![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Cõi yêu ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 450 Joined: 29-December 09 Member No.: 7,278 Country ![]() ![]() |
![]() 99 Khoảnh Khắc Đời Người ZHANG ZI WEN (Trương Tự Văn) I- Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng? Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại. Đối với tương lai, nếu như chỉ xét về thời gian, cũng dễ dàng lý giải: phàm thời gian không có trong quá khứ mà lúc này lại không có mặt đều có thể gọi nó là tương lai. Song sinh mệnh của tôi trong thời gian tương lai đặt vào những nội dung gì, tôi cũng không biết nữa. Nếu như suy luận theo logic, có thể nói, tôi có tương lai. Nhưng đây chỉ là một khái niệm chưa được nghiệm chứng mà thôi. Sự thật trước mắt là, đối với thời gian lúc này không có mặt và nội dung không biết, đều không thể coi là cái hiện tại tôi có. Duy chỉ có khoảnh khắc lúc này thuộc sở hữu của tôi. Duy chỉ có khoảnh khắc này, sinh mệnh của tôi mới có đầy ý nghĩa thực tại. Sinh mệnh chỉ có thể sống tại khoảnh khắc lúc này, không thể sống trong quá khứ, cũng không thể sống ở tương lai. Khoảnh khắc thời gian là một cái gì đây? Nó vừa không thuộc quá khứ, trái lại lại không ngừng trở thành quá khứ; vừa không thuộc về tương lai nhưng lại không ngừng đón nhận tương lai. Nó vừa là một giới hạn có thể chia cắt vô hạn giống như một điểm không có chiều dài; lại là một giới hạn có thể kéo dài đến vô hạn, 38 năm có thể tính là một khoảnh khắc, trong sinh mệnh vũ trụ, toàn bộ thời gian loài người tồn tại cũng có thể xem là một khoảnh khắc. Từ đó đủ thấy khoảnh khắc chốc lát là thời gian không thể tưởng tượng được. Mà cái tôi có, chỉ có thể là khoảnh khắc thời gian, như thế tôi là một tồn tại không thể tượng tượng nổi? Khi tôi nhảy khỏi vũng bùn của quan niệm thời gian kiểu máy móc, vứt bỏ những ngụy biện như đúng mà là sai, nhận thức được tính vô cùng sinh động của tồn tại sinh mệnh, tôi mới sáng tỏ trong lòng. Tôi là sinh mệnh sinh động nhất trong vũ trụ, trên đường trục thời gian là một quá trình sống và trưởng thành từ đầu đến cuối luôn luôn mở rộng. Tôi vừa nhận thức được những việc phát sinh trong quá khứ không thể trở thành cái mà hiện tại tôi có, lại đem quá khứ xem là sự mở đầu của quá trình sinh mệnh, từ đó trân trọng giá trị đặt nền móng khởi nguồn của nó trong lịch trình của sinh mệnh. Hơn nữa, khi nghĩ lại đặc trưng tính toàn cục của sinh mệnh, tôi phát hiện ra “quá khứ” của tôi cũng quyết định hiện tại của tôi - tôi luôn luôn ở trạng thái trôi đi, hiện tại chẳng mấy chốc đã hóa thành quá khứ, như thế “quá khứ của tôi có thể có ý nghĩa gì cũng sẽ quyết định bởi việc làm hiện tại của tôi. Cũng chính là, tôi luôn luôn không ngừng viết nên lịch sử của mình, sự việc hôm nay đến ngày mai sẽ trở thành việc của quá khứ, muốn cho mọi việc của tôi ngày hôm qua có giá trị thì phi làm sao mỗi một sự việc của tôi hôm nay đều có giá trị. Tương lai luôn đang mở rộng ở hiện tại, bởi vì hiện tại tôi đang luôn trù tính tưng lai, mỗi một ý nghĩa hiện tại mà tôi tạo nên cũng chính là trải ra và tích tụ cho tương lai. Như thế, đặt mỗi một khoảnh khắc lúc này vào trong thời gian dài đằng đẵng của tính toàn cục, để cho nó vừa thể hiện quá khứ lại hiện rõ ra tưng lai, khoảnh khắc lúc này không còn là sự tồn tại trống rỗng không thể tưởng tượng được nữa, nó đã trở thành cái thực có đầy đủ nhất nối quá khứ với tương lai của tôi. Chỉ có lúc này mới có thể nói: tôi đã có khoảnh khắc thời gian. Tôi đã nắm chắc được số phận của mình. Với tư cách cá thể, tôi được khêu gợi từ quan niệm lịch sử của Gan đi, sinh mệnh là sự tồn tại lấy trần thế làm cơ sở dựa vào trật tự xã hội, cho nên tôi không theo đuổi mức độ tinh thần đến tột độ không ăn uống những thứ ở nhân gian - Tôi không thể vứt bỏ được ăn mặc, ở và đi lại của thế tục. Tôi hoàn toàn có thể đi theo trào lưu “đi xuống biển”. Nhưng tôi cũng có thể tiếp nhận chính những hấp dẫn của sáng tạo văn hóa. Trên thực tế, tôi đang vui sướng xiết bao trong màng lưới văn hóa tự tạo tự kiềm chế. Tôi hiểu sâu sắc rằng một khi tách rời màng lưới văn hóa sẽ có thể thật sự chỉ có hai bàn tay trắng. Từ trong văn hóa Bandu tôi nhận được, vận động phát sinh vào thời điểm chỉ định và địa điểm chỉ định là thực thể có một không hai. Trong không gian và thời gian vô hạn, tôi không phải chính là một thực thể độc lập như vậy ư? Mặc dù nhỏ bé, nhưng sao lại cản trở sáng tạo văn hóa đặc biệt của tôi? Sinh mệnh của tôi đã diễn biến thành loại sáng tạo văn hóa đặc biệt này, tôi với tư cách là một vật thể mang vật chất văn hóa, thời gian sinh tồn có hạn; còn tôi với sinh mệnh mang tinh thần văn hóa thì sẽ cùng tồn tại với thời gian mãi hàng nghìn năm sau. Tôi từ trong quan niệm thời gian của vĩ nhân “đều đã qua rồi, được coi là nhân vật phong lưu phải xem hiện tại”, “một vạn năm quá lâu, chỉ tranh giành phút chốc” được tỉnh ngộ triệt để cuối cùng, đã phát hiện sinh mệnh của tôi, bản thể tinh thần của tôi sẽ ở mỗi một khoảnh khắc trên đường sinh mệnh của tôi! Một đời tôi chẳng qua là dòng thời gian do từng khoảnh khắc tạo nên, sự tồn tại của các khoảnh khắc thời gian khác nhau đã tạo nên toàn bộ sự tồn tại của tôi. Tôi cho là hoàn toàn không có khả năng nhận thức tính tất yếu của vận động sinh mệnh của mình từng ý nghĩa triết học - Con người không thể nhận thức một cách vô cùng vô tận đối với vận mệnh của mình mà người ta chỉ có thể chịu sự chi phối của tính tất nhiên, con người nhiều lắm chỉ có thể không ngừng nhận thức tính tất nhiên mà thôi. Nhưng, tôi hoàn toàn có thể nắm chắc mỗi một khoảnh khắc mà bản thân mình sắp sửa gặp một cách tự giác, đối với mỗi khoảnh khắc có một sự trù tính sáng suốt tự giác, đây sẽ là sự trù tính của tôi đối với vận mệnh. Đây chính là điều mà mọi người nói bám chặt thần của số phận. II- Số phận ném tôi vào một nơi hoàn toàn xa lạ. Trước sự chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi chọn số phận thuộc về tôi Có một ngày tỉnh lại, tôi đột nhiên phát hiện mình đang sống trong một thế giới gặp được vận may. Tôi đang đứng trước ngàn vạn nẻo đường, tung hoành ngang dọc, thành bại được mất, cũ mới lẫn lộn. Mật mã của số phận ở đâu? Tôi hỏi ông trời, trời không trả lời. Tôi lại hỏi đến đất, đất cứ lặng thinh. Trước chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi lại chẳng biết đâu mà lần nữa, tôi không biết chúng mỗi cái có kết cục ra sao. Huống hồ, cơ may, hoàn cảnh tôi đều không tự chủ để chọn lựa được. Số phận hoặc cần tôi phải chịu đựng thử thách của gió Tây Bắc trên cao nguyên hoàng thổ, cũng có thể để cho tôi bay qua Thái Bình Dưng đến đất khách quê người để mạ vàng, sau đó áo gấm trở về. Một khoảnh khắc trôi qua, một sai lầm nẩy sinh trong khoảnh khắc, tôi không biết tôi sẽ trở thành một con người tôi như thế nào nữa. Từ nay nghĩ lại quá khứ làm tôi kích động mãi là tôi cuối cùng trong vùng hoang dã mênh mông không ranh giới, từ trong sốt ruột và gắng gượng đến tột độ, đã tìm thấy một niềm tin kiên cường: bất kể thế giới phức tạp lộn xộn bao nhiêu, bất kể đời người đứng trước sự lựa chọn bao nhiêu, sẽ phi chịu đựng bao nhiêu trắc trở và dằn vặt, tóm lại là thế giới mênh mông không có bất cứ cái gì có thể vượt qua vô trật tự mà đạt tới có trật tự, vượt qua quá trình mà chiếm ngay kết qu được. Đời người cũng chỉ có thể như vậy. Như thế, tôi chỉ có thể bắt đầu thiết kế đối với số mệnh từ trong gắng gượng vô trật tự, từ trong “khả năng” vô cùng đa dạng, từ trong vô số những cái “có lẽ” tìm ra được một manh mối đạt được có trật tự. 1. Trù tính cơ bản: tôi cảm thấy được tôi là ai. Muốn trả lời “tôi là ai” đương nhiên là rất khó khăn, mà muốn trù tính số phận của tôi, điều trước tiên gặp phải lại là vấn đề của “tôi là ai”. Trong văn hiến kinh điển “áo nghĩa thư” của ấn Độ từ 600 năm trước công nguyên, đã đem cái “tự ngã” xem thành hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, khi nó khảo sát tự ngã với quan hệ nguồn gốc tạo thành thế giới liền nêu lên hai câu hỏi tự nhiên vĩnh hằng là “tôi là ai”, “tôi trong thế giới này nằm ở vị trí nào”. Từ nền văn minh ban đầu cổ Hy Lạp, Bamennid, Socrates, Plato của miền bãi biển Aisin, Lão Đam, Trang Chu của hai bên bờ sông Hoàng Hà, đến “Kinh Phệ Đà” của bên bờ ấn Độ dưng, “Thánh kinh” của môn đồ Cơ đốc giáo, bước đến nền văn hóa phục hưng và cách mạng công nghiệp cận đại kích động lòng người, thẳng tới Carxin, Heidegger, Sartre của phưng Tây hiện đại câu trả lời “Tôi là ai” vờn bay đầy trời, làm cho người ta rối mắt. Nhìn thấu sự biến ảo rối ren của nó, bất kể những nhà hiền triết thuộc dạng nào đều không vượt quá giới hạn nhất định như sau - Tôi là một động vật của văn hóa, tôi sáng tạo ra văn hóa và tự tuân theo văn hóa, sự vui vẻ và lo âu của tôi đều nằm trong mạng lưới văn hóa, đồng thời không thể xông ra khỏi ngoài mạng lưới để tự do tự tại. Đây là kết luận của số phận, đây là kết luận của lịch sử. Lịch sử đã từng chế giễu rất nhiều người muốn xông ra khỏi mạng lưới văn hóa để tự do tự tại, bao gồm cả vô số những anh hùng văn hóa. Hầu như đồng thời, học phái Sdorger của phưng Tây và Lý Nhĩ, Trang Chu của phưng Đông đều vắt óc nghĩ thầm thoát khỏi mạng lưới văn hóa để đồng nhất với tự nhiên trời đất, hưởng thụ tự do và yên tĩnh. Học phái Sdorger đem “thuận theo tự do để sống” làm hành vi lưng thiện chân chính, Lão Trang thì có tiếng là “vô vi vô tri” có thể “dốc sức vì đạo đến cực độ, một lòng một dạ tuân theo, mọi vật song song tiến hành mình phi tự quan sát nhiều lần”. Trên thực tế như thế nào? Không chỉ sự phát triển của lịch sử hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng của họ, họ trước sau đều không thể phá nổi mạng lưới văn hóa, mà Chinor, Lão Trang bản thân đã là một bộ phận của thủy tổ nền văn hóa của nhân loại đã trở thành một mắt xích trên mạng lưới văn hóa. ý chí tâm lý của Chinor, Kleiande một chút cũng không thể tự do nhẹ nhõm, họ đem toàn bộ luân lý đều buộc lên vai Thượng đế và số phận, cho rằng về luân lý, yêu cầu cao nhất đối với con người chính là phục tùng Thượng đế và số phận: “Dù là nghi ngờ làm tôi lạc hậu hoặc không tình nguyện, nhưng tôi cũng nhất định vĩnh viễn theo đuổi Ngưi (Ngưi tức Thượng đế, số phận)”. Vốn muốn thoát khỏi mạng lưới văn hóa, không ngờ sau khi đi vòng quanh một cái vòng lớn vẫn bị tự mình chui vào trong mạng lưới văn hóa chặt chẽ hn. Lão Trang cũng thế, vốn muốn thông qua “đạo vô vi” xung phá sự ràng buộc của văn hóa để trở về với hoài bão của tự nhiên, lại trước sau chịu sự cám dỗ sâu sắc của tinh thần vĩnh hằng siêu nghiệm, bị tự mình nhốt khóa trong “cửa nhiều điều kỳ diệu” “nhìn không thấy”, “nghe không biết”, “huyền bí thêm huyền bí”. Từ đó có thể thấy mặc dù họ có suy nghĩ phân biệt sâu sắc và chí hướng cao xa như thế nào, về phưng diện thoát ra khỏi mạng lưới văn hóa vẫn hoàn toàn tốn công vô ích. Giống như Tôn Đại thánh, mặc dù nhào lộn một cái đã đi được mười vạn tám ngàn dặm lại vẫn không thể vượt qua được lòng bàn tay của đức Phật Như Lai. Về sau tất c những người hòng thoát khỏi ràng buộc, ẩn mình trong đào nguyên hoặc ẩn tích trong núi sâu rừng thẳm hoặc say đắm trước bình rượu dưới trăng để được tự do tự tại đều là những kẻ thất bại, họ nhiều lắm cũng chỉ tìm được cái thắng lợi tinh thần nhất thời mà tạm thời tự say sưa một phen biểu lộ: “Dựng lều ở chốn nhân gian, mà không có tiếng ngựa xe ồn ào”, “Hỏi bạn vì sao có thể như thế, lòng tự xa cách đất, người”, trong ý thức sâu kín rõ ràng là “đất này không có bạc ba trăm lạng”. “Rừng sâu người không biết, có trăng sáng lại soi”. Chẳng qua là nỗi thưng cm đặc biệt đối với người ta, không biết và thân thiết hướng về đối với người có thể biết ta. Có thể vứt bỏ “chuông trống cỗ ngon” và “ngựa đẹp áo sang”, nhưng vẫn cố chấp truy hỏi đời mình có đắc ý hay không, trời sinh ra thân tôi liệu có ích hay không, nếu như không cố chấp như thế, làm sao có thể “nhưng muốn say lâu không muốn tỉnh?” Đâu có “vạn cổ sầu” nữa? Tôi căn bn không có cách nào chạy trốn, chỉ có thể đứng im trong mạng lưới văn hóa. Tự do chân chính của tôi cũng chỉ có thể là tự do trong mạng lưới văn hóa. Còn như trong mạng lưới văn hóa tôi có thể giành được tự do ở mức độ nào, ở ngày nay vẫn là vấn đề kinh tế, liên quan với chính trị rất ít. Trong lĩnh vực chính trị, tự do thường thường sa ngã thành công cụ của một số người có dã tâm, họ mang theo chiêu bài tự do, thậm chí lấy tự do làm lời hứa hẹn, mê hoặc dân chúng dẹp loạn một trật tự nào đó để đoạt lấy quyền lực cá nhân, đến khi mục đích dã tâm đạt được, để giữ sự thống trị của cá nhân ấy, tất nhiên có thể ngay lập tức xây dựng nên trật tự khác, chẳng bao giờ có thể cho dân chúng mà lúc ban đầu họ kích động và từng hứa hẹn có tự do chân chính, tự do c đến dân chúng chỉ làm công cụ để họ đoạt quyền. Xã hội loài người phát triển đến ngày nay, tự do về thực chất vẫn là một khái niệm kinh tế. Xã hội có trình độ sức sn xuất đến mức độ nào thì có tự do ở mức độ đó. Tự do của tôi vĩnh viễn có liên hệ với hoàn cnh kinh tế cụ thể tồn tại của tôi. Trình độ sức sn xuất càng cao, kinh tế càng phát đạt, tự do của tôi mới có thể càng nhiều. Trái lại, trình độ sức sn xuất càng thấp thì tự do càng ít. Mỗi một xã hội đều chỉ có thể đạt được tự do ở trình độ tưng ứng với mức độ sức sn xuất của nó, bất cứ ai cũng không có cách gì vượt hn trình độ này. Bất cứ hành vi nào vứt bỏ hoàn cnh sinh tồn cụ thể đều có thể làm cho tự do chỉ là lời nói suông mà chẳng có chút giá trị nào. Các nhà triết học xem điều này là quy luật tự nhiên hoặc tính tất nhiên. Spinoza trong “Luân lý học”đem tự do diễn đạt thành nhận thức đối với tất nhiên, tự do không phi là thoát khỏi tính tất nhiên mà là nhận thức tính tất nhiên. Heygel trong “Triết học lịch sử” thì lại càng tiến hành kho sát lịch sử cụ thể đối với tự do một cách sâu sắc hn, lần đầu tiên đem thực tiễn dẫn vào khái niệm tự do, cho rằng tự do là dưới tiền đề nhận thức tính tất nhiên thực hiện sự thống nhất cụ thể của chủ thể và khách thể. Về phưng diện nhận thức đối với tự do, Mao Trạch Đông dùng phưng thức ngôn ngữ Hán học điển hình đưa ra diễn đạt hoàn chỉnh nhất, Ông cho rằng tự do là nhận thức đối với tính tất nhiên và ci tạo đối với thế giới khách quan. Giữa nhận thức và ci tạo dùng chữ “Và” đề nối liền lại, vừa có thể thừa nhận là hai cái kế tiếp trước sau - nhận thức tất nhiên ở trước, ci tạo khách quan ở sau, giống như sự thể hiện của Mao Trạch Đông từ lâu về bước đi của đời sống tinh thần: trước tiên có nhận thức, sau mới có tin theo, cuối cùng mới có thể thực hiện trên hành động, đối với tính tất nhiên có nhận thức ở trình độ nào mới có ci tạo khách quan đạt được tự do ở trình độ đó; lại có thể đem c hai cái hiểu là đồng thời - nhận thức tất nhiên, ci tạo thế giới chủ quan đồng thời với ci tạo thế giới khách quan (cũng giống như ci tạo thế giới khách quan đồng thời với ci tạo thế giới chủ quan). Hạt nhân của quan điểm tự do của Mao Trạch Đông là: bất kể nhận thức tất nhiên hay là ci tạo khách quan đều lấy cái “tôi” làm chủ thể, tôi ở đây giành được tự do thực tại nhất mà lại biện chứng nhất. Xuất phát từ loại quan niệm tự do thời gian không gian biện chứng này, Mao Trạch Đông xem quá trình phát triển của lịch sử từ vưng quốc tất nhiên sang Vưng quốc tự do, đây là một quan điểm lịch sử tự do vĩnh viễn mở rộng, ông không dùng “thực hiện tự do” làm điểm cực cuối cùng, mà là tự giác nắm chắc tính vô hạn phát triển lịch sử, đem tự do xem là một quá trình phát triển vô hạn: quá trình vận động từ tất nhiên đến tự do. Nhìn thấu rõ tự do như thế, tôi mới có thể vượt qua hỗn loạn tạp nham, trong mạng lưới văn hóa mới thật sự tìm được phần số phận vốn thuộc về tôi. Mặc dù tôi vẫn không thể tr lời chuẩn xác được trong mạng lưới văn hóa tôi là ai, cũng không thể nhận thức vô tận đối với số phận của tôi, nhưng tôi hoàn toàn có thể ở ni đây - trong quá trình sáng tạo văn hóa của chính tôi cm thấy một cách chân thực tôi là ai. Khonh khắc mà tôi cm thấy tôi là ai, trước tiên tôi giành được sự tỉnh ngộ của lưng tâm và sự bình yên của linh hồn. Bất kể xung quanh hỗn loạn như thế nào, bất kể tiếng ồn xung quanh bốn phía ầm ĩ đến đâu, tôi trước sau đều vững tin vào cm giác của chính tôi - đành là tôi phi sống một cách chân thực, tôi sẽ không thể không hoàn toàn nhấn mạnh cm giác này của mình. Cứ lấy việc “đi xuống biển”, mốt đang được tôn sùng nhất của nhiều người trong c nước hiện nay để bàn. Trong tình hình hệ thống thị trường của xã hội chưa giành được sự thống nhất hài hòa với hệ thống văn hóa, đang tồn tại sự phân phối không đồng đều, c chế cạnh tranh không hoàn thiện, tôi cm thấy tôi nên dựa vào hệ thống thị trường của xã hội, thế là tôi sẽ vui vẻ đi :”xuống biển”. Tôi cm thấy tôi vẫn phi vững vàng tiến theo hệ thống văn hóa của xã hội, do đó tôi sẽ vui vẻ như trước đây làm công việc sáng tạo của tôi. Như vậy, hoặc là có may mắn để hạ cố đến tôi hoặc thất bại cũng không luyến tiếc lắm, tôi hiểu rõ đây chính là số phận của tôi. Số phận có thể sắp đặt tôi bắt đầu lại một lần, hai lần. Người đen đủi nhất chính là những người không tìm thấy cm giác tốt đẹp của mình. Hâm mộ đi xuống biển lại không dám xuống biển, không đi xuống biển lại luôn luôn nghĩ phi đi xuống biển, đã đi xuống biển lại cm thấy mất một số cái gì đó đâm ra hi luyến tiếc. Đây chính là vì đời người rất không tự do. Anh ta có thể đứng trước c may đã bỏ lỡ lại bỏ lỡ lại, số phận cũng luôn trói buộc anh ta. Xét đến điều căn bn của nó là ở chỗ anh ta không thể cm thấy một cách chân chính anh ta là ai, anh ta để cho mỗi một khonh khắc của sinh mệnh của mình đều trôi đi uổng phí trong do dự và lưỡng lự. Mắt đang nhìn mình từ thiếu niên đến trung niên, chẳng mấy chốc lại từ trung niên đến những năm xế chiều, một đời chỉ có tự than thở trống không. Tôi quyết không thể như thế. Bắt đầu từ bây giờ tôi sẽ phi có một trù tính c bn đối với số phận của mình, xây dựng nên cm giác chân thực của mình, tìm thấy vị trí nên thuộc về mình. Xin đừng lo lắng tôi có thể vì cm giác dâng cao mà trượt vào thuyết duy tâm. Cm giác của tôi luôn là cm giác đối với tồn tại, bao gồm cm giác đã có, hiện có và sẽ có. Sẽ có là sự tồn tại của gi tưởng, bao gồm tồn tại tưng lai có thể thực hiện và “tồn tại” tưng lai không thể thực hiện. Cái trước là một loại lý tưởng, cái sau là o tưởng, ý tưởng điên rồ. Nhưng ý tưởng điên rồ của hiện tại - trong cm giác đối với “tồn tại” mà hiện tại cho rằng tưng lai không thể thực hiện thường thường đang ẩn chứa tính sáng tạo, vận may của tôi chưa biết chừng chính sẽ tại chỗ đó. Cm giác đối với chưa có và sẽ có sẽ là trực quan (ở đây, đối tượng của trực quan chỉ có tính không gian mà không có tính thời gian), năng lực của trực giác là tiền đề sinh ra tư duy mang tính sáng tạo trong kết qu của tư duy có tính sáng tạo, bộ phận có giá trị lý tính có thể chính là khoa học. Thiết kế có tính chất sáng tạo đời người đồng thời làm cho nó có giá trị lý tính là thiết kế cuộc đời của những người mạnh, người thắng lợi, trong đó tràn ngập trí tuệ nhân sinh rộng lớn. Tôi muốn tự giác giành được vận may thì không thể thiếu trí tuệ này. Trong chặng đường dài từ cm giác đến khoa học, tồn tại là tính có trước, còn khoa học có giá trị thực tế nhất đối với loài người. Triết học duy tâm thì cắt đi phần đầu (tồn tại) mà bắt đầu từ cm giác cũng cắt đi phần đuôi (khoa học) chỉ nhấn mạnh ở giai đoạn trực giác và tư duy. Triết học sinh mệnh, chủ nghĩa trực quan của Baigeson cũng là dừng lại ở đây, lấy trực quan là trên hết, lấy “tự do tinh thần của khách quan” là trên hết. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chú trọng toàn bộ quá trình của sinh mệnh, vừa truy hỏi lý do tồn tại cm giác, cũng truy hỏi kết qu của trực giác và sau tư duy. Tôi kiên trì nắm ở chỗ này quyết không đem mình đặt vào trong một thế giới cm giác trống rỗng một cách cô lập. Song, đối ứng với thời gian vật lý, trên thực tế tôi chủ yếu sống trong thời gian cm giác, trong thời gian cm giác trôi qua đi tôi thể hiện cm nhận sự tồn tại và vận động của sinh mệnh, việc này trở thành hạt nhân tinh thần mà tôi theo đuổi. Làm thế nào để trong quá trình lâu dài của thời gian cm giác, dùng trạng thái tâm lý siêu việt nhìn thẳng vào giá trị đời người, đây là một trong những vấn đề khó lớn nhất của đời người bày ra trước mắt tôi, tôi dù một khonh khắc đều không có cách nào lẩn tránh nó, tôi cũng không thể trốn tránh nó. Thế là đối với số phận, tôi bắt đầu trù tính cụ thể thực tế hơn. 2. Quá trình và mục tiêu trù tính: tôi sống trong “lưỡng thê" Tôi sống trong “lưỡng thê” với ý nghĩa đau khổ và vui vẻ. Tôi là đau khổ, số mệnh tôi nhất định phi tiếp nhận khổ nạn. Tôi đồng thời lại vui vẻ, tôi theo đuổi vui vẻ. Tôi đồng thời phi tri qua hai thể nghiệm tâm lý hoàn toàn trái ngược đau khổ và vui vẻ. Ham muốn theo đuổi và gắng gượng trở thành toàn bộ bn chất của tôi. Bởi vì tôi là con người tất nhiên có ham muốn và theo đuổi của bn thân mình. Tôi vì thực hiện nó mà một phút cũng không ngừng cố gắng phấn đấu cũng chưa my may từng buông th mình. Do đó, tất c mọi khổ nạn, thất bại và gắng gượng đều sinh ra từ đó. Hn thế chúng từ trước đến sau đi kèm với c quá trình sinh mệnh của tôi. Đây đưng nhiên là một quá trình tràn ngập đau khổ. Tôi dùng vô số lần trắc trở và thất bại để thêu dệt nên mộng thành công. Có người nói tôi lúc này đây đang trong đau khổ và vô vị giống như một con lắc đang đu đưa qua lại. Tôi đang đứng trước đau khổ hai mặt, đau khổ của thất bại, đau khổ của thành công. Bởi vì tôi thật ra không xem thành công làm mục tiêu đời người của tôi, tôi chỉ từ mỗi lần thành công thể nghiệm giá trị của sinh mệnh, từ đó trong khonh khắc vô cùng ngắn ngủi giành được thành công phát ra một chút tiếng cười vui vẻ. Nhưng ngay tức khắc sinh ra một tìm tòi và theo đuổi mới, từ đó lại bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới. Hn nữa, khi mục tiêu mới còn chưa sinh ra, tức là trước khi bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới, tôi luôn cm thấy trống tri và vô vị mà trước đây chưa từng có. Đó sẽ là sự giày vò tinh thần mà thành công đem đến cho tôi. Cho nên nói, ham muốn và gắng gượng, trắc trở và thất bại, chán ngán và đau khổ đã tạo nên toàn bộ nội dung trong quá trình sinh mệnh của tôi. ý chí kiên nhẫn, sức mạnh nhân cách của tôi, mỗi một chút thành tựu sự nghiệp của tôi đều sinh ra từ trong hàng chuỗi những khó khăn trắc trở như thế. ý nghĩa và giá trị sinh mệnh của tôi cũng chính là thực hiện trong khó khăn trắc trở như thế. Nếu như không có hàng chuỗi khó khăn trắc trở này, hoặc lẩn tránh nó thì sinh mệnh của tôi có thể trở thành hư vô. Tôi muốn sống một cách thực sự, số mệnh nhất định phi chịu đựng hàng chuỗi đau khổ và giày vò này. Nhưng, mục tiêu của tôi thật ra không phi ở chỗ đau khổ. Tất c mọi việc làm của tôi, tất c mọi theo đuổi, đều là vì một mục tiêu cuối cùng: vui vẻ. Tôi tin tưởng vững chắc rằng đời người cần phi vui vẻ. Vui vẻ phi giống như một bài th. Vui vẻ phi giống như một con suối nhỏ róc rách tuôn đều, chy đến những con sông đẹp, chy đến tận biển c màu xanh biếc, chy đến tận những ni nó không hề hay biết. ý chí của Tăng Điểm từng nói, được Khổng Tử tán thành, vốn chính là một mục tiêu cao nhất của đời người - Thời tiết cuối mùa xuân, sự thích nghi với mùa xuân đã quen, năm sáu chàng thanh niên, sáu by cậu thiếu niên rủ nhau ra tắm ở sông Nghi, đứng hóng mát ở Vũ Vu đài, sau đó hồ hởi ra về. Khổng Tử, một đời hong hốt lo phiền, tích cực vào đời, sở dĩ biểu thị lặng im đối với ý chí trị quốc yên bang của mấy đệ tử trước Tăng Điểm trình bày mà lại chỉ độc nhất tán thành chí hướng của Tăng Điểm, thật ra không phi Khổng Tử sa sút nn lòng có ý nghĩ thoát khỏi trần ai, mà ở chỗ ông đã nhìn thấy mục tiêu cuối cùng của đời người là nên vui vẻ. Còn trị quốc yên bang chỉ là thủ đoạn để thực hiện mục tiêu này. Khi tôi dựng lên mục tiêu này cho mình, tất c mọi việc làm và theo đuổi của tôi vì mục tiêu này cũng đều trở nên vui vẻ, tất c mọi đau khổ trong quá trình sinh mệnh của tôi cũng đều trở nên vui vẻ. Lúc này, tất c mọi cm giác đau khổ đều tan biến thành mây khói. Đối mặt với tất c mọi tai ách và khổ nạn, tôi cũng đều không thay đổi niềm vui, tôi chỉ cm thấy niềm vui sướng của đời người. Lúc này, tôi mới cm thấy rằng “ăn một giỏ cm, uống một bầu nước, sống trong ngõ hẻm vắng, người khác chịu đựng nổi nỗi khổ đó, thế mà Nhan Hồi vẫn không thay đổi niềm vui vốn có”, vốn là một giới hạn của nhân cách vĩ đại biết bao. Do đó, bất kể định mệnh của tôi phi gánh chịu bao nhiêu đau khổ, tôi vẫn yêu đời, tôi vẫn nhiệt liệt ôm hôn cuộc đời. Tôi làm cho quá trình của sinh mệnh thống nhất lại với mục tiêu một cách hài hòa. Từ đó tôi sẽ không sống trong “lưỡng thê” nữa. Dù cho khi bi thuyền ngược dòng, trong tất c mọi gian nan trắc trở của thể xác và tinh thần, tôi cũng có thể thể nghiệm được niềm vui sướng của đời người. Song, đời người là ngắn ngủi. Khi hưởng thụ cuộc đời vui vẻ, nếu như không có giác ngộ của sinh mệnh, đời người sẽ bị một bóng đen to lớn bao trùm. Cái bóng đen này chính là: tử vong. 3. Trù tính cao nhất: Chỗ quy tụ của tôi là cái chết. Nhịp điệu của tự nhiên làm cho tôi tất nhiên từ trẻ trai đi đến già lão, ban tặng cuối cùng sinh mệnh cho tôi là để cho tôi dập tắt ngọn lửa của sinh mệnh, đi về Thiền quốc. Chỉ dùng logic của triết học cũng có thể suy đoán: không có cái chết thì không có sự sống. Đời người không có cái chết thì sẽ không có khái niệm của thời gian. Không có cái chết thì giá trị của sinh mệnh cũng sẽ không có gì để nói. Cái chết đối với đời người vừa là bi tráng, đồng thời cũng là thiêng liêng. Chính vì chết là một việc tuyệt đối, thời gian và sinh mệnh mới hiện rõ vô cùng quý báu. Tôi chính là từ trong bài bi ca truy điệu vong linh, cm thấy được sự vô cùng trang nghiêm và hùng vĩ của bn giao hưởng sinh mệnh. Đành là tôi tất nhiên phải đến với tuổi già, tôi chẳng có lí do gì mà không vô cùng quý trọng những năm tháng của tuổi thanh xuân, quý trọng từng phút từng giây, quý trọng mỗi khoảnh khắc trong suốt đời người của tôi. Đành là tôi tất nhiên phải đi vào cõi chết, tôi không có lý do gì mà không vô cùng quý trọng sinh mệnh, tôi cần phi cố gắng trước khi chết, thực hiện giá trị sinh mệnh của tôi với mức độ lớn nhất. Tôi từ bụi trần ai của vũ trụ đến, cuối cùng cũng tất nhiên phải trở về nơi đó. III- Tôi biết tôi không biết. Tôi từ lời nhắc nhở của á thánh Mạnh tử chưa từng quên: Nhược điểm của một người là thích xưng là bậc thầy trước mặt người khác Với kiến thức cạn hẹp, sự từng trải bình thường, học thức nông cạn, tôi không bao giờ dám hy vọng quyển sách này trở thành bất cứ sự chỉ giáo nào để trù tính số phận. Điều hiến tặng cho bạn đọc nhiều lắm chỉ là một chút cảm giác của cá nhân tôi đối với vận mệnh cuộc đời mà thôi. Bất kể diễn đạt ngôn ngữ của tôi dưới hình thức như thế nào, ví như đại loại là “bạn nên”, xét đến cùng vẫn chỉ là cảm giác của tôi. Tin hay không tin tùy bạn, tuyệt không có ý là “làm thầy”. Đã là cảm giác của cá nhân, thiên kiến và sai lầm sẽ không thể tránh khỏi. Wetegenstan đã dạy người ta: Một người đối với sự việc không thể nói ra thì nên giữ im lặng. Nhưng trước mắt tôi thật ra không có ai quy định những điều gì có thể nói, những điều gì không thể nói. Thậm chí chính tôi, trước khi nói cũng thật ra không hoàn toàn biết rõ ràng tôi có thể nói điều gì và không thể nói điều gì. Bởi vì những việc có thể nói lại chưa nói, việc không thể nói lại đã nói ra, cũng không thể tránh khỏi. Đương nhiên, cuối cùng tôi cũng chỉ có thể nói ra những điều tôi có thể nói. Đồng thời, quyển sách này cũng được xây dựng trên cơ sở đọc hàng loạt lớn tư liệu, tôi đã đứng trên vai của nhiều hiền triết vĩ nhân trong ngoài nước xưa nay và nhiều bạn bè chưa nổi tiếng. Tôi cám ơn họ một cách sâu sắc, tôi đã dẫn ra rất nhiều quan niệm và thực tiễn của họ đối với vận mệnh đời người. Cho nên, quyển sách này cũng là nhận thức và cảm thụ của tôi đối với quan niệm và thực tiễn của họ, ở đây vẫn có thể còn có sai lầm. Như vậy, tôi vừa cầu mong không khí văn hóa khoan dung, vừa cầu mong bạn đọc chỉ ra những thiếu sót và sai lầm. Để thức tỉnh niềm hưng phấn đọc các vấn đề khác nhau, phong cách hành văn trong sách này không phải là một vẻ, một cách điệu, hầu như là có đủ mọi phong cách pha trộn lẫn nhau - hoặc kiểu dẫn dắt, hoặc có tính biện luận, hoặc có tính kể chuyện, hoặc có tính triết lý, từ đó xét về toàn cục cũng đã hình thành một phong cách đặc biệt của quyển sách này. -------------------- ![]() |
|
|
![]() |
![]() ![]()
Post
#2
|
|
![]() Cõi yêu ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 450 Joined: 29-December 09 Member No.: 7,278 Country ![]() ![]() |
![]() 99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 29 82. Khoảnh khắc dao động trước vấp váp * Nếu như việc gì cũng đều có thể theo ý của người không hề xuất hiện bất cứ vấp váp và ngoài ý muốn nào, thì thế giới này có thể sẽ trở thành một nơi cực kỳ vô vị. * "Ba từ quan trọng nhất trong Tự điển chính là: ý chí, làm việc và chờ đợi". Hoa trồng trong phòng ấm, một khi để cho nó rời khỏi phòng ấm, hơi chịu một chút gió thổi mưa dầm, nó sẽ có thể bị héo. Còn hoa tuyết mai chịu nổi gió sương, chịu đựng được giá tuyết, thì có thể nở rộ đón tuyết bay đầy trời. Nếu như con đường sống của bạn luôn luôn thuận buồm xuôi gió, lớn lên trong gia đình giàu có hạnh phúc ấm áp, nhận được nền giáo dục ở nhà trường chính quy, sau đó lại có một công tác vừa ý hợp lòng. Cuộc đời như thế có lẽ là rất nhiều người thèm muốn. Nhưng bi kịch của đời lại thường phát sinh ở con người này nhiều hơn. Việc tốt hay gặp trắc trở?. Một câu nói đại chúng thông thường nhất, đã nói rõ hết lý lẽ sâu sắc này. Mọi sự nghiệp vĩ đại đều hoàn thành trong khó khăn gian khổ. Cuộc sống của một người quá đầy đủ, đường đời quá thông suốt chưa từng gặp khó khăn trắc trở, một khi gặp gập ghềnh và vấp váp, thường không biết làm thế nào, hoặc đối với sự nghiệp mà mình làm, đối với tất cả mọi cái mình có, đối với tiền đồ của mình đều sinh ra hoài nghi và dao động, do đó mà do dự lưỡng lự, dừng bước không tiến, chìm đắm trong phiền muộn. - Chỉ vì bạn cũng giống như đóa hoa trong phòng ấm, chưa từng qua phong ba bão táp đến với đời. Chưa từng hình thành năng lực độc lập tự chủ của bạn, cũng chưa có bất cứ chuẩn bị tâm lý và tích lũy kinh nghiệm chịu đựng giày vò. Mà một người xuất thân từ bần hàn, trải hết mùi tang thương, nếm đủ mùi gió sương thì lại khác. Anh ta vốn đã lớn lên và trưởng thành từ trong khó khăn và trắc trở, trong quá trình này đã hình thành năng lực chịu đựng tâm lý và năng lực độc lập tự chủ để ứng phó với mọi vấp váp. Dựa vào đó, đối với mọi vấp váp nho nhỏ trong cuộc sống bình thường, anh ta có thể dễ dàng và nhẹ nhàng như quét mạng nhện để qua đi. Ðối mặt với những khó khăn lớn trong sự nghiệp của đời người, anh ta cũng không thể bị quật ngã. Anh ta có thể dùng ý chí kiên nhẫn, chiến thắng mọi trắc trở giành được thành công của sự nghiệp. Chính do vậy, Faraday xuất thân từ một gia đình thợ sắt nghèo khổ, 13 tuổi đã phải bán báo trên đường phố, mới có thể trở thành người mở cánh cửa lớn của kho báu Ðiện năng; Lômônôsốp, con trai một ngư dân, phải chờ người nhà ngủ say mới có thể lén đọc sách, mới có thể trở thành một ngôi sao sáng của khoa học. Bạn biết trong lịch sử văn minh nhân loại, có hàng ngàn hàng vạn những ví dụ điển hình như thế. Cho nên nói, không có hành động gì, đứng trước khó khăn trắc trở dao động do dự, từ đó chôn vùi sự nghiệp, phần nhiều đều là con cái những nhà quần là áo lượt, quyền quý giàu có ngàn vàng. Ðương nhiên, chúng ta không thể nói hễ những người xuất thân từ cửa giàu sang đều không thể có thành tựu vĩ đại, thực tế cũng thật ra không phải như thế. Con cái từ những cửa giàu sang quyền quý có thể thừa kế gia phong, tiếp tục đảm nhận tổ nghiệp phát huy tinh thần sáng tạo của gia tộc cũng có khối người. Còn những kẻ chơi bời lêu lổng cũng có thể kể ra không hết. Bất kể là xuất thân từ gia đình giàu sang hoặc bần hàn, bất kể bạn có từng trải ra sao, đã từng đi đường đời thế nào, đứng trước mọi vấp váp phải lý giải nó như thế nào, khắc phục nó ra sao, lại là một vấn đề khó chung đặt trước mặt chúng ta. Trắc trở vấp váp là cái gì? Trong quá trình sự việc phát triển, vấp váp có thể được xem là trở ngại, cản trở, dồn nén, tồn tại đối lập với thuận lợi. Trong kết cục của sự việc phát triển, vấp váp có thể được xem là thất bại, tồn tại đối lập với thành công. Người ta đều hy vọng sự vật có thể phát triển thuận lợi, có một kết cục thành công. Nhưng thế giới này lại có điều kỳ quái như thế này, nếu như quả thật việc gì cũng đều có thể theo ý của người, không hề xuất hiện bất cứ vấp váp và ngoài ý muốn nào, thì thế giới này có thể sẽ trở thành một nơi cực kỳ vô vị, tất cả mọi hoạt động, tất cả mọi việc làm của loài người cũng sẽ trở nên không có ý nghĩa gì nữa. Chính là vì có vấp váp trắc trở tồn tại đối lập với thuận lợi, có vấp váp trắc trở tồn tại đối lập với thành công, con người mới có giá trị tồn tại. Chính trong quá trình chiến thắng vấp váp trắc trở, giành thành công con người đã tỏ ra sức mạnh và tôn nghiêm, thực hiện giá trị của mình. Cho nên nói, thành công bản thân bao gồm cả vấp váp, thành công chẳng qua là chỉ kết cục sau khi chiến thắng vấp váp. Vấp váp trắc trở cũng là con đường tất phải kinh qua, quá trình tất nhiên, giai đoạn không thể không vượt qua để giành được thành công. Huống hồ, vấp váp bản thân cũng có thể trở thành một bài học giành được thành công của bạn, khi bạn hấp thu bài học này, cũng lại là giờ phút thực hiện giá trị của vấp váp trắc trở. Như thế, có lẽ thành công giành được sau khi bạn bị vấp váp càng lớn hơn, mà không bị vấp váp thì không thể nói là thành bại nữa. Dao động và lưỡng lự trước vấp váp trắc trở cũng có nghĩa là dao động và lưỡng lự trước thành công. Chiến thắng được trắc trở vấp váp cũng có nghĩa là thông đến thành công. ?ánh hào quang của sinh mệnh chỉ ở chiến thắng trắc trở vấp váp, đứng trước trắc trở vấp váp dao động và lẩn tránh, thì không thể tỏa ra ánh hào quang này, thành công cũng không thể thuộc về bạn. Phàm những người thành công đại sự nghiệp đều là những người chiến thắng trắc trở vấp váp lớn, còn điều kiện cần thiết nhất để chiến thắng trắc trở vấp váp chính là ý chí kiên nhẫn. Khi Baxơđơ lý giải thành công của ông đã nói: ?Ba từ quan trọng nhất trong Tự điển chính là: ý chí, làm việc và chờ đợi. Tôi sẽ xây dựng Kim tự tháp thành công của tôi trên ba hòn đá tảng này?. Khi Côpecnic và Galilê bị người ta chửi là thằng điên, khi Côlômbô bốn phía cầu viện đều húc phải tường, khi đường cáp điện ngầm dưới biển đầu tiên do Field thiết kế bị hỏng... họ đều dựa vào ý chí kiên nhẫn để khắc phục và chiến thắng trắc trở, giành được thành công cuối cùng. 83. Khoảnh khắc ham muốn không được thỏa mãn * Ham muốn và gắng gượng là toàn bộ bản chất của con người. * Chỉ cần loài người còn tồn tại, loài người sẽ không thể thỏa mãn, loài người vẫn phải phát triển, vẫn phải gắng gượng, sẽ có thể có đau khổ. Ðây là cái vĩ đại của loài người ở chỗ đó, cũng là cái bi tráng của loài người ở chỗ đó. Ham muốn không được thỏa mãn, hầu như là một luận đề hài hước. Ham muốn của con người vốn là vô bờ bến, không có điểm dừng. Ngoài những người ngốc và ngớ ngẩn ra, không có một ai có thể giữ được cảm giác thỏa mãn triệt để được lâu. Mặc dù người đời đều nói ?người biết đã đủ bao giờ cũng vui?, mặc dù có người tự xưng anh ta tất cả đều rất thỏa mãn, nhưng ở nơi sâu thẳm trong lòng anh ta vẫn luôn tồn tại sự không thỏa mãn, băn khoăn và luyến tiếc thế này hoặc thế kia. Sự nghiệp chưa xong, công việc nhân sự chưa làm trọn hết trách nhiệm, thân thể bệnh tật, tàn phế, sinh mệnh có hạn v.v... đều có thể tạo nên sự không thỏa mãn và luyến tiếc của con người. Bất kể sự nghiệp của anh ta làm được oanh liệt ra sao, bất kể anh ta đã cống hiến cho xã hội to lớn bao nhiêu, hiến dâng cho người khác bao nhiêu, đã hưởng thọ đến tuổi nào, đều như vậy cả. Cái lớn nhất trên thế giới là đại dương, so với đại dương lớn hơn là bầu trời, so với bầu trời lớn hơn là lòng dạ con người. Cho nên, chúng ta không có lúc nào thỏa mãn ham muốn. Cảm giác ham muốn không được thỏa mãn, trước sau đều đi cùng với mỗi một khoảnh khắc sinh mệnh của chúng ta. Chỉ có như thế, chúng ta mới là một người lành mạnh, một người bình thường. Bằng không, một khi có cảm giác thỏa mãn cuối cùng, chúng ta lại trở thành một thằng ngốc, một người ngớ ngẩn, một người chết. Nhưng do tất cả mọi đau khổ của đời người, trừ những đau đớn về xác thịt ra, phần nhiều đều bắt nguồn từ ham muốn, ham muốn không được thỏa mãn tạo thành vấn đề nhân sinh nghiêm túc nhất. Cho nên làm sách lược các khoảnh khắc của đời người, chúng ta đặc biệt cần thiết nêu câu nói sau để thảo luận: Ham muốn và gắng gượng là toàn bộ bản chất của con người. Ðời người giống như chiếc con lắc đồng hồ đung đưa qua lại giữa đau khổ và buồn tẻ. Trên thực tế, đau khổ và buồn tẻ chính là hai bộ phận cấu thành cơ bản nhất của đời người. Lời nói này đã từng được người ta trích dẫn ra vô số lần. Xin đừng nên đem nó giải thích một cách hời hợt là cái gọi là chủ nghĩa bi quan. Các nhà triết học lĩnh hội trực tiếp ham muốn không được thỏa mãn là sự theo đuổi của đời người, có theo đuổi thì có sự gắng gượng. Như vậy hình thành bản chất nhân sinh chạy nước rút tích cực, cố gắng đọ sức. Cuộc đời như thế đương nhiên không giống như suốt ngày thảnh thơi an nhàn trên bãi cỏ xanh như đệm để tắm ánh nắng vàng của mặt trời. Người này đang phấn đấu, phấn đấu tất nhiên kèm theo giãy giụa của đau khổ, nhất là lúc con người suy nghĩ lại điều mình từng nghĩ, việc mình từng làm, đôi khi cũng không tránh cảm thấy những đau buồn của cô đơn và mệt mỏi. Nhảy vào trong loại cám dỗ nào đây - trong đêm tối vắng vẻ tĩnh mịch, trong vùng hoang dã mênh mông lặn lội, tìm tòi, sáng tạo, trong gió to sóng dữ giương lên cánh buồm của cuộc đời, xông về phía bờ bên kia, để thực hiện giá trị của sinh mệnh. Như thế có thể huy hoàng vĩ đại, nhưng là đau khổ. Trong ánh trăng lờ mờ cùng với bạn tình đi dạo quanh hồ dưới rặng liễu rủ, trong khách sạn quay, đèn đỏ rượu xanh, vai tựa gối kề ngồi xem ca múa nhẹ nhàng. Thế là mãn nguyện, nhưng cuối cùng lại rơi vào tẻ nhạt. Chọn lựa sao đây để cho một ham muốn nào đó được thỏa mãn? Nhảy vào trong quyến rũ nào đây? Ðây chẳng phải chính là toàn bộ việc chạy nước rút và gắng gượng của sinh mệnh trong chúng ta sao? Có thể mỗi thứ đều có một loại thỏa mãn riêng. Khi một người rơi vào việc tiêu khiển và hưởng thụ đến cực độ, không biết chiều nay ở đây chiều mai ở nơi nao, không biết mặt trời và mặt trăng vẫn đang mọc lên và lặn xuống, không biết sáng tạo vì cái gì, không biết giá trị của sinh mệnh ra sao, anh ta không thể có cái đau khổ của buồn tẻ, vô vị, anh ta đang thỏa mãn. Ðó là sự thỏa mãn của buồn tẻ, vô vị. Cũng như thế, khi một người gánh vác sứ mạng cứu vớt nhân loại, toàn tâm toàn ý lao vào tìm tòi và sáng tạo, suốt ngày bận bịu, đêm ngày cảnh giác, anh ta không thể có cảm giác đau khổ, anh ta là thỏa mãn, đó thực là sự thỏa mãn của sáng tạo. Ðương nhiên, sự thỏa mãn của hai loại đó đều là bề ngoài, là tạm thời, trên thực tế đều không thể thỏa mãn chân chính, không thể có thỏa mãn cuối cùng. Người sáng tạo đem sinh mệnh giao phó cho sáng tạo hoặc đến chết mới thôi. Người quá thanh nhàn vừa đành chịu đêm dài đằng đẵng, năm tháng dài lê thê, lại vừa sợ thời gian ngắn ngủi hoặc tìm Tiên đan để kéo dài sinh mệnh. Khi ham muốn không được thỏa mãn, ai cũng đều bị giày vò và đau khổ. Chỉ có ham muốn lớn nhỏ khác nhau đem chia đời người thành thấp cao, sang hèn. Do đó cùng với ham muốn không được thỏa mãn chúng ta lại từ đây nhìn nhận ra sự sai khác lớn lao của con người, nhìn ra sự sai khác lớn lao của quan niệm giá trị con người, nhìn ra sự khác biệt to lớn của con người có tác dụng hay không, có cống hiến hay không, có ý nghĩa hay không đối với xã hội. Chúng ta cũng có thể từ đây thấp thoảng thăm dò sự khác biệt to lớn của thế giới nội tâm của người ta đối với sự thể nghiệm của sinh mệnh. Xã hội loài người có thể dùng văn minh thay cho dã man, từ hoang dã đi tới hiện đại hóa, cũng ở chỗ toàn thể loài người không ngừng vì ham muốn không được thỏa mãn gắng gượng mà thúc đẩy tới thành công. Mà sự gắng gượng của loại không thỏa mãn này tất nhiên là sự gắng gượng của sáng tạo không ngừng, sự đau khổ của sáng tạo không ngừng quyết không thể là sự đau khổ của buồn tẻ, vô vị. Cho nên nói, người thỏa mãn của buồn tẻ vô vị là sâu mọt của xã hội. Thế giới mênh mông, đời người trên chặng đường khác nhau, không những chỉ sản sinh hai tính chất cầu mong và gắng gượng hoàn toàn khác nhau, mà còn sinh ra những cuộc đời khác nhau về chất. Với tiền đề cùng chung tính chất, do các nguyên nhân phức tạp của chủ quan hoặc khách quan, cũng sản sinh ra cầu mong và gắng gượng có cung bậc hoặc mức độ khác nhau, từ đó sản sinh ra cuộc đời có giới hạn khác nhau. Người ta thông thường theo thuyết năm loại nhu cầu của Abraham Maslow là sự phân chia rõ ràng nhất đối với tầng nấc ham muốn, tức cái gọi là nhu cầu no ấm và ngủ; nhu cầu an toàn, nhu cầu quy thuộc về quần thể, được yêu; nhu cầu tự tôn trọng; nhu cầu tự thực hiện và sáng tạo. Thực ra, năm loại nhu cầu cũng có thể khái quát thành hai loại, tức là hai loại nhu cầu trước thuộc nhu cầu thuộc tính tự nhiên của con người, ba loại nhu cầu sau mới là nhu cầu thuộc tính xã hội của con người. No ấm, ngủ và an toàn, động vật cũng có những nhu cầu này. Nếu như sự cầu mong của một người chỉ dừng lại ở hai loại này, chỉ vì hai loại này không được thỏa mãn mà gắng gượng, thì giới hạn cuộc đời của anh ta vẫn chỉ dừng lại ở tầng nấc của đại tự nhiên, còn chưa trở về hoài bão của con người. Chỉ có quy thuộc, được yêu, tự tôn trọng, tự thực hiện và sáng tạo mới là mong cầu của con người chân chính, gắng gượng vì ba loại này không được thỏa mãn mới là gắng gượng của con người chân chính. Còn có người khác cho rằng quy thuộc và được yêu kiêm cả thuộc tính tự nhiên và thuộc tính xã hội. Có người gọi là thỏa mãn có thể chỉ là dừng lại ở sự thỏa mãn của tính thuộc tự nhiên. Chúng ta có thể nói, đó là một loại thỏa mãn ngu muội. Ở xã hội lý tưởng tương lai mà chúng ta hằng mơ ước cầu mong, suốt đời vì nó phấn đấu, xã hội mà tiềm lực của loài người được phát huy đầy đủ, nhân tính được huy động ở mức độ lớn nhất, liệu vẫn phải có gắng gượng của ham muốn không được thỏa mãn không? Câu trả lời khẳng định là: Chỉ cần loài người còn tồn tại, loài người sẽ không thể thỏa mãn, loài người vẫn phải phát triển, vẫn phải gắng gượng, sẽ có thể có đau khổ. Cái vĩ đại của loài người là ở chỗ đó, cái bi tráng của loài người cũng là ở chỗ đó. 84. Khoảnh khắc tự khoe khoang khoác lác VII. Gió xuân đắc ý * Danh tiếng giả dối giống như bong bóng xà phòng, chốc lát biến mất; giống như giọt sương ban mai, mặt trời vừa mọc lên đã tiêu tan. * Bỏ tiền mua thưởng, trên thực tế là đem tiền thưởng người khác để tâng bốc anh ta. * Phần đông những người tự khoe khoang, sự trống trải tâm linh của họ sẽ vĩnh viễn không có cách gì che giấu nổi. Nếu như xem tự khoe khoang là một kỹ xảo và thủ đoạn của đời người, thì kỹ xảo này là vụng về, thủ đoạn này cũng gần như hèn hạ. Cho nên Bacon đã nói: "Tự khoe khoang tự thưởng thức là điều người khôn khéo tránh, là điều người ngu xuẩn theo đuổi". Ðiểm xuất phát của tự khoe khoang sẽ có chỗ chê là phù phiếm không thực. Bạn vốn dáng vẻ thế nào, có thể làm nên cái gì và đã làm nên cái gì đều đã tồn tại một cách khách quan. Tự thổi phồng, chẳng qua là lo lắng chỗ mạnh, ưu thế và sự cống hiến của mình ít được người biết đến, dẫn đến thanh danh không nổi. Xét đến cùng bản chất của tự khoe khoang là ở chỗ gượng làm cho mình nổi danh. Danh tiếng, vốn nên là một sự đánh giá của xã hội đối với bạn, do công chúng ban cho và công nhận, danh tiếng như thế mới là danh tiếng chân chính, danh tiếng phù hợp với thực tế, danh tiếng kinh qua kiểm nghiệm. Còn danh tiếng dựa vào tự khoe khoang tạo nên là danh tiếng gì? Có thật sự nêu danh được không? Ðôi khi đích thực có thể dùng thủ đoạn tự khoe khoang để thực hiện mục đích nêu danh. Nhưng, danh tiếng được truyền đi đó là một danh tiếng giả dối. Bởi vì danh tiếng này là do tự khoe khoang mà có, tất nhiên đã qua sàng lọc chủ quan của mình, chỉ có nêu cái tốt đẹp của mình, thậm chí thổi phồng hoặc từ cái chẳng có gì tạo ra cái tốt đẹp của mình, tương ứng lại che giấu cái xấu xa của mình. Do đó, đây là một danh tiếng giả dối, mang tính phiến diện chủ quan. Ðã là danh tiếng giả dối, tất nhiên không chịu nổi kiểm nghiệm của thực tiễn, càng không chịu nổi kiểm nghiệm của thời gian. Danh tiếng giả dối giống như bong bóng xà phòng chốc lát biến mất; giống như giọt sương ban mai, mặt trời vừa mọc lên đã tiêu tan. Trường hợp và phạm vi tự khoe khoang là vô cùng hạn chế. Nói chung, bạn chỉ có thể trong trường hợp xa lạ, tự khoe khoang một hồi, đối với một số người không quen biết bạn, không hiểu bạn. Bởi vì người ta tạm thời không tìm hiểu bạn, bạn hoặc có thể nhất thời lừa dối và bưng bít được người khác, có thể làm cho người khác tạm thời lầm tưởng là bạn vĩ đại lắm, giỏi giang lắm. Nhưng, nếu như vì bạn tự khoe khoang mà thật sự cuốn hút được sự chú ý của người khác, dẫn đến gây được sự sùng bái và tôn kính của người khác, thì bạn có thể sẽ hỏng bét hết. Người sùng bái và tôn kính bạn sớm muộn có thể tìm hiểu bản, sớm muộn có thể phát hiện ra bạn là một ông vua thổi phồng. Lúc đó, người ta sẽ có thể xem thường bạn, phỉ nhổ bạn. Bạn đã đi quanh một vòng, một vòng lừa dối người đáng thương, đến cuối cùng "lợn lành chữa thành lợn què". Ðương nhiên, chúng ta không thể nói người tự khoe khoang thổi phồng không có lấy một tí kỹ xảo nào. Họ, đa số vẫn có chút khôn vặt. Ðể đạt được mục đích nêu danh, anh ta đã vắt óc nghĩ ra một số thủ đoạn tự thổi phồng khéo léo, không cẩn thận một chút sẽ có thể bị anh ta lừa ngay. Tự khoe khoang kiểu từ không nói có một cách trắng trợn là một loại ngu xuẩn nhất trong những người thích thổi phồng. Phương pháp này dễ dàng bị lộ tông tích nhất, dễ làm cho mình rơi vào cảnh ngộ lúng túng và khó xử nhất. Phương pháp thêm mắm thêm muối là triển khai từ trên một chút thành tích mình đã từng làm hoặc có liên quan tới mình, nắm chắc một điểm mở rộng ra các điểm khác còn lại. Ðem việc mình có tham gia làm, hoặc hợp tác với người khác làm biến thành việc mình làm; đem những việc chẳng thấm vào đâu phóng đại thành việc tương đối lớn; đem việc hơi lớn một chút phóng đại thành những việc kinh thiên động địa; đem một lần nói thành hai ba lần, đem hai ba lần nói thành 8 lần 10 lần, hoặc thêm vào những từ như "luôn luôn", "từ trước đến nay đều như thế". Cứ như vậy thổi phồng, bạn không thể nói anh ta toàn bịa, mà anh ta là trong giả có thật, trong thật có giả. Thật thật giả giả cứ như thế lấy giả làm xáo trộn thật. Phương pháp tự khoe dạng ẩn và phương pháp tự khoe gián tiếp, như dùng tên biến đổi, tên giả hoặc tên của người giả để phát biểu những bài tự thổi phồng đều thuộc dạng tự khoe khoang dạng ẩn. Nhờ người khoe thay và khoa khoang lẫn nhau là kiểu tự khoe khoang gián tiếp. Anh ta có thể thông qua thủ đoạn hối lộ, hoặc cho người khác một số lợi ích nào đó để từ trên miệng đối phương hoặc viết bài thay mình khoe khoang. Bỏ tiền ra mua thưởng thuộc dạng nhờ người thay mình khoe. Trước mắt các loại bình thưởng quá nhiều, chỉ cần cấp cho đơn vị tổ chức một ít tiền tài trợ, bảo đảm có thưởng đến tay ngay. Loại thưởng này liền trở thành cái vốn tự khoe khoang, mà từ bề ngoài để xem xét chẳng phải là mình tự thưởng mình sao? Trên thực tế là đem tiền thưởng người khác để thổi phồng chính anh ta. Hoặc để đạt được mục đích, anh ta trước tiên giả vờ tâng bốc người khác một hồi. Có đi mà không có lại sao gọi là có lễ độ, "người khác" được tâng bốc, chẳng lẽ lại không tâng bốc trở lại để đáp lễ, thế là cũng thổi anh ta một hồi. Kết quả đạt được mục đích hai bên thay nhau tâng bốc lẫn nhau. Cái lợi của việc tự khoe khoang dạng ẩn và tự khoe khoang dạng gián tiếp là người khác không dễ nhận ra là tự khoe khoang, cứ tưởng là thật có người khác khen đối với anh ta. Dạng tự khiêm tốn hoặc dạng khen người là kiểu thổi phồng thông minh. Ví dụ anh A ở một phương diện nào đó có chút sở trường, hoặc có chút khôn vặt, hơi có chút tiếng tăm. Còn anh B thì lại không có ưu thế của phương diện này. Anh A lại giả vờ làm bộ rất thành khẩn, luôn luôn nói mình không bằng B, hoặc nói mình là người ngoài ngành. Việc đó bề ngoài là đang thổi phồng, nhưng kỳ thực lại nâng mình cao hơn - Còn anh B kia, người không bằng anh A, không có thanh danh cũng đáng được khen ngợi như thế (đây là lời của anh A nói), anh A lại càng đáng được khen thưởng hơn (đây là lời nói ngoài của A, để cho anh B suy nghĩ, để cho anh B đi bổ sung). Bề ngoài anh A nói mình là "người ngoài ngành", nhưng trên thực tế cũng là để nâng mình lên cao hơn - đến A cũng là "người ngoài ngành" (đây là lời của A nói), bạn thấy anh A đã đem môn đạo này nâng lên cao biết bao nhiêu, thần bí biết bao nhiêu. Mà A về phương diện này lại đã có chút danh tiếng (điểm này anh A đều biết rõ ràng hơn bất cứ người nào), anh A phải đứng ở đỉnh cao ra sao, đạt đến trình độ thần bí như thế nào (đây mới là lời nói ngoài của A, lưu lại cho B suy nghĩ, lưu lại cho B đi bổ sung) Song, bất kể phương pháp của người tự khoe khoang khoác lác có bao nhiêu loại, nghệ thuật tự khoe cao thấp thế nào, họ chỉ có thể nhất thời đánh lừa được một bộ phận người không rõ chân tướng, họ vẫn không thể tránh được những người có con mắt sáng suốt, càng không tránh được những người biết anh ta tỉ mỉ. Huống hồ, phần đông những người tự khoe khoang, sự trống rỗng tâm linh của họ sẽ vĩnh viễn không có cách nào che giấu nổi. Cho nên đến cuối cùng, thổi phồng đều là mình lừa mình theo kiểu AQ. Trong tồn tại khách quan, anh ta vẫn chỉ là anh ta, tịnh không thể vì tự khoe khoang mà tăng thêm được chút gì. Một người có chân tài thực học, lại có tầm mắt cao xa quyết không thể để mình khoe khoang mình. Anh ta cũng không cần tự khoe khoang. Chỉ có những ai trên thực tế chẳng ra sao, hoặc là những người thuộc hạng hai, hạng ba mới phải tự khoe khoang. Cho nên, tự khoe khoang đôi khi cũng là một biểu lộ ý thức tự ti. -------------------- ![]() |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 21st July 2025 - 12:17 PM |