Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 99 Khoảnh Khắc Đời Người - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> 99 Khoảnh Khắc Đời Người, Dịch giả: Nguyễn An
BichDu
post Sep 26 2011, 04:53 PM
Post #1


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country







99 Khoảnh Khắc Đời Người

ZHANG ZI WEN
(Trương Tự Văn)

I- Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi

Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng?
Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại.
Đối với tương lai, nếu như chỉ xét về thời gian, cũng dễ dàng lý giải: phàm thời gian không có trong quá khứ mà lúc này lại không có mặt đều có thể gọi nó là tương lai. Song sinh mệnh của tôi trong thời gian tương lai đặt vào những nội dung gì, tôi cũng không biết nữa. Nếu như suy luận theo logic, có thể nói, tôi có tương lai. Nhưng đây chỉ là một khái niệm chưa được nghiệm chứng mà thôi. Sự thật trước mắt là, đối với thời gian lúc này không có mặt và nội dung không biết, đều không thể coi là cái hiện tại tôi có.
Duy chỉ có khoảnh khắc lúc này thuộc sở hữu của tôi. Duy chỉ có khoảnh khắc này, sinh mệnh của tôi mới có đầy ý nghĩa thực tại. Sinh mệnh chỉ có thể sống tại khoảnh khắc lúc này, không thể sống trong quá khứ, cũng không thể sống ở tương lai.
Khoảnh khắc thời gian là một cái gì đây? Nó vừa không thuộc quá khứ, trái lại lại không ngừng trở thành quá khứ; vừa không thuộc về tương lai nhưng lại không ngừng đón nhận tương lai. Nó vừa là một giới hạn có thể chia cắt vô hạn giống như một điểm không có chiều dài; lại là một giới hạn có thể kéo dài đến vô hạn, 38 năm có thể tính là một khoảnh khắc, trong sinh mệnh vũ trụ, toàn bộ thời gian loài người tồn tại cũng có thể xem là một khoảnh khắc. Từ đó đủ thấy khoảnh khắc chốc lát là thời gian không thể tưởng tượng được. Mà cái tôi có, chỉ có thể là khoảnh khắc thời gian, như thế tôi là một tồn tại không thể tượng tượng nổi?
Khi tôi nhảy khỏi vũng bùn của quan niệm thời gian kiểu máy móc, vứt bỏ những ngụy biện như đúng mà là sai, nhận thức được tính vô cùng sinh động của tồn tại sinh mệnh, tôi mới sáng tỏ trong lòng.

Tôi là sinh mệnh sinh động nhất trong vũ trụ, trên đường trục thời gian là một quá trình sống và trưởng thành từ đầu đến cuối luôn luôn mở rộng. Tôi vừa nhận thức được những việc phát sinh trong quá khứ không thể trở thành cái mà hiện tại tôi có, lại đem quá khứ xem là sự mở đầu của quá trình sinh mệnh, từ đó trân trọng giá trị đặt nền móng khởi nguồn của nó trong lịch trình của sinh mệnh. Hơn nữa, khi nghĩ lại đặc trưng tính toàn cục của sinh mệnh, tôi phát hiện ra “quá khứ” của tôi cũng quyết định hiện tại của tôi - tôi luôn luôn ở trạng thái trôi đi, hiện tại chẳng mấy chốc đã hóa thành quá khứ, như thế “quá khứ của tôi có thể có ý nghĩa gì cũng sẽ quyết định bởi việc làm hiện tại của tôi. Cũng chính là, tôi luôn luôn không ngừng viết nên lịch sử của mình, sự việc hôm nay đến ngày mai sẽ trở thành việc của quá khứ, muốn cho mọi việc của tôi ngày hôm qua có giá trị thì phi làm sao mỗi một sự việc của tôi hôm nay đều có giá trị.
Tương lai luôn đang mở rộng ở hiện tại, bởi vì hiện tại tôi đang luôn trù tính tưng lai, mỗi một ý nghĩa hiện tại mà tôi tạo nên cũng chính là trải ra và tích tụ cho tương lai.
Như thế, đặt mỗi một khoảnh khắc lúc này vào trong thời gian dài đằng đẵng của tính toàn cục, để cho nó vừa thể hiện quá khứ lại hiện rõ ra tưng lai, khoảnh khắc lúc này không còn là sự tồn tại trống rỗng không thể tưởng tượng được nữa, nó đã trở thành cái thực có đầy đủ nhất nối quá khứ với tương lai của tôi.
Chỉ có lúc này mới có thể nói: tôi đã có khoảnh khắc thời gian. Tôi đã nắm chắc được số phận của mình.
Với tư cách cá thể, tôi được khêu gợi từ quan niệm lịch sử của Gan đi, sinh mệnh là sự tồn tại lấy trần thế làm cơ sở dựa vào trật tự xã hội, cho nên tôi không theo đuổi mức độ tinh thần đến tột độ không ăn uống những thứ ở nhân gian - Tôi không thể vứt bỏ được ăn mặc, ở và đi lại của thế tục. Tôi hoàn toàn có thể đi theo trào lưu “đi xuống biển”. Nhưng tôi cũng có thể tiếp nhận chính những hấp dẫn của sáng tạo văn hóa. Trên thực tế, tôi đang vui sướng xiết bao trong màng lưới văn hóa tự tạo tự kiềm chế. Tôi hiểu sâu sắc rằng một khi tách rời màng lưới văn hóa sẽ có thể thật sự chỉ có hai bàn tay trắng.
Từ trong văn hóa Bandu tôi nhận được, vận động phát sinh vào thời điểm chỉ định và địa điểm chỉ định là thực thể có một không hai. Trong không gian và thời gian vô hạn, tôi không phải chính là một thực thể độc lập như vậy ư? Mặc dù nhỏ bé, nhưng sao lại cản trở sáng tạo văn hóa đặc biệt của tôi? Sinh mệnh của tôi đã diễn biến thành loại sáng tạo văn hóa đặc biệt này, tôi với tư cách là một vật thể mang vật chất văn hóa, thời gian sinh tồn có hạn; còn tôi với sinh mệnh mang tinh thần văn hóa thì sẽ cùng tồn tại với thời gian mãi hàng nghìn năm sau.
Tôi từ trong quan niệm thời gian của vĩ nhân “đều đã qua rồi, được coi là nhân vật phong lưu phải xem hiện tại”, “một vạn năm quá lâu, chỉ tranh giành phút chốc” được tỉnh ngộ triệt để cuối cùng, đã phát hiện sinh mệnh của tôi, bản thể tinh thần của tôi sẽ ở mỗi một khoảnh khắc trên đường sinh mệnh của tôi!

Một đời tôi chẳng qua là dòng thời gian do từng khoảnh khắc tạo nên, sự tồn tại của các khoảnh khắc thời gian khác nhau đã tạo nên toàn bộ sự tồn tại của tôi.
Tôi cho là hoàn toàn không có khả năng nhận thức tính tất yếu của vận động sinh mệnh của mình từng ý nghĩa triết học - Con người không thể nhận thức một cách vô cùng vô tận đối với vận mệnh của mình mà người ta chỉ có thể chịu sự chi phối của tính tất nhiên, con người nhiều lắm chỉ có thể không ngừng nhận thức tính tất nhiên mà thôi.
Nhưng, tôi hoàn toàn có thể nắm chắc mỗi một khoảnh khắc mà bản thân mình sắp sửa gặp một cách tự giác, đối với mỗi khoảnh khắc có một sự trù tính sáng suốt tự giác, đây sẽ là sự trù tính của tôi đối với vận mệnh. Đây chính là điều mà mọi người nói bám chặt thần của số phận.

II- Số phận ném tôi vào một nơi hoàn toàn xa lạ. Trước sự chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi chọn số phận thuộc về tôi

Có một ngày tỉnh lại, tôi đột nhiên phát hiện mình đang sống trong một thế giới gặp được vận may. Tôi đang đứng trước ngàn vạn nẻo đường, tung hoành ngang dọc, thành bại được mất, cũ mới lẫn lộn.
Mật mã của số phận ở đâu?
Tôi hỏi ông trời, trời không trả lời. Tôi lại hỏi đến đất, đất cứ lặng thinh.
Trước chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi lại chẳng biết đâu mà lần nữa, tôi không biết chúng mỗi cái có kết cục ra sao. Huống hồ, cơ may, hoàn cảnh tôi đều không tự chủ để chọn lựa được. Số phận hoặc cần tôi phải chịu đựng thử thách của gió Tây Bắc trên cao nguyên hoàng thổ, cũng có thể để cho tôi bay qua Thái Bình Dưng đến đất khách quê người để mạ vàng, sau đó áo gấm trở về. Một khoảnh khắc trôi qua, một sai lầm nẩy sinh trong khoảnh khắc, tôi không biết tôi sẽ trở thành một con người tôi như thế nào nữa.
Từ nay nghĩ lại quá khứ làm tôi kích động mãi là tôi cuối cùng trong vùng hoang dã mênh mông không ranh giới, từ trong sốt ruột và gắng gượng đến tột độ, đã tìm thấy một niềm tin kiên cường: bất kể thế giới phức tạp lộn xộn bao nhiêu, bất kể đời người đứng trước sự lựa chọn bao nhiêu, sẽ phi chịu đựng bao nhiêu trắc trở và dằn vặt, tóm lại là thế giới mênh mông không có bất cứ cái gì có thể vượt qua vô trật tự mà đạt tới có trật tự, vượt qua quá trình mà chiếm ngay kết qu được. Đời người cũng chỉ có thể
như vậy.
Như thế, tôi chỉ có thể bắt đầu thiết kế đối với số mệnh từ trong gắng gượng vô trật tự, từ trong “khả năng” vô cùng đa dạng, từ trong vô số những cái “có lẽ” tìm ra được một manh mối đạt được có trật tự.
1. Trù tính cơ bản: tôi cảm thấy được tôi là ai.
Muốn trả lời “tôi là ai” đương nhiên là rất khó khăn, mà muốn trù tính số phận của tôi, điều trước tiên gặp phải lại là vấn đề của “tôi là ai”.
Trong văn hiến kinh điển “áo nghĩa thư” của ấn Độ từ 600 năm trước công nguyên, đã đem cái “tự ngã” xem thành hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, khi nó khảo sát tự ngã với quan hệ nguồn gốc tạo thành thế giới liền nêu lên hai câu hỏi tự nhiên vĩnh hằng là “tôi là ai”, “tôi trong thế giới này nằm ở vị trí nào”. Từ nền văn minh ban đầu cổ Hy Lạp, Bamennid, Socrates, Plato của miền bãi biển Aisin, Lão Đam, Trang Chu của hai bên bờ sông Hoàng Hà, đến “Kinh Phệ Đà” của bên bờ ấn Độ dưng, “Thánh kinh” của môn đồ Cơ đốc giáo, bước đến nền văn hóa phục hưng và cách mạng công nghiệp cận đại kích động lòng người, thẳng tới Carxin, Heidegger, Sartre của phưng Tây hiện đại câu trả lời “Tôi là ai” vờn bay đầy trời, làm cho người ta rối mắt. Nhìn thấu sự biến ảo rối ren của nó, bất kể những nhà hiền triết thuộc dạng nào đều không vượt quá giới hạn nhất định như sau - Tôi là một động vật của văn hóa, tôi sáng tạo ra văn hóa và tự tuân theo văn hóa, sự vui vẻ và lo âu của tôi đều nằm trong mạng lưới văn hóa, đồng thời không thể xông ra khỏi ngoài mạng lưới để tự do tự tại.
Đây là kết luận của số phận, đây là kết luận của lịch sử.
Lịch sử đã từng chế giễu rất nhiều người muốn xông ra khỏi mạng lưới văn hóa để tự do tự tại, bao gồm cả vô số những anh hùng văn hóa. Hầu như đồng thời, học phái Sdorger của phưng Tây và Lý Nhĩ, Trang Chu của phưng Đông đều vắt óc nghĩ thầm thoát khỏi mạng lưới văn hóa để đồng nhất với tự nhiên trời đất, hưởng thụ tự do và yên tĩnh. Học phái Sdorger đem “thuận theo tự do để sống” làm hành vi lưng thiện chân chính, Lão Trang thì có tiếng là “vô vi vô tri” có thể “dốc sức vì đạo đến cực độ, một lòng một dạ tuân theo, mọi vật song song tiến hành mình phi tự quan sát nhiều lần”. Trên thực tế như thế nào? Không chỉ sự phát triển của lịch sử hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng của họ, họ trước sau đều không thể phá nổi mạng lưới văn hóa, mà Chinor, Lão Trang bản thân đã là một bộ phận của thủy tổ nền văn hóa của nhân loại đã trở thành một mắt xích trên mạng lưới văn hóa. ý chí tâm lý của Chinor, Kleiande một chút cũng không thể tự do nhẹ nhõm, họ đem toàn bộ luân lý đều buộc lên vai Thượng đế và số phận, cho rằng về luân lý, yêu cầu cao nhất đối với con người chính là phục tùng Thượng đế và số phận: “Dù là nghi ngờ làm tôi lạc hậu hoặc không tình nguyện, nhưng tôi cũng nhất định vĩnh viễn theo đuổi Ngưi (Ngưi tức Thượng đế, số phận)”. Vốn muốn thoát khỏi mạng lưới văn hóa, không ngờ sau khi đi vòng quanh một cái vòng lớn vẫn bị tự mình chui vào trong mạng lưới văn hóa chặt chẽ hn. Lão Trang cũng thế, vốn muốn thông qua “đạo vô vi” xung phá sự ràng buộc của văn hóa để trở về với hoài bão của tự nhiên, lại trước sau chịu sự cám dỗ sâu sắc của tinh thần vĩnh hằng siêu nghiệm, bị tự mình nhốt khóa trong “cửa nhiều điều kỳ diệu” “nhìn không thấy”, “nghe không biết”, “huyền bí thêm huyền bí”. Từ đó có thể thấy mặc dù họ có suy nghĩ phân biệt sâu sắc và chí hướng cao xa như thế nào, về phưng diện thoát ra khỏi mạng lưới văn hóa vẫn hoàn toàn tốn công vô ích. Giống như Tôn Đại thánh, mặc dù nhào lộn một cái đã đi được mười vạn tám ngàn dặm lại vẫn không thể vượt qua được lòng bàn tay của đức Phật Như Lai.
Về sau tất c những người hòng thoát khỏi ràng buộc, ẩn mình trong đào nguyên hoặc ẩn tích trong núi sâu rừng thẳm hoặc say đắm trước bình rượu dưới trăng để được tự do tự tại đều là những kẻ thất bại, họ nhiều lắm cũng chỉ tìm được cái thắng lợi tinh thần nhất thời mà tạm thời tự say sưa một phen biểu lộ: “Dựng lều ở chốn nhân gian, mà không có tiếng ngựa xe ồn ào”, “Hỏi bạn vì sao có thể như thế, lòng tự xa cách đất, người”, trong ý thức sâu kín rõ ràng là “đất này không có bạc ba trăm lạng”. “Rừng sâu người không biết, có trăng sáng lại soi”. Chẳng qua là nỗi thưng cm đặc biệt đối với người ta, không biết và thân thiết hướng về đối với người có thể biết ta. Có thể vứt bỏ “chuông trống cỗ ngon” và “ngựa đẹp áo sang”, nhưng vẫn cố chấp truy hỏi đời mình có đắc ý hay không, trời sinh ra thân tôi liệu có ích hay không, nếu như không cố chấp như thế, làm sao có thể “nhưng muốn say lâu không muốn tỉnh?” Đâu có “vạn cổ sầu” nữa?
Tôi căn bn không có cách nào chạy trốn, chỉ có thể đứng im trong mạng lưới văn hóa. Tự do chân chính của tôi cũng chỉ có thể là tự do trong mạng lưới văn hóa. Còn như trong mạng lưới văn hóa tôi có thể giành được tự do ở mức độ nào, ở ngày nay vẫn là vấn đề kinh tế, liên quan với chính trị rất ít. Trong lĩnh vực chính trị, tự do thường thường sa ngã thành công cụ của một số người có dã tâm, họ mang theo chiêu bài tự do, thậm chí lấy tự do làm lời hứa hẹn, mê hoặc dân chúng dẹp loạn một trật tự nào đó để đoạt lấy quyền lực cá nhân, đến khi mục đích dã tâm đạt được, để giữ sự thống trị của cá nhân ấy, tất nhiên có thể ngay lập tức xây dựng nên trật tự khác, chẳng bao giờ có thể cho dân chúng mà lúc ban đầu họ kích động và từng hứa hẹn có tự do chân chính, tự do c đến dân chúng chỉ làm công cụ để họ đoạt quyền. Xã hội loài người phát triển đến ngày nay, tự do về thực chất vẫn là một khái niệm kinh tế. Xã hội có trình độ sức sn xuất đến mức độ nào thì có tự do ở mức độ đó. Tự do của tôi vĩnh viễn có liên hệ với hoàn cnh kinh tế cụ thể tồn tại của tôi. Trình độ sức sn xuất càng cao, kinh tế càng phát đạt, tự do của tôi mới có thể càng nhiều. Trái lại, trình độ sức sn xuất càng thấp thì tự do càng ít. Mỗi một xã hội đều chỉ có thể đạt được tự do ở trình độ tưng ứng với mức độ sức sn xuất của nó, bất cứ ai cũng không có cách gì vượt hn trình độ này. Bất cứ hành vi nào vứt bỏ hoàn cnh sinh tồn cụ thể đều có thể làm cho tự do chỉ là lời nói suông mà chẳng có chút giá trị nào. Các nhà triết học xem điều này là quy luật tự nhiên hoặc tính tất nhiên. Spinoza trong “Luân lý học”đem tự do diễn đạt thành nhận thức đối với tất nhiên, tự do không phi là thoát khỏi tính tất nhiên mà là nhận thức tính tất nhiên. Heygel trong “Triết học lịch sử” thì lại càng tiến hành kho sát lịch sử cụ thể đối với tự do một cách sâu sắc hn, lần đầu tiên đem thực tiễn dẫn vào khái niệm tự do, cho rằng tự do là dưới tiền đề nhận thức tính tất nhiên thực hiện sự thống nhất cụ thể của chủ thể và
khách thể.

Về phưng diện nhận thức đối với tự do, Mao Trạch Đông dùng phưng thức ngôn ngữ Hán học điển hình đưa ra diễn đạt hoàn chỉnh nhất, Ông cho rằng tự do là nhận thức đối với tính tất nhiên và ci tạo đối với thế giới khách quan. Giữa nhận thức và ci tạo dùng chữ “Và” đề nối liền lại, vừa có thể thừa nhận là hai cái kế tiếp trước sau - nhận thức tất nhiên ở trước, ci tạo khách quan ở sau, giống như sự thể hiện của Mao Trạch Đông từ lâu về bước đi của đời sống tinh thần: trước tiên có nhận thức, sau mới có tin theo, cuối cùng mới có thể thực hiện trên hành động, đối với tính tất nhiên có nhận thức ở trình độ nào mới có ci tạo khách quan đạt được tự do ở trình độ đó; lại có thể đem c hai cái hiểu là đồng thời - nhận thức tất nhiên, ci tạo thế giới chủ quan đồng thời với ci tạo thế giới khách quan (cũng giống như ci tạo thế giới khách quan đồng thời với ci tạo thế giới chủ quan). Hạt nhân của quan điểm tự do của Mao Trạch Đông là: bất kể nhận thức tất nhiên hay là ci tạo khách quan đều lấy cái “tôi” làm chủ thể, tôi ở đây giành được tự do thực tại nhất mà lại biện chứng nhất. Xuất phát từ loại quan niệm tự do thời gian không gian biện chứng này, Mao Trạch Đông xem quá trình phát triển của lịch sử từ vưng quốc tất nhiên sang Vưng quốc tự do, đây là một quan điểm lịch sử tự do vĩnh viễn mở rộng, ông không dùng “thực hiện tự do” làm điểm cực cuối cùng, mà là tự giác nắm chắc tính vô hạn phát triển lịch sử, đem tự do xem là một quá trình phát triển vô hạn: quá trình vận động từ tất nhiên đến tự do.
Nhìn thấu rõ tự do như thế, tôi mới có thể vượt qua hỗn loạn tạp nham, trong mạng lưới văn hóa mới thật sự tìm được phần số phận vốn thuộc về tôi. Mặc dù tôi vẫn không thể tr lời chuẩn xác được trong mạng lưới văn hóa tôi là ai, cũng không thể nhận thức vô tận đối với số phận của tôi, nhưng tôi hoàn toàn có thể ở ni đây - trong quá trình sáng tạo văn hóa của chính tôi cm thấy một cách chân thực tôi là ai. Khonh khắc mà tôi cm thấy tôi là ai, trước tiên tôi giành được sự tỉnh ngộ của lưng tâm và sự bình yên của linh hồn. Bất kể xung quanh hỗn loạn như thế nào, bất kể tiếng ồn xung quanh bốn phía ầm ĩ đến đâu, tôi trước sau đều vững tin vào cm giác của chính tôi - đành là tôi phi sống một cách chân thực, tôi sẽ không thể không hoàn toàn nhấn mạnh cm giác này của mình.

Cứ lấy việc “đi xuống biển”, mốt đang được tôn sùng nhất của nhiều người trong c nước hiện nay để bàn. Trong tình hình hệ thống thị trường của xã hội chưa giành được sự thống nhất hài hòa với hệ thống văn hóa, đang tồn tại sự phân phối không đồng đều, c chế cạnh tranh không hoàn thiện, tôi cm thấy tôi nên dựa vào hệ thống thị trường của xã hội, thế là tôi sẽ vui vẻ đi :”xuống biển”. Tôi cm thấy tôi vẫn phi vững vàng tiến theo hệ thống văn hóa của xã hội, do đó tôi sẽ vui vẻ như trước đây làm công việc sáng tạo của tôi. Như vậy, hoặc là có may mắn để hạ cố đến tôi hoặc thất bại cũng không luyến tiếc lắm, tôi hiểu rõ đây chính là số phận của tôi. Số phận có thể sắp đặt tôi bắt đầu lại một lần, hai lần. Người đen đủi nhất chính là những người không tìm thấy cm giác tốt đẹp của mình. Hâm mộ đi xuống biển lại không dám xuống biển, không đi xuống biển lại luôn luôn nghĩ phi đi xuống biển, đã đi xuống biển lại cm thấy mất một số cái gì đó đâm ra hi luyến tiếc. Đây chính là vì đời người rất không tự do. Anh ta có thể đứng trước c may đã bỏ lỡ lại bỏ lỡ lại, số phận cũng luôn trói buộc anh ta. Xét đến điều căn bn của nó là ở chỗ anh ta không thể cm thấy một cách chân chính anh ta là ai, anh ta để cho mỗi một khonh khắc của sinh mệnh của mình đều trôi đi uổng phí trong do dự và lưỡng lự. Mắt đang nhìn mình từ thiếu niên đến trung niên, chẳng mấy chốc lại từ trung niên đến những năm xế chiều, một đời chỉ có tự than thở trống không.
Tôi quyết không thể như thế. Bắt đầu từ bây giờ tôi sẽ phi có một trù tính c bn đối với số phận của mình, xây dựng nên cm giác chân thực của mình, tìm thấy vị trí nên thuộc về mình.
Xin đừng lo lắng tôi có thể vì cm giác dâng cao mà trượt vào thuyết duy tâm. Cm giác của tôi luôn là cm giác đối với tồn tại, bao gồm cm giác đã có, hiện có và sẽ có. Sẽ có là sự tồn tại của gi tưởng, bao gồm tồn tại tưng lai có thể thực hiện và “tồn tại” tưng lai không thể thực hiện. Cái trước là một loại lý tưởng, cái sau là o tưởng, ý tưởng điên rồ. Nhưng ý tưởng điên rồ của hiện tại - trong cm giác đối với “tồn tại” mà hiện tại cho rằng tưng lai không thể thực hiện thường thường đang ẩn chứa tính sáng tạo, vận may của tôi chưa biết chừng chính sẽ tại chỗ đó.
Cm giác đối với chưa có và sẽ có sẽ là trực quan (ở đây, đối tượng của trực quan chỉ có tính không gian mà không có tính thời gian), năng lực của trực giác là tiền đề sinh ra tư duy mang tính sáng tạo trong kết qu của tư duy có tính sáng tạo, bộ phận có giá trị lý tính có thể chính là khoa học. Thiết kế có tính chất sáng tạo đời người đồng thời làm cho nó có giá trị lý tính là thiết kế cuộc đời của những người mạnh, người thắng lợi, trong đó tràn ngập trí tuệ nhân sinh rộng lớn. Tôi muốn tự giác giành được vận may thì không thể thiếu trí tuệ này.
Trong chặng đường dài từ cm giác đến khoa học, tồn tại là tính có trước, còn khoa học có giá trị thực tế nhất đối với loài người. Triết học duy tâm thì cắt đi phần đầu (tồn tại) mà bắt đầu từ cm giác cũng cắt đi phần đuôi (khoa học) chỉ nhấn mạnh ở giai đoạn trực giác và tư duy. Triết học sinh mệnh, chủ nghĩa trực quan của Baigeson cũng là dừng lại ở đây, lấy trực quan là trên hết, lấy “tự do tinh thần của khách quan” là trên hết. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chú trọng toàn bộ quá trình của sinh mệnh, vừa truy hỏi lý do tồn tại cm giác, cũng truy hỏi kết qu của trực giác và sau tư duy. Tôi kiên trì nắm ở chỗ này quyết không đem mình đặt vào trong một thế giới cm giác trống rỗng một cách cô lập.

Song, đối ứng với thời gian vật lý, trên thực tế tôi chủ yếu sống trong thời gian cm giác, trong thời gian cm giác trôi qua đi tôi thể hiện cm nhận sự tồn tại và vận động của sinh mệnh, việc này trở thành hạt nhân tinh thần mà tôi theo đuổi. Làm thế nào để trong quá trình lâu dài của thời gian cm giác, dùng trạng thái tâm lý siêu việt nhìn thẳng vào giá trị đời người, đây là một trong những vấn đề khó lớn nhất của đời người bày ra trước mắt tôi, tôi dù một khonh khắc đều không có cách nào lẩn tránh nó, tôi cũng không thể trốn tránh nó.
Thế là đối với số phận, tôi bắt đầu trù tính cụ thể thực tế hơn.
2. Quá trình và mục tiêu trù tính: tôi sống trong “lưỡng thê"
Tôi sống trong “lưỡng thê” với ý nghĩa đau khổ và vui vẻ. Tôi là đau khổ, số mệnh tôi nhất định phi tiếp nhận khổ nạn. Tôi đồng thời lại vui vẻ, tôi theo đuổi vui vẻ. Tôi đồng thời phi tri qua hai thể nghiệm tâm lý hoàn toàn trái ngược đau khổ và vui vẻ.
Ham muốn theo đuổi và gắng gượng trở thành toàn bộ bn chất của tôi. Bởi vì tôi là con người tất nhiên có ham muốn và theo đuổi của bn thân mình. Tôi vì thực hiện nó mà một phút cũng không ngừng cố gắng phấn đấu cũng chưa my may từng buông th mình. Do đó, tất c mọi khổ nạn, thất bại và gắng gượng đều sinh ra từ đó. Hn thế chúng từ trước đến sau đi kèm với c quá trình sinh mệnh của tôi. Đây đưng nhiên là một quá trình tràn ngập đau khổ. Tôi dùng vô số lần trắc trở và thất bại để thêu dệt nên mộng thành công. Có người nói tôi lúc này đây đang trong đau khổ và vô vị giống như một con lắc đang đu đưa qua lại. Tôi đang đứng trước đau khổ hai mặt, đau khổ của thất bại, đau khổ của thành công. Bởi vì tôi thật ra không xem thành công làm mục tiêu đời người của tôi, tôi chỉ từ mỗi lần thành công thể nghiệm giá trị của sinh mệnh, từ đó trong khonh khắc vô cùng ngắn ngủi giành được thành công phát ra một chút tiếng cười vui vẻ. Nhưng ngay tức khắc sinh ra một tìm tòi và theo đuổi mới, từ đó lại bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới. Hn nữa, khi mục tiêu mới còn chưa sinh ra, tức là trước khi bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới, tôi luôn cm thấy trống tri và vô vị mà trước đây chưa từng có. Đó sẽ là sự giày vò tinh thần mà thành công đem đến cho tôi.
Cho nên nói, ham muốn và gắng gượng, trắc trở và thất bại, chán ngán và đau khổ đã tạo nên toàn bộ nội dung trong quá trình sinh mệnh của tôi. ý chí kiên nhẫn, sức mạnh nhân cách của tôi, mỗi một chút thành tựu sự nghiệp của tôi đều sinh ra từ trong hàng chuỗi những khó khăn trắc trở như thế. ý nghĩa và giá trị sinh mệnh của tôi cũng chính là thực hiện trong khó khăn trắc trở như thế. Nếu như không có hàng chuỗi khó khăn trắc trở này, hoặc lẩn tránh nó thì sinh mệnh của tôi có thể trở thành hư vô. Tôi muốn sống một cách thực sự, số mệnh nhất định phi chịu đựng hàng chuỗi đau khổ và giày vò này.

Nhưng, mục tiêu của tôi thật ra không phi ở chỗ đau khổ. Tất c mọi việc làm của tôi, tất c mọi theo đuổi, đều là vì một mục tiêu cuối cùng: vui vẻ. Tôi tin tưởng vững chắc rằng đời người cần phi vui vẻ. Vui vẻ phi giống như một bài th. Vui vẻ phi giống như một con suối nhỏ róc rách tuôn đều, chy đến những con sông đẹp, chy đến tận biển c màu xanh biếc, chy đến tận những ni nó không hề hay biết.
ý chí của Tăng Điểm từng nói, được Khổng Tử tán thành, vốn chính là một mục tiêu cao nhất của đời người - Thời tiết cuối mùa xuân, sự thích nghi với mùa xuân đã quen, năm sáu chàng thanh niên, sáu by cậu thiếu niên rủ nhau ra tắm ở sông Nghi, đứng hóng mát ở Vũ Vu đài, sau đó hồ hởi ra về.
Khổng Tử, một đời hong hốt lo phiền, tích cực vào đời, sở dĩ biểu thị lặng im đối với ý chí trị quốc yên bang của mấy đệ tử trước Tăng Điểm trình bày mà lại chỉ độc nhất tán thành chí hướng của Tăng Điểm, thật ra không phi Khổng Tử sa sút nn lòng có ý nghĩ thoát khỏi trần ai, mà ở chỗ ông đã nhìn thấy mục tiêu cuối cùng của đời người là nên vui vẻ. Còn trị quốc yên bang chỉ là thủ đoạn để thực hiện mục tiêu này.
Khi tôi dựng lên mục tiêu này cho mình, tất c mọi việc làm và theo đuổi của tôi vì mục tiêu này cũng đều trở nên vui vẻ, tất c mọi đau khổ trong quá trình sinh mệnh của tôi cũng đều trở nên vui vẻ. Lúc này, tất c mọi cm giác đau khổ đều tan biến thành mây khói. Đối mặt với tất c mọi tai ách và khổ nạn, tôi cũng đều không thay đổi niềm vui, tôi chỉ cm thấy niềm vui sướng của đời người.
Lúc này, tôi mới cm thấy rằng “ăn một giỏ cm, uống một bầu nước, sống trong ngõ hẻm vắng, người khác chịu đựng nổi nỗi khổ đó, thế mà Nhan Hồi vẫn không thay đổi niềm vui vốn có”, vốn là một giới hạn của nhân cách vĩ đại biết bao.
Do đó, bất kể định mệnh của tôi phi gánh chịu bao nhiêu đau khổ, tôi vẫn yêu đời, tôi vẫn nhiệt liệt ôm hôn cuộc đời. Tôi làm cho quá trình của sinh mệnh thống nhất lại với mục tiêu một cách hài hòa. Từ đó tôi sẽ không sống trong “lưỡng thê” nữa. Dù cho khi bi thuyền ngược dòng, trong tất c mọi gian nan trắc trở của thể xác và tinh thần, tôi cũng có thể thể nghiệm được niềm vui sướng của đời người.
Song, đời người là ngắn ngủi. Khi hưởng thụ cuộc đời vui vẻ, nếu như không có giác ngộ của sinh mệnh, đời người sẽ bị một bóng đen to lớn bao trùm. Cái bóng đen này chính là: tử vong.
3. Trù tính cao nhất: Chỗ quy tụ của tôi là cái chết.
Nhịp điệu của tự nhiên làm cho tôi tất nhiên từ trẻ trai đi đến già lão, ban tặng cuối cùng sinh mệnh cho tôi là để cho tôi dập tắt ngọn lửa của sinh mệnh, đi về Thiền quốc.
Chỉ dùng logic của triết học cũng có thể suy đoán: không có cái chết thì không có sự sống. Đời người không có cái chết thì sẽ không có khái niệm của thời gian. Không có cái chết thì giá trị của sinh mệnh cũng sẽ không có
gì để nói. Cái chết đối với đời người vừa là bi tráng, đồng thời cũng là
thiêng liêng.

Chính vì chết là một việc tuyệt đối, thời gian và sinh mệnh mới hiện rõ vô cùng quý báu. Tôi chính là từ trong bài bi ca truy điệu vong linh, cm thấy được sự vô cùng trang nghiêm và hùng vĩ của bn giao hưởng
sinh mệnh.
Đành là tôi tất nhiên phải đến với tuổi già, tôi chẳng có lí do gì mà không vô cùng quý trọng những năm tháng của tuổi thanh xuân, quý trọng từng phút từng giây, quý trọng mỗi khoảnh khắc trong suốt đời người
của tôi.
Đành là tôi tất nhiên phải đi vào cõi chết, tôi không có lý do gì mà không vô cùng quý trọng sinh mệnh, tôi cần phi cố gắng trước khi chết, thực hiện giá trị sinh mệnh của tôi với mức độ lớn nhất.
Tôi từ bụi trần ai của vũ trụ đến, cuối cùng cũng tất nhiên phải trở về nơi đó.

III- Tôi biết tôi không biết. Tôi từ lời nhắc nhở của á thánh Mạnh tử chưa từng quên: Nhược điểm của một người là thích xưng là bậc thầy trước mặt người khác

Với kiến thức cạn hẹp, sự từng trải bình thường, học thức nông cạn, tôi không bao giờ dám hy vọng quyển sách này trở thành bất cứ sự chỉ giáo nào để trù tính số phận. Điều hiến tặng cho bạn đọc nhiều lắm chỉ là một chút cảm giác của cá nhân tôi đối với vận mệnh cuộc đời mà thôi. Bất kể diễn đạt ngôn ngữ của tôi dưới hình thức như thế nào, ví như đại loại là “bạn nên”, xét đến cùng vẫn chỉ là cảm giác của tôi. Tin hay không tin tùy bạn, tuyệt không có ý là “làm thầy”.
Đã là cảm giác của cá nhân, thiên kiến và sai lầm sẽ không thể tránh khỏi. Wetegenstan đã dạy người ta: Một người đối với sự việc không thể nói ra thì nên giữ im lặng. Nhưng trước mắt tôi thật ra không có ai quy định những điều gì có thể nói, những điều gì không thể nói. Thậm chí chính tôi, trước khi nói cũng thật ra không hoàn toàn biết rõ ràng tôi có thể nói điều gì và không thể nói điều gì. Bởi vì những việc có thể nói lại chưa nói, việc không thể nói lại đã nói ra, cũng không thể tránh khỏi. Đương nhiên, cuối cùng tôi cũng chỉ có thể nói ra những điều tôi có thể nói.
Đồng thời, quyển sách này cũng được xây dựng trên cơ sở đọc hàng loạt lớn tư liệu, tôi đã đứng trên vai của nhiều hiền triết vĩ nhân trong ngoài nước xưa nay và nhiều bạn bè chưa nổi tiếng. Tôi cám ơn họ một cách sâu sắc, tôi đã dẫn ra rất nhiều quan niệm và thực tiễn của họ đối với vận mệnh đời người. Cho nên, quyển sách này cũng là nhận thức và cảm thụ của tôi đối với quan niệm và thực tiễn của họ, ở đây vẫn có thể còn có sai lầm.
Như vậy, tôi vừa cầu mong không khí văn hóa khoan dung, vừa cầu mong bạn đọc chỉ ra những thiếu sót và sai lầm.
Để thức tỉnh niềm hưng phấn đọc các vấn đề khác nhau, phong cách hành văn trong sách này không phải là một vẻ, một cách điệu, hầu như là có đủ mọi phong cách pha trộn lẫn nhau - hoặc kiểu dẫn dắt, hoặc có tính biện luận, hoặc có tính kể chuyện, hoặc có tính triết lý, từ đó xét về toàn cục cũng đã hình thành một phong cách đặc biệt của quyển sách này.


--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
BichDu
post Sep 26 2011, 05:41 PM
Post #2


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country










99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 10

25- Khoảnh khắc cùng chạm cốc

. Ước mong ban đầu của rượu là để trợ hứng, là để làm trò vui. Rượu là nguồn gốc của bao tai họa!
. Khoảnh khắc chạm cốc, bạn không thể không cẩn thận, không thể không cảnh giác!
. Chớ nên tin những lời nhảm nhí rượu có thể tiêu sầu giải lo, mượn rượu tiêu sầu càng sầu thêm, sao chẳng nói có được mấy phần
thực tế.
Tập quán uống rượu, từ xưa đã có.
Người ta đã nói không biết bao nhiêu ý đẹp lời hay đối với rượu. Nói nó là dịch ngọc quỳnh tương, là tiên phẩm của nhân gian. Nói nó có thể làm cho người ta vô tư vô lự, vui sướng. Ðến mức có thần diệu một chén giải nghìn sầu.
Thế là có câu ca rượu tiên: Ðời người có rượu phải say, đừng để chén vàng nhìn ánh Nguyệt.
Song những lời nguyền rủa của người đời đối với kẻ nghiện rượu cũng không ít, thường gặp nhất là gọi tham chén và ham dâm đặt ngang hàng, hơn thế còn đặt trước ham dâm, bạn nếu sống xa hoa quá mức người ta sẽ gọi là ?chìm ngập vào tửu sắc? để trách mắng.
Thế là từ sách “Thượng thư” đã có thiên “Tửu cáo” đã ân cần lấy rượu để nhắc nhở:
“Chúc rượu này” - ngừng uống rượu như thế nhé,
“Không có vò rượu” - không nên thường xuyên uống rượu nhé.
Vua đầu tiên nhà Hạ là Tự Văn Mênh đã từng hạ lệnh cấm rượu. Ông nói: Rượu quả thật là vật quý, chính vì như thế, về sau ắt sẽ có người vì nó mà "quốc phá gia vong" - câu nói này chẳng may nói trúng, trong lịch sử có biết bao nhiêu quân vương khanh tướng, tài tử phong lưu, đam mê tửu sắc mà chôn vùi sự nghiệp và tiền đồ.
ở phương Tây cũng như thế, ngay cả ở Mỹ năm 1920 vẫn còn ban bố lệnh cấm rượu, nhưng cuối cùng cấm không nổi, mười bốn năm sau, năm 1933 mới đành bãi bỏ lệnh cấm rượu.
Rượu, cuối cùng là vật gì?
Trong trường hợp xã giao công cộng, vài ba người bạn tụ tập với nhau, trong các buổi yến tiệc, những ngày tết, ngày vui ở gia đình thường không thể tránh mời mọc đến uống rượu. Nó quả thực có hiệu quả làm cho không khí nhộn nhịp vui vẻ, tăng thêm hào hứng chuyện trò, không biết có bao nhiêu khoản hợp đồng buôn bán trong lúc cùng chạm cốc, có bao nhiêu thù oán hiểu nhầm được giãi bày lúc cùng chạm cốc, có bao nhiêu tình bạn tốt đẹp cùng bắt đầu khi cùng chạm cốc.

Nếu như là để quan sát thôi, thì uống rượu mà không say hoặc hơi say không loạng choạng với ý muốn ở hứng thú và hưởng lạc, cũng chỉ dừng lại ở hứng thú và hưởng lạc thôi, thì uống rượu vẫn có thể được xem là việc làm văn minh.
Ước mong ban đầu của người phát minh ra rượu cũng chỉ ở chỗ làm tăng niềm vui sướng của con người, nâng thú vui của con người. Cũng giống như làm tăng cho nhân gian một tiết mục vui chơi. Ðây là nguyện vọng tốt đẹp. Niềm vui vẻ của loài người còn quá ít, cần phải tìm ra nhiều phương thức làm cho con người sống được vui vẻ, sống được thoải mái nhẹ nhàng, uống rượu vẫn có thể được xem là một phương thức. Các cuộc vui chơi của loài người quá ít, nhất là các cuộc vui chơi của người lớn còn quá ít. Cần phải hướng về trong sáng thuần phác, hưởng thụ cuộc đời trong các trò vui chơi, người không có tâm trạng vui chơi thường là rất mệt mỏi. Uống rượu vẫn có thể được xem là một trò vui.
Nhưng nhiều người vui quá hóa buồn, đi ngược lại ước mong ban đầu của người phát minh rượu, đi ngược lại với tinh thần vui chơi. ở anh ta uống rượu không phải là để vui vẻ và hứng thú, mà là đau khổ và hối hận - người vì rượu mà nói quàng nói xiên cũng có, người vì sau khi uống rượu loạng choạng đổ ngã thành thương cũng có, người vì rượu mà mất hết cả đạo đức, bị người đời phỉ nhổ cũng có, người vì rượu mà mắc bệnh cũng có, người vì rượu mà bị mất mạng tại chỗ cũng có, người vì rượu mà tạo nên tai vạ lớn cũng có, người khi đang say rượu đã đáp ứng ký chữ ký của mình, sau? tỉnh lại hối hận mãi không thôi càng có hàng nghìn hạng vạn người.
Rượu là nguồn gốc của bao nhiêu tai họa!
Khoảnh khắc chạm cốc, bạn không thể không cẩn thận, không thể không cảnh giác!
Chớ nên tin những lời nhảm nhí rượu có thể tiêu sầu giải lo, mượn rượu tiêu sầu càng sầu thêm, sao chẳng nói có được mấy phần thực tế.
Cố nhiên, tất cả mọi đau khổ và ưu sầu của bạn, xét đến cùng đều là sự cảm nhận tâm lý tự mình, bạn cảm thấy đau khổ sẽ là đau khổ, bạn cảm thấy vui vẻ sẽ là vui vẻ. Bạn ưu sầu thì ưu sầu, bạn lạc quan sẽ lạc quan. Uống rượu qúa chén, những kích thích thông qua rượu đối với thần kinh có thể gây nên tác dụng tạm thời làm tê liệt thần kinh, hưng phấn thần kinh. Khoảnh khắc này bạn có thể quên đi ưu sầu và phiền não, khoảnh khắc này bạn có thể tự cảm thấy sung sướng vui vẻ, tựa như cuộc đời lúc này là hạnh phúc tuyệt vời.
Nhưng, nếu bạn không thật sự có lòng dạ lạc quan độ lượng, chỉ hẹp hòi nhìn lệch về một phía, sau khi tỉnh rượu đau khổ và ưu sầu vẫn như cũ, hơn nữa còn có thể trầm trọng hơn. Nếu như chỉ thỏa mãn cảm giác nhất thời lúc đó, mà lại thường xuyên tìm khoảnh khắc như thế, bạn sẽ trên cơ sở đau khổ vốn có tăng thêm một nấc đau khổ mới say rượu chắc chắn chính là trúng độc ethyl alcohol, một người thường xuyên bị trúng độc ethyl alcohol tất nhiên trí nhớ sẽ giảm sút, trí lực sớm suy thoái, tâm lực sớm cạn kiệt, biến đổi sinh lý tất nhiên dẫn đến biến đổi tâm lý: lòng dạ càng trở nên hẹp hòi hơn, quan niệm dễ thiên lệch, tính tình càng có xu hướng nóng nảy hấp tấp, đau khổ càng đau khổ hơn, buồn rầu càng buồn rầu hơn.
Phương pháp đúng đắn loại bỏ đau khổ, quên đi nỗi ưu sầu quyết không phải là ở rượu, mà là ở chỗ phải tu dưỡng nhiều tâm tính của mình, bồi dưỡng chí khí của mình rộng rãi độ lượng, làm cho mình thật sự có khí phách tâm lý lạc quan phơi phới.
Nếu như bạn vốn khiêm tốn cẩn thận có cá tính tốt, một khi ngộ độc rượu tác quái, có thể biến thành bộ mặt hoàn toàn khác, tự tâng bốc mình, huyên thuyên khoác lác, thậm chí gây nên nhiều nỗi bất hạnh. Một khi tỉnh rượu, bạn sẽ hối hận sâu sắc, tạo nên tâm lý tự giày vò đau khổ. Vì sao khổ thế?
ý của người say không phải ở rượu - tinh thần của rượu vừa đúng lúc bộc lộ. Tinh thần này lại lấy hai hình thái hoàn toàn ngược nhau phản ánh ra:
- Bạn có thể tin theo ý của người say không phải ở rượu làm mẫu mực khi uống rượu. Bạn, ý không ở rượu, bạn bè tụ tập, gia đình thân thích đoàn viên, hoặc vì lễ tiết xã giao. Chỉ mượn uống rượu làm một vật trợ hứng. Quyết không thể vì rượu mà uống rượu, quyết không thể vì say mà uống rượu.
- Quả thực có người tuyên bố đời người khó được mấy lần say, đặt đời người ngang hàng với trúng độc rượu, quan niệm về đời người như thế hầu như đứa trẻ con cũng sẽ xem nó là chuyện hoang đường buồn cười. Cái gọi là “khó được” thật ra không đúng, một bình rượu mạnh đã có thể làm cho bọn hay rượu thông thường say lăn, lại thêm cho một tí nữa sẽ có thể làm cho anh ta mê man bất tỉnh, làm sao lại nói là “khó được”? Trên đời có mấy người chết vì say rượu được xem là vĩ đại?

ý của người say không tại rượu, bạn đang ấp ủ trạng thái tâm lý như thế, dựa trên khả năng chịu được thực tế của mình vốn là ở chỗ vui vẻ uống chút ít, đối với thân thể có lợi không có hại, thì có thể thực hiện thật sự được ý nghĩa “trợ hứng”. Bằng không, bạn cứ khăng khăng với rượu, nhất định phải uống cho đến mức người ngã ngựa đổ mới thôi, nhất định phải uống cho kỳ say, hoặc uống đến mức say mềm bất tỉnh, đối với thân thể có hại chẳng có ích gì, trợ hứng trở thành bại hứng. Nghĩ một đàng làm một nẻo, há chẳng buồn đó sao!
Một trạng thái khác của ý người say không tại rượu biểu hiện thành một trò chơi độc ác - mời rượu, cứ khăng khăng một mực mời rượu, mời không được bắt tay đổ, một người đổ bạn không uống thì mấy người hợp sức lại đổ. Càng ở những nơi thô tục dã man, trò chơi độc ác này càng tệ hại. Người khăng khăng mời rượu thì hoặc là người say, bản thân anh ta cũng đã hơi say, cũng có thể đã say nhiều, lúc này hầu như để biểu thị hào khí của anh ta, tỏ ra cùng say với bạn, cùng vui với bạn, đồng tâm, đồng đức với bạn đến cùng. Lúc này hầu như đột nhiên bạn đã thành người bạn sinh tử của anh ta. Anh ta mời rượu thật ra không ở bản thân rượu, anh ta thật ra không biết lo bạn uống rượu sẽ có tổn thất và không thích hợp gì mà là một hành vi không có lý trí hỗn loạn. Có nhiều người mời rượu bản thân họ thật ra chưa say hoặc chỉ có một chút nóng đầu, hoặc căn bản chính là người tỉnh, việc mời rượu càng không phải ở bản thân rượu, họ chỉ là muốn mượn rượu để đổ cho bạn say, để rồi vui vui vẻ vẻ thưởng thức trạng thái say của bạn - đây là tâm lý nghịch ngợm. Nếu bạn say đến mức nói năng lung tung lên, hát tướng lên, cười rống lên, khoa tay múa chân, họ trông thấy càng vui hơn, mục đích càng đạt. Có thể bạn say đến mức nôn mửa, hoặc cần phải dời chỗ đi nghỉ ngơi thì họ sẽ có thể thất vọng lớn. Bạn đã phụ lòng mong muốn của họ đem bạn ra làm trò cười. Lại còn có người mời rượu trong lòng mang một mục đích đặc biệt, ý mời rượu không phải là ở rượu, họ muốn chuốc rượu say cho bạn để rồi trong lúc bạn hưng phấn say rượu đáp ứng những yêu cầu không chính đáng của họ.
Ðứng trước các loại người say rượu trên, trước cốc rượu, bạn phải hành động ra sao kiềm chế như thế nào? Việc này thể hiện bạn có sức tự kiềm chế đến đâu. Nếu tự biết sức rượu của mình không thắng, bạn phải kiên trì giữ đến cùng quyết không nhận thì sẽ là thắng. Bất kể là lời khuyên mời uống rượu như thế nào đều không nghe, mặc anh ta quấy rầy, bạn không làm theo anh ta thì là thắng, say lăn ra chính là thất bại. Nếu như các bạn say tự tay đổ rượu cho bạn, bạn gắng có thể không cần nể nang (họ tự tay đổ rượu cho bạn đã là không nể nang rồi) gào lên một tiếng thật to, vứt vỡ một cái bát xong sẽ kiềm chế lại cũng có thể được. Dù thế nào phải giữ một điều, quyết không thể trở thành người bị rượu đầu độc. Một người thích rượu tham chén, một người thích được gọi là anh hùng trên tửu trường không có khả năng tự kiềm chế được như vậy.
Bạn có thể sẽ nói, việc gì cứ phải khăng khăng không tiếp nhận, vì mỗi việc uống rượu mà phải làm đến nỗi không thoải mái? Nhưng những người tỉnh táo đều hiểu rõ, mọi người sau khi tỉnh rượu đều hiểu rõ, làm không thoải mái trước tiên là những người khăng khăng cố ý đổ rượu chứ không phải là người khăng khăng không nhận.

26- Khoảnh khắc xấu hổ ngượng ngùng

. Xấu hổ từ đầu đến cuối đều là một cảm giác tâm lý.
. Sinh hoạt thời thơ ấu là nguồn gốc hình thành bệnh xấu hổ.
. Dùng hai phương thức hướng nội và hướng ngoại để tự chữa cho mình.
Ông Tư Nguyên, chuyên gia tâm lý nổi tiếng cho rằng, kẻ thù lớn số một của việc thành công đời người chính là "cái bệnh xấu hổ này".
Bởi vì xấu hổ không có tài năng giao tiếp, tự khép kín mình, càng sống càng lãnh đạm, càng cô độc, sức sống tiêu biến, không sinh động hoạt bát, cuộc đời bi kịch chính là như thế. Bởi vì xấu hổ sẽ để mất nhiều cơ hội có thể thành công, như cơ hội tình yêu tốt đẹp. Một khi đã để mất sẽ không thể lấy lại được tạo nên sự hối hận sâu sắc.
Một cô gái tên là Tống Lệ, tuổi khoảng 25, tốt nghiệp đại học, khỏe mạnh xinh đẹp, tính nết nhã nhặn hiền hòa, gia đình giàu có, ăn mặc cũng hợp thời, ăn diện dễ nhìn, mọi người đều nói cô hầu như có đủ mọi điều kiện hạnh phúc và thành công. Nhưng chính lại có một nhược điểm là cô hay xấu hổ, không có tài xã giao - do đó tất cả mọi tiền đề hạnh phúc và thành công sẵn có của cô đều bị khuyết điểm này triệt tiêu.
Về sau Tống Lệ đi tìm gặp bác sĩ tâm lý, bác sĩ đã vận dụng phương pháp chữa phân tích tinh thần hỏi đến ngọn ngành, tìm ra nguồn gốc sinh ra bệnh xấu hổ của cô ta, qua một thời gian điều trị đã làm cho cô ta dần dần giải phóng tinh thần, bỏ được gánh nặng tâm lý, khắc phục được khiếm khuyết thiếu tài xã giao, từ đó đã bước được một bước lớn trên con đường thành công.

Bệnh xấu hổ có đủ mọi loại biểu hiện. Thường thường đỏ mặt, nói không ra lời. Không dám bước vào vũ trường, không dám xuất đầu lộ diện ở mọi nơi công cộng. Không dám giao tiếp với người lạ, không dám giao tiếp với những người có địa vị cao hơn mình. Sợ người khác nhìn. Không dám phát biểu ở nơi công cộng, cho dù là phát biểu ý kiến thảo luận ở trong ca, tổ, phân xưởng, phòng ban của mình, cũng run lên cầm cập, chân tay không biết xếp đặt ra sao, bồn chồn không yên, luôn luôn sờ lên đầu, đằng hắng vặt, sờ cra-vat, xốc quần xốc áo. Luôn luôn sợ mình nói sai bị người khác giễu cười, luôn luôn cho rằng nhiều người có mặt tại hiện trường tài giỏi hơn mình, không dám phát huy bản thân. Phụ nữ thường hay bôi một lớp son thật dầy để che giấu bộ mặt vốn có của mình. Luôn luôn cho rằng người khác đang nhìn bạn, đang chăm chú theo dõi bạn. Vẫn nhớ thật kỹ một vài khuyết tật mang trên người mình, ví như trên sống mũi có một nốt ruồi, lúc nào cũng vẫn lo lắng vì nó, luôn luôn tìm cách để che đậy nó. Không dám giao tiếp với người khác giới, vẫn thường nghĩ đến giới tính của mình.
Tất cả mọi hiện tượng của bệnh sợ xấu hổ, cảm thấy ngượng ngùng, đều có thể truy xét đến nguyên nhân tâm lý, bởi vì xấu hổ từ đầu đến cuối đều là một loại cảm giác tâm lý. Nhân tố tâm lý đầu tiên hình thành cảm giác tâm lý này là ở nơi công cộng quá chú ý đến mình mà lòng tự tin
không đủ.
Nếu như ở các nơi công cộng, trong lòng lúc nào cũng tưởng đến giới tính, ăn mặc, thân hình diện mạo, thân phận, địa vị, học thức, năng lực, ngôn ngữ, động tác v.v... của mình, mà đối với tất cả hoặc một vài phương diện nào trong đó lại thiếu tâm lý tự tin, lại cho rằng ánh mắt của người khác đều tập trung vào người bạn, đang bình phẩm bạn từ đầu đến chân, sự xấu hổ và cảm thấy ngượng ngùng của bạn đã sản sinh ra như vậy.
Nếu như thuận theo cảm giác tâm lý này hơi vặn lại thêm một bước: Bất kể ở phương diện nào, hoặc ở nhiều phương diện bạn đều không thua kém so với người bình thường, thậm chí còn mạnh hơn rất nhiều, tại sao người khác khí thế hiên ngang, nói nói cười cười, không hề thiếu tự tin, không hề xấu hổ, không hề cảm thấy ngượng nghịu, anh ta có thể làm được không để ý đến thiếu sót của mình ở trong lòng mà rất thản nhiên giao tiếp với mọi người khác, còn bạn trái lại không làm được, còn bạn vẫn không có lòng tự tin, không có cách gì tạm thời đừng nghĩ đến mình, không có cách gì làm được việc không xấu hổ, không ngượng ngùng?
Các chuyên gia tâm lý cho rằng: quá quan tâm đến mình mà xấu hổ, phần nhiều có liên quan với cuộc sống thời thơ ấu và sự vô tri của thời thơ ấu. Nếu như thời thơ ấu của bạn, cha mẹ bạn quá chú trọng đến sự an toàn của bạn, luôn luôn nhốt bạn ở trong nhà, không cho đi ra khỏi cửa, rất ít cùng nhau vui chơi với trẻ con các nhà khác, ở trường cũng không dám chung sống với các bạn học khác, khi tan học về nhà là đóng cửa không ra. Như vậy, khi bạn lớn dễ dàng mắc bệnh xấu hổ, sợ đi lại với người khác, chỉ có mình là trung tâm, không dám đón nhận ánh mắt của người lạ, không dám thả mình ra thế giới bên ngoài.

Nếu như lúc nhỏ bạn giao thiệp với người khác quá ít, bất kể là cùng giới hoặc khác giới, bạn đều bắt mình khép chặt trong cô tịch, còn sinh lý và tâm lý hình thành tự nhiên của bạn lại đòi hỏi bức thiết thả mình ra, mong muốn giao tiếp với giới khác, nhưng khi giao tiếp với người khác giới lại đỏ mặt tía tai, không có lời nào nói đúng, thường dễ dàng hình thành biến thái tâm lý, như sản sinh hành vi tính dục biến thái - thủ dâm, tật nhìn trộm bộ sinh dục. Sau khi trưởng thành, mặc dù hành vi biến thái tính dục và hành vi tâm lý đã khắc phục sớm, nhưng dấu ấn tâm lý của thời thơ ấu lưu lại vẫn tồn tại, và ảnh hưởng sâu sắc đến trạng thái tâm lý của bạn, bệnh xấu hổ phần nhiều bắt nguồn từ đây.
Sự hạn chế một người chịu đựng từ nhỏ quá nhiều, bị la hét chửi mắng quá nhiều, quá nghiêm, đây cũng là nguồn gốc quan trọng hình thành bệnh xấu hổ khi thành niên.
Tóm lại, sự từng trải và hoàn cảnh sống của thời thơ ấu, sự vô tri của thời thơ ấu, các phương thức giáo dục không đúng đắn nhận được ở thời thơ ấu, đều là nguyên nhân hình thành bệnh xấu hổ của một người.
Cho nên, khi các nhà tâm lý chữa trị cho người mắc bệnh xấu hổ, thường là tìm mọi cách điều động người mắc bệnh cố gắng nhớ lại cuộc sống thời thơ ấu của anh ta, kể lại một cách thẳng thắn và thật thà, kể ra hết thì tâm lý sẽ được giải phóng. Bác sĩ sẽ căn cứ việc tự kể lại của bạn tiến hành phân tích và suy diễn tìm ra căn nguyên bệnh của bạn, gợi ý bạn phương thức tư duy mới làm thay đổi tính tình của bạn, từ đó đạt được hiệu quả chữa trị ở một mặt nào đó.
?Ngoài ra, dưới tiền đề tìm được lý do của bệnh, bác sĩ còn có thể chỉ đạo bạn dùng hai phương thức hướng nội và hướng ngoại tiến hành tự chữa bệnh cho mình, khắc phục bệnh sợ xấu hổ.
Cái gọi là phương thức hướng ngoại là sau khi biết nguyên nhân mình xấu hổ, có ý thức tiến hành tự rèn luyện tâm lý, đi tiếp xúc với bên ngoài, trước tiên bắt đầu từ việc tiếp xúc với bạn bè quen thuộc, tiếp đến người lạ, rồi đến người có địa vị cao, tiếp đến một đám người của đoàn thể nhỏ, sau đó đến đám đông quần chúng, từng bước học thích hợp với tất cả mọi người, mọi hoàn cảnh bên ngoài. Kiên trì rèn luyện lâu dài, ít thì mấy tháng, nhiều thì hai ba năm sẽ có thể nhận được hiệu quả to lớn, sẽ không sợ xấu hổ nữa.
Cái gọi là phương thức hướng nội là chỉ bản thân người mắc bệnh tự vắt tay lên trán mà suy nghĩ, tự hỏi vặn lại mình đến tận ngọn ngành: lần đầu tiên có cảm giác xấu hổ và sinh ra ngượng ngùng là vào khi nào? Vì sự việc gì? Vì sao cảm thấy xấu hổ, sự việc đó quả nhiên đáng xấu hổ chăng? Nếu như không cảm thấy xấu hổ thì sẽ như thế nào? Không xấu hổ, chẳng lẽ không tốt hơn chăng? Chẳng lẽ người ta có thể nói bạn mặt dầy không biết thẹn chăng?

Hỏi vặn lại hàng loạt vấn đề như thế, kết luận cuối cùng phần nhiều là: Vốn không cần phải xấu hổ, không cần phải giày vò. Bạn hoàn toàn có thể trong một cảm giác khác, sống càng thêm thoải mái, càng trôi chảy thuận lợi!
Bác sĩ còn có thể đề nghị đem kết hợp hai phương thức hướng nội, hướng ngoại với nhau, đồng thời cùng dùng song song với nhau, bệnh xấu hổ của bạn sẽ khắc phục được càng nhanh hơn.

27- Khoảnh khắc vô cớ nghi ngờ người khác

. Lòng nghi ngờ cũng như con dơi, nó luôn bay trong đêm tối.
. Khắc phục khiếm khuyết đa nghi và thần kinh quá nhạy sẽ bắt đầu từ việc đi khỏi trung tâm tự mình.
. Làm sao hiểu lòng đề phòng người khác không thể không có?
Trên đời vốn chẳng có việc gì, kẻ tầm thường thường tự chuốc lấy điều phiền toái.
Cái "tầm thường" của con người tầm thường của bạn sẽ ở chỗ hay nghi ngờ. Người ta vốn rất có cảm tình tốt đối với bạn hoặc đã từng là bạn tốt, bạn lại lấy một câu nói vô ý thức nào đó của người ta, hoặc một động tác vô ý thức nhỏ nhặt nào đó, hoặc một ánh mắt bèn nghi ngờ người khác đang giở trò với bạn, ngấm ngầm đang quấy rối bạn, đang bàn tán về bạn, đang nói xấu bạn, từ đó xuất hiện cách nhìn lệch lạc đối với anh ta, hoặc cắt đứt việc đi lại giao tiếp với anh ta, cắt đứt hoàn toàn hữu nghị với anh ta. Bạn còn có thể đem một việc đi lại giao tiếp bình thường của một đôi trai gái nghi ngờ là mối tình vụng trộm. Bạn có thể đem tất cả những thư từ của các bạn gái gửi cho chồng bạn đều nghi ngờ là thư tình, hoặc đem tất cả những lá thư của các bạn trai gửi cho vợ đều nghi là thư tình. Nếu như chưa có bất cứ căn cứ nào đã nghi là luyến ái tinh thần. Bạn nghi ngờ tất cả mọi người, bao gồm cả bản thân bạn, nghi ngờ tất cả mọi việc, bao gồm cả việc ăn ở hàng ngày của bản thân bạn. Có người gọi nó là thần kinh quá nhạy cảm.

Nghi ngờ tất cả và tin tưởng tất cả đều là tuyệt đối hóa cực đoan. Nghi ngờ nhiều cái vốn không nên nghi ngờ, tin tưởng nhiều cái vốn không nên tin tưởng,? có người dễ dàng tin tưởng những cái giả dối là chân thực, có người lại dễ dàng tin những cái chân thực là giả dối.
Hay nghi ngờ, mạnh dạn nghi ngờ tất cả, có khi có thể là tốt, có thể dự đoán trước được nhiều sự việc mà người bình thường không dự đoán nổi, có thể phát hiện những cái mà người bình thường phát hiện không được, trong lòng đã có chuẩn bị từ trước. Mà ưu thế của điểm này lại thường thường bị thói xấu của nó và nguy hại gột rửa sạch sành sanh, nhỏ nhoi chẳng đáng kể.
Có một vĩ nhân từng nói: :"Lòng nghi ngờ giống như con dơi luôn bay trong đen tối. Lòng nghi ngờ làm mê và hãm hại con người, làm lung lạc tâm trí con người, nó có thể làm cho bạn rơi vào cảnh bối rối, lẫn lộn bạn thù và phải trái, từ đó phá hoại sự nghiệp của bạn".
Không có mấy ai bằng lòng đi lại, giao tiếp với một người hay nghi ngờ người khác, sợ dẫn đến một số phiền? phức vô cớ, phần nhiều đều xa lánh bạn. Vì thế người hay nghi ngờ phần nhiều là người cô độc, mà sự cô độc của bạn lại không phải là sự cô độc thanh cao của nhà triết học muốn đi ra ngoài thế tục để tìm sinh mệnh và tư tưởng mới. Bạn đang ở cái cô độc không nhận được sự giúp đỡ của người khác, một loại cô độc đê tiện. Bạn sẽ gặp phải khó khăn ở khắp mọi nẻo đường, năng lượng của sinh mệnh không có cách gì để thi thố, trí lực và tài hoa của nó không có cách nào khai triển, sự nghiệp rất khó thành.
Bạn hành động chậm chạp, gặp việc do dự không quyết, thường xuyên lâm vào cảnh ngộ tiến thoái lưỡng nan. Người hay nghi ngờ lại có hành động quả cảm rất hiếm thấy Peigen đã từng nói Henry VII là một người như thế. Có nhiều người hay nghi ngờ thường kèm thêm cá tính nhút nhát và sợ sệt, điều đó càng tồi tệ hơn, không khắc phục loại thiếu sót của cá tính này, bạn chỉ có thể một đời vùi đầu vào nghề nghiệp một cách thảm thê buồn tẻ.

Hay nghi ngờ cũng thường thường là một trong những nguyên nhân tạo nên vợ chồng bất hòa, gia đình tan vỡ. Bởi vì chồng đối với vợ hoặc vợ đối với chồng vô cớ hoài nghi gây nên những việc vốn không có chuyện gì xẩy ra. Nhữngviệc vốn là trung trinh vì bị nghi ngờ là không trung trinh mà dẫn đến về sau quả nhiên không trung trinh thường hay xẩy ra. Hoặc những việc vì một bên không có cách gì chịu đựng nổi sự nghi ngờ vô cớ lâu dài của một bên khác mà sinh ra chán ghét và phiền não, dẫn đến cuối cùng cắt đứt cũng thường xẩy ra.
Thần kinh quá nhạy, hay nghi ngờ người khác, trước tiên phần nhiều do khí chất sinh lý phát triển không lành mạnh bình thường, không có thái độ xử thế lạc quan thông thoáng và tâm lý tự tin kiên cường, lo lắng liên miên, từng bước từng bước hướng nội hóa, thường xuyên ở trạng thái tự khép kín. Anh ta không hiểu nổi thế giới rộng lớn ở ngoài anh ta là muôn màu rực rỡ như thế nào, anh ta không hiểu nổi núi người biển người ngoài anh ta phong phú đa dạng ra sao, anh ta không biết mỗi một con người đều có một thế giới cá tính độc lập hoàn chỉnh, đâu có ai ai đều có thời giờ rảnh rỗi chuyên môn đi xúi giục bạn được? Anh ta vẫn là dùng cách nhìn lệch lạc hẹp hòi của mình làm thước đo để lo lường tất cả mọi người tức là lấy lòng dạ của kẻ tiểu nhân đi đo bụng của người quân tử. Cho rằng ai ai cũng đều suy nghĩ giống anh ta, kiến giải giống anh ta.
Tóm lại, không tìm hiểu người khác, không tìm hiểu thế giới, thiếu khả năng phán đoán là nguyên nhân chủ yếu tạo nên hay nghi ngờ, thần kinh quá nhạy, phán đoán sai lầm, phát sinh hiểu nhầm.
Vì vậy, khắc phục đa nghi, khắc phục khiếm khuyết thần kinh quá nhạy sẽ phải bắt đầu từ việc đi ra khỏi trung tâm tự mình di chuyển mình từ xu thế hướng nội sang xu thế hướng ngoại, hướng về thế giới bên ngoài, hướng về người khác, đi giao tiếp nhiều, đi tìm hiểu nhiều để thu nhận được những nhận thức chính xác và phán đoán chuẩn xác đối với người, đối với sự vật.
Trong quá trình tìm hiểu người khác, tìm hiểu thế giới bên ngoài, bạn phải tự giác bồi dưỡng khí phách hiểu người khác, hiểu thế giới của mình, hình thành cá tính rộng rãi lạc quan thông suốt.
Bạn nên biết, trên đời không có ai là không thể hiểu rõ, không có sự việc gì không thể hiểu rõ.
Nếu như bạn nghi ngờ một người nào đó, một sự việc nào đó, biện pháp tốt nhất là đi trao đổi với người đó, thẳng thắn và hữu hảo trao đổi cách nhìn của mình với anh ta, thu nhận được nhận thức chân thực, từ đó được hiểu rõ. Một khi đã hiểu rõ bạn sẽ không thể giữ lại thắc mắc trong lòng, sẽ không nhớ hận người đó nữa.

Biện pháp loại bỏ hiểu nhầm đa số đều là như thế cả, trao đổi trực diện so với bất cứ việc nói cạnh nói khóe, tìm hiểu vòng quanh, nghe phong thanh gián tiếp đều giản tiện mà có hiệu quả.
Bạn cũng cần cảnh giác những nghi ngờ do nghe phong thanh truyền tin lại. Phàm những tin lan truyền không lợi cho hữu hảo hoàn toàn có thể là tin giả, hoặc kẻ truyền tin hiểu nhầm, hiểu sai dụng ý của lời nói ban đầu, hoặc là có ý phát ra những kích thích để gây chia rẽ. Bạn đối với tất cả loại tin này trước hết đều giữ im lặng, sau đó bạn trực tiếp đi tìm hiểu thực hư là được. Nắn đi nắn lại, việc hiểu nhầm tức khắc được loại bỏ, phải trái và tốt xấu cũng sẽ phân biệt rõ ràng.
Bạn đã có lòng tự tin vững chắc thì không thể vô cớ nghi ngờ người khác ngấm ngầm quấy rầy đối với bạn, bạn phải vững tin ở mình, việc nói ra nhất định làm bằng được, tiền đồ của bạn chắc chắn sẽ không thua kém
một ai.
Có người hỏi vặn lại, lòng đề phòng người khác không thể không có, làm sao bạn lại không nên phòng bị người khác? Kỳ thực "lòng đề phòng người khác" này không phải là cái gì khác, mà là một sự chuẩn bị tăng cường bản thân mình, không ngừng bổ xung thêm cho mình, làm cho mình trở nên ngày càng có thực lực hùng hậu, mạnh mẽ lên. Chẳng phải là vô cớ nghi ngờ người khác. Chỉ có sau khi bạn có sẵn điều kiện và dũng khí tham gia cạnh tranh và nhất định có thể giành được thắng lợi, mới có thể thật sự ?đề phòng người?, nếu không thì có thể là phòng không nổi. Chính là nói muốn có một sự phòng bị có tính cơ bản vững chắc, không phải là sự phòng bị kiểu chắp chắp vá vá, không phải là chỉ phòng bị trên cửa miệng, chỉ lo sợ trong tâm lý! Bạn vững vàng, bạn lớn mạnh, tâm tính bạn thanh cao, bạn vốn trong lương tâm không hổ thẹn, người khác liệu có thể làm gì được bạn? Còn đối với những lời bịa đặt hại người, phỉ báng vô lý của kẻ tiểu nhân, đó là một việc khác, hãy đợi họ công khai nhảy ra hãy nói sau, đối với loại người này bạn có thể chiến thắng anh ta một cách nhẹ nhàng, càng không cần phải ?đề phòng?. Bởi vì bất cứ bọn bịa đặt nào, bất cứ bọn phỉ báng vô lý nào, trước hết đều thấp hơn người khác một cái đầu, anh ta không dùng sự thực làm căn cứ, trước sự thật anh ta tự nhiên bị tan rã, trôi dạt đi ngàn dặm, không cần bạn đề phòng, đợi cho anh ta nhảy ra, bạn chỉ cần đem sự thực công khai trước công chúng thì anh ta đã bại rồi.



--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người   Sep 26 2011, 04:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 2 1- K...   Sep 26 2011, 04:56 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 3 4- K...   Sep 26 2011, 05:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 4 7- K...   Sep 26 2011, 05:06 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 5 10- ...   Sep 26 2011, 05:09 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 6 13- ...   Sep 26 2011, 05:22 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 7 16-K...   Sep 26 2011, 05:25 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 8 19- ...   Sep 26 2011, 05:27 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 9 22- ...   Sep 26 2011, 05:29 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 10 25-...   Sep 26 2011, 05:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 11 28-...   Sep 26 2011, 05:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 12 31-...   Sep 26 2011, 05:50 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 13 34-...   Sep 26 2011, 05:52 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 14 37-...   Sep 26 2011, 05:55 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 15 40-...   Sep 26 2011, 05:57 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 16 43-...   Sep 26 2011, 05:59 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 17 46-...   Sep 26 2011, 06:02 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 18 49-...   Sep 26 2011, 06:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 19 52-...   Sep 26 2011, 06:07 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 20 55-...   Sep 26 2011, 06:10 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 21 58....   Sep 26 2011, 06:28 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 22 61....   Sep 26 2011, 06:31 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 23 64....   Sep 26 2011, 06:36 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 24 67....   Sep 26 2011, 06:39 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 25 70....   Sep 26 2011, 06:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 26 73....   Sep 26 2011, 06:43 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 27 76....   Sep 26 2011, 06:46 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 28 79....   Sep 26 2011, 06:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 29 82....   Sep 26 2011, 06:51 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 30 85....   Sep 26 2011, 06:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 31 88....   Sep 26 2011, 07:01 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 32 91....   Sep 26 2011, 07:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 33 94....   Sep 26 2011, 07:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 34 97....   Sep 26 2011, 07:07 PM


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 21st July 2025 - 05:01 PM