Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 99 Khoảnh Khắc Đời Người - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> 99 Khoảnh Khắc Đời Người, Dịch giả: Nguyễn An
BichDu
post Sep 26 2011, 04:53 PM
Post #1


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country







99 Khoảnh Khắc Đời Người

ZHANG ZI WEN
(Trương Tự Văn)

I- Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi

Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng?
Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại.
Đối với tương lai, nếu như chỉ xét về thời gian, cũng dễ dàng lý giải: phàm thời gian không có trong quá khứ mà lúc này lại không có mặt đều có thể gọi nó là tương lai. Song sinh mệnh của tôi trong thời gian tương lai đặt vào những nội dung gì, tôi cũng không biết nữa. Nếu như suy luận theo logic, có thể nói, tôi có tương lai. Nhưng đây chỉ là một khái niệm chưa được nghiệm chứng mà thôi. Sự thật trước mắt là, đối với thời gian lúc này không có mặt và nội dung không biết, đều không thể coi là cái hiện tại tôi có.
Duy chỉ có khoảnh khắc lúc này thuộc sở hữu của tôi. Duy chỉ có khoảnh khắc này, sinh mệnh của tôi mới có đầy ý nghĩa thực tại. Sinh mệnh chỉ có thể sống tại khoảnh khắc lúc này, không thể sống trong quá khứ, cũng không thể sống ở tương lai.
Khoảnh khắc thời gian là một cái gì đây? Nó vừa không thuộc quá khứ, trái lại lại không ngừng trở thành quá khứ; vừa không thuộc về tương lai nhưng lại không ngừng đón nhận tương lai. Nó vừa là một giới hạn có thể chia cắt vô hạn giống như một điểm không có chiều dài; lại là một giới hạn có thể kéo dài đến vô hạn, 38 năm có thể tính là một khoảnh khắc, trong sinh mệnh vũ trụ, toàn bộ thời gian loài người tồn tại cũng có thể xem là một khoảnh khắc. Từ đó đủ thấy khoảnh khắc chốc lát là thời gian không thể tưởng tượng được. Mà cái tôi có, chỉ có thể là khoảnh khắc thời gian, như thế tôi là một tồn tại không thể tượng tượng nổi?
Khi tôi nhảy khỏi vũng bùn của quan niệm thời gian kiểu máy móc, vứt bỏ những ngụy biện như đúng mà là sai, nhận thức được tính vô cùng sinh động của tồn tại sinh mệnh, tôi mới sáng tỏ trong lòng.

Tôi là sinh mệnh sinh động nhất trong vũ trụ, trên đường trục thời gian là một quá trình sống và trưởng thành từ đầu đến cuối luôn luôn mở rộng. Tôi vừa nhận thức được những việc phát sinh trong quá khứ không thể trở thành cái mà hiện tại tôi có, lại đem quá khứ xem là sự mở đầu của quá trình sinh mệnh, từ đó trân trọng giá trị đặt nền móng khởi nguồn của nó trong lịch trình của sinh mệnh. Hơn nữa, khi nghĩ lại đặc trưng tính toàn cục của sinh mệnh, tôi phát hiện ra “quá khứ” của tôi cũng quyết định hiện tại của tôi - tôi luôn luôn ở trạng thái trôi đi, hiện tại chẳng mấy chốc đã hóa thành quá khứ, như thế “quá khứ của tôi có thể có ý nghĩa gì cũng sẽ quyết định bởi việc làm hiện tại của tôi. Cũng chính là, tôi luôn luôn không ngừng viết nên lịch sử của mình, sự việc hôm nay đến ngày mai sẽ trở thành việc của quá khứ, muốn cho mọi việc của tôi ngày hôm qua có giá trị thì phi làm sao mỗi một sự việc của tôi hôm nay đều có giá trị.
Tương lai luôn đang mở rộng ở hiện tại, bởi vì hiện tại tôi đang luôn trù tính tưng lai, mỗi một ý nghĩa hiện tại mà tôi tạo nên cũng chính là trải ra và tích tụ cho tương lai.
Như thế, đặt mỗi một khoảnh khắc lúc này vào trong thời gian dài đằng đẵng của tính toàn cục, để cho nó vừa thể hiện quá khứ lại hiện rõ ra tưng lai, khoảnh khắc lúc này không còn là sự tồn tại trống rỗng không thể tưởng tượng được nữa, nó đã trở thành cái thực có đầy đủ nhất nối quá khứ với tương lai của tôi.
Chỉ có lúc này mới có thể nói: tôi đã có khoảnh khắc thời gian. Tôi đã nắm chắc được số phận của mình.
Với tư cách cá thể, tôi được khêu gợi từ quan niệm lịch sử của Gan đi, sinh mệnh là sự tồn tại lấy trần thế làm cơ sở dựa vào trật tự xã hội, cho nên tôi không theo đuổi mức độ tinh thần đến tột độ không ăn uống những thứ ở nhân gian - Tôi không thể vứt bỏ được ăn mặc, ở và đi lại của thế tục. Tôi hoàn toàn có thể đi theo trào lưu “đi xuống biển”. Nhưng tôi cũng có thể tiếp nhận chính những hấp dẫn của sáng tạo văn hóa. Trên thực tế, tôi đang vui sướng xiết bao trong màng lưới văn hóa tự tạo tự kiềm chế. Tôi hiểu sâu sắc rằng một khi tách rời màng lưới văn hóa sẽ có thể thật sự chỉ có hai bàn tay trắng.
Từ trong văn hóa Bandu tôi nhận được, vận động phát sinh vào thời điểm chỉ định và địa điểm chỉ định là thực thể có một không hai. Trong không gian và thời gian vô hạn, tôi không phải chính là một thực thể độc lập như vậy ư? Mặc dù nhỏ bé, nhưng sao lại cản trở sáng tạo văn hóa đặc biệt của tôi? Sinh mệnh của tôi đã diễn biến thành loại sáng tạo văn hóa đặc biệt này, tôi với tư cách là một vật thể mang vật chất văn hóa, thời gian sinh tồn có hạn; còn tôi với sinh mệnh mang tinh thần văn hóa thì sẽ cùng tồn tại với thời gian mãi hàng nghìn năm sau.
Tôi từ trong quan niệm thời gian của vĩ nhân “đều đã qua rồi, được coi là nhân vật phong lưu phải xem hiện tại”, “một vạn năm quá lâu, chỉ tranh giành phút chốc” được tỉnh ngộ triệt để cuối cùng, đã phát hiện sinh mệnh của tôi, bản thể tinh thần của tôi sẽ ở mỗi một khoảnh khắc trên đường sinh mệnh của tôi!

Một đời tôi chẳng qua là dòng thời gian do từng khoảnh khắc tạo nên, sự tồn tại của các khoảnh khắc thời gian khác nhau đã tạo nên toàn bộ sự tồn tại của tôi.
Tôi cho là hoàn toàn không có khả năng nhận thức tính tất yếu của vận động sinh mệnh của mình từng ý nghĩa triết học - Con người không thể nhận thức một cách vô cùng vô tận đối với vận mệnh của mình mà người ta chỉ có thể chịu sự chi phối của tính tất nhiên, con người nhiều lắm chỉ có thể không ngừng nhận thức tính tất nhiên mà thôi.
Nhưng, tôi hoàn toàn có thể nắm chắc mỗi một khoảnh khắc mà bản thân mình sắp sửa gặp một cách tự giác, đối với mỗi khoảnh khắc có một sự trù tính sáng suốt tự giác, đây sẽ là sự trù tính của tôi đối với vận mệnh. Đây chính là điều mà mọi người nói bám chặt thần của số phận.

II- Số phận ném tôi vào một nơi hoàn toàn xa lạ. Trước sự chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi chọn số phận thuộc về tôi

Có một ngày tỉnh lại, tôi đột nhiên phát hiện mình đang sống trong một thế giới gặp được vận may. Tôi đang đứng trước ngàn vạn nẻo đường, tung hoành ngang dọc, thành bại được mất, cũ mới lẫn lộn.
Mật mã của số phận ở đâu?
Tôi hỏi ông trời, trời không trả lời. Tôi lại hỏi đến đất, đất cứ lặng thinh.
Trước chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi lại chẳng biết đâu mà lần nữa, tôi không biết chúng mỗi cái có kết cục ra sao. Huống hồ, cơ may, hoàn cảnh tôi đều không tự chủ để chọn lựa được. Số phận hoặc cần tôi phải chịu đựng thử thách của gió Tây Bắc trên cao nguyên hoàng thổ, cũng có thể để cho tôi bay qua Thái Bình Dưng đến đất khách quê người để mạ vàng, sau đó áo gấm trở về. Một khoảnh khắc trôi qua, một sai lầm nẩy sinh trong khoảnh khắc, tôi không biết tôi sẽ trở thành một con người tôi như thế nào nữa.
Từ nay nghĩ lại quá khứ làm tôi kích động mãi là tôi cuối cùng trong vùng hoang dã mênh mông không ranh giới, từ trong sốt ruột và gắng gượng đến tột độ, đã tìm thấy một niềm tin kiên cường: bất kể thế giới phức tạp lộn xộn bao nhiêu, bất kể đời người đứng trước sự lựa chọn bao nhiêu, sẽ phi chịu đựng bao nhiêu trắc trở và dằn vặt, tóm lại là thế giới mênh mông không có bất cứ cái gì có thể vượt qua vô trật tự mà đạt tới có trật tự, vượt qua quá trình mà chiếm ngay kết qu được. Đời người cũng chỉ có thể
như vậy.
Như thế, tôi chỉ có thể bắt đầu thiết kế đối với số mệnh từ trong gắng gượng vô trật tự, từ trong “khả năng” vô cùng đa dạng, từ trong vô số những cái “có lẽ” tìm ra được một manh mối đạt được có trật tự.
1. Trù tính cơ bản: tôi cảm thấy được tôi là ai.
Muốn trả lời “tôi là ai” đương nhiên là rất khó khăn, mà muốn trù tính số phận của tôi, điều trước tiên gặp phải lại là vấn đề của “tôi là ai”.
Trong văn hiến kinh điển “áo nghĩa thư” của ấn Độ từ 600 năm trước công nguyên, đã đem cái “tự ngã” xem thành hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, khi nó khảo sát tự ngã với quan hệ nguồn gốc tạo thành thế giới liền nêu lên hai câu hỏi tự nhiên vĩnh hằng là “tôi là ai”, “tôi trong thế giới này nằm ở vị trí nào”. Từ nền văn minh ban đầu cổ Hy Lạp, Bamennid, Socrates, Plato của miền bãi biển Aisin, Lão Đam, Trang Chu của hai bên bờ sông Hoàng Hà, đến “Kinh Phệ Đà” của bên bờ ấn Độ dưng, “Thánh kinh” của môn đồ Cơ đốc giáo, bước đến nền văn hóa phục hưng và cách mạng công nghiệp cận đại kích động lòng người, thẳng tới Carxin, Heidegger, Sartre của phưng Tây hiện đại câu trả lời “Tôi là ai” vờn bay đầy trời, làm cho người ta rối mắt. Nhìn thấu sự biến ảo rối ren của nó, bất kể những nhà hiền triết thuộc dạng nào đều không vượt quá giới hạn nhất định như sau - Tôi là một động vật của văn hóa, tôi sáng tạo ra văn hóa và tự tuân theo văn hóa, sự vui vẻ và lo âu của tôi đều nằm trong mạng lưới văn hóa, đồng thời không thể xông ra khỏi ngoài mạng lưới để tự do tự tại.
Đây là kết luận của số phận, đây là kết luận của lịch sử.
Lịch sử đã từng chế giễu rất nhiều người muốn xông ra khỏi mạng lưới văn hóa để tự do tự tại, bao gồm cả vô số những anh hùng văn hóa. Hầu như đồng thời, học phái Sdorger của phưng Tây và Lý Nhĩ, Trang Chu của phưng Đông đều vắt óc nghĩ thầm thoát khỏi mạng lưới văn hóa để đồng nhất với tự nhiên trời đất, hưởng thụ tự do và yên tĩnh. Học phái Sdorger đem “thuận theo tự do để sống” làm hành vi lưng thiện chân chính, Lão Trang thì có tiếng là “vô vi vô tri” có thể “dốc sức vì đạo đến cực độ, một lòng một dạ tuân theo, mọi vật song song tiến hành mình phi tự quan sát nhiều lần”. Trên thực tế như thế nào? Không chỉ sự phát triển của lịch sử hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng của họ, họ trước sau đều không thể phá nổi mạng lưới văn hóa, mà Chinor, Lão Trang bản thân đã là một bộ phận của thủy tổ nền văn hóa của nhân loại đã trở thành một mắt xích trên mạng lưới văn hóa. ý chí tâm lý của Chinor, Kleiande một chút cũng không thể tự do nhẹ nhõm, họ đem toàn bộ luân lý đều buộc lên vai Thượng đế và số phận, cho rằng về luân lý, yêu cầu cao nhất đối với con người chính là phục tùng Thượng đế và số phận: “Dù là nghi ngờ làm tôi lạc hậu hoặc không tình nguyện, nhưng tôi cũng nhất định vĩnh viễn theo đuổi Ngưi (Ngưi tức Thượng đế, số phận)”. Vốn muốn thoát khỏi mạng lưới văn hóa, không ngờ sau khi đi vòng quanh một cái vòng lớn vẫn bị tự mình chui vào trong mạng lưới văn hóa chặt chẽ hn. Lão Trang cũng thế, vốn muốn thông qua “đạo vô vi” xung phá sự ràng buộc của văn hóa để trở về với hoài bão của tự nhiên, lại trước sau chịu sự cám dỗ sâu sắc của tinh thần vĩnh hằng siêu nghiệm, bị tự mình nhốt khóa trong “cửa nhiều điều kỳ diệu” “nhìn không thấy”, “nghe không biết”, “huyền bí thêm huyền bí”. Từ đó có thể thấy mặc dù họ có suy nghĩ phân biệt sâu sắc và chí hướng cao xa như thế nào, về phưng diện thoát ra khỏi mạng lưới văn hóa vẫn hoàn toàn tốn công vô ích. Giống như Tôn Đại thánh, mặc dù nhào lộn một cái đã đi được mười vạn tám ngàn dặm lại vẫn không thể vượt qua được lòng bàn tay của đức Phật Như Lai.
Về sau tất c những người hòng thoát khỏi ràng buộc, ẩn mình trong đào nguyên hoặc ẩn tích trong núi sâu rừng thẳm hoặc say đắm trước bình rượu dưới trăng để được tự do tự tại đều là những kẻ thất bại, họ nhiều lắm cũng chỉ tìm được cái thắng lợi tinh thần nhất thời mà tạm thời tự say sưa một phen biểu lộ: “Dựng lều ở chốn nhân gian, mà không có tiếng ngựa xe ồn ào”, “Hỏi bạn vì sao có thể như thế, lòng tự xa cách đất, người”, trong ý thức sâu kín rõ ràng là “đất này không có bạc ba trăm lạng”. “Rừng sâu người không biết, có trăng sáng lại soi”. Chẳng qua là nỗi thưng cm đặc biệt đối với người ta, không biết và thân thiết hướng về đối với người có thể biết ta. Có thể vứt bỏ “chuông trống cỗ ngon” và “ngựa đẹp áo sang”, nhưng vẫn cố chấp truy hỏi đời mình có đắc ý hay không, trời sinh ra thân tôi liệu có ích hay không, nếu như không cố chấp như thế, làm sao có thể “nhưng muốn say lâu không muốn tỉnh?” Đâu có “vạn cổ sầu” nữa?
Tôi căn bn không có cách nào chạy trốn, chỉ có thể đứng im trong mạng lưới văn hóa. Tự do chân chính của tôi cũng chỉ có thể là tự do trong mạng lưới văn hóa. Còn như trong mạng lưới văn hóa tôi có thể giành được tự do ở mức độ nào, ở ngày nay vẫn là vấn đề kinh tế, liên quan với chính trị rất ít. Trong lĩnh vực chính trị, tự do thường thường sa ngã thành công cụ của một số người có dã tâm, họ mang theo chiêu bài tự do, thậm chí lấy tự do làm lời hứa hẹn, mê hoặc dân chúng dẹp loạn một trật tự nào đó để đoạt lấy quyền lực cá nhân, đến khi mục đích dã tâm đạt được, để giữ sự thống trị của cá nhân ấy, tất nhiên có thể ngay lập tức xây dựng nên trật tự khác, chẳng bao giờ có thể cho dân chúng mà lúc ban đầu họ kích động và từng hứa hẹn có tự do chân chính, tự do c đến dân chúng chỉ làm công cụ để họ đoạt quyền. Xã hội loài người phát triển đến ngày nay, tự do về thực chất vẫn là một khái niệm kinh tế. Xã hội có trình độ sức sn xuất đến mức độ nào thì có tự do ở mức độ đó. Tự do của tôi vĩnh viễn có liên hệ với hoàn cnh kinh tế cụ thể tồn tại của tôi. Trình độ sức sn xuất càng cao, kinh tế càng phát đạt, tự do của tôi mới có thể càng nhiều. Trái lại, trình độ sức sn xuất càng thấp thì tự do càng ít. Mỗi một xã hội đều chỉ có thể đạt được tự do ở trình độ tưng ứng với mức độ sức sn xuất của nó, bất cứ ai cũng không có cách gì vượt hn trình độ này. Bất cứ hành vi nào vứt bỏ hoàn cnh sinh tồn cụ thể đều có thể làm cho tự do chỉ là lời nói suông mà chẳng có chút giá trị nào. Các nhà triết học xem điều này là quy luật tự nhiên hoặc tính tất nhiên. Spinoza trong “Luân lý học”đem tự do diễn đạt thành nhận thức đối với tất nhiên, tự do không phi là thoát khỏi tính tất nhiên mà là nhận thức tính tất nhiên. Heygel trong “Triết học lịch sử” thì lại càng tiến hành kho sát lịch sử cụ thể đối với tự do một cách sâu sắc hn, lần đầu tiên đem thực tiễn dẫn vào khái niệm tự do, cho rằng tự do là dưới tiền đề nhận thức tính tất nhiên thực hiện sự thống nhất cụ thể của chủ thể và
khách thể.

Về phưng diện nhận thức đối với tự do, Mao Trạch Đông dùng phưng thức ngôn ngữ Hán học điển hình đưa ra diễn đạt hoàn chỉnh nhất, Ông cho rằng tự do là nhận thức đối với tính tất nhiên và ci tạo đối với thế giới khách quan. Giữa nhận thức và ci tạo dùng chữ “Và” đề nối liền lại, vừa có thể thừa nhận là hai cái kế tiếp trước sau - nhận thức tất nhiên ở trước, ci tạo khách quan ở sau, giống như sự thể hiện của Mao Trạch Đông từ lâu về bước đi của đời sống tinh thần: trước tiên có nhận thức, sau mới có tin theo, cuối cùng mới có thể thực hiện trên hành động, đối với tính tất nhiên có nhận thức ở trình độ nào mới có ci tạo khách quan đạt được tự do ở trình độ đó; lại có thể đem c hai cái hiểu là đồng thời - nhận thức tất nhiên, ci tạo thế giới chủ quan đồng thời với ci tạo thế giới khách quan (cũng giống như ci tạo thế giới khách quan đồng thời với ci tạo thế giới chủ quan). Hạt nhân của quan điểm tự do của Mao Trạch Đông là: bất kể nhận thức tất nhiên hay là ci tạo khách quan đều lấy cái “tôi” làm chủ thể, tôi ở đây giành được tự do thực tại nhất mà lại biện chứng nhất. Xuất phát từ loại quan niệm tự do thời gian không gian biện chứng này, Mao Trạch Đông xem quá trình phát triển của lịch sử từ vưng quốc tất nhiên sang Vưng quốc tự do, đây là một quan điểm lịch sử tự do vĩnh viễn mở rộng, ông không dùng “thực hiện tự do” làm điểm cực cuối cùng, mà là tự giác nắm chắc tính vô hạn phát triển lịch sử, đem tự do xem là một quá trình phát triển vô hạn: quá trình vận động từ tất nhiên đến tự do.
Nhìn thấu rõ tự do như thế, tôi mới có thể vượt qua hỗn loạn tạp nham, trong mạng lưới văn hóa mới thật sự tìm được phần số phận vốn thuộc về tôi. Mặc dù tôi vẫn không thể tr lời chuẩn xác được trong mạng lưới văn hóa tôi là ai, cũng không thể nhận thức vô tận đối với số phận của tôi, nhưng tôi hoàn toàn có thể ở ni đây - trong quá trình sáng tạo văn hóa của chính tôi cm thấy một cách chân thực tôi là ai. Khonh khắc mà tôi cm thấy tôi là ai, trước tiên tôi giành được sự tỉnh ngộ của lưng tâm và sự bình yên của linh hồn. Bất kể xung quanh hỗn loạn như thế nào, bất kể tiếng ồn xung quanh bốn phía ầm ĩ đến đâu, tôi trước sau đều vững tin vào cm giác của chính tôi - đành là tôi phi sống một cách chân thực, tôi sẽ không thể không hoàn toàn nhấn mạnh cm giác này của mình.

Cứ lấy việc “đi xuống biển”, mốt đang được tôn sùng nhất của nhiều người trong c nước hiện nay để bàn. Trong tình hình hệ thống thị trường của xã hội chưa giành được sự thống nhất hài hòa với hệ thống văn hóa, đang tồn tại sự phân phối không đồng đều, c chế cạnh tranh không hoàn thiện, tôi cm thấy tôi nên dựa vào hệ thống thị trường của xã hội, thế là tôi sẽ vui vẻ đi :”xuống biển”. Tôi cm thấy tôi vẫn phi vững vàng tiến theo hệ thống văn hóa của xã hội, do đó tôi sẽ vui vẻ như trước đây làm công việc sáng tạo của tôi. Như vậy, hoặc là có may mắn để hạ cố đến tôi hoặc thất bại cũng không luyến tiếc lắm, tôi hiểu rõ đây chính là số phận của tôi. Số phận có thể sắp đặt tôi bắt đầu lại một lần, hai lần. Người đen đủi nhất chính là những người không tìm thấy cm giác tốt đẹp của mình. Hâm mộ đi xuống biển lại không dám xuống biển, không đi xuống biển lại luôn luôn nghĩ phi đi xuống biển, đã đi xuống biển lại cm thấy mất một số cái gì đó đâm ra hi luyến tiếc. Đây chính là vì đời người rất không tự do. Anh ta có thể đứng trước c may đã bỏ lỡ lại bỏ lỡ lại, số phận cũng luôn trói buộc anh ta. Xét đến điều căn bn của nó là ở chỗ anh ta không thể cm thấy một cách chân chính anh ta là ai, anh ta để cho mỗi một khonh khắc của sinh mệnh của mình đều trôi đi uổng phí trong do dự và lưỡng lự. Mắt đang nhìn mình từ thiếu niên đến trung niên, chẳng mấy chốc lại từ trung niên đến những năm xế chiều, một đời chỉ có tự than thở trống không.
Tôi quyết không thể như thế. Bắt đầu từ bây giờ tôi sẽ phi có một trù tính c bn đối với số phận của mình, xây dựng nên cm giác chân thực của mình, tìm thấy vị trí nên thuộc về mình.
Xin đừng lo lắng tôi có thể vì cm giác dâng cao mà trượt vào thuyết duy tâm. Cm giác của tôi luôn là cm giác đối với tồn tại, bao gồm cm giác đã có, hiện có và sẽ có. Sẽ có là sự tồn tại của gi tưởng, bao gồm tồn tại tưng lai có thể thực hiện và “tồn tại” tưng lai không thể thực hiện. Cái trước là một loại lý tưởng, cái sau là o tưởng, ý tưởng điên rồ. Nhưng ý tưởng điên rồ của hiện tại - trong cm giác đối với “tồn tại” mà hiện tại cho rằng tưng lai không thể thực hiện thường thường đang ẩn chứa tính sáng tạo, vận may của tôi chưa biết chừng chính sẽ tại chỗ đó.
Cm giác đối với chưa có và sẽ có sẽ là trực quan (ở đây, đối tượng của trực quan chỉ có tính không gian mà không có tính thời gian), năng lực của trực giác là tiền đề sinh ra tư duy mang tính sáng tạo trong kết qu của tư duy có tính sáng tạo, bộ phận có giá trị lý tính có thể chính là khoa học. Thiết kế có tính chất sáng tạo đời người đồng thời làm cho nó có giá trị lý tính là thiết kế cuộc đời của những người mạnh, người thắng lợi, trong đó tràn ngập trí tuệ nhân sinh rộng lớn. Tôi muốn tự giác giành được vận may thì không thể thiếu trí tuệ này.
Trong chặng đường dài từ cm giác đến khoa học, tồn tại là tính có trước, còn khoa học có giá trị thực tế nhất đối với loài người. Triết học duy tâm thì cắt đi phần đầu (tồn tại) mà bắt đầu từ cm giác cũng cắt đi phần đuôi (khoa học) chỉ nhấn mạnh ở giai đoạn trực giác và tư duy. Triết học sinh mệnh, chủ nghĩa trực quan của Baigeson cũng là dừng lại ở đây, lấy trực quan là trên hết, lấy “tự do tinh thần của khách quan” là trên hết. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chú trọng toàn bộ quá trình của sinh mệnh, vừa truy hỏi lý do tồn tại cm giác, cũng truy hỏi kết qu của trực giác và sau tư duy. Tôi kiên trì nắm ở chỗ này quyết không đem mình đặt vào trong một thế giới cm giác trống rỗng một cách cô lập.

Song, đối ứng với thời gian vật lý, trên thực tế tôi chủ yếu sống trong thời gian cm giác, trong thời gian cm giác trôi qua đi tôi thể hiện cm nhận sự tồn tại và vận động của sinh mệnh, việc này trở thành hạt nhân tinh thần mà tôi theo đuổi. Làm thế nào để trong quá trình lâu dài của thời gian cm giác, dùng trạng thái tâm lý siêu việt nhìn thẳng vào giá trị đời người, đây là một trong những vấn đề khó lớn nhất của đời người bày ra trước mắt tôi, tôi dù một khonh khắc đều không có cách nào lẩn tránh nó, tôi cũng không thể trốn tránh nó.
Thế là đối với số phận, tôi bắt đầu trù tính cụ thể thực tế hơn.
2. Quá trình và mục tiêu trù tính: tôi sống trong “lưỡng thê"
Tôi sống trong “lưỡng thê” với ý nghĩa đau khổ và vui vẻ. Tôi là đau khổ, số mệnh tôi nhất định phi tiếp nhận khổ nạn. Tôi đồng thời lại vui vẻ, tôi theo đuổi vui vẻ. Tôi đồng thời phi tri qua hai thể nghiệm tâm lý hoàn toàn trái ngược đau khổ và vui vẻ.
Ham muốn theo đuổi và gắng gượng trở thành toàn bộ bn chất của tôi. Bởi vì tôi là con người tất nhiên có ham muốn và theo đuổi của bn thân mình. Tôi vì thực hiện nó mà một phút cũng không ngừng cố gắng phấn đấu cũng chưa my may từng buông th mình. Do đó, tất c mọi khổ nạn, thất bại và gắng gượng đều sinh ra từ đó. Hn thế chúng từ trước đến sau đi kèm với c quá trình sinh mệnh của tôi. Đây đưng nhiên là một quá trình tràn ngập đau khổ. Tôi dùng vô số lần trắc trở và thất bại để thêu dệt nên mộng thành công. Có người nói tôi lúc này đây đang trong đau khổ và vô vị giống như một con lắc đang đu đưa qua lại. Tôi đang đứng trước đau khổ hai mặt, đau khổ của thất bại, đau khổ của thành công. Bởi vì tôi thật ra không xem thành công làm mục tiêu đời người của tôi, tôi chỉ từ mỗi lần thành công thể nghiệm giá trị của sinh mệnh, từ đó trong khonh khắc vô cùng ngắn ngủi giành được thành công phát ra một chút tiếng cười vui vẻ. Nhưng ngay tức khắc sinh ra một tìm tòi và theo đuổi mới, từ đó lại bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới. Hn nữa, khi mục tiêu mới còn chưa sinh ra, tức là trước khi bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới, tôi luôn cm thấy trống tri và vô vị mà trước đây chưa từng có. Đó sẽ là sự giày vò tinh thần mà thành công đem đến cho tôi.
Cho nên nói, ham muốn và gắng gượng, trắc trở và thất bại, chán ngán và đau khổ đã tạo nên toàn bộ nội dung trong quá trình sinh mệnh của tôi. ý chí kiên nhẫn, sức mạnh nhân cách của tôi, mỗi một chút thành tựu sự nghiệp của tôi đều sinh ra từ trong hàng chuỗi những khó khăn trắc trở như thế. ý nghĩa và giá trị sinh mệnh của tôi cũng chính là thực hiện trong khó khăn trắc trở như thế. Nếu như không có hàng chuỗi khó khăn trắc trở này, hoặc lẩn tránh nó thì sinh mệnh của tôi có thể trở thành hư vô. Tôi muốn sống một cách thực sự, số mệnh nhất định phi chịu đựng hàng chuỗi đau khổ và giày vò này.

Nhưng, mục tiêu của tôi thật ra không phi ở chỗ đau khổ. Tất c mọi việc làm của tôi, tất c mọi theo đuổi, đều là vì một mục tiêu cuối cùng: vui vẻ. Tôi tin tưởng vững chắc rằng đời người cần phi vui vẻ. Vui vẻ phi giống như một bài th. Vui vẻ phi giống như một con suối nhỏ róc rách tuôn đều, chy đến những con sông đẹp, chy đến tận biển c màu xanh biếc, chy đến tận những ni nó không hề hay biết.
ý chí của Tăng Điểm từng nói, được Khổng Tử tán thành, vốn chính là một mục tiêu cao nhất của đời người - Thời tiết cuối mùa xuân, sự thích nghi với mùa xuân đã quen, năm sáu chàng thanh niên, sáu by cậu thiếu niên rủ nhau ra tắm ở sông Nghi, đứng hóng mát ở Vũ Vu đài, sau đó hồ hởi ra về.
Khổng Tử, một đời hong hốt lo phiền, tích cực vào đời, sở dĩ biểu thị lặng im đối với ý chí trị quốc yên bang của mấy đệ tử trước Tăng Điểm trình bày mà lại chỉ độc nhất tán thành chí hướng của Tăng Điểm, thật ra không phi Khổng Tử sa sút nn lòng có ý nghĩ thoát khỏi trần ai, mà ở chỗ ông đã nhìn thấy mục tiêu cuối cùng của đời người là nên vui vẻ. Còn trị quốc yên bang chỉ là thủ đoạn để thực hiện mục tiêu này.
Khi tôi dựng lên mục tiêu này cho mình, tất c mọi việc làm và theo đuổi của tôi vì mục tiêu này cũng đều trở nên vui vẻ, tất c mọi đau khổ trong quá trình sinh mệnh của tôi cũng đều trở nên vui vẻ. Lúc này, tất c mọi cm giác đau khổ đều tan biến thành mây khói. Đối mặt với tất c mọi tai ách và khổ nạn, tôi cũng đều không thay đổi niềm vui, tôi chỉ cm thấy niềm vui sướng của đời người.
Lúc này, tôi mới cm thấy rằng “ăn một giỏ cm, uống một bầu nước, sống trong ngõ hẻm vắng, người khác chịu đựng nổi nỗi khổ đó, thế mà Nhan Hồi vẫn không thay đổi niềm vui vốn có”, vốn là một giới hạn của nhân cách vĩ đại biết bao.
Do đó, bất kể định mệnh của tôi phi gánh chịu bao nhiêu đau khổ, tôi vẫn yêu đời, tôi vẫn nhiệt liệt ôm hôn cuộc đời. Tôi làm cho quá trình của sinh mệnh thống nhất lại với mục tiêu một cách hài hòa. Từ đó tôi sẽ không sống trong “lưỡng thê” nữa. Dù cho khi bi thuyền ngược dòng, trong tất c mọi gian nan trắc trở của thể xác và tinh thần, tôi cũng có thể thể nghiệm được niềm vui sướng của đời người.
Song, đời người là ngắn ngủi. Khi hưởng thụ cuộc đời vui vẻ, nếu như không có giác ngộ của sinh mệnh, đời người sẽ bị một bóng đen to lớn bao trùm. Cái bóng đen này chính là: tử vong.
3. Trù tính cao nhất: Chỗ quy tụ của tôi là cái chết.
Nhịp điệu của tự nhiên làm cho tôi tất nhiên từ trẻ trai đi đến già lão, ban tặng cuối cùng sinh mệnh cho tôi là để cho tôi dập tắt ngọn lửa của sinh mệnh, đi về Thiền quốc.
Chỉ dùng logic của triết học cũng có thể suy đoán: không có cái chết thì không có sự sống. Đời người không có cái chết thì sẽ không có khái niệm của thời gian. Không có cái chết thì giá trị của sinh mệnh cũng sẽ không có
gì để nói. Cái chết đối với đời người vừa là bi tráng, đồng thời cũng là
thiêng liêng.

Chính vì chết là một việc tuyệt đối, thời gian và sinh mệnh mới hiện rõ vô cùng quý báu. Tôi chính là từ trong bài bi ca truy điệu vong linh, cm thấy được sự vô cùng trang nghiêm và hùng vĩ của bn giao hưởng
sinh mệnh.
Đành là tôi tất nhiên phải đến với tuổi già, tôi chẳng có lí do gì mà không vô cùng quý trọng những năm tháng của tuổi thanh xuân, quý trọng từng phút từng giây, quý trọng mỗi khoảnh khắc trong suốt đời người
của tôi.
Đành là tôi tất nhiên phải đi vào cõi chết, tôi không có lý do gì mà không vô cùng quý trọng sinh mệnh, tôi cần phi cố gắng trước khi chết, thực hiện giá trị sinh mệnh của tôi với mức độ lớn nhất.
Tôi từ bụi trần ai của vũ trụ đến, cuối cùng cũng tất nhiên phải trở về nơi đó.

III- Tôi biết tôi không biết. Tôi từ lời nhắc nhở của á thánh Mạnh tử chưa từng quên: Nhược điểm của một người là thích xưng là bậc thầy trước mặt người khác

Với kiến thức cạn hẹp, sự từng trải bình thường, học thức nông cạn, tôi không bao giờ dám hy vọng quyển sách này trở thành bất cứ sự chỉ giáo nào để trù tính số phận. Điều hiến tặng cho bạn đọc nhiều lắm chỉ là một chút cảm giác của cá nhân tôi đối với vận mệnh cuộc đời mà thôi. Bất kể diễn đạt ngôn ngữ của tôi dưới hình thức như thế nào, ví như đại loại là “bạn nên”, xét đến cùng vẫn chỉ là cảm giác của tôi. Tin hay không tin tùy bạn, tuyệt không có ý là “làm thầy”.
Đã là cảm giác của cá nhân, thiên kiến và sai lầm sẽ không thể tránh khỏi. Wetegenstan đã dạy người ta: Một người đối với sự việc không thể nói ra thì nên giữ im lặng. Nhưng trước mắt tôi thật ra không có ai quy định những điều gì có thể nói, những điều gì không thể nói. Thậm chí chính tôi, trước khi nói cũng thật ra không hoàn toàn biết rõ ràng tôi có thể nói điều gì và không thể nói điều gì. Bởi vì những việc có thể nói lại chưa nói, việc không thể nói lại đã nói ra, cũng không thể tránh khỏi. Đương nhiên, cuối cùng tôi cũng chỉ có thể nói ra những điều tôi có thể nói.
Đồng thời, quyển sách này cũng được xây dựng trên cơ sở đọc hàng loạt lớn tư liệu, tôi đã đứng trên vai của nhiều hiền triết vĩ nhân trong ngoài nước xưa nay và nhiều bạn bè chưa nổi tiếng. Tôi cám ơn họ một cách sâu sắc, tôi đã dẫn ra rất nhiều quan niệm và thực tiễn của họ đối với vận mệnh đời người. Cho nên, quyển sách này cũng là nhận thức và cảm thụ của tôi đối với quan niệm và thực tiễn của họ, ở đây vẫn có thể còn có sai lầm.
Như vậy, tôi vừa cầu mong không khí văn hóa khoan dung, vừa cầu mong bạn đọc chỉ ra những thiếu sót và sai lầm.
Để thức tỉnh niềm hưng phấn đọc các vấn đề khác nhau, phong cách hành văn trong sách này không phải là một vẻ, một cách điệu, hầu như là có đủ mọi phong cách pha trộn lẫn nhau - hoặc kiểu dẫn dắt, hoặc có tính biện luận, hoặc có tính kể chuyện, hoặc có tính triết lý, từ đó xét về toàn cục cũng đã hình thành một phong cách đặc biệt của quyển sách này.


--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
BichDu
post Sep 26 2011, 05:52 PM
Post #2


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country










99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 13

34- Khoảnh khắc chỉ muốn thành công và có lợi ngay

Càng là người chỉ muốn thành công và có lợi ngay càng không dễ dàng thành công và có lợi. Không có ai bất chấp liêm sỉ, bán rẻ linh hồn lại có thể có được niềm vui sướng chân chính.
Chúng ta sống lâu muôn tuổi trong thời gian cảm giác.
Chỉ muốn thành công và có lợi ngay, điều đó có nghĩa là bức bách theo đuổi hiệu ứng ngắn ngủi mà không quan tâm đến ảnh hưởng lâu dài, theo đuổi lợi ích trước mắt mà không quan tâm đến đạo lý căn bản.
Nếu như bạn là người chỉ muốn thành công và có lợi ngay, chắc chắn tầm nhìn sẽ ngắn, đeo kính cận nhìn theo thành công và lợi lộc. Chỉ nhìn thấy tình huống trước mắt, chỉ nhìn thấy phúc họa lành dữ bề ngoài, chỉ nhìn thấy giàu nghèo được mất tạm thời. Ðau đầu thì chữa đầu, đau chân thì chữa chân là phương thức hành vi nhất quán của bạn. Ðể chữa khỏi đầu mà không quan tâm đến chân, để chữa khỏi chân lại có thể không quan tâm đến đầu. Ðể thoát khỏi cảnh khó khăn, bạn có thể bất chấp lợi ích tương lai, để mong được cái sảng khoái nhất thời, bạn lại lấy cái đau khổ lâu dài làm giá phải trả, để thoát khỏi cảnh nghèo khó tạm thời, bạn có thể phải trả cái giá của nhân cách.

Nếu như bạn chỉ muốn thành công và có lợi ngay, chắc chắn tâm tình hẹp hòi, không có chí lớn trong lòng. Luôn là mù quáng chạy theo thế tục, đầu mọc trên cổ người khác, người ta nói quân nhân là mốt thì bạn tìm cách mặc lên bộ quân phục. Người ta nói văn bằng quan trọng thì bạn lập tức đi chạy văn bằng. Người khác nói xuống biển kiếm tiền, thì bạn giống như con kiến nằm trên chảo nóng, lập tức cắm đầu đi xuống biển.
Bạn căn bản bất chấp việc người phải làm gì để nên người. Nào là nhân cách và đức hạnh ư, nào là ranh giới cuộc đời ư, nào là giữ phẩm hạnh, linh hồn ư, tốt đẹp ư, đối với bạn đều không đáng một xu. Bạn tưởng là người ta sinh ra ở đời, chỉ có ăn ngon mặc đẹp, chơi nhiều vui nhiều mới sẽ là tốt đẹp, mới là hiện thực, mới chính là giá trị. Thế là để đạt được ăn mặc vui chơi đều tốt, bạn có thể không từ mọi thủ đoạn, bất chấp liêm sỉ, bán rẻ linh hồn.
Song, sự việc trên đời này cũng thật kỳ lạ, càng là người chỉ muốn thành công và có lợi ngay càng không dễ gì đạt được thành công và lợi lộc, không có một ai bất chấp liêm sỉ, bán rẻ linh hồn lại có thể nhận được niềm vui sướng chân chính.
Bất kể người chỉ muốn thành công và có lợi ngay như thế nào vẫn luôn trố đôi mắt của ?kẻ tham không biết chán? để chằm chằm nhìn vào hai chữ danh lợi. Nhưng danh lợi đối với bạn giống như một nhà triết học phương Tây đã từng nêu ra một ví dụ, nó giống như một miếng thịt treo ở phía trước càng xe đối với người đánh xe. Người đánh xe luôn muốn tóm lấy miếng thịt đó, nhưng vẫn tóm không được. Bất kể bạn kéo chiếc xe nhanh đến bao nhiêu, miếng thịt kia trước sau đều ở phía trước càng xe của bạn, trước sau đều không tóm được vào tay bạn. Bạn suốt ngày vắt óc, luôn luôn chờ dịp đầu cơ trục lợi, mà còn vội vàng tất tưởi, mồ hôi nhễ nhại, khổ sở đến cuối cùng vẫn chẳng có một cái gì. Bạn vẫn là công không thành, danh không toại, lợi lộc cũng không.
Nói chung người chỉ muốn thành công và có lợi ngay, tuy so với người mơ ước viển vông nói ở trước có đường đi đặc biệt, nhưng đều gặp nhau. Gặp nhau ở hai điểm, một là mọi việc không thành, hai là không có hạnh phúc đáng nói, chỉ uổng công bận rộn một phen. Người muốn thành công và có lợi ngay không thể có thành tựu gì về sự nghiệp, bởi vì bạn vốn đã không có theo đuổi lâu dài gì, không có chí hướng đạt thành tựu sự nghiệp gì, toàn bộ sức lực của bạn, toàn bộ thời gian và toàn bộ sinh mệnh đều vô hình tiêu tán trong hành vi ngắn ngủi của bạn, tiêu tán trong việc làm phù phiếm nông cạn. Bạn có thể được lợi nhất thời, nhưng bạn phải trả ra quá nhiều, cái được cuối cùng chẳng bõ bèn gì. Hơn thế, bạn sống quá vất vả, cho nên bạn không có được niềm vui và hạnh phúc chân chính.
Chẳng lẽ niềm vui và hạnh phúc trước tiên không phải là một vẻ đẹp của tâm linh và bình yên của linh hồn chăng?
- Tất cả những người chỉ muốn thành công và có lợi ngay, bất kể là sự nôn nóng của lớp trẻ, cấp tiến của lớp trung niên và cấp bách của người già không có ai không như thế: không thành công, không có lợi lộc, không hạnh phúc.
Từ đó ta thấy, đức thánh Khổng nói chẳng sai: "Dục tốc bất đạt".

Vì sao phải chỉ muốn thành công và có lợi ngay?
Tâm lý bức bách sản sinh đối với thành công và lợi lộc, xét đến cùng không có đạo lý cơ bản thông tới sinh mệnh. Bạn cho rằng việc lớn nhất trong đời người là vớt vát danh vọng và kiếm tiền, hạnh phúc đời người cao nhất chính là có danh tiếng và tiền tài. Nhưng lại không biết rằng chúng ta đến với đời, thân thể của bản thân chúng ta không nên bị lòng mình nô dịch, lòng chúng ta cũng không nên luôn luôn nô dịch thân thể của bản thân mình. Lòng mình luôn trói buộc thân mình, thì lòng dạ đó cũng quá hẹp hòi. Ðứng trước danh lợi nên siêu thoát một chút, đạm bạc một chút thì đã không tự do tự tại trên trời cao biển rộng đó sao? Nhận được thể xác và tinh thần tự do lành mạnh, phát huy đầy đủ sức mạnh cao nhất trong lòng chúng ta, biểu hiện rõ ràng tính cách bẩm sinh tốt đẹp nhất của chúng ta, đây chẳng lẽ không phải là sự việc quan trọng nhất trong đời chúng ta sao?
Giả sử chúng ta có thể thoát khỏi sự cám dỗ của danh lợi trước mắt, hãy để cho linh hồn của chúng ta yên bình, tinh thần thoải mái, cùng với thần tính nội tại của loài người - thần tính vĩnh viễn không chết, vĩnh viễn không bệnh tật, vĩnh viễn không phạm tội giữ được hài hòa, thế thì đáng được hiệu suất sinh mệnh vĩ đại biết mấy! Thế thì đáng được hạnh phúc đời người cao cả biết mấy! Nhiều vĩ nhân đã từng mãnh liệt hướng về như thế, chẳng lẽ bạn lại không hướng về điều đó chăng?
Mark Twain có một câu nổi tiếng:
"Hãy để chúng ta nhận sự cám dỗ,
Hãy để chúng ta không nhận sự cám dỗ".
Tự do lành mạnh của thể xác và tinh thần phải là sự cám dỗ cao nhất của đời người, nó là cái cần có của bản thân chúng ta, giây lát cũng không thể xa rời, chúng ta có thể nhận cám dỗ để có được nó. Công danh lợi lộc vốn không thuộc về những cái của bản thân chúng ta, nó vừa không ở trong lòng chúng ta, cũng không ở trong thể xác của chúng ta. Có nó và không có nó đối với sự tồn tại thể xác và tinh thần của chúng ta thật ra không phát sinh ảnh hưởng tất nhiên trực tiếp. Cần gì phải trả giá của nhân cách để vội vàng giành lấy?
Ðiều này của bạn chẳng phải là luận điệu cũ rích của cái gọi là quân tử biết nghĩa, tiểu nhân biết lợi đã lỗi thời đó sao? Chẳng phải chính là lời của Ðổng Trọng Thư nói nào là "người nhân nghĩa phải chính đạo không cầu lợi phải tu lý mà không vội thành công" lập lại điệu cũ đó sao?
- Thực ra, cũ thì cũ đấy, nhưng không nhất định là đã lỗi thời.
Nền văn hóa phương Ðông của chúng ta chính là như thế đấy, quyết không thể làm tổn hại điều nghĩa để cầu lợi, bỏ nghĩa để tham công danh. Chúng ta vẫn luôn theo đuổi điều căn bản làm người của con người, quyết không bỏ cái gốc để cầu cái ngọn.
Nhưng, chúng ta từ trước đến nay không phải là người không ăn uống ở nhân gian. Chúng ta biết, tất cả mọi việc làm của nhân loại xét đến cùng đều là những hành vi mưu cầu lợi ích. Lý tưởng cuối cùng của chúng ta không có cái nào không đặt ở đi tìm lợi ích.
Nhưng, cái gọi là "lợi ích" của chúng ta, thật ra không phải chỉ một phía, thật ra không phải chỉ cần béo phệ mà bất chấp đến dưỡng tâm, hoặc chỉ biết thích thú mà bất chấp dưỡng thân, mà là theo đuổi đối với giá trị tổng thể của đời người. Cũng thật ra không phải là vẻ bề ngoài tạm thời, chúng ta theo đuổi lợi ích căn bản lâu dài. Ðương nhiên chúng ta biết tất cả mọi việc làm trước mắt đối với tương lai có ý nghĩa gì, chúng ta cũng không bỏ qua lợi ích trước mắt, nhưng nhất định để lợi ích trước mắt phục tùng lợi ích lâu dài, điều đó có khác về chất so với người chỉ muốn thành công và có lợi ngay.
Chúng ta theo đuổi cái bất hủ của tinh thần, chúng ta hoàn toàn coi trọng thời gian cảm giác. Trong cảm giác của chúng ta, sinh mệnh là tốt đẹp, cuộc đời là tốt đẹp. Chúng ta theo đuổi cuộc đời tốt đẹp một cách vững vàng thiết thực.
Trong thời gian cảm giác, chúng ta sống lâu muôn tuổi.
Còn thời gian vật lý chỉ làm một hệ số tham khảo của chúng ta. Con thuyền sinh mệnh mặc dù buộc chặt vào đây, nhưng thật ra nó không thể trực tiếp phản ánh giá trị của đời người. Năm sống của chúng ta tuy khó đầy một trăm năm, nhưng có người thậm chí chỉ một chốc lát ngắn ngủi lại tỏa ra ánh hào quang xán lạn.
Hãy vứt bỏ ý muốn thành công và có lợi ngay hãy đưa mắt nhìn về tương lai và chắc chắn thiết thực hơn, như thế thì chúng ta sẽ mãi mãi trẻ trung.

35- Khoảnh khắc lý tưởng xung đột với hiện thực

* Vào lúc lý tưởng của bạn xung đột với hiện thực xin hãy nghĩ đến Khổng Tử.
* Chúng ta hãy xem xét tỉ mỉ lại mình. Lý tưởng của tôi? rốt cuộc là gì, tôi rốt cuộc có được bao nhiêu tài.
Cố nhiên cây lý tưởng cần phải cắm rễ trong mảnh đất hiện thực, rời khỏi hiện thực ắt sẽ dẫn đến không tưởng, ảo tưởng, vọng tưởng (suy nghĩ ngông cuồng).
Song, lý tưởng cần phải vượt trên hiện thực, lý tưởng vốn chính là vượt trước, vượt hiện thực. Nếu không thì nằm trên cái nôi của hiện thực, tất cả đều hiện thực, hiện thực, tất cả đều dựa vào điều quy định của hiện thực để làm, tất cả đều dựa vào sự tồn tại của hiện thực để tồn tại, tất cả đều dựa vào đạo nghĩa của hiện thực để suy nghĩ một cách khuôn phép, không dám vượt ra ngoài khuôn khổ, thì lý tưởng bắt đầu bàn từ đâu, lý tưởng đặt ở
chỗ nào?
Phần nhiều lý tưởng quyết không thể hài hòa thống nhất với hiện thực được, quyết không thể không có mâu thuẫn và xung đột với hiện thực. Thậm chí, càng là lý tưởng cao xa và lớn lao thì xung đột với hiện thực càng kịch liệt.
- Bất kể là lý tưởng thiết kế cuộc đời, lý tưởng cải tạo xã hội, lý tưởng làm thay đổi lịch sử không có cái nào không như thế cả.
Cho nên, những người già thường thường quở mắng thanh niên: mất gốc, thật là hư hỏng! Bởi vì thanh niên đang suy nghĩ đem những quy định cũ rích của tổ tiên vứt vào sọt rác, để cho thời đại lọt vào không khí mới mẻ.
Cho nên, những người già cứng nhắc thường hay chửi mắng những nhà cải cách: Tất cả đều làm rối tung lên, thật chẳng ra sao! Bởi vì, những nhà cải cách đang suy nghĩ làm tăng nhanh bước tiến lên của lịch sử, làm cho thế giới trở nên đẹp đẽ hơn.
Cho nên, những nhân vật kiệt xuất đều mang ý thức thiên mệnh của Chúa Cứu thế, dám gánh vác trọng trách cứu vớt loài người không tiếc đem đầu của mình đặt lên tế đàn của thời đại, không sợ bị đóng đinh chết trên giá chữ thập, không sợ bị đem thiêu cháy trong ngọn lửa. Xung đột với hiện thực ở đâu?

Những nhân vật kiệt xuất để thực hiện niềm tin và sự theo đuổi của mình đã dũng cảm xuyên qua lớp mù bi thảm của hiện thực. Bất kể là vòng hoa tươi đẹp hoặc là mũi tên độc từ nơi tối tăm bắn lại, họ đều có thể chống lại. Bất kể bao nhiêu gian nan hiểm trở, bất kể bao nhiêu sông lớn núi cao, đều không ngăn cản nổi bước chân tiến lên của họ. Họ có lòng kiên trì ?chưa đến Hoàng Hà, chết không nhắm mắt?. Xung đột với hiện thực ở đâu, thành bại được mất trước mắt ở đâu?
Ðể thực hiện sự theo đuổi của chúng ta, chúng ta chỉ biết mạnh dạn đi lên phía trước, không quay đầu lại.
Nếu như chúng ta thật sự có chí hướng cao rộng, không nên tưởng là chúng ta đang khó xử với hiện thực, không qua nổi hiện thực, từ đó thuận theo hiện thực. Tại sao chúng ta lại không thể chuyển đổi đi một cách nhìn khác? Là hiện thực đang làm khó dễ với chúng ta, không qua nổi chúng ta. Từ đó chúng ta cần phải cải tạo hiện thực phù hợp với lý tưởng của chúng ta. Tam Mao nói: ?Ðối mặt với những việc mình không thích, nên gọi là không hiện thực mới đúng?.
Bởi vì nơi đó đã nổi tiếng, cho nên tôi mới đi đến đó, thì có bao nhiêu ý nghĩa nữa? Nếu như vì tôi đi đến nơi đó, cho nên làm cho nơi đó nổi tiếng, thì chẳng phải là càng vĩ đại hơn không?
Một ngày đông tạnh ráo năm 1931 nhà đại danh hài Tiêu Bá Nạp đến Thượng Hải, một nhân sĩ nổi tiếng Thượng Hải đón ông nói:
?Ngài quá bộ đến Thượng Hải, mặt trời cũng mọc lên đón Ngài, Ngài Tiêu quả nhiên có phúc".
Tiêu Bá Nạp nói: "Không phải Tiêu Bá Nạp tôi có phúc gặp mặt trời ở Thượng Hải, mà là mặt trời có phúc nhìn thấy Tiêu Bá Nạp tôi tại Thượng Hải".

Từ giọng nói của nhà đại danh hài này biết được một người đàn ônglừng danh, nhân gian thật cần người đàn ông như thế.
Ngược lại, khi lý tưởng không ăn khớp với hiện thực, chúng ta đang đứng trước sự thách thức nghiêm trọng, chỉ cần chúng ta khư khư giữ lấy đạo lý căn bản của đời người, không thay đổi ý nguyện ban đầu, không sợ khó khăn trắc trở, thành công sẽ nhất định thuộc về chúng ta.
Ai nhiều khó khăn trắc trở hơn Khổng Tử đã từng gặp?
Khổng Tử tuy gặp thời loạn xuất anh hùng, nhưng ông quá rủi ro. Ông ôm trong lòng lợi khí quản lý quốc gia, kiến thức uyên bác, chí hướng cao xa, nhưng lại nghèo khổ thất vọng không được triều đình đánh giá cao. Vợ là bà họ Kỳ Quan rất hay than tiếc. Khổng Tử lại không xem là việc quan trọng. Ông nói:
- Ðừng buồn vì không có chức vị, phải suy nghĩ nhiều về không có tài xử thế; Ðừng lo không có người biết đến tôi, mà phải bổ xung nhiều khả năng của tôi được mọi người biết".
Dựa vào khí phách của bậc đại trượng phu này, Khổng Tử bằng lòng an phận với địa vị hèn mọn. ở vị trí nhân viên quản lý kho, đem lương thực và tiền tài giao nạp rõ ràng, rành mạch. ở vị trí tiểu lại trại chăn nuôi, làm cho số lượng súc vật càng nuôi càng nhiều.
Khổng Tử 35 tuổi vẫn chưa đắc chí, nước Lỗ loạn lạc không có đất cho ông dụng võ. Ông đi khỏi nước chạy sang Tề thăm dò, cũng không tìm được chỗ dùng. Những năm thấy thiên mệnh đã qua, mặc dù có thở than thời gian trôi nhanh thế. Không bỏ ngày đêm lại vẫn không lo không sợ, không thể đoạn chí. Cho dù phiêu bạt chân mây cuối trời như ?con chó mất chủ?, cho dù bị vây chặt giữa hai nước Trần, Thái, bảy ngày không có lương thực, trong rau dại đun không có một hạt gạo, các đệ tử mệt mỏi đói khát, Khổng Tử vẫn đàn hát trong phòng, gẩy đàn như thường lệ. Ông như cây tùng giữa ngày đông lạnh giá vẫn ngạo nghễ đứng giữa đất trời với thái độ cứng rắn sớm còn nghe thấy, chiều chết cũng đáng để khai thác nguồn văn hóa dân tộc.
Ở khoảnh khắc lý tưởng của bạn xung đột với hiện thực, xin hãy nghĩ đến Khổng Tử.

Chỉ sợ bạn chẳng có lý tưởng, chỉ sợ bạn chẳng có tài, chỉ sợ bạn uổng công trách móc.
Nếu là như thế, chúng ta hãy kiểm tra tỉ mỉ lại mình. Lý tưởng của tôi rốt cuộc là gì? Thiết kế trước mắt là gì? Bản kế hoạch tương lai phác họa ra như thế nào, mục tiêu lâu dài là ở chỗ nào? đối với mỗi một câu hỏi lại đều không nên lẩn tránh, có lý có lẽ, không chút do dự đưa ra trả lời đúng trọng tâm.
Không nên ngượng ngùng, không nên che đậy. Nếu như chịu không nổi những câu hỏi lại như thế, mịt mùng không bờ bến, không có mục đích nhất định, hoặc chỉ có kích động nhất thời, mơ tưởng hão huyền nhất thời, suy nghĩ lông bông nhất thời. Như thế thì xin đừng nên oán trách nữa, hiện thực là cứng rắn phũ phàng sẽ đem bạn đập nát vụn. Ðó không phải là lỗi của hiện thực mà là bạn quá trôi nổi gây ra.
Nếu là như vậy, chúng ta hãy kiểm tra tỉ mỉ lại mình. Tôi rốt cuộc có bao nhiêu tài? Chỗ mạnh của tôi là gì? Ưu thế của tôi ở chỗ nào? Khuyết điểm của tôi có bao nhiêu, khi nào, ở việc gì tỏ ra tài của tôi? Liệu tôi có được không? Ðối với mỗi một câu hỏi lại này không nên lẩn tránh, hãy trả lời với đầy lòng tự tin, làm cho người ta tin phục.
Nếu như chịu không nổi những câu hỏi lại này, bạn là trống rỗng, chẳng hề có một khả năng nào, hoặc chỉ có một chút khôn vặt, có thể dùng một chút thủ đoạn vặt, hoặc chỉ là dựa vào cơ may ngẫu nhiên từng có được một chút thành công nhỏ nhoi ở một việc nào đó nhất thời, bạn đã tự cho rằng có khả năng ghê gớm ngần nào, thế là suốt ngày phàn nàn, nói toáng lên là không có đất dụng võ. Như thế thì, xin đừng nên trách móc, hiện thực tàn nhẫn phũ phàng, chỉ dựa vào năng lực này của bạn, hiện thực sẽ đem bạn đập nát tan tành. Ðây không phải là tội của hiện thực, mà chỉ vì bạn quá kém cỏi.

36- Khoảnh khắc cá tính trái ngược với hoàn cảnh

* Ðể theo đuổi phương thức sinh tồn đẹp hơn của tương lai, để thay đổi những cái không thích nghi với hoàn cảnh, bạn hoàn toàn có thể chôn vùi cái tôi cũ rích đi, đem mình nhào nặn lại được bộ mặt hoàn toàn khác hẳn, để mong thích nghi với một hoàn cảnh mới, bắt đầu một cuộc sống mới, mở ra một cuộc đời mới.
Mâu thuẫn của tôi và anh ta, mâu thuẫn của cá thể và quần thể, mâu thuẫn của cá nhân và xã hội, chung quy là cá tính trái ngược với hoàn cảnh.
Cái gọi là hoàn cảnh ở đây đương nhiên là hoàn cảnh xã hội. Quan hệ giữa người này với người khác trong nội bộ quần thể xã hội, trình độ đạo đức chung, pháp quy pháp luật, phong tục tập quán văn hóa tạo thành nội dung cơ bản của hoàn cảnh xã hội.
Quần thể xã hội rõ ràng do các cá tính từng người khác nhau tạo nên. Do xuất thân từ giáo dục bồi dưỡng của từng người khác nhau, chịu sự tiêm nhiễm của hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội khác nhau, nên hình thành cá tính khác nhau rất lớn. Sự khác biệt của cá tính có thể dùng các loại kiểm nghiệm khác nhau để đánh dấu hai cực đối ứng vô cùng.
Lấy việc đem thế giới nội tâm của mình và ngôn luận của bản thân làm mức độ biểu hiện đối với xã hội bên ngoài làm thước đo thì cá tính có thể phân làm hai loại: dạng kín đáo và dạng cởi mở, tức dạng hướng nội và dạng hướng ngoại.
Người thuộc dạng hướng nội luôn luôn đem mình đóng kín trong thế giới nội tâm của bản thân lúc nào cũng quan tâm đến ấn tượng của mình trong lòng người khác và địa vị trong đoàn thể, và luôn luôn thể nghiệm mình, kiểm thảo mình, thiết kế mình, không giỏi giao tiếp với thế giới bên ngoài, nhất là ở trước mặt người xa lạ, ở nơi công cộng, càng là lười mở miệng nói, hoặc ngượng mở miệng. Không muốn xuất đầu lộ diện, khi họp thì thích ngồi ở các góc. Khi bất đắc dĩ phải giao tiếp thì mặt đỏ, tim đập thùm thụp. Nói năng làm việc gì cũng thận trọng, chỉ sợ có sai sót, chỉ sợ bị người khác cười chê. Ðôi khi cũng biểu hiện lòng tự tin nhưng không đủ. Người thuộc dạng hướng nội phần nhiều say mê ảo tưởng, suy nghĩ triền miên, có thể anh ta có thế giới nội tâm cực kỳ phong phú, mà còn cực kỳ nhạy bén, thường đem xã hội nhân sinh muôn màu muôn vẻ cô đặc trong đầu óc của mình lần lượt sàng lọc và phóng ra từng cái một. Nhưng cái ?phong phú? này xét đến cùng là có hạn, do đó thường xuất hiện ảo giác đi ngược lại với hiện thực hoặc vì thần kinh quá nhạy nên dẫn đến hiểu nhầm.
Lâm Ðại Ngọc là một điển hình của tính cách hướng nội.

Người thuộc dạng hướng ngoại tham gia vào ý thức mãnh liệt, đối với thế giới bên ngoài luôn luôn tràn ngập tâm lý tìm hiểu tri thức. Thích xuất đầu lộ diện, bất kể ở nơi công cộng hay là trước mặt người xa lạ, đều có biểu hiện mạnh mẽ dục vọng của mình. Anh ta có thể vừa gặp người lạ như đã quen từ lâu, anh ta có thể giỏi diễn thuyết. Anh ta hầu như không quan tâm đến ấn tượng của mình trong con mắt người khác, đến địa vị của mình trong đoàn thể, luôn luôn tự mình cảm thấy tốt đẹp, tràn ngập lòng tự tin. Với anh ta khiêm tốn hay không khiêm tốn đều không sao cả, không giỏi mưu toan, tính toán trong lòng, không cẩn thận. Người thuộc dạng hướng ngoại giống như một đám lửa, đi đến đâu thì có thể thiêu cháy đến đó, thích giao kết bạn bè, cho dù thường không thể gắn bó keo sơn cũng tịnh không giảm bớt khao khát nhiệt tình giao tiếp. Người hướng ngoại đôi khi cũng do lời nói việc làm không đủ cẩn trọng mà có lỗi với người khác, nhưng người ta cũng vì bản tính của anh ta không xấu mà dễ dàng tha thứ. Vì thế quan hệ nhân tế của anh ta vẫn là không đến nỗi quá tồi. Hầu như anh ta không thể ngồi yên tĩnh để ngẫm nghĩ sâu xa, mà chỉ coi trọng ở hành động. Sự chuyển động tràn ngập toàn bộ cuộc sống của anh ta, suốt ngày bận rộn, bôn ba khắp nơi. Ðối với các loại hoạt động xã hội, như là các loại hội nghị, có hứng thú mãnh liệt. Anh ta cũng có thể lôi kéo một nhóm người thành lập một hội học thuật gì đó, hoặc một hiệp hội gì đó. Anh ta có khi sẽ trở thành tổng thư ký hoặc phó chủ tịch hội học thuật này, hiệp hội nọ. Trong cuộc sống, người thuộc dạng hướng ngoại phần nhiều biểu hiện rất hào hứng và lạc quan, người hướng ngoại đối với người khác tương đối khoan dung, cũng không tính toán nhiều đến phê bình và trách móc của người khác đối với anh ta.
Loại bỏ sự khác biệt của quan niệm nhân sinh và quan niệm xã hội, nói chung, người hướng ngoại tương đối thích hợp hoàn cảnh xã hội, anh ta là phần tử hoạt động trong các loại đoàn thể, tương đối dễ dàng giữ được quan hệ hài hòa với người khác, được mọi người hoan nghênh. Người thuộc dạng hướng nội chỉ thích ứng với mình, không thích hợp với xã hội, anh ta trong các đoàn thể phần nhiều không được hoan nghênh, không gây được sự chú ý của người khác, cũng sẽ không thể xuất đầu lộ diện, bạn bè của anh ta cũng ít.
Người tuyệt đối hướng nội và người tuyệt đối hướng ngoại trong cuộc sống hiện thực, hầu như không có. Người bình thường có cả hai dạng. Hoặc là thành phần hướng ngoại nặng hơn thành phần hướng nội, hoặc là thành phần hướng nội nặng hơn thành phần hướng ngoại. Hoặc là ở một trường hợp nào đó, ở một phương diện nào đó là dạng hướng ngoại, còn ở trường hợp khác, ở phương diện khác biểu hiện ở dạng hướng nội. Người dạng hướng nội có khiếm khuyết khó thích ứng với xã hội, khó sống chung với người khác, nhưng anh ta có lời nói và việc làm vững chắc thận trọng, suy nghĩ kỹ lưỡng, tư tưởng sâu sắc mà nhạy bén, thường có thể phát hiện những vấn đề người hướng ngoại không thể phát hiện ra, đạt đến độ sâu tư tưởng mà người hướng ngoại không thể đạt được. Người hướng ngoại dễ dàng thích nghi với xã hội, làm việc cẩu thả, thích xuất đầu lộ diện, từ tự tin dễ dàng ngả sang tự phụ.
- Ða số cuộc đời thành công đều kiêm đủ cả chỗ mạnh của hai dạng hướng nội và hướng ngoại mà đều tránh chỗ yếu của cả hai dạng đó. Bất cứ vĩ nhân nào đều không thể là một người tuyệt đối hướng nội hoặc là một người tuyệt đối hướng ngoại.
Một người vừa nhẫn chịu được tịch mịch và cô đơn vừa lại có thể quả cảm dấn thân vào sự nghiệp oanh liệt, cá tính của họ có được sự hòa hợp trọn vẹn trên hai dạng hướng nội và hướng ngoại. Bạn không thể nói anh ta là một người hướng nội cũng là người hướng ngoại. Trong con người anh ta, giới hạn của dạng hướng nội và dạng hướng ngoại đã mất. Ðây là con người có thể thích nghi với hoàn cảnh nhất.
Trái lại, nếu như cá tính của bạn trái ngược với hoàn cảnh - không ăn khớp với người khác, hôm nay tranh cãi với Trương Tam, ngày mai giận dỗi với Lý Tứ, đối với nhiều người xung quanh đều có cảm giác ghét của bản năng, chỗ này cũng khinh thường, chỗ kia cũng chẳng coi ra làm sao, bất kể điều động đến đơn vị nào, bất kể phân phái đến bộ phận nào vẫn không thể sống hài hòa với xung quanh. Như thế thì, bạn tốt nhất trước hết phải xem xét lại cá tính của mình - thuộc dạng hướng nội hay dạng hướng ngoại hoặc đều có kiêm cả chỗ khiếm khuyết của hai dạng, mà không có chỗ mạnh của hai dạng?

Bạn có thể phát hiện, bạn có thể chủ yếu thiên về tính cách hướng nội, hoặc chỉ có khuyết điểm của tính cách hướng ngoại mà không có mặt tốt của tính cách hướng ngoại.
Cái gì thích nghi thì tồn tại. Khi cá tính trái ngược với hoàn cảnh, chỉ có hiệu chỉnh lại mình, tự mình uốn nắn lại mới là thiết kế cuộc đời
đẹp nhất.
Không nên gảy lại điệu đàn cũ rích núi sông dễ đổi, bản tính khó thay. Một trong những đặc trưng lớn nhất của người hiện đại là cá tính của anh ta cũng có tính dẻo cực kỳ rộng rãi.
Các nhà đại danh sư triết học hiện đại cho rằng: Con người trước hết là một vật tồn tại đem mình đẩy về tương lai, đồng thời ý thức được mình đem con người mình tưởng tượng là sự tồn tại của tương lai. Lúc ban đầu con người không có bất cứ quy định nào, chỉ là tồn tại, ló mặt ra, vào cuộc; về sau mới do chính anh ta quy định cho mình.
Con người thật ra không phải là sống ở quá khứ mà là sinh tồn ở tương lai. Quá khứ là cố định, đã chết rồi, còn tương lai mới tồn tại tất cả mọi khả năng. Ðể theo đuổi phương thức sinh tồn đẹp hơn của tương lai, để thay đổi những cái trái ngược của mình không thích nghi với hoàn cảnh, bạn hoàn toàn có thể chôn vùi cái tôi cũ rích đi, đem mình nhào nặn lại được bộ mặt hoàn toàn khác hẳn, để mong thích nghi với một hoàn cảnh mới, bắt đầu một cuộc sống mới, mở ra một cuộc đời mới.
Nếu như bạn cố thủ cá tính không tốt của mình, không dám hạ quyết tâm sửa chữa nó cho đúng, không thể từ trung tâm của mình đóng kín đi vào xã hội, đi vào đại chúng luôn luôn không ăn khớp với hoàn cảnh xung quanh vẫn luôn vì trái ngược với hoàn cảnh mà tách rời ra ngoài hoàn cảnh xung quanh, bạn sẽ có thể rơi vào trong nỗi giày vò đau khổ lâu dài. Ðó là đáng sợ, thê thảm. Bởi vì người khác, xã hội bên ngoài, tất cả mọi cái xung quanh thật ra không thể vì những cái vui giận bi ai của bạn, vì những cái yêu ghét, chọn bỏ của bạn mà thay đổi được. Ðó là sự tồn tại khách quan có tính quy luật tất nhiên phát sinh, phát triển tự thân của nó, bạn chỉ có nhận biết nó, thuận theo và thích nghi với nó, giữ hài hòa với nó mà thôi. Chỉ có với tiền đề như vậy, với tiền đề bạn trở thành một thành viên trong hoàn cảnh xã hội nào đó, bạn mới có thể phát huy đầy đủ tài trí thông minh của bạn, thực hiện sáng tạo của bạn, thực hiện lý tưởng và hoài bão cải tạo xã hội, cải tạo hoàn cảnh khách quan của bạn.


--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người   Sep 26 2011, 04:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 2 1- K...   Sep 26 2011, 04:56 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 3 4- K...   Sep 26 2011, 05:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 4 7- K...   Sep 26 2011, 05:06 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 5 10- ...   Sep 26 2011, 05:09 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 6 13- ...   Sep 26 2011, 05:22 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 7 16-K...   Sep 26 2011, 05:25 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 8 19- ...   Sep 26 2011, 05:27 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 9 22- ...   Sep 26 2011, 05:29 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 10 25-...   Sep 26 2011, 05:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 11 28-...   Sep 26 2011, 05:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 12 31-...   Sep 26 2011, 05:50 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 13 34-...   Sep 26 2011, 05:52 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 14 37-...   Sep 26 2011, 05:55 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 15 40-...   Sep 26 2011, 05:57 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 16 43-...   Sep 26 2011, 05:59 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 17 46-...   Sep 26 2011, 06:02 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 18 49-...   Sep 26 2011, 06:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 19 52-...   Sep 26 2011, 06:07 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 20 55-...   Sep 26 2011, 06:10 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 21 58....   Sep 26 2011, 06:28 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 22 61....   Sep 26 2011, 06:31 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 23 64....   Sep 26 2011, 06:36 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 24 67....   Sep 26 2011, 06:39 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 25 70....   Sep 26 2011, 06:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 26 73....   Sep 26 2011, 06:43 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 27 76....   Sep 26 2011, 06:46 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 28 79....   Sep 26 2011, 06:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 29 82....   Sep 26 2011, 06:51 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 30 85....   Sep 26 2011, 06:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 31 88....   Sep 26 2011, 07:01 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 32 91....   Sep 26 2011, 07:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 33 94....   Sep 26 2011, 07:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 34 97....   Sep 26 2011, 07:07 PM


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 21st July 2025 - 05:03 PM