chỉ độc nhất tán thành chí hướng của Tăng Điểm, thật ra không phi Khổng Tử sa sút nn lòng có ý nghĩ thoát khỏi trần ai, mà ở chỗ ông đã nhìn thấy mục tiêu cuối cùng của đời người là nên vui vẻ. Còn trị quốc yên bang chỉ là thủ đoạn để thực hiện mục tiêu này.
Khi tôi dựng lên mục tiêu này cho mình, tất c mọi việc làm và theo đuổi của tôi vì mục tiêu này cũng đều trở nên vui vẻ, tất c mọi đau khổ trong quá trình sinh mệnh của tôi cũng đều trở nên vui vẻ. Lúc này, tất c mọi cm giác đau khổ đều tan biến thành mây khói. Đối mặt với tất c mọi tai ách và khổ nạn, tôi cũng đều không thay đổi niềm vui, tôi chỉ cm thấy niềm vui sướng của đời người.
Lúc này, tôi mới cm thấy rằng “ăn một giỏ cm, uống một bầu nước, sống trong ngõ hẻm vắng, người khác chịu đựng nổi nỗi khổ đó, thế mà Nhan Hồi vẫn không thay đổi niềm vui vốn có”, vốn là một giới hạn của nhân cách vĩ đại biết bao.
Do đó, bất kể định mệnh của tôi phi gánh chịu bao nhiêu đau khổ, tôi vẫn yêu đời, tôi vẫn nhiệt liệt ôm hôn cuộc đời. Tôi làm cho quá trình của sinh mệnh thống nhất lại với mục tiêu một cách hài hòa. Từ đó tôi sẽ không sống trong “lưỡng thê” nữa. Dù cho khi bi thuyền ngược dòng, trong tất c mọi gian nan trắc trở của thể xác và tinh thần, tôi cũng có thể thể nghiệm được niềm vui sướng của đời người.
Song, đời người là ngắn ngủi. Khi hưởng thụ cuộc đời vui vẻ, nếu như không có giác ngộ của sinh mệnh, đời người sẽ bị một bóng đen to lớn bao trùm. Cái bóng đen này chính là: tử vong.
3. Trù tính cao nhất: Chỗ quy tụ của tôi là cái chết.
Nhịp điệu của tự nhiên làm cho tôi tất nhiên từ trẻ trai đi đến già lão, ban tặng cuối cùng sinh mệnh cho tôi là để cho tôi dập tắt ngọn lửa của sinh mệnh, đi về Thiền quốc.
Chỉ dùng logic của triết học cũng có thể suy đoán: không có cái chết thì không có sự sống. Đời người không có cái chết thì sẽ không có khái niệm của thời gian. Không có cái chết thì giá trị của sinh mệnh cũng sẽ không có
gì để nói. Cái chết đối với đời người vừa là bi tráng, đồng thời cũng là
thiêng liêng.

Chính vì chết là một việc tuyệt đối, thời gian và sinh mệnh mới hiện rõ vô cùng quý báu. Tôi chính là từ trong bài bi ca truy điệu vong linh, cm thấy được sự vô cùng trang nghiêm và hùng vĩ của bn giao hưởng
sinh mệnh.
Đành là tôi tất nhiên phải đến với tuổi già, tôi chẳng có lí do gì mà không vô cùng quý trọng những năm tháng của tuổi thanh xuân, quý trọng từng phút từng giây, quý trọng mỗi khoảnh khắc trong suốt đời người
của tôi.
Đành là tôi tất nhiên phải đi vào cõi chết, tôi không có lý do gì mà không vô cùng quý trọng sinh mệnh, tôi cần phi cố gắng trước khi chết, thực hiện giá trị sinh mệnh của tôi với mức độ lớn nhất.
Tôi từ bụi trần ai của vũ trụ đến, cuối cùng cũng tất nhiên phải trở về nơi đó.

III- Tôi biết tôi không biết. Tôi từ lời nhắc nhở của á thánh Mạnh tử chưa từng quên: Nhược điểm của một người là thích xưng là bậc thầy trước mặt người khác

Với kiến thức cạn hẹp, sự từng trải bình thường, học thức nông cạn, tôi không bao giờ dám hy vọng quyển sách này trở thành bất cứ sự chỉ giáo nào để trù tính số phận. Điều hiến tặng cho bạn đọc nhiều lắm chỉ là một chút cảm giác của cá nhân tôi đối với vận mệnh cuộc đời mà thôi. Bất kể diễn đạt ngôn ngữ của tôi dưới hình thức như thế nào, ví như đại loại là “bạn nên”, xét đến cùng vẫn chỉ là cảm giác của tôi. Tin hay không tin tùy bạn, tuyệt không có ý là “làm thầy”.
Đã là cảm giác của cá nhân, thiên kiến và sai lầm sẽ không thể tránh khỏi. Wetegenstan đã dạy người ta: Một người đối với sự việc không thể nói ra thì nên giữ im lặng. Nhưng trước mắt tôi thật ra không có ai quy định những điều gì có thể nói, những điều gì không thể nói. Thậm chí chính tôi, trước khi nói cũng thật ra không hoàn toàn biết rõ ràng tôi có thể nói điều gì và không thể nói điều gì. Bởi vì những việc có thể nói lại chưa nói, việc không thể nói lại đã nói ra, cũng không thể tránh khỏi. Đương nhiên, cuối cùng tôi cũng chỉ có thể nói ra những điều tôi có thể nói.
Đồng thời, quyển sách này cũng được xây dựng trên cơ sở đọc hàng loạt lớn tư liệu, tôi đã đứng trên vai của nhiều hiền triết vĩ nhân trong ngoài nước xưa nay và nhiều bạn bè chưa nổi tiếng. Tôi cám ơn họ một cách sâu sắc, tôi đã dẫn ra rất nhiều quan niệm và thực tiễn của họ đối với vận mệnh đời người. Cho nên, quyển sách này cũng là nhận thức và cảm thụ của tôi đối với quan niệm và thực tiễn của họ, ở đây vẫn có thể còn có sai lầm.
Như vậy, tôi vừa cầu mong không khí văn hóa khoan dung, vừa cầu mong bạn đọc chỉ ra những thiếu sót và sai lầm.
Để thức tỉnh niềm hưng phấn đọc các vấn đề khác nhau, phong cách hành văn trong sách này không phải là một vẻ, một cách điệu, hầu như là có đủ mọi phong cách pha trộn lẫn nhau - hoặc kiểu dẫn dắt, hoặc có tính biện luận, hoặc có tính kể chuyện, hoặc có tính triết lý, từ đó xét về toàn cục cũng đã hình thành một phong cách đặc biệt của quyển sách này.


--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
BichDu
post Sep 26 2011, 07:03 PM
Post #2


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country










99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 32

91. Khoảnh khắc giành được thành công

* Theo đuổi thành công và bản thân thành công đều không phải là mục tiêu của đời người.
* Ðau khổ kèm theo cả quá trình theo đuổi thành công. ở đây chúng ta nhìn thấy, đời người gặp phải hai loại đau khổ: đau khổ của thất bại và đau khổ của thành công.
Một khoảnh khắc ngắn ngủi giành được thành công, bất kể bạn lý giải nó từ góc độ nào, nó đều cho người ta cảm giác vui vẻ chân thực nhất.
Thành công có nghĩa là giá trị đời người được thực hiện, cảm giác vui vẻ của con người tự nhiên sinh ra từ trong giá trị mà nó thực hiện.
Nhưng, theo đuổi thành công và thành công bản thân đều không phải là mục đích theo đuổi của đời người, mà chỉ là thủ đoạn thực hiện mục tiêu của đời người.
Mục tiêu của đời người chỉ ở chỗ vui vẻ. Ðời người nên vui vẻ. Vui vẻ phải giống như một con suối nhỏ khoan khoái, lờ đờ tuôn ra, chảy đến sông ngòi đẹp đẽ, chảy đến biển cả mênh mông, chảy đến những nơi xa xăm mà nó không hề biết tới. Ðời người chỉ có vui vẻ mới có hạnh phúc, tốt đẹp đáng nói. Tránh khổ cầu vui là bản tính của con người. Tất cả mọi mong cầu, tất cả mọi việc làm, tất cả mọi gắng gượng, tất cả mọi phấn đấu của con người, mục tiêu cuối cùng của nó không đều là vì vui vẻ ư? Một sự việc không thể làm cho bạn vui vẻ, bạn có thể theo đuổi không?
Nhưng, thực hiện vui vẻ ở chỗ giành được thành công, ở chỗ thực hiện giá trị của sinh mệnh. Mà giành được thành công tức trong quá trình thực hiện giá trị sinh mệnh tràn ngập những đau khổ. Thành công là kết cục của đau khổ. Thành công to lớn là kết cục của đau khổ to lớn. Vô số lần thành công là vô số lần kết cục đau khổ. Không có đau khổ thì không có thành công. Ðạo lý này hết sức rõ ràng, tất cả mọi thành công đều bắt nguồn từ những gắng gượng, phấn đấu và thất bại của con người, tất cả mọi việc này đều thấm đẫm mồ hôi cần cù, kèm theo cô đơn và đau khổ.
Lý giải mục tiêu và quá trình như thế nào? Lý giải sự vui vẻ của mục tiêu và sự đau khổ trong quá trình thực hiện mục tiêu này mà theo đuổi thành công như thế nào? Thể nghiệm hai loại tâm lý vui vẻ và đau khổ hoàn toàn trái ngược nhau trong đường đời thống nhất lại ra sao? Trước khổ sau vui là ý nghĩa gì? Chẳng lẽ đời người ngoài khoảnh khắc ngắn ngủi giành được thành công là vui vẻ ra, thời gian khác còn lại đều là đau khổ chăng? Nếu là như thế, vì sự vui vẻ chốc lát ngắn ngủi như thế mà phải trả ra sự đau khổ to lớn dài đằng đẵng như thế, thì đời người phải chăng thật không đáng?
Chúng ta thật ra không thể máy móc dùng thời gian dài ngắn và trước sau để lý giải mục tiêu và quá trình. Trên thực tế, mục tiêu của đời người thể hiện trong mỗi một quá trình của đời người. Mục tiêu bản thân cũng lại tồn tại trong quá trình. Ðời người có rất nhiều, rất nhiều theo đuổi, cũng lại có nghĩa là có rất nhiều, rất nhiều mục tiêu. Theo đuổi lớn tức mục tiêu lớn, theo đuổi cuối cùng tức mục tiêu cuối cùng, theo đuổi nhỏ tức mục tiêu nhỏ, theo đuổi có tính giai đoạn tức mục tiêu có tính giai đoạn.
Xét từ quá trình theo đuổi thành công một cách đơn độc, đời người là đau khổ. Như trước đã nói, đau khổ đi kèm với cả quá trình theo đuổi thành công. ở đây, chúng ta nhìn thấy đời người gặp phải hai loại đau khổ: đau khổ của thất bại và đau khổ của thành công. Ðau khổ của thất bại chúng ta rất dễ dàng cảm nhận ra. Ðau khổ của thành công là dạng ẩn. Bởi vì đành rằng thành công là tổng của vô số lần thất bại, như thế thì thành công cũng lại là tổng của vô số lần đau khổ. Hoặc nói thành công chỉ là sự bắt đầu của một vòng đau khổ mới. Quả vậy, khoảnh khắc giành được thành công, thì đau khổ tiêu tan, người ta cảm thấy vui vẻ thực sự. Nhưng từ cả quá trình của cuộc đời để xét, khoảnh khắc như thế thực quá ngắn ngủi, ngắn ngủi đến mức chẳng đáng kể. Khoảnh khắc thành công chỉ có nghĩa là mục tiêu cũ đã thực hiện. Từ lúc đó đến trước lúc bạn sản sinh mục tiêu mới, nếu như ở đây có một khoảng trống - sau thành công không nghĩ lại giành thành công khác, ngừng trệ không tiến lên phía trước, tại lúc này bạn sẽ nghiệm thấy sự đau khổ trống rỗng vô vị, đây chính là sự đau khổ của thành công. Chỉ có khi mục tiêu mới sản sinh, nỗi trống trải vô vị của bạn mới có thể tiêu tan. Một câu ngạn ngữ thường lưu hành ở nông thôn: ?Trẻ con mong ăn tết, người lớn mong gặt hái? đã ngấm nặng đạo lý này. Khi ăn tết người lớn chỉ là vì cái vui vẻ của trẻ con, còn cái vui vẻ của chính anh ta chỉ ở khoảnh khắc anh ta thu vào những hạt lúa vàng óng. Cùng với niềm vui vẻ đó qua đi, anh ta trên thực tế đang nóng lòng chờ đợi giành được thành quả lao động của năm sau. Sản sinh mục tiêu mới có nghĩa là lại phải bắt đầu sự theo đuổi mới và đau khổ của gắng gượng. Cứ như thế lập đi lập lại cho đến vô cùng.
Cho nên nói, theo đuổi, đau khổ của gắng gượng, đau khổ của thất bại và đau khổ của trống trải vô vị sau thành công đi kèm với toàn bộ quá trình của đời người.
Cho nên nói, theo đuổi thành công không phải là mục tiêu cuối cùng của đời người, người ta không nên sống một cách đau khổ như thế.
Như vậy, khi chúng ta chuyển đổi đi một góc nhìn, chỉ xét từ mục tiêu cuối cùng của đời người, ở đây chúng ta thấy, đời người là vui vẻ. Xin hãy xem, đã đành là mục tiêu của đời người ở chỗ vui vẻ, như thế thì theo đuổi mục tiêu này cũng chẳng phải là vui vẻ chăng? Vì mục tiêu này mà gắng gượng cũng chẳng phải là vui vẻ chăng? Vì mục tiêu này thất bại cũng chẳng phải là vui vẻ chăng? Vì mục tiêu này giành được thành công đương nhiên là vui vẻ rồi. Chính là trên ý nghĩa này, chúng ta nói, vì lý tưởng tốt đẹp của loài người, vì tiền đồ sáng sủa của tổ quốc dù khổ thêm cũng ngọt bùi. Chính là trên ý nghĩa này, có người xem phấn đấu là niềm vui, có người xem phấn đấu là hạnh phúc.
Tổng hợp hai cách nhìn này, chúng ta phát hiện, một đời người có lý tưởng cao xa, có mục tiêu phấn đấu tự giác, đồng thời thể nghiệm đau khổ và vui vẻ. Tất cả mọi theo đuổi, gắng gượng, thất bại và thành công của anh ta đều là đau khổ, đồng thời cũng đều là vui vẻ - không trải qua đau khổ thì không thể thể nghiệm được vui vẻ; vì vui vẻ mà đau khổ, đau khổ cũng là vui vẻ. Trong vui vẻ đó có đau khổ, trong đau khổ có vui vẻ. Ðời người chính là thể nghiệm và hài hòa thống nhất lại hai loại tâm lý hoàn toàn trái ngược như thế.
Ðồng thời, chúng ta phát hiện, chỉ có không say đắm trong vui vẻ của khoảnh khắc giành được thành công, mà quan tâm nhiều hơn toàn bộ quá trình đời người để thống nhất hài hòa đau khổ và vui vẻ, mới có thể tạo nên một nhân cách vĩ đại.
Phạm Trọng Yêm trong "Nhạc Dương lâu ký" chính là biểu hiện một nhân cách vĩ đại như thế: Trong quá trình phấn đấu đời người anh ta tích cực vào đời, cáng đáng trách nhiệm vĩ đại lo cho dân cho nước, bất kể công danh ra sao, bất kể sự thăng trầm trên quan trường đều là đau khổ. Ông nói: "Ngồi ngất nghểu trên miếu đường thì phải lo cho dân; ở chốn xa xăm chốn giang hồ, thì phải lo cho vua. Tiến cũng lo, mà thoái cũng lo". Lúc này chỉ có cảm giác "lo gièm pha sợ giễu cợt, đầy cảnh tiêu điều". Nhưng khi anh ta tỉnh ngộ mục tiêu cuộc đời của mình là "Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ" thì mức độ tinh thần cao thượng này làm cho tất cả mọi gắng gượng, tất cả mọi lo âu và đau khổ ngay tức khắc hóa thành một cuộc sống có đạo đức, có chí hướng. Do đó mới có thể "không coi vật chất là vui, không coi mình mà buồn", do đó mới có được thể nghiệm tình cảm "Cõi lòng thanh thản, sủng ái sỉ nhục đều quên, đem rượu ra trước gió, niềm vui tràn ngập".
Tất cả mọi nhân cách vĩ đại đều thể nghiệm thành công và thất bại, đau khổ và vui vẻ của họ như thế.

92. Khoảnh khắc hám hưởng thụ quá mức

* Tham đòi hỏi ăn, mặc, ở, chơi bời xa xỉ quá mức, chỉ có thể mang lại tai họa khôn lường.
* Nếu như người ta quá hám hưởng thụ, lười biếng mà lại ăn không nằm khoèo, không thường động tay động não thì có thể tăng nhanh già yếu đến tử vong.
Mọi người đều theo đuổi hưởng thụ, một đời của con người cũng là một đời của hưởng thụ. Bất kể là hưởng thụ vật chất hay hưởng thụ tinh thần, mọi người đều mong muốn có được nó. Ðây là động cơ đầu tiên của đời người.
Song, chỉ có với trạng thái thân thể và tinh thần đều khỏe mạnh, con người mới có được cảm giác của hưởng thụ.
Một hôm, ông A gặp ông B. Ông A hỏi: "Ông anh, dạo này như thế nào?"
Ông B trả lời: "Mọi thứ khác đều còn cảm thấy được, chỉ có thân thể không được tốt lắm". Tiếp đó liền hỏi ông A: Còn ông anh thì sao?"
Ông A đáp: "Tôi và ông hoàn toàn ngược nhau. Thân thể còn được, chỉ có các thứ khác đều cảm thấy chẳng ra sao cả".
Hai ông A và B đều không có được niềm vui thú hưởng thụ đời người, bởi vì ông A tinh thần không tốt, còn ông B thì thân thể không an toàn. Ðây là chúng ta từ trạng thái tồn tại của cuộc đời nào đó để lý giải hưởng thụ.
Nếu như từ trạng thái thế giới bên ngoài cho chúng ta để lý giải, thì chỉ có khi thế giới bên ngoài - bất kể là những thứ của vật chất, những thứ của tinh thần, bất kể là ăn, mặc, ở, đi lại, tiếng hát, sắc đẹp, vui chơi - làm cho thể xác và tinh thần của chúng ta đều thích nghi, chúng ta mới có cảm giác hưởng thụ đời người. "Thích nghi" chính là vừa phải, vừa không phải là bất cập lại vừa không phải là thái quá, không thiên lệch về cái nào phù hợp tinh thần trung dung. ở đây, bất cập chính là thiếu thốn, khiếm khuyết, không đủ, cũng tức là bần cùng. Cùng thì phải biến chính là chỉ từ thiếu thốn không thích nghi hưởng thụ mà thông qua phấn đấu biến thành thích nghi hưởng thụ. "Thái quá" chính là quá mức, chính là xa xỉ. Xa xỉ và bần cùng đều không thích nghi với hưởng thụ của con người như nhau. Kiềm chế xa xỉ chính là chỉ từ quá mức không thích nghi với hưởng thụ mà thông qua kiềm chế biến thành thích nghi hưởng thụ. Ðối với hưởng thụ cuộc đời để xem xét, cố gắng phấn đấu và kiềm chế xa xỉ có ý nghĩa quan trọng ngang nhau. Hơn nữa đối với văn minh và tiến bộ của xã hội để xem xét, cũng có giá trị ngang nhau, cái trước đem không đủ bù cho đủ, còn cái sau thì đem dư thừa tiết kiệm bớt.
Mọi người chúng ta đều rất dễ dàng lý giải bần cùng không thích nghi hưởng thụ của con người, như đói rét không thích nghi thể xác của con người, không có sách đọc không thích nghi với tinh thần con người có văn hóa, lại không dễ dàng lý giải tham làm đòi hỏi hưởng thụ quá mức, tức xa xỉ và bần cùng không thích nghi hưởng thụ như nhau. Trên điểm này, cổ nhân của Trung quốc đã lĩnh hội được rất sâu sắc, trí tuệ trung dung mà họ biểu hiện hầu như hoàn mỹ đến mức không thể xoi mói được. Họ cho rằng: người yêu quý sinh mệnh bản thân, giỏi về hưởng thụ đời người, biết may cắt quần áo có thể làm cho thân thể được ấm áp là được. Không tham đòi hỏi quá dầy quá ấm, quá dầy quá ấm làm cho người bí tắc mạch lạc, khí huyết không lưu thông. ?n uống hợp khẩu vị, thỏa mãn bụng đói là được rồi, không tham đòi hỏi của ngon vật lạ quá mức, càng không thể ăn quá no. Ăn quá no tất nhiên làm cho dạ dầy quá đầy, dạ dầy quá đầy, ngực bụng sẽ có thể bị căng buồn bực, ngực bụng căng buồn bực sẽ có thể toàn thân không thông suốt, đây chính là béo tốt làm hại xương cốt. Phòng ở không tham đòi hỏi quá cao lớn, trống rộng, phòng quá cao lớn trống rộng nhiều âm khí, nhiều âm khí thì có thể sinh ra bệnh đột nhiên hôn mê bị ngã và tứ chi lạnh buốt (Jue Syndrome). Nghe âm nhạc chỉ ở chỗ làm cho tính tình của mình bình tĩnh yên vui là được, không nên nghe những điệu nhạc thê thảm đồi trụy, như thế làm cho người ta hậm hực không vui. Cũng không nên đi nghe những điệu nhạc ồn ào ầm ỹ quá tiếng sét, như thế có thể làm cho người ta càng thêm nóng nảy không yên (tôi nghĩ, những băng nhạc như sấm sét ngày nay đang thịnh hành gần như hò hét một cách điên cuồng, đối với thần kinh và tinh thần của con người có ích chăng? Có hại chăng? Có trái ngược với giá trị của âm nhạc chăng? Ðang đợi chờ sự thảo luận đánh giá của lý luận và nghiệm chứng của thực tiễn). Tham đòi hỏi ăn, mặc, ở, đi lại quá mức, chỉ có thể mang lại tai họa khôn lường, dẫn đến toàn thân phù nề, gân cốt tích trệ không thông, huyết mạch nghẽn tắc không lưu thông, cửu khiếu trống rỗng mất cơ năng bình thường.
Người xưa cho rằng, vạn sự vạn vật của thế giới, vốn là dùng để nuôi dạy sinh mệnh, nhưng lại có người vì tham đòi hỏi hưởng thụ vạn vật quá nhiều là làm cho vạn vật ngược lại trở thành tai họa làm hao tổn sinh mệnh của họ. Ví như tham đòi hỏi hưởng thụ xe cộ quá nhiều, ra khỏi cửa là ngồi xe, đi về nhà lại ngồi xe, chân không bén đất, phải đạt được mức dễ chịu, chiếc xe này trở thành nguyên nhân làm chân của anh ta sinh bệnh. Vì tham đòi hỏi hưởng thụ thịt béo rượu ngon quá nhiều, ăn no uống đã, thâu đêm suốt sáng, rượu thịt đó lại trở thành thuốc độc làm thủng dạ dầy và ruột của anh ta. Anh ta vì tham đòi hỏi hưởng thụ gái đẹp và hoan lạc quá nhiều, chìm đắm trong nữ sắc và dâm ô, gái đẹp và hoan lạc bèn trở thành lưỡi rìu sắc ngọt chặt đứt sinh mệnh của anh ta.
Những việc như vậy, hễ là hám hưởng thụ quá mức, kết quả của nó đều trở nên không những không được hưởng thụ, ngược lại lại làm hại mình, thật sự mình làm mình chịu.
Trong lý luận của người Trung quốc xưa về giữ gìn sinh mệnh của mình, hợp lý hưởng thụ đời người, thuyết mang đặc sắc trí tuệ Trung quốc nhất là thuyết vận động sinh mệnh. Họ cho rằng sinh mệnh vốn bắt nguồn từ tinh khí, muốn làm cho sinh mệnh khỏe mạnh, sống lâu chính là phải tích tụ tinh khí, vận chuyển tinh khí. Tích tụ để vận chuyển, vận chuyển mới có thể tích tụ. Nước chảy không sinh gỉ, chốt cửa không bị mối, sinh mệnh trong vận động, người cần phải không ngừng hoạt động làm lụng, làm cho toàn thân nằm trong trạng thái hoạt bát để giữ cho khắp người tinh khí lưu thông. Bằng không, nếu như tham đòi hỏi nhàn hạ quá mức, lười biếng trở thành bản tính, không hoạt động, không làm lụng, tinh khí trong thân người sẽ không thể vận hành mà dẫn đến tích tụ ứ đọng lại. Tích tụ ở phần đầu thì đầu sưng mặt phù, tích tụ ở phần tai thì tai ù, tai điếc, tích tụ ở phần mắt thì khoang mắt sưng đỏ, thị lực suy giảm, tích tụ ở phần mũi thì đường mũi bị ngạt không thông, tích tụ ở phần bụng thì bụng buồn bực căng đầy, tích tụ ở phần chân thì chân sưng, chân mềm. Chúng ta còn biết, nếu như người ta hám hưởng thụ quá mức, lười biếng mà lại ăn không nằm khoèo, không thường động chân động não thì có thể tăng nhanh già yếu đến tử vong.
Trong thời đại biến đổi nhanh chóng ngày nay, nếu chúng ta tham đòi hỏi an nhàn quá mức, không thường xuyên đi tiếp xúc với xã hội, tiếp xúc với đại chúng và thực tế dấn thân vào dòng thác cải cách, chúng ta sẽ rất nhanh chóng sản sinh cảm giác bị thời đại vứt bỏ.

93. Khoảnh khắc biết được mình không còn trẻ nữa

VIII. Thu vàng rực rỡ
* Mặt trời của hôm qua đã tắt bình yên, nhưng mặt trời của hôm nay vẫn soi chiếu bạn.
* Một cụ già 101 tuổi nói: "Cái mà tôi nhớ nhung nhất là thuở thanh xuân của tôi khi 70 tuổi".
"Tôi không còn trẻ nữa".
Nhưng bạn đã từng trẻ.
Ðó là những năm tháng của giông tố bão táp dữ dội. Bạn đã từng nói với tôi, trong ký ức của bạn, những ngày mưa gió là rất ít, trời quang xanh ngắt một màu, cũng nổi gió, đôi lúc gió còn rất to. Bạn cũng đã từng leo lên đến đỉnh núi để nhìn mặt trời qua những đám mây mù.
Ngọn núi ấy không cao, chỉ là một ngọn núi nhỏ của một vùng đồi rất phổ biến, rất bình thường. Trên núi không hề có những con đường lát đá để cho du khách đi, trên thực tế là không có đường. Bạn đã đạp lên những ngọn cỏ khoác đầy những giọt sương long lanh, một mạch chạy lên trên núi. Trên núi không có những cảnh như gà vàng báo sáng có thể để cho du khách chiêm ngưỡng, chỉ có những cây tùng nhỏ lưa thưa. Khi mặt trời và những ngọn gió làm khô hết những giọt sương bạn mới chạy xuống núi.
Bạn cũng đã từng đến các bãi biển, cầm chiếc vỏ ốc trong tay hồi lâu. Bạn hiểu rất rõ ràng ngọn sóng rất cao sắp ùn ùn đến, nhưng bạn không hề để ý. Một thoáng, khi ngọn sóng đập lên thân người bạn, bạn kêu lên một tiếng to một cách thoải mái. Tiếng kêu hòa trộn vào trong tiếng sóng bị cuốn đi đến nơi xa vời.
Lúc ấy, trong mỗi một tế bào ở khắp người bạn đều ngấm dục vọng sáng tạo, bạn chạy băng băng xung quanh bốn phía, không biết ưu sầu là gì, cũng không biết vì sao trắc trở và thất bại. Bạn kêu la, chạy nhảy không biết mệt mỏi.
Bạn cũng đã từng tiễn đưa vô số đêm không ngủ. Khi gió rét căm căm gào rít bên ngoài cửa sổ của bạn, vỗ đập vào mép cửa của bạn, bạn đang cúi đầu xuống bàn chăm chú viết sách. Những ngày mặt trời làm tan băng tuyết, bạn cũng đã từng chuẩn bị hành trang đi đến nơi mà bạn và người khác đều thường đến.
Những con đường nhỏ uốn khúc quanh co, dài dằng dặc trong rừng, có lúc nó đột nhiên biến mất trước mắt bạn, bạn đã từng bò qua những bui gai giăng đầy núi, đa leo lên vô số vách đá cheo leo.
"Tôi không còn trẻ nữa"
Nhưng bạn có thể trở nên trẻ lại.
Bạn nói tiếng "lại" vang động lạ kỳ, đã dốc hết nỗi vui sướng và tự hào của bạn. Bạn đã tiễn đưa mọi mê hoặc và gắng gượng đón lại một cái tôi bình thản điềm nhiên. Lúc đó, bạn đang vỗ về những vết thương lòng chồng chất, những cảnh tượng tàn phá diễn ra đầy trước mắt, mỉm cười tạm biệt ngày hôm qua. Không chút luyến tiếc, hàng ngày bạn vẫn vui vẻ tiếp nhận sự nhào nặn của mặt trời. Bạn biết rất rõ ràng, thế giới tự nhiên vẫn chuyển động không ngừng. Mặc dù mặt trời của ngày hôm nay đã không phải là mặt trời của ngày hôm qua nữa, mặt trời của ngày hôm qua đã bình yên tắt, nhưng mặt trời của ngày hôm nay vẫn soi chiếu bạn. Chỉ cần bạn vui lòng, bạn mãi mãi đều có mặt trời của ngày hôm nay. Lòng bạn vĩnh viễn cùng nhảy nhót với mặt trời.
Ðã từng biển cả khó tìm nước, loại trừ Vu sơn không có mây.
Da dẻ bị sương gió nung nấu hơi có chút co rúm răn reo, những vết nhăn mặt trời rạch trên trán bạn, đó là những tượng trưng của mọi khó khăn trắc trở, chín chắn, trí tuệ và giàu có. Từ đó, bạn không lang thang và lưỡng lự nữa, luôn luôn hướng về mục tiêu mình đã chọn định. Lấy kinh nghiệm đi đường của bạn - có lẽ cầu bạn đã vượt qua còn nhiều hơn đường tôi từng đi, bạn đã đến được một nơi hoàn toàn mới - nơi không những không nghi ngờ mà còn có thể muốn làm gì thì làm lại không vượt quá phép tắc. Chỉ dựa vào điểm này, bạn việc gì không thể làm, việc gì làm không thành?
Vua dầu mỏ miền bờ đông Thái Bình Dương gọi là Harmor khi ông 58 tuổi vẫn dũng cảm nhảy vào việc hấp dẫn mới mẻ của ngành dầu mỏ, đã nhen lại ngọn lửa của sinh mệnh. Năm 1974, khi Harmor 76 tuổi, công ty dầu mỏ Phương Tây của ông thu nhập năm đã vượt qua cửa ải 6 tỷ đô la, năm 1981 khi Harmor 83 tuổi, công ty của ông đã trở thành xí nghiệp quy mô lớn nhất, hiệu suất cao nhất toàn nước Mỹ. Ông luôn luôn đang ôm ấp mặt trời của hôm nay, đang mơ của ngày mai.
Câu nói nổi tiếng của Harmor: "Ðời người sáu mươi mới bắt đầu"
Xiao Bo Na nói càng triệt để hơn: "Sáu mươi về sau mới là cuộc đời chân chính".
Henry Gassoway Daris 80 tuổi vẫn tỏ ra có sức sống mãnh liệt về thân thể và tinh thần, còn xuất hiện với tư cách ứng cử viên Phó Tổng thống của Ðảng Dân chủ Mỹ.
"Tôi không còn trẻ nữa".
Nhưng bạn hà tất phải nói không còn trẻ nữa.
Hà tất phải mang một chút đau buồn? Phán định bạn không trẻ nữa, trước hết chỉ có bản thân bạn.
Mặt trăng vốn luôn luôn tròn, tại sao chúng ta lại thường nhìn thấy nó khuyết, chỉ vì có một bộ phận tia sáng của mặt trời vì quả đất che không thể phản xạ cho nó, từ đó mà che mắt của chúng ta, làm cho chúng ta phát sinh sai lầm về thị giác.
Phán đoán của bạn đối với mình còn trẻ hay không cũng thường thường sai lầm.
Nếu như bạn được hưởng tuổi thọ như cụ Phùng Hữu Lan 95 tuổi, thì khi bạn 60 tuổi làm sao không thể nói không trẻ? Bạn còn có thể đi tiếp đoạn đường 35 năm nữa. Lúc này bạn cũng trẻ giống như một người hiện là 25 tuổi nhưng tưởng chỉ sống được đến 60 tuổi, những việc mà anh chàng 25 tuổi kia có thể làm, bạn cũng có thể làm, có lẽ bạn làm còn khá hơn anh ấy làm.
Có một cụ già 101 tuổi nói với người ta: "Cái mà tôi nhớ nhung nhất là thuở thanh xuân của tôi khi 70 tuổi". Ông cụ muốn trẻ đi 30 tuổi, 70 tuổi đối với cụ là thuở thanh xuân.
Không cần thiết mình phải phán quyết tử hình đối với mình, tự cho là có mấy loại bệnh ở trong người, cho là yếu đuối sẽ không thể sống lâu ở đời nữa. Trường thọ nhất loạt chỉ có thể ban tặng cho những người lạc quan, đối với những người đau buồn, đối với những người mà mình tự phán quyết mình tử hình quá sớm, thì một người cũng không thể đem cho được. Mẹ của Mark Twain khi 40 tuổi thân thể nhỏ bé lại yếu đuối, được xác nhận là có bệnh kinh niên trong người thế nào cũng sẽ không sống được lâu trên đời nữa. Nhưng vì bà luôn luôn vui vẻ lạc quan, không biết buồn rầu là gì, kết quả là bà đã sống đến tận 88 tuổi. Hơn thế nữa khi bà 82 tuổi còn có thể vượt khoảng đường xa xôi đi thăm người yêu của mình lúc 18 tuổi. Nhà văn nổi tiếng Bạch Vi lúc trẻ luôn luôn bệnh tật, bởi vì bà là người cởi mở độ lượng, sau 60 tuổi mọi tật bệnh của thời trẻ tuổi lại mất hết một cách thần kỳ mãi đến khi 95 tuổi vĩnh biệt cõi đời vẫn một mình nhẹ nhõm.
"Khả năng vô cùng nhiều đều ở tương lai của bạn. Bạn có thể sống được bao nhiêu năm" Trên thế giới không có một ai có thể nói đúng.
George Meredith, khi chúc mừng sinh nhật lần thứ 74 của ông đã diễn đạt một tâm trạng đẹp đẽ nhất, ông nói:
"Bất kể là về tâm linh hoặc về đầu óc, tôi không cảm thấy tôi là đang già. Tôi vẫn dùng con mắt của người trai trẻ để nhìn đời người. Tôi thường thường mong muốn, tôi không giống như những người trí tuệ tê liệt sinh hoạt đần độn như thế, trở thành một người già yếu."
Nếu như tâm linh của bạn luôn giữ được ở mức độ này, bạn tất nhiên là may mắn.
Cho nên, bạn không cần thiết phải nhớ mãi: tôi không còn trẻ nữa.



--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người   Sep 26 2011, 04:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 2 1- K...   Sep 26 2011, 04:56 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 3 4- K...   Sep 26 2011, 05:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 4 7- K...   Sep 26 2011, 05:06 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 5 10- ...   Sep 26 2011, 05:09 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 6 13- ...   Sep 26 2011, 05:22 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 7 16-K...   Sep 26 2011, 05:25 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 8 19- ...   Sep 26 2011, 05:27 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 9 22- ...   Sep 26 2011, 05:29 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 10 25-...   Sep 26 2011, 05:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 11 28-...   Sep 26 2011, 05:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 12 31-...   Sep 26 2011, 05:50 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 13 34-...   Sep 26 2011, 05:52 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 14 37-...   Sep 26 2011, 05:55 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 15 40-...   Sep 26 2011, 05:57 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 16 43-...   Sep 26 2011, 05:59 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 17 46-...   Sep 26 2011, 06:02 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 18 49-...   Sep 26 2011, 06:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 19 52-...   Sep 26 2011, 06:07 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 20 55-...   Sep 26 2011, 06:10 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 21 58....   Sep 26 2011, 06:28 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 22 61....   Sep 26 2011, 06:31 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 23 64....   Sep 26 2011, 06:36 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 24 67....   Sep 26 2011, 06:39 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 25 70....   Sep 26 2011, 06:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 26 73....   Sep 26 2011, 06:43 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 27 76....   Sep 26 2011, 06:46 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 28 79....   Sep 26 2011, 06:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 29 82....   Sep 26 2011, 06:51 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 30 85....   Sep 26 2011, 06:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 31 88....   Sep 26 2011, 07:01 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 32 91....   Sep 26 2011, 07:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 33 94....   Sep 26 2011, 07:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 34 97....   Sep 26 2011, 07:07 PM


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 21st July 2025 - 04:53 PM