![]() |
Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Cõi yêu ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 450 Joined: 29-December 09 Member No.: 7,278 Country ![]() ![]() |
![]() 99 Khoảnh Khắc Đời Người ZHANG ZI WEN (Trương Tự Văn) I- Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng? Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại. Đối với tương lai, nếu như chỉ xét về thời gian, cũng dễ dàng lý giải: phàm thời gian không có trong quá khứ mà lúc này lại không có mặt đều có thể gọi nó là tương lai. Song sinh mệnh của tôi trong thời gian tương lai đặt vào những nội dung gì, tôi cũng không biết nữa. Nếu như suy luận theo logic, có thể nói, tôi có tương lai. Nhưng đây chỉ là một khái niệm chưa được nghiệm chứng mà thôi. Sự thật trước mắt là, đối với thời gian lúc này không có mặt và nội dung không biết, đều không thể coi là cái hiện tại tôi có. Duy chỉ có khoảnh khắc lúc này thuộc sở hữu của tôi. Duy chỉ có khoảnh khắc này, sinh mệnh của tôi mới có đầy ý nghĩa thực tại. Sinh mệnh chỉ có thể sống tại khoảnh khắc lúc này, không thể sống trong quá khứ, cũng không thể sống ở tương lai. Khoảnh khắc thời gian là một cái gì đây? Nó vừa không thuộc quá khứ, trái lại lại không ngừng trở thành quá khứ; vừa không thuộc về tương lai nhưng lại không ngừng đón nhận tương lai. Nó vừa là một giới hạn có thể chia cắt vô hạn giống như một điểm không có chiều dài; lại là một giới hạn có thể kéo dài đến vô hạn, 38 năm có thể tính là một khoảnh khắc, trong sinh mệnh vũ trụ, toàn bộ thời gian loài người tồn tại cũng có thể xem là một khoảnh khắc. Từ đó đủ thấy khoảnh khắc chốc lát là thời gian không thể tưởng tượng được. Mà cái tôi có, chỉ có thể là khoảnh khắc thời gian, như thế tôi là một tồn tại không thể tượng tượng nổi? Khi tôi nhảy khỏi vũng bùn của quan niệm thời gian kiểu máy móc, vứt bỏ những ngụy biện như đúng mà là sai, nhận thức được tính vô cùng sinh động của tồn tại sinh mệnh, tôi mới sáng tỏ trong lòng. Tôi là sinh mệnh sinh động nhất trong vũ trụ, trên đường trục thời gian là một quá trình sống và trưởng thành từ đầu đến cuối luôn luôn mở rộng. Tôi vừa nhận thức được những việc phát sinh trong quá khứ không thể trở thành cái mà hiện tại tôi có, lại đem quá khứ xem là sự mở đầu của quá trình sinh mệnh, từ đó trân trọng giá trị đặt nền móng khởi nguồn của nó trong lịch trình của sinh mệnh. Hơn nữa, khi nghĩ lại đặc trưng tính toàn cục của sinh mệnh, tôi phát hiện ra “quá khứ” của tôi cũng quyết định hiện tại của tôi - tôi luôn luôn ở trạng thái trôi đi, hiện tại chẳng mấy chốc đã hóa thành quá khứ, như thế “quá khứ của tôi có thể có ý nghĩa gì cũng sẽ quyết định bởi việc làm hiện tại của tôi. Cũng chính là, tôi luôn luôn không ngừng viết nên lịch sử của mình, sự việc hôm nay đến ngày mai sẽ trở thành việc của quá khứ, muốn cho mọi việc của tôi ngày hôm qua có giá trị thì phi làm sao mỗi một sự việc của tôi hôm nay đều có giá trị. Tương lai luôn đang mở rộng ở hiện tại, bởi vì hiện tại tôi đang luôn trù tính tưng lai, mỗi một ý nghĩa hiện tại mà tôi tạo nên cũng chính là trải ra và tích tụ cho tương lai. Như thế, đặt mỗi một khoảnh khắc lúc này vào trong thời gian dài đằng đẵng của tính toàn cục, để cho nó vừa thể hiện quá khứ lại hiện rõ ra tưng lai, khoảnh khắc lúc này không còn là sự tồn tại trống rỗng không thể tưởng tượng được nữa, nó đã trở thành cái thực có đầy đủ nhất nối quá khứ với tương lai của tôi. Chỉ có lúc này mới có thể nói: tôi đã có khoảnh khắc thời gian. Tôi đã nắm chắc được số phận của mình. Với tư cách cá thể, tôi được khêu gợi từ quan niệm lịch sử của Gan đi, sinh mệnh là sự tồn tại lấy trần thế làm cơ sở dựa vào trật tự xã hội, cho nên tôi không theo đuổi mức độ tinh thần đến tột độ không ăn uống những thứ ở nhân gian - Tôi không thể vứt bỏ được ăn mặc, ở và đi lại của thế tục. Tôi hoàn toàn có thể đi theo trào lưu “đi xuống biển”. Nhưng tôi cũng có thể tiếp nhận chính những hấp dẫn của sáng tạo văn hóa. Trên thực tế, tôi đang vui sướng xiết bao trong màng lưới văn hóa tự tạo tự kiềm chế. Tôi hiểu sâu sắc rằng một khi tách rời màng lưới văn hóa sẽ có thể thật sự chỉ có hai bàn tay trắng. Từ trong văn hóa Bandu tôi nhận được, vận động phát sinh vào thời điểm chỉ định và địa điểm chỉ định là thực thể có một không hai. Trong không gian và thời gian vô hạn, tôi không phải chính là một thực thể độc lập như vậy ư? Mặc dù nhỏ bé, nhưng sao lại cản trở sáng tạo văn hóa đặc biệt của tôi? Sinh mệnh của tôi đã diễn biến thành loại sáng tạo văn hóa đặc biệt này, tôi với tư cách là một vật thể mang vật chất văn hóa, thời gian sinh tồn có hạn; còn tôi với sinh mệnh mang tinh thần văn hóa thì sẽ cùng tồn tại với thời gian mãi hàng nghìn năm sau. Tôi từ trong quan niệm thời gian của vĩ nhân “đều đã qua rồi, được coi là nhân vật phong lưu phải xem hiện tại”, “một vạn năm quá lâu, chỉ tranh giành phút chốc” được tỉnh ngộ triệt để cuối cùng, đã phát hiện sinh mệnh của tôi, bản thể tinh thần của tôi sẽ ở mỗi một khoảnh khắc trên đường sinh mệnh của tôi! Một đời tôi chẳng qua là dòng thời gian do từng khoảnh khắc tạo nên, sự tồn tại của các khoảnh khắc thời gian khác nhau đã tạo nên toàn bộ sự tồn tại của tôi. Tôi cho là hoàn toàn không có khả năng nhận thức tính tất yếu của vận động sinh mệnh của mình từng ý nghĩa triết học - Con người không thể nhận thức một cách vô cùng vô tận đối với vận mệnh của mình mà người ta chỉ có thể chịu sự chi phối của tính tất nhiên, con người nhiều lắm chỉ có thể không ngừng nhận thức tính tất nhiên mà thôi. Nhưng, tôi hoàn toàn có thể nắm chắc mỗi một khoảnh khắc mà bản thân mình sắp sửa gặp một cách tự giác, đối với mỗi khoảnh khắc có một sự trù tính sáng suốt tự giác, đây sẽ là sự trù tính của tôi đối với vận mệnh. Đây chính là điều mà mọi người nói bám chặt thần của số phận. II- Số phận ném tôi vào một nơi hoàn toàn xa lạ. Trước sự chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi chọn số phận thuộc về tôi Có một ngày tỉnh lại, tôi đột nhiên phát hiện mình đang sống trong một thế giới gặp được vận may. Tôi đang đứng trước ngàn vạn nẻo đường, tung hoành ngang dọc, thành bại được mất, cũ mới lẫn lộn. Mật mã của số phận ở đâu? Tôi hỏi ông trời, trời không trả lời. Tôi lại hỏi đến đất, đất cứ lặng thinh. Trước chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi lại chẳng biết đâu mà lần nữa, tôi không biết chúng mỗi cái có kết cục ra sao. Huống hồ, cơ may, hoàn cảnh tôi đều không tự chủ để chọn lựa được. Số phận hoặc cần tôi phải chịu đựng thử thách của gió Tây Bắc trên cao nguyên hoàng thổ, cũng có thể để cho tôi bay qua Thái Bình Dưng đến đất khách quê người để mạ vàng, sau đó áo gấm trở về. Một khoảnh khắc trôi qua, một sai lầm nẩy sinh trong khoảnh khắc, tôi không biết tôi sẽ trở thành một con người tôi như thế nào nữa. Từ nay nghĩ lại quá khứ làm tôi kích động mãi là tôi cuối cùng trong vùng hoang dã mênh mông không ranh giới, từ trong sốt ruột và gắng gượng đến tột độ, đã tìm thấy một niềm tin kiên cường: bất kể thế giới phức tạp lộn xộn bao nhiêu, bất kể đời người đứng trước sự lựa chọn bao nhiêu, sẽ phi chịu đựng bao nhiêu trắc trở và dằn vặt, tóm lại là thế giới mênh mông không có bất cứ cái gì có thể vượt qua vô trật tự mà đạt tới có trật tự, vượt qua quá trình mà chiếm ngay kết qu được. Đời người cũng chỉ có thể như vậy. Như thế, tôi chỉ có thể bắt đầu thiết kế đối với số mệnh từ trong gắng gượng vô trật tự, từ trong “khả năng” vô cùng đa dạng, từ trong vô số những cái “có lẽ” tìm ra được một manh mối đạt được có trật tự. 1. Trù tính cơ bản: tôi cảm thấy được tôi là ai. Muốn trả lời “tôi là ai” đương nhiên là rất khó khăn, mà muốn trù tính số phận của tôi, điều trước tiên gặp phải lại là vấn đề của “tôi là ai”. Trong văn hiến kinh điển “áo nghĩa thư” của ấn Độ từ 600 năm trước công nguyên, đã đem cái “tự ngã” xem thành hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, khi nó khảo sát tự ngã với quan hệ nguồn gốc tạo thành thế giới liền nêu lên hai câu hỏi tự nhiên vĩnh hằng là “tôi là ai”, “tôi trong thế giới này nằm ở vị trí nào”. Từ nền văn minh ban đầu cổ Hy Lạp, Bamennid, Socrates, Plato của miền bãi biển Aisin, Lão Đam, Trang Chu của hai bên bờ sông Hoàng Hà, đến “Kinh Phệ Đà” của bên bờ ấn Độ dưng, “Thánh kinh” của môn đồ Cơ đốc giáo, bước đến nền văn hóa phục hưng và cách mạng công nghiệp cận đại kích động lòng người, thẳng tới Carxin, Heidegger, Sartre của phưng Tây hiện đại câu trả lời “Tôi là ai” vờn bay đầy trời, làm cho người ta rối mắt. Nhìn thấu sự biến ảo rối ren của nó, bất kể những nhà hiền triết thuộc dạng nào đều không vượt quá giới hạn nhất định như sau - Tôi là một động vật của văn hóa, tôi sáng tạo ra văn hóa và tự tuân theo văn hóa, sự vui vẻ và lo âu của tôi đều nằm trong mạng lưới văn hóa, đồng thời không thể xông ra khỏi ngoài mạng lưới để tự do tự tại. Đây là kết luận của số phận, đây là kết luận của lịch sử. Lịch sử đã từng chế giễu rất nhiều người muốn xông ra khỏi mạng lưới văn hóa để tự do tự tại, bao gồm cả vô số những anh hùng văn hóa. Hầu như đồng thời, học phái Sdorger của phưng Tây và Lý Nhĩ, Trang Chu của phưng Đông đều vắt óc nghĩ thầm thoát khỏi mạng lưới văn hóa để đồng nhất với tự nhiên trời đất, hưởng thụ tự do và yên tĩnh. Học phái Sdorger đem “thuận theo tự do để sống” làm hành vi lưng thiện chân chính, Lão Trang thì có tiếng là “vô vi vô tri” có thể “dốc sức vì đạo đến cực độ, một lòng một dạ tuân theo, mọi vật song song tiến hành mình phi tự quan sát nhiều lần”. Trên thực tế như thế nào? Không chỉ sự phát triển của lịch sử hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng của họ, họ trước sau đều không thể phá nổi mạng lưới văn hóa, mà Chinor, Lão Trang bản thân đã là một bộ phận của thủy tổ nền văn hóa của nhân loại đã trở thành một mắt xích trên mạng lưới văn hóa. ý chí tâm lý của Chinor, Kleiande một chút cũng không thể tự do nhẹ nhõm, họ đem toàn bộ luân lý đều buộc lên vai Thượng đế và số phận, cho rằng về luân lý, yêu cầu cao nhất đối với con người chính là phục tùng Thượng đế và số phận: “Dù là nghi ngờ làm tôi lạc hậu hoặc không tình nguyện, nhưng tôi cũng nhất định vĩnh viễn theo đuổi Ngưi (Ngưi tức Thượng đế, số phận)”. Vốn muốn thoát khỏi mạng lưới văn hóa, không ngờ sau khi đi vòng quanh một cái vòng lớn vẫn bị tự mình chui vào trong mạng lưới văn hóa chặt chẽ hn. Lão Trang cũng thế, vốn muốn thông qua “đạo vô vi” xung phá sự ràng buộc của văn hóa để trở về với hoài bão của tự nhiên, lại trước sau chịu sự cám dỗ sâu sắc của tinh thần vĩnh hằng siêu nghiệm, bị tự mình nhốt khóa trong “cửa nhiều điều kỳ diệu” “nhìn không thấy”, “nghe không biết”, “huyền bí thêm huyền bí”. Từ đó có thể thấy mặc dù họ có suy nghĩ phân biệt sâu sắc và chí hướng cao xa như thế nào, về phưng diện thoát ra khỏi mạng lưới văn hóa vẫn hoàn toàn tốn công vô ích. Giống như Tôn Đại thánh, mặc dù nhào lộn một cái đã đi được mười vạn tám ngàn dặm lại vẫn không thể vượt qua được lòng bàn tay của đức Phật Như Lai. Về sau tất c những người hòng thoát khỏi ràng buộc, ẩn mình trong đào nguyên hoặc ẩn tích trong núi sâu rừng thẳm hoặc say đắm trước bình rượu dưới trăng để được tự do tự tại đều là những kẻ thất bại, họ nhiều lắm cũng chỉ tìm được cái thắng lợi tinh thần nhất thời mà tạm thời tự say sưa một phen biểu lộ: “Dựng lều ở chốn nhân gian, mà không có tiếng ngựa xe ồn ào”, “Hỏi bạn vì sao có thể như thế, lòng tự xa cách đất, người”, trong ý thức sâu kín rõ ràng là “đất này không có bạc ba trăm lạng”. “Rừng sâu người không biết, có trăng sáng lại soi”. Chẳng qua là nỗi thưng cm đặc biệt đối với người ta, không biết và thân thiết hướng về đối với người có thể biết ta. Có thể vứt bỏ “chuông trống cỗ ngon” và “ngựa đẹp áo sang”, nhưng vẫn cố chấp truy hỏi đời mình có đắc ý hay không, trời sinh ra thân tôi liệu có ích hay không, nếu như không cố chấp như thế, làm sao có thể “nhưng muốn say lâu không muốn tỉnh?” Đâu có “vạn cổ sầu” nữa? Tôi căn bn không có cách nào chạy trốn, chỉ có thể đứng im trong mạng lưới văn hóa. Tự do chân chính của tôi cũng chỉ có thể là tự do trong mạng lưới văn hóa. Còn như trong mạng lưới văn hóa tôi có thể giành được tự do ở mức độ nào, ở ngày nay vẫn là vấn đề kinh tế, liên quan với chính trị rất ít. Trong lĩnh vực chính trị, tự do thường thường sa ngã thành công cụ của một số người có dã tâm, họ mang theo chiêu bài tự do, thậm chí lấy tự do làm lời hứa hẹn, mê hoặc dân chúng dẹp loạn một trật tự nào đó để đoạt lấy quyền lực cá nhân, đến khi mục đích dã tâm đạt được, để giữ sự thống trị của cá nhân ấy, tất nhiên có thể ngay lập tức xây dựng nên trật tự khác, chẳng bao giờ có thể cho dân chúng mà lúc ban đầu họ kích động và từng hứa hẹn có tự do chân chính, tự do c đến dân chúng chỉ làm công cụ để họ đoạt quyền. Xã hội loài người phát triển đến ngày nay, tự do về thực chất vẫn là một khái niệm kinh tế. Xã hội có trình độ sức sn xuất đến mức độ nào thì có tự do ở mức độ đó. Tự do của tôi vĩnh viễn có liên hệ với hoàn cnh kinh tế cụ thể tồn tại của tôi. Trình độ sức sn xuất càng cao, kinh tế càng phát đạt, tự do của tôi mới có thể càng nhiều. Trái lại, trình độ sức sn xuất càng thấp thì tự do càng ít. Mỗi một xã hội đều chỉ có thể đạt được tự do ở trình độ tưng ứng với mức độ sức sn xuất của nó, bất cứ ai cũng không có cách gì vượt hn trình độ này. Bất cứ hành vi nào vứt bỏ hoàn cnh sinh tồn cụ thể đều có thể làm cho tự do chỉ là lời nói suông mà chẳng có chút giá trị nào. Các nhà triết học xem điều này là quy luật tự nhiên hoặc tính tất nhiên. Spinoza trong “Luân lý học”đem tự do diễn đạt thành nhận thức đối với tất nhiên, tự do không phi là thoát khỏi tính tất nhiên mà là nhận thức tính tất nhiên. Heygel trong “Triết học lịch sử” thì lại càng tiến hành kho sát lịch sử cụ thể đối với tự do một cách sâu sắc hn, lần đầu tiên đem thực tiễn dẫn vào khái niệm tự do, cho rằng tự do là dưới tiền đề nhận thức tính tất nhiên thực hiện sự thống nhất cụ thể của chủ thể và khách thể. Về phưng diện nhận thức đối với tự do, Mao Trạch Đông dùng phưng thức ngôn ngữ Hán học điển hình đưa ra diễn đạt hoàn chỉnh nhất, Ông cho rằng tự do là nhận thức đối với tính tất nhiên và ci tạo đối với thế giới khách quan. Giữa nhận thức và ci tạo dùng chữ “Và” đề nối liền lại, vừa có thể thừa nhận là hai cái kế tiếp trước sau - nhận thức tất nhiên ở trước, ci tạo khách quan ở sau, giống như sự thể hiện của Mao Trạch Đông từ lâu về bước đi của đời sống tinh thần: trước tiên có nhận thức, sau mới có tin theo, cuối cùng mới có thể thực hiện trên hành động, đối với tính tất nhiên có nhận thức ở trình độ nào mới có ci tạo khách quan đạt được tự do ở trình độ đó; lại có thể đem c hai cái hiểu là đồng thời - nhận thức tất nhiên, ci tạo thế giới chủ quan đồng thời với ci tạo thế giới khách quan (cũng giống như ci tạo thế giới khách quan đồng thời với ci tạo thế giới chủ quan). Hạt nhân của quan điểm tự do của Mao Trạch Đông là: bất kể nhận thức tất nhiên hay là ci tạo khách quan đều lấy cái “tôi” làm chủ thể, tôi ở đây giành được tự do thực tại nhất mà lại biện chứng nhất. Xuất phát từ loại quan niệm tự do thời gian không gian biện chứng này, Mao Trạch Đông xem quá trình phát triển của lịch sử từ vưng quốc tất nhiên sang Vưng quốc tự do, đây là một quan điểm lịch sử tự do vĩnh viễn mở rộng, ông không dùng “thực hiện tự do” làm điểm cực cuối cùng, mà là tự giác nắm chắc tính vô hạn phát triển lịch sử, đem tự do xem là một quá trình phát triển vô hạn: quá trình vận động từ tất nhiên đến tự do. Nhìn thấu rõ tự do như thế, tôi mới có thể vượt qua hỗn loạn tạp nham, trong mạng lưới văn hóa mới thật sự tìm được phần số phận vốn thuộc về tôi. Mặc dù tôi vẫn không thể tr lời chuẩn xác được trong mạng lưới văn hóa tôi là ai, cũng không thể nhận thức vô tận đối với số phận của tôi, nhưng tôi hoàn toàn có thể ở ni đây - trong quá trình sáng tạo văn hóa của chính tôi cm thấy một cách chân thực tôi là ai. Khonh khắc mà tôi cm thấy tôi là ai, trước tiên tôi giành được sự tỉnh ngộ của lưng tâm và sự bình yên của linh hồn. Bất kể xung quanh hỗn loạn như thế nào, bất kể tiếng ồn xung quanh bốn phía ầm ĩ đến đâu, tôi trước sau đều vững tin vào cm giác của chính tôi - đành là tôi phi sống một cách chân thực, tôi sẽ không thể không hoàn toàn nhấn mạnh cm giác này của mình. Cứ lấy việc “đi xuống biển”, mốt đang được tôn sùng nhất của nhiều người trong c nước hiện nay để bàn. Trong tình hình hệ thống thị trường của xã hội chưa giành được sự thống nhất hài hòa với hệ thống văn hóa, đang tồn tại sự phân phối không đồng đều, c chế cạnh tranh không hoàn thiện, tôi cm thấy tôi nên dựa vào hệ thống thị trường của xã hội, thế là tôi sẽ vui vẻ đi :”xuống biển”. Tôi cm thấy tôi vẫn phi vững vàng tiến theo hệ thống văn hóa của xã hội, do đó tôi sẽ vui vẻ như trước đây làm công việc sáng tạo của tôi. Như vậy, hoặc là có may mắn để hạ cố đến tôi hoặc thất bại cũng không luyến tiếc lắm, tôi hiểu rõ đây chính là số phận của tôi. Số phận có thể sắp đặt tôi bắt đầu lại một lần, hai lần. Người đen đủi nhất chính là những người không tìm thấy cm giác tốt đẹp của mình. Hâm mộ đi xuống biển lại không dám xuống biển, không đi xuống biển lại luôn luôn nghĩ phi đi xuống biển, đã đi xuống biển lại cm thấy mất một số cái gì đó đâm ra hi luyến tiếc. Đây chính là vì đời người rất không tự do. Anh ta có thể đứng trước c may đã bỏ lỡ lại bỏ lỡ lại, số phận cũng luôn trói buộc anh ta. Xét đến điều căn bn của nó là ở chỗ anh ta không thể cm thấy một cách chân chính anh ta là ai, anh ta để cho mỗi một khonh khắc của sinh mệnh của mình đều trôi đi uổng phí trong do dự và lưỡng lự. Mắt đang nhìn mình từ thiếu niên đến trung niên, chẳng mấy chốc lại từ trung niên đến những năm xế chiều, một đời chỉ có tự than thở trống không. Tôi quyết không thể như thế. Bắt đầu từ bây giờ tôi sẽ phi có một trù tính c bn đối với số phận của mình, xây dựng nên cm giác chân thực của mình, tìm thấy vị trí nên thuộc về mình. Xin đừng lo lắng tôi có thể vì cm giác dâng cao mà trượt vào thuyết duy tâm. Cm giác của tôi luôn là cm giác đối với tồn tại, bao gồm cm giác đã có, hiện có và sẽ có. Sẽ có là sự tồn tại của gi tưởng, bao gồm tồn tại tưng lai có thể thực hiện và “tồn tại” tưng lai không thể thực hiện. Cái trước là một loại lý tưởng, cái sau là o tưởng, ý tưởng điên rồ. Nhưng ý tưởng điên rồ của hiện tại - trong cm giác đối với “tồn tại” mà hiện tại cho rằng tưng lai không thể thực hiện thường thường đang ẩn chứa tính sáng tạo, vận may của tôi chưa biết chừng chính sẽ tại chỗ đó. Cm giác đối với chưa có và sẽ có sẽ là trực quan (ở đây, đối tượng của trực quan chỉ có tính không gian mà không có tính thời gian), năng lực của trực giác là tiền đề sinh ra tư duy mang tính sáng tạo trong kết qu của tư duy có tính sáng tạo, bộ phận có giá trị lý tính có thể chính là khoa học. Thiết kế có tính chất sáng tạo đời người đồng thời làm cho nó có giá trị lý tính là thiết kế cuộc đời của những người mạnh, người thắng lợi, trong đó tràn ngập trí tuệ nhân sinh rộng lớn. Tôi muốn tự giác giành được vận may thì không thể thiếu trí tuệ này. Trong chặng đường dài từ cm giác đến khoa học, tồn tại là tính có trước, còn khoa học có giá trị thực tế nhất đối với loài người. Triết học duy tâm thì cắt đi phần đầu (tồn tại) mà bắt đầu từ cm giác cũng cắt đi phần đuôi (khoa học) chỉ nhấn mạnh ở giai đoạn trực giác và tư duy. Triết học sinh mệnh, chủ nghĩa trực quan của Baigeson cũng là dừng lại ở đây, lấy trực quan là trên hết, lấy “tự do tinh thần của khách quan” là trên hết. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chú trọng toàn bộ quá trình của sinh mệnh, vừa truy hỏi lý do tồn tại cm giác, cũng truy hỏi kết qu của trực giác và sau tư duy. Tôi kiên trì nắm ở chỗ này quyết không đem mình đặt vào trong một thế giới cm giác trống rỗng một cách cô lập. Song, đối ứng với thời gian vật lý, trên thực tế tôi chủ yếu sống trong thời gian cm giác, trong thời gian cm giác trôi qua đi tôi thể hiện cm nhận sự tồn tại và vận động của sinh mệnh, việc này trở thành hạt nhân tinh thần mà tôi theo đuổi. Làm thế nào để trong quá trình lâu dài của thời gian cm giác, dùng trạng thái tâm lý siêu việt nhìn thẳng vào giá trị đời người, đây là một trong những vấn đề khó lớn nhất của đời người bày ra trước mắt tôi, tôi dù một khonh khắc đều không có cách nào lẩn tránh nó, tôi cũng không thể trốn tránh nó. Thế là đối với số phận, tôi bắt đầu trù tính cụ thể thực tế hơn. 2. Quá trình và mục tiêu trù tính: tôi sống trong “lưỡng thê" Tôi sống trong “lưỡng thê” với ý nghĩa đau khổ và vui vẻ. Tôi là đau khổ, số mệnh tôi nhất định phi tiếp nhận khổ nạn. Tôi đồng thời lại vui vẻ, tôi theo đuổi vui vẻ. Tôi đồng thời phi tri qua hai thể nghiệm tâm lý hoàn toàn trái ngược đau khổ và vui vẻ. Ham muốn theo đuổi và gắng gượng trở thành toàn bộ bn chất của tôi. Bởi vì tôi là con người tất nhiên có ham muốn và theo đuổi của bn thân mình. Tôi vì thực hiện nó mà một phút cũng không ngừng cố gắng phấn đấu cũng chưa my may từng buông th mình. Do đó, tất c mọi khổ nạn, thất bại và gắng gượng đều sinh ra từ đó. Hn thế chúng từ trước đến sau đi kèm với c quá trình sinh mệnh của tôi. Đây đưng nhiên là một quá trình tràn ngập đau khổ. Tôi dùng vô số lần trắc trở và thất bại để thêu dệt nên mộng thành công. Có người nói tôi lúc này đây đang trong đau khổ và vô vị giống như một con lắc đang đu đưa qua lại. Tôi đang đứng trước đau khổ hai mặt, đau khổ của thất bại, đau khổ của thành công. Bởi vì tôi thật ra không xem thành công làm mục tiêu đời người của tôi, tôi chỉ từ mỗi lần thành công thể nghiệm giá trị của sinh mệnh, từ đó trong khonh khắc vô cùng ngắn ngủi giành được thành công phát ra một chút tiếng cười vui vẻ. Nhưng ngay tức khắc sinh ra một tìm tòi và theo đuổi mới, từ đó lại bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới. Hn nữa, khi mục tiêu mới còn chưa sinh ra, tức là trước khi bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới, tôi luôn cm thấy trống tri và vô vị mà trước đây chưa từng có. Đó sẽ là sự giày vò tinh thần mà thành công đem đến cho tôi. Cho nên nói, ham muốn và gắng gượng, trắc trở và thất bại, chán ngán và đau khổ đã tạo nên toàn bộ nội dung trong quá trình sinh mệnh của tôi. ý chí kiên nhẫn, sức mạnh nhân cách của tôi, mỗi một chút thành tựu sự nghiệp của tôi đều sinh ra từ trong hàng chuỗi những khó khăn trắc trở như thế. ý nghĩa và giá trị sinh mệnh của tôi cũng chính là thực hiện trong khó khăn trắc trở như thế. Nếu như không có hàng chuỗi khó khăn trắc trở này, hoặc lẩn tránh nó thì sinh mệnh của tôi có thể trở thành hư vô. Tôi muốn sống một cách thực sự, số mệnh nhất định phi chịu đựng hàng chuỗi đau khổ và giày vò này. Nhưng, mục tiêu của tôi thật ra không phi ở chỗ đau khổ. Tất c mọi việc làm của tôi, tất c mọi theo đuổi, đều là vì một mục tiêu cuối cùng: vui vẻ. Tôi tin tưởng vững chắc rằng đời người cần phi vui vẻ. Vui vẻ phi giống như một bài th. Vui vẻ phi giống như một con suối nhỏ róc rách tuôn đều, chy đến những con sông đẹp, chy đến tận biển c màu xanh biếc, chy đến tận những ni nó không hề hay biết. ý chí của Tăng Điểm từng nói, được Khổng Tử tán thành, vốn chính là một mục tiêu cao nhất của đời người - Thời tiết cuối mùa xuân, sự thích nghi với mùa xuân đã quen, năm sáu chàng thanh niên, sáu by cậu thiếu niên rủ nhau ra tắm ở sông Nghi, đứng hóng mát ở Vũ Vu đài, sau đó hồ hởi ra về. Khổng Tử, một đời hong hốt lo phiền, tích cực vào đời, sở dĩ biểu thị lặng im đối với ý chí trị quốc yên bang của mấy đệ tử trước Tăng Điểm trình bày mà lại chỉ độc nhất tán thành chí hướng của Tăng Điểm, thật ra không phi Khổng Tử sa sút nn lòng có ý nghĩ thoát khỏi trần ai, mà ở chỗ ông đã nhìn thấy mục tiêu cuối cùng của đời người là nên vui vẻ. Còn trị quốc yên bang chỉ là thủ đoạn để thực hiện mục tiêu này. Khi tôi dựng lên mục tiêu này cho mình, tất c mọi việc làm và theo đuổi của tôi vì mục tiêu này cũng đều trở nên vui vẻ, tất c mọi đau khổ trong quá trình sinh mệnh của tôi cũng đều trở nên vui vẻ. Lúc này, tất c mọi cm giác đau khổ đều tan biến thành mây khói. Đối mặt với tất c mọi tai ách và khổ nạn, tôi cũng đều không thay đổi niềm vui, tôi chỉ cm thấy niềm vui sướng của đời người. Lúc này, tôi mới cm thấy rằng “ăn một giỏ cm, uống một bầu nước, sống trong ngõ hẻm vắng, người khác chịu đựng nổi nỗi khổ đó, thế mà Nhan Hồi vẫn không thay đổi niềm vui vốn có”, vốn là một giới hạn của nhân cách vĩ đại biết bao. Do đó, bất kể định mệnh của tôi phi gánh chịu bao nhiêu đau khổ, tôi vẫn yêu đời, tôi vẫn nhiệt liệt ôm hôn cuộc đời. Tôi làm cho quá trình của sinh mệnh thống nhất lại với mục tiêu một cách hài hòa. Từ đó tôi sẽ không sống trong “lưỡng thê” nữa. Dù cho khi bi thuyền ngược dòng, trong tất c mọi gian nan trắc trở của thể xác và tinh thần, tôi cũng có thể thể nghiệm được niềm vui sướng của đời người. Song, đời người là ngắn ngủi. Khi hưởng thụ cuộc đời vui vẻ, nếu như không có giác ngộ của sinh mệnh, đời người sẽ bị một bóng đen to lớn bao trùm. Cái bóng đen này chính là: tử vong. 3. Trù tính cao nhất: Chỗ quy tụ của tôi là cái chết. Nhịp điệu của tự nhiên làm cho tôi tất nhiên từ trẻ trai đi đến già lão, ban tặng cuối cùng sinh mệnh cho tôi là để cho tôi dập tắt ngọn lửa của sinh mệnh, đi về Thiền quốc. Chỉ dùng logic của triết học cũng có thể suy đoán: không có cái chết thì không có sự sống. Đời người không có cái chết thì sẽ không có khái niệm của thời gian. Không có cái chết thì giá trị của sinh mệnh cũng sẽ không có gì để nói. Cái chết đối với đời người vừa là bi tráng, đồng thời cũng là thiêng liêng. Chính vì chết là một việc tuyệt đối, thời gian và sinh mệnh mới hiện rõ vô cùng quý báu. Tôi chính là từ trong bài bi ca truy điệu vong linh, cm thấy được sự vô cùng trang nghiêm và hùng vĩ của bn giao hưởng sinh mệnh. Đành là tôi tất nhiên phải đến với tuổi già, tôi chẳng có lí do gì mà không vô cùng quý trọng những năm tháng của tuổi thanh xuân, quý trọng từng phút từng giây, quý trọng mỗi khoảnh khắc trong suốt đời người của tôi. Đành là tôi tất nhiên phải đi vào cõi chết, tôi không có lý do gì mà không vô cùng quý trọng sinh mệnh, tôi cần phi cố gắng trước khi chết, thực hiện giá trị sinh mệnh của tôi với mức độ lớn nhất. Tôi từ bụi trần ai của vũ trụ đến, cuối cùng cũng tất nhiên phải trở về nơi đó. III- Tôi biết tôi không biết. Tôi từ lời nhắc nhở của á thánh Mạnh tử chưa từng quên: Nhược điểm của một người là thích xưng là bậc thầy trước mặt người khác Với kiến thức cạn hẹp, sự từng trải bình thường, học thức nông cạn, tôi không bao giờ dám hy vọng quyển sách này trở thành bất cứ sự chỉ giáo nào để trù tính số phận. Điều hiến tặng cho bạn đọc nhiều lắm chỉ là một chút cảm giác của cá nhân tôi đối với vận mệnh cuộc đời mà thôi. Bất kể diễn đạt ngôn ngữ của tôi dưới hình thức như thế nào, ví như đại loại là “bạn nên”, xét đến cùng vẫn chỉ là cảm giác của tôi. Tin hay không tin tùy bạn, tuyệt không có ý là “làm thầy”. Đã là cảm giác của cá nhân, thiên kiến và sai lầm sẽ không thể tránh khỏi. Wetegenstan đã dạy người ta: Một người đối với sự việc không thể nói ra thì nên giữ im lặng. Nhưng trước mắt tôi thật ra không có ai quy định những điều gì có thể nói, những điều gì không thể nói. Thậm chí chính tôi, trước khi nói cũng thật ra không hoàn toàn biết rõ ràng tôi có thể nói điều gì và không thể nói điều gì. Bởi vì những việc có thể nói lại chưa nói, việc không thể nói lại đã nói ra, cũng không thể tránh khỏi. Đương nhiên, cuối cùng tôi cũng chỉ có thể nói ra những điều tôi có thể nói. Đồng thời, quyển sách này cũng được xây dựng trên cơ sở đọc hàng loạt lớn tư liệu, tôi đã đứng trên vai của nhiều hiền triết vĩ nhân trong ngoài nước xưa nay và nhiều bạn bè chưa nổi tiếng. Tôi cám ơn họ một cách sâu sắc, tôi đã dẫn ra rất nhiều quan niệm và thực tiễn của họ đối với vận mệnh đời người. Cho nên, quyển sách này cũng là nhận thức và cảm thụ của tôi đối với quan niệm và thực tiễn của họ, ở đây vẫn có thể còn có sai lầm. Như vậy, tôi vừa cầu mong không khí văn hóa khoan dung, vừa cầu mong bạn đọc chỉ ra những thiếu sót và sai lầm. Để thức tỉnh niềm hưng phấn đọc các vấn đề khác nhau, phong cách hành văn trong sách này không phải là một vẻ, một cách điệu, hầu như là có đủ mọi phong cách pha trộn lẫn nhau - hoặc kiểu dẫn dắt, hoặc có tính biện luận, hoặc có tính kể chuyện, hoặc có tính triết lý, từ đó xét về toàn cục cũng đã hình thành một phong cách đặc biệt của quyển sách này. -------------------- ![]() |
|
|
![]() |
![]() ![]()
Post
#2
|
|
![]() Cõi yêu ![]() ![]() ![]() Group: Năng Động Posts: 450 Joined: 29-December 09 Member No.: 7,278 Country ![]() ![]() |
![]() 99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 16 43- Khoảnh khắc cố chấp với thiên kiến * Sự vật phát triển đến điểm đỉnh, sẽ chuyển về hướng ngược lại. Khuynh hướng ngoan cố cố chấp cực đoan, phát triển đến mức độ chỉ có tôi là đúng, chỉ có tôi là độc tôn, dẫn đến không nghe nổi những lời nghịch nhĩ, ngoan cố cố chấp vào một thiên kiến của mình, sẽ trở nên một tính cách tồi tệ, là trở ngại lớn nhất của đời người giành được thành công. Ngược với tính cách do dự không quyết đoán là ngoan cố và cố chấp. Nếu như chỉ dừng lại ở chỗ không do dự lưỡng lự hoặc hơi ngoan cố cố chấp thì là một cá tính tốt. Người ta vốn nên có chủ kiến của mình, hơn nữa nên tín nhiệm mình. Trong lịch sử có nhiều anh hùng hào kiệt đều có khuynh hướng? ngoan cố cố chấp. Tư Mã Thiên là một nhà sử học như thế, Napoleon là một thống soái như thế. Sự vật phát triển đến điểm đỉnh, sẽ chuyển về hướng ngược lại. Khuynh hướng ngoan cố cố chấp cực đoan, phát triển đến mức độ chỉ có tôi là đúng, chỉ có tôi là độc tôn, dẫn đến không nghe nổi những lời ?nghịch nhĩ? ngoan cố cố chấp vào một thiên kiến của mình, sẽ trở nên một tính cách tồi tệ, là trở ngại lớn nhất của đời người giành được thành công. Người cố chấp với thiên kiến thường hay nảy sinh cái gọi là tranh cãi với người khác, bất kể việc lớn việc nhỏ, bất kể anh ta đối với việc này có nắm được thật chắc chắn hay không, anh ta đều nhất định bắt người khác tin anh ta, anh ta nhất định phải đấu tranh đến cùng với người khác. Người ta coi những người như thế là quái dị. Kết quả là anh ta hoặc bị người ta chê cười, người ta không thèm tranh chấp với anh ta nữa, hoạc vô duyên cớ làm phương hại nhiều người, có lỗi với nhiều người, những người này đều phải tránh xa anh ta. Người ta đều thích êm ấm, đều thích ánh nắng ấm áp, còn người cố chấp với thiên kiến thường thường đem cho người ta cảm giác lạnh lùng, đem cho người ta cảm giác mưa dầm liên miên. Cho nên nói chung người ta đều không muốn đi lại với anh ta, quan hệ nhân tế của anh đều hỏng hết. Tầm nhìn của bất cứ ai cũng đều có giới hạn, bất kể bạn là người tài giỏi như thế nào, bất cứ lúc nào bạn đều không thể phán đoán trên thế giới này chỉ có bạn là đúng. Chúng ta nên nhìn vào chân lý, không nên chỉ giữ ý kiến của mình. Huxley, người đầu tiên nêu lên vấn đề nguồn gốc loài người, có thể xem là một học giả rất tài giỏi. Thế mà ông ta lúc đầu lại là một người phản đối thuyết tiến hóa nhất, đã từng lên án kịch liệt chứng cứ của Darwin không đủ, kết luận hoang đường. Chờ sách ?Nguồn gốc của loài? của Ðacuyn (Darwin) xuất bản, ông ta đã đọc quyển sách này với lòng hứng thú ghê gớm, từ đó đã triệt để phủ định thiên kiến của mình, đã tôn sùng hết mức đối với Darwin, gọi ông ta là ?người phấn đấu có hiệu quả nhất? trên thế giới, và hết sức ủng hộ và tuyên truyền học thuyết tiến hóa của Darwin. Darwin cũng là một người thích nghe những ý kiến phản đối nhất. Ông đồng thời với việc theo đuổi nghiên cứu tiến hóa sinh vật, còn chuyên thu thập dư luận của những người phản đối học thuyết của ông, và chỉ lo lắng bỏ sót một người phản đối. Luôn luôn đem những dư luận phản đối phân tích, quy nạp, chỉnh lý dùng để đối chiếu với nghiên cứu của mình, chứng thực hoặc sửa chữa, hoàn thiện thành quả nghiên cứu. Nhà học giả nổi tiếng thế giới lừng lẫy mà còn như thế, huống hồ chúng ta chỉ là đông đảo chúng sinh! Bất cứ người nào, trong thời gian và không gian vô hạn, mỗi người đều chỉ là một hạt bụi nhỏ bé biết bao nhiêu. Phàm là người cố chấp với thiên kiến, người tự đại ngông cuồng đều là những kẻ không tự biết mình. Ðương nhiên, có thể hoàn toàn chuẩn xác tự đánh giá, thật sự có sáng suốt tự biết mình, đối với bất cứ ai đều là vô cùng khó. Chính vì lẽ đó, ?nhận rõ bản thân bạn? mới trở thành chủ đề nhân sinh vĩnh hằng. Cái chúng ta gọi là có sáng suốt tự hiểu mình, cái gọi là không cố chấp với thiên kiến, chỉ là ở một tầng thứ vô cùng nông cạn, dùng quy tắc và cách nhìn hiện thực, yêu cầu mình đối với mình có một phán đoán đại thể hợp lý (hợp lý không chắc đều là chuẩn xác), không nên ôm ý kiến của riêng mình đi đến khắp nơi áp dụng một cách máy móc vào thế giới và cuộc đời. Thế giới mênh mông muôn màu muôn sắc, trăm hồng ngàn tía, chốc lát đã qua, biến ảo vô cùng, sức lực của riêng mình, trí tuệ của riêng mình làm sao có thể đi đến cùng tận nó được? Cho nên, phát sinh thiên kiến thật ra cũng không sao cả, mỗi người đều có thiên kiến của mình, vị trí của tim người còn không nằm tại chính giữa thân thể. Tiên Trung Thư thậm chí nói: ?Người ta sinh ra ở? đời, lời nói và hành động đều mong cầu hợp lý, không cần thiết lắm?. Vấn đề là ở chỗ dùng thiên kiến khái quát toàn bộ, cố chấp ý kiến của mình, đấy mới là tính cách đáng buồn rầu. Khiếm khuyết của tính cách này đầu tiên bắt nguồn từ vòng của cuộc sống quá chật hẹp, những sự việc được tiếp xúc quá hữu hạn. ếch ngồi đáy giếng không thể hiểu nổi. Trời cao so với miệng giếng rộng lớn vô số lần. Bạn có thể trong phạm vi một vòng nhỏ hẹp nào đó xứng đáng là một người có trí tuệ, là một người thông minh. Ðối với cái vòng nhỏ bé này bạn hiểu rõ như lòng bàn tay, có thể nói có đầu có đũa, ba hoa chích chòe được, một khi dời khỏi cái vòng nhỏ này, bạn vốn đã bất lực rồi, lại vẫn cứ cho là mình có trí tuệ, tưởng là thế giới bên ngoài đều vẫn giống hoàn toàn không có gì khác với cái vòng cỏn con mà bạn đang ở ẩn trong đó, không muốn thừa nhận cái không biết của mình, không muốn thay đổi nhận thức và kiến giải vốn có của mình. Ðó thật là bất hạnh. Ðể bù lại khiếm khuyết này, ngoài việc trước tiên phải thừa nhận trong cái vòng sinh hoạt của mỗi người tất nhiên đều rất có hạn, không thể ở chỗ nào cũng tỏ ra mình là người biết hết, không thể khắp mọi nơi chỗ nào mình cũng đúng, còn cần phải có ý thức thả mình đi ra khỏi mảnh trời đất bé nhỏ của mình, tiếp xúc nhiều, tìm hiểu nhiều đối với thế giới bên ngoài. Tiếp xúc càng nhiều, tìm hiểu càng nhiều, mới biết mình tiếp xúc còn quá ít, tìm hiểu còn quá ít. Câu danh ngôn của Socrates: Tôi biết mình không biết. Cũng giống như Socrates đã biết mình không biết, thì không thể cố chấp với thiên kiến nữa. Thứ hai là mô thức tư duy của ràng buộc thủ cựu cũng là nhân tố quan trọng dẫn đến cố chấp với thiên kiến. Bạn trước đây có thể là một người tinh thông văn hóa, một nhân vật tài giỏi vang lừng, phong lưu một thuở, hiển hách một thời. Nhưng thời gian và không gian phút chốc thay đổi khôn lường, thế giới và nhân sinh ngày nay đã hoàn toàn đổi mới so với những năm tháng đó, bạn lại vẫn muốn mang phong thái của năm xưa xuất hiện trên vũ đài hôm nay, vẫn với con mắt nhìn của năm xưa để nhìn cuộc đời của ngày nay, không thừa nhận mình đã lỗi? thời, không có cách nào dẫn dắt văn chương được nữa. Do đó, người ta chỉ có thể đem những lời chê bai như cố chấp, cổ hủ, cứng nhắc đặt lên đầu bạn. Già nua, tiết tấu tự nhiên của cuộc đời, bạn không có cách gì chống lại nổi. Ðã già rồi, thì nên đem thế giới này giao lại cho lớp trẻ! Nếu như bạn không chịu già, trong lòng không cam chịu, thử xem già như trai tráng triển khai lại trí lớn. Bạn chỉ có vứt bỏ mình của quá khứ, phá bỏ mô thức tư duy vốn có thay bằng con mắt nhìn hiện đại, vũ trang lại tư tưởng của mình, cùng hòa chung với lớp trẻ. Bạn thường xuyên sống giữa những người trẻ trung, cũng có thể làm cho bạn dần dần khắc phục được những thiên kiến vốn có. 44- Khoảnh khắc cần phải phục tùng trái với lương tâm * Con người sinh ra giữa trời đất, việc gì phải khom lưng uốn gối chịu sự quản chế của người khác? Việc gì phải mình tự xin lỗi mình để làm người trái với lương tâm? * Chính trực mà dường như khuất phục. Ðời người thường thường sẽ gặp phải nhiều sự việc không như ý nguyện của mình. Sự sắp xếp, chỉ thị hoặc mệnh lệnh của cấp trên không hợp với xu hướng của bạn, không phù hợp với kiến nghị, kiến giải hoặc phương án kế hoạch của bạn, thậm chí còn trái ngược với nhau. Phục tùng ư? Thực tế cảm thấy trái với lương tâm mình, thực tế không tình nguyện, không cam lòng; từ chối ư? Bạn có thể gặp phải hàng loạt phiền phức, đôi khi thậm chí chỉ có từ chức, dời khỏi đơn vị này mới có thể thật sự từ chối được. Giữa việc phục tùng trái với lương tâm với từ chối không làm, tất nhiên phải có một kẽ hở, bạn có thể từ kẽ hở này đi theo một con đường kiêm cả hai phía, việc đó sẽ cần bạn mở mang trí tuệ, dùng một số kỹ xảo điều khiển thích hợp. Bất cứ sự việc gì trên thế gian cũng đều có hai mặt trái phải, hai đầu trái phải, ở giữa tất nhiên tồn tại một khoảng cách; giữa hai cực tất nhiên tồn tại con đường trung gian, tức con đường không thiên về bên nào, cũng không lệch về phía nào. Cho dù ở bản thân mỗi cực cũng chắc chắn có thể phân ra làm mấy phương diện, bạn lại có thể nhận biết nó từ các phương diện khác nhau, từ đó đưa ra sự lựa chọn "hợp lý". Ðó là cái gọi là "con đường cao minh nhất là trung dung". Cá tính khác nhau, hoàn cảnh sống khác nhau, đương nhiên có thể đưa vào hướng chọn khác nhau đối với sự việc. Chỉ cần hướng chọn này làm cho mình vừa ý, tự cảm thấy tốt đẹp, không tổn hại đến người khác, mà còn không dẫn đến tạo nên sự hối hận của mình về sau, đó chính là cách chọn lựa hợp lý. Bạn có thể không muốn lách theo kẽ hở, không muốn theo đuổi không thiên về bên nào, không dựa vào phía nào, bạn tôn sùng phẩm cách kiên cường,? ngẩng cao đầu để nhìn cái đẹp của nhân cách, bất kể bạn rơi vào hoàn cảnh tồi tệ đến đâu, bất kể bạn đối mặt với sức ép to lớn bao nhiêu, đều không thể làm cho bạn cúi đầu, bạn vẫn cứng đầu cứng cổ vô cùng. ý chí của bạn cứng hơn sắt, bền hơn thép, bất cứ người nào đều không thể làm cho bạn khuất phục, đều không thể làm cho bạn làm một việc trái với lương tâm. Như vậy, đứng trước cấp trên cần bạn phải phục tùng trái với lương tâm bạn, đương nhiên bạn không thể chịu lép ông ta, từ chối ông ta, tranh cãi với ông ta, đốp chát với ông ta một trận cũng chẳng sao. Thường xuyên như thế, cấp trên có thể túm chặt đầu bạn, thì hoàn cảnh của bạn có thể sẽ ngày càng tồi tệ, thậm chí đi đứng khó khăn, khắp nơi húc đầu vào tường. Bạn có thể cảm thấy chẳng sao cả. Con người sinh ra giữa trời đất, đầu đội trời chân đạp đất, tôi làm theo ý tôi, làm sao làm khó dễ cho tôi được? Việc gì phải khom lưng uốn gối chịu sự quản chế của người khác? Việc gì phải mình xin lỗi mình để làm người trái với lương tâm? Hợp thì ở lại, không hợp thì đi. Nếu như thực tiễn chứng tỏ chủ kiến của bạn, ý nguyện của bạn là chính nghĩa, là đúng đắn, bạn sẽ càng thêm tự hào, hơn nữa cuối cùng bạn được người ta hiểu, được thời gian hiểu. Một khi thay đổi hoàn cảnh công tác, bạn sẽ có thể bước vào con đường bằng phẳng thuận lợi. Bạn đã thực hiện được cái đẹp của tính cương cường, giữ được nhân cách tự do - "Tự do của con người thật ra không chỉ ở chỗ làm những việc anh ta muốn làm, mà còn ở chỗ mãi mãi không làm những việc anh ta không muốn làm", đã có vĩ nhân nói như vậy. Bạn có thể coi thường phẩm cách cương cường mà tôn sùng tính nhẫn nại yếu đuối. Bạn thừa nhận đồng ý lời dạy xưa ?kẻ cứng rắn là chết, kẻ nhu nhược là sống? để nhìn thẳng vào quy luật tự nhiên ?Thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước, thế mà công kích vào cái cứng rắn không có gì không thể thắng?, theo đuổi trí tuệ chính trực mà dường như khuất phục, tinh nhanh mà dường như vụng về, hùng biện giỏi mà dường như chẳng nói nên lời. Ðây hẳn là một loại nhân sinh cao siêu, là một loại nhân sinh thấu suốt và tỉnh ngộ lớn. Khi cần bạn phục tùng trái với lương tâm, để bảo tồn mình, để tránh những khó xử trước mắt, để giảm bớt những phiền não không cần thiết hoặc tai nạn, bạn gắng hết sức tạm thời phục tùng nó, tiếp nhận nó. Chỉ cần bạn ôm ấp trong lòng vũ khí sắc bén, tâm niệm vốn có của bạn không thay đổi, vẻ nhu nhược bề ngoài của bạn chắc chắn ẩn chứa kín đáo vẻ cứng rắn bên trong, cái nhỏ bé yếu đuối tạm thời của bạn chắc chắn tiềm ẩn cái lớn mạnh của tương lai. Bạn hoàn toàn có thể tạm thời chịu đựng, tạm thời phục tùng để chờ đợi thời cơ. Một khi thời cơ chín muồi bạn sẽ có thể triển khai mạnh mẽ kế hoạch lớn, thực hiện ý nguyện và theo đuổi của mình. Ðây thật ra không phải là lật lọng không giữ chữ tín. Khổng Tử đi chu du các nước, khốn cùng chán nản. Khi đi qua ấp Bồ của nước Vệ, vừa gặp ngay ông họ Thúc tụ tập dân chúng ở ấp Bồ gây rối. Có mấy người gây rối ở đất Bồ túm lấy Khổng Tử và nói với ông: "Ông phải đáp ứng chúng tôi không đi đến thành đô nước Vệ, không đem chuyện ở đây truyền đến đó, chúng tôi mới thả ông đi ra khỏi thành. Nếu không, ông sẽ đành phải nán lại đây thôi". Khổng Tử vì để không bị giữ lại ở trong thành vừa không có việc gì làm vừa không làm nên việc gì, thế là đã đính ước với người Bồ không đi đến thành đô nước Vệ một cách trái với lương tâm. Sau khi đính ước, nhưng Khổng Tử vừa ra khỏi cổng thành lại xem nó như một tờ giấy bỏ đi, không chút chần chừ đã thúc xe chạy về hướng thành đô nước Vệ. Tử Cống không thể hiểu nổi đối với việc xé bỏ tờ ước và không giữ chữ tín như thế của Thầy, Khổng Tử liền khuyên các đệ tử: Chúng ta tại sao phải giữ chữ tín với những kẻ không có nhân nghĩa, không có đầu óc sáng suốt? Chúng ta tại sao phải phục tùng giữ chữ tín một cách trái lương tâm? Ðến quỷ thần đều không thể nghe được những điều này. Cả tin không tin - người giữ chữ tín nhất cũng không câu nệ với lời ước vì bị ức hiếp mà phải ký trái với lương tâm. Người có trí tuệ lớn, lấy điều nhân ái làm bản tâm (chủ định), lấy thiên hạ làm trách nhiệm của mình, quyết không thể bị kẻ tiểu nhân làm lúng túng khó xử. Hai cách chọn lựa cứng rắn và nhu nhược nói trên có lẽ đều không phải là quyết sách tốt nhất của đời người. Khoảnh khắc cần phải phục tùng trái với lương tâm, quyết sách lý tưởng nhất có thể là từ trái với lương tâm đi tới thuận lương tâm. Hoặc là dùng sự thuyết phục đặc biệt của bạn làm chuyển đổi bản lĩnh của người khác, để thuyết phục cấp trên của bạn. Lấy lý để làm cho ông ta hiểu, lấy tình để làm cảm động ông ta. Lấy lòng trung thành của bạn đối với công ty, đối với đơn vị của mình để trình bày rõ ý kiến của bạn, để cho cấp trên thừa nhận đồng ý thiết kế của bạn, kiến giải của bạn, ý nguyện của bạn; hoặc là tuy không thể hoàn toàn thừa nhận đồng ý, cũng có thể thừa nhận đồng ý một phần; hoặc là tạm thời không thể thừa nhận đồng ý với bạn, lại hiểu sâu sắc bạn hơn. Quan hệ của bạn với cấp trên bắt đầu hòa hợp đạt được cùng nhau tin cậy và khoan dung. Lúc đó, cả hai bên đều không tồn tại tâm lý đối kháng, bạn không có cảm giác phục tùng trái với lương tâm nữa, mọi người đều bình tĩnh hòa nhã, thuận lòng toại ý. Há lại không kỳ diệu sao! Hoặc là kiến giải của bạn trái ngược với cấp trên, nhưng bạn đã tìm hiểu được nỗi khổ tâm của cấp trên, đã tìm hiểu được quyết sách của cấp trên là xuất phát từ thực tiễn phù hợp với lợi ích trước mắt của công chúng, hoặc đại biểu ý kiến của đại đa số người. Khi bạn đồng thời giữ ý kiến bảo lưu, vẫn xuất phát từ việc duy trì đoàn kết yên ổn của công ty và đơn vị mình mà phục tùng quyết định của cấp trên. Còn trong quá trình phục tùng và chấp hành, có thể bạn uốn nắn lại kiến giải ban đầu của mình, tâm lý phục tùng trái với lương tâm cũng hoàn toàn tiêu biến. Có thể cấp trên của bạn kinh qua thực tiễn một khoảng thời gian, dần dần hiểu ra và thừa nhận kiến giải của bạn, từ đó sửa đổi lại một phần hoặc toàn bộ phương án, thực thi của ông ta, từ đó loại bỏ được vách ngăn cách và đạt được hài hòa thông suốt với bạn. Khoảnh khắc phải phục tùng trái với lương tâm, xét đến cùng quyết định bởi người thuộc tầng lớp nào, có cảm giác tâm tính ra sao. - Nếu như bạn là một người thật sự chân chính, một người cao thượng, một người tràn đầy trí tuệ, tự bạn có thể xử lý thỏa đáng, bất kể dùng phương thức như thế nào, vận dụng kỹ xảo điều khiển ra sao, từ một mặt nào đó thể hiện và thừa nhận "trái với lương tâm" và phục tùng, bạn đều có thể xứng đáng với nhân cách của mình, xứng đáng với lương tâm của mình. - Nếu như bạn là một kẻ nô tì hèn mọn dung tục, bạn sẽ biểu hiện ra vẻ khom lưng uốn gối, ầm à ầm ừ, cúi đầu khom lưng, bảo gì nghe nấy. - Nếu như bạn là một kẻ lỗ mãng thô lỗ ngu đần bạn sẽ không phân phải trái trắng đen, cố chấp thiên kiến (như trước đã nói), đem đá đập vào chân mình. Ai ai cũng đều mong muốn mình là một người chân chính, một người cao thượng, một người tràn đầy trí tuệ. 45- Khoảnh khắc sinh ra tư tưởng ngại khó khăn * Ngại khó khăn lại sinh khó khăn, không khó cũng trở thành khó; vượt lên khó khăn sẽ hết khó khăn, mà khó cũng không khó nữa. Có một người bạn thở ngắn than dài nói với tôi: "Người ta khó thật, làm người khó thật, khó làm thật". Ðời người đối với anh ta hầu như là hàng lô hàng lốc cái "khó", mà còn mang theo tâm lý sợ sệt nặng nề. Tôi nói với anh ta: Bạn muốn "làm" một người, đương nhiên sẽ khó. Trước tiên về tâm lý bạn đã nhận hẳn khó làm người, như thế thì càng nói khó lại càng thêm khó. Nếu như bạn vốn là một người dùng tâm tình thư thái để hưởng thụ cuộc đời, thì sẽ không cảm thấy làm người khó. Nếu như bạn sớm chiều nghĩ ngợi đến người yêu ở phía bên kia núi lớn, hẹn bạn tối nay đi gặp mặt thì khi bạn xuyên qua những bụi gai rậm vượt núi sẽ không cảm thấy khó khăn. Chưa biết chừng bạn suốt đường vui vẻ, nhảy nhót, miệng lại còn hát ngân nga khe khẽ. Nếu như muốn đem áp giải bạn đến bên kia núi giam lại thì khi bạn xuyên qua những bụi gai rậm vượt núi, bạn sẽ lê bước nặng nề, đi đường khó khăn, khó hơn lên trời. Anh ta suy nghĩ, quả thật là như thế. Khó khăn và dễ dàng rốt cuộc vẫn là tâm lý và cảm giác của người ta, là sự phán đoán và giới hạn ý chí của người ta. Ngại khó khăn lại sinh khó khăn, dù không khó cũng trở nên khó. Vượt lên khó khăn, sẽ hết khó khăn, dù có khó cũng trở nên không khó. Khó khăn và dễ dàng không có một thước đo chuẩn xác, giữa hai cái không có giới hạn. Bạn có thể làm cho bất cứ việc gì đều trở nên khó khăn chồng chất, nếu bạn nhắm mắt lại vẫn luôn nghĩ đến những khó khăn chồng chất đó. Bạn nghĩ ra bao nhiêu khó khăn, trong thực tiễn bạn sẽ gặp phải bấy nhiêu khó khăn. Ngược lại, bạn không thèm đặt khó khăn vào khóe mắt của mình, coi khinh nó, "xem thường" nó, thì nó cũng sẽ tiêu biến không gặp nữa. Khó khăn cũng giống như một kẻ thù mềm nắn rắn buông, bạn mạnh thì nó yếu, bạn yếu thì nó mạnh. Khi người Mỹ vừa mới khai phá miền Tây, sống cuộc sống biên thùy vô trật tự, có một số người lo toan ở đó sẽ lộn xộn hết sức, do đó sợ nguy hiểm bèn vũ trang súng trường lưỡi lê chuẩn bị tự vệ. Kết quả là những người này thường gặp hung hiểm hoặc gặp phải phiền phức và khó khăn. Còn những người không sợ nguy hiểm không sợ khó khăn, không mang theo vũ khí, chỉ dựa vào chủ định tốt và tháo vát của mình, ngược lại không gặp hung hiểm và khó khăn gì. Cùng cảnh ngộ như nhau, tiêu hao thể lực và não lực nhiều như nhau, góc độ nhìn nhận của bạn khác nhau sẽ sinh ra sự cảm thụ hoàn toàn khác nhau. Khi đánh bóng rổ, bạn chạy đến mức mồ hôi đầm đìa, thở hổn hển, không cẩn thận trượt ngã một cái, sầy da chảy máu, bạn vẫn không hề chú ý, tiếp tục đánh, bạn cũng không hề giảm hào hứng, không cảm thấy có khó khăn gì. Nếu như bạn gánh bùn 90 phút một cách không tình nguyện, cho dù không giống như khi đánh bóng, mồ hôi chảy ra đầm đìa như thế, thở hổn hển như thế, nếu như trượt ngã bị sầy da chỗ nào, cho dù rất nhẹ thôi, bạn cũng sẽ cảm thấy đau đớn, cảm thấy khó khăn, chưa biết chừng không còn hứng thú để tiếp tục làm việc nữa. Tại sao vậy? Việc trước là một việc vui chơi giải trí, bạn không có tư tưởng ngại khó, cho nên cho dù gặp phiền phức, xuất hiện khó khăn cũng không thể cảm thấy khó khăn. Còn việc sau là một việc lao động kiếm sống, bạn có thể đã có trước cảm giác gánh nặng cuộc sống mệt mỏi nặng nhọc, cho nên trong lao động cho dù khó khăn không lớn cũng xuất hiện tư tưởng ngại khó. Nếu như hai việc này đổi lại cho nhau, xem gánh đất bùn là một trò chơi giải trí, xem đánh bóng là việc làm kiếm sống thì cảm giác của bạn đối với hai việc sẽ có thể hoàn toàn ngược lại. Thậm chí làm cùng một việc, tâm trạng của bạn khác nhau, góc độ thể hiện nhận thức khác nhau, cảm giác sinh ra cũng sai khác rất lớn. Cùng là việc xuống bếp làm cơm, bạn xem nó là một việc khổ sai không có cách gì tránh nổi, thì bước chân vào đến bếp sẽ có thể cảm thấy phiền não, hàng ngày đều phải bày biện ra các loại nồi xoong, bát đĩa muôi thìa này bạn sẽ cảm thấy quá nhạt nhẽo, quá khó khăn. Nếu như bạn xem nó là một nghệ thuật, bạn sẽ dày công thiết kế, khéo léo chế biến và hào hứng tự mình thưởng thức sản phẩm nghệ thuật do tay mình nấu nướng ra - món ăn ngon có đủ màu, hương, vị. Không một chút có cảm giác vô vị và cảm giác khó khăn. Cho nên, một người liệu sống có được vui vẻ nhẹ nhàng, có cảm giác hưởng thụ cuộc đời không, thật ra không có một tiêu chuẩn khách quan cố định. ở cùng một hoàn cảnh sống như nhau, Trương Tam có thể xem là hưởng thụ, sống vui vẻ, Lý Tứ lại cho là khô khan, nặng nề, sống gian nan, sống đau khổ. - Chỉ vì Trương Tam đối mặt với cuộc đời lạc quan thấu hiểu, xưa nay không có tư tưởng ngại khó; Lý Tứ thì sợ cuộc sống, nỗi lo canh cánh, mình tạo cho mình khó khăn và đau khổ. Trên đường đời bạn muốn sống được vui vẻ thoải mái, trước tiên không nên có tư tưởng ngại khó. Không nên giống Tônstôi đem đời người như là ?một công việc nặng nề?, mà nên như Lin Yu Tang cho ?cuộc đời như một bài thơ?, một bài thơ trữ tình tuyệt đẹp. Sống một đời hợp lý cũng giống như đọc sách một cách đúng đắn. Người đọc được nhiều sách đều nói đến, đọc sách phải là một việc nhã nhặn, một việc vui, chỉ có đọc một cách rất vui vẻ hào hứng mới thật sự gọi là đọc sách, mới đọc được tốt. Còn đối với việc đọc sách có tư tưởng ngại khó, đọc một cách khổ sở, khi đọc sách không có chút hào hứng, mơ màng như buồn ngủ, thậm chí phải dùng dùi đâm vào đùi - đọc sách kiểu lấy dùi đâm vào đùi thì ngu không ai bằng. "Một quyển sách bày ra trước mặt bạn, có lời rất hay của bậc hiền nhân trong ngoài nước nói với bạn, mà vẫn muốn ngủ, thì nên đi ngủ, đâm vào đùi cũng vô ích". Lin Yu Tang đã nói như thế. Ðời người cũng như vậy. Ðời người nên vui vẻ thoải mái. Các vĩ nhân, anh hùng hào kiệt, các nhà khoa học lớn, các nhà phát minh lớn trong quá trình thành công sự nghiệp nào đó, phẩm cách cơ bản nhất của họ là độ lượng rộng thoáng đối với cuộc đời và thế giới, không để ý đến khó khăn, cho dù phải xông vào rừng gai rậm cũng không xem là con đường đáng ngại. Một người chỉ có xem sự nghiệp anh ta theo đuổi là sự nghiệp vui vẻ, xem là sự theo đuổi tốt đẹp, luôn luôn giữ tâm trạng lạc quan thông suốt, mới có thể thật sự có thành tựu trong sự nghiệp đó. Edison khi thí nghiệm máy điện báo tự động dùng giấy, nếu như xem việc đó là đau khổ, không có lòng nhiệt tình vô hạn, ông sẽ không thể qua sau 2.000 lần thất bại vẫn không giảm hào hứng, cho mãi tới lúc thành công. Nếu như Trần Cảnh Nhuận xem việc trích chọn toán học suy đoán Gedebahe là một đau khổ, ông ta sẽ không thể có nghị lực to lớn như thế, ông ta sẽ nửa chừng vứt bỏ, kết thúc chẳng có kết quả gì. á Thánh (Mạnh Tử) nói: ?Trời sẽ giáng trọng trách lớn vào người này, phải trước hết khổ tâm trí, lao lực gân cốt, đói khát thể xác, khốn cùng thân thể, nhiễu loạn hành vi, cho nên động lòng nhẫn tính từng có ích với những cái nó không thể có?. Trên thực tế, nếu một người rơi vào cảnh ngang trái, lại trong lòng mang sự mong đợi sẽ nhận trọng trách lớn và đã nhìn thấy hy vọng anh ta sẽ trở thành nhân vật vĩ đại, thì tất cả những cảm giác "khổ", "lao lực", "đói khát", "nhiễu loạn", "không thể" đều có thể tiêu tan, anh ta sẽ lấy cái đó làm vui, lao vào cảnh nước sôi lửa bỏng khổ đến mấy cũng cam chịu. Vô số người có nhân nghĩa có chí đã phấn đấu không ngừng cho sự nghiệp tiến bộ và văn minh đều như vậy. Một người đứng trước danh lợi giơ tay ra quá dài, lao tâm khổ trí tham lam đến không biết chán, đương nhiên cũng có thể sản sinh cảm giác đau khổ, cảm giác khó khăn, tư tưởng ngại khó cũng theo đó sinh ra. Trước danh lợi, bạn nếu siêu thoát đạm bạc một chút, mà trước sau giữ được tính cách tốt đẹp, cao thượng và lấy đó làm cái gốc của sinh mệnh, bạn sẽ có thể vui vẻ thoải mái, mọi khó khăn trong đời người cũng liền không thể tạo thành khó khăn đối với bạn nữa. -------------------- ![]() |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 21st July 2025 - 12:18 PM |