Warning: Declaration of class_bbcode::convert_emoticon($matches = Array) should be compatible with class_bbcode_core::convert_emoticon($code = '', $image = '') in /hermes/bosnacweb07/bosnacweb07as/b283/d5.kekho/public_html/forums/sources/classes/bbcode/class_bbcode.php on line 641 99 Khoảnh Khắc Đời Người - PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS

Welcome Guest ( Log In | Register )

> 99 Khoảnh Khắc Đời Người, Dịch giả: Nguyễn An
BichDu
post Sep 26 2011, 04:53 PM
Post #1


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country







99 Khoảnh Khắc Đời Người

ZHANG ZI WEN
(Trương Tự Văn)

I- Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi

Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng?
Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại.
Đối với tương lai, nếu như chỉ xét về thời gian, cũng dễ dàng lý giải: phàm thời gian không có trong quá khứ mà lúc này lại không có mặt đều có thể gọi nó là tương lai. Song sinh mệnh của tôi trong thời gian tương lai đặt vào những nội dung gì, tôi cũng không biết nữa. Nếu như suy luận theo logic, có thể nói, tôi có tương lai. Nhưng đây chỉ là một khái niệm chưa được nghiệm chứng mà thôi. Sự thật trước mắt là, đối với thời gian lúc này không có mặt và nội dung không biết, đều không thể coi là cái hiện tại tôi có.
Duy chỉ có khoảnh khắc lúc này thuộc sở hữu của tôi. Duy chỉ có khoảnh khắc này, sinh mệnh của tôi mới có đầy ý nghĩa thực tại. Sinh mệnh chỉ có thể sống tại khoảnh khắc lúc này, không thể sống trong quá khứ, cũng không thể sống ở tương lai.
Khoảnh khắc thời gian là một cái gì đây? Nó vừa không thuộc quá khứ, trái lại lại không ngừng trở thành quá khứ; vừa không thuộc về tương lai nhưng lại không ngừng đón nhận tương lai. Nó vừa là một giới hạn có thể chia cắt vô hạn giống như một điểm không có chiều dài; lại là một giới hạn có thể kéo dài đến vô hạn, 38 năm có thể tính là một khoảnh khắc, trong sinh mệnh vũ trụ, toàn bộ thời gian loài người tồn tại cũng có thể xem là một khoảnh khắc. Từ đó đủ thấy khoảnh khắc chốc lát là thời gian không thể tưởng tượng được. Mà cái tôi có, chỉ có thể là khoảnh khắc thời gian, như thế tôi là một tồn tại không thể tượng tượng nổi?
Khi tôi nhảy khỏi vũng bùn của quan niệm thời gian kiểu máy móc, vứt bỏ những ngụy biện như đúng mà là sai, nhận thức được tính vô cùng sinh động của tồn tại sinh mệnh, tôi mới sáng tỏ trong lòng.

Tôi là sinh mệnh sinh động nhất trong vũ trụ, trên đường trục thời gian là một quá trình sống và trưởng thành từ đầu đến cuối luôn luôn mở rộng. Tôi vừa nhận thức được những việc phát sinh trong quá khứ không thể trở thành cái mà hiện tại tôi có, lại đem quá khứ xem là sự mở đầu của quá trình sinh mệnh, từ đó trân trọng giá trị đặt nền móng khởi nguồn của nó trong lịch trình của sinh mệnh. Hơn nữa, khi nghĩ lại đặc trưng tính toàn cục của sinh mệnh, tôi phát hiện ra “quá khứ” của tôi cũng quyết định hiện tại của tôi - tôi luôn luôn ở trạng thái trôi đi, hiện tại chẳng mấy chốc đã hóa thành quá khứ, như thế “quá khứ của tôi có thể có ý nghĩa gì cũng sẽ quyết định bởi việc làm hiện tại của tôi. Cũng chính là, tôi luôn luôn không ngừng viết nên lịch sử của mình, sự việc hôm nay đến ngày mai sẽ trở thành việc của quá khứ, muốn cho mọi việc của tôi ngày hôm qua có giá trị thì phi làm sao mỗi một sự việc của tôi hôm nay đều có giá trị.
Tương lai luôn đang mở rộng ở hiện tại, bởi vì hiện tại tôi đang luôn trù tính tưng lai, mỗi một ý nghĩa hiện tại mà tôi tạo nên cũng chính là trải ra và tích tụ cho tương lai.
Như thế, đặt mỗi một khoảnh khắc lúc này vào trong thời gian dài đằng đẵng của tính toàn cục, để cho nó vừa thể hiện quá khứ lại hiện rõ ra tưng lai, khoảnh khắc lúc này không còn là sự tồn tại trống rỗng không thể tưởng tượng được nữa, nó đã trở thành cái thực có đầy đủ nhất nối quá khứ với tương lai của tôi.
Chỉ có lúc này mới có thể nói: tôi đã có khoảnh khắc thời gian. Tôi đã nắm chắc được số phận của mình.
Với tư cách cá thể, tôi được khêu gợi từ quan niệm lịch sử của Gan đi, sinh mệnh là sự tồn tại lấy trần thế làm cơ sở dựa vào trật tự xã hội, cho nên tôi không theo đuổi mức độ tinh thần đến tột độ không ăn uống những thứ ở nhân gian - Tôi không thể vứt bỏ được ăn mặc, ở và đi lại của thế tục. Tôi hoàn toàn có thể đi theo trào lưu “đi xuống biển”. Nhưng tôi cũng có thể tiếp nhận chính những hấp dẫn của sáng tạo văn hóa. Trên thực tế, tôi đang vui sướng xiết bao trong màng lưới văn hóa tự tạo tự kiềm chế. Tôi hiểu sâu sắc rằng một khi tách rời màng lưới văn hóa sẽ có thể thật sự chỉ có hai bàn tay trắng.
Từ trong văn hóa Bandu tôi nhận được, vận động phát sinh vào thời điểm chỉ định và địa điểm chỉ định là thực thể có một không hai. Trong không gian và thời gian vô hạn, tôi không phải chính là một thực thể độc lập như vậy ư? Mặc dù nhỏ bé, nhưng sao lại cản trở sáng tạo văn hóa đặc biệt của tôi? Sinh mệnh của tôi đã diễn biến thành loại sáng tạo văn hóa đặc biệt này, tôi với tư cách là một vật thể mang vật chất văn hóa, thời gian sinh tồn có hạn; còn tôi với sinh mệnh mang tinh thần văn hóa thì sẽ cùng tồn tại với thời gian mãi hàng nghìn năm sau.
Tôi từ trong quan niệm thời gian của vĩ nhân “đều đã qua rồi, được coi là nhân vật phong lưu phải xem hiện tại”, “một vạn năm quá lâu, chỉ tranh giành phút chốc” được tỉnh ngộ triệt để cuối cùng, đã phát hiện sinh mệnh của tôi, bản thể tinh thần của tôi sẽ ở mỗi một khoảnh khắc trên đường sinh mệnh của tôi!

Một đời tôi chẳng qua là dòng thời gian do từng khoảnh khắc tạo nên, sự tồn tại của các khoảnh khắc thời gian khác nhau đã tạo nên toàn bộ sự tồn tại của tôi.
Tôi cho là hoàn toàn không có khả năng nhận thức tính tất yếu của vận động sinh mệnh của mình từng ý nghĩa triết học - Con người không thể nhận thức một cách vô cùng vô tận đối với vận mệnh của mình mà người ta chỉ có thể chịu sự chi phối của tính tất nhiên, con người nhiều lắm chỉ có thể không ngừng nhận thức tính tất nhiên mà thôi.
Nhưng, tôi hoàn toàn có thể nắm chắc mỗi một khoảnh khắc mà bản thân mình sắp sửa gặp một cách tự giác, đối với mỗi khoảnh khắc có một sự trù tính sáng suốt tự giác, đây sẽ là sự trù tính của tôi đối với vận mệnh. Đây chính là điều mà mọi người nói bám chặt thần của số phận.

II- Số phận ném tôi vào một nơi hoàn toàn xa lạ. Trước sự chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi chọn số phận thuộc về tôi

Có một ngày tỉnh lại, tôi đột nhiên phát hiện mình đang sống trong một thế giới gặp được vận may. Tôi đang đứng trước ngàn vạn nẻo đường, tung hoành ngang dọc, thành bại được mất, cũ mới lẫn lộn.
Mật mã của số phận ở đâu?
Tôi hỏi ông trời, trời không trả lời. Tôi lại hỏi đến đất, đất cứ lặng thinh.
Trước chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi lại chẳng biết đâu mà lần nữa, tôi không biết chúng mỗi cái có kết cục ra sao. Huống hồ, cơ may, hoàn cảnh tôi đều không tự chủ để chọn lựa được. Số phận hoặc cần tôi phải chịu đựng thử thách của gió Tây Bắc trên cao nguyên hoàng thổ, cũng có thể để cho tôi bay qua Thái Bình Dưng đến đất khách quê người để mạ vàng, sau đó áo gấm trở về. Một khoảnh khắc trôi qua, một sai lầm nẩy sinh trong khoảnh khắc, tôi không biết tôi sẽ trở thành một con người tôi như thế nào nữa.
Từ nay nghĩ lại quá khứ làm tôi kích động mãi là tôi cuối cùng trong vùng hoang dã mênh mông không ranh giới, từ trong sốt ruột và gắng gượng đến tột độ, đã tìm thấy một niềm tin kiên cường: bất kể thế giới phức tạp lộn xộn bao nhiêu, bất kể đời người đứng trước sự lựa chọn bao nhiêu, sẽ phi chịu đựng bao nhiêu trắc trở và dằn vặt, tóm lại là thế giới mênh mông không có bất cứ cái gì có thể vượt qua vô trật tự mà đạt tới có trật tự, vượt qua quá trình mà chiếm ngay kết qu được. Đời người cũng chỉ có thể
như vậy.
Như thế, tôi chỉ có thể bắt đầu thiết kế đối với số mệnh từ trong gắng gượng vô trật tự, từ trong “khả năng” vô cùng đa dạng, từ trong vô số những cái “có lẽ” tìm ra được một manh mối đạt được có trật tự.
1. Trù tính cơ bản: tôi cảm thấy được tôi là ai.
Muốn trả lời “tôi là ai” đương nhiên là rất khó khăn, mà muốn trù tính số phận của tôi, điều trước tiên gặp phải lại là vấn đề của “tôi là ai”.
Trong văn hiến kinh điển “áo nghĩa thư” của ấn Độ từ 600 năm trước công nguyên, đã đem cái “tự ngã” xem thành hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, khi nó khảo sát tự ngã với quan hệ nguồn gốc tạo thành thế giới liền nêu lên hai câu hỏi tự nhiên vĩnh hằng là “tôi là ai”, “tôi trong thế giới này nằm ở vị trí nào”. Từ nền văn minh ban đầu cổ Hy Lạp, Bamennid, Socrates, Plato của miền bãi biển Aisin, Lão Đam, Trang Chu của hai bên bờ sông Hoàng Hà, đến “Kinh Phệ Đà” của bên bờ ấn Độ dưng, “Thánh kinh” của môn đồ Cơ đốc giáo, bước đến nền văn hóa phục hưng và cách mạng công nghiệp cận đại kích động lòng người, thẳng tới Carxin, Heidegger, Sartre của phưng Tây hiện đại câu trả lời “Tôi là ai” vờn bay đầy trời, làm cho người ta rối mắt. Nhìn thấu sự biến ảo rối ren của nó, bất kể những nhà hiền triết thuộc dạng nào đều không vượt quá giới hạn nhất định như sau - Tôi là một động vật của văn hóa, tôi sáng tạo ra văn hóa và tự tuân theo văn hóa, sự vui vẻ và lo âu của tôi đều nằm trong mạng lưới văn hóa, đồng thời không thể xông ra khỏi ngoài mạng lưới để tự do tự tại.
Đây là kết luận của số phận, đây là kết luận của lịch sử.
Lịch sử đã từng chế giễu rất nhiều người muốn xông ra khỏi mạng lưới văn hóa để tự do tự tại, bao gồm cả vô số những anh hùng văn hóa. Hầu như đồng thời, học phái Sdorger của phưng Tây và Lý Nhĩ, Trang Chu của phưng Đông đều vắt óc nghĩ thầm thoát khỏi mạng lưới văn hóa để đồng nhất với tự nhiên trời đất, hưởng thụ tự do và yên tĩnh. Học phái Sdorger đem “thuận theo tự do để sống” làm hành vi lưng thiện chân chính, Lão Trang thì có tiếng là “vô vi vô tri” có thể “dốc sức vì đạo đến cực độ, một lòng một dạ tuân theo, mọi vật song song tiến hành mình phi tự quan sát nhiều lần”. Trên thực tế như thế nào? Không chỉ sự phát triển của lịch sử hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng của họ, họ trước sau đều không thể phá nổi mạng lưới văn hóa, mà Chinor, Lão Trang bản thân đã là một bộ phận của thủy tổ nền văn hóa của nhân loại đã trở thành một mắt xích trên mạng lưới văn hóa. ý chí tâm lý của Chinor, Kleiande một chút cũng không thể tự do nhẹ nhõm, họ đem toàn bộ luân lý đều buộc lên vai Thượng đế và số phận, cho rằng về luân lý, yêu cầu cao nhất đối với con người chính là phục tùng Thượng đế và số phận: “Dù là nghi ngờ làm tôi lạc hậu hoặc không tình nguyện, nhưng tôi cũng nhất định vĩnh viễn theo đuổi Ngưi (Ngưi tức Thượng đế, số phận)”. Vốn muốn thoát khỏi mạng lưới văn hóa, không ngờ sau khi đi vòng quanh một cái vòng lớn vẫn bị tự mình chui vào trong mạng lưới văn hóa chặt chẽ hn. Lão Trang cũng thế, vốn muốn thông qua “đạo vô vi” xung phá sự ràng buộc của văn hóa để trở về với hoài bão của tự nhiên, lại trước sau chịu sự cám dỗ sâu sắc của tinh thần vĩnh hằng siêu nghiệm, bị tự mình nhốt khóa trong “cửa nhiều điều kỳ diệu” “nhìn không thấy”, “nghe không biết”, “huyền bí thêm huyền bí”. Từ đó có thể thấy mặc dù họ có suy nghĩ phân biệt sâu sắc và chí hướng cao xa như thế nào, về phưng diện thoát ra khỏi mạng lưới văn hóa vẫn hoàn toàn tốn công vô ích. Giống như Tôn Đại thánh, mặc dù nhào lộn một cái đã đi được mười vạn tám ngàn dặm lại vẫn không thể vượt qua được lòng bàn tay của đức Phật Như Lai.
Về sau tất c những người hòng thoát khỏi ràng buộc, ẩn mình trong đào nguyên hoặc ẩn tích trong núi sâu rừng thẳm hoặc say đắm trước bình rượu dưới trăng để được tự do tự tại đều là những kẻ thất bại, họ nhiều lắm cũng chỉ tìm được cái thắng lợi tinh thần nhất thời mà tạm thời tự say sưa một phen biểu lộ: “Dựng lều ở chốn nhân gian, mà không có tiếng ngựa xe ồn ào”, “Hỏi bạn vì sao có thể như thế, lòng tự xa cách đất, người”, trong ý thức sâu kín rõ ràng là “đất này không có bạc ba trăm lạng”. “Rừng sâu người không biết, có trăng sáng lại soi”. Chẳng qua là nỗi thưng cm đặc biệt đối với người ta, không biết và thân thiết hướng về đối với người có thể biết ta. Có thể vứt bỏ “chuông trống cỗ ngon” và “ngựa đẹp áo sang”, nhưng vẫn cố chấp truy hỏi đời mình có đắc ý hay không, trời sinh ra thân tôi liệu có ích hay không, nếu như không cố chấp như thế, làm sao có thể “nhưng muốn say lâu không muốn tỉnh?” Đâu có “vạn cổ sầu” nữa?
Tôi căn bn không có cách nào chạy trốn, chỉ có thể đứng im trong mạng lưới văn hóa. Tự do chân chính của tôi cũng chỉ có thể là tự do trong mạng lưới văn hóa. Còn như trong mạng lưới văn hóa tôi có thể giành được tự do ở mức độ nào, ở ngày nay vẫn là vấn đề kinh tế, liên quan với chính trị rất ít. Trong lĩnh vực chính trị, tự do thường thường sa ngã thành công cụ của một số người có dã tâm, họ mang theo chiêu bài tự do, thậm chí lấy tự do làm lời hứa hẹn, mê hoặc dân chúng dẹp loạn một trật tự nào đó để đoạt lấy quyền lực cá nhân, đến khi mục đích dã tâm đạt được, để giữ sự thống trị của cá nhân ấy, tất nhiên có thể ngay lập tức xây dựng nên trật tự khác, chẳng bao giờ có thể cho dân chúng mà lúc ban đầu họ kích động và từng hứa hẹn có tự do chân chính, tự do c đến dân chúng chỉ làm công cụ để họ đoạt quyền. Xã hội loài người phát triển đến ngày nay, tự do về thực chất vẫn là một khái niệm kinh tế. Xã hội có trình độ sức sn xuất đến mức độ nào thì có tự do ở mức độ đó. Tự do của tôi vĩnh viễn có liên hệ với hoàn cnh kinh tế cụ thể tồn tại của tôi. Trình độ sức sn xuất càng cao, kinh tế càng phát đạt, tự do của tôi mới có thể càng nhiều. Trái lại, trình độ sức sn xuất càng thấp thì tự do càng ít. Mỗi một xã hội đều chỉ có thể đạt được tự do ở trình độ tưng ứng với mức độ sức sn xuất của nó, bất cứ ai cũng không có cách gì vượt hn trình độ này. Bất cứ hành vi nào vứt bỏ hoàn cnh sinh tồn cụ thể đều có thể làm cho tự do chỉ là lời nói suông mà chẳng có chút giá trị nào. Các nhà triết học xem điều này là quy luật tự nhiên hoặc tính tất nhiên. Spinoza trong “Luân lý học”đem tự do diễn đạt thành nhận thức đối với tất nhiên, tự do không phi là thoát khỏi tính tất nhiên mà là nhận thức tính tất nhiên. Heygel trong “Triết học lịch sử” thì lại càng tiến hành kho sát lịch sử cụ thể đối với tự do một cách sâu sắc hn, lần đầu tiên đem thực tiễn dẫn vào khái niệm tự do, cho rằng tự do là dưới tiền đề nhận thức tính tất nhiên thực hiện sự thống nhất cụ thể của chủ thể và
khách thể.

Về phưng diện nhận thức đối với tự do, Mao Trạch Đông dùng phưng thức ngôn ngữ Hán học điển hình đưa ra diễn đạt hoàn chỉnh nhất, Ông cho rằng tự do là nhận thức đối với tính tất nhiên và ci tạo đối với thế giới khách quan. Giữa nhận thức và ci tạo dùng chữ “Và” đề nối liền lại, vừa có thể thừa nhận là hai cái kế tiếp trước sau - nhận thức tất nhiên ở trước, ci tạo khách quan ở sau, giống như sự thể hiện của Mao Trạch Đông từ lâu về bước đi của đời sống tinh thần: trước tiên có nhận thức, sau mới có tin theo, cuối cùng mới có thể thực hiện trên hành động, đối với tính tất nhiên có nhận thức ở trình độ nào mới có ci tạo khách quan đạt được tự do ở trình độ đó; lại có thể đem c hai cái hiểu là đồng thời - nhận thức tất nhiên, ci tạo thế giới chủ quan đồng thời với ci tạo thế giới khách quan (cũng giống như ci tạo thế giới khách quan đồng thời với ci tạo thế giới chủ quan). Hạt nhân của quan điểm tự do của Mao Trạch Đông là: bất kể nhận thức tất nhiên hay là ci tạo khách quan đều lấy cái “tôi” làm chủ thể, tôi ở đây giành được tự do thực tại nhất mà lại biện chứng nhất. Xuất phát từ loại quan niệm tự do thời gian không gian biện chứng này, Mao Trạch Đông xem quá trình phát triển của lịch sử từ vưng quốc tất nhiên sang Vưng quốc tự do, đây là một quan điểm lịch sử tự do vĩnh viễn mở rộng, ông không dùng “thực hiện tự do” làm điểm cực cuối cùng, mà là tự giác nắm chắc tính vô hạn phát triển lịch sử, đem tự do xem là một quá trình phát triển vô hạn: quá trình vận động từ tất nhiên đến tự do.
Nhìn thấu rõ tự do như thế, tôi mới có thể vượt qua hỗn loạn tạp nham, trong mạng lưới văn hóa mới thật sự tìm được phần số phận vốn thuộc về tôi. Mặc dù tôi vẫn không thể tr lời chuẩn xác được trong mạng lưới văn hóa tôi là ai, cũng không thể nhận thức vô tận đối với số phận của tôi, nhưng tôi hoàn toàn có thể ở ni đây - trong quá trình sáng tạo văn hóa của chính tôi cm thấy một cách chân thực tôi là ai. Khonh khắc mà tôi cm thấy tôi là ai, trước tiên tôi giành được sự tỉnh ngộ của lưng tâm và sự bình yên của linh hồn. Bất kể xung quanh hỗn loạn như thế nào, bất kể tiếng ồn xung quanh bốn phía ầm ĩ đến đâu, tôi trước sau đều vững tin vào cm giác của chính tôi - đành là tôi phi sống một cách chân thực, tôi sẽ không thể không hoàn toàn nhấn mạnh cm giác này của mình.

Cứ lấy việc “đi xuống biển”, mốt đang được tôn sùng nhất của nhiều người trong c nước hiện nay để bàn. Trong tình hình hệ thống thị trường của xã hội chưa giành được sự thống nhất hài hòa với hệ thống văn hóa, đang tồn tại sự phân phối không đồng đều, c chế cạnh tranh không hoàn thiện, tôi cm thấy tôi nên dựa vào hệ thống thị trường của xã hội, thế là tôi sẽ vui vẻ đi :”xuống biển”. Tôi cm thấy tôi vẫn phi vững vàng tiến theo hệ thống văn hóa của xã hội, do đó tôi sẽ vui vẻ như trước đây làm công việc sáng tạo của tôi. Như vậy, hoặc là có may mắn để hạ cố đến tôi hoặc thất bại cũng không luyến tiếc lắm, tôi hiểu rõ đây chính là số phận của tôi. Số phận có thể sắp đặt tôi bắt đầu lại một lần, hai lần. Người đen đủi nhất chính là những người không tìm thấy cm giác tốt đẹp của mình. Hâm mộ đi xuống biển lại không dám xuống biển, không đi xuống biển lại luôn luôn nghĩ phi đi xuống biển, đã đi xuống biển lại cm thấy mất một số cái gì đó đâm ra hi luyến tiếc. Đây chính là vì đời người rất không tự do. Anh ta có thể đứng trước c may đã bỏ lỡ lại bỏ lỡ lại, số phận cũng luôn trói buộc anh ta. Xét đến điều căn bn của nó là ở chỗ anh ta không thể cm thấy một cách chân chính anh ta là ai, anh ta để cho mỗi một khonh khắc của sinh mệnh của mình đều trôi đi uổng phí trong do dự và lưỡng lự. Mắt đang nhìn mình từ thiếu niên đến trung niên, chẳng mấy chốc lại từ trung niên đến những năm xế chiều, một đời chỉ có tự than thở trống không.
Tôi quyết không thể như thế. Bắt đầu từ bây giờ tôi sẽ phi có một trù tính c bn đối với số phận của mình, xây dựng nên cm giác chân thực của mình, tìm thấy vị trí nên thuộc về mình.
Xin đừng lo lắng tôi có thể vì cm giác dâng cao mà trượt vào thuyết duy tâm. Cm giác của tôi luôn là cm giác đối với tồn tại, bao gồm cm giác đã có, hiện có và sẽ có. Sẽ có là sự tồn tại của gi tưởng, bao gồm tồn tại tưng lai có thể thực hiện và “tồn tại” tưng lai không thể thực hiện. Cái trước là một loại lý tưởng, cái sau là o tưởng, ý tưởng điên rồ. Nhưng ý tưởng điên rồ của hiện tại - trong cm giác đối với “tồn tại” mà hiện tại cho rằng tưng lai không thể thực hiện thường thường đang ẩn chứa tính sáng tạo, vận may của tôi chưa biết chừng chính sẽ tại chỗ đó.
Cm giác đối với chưa có và sẽ có sẽ là trực quan (ở đây, đối tượng của trực quan chỉ có tính không gian mà không có tính thời gian), năng lực của trực giác là tiền đề sinh ra tư duy mang tính sáng tạo trong kết qu của tư duy có tính sáng tạo, bộ phận có giá trị lý tính có thể chính là khoa học. Thiết kế có tính chất sáng tạo đời người đồng thời làm cho nó có giá trị lý tính là thiết kế cuộc đời của những người mạnh, người thắng lợi, trong đó tràn ngập trí tuệ nhân sinh rộng lớn. Tôi muốn tự giác giành được vận may thì không thể thiếu trí tuệ này.
Trong chặng đường dài từ cm giác đến khoa học, tồn tại là tính có trước, còn khoa học có giá trị thực tế nhất đối với loài người. Triết học duy tâm thì cắt đi phần đầu (tồn tại) mà bắt đầu từ cm giác cũng cắt đi phần đuôi (khoa học) chỉ nhấn mạnh ở giai đoạn trực giác và tư duy. Triết học sinh mệnh, chủ nghĩa trực quan của Baigeson cũng là dừng lại ở đây, lấy trực quan là trên hết, lấy “tự do tinh thần của khách quan” là trên hết. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chú trọng toàn bộ quá trình của sinh mệnh, vừa truy hỏi lý do tồn tại cm giác, cũng truy hỏi kết qu của trực giác và sau tư duy. Tôi kiên trì nắm ở chỗ này quyết không đem mình đặt vào trong một thế giới cm giác trống rỗng một cách cô lập.

Song, đối ứng với thời gian vật lý, trên thực tế tôi chủ yếu sống trong thời gian cm giác, trong thời gian cm giác trôi qua đi tôi thể hiện cm nhận sự tồn tại và vận động của sinh mệnh, việc này trở thành hạt nhân tinh thần mà tôi theo đuổi. Làm thế nào để trong quá trình lâu dài của thời gian cm giác, dùng trạng thái tâm lý siêu việt nhìn thẳng vào giá trị đời người, đây là một trong những vấn đề khó lớn nhất của đời người bày ra trước mắt tôi, tôi dù một khonh khắc đều không có cách nào lẩn tránh nó, tôi cũng không thể trốn tránh nó.
Thế là đối với số phận, tôi bắt đầu trù tính cụ thể thực tế hơn.
2. Quá trình và mục tiêu trù tính: tôi sống trong “lưỡng thê"
Tôi sống trong “lưỡng thê” với ý nghĩa đau khổ và vui vẻ. Tôi là đau khổ, số mệnh tôi nhất định phi tiếp nhận khổ nạn. Tôi đồng thời lại vui vẻ, tôi theo đuổi vui vẻ. Tôi đồng thời phi tri qua hai thể nghiệm tâm lý hoàn toàn trái ngược đau khổ và vui vẻ.
Ham muốn theo đuổi và gắng gượng trở thành toàn bộ bn chất của tôi. Bởi vì tôi là con người tất nhiên có ham muốn và theo đuổi của bn thân mình. Tôi vì thực hiện nó mà một phút cũng không ngừng cố gắng phấn đấu cũng chưa my may từng buông th mình. Do đó, tất c mọi khổ nạn, thất bại và gắng gượng đều sinh ra từ đó. Hn thế chúng từ trước đến sau đi kèm với c quá trình sinh mệnh của tôi. Đây đưng nhiên là một quá trình tràn ngập đau khổ. Tôi dùng vô số lần trắc trở và thất bại để thêu dệt nên mộng thành công. Có người nói tôi lúc này đây đang trong đau khổ và vô vị giống như một con lắc đang đu đưa qua lại. Tôi đang đứng trước đau khổ hai mặt, đau khổ của thất bại, đau khổ của thành công. Bởi vì tôi thật ra không xem thành công làm mục tiêu đời người của tôi, tôi chỉ từ mỗi lần thành công thể nghiệm giá trị của sinh mệnh, từ đó trong khonh khắc vô cùng ngắn ngủi giành được thành công phát ra một chút tiếng cười vui vẻ. Nhưng ngay tức khắc sinh ra một tìm tòi và theo đuổi mới, từ đó lại bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới. Hn nữa, khi mục tiêu mới còn chưa sinh ra, tức là trước khi bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới, tôi luôn cm thấy trống tri và vô vị mà trước đây chưa từng có. Đó sẽ là sự giày vò tinh thần mà thành công đem đến cho tôi.
Cho nên nói, ham muốn và gắng gượng, trắc trở và thất bại, chán ngán và đau khổ đã tạo nên toàn bộ nội dung trong quá trình sinh mệnh của tôi. ý chí kiên nhẫn, sức mạnh nhân cách của tôi, mỗi một chút thành tựu sự nghiệp của tôi đều sinh ra từ trong hàng chuỗi những khó khăn trắc trở như thế. ý nghĩa và giá trị sinh mệnh của tôi cũng chính là thực hiện trong khó khăn trắc trở như thế. Nếu như không có hàng chuỗi khó khăn trắc trở này, hoặc lẩn tránh nó thì sinh mệnh của tôi có thể trở thành hư vô. Tôi muốn sống một cách thực sự, số mệnh nhất định phi chịu đựng hàng chuỗi đau khổ và giày vò này.

Nhưng, mục tiêu của tôi thật ra không phi ở chỗ đau khổ. Tất c mọi việc làm của tôi, tất c mọi theo đuổi, đều là vì một mục tiêu cuối cùng: vui vẻ. Tôi tin tưởng vững chắc rằng đời người cần phi vui vẻ. Vui vẻ phi giống như một bài th. Vui vẻ phi giống như một con suối nhỏ róc rách tuôn đều, chy đến những con sông đẹp, chy đến tận biển c màu xanh biếc, chy đến tận những ni nó không hề hay biết.
ý chí của Tăng Điểm từng nói, được Khổng Tử tán thành, vốn chính là một mục tiêu cao nhất của đời người - Thời tiết cuối mùa xuân, sự thích nghi với mùa xuân đã quen, năm sáu chàng thanh niên, sáu by cậu thiếu niên rủ nhau ra tắm ở sông Nghi, đứng hóng mát ở Vũ Vu đài, sau đó hồ hởi ra về.
Khổng Tử, một đời hong hốt lo phiền, tích cực vào đời, sở dĩ biểu thị lặng im đối với ý chí trị quốc yên bang của mấy đệ tử trước Tăng Điểm trình bày mà lại chỉ độc nhất tán thành chí hướng của Tăng Điểm, thật ra không phi Khổng Tử sa sút nn lòng có ý nghĩ thoát khỏi trần ai, mà ở chỗ ông đã nhìn thấy mục tiêu cuối cùng của đời người là nên vui vẻ. Còn trị quốc yên bang chỉ là thủ đoạn để thực hiện mục tiêu này.
Khi tôi dựng lên mục tiêu này cho mình, tất c mọi việc làm và theo đuổi của tôi vì mục tiêu này cũng đều trở nên vui vẻ, tất c mọi đau khổ trong quá trình sinh mệnh của tôi cũng đều trở nên vui vẻ. Lúc này, tất c mọi cm giác đau khổ đều tan biến thành mây khói. Đối mặt với tất c mọi tai ách và khổ nạn, tôi cũng đều không thay đổi niềm vui, tôi chỉ cm thấy niềm vui sướng của đời người.
Lúc này, tôi mới cm thấy rằng “ăn một giỏ cm, uống một bầu nước, sống trong ngõ hẻm vắng, người khác chịu đựng nổi nỗi khổ đó, thế mà Nhan Hồi vẫn không thay đổi niềm vui vốn có”, vốn là một giới hạn của nhân cách vĩ đại biết bao.
Do đó, bất kể định mệnh của tôi phi gánh chịu bao nhiêu đau khổ, tôi vẫn yêu đời, tôi vẫn nhiệt liệt ôm hôn cuộc đời. Tôi làm cho quá trình của sinh mệnh thống nhất lại với mục tiêu một cách hài hòa. Từ đó tôi sẽ không sống trong “lưỡng thê” nữa. Dù cho khi bi thuyền ngược dòng, trong tất c mọi gian nan trắc trở của thể xác và tinh thần, tôi cũng có thể thể nghiệm được niềm vui sướng của đời người.
Song, đời người là ngắn ngủi. Khi hưởng thụ cuộc đời vui vẻ, nếu như không có giác ngộ của sinh mệnh, đời người sẽ bị một bóng đen to lớn bao trùm. Cái bóng đen này chính là: tử vong.
3. Trù tính cao nhất: Chỗ quy tụ của tôi là cái chết.
Nhịp điệu của tự nhiên làm cho tôi tất nhiên từ trẻ trai đi đến già lão, ban tặng cuối cùng sinh mệnh cho tôi là để cho tôi dập tắt ngọn lửa của sinh mệnh, đi về Thiền quốc.
Chỉ dùng logic của triết học cũng có thể suy đoán: không có cái chết thì không có sự sống. Đời người không có cái chết thì sẽ không có khái niệm của thời gian. Không có cái chết thì giá trị của sinh mệnh cũng sẽ không có
gì để nói. Cái chết đối với đời người vừa là bi tráng, đồng thời cũng là
thiêng liêng.

Chính vì chết là một việc tuyệt đối, thời gian và sinh mệnh mới hiện rõ vô cùng quý báu. Tôi chính là từ trong bài bi ca truy điệu vong linh, cm thấy được sự vô cùng trang nghiêm và hùng vĩ của bn giao hưởng
sinh mệnh.
Đành là tôi tất nhiên phải đến với tuổi già, tôi chẳng có lí do gì mà không vô cùng quý trọng những năm tháng của tuổi thanh xuân, quý trọng từng phút từng giây, quý trọng mỗi khoảnh khắc trong suốt đời người
của tôi.
Đành là tôi tất nhiên phải đi vào cõi chết, tôi không có lý do gì mà không vô cùng quý trọng sinh mệnh, tôi cần phi cố gắng trước khi chết, thực hiện giá trị sinh mệnh của tôi với mức độ lớn nhất.
Tôi từ bụi trần ai của vũ trụ đến, cuối cùng cũng tất nhiên phải trở về nơi đó.

III- Tôi biết tôi không biết. Tôi từ lời nhắc nhở của á thánh Mạnh tử chưa từng quên: Nhược điểm của một người là thích xưng là bậc thầy trước mặt người khác

Với kiến thức cạn hẹp, sự từng trải bình thường, học thức nông cạn, tôi không bao giờ dám hy vọng quyển sách này trở thành bất cứ sự chỉ giáo nào để trù tính số phận. Điều hiến tặng cho bạn đọc nhiều lắm chỉ là một chút cảm giác của cá nhân tôi đối với vận mệnh cuộc đời mà thôi. Bất kể diễn đạt ngôn ngữ của tôi dưới hình thức như thế nào, ví như đại loại là “bạn nên”, xét đến cùng vẫn chỉ là cảm giác của tôi. Tin hay không tin tùy bạn, tuyệt không có ý là “làm thầy”.
Đã là cảm giác của cá nhân, thiên kiến và sai lầm sẽ không thể tránh khỏi. Wetegenstan đã dạy người ta: Một người đối với sự việc không thể nói ra thì nên giữ im lặng. Nhưng trước mắt tôi thật ra không có ai quy định những điều gì có thể nói, những điều gì không thể nói. Thậm chí chính tôi, trước khi nói cũng thật ra không hoàn toàn biết rõ ràng tôi có thể nói điều gì và không thể nói điều gì. Bởi vì những việc có thể nói lại chưa nói, việc không thể nói lại đã nói ra, cũng không thể tránh khỏi. Đương nhiên, cuối cùng tôi cũng chỉ có thể nói ra những điều tôi có thể nói.
Đồng thời, quyển sách này cũng được xây dựng trên cơ sở đọc hàng loạt lớn tư liệu, tôi đã đứng trên vai của nhiều hiền triết vĩ nhân trong ngoài nước xưa nay và nhiều bạn bè chưa nổi tiếng. Tôi cám ơn họ một cách sâu sắc, tôi đã dẫn ra rất nhiều quan niệm và thực tiễn của họ đối với vận mệnh đời người. Cho nên, quyển sách này cũng là nhận thức và cảm thụ của tôi đối với quan niệm và thực tiễn của họ, ở đây vẫn có thể còn có sai lầm.
Như vậy, tôi vừa cầu mong không khí văn hóa khoan dung, vừa cầu mong bạn đọc chỉ ra những thiếu sót và sai lầm.
Để thức tỉnh niềm hưng phấn đọc các vấn đề khác nhau, phong cách hành văn trong sách này không phải là một vẻ, một cách điệu, hầu như là có đủ mọi phong cách pha trộn lẫn nhau - hoặc kiểu dẫn dắt, hoặc có tính biện luận, hoặc có tính kể chuyện, hoặc có tính triết lý, từ đó xét về toàn cục cũng đã hình thành một phong cách đặc biệt của quyển sách này.


--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
BichDu
post Sep 26 2011, 05:29 PM
Post #2


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278
Country










99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 9

22- Khoảnh khắc đi lại với người tính tình không hợp với mình

. Tính tình giữa người với người không hợp bắt nguồn từ tính không
thông của ý thức.
. Bạn không có cách nào nhận thức được chính bạn.
. Người quen cưỡi ngựa hung dữ, cầm cương ngựa khác càng
xem thường.
"Ðời người phải biết mình đã đầy đủ!"
"Tri âm, việc sao khó thế! âm quả thực khó biết, tri quả thực khó gặp. Gặp được tri âm của mình phải nghìn năm mới có một lần chăng?".
Bạn thấy đấy, bạn tri âm sao mà ít đến thế! Người hoàn toàn hợp với tính tình của bạn sao mà ít đến thế! Bạn thử bấm đầu ngón tay để tính xem trên thế giới này có mấy người hoàn toàn hợp với tính tình của bạn? Nhiều người suốt đời không hề gặp được một người tri âm!
Màng ngăn cách giữa người với nhau, tính tình không hợp giữa người với nhau bắt nguồn từ tính không thông của ý thức.
ý thức, nhìn không thấy, sờ không đến, mình cũng không biết ý thức của mình tồn tại ra sao, nó không có hình bóng, không có dấu vết, không có khí, không có mầu sắc, mà lại từng giờ từng phút tồn tại trong thân hình của bạn, ý thức của bạn không bao giờ cùng xáo trộn, cùng lẫn lộn với ý thức của người khác, mà không ai gặp ai cả. Mặc dù có thể dùng ngôn ngữ làm môi giới tiến hành trao đổi ý thức, đó cũng chỉ là sự trao đổi ý thức giả tạm thời của bạn sau khi chắt lọc qua lý tính và cảm tính.

ý thức một khi chuyển hóa thành ngôn ngữ trao đổi với người khác, nó có thể hoàn toàn khác hẳn, liên quan với bản thân ý thức của bạn rất xa vời. Bởi vì không nghi ngờ gì nữa nó cần phải tiếp nhận ảnh hưởng của đối tượng trao đổi, chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh tự thân, chịu ảnh hưởng của quan niệm thế tục mạnh mẽ, chịu hàng loạt ảnh hưởng của nhân tố xã hội và nhân tố văn hóa.
Nó đã không phải là nó nữa!
Hơn nữa, ý thức không chiếm không gian, chỉ tồn tại trong dòng thời gian, một thoáng là mất. ý thức bạn trao đổi với người khác lúc này chỉ đại biểu cho ý thức của bạn lúc đó, không đại biểu cho ý thức tương lai của bạn. Tương lai của bạn lúc đó vẫn là một lỗ trống rỗng. Cái gọi là tính ổn định tương đối của ý thức chỉ là một khái niệm cực kỳ mềm yếu. Lỗ trống rỗng được điền đầy nhờ sự tồn tại sinh mệnh và sự tồn tại ý thức của bạn từ lúc đó trở về sau.
Do đó, bạn không có cách nào nhận thức được bản thân mình. Tính tình của bạn lúc đó không chắc hợp với tính tình trước đó, cũng không chắc hợp với tính tình sau đó.
Như thế thì tính tình của người khác khó hợp với tính tình của bạn, thì cũng là phải lẽ thôi.
Cho nên việc đi lại giữa người với nhau không có cách gì đòi hỏi quá cao tính tình phải hợp nhau. Việc đi lại với người tính tình không giống mình là việc đi lại giao tiếp phổ biến nhất trong giao tiếp nhân tế (giữa người này với người khác).
Chí bất đồng, đạo bất hợp không thể cùng nhau đưa ra được mưu kế cho nhau. Thế thì chỉ có tự mình phong tỏa, đóng cửa nhốt trong nhà không giao thiệp với người khác, mãi mãi vẫn là kiến thức hẹp hòi. Như thế thì bạn là anh nghèo sẽ chỉ mãi mãi làm phận nghèo vậy.
Bạn phải làm thay đổi mình, tham dự vào xã hội, bạn muốn giao tiếp, thì phải giao tiếp với người tính tình không hợp với bạn.
Cơ sở tâm lý thực hiện thành công việc giao tiếp này sẽ là: hiểu đối tượng đang đối mặt với bạn là một người không thể hợp với tính tình của bạn. Anh ta hoặc ở mặt nào đó đi ngược lại bạn, không cùng đứng ở một vị thế với bạn; ở một mặt nào đó không đáng nhòm ngó đến bạn, hoặc hiểu nhầm bạn một cách sâu sắc, thậm chí anh ta có thể trước mặt bạn muốn tỏ ra khôn vặt, muốn làm một âm mưu ngụy kế, hoặc là anh ta giao tiếp với bạn chỉ là có ý lợi dụng bạn một chút, sau khi lợi dụng thì quên bạn luôn hoặc là gác ra một bên, hoặc là qua cầu rút ván, hoặc rõ ràng chính là ?khắc tinh? của bạn...

Nhưng bạn phải đi lại với anh ta, không nên tránh, không nên khép chặt cửa của mình. Bất kể anh ta thuộc người dạng nào, bất kể anh ta không hợp tính tình với bạn như thế nào, bạn đều không cần phải để ý. Bạn chỉ cần nắm chắc một điểm đã là đủ: Bạn và anh ta có tồn tại lợi ích chung không? Tồn tại ở chỗ nào? Ði lại với anh ta lợi nhiều thiệt ít hay là lợi thiệt ngang nhau hay là lợi ít thiệt nhiều?
Lý tưởng cuối cùng của con người, tồn tại cơ bản của con người, việc đi lại giữa người với nhau, xét đến cùng đều ở chỗ theo đuổi lợi ích. Lênin đã từng nói: ?Nếu bạn không giỏi đem lý tưởng và lợi ích của người tham gia đấu tranh kinh tế kết hợp chặt chẽ lại với nhau, như thế thì lý tưởng cao cả nhất cũng sẽ không đáng một xu.? (Lênin toàn tập trang 369, quyển 1).
Ðây thật ra không phải đơn thuần chỉ mưu kiếm lợi, mà là một thiết kế chân thực vứt bỏ hình thức giả dối và rỗng tuếch.
Chỉ cần bạn với anh ta có lợi ích chung tồn tại, anh ta sẽ không làm tổn hại lợi ích của bạn, đi lại với anh ta lợi nhiều thiệt ít, bạn cũng sẽ chỉ hợp tác với anh ta trên điểm này, đi lại với anh ta mà thôi. Bạn không cần phải đi kiêng dè tính tình và phương thức xử thế khác của anh ta, đó là việc của bản thân anh ta không có liên quan gì đến bạn. Không cần phải suy nghĩ nhiều đến thế, kiêng dè nhiều đến thế.
Ðương nhiên, bất cứ lúc nào bạn đều nên hiểu phải quan tâm đến mình như thế nào, không nên ngu xuẩn đến mức rơi vào cạm bẫy của người khác.
Ðương nhiên, có thể bạn sau mấy lần đã từng mắc vào tròng trở nên khôn ngoan hơn, có thể sự thông minh của bạn là học được từ trong lúc mắc vào trong, từ trong ngu xuẩn. Ðó là quá trình của sinh mệnh, không có gì lạ cả. Thất bại vài ba lần, thật ra chẳng có gì ghê gớm. Ðiều đáng sợ là vẫn cứ đóng cửa thin thít không đi lại với người khác.

Trên đời có nhiều người là những người bạn căn bản không muốn giao tiếp, mà bạn vẫn đi lại với anh ta, lại có thể đi lại với anh ta mà lại đi lại thành công, đồng thời làm chuyển biến đối với cách nhìn của anh ta. Có thể đạt được mức độ như thế, thì được xem là bạn có thuật giao tiếp khôn khéo.
Tiến sĩ Malton người Mỹ thậm chí đã nói như thế này: "Thường thường miễn cưỡng mình đi giao tiếp, gần gũi với người mà mình vốn không muốn đi lại, đây là một cách huấn luyện tốt nhất."
Ði lại với người không hợp với tính tình của mình, thậm chí còn trái ngược, đôi khi lại có thể sản sinh hiệu quả đẹp hết chỗ nói. Nghe nói Socrates để tu thân dưỡng tính, nhằm làm trong sạch tinh thần của mình trong những tiếng lải nhải và mắng nhiếc của đám nữ giới độc ác đến chết người, mới lấy một người đàn bà hung hãn, lòng dạ hẹp hòi, ngu đần khó cảm hóa làm vợ. Sau khi cưới, Socrates không thể hưởng thụ tình yêu tế nhị triền miên trong niềm hiền dịu, ngược lại là trong đi lại, giao tiếp với người đàn bà hung hãn này đã huấn luyện được tính bền bỉ và tinh nhanh. Có một lần, sau khi ông ta bị người đàn bà hung hãn này mắng nhiếc cho một chầu, ông ta vốn muốn ra đi khỏi nhà, không ngờ vừa đi ra đến cửa, người đàn bà hung hãn này đem một thùng nước lạnh từ trên cửa sổ hắt vào ông ta. Socrates nhẹ nhàng nở nụ cười nói với bà ta:
"Tôi đã biết từ lâu, sau tiếng sấm tất sẽ có trận mưa rào".
Người ta hỏi động cơ chân thực của ông lấy bà hung hãn làm vợ, ông nói - người giỏi dạy ngựa, bao giờ cũng chọn con ngựa hung dữ để cưỡi, cầm cương điều khiển ngựa khác thì xem thường. Nếu như tôi có thể chịu đựng nổi người đàn bà như vậy, thì trong thiên hạ liệu có còn ai mà lại không sống chung được?
Socrates là người thành công.
Ông đã điều khiển con ngựa hung dữ. Trên thế giới chẳng có mấy người giống như ông đem cuộc sống, đem ?bản thân? chơi ngược thấu triệt đến như thế.
- Ðấy, đại khái có phần công lao thuộc về người vợ ngang ngược hung hãn tính tình ngược hẳn với Socrates.
Bạn có thể làm thử một chút, đi lại giao tiếp, sống chung với một người tính tình không hợp với bạn lâu dài, phát sinh hứng thú đối với anh ta.
- Tinh thần yêu mến người chân thực không dối trá là tinh thần yêu mến người chuyển kẻ thù thành bạn.

23- Khoảnh khắc cảm thấy không biết giao tiếp

. Trở ngại ngôn ngữ chắc chắn là kẻ thù lớn trong giao tiếp giữa người với nhau.
. Một người có nhân cách đẹp, đức tính cao thượng sẽ được khắp nơi chào đón.
Bạn cảm thấy mình không biết giao tiếp, đại thể trên hai tiền đề như sau:
Một là cảm thấy bản thân mình không biết nói năng. Hoặc mồm miệng ấp úng, nói lời không rõ ràng, âm điệu nặng nề, tiếng địa phương quá nhiều, người khác nghe không hiểu. Hoặc là bạn dứt khoát là nói chẳng nên lời, ít nói.
Hai là bạn thật ra không có khiếm khuyết trên, mà lại hay nói, nói năng xuất chúng, tài hoa ngang ngược. Nhưng bạn không thể hấp dẫn được người khác, người ta đều không muốn giao tiếp với bạn. Bạn thường chỉ có thể sống một mình. Bạn nhiều nhất cũng chỉ có thể vì quan hệ công tác, vì bạn có giá trị được người ta lợi dụng mà có vài người đi lại giao tiếp với bạn, ngoài đó ra bạn luôn là một kẻ cô độc một mình.
Ðấy là vì sao? Bạn suy nghĩ? hoài mà vẫn không có lời giải.
Việc giao tiếp giữa người với nhau chủ yếu dựa vào giao tiếp của ngôn ngữ. Trở ngại ngôn ngữ chắc chắn là kẻ thù lớn của việc giao tiếp giữa người với nhau.
Ngôn ngữ sẽ đem bạn định nghĩa là bạn, còn tôi định nghĩa là tôi, sự khác biệt của bạn và tôi, sự khác biệt của bạn với anh ta, hầu như chính là sự khác biệt của ngôn ngữ. Sự tồn tại của bạn hầu như chính là sự tồn tại ngôn ngữ của bạn. Việc đi lại của bạn với người khác, hầu như chính là sự đi lại của ngôn ngữ của bạn với ngôn ngữ của người khác. Những người câm chính cũng dùng ngôn ngữ câm để giao tiếp.
Nếu như không phải là người có ngôn ngữ, thì con người không biết sẽ trở thành một động vật như thế nào nữa. Thiếu ngôn ngữ, loài người thật sự chẳng có cái gì.

Khi giao tiếp với người khác, biết sử dụng ngôn ngữ, có thể ăn nói đĩnh đạc, thao thao bất tuyệt, nói lia lịa, mà lại nhanh nhảu dí dỏm, bỗng chốc làm cho người ta không nhịn được cười, bỗng chốc lại làm cho người ta đăm chiêu suy nghĩ. Bạn sẽ có thể khét tiếng một vùng nhận được quan hệ quần chúng không ngờ tới. Bạn sẽ trở thành trung tâm trong đám đông người.
Hễ là người lạc quan nói khỏe, người ta đều muốn giao tiếp với anh ta, vui vẻ đã lôi kéo anh ta lại cùng nhau. Còn một người ưu sầu ít nói, thì người ta chẳng muốn đến gần.
Người hay nói có thể làm cho cảnh tượng lạnh lẽo ấm áp hẳn lên, sôi động lên tạo nên bầu không khí vui vẻ hài hòa. Còn đối với một người ít lời, không biết nói thì sẽ hoàn toàn ngược lại.
Có người nói: Huấn luyện không thể thiếu để trở thành người thượng lưu là nói ra những lời nói đẹp đẽ và lịch sự. Kỳ thực, có thể nói trực tiếp hơn: Chỉ có những người trước tiên có sẵn ngôn ngữ của những người thượng lưu mới có thể trở thành một người thượng lưu.
Bất kể xưa nay, trong và ngoài nước, người biết nói đều nhận được sự yêu thích của mọi người. Thời Xuân thu chiến quốc và thời Nam Bắc triều Ngụy Tấn ở Trung Quốc, một cuộc nói chuyện tuyệt vời làm cho người ta kinh ngạc, có thể tức khắc làm cho giá trị của một người được nâng lên gấp trăm nghìn lần, làm thay đổi địa vị xã hội của ông ta:
Dương Âm tài nói chuyện, âm điệu tuyệt vời, hòa hợp lại hay, những người đã được nghe, không ai không tôn kính và sợ hãi.
Quy Nhan Phụ hiểu biết một ít tiếng Hồ, đi sứ sang Tây vực đã thuyết phục nổi Hồ Sư Tử về cống dâng, do có công được tấn thăng làm Thái thú Hà Ðông.

Những thí dụ như thế không sao kể hết.
Khi đi lại với người khác, cùng một ý nghĩ như nhau, dùng ngôn ngữ khác nhau diễn đạt ra, có thể sinh ra hiệu quả hoàn toàn trái ngược. Bạn là tinh nhanh, đối phương vừa ý vui vẻ, thích đi lại giao tiếp với bạn, thậm chí tán thưởng bạn; bạn là khù khờ, đối phương giận dữ, buồn rầu, từ chối không đi lại giao tiếp với bạn, thậm chí chửi mắng bạn.
Thời trung thế kỷ, phương đông có một Quốc vương ban đêm nằm mơ thấy mình răng bị rụng đầy cả miệng, hôm sau vào triều hỏi các quan giải mộng.
Quan giải mộng A nói: "Bẩm Quốc vương, mộng này ngụ ý tất cả mọi người thân của Ngài đều sẽ chết trước Ngài, không có một ai có thể thoát."
Quốc vương nghe xong không vui, tiếp đó giận dữ bèn lệnh cho người đánh A 100 gậy.
Quan giải mộng B nói: "Bẩm Quốc vương, mộng này ngụ ý Ngài so với tất cả mọi người thân của Ngài đều trường thọ và có phúc hơn"?.
Quốc vương nghe xong gật đầu, tiếp đó vui mừng khôn xiết bèn lệnh cho người thưởng B 100 đồng tiền vàng.
Ý tứ của hai quan đoán mộng A và B đều hoàn toàn như nhau, nhưng khi diễn đạt dùng lời lẽ không như nhau, đã được hai kết quả hoàn toàn ngược nhau.
Ngôn ngữ một điều kỳ diệu biết bao nhiêu!
Nhưng, trong đời sống quả thực cũng có sự thực như thế này tồn tại: Có một số người đích thực biết khéo nói, giỏi biện bạch, mồm mép dẻo quẹo, nói lên tiếng nói kêu leng keng, giống như xe chạy xuống dốc, kỹ xảo ngôn ngữ có thể gọi là ở trên hết, nhưng chính lại là quan hệ quần chúng không tốt.
Vì sao?

Trong giao tiếp giữa người với người, việc sử dụng ngôn ngữ không những chỉ là một vấn đề kỹ xảo và thao tác, điều quan trọng còn ở chỗ nội dung của ngôn ngữ và thành ý.
Bạn muốn thực hiện quan hệ nhân tế (tức quan hệ giữa người với người) thành công, cần phải làm cho nội dung ngôn ngữ của bạn ôn hòa lương thiện, tràn ngập tình cảm tốt đẹp, mà còn phải tràn ngập lòng chân thành của bạn nữa. Không thể tùy tiện dùng lời ác độc để làm hại người khác (bất kể người đó là ai), không thể nhạt nhẽo vô vị, không thể làm điệu xảo trá. Nếu không thì, bất kể bạn kỹ xảo và thao thác phong phú bao nhiêu cũng không thể làm cho đối phương giao tiếp thích lắng nghe, không thể có cách nào thực hiện được mục đích giao tiếp của bạn. Ngôn ngữ thắm đượm tình người lương thiện và tốt đẹp, thậm chí còn có công hiệu làm trong lành và mỹ hóa bầu không khí giao tiếp, tuyệt vời đến khó tả nữa.
Trong biển người mênh mang cũng còn tồn tại hàng loạt những người vụng về lời nói nhưng nhân duyên cực tốt. Anh ta có thể giống như nam châm thu hút nhiều người xung quanh vui vẻ đi lại, giao tiếp với anh ta.
Tôi có quen một bạn trẻ lời nói cứ ngắc ngứ, đến nỗi anh ta và cả người khác đều cảm thấy rất rõ khả năng nói năng của anh ta rất tồi. Từ nông thôn vào đại học, học nghiên cứu sinh, làm việc ở thành phố trước sau đã hơn mười năm, vẫn cứ nói một giọng tiếng địa phương, nếu không phải là người đồng hương thì không tài nào hiểu nổi. Hầu như anh ta chẳng có cách nào nói chuyện được ở những nơi công cộng. Ðôi khi nói chuyện vui với người khác, còn cần vợ ở bên cạnh để phiên dịch - dịch những tiếng thổ âm thành tiếng phổ thông, trở ngại về ngôn ngữ này không thể không được xem là khá nặng nề. Nhưng quan hệ quần chúng của anh ta lại cực kỳ tốt, bạn đồng nghiệp ai ai cũng thích anh ta, trẻ con trong cơ quan đều rất thích và chơi với anh ta, các bạn học cũ đều rất muốn cộng tác với anh ta.
Ðó là vì sao?
Một loại ngôn ngữ khác của anh ta - tác dụng của ngôn ngữ động tác.

Người ta từ một nụ cười của anh ta, từ khuôn mặt hồn nhiên vui vẻ của anh ta, từ một động tác thân thể nho nhỏ của anh ta, từ những cách đối nhân xử thế của anh ta khi cộng tác, đều nhận ra tinh thần thân ái, hòa nhã và vui vẻ của anh ta, do đó đã lôi cuốn được sự gần gũi của nhiều người.
Anh ta đã dùng ngôn ngữ động tác và tinh thần tốt đẹp để bù đắp lại những khiếm khuyết của ngôn ngữ trên cửa miệng của mình.
Từ đó ta thấy, tinh thần của một người trong giao tiếp nhân tế có ý nghĩa quyết định then chốt.
Một người phẩm cách tốt đẹp, đức hạnh cao thượng sẽ được chào đón khắp nơi. Còn một người chỉ toan tính cá nhân mình, không hề quan tâm một tí chút đến người khác, tất nhiên sẽ bị phỉ nhổ khắp mọi nơi.
Cho nên, khi phát hiện thấy mình không biết giao tiếp, cho dù bạn học nghệ thuật giao tiếp tinh thông bao nhiêu, nếu như không từ nhân phẩm và đức hạnh nâng cao mình lên, thì vẫn chẳng giúp được việc gì.
Bạn thấy phàm là những người tư lợi, bụng dạ hẹp hòi, ghen tỵ, không bằng lòng tốn thời gian làm việc hộ người khác, không thích những cái thoải mái của người lớn tuổi đều là những người đóng cửa ngồi trong nhà, không thể có bạn bè, không thể nhận được sự giúp đỡ của bạn bè. Bất kể tài năng của anh ta to lớn đến đâu, năng lực mạnh đến đâu, khả năng nói năng tài giỏi đến đâu, cũng không thể thu hút được bạn bè.
Yêu mến người khác, giúp đỡ người khác, lấy thành tâm thành ý đối xử với người, thì mọi người đều muốn giao tiếp với bạn. Trong giao tiếp bạn cũng sẽ có thể dần dần trở nên khôn khéo hơn.

24- Khoảnh khắc cần nhờ vả người khác

. Người ta có thể thành người, xã hội có thể trở nên xã hội, chính là kết quả của sự cầu giúp lẫn nhau của mọi người.
. Chỉ có dưới sự giúp đỡ của người khác mới có thể thực hiện được cái của mình.
. Xây dựng lòng tin cầu mong người khác có ba điều...

“Vạn sự bất cầu nhân”
Một câu nói dối xảo trá. Cho rằng đem lời nói dối này làm lời tuyên ngôn có thể tăng thêm vẻ hào khí, làm cứng rắn tính ngông nghênh, mà không biết những người tinh đời đều rõ ràng câu nói này ngược lại là phát ra từ tâm lý lo sợ sâu thẳm. Lo sợ nhờ người không thành, lo sợ nhờ vả người khác sẽ mất thể diện, sợ nhờ vả người khác bị người ta coi khinh. Quá quan tâm đến mình mà dẫn đến lo sợ, không dám nhờ đến người khác, và lại vẫn không có cách gì làm được việc nhờ vả người khác.
Con người như vậy chỉ có thể trong hai cảnh khó giày vò mình.
“Vạn sự bất cầu nhân”, một câu nói ngu xuẩn không có cách gì để thực hiện. Phát ra từ tâm lý đóng cửa ngồi nhà hẹp hòi, không biết trời cao đất dầy, không biết những điều cơ bản đối xử của con người, không biết thế giới bên ngoài đẹp đẽ biết bao nhiêu. Chỉ nhìn thấy sự tồn tại tự thân như là một đống thịt. Không biết cho dù sự tồn tại của đống thịt này cũng là sự tồn tại của quan hệ xã hội, không thể không nhờ vả người khác.
Phía sau “Vạn sự bất cầu nhân” còn có thể che giấu một tâm lý tự tư: người khác không nên đến nhờ tôi.
Có một quyển sách, có tên là “Vạn sự bất cầu nhân”. Tôi không biết bạn sau khi mua cuốn sách này, xem xong các vấn đề nói ở trong đó (đây đã là cầu nhân rồi) liệu cũng sẽ vạn sự bất cầu nhân chứ? Bạn đại khái làm không nổi, sau khi mua cuốn sách này vẫn phải cầu đến người khác. Mỗi một người bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu đều phải giao tiếp với người khác, sử dụng sản phẩm lao động của người khác (sản phẩm tinh thần và vật chất), không thể không nhờ người khác được.
Người ta có thể thành người, xã hội có thể trở nên xã hội chính là kết quả của việc cầu giúp lẫn nhau của mọi người. Trong nguồn gốc của con người sẽ kiên trì giữ một tập tính không thể thay đổi, không hề lung lay - Giúp đỡ người khác và mong được người khác giúp đỡ.
Người, bất kể là người như thế nào, người phương Ðông hay người phương Tây, người có năng lực hay người bình thường, người thông minh hay người ngu dốt, người thượng lưu hay người hạ đẳng, chỉ khi bạn được người khác giúp đỡ và giúp đỡ người khác, mới có thể sinh tồn.
Người ta đầu tiên nhận được sự giúp đỡ của mẹ anh ta. Anh ta chỉ ký sinh trong bụng mẹ mới có thể phát triển thành hình, mới có thể tồn tại con người anh ta.

Từ bụng mẹ ra chào đời lần đầu, không có một chút năng lực gì, khả năng tự sinh tồn của bạn so với nhiều động vật khác kém rất nhiều. Nếu không nhận được sự giúp đỡ của người khác, bạn sẽ chết ngay tức khắc.
Tất cả mọi cái bạn nhờ dựa vào để sinh tồn, bạn sở dĩ có thể trở thành một con người thuộc thời đại bạn đang sống như thế, bao gồm việc ăn mặc, ở giáo dục văn minh, tự phát triển, tự thực hiện v.v... Không một cái nào không dựa vào toàn bộ lịch sử văn minh nhân loại, dựa vào toàn xã hội, dựa vào toàn bộ môi trường xung quanh bạn, dựa vào tất cả mọi người xung quanh bạn.
Tiền đề tất yếu thực hiện sự dựa này là: giúp đỡ người khác, cống hiến cho người khác - cống hiến cho toàn xã hội, cống hiến cho toàn bộ môi trường xung quanh, cống hiến cho tất cả mọi người xung quanh.
Cống hiến cho người khác và dựa vào người khác tạo nên thế cân bằng của đời người. Chỉ có đạt được sự hài hòa thống nhất của hai cái đó mới có thể thực hiện được sự tồn tại của chính bạn.
Bạn muốn phát triển cá tính của mình, thực hiện việc theo đuổi của mình. Chỉ có đem cá tính và việc theo đuổi của mình hòa vào trong sự hài hòa của hai việc cống hiến cho người khác và dựa vào người khác.
Ðương nhiên, bất kể là cống hiến cho người khác hay là dựa (xin giúp đỡ) vào người khác, trong toàn bộ quá trình này chắc chắn đều tràn đầy các nhân tố hạn chế mình. Hạn chế mình và phát triển mình tạo nên một cặp mâu thuẫn. Có thể cái hạn chế bản thân này không lợi cho việc phát triển bản thân bạn, đối với việc phát triển cá tính bản thân bạn không có giá trị.

Song, bạn cần hiểu rằng: giúp người chính là tự giúp mình, cho người khác thuận tiện chính là cho mình thuận tiện.
Bạn cần hiểu rằng, nếu như việc dựa của người khác không được bảo đảm, nếu như cá tính của người khác không được thực hiện, thì việc tự thực hiện của bạn cũng sẽ thành một lời nói xuông, cá tính của bạn cũng sẽ không triển khai nổi.
Câu kết luận chỉ có thể là: "Chỉ có dưới sự giúp đỡ của người khác, mới có thể thực hiện được cái của mình","Chỉ có trong liên hợp với "người khác" Việc tự thực hiện của bạn mới có thể được bảo đảm" (Lời của Goldsden - Ðức).
Có thể ý của cái gọi là ?không cầu nhân? của bạn thật ra không ở tầng thứ tư duy triết học, cũng không nằm ở tầng thứ trừu tượng của sự tổng hòa người có thể là người, nhưng người còn là quan hệ xã hội, bạn chỉ trong xã hội thế thường, không muốn cầu mong người khác phát hiện, dung nạp hoặc cho phép mình, không muốn cầu xin người khác vì mình làm một chút gì đó vốn là việc ngoài phận sự của anh ta, không muốn cầu xin người khác mở ra cho bạn một chút thuận tiện...
Việc này thật ra không có mâu thuẫn với những cái trước. Bạn đang sống trong thế tục, lại không có cách gì trốn tránh thế tục. Bạn không có cách gì không cầu đến người khác. Chỉ là, bạn cần phân biệt một điểm.
Việc mà bạn cầu xin có hợp pháp không, có chính nghĩa không.
Ðành là bạn đang sống trong xã hội thế thường, những việc bạn cầu xin phải phù hợp với quy phạm đạo đức và quy định pháp luật của xã hội này, không thể cầu xin người khác làm cho bạn một việc phạm pháp, phạm kỷ luật, cũng không thể cầu xin người khác làm những việc phi phận sự vốn không thể thực hiện được. Nếu không thì, cầu xin người như thế, kỳ thực là làm khó cho người khác, hại người khác, thậm chí giết người ta. Người mà bạn nhờ nếu chịu không nổi sự cám dỗ mạnh mẽ của bạn, thay bạn làm những việc phi phận sự, những việc không chính nghĩa, những việc phạm pháp phạm kỷ luật, lương tâm của cả hai bên đều chịu nhơ bẩn, đến cuối cùng người đó có thể rất khó xử, hoặc trên thực tế sẽ bị bạn hại, bị bạn giết. Bản thân bạn cũng không thể có kết cục tốt đẹp.
Bạn không yêu cầu làm những việc như thế, đương nhiên là sáng suốt.
Ngoài những điều đó ra, bạn hoàn toàn có thể dưới tiền đề đối phương có thể làm được, mạnh dạn yêu cầu anh ta giúp đỡ. Không nên sợ làm phiền, không nên sợ va chạm, không nên sợ mất cái gọi là thể diện của bạn.
Lòng tự tin của bạn xây dựng trên ba điều: một là những việc bạn yêu cầu là quang minh chính đại, không phải là những mong ước phi phận sự, không vi phạm đạo đức và lương tâm, không phạm pháp và phạm kỷ luật; hai là thái độ cầu mong người khác thành khẩn trong sáng quyết không thể trả giá bằng việc hy sinh nhân cách; ba là bạn phải tính toán đầy đủ đến việc đối phương có thể làm được, thời gian và tinh lực, năng lực và hoàn cảnh của anh ta đều có thể thực hiện được lời thỉnh cầu của bạn.
Có được 3 điều này, bạn sẽ có thể đi cầu xin người khác được rồi.

Có hai phương thức thao tác cơ bản nhất để cầu xin người khác: trực tiếp và gián tiếp - Trực tiếp mặt đối mặt đề xuất việc thỉnh cầu, trao đổi trực diện. Nói thẳng không che giấu, chân thành thẳng thắn gặp nhau trình bày những yêu cầu của mình. Hoặc phương thức quanh co, từ cái này đến cái khác, chuẩn bị bền bỉ, chuẩn bị thất bại, sau thất bại tiếp tục không bỏ, tiếp tục theo đuổi.
Có việc cầu xin người khác cần phải đặt mình vào đó để suy nghĩ thay cho họ, liệu anh ta làm có khó không, mức độ khó khăn có lớn không, liệu có thể khắc phục được không. Liệu có thời gian, có tinh lực, có năng lực thay bạn làm được không. Có cần chi ra vốn liếng hay không. Có phải là việc thuộc về chức phận của anh ta không. Ðối với mỗi tình tiết nhỏ trong đó đều phải thiết kế rõ ràng. Bạn cần phải căn cứ các tình hình khác nhau, căn cứ mức độ quan hệ giữa bạn với anh ta, đưa ra sự sắp xếp làm cho cả hai bên thu được cân bằng. Ví như bạn yêu cầu người khác thay bạn làm những việc ngoài phận sự của anh ta, nói chung không nên để cho đối phương làm không công cho bạn, thậm chí còn phải hao tốn tiền của thay cho bạn, còn bạn trái lại thì đến một lời cám ơn cũng tiếc.
Hãy tự thả mình để thực hiện tốt hơn việc mình bạn có thể mạnh dạn cầu nhờ người khác, đi cầu nhờ người khác một cách đúng đắn.




--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người   Sep 26 2011, 04:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 2 1- K...   Sep 26 2011, 04:56 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 3 4- K...   Sep 26 2011, 05:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 4 7- K...   Sep 26 2011, 05:06 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 5 10- ...   Sep 26 2011, 05:09 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 6 13- ...   Sep 26 2011, 05:22 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 7 16-K...   Sep 26 2011, 05:25 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 8 19- ...   Sep 26 2011, 05:27 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 9 22- ...   Sep 26 2011, 05:29 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 10 25-...   Sep 26 2011, 05:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 11 28-...   Sep 26 2011, 05:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 12 31-...   Sep 26 2011, 05:50 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 13 34-...   Sep 26 2011, 05:52 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 14 37-...   Sep 26 2011, 05:55 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 15 40-...   Sep 26 2011, 05:57 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 16 43-...   Sep 26 2011, 05:59 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 17 46-...   Sep 26 2011, 06:02 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 18 49-...   Sep 26 2011, 06:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 19 52-...   Sep 26 2011, 06:07 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 20 55-...   Sep 26 2011, 06:10 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 21 58....   Sep 26 2011, 06:28 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 22 61....   Sep 26 2011, 06:31 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 23 64....   Sep 26 2011, 06:36 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 24 67....   Sep 26 2011, 06:39 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 25 70....   Sep 26 2011, 06:41 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 26 73....   Sep 26 2011, 06:43 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 27 76....   Sep 26 2011, 06:46 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 28 79....   Sep 26 2011, 06:48 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 29 82....   Sep 26 2011, 06:51 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 30 85....   Sep 26 2011, 06:53 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 31 88....   Sep 26 2011, 07:01 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 32 91....   Sep 26 2011, 07:03 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 33 94....   Sep 26 2011, 07:05 PM
BichDu   99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trang 34 97....   Sep 26 2011, 07:07 PM


Reply to this topicStart new topic

 



Lo-Fi Version Time is now: 21st July 2025 - 09:09 PM