![]() |
![]() ![]() |
![]() |
![]() ![]()
Post
#1
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Thép Đen (Chương 1 -- 42) Tâm tư khi in lại Thép Đen Năm 1985, tôi viết xong hai tập hồi ký Thép Đen I & II. Hai năm sau mới tìm được nhà in và phát hành. Năm năm sau Thép Đen tập III mới ra đời. Từ khi Thép Đen I & II được in đến nay đã 15 năm. Trong thời gian đó phần vì sức khoẻ, phần vì gánh nặng gia đình, tôi hầu như không viết lách gì, cũng không sinh hoạt báo chí gì cả. Nhưng thật ngạc nhiên, cứ thỉnh thoảng tôi nhận được một lá thư độc giả nói về Thép Đen. Cả thảy có hơn 300 lá thư. Đài phát thanh Việt Ngữ Quê Hương ở Bắc Cali, Đài Sống Trên Đất Mỹ ở Nam Cali... cho đọc Thép Đen. Có cả những đài cho đọc mà tôi không được biết, chỉ biết do thính giả quen. Bây giờ thì ngoài sách Thép Đen, còn có cả băng audio và đĩa CD Thép Đen nữa. Trong hân hạnh ấy, tôi tự hỏi làm sao mà Thép Đen được đón nhận như vậy? Trước và sau Thép Đen có biết bao hồi ký về lao tù và thời cuộc. Có nhiều bí mật chính trị được phanh phui. Bao nhiêu vị tướng lãnh thuật lại những giai đoạn gay go của đất nước. Bao nhiêu nhà văn tên tuổi ghi lại những cảnh sống tù đầy mà nếu không có văn chương tài năng, khó có thể nói lên những trạng huống cũng như cảm xúc day dứt và cùng cực. Trong khi đó tôi chỉ là một điệp viên không tên tuổi, thi hành một công tác giới hạn, hầu như bị bịt mặt trước thời cuộc, cũng chưa bao giờ viết văn, và ngoài Thép Đen cũng chưa viết gì đáng kể. Hỏi bạn bè, mỗi người cho một ý kiến. Cuối cùng tôi đoán rằng, ngoài một số yếu tố về văn mà Thép Đen cùng góp phần với các tác phẩm khác, có lẽ tính xác thực một cách mộc mạc của Thép Đen đã lôi cuốn độc giả suốt mười mấy năm nay chăng? Có độc giả gửi thư sửa cho tôi số nhà ở phố Hàng Bạc. Có người nhận là vợ của một trung tá cho tôi biết rõ nhiều chi tiết của sự việc ngày ấy v.v... Nhiều độc giả hỏi cô Vân bây giờ ra sao? Nếu các độc giả muốn biết về cô Vân ra sao một phần, thì tôi muốn biết đến một trăm phần, và không phải chỉ có cô ấy mà là tất cả cảnh cũ người xưa của 40 năm trước. Tôi mơ ước có một ngày được về rờ những bức tường xà lim, cái cùm chân và cùm mồm. Tôi khát khao được nhìn thấy cô Vân để tìm xem cô còn những nét gì ngày xưa, và cô còn nhớ tôi không. Tôi muốn được tay bắt mặt mừng với những bạn tù, nếu họ còn sống, để ôn lại những ngày bị đầy đọa trong 2 kiểu tù đầy chắc chỉ còn sót lại cuối cùng trong bước tiến hóa của con người nhân tính từ thế kỷ này. Đã gần 20 năm, tôi chưa về được. Nhưng may cho tôi, có một vị linh mục trẻ và một bạn trẻ độc giả đã lần theo giai đoạn của Thép Đen để đến tận nơi, ghi lại bằng hình ảnh, và quí nhất một anh chị bạn đã gặp “người muôn năm cũ”, của đất Hưng Yên nhiều mầu mỡ, còn thu vào băng hình video mang về cho tôi. Xin quý vị tha lỗi, nếu tôi nói rằng, không ai có thể hiểu hết được tôi sung sướng đến mức độ nào! Có đến vài tháng trời, tôi như sống trở lại những ngày xưa ấy, chỉ trừ không có cái xà lim và không có cùm. Cho nên, một phần để đáp lại sự đón nhận của độc giả, một phần Thép Đen những lần in trước đã không còn, tôi quyết định cho tái bản với sự bổ sung nhiều hình ảnh mới có được. Một điều ngạc nhiên cho chính tôi là, cũng như viết văn, tôi chưa hề vẽ bao giờ, vậy mà chỉ bằng trí nhớ, tôi vẽ được cái cùm mồm, cùm chân, xà lim... trong khi viết Thép Đen gần giống như cái hình chụp bây giờ, cả về hình dáng cũng như kích thước. Vậy, chính vì tính xác thực tạo nên sự hấp dẫn và thuyết phục cho Thép Đen thì lần tái bản này, tôi hy vọng có thể góp thêm vào sự xác thực ấy. Sau hết, tôi xin cảm tạ vị linh mục trẻ, anh chị bạn thân và một độc giả thanh niên nhiều nghĩa tình. Đã giúp tôi giải tỏa được phần nào nỗi niềm trong lòng tôi. Boston ngày 29 tháng 10 năm 200 Hồi Ký Đặng Chí Bình This post has been edited by M&N: Dec 20 2010, 02:10 PM |
|
|
![]()
Post
#2
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Tựa
Trong xà lim Hỏa Lò của Việt Cộng, người tù bị cùm hai chân trên bệ xi măng, bề ngang chừng 65 phân. Cùm sắt dầy và lạnh, được đóng đai kiên cố để nghiến chặt cổ chân của nạn nhân. Hai tay bị xiềng ngược ra sau, nên tù nhân phải nằm nghiêng. Và dịch, lết ra mép sàn xi măng để giải quyết nhu cầu vệ sinh, phân rơi vãi tung toé ra khỏi mặt bô đặt dưới đất. Ngày này qua ngày khác, nạn nhận bị liệt cả hai chân, và sống trong hôi thối ẩm mốc của xà lim như một con thú. Nhưng nạn nhân còn cái mồm, nghĩa là còn được một chút tự do có giới hạn của những tiếng thều thào, những lời rên xiết, hay những tiếng la hét chưởi rủa. Và khi đó, một vật dụng kỳ quái tượng trưng cho nền dân chủ ưu việt của chế độ Cộng Sản mới được đem ra áp dụng. Đó là cái cùm mồm. Bằng sắt, có bắt đinh ốc và lò xo, để khóa cứng hàm nạn nhân. Để người tù không thể chửi chế độ, chưởi lảnh tụ hay la hét gì được nữa. Người tù đã nêu đích danh Hồ Chí Minh ra chửi, ngay giữa Hỏa Lò Hà Nội, để mong được giết, hoặc được bắn, để sớm chấm dứt cảnh dở sống dở chết của mình. Nhưng Việt Cộng, chúng không nóng ruột hấp tấp như vậy, chúng đã phát minh ra cái cùm... mồm. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Câu nói mới thấm thía và khốn nạn làm sao! * Trong dãy xà lim, tù nhân được một con chuột nhắt, gầy bé như ngón tay, chui vào thăm. Trong tù, ngoài đá, mồ hôi và máu kết đen trên nền xi măng, còn có gì để quyến rũ một con chuột? Vậy mà con chuột đã chui vào, bị bắt, chạy thoát, rồi ít bữa sau lại bò vào. Vì ở bên ngoài, trong vùng tự do của súc vật, nó đói. Trong nhà tù, nó con hy vọng mong manh là tranh hạt cơm với người tù bị xiềng, bị liệt. Mỗi ngày, người tù để dành vài hạt cơm cho người bạn bốn chân này. Đấy là cõi giải thoát của người tù, một chút tình cảm san xẻ với một con vật xấu số, để thấy là mình vẫn còn sống. Con chuột nhắt này cũng có tội, nó đã bị tên công an quản giáo lấy chân di chết. Trong Hỏa Lò tù nhân không có một sự giải thoát nào, dù chỉ bằng cách kết bạn với một con chuột nhắt đã bị bẻ răng. Không có gì quí hơn độc lập tự do. Câu nói mới hiểm độc và ghê khiếp chừng nào. * Cũng trong Hỏa Lò, tù nhân được biết đến một người đã có hình ảnh nổi tiếng thế giới. Người anh hùng Điện Biên, trong Đại đội năm xưa đã hồ hởi cắm lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Bộ Chỉ Huy của de Castrie. Anh đã kết thúc cuộc đời vẻ vang của anh trong Hỏa Lò, như một tù chính trị. Tội của anh là đã lầm tưởng những điều Việt cộng nói là sự thật. Không, điều đó chưa phải là một cái tội. Tội của anh là đã nêu lên câu hỏi về sự thật đó. Người bộ đội gốc tiểu tư sản yêu nước này, là một điển hình của biết bao người khác đã vỡ mộng và chết kẹt, giữa những điều đảng nói và những điều đảng làm. Bị nghiền nát không âm vang. Trong Hỏa Lò, điều ghê rợn nhất chính là sự im lặng. Đời sống im lặng và cái chết im lặng. Tất cả đều âm u một mùi tử khí của nghĩa địa. Và, khác biệt giữa sự sống và cái chết có khi chỉ là một tiếng thở nhẹ trong xà lim số 7, không ai hay biết. Làm sao con người có thể nghe thấy cái chết khi bị bao vây giữa đám quỷ sống. Cũng vì vậy, dù chẳng được ai nói, chỉ qua những dấu vết còn ghi trên mặt đá, người tù cũng được biết nơi đây đã có thời cùm hãm Thụy An. Nhà văn nữ một thời nổi tiếng vì cái chết tức tưởi của nhà cách mạng Đỗ Đình Đạo. Cũng tưởng là mình có công với chế độ. Trong Hỏa Lò Hà Nội, có rất nhiều người đã tưởng lầm như vậy. Họ là cán bộ, là đảng viên, là thường dân, là trí thức... Họ là chiếu rọi của xã hội bên ngoài, với những điển hình kinh hãi như dưới một ống kính hiển vi. Chỉ vì tưởng lầm. * Tác giả thì không nhầm lẫn về bản chất chế độ. Ông là người đã di cư vào Nam thời Genève. Ông được huấn luyện bởi Cục Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để tung ra Bắc hoạt động. Ông là một điệp viên, một trong những chiến sĩ của bóng tối, đã tìm ra tới Hà Nội, để thi hành những điệp vụ, cho đến nay vẫn còn được giữ bí mật.. Công tác vừa hoàn tất, thì ông bị bắt. Năm đó là năm 1962, thời mà miền Nam chúng ta vẫn còn mù mờ về thực trạng miền Bắc. Mười tám năm tù đã cho ông một kinh nghiệm hiếm có. Ông đã sống, và đã thấy tận mắt với cái nhìn tỉ mỉ, những cảnh tượng, tưởng chỉ có thể xảy ra trong trí não một người bất bình thường. Một cuốn phim kinh dị được dựng lên bởi nhiều tên đạo diễn bịnh hoạn. Toàn thể chế độ Việt cộng, và trong đáy sâu của Hỏa Lò, đời sống lao tù Việt cộng, và kết quả những phát minh ghê khiếp nhất. Nếu sự thực có vượt khỏi trí tưởng tượng của chúng ta, chỉ vì chúng ta đánh giá sai chế độ Cộng Sản, đánh giá sai cái bệnh quỷ quái của chúng. Điều đáng nói ở đây, tác giả Đặng Chí Bình, bút hiệu hay bí danh điều đó thực không quan trọng, đã không đi vào một cuộc thi đua kinh tởm. Nghĩa là không phải nhớ lại, hay nặn ra những chi tiết ghê người nhất. Sự thật bình thường vốn đã đủ làm ta khiếp hãi... Tác giả Đặng Chí Bình không phải là một nhà văn. Ông chưa khi nào cầm bút viết văn. Và, chính như ông tâm sự “Trước sau gì tôi cũng chỉ là một kẻ bất tài, thất bại, chẳng có gì đáng kể lại cho người khác”. Ông chỉ bị thúc giục phải thực hiện một bản di chúc sống cho những người hiện vẫn kéo lê kiếp sống trong lao tù Việt cộng. Ông phải viết để nhắc nhở mọi người là dưới ánh mặt trời, vẫn còn một cõi mờ mịt u tối của chế độ Việt cộng phi nhân. Ông muốn thắp một ngọn nến nhỏ để soi vùng quỷ dữ, để vuốt mắt những người đã gục ngã vì đại nghĩa dân tộc, để vuốt ngực cho những người đang ứa máu bầm gan trong gông cùm Việt cộng. Chính vì ông không muốn làm văn chương, mà chỉ viết theo ký ức được lần giở như tháo dần một cuộn chỉ từ đầu tới cuối, hồi ký của ông mới làm ta khiếp sợ. Tất cả ngôn ngữ ông dùng, lối nhìn lối nói, và cả cách đem chính mình ra hồn nhiên châm biếm. Tất cả bút pháp của ông đều phản ảnh một điều: Ông nghĩ sao, và nhớ thế nào thì viết ra như vậy. Có cái gì đó làm ta muốn run bắn lên trong cách ông thản nhiên kể lại câu chuyện. Hơn hai mươi năm đã qua rồi. Ông bình thản lần giở cuộn chỉ của đời mình trong tù... Những tiếng rên xiết, tiếng người tra tấn người, tiếng xích lê trên sàn đá, và cả sự yên lặng cuồng nộ vẫn vang lên từng nhịp, theo giòng chỉ kéo dài từ những ngày tháng âm u của cõi chết. Ông không làm văn chương, nhưng khi văn của ông mới làm ta rùng mình. * Tuy nhiên, điều đáng nói nhất trong hồi ký vẫn chưa phải là những mô tả về vùng đất của quỷ. Điều làm ta sững sờ nhất cũng không phải là sự sống trong cõi chết âm u, mặc dù sức phấn đấu của con người vẫn làm ta bàng hoàng theo từng trang sách. Điều đáng nói, và đây là sự kỳ diệu nhất của tập hồi ký, chính là sự trỗi dậy của tình người trong thế giới của loài thú. Ngay trong Hỏa Lò, đêm đêm tù nhân vẫn biết là có ai đó kín đáo qua lại giúp đỡ họ. Nhiều khi chỉ là một câu hỏi thăm ngắn gọn, lạc giọng, hoặc một tiếng thở dài thông cảm. Hay một mẩu thuốc lào được luồn qua kẽ cửa, để giúp người tù cầm máu... Vào giờ đó, chỉ có quản giáo canh giữ Hỏa Lò mới được đi lại bên ngoài. Người đó là ai? Tù nhân không biết, chỉ biết là trong đám quản giáo, vẫn còn có người có được một chút nhân tính, và lặng lẽ làm cử chỉ của con người. Lặng lẽ thôi, nếu không, chính họ sẽ bị đổi vị trí, từ ngoài vào trong xà lim. Việt cộng muốn biến con người thành loài thú. Nơi chúng có thể thành công nhất, chắc phải Hỏa Lò Hà Nội. Nhưng, cũng tại nơi đây, tác giả đã sống và đã thấy sự chiến thắng của loài người. “Cộng sản không thể nhuộm đỏ được hết tâm hồn loài người”. Ông kết luận như vậy. Và ông đã nhìn ra rất đúng. Vì công tác của ông chỉ có thể hoàn tất, khi ở miền Bắc có những người vẫn tiếp tục chiến đấu, từ những năm 1960. Một vị linh mục, một người bác sĩ, một thiếu nữ áo nâu quần ka ki... Và biết bao nhiêu người anh hùng vô danh khác. Ngay cả những người nông dân hồn hậu, những nạn nhân hàng đầu của chế độ Việt cộng, họ sống chật vật trong cảnh tăm tối mà vẫn có những hành động chói sáng tình người... Sự kiện Đặng Chí Bình đã trải qua tuổi thanh xuân trong một thế giới thú vật, và đã trở lại nguyên vẹn cùng chúng ta, với những mô tả tinh nghịch, những lời nói thành thật về những lầm lẫn của chính mình, với những phê phán rất bình thản và độ lượng về thói xấu của con người, sự kiện đó cũng chẳng là một điều kỳ diệu sao?.... Ông là người đã đội mồ sống dậy, và cái sống nhất trong tác phẩm của ông, chính là cái chất “người” mà nhiều khi ông đã sợ mất, nhiều khi ông đã thấy mất ở nơi khác... Cũng vì vậy, Thép Đen là một tác phẩm lớn. Không chỉ ở nội dung, tình tiết, mà còn ở ý nghĩa rất nhân bản của tác giả. Xin cảm ơn Đặng Chí Bình, đã tranh đấu để tồn tại, để vượt thoát, và để ghi lại chon chúng ta sự thắng thế của loài người trên loài quỷ. (Lời tựa của nhà xuất bản Đồng Tiến, năm 1987) |
|
|
![]()
Post
#3
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
TÂM SỰ CỦA NGƯỜI VIẾT
Trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ tới lại có một ngày ngồi viết câu chuyện của đời tôi. Từ bối cảnh của đất nước, do những xô đẩy của giòng đời, tôi đã nhận một nhiệm vụ nhỏ bé để xâm nhập vào đất địch, và tôi đã rơi vào tay kẻ thù. Như vậy, trước sau gì tôi cũng chỉ là một kẻ bất tài, thất bại, chẳng có gì đáng kể lại cho người khác. Hơn nữa, một số bạn bè thân quen còn ngăn cản tôi đừng viết. “Anh hãy lo cho cuộc đời của anh trước đã, đời anh đã khổ nhiều rồi. Vả lại, dù anh có cặm cụi viết ra, tác phẩm của anh rồi cũng chung số phận như bao nhiêu tác phẩm khác, của những người đã đi tù về viết lại. Người ta thờ ơ, không thèm đọc. Trên xứ người, lớp trẻ còn phải lo học hành, lớp lớn phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày và lo cho tương lai, họ đâu còn quan tâm đến những chuyện đã qua của quê hương dân tộc. Anh nên đi tìm một công việc làm nào đó, là thực tế nhất.” Nhìn vào thực tế, rồi nghĩ lại hoàn cảnh tỵ nạn của mình, tôi thừa nhận những lời khuyên của bạn bè là xác đáng, và tôi đã xông vào cuộc đời mưu sinh. Nhưng rồi nhiều đêm nằm khắc khoải, tâm sự trĩu nặng, vơi đầy với bao niềm quặn thắt vẫn thấp thỏm không yên về quê hương đất nước và đời sống, bao nỗi giằng co vò xé, gậm nhấm cõi lòng. Những tiếng kẻng của nhà tù Cộng Sản, đi theo gần hết cả cuộc đời, vẫn như ám ảnh, quấn chặt hồn tôi: Thoảng nghe “phôn” réo bên tai, Giật mình tưởng kèng sớm mai nhà tù! Hình ảnh những bộ xương vẫn còn di động trên chốn lao trường, những nấm mồ hoang lạnh giữa rừng sâu; dư âm những tiếng thở dài lê thê xen lẫn những tiếng rên xiết quằn quại trong đêm dài tăm tối... Và những cặp mắt khát khao nhắn nhủ ngày tôi chia tay, vẫn lảng vảng vấn vít trong hồn; tất cả như đang khẩn nài, gào thét, đòi hỏi tôi phải thực hiện “bản di chúc sống” của họ. Tôi biết, dù mình sức hèn tài mọn, nhưng vẫn còn may mắn hơn biết bao các bạn bất hạnh còn lại trong tù. Cho nên, tôi tự cảm thấy mình đang khoác lấy một trách nhiệm, mang một bổn phận – nếu có thể được phép nói như vậy – để vuốt mắt cho những người đang uất hận, ứa máu bầm gan trong gông cùm xiềng xích của bè lũ cộng nô Hà Nội. Tôi ước mong tập hồi ký nhỏ mọn này, sẽ là một ngọn nến nhỏ trong trăm ngàn ngọn nến to lớn khác, được thắp lên trong mờ mịt u tối của chế độ phi nhân Việt cộng. Nếu đốt được ngọn nến đó. Dù leo lét, tôi cũng cảm thấy vui sướng đã thể hiện được phần nào trách nhiệm của mình đối với “bản di chúc sống” kể trên. Lời chót, tôi chỉ biết lần lượt tường thuật lại sự việc, như tháo dần một cuộn chỉ ra từ đầu đến cuối. Và, vì vấn đề an ninh cùa năm, bẩy người đặc biệt, nên tôi bắt buộc phải đổi tên và địa điểm sống ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Cũng từ ý thức tôn trọng sự thật, kính mong quý vị thông cảm và tha thứ. Đặng Chí Bình |
|
|
![]()
Post
#4
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Một
Cuộc Họp Đầu Tiên ... Vào một buổi tối cuối Xuân 1959, trời thật nhiều gió. Những hàng me trên đường “16” vật vờ, nghiêng ngả theo từng đợt gió mạnh. Từng đám lá me khô nhỏ dẫy dụa cuốn đuổi nhau như đám ong vàng, gây nên những tiếng xào xạc, trên mặt đường. Buổi tối đó là ngày thường nên khu nhà thờ Tân Sa Châu, gần Lăng Cha Cả Tân Sơn Nhất Sài Gòn rất vắng vẻ. Xa xa một vài ánh điện từ ngoài đường Trương Minh Ký hắt vào, càng làm cho khu vực nhà thờ mập mờ, chỗ sáng chỗ tối. Nhìn sang phía bên kia nhà thờ, tôi thấy thấp thoáng trong một góc tối mấy người cũng có vẻ như chúng tôi, nghĩa là cùng chờ giờ hẹn với một người. Mãi 8 giờ 15, từ đầu đường “16”, một chiếc xe “díp” thường dân đi tới và từ từ đỗ lại, trong bóng tối của một cây me bên đường, cách xa nhà thờ một khoảng. Một bóng người bước xuống và đi về phía nhà thờ. Chúng tôi chả ai nói ra, nhưng cùng hiểu đó là người chúng tôi đang đợi. Lẩn trong bóng tối, chúng tôi chỉ thấy người đó mặc áo blouson xám, đội mũ “phớt”. Ông ta đi vào khu buồng cha Khuê phía đầu nhà thờ. Chừng 10 phút sau, một chú bé giúp lễ ra sân mời chúng tôi vào. Cha Khuê không giới thiệu, nên chúng tôi chỉ biết gật đầu chào. Sau khi ông ta nói với Cha Khuê, xin mượn một phòng học ở trên lầu, ông quay lại phía chúng tôi với giọng Huế nặng chình chịch: - Mời tất cả các anh em lên trên gác! Chúng tôi nhìn nhau, chẳng ai nói một lời lục tục bước theo ông lên trên lầu. Trong phòng, chúng tôi gồm 8 người, kể cả ông chú họ tôi. Chính tôi lúc này cũng không hiểu vì sao chú tôi cũng vào ấy ngồi. Hầu hết chúng tôi đều ở lứa tuổi thanh niên; chú tôi trông riêng biệt hẳn không những về tuổi tác, mà còn vì dáng dấp phong độ như một “chính khách” nữa. Chính sự hiện diện của chú tôi, cũng đang làm cho ông người Huế không ít băn khoăn. Ông nhìn chú tôi, nửa như muốn hỏi, nửa như e ngại đắn đo. Có lẽ chú tôi cũng thấy vậy, nên ông đã đứng dậy, rồi cùng ông người Huế đưa nhau ra chỗ ban công nói gì với nhau một lúc. Sau đó, chú tôi xuống lầu. Tôi nhớ lại hơn một tuần trước, thằng em trai đi phố về, gọi tôi rối rít: - Chú Thường gọi anh ra gặp cô chú có việc cần. Ông Thường là một người từ trước tới giờ tôi vẫn kính nể, ông những ông là bậc cha chú, mà vì kiến thức uyên bác trong nhiều lãnh vực, và sự giao thiệp rộng rãi của ông trong xã hội. Vì vậy, tôi đã vội vàng ra nhà chú tôi ngay. Sau những phút ân cần thăm hỏi thằng cháu về học hành, thi cử, mắt ông sáng thêm ra nhìn tôi, nói: - Hiện nay, Phủ Tổng Thống tổ chức một lớp học đặc biệt chỉ dành cho mươi người. Những người phải được bảo đảm với Phủ Tổng Thống bởi những người có thế lực. Vậy nếu cháu thích, chú sẽ giới thiệu cho. Những năm tháng mài đũng quần trên ghế nhà trường, kết hợp với thực tiễn cuộc sống đã dần hình thành trong tôi một nhân sinh và thế giới quan. Một người con trai được sinh ra trong đời này, lớn lên, lấy vợ, đẻ con, già, bệnh rồi ... chết. Như vậy đi không rồi cũng trở về ... không; có khác gì con người chỉ là cái mắc áo, và là cái nơi để hàng ngày đổ cơm vào? Tư tưởng hào hùng đầy lửa sống của cụ Nguyễn Công Trứ đã cuốn hút, thấm đậm vào tâm hồn non trẻ của tôi; đã luồn lách vào từng tế bào của trái tim nóng hổi; để rung lên những điệu nhạc tang bồng vẫy vùng ngang dọc của người con trai. Cho nên, mới nghe chú nói, tôi đã vồ vập nhận lời ngay, và nhờ chú tôi giới thiệu. Ngày hôm sau, chú đã dẫn tôi sang gặp linh mục Mai Ngọc Khuê để giới thiệu tôi với người. Cha Khuê đã hỏi nhiều về thân thế, gia đình, quá trình cuộc sống, và một số quan điểm của tôi đối với xã hội, đối với quê hương dân tộc. Người rất chú ý, khi chú tôi giới thiệu từ bé tôi đã có nhiều năm luyện tập võ thuật. Cuối cùng người tỏ ra hài lòng nhìn tôi vừa gật gù: - Như vậy là một thanh niên văn võ toàn tài. Câu khen quá đáng của người đã làm tôi đỏ mặt. Khi từ giã cha Khuê, trên đường về nhà, tôi hỏi chú tôi có biết gì về lớp học đặc biệt này hay không? Thực ra, chú chỉ là một người quen thân với Cha Khuê qua nhiều lần trao đổi về chính trị, thời cuộc... chứ về lớp học này, chú chẳng biết gì hơn những điều tôi nghe Cha Khuê nói. Khi chú tôi đã xuống dưới lầu, ông người Huế trở lại lớp học. Ông quay nhìn tôi, nở một nụ cười thiện cảm trong lúc tay ông mở chiếc cặp đen để trên bàn. Sau đó, ngững lên nhìn tất cả chúng tôi, nét mặt nghiêm trang, ông nói rành rọt: - Các anh là những người được giới thiệu bảo đảm để theo lớp học này. Tôi rất hân hoan, tin tưởng, vậy trước hết các anh hãy điền, ghi vào tập lý lịch sau đây. Ông vừa giơ một tập giấy, vừa nói nội dung và cách thức ghi chép vào những chỗ trống theo câu hỏi. Tập lý lịch in sẵn này cũng như nhiều tập lý lịch khác, ngoài phần đề cập về bản thân và cuộc sống, còn thêm hai mục: - Quan điểm tư tưởng, hoài bão. - Kể 3 người bạn thân nhất, ghi rõ tên tuổi và địa chỉ. Gần 1 giờ sau, khi chúng tôi làm xong thủ tục lý lịch, ông căn dặn mấy việc: - Trở về nhà, chỉ được nói với gia đình, bạn bè là chuẩn bị để đi dự một lớp huấn luyện, về thanh niên Cộng Hòa. - Mỗi người hãy chờ ở nhà! Ông sẽ đến tiếp xúc riêng từng người theo địa chỉ trong bản lý lịch. Nếu có việc gì cần kíp phải đi đâu, viết giấy ghi rõ nơi đến và khi nào trở về, để lại dặn người nhà. - Lúc đầu phải nhờ người giới thiệu là trung gian; nhưng bây giờ tuyệt đối không nói là nhận được hay không. Nếu người giới thiệu có hỏi, chỉ nói vẫn chờ, chưa thấy gọi. Khi chúng tôi ra về, đã 10 giờ 30 tối. Chú tôi đã về nhà. Cha Khuê đã vào phòng đọc kinh. Đến lượt tôi chào ông người Huế, ông tiến lại bên tôi, nói: - Bình, tí nữa theo tôi ra xe nói chuyện nhé! Hơi ngạc nhiên, nhưng tôi chợt hiểu. Hẳn là Cha Khuê, hoặc chú tôi đã có lời nhắn nhủ. Lúc ra tới đướng 16, ông đi thong thả bên tôi, đặt tay lên vai tôi ra chiều thân mật, ông hỏi tôi về cuộc sống, về học hành, v.v... Cuối cùng, ông nói: - Tôi rất mến và tin tưởng ở Bình. Do đó, tôi muốn Bình giới thiệu cho tôi một người bạn thân, đồng chí hướng như Bình. Là một thanh niên hãy còn nhiều bồng bột; nghe ông nói tôi thấy lòng tự hào và nghĩ ngay tới Nguyễn Vĩnh Lý, một người bạn rất thân học ở Chasselop Laubat. Anh vừa đậu phần I Tú Tài Pháp, anh cũng có một số hoài bão, ước mơ như tôi. Sau khi ông ghi xong số nhà, đường phố của Lý do tôi nói, ông lại đặt tay lên vai tôi, giọng tình cảm dịu dàng: - Tôi sẽ tiếp xúc với Lý, bây giờ Bình về, chúng ta sẽ gặp lại. Trên đường về nhà và cả đêm hôm đó trước khi đi ngủ, tôi miên man suy nghĩ về diễn tiến của buổi tối ở nhà thờ Tân Sa Châu. Mặc dù chưa biết chút gì về lớp học, nhưng những hiện tượng mà tôi đã nhìn và nghe cả buổi tối hôm trước, đã làm tôi triền miên tưởng tượng viễn ảnh của một ngày mai, trong giấc ngủ muộn. Sáng hôm sau, tôi phóng xe sang nhà Lý ở khu Đa Kao Cầu Bông rất sớm. Tôi kể cho Lý nghe về sự việc tối trước và nói đã giới thiệu với ông đó rồi. Lý rất mửng rỡ và hỏi liên tiếp những câu mà tôi cũng mù tịt: - Lớp này là lớp gì? Học ở đâu và học gì? Thời gian bao lâu? Học xong, làm gì? Tuy vậy Lý rất vui và tin tưởng tôi nên Lý sẽ chờ ông người Huế đó đến gặp. Tôi dặn Lý: - Mày tiếp xúc với ông ấy, thử moi thêm, may ra biết rõ hơn. Chừng 10 ngày sau, Lý xuống nhà cho biết: Đã gặp và hoàn tất lý lịch. Lý có hỏi tên, được ông bảo cứ gọi ông là Hương (tôi cho là tên giả). Ngoài ra Lý không biết gì hơn những điều tôi đã biết. Chúng tôi phải chờ hơn một tháng trời. Có lẻ đây là thời gian sắp xếp chuẩn bị lớp học. Cũng có thể có những người đã bí mật đến xóm giềng, thẩm tra về từng người của chúng tôi. Một hôm, Lý xuống nhà tối với một vẻ phấn khởi: - Ông Hương bảo tối nay mày đến nhà tao ngủ, 8 giờ sáng mai (tức là ngày 28 tháng 4), ông sẽ đến đón đi tham dự lớp học. Phải chuẩn bị quần áo, sinh hoạt trong một tuần. Chúng tôi, hai đứa xốn xang bàn tán rất nhiều nhưng vẫn chẳng hiểu được gì hơn. Đêm hôm ngủ ở nhà Lý, hai anh em nằm bên nhau trong căn gác hẹp, nhỏ to rì rầm rồi đi dần vào giấc ngủ nhiều mộng mơ, về ngày mai của cuộc đời. |
|
|
![]()
Post
#5
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai
Cuốn Sổ Tay Tai Hại... Sáng hôm sau, trời Sài Gòn thật đẹp. Một vài vẩng mây trắng lửng lờ trên nền trời xanh nhạt. Đúng 8 giờ, ông Hương đậu xe ở một góc phố, đi bộ lại (đó là cách thận trọng thường xuyên của ông ta). Chúng tôi đã nhìn thấy, mỗi người một túi xách ra xe. Một cái bắt tay, vài nụ cười, không một lời nói, chúng tôi cùng lên xe. Xe ra khu Bạch Đằng, đón một người cuối đường Hai Bà Trưng, quẹo về Trương Minh Giảng, lên khu Vườn Lài đón thêm hai người nữa. Không kể ông Hương, xe đã năm người, như vậy là hết chỗ. Trong khi xe lao về phía Chợ Lớn, cả năm chúng tôi không biết xe sẽ đi về đâu. Khi xe ra tới đầu Quốc Lộ số 4 đường xuống Mỹ Tho, một trong ba người kia tỏ vẻ hiểu biết nói nhỏ: - Chắc đến trường Cây Mai. Tôi chẳng biết trường Cây Mai dạy cái gì nên đưa mắt hỏi, anh đó khẻ giải thích: - Đào tạo tình báo cảnh sát. Thực tế không phải vậy, khi đi tới ngã tư Phú Lâm, xe đi chậm lại, rẽ vào chiếc cổng có hai cánh cửa sắt đóng im ỉm mang số: 365. Như đừng chờ sẵn ở phía trong, một người quần áo bà ba nâu vội vàng ra mở cổng. Xe đi thẳng vào, đến cửa một ngôi nhà to thì ngừng lại. Chúng tôi xuống xe theo ông Hương lên gác. Trên lầu đã có chín người nữa, trong đó, một người đã lớn tuổi vào khoảng ba mươi lăm, bốn mươi, làm tôi chú ý nhiều hơn vì hâu hết chúng tôi từ hai mươi đến hai mươi lăm. Trong căn nhà rộng có nhiều buồng nhỏ, nhưng một phòng thật to, có lẽ là phòng khách đã kê sẵn 14 chiếc giường vải, có mùng, chăn, gối của quân đội thứ tự theo từng giường. Điều này nói lên số người đã được đón đủ. Một người mặc pyjama xanh nhạt, đeo kính trắng, chừng ba mươi tuổi, từ dưới nhà lên. Ông Hương quay lại phía chúng tôi giới thiệu: - Đây là ông Lâm Giám thị, một người sẽ thường xuyên ở với các anh em, khi có điều gì cần thiết, các anh đến gặp ông sẽ được giải quyết. Ông Lâm mỉm cười và bắt tay mọi người, ông cũng là người miền Trung. Sau đó, lại có hai người mặc đồ nâu nữa từ dưới nhà lên. Ông Hương cho biết họ sẽ phục vụ chúng tôi về cơm nước. Tất cả ba người này nói tiếng miền Trung. Theo ông Hương và ông Lâm, đây là một lớp học tập thể. Bất cứ tập thể nào cũng có nội quy để ổn định trật tự. Vậy, trước hết chúng tôi phải tự đặt bí danh, và từ nay, trong mọi sinh hoạt học tập cũng như ăn ở, chúng tôi sẽ bắt buộc gọi nhau theo bí danh đó. Tôi là J. hay John. Lý là K. hay Karl. Giới hạn tối đa việc ra ngoài phố. Ra ngoài, nếu gặp ai hỏi, chỉ trả lời, chúng tôi là một số sinh viên Kinh Tế và Chính Trị, vì muốn tìm hiểu chủ nghĩa nhân vị, nên mượn căn nhà này để nghiên cứu học hành trong mấy tháng Hè. Đây là một ngôi nhà hai tầng, rất kiên cố, có nhiều phòng. Chung quanh có tường xây, dây thép gai bao bọc. Theo dân chúng ở chung quanh, ngôi nhà này trước đây thuộc Phòng Nhì của Pháp, nay thuộc về Phủ Tổng Thống. Cuối cùng, ông Hương nhìn chúng tôi, gợi ý: - Để thuận tiện trong sinh hoạt, có lẽ các anh nên chọn bầu ra một người trưởng toán. Chúng tôi toàn những người chẳng hề biết nhau. (Điều này ông Hương biết nên đã có dụng ý). Làm sao biết được đạo đức và khả năng của nhau, cho nên tất yếu đều nhìn về người lớn tuổi nhất. Ông Hương đồng ý ngay. Anh đó tên Đạo. Qua những bữa cơm, và trong tủ lạnh luôn luôn có đầy đủ nước ngọt, bia, chanh, đường để giải khát thoải mái, tất cả chúng tôi đều phấn chấn tin tưởng vào viễn ảnh ngày mai của lớp học. Tối hôm đó tôi xuống buồng của giám thị, theo lời hẹn của ông ta. Ngay buối nói chuyện đầu này, ông đã có vẻ có cảm tình với tôi như một người em, tên ông là Cao Đình Tiệu, tu xuất, vào quân đội. Qua ông, tôi đã biết được nhiều chuyện chung quanh lớp học. Sáng hôm sau, cà mười bốn người chúng tôi lên một chiếc xe “Dodge 4” mui phủ kín mít. Xe đi lên phía Sài Gòn, nhưng chẳng ai biết sẽ đi về đâu. Cuối cùng, xe đi thẳng vào một tòa nhà to lớn chẳng khác gì một tòa lâu đài, có hai cổng to hai bên để xe ra vào, không có lính gác. Trong sân, vài con ngỗng kêu í ới, sân có trồng cỏ và hoa, êm đềm như một tư gia. Đó là căn nhà số 2 đường Jacques Rousseau. Sau này, tôi biết là nhà của Cựu Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tham mưu trưởng Quân đội Quốc Gia thời 1954 về trước. Chúng tôi được hướng dẫn vào một phòng phía bên phải. Trong phòng, đã có mặt ông Hương và mấy người lạ đóng bộ đàng hoàng. Họ chạy lăng xăng chuẩn bị bàn ghế, cờ quạt. Vách tường, cửa của văn phòng đều được bọc da, để ngăn cản âm thanh với bên ngoài. Trên cao, giữa tường, treo một lá cờ Tổ Quốc lớn, và ảnh cụ Ngô, phía trên đình hương trầm nghi ngút. Bên cạnh, phía dưới, có máy ghi âm. Chúng tôi 14 người ngồi mấy hàng ghế phía cuối. Đúng 9 giờ, một người đi vào. Có tiếng hô nghiêm, chúng tôi đứng dậy. Người đó bước lên bục. Sau khi làm thủ tục chào cờ hát quốc ca, mặc niệm, ông ta với cặp mắt như tỏa ánh sáng sau đôi kính trắng thật dầy, và bằng giọng Huế ấm và nặng, ông vừa tha thiết nhắn nhủ, vừa nghiêm nghị ra lệnh. Nội dung: - Các anh là những thanh niên, sẽ trở thành rường cột của Tổ Quốc trong tương lai. Bởi thế, hãy ra sức cố gắng học tập, công tác, để không phụ lòng tin tưởng và thương yêu của Tổng Thống. Lúc này, đang đi công cán đặc biệt, nên Tổng Thống không kịp ra dự buổi khai giảng lớp học hôm nay. v.v.. Ba mươi phút sau, người đó về ngay. Chiều hôm đó, ông Minh (Phó giám đốc lớp học) giảng về Chủ nghĩa Nhân Vị. Giờ sau, ông Hương giảng về Chủ nghĩa Cộng Sản. Lần đầu tiên chúng tôi được nhìn hai tấm nình to tướng khổ 40x60 phân của Engels và Karl Max. Ông lướt qua những nét chính vể Chủ nghĩa Cộng Sản với những diễn tiến theo thời gian từ Đệ Nhất Quốc Tế đến Đệ Ngũ là Tito Nam Tư, (dĩ nhiên là đứng từ goc độ của thế giới tự do để nhìn về Chủ nghĩa Cộng Sản). Ông Tạo, Chủ sự Phòng Thương Mại, giảng về Kinh Tế và Xã Hội. Ông Đức giảng về tự do và con người, v.v... Tất cả chỉ là mở ra một bức tranh khái niệm về từng lãnh vực. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải làm bài với những đề tài như: - Con người và Xã Hội. - Chủ nghĩa Cộng Sản và con người. - Nền Kinh Tế chỉ huy và tự phát. v.v... Chúng tôi được tha hồ tham khảo sách báo ngoài xã hội. Phải nói, lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên, tại sao lại cho chúng tôi học những món như vậy. Phải hơn một tháng sau, tôi mới hiểu rõ. Hằng ngày đi học bằng xe bít bùng, bọc kín như bưng... Tôi để ý, thường thấy những chiếc xe du lịch ra vào đậu trong sân số 2 Jean Jacques Rousseau, lại phải lấy vải bịt số xe. Những người trên xe hầu hết là ngoại quốc, nam cũng như nữ. Thái độ của họ tỏ ra nhanh nhẹn và cũng kín đáo khác thường. Trong những giờ giải lao, chúng tôi lang thang ngoài sân, khi gần ra phía cổng thì bị giảng viên gọi vào. Họ nói: - Các anh không nên ra ngoài đó, có thể bị chụp ảnh. Những điều như vậy, càng gợi trí tò mò của tôi. Tôi suy đoán, có thể không chừng đây là một chỗ tới lui của nhiều tay điệp viên quốc tế chứ không chơi đâu, do đó, tôi tìm mọi cách để mong biết được tên thật của các giảng viên. Tôi hiểu họ dùng toàn tên giả. Thí dụ: Ông Minh giảng về Chủ nghĩa Nhân Vị lại có cái thắt lưng mang chữ K. Hoặc ông Đức, có lần thoáng trong lần giải lao, ông Minh lại gọi là ông Thái. Tôi muốn biết rõ tên thật và chức vụ thực của họ. Phần khác, tôi còn ghi tất cả những số xe, bất kể loại gì ra vào ngôi nhà số 2 này. Tôi cho rằng rồi đây ở Sài Gòn, hay ở đâu, nếu tôi gặp những chiếc xe đó, địa điểm và chủ nhân ấy đều có dính dáng đến tình báo. Điều đáng trách của tôi, là ghi tất cả tên cũng như số xe vào một cuốn sổ tay, mà tôi thường bỏ trong người. Trong những buổi lên lớp cũng như những bài làm ở nhà, nhiều lần tôi được khen là có những ý kiến sâu sắc; nhất là ông Hương, Giám đốc, càng tỏ ra thân mật quý mến tôi hơn. Hàng tuần, trưa thứ Bảy, chúng tôi được nghỉ học, về nhà. Tối Chủ Nhật trở lại. Qua chuyện trò sinh hoạt, sau nửa tháng, tôi đã biết trong số 14 người này có nhiều anh đã có phần I, phần II Tú Tài. Đa số là con ông cháu cha, con cháu Tỉnh Trưởng, Chủ sự,v.v... Vì vậy, tôi và Lý càng hoan hỉ tin tưởng vào tương lai của mỗi người. Học được hơn nửa tháng, một hôm, tôi không thấy cuốn sổ tay nhỏ của tôi đâu, tôi thắc mắc tìm hoài mọi chỗ, hỏi cả Lý, cũng không thấy. Tôi cho là, có thể nhiều lần đi trên xe, xe vừa đông lại vừa xóc, cuốn sổ rơi xuống đường rồi chăng, chứ tôi đã tìm hết mọi chỗ rồi. Tôi cũng đã hỏi toàn thể anh em, nhưng không một ai biết. Mãi rồi cuốn sổ tay đó cũng đi vào lãng quên. Một buổi tối, sau khi học và làm bài vở xong, tôi chợt nhớ tới cuốn sổ tay, tôi quyết định mở va li tìm hết lại một lần nữa may ra thấy chăng. Lục lọi, tìm mãi cũng không thấy. Tôi chợt nhìn thấy gần nửa bánh pháo “Đại Quang” ở trong góc va li, thứ pháo nổ xác tan nhỏ như vảy ốc. Bánh pháo này hồi Tết còn thừa, tôi định để dành cho Tết sang năm. Sẵn tinh nghịch ngợm ngang tàng, tôi rút ra một chiếc pháo trước mặt Lý và mấy anh em còn thức. Miệng đang ngậm điếu thuốc, tôi bình thản từ từ đưa ngòi pháo vò đầu điếu thuốc đang cháy; khi ngòi đã xì lửa, tôi vẫn lạnh lùng nhìn chiếc ngòi xì dần rồi nổ ngay ở tay, ngang ngay trước mặt tôi chừng hai mươi phân, chỉ vì tính ngông cuồng tỏ với mọi người là mình gan lì. Mọi người ngồi đó không ai nghĩ là tôi dám đốt pháo như vậy, mà chỉ cho tôi đùa bỡn, nên không kip có ý kiến can ngăn. Tiếng nổ dữ dội, âm vang trong ngôi nhà như tiếng lựu đạn khiến mọi người xanh mặt, kể cả tôi! Anh em đứng cả dậy. Ba người bếp ở dưới nhà cũng hộc tốc chạy lên, mặt mày nhớn nhác. Sau khi biết nội vụ mấy người làm bếp và tất cả anh em giúp tôi nhặt từng mảnh pháo vụn. Giám thị Lâm hôm đó tình cờ lại đi chơi vắng. Lúc đó đã 10 giờ tối. Tôi liếc nhìn xuống đường chỗ ngã tư Phú Lâm, thấy một người quân cảnh và hai cảnh sát, đều ngước nhìn lên lầu tòa nhà 365, rồi một người lây xe gắn máy chạy về phía Sài Gòn. Tôi xuống nước năn nỉ ba người bếp và các anh em đừng để sự việc này cho ban Giám Đốc biết. Dọn xong, tất cả đều đi ngủ lại. Riêng tôi nằm bồn chồn lo lắng. Tôi cảm thấy sự việc sẽ không đơn giản. Tôi không yên lòng, với tay sang lay Lý dậy, thì thầm: - Tao thấy sự việc này sẽ không phải lộ từ phía dưới lên, mà có khi từ phía trên xuống. Lý trấn an tôi: - Không sao đâu, hãy đi ngủ đi! Tôi nằm, tuy có lo lắng, nhưng tuổi trẻ, nên dễ đi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Tôi đang say mê ngủ, ai đó đến lay người tôi, tôi mở mắt: Cao Đình Tiệu. Ông nhớn nhác, mắt không kính, tóc rối bù, chắc cũng bị đánh thức dậy, ông nói hổn hển: - Dậy, mặc quần áo xuống ngay dưới nhà gặp ông Hương! Thật là chết! Tôi ngồi bật dậy. Xuống đến lưng cầu thang, đã nhìn thấy ông Hương, ông Minh, quần áo lôi thôi, dáng vẻ còn ngái ngủ. Lúc đó đã 2 giờ đêm. Tôi hồi hộp nhìn các ông ấy. Điều làm tôi buồn khổ, hổ thẹn nhiều là ông Hương, ông Minh, ông Tiệu, nghĩa là cả Ban Giám Đốc, cũng như giám thị, trước đây đề cao và quý tôi nhất, cho nên tôi chỉ biết cúi đầu. Chắc hẳn ông Hương đã hỏi ba người bếp chi tiết sự việc rồi. Ông Tiệu không biết gì vì đi chơi. Câu đầu tiên ông Hương hỏi tôi: - Bình có biết hôm nay là ngày gì không? Tôi tường ý của ông muốn hỏi như vậy để tôi phải trả lời. Hôm nay là ngày tôi đã gây ra một việc đáng tiếc, nên cứ cúi đầu, ngồi im. Có lẽ ông Hương (45 tuổi) đã hiểu cái bồng bột quá trớn của một người thanh niên, ông nói luôn: - Hôm nay là ngày 15 tháng 5, sinh nhật của Karl Marx. (Thảo nào ngã tư Phú Lâm được tăng cường thêm hai cảnh sát và một quân cảnh). Ông Hương nói tiếp: - Bình có biết việc Bình làm đã chấn động nhiều cơ quan, kể cả Phủ Tổng Thống không? Vì là ngày sinh nhật của Karl Marx, nên các cơ quan an ninh tăng cường hoạt động để ngăn chận, những manh nha của Cộng Sản. Khi nghe tiếng nổ, nếu ở một chỗ bình thường, cảnh binh chỉ việc vào điều tra tìm hiểu; và thấy do đốt pháo thì chỉ phạt 20 đồng theo quy định hồi ấy. Ở đây, tiếng nổ lại phát ra từ ngôi nhà 365. Cảnh sát nũng như quân cảnh đều hiểu ngôi nhà đó thuộc trung ương, nên không dám vào khám xét. Nhưng vì sự việc xảy ra trong khu vực trực tiếp trách nhiệm của họ, nên bắt buộc họ trình báo cáo cấp trên. Đồn trưởng báo Quận, Quận hỏi ý kiến Nha Giám Đốc. Nha Giám Đốc cho căn nhà đó là của An ninh Quân đội, thuộc Phủ Tổng Thống. Lời tường trình được báo về cấp cao nhất, và cuối cùng truyền ngược xuống Ban Giám Đốc lớp học. Mặt của ông Hương, Minh, Tiệu như bàn tay bà già. Mặt tôi có lẽ dài ra gấp rưỡi ngày thường. Ông Hương chậm rãi nói: - Không thể dùng quyền để ém nhẹm vụ này, vì như vậy càng làm cho các cơ quan khác nghi ngờ. Cho nên, ngày mai cảnh sát sẽ vào đây lập biên bản. Vậy, hãy nói với họ đây là một số sinh viên, học tập Chủ nghĩa Nhân Vị trong dịp Hè. Một người trong lúc vui chơi đã nghịch, gấp một chiếc pháo giấy đập mạnh bằng tay, vì ở trong tòa nhà, nên nó đã vang to như vậy. Ông Hương bắt ông Tiệu lấy giấy gấp thành một cái pháo, mà học sinh vẫn chơi. Tôi phải thực tập, cũng nổ. Nhưng làm sao bằng pháo thật! Đến đây, tôi cũng suy nghĩ. Tại sao ông Hương không nói thẳng với cảnh sát là tôi nổ pháo, mà phải làm trò như thế, cảnh sát tin sao được. Tôi cho rằng, có lẽ một phần ông Hương muốn cho đỡ khuyết điểm cho tôi với trên, phần khác cho chính ông ta (tại sao lại tuyển mộ một học viên có những hành động nhố nhăng như thế). Sáng hôm sau, một xe “díp” cảnh sát chở ba người, kể cả Đồn trưởng, vào gặp ông Tiệu và tôi. Thái độ cảnh sát rất nhã nhặn, dè dặt, và tỏ ý, đây chỉ là nguyên tắc, vì vậy, họ cũng không bắt tôi phải đập pháo giấy. Nghĩa là họ không tin, nhưng việc phải làm, cho nên họ ghi đầy đủ sự việc theo lời khai vào sổ trực. Ông Tiệu còn nhăn nhó nói: - Địa điểm học này đã bị lộ, có thể sẽ phải chuyển đi nơi khác. Sóng gió lại bình lặng! Chúng tôi lại tiếp tục học hành. Tuy vậy, từ đấy tôi rất ngượng nên thường tránh mặt, không muốn gặp ông Hương và ông Minh nữa. Hơn một tuần sau, vào lúc 7 giờ tối, một anh bếp gọi tôi xuống gặp ông Giám thị. Khi xuống tới buồng ông Cao Đình Tiệu, tối thấy trên bàn một chai rượu mạnh. Mặt ông đỏ gay và thật buồn. Thấy tôi, ông hất hàm ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Rồi quay mặt nhìn ra cửa sổ, chậm rãi: - Bình có một quyển sổ tay nhỏ phải không? Thoáng nghe tim thót lại, tôi gật đầu lo lắng nhìn ông. - Bình có biết quyển sổ đó hiện nay đang ở đâu không? Tôi nói trong đắn đo, dè dặt: - Đã mất hơn nữa tháng nay và tìm mãi không thấy. Ông quay ngoắt lại, nhìn thẳng vào mặt tôi, dõng dạc: - Hiện giờ, nó đang nằm trên Phủ Tổng Thống! Ôi chao, sao tôi có nhiều việc thế này! Lòng tôi hoang mang, hoảng sợ nhìn ông. Ông hỏi tiếp: - Ai là người giới thiệu và bảo lãnh Bình vào lớp học này? - Cha Mai Ngọc Khuê. Mặt ông buồn thiu, thổ lộ: - Tôi không có em trai, từ ngày tôi gần Bình, tôi rất mến và coi Bình như em trai của tôi. Chiều nay tôi đã tham dự một cuộc họp hai tiếng đồng hồ. Tôi đã vận dụng nhiều lý luận để binh vực cho Bình, nhưng địa vị và quyền của tôi chỉ có giới hạn. Cuộc họp đã quyết định xong vể Bình rồi. Họ sẽ giao Bình sang An Ninh Quân Đội, Bình sẽ bị sát hạch, khai thác, có khi bị tra khảo nữa. Vậy ngay bây giờ, Bình vể khẩn khoản nói với Cha Khuê, may ra uy tín của người sẽ cứu được Bình. Ông còn hỏi: - Có tiền đi tắc xi không? Ông mở ví móc đưa tôi 50 đồng. Tôi như ngồi trên lửa, khua tay rối rít cám ơn nói là đã có tiền rồi. Tôi đứng lên chuẩn bị đi ngay sang khu Lăng Cha Cả, ông còn kéo tay tôi lại: - Tại sao Bình ghi hơn chục cái số xe để làm gì? Cả tên thật và chức vụ của các giảng viên nữa? Mặt tôi buồn rười rượi. Tôi thú thật với anh là vì tò mò. Anh giục tôi đi ngay, về thú thực hết với cha Khuê. Trên đường về, tôi nghĩ ngay tới Đạo, ngưởi Trưởng toán. Mục đích ở trên đưa nó vào để theo dõi chúng tôi về tư tưởng. Nghĩ cho cùng, tôi chỉ giận mình ngu xuẩn, nhố nhăng, không thể trách Đạo được vì đó là nhiệm vụ của anh ta. Những năm tháng sau này, nhiều khi suy nghĩ lại sự việc trên, tôi thấy, trong cuộc đời, chuyện may rủi không một ai dám phủ nhận, nhưng cũng phải thừa nhận là “bản tính tạo nên cuộc đời”. Thực tế, tính một người ưa động, coi thường nguy hiểm, thích đấm đá, dao búa, buôn lậu, hoặc hoạt động chính trị, làm cách mạng, v.v... Đời người ấy, nói chung, sẽ nổi chìm bất thường. Ngược lại, một người sợ chuyện nguy hiểm, rụt rè trước những việc mới lạ, cá biệt không kể, nói chung, đời người đó trôi đều phẳng lặng. Cho nên, bản tính của tôi đã như thế, tôi phải gánh lấy hậu quả tất yếu, kêu trời làm chi! Về gặp Cha Khuê. Trước đây người vồn vã vui tươi với tôi, bây giờ, sau khi tôi trình bày sự việc, mặt người thật lạnh lùng xa lạ. Người chỉ nói một câu: “Làm như vậy đấy!” Tôi thật buồn và thẹn. Nếu không vì chuyện cấp bách, tôi chẳng đến người làm chi nữa. Trở về, hôm sau tôi vẫn tiếp tục đi học ở số 2 Jean Jacques Rousseau, nhưng là những ngày đầy lo âu, nghe ngóng. Buổi học cuối tháng đó, chúng tôi đến lớp nhưng không học. Chúng tôi được lệnh ngồi chờ. Từng người được gọi vào một căn buồng phía trái để làm việc, khá lâu. Mỗi khi một người mở cửa buồng bước ra, tôi hỏi, họ đều lắc đầu. Mãi tới lúc Lý ra, tôi hỏi, hắn chỉ vắn tắt: - Lấy tiền, và viết giấy cam đoan, ông ấy dặn tao tuyệt đối không nói gì với người khác. Gần về cuối, tôi mới được gọi. Gặp ông Hương, tôi ngượng ngùng, nhưng ông lờ đi. Nội dung sinh hoạt riêng từng người là: - Ký vào mấy tờ giấy và lĩnh 2,500đ.00 một tháng (học, được nuôi ăn ở lịch sự, lại còn có lương!) - Một tờ cam đoan đã đánh máy sẳn. Tuyệt đối không kể một sự việc gì vể lớp học cho một ai khác, kể cả gia đình. Nếu vi phạm, sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. - Về nhà chờ, khi nào có người tới đón, sẽ đi học tiếp tục. Sau đó, chúng tôi ra về. Tôi những tưởng tai qua nạn khỏi, nhưng không phải vậy. Thỉnh thoảng, tôi vẫn đến nhà Lý chơi để xem tình huống gọi, đón như thế nào. Một hôm, tôi đến nhà Lý như mọi lần, được người nhà Lý cho biết, sáng sớm đã có người đến đón Lý đi rồi. Thôi, thế là tôi đã bị thải. Để cho sáng tỏ hơn , tôi phải liều. Tôi vội vàng phóng xe xuống 365. Lúc đó đã là giờ trưa, rất im vắng. Tôi lên tuột trên gác thấy Lý và 9 người nữa đang ngủ. Tôi lay vai Lý dậy, rồi chúng tôi cùng xuống dưới nhà. Lý nói, mặt buồn buồn: - Ông Hương đến đón tao đi ngay, nên không kịp viết giấy để lại cho mày. Tao có hỏi ông Hương về mày. Ông trả lời “Hãy biết phận mình thôi”. Tôi thấy Lý cũng không biết gì hơn, tôi hẹn Lý cuối tuần về sẽ nói chuyện. Tôi vào buồng anh Tiệu, anh cho biết: “Không gọi, có nghĩa là loại rồi” và “Lớp học bây giờ chỉ còn mười người!” Như vậy là tôi đã hiểu. Mục đích của một tháng học đó chỉ là để tìm hiểu và để lọc người. Trừ anh Đạo trưởng toán có nhiệm vụ riêng không kể, 3 người đã bị loại. Ruột tôi thật là héo úa! Anh Tiệu thây tôi buồn, anh đặt tay lên vai tôi, vừa như tâm tình vừa như an ủi: - Dù học lớp này hay không, Bình hãy đến với tôi. Nhưng không nên đến đây nữa. Bây giờ là giao thiệp giữa cá nhân tôi và Bình. Anh cho tôi số nhà riêng và hẹn gặp vào những ngày cuối tuần. Trên đường về nhà, tâm tư tôi nặng chĩu trái sầu. Tôi nghĩ đến lời anh Tiệu khi nãy: “Trong lớp học đó, Bình được Ban Giám Đốc khen ngợi là trội nhiều mặt, tháo vát, nhanh nhẹn, nhưng ...” Vâng, trong cuộc sống con người, chữ “nhưng” và chữ “nếu”, hai chữ quái quỷ này có lúc làm cho con người sung sướng ngất ngây bao nhiêu, thì nhiều khi chúng cũng làm cho người ta đau khổ chất chồng, đầy máu và nước mắt bấy nhiêu. Đôi khi tàn lụi cả cuộc đời cũng vì chúng. 25 |
|
|
![]()
Post
#6
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba
Vào Ngành Tình Báo... Tôi về nhà nằm buồn mấy ngày. Lại đúng vào mấy ngày mưa. Mưa thật nhiều, mịt mờ cả đường phố. Tôi nằm nghe mưa rơi trên mái nhà, những hạt mưa rơi xối xả âm vang như tiếng cười đùa trêu chọc. Nhưng, có lúc lại như tiếng reo hò, hối hả thúc giục người con trai không thể nằm buồn tiêu cực trong cuộc sống, phải dậy và nổ lực với những khó khăn trước mặt! Thế là tôi ngồi bật dậy và nỗi buồn của tôi đã như áng mây, trôi về phương trời xa mất hút... Ít ngày sau, tôi được biết Bộ Tổng Tham Mưu thông báo thi tuyển vào lớp Sĩ quan trừ bị Thủ Đức khóa 11. Tôi nộp đơn, ngoài những thủ tục cần thiết, tôi còn nộp kèm theo giấy chứng chỉ của trường Cao Đẳng Quân Sự (giai đoạn đó, học sinh đệ nhị cấp, đều phải qua lớp huấn luyện quân sự này) chứng nhận tôi là Chuẩn Úy trừ bị. Do một số tin tức tôi thâu lượm được, không kể Cần Thơ và Huế, riêng Sài Gòn đã có hơn 1.000 người xin dự thi, trong khi tôi được nghe đồn, khóa Thủ Đức 11 này đặc biệt sẽ lấy 800, vì nhu cầu tình hình chính trị đòi hỏi. Dù thế nào, tôi vẫn phải đem sách vở ra miệt mài học lại. Tuy tôi cũng tự tin vào khả năng của mình. Một ngày cuối tuần, tôi đến Tiệu chơi, anh hỏi tôi: - Bình có thích hoạt động tình báo không? Với khả năng như Bình, nếu Bình thích, tôi sẽ giới thiệu qua ngành quốc ngoại, vì tôi có quen biết. Vừa qua, tôi đã nếm mùi vị tí chút về tình báo, nên tôi gật đầu. Tôi cho anh địa chỉ nhà tôi, và sẽ chờ người đến gặp. Qua những buổi trao đổi với Cao Đình Tiệu, tôi đã hiểu tình báo quốc ngoại ở đây là tình báo ngoài miền Bắc. Lúc đó, quan điểm tư tưởng của tôi thật là đơn thuần. Con người của tôi tự bản tính không sợ những chuyện nguy hiểm, nên luôn luôn ôm ấp một hoài bão, phải làm được một cái gì đó hữu ích cho cuộc đời này, mặc dù tôi chưa hề định hướng việc đó là việc gì. Lý tưởng chống Cộng Sản của tôi, lúc đó vẫn còn lẩn quất chưa rõ mầm. Tôi chưa ý thức được vì sao, tôi một người con trai Việt lại phải ra miền Bắc, vào đất kẻ thù để chống Cộng Sản. Lỗi này là do những người lãnh đạo chế độ miền Nam đã hời hợt sao nhãng, việc giáo dục trong học đường đối với thanh thiếu niên về vấn đề Cộng Sản. Hơn một tháng sau, đến ngày thi tuyển vào trường Thủ Đức. Sau mấy ngày thi, bài vở so với mọi người chung quanh, tôi làm được, nhờ hai bài toán Hình, Đại thì một bài trúng tủ. Thầy Phú đã ra trước đây ở trường Hưng Đạo. Còn bài Việt, tôi hơi vững dạ, vì trong các môn học, môn Việt Văn của tôi vẫn thường có chỗ đứng tạm được. Dù vậy, khi chưa công bố, ai dám cho là mình đã qua. Chính vì thế, trong khi chờ đợi kết quả tôi vẫn cần phải lo chuyện khác nữa. Tôi thi được hơn mười ngày, một hôm có một người chừng ba mươi lăm tuổi tìm tới nhà. Lại là người Trung nữa! Sao trên trung ương nhiều người miền Trung thế? Ông ta tự giới thiệu tên là Cẩn, Ngọc Cẩn, mặc thường phục. Ông ta nói: - Được ông Lâm (tên giả của Cao Đình Tiệu ở lớp học) giới thiệu và nói nhiều về anh. Hôm nay, tôi đến gặp anh. Chúng ta sẽ trao đổi vài câu chuyện. Câu chuyện xoay quanh mấy vấn đề quan điểm, hoải bão, trách nhiệm của người thanh niên đối với dân tộc, Tổ Quốc v.v... Buổi nói chuyện kéo dài chừng hai tiếng đồng hồ, Sau đó, ông Cẩn hẹn buổi khác sẽ đến. Ông đến gặp tôi hai ba lần nữa. Một hôm, ông mang theo một tập lý lịch, bảo tôi ghi điền vào chỗ trống theo yêu cầu. So với tập lý lịch làm ở nhà thờ cha Khuê, lần này thêm một vài chi tiết nữa. Riêng chỗ bạn thân phải 5 người. Lúc ra về, ông nhìn tôi, tình cảm: - Trong khi chờ đợi sự sắp xếp ở trên, tôi hàng ngày cũng rỗi, vậy thỉnh thoảng anh em mình đi chơi phố hỉ? Tôi đồng ý. Chúng tôi có lúc ra bờ sông ngồi chơi, có khi vào quán uống. Một hôm, ông đến bằng xe Lambretta, chở tới vài khu trung tâm Sài Gòn chơi. Trong khi đi đường, ông hỏi chuyện về nhiều lảnh vực khác nhau. Một lần đang đèo đi chơi, bất chợt ông nói: - Quên, có chút việc chúng mình phải sang khu Cầu Cống Khánh Hội. Khi sang tới đó, ông lái xe vào sâu mãi trong một ngỏ hẻm, qua nhiều ngóc ngách ngang dọc, rồi ông để tôi đứng ở ngoài chờ. Ông vào một căn nhà, chừng 5 phút ông trở ra. Khi trở về Sài Gòn, chúng tôi vào nhà hàng Thanh Thế uống nước. Lúc tôi và ông đang cầm ly uống, chiếc mũ của ông để trên bàn, bất ngờ rơi xuống nền gạch chỗ giữa ông và tôi. Ông nhìn tôi, và tôi cũng nhìn ông, cùng đang cầm ly nước. Tôi vẫn thong thả uống và từ từ đặt ly nước xuống bàn. Tôi tiếp tục nói hết câu chuyện và ung dung dụi tàn thuốc lá, rối mới cuối xuống nhặt mũ lên bàn cho ông. Tôi nghĩ, mũ của ông rơi đã rơi rồi, chẳng cần phải vội vàng nhặt ngay, kẻo nó bị hư hỏng hơn. Cho nên, tôi vẫn đường hoàng làm xong việc tôi đang làm giở. Phải nói, lúc đó tôi chưa biết là ông thử sự bình tĩnh của tôi. Lần thứ hai, tôi đã thấy dụng ý của ông. Một lần đang ăn uống, ông rót bia rồi, còn già nửa chai ông đặt ghé lên chiếc khăn lau tay để trên bàn. Lát sau, như vô tình, ông rút chiếc khăn để lau miệng, chai bia tất yếu nghiêng đổ. Phản xạ cấp thời, tôi chộp lấy được. Một lần khác, chúng tôi đang ngồi ở Hòa Hưng, như chợt nhớ ra điều gì, ông quay lại tôi: - Nhờ Bình một chút, tôi ngồi ở đây chờ, Bình lấy xe tôi xuống chỗ công “piscine” Cộng Hòa mua hộ tôi 5 bao thuốc Pall Mall với một bao Capstan, họ bán phía trong cổng ấy. Trên đường đi, tôi thấy vô lý, từ Hòa Hưng xuống Ông Tạ có biết bao nhiêu hàng thuốc lá, tại sao lại xuống mãi hồ bơi Cộng Hòa? Dù suy nghĩ như vậy, nhưng tôi vẫn đến chỗ đó mua cho ông. Khi ông và tôi trở về, ông làm như băn khoăn hỏi: - Mai Bình có rỗi không? Nhìn ông tôi dè dặt: - Tôi chưa biết rõ, nhưng ông cần cái gì ông cứ nói. Ông rút trong túi áo ra một lá thư dán kín, bì thư để trống trơn, đưa cho tôi ông căn dặn: - Ngày mai, Bình có solex, hãy đưa hộ tôi lá thư này cho cái nhà mà hôm nọ Bình với tôi đến, ở trong chợ Cầu Cống đó. Đã gần nửa tháng rồi, vô tình ai để ý làm gì, nhưng do cá tính hay để ý của tôi, tôi đã nhớ. Hôm ấy, tôi thấy ông Cẩn vào một ngôi nhà, tôi nghĩ ông là một người làm tình báo của chính quyền. Như vậy, ngôi nhà đó có dính dáng ít nhiều đến tình báo; nếu không, ít ra chủ nhân cũng quen biết thân thuộc đến đời riêng của ông Cẩn, nên tôi chú ý hơn. Vì vậy, hôm sau tôi đáp ứng được việc ông nhờ, không khó khăn gì cả. Tóm lại, thời gian đó, có thể ông đã thử thách tôi nhiều, nhưng tôi chỉ thấy được 4 lần: - Về đức tính bình tĩnh. - Về tính chấp hành kỷ luật nghiêm chỉnh. - Về trí nhớ cần thiết để hoạt động. - Về phản xạ bén nhậy, chính xác khi sự việc xẩy ra bất ngờ. Về việc mua thuốc lá, nếu ông muốn kiểm tra, chỉ cần trở lại chỗ bán thuốc lá ở hồ bơi Cộng Hòa, hỏi người bán hàng. Một vài phương pháp thử thách như trên, chưa đủ xác định khả năng của một con người. Vì vậy, sau này trong quá trình đào tạo, huấn luyện, còn nhiều thử thách khác nữa. Sau đó, cứ dăm ba ngày, lại một lần ông Cẩn đến đón tôi đi chơi cho tới một hôm, sau buôi đi chơi về, ông thân mật dặn dò: - Kỳ này, tôi có một số công việc bận, vậy Bình về nhà hãy đợi chờ nhé! |
|
|
![]()
Post
#7
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn
Nghiệp Dĩ ... Tôi về nhà nằm chờ đợi. Hàng ngày, tôi vẫn lấy sách vở ra miệt mài xem lại để sang năm, bằng mọi giá tôi phải lấy xong phần I Tú Tài. Tôi đã ăn vỏ chuối 2 năm rồi! Chỉ vì sự suy nghĩ của tôi chưa đủ chín chắn, còn ham chơi. Chỉ có những quyết tâm nửa vời, thiếu hẳn ý chí kiên nhẫn, cho nên, tôi đã phải trả một giá đích đáng cho sự học vấn của tôi. Tôi nhớ lại những năm tháng trước đây, vì hoàn cảnh cuộc sống, vì đất nước chia đôi, tôi di cư vào miền Nam và gián đoạn việc học hành. Trước kia, tôi đã biết nghề kim hoàn từ hàng Bạc, Hà Nội. Vào Nam, do gia đình và họ hàng giúp đỡ, cuối 1956 tôi đã mở hiệu bán vàng bạc “Bảo Tín” ở chợ Cây Điệp. Khách hàng là quân nhân trong Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và mấy làng người miền Nam quanh vùng. Sau gần một năm, càng ngày cửa tiệm càng phát đạt, dù người chủ tuổi đời chỉ mới mười tám, mười chín (bố mẹ và các em tôi ở cùng nhà). Khi ấy, đồng tiền đối với tôi thật dễ dàng. Thỉnh thoảng, một vài người bạn từ Sài Gòn xuống chơi, nói chuyện về các giáo sư, về học hành, về xã hội... Với đầu óc còn quá non dại, tôi nhìn cuộc đời cũng quá đơn giản. Vì thế, tôi cũng đi vào cái chung của mọi người là coi thường những gì mình đang có, và hướng tìm về những cái mình chưa có. Nghĩa là, trong tôi đang dần hình thành những suy nghĩ về cuộc sống của con người trong xã hội. Khi ấy, tôi nghĩ thật đơn giản. Xã hội và con người mỗi ngày mỗi tiến bộ. Vậy, một thanh niên sống trong thời đại đó, ít nhất phải có một kiến thức nhất định nào đó để hiểu biết được , ít ra là khái niệm, về tất cả lãnh vực trong thời đại mà mình đang sống. Hãy tạm thời lấy sự học vấn làm ý niệm đo lường. Những năm 50 trước đây, chỉ cần mức độ là Trung Học Đệ Nhất Cấp là tạm đủ, cho kiến thức của một con người. Nhưng, thập niên 60 phải cần có Tú Tài; chứ Trung Học Đệ Nhất Cấp đã là lạc hậu rồi, không theo kịp đà tiến triển chung của xã hội. Và tới thập niên 70, nếu không đáp ứng được yêu cầu tương đối ấy, người thanh niên sẽ không đủ kiến thức để hiểu biết, dù không cần quán triệt, những sự việc xã hội xẩy ra chung quanh mình. Vậy, bây giờ tôi có tiền để làm gì, khi đầu óc tôi còn mơ hồ về chuyện đất nước và thế giới. Hơn nữa, con người được sinh ra trên thế giới này, phải ít nhất biết một số nơi danh tiếng của nó. Nếu không, thì cũng sẽ chỉ sống một cuộc đời tầm thường, thiếu thốn, chưa đủ ý nghĩa của cuộc sống. Từ những suy nghĩ lẩm cẩm ngây thơ trên, tôi quyết định thôi hiệu vàng. Bố mẹ cũng như họ hàng, trước đây ca ngợi tôi bao nhiêu, bây giờ trách móc tôi bấy nhiêu. Tôi còn nghĩ rất đơn giản là, bây giờ mình còn trẻ hãy gắng học đã, rồi phải đi đây đó để biết nhiều về thế giới này. Đến khi nào ba, bốn mươi tuổi, lúc đó lại trở về mở hiệu vàng (vì ít ra mình đã có kinh nghiệm về mở hiệu vàng rồi). Thật là những suy nghĩ ấu trĩ! Chuyện đời không đơn giản như suy nghĩ của một cậu thanh niên mới lớn. Sau đó, tôi đến ở Trại Học Sinh Di Cư Phú Thọ, Chợ Lớn (Pavie La Mothe) và tiếp tục đi học. (Bao nhiêu kỷ niệm, bạn bè ở trại học sinh này! Sau 30 mươi năm, không biết bây giờ số phận của mỗi người như thế nào?). Tôi ngồi nhà học và chờ ông Cẩn mãi, đã hai, ba tháng rồi mà chẳng thấy ông đến. Vì thế, tôi không còn tin tưởng mấy vể chuyện tình báo ngoại quốc. Tôi nghĩ rằng, trong khi chờ đợi, nếu Thủ Đức có trước thì đi Thủ Đức. Nghĩa là, cái nào có trước tôi sẽ đi cái đó. Cuối 1960, tôi nhận được giấy báo trúng tuyển Thủ Đức và hẹn ngày đi khám sức khoẻ. Thôi, giã từ tình báo miền Bắc! Tôi sẽ đi theo đường binh nghiệp! Về lãnh vực này, tôi cũng có một số khả năng. Sau mấy ngày đi khám sức khoẻ ở bịnh viện Cộng Hòa, rồi đến ngày nhập trường. Hơn một tuần lễ với bao nhiêu sự việc, người mới, sinh hoạt mới của đời quân ngũ! Bỗng một hôm, tôi được gọi lên văn phòng chỉ huy. Tôi vừa đi vừa băn khoăn không hiểu có chuyện gì. Khi tôi vừa bước chân vào cửa phòng, tôi giật mình ngạc nhiên: Ông Cẩn đang ngồi ở một chiếc ghế, đăm đăm nhìn tôi. Hôm nay, ông mặc quân phục, mang lon Đại úy. Chẳng biết ông Cẩn đã chuẩn bị trước với nơi đây như thế nào, ông dẫn tôi sang một phòng trống. Khi tôi vửa ngồi vào ghế, ông cau có, hỏi giật giọng: - Sao Bình lại đi Thủ Đức? Không thể được! Ông lặp đi, lặp lại hai, ba lần câu “Không thể được”. Tôi hơi ngượng ngùng trả lời: - Vì chờ ông lâu quá! Hơn nữa, tôi nghĩ rằng, tôi vào Thủ Đức thì cũng là phục vụ dân tộc, Tổ Quốc vậy. Tay ông khoáng lên lia lịa, ông nói một thôi một hồi: - Không thể được! Không trẻ con như thế được! Thủ Đức thì hàng trăm người có thể vào, còn việc này, không phải ai cũng được. Bình có biết là từ 4 tháng nay, đã bao nhiêu người phải bận rộn về việc này không? Kế hoạch đã đặt xong, nhà cửa đã mướn, mọi việc chuẩn bị đã sẵn sàng. Trên Phủ Tổng Thống đã quyết định có lệnh lấy Bình về bằng bất cứ giá nào. Tôi vô cùng bối rối, lúng túng chẳng biết trả lời thế nào cho xuôi, vì ngay trong thâm tâm tôi cũng ưa đời binh nghiệp. Cuối cùng, tôi mạnh bạo nói: - Thôi, hay ông để theo quân đội cũng thế! Ông ta mở mắt to nhìn tôi, vừa như ngạc nhiên về thái độ từ khước của tôi, vừa như bất mãn khó chịu. Cuối cùng, mắt ông dịu xuống, ông nói một cách cởi mở: - Bình muốn có lon à! Được, nếu Bình muốn, về Sài Gòn sẽ có. Bình cũng sẽ là quân đội vậy. Có lẽ lúc ấy ông sợ hỏng kế hoạch, sẽ bẽ mặt với câp trên, nên ông xuống nước hết mình với tôi. Và, chẳng biết ông Cẩn có lệnh can thiệp như thế nào, ngay hôm đó, tôi đã phải theo ông về Sài Gòn. Tôi vội vàng từ giã mấy người bạn mới lý do “Bố sắp chết nên được phép về ngay”. Sau này với những năm tháng đau thương chất chồng, nhiều lúc tôi ngồi nghĩ lại, nếu lúc ấy tôi cương quyết ở lại Thủ Đức – “Lại chữ nếu quái ác” – có lẽ cuộc đời tôi sẽ thay đổi hoàn toàn trong tương lai. Sai một ly đi một dặm! Những giai đoạn đầu của cuộc đời, ở những chỗ rẽ, nếu chỉ cần xê dịch khác một chút, kết quả sau này sẽ khác nhau một trời một vực. Âu cũng là do nghiệp chướng của đời tôi. |
|
|
![]()
Post
#8
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm
Huấn Luyện Tình Báo ... Ngay tối hôm đó, tôi về tới Thành Đô. Nhìn cảnh phố phường đầy mầu sắc, lòng tôi vẫn vời vợi, bâng khuâng với nhiều nẻo đi của cuộc đời. Hồn tôi đang chìm ngập trong nỗi ngơ ngác đầy vơi thì xe ngừng lại ở một góc đường Võ Tánh. Ông Cẩn móc túi lấy chùm chìa khóa trao tôi, thân mật dặn dò: - Đây là chìa khóa đã ghi sẵn số phòng ở tầng ba, số 8 đường Nguyễn Văn Tráng. Trước khi chia tay ông còn căn dặn thêm: - Nhớ đừng về nhà, sáng mai tôi đến sẽ nói chuyện. Sau một lúc lò dò tìm kiếm, tôi đã đến được căn phòng đó. Trong phòng đã có sẵn một chiếc radio transitor với một số sách báo ngoại ngữ, cũng như Việt ngữ. Sáng hôm sau ông Cẩn đến. Nội dung những điều ông căn dặn hướng dẫn: - Tôi sẽ đóng vai trò là một sinh viên Văn Khoa, gia đình tôi thuộc loại khá giả, từ Bắc di cư vào miền Trung. Tôi vào Sài Gòn trọ học. Đó là đối với tất cả người chung quanh, kể cả với người quản lý building. - Còn riêng với gia đình, một tháng chỉ nên về một hoặc hai lần. Nói là: Khi lên tới trường Thủ Đức, họ khám sức khoẻ lại, thấy có bệnh yếu tim, nên không thể theo học quân sự được. Hiện nay, đã chuyển sang ngành công tác xã hội, phải đi học tập một thời gian. - Ít đi ra phố, chỉ ra khi đi ăn cơm. Hàng ngày, sẽ có người đến huấn luyện. Chiều Thứ Bẩy và Chủ Nhật nghỉ. - Trong thời gian huấn luyện, mỗi tháng tôi sẽ được lãnh 2500 đồng. (Lại cũng giống như số lương ở số 2 Jean Jacques Rousseau!). Thời gian đầu, chính ông Cẩn, sáng cũng như chiều, mang tài liệu sách vở đến giảng dậy cho tôi. Lúc đầu, ông đưa tài liệu ra giảng cho tôi về: * Thế nào là một tổ chức bí mật. Lãnh đạo những tổ chức này, có khi do một cá nhân, một tập thể, hoặc một quốc gia. * Xác định bạn và thù. Những người cùng chung một công tác là bạn. Ngoài ra, tất cả là thù; kể cả bố mẹ, vợ con, anh em, bè bạn và các cơ quan khác như cảnh sát, công an, an ninh quân đội. v.v... (Theo ý nghĩa ngăn cách, bí mật). Tôi rất ngạc nhiên về điểm này. Ông Cẩn giải thích, đại ý: - Về lãnh vực tình báo trên thế giới, từ xa xưa cho tới bây giờ, biết bao sự việc lắt léo ly kỳ đã xảy ra. Trong hòa bình cũng như lúc chiến tranh, có khi hai quốc gia chống nhau, hoặc có khi hai khối quốc gia chống nhau. Bên nước này, cũng như bên kia đều đầy dẫy những nhân viên tình báo của đối phương. Những nhân viên này, tùy theo điều kiện và nhiệm vụ, có thể ở mọi nơi, mọi lãnh vực, thậm chí đôi khi còn nằm ngay trong chính quyền trung ương của nước sở tại. Nhiệm vụ của họ có nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng có một cái chung là tìm tòi, nghe ngóng để biết trước được những âm mưu, ý đồ về tình báo của nước nọ đối với nước kia, ngõ hầu có những biện pháp thích ứng để ngăn chận, hoặc lợi dụng, có khi tiêu diệt. Vậy, điều quan trọng là người điệp viên cần phải biết những ai là nhân viên tình báo của đối phương, nhất là những nhân viên bí mật. Thời đại ngày nay là thế giới tự do và Cộng Sản. Một thí dụ: - Một người đang được bí mật đào tạo huấn luyện để nhận một nhiệm vụ bí mật vào đất địch, phá một công xưởng sản xuất vũ khí chẳng hạn. Anh này có vợ, vì anh là tình báo nên đi về thất thường, nguyên tắc không được nói với vợ, nên anh này thường nói dối quanh. Người vợ càng nghi ngờ có lẽ chồng đã đi với cô này, cô nọ, cho nên đã làm cho anh ta nhiều lần khốn đốn. Anh này vì chưa đủ ý thức về bí mật, an ninh công tác nên có ý nghĩ: - Tuy nguyên tắc là như thế, nhưng vợ của mình, đấu gối tay ấp trọn cuộc đời với nhau, chẳng lẽ lại hại nhau, chẳng lẽ vợ mình lại là Cộng Sản ư? Và một đêm, anh đã thú thực với vợ, không quên căn dặn vợ là tuyệt đối không được nói với bất cứ ai. Người vợ lại có một người mẹ, thỉnh thoảng nàng hay sang nhà mẹ chơi. Bà mẹ thường bảo: - Này, cái thằng chồng của mày độ này nó làm ăn cái gì mà tao thấy nó đi suốt ngày, có khi cà đêm nữa? Mày ngốc, mày không để ý theo dõi xem thế nào, biết đâu nó chẳng mèo chuột, v.v... Người vợ tuy đã nghe chồng dặn kỹ, nhưng lại nghĩ: - Mẹ đẻ ra mình chứ ai, chẳng lẽ mẹ lại hại vợ chồng mình? Mà mẹ mình là Cộng Sản hay sao? Và, rồi một hôm nào đó nàng đã nói thực với mẹ, cũng không quên căn dặn mẹ: Đừng, chớ có nói chuyện này với một ai mẹ nhé! Bà mẹ lại có một người bạn chí thân. Trong một lần nào đó, bà bạn hỏi thăm về thằng con rể của bà bạn mình. Bà mẹ không được học về nguyên tắc bí mật, nên muốn khoe với bà bạn thân: - Ấy, chẳng hiểu nó làm cái gì bí mật lắm, ở mãi trên Phủ Tổng Thống cơ! v.v... Bà bạn chí thân này lại có chồng, có con thân mật ruột thịt khác. Cứ như thế, đến lúc nào đó, tình báo của đối phương sẽ đánh hơi thấy (cái này nó thính lắm) truy nguyên ra được tông tích và hành tung của anh chàng không kín miệng. Nếu anh đó, dùng bất cứ hình thức nào để xâm nhập đất địch, nếu không hai năm mươi thì cũng vào trong ấp mà nằm. Như vậy, nguyên nhân vì đâu mà anh ta bị như thế? Rõ ràng, xuất phát từ vấn đề người vợ, khiến anh ta đã thất bại. Hơn nữa, người ta đánh giá một công tác, thường chỉ căn cứ vào thành công hay thất bại mà thôi. Còn nguyên nhân tại sao, lý do thế nào, xét sau. Bất kể nguyên nhân ra sao, do đối phương ngăn chận không thể thực hiện được công tác, hoặc tư tưởng của nhân viên muốn lẩn trốn không dám thi hành công tác, v.v... dù nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì cũng dẫn đến chung một kết quả là công tác đó bị thất bại, không thực hiện được. Qua thí dụ trên, về một khía cạnh nào đó, người vợ cũng như là một kẻ thù, một đối phương vậy. Từ những vấn đề trình bày ở trên, tôi nhớ lại trước đây khi xem những phim tình báo gián điệp của Thế Chiến I và II, những tiểu thuyết tình báo trong đó có Z 28 chẳng hạn. v.v... Tôi cho rằng những điệp viên quái kiệt đã được đào tạo ở những trường điệp báo khét tiếng như: Hắc Long, Intelligent Service, Gestapo, CIA hay KGB, v,v... đều bắn các loại súng như máy, cưỡi ngựa như gió, sử dụng máy bay, xe hơi một cách điêu luyện tinh vi. Tôi thật ấu trĩ! Từ những nguyên tắc bí mật và ngăn cách, chẳng có một trường nào công khai đào tạo điệp viên cả. Nếu có một trường như vậy, chẳng khác gì những điệp viên ấy đã tự trình bầy với đối phương, thưa các ông: “Chúng tôi đang ở trong bụi rậm này!” Cho nên thực tế, có nhiều vấn đề chẳng giống như tiểu thuyết và phim ảnh. Trở lại Ngọc Cẩn. Sau đó, tôi tiếp tục được giảng dạy nghiên cứu và mổ xẻ các loại nhân viên: Nhân viên giữ nhà an toàn, nhân viên trung gian, nhân viên đi hoạt động bí mật, nhân viên liên lạc, nhân viên công khai và bán công khai, nhân viên nhị trùng hay hai mang, v.v... Trong khoảng bốn tháng, ông Cẩn đến với tôi hàng ngày như vậy. Tôi nhớ một hôm, vào cuối tháng 4 – 1960, ông Cẩn vào phòng tôi với một người nữa. Ông này cao, lớn con, đầy phong độ. Ông Cẩn quay lại tôi, rồi nhìn về phía người cao lớn vừa như dặn dò bàn giao, vừa như giới thiệu: - Tôi bận một số công tác đặc biệt khác, nên đây là ông Phan, Ông cũng như tôi, người của Cục, ông sẽ thay tôi phụ trách Bình. Tôi bắt tay và nhìn ông Phan. Ngay từ buổi đầu, chỉ vài câu chuyện trao đổi, tôi đã thấy ông dễ mến vì thái độ cởi mở. Qua tiếng nói, tôi hiểu ông là người miền Nam. Sau đó, ông Cẩn thân mật bắt tay từ giã chúng tôi. Còn lại một mình ông Phan và tôi. Qua ánh mắt và nét mặt, ông nhìn tôi như muốn trao cho tôi nhiều thiện cảm. Đúng như tôi nhận xét về ông từ lúc đầu, ông Phan thật xuề xòa và tỏ ra là một người rất phóng khoáng. Nghe ông nói chuyện, tôi có cảm tưởng như đã quen ông thân mật từ lâu rồi. Ông Phan đến tủ sách của tôi, lật xem vài quyển, rồi quay lại nói: - Từ nay, tôi sẽ tiếp tục đào tạo và huấn luyện Bình. Rồi ông quay hẳn lại, đến bàn ngồi trước mặt tôi, giọng đầy gần gũi, thân mật: - Bình có biết không? Trong Cục tôi nghe nói, Bình là một nhân viên mới có nhiều khả năng, tôi đã tìm mọi cách để xem hồ sơ của Bình, mặc dù theo nguyên tắc ngăn cách thì thật khó. Tôi thấy rằng, nếu trao cho Bình một công tác khác thì hơn. Bình làm công tác này hơi...phí. (Phải nói, lúc đó tôi không hiểu câu nói này của Phan, mãi về sau, khi ra miền Bắc rồi tôi mới hiểu) Phan nói tiếp: - Vì thế, trong những ngày tới, tôi sẽ bàn với Bình sau. Bây giờ, Bình hãy tiếp tục học hành, nghiên cứu. Nhưng, ở đây lâu không tiện. Vậy ngày mai, tôi sẽ đem xe đến chuyển Bình về Kỳ Đồng. Về building Kỳ Đồng, tôi tiếp tục học các môn: - Các loại chữ bí mật. - Cách viết thư bí mật. - Mật mã. - An ninh cá nhân và công tác. - Hộp thư sống, chết. - Hội kiến. - Vỏ học. - Tuyên truyền, phản tuyên truyền. - Cách lấy tin tức, moi tin. - Ngăn cách. - Đánh giá nguồn tin. Mỗi môn đều phải nghiên cứu, mổ xẻ từng chi tiết lắt léo nhất, đồng thời thực tập nhiều lần. Phan cũng thử thách tôi liên tục, lợi dụng mọi hoàn cảnh, điều kiện để biết rõ về khà năng cũng như khuyết điểm của tôi. Càng ngày, Phan càng có thiện cảm với tôi hơn, thường gọi “toa” xưng “moa”. Có những buổi sau giờ học, Phan và tôi bên nhau chuyện trò tâm tình. Từ đấy, tôi biết được ít nhiều về Phan. Phan đã có 15 năm nghiệp vụ tình báo. Trước đây, Phan đã ở Phòng Nhì của Pháp nhiều năm. Theo Phan nói, 1952, Phan đã bị Cộng Sản ám sát ở Cân Thơ. Tên Cộng Sản đặc công bắn Phan từ khoảng cách 25 mét nhưng rất chính xác. Y đã ghim viên đạn vào ngực phía trái, chỗ trái tim của Phan. Phan có vạch ngực cho tôi xem vết sẹo. Phan may mắn thoát chết là do hộp thuốc lá bằng kim loại đắt tiền ở túi áo ngực. Dù vậy, viên đạn cũng găm vào ngực Phan, tuy không vào sâu. Tất nhiên, tên Cộng Sản đó bị bắt. Rồi, tính quân tử và lòng hào hiệp của Phan đã lôi cuốn được trái tim của tên Cộng Sản ấy. Chính Phan đã bảo đảm và lãnh tên đó từ trong tù ra. Cho tới khi Phan đến huấn luyện cho tôi, tên đó vẫn là tay chân đắc lực của Phan. Theo nguyên tắc, Phan không được kể những chuyện như vậy với tôi, nhất là về đời tư của mình. Nhưng, vì Phan là người cởi mở, và là người Nam, nên nói chung đã không quá kín đáo như người Trung hay Bắc. Một buổi vào đầu tháng 10 – 1960, Phan đến nói với tôi: - Hiện nay trong vùng bưng biền, tụi Cộng Sản đang chuẩn bị thành lập một “mặt trận”, rồi có thể sẽ tiến tới thành lập một chính phủ lâm thời. Do đấy, tôi muốn chuẩn bị cho Bình đóng vai là một sinh viên bất mãn với chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm. Một mặt Bình sẽ tiếp tục đi học ở trong trường, lớp, Bình sẽ tổ chức ra một số vụ chống đối, để dẫn bắt mối với một sớ phần tử thực của Cộng Sản ở trong sinh viên và học sinh. Mặt khác, chính quyền sẽ tạo nên một cú bao vây, rượt bắt. Bình sẽ nhân thế đó, chạy vào bưng, v.v... Sau khi nói xong, Phan hỏi ý kiến tôi. Tôi hiểu, nói chung, vào “vùng giải phóng” thì ít nguy hiểm hơn ra ngoài Bắc. Nhưng đối với tôi, vấn đề nguy hiểm nhiều hay ít không phải là điều đầu tiên tôi quan tâm. Điều tôi nghĩ đến trước hết là công tác ấy có hào hứng và kỳ thú hay không. Vì thế, tôi chậm rãi trả lời: - Tùy sự quyết định ở trên. Có thể Phan thấy sự trả lời của tôi không dứt khoát, hoặc có những tính toán thay đổi trong Cục, hay tình hình diễn biến có khác; những ngày sau đó, không thấy Phan nhắc nhở gì về vấn đề vào bưng nữa. Hàng ngày, Phan vẫn đến tiếp tục giảng dậy cho tôi. Một thời gian sau, tôi lại được chuyển về building ông Thọ. Một mặt, tôi vẫn theo học, mặt khác, tôi xem lại bài vở nộp đơn thi Tú Tài I. Chính Phan cũng khuyến khích tôi. Một hôm, Phan dẫn đến hai người Mỹ, giới thiệu tên là Brown và Dale, để huấn luyện thêm một số môn khác. Cả hai đều mặc thường phục, ông Brown đeo kính trắng. Tuy mỗi người dạy những môn khác nhau, nhưng hai người hay thường xuyên đi cùng. Thế là từ đấy ba người, Phan Brown và Dale liên tục giảng dạy cho tôi về các môn: - Phương pháp tổ chức. - Điện đài. - Theo dõi và chống theo dõi. - Phương pháp tuyển mộ. - Huấn luyện, đào tạo nhân viên. - Vũ khí, mìn. - Tự mưu sinh (núi, rừng, biển). - Phân tách tâm lý, khả năng từng dạng người trong xã hội. - Phương pháp hình thành một mạng lưới hoạt động bí mật. Thời gian này thực vất vả. Lý thuyết rồi thực hành. Tiếng Anh của tôi viết hay đọc thì còn được chút ít, nghe và nói thì thật là cập quạng, nên Phan thường xuyên phải thông dịch vì có rất nhiều từ chuyên môn. Một điều thật phấn chấn cho tôi, kỳ thi Tú Tài phần I năm đó tôi lại đậu. Vì thế, Phan và hai người Mỹ dự tính một công tác dài hạn rất chi tiết để tôi vào miền Bắc hoạt động. Nội dung, kế hoạch tổng quát: Cộng sản miền Bắc thường ve vãn, mồi chài, lôi kéo những sinh viên du học tốt nghiệp ở ngoại quốc về miển Bắc xã hội chủ nghĩa để xây dựng (!) đất nước, tổ quốc, v.v... Do đấy, tôi sẽ nhận một học bổng đi du học Hồng Kông, hay Singagore về Điện hay Hóa theo năng khiếu của tôi. Khi tốt nghiệp rồi, Cộng Sản sẽ tìm đến. Lúc ấy, tùy theo hoàn cảnh thích ứng mà theo họ về miền Bắc; rồi từ đấy, sẽ bí mật hoạt động cho Sài Gòn. Tôi thấy công tác này quá lâu dài, có khi hàng chục năm, cho nên tôi không tỏ ý thích lắm, tôi cũng nói thẳng ý nghĩ đó với Phan. Thực ra, lúc đó tôi không biết, hoặc cũng chẳng chú ý đến việc lợi dụng cơ hội để đi du học trước đã, để dù có thế nào thì cũng có một mảnh bằng. Phan thấy thái độ ơ hờ của tôi như vậy nên lại thôi. |
|
|
![]()
Post
#9
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu
Công Tác “Columbus”... Thời gian trôi qua, thấm thoát đã lại tới tháng Tám, cái tháng của Sài Gòn nắng thật nhiều. Tôi lại được chuyển về số 62 đường Trần Hưng Đạo. Đây là một phòng rất rộng, có hai buồng, với đầy đủ tiện nghi của một khu có nhiều người ngoại quốc ở. Như vậy mới tạo vẻ bình thường, khi có những người Mỹ thường xuyên ra vào phòng của tôi. Thời gian này, vừa tiếp tục đào tạo huấn luyện tôi, vừa chuẩn bị kế hoạch công tác tung ra Hà Nội. Công tác trực tiếp ra Hà Nội: Bí danh công tác: COLUMBUS Bí danh từ khi tôi vào ngành: X20. Thời hạn: 25 ngày (công tác ngắn hạn). Nội dung: Chính: 1. Tài liệu X cho Z5 (Hoàng Đình Thọ). 2. Tài liệu M cho... (theo quy ước). 3. Mang 3 tâm thư bằng máu của linh mục Hoàng Quỳnh cho các linh mục A, B, C. 4. Tuyển mộ huấn luyện. Phụ: Theo dõi với khả năng và điều kiện tối đa những hiện tượng: 6 Cầu Gỗ, 1 Đường Thành, 27 Hàng Đường. MIG 15, 19 – Về chính trị, văn hóa, kinh tế, quân sự. Tư tưởng chung của quần chúng, cán bộ, bộ đội v.v... Vỏ bọc: Học sinh lớp 10 Phổ Thông Vĩnh Linh, đau tim ra Hà Nội chữa bệnh. Buôn lậu. 40 Mang thư của sư bà Đàm Hướng chùa Phước Hải về sư Tuệ Chiếu với Thẩm Hoàng Tín. Theo dõi sư đoàn 308, phòng thủ Thủ Đô Hà Nội do Thiếu tướng Vương Thừa Vũ làm sư trưởng. Giai đoạn chuẩn bị: - Một kế hoạch nghiên cứu tỉ mỉ thấu đáo, phòng hờ mọi tình huống, suốt hơn một năm trường cho tới tháng 4/1962. - Hết thực tập lại nghiên cứu. Brown, Dale, Phan và tôi thường xuyên làm việc, theo phương châm: Càng học tập, nghiên cứu kỹ lưỡng trong “giai đoạn chuẩn bị” thì đường vào đất địch càng rộng, càng bằng phẳng. Chi tiết toàn bộ công tác: Bí danh X20 (ngay khi là nhân viên chính thức của Cục họ đã đặt bì danh cho tôi là X20, và bây giờ, trong công tác COLUMBUS, vẫn duy trì bí danh đó). Nhiệm vụ chính: 1- Tài liệu X cho Z5 Hoàng Đình Thọ. Vì là đích danh, nên tôi đã được cầm tấm hình bán thân (4x6) của ông Thọ một tuần lễ, thỉnh thoảng lấy ra xem cho quen mặt và ghi dần vào tiềm thức của tôi. Theo tin tức của Cục cho: Lúc đó, Hoàng Đình Thọ là bác sĩ Nội Khoa bệnh viện Phủ Doãn cũ (bây giờ đổi lại là Việt Đức). Khi về tới Hà Nội, có giấy giới thiệu để khám bệnh tim. Tìm thời cơ thuận tiện để trao “tài liệu X” cho Thọ. Mật khẩu: “Nhờ bác sĩ chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi”. Đúng 12 chữ. Trả lời: “Tôi chỉ chữa tim nhịp đập một trăm ba mươi". Đúng 10 chữ. Tài liệu X: bọc ny lông đen, dầy 2 ly, dài 4 phân rưỡi, rộng 2 phân rưỡi. Kín, không thấm nước. Tôi không được phép biết gì về tài liệu này. Nếu Hoàng Đình Thọ không còn làm ở bệnh viện Việt Đức. Hủy tài liệu ngay. 2- Tài liệu M cho (theo quy ước). Giờ và ngày quy định: Từ 8 giờ đến 10 giờ sáng (2 tiếng). Ngày 16 và 18 (phòng hờ nếu trục trặc 16 thì 18). Địa điểm: Trên cầu Thê Húc (cầu bằng gỗ) của đền Ngọc Sơn, hồ Hoàn Kiếm. Tôi quần xanh, áo trắng xắn tay, đi dép Thái Lan, đội mũ xanh công nhân. Tay cầm tờ báo Quân Đội Nhân Dân. Đối tượng: (Bất cứ ai) mặc quần ka-ki xám, áo nâu, dép Bình Trị Thiên (dép râu). Tay cầm 3 quyển vở học trò. - Khi tôi nhìn thấy bất cứ ai vào giờ ấy, ngày ấy, trên cầu Thê Húc. Chờ người ấy nhìn thấy, tôi đang cầm tờ báo gấp đôi, bây giờ tôi gập thành tám. - Người ấy trả lời bằng cách: Chuyển 3 quyển vở từ tay này sang tay kia. (Luôn luôn ở cách xa ít nhất 10 mét). Sau đó, tôi cứ đi, chính tôi phải chủ động tìm một địa điểm thuận tiện như công viên chẳng hạn. Tìm ghế đá, hoặc chỗ ngồi nào đó để đối tượng, từ xa 50 mét trở lên, có thể dễ dàng quan sát được tôi. Tôi sẽ ngồi bình thường ở một cái ghế xi măng nào đó. Mở báo xem, che trên hai đùi, rồi (tùy cơ ứng biến) chờ đối tượng nhìn thấy. Gãi khuỷu tay, tuy gãi nhưng một ngón tay chỉ thẳng vào chỗ bỏ tài liệu. “Gãi” là dấu hiệu đã bỏ tài liệu, bây giờ là chỉ chỗ. Khi thấy đối tượng “gãi đầu”, tức là đối tượng đã nhìn thấy. Chừng 5, 10 phút sau, với một thái độ bình thường, tự nhiên đứng dậy đi (nếu có đuôi, dẫn đuôi đi). Nhưng phải kín đáo, dùng phương pháp nghiệp vụ quan sát, kiểm tra khi đối tượng lại lấy tài liệu. Tài liệu M: Bọc ny lông nâu, dầy 3 ly, dài 4 phân, rộng 3 phân; kín, không thấm nước. Cũng như tài liệu X, tôi không được phép biết gì về tài liệu này. Về mục tài liệu M này, tôi phải nhắc đi nhắc lại. Học thuộc lòng như mật khẩu, và những quy ước phải thực tập nhiều lần. Bây giờ đã 23 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ. Tôi nhớ thời gian này, những lúc tâm sự hoặc đi chơi với Phan (theo đúng nguyên tắc, tôi không bao giờ được đi với Phan ngoài phố, vì Phan đã bị lộ, là một cán bộ của cơ quan tình báo miền Nam, tôi mà đi với Phan thì cũng gần như bị lộ). Lúc đó, tôi là một thanh niên mới vào nghề, làm sao tôi có ý thức quán thấu mọi mặt, vậy lỗi này do Phan). Phan nói, trong cơ quan hiện nay, đang hình thành hai phe: a) Gồm Cục Trưởng và đa số: Quan niệm tình báo theo lối cổ, bào thủ, rập theo nguyên tắc cứng ngắc. Thí dụ: Sai một người đi chợ mua một ký táo chẳng hạn. Phải dặn: Lấy xe đạp đi, lúc đi phải đi sát lề phía phải đường đi, phải đi từ từ, chú ý xe cộ ở ngã ba, ngã tư, khi quẹo, nhớ phải giơ tay làm hiệu. Khi đến chợ, khóa xe thế nào, gửi ở đâu, vào chợ thì mua loại táo nào, mặc cả ra sao, cách thức chọn táo; cũng như trên đường vể v.v... b) Gồm Cục Phó và một số ít người, trong đó có Phan là người điển hình. Quan niệm, tình báo phải sống động linh hoạt, khích lệ cho nhân viên có óc sáng tạo, bén nhậy trong mọi tình huống. Cũng là sai một người ra chợ mua một ký táo, chỉ cần dặn: Nhớ mua, mặc cả táo ngon, đi đường phải cẩn thận. Nhưng, với khả năng khôn khéo sẵn có của anh, tôi tin rằng anh sẽ mua được táo ngon và rẻ. Theo tôi nghe và nhận định: Tuy tôi chẳng phải là loại người ba phải, tôi thấy cả hai quan niệm trên đều có cái ưu và khuyết. Vậy cần trộn lẫn, rồi nhặt những cái ưu ra dùng, không cần biết của phe nào cả. Đó cũng chỉ là ý nghĩ của tôi, chứ không dám phát biểu với Phan. Tôi chỉ hỏi: Vậy hiện nay, kết quả phe nào có ưu thế? Phan nói: Thực tế bây giờ đánh giá bằng những kết quả của công tác; theo lối cổ điển thì thành công nhiều hay ngược lại, từ đấy phe này sẽ phải theo phe kia. Do quan niệm trên, Phan nhiều lần giảng dậy cho tôi rất phiến diện, hời hợt. Vì thế, nhiều vấn đề tôi cần sáng tỏ, rõ ràng thì lại phải yêu cầu. Chẳng bù với Ngọc Cẩn, hoặc sau này là Hoàng Công An, lại quá ư chi tiết, nhàm chán, đôi khi thành lẩn thẩn. Riêng Brown và Dale, thì tôi hiểu là của CIA, tui tôi chưa hiểu lắm, vì trình độ Anh văn của tôi. Nhưng qua một số hiện tượng, phong cách, thái độ của họ, tôi thừa nhận họ có nhiều cái đúng. Nghĩa là, cái nào họ cần chi tiết, thì rất tỉ mỉ từng ngóc ngách một, đoạn nào không cần thiết thì họ cũng phiến diện, khái quát. Trong thời gian học tập và chuẩn bị công tác này, tôi được cung cấp một radio transitor với cả ống nghe. Tôi được toàn quyền nghe đài miền Bắc, và có rất nhiều sách báo của miền Bắc gồm đủ loại: tuần báo, nguyệt san, nhật báo, sách vở v.v... Mục đích là để tôi quen sự sinh hoạt, cũng như ngôn từ của Cộng Sản miền Bắc. Vào khoảng tháng 9/1961, một hôm Phan dẫn một người đeo kính trắng đến giới thiệu là ông Hoàng Công An. Vì Phan có một số công tác đặc biệt không ở Sài Gòn, nên ông An sẽ thay Phan phụ trách tôi. Ông An là người miền Trung. Qua sự huấn luyện và học tập, và kinh nghiệm từ số 2 Jean Jacques Rousseau, tôi đã hiểu đầy đủ về sự tò mò tìm hiểu những điều mình không cần biết, một nguyên tắc ngay trong cuộc sống, thường thường đã là không tốt rồi và bất lợi rồi. Vì vậy, ngay những người đến giảng dạy huấn luyện cho tôi gần 2 năm trời, tôi chẳng, hoặc không cần biết tên thật của họ, chức vụ của họ. Họ ở đâu đến, xong họ đi đâu, tôi không biết. 3) Mang 3 tâm thư của linh mục Hoàng Quỳnh. Đây là một vấn đề phức tạp và nghiêm trọng. Nó có liên quan ảnh hưởng đến toàn bộ Thiên Chúa Giáo miền Bắc. Có lẽ vì vậy mà Cục đưa Hoàng Công An, một tu sĩ gần thành linh mục, đến phụ trách tôi. Nội dung: Tôi sẽ mang tâm thư của cha Hoàng Quỳnh cho: - Linh mục A ở nhà thờ X (Hà Nội). - Linh mục B ở nhà thờ Y (Hà Nội). - Linh mục C cũng ở nhà thờ Y (Hà Nội). Tôi đã được xem 3 bản giấy đánh máy, nói rõ về thân thế đặc tính của từng linh mục trên, kèm theo 3 tấm hình bán thân (4x6). a) Linh mục A. Đã có bằng tiến sĩ ở Pháp. Tháo vát, cương quyết, tinh thần chống Cộng Sản rất cao. Có nhiều thành tích và uy tín với giáo dân. Lời hẹn ước xưa với cha Quỳnh. Do tình trạng thiếu linh mục nên linh mục A còn phải phụ trách thêm Phúc Xá Thượng và Phúc Xá Hạ nữa. Yêu cầu của cấp trên nói rõ: Sau khi Cha A xem xong thư của Cha Quỳnh, đồng ý tự nguyện hoạt động cho thế giới tự do, điều đó là thành công nhất. Khi đó, tôi sẽ nằm luôn tại nhà xứ trong một nơi an toàn, theo sự sắp xếp của Cha A. Hàng ngày, chính tôi sẽ huấn luyện cho người những nét chính yếu, cơ bản về hoạt đống tình báo. Trong vòng 10 ngày, phải xác minh được tinh thần, năng khiếu, hoàn cảnh, điều kiện của nửa giao cho người, một nửa tôi sẽ mang về miền Nam. Sau này, bất cứ thời gian nào đớ, hoặc nơi chốn nào, có một người nào đó, đến gặp cha, nói đúng mật khẩu và đưa mật vật, người đó chính là đại diện của Sài Gòn, và sẽ cung cấp những nhu cầu cần thiết cũng như nhiệm vụ cho cha. Nếu vì một lý do nào đó, cha vẫn có tinh thần chống Cộng Sản, nhưng lại không đồng ý hoạt động trực tiếp cho Sài Gòn, yêu cầu cha giới thiệu người tin cẩn, thân tín nhất, có khả năng và tinh thần. Lúc đó, tôi sẽ trực tiếp gặp riêng, rồi tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của người đó, sẽ quyết định nơi huấn luyện. Nếu không có điều kiện thuận lợi, yêu cầu cha giúp đỡ rồi cũng bí mật nằm im 10 ngày để huấn luyện. Tuyển mộ nhân viên: Không phân biệt tuổi tác, thành phần, nữ hay nam, nếu là người của chính quyền địch thì càng tốt. Tìm hiểu kỹ thân thế, quan hệ họ hàng, hoàn cảnh, điều kiện sống của người nhân viên mới đó. Cân nhắc xác đáng, phù hợp để cho họ hai địa chỉ ở Pháp và Campuchia để liên lạc. Địa chỉ ở Pháp: Paul Lạng, 14 rue du Four, Paris Sixième, France. Cung cấp cho nhân viên đó rõ thực tế: Paul Lạng, 42 tuổi. Pháp lai có vợ là Marie Nguyễn cũng là Pháp lai. Trước năm 1954 ở Sài gòn. Đầu năm 1954 cùng vợ và 5 con gái vê Pháp trên chuyến tàu Espérance. Hiện y đang làm chủ một hiệu giặt ủi máy lớn ở cùng địa chỉ. Ghi Chú: đánh máy thiếu 1 đoạn . Ban Tu Thư sẽ bổ túc sau . Xin cáo lỗi cũng quý bạn đọc.) ....... 1) Anh dạo này có khoẻ không? – Trả lời vẫn khoẻ, là bị theo dõi. Trả lời ốm bịnh là vẫn bình thường, không ai theo dõi cả. 2) Anh có ước mong có tiền để mua một chiếc xe đạp mới không? – Trả lời không thích tự do. 3) Anh có thích nhạc Phạm Duy không? – Không thích là bị theo dõi. Thích nghe là tự do. 4) Anh thích ăn thịt gà không? – Trả lời thích là bị theo dõi. Không thích là tự do. 5) Người dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, sống có thoải mái không? Thoải mái là bị theo dõi. Không thoải mái là tự do. Ngoài ra, còn hai quy định nữa trong những thư viết cho hai địa chỉ trên để báo cho Sài Gòn biết là mình đang bị công an cưỡng bức ngồi viết thư: 1) Đầu lá thư viết ngày tháng, nếu không để chữ “Ngày” là bị theo dõi. Thí dụ: 20-10-1963: bị theo dõi. Ngày 20-10-1963: không bị theo dõi. 2) Tuy có viết ngày hay không, mà dưới niên hiệu năm không có “dấu chấm” là bị theo dõi. Có “dấu chấm” là tự do. Thí dụ: 20-10-1963: bị theo dõi; 20-10-1963.: tự do. Bắt nhân viên đó học thuộc lòng. Cần nhớ nguyên tắc 5 câu hỏi trên là: Hợp lý: bị theo dõi. Không hợp lý: tự do. Bởi vì, nếu không có ai để ý theo dõi, hoặc ngồi trong phòng: công an dí súng bắt viết báo cho Sài Gòn, thì viết ngược cũng không thành vấn đề. Quy ước có hàng nghìn kiểu, chỉ có trời biết, nhưng với điều kiện phải nhớ, không được lẫn lộn. b) Linh mục B. Là một người rất trầm tĩnh, ít nói. Làm việc hết khả năng, dù gặp trở ngại cũng tìm mọi cách để hoàn thành công việc. Có óc tổ chức. Còn nặng về tôn giáo hơn xã hội. Theo Cục cho biết cha B vẫn ở trong nhà thờ Y. c) Linh mục C. Cũng ở nhà thờ Y, Hà Nội. Cha năm nay đã già. Tuy vậy, tinh thần của ông rất cao. Ông rất có uy tín với giáo dân Hà Nội, cũng nhưn hàng giáo phẩm Việt Nam. Theo ý của Cục: - Cần nhất là linh mục A. Nếu vì lý do nào đó mà người không còn ở nhà thờ X; hoặclý do nào khác mà người từ chối thì hãy tới linh mục B. Nếu vì lý do nào đó mà không thể được linh mục B, thì mới tới linh mục C. Theo Hoàng Công An cho biết. Ba linh mục trên, không những cùng hàng giáo phẩm thờ Chúa, chăn chiên như linh mục Hoàng Quỳnh, mà còn là những người thân, những đồng chí đã có nhiều hẹn ước khi cha Hoàng Quỳnh từ giã theo đàn chiên di cư vào Nam. Tuy vậy, đã 8 năm rồi, dưới chế độ Cộng Sản tàn bạo, chẳng hiểu tinh thần của các người bây giờ thế nào. Hơn nữa, sức khoẻ cũng là một vấn để đối với ba linh mục kể trên. Riêng tôi, tôi đã suy nghĩ nhiều: Tôi thấy và hiểu rằng công tác này quá nặng nề và nghiêm trọng, đòi hỏi phải một người có khà năng 10 mà tôi chỉ có 2, nghĩa là không có trâu thì phải bắt nghé đi cầy. Vì thế, tôi đã mạnh dạn nói ý này với An. An nói: - Trên Cục đã nghiên cứu về vấn, đề này rất kỹ, nhất là về tôn giáo. Không phải ai cũng giao được công tác này, bởi vì, nếu thất bại, Cộng Sản sẽ lấy đó để hạ uy tín của công giáo và tăng cường kìm kẹp giáo dân cũng như các hàng giáo phẩm hơn nữa. Không những thế, công tác còn đòi hỏi rất nhiều mặt, nhất là địa bàn hoạt động lại là thủ đô của Cộng Sản. Bình yên tâm, Cục đã cân nhắc, tìm tòi nhiều, cuối cùng mới quyết định Bình đấy chứ. Dù An nói sao, tôi vẫn tự nghĩ thầm. Những người đầy đủ khả năng thì không ai dám đi, vì đầy nguy hiểm, chết chóc trước mắt. Vì thế, trong số những người liều bất tử, dù không đủ yêu cầu thì cũng đành chọn vậy. Tuy trong lòng tôi đầy vơi nghĩ suy như vậy. Nhưng nhìn lại, thế của tôi đã ngồi lên lưng cọp rồi. Quan điểm của tôi là đã trót ngồi lên lưng ông Ba Mươi, phải thúc gót thêm cho ông phóng mạnh, rồi muốn ra sao thì ra. Một hôm, Hoàng Công An đến nói với tôi: Theo ý cha Hoàng Quỳnh, trước khi người viết thư, người yêu cầu được gặp chính người lãnh sứ mạng đặc biệt đó ra Hà Nội. Cục đã chấp nhận. Vậy, sáng mai, 9 giờ tôi đến, chúng ta cùng đi. Tôi hỏi đi đâu, có xa không? An nói: - Ở xứ Bình An, bên Bình Xuyên. Tôi nhớ lại ngày xưa, ngày tôi còn là cậu bé, cha Hoàng Quỳnh là trưởng đoàn võ: Đinh Bộ Lĩnh mà tôi là một võ sinh tí hon theo đoàn đi các nơi biểu diễn những bài song kiếm hoặc Mai Hoa Quyền trêm một võ đài. Chắc giờ đây tôi có nói ra thì cha mới nhớ được, vì tôi lúc này đã lớn rồi. Bởi thế, tôi đã định, nếu khi gặp, cha không nhận ra thì tôi cũng không nhắc lại. Hôm sau An đến, chúng tôi cùng đi xe tới xứ Bình An. Tôi và An ngồi chờ cha ờ phòng khách. Một lát sau, cha ra. Ôi, mới hơn 10 năm trời mà khi tôi nhìn thấy người, tôi rất ngỡ ngàng. Da mặt người đã nhăn nheo, tóc người đã điểm sương. Chỉ còn dáng dấp quen thuộc, nhanh nhẹn của người thì vẫn như ngày nào. Hơn một giờ chuyện trò, Cha thường nhìn tôi, nói: “Dũng cảm nhỉ!”. Lúc tiễn An và tôi ra cổng, cha nói: - Cha rất cảm phục con. Trước ngày con đi, cha muốn ăn cơm với con một bữa, để thỏa lòng cha, gọi là trách nhiệm của một người tiễn đưa một tráng sĩ mang tinh thần oanh liệt của Phạm Hồng Thái, con có đồng ý không? Tôi không dám trả lời và nhìn sang An. An nói: - Con xin lĩnh ý cha. Con về xin ý kiến, rồi sẽ điện đến cha ngay. Trên đường về, An nói: - Chưa chắc cấp trên đã đồng ý, vì Bình còn nhiều việc lắm. Tôi biết uy tín của cha Quỳnh không phải là nhỏ. Người đã làm cho Hồ Chí Minh bẽ mặt một lần, khi người còn là Phó Chủ Tịch Mặt Trận “Liên Tôn Diệt Cộng” hiển hách năm nào ở ngoài Bắc, mà sư Tuệ Chiếu là Chủ Tịch; cái thời cáo Hồ còn bịp bợm ve vãn, mua chuộc, quỳ gối trước Đức cha Lê Hữu Từ xin chịu rửa tội nhập đạo. 4. Tuyển mộ huấn luyện: Nếu do lòng nhiệt tình và ý thức dân tộc nên các cha đồng ý, tối sẽ huấn luyện. Nếu không, xin các cha giới thiệu những người tin cẩn và thân tín, lúc đó, chính tôi sẽ tuyển mộ và huấn luyện họ. Đối với tôi, điều này không khó khăn gì lắm. Ban đầu, chỉ cần nói những nét cơ bản về nghiệp vụ. Điều khó khăn là tìm biết được khả năng và bản tính của mỗi người, phát hiện ngay được cái ưu, cái khuyết của họ. Tuy tôi cũng đã được học tập gần 2 năm, Dale, Brown và An vẫn nhấn mạnh: - Bản tính con người ta vô cùng phức tạp, có rất nhiều vấn đề khác biệt. Nhưng nói chung, con người gồm ba loại: a)Loại bộp chộp, ruột để ngoài da. Vui, buồn hay có vấn đề gì, chung quanh ai cũng biết. Loại ngưòi này ta ít phải quan tâm. b)Loại thâm trầm, ít nói. Họ ghét hay họ yêu mình, họ đồng ý hay không đồng ý việc mình làm, thái độ của họ không thay đổi. Loại người này, khi sống gần, ta phải luôn luôn cảnh giác, giữ ý và coi chừng. Nếu họ bắt đầu có hành động hay thái độ gì không bình thường, ta đã chuẩn bị đối phó. Nhưng họ không nguy hiểm bằng loại thứ ba. c)Loại người này, họ vẫn cười nói với mình, đôi khi lại tỏ ra thắm thiết thân mật hơn, ta có khó khăn gì họ sẵn sàng giúp đỡ, chia xẻ. Khi họ chiếm được lòng tin của ta, bất ngờ cho một mũi dao vào tim ta. Loại này thường làm mất cảm giác của ta. Gây cho ta sự chủ quan rồi hại ta v.v... Tóm lại: Để có thể phân loại được bản tính của đối tượng, ta phải có sự nhận xét tinh tế và bén nhậy. Dù đối tượng nói gì, nấp dưới bất cứ hình thức nào, ta vẫn phải nhìn rõ bản chất, nghĩa là con người thực của họ. v.v... Người đi tuyển mộ phải biết. Bản tính con người khó thay đổi. Vì vậy, trong giai đoạn thử thách, tùy theo hoàn cảnh, điều kiện cho phép có thể ngắn dài, nếu thấy người mình định tuyển mộ có những khuyết điểm về cơ bản thuộc bản chất, ta phải loại bỏ ngay. Khác với các lãnh vực khác còn có thể sửa chữa được, bản chất thì không. Một người có tính huênh hoang, có thể đã bị đời đập cho méo mặt vì cái tính huyên hoang, khoác lác này, cũng chỉ chừa được ít ngày, rồi sau đó, đâu lại hoàn đấy. Một người có tính tự ái cao, thì suốt đời cũng không thể bỏ được tính đó. Chính vì tính tự ái này, họ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội thăng tiến, lỡ lầm nhiều chuyện tình cảm, để phải ân hận lâu dài. Ông bà ta đã chẳng từng nói: “Cái nết đánh chết không chừa”. Phương tây cũng có những câu chuyện về “Ông vua và chiếc tai Lừa”, hoặc “Con mèo và ông quan đại thần”... Ông cha đã dậy con cháu là chúng ta: Giang sơn dễ đổi, bản tính khó rời! |
|
|
![]()
Post
#10
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bảy
Những Chuyện Tình Báo... Nhiệm vụ phụ : Ngoài những nhiệm vụ chính mà tôi phải đem hết nghị lực, khả năng để phải thực hiện bằng được, trong quá trình sống và di chuyển ở Hà Nội, tôi phải để ý tới những hiện tượng dưới con mắt nghiệp vụ những số nhà sau đây: - Số 6 phố Cầu Gỗ. - Số 1 phố Đường Thành. - Số 27 phố hàng Đường Theo nguồn tin tình báo, ba nơi này thường xuyên đào tạo, huấn luyện gián điệp rồi tung vào miền Nam hoạt động. Tình báo miền Nam đã bắt được hai vụ nổi tiếng, và Cục đã cho tôi biết chi tiết để rút ra nhiều kinh nghiệm như một bài học. Dưới đây là hai vụ điển hình. Tất nhiên còn nhiều vụ khác nữa: 1. Khoảng 1957, do nhân dân bí mật tố cáo, tình báo miền Nam đã bố trí bắt được một nhân vật có hạng về tình báo của miền Bắc. Khi đem về khai thác, điều tra. Sau hơn một năm trời, dùng mọi khả năng của những nhà chuyên môn, ta cũng đành chịu khuất phục trước sự kiên trì, lì lợm của y. Nếu ở trong tay công an dưới chính quyền miền Bắc, nhận tội hay không, tội nhân cũng cứ bị tù cho tới khi nào cơ thể không chịu được nổi, hoặc cho tới già, rồi về với ông vải, thì thôi. Nhưng chính quyền miền Nam, nếu thiếu chứng cớ cụ thể, chỉ giam tội nhân tới một mức quy định, rồi cũng phải thả ra. (Cụ thể như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình v.v...) Anh ta, trước sau chỉ một mực chối lá vô tội. Ta đã dùng nhiều biện pháp tinh vi hơn như: Khổ nhục, tra tấn, dụ dỗ, khích lệ v.v... cũng đều vô hiệu. Việc này đã làm điên đầu những người có trách nhiệm của Cục tình báo miền Nam. Sau nhiều phiên họp gay cấn, chính ông Cục Trưởng đã đưa ra một kế hoạch, và ông xin chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch đó. Vào một buổi cuối Đông, bầu trời Huế xám xịt, những cơn gió mùa Đông Bắc về muộn mang theo những trận mưa rả rích, nhạt nhòa ... Từ cổng nhà lao Thừa Thiên, hai chiếc xe Dodge 4 phủ mui kín mít, lao về quốc lộ 1 hướng về Nam, chuyển tù vào Sài Gòn. Xe trước, băng sau chở 4 phạm nhân bị khóa tay, trong đó có tên Cộng Sản lì lợm nói trên, và hai người mặc quân phục có vũ trang áp tải. Băng trên, ngoài tài xế, còn có một trung úy và một hạ sĩ. Ông hạ sĩ này chính là ông Cục Trưởng mà tên Cộng Sản đó chẳng lạ gì. Xe sau, chở một thiếu úy và nửa tiểu đội, tất cả đều mặc quân phục và có vũ trang. Hai chiếc xe theo nhau chạy mãi vào đêm tối. Hơn 4 tiếng đồng hồ sau, lúc đó khoảng 11 giờ khuya, giữa quãng đường dài vắng vẻ, hai bên là triền rừng; bất chợt hai loạt trung liên nổ ròn rã phía trước xe. Đạn réo lên ngay phía trên mui. Ngay lúc đó, tài xế và mọi người đều đã nhìn rõ một chướng ngại vật là một thân cây to nằm chặn ngang đường. Biết là đã lọt vào ổ phục kích, các quân nhân trên hai xe vội vàng nhẩy xuống đường, tìm địa thế cấp thời để chống trả. Nhưng, tất cả đã nằm gọn trong vòng vây, với đầy mũi súng tua tủa của đoàn quân phục kích. Chỉ sau 10 phút, tất cả quân nhân trên hai xe đều bị tước hết vũ khí, bị trói gô và bắt ngồi tập trung vào một chỗ. Một người, có lẽ là chỉ huy đoàn quân phục kích, ra lệnh lục soát trên hai xe, tịch thu một số đồ cần thiết, trong đó có cả giấy tờ, hồ sơ, v.v... Riêng 4 phạm nhân, tay vẫn bị khóa, bị dẫn xuống bắt ngồi cùng với đám quân nhân, sau khi biết họ đều là tù hình sự can tội an cướp hoặc giết người. Người chỉ huy đoàn quân phục kích nhìn những quân nhân đang bị trói, dõng dạc tuyên bố: - Các anh là ngụy quân, lầm đường lạc lối, làm tay sai cho đế quốc Mỹ bắn lại nhân dân, làm hại đồng bào, lẽ ra chúng tôi bắn bỏ hết. Nhưng, theo chính sách khoan hồng của đảng (lúc đó chưa có Mặt Trận Giải Phong Miền Nam), chúng tôi sẽ tha hết, kể cả 4 phạm nhân hình sự. Các anh hãy trở về cải tà quy chính. Riêng hai tên sĩ quan, vì đã có nhiều nợ máu với nhân dân, chúng tôi phải mang vào bưng xử lý. Rồi người đó ra lệnh cởi trói cho hết các quân nhân, còn bắt đưa chìa khóa mở còng cho 4 người tù. Giữa lúc đó, tên tù Cộng Sản lì lợm, đứng bật dậy, rút ở trong ve áo ra một miếng vải đỏ hình vuông mỗi bề 4 phân, ở giữa có hai ngôi sao vàng nằm trên sọc trắng. Y đưa cho tên chỉ huy đoàn quân phục kích xem và nói: - Các đồng chí, tôi là Trưởng K 10 nội thành Sài Gòn, thuộc cục R. Hôm nay, vô tình các đồng chí đã lập được một kỳ công vô cùng to lớn. Các đồng chí hãy trói ngay tên hạ sĩ kia, nó chính là tên Cục Trưởng Trung Ương tình báo của Sài Gòn. Cả đoàn quân phục kích sáng mắt hân hoan. Bốn, năm mũi súng đều chĩa vào ông hạ sĩ và trói nghiến lại. Thay vì đưa vào bưng, người chỉ huy mặc áo bà ba đen ra lệnh tất cả lên xe trở về miền ... sông Hương, núi Ngự. 2. Sự việc xẩy ra vào năm 1959 ở ngôi nhà, hình như mang số 126 hay 128 (tôi không nhớ rõ), đường Phan Đình Phùng Sài Gòn. Ngôi nhà này có cửa sắt, tuy ở mặt phố nhưng không bao giờ thấy mở, trừ đôi lúc có người ra vào. Chủ ngôi nhà là một quả phụ, gần 60 tuổi. Trước đây, bà có một người em trai ở cùng. Ông này học hành đã thành đạt, nên hiện đang làm việc trong Phủ Tồng Thống. Người ta chẳng biết ông làm gì, chỉ nghe đồn ông rất có uy thế, thường gần gũi với ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Có thể do đòi hỏi của công việc, hoặc vì lý do nào khác, ông đã được cấp một căn biệt thự ở đường Công Lý, gần dinh Độc Lập, để đi vể được thuận tiện. Và vì vậy, ngôi nhà ở Phan Đình Phùng càng vắng vẻ đìu hiu. Ngoài bà Hân là chủ nhà, trong nhà chỉ còn một bà giúp việc cũng họ gần xa với gia đình bà Hân. Những người mới đến ở dãy phố này không biết chồng con bà ra sao, chứ những người đã ở lâu gần đó đều hiểu hoàn cảnh gia đình bà. Bà Hân rất hiền lành phúc hậu, bà thường hay đi chùa đền để niệm phật ăn chay và làm việc phúc đức. Theo câu chuyện bà kể lại với những người quen biết, vợ chồng bà đều là con những gia đình giàu có thế phiệt trước đây ở Huế. Bà hiếm hoi, chỉ sinh được một cậu con trai duy nhất, đúng vào lúc xẩy ra những biến cố lớn lao của đất nước 1945. Khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Hân là một thành phần đảng phái, ông đã hiểu rõ sự hiểm độc của Việt Minh nên cương quyết không hợp tác trong Chính Phủ Liên Hợp của cáo Hồ bịp bợm. Ông đã bị chúng bí mật thủ tiêu ngay thời gian ấy. Giữa cảnh hỗn loạn Nhật, Pháp, Anh, Tàu, và Việt Minh thời đó, dân chúng đã phải trôi dạt, đẩy đưa khắp nơi, và bà đã thất lạc đứa con trai yêu quý, niềm an ủi độc nhất của đời bà. Sau đó, theo giòng đời, bà đã trôi dạt về Sài Gòn với người em trai nói trên. Do của cải trước đây để lại, hiện bà là người giầu có, thừa thãi tiền tài, nhưng lại rất thiếu nghèo tình đầm ấm của gia đình. Bà đã mất biết bao tiền bạc, tâm lực để thăm dò, tìm kiếm người con thất lạc, nhưng đều bặt vô âm tín. Nỗi nhớ thương buồn phiền của bà suốt 14 năm càng ngày càng cô đọng lại, dồn nén dần vào chỗ sâu kín nhất của tâm hồn bà. Nhũng người quen biết bà đều hiểu rõ như thế. Nhưng, Cộng Sản lại đào sâu, nghiên cứu kỹ, nên đã hiểu biết hơn thế nữa. Chúng đã triệt để lợi dụng, khai thác bối cảnh này. Chúng thấy đây là cơ hội để chúng đưa người lọt vào ở sát nách cơ quan đầu não của chính quyền miền Nam. Chúng đã tìm và tuyển mộ được một thanh niên theo ý chúng muốn. Chúng ra sức đào tạo, huấn luyện, từng động tác, thái độ, lời ăn tiếng nói, kể cả về tình cảm để đóng vai trò người con thất lạc của bà Hân. Nói về ngôi nhà của bà Hân. Ngôi nhà này thường đóng cửa, cho nên ở phía trước sát vỉa hè, một người đàn bà nghèo trong xóm đã kê một chiếc ghế dài nhỏ và một cái phản gỗ con, trên bày ít kẹo, chuối, nước sôi...bán cho các bác xích lô...ít tiền. Tên điệp viên là một cậu trai 19- 20 tuổi, khôi ngô, quần áo lam lũ; thuy khoẻ mạnh đầy sức trai, nhưng bộ mặt lúc nào cũng đăm chiêu mang nặng một nỗi niềm. Hàng ngày, sau những cú xe đường dài mệt nhọc, anh thường ghé chiếc xích lô đạp sát lề, uể oải ngồi vào ghế, gọi mua nước trà, nhấm nháp, lúc thì cái kẹo, lúc thì quả chuối...anh tỏ ra rất ít nói. Dần dần, hà hàng quen mặt. Bà cũng để ý và đôi khi nhìn bằng ánh mắt thương hại người còn trẻ, mặt mũi sáng sủa mà đã phải lam lũ cuộc đời! Trước, còn là những câu hỏi bâng quơ:”Hôm nay chạy khách có khá không?”, “Trời này, lại sắp mưa!”, “Sao hôm nay cậu đến muộn?” v.v... Cậu trai càng tỏ ra rất ít nói. Mặt lúc nào cũng buồn như che dấu một tâm sự riêng tư. Khi đã có thiện cảm với một cậu bé nghèo, cái tính tất nhiên của người đàn bà là sẽ dần dà thăm hỏi đến gia đình, thân thế, bố mẹ ra sao? v.v... Lúc đầu, cậu tỏ ra không muốn nói về cuộc đời bất hạnh hẩm hiu của mình, sau thấy bà già nghèo tử tế nên dần dần kể sự tình... Cậu chẳng biết bố mẹ là ai cả. Ngay từ lúc 4- 5 tuổi đã đi làm con nuôi cho người ta. 9- 10 tuổi phải đi ở , hầu hạ nhiều người. Rồi phiêu bạt đi làm đồn điền cao su đầy gian chuân, cực khổ. Cuối cùng, trôi dạt về Sài Gòn thân cô, thế cô, phải đi đạp xích lô mưu sinh. Bà bán nước, đã biết về câu chuyện của bà chủ nhà, nên cũng hơi nghi, vì vậy hỏi tới: - Thế cậu có nhớ ngày xưa bố mẹ cậu như thế nào không? Cậu trả lời, mường tượng, lúc nhỏ sung sướng, được mặc quần áo đẹp, được ngồi xe với bố có người kéo...Bà bán nước càng hỏi tiếp, hình như chạnh nỗi niềm đau buồn, cậu không muốn trả lời nữa, và trả tiền, đứng dậy đi. Bà bán nước tưởng tượng, càng suy nghĩ, biết đâu đây chả là chuyện cơ trời, nên chiều đó, sau khi gửi phản, ghế, bà nói với người giúp việc muốn gặp bà Hân. Khi gặp bà chủ nhà, bà bán nước thuật lại câu chuyện về người đạp xích lô trẻ tuổi. Đến đây ai cũng hiểu. Có bệnh thì vái tứ phương. Khi nỗi lòng của bà Hân như vậy, hỏi sao lòng bà chả xốn xang, bồi hồi, mong sớm gặp người xích lô đó để hỏi rõ đầu đuôi. Vì thế bà Hân vồn vã dặn: - Khi nào cậu ấy đến, bà dẫn vào đây ngay cho tôi hỏi chuyện. Ngày hôm sau, và cả mấy ngày sau nữa; bẵng đi bốn năm ngày không thấy cậu xích lô đó lại, khiến bà hàng nước lẫn bà Hân càng nôn nóng, bồn chồn mong đợi. Mãi tới hơn một tuần sau; vào một buổi chiều mưa giăng ẩm ướt, cậu xích lô ướt át ghé lại bà hàng nước. Bà hàng tíu tít hỏi: - Sao mấy bữa nay cậu không ghé đến? Sau khi rót ly nước trà để đó, bà hàng vội vàng bấm chuông vào nhà bà Hân. Chừng 5 phút sau, bà hàng nước hơ hải ra bảo: - Này cậu, mời cậu vào đây chơi một tí đã! Y tỏ vẻ không muốn vào, nên lắc đầu. Bà hàng nước lại vồn vã như níu kéo: - Cậu vào đây một chút thôi mà, đàng nào trời cũng đang mưa, cho bả chủ ở đây hỏi thăm cậu một câu chuyện. Rồi đến lúc bà hàng nước phải cầm tay lối kéo, y mới miễn cưỡng đi theo. Ngay khi bà Hân thấy người xích lô bước vào nhà, ánh mắt của bà hình như đã tràn đầy tình thương yêu, mặc dù bà chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ người con trai ấy là con bà. Lòng bà bồi hồi xốn xang, đến nỗi bà quên cả mời người xích lô đó ngồi. Khi bà mời, cậu xích lô ấy dè dặt ngồi xuống chiếc ghế gụ cạnh bàn, đầu cuối gầm. Bà hàng xóm cũng thấy lòng không yên, bỏ cả quán nước để mong được chứng kiến cái giây phút hồi hộp rấp ranh này. Mãi sau, như dằn được lòng xốn xang, bà Hân mới hỏi với một giọng còn xúc động: - Cậu bây giờ có họ hàng thân thích gì không? Y lắc đầu mà không nói. - Cậu có nhớ ngày xưa, gia đình cậu như thế nào không? Y vẫn đăm chiêu im lặng. Bà lại hỏi, trong niềm nghẹn ngào dâng trào: - Có phải cậu nhớ, lúc nhỏ cậu đi xe với bố có người kéo phải không? Y gật đầu. Bà Hân nôn nóng, tiếp tục hỏi: - Cậu cố nhớ lại xem, lúc nhỏ cậu hay chơi gì, làm gì? Y nhìn ra phía cửa sổ, mắt như dõi về một phía trời xa, về những quãng đời ấu thơ. Tới khi bà Hân nhắc lại câu hỏi, y mới chậm rãi: - Cháu chẳng nhớ gì rõ lắm....Cháu chỉ nhớ láng máng lúc nhỏ, cháu được bố mua cho con cù, con cù có cái đinh rất dài..... Bà Hân mắt sáng lên long lanh, hỏi như hết hơi: - Gì nữa? - Cháu có một quyển sách, có hình con rùa, bố cháu dạy cháu tô theo bằng bút chì màu đỏ. - Còn gì nữa không cháu? Y càng cúi gằm, trong khi không khí căn buồng như rên lên, căng đầy xúc động đợi chờ, cuối cùng y giơ ra ngón tay cái trái, chỉ vào một cái sẹo nhỏ, ngập ngường nói: - Một lần ở bếp với mẹ, cháu nghịch dao, đứt tay chảy máu. Mẹ đã khóc. Không kìm được nữa, bà Hân xô đến, ôm chầm lấy cậu xích lô, nước mắt chan hòa, nức nở: - Ôi, con ơi! Y cũng khóc, cả bà bán nước người ngoài cũng nước mắt vòng quanh. Hình như bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ của tình mẫu tử thiêng liêng bây giờ cuồn cuộn chảy ra theo giòng nước mắt, bà hổn hền tưởng như xỉu đi, dù vậy bà vẫn cố gắng lôi tay đứa con yêu: Con ơi! Con cù và quyển sách của con má vẫn giữ, vì đó là di vật duy nhất của con, má vẫn để ở ngăn tủ đầu giường má. Bà vừa nói vừa kéo người con trai lên gác. Bà rối rít hết sờ mặt, xoa tay, lại vuốt lưng cậu xích lô thân yêu, trong khi bà bán nước cũng lây nỗi vui mừng, cứ chạy lăng xăng hết đầu này, đầu kia chẳng biết làm gì cả. Ngay chiều hôm ấy, bà Hân báo tin gọi người em trai về. Thôi thì cậu cháu, mẹ con hàn huyên nỗi niềm máu mủ ruột thịt, của buổi trùng phùng nước mắt đầy vơi. Thương bà chị cả cuộc đời cô đơn heo hút, ông cậu nhìn thằng cháu khoẻ mạnh, khôi ngô, ông hứa sẽ đem hết khả năng dạy dỗ, nâng đỡ đứa cháu yêu đến khi thành đạt. Ông bàn, nào là đón giáo sư về kèm cặp, nào là tập lái xe để chở mẹ đi chùa,v...v...Ngôi nhà giờ đây tràn ứ đầy sự sống, sự ấm cúng và niềm vui tươi. Riêng tên điệp viên, ngay khi vào Sài Gòn đã được cấp trên y chỉ định phải thường xuyên liên lạc, cặp bồ với cô Ngân làm chiêu đãi viên cho một quán cà phê ở ngã Bảy, để dự phòng, nếu sau này bà Hân và ông cậu bắt lấy vợ thì phải cương quyết đòi lấy cho bằng được cô Ngân. Dĩ nhiên, cô Ngân cũng trong mạng lưới hoạt động của Cộng Sản ở Sài Gòn. Đến đây, mọi việc tường êm xuôi trôi lọt như ý Việt cộng mong muốn, nhưng không, trái lại đã bắt đầu trục trặc. Nguyên nhân cũng chỉ vì diễn viên đã không khéo đóng trọn vai trò. Bà Hân tin tên xích lô là con nên tình bà vẫn thắm thiết thương yêu. Ngược lại, y biết y không phải con bà. Mẹ y hiện đang ở ngoài Bắc. Lúc đầu, vì cố gắng nổ lực để công tác thành công, nên y đã xuất thần thủ đúng vai trò. Sau một thời gian, những biểu lộ thương yêu với người mẹ giả trở nên cứng ngắc, không có hồn. Nỗi buồn của bà càng ngày càng khoét sâu, càng lớn. Bà thổ lộ với người thân quen và tất yếu, cả với em trai. - Tôi không hiểu sao, tôi thương yêu nó như trời biển, nhưng hình như có cái gì ngăn cách, tôi chỉ cảm thấy sự tẻ nhạt, gắng gượng ở bên trong của nó. Sự phàn nàn, ca thán của bà dần dần đến tai những nhân vật phản gián. Một sự việc không bình thường! Tình mẹ con ruột thịt là sự thiêng liêng, phải có những chiếc dây vô hình gắn bó. Thấy một sự không bình thường thì phải đặt vấn đề. Mà nguyên tắc tình báo cũng như công an, nếu đã đặt vấn đề thì phải tìm mọi cách để biết rõ hư thực của vấn đề đó, cho nên, họ đã dùng chính ông cậu trong nhà làm tấm bình phong để bí mật theo dõi và phanh phui sự việc. Gần một năm sau, trọn ổ gián điệp vùng đó đều bị sa lưới. Trở lại nhiệm vụ phụ: Dale và Brown mang đến hai chiếc máy bay MIG –15 và MIG- 19 dài chừng 20 phân, nhưng thật tinh vi, sắc sảo như máy bay thật, thu nhỏ; với đầy đủ cả động cơ, phù hiệu, cờ quạt.....Hai ông đã giảng cho tôi rõ ràng tính năng từng loại; để suốt quá trình thời gian tôi ở miền Bắc, nếu thấy loại máy bay đó trên bầu trời, về báo lại. Ngoài hai máy bay MIG, hai ông còn đưa tôi xem hai cuốn sách có hình mầu: lon, phù hiệu các binh chủng, từ lính cho tới nguyên soái; cả y phục mùa Đông cũng như mùa Hè của quân đội Trung Cộng và Bắc Triều Tiên. Ngoài ra, trong thời gian ở Hà Nội, tôi phải quan sát các hiện tượng ngoài đường phố. Theo dõi các báo chí, phát thanh những đơn vị nhỏ tập tành. Tiếp xúc quan hệ với mọi từng lớp người dân, v.v...Để từ đấy đánh giá (nếu ghi được số lượng cụ thể càng tốt) những điều tai nghe mắt thấy, nói chung về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, xã hội...và tư tưởng chung của quần chúng, cán bộ, bộ đội. |
|
|
![]()
Post
#11
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Tám
Những “Vỏ Bọc” ... Vỏ bọc I Tôi sẽ đóng vai là một học sinh trường trung học Phổ Thông cấp III ở Vĩnh Linh. Vối tên là Lê Viết Hùng, lý lịch giả như sau: Gia đình bố mẹ tôi, do đói kém, loạn ly năm 1945, đã phiêu bạt từ Nam Định vào lập nghiệp ở xã Vĩnh Quan, Vĩnh Linh. Bố tên là Lê Văn Thông, mẹ là Vũ Thị Sàng. Tôi có 3 anh chị em: Chị Lê Thị Thu, em trai Lê Tuấn. Tôi phải nhớ tên: Giám hiệu trưởng Phổ Thông cấp III Vĩnh Linh, chủ tịch và phó chủ tịch huyện V.L., chủ tịch và phó chủ tịch xã Vĩnh Quang. Và, vì tôi cũng là đoàn viên thanh niên, nên tôi cũng phải biết tên của bí thư và phó bí thư chi đoàn. Ngoài ra, tôi phải biết một số sự kiện lớn xảy ra ở Vĩnh Linh, nhất là ở xã tôi, vùng giáp ranh khu phi quân sự. Qua những tin tức cố định trên, tôi sẽ tùy theo trường hợp để ứng biến sao cho hợp lý. Tôi (Lê Viết Hùng) có nhiều triệu chứng mắc bệnh tim đã lâu, bây giờ càng ngày càng trầm trọng hơn, nên đã xin được giấy giới thiệu của thị trấn Vĩnh Linh về Hà Nội nhân dịp He để đến nhà thương Việt Đức điều trị. Tôi mang theo đủ giấy tờ hợp lệ: Giấy giới thiệu chữa bệnh, thẻ học sinh, giấy nghĩa vụ quân sự, thẻ đoàn viên, giấy thông hành thời hạn một tháng, có chữ ký của công an trưởng huyện Vĩnh Linh. Vỏ bọc này, tôi phải nghiên cứu và học thuộc lòng, sao cho từ nếp suy nghĩ đến hành động, coi như mình là Lê Viết Hùng có thực bằng xương bằng thịt. Để thực tập, tôi phải đến gặp ba, bốn lần một người lạ rất hách dịch, đóng vai công an Cộng Sản, lúc thì ở khách sạn Catinat, lúc thì ở Majestic. Ông ta hạch sách, nạt nộ tôi đủ điều, hỏi những câu bất chợt lắt léo, xem tôi có trả lời hợp lý hay không. Tôi còn nhớ lần cuối cùng, khi nói chuyện vãn, ông tự giới thiệu tên là Đang đã từng sống và làm việc cho Cộng Sản nhiều năm, (ông không nói, nhưng tôi đoán hẳn ông đang làm việc cho Cục), ông nói: Tôi nói thực với Bình, cái chính là đừng để cho công an của Cộng Sản nghi ngờ. Khi nó đã đặt thành vấn đề nghi mà sát hạch thì ‘mả bố ở đâu, mà nó bảo đào đưa cho nó, thì cũng phải đào.” Kể ra, ông không nên nói câu đó, nhất là với một nhân viên sắp vào đất địch, chỉ làm hoang mang tinh thần của người đi. Sau này càng nghĩ, tôi lại càng thấy những người huấn luyện mình thiếu ý thức, thiếu tinh thần trách nhiệm, vì thiếu lý tưởng thực sự! Vỏ bọc II Trong trường hợp bị Cộng Sản bắt giữ. Nếu vì lý do nào đó, Cộng Sản không tin hoặc đã xác minh giấy tờ đều là giả mạo và tôi không phải là Lê Viết Hùng ở Vĩnh Linh. Lúc đó, tôi sẽ khai: Gia đình bố mẹ, gốc tích thực, nhà nghèo. Học hành thi hoài không đậu, chán chường, nhưng tính thích làm những việc táo bạo, không sợ nguy hiểm miễn việc đó có tiền để giải quyết cuộc sống và giúp đỡ bố mẹ già. Do bạn bè giới thiệu, tôi gặp một ông tên là Lân. Vì là nhân vật tưởng tượng, nhưng lại cần nhớ chi tiết để đề phòng sau này công an hỏi lại, do đấy, tôi phải lấy một người có thật để mô tả, và tôi đã lấy hình dáng một ông cậu to lớn, béo tốt, chủ một hảng xuất nhập cảng ở Sài Gòn, để tả về ông Lân. Ông Lân thường hẹn gặp tôi ở một quán nước. Sau một, hai lần thăm dò, nói chuyện, biết về con người và tâm nguyện của tôi, ông đi thẳng vào vấn đề: Ông có “truy- ô” nhiều thuốc Tây quý cần tiêu thụ. Ở ngoài Bắc, các loại thuốc này vô cùng hiếm nên giá rất cao. Vậy, nếu tôi muốn làm giầu, phải mạo hiểm. Ông sẽ lo giấy tờ giả cho. Tôi sẽ bí mật, lén lút lội qua sông Bến Hải, đem theo hơn một chục mẫu loại thuốc quý, móc nối, mua bán đặt hàng với những con buôn bí mật có thể lực ở Hà Nội. Sau này, lời lãi sẽ chia đôi, ông đó một nửa và tôi một nửa. Còn bây giờ, tốn phí ông đài thọ và cho tới khi đi sẽ trả trước cho tôi 10.000 đồng. Một hôm, Dale và Brown dẫn đến một người Mỹ khác khoảng 40- 45 tuổi, giới thiệu là bác sĩ Harry. Ông Harry đưa gần 20 lọ thuốc Tây, chỉ dạy cách dùng và tính năng của từng loại. Theo ông Phan, cho tới ngày tôi đi, Harry cũng sẽ là bác sĩ riêng của tôi để săn sóc sức khoẻ và những cần thiết về y lý cho chuyến đi. Vỏ Bọc III Sau khi khai vỏ bọc II, nếu Cộng Sản vẫn không tin, hoặc tìm ra được những chứng cớ cụ thể là tôi nói láo, không đúng, có thể chúng sẽ cùm kẹp tra tấn, tôi không thể chịu đựng nổi, lúc bấy giờ tôi sẽ dùng vỏ bọc III. Vẫn chưa là chuyện chính trị. Phần thân thế, gốc tích gia đình cũng như vỏ bọc II, vì đó là thực tế. Cảnh học hành, thi cử cũng chỉ ăn vỏ chuối nên chán chường, và tính tình thích làm những chuyện mạo hiểm cũng vậy. Phần khác biệt. Do quan hệ xã hội, đã được một người quen giới thiệu với sư bà Đàm Hướng ở chùa Phước Hải, khu Vườn Chuối, Phan Đình Phùng Sài Gòn, nội dung như sau: Trong thời Pháp thuộc trước 1945. Sư bà Đàm Hướng và sư ông Tuệ Chiếu là hai sinh viên yêu nước thiết tha, nhục nhã đau lòng trước cảnh dân tộc bị thực dân Pháp thống trị. Hai ông bà nối chí những bậc cách mạng tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học v.v... Đã bí mật hoạt động trong giới sinh viê ở Hà Nội, gây nên nhiều vụ chống đối sôi động, với bọn cầm quyền thực dân và đã bị chính quyền thực dân, ra lệnh truy lùng ráo riết. Hai ông bà không những là đồng chí mà còn là đồng sàng, vì cùng nhau đã trải qua nhiều gian nan nguy hiểm nên hai trái tim đã cùng rung đều một nhịp. Trước sự truy nã lùng sục của mật thám, để che mắt chúng, và cũng để tỏ với chúng là mình đã chán chường cuộc đời, hai người đều xuống tóc, nup1 bóng cửa thiền. Ông thì tu ở chùa Quan Thánh Hà Nội, pháp danh là Tuệ Chiếu; còn bà tu ở đâu, tôi không biết, chỉ biết pháp danh là Đàm Hướng, hiện trụ trì ở chùa Phước Hải, Vườn Chuối Phan Đình Phùng Sài Gòn. Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền, chúng lòi ra ý đồ diệt tôn giáo. Bề ngoài cổ vũ “Lương Giáo đoàn kết” để chống Pháp, xây dựng đất nước. Bên trong thì chúng ngấm ngầm tìm mọi điều kiện, lợi dụng mọi mâu thuẫn tôn giáo để kích động, khơi sâu mối chia rẽ. Nghĩa là, luôn luôn đổ dầu vào những đốm lửa mâu thuẫn, dị biệt của tôn giáo. Nhìn rõ trái tim đen bẩn thỉu của Cộng Sản, sư ông Tuệ Chiếu và sư bà Đàm Hướng đã dùng khả năng và uy tín vạch trần ý đồ nham hiểm của Cộng Sản trước tín đồ, và còn ngấm ngầm trao đổi bàn luận cùng bên Công giáo, lập ra Mặt Trận Liên Tôn Diệt Cộng mà chủ tịch là sư ông Tuệ Chiếu và phó chủ tịch là linh mục Hoàng Quỳnh cùng nhiều nhân vật lãnh đạo trong Mặt Trận. Sư ông Tuệ Chiếu và nhiều người khác đã bị Cộng Sản bí mật thủ tiêu ngay. Chỉ vì khi đó phía Phật giáo chưa có sự đoàn kết thống nhất, nên chưa có áp lực mạnh với Cộng Sản. Còn linh mục Hoàng Quỳnh, trước áp lực sức mạnh của quần chúng Công giáo, chúng đã không dám giết ngay. Công giáo khi ấy đã là một tổ chức thống nhất nên Cộng Sản ít nhiếu kiêng nể. (Tôi nói thời gian đó thôi, vì lúc đó chúng chưa mạnh, chúng còn cần sự giúp đỡ hoặc không chống phá của Công giáo. Chứ sau 1975, chúng không còn e dè nể nang gì cả.) Chúng chỉ dám quản thúc linh mục Hoàng Quỳnh ở nhà thờ Lạc Đạo, thuộc địa phận Bùi Chu. Con chiên vẫn được phép thăm nuôi bình thường, theo quy định. Sư bà Đàm Hướng nghe tin chồng chết, quá đau thương, chỉ còn đành tìm xác người chồng bất khuất, chết anh hùng, oanh liệt hy sinh cho dân tộc, bí mật đem về thành Hà Nội, vùi lấp ở nghĩa trang Hợp Thiện Bắc Việt. Hội nghị Genève chia đôi đất nước, bà cùng đứa con trai di cư vào Nam. Vào Nam, tuy vẫn ở trong cửa Phật, nhưng bà vẫn không quên quê hương dân tộc, nên ngay trong chùa cũng như ngoài xã hội, bà diễn thuyết cổ vũ, khích lệ, tổ chức đoàn thể với mục đích chống kẻ tử thù Cộng Sản. Ngoài ra, từ ngày vào Nam, bà cũng còn ấp ủ trong trái tim một điều thầm kín nhất, là bà ước mong có cách gì đó, hay có ai ra miền Bắc, bà sẽ không tiếc tiền để xây cho ông một nấm mồ yên ấm. Gọi là chút lòng của người đồng chí, của người tình, của người vợ, đối với người ngàn đời kính yêu đã ra về nơi ngút ngàn mây gió, hy sinh vì Tổ Quốc. Chính với nỗi niềm ấy của bà, nên khi gặp tôi, một thanh niên, cành đời đã làm cho bất đắc chí, và sau nhiều lần tìm hiểu, bà rất mừng rỡ. Bà sẽ lo liệu giấy tờ giả cho tôi để vượt tuyến. Bà sẽ trả cho tôi 100.000 đồng sau khi hoàn thành công việc. Trước khi ra đi, bà sẽ đưa trước cho tôi 10.000 đồng để giúp đỡ gia đình bố mẹ già. Tôi sẽ trốn qua sông Bến Hải về Hà Nội, mang theo một lá thư của bà gửi cho ông Thẩm Hoàng Tín, thị trưởng thành phố Hà Nội hồi 1954. Ông là dược sĩ, trước có hiệu thuốc Tây ở Hàng Da Hà Nội. Ông Tín là bạn chí thân của hai ông bà. Nội dung lá thư nhờ ông Tín vì tình bạn thiêng liêng đứng trông nom xây cho ông Tuệ Chiếu một ngôi mộ gọn ghẽ khang trang. (Sau hội nghị Genève 1954, lý do tại sao một đương kim thị trưởng của thủ đô Hà Nội vẫn ở lại với Cộng Sản, không di cư vào Nam sẽ được đề cập ở chương “Những bài học xương máu với Cộng Sản”.) Chính Hoàng Công An đã dẫn tôi đến chùa Phước Hải gặp sư bà Đàm Hướng mấy lần, để tôi nhìn rõ cảnh sinh hoạt của chùa và con người của bà. Tôi cũng đã gặp người con trai của sư bà, lúc đó 19 tuổi, đang theo phần II Tú Tài, năm 1961. Vỏ Bọc IV Đến đây, thì đành phải nhận ra Bắc vì chính trị. Theo chỉ thị của Cục, vỏ bọc IV, đồng thời cũng là vỏ bọc cuối cùng, dù tôi có phải nhận mã tấu hay ăn kẹo đồng. Đến giai đoạn này, Cộng Sản đã cùm kẹp tra khảo, khai thác nhiều. Chúng đã nêu ra đầy đủ băng cớ những điều tôi khai báo là sai. Vậy, nếu bị đánh đập, hành hạ đến lúc cơ thể không thể chịu đựng được nữa, lúc đó sẽ khai theo vỏ bọc IV: Là trung sĩ trong đại hội thám báo của sư đoàn 7, thích làm những chuyện mạo hiểm và coi thường những việc khó khăn mà nhiều người khác e sợ, v.v... Trong quân ngũ, lần lần quen biết Trung úy Xương nên nha an ninh quân đội. Ông này đã giới thiệu với bên tình báo. Cuối cùng, tôi được về Sài Gòn dự lớp đào tạo và huấn luyện trong 3 tháng ở một ngôi nhà thuê trong xòm Cầu Cống, khu Khánh Hội (nếu nói ở khách sạn, building, Cộng Sản sẽ để ý những nơi ấy, sẽ gây khó khăn cho những lớp huấn luyện sau này.) Chỉ nói một số lớp học hợp lý, thời gian huấn luyện ngắn và học tập sơ sài để địch đánh giá sai mức độ, khả năng của nhân viên tình báo miền Nam. Chỉ một người huấn luyện duy nhất, định tả ai phải nhớ người ấy. Chớ nói tới Mỹ, vì năm 1961 Mỹ chưa vào miền Nam nhiều. Huấn luyện nặng về lãnh vực quân sự, tính năng và các loại vũ khí của bộ đội miền Bắc thường dùng, v.v... Nhiệm vụ: - Theo dõi sư đoàn 308 phòng thủ Thủ Đô Hà Nội. Do tên Thiếu tướng Vương Thừa Vũ làm tư lệnh. - Tên tuổi, tính tình các cấp chỉ huy, càng xuống sâu càng tốt, nghĩa là đến cấp đại đội. - Các loại vũ khí trang bị của sư đoàn. - Những nơi bố trí đại pháo và xe tăng. - Các phương tiện vận chuyển. - Cách bố trí trại, địa hình chung quanh với các đường giao thông. - Cách sinh hoạt học tập, huấn luyện. - Các trang bị, quân trang, quân dụng. - Tinh thần của bộ đội và sĩ quan. - Khả năng chiến đấu và tinh thần chiến đấu. Muốn biết được những tin tức này chính xác, tôi phải làm quen, chuyện trò, tâm sự với bộ đội trên đường phố Hà Nội. Tóm lại, khai gì, nói gì thì nói, nhưng không bao giờ được nói tới nhiệm vụ thực của mình cả. |
|
|
![]()
Post
#12
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Chín
Thăm Giòng Bến Hải ... Để phục vụ cho công tác COLUMBUS, tôi phải học và thực tập cũng như nghiên cứu về cách tiếp xúc với các linh mục. Trong một xã hội với bao chế ngự trong chính sách kìm kẹp của Cộng Sản đối với người dân, các linh mục đã có nhiều kinh nghiệm xương máu, cho nên dù trong lòng có muốn tiêu diệt Cộng Sản đến đâu chăng nữa, cũng không thể vội vàng lớ ngớ tham gia vào những chuyện không mấy tin cẩn để thiệt thân, chết lây. Do đó, là một cán bộ tình báo miền Nam, trước hết tôi phải tỏ ra điềm đạm, bình tỉnh, đủ khả năng, bản lĩnh xoay chuyển tình thế nếu gặp sự bất thường. Thêm nữa, các linh mục là những người có địa vị, có học, vậy ít ra tôi phải có kiến thức về nhiều mặt của xã hội, cộng với tư cách, tác phong. Có như vậy, tôi mới khả dĩ lôi cuốn được các linh mục. Thế mà tôi lại không đủ sức, cho nên tôi rất băn khoăn. Sau đấy, tôi thực tập rất nhiều buổi tiếp xúc với một, đôi người lạ, đóng vai các linh mục ở miền Bắc. Ông An cũng như ông Phan, và cả những người tôi phải tiếp xúc thực tập, đều nói: - Thế là Bình làm được rồi! Tôi nghĩ, bắt buộc họ phải nói “được rồi,” chả lẽ nói “không hay chưa được,” làm sao tôi đi! Tôi yêu cầu cho tôi được tiếp xúc với một người nào đó đã ra ngoài Bắc vửa mới trở về để học hỏi kinh nghiệm. Sự yêu cầu này đã không được đáp ứng, và cũng không được trả lời. Lúc đó, tôi ngây thơ nghĩ rằng, có thể vì sự ngăn cách an ninh về cả hai phía, cho nên lời yêu cầu của tôi đã không được giải quyết. Sau này khi ra miền Bắc, có điều kiện nhìn được thực tế, cũng như có thêm được một số kiến thức để phân tích và lý luận, tôi thấy những điều tôi nghĩ trước kia là không đúng. Để đáp ứng lời yêu cầu của tôi, thay vào đó, Cục cho tôi gặp 4 người vượt tuyến mới nhất. Thậm chí có người chỉ mới vào nửa tháng, ở Trung Tâm Tiếp Đón đồng bào vượt tuyến bên Gia Định. Tôi và An đóng vai nhân viên Phòng Báo Chí phủ Tổng Thống cầm giấy giới thiệu sang gặp Thiếu tá (tôi quên tên) Trưởng trại. Tôi sang hai lần, mỗi lần gặp hai người, mỗi người gặp vào một giờ khác nhau. Hôm đầu, chúng tôi tiếp xúc với một người là bộ đội và một người là giáo viên cấp III, trường Thăng Long Hà Nội. Hôm sau, một người tài xế xe đò, một người là giáo viên cấp II ở Thanh Hóa. Dĩ nhiên, tất cả những người này kể cả trưởng trại; không thể hiểu ý đồ thực của chúng tôi. Để đánh lạc hướng, thỉnh thoảng chúng tôi mới xen vào giữa những câu phỏng vấn thông thường, vô bổ là một số câu hỏi câu hỏi cần thiết mà chúng tôi muốn tìm hiểu. Bốn cuộc gặp gỡ này đã giúp chúng tôi hiểu biết nhiều vấn đề, rất hữu ích khi tôi ra Bắc. Trên tấm bản đồ quân sự loại lớn, bằng giấy dầy, bóng. Từng miếng 40x60 phân, ghép lại kín cả nền một căn phòng rộng. Hàng ngày, Brown và Dale hướng dẫn tôi nghiên cứu về quốc lộ 1 (từ Vĩnh Ling ra tới Hà Nội,) khu phi quân sự; thành phố Hà Nội, tỉ mỉ, chi tiết; nhất là khu phi quân sự Bắc và huyện Vĩnh Linh. Để phòng hờ biết bao tình huống có thể trục trặc không đón được tôi; tôi phải về bằng đường bộ. Vì thế, tôi đã hai lần phải ra tận bờ sông Bến Hải; dùng ống nhòm quan sát thực tế các điểm chuẩn, của khu phi quân sự Bắc. Một điều tôi không quên, một lần tôi và Hoàng công An xuống trường bay Phú Bài. Người trách nhiệm đón chúng tôi không ai xa lạ, lại chính là ông Hương. Ông Hương và tôi nhìn nhau ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Chính An cũng ngạc nhiên không ít, không hiểu sao tôi lại biết ông Hương từ trước. Từ ngày tôi bị loại ra khỏi lớp học đặc biệt, tôi chỉ nghe Lý nói loáng thoáng là ông Hương sau này mắc khuyết điểm gì đó về tài chính, nên không còn làm Giám Đốc lớp học đó nữa. Có lẽ do ý thức nghề nghiệp cho nên khi bắt tay tôi, ông Hương chỉ nói: - Bình vẫn như xưa, tay hay gầy, nhưng vẫn đẹp trai! Ông không hề nhắc nhở đến những chuyện cũ ở số 2 J.J. Rousseau. Ông Hương sau đó, lái xe đưa chúng tôi về một khách sạn ở Huế. Những ngày ở đây, đêm ngủ, luôn luôn có người canh gác tôi. Cũng từ đó cho đến gần cuối cuộc đời, lúc thức cũng như lúc ngủ; lúc nào tôi cũng có người canh gác. Cứ nghĩ đến, tôi lại nhếch mép tự mỉm cười. Ông Hương lái xe đưa chúng tôi vào khu phi quân sự. Trong rừng bên này bờ Nam, tôi thấy đó đây có những người mặc đồ nâu, gài một miếng vải đỏ bằng hai đốt ngón tay ở khuy áo, lầm lũi canh gác. Có lẽ họ đã giấu súng trong người. Qua ánh mắt và thái độ của họ, tôi hiểu ông Hương là người chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ hệ thống canh gác bờ phía Nam. Tôi ngắm giòng Bến Hải. Con sông đã đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, vẫn lững lờ chảy xuôi về phía cầu Hiền Lương. Đây đó, một vài chiếc thuyền nan chài lưới phía bờ bên này, cũng như phía bờ bên kia. Tôi biết những người dân “chài lưới” này, dứt khoát không phải là dân bình thường. Bởi vì theo thỏa hiệp Genẻve giữa hai bên: Ranh giới hai miền là giữa giòng sông Bến Hải, và giữa cầu Hiền Lương. Vậy, vì lý do vô tình hay hữu ý, những thuyền này lấn sang khỏi ranh; phía bên kia có quyền bắt giữ. Lúc đó, những người dân chài này không còn thuộc quyền kiểm soát của bên bờ cũ nữa. Tôi đi sát dọc bờ sông, có chỗ hai bờ cách nhau chỉ chừng ba chục mét. Nhìn thấy cô gái áo nâu, phía bên kia bờ, quần đen lăng xăng, chạy ra, chạy vô tưới mấy luống rau. Lòng tôi bỗng bâng khuâng, mắt dõi về hướng Bắc xa vời, nơi có Hà Nội cam go đợi chờ. Bất chợt, các cô ấy rối rít vẫy tôi, miệng cười duyên. Ý các cô ấy muốn tôi lội xuống nước, bơi sang. Thấy vậy, ông Hương nói với tôi: - Tất cả những người dân tron khu phi quân sự Bắc, đều bị Cộng Sản bắt rời khỏi, ra ngoài 5 cây số, kể từ bờ Bếb Hải. Rồi chúng đưa toàn công an mật vào, làm nhà cửa, cầy cấy, trồng tỉa như thường dân. Bình hãy dùng ống nhòm nhìn kỹ vào trong rừng sẽ thấy có những vật di chuyển; thậm chí còn có người bí mật ngồi trên cây canh gác nữa. Đúng như vậy! Sau này, tôi thấy biết bao người vượt tuyến, bị bắt với bao nhiêu tình huống cười ra nước mắt ở trong nhà tù Cộng Sản. Nhìn chéo xa ca phía bên kia, ngôi nhà thờ Hải Cụ bị rêu phong và cây cối che phủ, chỉ còn là một hình thù xám xịt, nhô lẫn trong lùm cây xanh. Cảnh hoang liêu cô tịch của nhà thờ khiến lòng tôi tím thẫm. Tôi hình dung đến cảnh sống của người dân Công giáo miền Bắc; hẳn không khỏi khắc khoải tối tăm. Ông Hương bổng nói: Sông Bến Hải, đi ngược quá vào phía trong; mùa nước cạn, nhiều chỗ chỉ cần xắn quần lội qua cũng được. Giòng sông nhỏ bé và nông cạn như thế! Vậy mà nó đủ sức ngăn đôi một dân tộc, trong bao nhiêu năm trường! Đối với một dân tộc có truyền thống thương yêu, đùm bọc của người cùng một nước: Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng. (Ca dao) Vậy, lỗi này do ai? Sau khi về tới Sài Gòn, cũng đã gần tới ngày lên đường, do đó, một số công việc còn lại cần phải làm khẩn trương và dồn dập hơn. Tôi phải tập xử dụng một số loại thuốc hóa trang, hồng ngoại tuyến..... Một điều tôi quên. Khi đi vào đất địch, tất yếu tôi sẽ gặp muôn ngàn điều chưa thể biết. Vì vậy, để phòng hờ; từ hơn hai tháng trước, Phan đã đưa cho tôi một chiếc nhẫn bạc mặt vuông có khắc chữ thọ. Chiếc nhẫn này, cũng như trăm ngàn chiếc khác; chỉ khác một điểm là, mặt trong có đóng chìm xuống con số 42. Phan bắt tôi đeo, nhìn cho quen mắt và phải nhớ nhập tâm. Phan cũng còn đưa cho tôi một tấm hình cỡ 6x9, hình chùa Một Cột ở Hà Nội. Phía sau lưng và góc trên của tấm ảnh, có ghi con số 1618 nhỏ xíu bằng bút chì. Tôi nhớ được con số 1618, vì nó liên quan đến ngày tôi trao tài liệu M. Hơn một tuần sau, Phan lấy lại và hỏi: - Bình đã nhớ chưa? Tôi gật đầu, Phan nói tiếp: - Nếu sau này, bất cứ ở đâu, thời gian nào và bất cứ ai đưa tấm hình này ra; thì người đó chính là người sẽ trao lệnh của Sài Gòn cho Bình. Một hôm, Dale và Brown đến gặp tôi, bảo: - Hôm nay, Bình sẽ tập xử dụng bút chì mật. Họ giải thích: - Đây là một loại dụng cụ mới nhất trong ngành tình báo. Bút chì mật nhỏ bằng 2/3 của lõi bút chì thường. Dài độ 6- 7 phân, mầu đen xám, không mùi vị. Một đầu hơi vát, nhờn nhợn, giống như một mẩu sợi ni lông thường. Brown và Dale nói là: Mẩu bút chì này hiện nay nếu muốn bán cho Cộng Sản hàng triệu nó cũng mua. Nó sẽ phân chất và sẽ biết cách phát hiện những chữ ta ghi, từ đó nó sẽ tìm ra được nhiều sự việc. Bởi vì, khi ghi chép, nét chữ không có dấu vết. Muốn đọc, phải dùng một loại hóa chất đặc biệt bôi lên mặt giấy, chữ mới hiện ra. Điệp viên ghi tài liệu mật vào những khoảng trống trên ngay sách báo của địch. Thấy trước mặt, chúng cũng không biết; kể cả mẩu bút chì cũng vậy. Tôi phải tập biết bằng mẩu chì mật này nhiều lần, trong nhiều ngày. Sao cho khi viết, không để lại vết gợn nào trên mặt giấy. Nghĩa là tờ giấy vẫn bình thường, và cũng không được mất nét chữ; sau này, khó đọc và khó đoán ra. Khi tôi ra tới miền Bắc, thực tế cho thấy, là thời gian này Cộng Sản chưa hế biết gì về bút chì mật. Tôi đã giấu mẩu chì này tới 1975, khi miền Nam thất thủ, tôi mới tiêu hủy. Tôi đã biết rất nhiều loại mực để viết thư mật, nhưng tôi thừa nhận, loại chì mật là đơn giản và thuận tiện nhất. Có thể ngày nay, điệp viên của nhiều nước vẫn còn dùng. |
|
|
![]()
Post
#13
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười
Chọn Điểm Đổ Bộ... Sau khi đã tập sử dụng thuần thục bút chì mật. Tôi bắt đầu phải nghiên cứu về phương tiện ra ngoài Bắc, và địa điểm tôi sẽ xâm nhập. Ngay từ giai đoạn đầu, khi tôi mới tiếp xúc với ông Cẩn cũng như sau này gặp Hoàng Công An. Các ông đều nói, tôi sẽ phải đi dự một khóa huấn luyện về dù. Nhưng dần dần ít tháng sau; có thể do những diễn biến của điều kiện phòng thủ Bắc, Nam. Hoặc vì lý do gì khác tôi không rõ. Ông Phan nói rằng tôi sẽ ra Bắc, với bao nhiêu đại hình thiên nhiên phức tạp. Tụi Cộng Sản không thể giăng người ra canh gác suốt ngày đêm được. Hơn nữa, hiện nay hải quân của tụi Việt cộng hầu như rất yếu. Tầu tuần tiễu của chúng chỉ quanh quẩn gần bờ. Ít khi chúng dám lảng vảng ra ngoài khơi. Theo ý kiến của Cục, chính tôi phải chọn vùng tôi sẽ đổ bộ. Vì như vậy, ít nhiều tôi đã quen thuộc địa hình, địa vật, bớt ngỡ ngàng hơn ở một vùng lạ. Đối với tôi, đây cũng là một vấn đề hơi nan giải. Vì khi ở miền Bắc, tôi còn quá bé; không biết được, hoặc nhớ được một vùng biển nào rõ ràng cả. Dĩ nhiên, điểm đổ bộ phải ở một vùng hoang vắng, xa thủ đô Hà Nội, nơi có địa bàn hoạt động của tôi. Tôi nghĩ ngay đến Đồ Sơn. Kỳ Hè 1953, tôi theo một số bạn bè xuống bãi biển Đồ Sơn Hải Phòng tắm, đến chiều tối mới về Hà Nội. Khi tôi vừa nêu lên địa điểm Đồ Sơn, cả ba người: An, Dale và Brown đều lắc đầu, hoặc xua tay. Đó là cửa biển Hải Phòng, Cộng Sản canh gác rất cẩn mật, gắt gao; không thể đổ bộ được. Tôi moi óc nghĩ mãi, mới nhớ ngày xưa, khi tôi còn học tiểu học ở quê nhà (lúc ấy tôi mới lên 10), có lần nhà trường tổ chức cắm trại ở một miền rất xa, đó là Cồn Vạn. Chúng tôi phải đi qua một con sông rất to, sau này, tôi biết là sông Đáy. Tôi chỉ nhớ mơ hồ chỗ đó mọc rất nhiều thông, như rừng vậy. Tôi tìm trên bản đồ chi tiết. Sau một lúc, tôi xác định được vị trí. Brown và Dale hẹn sẽ trả lời tôi sau. Họ còn nghiên cứu thẩm tra. Khoảng 3 ngày sau, họ đến cho tôi biết, vùng đó không thể đổ bộ được. Phía ngoài miền biển đó có đất bồi và những bãi sình lầy, lún thụt lẩn ra ngoài biển đến 5- 6 cây số. Hơn nữa, chỗ rừng thông phía bên trong. Hiện là mấy nông trường lớn, đã và đang xây dựng. Với quãng đời thơ ấu của tôi, tôi chỉ biết có nơi đó, nên cuối cùng tôi nói: - Tùy ở trên chọn cho tôi một địa điểm nào gần đấy, khoảng vài chục cây số cũng được. Tôi sẽ mò mẫm tìm vào quốc lộ Một để về Hà Nội. Mấy ngày sau, Brown đến chỉ cho tôi trên bản đồ lớn. Chi tiết một vùng, thụt lùi về phía Nam: Chỗ này đã được sưu tra, xác định, cách khoảng 30 cây số so với vùng Bình biết. Nằm giáp ranh giữa hai huyện Kim Sơn của tỉnh Ninh Bình và huyện Nga Sơn của tỉnh Thanh Hóa. Tôi còn đang quan sát để nắm được một cách khái niệm về những tuyến đường, và những điểm chuẩn của khu vực, Brown lại nói tiếp: - Nơi đấy là khu rừng non, dài hàng mấy cây số, lau sậy um tùm. Do đó, khi Bình đổ bộ lên, nếu thấy mệt mỏi có thể nghỉ ngơi tùy ý hàng tuần cũng được. Nghe Brown nói vậy, tôi cũng yên tâm. Tuy nhiên, nhìn trên bản đồ, gần vùng đổ bộ. Trên đường về quốc lộ Một, có một con sông không to lắm. Tôi hơi băn khoăn, chỉ chỗ sông tôi sẽ phải vượt qua, hỏi: - Chỗ này có cầu không? Theo quan điểm của tôi khi ấy. Kế hoạch của một công tác bao gồm nhiều khâu. Nhiều khi chuẩn bị kỹ những khâu lớn, khâu khó khăn; nhưng đôi khi chính những việc nhỏ, rất vạch vãnh, lại quyết định sự thành bại. Chẳng hạn, điệp viên chỉ cần qua khúc sông ấy không có cầu, đò. Phải mò mẫm thăm hỏi, để rồi bị bắt ngay chỗ đó. Như vậy, những chuẩn bị chính yếu công phu ở Hà Nội để làm gì? Tôi đã phát biểu ý kiến này với họ. Sau khi Hoàng Công An dịch lại, mắt Brown sáng lên, nhìn tôi vừa gật đầu, vừa nói: - Đó là một ý kiến cần thiết, rất hay! Họ hẹn sẽ trả lời sau, câu hỏi này. Thật là nhanh, tôi không ngờ. Chỉ 3 ngày sau, Brown và Dale đưa đến cho tôi 16 tấm không ảnh loại 40x60 phân. Hình chụp rõ ràng khu vực tôi yêu cầu. Con sông có một chiếc cầu và rất nhiều thuyền bè lớn nhỏ trên sông. Đồng thời cả hình quốc lộ Một và đường xe lửa từ Thanh Hóa về đến Hà Nội. Lúc đó, chính sự việc này đã làm cho tinh thần tôi được nâng cao thêm qua hai yếu tố: * Tin tưởng kỹ thuật khoa học chụp hình mà Hà Nội chưa biết. * Ý niệm được mức độ quan tâm đến công tác của Cục cũng như của Mỹ. Thời gian này càng gần tới ngày đi, một ngày đi đầy rẫy những hiểm nguy đang đợi chờ. Với muôn ngàn tình huống đang đợi chờ. Với muôn ngàn tình huống chưa biết. Nhiều lúc đi trên đường phố Sài Gòn, tôi nhìn cảnh tấp nập náo nhiệt xe cộ của đường phố, Nhìn dòng người quần áo đủ mọi mầu sắc ngược xuôi, với những nét mặt đầy vẻ hân hoan, háo hức nỗ lực đi vào cuộc sống ngày mai; mà tôi biết rằng sẽ đầy hương vị và tình người, tôi bâng khuâng. Tôi nhìn từng mái nhà, từng chòm cây, góc phố quen thuộc. Cảnh vật và con người như luyến lưu, như hẹn ước và cũng như giã từ. Tâm trạng của người sắp từ giã cảnh sống này để đi vào đất địch. Như là đi sang một thế giới khác với những cảnh đời hoàn toàn xa lạ và những tình huống bất trắc, bạn bè thân thuộc không ai hay. Càng gần ngày đi, tôi càng nhiều lần về với bố mẹ và các em. Bố ơi! Mẹ ơi! Các em bé bỏng thương yêu ơi! Những lúc vui đùa hàn huyên với các em. Nhìn dáng thơ ngây, hồn nhiên thân mật của các em. Tự nhiên, một nỗi niềm đã nén chặt trong lòng tôi, như muốn trỗi dậy đầy vơi. Để rồi thì, chỉ còn là những cái nhìn đắm đuối, nghẹn lòng như thần căn dặn: Rồi đây nếu anh ra đi không trở lại. Các em hãy thay anh trông nom, săn sóc bố mẹ. Ai có hỏi anh, các em hãy nói: Anh đã đi xa để trả nợ que hương rồi, nhé! Nhưng, cả hai đứa em gái và một đứa em trai của tôi thật vô tình. Chúng vẫn cứ cười vui, đùa bỡn với tơi như thường. Các em không biết rằng trong lòng tôi sóng gió tơi bời. Thôi đành! Thời gian sẽ nói rõ với các em những gì lòng tôi muốn nói lúc này. Buổi chiều cuối cùng, trước ngày lên đường, dù công việc chuẩn bị bề bộn. Tôi vẫn quyết dành ra hai tiếng về thăm bố mẹ và các em một lần nữa. Khi tôi về, chỉ có bố tôi ở nhà, mẹ tôi đã đi nhà thờ chầu. Các em, đứa xin phép đến nhà bạn, đứa xin phép đi xem phim, không còn đứa nào ở nhà. Cảnh nhà vắng vẻ càng làm tăng nỗi niềm đang đè nâng tim tôi. Bố tôi, tuổi đã gần ngũ uần, dáng dấp còn nhanh nhẹn, cường tráng như người 40, nhờ vẫn thường xuyên ôn luyện quyền thuật. Người tưởng tôi về thăm nhà như mọi khi, nên người chỉ quan tâm nhắc nhở tôi một câu, mà người vẫn nói, ngay khi tôi còn nhỏ: “Văn ôn, võ luyện, mày phải thường xuyên luyện tập, để tay chân cứng chắc; tinh thần minh mẫn.” Đến đây, tôi phải trình bày vài nét sơ lược về bố tôi. Khi chưa di cư, còn ở ngoài Bắc. Ông là một võ sư nổi tiếng của huyện. Có lẽ trong đời võ nghiệp, ông đã nhiều lần phải gục mặt, uất hận trước đối thủ. Vì vậy, người đã kỳ vọng vào đứa con trai đầu lòng. Mong rằng sau này nó sẽ làm được những điều mà người chưa, hoặc không làm được trong ngành võ thuật. Ngay từ khi tôi mới lọt lòng mẹ (bố mẹ kể chuyện lại.) Người đã ngâm, tắm tôi nhiều lần bằng những bài thuốc gia truyền, mà người đã dày công sưu tầm được. Người đã bắt tôi, một đứa bé 3- 4 tuổi, tập đứng Trung bình tấn, Xà tấn, Đình tấn; tập những bài Quý Châu, Mai hoa và Hùng quyền; bắt đứa bé đó phải chịu bao nhiêu khổ luyện suốt mùa Đông rét mướt, cũng như những ngày Hè nóng nực; năm nay qua năm khác. Khi tôi 10 tuổi, người đã gửi gấm tôi cho nhiều võ sư mà người cho là có thực tài. Vị võ sư cuối cùng là Lã Giang Sơn (1948) với hỗn danh “Bạch Tượng.” một danh thủ có hạng của Trung Hoa. Âu đó cũng là một cơ may, cơ thể dẻo dai của tôi, sau này mới chịu đựng nổi những gian khổ trong cái nghiệp chướng của đời tôi. Tôi nhìn vào đồng hồ đã một tiếng rồi, mãi không thấy mẹ tôi đi chầu về. Tôi đang băn khoăn chưa biết phải nói với bố tôi như thế nào, may quá, bố tôi đã bỏ lên lầu; tôi vội vàng xin phép để ra gặp mẹ tôi ở nhà thờ. Trên đường đi, tôi miên man nghĩ đến mẹ tôi. Tôi vẫn chưa hiểu tại sao hình ảnh người mẹ vẫn đậm nét hơn hình ảnh của người bố ở trong tôi. Khi tôi vào đến cuối nhà thờ, nhìn thấy dáng mẹ tôi đang quỳ, tay lần tràng hạt, miện lẩm bẩm đọc kinh, đôi mắt người vươn cao trên bàn thờ, một mối xúc động đã dồn ứ trong tim tôi. Nhà thờ chỉ còn lại mươi ông già, bà cả ở lại cuối buổi chầu. Tôi tiến lên quỳ cạnh mẹ tôi. Người quay lại mở to mắt nhìn tôi ngạc nhiên. Ôi! Mắt mẹ tôi nhìn bao la mênh mông như đại dương! Tôi cảm thấy như bé nhỏ lại trong cái nhìn của bà mẹ. Mẹ ơi! Ôi, tình mẫu tử! Tôi nghĩ rằng, tất cả những ngôn từ đẹp nhất, cao quý nhất của loài người cũng không diễn tả hết được sự cao quý thiêng liêng của tình mẫu tử. Mẹ tôi biết là tôi có việc muốn gặp, nên người làm dấu thánh giá rồi hai mẹ con ra khỏi nhà thờ. Vừa ra đến ngoài, người đã hỏi ngay, giọng băn khoăn: - Mày lại có chuyện gì, lại về thế? cỗ tràng hạt. Lòng tôi nghẹn lại. Làm sao tôi nói được, tôi về giã từ để đi vào nơi d8ầ bất trắc đang chờ đợi (có thề thuyền bị đắm ở biển khơi, bị công an, bộ đội kẻ thù bắt ngay trên biển và rồi trong đất liền. Có thể, còn lắm chông gai trên đất địch…) Mẹ ơi! Con sắp chia xa cùng mẹ. Có thể chẳng bao giờ con còn được nhìn thấy mẹ nữa. Có lẽ vì thái độ của tôi, mẹ tôi cảm thấy một chuyện gì bất thường, nên người đặt tay lên vai tôi, giọng lo lắng: - Con có chuyện gì, hãy nói thực với mẹ đi! Chỉ một phút yếu lòng khiến mẹ tôi phải lo sợ, tôi vội vàng tươi nét mặt và cười toét: - Có gì đâu, mẹ! Con về nhà không thấy, nên ra đây gặp mẹ. Vậy thôi! Nét mặt lo âu của mẹ tôi biến ngay, người đập vào tay tôi mắng yêu: - Bố mày, thế mà làm tao hết hồn! Rồi mẹ tôi nói tiếp: - Chủ nhật này, mày về đưa tao sang khu Bàn Cờ thăm bà bạn nhé! Tôi chợt hiểu, lại vấn đề cô Nga, Thu Nga. Đã nhiều lần, bố mẹ tôi muốn tôi lập gia đình với con gái của bà bạn này. Làn nào tôi cũng khất lần với lý do sự nghiệp vẫn chưa thành, v…v…Điều chính khiến tôi, thoái thác là, tôi tự nghĩ, trong khi đất nước đang chia hai, xẻ ba, tôi không thể vội vã tìm chuyện ấm êm. Hơn nữa, đã thích nghiệp gió sương, tôi không được quyền làm bận rộn cuộc đời của một người khác. Tôi vẫn thích những câu thơ của Lưu Trọng Lư: Em là gái trong song cửa Anh là Mây bốn phương trời. Anh theo cánh gió chơi vơi, Em vẫn nằm trong nhung lụa. Tôi hiểu, ngày Chủ nhật tôi không có lý do gì để từ chối ý kiến của mẹ. Vả lại, chủ trương của tôi là trước khi ra đi, tôi không muốn làm một điều gì, dù nhỏ nhặt, để phật ý mẹ tôi. Cho nên, sau khi mẹ tôi nói, tôi chỉ vâng nhẹ một tiếng. Tiếng “vâng” như còn nằm trong cuống họng. Nếu tinh ý, mẹ tôi sẽ nhận ra tiếng “Vâng” rụt rè đó của tôi. Nhưng có lẽ người cho rằng tại nói đến nhà cô Nga, nên tôi mới ngập ngọng như vậy. Người đã không biết rằng, rồi đây, mãi mãi tôi vẫn không thực hiện được lời hẹn của người. Đứa con trai của người đã ra đi biền biệt, không về. Để rồi mấy chục năm sau, đứa con trai đó may sống sót, mang được tấm thân về, mọi vấn đề, từ đất nước, đến con người, đều đã đổi thay, tang thương, vũng thành đồi. Ánh nắng chiều phía Tây đã nhạt dần. Không gian cảnh vật cũng đổi mầu tím sậm. Dùng dằng mãi, cuối cùng tôi cũng phải chào và xin phép mẹ về trường. Bất chợt, tôi cầm lấy tay mẹ tôi, nghẹn ngào muốn nói: “Lạy mẹ con đi,” nhưng không thốt ra thành lời. Đúng là chân bước đi mà đầu còn ngoảnh lại. Tôi đã ngoảnh lại nhiều lần nhìn bóng dáng nghiêng nghiêng đã thẫm mầu của người phía sân cuối nhà thờ cho tới khi bị khuất hẳn. |
|
|
![]()
Post
#14
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười Một
Sửa Soạn Lên Đường... Theo những quy định thời gian ấy, tôi phải làm một số thủ tục về giấy tờ. Trong đó, tôi phải viết một giấy ủy quyền cho thân nhân. Đã từ 6, 7 tháng trước, mỗi tháng lương của tôi là 5.000đ không kể công tác phí như thuê nhà, xe cộ.v.v… Vì vậy, nếu vì lý do nào đó mất liên lạc, như bị bắt, chết, v.v… đều được coi như là mất tích, nhà nước sẽ trả lại cho thân nhân 12 tháng lương. Đó, nếu ai đi ra vì tiền, thì 60.000đ là một sinh mạng của một con người. Thực ra, tất cả những người trong Cục Tình Báo miền Nam đều hiểu, đối với những người ra đi, nếu không vì một lý do nào khác cao đẹp hơn, như non sông, đất nước, thì làm sao số tiền đó có thể mua được họ? Cục cũng hứa hẹn thật nhiều. Nếu công tác thành công trở về, chính phủ sẽ cho đi nghỉ ở Nhật mấy tháng. Nếu công tác trở về, sẽ v.v… và v.v… Vậy, còn nếu không trở về, thì sẽ được… mất tiêu! Tôi hiểu đây cũng chỉ là những thủ tục giấy tờ về lương lậu. Vậy mà phải nghe, phải làm những vấn đề này, mặt tôi cứ nóng dần lên. Thật lòng, tôi nghĩ thàt đừng có cái mục này, tôi lại còn thấy lòng nhẹ nhàng thích thú hơn, cho nên tôi rất uể oải, lần thần không muốn viết. Mấy lần tôi định nói thẳng với ông An: “Hay thôi, không phải viết nữa. Nếu tôi vào đất địch, bị chết, hay bị mất tích, Cục cứ nói như không có tôi.” Chắc An cũng hiểu những nỗi niềm thầm kín của tôi, nên ông đặt nhẹ tay lên vai tôi, thân mật: - Tôi hiểu lòng Bình lắm và cả Cục cũng hiểu con người Bình cho nên họ rất quý nể Bình. Bây giờ Bình hãy nghe tôi, viết vài chữ ủy quyền lại cho bất cứ ai như bố mẹ, bạn bè thân thuộc v.v… chỉ là một thủ tục phòng hờ, chứ người ta ra ngoài miền Bắc, đi về chợ ấy như đi chợ ấy, có sao đâu! Để khỏi phải nói nhiều, tôi ngồi viết nghuệch ngoặc giấy ủy quyền cho bố tôi, tâm tư thầm nghĩ, thôi, nếu có bề gì thì gọi là một chút đền công các đấng sinh thành! Họ mang đến cho tôi một chiếc ba lô của Nhật, bên trong đựng sẵn một đôi “bốt-đờ-sô” để lội bùn và đi trong rừng, quần áo và một vài trang bị vặt, hầu hết đều sản xuất từ Nhật, riêng cái túi “dết” màu xanh nước biển là của miền Bắc (tôi đoán chắc chiếc túi này của một đồng bào vượt tuyến.) Những thứ trang bị đều dùng để đi từ ngoài biển vào, và sống ở trong rừng, còn quần áo, dép, mũ v.v… để sử dụng trong những vỏ bọc thì chính tôi phải lo liệu lấy. Tôi nghĩ đến dép “râu” (Bình Trị Thiên.) Nó làm tôi thật vất vả. Tôi phóng xe chạy đôn đáo suốt Tân Định, ông Tạ, Cầu Ông Lãnh tìm mua mà không có. Thậm chí tả kiểu ra đặt thợ làm giầy, họ lại không có nguyên liệu và không biết cách nào. Mãi mới gặp được một ông thợ giày di cư đã từng sống ờ vùng Việt Minh làm cho. Tay ông làm, nhưng mắt ông nhìn tôi đầy thắc mắc. Tôi phải nói đây là một “mốt” mới ra lò của học sinh, của tay chơi. Đi dép râu mà lại ngồi trên solex hay vespa thế mới hách. Ông thợ giầy làm sao có thề hiểu được, nên ông tin quá! Tôi còn phải đi hớt tóc theo kiểu nông thôn miền Bắc, và ra Cấp mấy ngày phơi nắng cho da ngâm đen. Trong khi tôi phải làm những công việc bình thường này. Đầu óc tôi lửng lơ nghĩ về xã hội và con người trong thời đại ngày nay. Vào đất Cộng Sản, hoạt động tình báo cho thế giới tự do, khổ thật. Phải trở về một dạng anh nông dân, quê mùa cục mịch. Ngược lại, Cộng Sản vào đất tự do hoạt động, thì lại lên “complet,” kính trắng, phong độ hào hoa. Càng ra vẻ trí thức càng dễ hoạt động. Chính một điều này đã đủ nói lên mức sống của hai xã hội; tương phản cảu hai cảnh đời. Trong ngày ra Cấp với Hoàng Công An; một buổi tôi đang ngồi đôi mắt nhìn ra biển cả bao la về mãi phía chân trời. Tai đang nghe đài phát thanh Hà Nội, thì chợt một giọng the thé của xướng ngôn viên miền Bắc, tuyên bố về phiên tòa xử vụ C- 47. Nghe loáng thoáng, chiếc phi cơ hoạt động tình báo đã xâm nhập bầu trời miền Bắc. Bị bắn rơi tháng 7 năm 1961 ở Cồn Thơi, Ninh Bình, nhiều người đã chết v.v… Còn mấy người sống sót bị thương nặng. Điệp viên Đinh Như Khoa bị 15 năm tù (mới chạm vào đất liền đã bị bắn rơi, chưa hoạt động gì,) phi công phụ Phan Thanh Vân bị 7 năm tù. Cái tên Phan Thanh Vân nghe thật quen thuộc, nhưng lúc đó tôi không thể nhớ ra vì còn đang bận tâm về việc xử điệp vụ kể trên. Từ vụ án này, giòng suy tư của tôi cứ len lỏi chảy dài, đẩy đưa về công tác của chính mình. Tôi vào đất địch một mình, tôi phải quyết định nhiều vấn đề với bao cảnh huống khác nhau chưa thề biết trước. Từ ý nghĩ này, tôi cần phải đặt ra giả thuyết về một số tình huống, để hỏi ý kiến giải đáp của Cục. Có như vậy, khi đã ở trong đất địch; tôi nắm vững để dễ dàng, mạnh bão xử lý. Tôi đưa ý kiến này ra với Hoàng Công An, ông ta vồn vã khuyến khích tôi: - Ý kiến của Bình rất có giá trị thực tiễn. Bình hãy suy nghĩ; đặt ra những trường hợp bất ngờ, tôi sẽ đưa ngay về Cục để đáp ứng yêu cầu của Bình. Cuối cùng, tôi đã mầy mò viết một bản 30 câu hỏi để đưa về Cục. Thí dụ: * Nếu trong hai ngày 16 và 18 theo quy ước. Tôi không gặp đối tượng để trao tài liệu M. Vậy tôi sẽ hủy ngay tài liệu M? * Cũng làm như vậy với Z5 Hoàng Đình Thọ? * Nếu trên đường trở về, tôi bị ốm nặng, bị kẹt vì tụi công an truy lùng. Hoặc vì lý do nào đó, tôi không thể đến được điểm hẹn theo thời gian quy định, thì sao? * Nếu bị bắt tù, sau 2 – 3 năm, tôi trốn được về Nam, thì sao? v.v… Mấy ngày sau, khi 30 câu hỏi của tôi được đưa về Cục. Hoàng Công An trở lại với bác sĩ Harry trả lời: Trên Cục chỉ giải đáp một số, còn hầu hết những câu hỏi khác để tôi tự quyết định, tùy theo tình hình tại chỗ, sao cho thỏa đáng. Mãi ngày hôm đó, họ mới trao cho tôi những giấy tờ tùy thân mang theo. Tôi nhìn tờ giấy thông hành mới, với chữ ký phòng công an huyện Vĩnh Linh; thời hạn một tháng. (thời gian công tác của tôi là 25 ngày) tôi đoán rằng, tất cả những giấy tờ đưa cho tôi phải giống hệt như thật. Tôi nhìn, từ con dấu cho đến nét chữ, thật sắc sảo. C.I.A. làm giả, hết chê! Ngoài mấy bao thuốc lá “Dại Tiền Môn” và hộp quẹt của Trung Cộng (điều này đã nói lên nhiều khía cạnh yếu, kém của C.I.A. và tình báo miền Nam) Anh còn đưa cho tôi 400đ tiền miền Bắc, gồm giấy 5đ, 2đ, 1đ, 5 hào. Bằng cái nhìn về tiền bạc ở miền Nam, tôi cầm 400đ với thái độ không thỏa mãn lắm, vì thấy quá ít ỏi. An đã hiểu ý tôi ngay, nên nói: - Bình yên tâm, ở trên Cục đã nghiên cứu kỹ. Với 400đ này trong một tháng, Bình có thể bao quát, phòng hờ hết cả. Tiền không thiếu, nhưng nếu Bình mang đi nhiều, đôi khi lại làm ảnh hưởng ngược lại cho công tác. Thông thường, tiêu ở miền Bắc chỉ có giấy 5đ là lớn nhất đấy. Sau đó, bác sĩ Harry đưa cho tôi một số thuốc bệnh, lọc nước, chống muỗi, và một số hộp lương khô, tăng sức v.v… khi sống trong rừng. Trước khi về, An còn nhắc tôi xác định lại rõ ràng những quy ước, mật khẩu, tín hiệu v.v… * Ngày 20 tháng 4 năm 1962, ngày tôi rời Thành Đô dịu hiền và nhiều tình nghĩa. Tôi lên đường theo thời gian và lộ trình quy định như sau: 2 giờ chiều ngày 20/4, tôi sẽ rời Sài Gòn, đáp máy bay ra Huế. Tôi sẽ ở lại đấy 2 ngày để ra Bến Hải nghiên cứu và xác định lại một số địa điểm chính của địa hình bên kia bờ khu quân sự Bắc. Sau đó, ngày 22/4/62, sẽ trở về Đà Nẵng, điểm uất phát, để đến điểm đổ bộ thuộc Nga Sơn Thanh Hóa. Buổi sáng ngày 20/4, ở số 62 đường Trần Hưng Đạo, Dale và Brown báo cho biết: Khoảng 12 giờ trưa, sẽ có một nhân vật cao cấp trong ngành của Mỹ ở Sài Gòn, đến chào vả tiễn đưa tôi. Đúng buổi trưa hôm đó, một người Mỹ to lớn, bệ vệ cùng đến với bác sĩ Harry. Ngay từ lúc ông ta bước vào phòng, tuy tôi không nhìn trực diện, nhưng tôi biết ông ta không rời một cử chỉ thái độ nào của tôi trong lúc tôi cùng Brown, Dale và An chuẩn bị lại một số trang bị của chuyến đi. Qua đôi kính trắng thật to, mắt ông ta vừa lộ vẻ hân hoan tươi sáng, vừa như tò mò quan sát. Tôi chẳng biết ông ta đang nghĩ gì về tôi, nhưng tôi có một điều chắc chắn, ông ta không thể nghĩ được rằng, người thanh niên trước mặt sắp bước vào đất thù của thế giới tự do – có thể sẽ hy sinh cả mạng sống – đã là chủ một hiệu vàng, nghĩa là từng ngồi trên hoặc cạnh đống tiền. Nếu ông ta biết được như vậy, ông ta mới đánh giá được đầy đủ ý nghĩa chuyến đi của tôi. Cuối cùng, ông ta nắm tay tôi thật chặt, chúc tôi thành công và hẹn gặp lại. Lần lượt sau đó, Dale, Brown, Harry đều bắt tay tôi, nói rằng không thể ra trường bay đưa tiễn, vì lúc đó ờ Sài Gòn rất ít người Mỹ, đi ra đây là điều bất tiện. Như tôi đã nói, trình độ Anh ngữ của tôi còn thấp, phải nói bằng tay nhiều hơn bằng miệng, đồng thời để hiểu được họ tôi phải dựa vào sự phán đoán là chính. Vì thế, tôi chả nói hết được những điều tôi muốn nói với họ lúc chia tay. Những thứ dụng cụ trang bị của tôi đều được mang đi trước. 1 giờ 30 tôi và An ra phi trường. Trên đường đi, tôi nhìn lại Đô Thành, có thể là lần cuối, mắt đăm chiêu, lòng ngập ngừng thăm thẳm. Khi xe tới đường Công Lý, tôi thoáng thấy một anh bạn quen đang song đôi hai chiếc solex cùng với người bạn gái rẽ vào phía đường Yên Đổ. Âm vang của một bài hát quen thuộc từ đâu ùa đến với tôi, như trỗi dậy thành lời: “Rồi đây, mai này ai hỏi đến tên tôi, Bạn ơi! Hãy nói đã đi xa rồi…” Phải chăng đó là điềm báo trước một lần đi không trở lại? Tôi cũng nghe và thuộc nhiều bài hát, nhưng không hiểu tại sao lúc ấy lại chỉ nhớ mấy câu này! Suốt từ lúc đó ra phi trường, tôi im lặng không nói một lời, lòng vương vấn nặng nề như cái nóng chiều Hè oi ả của Thành Đô. Tôi liếc nhìn sang An, trong cặp kính trắng, mắt An cũng đăm chiêu như đang nghĩ ngợi điều gì. Xe tới trường bay, tôi thấy ông Lý và ông Cục Trưởng đã có mặt. Đó là lần thứ ba tôi gặp ông Cục Trưởng. Người ta nói “quá tam ba bận,” chẳng lẽ tôi không còn lần nào gặp ông nữa ư? Mà đúng, sau đó không bao giờ tôi gặp lại ông. Nhìn hàng ria mép rậm xì to tướng của ông Cục Trưởng, nhất là đôi mắt dù đã được che khuất sau chiếc kính râm mầu đen bóng, tôi vẫn thấy hai luồng nhỡn tuyến phát ra, có thể những ai là đối thủ sẽ không yên lòng khi phải đứng trước cặp mắt ấy. Thấy tôi xuống xe, ông nhanh nhẹn chạy lại, nắm chặt tay tôi, niềm nở chào đón, sau đó ông ân cần hỏi: - Trước khi anh ra đi, anh có yêu cầu bất cứ điều gì không? Tôi bâng khuâng nghĩ ngợi, tôi cần cái gì nhỉ? Nếu tôi ra đi, thành công chẳng nói làm gì, còn như bị bắt, hay bị chết, tôi cần cái gì? Nếu như vậy, tôi chẳng cần cái quái gì cả. Điều tôi cần, tôi hiểu, kể cả chính phủ miền Nam cũng không làm gì được, đó là, nếu tôi bị bắt, tôi cần được cứu ra. Cho nên, nhìn ông ta, tôi cám ơn và lắc đầu. Cuối cùng, khi bắt tay lúc tôi bước lên máy bay, ông Cục Trưởng đặt nhẹ tay lên vai tôi, dịu dàng thân mật: - Bình đi vào thực tiễn, biết đâu khi thành công trở về. Bình lại mang kinh nghiệm huấn luyện bổ sung cho chúng tôi. Tôi hiểu, đó cũng chỉ là một câu xã giao để động viên, khích lệ người ra đi thôi. Nhưng, phải thừa nhận rằng, đó là một câu nói có giá trị thực tế của một người có nhãn quan tiến bộ. Tuy nghĩ như vậy, nhưng tôi chỉ cười, không nói gì. Thấy tôi im lặng tư lự, ông Cục Trưởng nói tiếp giọng sôi nổi: - Nếu Bình đi công tác thành công trở về, tôi sẽ ra tận Đà Nẵng đón Bình ngay khi còn ở trên hải thuyền. Tôi ngước mắt, nhìn thẳng vào mắt ông, miệng tôi hơi mỉm cười để làm giảm độ căng sắc của mắt mình. Thì ra, tôi chỉ có giá trị khi thành công! Còn lúc này, chỉ là tiễn đưa lấy lệ! Tuy nhiên, nghĩ cho cùng “Đời là thế!” Nên tôi cười to hơn và bay tay tự nhiên cũng nắm chặt tay ông Cục Trưởng hơn khi từ giã. Khi tôi và Hoàng Công An xuống trường bay Phú Bài, lại vẫn chính ông Hương lái chiếc xe “díp” dân sự ra đón. Ông đưa chúng tôi về một khách sạn ở Huế. Hôm sau, chúng tôi lại ra Bến Hải, nhưng lần này dịch về gần phía cầu Hiền Lương. Tôi ngước mắt đăm chiêu nhìn hai lá cờ đang phất phới tung bay trong gió lộng. Một lá đầy mầu máu, sặc mùi tử khí, giết chóc phía bên kia. Và một lá mầu vàng với ba sọc đỏ hiền hòa phía bên này, tự nhiên lòng tôi suy ngẫm. Hai lá cờ đứng bên nhau đang cùng tung bay trước gió dưới cùng một bầu trời Tổ Quốc, thế mà muôn đời không bao giờ có thể sống chung. Chỉ vì một lá cờ muốn trên trái đất này, chỉ còn lại một mầu duy nhất là mầu của nó. Nghĩa là tất cả mọi mầu cờ khác phải bị tiêu diệt. Ai cũng hiểu đó là lá cờ nào rồi. Sáng ngày 22/4, ông Hương đưa tôi và An trở vào Đà Nẵng. Đà Thành với thời tiết bốn mùa của Hà Nội năm xưa đây rồi. Cái lành lạnh của cuối Xuân đầu Hè càng làm cho thành Đà thêm nhiều mầu sắc. Xe đã đi sâu vào giữa phố phường. Do thói quen từ trước, tôi không hỏi và cũng không cần biết khi đến Đà Nẵng sẽ ở đâu, và ai sẽ đón. Chính vì vậy, khi xe ngừng lại trên đường Độc Lập, chéo xa xa phía bên kia là một “bar” giải khát, mang cái tên mỹ miều gợi nhớ “Hà Nội,” cả ông Hương và Hoàng Công An đều bắt tay tôi từ biệt, hẹn gặp lại ngày tôi từ bên kia vĩ tuyến trở về. Sau đó, ông Hương chỉ sang quán Hà Nội: - Bình xách va li váo quán đó chờ, lát nữa sẽ có người đến đón. Từ lúc này, Bình thuộc quyền hạn của người khác. Vai khoác chiếc ba lô to mầu vàng của Nhật, tay khệ nệ xách chiếc va li, tôi tiến về phía “bar” Hà Nội. Bước chân vào quán, nhìn thấp thoáng qua mấy chậu cảnh hoa lá tốt tươi, tôi thấy bàn này vài sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, bàn kia mấy người Bộ Binh ngồi chung với những người bận Không Quân và thường phục. Sâu phía trong, chỗ sát quầy “buvette” trên những hàng ghế cao, là mấy quân nhân Dù cổ áo óng ánh một vài chiếc mai vàng. Tại một đầu quầy, ba người mặc thường phục, kính trắng đạo mạo, đang ngồi trầm ngâm bên những “phin” cà phê sáng bóng. Quang cảnh trong quán, nổi bật vẫn là ba bộ mặt giai nhân duyên dáng, lả lướt trong những tà áo dài bó chẽn những thân hình căng đầy hương sắc. Tôi hơi ngỡ ngàng băn khoăn, tiến vào một chiếc bàn trống ở trong góc. Chính cái dáng dấp “không giống ai” của tôi đã làm cho hầu hết những người trong quán đều quay lại với những ánh mắt tò mò. Tôi coi như không biết, lựa thế đặt va li và ba lô. Tôi hiểu đây là một trong những tụ điểm gặp gỡ của những giới son trẻ tài hoa nơi Thành Đà, tuy khác nẻo đường nhưng cùng chung sở thích những âm thanh du dương trầm bổng đưa đẩy bên những mầu sắc mơ hồ chìm nổi chung quanh. Một tà áo mầu hoa khế tiến lại nhỏ nhẹ giọng của đất văn vật ngàn năm: - Dạ thưa anh dùng gì ạ? Nghe giọng nói của một giai nhân, tuổi trạc đôi mươi, với bối cảnh của chiếc quán, tự nhiên tôi nổi hứng gió sương: - Một ly Martel “sếch”, một Capstan. Khi cô chiêu đãi đưa rượu và thuốc lá ra, nhìn đôi bàn tay thon dài, óng chuốt duyên dáng khẽ để ly rượu trước mặt tôi. Gợi trí tò mò, tôi ngước lên. Đôi mắt long lanh thăm thẳm soi mói nhìn tôi ngập ngừng: - Chắc anh mới đến Đà Nẵng? Hơi mỉm cười như để thừa nhận, tôi hỏi lại nhẹ nhàng: - Thế cô đoán tôi là dạng người gì đến đây? Cô cũng mỉm cười, liếc nhìn vào chiếc ba lô và va li rồi dè dặt: - Chắc anh là nhà chuyên môn, tới mỏ than Nông Sơn…? Đầu tôi gật gật, nhìn cô như tỏ vẻ thán phục. (Lời đoán của cô, làm tôi chợt nhớ đến tên bạn thân của tôi là Lê Đức Bình, hiện cũng đang trông coi mỏ than Nông Sơn, tôi nghĩ nếu có dịp sẽ tạt vào thăm hắn.) Tuy vậy, tôi cũng lơ đãng phà hết khói thuốc, rồi quay lại khẽ cảm ơn cô, lửng lơ để tùy cô suy nghĩ. Về sau, tôi mới biết cô này tên là Hiếu. Cô cũng là nguyên nhân trong vụ một anh trung úy Thủy Quân Lục Chiến đã tát cảnh cáo một ca sĩ khá nổi danh của Sài Gòn ngay tại “bar” nay hơn một tháng trước đó. Ngay từ lúc bước vào quán, tôi đã thắc mắc, suy nghĩ không hiểu sao người nào ở trên Cục lại cho hẹn đón tôi ở cái quán này? Chừng nửa giờ sau, thắc mắc của tôi đã được trả lời. Tôi thoáng thấy bóng ai như dáng dấp của Phan, ngồi trên chiếc xe “díp” dân sự chạy tới và đỗ lại chéo phía xa bên kia đường. Người trên xe bước xuống, đúng là Phan. Tôi hơi ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Thì ra từ bốn, năm tháng trước, Phan nói bận công tác xa, chính là ra Đà Nẵng này. Giữa tôi và Phan đã quen cảnh gặp nhau bất ngờ, tôi thong thả thanh toán tiền, rồi khoác ba lô, xách va li đi ra. Khi tôi vừa khuất xa cửa quán, chiếc “díp” đã chồ tới sát ngay cạnh tôi. Một cái bắt tay thật chặt, bốn mắt mở to, hoan hỷ nhìn nhau. Trên đường đi, sau những phút hàn huyên của giai đoạn xa cách. Phan quay sang tôi dặn dò: - Bây giờ “moa” đưa “toa” đến trọ ở một khách sạn. Tên chủ khách sạn là bạn quen của “moa.” “Moa” sẽ giới thiệu “toa” là bạn. Con trai của một chủ tiệm vàng ở Sài Gòn, ra đây tìm địa điểm mở chi nhánh. Như “toa” biết đấy, người ta dự đoán là thành phố này Mỹ sẽ vào nhiều, cho nên con buôn các nơi, nhất là tụi ba Tầu, đang đổ xô về đây làm ăn. Tiếp xúc với Phan từ lâu, tôi đã hiểu tính làm việc quá phóng khoáng của Phan, nhiều khi trở thành tùy tiện, thiếu sự điều nghiên thấu đáo. Có thể cho tới khi gặp tôi, nhìn lại con người tôi, Phan đã nghĩ ra là tôi cần phải đóng một vai như vậy mới hợp. Tuy biết vậy, tôi vẫn gật đầu đồng ý, vì Phan hiện đang là người chỉ huy trực tiếp của tôi. Lát sau, xe tới đậu trước khách sạn Hồng Phát, một khách sạn 6 tầng lầu mới xây; tầng một chuẩn bị mở “buvette.” Phan chạy vào một lúc, rồi cùng trở ra với một người đeo kính trắng, đóng bộ đàng hoàng, khoảng 40 tuổi. Phan giới thiệu tôi, rồi chỉ ông đó: - Đây là anh Yến, chủ khách sạn này, đồng thời anh còn là chủ một khách sạn lớn nữa ở Sài Gòn. Phan cười, hất hàm về phía tôi, nói với anh Yến: - Đó, bạn “moa,” “toa” liệu sắp xếp cho một buồng tiện nghi. Ông Hồng Phát rất niềm nở cởi mở, ông gọi người quản lý ra hỏi một lúc, rồi quay lại nói với tôi: - Tôi rất vinh hạnh được quen biết anh. Ở đây buồng số 5 là tiện nghi nhất, nhưng một “xừ” đại tá Mỹ đã ở hơn một tháng rồi, hai ngày nữa y đi. Tôi sẽ ưu tiên dành cho anh. Bây giờ, anh hãy ở tạm phòng 8 cùng lầu 3. Trong khi hai anh bồi mang va li và ba lô của tôi lên lầu, ông Yến tự tay lấy chìa khóa từ ông quản lý, dẫn Phan và tôi lên theo. Ngay buổi chiều hôm đó và những ngày hôm sau nữa, tôi hơi ngạc nhiên thấy ông Yến hay chuyện trò, tỏ ra thân mật muốn kết thân với tôi. Nào là sẽ hướng dẫn tôi đi thăm thú thành phố, vân vân… và vân vân. Khi ông đại tá Mỹ rời đi, tôi đã chuyển về phòng số 5. Những buổi gặp Phan và Yến sau này, tôi đã hiểu họ. Phan hiện là người chịu trách nhiệm tung người ra Bắc, gồm Biệt Kích, người Nhái và những người đi lẻ như tôi v.v…Điểm xuất phát là Đà Nẵng. Một mình Phan một chiếc “Cadillac” mới toanh. Đối với thành phố Đà Nẵng nhỏ hẹp này, Phan là người rất có thế lực. Các giới chức từ Tỉnh Trưởng trở xuống đều nể vì. Ông Yến, tức Lương Hồng Yến; người Tầu. Là một thương gia giầu có, chồng của Thái Lệ Chi, một giai nhân của đất thần kinh. Khổ người và dáng dấp bà Chi hao hao giống bà Trần Lệ Xuân. Chính qua người vợ hương sắc này, ông Yến đã lọt qua nhiều cửa chính quyền, để tiến mãi trên bực thang tiền bạc. Thấy tôi là bạn của Phan, ông ta nghĩ tôi không những là người có tiền bạc, mà còn có thần thế nữa, cho nên ông ta đã hết mình săn đón. Những buổi chuyện trò thân mật, chính ông đã tâm sự: - Loại chúng mình luôn luôn là đối tượng mà Cộng Sản muốn tiêu diệt! Qua câu chuyện và cách ăn nói, mặc nhiên ông ta đã nghĩ tôi cũng trong giới giầu sang như ông ta. Tôi cười thầm, tôi chỉ là loại dân nghèo cùng đinh, làm sao được ờ giai cấp giầu sang như ông bạn! Tuy nghĩ thế, vì vỏ bọc, tôi cũng cười tỏ sự đồng tình với ý kiến của ông ta. Tôi ra Đà Nẵng được 3 ngày, Phan đưa tôi đến một căn nhà ở gần phía cầu Hàn. Ở đây, tôi lại gặp Brown và Dale. Vì có một số diễn tiến mới, hai ông ra đây trực tiếp thông báo cho tôi. Tôi ngồi nghe và sau đó cùng nghiên cứu, thảo luận lại một số vấn đề về tình hình cũng như tin tức. Ngoài ra, hai ông còn cho tôi biết thêm là hải thuyền tôi đi, phía bên ngoài khơi, sẽ có một tầu của hạm đội 7 đi hộ tống. Hoặc, đang có sự nghiên cứu; lần sau. Nghĩa là trong tương lai, sẽ dùng tầu ngầm, khi đến điểm đổ bộ, dùng xuồng cao su, nhẹ nhàng bí mật tiến vào bờ v.v… Phải nói rằng, ngay lúc đó, tôi chẳng hề tin theo lời Phan. Tôi vẫn nghĩ, đó chỉ là những hình thức dùng để động viên, nâng cao tinh thần, tin tưởng cho người đi hoạt động mà thôi. Tới hai hôm sau, Phan đưa tôi sang phía biệt khu Hải quân, vào một nơi riêng biệt. Dùng “ca nô” chạy ra phía sau ngọn Sơn Trà để thực tập đổ bộ và chôn dấu vật dụng. Phần vì đêm khuya, sóng gió lớn ở vùng cửa biển. Phần vì lề lối, tác phong làm việc hời hợt, chiếu lệ. Kiểu “cỡi ngựa xem hoa,” nên khi thấy bị ướt át, run lạnh, Phan cũng giục đi về dù tôi chưa làm xong. Tuy cũng có thực tập về hồng ngoại tuyến vài lần, nhưng cũng chỉ là hời hợt thiếu sự mẫn cán thực tế. Một tuần lễ ở Đà Nẵng, tôi cũng có ý định gặp lại bạn Lê Đức Bình trong mỏ than Nông Sơn. Nhưng rồi công việc bề bộn cho đến phút chót, nên tôi đã không thực hiện được ý định này. Phan thường căn dặn tôi, để tránh nguy hiểm, không nên đi về phía đầu đường Bạch Đằng từ Grande Hotel trở lên. Vì ở đấy, nhiều người Mỹ thường lui tới có thể xẩy ra những vụ lộn xộn gài mìn, gắn lựu đạn v.v… sẽ nguy hiểm cho mình. Trong thâm tâm, tôi hiểu rằng phía ấy là nơi làm việc của cơ quan tình báo. Phan không muốn tôi đến, chứ giai đoạn đó, hầu hết những building mới xây. Thậm chí, ngay khách sạn Hồng Phát, Grand Hotel, v.v… đã đầy rẫy những người Mỹ từ Hạm Đội 7 mặc thường phục vào mướn thuê phòng rồi. |
|
|
![]()
Post
#15
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười Hai
Bão Tố Ngoài Khơi… Theo quy định, 7 giờ chiều ngày hôm sau. Ngày 28 tháng 4, tôi sẽ xuống hải thuyền đậu ở một nơi riêng biệt bên Biệt khu Hải Quân. Bên ngoài trời mưa gió. Khung trời Đà Nẵng, chung quanh toàn biển, nên gió thật nhiều. Không gian ẩm thấp, xám xịt. Từng đợt gió mạnh đẩy bạt những hạt mưa nho nhỏ qua khung cửa sổ, hắt vào mãi giường tôi nằm. Cũng chẳng hiểu tại sao, tôi vẫn không muốn đóng khung cửa sổ lại. Cứ nằm đón nhận từng làn hơi ẩm ướt của gió mưa, buông lơi tâm tư bồng bềnh ngược xuôi chìm nổi. Đã hơn 10 giờ tối, nằm mãi không ngủ được, đầu óc tôi lướt nhanh soát lại tất cả các vật dụng sẽ mang theo. Tôi đã để lại nguyên chiếc va li cồng kềnh với tất cả hành trang của một đời trai độc thân, với bao ân tình kỷ niệm: Từ chiếc đồng hồ đeo tay (đi công tác, tôi đã được cung cấp một đồng hồ khác, loại chống nước của Liên Xô). Chiếc dây chuyền 3 chỉ vàng chưa hề bao giờ đeo. Tiền bạc, toàn bộ giấy tờ; chiếc ví da, cho đến những thư từ, hình ảnh gia đình và bạn bè. Tôi cảm thấy một Đặng Chí Bình như được lột xác, trút bỏ hết tất cả. Nay cả đến hơi hướng của những cảnh đời đầy hương sắc, để trở thành một Lê Viết Hùng, sẽ ngược xuôi trong một cảnh đời khác. Một cảnh đời lầm than cực khổ của những con người lôi thôi lếch thếch. Làm việc như những con vật, quần quật suốt ngày đêm. Tâm tư tôi đang chìm đắm trong những cảnh sống của khung trời miền Bắc đang đợi chờ, chợt văng vẳng một giọng hát nho nhỏ cao vút đâu đây: “…Mai anh đi rồi, làm sao em ngăn được, thà vui cho trót đêm nay…” Tôi giật mình, bâng khuâng. Câu hát trùng với hoàn cảnh của tôi làm sao! Không hiểu ai đó lại ca vào đúng lúc này? Không thể dằn được sự tò mò. Tôi bật dậy, tiến tới cửa sổ, nhô hẳn đầu ra ngoài nghe ngóng. Tôi xác định được tiếng hát ở lầu trên. Chẳng rõ nguyên nhân nào thúc đẩy, tôi mở cửa, nhẹ chân rón rén lên lầu, bước dần lại căn phòng vẫn còn tiếng hát lả lơi nho nhỏ. Tôi dựa tường, yên lặng lăng nghe. Giọng ca có lúc như nghẹn ngào than van, nhưng có lúc lại vút cao, lanh lảnh tràn đầy mộng ước. Nhìn đồng hồ, đã gấn 11 giờ đêm, tôi cảm thấy đứng như thế này là một hành động bất nhã. Chỉ vì một bản hát nào đó tôi không biết tên, đã hợp đúng tâm trạng của tôi. Lần bước xuống hẳn dưới nhà. Người bồi và ông quản lý, đang ngồi hút thuốc nói chuyện, thoáng thấy tôi xuống, đều đứng dậy, tưởng tôi cần việc gì. Đắn đo một lúc, tôi hỏi: - Này, trên phòng 12, ai hát hay thế nhỉ? Người bồi tên là Lụa, đẩy hẳn cái ghế ra, quay lại. Mắt sáng lên nhìn tôi, giọng Quảng Nam săn đón: - Trời ơi! Hôm nay thầy mới hỏi, cô là em nuôi tên là Dạ Lý Hương, ca sĩ tài tử đó! Nếu thầy muốn làm quen, mai cháu sẽ giới thiệu cổ cho thầy. Cồ nổi tiếng là cao kỳ, nhưng với thầy, cháu thấy hai người hợp lắm. Cháu bảo đảm, ăn chắc! Tên Lụa nói líu lo một hồi, cướp hết cả lời ông quản lý. Tôi nghĩ, phần vì hoàn cảnh và điều kiện không cho phép, phần vì còn đang phải dấn thân vào những phương trời giông bão. Không được quyền đa mang những chuyện bận tâm, nên tôi nghiêm hẳn nét mặt, cố nói giọng thật lạnh lùng: - Cảm ơn anh! Cô ấy đã làm tôi mất ngủ, vì hát giữa đêm khuya! Nói xong, tôi trở lên phòng, trước 4 con mắt mở to của họ. Lúc này, tiếng hát đã im bặt, nhưng lời ca và giọng hát ấy đã theo tôi về phương trời miền Bắc xa xôi, suốt dài theo năm tháng. Nhất là vào những đêm mưa buồn, không ngủ. 5 giờ chiều hôm sau, Phan đến đưa tôi sang biệt khu Hải Quân. Khi đến gần, một chiếc thuyền đâu khuất trong một vụng nhỏ vắng vẻ. Tuy Phan chưa nói, nhưng qua một số hiện tượng, tôi đã hiểu, đó là chiếc thuyền tôi sẽ đi. Nhìn bề ngoài, chiếc thuyền trang bị như một thuyền đánh cá ở các vùng ven biển. Nhưng theo Phan nói, máy móc được thiết kế thật tốt, có thể chạy từ 10 đến 12 hải lý một giờ. Lúc Phan dẫn tôi xuống thuyền, tôi đã thấy lố nhố 5, 6 người, đa số là thanh niên, mặc toàn quần áo nâu. Hai người làm tôi chú ý hơn cả, đó là một ông già chừng 50- 55 tuổi. Dáng mặt đen ròn mạnh khoẻ. Và một người khoảng 40 tuổi mặc may ô tay còn cầm cái mỏ lết, vừa chui từ hầm tầu lên. Thân hình anh ta trông lực lưỡng, to, cao với những bắp thịt cuồn cuộn, chắc nịch như một lực sĩ. Sau khi cả 6 người dưới thuyền có mặt đầy đủ, Phan chỉ ông già rồi quay lại tôi: - Đây là bác thuyền trưởng. Rồi Phan chỉ tiếp anh chàng có thân hình to lớn, khi nãy: - Đây là anh thợ máy. Sau đó, Phan khoa tay nói rằng, những người còn lại đều là thủy thủ. Theo lệnh Phan, một anh chạy lên chỗ xe “díp” mang vật dụng của tôi xuống thuyền. Tôi thấy các anh, các bác dưới thuyền, người nào cũng đen xạm, rắn chắc, khoẻ mạnh. Họ đều là người Công Giáo, vì tôi thấy ai cũng đeo tượng Chúa. Và nhất là ở mé thuyền, mấy cỗ tràng hạt còn đang rung rinh theo đà lắc lư của con thuyền. Tất cả đều là người miền Trung. Khi cả Phan và tôi đã chui vào trong khoang thuyền, Phan quay lại hỏi toàn thể: - Tất cả những đồ cần thiết đã chuẩn bị đầy đủ chưa, anh em? Bác thuyền trưởng dõng dạc trả lời: - Thưa đủ! Phan hất hàm về phía anh thợ máy: - Tình trạng máy móc thế nào? Anh ta trả lời, giọng Quảng Bình chắc nịch: - Thưa, bình thường! Bây giờ, Phan mới hướng về tôi, nói với toàn thể những người dưới thuyền: - Đây là ông cán bộ, đi công tác đặc biệt. Các anh em có trách nhiệm phải đưa ông đến điểm đổ bộ đã quy định. Suốt trên đường đi đến mục tiêu, ông có toàn quyền bảo thuyền quay lại, các anh em phải theo lệnh. Nghe Phan nói, tôi hiểu, nếu lúc đó, bắt đầu vào thực tế, tôi mất tinh thần, tôi sợ, (một điệp viên vào đất địch mà sợ hãi, dứt khoát chỉ làm hư việc,) thì quay về là đúng. Nếu không, đôi khi còn tác hại hơn, không thể nào mà lường được. Anh sợ, anh quay về, chỉ có một điều hại là công tác chưa thi hành được, chứ địch chưa biết gì cả, và anh chỉ bị kỷ luật như đã định mà thôi, chứ nếu anh đã sợ mà anh cứ vào đất địch, chắc chắn anh sẽ không hoàn thành được công tác và dễ bị địch phát hiện. Địch sẽ khai thác những tài liệu anh mang theo, sự di hại còn to lớn biết chừng nào. Sau đó, tôi theo Phan lên bờ, Phan đặt tay lên vai tôi, thân mật: - Tinh thần của “toa” thế nào? Tôi mỉm cười, đập mạnh vào tay Phan một cái, đùa cợt: - Đấy, tinh thần tôi đấy! Phan siết chặt tay tôi, rồi không biết Phan nghĩ thế nào, tự nhiên dang tay ôm chặt tôi, không một lời từ giã, hẹn gặp lại hay chúc thành công. Đó cũng là cá tính của Phan khi chia tay. Trời đã chập choạng, thuyền bắt đầu rời bến. Xa xa, thành phố Đà Nẵng đã lên đèn. Hơn một tuần lễ ở đây, tôi chưa biết nhiều về Đà Thành, vậy mà tôi cũng thấy vương vấn bâng khuâng. Tôi có cảm tưởng con thuyền rời xa dần khung trời tươi sang để đi sâu vào vùng đen tối mịt mù. Thực sự, con thuyền đã khởi hành lúc 7 giờ chiều, trời còn sáng, để đi dần vào màn đêm. Và từ một vùng yên tĩnh trên sông Hàn, để tiến dần vào vùng sóng gió của biển khơi. Con thuyền đã bắt đầu lắc lư, vật vã với những vạt sóng bạc đầu vùng cửa biển. Tôi đứng dựa mui thuyền. Đã gần nửa đêm, bầu trời rất thấp, hàng trăm ngàn vì sao nhấp nháy. Tôi đưa mắt nhìn một vòng chung quanh. Tôi có cảm tưởng, bầu trời như một chiếc vung khổng lồ úp xuống mặt nước bao la cùng chiếc hải thuyền cô độc, đang âm thầm rẽ song. Giữa mầu xám xịt mênh mông của biển khơi, là những tảng trắng đục của những lớp sóng bạc đầu trông như đá hoa cương. Chiếc thuyền nhấp nhô nghiêng ngả, đập vào đầu những ngọn sóng, gây lên những tiếng bộc bạch chắc nịch. Làm cho con thuyền rung lên, phát ra những tiếng cọt kẹt…cọt kẹt… Dù tôi đã uống trước hai viên thuốc chống say sóng do Phan đưa, thế mà tôi vẫn thấy người nôn nao khó chịu. Tôi đành phải chui vào trong khoang nằm nghỉ. Đang vật vờ nửa thức nửa ngủ, tôi bỗng nghe tiếng rổn rang, nặng chình chịch của ông thuyền thưởng: - Buộc lá cờ vàng, đen lên! Dù người rất mệt vì say song và đã nôn ói hai ba lần, tôi vẫn phải cố bò lên xem chuyện gì. Trời đã sáng, mọi người đang hướng nhìn về phía mặt trời mọc. Một chiếc tầu mầu trắng toát, cách xa khoảng chừng 5 cây số, đang chĩa mũi về chiếc hải thuyền. Quá xa, và cũng do ánh nắng, tôi không trông rõ mầu cờ của chiếc tầu đó. Thấy anh thợ máy đang quỳ phía mũi thuyền, dán mắt vào chiếc ống nhòm. Tôi cố lần ra, khẽ đặt tay vào vai anh. Anh quay lại, hơi ngạc nhiên khi thấy tôi, anh tươi nét mặt: - Tầu của ta, không sao! Rồi anh trao ống nhòm cho tôi. Qua ống nhòm, tôi đã nhìn rõ mầu cờ vàng ba sọc đỏ phía cuối tầu. Và, đó cũng là lúc chiếc tầu đang chuyển mũi về phía trái, tức vào bờ. Tôi nhớ chiều hôm trước, lúc ở biệt khu Hải Quân. Phan đã đưa cho ông thuyền trưởng mấy loại giấy tờ, nói là khi nào có tầu của ta kiểm soát, xuất trình giấy lệnh công tác đặc biệt của trung ương. Nhưng, sao lại còn phải kéo lá cờ hiệu, con con mầu đen vàng? Tôi vào hỏi ông già, thì ra đó cũng là mật hiệu của thuyền đi công tác đặc biệt nữa. Mật hiệu này, luôn luôn thay đổi, có khi hàng ngày, có khi hàng tuần. Mặt trời đã lên cao, nền trời trong xanh, mặt biển thật yên lành. Tuy vậy, phần vì bị nôn mửa, phần vì tôi không hề ăn uống gì, nên người rất mệt. Mặc dù cảnh biển trời rất đẹp, thật hùng vĩ, nhưng tôi vẫn phải chui vào khoang nằm. Tôi nằm chập chờn, lúc tỉnh lúc mê, nhưng tôi vẫn theo dõi được những diễn tiến của con thuyền. Khoảng gần trưa, thái độ của mọi người có vẻ thận trọng, dè dặt hơn. Cứ 5, 10 phút, lại một người mang ống nhòm ra phía mũi thuyền quan sát một vòng. Từ ông già thuyền trưởng, cho đến các anh thủy thủ, ai nấy đều trầm tư im lặng, ít nói chuyện hẳn đi. Tôi hiểu, con thuyền đã đi vào vùng biển cùa miền Bắc. Ánh nắng đã nhạt dần, một ngày nữa đã trôi qua. Tôi đã biết, từ bác thuyền trưởng đến các anh thủy thủ, trước đây họ đều là dân chài lưới chuyên môn ở Nghệ An. Họ đã chối bỏ bạo quyền vô nhân, khát máu Cộng Sản, di cư vào miền Nam. Họ là những người dân hiền lành chất phác, suốt đời chỉ biết cặm cụi làm ăn. Họ đã ra đi thoát khỏi bàn tay sắt máu của lũ cộng. Họ tìm đến được thế giới tự do. Nhưng, họ còn thấy trách nhiệm của họ với những bà con, thân thuộc còn ở lại, nên họ đã tình nguyện làm công việc này, để góp phần nhỏ bé, giới hạn do cuộc sống đơn giản, ít học thức của họ. Do đấy, tình cảm thương yêu đồng bào, đồng chí thật chân phương thắm đượm gần gũi. Thấy tôi bị say sóng, không ăn uống gì được, người nào cũng săn sóc, giúp đỡ như ruột thịt anh em. Họ nấu từng bát cháo nóng, đưa từng hộp dầu cao với những cử chỉ thật đậm đà, gần gũi, làm tôi vô cùng xúc động. Lại một đêm nữa trôi đi bình lặng. Sáng hôm sau, mặt trời phía Đông loé sáng được hơn một tiếng đồng hồ, thì mạn phái Tây Bắc, từng cụm mây đen to tướng đùn lên, dần dần che lấp cả bầu trời. Không khí tự nhiên oi nồng khác thường. Mặt biển óng 1ên mầu vàng nhợt. Mấy ngày này, tôi chỉ húp được sữa, ngồi một lúc hoa mày chóng mặt, tôi lại phải nằm. Gần về chiều, trời vẫn oi ả, giữa biển khơi mà im gió như trong buồng. Nét mặt mọi người đều lộ vẻ lo âu với những hiện tượng không bình thường của thiên nhiên. Đột nhiên, một anh thủy thủ tay đang cầm ống nhòm ở mũi thuyền, quay lại mặt nhớn nhác, tay chỉ trỏ phía xa xa, miệng nói léo nhéo, nghe không rõ, vì tiếng máy nổ ồn ào. Mọi người, ngay cả tôi, linh cảm thấy một điều bất thường. Dù mệt, tôi cũng cố cùng mọi người đổ xô ra phía mũi. Xa xa, từ phía trái, tức phía trong bờ, có hai chấm đen đang tiến dần về phía chiếc thuyền. Tôi giằng lấy ống nhòm từ tay anh thủy thủ. Rõ ràng hai chiếc ca nô đen xì. Vì còn quá xa, nên chưa trông rõ cờ hiệu, nhưng ai cũng hiểu rằng, còn chệch vào đâu được nữa, đó chính là ca nô của bộ đội hải quân biên phòng của Cộng Sản. Không nói ra, nhưng mặt người nào cũng tái đi, lấy cái gì để chống đỡ bây giờ? Chịu trận, như con cá đã nằm trên thớt. Tôi liếc nhanh những vật dụng mang theo, tay tôi sờ trong người, mân mê mấy bọc tài liệu con con. Đầu tôi loé lên quyết định, phút cuối cùng sẽ gửi chúng vào lòng biển cả. Dứt khoát, bằng mọi giá không để tài liệu này lọt vào tay kẻ thù. Những bước chân chạy khẩn trương rầm rập. Những tiếng nói to dằn mạnh của mấy ngưòi í ới: - Mở tốc lực tối đa! - Bẻ lái chạy theo hướng phải! - Bỏ lưới lên mui, căng ra! Hai chấm đen càng lúc càng to, càng rõ ra. Qua bản thân mình, tôi hiểu rằng trống ngực của mỗi người đều tăng nhịp đập theo tiếng máy tầu. Sau khi những xốn xang chuẩn bị của mỗi người ạm ổn, tuy không ai bảo ai, nhưng cứ thỉnh thoảng, mọi người lại quay nhìn về phía hai chấm đen với những đôi mắt trắng nhợt. Anh thợ máy chui vào khoang, lấy bức hình Đức Mẹ treo cao lên phía vách thuyền. Rồi cũng không ai bảo ai, trừ ông già thuyền trưởng đang lái thuyền, mọi người, anh thợ máy và các thủy thủ, đều ngồi xếp chân bằng tròn làm dấu, nguyện kinh. Tôi cũng ngồi dậy đọc kinh cùng mọi người. Tiếng cầu kinh râm ran theo tiếng máy vang rền. Tuy đọc kinh, nhưng thỉnh thoảng một cái đầu, lại ngoảnh về phía hai chấm đen, lúc này đã to bằng hai con trâu mộng. Mây đen mù mịt, trời càng thẫm dần. Bỗng nhiên pằng, pằng, pằng pằng! Bốn tiếng súng như xé màng tai mọi người, làm cả 7 cái đầu đều quay về phía hai chấm đen một lượt. Tiếng đọc kinh càng to, càng cấp bách hơn. Mọi người đọc kinh “dọn mình chịu nạn.” Khoảng cách của hai chiếc ca nô và chiếc thuyền càng lúc càng ngắn lại. So sức máy của con thuyền với sức máy của hai chiếc ca nô, tôi có cảm tưởng như sức chạy của con gà đối với hai con chó sói. Đột nhiên, một làn chớp xanh lè nháng lên. Một tiếng nổ làm rung rinh mặt biển, rồi như tiếng gầm của đại bác, rền vang ngang dọc trên bầu trời. Những hạt mưa lạch tạch ngoài mũi, trên mui thuyền. Gió bắt đầu lồng lộn nổi thổi. Sóng cuồn cuộn nổi lên, mưa gió xoáy mịt mù. Chiếc thuyền dựng lên, ngụp xuống, nhấp nhô giữa muôn ngàn núi sóng. Biển trời gầm rú át cả tiếng đọc kinh và tiếng máy của thuyền. Mọi người đều nhìn lại, hai chiếc ca nô đã mờ mịt trong gió mưa. Thoát cái nạn kẻ thù, lại gặp cái nạn cuồng phong, bão tố của biển khơi. Thuyền đã bẻ lái quay về hướng cũ, vì khi nãy sợ quá nên đã chạy ra hướng đại dương. Mưa bão càng cuồng loạn, tiếng đọc kinh càng lớn. Nhiều lúc, tôi tưởng như chiếc thuyền chìm nghỉm, hoặc vỡ tan ra từng mảnh. Ngồi trong khoang mà mọi người ướt đẫm. Cả chiếc thuyền, chẳng chỗ nào còn khô. Người tôi lúc xô sang góc này, lúc đập vào góc kia. Bác già thuyền trưởng đang xệch miệng gò người đẩy lái thuyền. Một cơn sóng đánh trùm lên, đánh bật văng bác váo trong góc. Ba anh thủy thủ đổ xô ra, một người đỡ bác, hai người kia chộp lẹ vào cần tay lái. Bác già đã vươn ngay dậy được, xông đến tiếp tay cho hai anh thủy thủ đang nghiêng ngả với chiếc bánh lái. Người tôi lạnh run, mệt lả, vì mấy ngày không ăn. Tôi tưởng chắc phen này sẽ về lòng đại dương, chấm dứt một cuộc đời chìm nổi mưa gió. Chừng nữa giờ sau mưa tạnh, gió dịu dần, biển khơi đất trời nguôi cơn giận. Màn đêm đã bao phủ cả bầu trời. Tôi đưa mắt nhìn khắp chung quanh, chỉ một mầu xám xịt, chẳng còn thấy bóng dáng hai con trâu điên đâu nữa. Chính chúng cũng đã phải chạy thoát thân, và có lẽ chúng nghĩ rằng, chiếc thuyền bé nhỏ của chúng tôi hẳn đã làm mồi cho cá biển. Thuyền chạy được 5- 6 giờ nữa, lúc này đã gần 12 giờ đêm. Trời lại bắt đầu nổi gió, và mưa cũng trở lên đầy hạt. Gió thật mạnh, quay cuồng, gió quất vào những khe ngách con thuyền. Gầm rít lên như muốn xé tan con thuyền bé nhỏ, cô đơn, giữa sự giận khùng của đại dương bao la. Trận bão này thật là khủng khiếp. Người nào cũng phải ôm ghì lấy khung thuyền. Ai cũng thấy nếu lỏng tay, không bị gió dữ thì cũng bị những cơn sóng thần sầu như trái núi hất tung người xuống biển. Chung quanh, mọi người chỉ còn nghe thấy tiếng ầm ầm của sóng gió thét gào. Tiếng máy thuyền như im bặt. Có chăng đây đó, thỉnh thoảng là tiếng kêu Chúa, hoặc gọi cha mẹ, ré lên rồi tắt ngủm trong màn đêm. Giữa lúc cái sống và cái chết ở cạnh nhau này, tôi thấy ông già thuyền trưởng vung cánh tay như vẫy tôi, miệng của ông há to, tôi không nghe thấy tiếng gọi. Tôi vận sức, nắm chặt khoang thuyền, lết lần từng bước về phía ông. Tôi cảm thấy, ông gọi tôi chắc có việc nan giải. Phần vì người ướt như chuột trong cống, lạnh run, phần khác vì sức tôi quá yếu (hai ngày hai đêm không ăn) nên tôi trượt chân, chới với tưỡng đã lao xuống biển nếu tôi không nhanh tay, chộp được một cái cọc ở mé thuyền và cùng lúc đó, hai anh thủy thủ vồ được hai chân tôi kéo lại. Có lẽ, vì thấy quá nguy hiểm, nên ông già thuyền trưởng vừa gào, vừa ra hiệu cho hai anh thủy thủ khác ra giữ lái thuyền thay ông. Khi ông và tôi đã bò vào được trong khoang, ông nhìn tôi giọng hổn hển ngắt quãng vì rét và vì mệt: - Đã đến điểm đổ bộ rồi. Chỗ này còn cách bờ khoảng 20 cây số. Với kinh nghiệm chài biển của tôi, trời đang giông bão thế này, nếu thuyền vào bờ, sẽ bị đắm. Vì thông thường, sóng cách bờ 5- 10 cây số dữ dội hơn ngoài biển khơi nhiều. Cơn bão hiện nay chưa biết bao giờ sẽ dứt. Vậy hoàn toàn do cán bộ quyết định đi vào hay đi … về? Thật là một vấn đề nan giải giữa sống và chết. Bao nhiêu công lao khó nhọc, đã đến đây, chả lẽ quay về? Để có thể quyết định được dứt khoát, tôi hỏi lại ông: - Hay bỏ neo tại đây, chờ hết bão ta vào? Ông cười, miệng méo xệu, trong khi ba anh thủy thủ mở to mắt nhìn tôi như nhìn một con quái vật. Cuối cùng, ông già nói gằn giọng như ông đang cãi nhau: - Không thuyền nào bỏ neo ở giữa biển, dù có bỏ neo cũng không tới, mà nếu có tới, trời đang gió bão thuyền sẽ lướt đi theo sóng không đứng yên. Đậu lại, hoặc chết máy lúc này thì chỉ một cơn sóng cũng chìm nghỉm. Chưa nói, nếu sáng mới hết bão, lúc đó ban ngày, đậu đây, chẳng khác nào chiếc mồi mời tầu công an ra mang vô. Tôi nhìn ông, tuy mệt và rét mà ông vẫn phải nói nhiều, nói dài. Ông đã gợi hết đường ngõ cho tôi rồi. Vì vậy, sau một phút đắn đo, tôi khoát tay, dõng dạc hai tiếng: - Quay về! Óc tôi lướt nhanh, nếu chỉ một mình tôi, sống chết cũng vào, vì đã đi thì dứt khoát chẳng quay về. Nhưng ở đây, còn 6 sinh mạng nữa, mỗi người là một chùm liên hệ gia đình, tôi không được quyền liều lĩnh. Ba anh thủy thủ cùng ngồi trong khoang nghe tôi nói quay về, mắt họ sáng lên, ngực họ như xẹp xuống vì được xì hơi ra. Ông thuyền trưởng quay lại phía lái, chụm hai bàn tay trước mồm làm loa, gào to: - Bẻ lái quay về miền Nam. Phải coi chừng chiều gió và sóng. Các anh thủy thủ đúng là đi biển có kinh nghiệm. Chiếc thuyền nhẹ lướt, quay nghiêng, rồi trực chỉ mũi về hướng Nam. Bây giờ, thuyền lại xuôi gió và sóng. Riêng tôi, vì mệt mỏi và những suy tư, nặng chĩu trong lòng, tôi nằm liệt ở trong khoang, chẳng muốn biết gì nữa ở bên ngoài. Tôi nằm thiếp dần, mê man. Sáng hôm sau, trời yên biển lặng, tôi vẫn chỉ mơ mơ màng màng, rồi tôi lại thiếp đi. Mãi cho tới khi anh thợ máy lay tôi dậy. Tôi nhìn miệng anh nói, nhưng giọng Nghệ An thật khó nghe, có lẽ vì mệt quá nên tai tôi ù lên chăng? Thấy tay anh cầm bát cháo con con đang bốc khói, và qua ánh mắt, tôi hiểu anh muốn bảo tôi cố ngồi dậy húp bát cháo này! Thái độ của anh, đã xoa dịu phần nào những nỗi niềm nặng chĩu u buồn trong lòng tôi. Tôi chống tay ngồi dậy, đón nhận tình anh. Tôi chỉ biết nhìn anh bằng ánh mắt biết ơn. Bên ngoài, ánh nắng chiều đã xiên khoai vào khoang thuyền. Sau khi húp hết được bát cháo nóng, người tôi như thêm phần sinh khí. Tôi bò dậy, chui ra ngoài mũi thuyền, ngồi dựa vào mui. Tôi đưa mắt nhìn ra phía chân trời xa xa, nơi có miền Nam thân yêu đang đợi chờ. Đột nhiên, một ý nghĩ len vào hồn, làm tôi tư lự đăm chiêu. Tôi đã bỏ dở công tác phải quay về. Đường đi không đến, dù rằng chẳng phải do mình muốn, tôi vẫn cảm thấy như có áng mây buồn vương vấn trước mắt. Cảnh chiều tàn trên đại dương làm cõi lòng tôi sầu nặng. Thêm nữa, đây vẫn còn là đất địch, nên tôi lại chui vào khoang. Một đêm, một ngày nữa trôi qua. Đến đêm thứ năm, kể từ ngày đi, thuyền mới về vĩ tuyến 17, đến phần đất của miền Nam tự do. Như đã nói trên, vì mang một tâm sự không vui, phần khác vì say sóng không ăn uống gì được, làm người càng mệt, nên trên suốt đường về tôi cứ nằm li bì. Mãi tới gần nửa đêm, tôi nghe loáng thoáng nhiều tiếng ồn ào quát tháo. Một vài vệt đèn “pin” chiếu lấp loáng vào trong khoang thuyền. Một chiếc tầu tuần nào đó thuộc Hải Quân của ta, đến kèm sát để hỏi giấy tờ, dù thuyền đã đánh tín hiệu bằng đèn “pin” trước rồi. Một chiếc ca nô nhỏ, trên lố nhố một số người, cặp vào phía mũi thuyền. Tôi không muốn họ nhìn thấy, tôi kéo chiếc chăn đơn che mặt và vẫn nằm yên. Một lúc sau, thuyền lại tiếp tục đi. Mờ sáng hôm sau, thuyền về tới bến cũ trong Biệt Khu Hải Quân. |
|
|
![]()
Post
#16
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười Ba
Chuẩn Bị Chuyến Sau… Gần hai giờ sau, khoảng 8 giờ sáng, mặt trời đỏ như một miếng tiết bò to tướng, ở dưới nước từ từ chui lên, làm cảnh vật sáng lung linh một mầu đỏ ửng. Phan đã đỗ xe trên đường ngay phía trước thuyền, đang đứng nói chuyện với ông già thuyền trưởng và mấy anh thủy thủ. Tôi mở cửa khoang chui ra. Phan quay lại nhìn thấy tôi, mắt Phan mở to rồi nhấp nháy. Dù đã được nghe báo trước, nhưng chắc Phan cũng không ngờ người tôi xuống nhanh như vậy, khi mới chỉ có cách 5 đêm 4 ngày. Lý do chính là trong 4 ngày 5 đêm đó, tôi chỉ húp được ba, bốn bát nước cháo, và lại trải qua nhiều giờ phút căng thẳng. Phan tiến lại nắm nhẹ tay tôi, chỉ hỏi một câu: - “Toa” có mệt không? Cho tới lúc lên xe, Phan thấy tôi ít nói hẳn đi. Nếu là người khác, có thể sẽ tưởng rằng, sau một chuyến đi căng thẳng, tinh thần tôi bị xuống. Nhưng, có lẽ Phan đã hiểu nét trầm tư của tôi, nên đã đập vào vai tôi, vừa cười vừa nói: - Ồ, “L’homme propose, Dieu dispose” (*) mà! “Toa” nghĩ ngợi làm gì! Đã 5 ngày không rửa mặt, lại đang mặc bộ quần áo miền Bắc, dép râu, mũ cối, nên tôi chui ra băng sau. Mở chiếc va li của tôi, mà Phan đã mang theo từ cơ quan sang cho tôi, để thay đồ. (*) “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Trên đường về thành phố, Phan nói: - Bây giờ “toa” chưa thể về Hồng Phát được. “Moa” đã tạm thuê cho “toa” một phòng trong khu vắng vẻ; “toa” hãy về đấy tắm rửa, cạo râu, ăn uống cho lại sức. Chiều mai, “moa” sẽ trở lại đón “toa” về Hồng Phát. Buồng số 5 đã lại có một người Mỹ khác đến thuê. Nghe quản lý nói họ chỉ ở vài ngày, nên tôi phải tạm ở buồng 14 trên lầu tư. Tầng này cũng có vài anh Mỹ ở mấy buồng, tuy thỉnh thoảng gặp nhau ở lối đi khi ra vào. Họ và tôi cũng chỉ mỉm cười để chào nhau, chứ không nó năng gì. Hai ngày sau Phan cho biết: “Công tác sẽ lại tiến hành vào ngày 28 tháng 5.” Như vậy, tôi có gần một tháng để nghỉ ngơi, để lấy lại sức và tinh thần. Theo quy ước, ngày đi thường phải là những ngày cuối tháng. Tôi băn khoăn hỏi Phan vì sao đài khí tượng của ta, lại không biết gì về những cơn bão đột xuất? Phan trả lời: - Với trình độ và phương tiện của đài khí tượng của mình hiện nay, mình chỉ dự đoán tương đối chính xác về thời tiết trong một thời gian 30 giờ và trong một phạm vi bán kính 300 cây số. Mà điểm đổ bộ lại ở ngoài tầm quá xa và thời gian cũng cách hàng 50-60 giờ, nên thật khó! Sau khi tôi làm báo cáo gửi đi được 3 ngày, tường trình những nét diễn tiến cơ bản của chuyến đi, có lẽ ở Sài Gòn, những người trên Cục cho rằng cần phải khích lệ, động viên tinh thần tôi, nên một hôm Phan đến bảo sẽ đưa tôi đi gặp một nhân vật của Cục muốn tiếp xúc. Phan đưa tôi tới quán nước “Diệp Hải Dung” khi gần tới nơi, Phan dặn: - “Toa” vào một mình, tìm một bàn trống, cứ gọi theo ý mình. “Toa” ngồi chờ, sẽ có người đến gặp. Tôi vào quán, một lúc sau, thoáng nhìn chéo góc đường, tôi thấy một người mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, thắt cà vạt. Ông ta khoảng ngoài 40, lái một chiếc xe “díp” dân dự còn mới, bên cạnh là ông Lý, một người miền Bắc tôi có gặp vài lần. Đậu xe ở một góc xa, người đó và ông Lý xách chiếc cặp đen theo sau, tiến vào quán. Trong quán, cũng đã đông người, hầu hết là thành phần trẻ. Do sự hướng dẫn của ông Lý, hai người đến bàn tôi. Vì không muốn người chung quanh để ý, nên họ chỉ cười nhẹ và bắt tay tôi, chứ không nói gì cả. Khi đã ngồi, gọi thức uống xong, ông Lý hơi cúi ra giữa bàn nói nho nhỏ nhưng ra vẻ quan trọng: - Đây là ông Cục phó, có nhã ý muốn ra gặp anh. Vậy, anh cần giải quyết hay đề bạt ý kiến gì, anh cứ nói? Sau khi nghe ông Lý giới thiệu, tôi nhớ lại qua vài câu chuyện với Phan ở Sài Gòn lúc trước. Tôi đã biết đây là ông Nguyễn Khắc Bình, vì vậy, một lần nữa, tôi hơi nghiêng đầu tỏ vẻ được vinh hạnh gặp ông. Với hàng ria mép xén tỉa cầu kỳ, đôi mắt sâu long lanh thật sắc và làn môi hơi mím lại của ông làm tôi thấy toát ra từ ông ta một nét cương nghị. Có lẽ vì thấy tôi mãi chưa nói gì, ông mỉm cười thân mật: - Trong người anh có được khỏe không? - Cảm ơn ông, tôi bình thường. Tôi chậm rãi trả lời. Mặt ông nghiêm lại, nhưng mắt ông sáng lên, ông nói rành rọt: - Đọc bản báo cáo tường thuật chuyến đi của anh; chúng tôi thấy anh quyết định quay về như vậy là đúng. Điều đó, chứng tỏ anh là người thận trọng, cân nhắc. Vậy, sau chuyến đi vừa rồi, anh có những cảm nghĩ gì? Tôi nhìn ông ta: - Thưa ông, cảm nghĩ thì nhiều, nhưng có một ý nghĩ đã lấn át tẩt cả. Chuyến đi không thành, phải quay trở lại, dù rằng ngoài ý muốn, lòng tôi vẫn nằng nặng không vui. Ông ta gật gật đầu, mấy ngón tay để trên bàn cũng đập nhè nhẹ theo nhịp gật. Ông mỉm cười, quay lại ông Lý như chia xẻ nhận xét: - Chính điều đó đã thể hiện chí khí của anh. Lâu nay, chúng tôi nhìn về anh đã không sai! Bây giờ anh cần gì không? Cục sẽ sẵn sàng giải quyết cho anh! Tôi còn đắn đo nhìn ông ta, chưa muốn trả lời vội, ông Lý đã nhỏ nhẹ thúc đẩy tôi: - Tiện có ông Cục phó ở đây, anh có gì khó khăn, dù là còn trong ý nguyện, anh đừng ngại gì cả. Tôi ngần ngừ là vì chưa muốn trả lời ngay, chứ không phải tôi muốn nói mà còn rụt rè. Tôi nghiêm trang nhìn hai ông: - Tôi xin ghi nhớ sự quan tâm của hai ông đối với tôi. Hiện nay, về mặt cá nhân tôi, tôi không cần gì cả. Nhưng, về công tác, tôi muốn đề nghị với ông một vấn đề. Mắt ông Bình hơi sáng lên, những bắp thịt phía hai quai hàm của ông động đậy liên hồi, rồi như ông khích lệ: - Anh nói đi. Tôi im lặng, thận trọng một lúc nữa, rồi nhìn thẳng ông: Qua thực tế của chuyến đi phải quay về vừa rồi, tôi thấy rằng: Sự quan sát theo dõi khí tượng của ta chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định, mà điểm đổ bộ của tôi lại vượt quá xa về cả không gian lẫn thời gian. Do đó, chúng ta không chủ động thực thi được công tác, không những bởi ngăn chặn của đối phương đã đành, mà còn bởi cả thiên nhiên nữa. Vì vậy, tôi xin đề nghị ta kéo lùi điểm đổ bộ vào Nghệ An hay Hà Tĩnh. Tuy đất lạ và sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, nhưng tôi tự thấy, tôi có thể vượt qua. Tôi chỉ cần tìm về được trục chính Quốc Lộ 1 là tôi có thể về tới Hà Nội. Sau này, tôi đã thấy hậu quả về lời đề nghị đó, chưa nói gì về nội dung, ngay qua thái độ đề nghị của tôi, tôi bắt đầu rơi vào cái bệnh chủ quan, coi thường địch rồi. Trong khi nghe tôi nói, ngón tay của ông Cục phó vẫn nhẹ đập trên mặt bàn càng lúc càng mau hơn; ông gật nhẹ đầu, rồi như nhiệt huyết của ông được tăng độ, ngón tay ông miết dài trên mặt bàn như dứt khoát: - Đó là những ý kiến đi sát vào vấn đề, rất thực tế. Anh hãy về viết ngắn gọn, trình bày mạch lạc những ý kiến anh đề nghị, rồi đưa cho ông Phan hay ông Lý đây chuyển về Cục. Chúng tôi sẽ nghiên cứu ngay để giải đáp sáng tỏ đề nghị hữu lý của anh. Ông nhìn tôi một lúc, rồi gặn hỏi lần nữa: - Ngoài ra, anh cỏn cần đề nghị gì cho cá nhân anh? Tôi vẫn lắc đầu nhè nhẹ: - Xin để khi công tác trở về. Dù tôi đã nói như vậy, nhưng ông Bình muốn thể hiện thiện cảm của ông cũng như Cục đối với tôi, ông vừa đứng dậy: - Tôi đã chỉ thị cho ông Lý đây, bất cứ lúc nào anh gặp khó khăn gì muốn được giải quyết, anh cứ nói với ông. Trong khi ông Lý vào quầy trả tiền nước, ông Bình bắt tay tôi thật chặt và nói nho nhỏ nhưng rất thật tình: - Khi được báo cáo anh đi công tác trở về, tôi sẽ ra đây đón anh! Tôi mỉm cười vì thoáng nhớ lại lời nói của ông Cục trưởng ở trường bay Tân Sơn Nhất hơn 20 ngày trước đây. Sao lại giống nhau thế! Một ông thì tận hải thuyền, một ông thì ở Đà Nẵng. Một vương vấn buồn len lỏi vào lòng tôi. Trên đường trở về khách sạn Hồng Phát, và cả đêm hôm ấy, lòng tôi vẫn đầy vơi nhiều chuyện về đất nước và con người. Để gạt đi những nỗi niềm nặng trĩu trong lòng, nhớ đến anh bạn Lê Đức Bình. Sáng hôm sau, tôi đến số 80 đường Độc Lập, văn phòng đại diện của mỏ than Nông Sơn, gửi một lá thư nhờ chuyển ngay. Cuối tuần đó, Bình ra Đà Thành liền. Anh đến Hồng Phát gặp tôi, anh mang theo hai người bạn, giới thiệu là Xuân và Sỹ. (Bình với tôi cùng tên, khi còn ở trại Pavie la Mothe, để phân biệt, anh em gọi tôi là Bình “Follis”, vì lúc đó tôi thường đi chiếc xe máy dầu của Đức hiệu này. Còn Lê Đức Bình vì có mái tóc quăn, nên anh em gọi là Bình “Xuân”.) Phải nói, tình bạn bè đã sưởi ấm lòng tôi. Sau mấy ngày đây đó bên nhau tâm sự anh nằng nặc đòi tôi phải vào mỏ, đê thăm nhà và vợ con anh. Anh phải về làm việc ngay, vì chỉ xin nghỉ được có 1 ngày. Tôi làm sao có thể nói cho anh biết được chuyện gió mưa của tôi, nên đã hẹn với anh vào dịp khác, cái dịp “Tết Công Gô” sau này. Ở lại Đà Thành còn Xuân, Sỹ với tôi. Một mình Xuân một chiếc Vespa đời 62 của Ý và một chiếc Peugeot 203. Các anh cũng là những người trong giới tài hoa son trẻ của Thành Đà. Điều thích thú là, các anh và tôi đồng một sở thích: Thiên nhiên. Cho nên từ đấy, hết đi Cửa Đại, Lăng Cô, Mỹ Khê, Thăng Bình để ngắm biển cả bao la, những hoàng hôn lộng gió, những bình minh điệu kỳ mang nhiều sức sống; lại đến Ngũ Hành Sơn, Tam Kỳ, để chiêm ngưỡng cảnh núi đồi hùng vĩ. Bao nhiêu những thắng cảnh của Hòn Ngọc miền Trung! Ôi, quê hương ta, tuy nghèo nàn, lam lũ đạm bạc nhưng muôn đời vẫn đẹp mãi trong lòng tôi! Năm ngày sau khi tôi nộp bản báo cáo đề nghị, một buổi sáng, Phan đến cho tôi biết là đề nghị của tôi đã được Cục chấp nhận. Rồi, Phan hân hoan nói tiếp: - Như vậy thì trở ngại giảm đi rất nhiều, lần này “toa” chỉ phải đi một ngày rưỡi và một đêm rưỡi, nghĩa là trong khoảng 36 tiếng thôi. Thấy tôi ra dáng băn khoăn muốn hỏi ở đâu, Phan liền vỗ vai tôi, nói rành rọt: - Yên tâm, vùng này là cuối tỉnh Nghệ An, giáp giới Hà Tĩnh. Đó là quê hương của đám thủy thủ, họ là thổ công ở đấy. Họ sẽ đưa “toa” vào một chỗ hoàn toàn an ninh, tha hồ “toa” nghỉ ngơi thỏa đáng cho khoẻ, rồi mới tìm vể Quốc Lộ 1. Một phần do bản tính làm việc theo lối đại cương của Phan, phần khác, chính tôi cũng đã bắt đầu chủ quan, lơ là với những công việc mà đáng lẽ tôi phải nghiên cứu thấu đáo, cho nên tôi đã không hỏi kỹ là thuộc huyện nào, xã nào, địa hình, địa vật ra sao…Những điều cần được sáng tỏ, tôi lại không hỏi Phan, mà lại chú ý sang một điểm khác: - Này, những người đưa thuyền họ thật chất phác. Họ phụng sự lý tưởng một cách đơn giản như lời của họ vậy, không cần phải hò hét ồn ào. Phan cười ré lên, rồi bệ vệ đứng dậy, vừa tiến lại chiếc tủ của tôi vừa nói: - “Toa” nhận xét đúng đấy! Rồi như lơ đãng, cầm lọ thuốc bổ, Phan quay lại hỏi tôi: - “Toa” uống cái loại thuốc này, thấy người khoẻ không? Thấy tôi gật đầu, Phan rút bút ghi tên thuốc, nói: - “Moa” sẽ bắt chước “toa” uống một trăm viên xem sao. Sau đó chỉ là những chuyện phiếm, không còn liên quan gì đến công tác nữa. Hình ảnh của những người đưa thuyền vẫn vương vấn trong tôi, một lần nữa tôi lôi Phan về với họ: - Ông Phan này, cái người thợ máy, trông tay chân như lực sĩ ấy nhỉ? Phan lại cười, giơ ngón tay cái ra trước mặt: - Y là số “dách” đấy, “moa” vẫn gọi y là “Tạc giăng”. Bất kể ngày đêm, nguy hiểm thế nào, hễ yêu cầu, y xông vào ngay. Rồi như để ngắt câu chuyện ở đấy, Phan đứng dậy và bắt tay tôi ra về. |
|
|
![]()
Post
#17
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười Bốn
Chuyến Đi Định Mệnh … Sớm, muộn, rồi ngày tháng cũng đến mức ấn định. Sau một trận mưa đêm hôm trước, sáng hôm 28/5, khung trời Đà Nẵng không một vần mây. Phố phường cảnh vật như được lau chùi, rửa sạch từ đêm. Khí hậu đầu Hè dịu mát như mùa Thu. Đã hẹn trước, 11 giờ Phan đến đón tôi, tôi đã lại lột xác của Đặng Chí Bình, một thanh niên của miền Nam tự do đầy hương sắc, để trở thành một Lê Viết Hùng, học sinh lớp 10 bằn xương bằng thịt của vùng Vĩnh Linh khô cằn, lạc hậu, mảnh đất tuyến đầu của cái gọi là xã hội chủ nghĩa. Hôm đó, cũng là buổi ra đi, buổi giã từ Đà Thành và cả miền Nam hiền hòa nhiều ân tình, để đi về một phương trời đầy chông gai nguy hiểm, lòng tôi thật nhẹ nhàng lâng lâng, Có lẽ một phần vì là chuyến đi thứ hai, đã giảm đi sự xốn xang hồi hộp của buổi ban đầu, nhưng vì còn một phần nữa, nằm sâu kín trong tâm tư tôi. Đêm hôm trước, nằm nghe tiếng mưa rơi, tôi đã liên tưởng đến những quãng đời khi tôi còn sống ở Sài Gòn. Từ hình ảnh những người ruột thịt thân thương, những bạn bè đầy nghĩa tình, đến những người trong Cục, tất cả đều rõ ràng như một cuốn phim lướt nhanh trước mặt. Tôi hiểu, ít nhiều đã có một số người trông chờ nơi tôi. Rồi, như một niềm thúc đẩy, ngay từ hồi đêm, tôi đã nâng quyết tâm và tự nhủ thầm, phải làm được một điều gì để không ngượng với tấm thân trai, khi đất nước còn trong cảnh chia hai xẻ ba như thế này. Đã ra đi, bằng mọi giá, mọi cách, phải đến bờ: Dù chẳng hay ho, thì cũng phải húng hắng được một vài. Khi chúng tôi ra đến bến cũ, trong biệt khu Hải Quân, đã 11 giờ 30, mặt trời gần đứng bóng. Chiếc hải thuyền vẫn đậu bến xưa một mình trong chỗ hẻo lánh của Biệt khu. Ngay từ còn xa, thoáng thấy xe Phan và tôi đến, dưới thuyền đã lố nhố mấy anh thủy thủ quen mặt, quần áo nâu sồng, nét mặt người nào cũng tươi tỉnh như khung trời Đà Nẵng. Khi xe ngừng hẳn, một anh đã quen như lần trước, vội chạy lên bờ, xách chiếc ba lô và vật dụng của tôi xuống. Chỉ mới một lần cùng chia xẻ hiểm nguy mà tình thân thương đồng đội đã nhanh chóng nẩy mầm giữa tôi và các anh các bác. Những chiếc bắt tay nồng hậu, những ánh mắt long lanh gần gũi như ruột thịt anh em! Bến cũ người xưa, công việc làm lại. Nhớ lại ban sáng, khi tôi đưa bản quy ước đón tôi (Cục và Phan muốn chính tôi viết, tôi sẽ nhớ lâu. Cục sẽ giữ bản viết này), tôi đã khẳng quyết vào ba đêm: 22, 23, và 24 của tháng Sáu. Mỗi đêm hai tiếng, từ 1 giờ đến 3 giờ sáng. Đổ bộ ở điểm nào, sẽ đón ở điểm ấy. Phải phòng hờ ba đêm để dự trù trước những trục trặc trở ngại về phía tôi là chính. Có thể nhỡ xe, nhỡ tầu, trốn chạy, v.v… nghĩa là trăm nghìn thứ chưa thể biết trước. Theo quy định, cứ từ 1 giờ đến 3 giờ sáng, trong ba đêm ước định, tôi sẽ dùng chiếc máy con hồng ngoại tuyến, hình dạng giống như cái ống nhòm hai ống kính, chạy bằng pin, dùng máy ngày nhìn ra biển. Chiếc máy cứ 30 giây, nháy sáng lên một lần, ánh sáng màu hồng xanh. Tia sáng máy này thật nhỏ, thậm chí trong đêm tối, nếu có người chỉ đứng cách xa 10 mét cũng không thấy gì. Thuyền ở ngoài khơi, cách xa hàng chục cây số, trong đêm tối, cũng dùng loại máy này nhìn vào bờ, sẽ nhìn thấy điểm sáng loé lên xanh như làn chớp, từ đó, thuyền theo điểm nháy sáng mà vào. Tôi có cảm tưởng, chúng tôi như những cô nàng và những anh chàng đom đóm bật tín hiệu để tìm nhau trong đêm khuya. Chỉ có khác là khoảng cách quá gần và quá xa. Tôi đang bần thần nghĩ ngợi, đưa mắt nhìn những người thủy thủ đang mỗi người một việc chuẩn bị cho con thuyền sắp rời bến. Ông Phan đứng nói chuyện với ông già thuyền trưởng quay lại khẽ đập lên vai tôi, cười: - Làm gì mà mặt thần ra thế? Tôi quay lại, cũng cười, nói với Phan mà cũng như nói với ông già: - Tôi linh cảm thấy chuyến này đi dứt khoát, phải đến bờ. Cả hai, ông già và Phan, cùng cười. Rồi không ai bảo ai, đều ngửng lên nhìn trời, đầu hơi gật như thừa nhận lời tôi nói là có giá trị. Chẳng hiểu vì quên hay cố ý, lần này Phan lên bờ không bắt tay tôi, chỉ đứng giơ tay vẫy vẫy, khi con thuyền từ từ quay mũi rời bến. Tâm lý của con người thật cũng lạ! Mới khi ra đây, tôi thấy lòng thanh thoát lâng lâng, thế mà lúc con thuyền rời bến, thấy Phan đứng trên bờ với chiếc xe díp. Bóng dáng Phan mặc quần áo trắng nốp, nổi bật giữa mầu xanh của cỏ cây, tôi cảm thấy ngút ngàn xa vời vợi, như hình ảnh của cả miền Nam cũng mất dần, mất dần; nhất là lúc đó một giọng hát trữ tình của một người con gái phát ra từ chiếc radio nào đó của mấy dẫy doanh trại phía mé sông, đang nỉ non réo rắt, trải dài trên sông nước buổi trưa Hè. Tôi không biết bản nhạc này, nhưng không hiểu tại sao, tôi đã nghe bản nhạc đó không bằng tai mà bằng nội tâm, lúc như tha thiết nhắn nhủ, lúc như oán trách giận hờn giống một bài ca tôi thuộc: “Bến ấy… ngày xưa… người đi… vấn vương… biệt ly… “Ra đi… bến xưa… ngày ấy… “Anh như… bóng mây… hồng trôi… “Về chốn xa vời… lòng nặng… nhớ thương…” Thuyền đã ra xa. Tiếng hát của chiếc máy phát thanh chỉ còn văng vẳng lẫn vào tiếng máy thuyền. Tự nhiên, mắt tôi nhắm lại, tay tôi bấu chặt vào mui thuyền, rồi như có tiếng hát khác âm vang từ đáy lòng, tôi tưởng tai tôi nghe rõ: “… Quên đi… sầu biệt ly, anh còn… đi theo gió, “Hát buồn… nữa chi… để nhớ… người đi…” Mặt trời đã xế về hướng Tây, vài con hải âu trắng toát đang chao đảo ngang dọc trên nền trời xanh lơ. Thỉnh thoảng, một con lại bay sà xuống, lướt qua mạn thuyền, chiếc mỏ ngúc ngắc nghiêng ngó, nửa như muốn ngừng đáp xuống, nửa như muốn chào tiễn biệt con thuyền… viễn xứ. Nhìn về phương Nam mờ mờ chân mây, vài vạt mây màu vàng óng nằm phơi dài trên mặt nước. Không khí chiều Hè trên đại dương vẫn ẩm sệt, hăng hăng, mằn mặn. Bóng chiều của chiếc thuyền ngã dài và nhọn hoắt như một con dao, đang phạt băng băng những ngọn sóng bạc đầu. Gió càng về chiều càng lộng, khiến con thuyền càng nhấp nhô lên xuống. Trong sách vở trước đây, các văn nhân thi sĩ tả cảnh hoàng hôn trên biển cả thật là tuyệt vời. Tôi có ý định sẽ cứ đứng thế này mãi mãi, để chờ cho mặt trời chìm dần và lặn sâu xuống nước, xem thế nào. Nhưng, người tôi đã nôn nao ngất ngư bởi con thuyền rồi, vì vậy, tôi đành bỏ cái dịp ngàn năm một thuở đối với tôi này, để chui vào khoang thuyền nằm bẹp. Lúc tôi đang chuẩn bị cái thế để nằm sao cho đỡ say sóng, thì anh thợ máy, hai tay đen nhẻm dầu mỡ, từ dưới hầm thuyền chui lên. Nhìn chiế lưng và đôi bàn tay đồ sộ của anh, tôi đanh định nở một nụ cười để chào anh “Tạc giăng” dễ mến lần trước. Tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, khi anh quay lại nhìn tôi. Anh có một khuôn mặt trẻ măng với một thân hình lực lưỡng đầy sinh lực. Anh ngập ngừng hơi mất tự nhiên. Một anh thủy thủ đang ngồi dựa một góc khoang đọc sách, có lẽ vừa nãy đã thấy vẻ ngạc nhiên của tôi, nên dù tôi chưa hỏi, anh đã hất hàm về phía anh thợ máy, giọng Nghệ An nghe như hát: Anh lần trước, vì có chuyện gia đình, nên không đi, đây là em trai anh ấy. Thảo nào! Như cùng đúc trong một chiếc khuôn, không những giống nhau về cơ thể mà lại còn cả về nét chất phác hiền lành. Tôi mỉm cười và gật đầu chào, như muốn trao anh niềm cảm mến. Tôi muốn nói chuyện với anh nhiều, nhưng một con sóng giật chiếc thuyền làm tôi đổ nằm xuống. Tôi đành nằm bẹp luôn! Một đêm rồi lại một ngày nữa trôi qua, tôi vẫn rã rượi nằm yên trong khoang, vừa say sóng vừa không ăn gì, tôi chỉ uống được hai ly sữa. Tôi chỉ nhớ mơ hồ vào lúc buổi trưa hôm nay, tuy thuyền đi trên mặt biển chỉ có trời với nước mênh mông, thế mà không khí oi nồng, mồ hôi của tôi ra ướt cả quần áo làm người tôi càng bứt rứt khó chịu. Những tiếng hò hét quát tháo làm tôi tỉnh hẳn người ra, tôi bò giật dậy, định cố bò ra xem có chuyện gì, nhưng người tôi lảo đảo, hoa mày chóng mặt. Một anh thủy thủ thấy tôi như vậy nên nhanh chân lại đỡ. Tôi vịn tay anh, hỏi giật giọng: - Chuyện gì thế? - Có một chiếc thuyền lạ cùng đi hướng mình, nhưng cách xa từ phía trong bờ, nó bám mình hơn hai tiếng đồng hồ rồi! Để sáng tỏ thêm tôi hỏi tiếp: - Mắt thường có nhìn thấy không? - Nhìn kỹ thì chỉ thấy một điểm trắng xám lẫn vào trong sóng, nhưng nhìn bằng ống nhòm, thì rõ là một chiếc thuyền có vẻ to hơn thuyền mình. - Vừa rồi ông thuyền trưởng hò hét cái gì thế? Anh thủy thủ nhìn tôi một lúc, rồi dè dặt: - Anh thợ máy muốn quay mũi thuyền chạy tránh ra khơi nhưng ông già quyết định vẫn thẳng tiến! Nghe qua sự việc, nếu tôi không mệt mỏi, chóng mặt, tôi phải quan sát cụ thể, rồi có ý kiến. Nhưng, phần vì quá mệt nhọc (ngay từ hôm trước, những khi lịm thiếp đi không kể, lúc nào tỉnh dậy, nôn oẹ mật xanh, mật vàng. Tôi chỉ mong làm sao cho chóng tới điểm đổ bộ, để tôi lên bờ, dù là nguy hiểm. Chứ cứ dập dềnh với sóng gió suốt ngày đêm như thế này, tôi còn thấy sợ hơn.) Phần khác, thấy hiện tình chưa quan trọng lắm, nên tôi nằm vật ra sàn. Tuy vậy, vì sự sống còn, tôi nằm mà bao tâm trí vẫn tập trung nghe ngóng, theo dõi thái độ của ông già thuyền trưởng và các anh thủy thủ. Mãi đến gần 1 giờ, vẫn chẳng thấy động tĩnh gì khác. Tiếng máy thuyền vẫn bành bạch nổ rền lẫn vào tiếng ì ào của sóng biển. Để cho yên tâm khỏi khắc khoải nghe ngóng, tôi cố chống tay bò dậy, ra hiệu cho một anh thủy thủ đang ngồi gần đấy, anh tưởng tôi muốn ăn, nên đến hỏi: - Ông muốn uống sữa? Tôi lắc đầu, hỏi ngay điều tôi muốn: - Chiếc thuyền lạ bây giờ ra sao? Anh sáng mắt lên, nói gọn lỏn: - Nó biến vào bờ rồi. Chỉ vì lòng thấp thỏm về chiếc thuyền lạ, nên tôi mới nhỏm dậy hỏi, nghe anh nói xong như vậy, tôi lại vật ra nằm. Trời tối đã lâu, lúc này đã chín giờ, tôi vẫn vẩn vơ nghĩ lại chuyện buổi trưa. Tuy nằm mà người cứ lắc lư, nhấp nhổm như đưa võng. Kể cũng lạ, tôi rất khoái cưỡi ngữa phi nước kiệu, mà lại không nằm võng được. Tôi nghĩ có lẽ khi xưa bố mẹ đẻ ra và lúc nhỏ đã không cho tôi nằm võng chăng? Tiếng máy vẫn đều như một bản nhạc đơn điệu đưa dần tôi vào giấc ngủ mê man vì mệt mỏi. Mãi cho đến khi có ai lay chân, tôi choàng dậy. Ông thuyền trưởng già, vẻ mặt khẩn trương, thì thào: - Dậy đi, ông cán bộ, đã đến nơi rồi, chuẩn bị để vào bờ! Tôi tỉnh hẳn ra, trời vẫn còn xám xịt, mịt mờ. Con thuyền vẫn nhấp nhô, tiếng sóng đập vào mạn thuyền bành bạch chắc nịch. Phía ngoài mũi thuyền, 4, 5 anh thủy thủ đang lúi húi người bơm chiếc xuồng cao su, người nắp máy nổ. Tôi hiểu giờ phút nghiêm trọng đã đến. Tôi muốn đứng dậy chui ra ngoài, mà người lảo đảo xiêu vẹo. Bác già đã đỡ cho tôi, trong khi cả hai anh thợ máy và 4 anh thủy thủ đang hạ chiếc thuyền cao su xuống nước. Giữa mặt biển bao la, ánh sáng chỉ lờ mờ, không trông rõ mặt người. Thái độ của mọi người đều vội vã, lộ hẳn nét lo âu, căng thẳng. |
|
|
![]()
Post
#18
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười Lăm
Vào Đất Địch… Đã bước chân lên bờ, mà người tôi vẫn còn quay cuồng mệt lả, tôi nằm luôn tại chỗ ngoài bãi cát trắng dăm phút cho lại sức. Bây giờ chỉ còn một mình, tôi nhìn bào phía trong,vẫn đen kịt một mầu, không thấy một hình dáng nhà cửa, cây cối. Tuy người chưa hết rã rượi, nhưng theo cái bản tính tự nhiên của sự sinh tồn, tôi vội vơ chiếc ba lô, tay xách đôi dép râu, chúi đầu tiến vào phía trong, chỗ mầu đen, để ẩn nấp nằm nghỉ. Chứ đây là giữa bải cát trắng lồ lộ, nằm làm sao yên. Chạy được vào chụ mét, tôi thấy bãi cát có những khoảng, đốm loang lổ mầu đen. Tôi bước chân lên, thì ra là cỏ! Chẳng biết là thứ cỏ quái quỷ gì mọc trên cát lại toàn là gai, đâm vào chân tôi đau nhói. Vội vàng ngồi xuống, tôi thụt chân vào đôi dép râu, rồi tiếp tục lần mò chạy vào sâu nữa, qua hết bãi cát, đất sỏi càng lúc càng dốc lên. Bỗng, tôi bước hụt chân, cả người lẫn chiếc ba lô nặng chịch đều lộn tùng phèo xuống một hố đầy lá và cành cây khô. Sườn tôi đập vào một hòn đá đau điếng, nhưng vì hốt hoảng, căng thẳng, tôi vẫn thục mạng bò lên khỏi hố. Tôi cứ tưởng chiếc hố là cái bẫy của kẻ thù có gài mìn, nó sắp nổ. Cứ ôm chiếc ba lô lúi húi xê dịch sâu mãi vào phía trong cho đến một lúc người quá mệt, tôi ngồi thụp xuống, ghé sát mặt đất, căng mắt ra nhìn vào màn đêm đen kịt. Nhìn lên nên trời xam xám, bóng mờ mờ của một cây to trước mặt. Tôi lầm lũi tiến về chiếc cây. Tôi đã tỉnh dần, nhìn đồng hổ đã hai giờ hơn. Trời vẫn tối như mực, giơ bàn tay trước mặt không nhìn thấy. Tôi chỉ còn dùng tai, vểnh lên nghe ngóng. Chỉ nghe những tiếng xào xạc của lá cây lẫn vào tiếng rì rào của sóng biển xa xa. Dựa gốc cây mươi phút đã đỡ mệt, tôi lần mò lấy tay sờ soạng mặt đất chung quanh, xác định đại hình, đào chôn những thứ tôi không cần mang theo. Đất cát nên tương đối mềm. Tôi lần mò lấy chiếc xuổng con trong ba lô. Đã mấy lần thực tập chôn giấu vật dụng trong đêm, tôi hiểu điều quan trọng nhất là không để rơi ra ngoài một hòn đất mới nào. Một chiếc túi to may sẵn, bao nhiêu đất cát đào lên, đều đổ vào đấy. Trong lúc loay hoay làm việc, tôi nghĩ đến các vỏ bọc trong kế hoạch khai báo khi bị rơi vào tay địch mà Sài Gòn đã huấn luyện cho tôi. Ngay từ khi đó, tôi thấy Cục Tình Báo miền Nam đã đánh giá Cộng Sản thật ngây thơ. Vỏ bọc 2 và 3 làm sao Cộng Sản tin được. Sài Gòn không thấy làm như vậy sẽ gặp hai khuyết điểm: thứ nhất, nó sẽ không tin vào một vỏ bọc nào hết. Thứ hai, chắc chắn thân tôi sẽ nhừ đòn của chúng. Cho nên, lúc này tôi quyết định bỏ hẳn vỏ bọc 2 và 3. Tôi đã chôn mấy chục lọ thuốc Tây của vỏ bọc 2, cả lương khô, bi đông lọc nước, chiếc máy hồng ngoại tuyến, 200 đồng tiền miền Bắc, thuốc lá “Đại Tiền Môn”, diêm quẹt. Những thứ này xét ra không thực tế, lại vừa kềnh càng lỉnh kỉnh, vừa càng dễ bị phát hiện. Tôi chỉ mang theo hai trăm đồng với một chiếc túi dết, cùng một số quần áo lót, nghĩa là những thứ đã cũ của miền Bắc. Những tài liệu, đựng trong một cái túi tí con, tôi đã khâu phía bên trong quần lót. Tài liệu này, ngay từ khi rời Đà Nẵng tôi đã luôn mang theo trong mình. Dù vậy, tôi vẫn thỉnh thoảng phải cho tay vào sờ, vì đó là linh hồn của chuyến đi. Vì đã có kinh nghiệm, nên chỉ hơn một tiếng đồng hồ tôi đã chôn giấu hoàn hảo. Làm xong, đưa tay sờ độ dày của lá khô bên cạnh, tôi xoa chỗ chôn vật dụng cho bằng như cũ. Nhìn đồng hồ 3 giờ 30 phút, quá hồi hộp, căng thẳng thần kinh trong khi làm việc tôi không để ý, bây giờ tôi mới thấy chỗ sườn đau ê ẩm, nhoi nhói. Tôi sờ tay vào không thấy sưng. Tôi tự nhủ, kệ nó, rồi nó sẽ khỏi. Lúc này, tôi mới thấy đói và thấm mệt. Tôi gối đầu lên túi dết, dự định nằm một tý để lấy sức. Vừa mệt, vừa thiếu ngủ tôi thiếp đi lúc nào không hay. Khi tai tôi thoáng nghe tiếng người gọi nhau í ới, tôi giật mình thức giấc. Bò nhổm dậy, tôi mở to mắt, vểnh tai lên, hướng về có tiếng người khi nãy. Tôi nhìn đồng hồ mới 4 giờ 30. Trời vẫn còn tối đen. Tôi ngạc nhiên, hay là tôi mơ. Tôi vẫn nhớ đinh ninh lời ông Phan nói: “Nơi đây có thể nghỉ ngơi hàng tuần thoải mái,” nghĩa là khu vực này không có người ở. Với khả năng thính giác của mình, tôi tin là đã nghe đúng, vì vậy tôi tiếp tục nghe ngóng. Nhưng chỉ là tiếng gió rì rào lẫn vào tiếng xào xạc của vài chiếc lá khô rời cành. Mãi chả thấy gì, vẫn cái im lặng của đêm trường. Một tiếng cú ở đâu xa rúc lên trong đêm khuya, nghe dài lê thê như tiếng thở than của những kiếp ngưòi nhiều cực nhọc gian khổ. Tôi lại nằm xuống như cũ. Chưa được mười phút, đột nhiên một tiếng cười dòn ngặt nghẽo của một người con gái, lẫn vào trong gió làm tim tôi thắt lại. Tôi nhỏm bật dậy, tiếng một người đàn ông nghe rõ mồn một: - Để cái liềm đấy cho tui! Không còn nghi ngờ gì nữa, với phản xạ tự nhiên, tôi vội vơ lấy cái túi dết và lủi dấn, xa hướng có tiếng nói. Trời sáng dần, mờ mờ, tôi đã nhìn ra cảnh vật. Ngay chỗ tôi ngồi là một chỗ nghĩa địa, lưa thưa một số ngôi mả, lác đác chung quanh vài bụi cây nhỏ cành lá khô cằn như thiếu nước, bụi nào cao nhất cũng chỉ chừng 2 mét. Cả một khu vực, chỉ có một cây to duy nhất chỗ đêm qua tôi đã lần mò tới được. Lướt tầm mắt về những phía xa xa, bao quanh phía trong, toàn là những lũy tre làng ngang dọc. Như vậy, ở đây thật gần xóm làng! 6 giờ, xa xa phía làng, một đoàn người trai gái, liềm hái đang đi về phía tôi. Nhìn quanh, chẳng còn chỗ nào kín đáo để ẩn núp. Gần chỗ tôi đang đứng, chỉ có duy nhất một bụi cây nhỏ, đường kính chừng 2 mét và cao cũng khoảng 2 mét là cùng. Cấp bách quá rồi, tôi đành chui vào đấy, trong khi đoàn người vẫn đang đi tới. Con đường mòn đi qua chỉ cách chỗ bụi cây tôi nấp chừng 6 mét. Trong bụi lại có một ổ kiến vàng to tướng, kiến bò vào chân, vào người tôi cắn nóng ran. Tôi chỉ dám lấy hai tay xoa khe khẽ, không dám làm mạnh vì sợ rung cành lá. Khi đoàn người đi ngang qua bụi cây, tôi tường như nghẹn thở. Nếu có ai đó buồn đi tiểu, rẽ vào bụi cây này, ôi thôi, cuộc đời tôi sẽ … đi đứt! Điều làm tôi hoang mang không ít nữa là họ nói tiếng ríu rít như chim, nhiều tiếng tôi không hiểu được. Tiếng Nghệ An tôi đã biết; ở đây, không phải tiếng đó. Như vậy, đây chỉ có thể là Hà Tĩnh. Thực ra, tôi cũng chì là suy đoán chứ chưa dám khẳng quyết, vì Phan đã nói rõ ràng:”Chỗ Bình đổ bộ thuộc tỉnh Nghệ An giáp với Hà Tĩnh. Đây là vùng quê hương của họ, họ là thổ công của vùng này. Bình hãy yên tâm!.” Còn một điều nữa, một phần do tinh thần tắc trách của Phan, nhưng phần chính là do tôi. Do tinh thần chủ quan xem thường địch. Tự tin vào khả năng của mình sẽ qua mặt chúng được, cho nên tôi đã không hỏi vùng tôi đến là làng nào, xã nào, huyện nào khi quyết định thay đổi điểm đổ bộ khác. Đó là một khuyết điểm trầm trọng của tôi, người đi vào đất địch để hoạt động. Nhưng qua thực tế, dù tôi có hỏi kỹ để biết rõ chăng nữa, tôi vẫn bị tình trạng hoang mang như lúc này. Nghĩa là, tôi cảm thấy hải thuyền đã không đưa tôi đến đúng chỗ quy định, mà Phan đã giao ước với họ. Ngồi trong bụi cây, càng suy nghĩ mặt tôi càng nóng lên. Như thế này, thật là đầy cam go, gay cấn: Một người trai Bắc lạ, ở giữa một vùng mà chưa biết đích xác thuộc tỉnh nào, chứ đừng nói làng xóm địa phương. Lúc này, đoàn người đã xuống ngay một thửa ruộng cách chỗ tôi nấp chừng 200 mét để gặt lúa. Họ cười nói, chuyện trò ầm ĩ. 7 giờ, rồi 8 giờ. Mặt trời chói chang, đỏ như lửa đang bò lên cao từ hướng Đông. Đến đây, tôi mới nhớ lại chiếc mũ cối, vì vội vàng, lại rũ rượi vì say sóng, tôi đã để quên trên hải thuyền. Thật là lúng túng nhiều mặt. Ở trong bụi mãi đâu có được. Trời nắng, khi họ nghỉ gặt, giải lao, họ sẽ kéo vào nơi bóng mát nghỉ ngơi. Tôi bấn cả người lên, ngó ngấp chung quanh. Giá có cách gì bới đất để chui xuống! Phần bị kiến cắn nhiều, lại còn sợ hãi, nên căng thẳng làm tôi tê người đi. Nhìn lại phía cây to, chỗ tôi chôn giấu vật dụng, cách bụi cây tôi đang nấp chừng 30 mét. Do đêm tối sờ soạng, tôi đã để rơi mấy hòn đất ra ngoài, mà tôi không biết. Hơn nữa, lá phủ ngụy trang chỗ chôn cũng chưa ổn như mình nghĩ. Người tinh ý nhìn thấy, sẽ tò mò, phát hiện ra ngay. Làm sao đây? Đây cũng là chuyện sống chết, tôi phải tìm mọi cách để giải quyết. Tôi lựa một góc khuất do bụi cây che với nơi ruộng của đoàn người đang gặt. Tôi bỏ túi dết lại trong bụi, nằm sấp, bò về phía cây to. Tôi nhặt những hòn đất vương vãi đút dần vào túi quần, xao lại những chỗ lá khô cho đồng nhất, rồi tôi bò về bụi, móc những hòn đất bỏ ra. 9 giờ rồi. Mồ hôi tôi ra ướt đẫm áo, vừa vì tinh thần căng thẳng, vừa vì cái nóng oi nồng của mùa Hè. Mới còn sớm mà sao gió thổi từ hướng Tây nồng nực, gió cũng nóng. Lúc này tôi phải quyết định, dù có bị bắt liền tại đây. Muốn hay không tôi cũng phải chui ra ngay khỏi cái bụi cây quỷ quái này. Vì còn một điều gay cấn nữa, khi sớm, vì sợ và vì bị kiến cắn, tôi không để ý. Bây giờ, trời sáng rõ tôi mới thấy trên đầu và chung quanh tôi, toàn là sâu róm! Trong cuộc đời tôi, không hiểu sao loại này tôi ghê sợ nhất. Tôi chẳng biết sợ thứ gì, dù trong rừng gặp hổ hay rắn. Ngay khi còn đi học ở Sài Gòn, có lần tôi đã trèo vào chuồng cá sấu để sờ da nó. Một vài người bạn thân chẳng có thể làm gì được để bắt tôi phải chiều theo ý họ, trừ khi họ có con sâu róm. Chính tên Đặng Trí Hoàn đã cầm một cành điệp có con sâu róm, đuổi tôi chạy dọc suốt mấy phố chung quanh trại học sinh, để xẩy ra một tai nạn giữa hai người đi xe đạp, trên đường phố, đầu năm 1957. Nghĩ lại lúc ngồi trong bụi cây, bây giờ tôi còn nổi gai ốc lên. Sau này, lúc Cộng Sản khai thác cung, nếu chúng biết được nhược điểm ấy của tôi, cứ đưa sâu róm dí vào người, không biết lúc ấy tôi sẽ như thế nào. Tôi chui ra khỏi bụi cây ngay! Tay vuốt lại quần áo ngay ngắn, khăn mặt vắt vai, một bên khoác túi dết, tôi đường hoàng đi ra. Tôi đã có chủ định, cứ phải vào làng. Hiện giờ, tôi chưa xác định được Quốc lộ 1 nằm về hướng nào phía bên trong. Tôi đưa mắt nhìn khắp phía xa xa, trong cái màu xanh bạt ngày của cây và núi, tôi cố chú ý, cũng chẳng thấy vật gì di chuyển. Lúc đó khoảng 9 giờ 30 sáng. Nhìn về phía đoàn người đang gặt, tôi tươi mặt, vừa cười, vừa giơ tay ra hiệu chào và tiến về phía họ. Vài cô gái tự nhiên cười ré lên, tay vẫy vẫy gọi: - Anh ơi! Đi đâu đấy, xuống đây gặt lúa với chúng em! Một số thanh niên cũng cười. Tôi cứ tiến bước về phía họ, rồi tay khoắng lên lia lịa, nói to: - Chào các bạn, vui quá, lúa năm nay có khá không? Tôi đi đến nữa chừng, rồi vờ chợt xem đồng hồ tay, tôi ngửng lên, tay chỉ về phía làng: - Chết đã 9 rưỡi rồi, tôi phải vào gặp ông chủ tịch đã! Mồm nói, chân tôi quay lại phía làng, vừa đi tới vừa ngoái lại, đưa tay vẫy vẫy: - Chiều nhé, tôi còn ở lại đây đến chiều! Các cô rối rít léo nhéo, vẫy gọi tôi. Đi dăm chục mét, tôi quay lại cũng vẫy, mấy chiếc bàn tay giữa ruộng cứ giơ mãi lên vẫy tôi. Đã đi xa, qua được “ca” này, tôi cũng thêm phấn chấn tinh thần. Làm sao họ có thể biết được rằng, tôi vừa ngoài biển vào đây đêm vừa qua. Từ nơi bụi cây, dẫn vào làng là một con đường đất đỏ, dài chừng độ 700 mét. Trời nắng chang chang, đầu lại không mang mũ nó, thật là bất tiện. Trên đường đi tới, sẽ càng khó khăn thêm ra. Vào tới gần làng, tôi thấy trước một chiếc cổng tre là một người đàn ông cởi trần, mặc chiếc quần đùi đen, khoảng năm chục tuổi, ngồi ngay xuống vệ cỏ. Tay ông ta cầm chiếc roi tre, đập đập vào cây khoai nước dưới ruộng như đùa nghịch chơi một mình. Ngay từ xa còn cách khoảng 200 mét, tôi đã thấy lão nhìn phía tôi rồi, thế mà giờ đây tôi đi gần đến, lão vẫn coi như không biết. Thái độ của lão già làm tôi hơi chờn. Theo lẽ thông thường, trong một xóm làng vắng vẻ, thấy một người lạ đi đến, phải trố mắt ra nhìn mãi mới phải. Khi tôi tới, còn độ 2, 3 mét, tôi phải lên tiếng trước xem sao: - Chào bác, bác ngồi chơi? Cháu vừa ngồi ngoài đó! (tay tôi chỉ về hướng đoàn người đang gặt phía xa) nói chuyện với các anh chị vui quá. Ở ngoài đó cháu mới uống nước đấy, thế mà vào tới đây đã khát rồi. Cháu vào xin bác ngụm nước nhé? Miệng tôi nói, chân như có vẻ định đi vào cổng. Tôi đã thấy một căn nhà tranh con lụp xụp, với vại nước để bên cạnh chiếc cầu ao bằng 3 thân tre ghép lại. Tôi chào và nói bấy nhiêu lời, mà lão chẳng trả lời tôi một tiếng. Lão ngước nhìn tôi, rồi đứng dậy đi về phía trong làng, nói mấy tiếng cộc lốc: - Uống nước thì đi theo tui! Tôi đã tưởng lão câm, bây giờ lão mới nói. Vậy, từ nãy giờ lão là con người tôi đáng sợ. Lão cứ im lặng đi trước, tay vẫn cầm cái roi tre vung vẫy. Tôi phải phá tan cái không khí nặng nề này: - Vụ mùa năm nay có khá hơn năm ngoái không bác? Năm ngoái cháu về, chỉ thấy tương đối thôi, bác nhỉ? Im lặng một lúc, rồi lão trả lời tôi, giọng nhát gừng: - Cũng khá! Thật khó bắt chuyện! Thôi cứ đành đi theo lão, rồi sẽ tùy cơ ứng biến. Mà lão dẫn đi uống nước xa thế! Mãi gần giữa làng. Tới nơi, tôi nhìn thấy một sân gạch rất rộng, trên đó mấy người đang gò lưng kéo con lăn lúa bằng đá. Mấy đống khoai lang to tướng bên cạnh sân. Mấy thanh niên nam nữ đang chọn khoai từ đống này sang đống kia. Tôi hiểu ngay, thằng cha già này dẫn tôi vào chỗ chết. Tôi bỏ lão, sà ngay vào chỗ đống khoai to. Tôi trầm trồ khen những củ khoai lớn và hỏi chuyện mấy người thanh niên đó. Tuy tôi nói chuyện, mắt vẫn không rời lão già chó chết. Lão đi vào căn nhà con phía bên kia sân, trong đó, tôi thấy mấy thanh niên mặc quần áo nâu, mấy khẩu CKC dựng ở mé vách. Tôi đoán là du kích! Lão già ghé tai một người nói gì đó, và người này nhìn về phía tôi. Phải chủ động, tôi chào mấy ngưòi nhặt khoai, rồi đi về phía nhà du kích. Lão già mắc dịch trở ra đường cũ, về ngay. Khi đi qua sân lúa, tôi cúi xuống nhặt một bông lúa lên nhấm. Tôi biết mấy tên du kích đang theo dõi, không bỏ sót một hành động nào của tôi. Tôi vẫn đủng đĩnh ở giữa sân, toi còn nói như đùa với mấy người kéo lúa: - Như thế này là đốt giai đoạn đấy! Tôi và mấy ngưòi ấy cùng cười vang. Tôi vừa đi vào nhà, vừa gật đầu chào mấy anh du kích. Thấy thái độ tự nhiên của tôi, một anh có vẻ là chỉ huy. Cầm cái tích sứt vôi, rót vào một trong 3 cái chén mẻ, cáu ghét đen xì, đang để lỏng chỏng trên chiếc bàn mộc bám đầy bụi đất. Anh vừa cưòi vừa nói: - Mời đồng chí uống nước! Tôi cầm chén nước và xách luôn cả tích nữa. Uống hết, tôi rót tiếp, miệng như nói một mình: Tại anh Đạt đây! Hôm qua, tôi đã bảo tôi không uống được nữa, anh cứ cố ép, làm từ sáng đến giờ uống bao nhiêu nước. Còn ngủ nhỡ giờ nữa chứ! Anh du kích chỉ huy (trong 3 người, tôi chỉ thấy anh ta nói, nên đoán vậy) chừng độ 25 tuổi, nhìn tôi có vẻ hơi ngập ngừng: - Thế này không phải, đề nghị đồng chí cho chúng tôi xem giấy tờ? Tôi tươi nét mặt, nhìn anh, tay cho vào túi sau rút ví, miệng nói: - Hoan nghênh tinh thần cảnh giác cao của các đồng chí! Tôi mở ví, rút tờ giấy thông hành, nhưng cố ý dềnh dàng cho họ xem thấy bìa giấy nghĩa vụ quân sự, và một số giấy tờ khác. Anh ta cầm xem, tôi coi như không để ý, chỉ tay ra sân nói với hai anh kia: - Năm nay, vùng mình khá hơn năm ngoái nhiều! Trong khi đó, tôi thấy thái độ của anh xem giấy tờ có vẻ ngần ngừ. Thực ra, lúc này ruột tôi cũng đang co thắt lại, chả biết giấy tờ có chính xác không, và tình huống này sẽ dẫn tới đâu. Tuy vẫn nhìn ra sân, nhưng tôi không bỏ sót một cử chỉ nào của họ. Tôi thấy anh đó nói nhỏ gì với một anh du kích khác, hình như có nói đến xã trưởng, rồi anh kia nói không có nhà. Sau đó lại nói đến cơ quan, lại nghe hôm nay Chủ Nhật, rồi tôi chỉ nghe thoáng thây tiếng “Phong”. Lúc tôi quay lại, anh du kích chỉ huy cầm giấy, mỉm cười nói với tôi, có vẻ ngài ngại: - Tôi đề nghị anh (bây giờ y gọi tôi là anh, vì giấy tờ là học sinh) theo anh này lên gặp ông chủ tịch. Tôi sáng mắt lên, vẻ ngạc nhiên, nói: - Có phải lên nhà ông Phong phải không? Anh đó mở mắt to nhìn tôi, rồi gật đầu. Tôi quay lại, vừa kéo tay anh du kích sẽ dẫn tôi đi, vừa nói to: - Hay quá! Tôi cũn đang định đến nhà ông ấy đây. Vậy thôi, nào ta đi! Thái độ này của tôi đã làm không khí cởi mở hơn. Anh du kích cầm giấy tờ đi trước, không mang súng. Tôi thấy tình hình không căng lắm.Trên đường đi, tôi tìm mọi cách để kể chuyện trò vui vẻ với anh du kích. Chủ đích trong lòng, tôi chỉ muốn hỏi anh ta đây là làng gì, xã gì, huyện hay tỉnh gì mà thấy điều kiện không thể cho phép. Đã nhiều lần lên tiếng ngập ngừng lên đến cổ họng, rồi lại đành kìm nuốt xuống, chỉ sợ hở cái đuôi ra thì nguy. Đường trong làng vắng vẻ quạnh hiu, lác đác đây đó vài mái nhà tranh trông lụp xụp tiêu điều lẫn vào lũy tre, nghe thật vắng lặng hiu hắt. Trái ngược với trái tim tôi, đang đập thùm thụp như trống làng vào đám. Tới gần một chiếc ngõ có cổng gạch, anh du kích rẽ vào, tôi biết ngay là nhà tên chủ tịch (không biết là huyện hay xã). Nhìn vào trong, tôi thấy một cái sân gạch, một bà cụ mặc váy nâu, đang khòm lưng hý hoáy cầm chiếc chổi quét ở góc sân. Hai căn nhà làm nối vào nhau thành hình thước thợ, tuy cũng là nhà tranh nhưng rất khang trang sạch sẽ so với những nhà khác trong làng, vỉa hè bó gạch. Khi vào tới sân, một con chó mực con bé tí từ trong nhà bếp ra hè, đứng ngửng đầu lên sủa húng hắng. Bà cụ vừa ngửng lên, mắt hấp háy nhìn chúng tôi, mồm vừa xùy chó. Tôi sà đến chỗ bà cụ, để một tay lên vai cụ, rồi niềm nở: - Thưa cụ, cụ còn nhớ cháu không ạ, cụ dạo này có được khoẻ không? Tôi nói to cho tên du kích cũng nghe thấy. Bà cụ đưa đôi mắt kèm nhèm nhìn tôi ngập ngừng: - Không dám, chào anh, anh đến chơi! Trong khi đó, mắt và tâm trí tôi còn đang bám sát từng thái độ, cử chỉ của tên du kích. Đó mới là chính, thái độ của y ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mạng của tôi. Tên du kích bước lên nhà trên, rồi đi vào trong buồng. Tôi hỏi bà cụ: - Ông Phong còn ngủ à cụ? Bà cụ nói chậm rãi, một cách mệt nhọc: - Nó, hôm qua đi họp mãi khuya mới về! Tôi bỏ bà cụ, lên ngay nhà trên để tranh thủ thời cơ. Khi tôi bước vào nhà, kéo cái điếu bát định hút thuốc. Tôi chưa từng bao giờ hút thuốc lào trước đây, nhưng bây giờ, để tạo không khí chan hòa quen thuộc, tôi cũng sà đến, vê một điếu và hỏi: - Ông Phong hãy còn ngủ kia à? Y đã ngậm miệng vào chiếc se điếu, tay đang bật lửa, nên y chỉ gật đầu. Khi y hút xong, thì một người khoảng 35 tuổi, mặc quần đùi màu xám bộ đội đã bạc, đi chân đất, áo sơ mi cháo lòng, da cũng trắng mai mái (chứng tỏ ít ra nắng) đang ở trong buồng bước ra. Mắt còn ngái ngủ, tay đang cầm tấm giấy thông hành của tôi. Tôi quay lại, mặt tươi lên, lớn tiếng: - Anh Phong, chà bây giờ còn ngủ kia à? Hôm qua tôi ghé xuống Đạt, uống say quá, bây giờ mới ra đây! Phong như tỉnh hẳn, mở to mắt nhìn tôi, rồi anh ngập ngừng, ngọ nguậy rồi toét thành nụ cười, giơ tay bắt tay tôi. Ánh mắt anh ta thoáng chút ngỡ ngàng. Chắc anh đang băn khoăn lục óc, chả biết đã gặp anh này ở đâu. Rồi có lẽ đổ tại trí nhớ của mình tồi, mặt anh bình thường trở lại, nói một cách xuề xòa: - Hôm qua họp khuya quá! Anh ta để tờ giấy xuống bàn, rồi co hai chân lên, ngồi xổm trên ghế. Tên du kích thấy thái độ của tôi với ông Phong như vậy, nên anh ta chào Phong và tôi trở về sân hợp tác xã. Tay đã cầm điếu thuốc, nên tôi đành kéo cái điếu lại, cố gắng hút. Dù tôi không dám rít mạnh, phải kìm ghê lắm, nếu không thì ho, thế mà cũng say đáo để. Phong kéo điếu, bắt đầu hút. Hết say, mặt tôi xụ hẳn xuống nói như phân trần: - Đấy, anh xem, trước đây tôi khoẻ như vậy, thế mà gần một năm nay, cứ tự nhiên xây xẩm mặt mày. Thấy nét mặt y trầm tư, tôi nhẹ giọng vẻ thân mật nói tiếp: - Anh Phong à, tôi học hành như anh đã biết đấy, rất chăm mà cứ học trước quên sau. Cái bệnh tim chó chết này như vậy. Nhiều lúc tôi không muốn sống nữa. Phong vẻ cảm động, quay lại nhìn con người phờ phạc mệt mỏi (mấy đêm ngày say sóng, không ăn) của tôi, nói như an ủi: - Làm gì mà bi quan thế! Có bệnh, khoa học ngày nay tiến bộ chữa, sẽ khỏi. Tôi cười buồn: - Thực thế! Mới hôm qua ở bến xe, thấy đông người, tự dưng tôi xây xẩm mặt mày. Nếu không có người đỡ, tôi đã ngất, ngã vỡ đầu rồi. Có cái mũ thì cũng lại để quên trên xe. Anh Chí bí thư đoàn đã giục tôi nhiều lần, thậm chí, chính anh phải xin giấy giới thiệu cho tôi ra Hà Nội chữa bệnh, nhân kỳ hè này. Phong hút thuốc xong, chả để ý gì đến tấm giấy thông hành để trên bàn. Phong vừa cho chân xuống đất định đứng dậy, vừa nói: - Này, để tôi gửi tiền mua hộ tôi 3 cục “pin” nhé! Tôi khẽ đập vào tay y, cười: - Ồ! Anh lạ! Tôi có tiền đây, để tôi mua về rồi hãy tính. Có cần mua gì nữa không, tôi mua một thể? Phong nghĩ ngợi một lúc rồi lắc đầu. Tôi chậm rãi nói, như thân tình quen thuộc: - Lúc về, thế nào tôi chả phải ghé vào đây (nhưng thực ra lúc đó, tôi chưa biết đây là đâu), tôi vừa nói vừa cầm tờ giấy thông hành cho vào ví. Phong còn tiễn tôi ra hè, bắt tay. Tôi chạy lại chỗ bà cụ, cầm tay bà cụ nói: - Cụ ơi! Cháu đi đây! Bà cụ lại ngừng quét, ngửng đôi mắt nhập nhèm: - Phải, anh đi! Sau này nhiều lúc nghĩ lại, tôi cũng thấy buồn cười. Phong chờ cái thằng chó chết, mãi chả thấy mua “pin” về. Tôi ra khỏi cổng, thấy con đường trước mặt thì cứ đi, chứ cũng không biết con đường sẽ dẫn đến đâu. Lúc này đã gần 12 giờ trưa, mặt trời càng chói chang như thiêu đốt. Nóng h7ng2 hực, không một ngọn gió, thế mà lòng tôi mát rượi nhẹ nhàng. Chỉ một chút xíu nữa thôi, thì đời tôi đã tịch ở ngay mảnh đất này, nơi tôi đổ bộ. Cho tới nay, tới lúc tôi đang ngồi viết những giòng nỗi niềm này, tôi cũng vẫn chưa biết rõ ràng đấy là đâu. Trên con đường đất trắng bệch vì lâu ngày không mưa, hai bên toàn là ruộng đã gặt rồi, đất cũng đã khô nứt nẻ. Xa xa ngược chiều, một bà cụ đầu đội bó củi đang đi lại. Giữa cánh đồng vắng buổi trưa, tôi quan sát trước sau chả thấy một bóng người, vì thế khi gặp bà cụ, tôi chào vồn vã: - Trời ơi! Nắng quá cụ ơi! Các cháu đâu không đi làm cho cụ; mà cụ phải vất vả thế này? Bà cụ thật già, tội nghiệp! Bà cụ này còn già hơn bà cụ nhà tên chủ tịch. Bà cụ hổn hển nói khi tôi đỡ bó cây thanh hao con khô đã rụng hết lá: - Chúng nó đi hết rồi. Ngày nào tôi cũng phải vào núi để lấy củi đun bếp. Thấy bà cụ đã quá già, tôi đánh bạo: - Cụ ơi, cứ đi thẳng đường này là ra đường cái hở cụ? Bà cụ quay lại, nhìn về phía xa xa, tay cụ vẩy vẩy: - Cứ đi một thôi nữa là tới đường cái. Tôi hỏi tiếp: - Đường nhựa chứ cụ? Bà cụ gật đầu. Tôi thấy không nên hỏi thêm nữa, sợ khi bà cụ vào làng, lão Phong hoặc du kích hỏi bà cụ là tên đó hỏi cái gì, bà cụ nói ra thì chết. Tôi phải phòng hờ như vậy, vì chỗ này tuy đã xa làng, nhưng giữa cánh đồng trống, biết đâu chả có những con mắt đang nhìn theo dõi. Cẩn tắc vô ưu, không chơi dại! Vì vậy, tôi đỡ bó củi lên đầu cho bà cụ, chào rồi đi lẹ. Bây giờ tôi mới chú ý, xa xa đã nhìn thấy ô tô chạy. Nhìn trải dài cánh đồng bao la xa tắp, tôi thây vài người đang đi dưới ruộng khô hướng ra phía đường cái, có người đội cái “rương” mà đỏ cạch. Họ đi tắt qua cánh đồng. Tôi cũng bắt chước họ, xuống ruộng nhắm thẳng phía đường cái, bước tới. Một mình lang thang trên cánh đồng rộng, óc tôi miên man nghĩ ngợi. Tôi nghĩ đến lão Phong chủ tịch. Chắc bây giờ lão ta đang lục óc xem đã gặp tôi ở đâu! Vậy lão chỉ còn trách cái óc tồi tệ của lão, lão ta đã gặp tôi trong lúc nào đó mà quên rồi. Hội hè họp hành, thiếu gì trường hợp. |
|
|
![]()
Post
#19
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười Sáu
Đường Ra Hà Nội… Trời trong xanh, vài vẩn mây trắng lờ lững trôi về phương Nam, hình như muốn ngừng lại nói với tôi: - Chào mừng chú mày, ta sẽ về Nam báo cho mọi người biết, chú mày đã thoát được một “ca” đặc biệt! Hai con cò trắng từ phía núi bay sà đỗ xuống mảnh ruộng trước mắt. Tôi đưa mắt nhìn đây đó. Thỉnh thoảng giữa ruộng khô cũng có một vụng nước con đục ngầu. Tôi vục tay mò thấy mấy chú cá rô con, dăm mười con tép nhẩy loi choi. Nếu mà nhà gần đây, tôi đi khắp cánh đồng, chắc sẽ được một bữa u hề tép kho. Tôi cứ tung tăng, chân nhẩy choi choi nhởn nhơ trên cánh đồng một mình. Gió thoảng mùi nồng nồng của đất, của những gốc rạ còn lại. Lòng tôi thênh thang mở rộng như cánh đồng này. Chân tôi bước đều, đầu tôi lan man nghĩ đến chiếc bi đông và những viên thuốc lọc nước của Harry cho. Tôi chẳng cần! Chôn tại chỗ, đeo theo càng lỉnh kỉnh. Lúc này, tôi đã thấy khát nước thật sự, nhưng tôi vẫn bằng lòng. Đã gần tới đường cái, đã nhìn rõ dăm ba mái nhà rải rác dọc theo con đường. Thỉnh thoảng một đám bụi mù cuộn tung, đẩy một chiếc xe đi phía trước. Mặt đường nhựa nhưng đầy ổ gà bụi đất. Gần tới đường cái, tôi phải đi vào con đường nho nhỏ sau mấy căn nhà, mới lên đường nhựa. Những căn nhà ở sát mặt đường cũng lụp xụp nghèo nàn, không hơn gì những căn nhà trong làng. Nhiều nhà vắng người, những tấm phên liếp bằng nứa che kín cửa. Những cây cà cây ớt, vài đám rau muống cằn cỗi đầy bụi đường, trong những mảnh vườn con con phía sau nhà, đã nói lên cảnh đời của những người dân địa phương. Thật may, ngay gần đấy, tôi nhìn thấy cột cây số đầu sơn đỏ, thân trắng, một phía đề “Kỳ Anh 18cs”, một phía đề “Quảng Bình 32cs”. Vậy là Quốc lộ 1 rồi! Như thế, rõ ràng đây là tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đây đến ranh giới Hà Tĩnh-Nghệ An phải hàng 30, 40 cây số nữa. Thế có chết con người ta không chứ! Không biết các anh, các bác vì đêm tối mịt mùng nên lầm chỗ, hay vì sợ quá nên vất đại, bỏ của chạy lấy người, bỏ cái nợ để chạy thoát thân? Chẳng biết các anh các bác nghĩ thế nào. Chính tôi cũng như các anh, các bác, lại còn phải sắp lên bờ một mình nữa, biết bao hiểm nguy đón chờ. Như vậy, phải chăng tôi đi vào chỗ chết như thế này, là việc riêng tư của tôi hay sao? Thấy một quán nước bên đường, ở đầu làng với một cô bé chừng 11, 12 tuổi, mắt toét bán hàng và mấy bác nhà quê đặt quang gánh trước chõng hàng, tôi đường hoàng ghé vào. Tôi mua một tấm mía và hai quả chuối ăn. Trong bụng mấy ngày không ăn, nên tôi muốn ăn cả chục quả, nghĩa là hết chỗ chuối đang bầy đó, nhưng sợ rằng mọi người để ý, nhất là chiếc biển gỗ con đã sứt nẻ, hàng chữ đỏ quạch treo ngay trên vách, phía chéo trước mặt tôi: “Phòng gian, phòng gián, bảo mật.” Vừa nhai mía, tôi vừa nhìn tấm biển. Bàn chân tôi rung rung, như đang chia sẻ với niềm rạo rực, hân hoan của dạ dầy. Lần đầu tiên tôi mua hàng trên đất Cộng Sản. Thỉnh thoảng một chiếc xe ô tô chạy qua, đi vào hoặc đi ra thường chạy tuột luôn. Tôi nhớ lại, qua cuộc phỏng vấn anh lái xe ở trại tiếp đón đồng bào vượt tuyến bên Gia Định, tôi đã biết xe không đón khách dọc đường. Vậy nên, giữa đường, nếu anh giơ tay vời, xin đi không đúng là hành động của người dân miền Bắc trong thời gian ấy. Ngoài một vài chiếc đò cũ rích, còn hầu hết là xe GMC hoặc Molotova hay Commanca của bộ đội. Ăn xong, tôi tiếp tục đi, lúc này đã hai giờ trưa, trời càng nóng dữ. Dọc theo đường không có một bóng cây, chỉ lưa thưa vài bụi cây con hai bên vệ đường, cũng cằn cỗi mốc meo, đầy bụi bặm. Từ mặt đường, hơi nóng hừng hực bốc lên. Tôi đành cuốc bộ, đầu không nón mũ, đi về phía Kỳ Anh. Qua cách lựa lời thăm hỏi, em bé bán hàng đã cho tôi biết, phải về Kỳ Anh nghỉ trọ ở đó, sáng hôm sau mới có xe đi Vinh. Tôi cũng được biết xã này là xã Kỳ Phương. Từ đây về Kỳ Anh còn 18 cây số nữa. Cái nắng thật kinh khủng, tôi tưởng đến khô người đi. Tôi phải lấy chiếc khăn mặt đội lên đầu, rồi cố rảo bước đi dưới cái nắng đốt da đốt thịt. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao gió cũng nóng. Học địa dư và thời tiết ngày xua, vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Từ tháng 5 đến tháng 8 có những ngọn gió Lào thổi qua dẫy Trường Sơn nóng vô cùng, gió nóng đến độ có thể làm héo lá cây. Tôi đi được chừng 2 cây số, xa xa có một cây to duy nhất ở bên đường. Chiếc bóng râm đen đen choáng hẳn một gioi đất, đang đong đưa ngúc ngắc trên mặt đường nóng bỏng, như muốn mời gọi kẻ lữ hành dừng chân trên đường dài đầy nắng lửa. Trong bóng râm, đã có một chị phụ nữ mang đôi quang gánh với hai chiếc thúng không, đang ngồi nghỉ. Trông thoáng chị khoảng hai mươi lăm, ba mươi tuổi. Chiếc khăn vuông đen buộc chặt mớ tóc dài trên đầu, làm cho bộ mặt rám nắng của chị như xạm lại. Tôi kéo chiếc khăn lau mồ hôi mặt, rồi cũng ghé vào bóng mát. Tụt một chiếc dép ra lót đít rồi cũng ngồi nghỉ, cách xa chị chừng 2 mét. Tôi ngồi yên lặng, tay cầm chiếc khăn phe phẩy, mắt đăm đăm dõi nhìn giậu mồng tơi trước ngôi nhà con con phía bên kia đường. Giậu mồng tơi không còn lá, chỉ có vài cái ngọn rụt, cằn lưa thưa, còn toàn là dây đỏ quạch, héo tong teo như sắp chết khát. Tuy không quay lại, nhưng tôi biết chị phụ nữ đang nhìn tôi, rồi chị nói bâng quơ: - Trời nóng quá! Lúc này tôi mới quay lại nhìn chị. Bàn tay xạm nắng đưa lên nhẹ vuốt mấy sợi tóc mai, môi chị ngập ngừng hơi mỉm cười như chào làm quen một người lạ. Thấy vậy, tôi cũng cười, rồi cũng nói không có chủ từ: - Nóng đến khô người đi! Chỉ có hai người, trời nóng, đường vắng, có lẽ thấy tôi có vẻ cởi mở, nên chị nhìn tôi rụt rè nói tiếp: - Cuộc đời cực nhọc vất vả quá! Tôi hơi ngạc nhiên, đăm đăm nhìn chị. Chị cuối xuống một lúc, nghiêng người với chiếc khăn con mầu đất, vắt ở đầu quang gánh lau mồ hôi, rồi lại ngửng lên nhìn tôi, dè dặt thăm dò: - Chẳng biết đến bao giờ dân mình mới đỡ khổ? Bao nhiêu thóc lúa trồng lên cứ phải nhập kho nhà nước hết; còn dân ăn khổ quá! Câu chuyện và điều kiện đã dồn tôi vào phải đóng vai một cán bộ để giải thích: - Bây giờ dân mình cực, vì đang giai đoạn thắt lưng buộc cụng để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, mọi người hãy tạm chịu khổ. Tuy chị nghe tôi nói như thế, mặt chị vẫn còn đầy vẻ băn khoăn. Im lặng một lúc, rồi chị hỏi tiếp: - Thế lúa gạo đem đi đâu? Đã trót thì trét luôn, tôi ra vẻ hơi ngạc nhiên, trả lời: - Ô hay, mình làm gì đã chế được máy móc, vì thế, mình phải đem gạo đi đổi lấy máy móc chứ. Hơn nữa, vì nghĩa vụ quốc tế, ta còn phải có trách nhiệm giúp đỡ nhân dân những nước bạn nữa! Giữa lúc đó, từ phía Quảng Bình, một anh đang cọc cạch đạp chiếc xe đạp đi tới. Sau xe, đèo một số lủng củng những đồ phụ tùng xe đạp đã cũ rỉ. Dáng bộ anh. Từ nét mặt tới cử chỉ, không thể là một tên Cộng Sản. Tuy thế tôi vẫn ngồi yên, mắt lơ đãng nhìn xa xa phía chân trời. Anh đỗ xe, lục đục mãi mới dựng được, vì chiếc chân xe đã quá già. Anh lật chiếc mũ lưỡi trai trên đầu, đen nhẻm đầy dầu mỡ, chắc cũng cùng tuổi đời với chiếc xe. Anh vừa đi vào bóng râm, giữa chị phụ nữ và tôi, vừa quạt lia lịa tìm một chỗ ngồi, mồm kêu “nóng quá!”. Giọng anh trọ trẹ, tôi khó xác định. Chị phụ nữ lên tiếng: - Anh ở Quãng Bình ra hỉ? Anh gật đầu và nói: - Tôi về Vinh. Thấy thế, tôi hỏi ngay: - Anh sẽ đạp xe về Vinh? Anh cũng chẳng nhìn tôi, mắt anh vẫn để vào chiếc xe đạp màu sơn đã loang lở, chỉ còn một chiếc thắng, đầy bụi đất. Anh vừa lắc đầu vừa nói: - Tôi đến Kỳ Anh nghỉ, sáng mai mới đi xe đò về Vinh. Tôi hơi mừng, vì đã có bạn đồng hành, tôi vội vàng đon đả: - Tôi về Hà Nội chữa bệnh đây, tôi cũng sẽ đi qua Vinh. Một lúc sau, chị phụ nữ đứng dậy, quay lại mỉm cười gật đầu chào anh đi xe đạp và tôi, rồi rảo bước trên đường. Tôi trông theo mãi chiếc quanh gánh, nhấp nhô một quãng thật xa, rồi rẽ vào một con đường nhỏ phía bên kia quốc lộ, Sau đó, anh đi xe đạp cũng đứng lên, quay lại nói với tôi: - Tôi đi trước nhé! Có khi về Kỳ Anh sẽ gặp. Quen như xe đạp ở miền Nam, tôi định nhờ anh đèo, hoặc tôi sẽ đèo anh cùng đi. Nhưng khi nhìn lại chiếc xe đạp anh dẫn ra đường, tôi có cảm tưởng chính nó cũng đã phải lặc lè mang một mình anh, nên tôi kìm lại, chỉ tươi cười: - Ừ! Có thể chúng mình gặp lại nhau ở Kỳ Anh thì vui! Anh gò lưng đạp chiếc xe lọc cọc trên con đường nóng bỏng, gặp ghềnh như nỗi niềm của người dân sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt của loài người! Còn lại một mình, đưòng không một bóng người, tôi chưa muốn đi ngay vì chiếc dép râu cọ vào làm chân đã lột da, đau và xót. Đi giẩy đã quen, bây giờ xỏ dép râu, lại phải đi bộ xa nên tôi cứ dùng dằng mãi rồi mới đứng dậy đi. Vừa đi, tôi vừa nhìn cảnh vật nhà cửa hai bên đường. Đất Hà Tĩnh thật nghèo nàn khổ cực. Cây lúa ở ruộng chỉ cao chừng 30 phân, mỗi cây chừng 5, 6 bông nho nhỏ, vì ruộng không những thiếu nước mà còn toàn là cát. Tôi nghĩ rằng, người dân ở đây làm được một bát gạo thi phải đổ một bát mồ hôi. Thế mà, chỉ được hưởng một phần mười của bát gạo đó thôi, do cách quản chế bóc lột tinh quái của Cộng Sản. Tôi cứ đi khoảng 2, 3 cây số, thấy một chiếc bụi bên đường lại chui vào trốn nắng. Suốt hai bên đường, hàng chục cây số không có một cây to nào, toàn những bụi cây khô cằn thấp lè tè. Cái đất kinh khủng, cây và cỏ cũng khó mọc. Một lần, tôi đang ngả người nằm nghỉ cạnh một bụi cây ở mé đường, mặt đường nắng chói chang, hơi nóng hừng hực từ mặt đường nhựa bốc lên làm tôi lóa cả mắt. Óc tôi đang miên man tính những chặng đường phải đi tới, bỗng nhiên một tiếng “soạt” như ai ném một hòn đá vào một bụi cây ở gần đấy. Tôi ngồi bật dậy, lắng nghe, lướt nhanh mắt toàn bộ chung quanh, vẫn im vắng. Không thể có người nào ở giữa đường trống nóng như thiêu này. Dù vậy, tôi phải biết nguyên nhân của tiếng động vừa rồi. Tôi khẽ trườn sang phía bụi cây có tiếng động. Sau khi quan sát, tôi thò tay bới đám lá rậm. Bỗng vụt! Một con chim máu nâu, to bằng con chim ngói bay ra. Tôi chả biết chim gì, nhưng thấy nó bay không bình thường, tôi lưót nhanh đuổi theo, và vồ được. Nó thở hổn hển, mỏ vãi máu. Tôi sờ khắp người nó, không có một chỗ nào bị thương. Sau, tôi suy đoán, có thể vì trời nóng quá sức, nó không thể bay tới những nơi có nước. Vì vậy, tôi nhường chiếc khăn che đầu, bọc che nắng cho nó và mang theo. Đi gần hai cây số nữa, tới một chiếc cầu, nhìn xuống dưới cầu, mãi dưới đáy có một dòng nước nhỏ như con suối con. Cả chim và tôi đều cần nước. Tôi mon men tìm cách xuống tới giòng suối. Tôi vừa len lỏi vừa nhìn lên chiếc cầu cao tít trên mặt đường. Có thể mùa mưa, mùa nước, đây là một dòng sông. Tôi xuống rửa mặt, rồi cho cả người và chim uống nước. Đúng là nó bị khát nước quá, nó uống tới đâu, tình dần tới đó. Thế mà chẳng hiểu vì sao nó lại không bay đi. Tôi phải mang nó theo mãi gần tới Kỳ Anh. Mặt trời đã ngã kuất sau dẫy Trường Sơn. Những chòm xóm hai bên đường đã lác đác bóng người ra ngoài. Đến một con đường đầu làng, thấy một em bé chừng 9-10 tuổi, hai chân toàn bùn đất. Tay đang cầm một chiếc thừng dẫn một con trâu gầy bên vệ đường, tôi gọi và giơ con chim ra hiệu, cho em. Em nhìn con chim một lúc rồi lắc đầu không muốn lấy. Tôi hơi lấy làm lạ về thái độ em bé nhà quê, nghèo này. Ngay khi tôi còn bé, có được một con chim như vậy thật là thích thú. Vậy tại sao em lại không lấy? Tôi đành mang con chim đi một đoạn đường nữa, gặp một bác nông dân gánh hai chiếc thúng, tuy có hai cái nia con đậy, nhưng dáng đi của bác nhẹ tênh. Bác đang đi ngược chiều với tôi phía bên kia đường. Khi ngang qua, từ bên này đường, tôi giơ con chim ra gọi bác, hỏi bác có lấy con chim này không. Bác nhìn tôi một lúc, như xem tôi nói đùa hay nói thực rồi mới gật đầu. Về con chim, lúc đó chả có một ý nghĩ gì. Chỉ vì tính yêu thiên nhiên và thích chơi đùa nghịch ngợm, nên dù đang trên đường vào sâu trong lòng địch, tôi đã đuổi bắt. Nhưng sau này, tôi kể chuyện cho các anh, các bác trong tù, họ đều nói: - Đó là cái điềm của cậu đấy, may mà cậu cho con chim ấy đi, nên còn sống. Nếu cậu ăn thịt con chim ấy thì cậu không còn dịp nào kể chuyện lại cho chúng tôi nghe nữa đâu, vì cậu đã hai năm mươi rồi. Người ta kỵ nhất: Chim sa, cá nhẩy. Nghe để mà nghe, chứ tôi không thể tin được những chuyện vô cớ như thế. Từ óc thực tế, tôi luôn luôn nhìn sự việc trên cơ sở lý luận khoa học. Nhưng con người cũng thật mâu thuẫn. Vì cứ tù mãi, chịu đựng những ngày tháng lê thê cùng cực gần hết cả cuộc đời. Thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến con chim ấy. Đi một đoạn đường nữa, xa xa đã thây một khu chừng vài chục mái nhà tranh, trông thật nghèo nàn lụp xụp. Một chiếc biển gỗ to, đóng ngang trên hai cái cột, dựng ở cạnh đường. Trên tấm biển ghi HUYỆN KỲ ANH bằng chữ mầu trắng trên nền đỏ, nước sơn đã long lở bạc mầu. Lác đác đây đó một số người đi lại. Người ta gọi đây là phố huyện. Lúc này đã hơn 6 giờ chiều, ánh nắng không còn, người ta ra ngoài đường nhiều hơn. Tôi tiến dần vào phố huyện, vừa đang quan sát thăm dò nghe ngóng, để tùy theo tình hình tìm chỗ trọ. Thì may quá, tôi thoáng thấy anh đi xe đạp đã gặp ở gốc cây, gần xã Kỳ Phương đang từ trong đó đi ra phía tôi. Thật nhẹ cả lòng! Tôi tiến đến chận đầu anh, cười niềm nở: - Đi đâu mà ra đây? Đôi mắt anh nhìn tôi ngỡ ngàng, xa lạ. Rồi như chợt nhớ ra, anh vồ cả hai tay vào vai tôi, vồn vã hỏi: - Bây giờ mới tới đây à? Tôi trả lời: - Ừ! Trời nắng quá, tôi đợi mát, đi dần. Qua thái độ trên của anh, tôi thấy anh toát ra một con người hiền lành thật thà mà còn vô tâm nữa. Tôi nhắc lại câu hỏi khi nãy: - Anh đi đâu ra đây, xe đạp đâu rồi và trọ ở đâu? Mắt anh long lanh, miệng anh rối rít, tay chỉ về phía một dãy chòi con con chéo đấy: - Xe tôi gửi ở nhà trọ. Tôi vào trong kia đi tiêu một chút, chờ tôi một tý thôi, rồi tôi ra mua thuốc lá cho mà hút. Chúng mình về cùng trọ một chỗ nói chuyện cho vui. Tôi còn chân ướt chân ráo, ngơ ngác chưa biết trọ ở đâu, cách thức trọ ra sao, giờ gặp anh thì nhất rồi còn gì! Chừng năm phút sau, anh ra. Anh kéo tay tôi dẫn vào một cửa hàng tạp hóa nhỏ treo một tấm biển: Bach Hóa Tổng Hợp. Anh mua một hào được 6 điếu thuốc Trường Sơn. Nếu mua cả gói thì 3 hào. Anh vỗ vai, đưa tôi một điếu. Thái độ của anh tỏ vẻ như đây là một ân tình đặc biệt anh dành cho tôi. Đã mấy ngày không ăn cơm, lại vửa cuốc bộ một 9doạn đường dài, lúc này mới thấy đói và mệt, nên tôi hỏi anh: - Anh đã ăn cơm chiều chưa? Anh lắc đầu, tay chỉ vào phía trong: - Chưa, tý nữa vào kia, chúng mình cùng đi ăn. Tôi kéo anh trở lại hiệu bách hóa: - Tiện, tôi cũng mua một hào thuốc để hút. Nhà trọ là hai căn nhà tranh nhỏ, mỗi nhà có hai dẫy giường dài bằng những cây nứa bổ đôi ghép lại. Những chiếc chiếu cói đã cũ mèm, rách nhiều chỗ. Vì thế, nằm giường nhưng như nằm trên đống củi, vừa đau người lại vừa ọp ẹp. Đưa giấy thông hành hộp cho bà chủ trọ. Hai hào thì không có mùng, bốn hào thì có mùng. Trí nói: - Chúng mình hai người một mùng thôi, đỡ tốn. Tôi đồng ý. Lúc này, tôi đã biết tên anh là Trí. Anh cũng gọi tôi là Hùng theo giấy tờ. Khi sang tời quán cơm quốc doanh, cũng là chỗ bán hàng cơm duy nhất ở phố huyện, tôi có ý định mời Trí ăn cơm. Tôi còn đang do dự, Trí đã quay lại hỏi: - Hùng định ăn 2 hào hay 4 hào? Hãy xếp hàng sau tôi. Tôi chưa biết rõ thế nào, nên trả lời: - Để cho vui, tôi sẽ ăn theo anh, anh ăn gì tôi ăn nấy! Thấy Trí lấy 4 hào ra cầm tay, tôi cũng lấy 4 hào. Đã mấy ngày nay chưa có hạt cơm nào trong bụng, tôi đinh ninh rằng sẽ phải chén hai đĩa mới thỏa. Đây cũng là lần đầu tiên nếm cơm xã hội chủ nghĩa, đỉnh cao trí tuệ loài người. Tay tôi vừa cầm đĩa cơm theo Trí ra một chiếc bàn trống, vừa nhìn đĩa cơm. Hai phần là cơm, một phần là sắn khô thái mỏng. Những miếng sắn, có lẽ lâu ngày, hoặc khi phơi không được nắng nên mầu đen đen. Cả cơm và sắn nấu lẫn lộn thành một thứ cơm xam xám. Một miếng cá khô bằng hai ngón tay và nửa lá rau riếp. Trên mỗi đĩa cơm đã cắm sẵn một cái thìa nhôm. Tôi theo Trí đến một mé vách có treo một cái ống bương to đựng đũa để lấy một đôi đũa tre. Bàn nào cũng trống trơn, chẳng có nước mắm hay ớt. Tôi lựa xúc chỗ cơm không cho vào miệng. Nó vừa chát vừa đắng ngắt. Nhìn Trí, nhìn người khác, họ vẫn ăn ngon lành, ấy là nhiều người họ ăn loại hai hào, đĩa cơm chỉ rưới tí nước mắm thôi đấy. Mình đã lịch sự, cao cấp hơn, có cá, thế mà, tuy bụng đói, tôi phải cố gắng tọng vào, nhai như mọi người, cho có vẻ hòa đồng. Miệng nhai nhóp nhép, tâm tư tôi chạnh tưởng về một cảnh đời ở một phương trời bên ấy. Chỉ mới hai ngày trước đây thôi, những người họ đang ăn uống phè phỡn, thừa thãi thức ngon vật lạ, họ có thấy được đầy đủ giá trị của cuộc sống? Hai không gian, hai cảnh đời, tuy cùng chung một mảnh dư đồ nước non! Tôi đã cố gắng ăn, nhưng cũng chỉ được nửa đĩa. Tôi sợ họ thấy lạ, nên tôi ghé sang Trí ôm bụng, mặt nhăn nhó: - Không hiểu sao, tôi đang ăn, đau bụng quá! Tôi vẫn xoa bụng, trong khi Trí băn khoăn bảo tôi hãy ăn cố đi. Tôi vừa đẩy đĩa cơm sang Trí, vừa lắc đầu: - Tôi đau lắm! Quen rồi, đã đau mà còn ăn nữa, lại càng đau thêm. Trí ăn hộ đi! Ngần ngừ một lúc, rồi Trí phải ăn. Tôi cứ giả vờ ngồi ôm bụng nhăn nhó. Khi về tới nhà trọ, trời đã tối. Nóng vô cùng. Trí dẫn tôi ra mua hai cái quạt giấy, mỗi cái một hào. Mỗi người đều trả riêng. Thực ra tôi không thiếu tiền, nhưng tôi phải giữ ý với Trí. Bắt đầu thân, khi vào trong mùng. Trí than cuộc sống ở đây khổ cực quá. Trí rút ví lấy cho tôi xem một cái ảnh vợ anh đang bế hai đứa con nhỏ. Nằm bên nhau, Trí và tôi tâm sự. Tôi được biết, Trí cùng vợ con và bố mẹ ở Thái Lan về nước năm 1956. Bây giờ, nhà nước đưa về Bến Thủy (Vinh). Bố mẹ Trí làm nghề đánh cá, còn Trí sửa chữa xe đạp. Trí khoe, ngày còn ở Thái Lan, cuộc đời thật thảnh thơi, chẳng bao giờ phải lo nghĩ đến chuyện ăn uống. Thường có nhiều bạn bè chơi bời, chuyện trò thân mật. Chủ Nhật ngày nghỉ thường rủ nhau đi chụp ảnh, rất vui. Bây giờ nghèo nàn vất vả quá. Có cái gì cũng cứ phải bán dần để ăn, cuối cùng còn ít nào phải mua vội một chiếc nhà tranh để ở. Trí nói rất quý tôi, cứ căn dặn khi đi Hà Nội chữa bệnh trở về, thế nào cũng vào chơi. Trí sẽ giới thiệu bố mẹ và vợ, rồi nhất định phải giết một con gà cho ăn (7 năm đã tiêm nhiễm phong cách xã hội chủ nghĩa, giết gà là một chuyện ghê gớm và đặc biệt.) Sáng hôm sau, chúng tôi ra lấy giấy tờ. Trí cũng định đi xe đò với tôi, nhưng chở mãi 8 giờ chưa có xe. Mấy người có xe đạp họ rủ nhau đi trước. Đoạn đường 52 cây số từ Kỳ Anh tới thị xã Hà Tĩnh. Trí đi theo họ nên từ giã tôi, căn dặn, tả nhà v.v… là thế nào đi về cũng ghé vào. Tôi đồng ý. Tôi ở lại cùng bao nhiêu người khác chờ xe để đi thị xã Hà Tĩnh. Mãi tới 10 giờ mới có một chiếc xe kiểu “Dodge 4” xọc xạch, cổ lỗ sĩ có thể từ thời 1954, thùng xe đã phải chấp vá lung tung, không mui. Một đồng rưỡi một vé ra thị xã Hà Tĩnh. Hành khách chen chúc, không có ghế, toàn đứng nêm vào nhau. Đường xóc vô kể. Trên xe, người cứ ngã nghiêng xiêu vẹo. Phụ nữ ngồi, đàn ông đứng, thật hỗn độn. Tôi đứng cạnh một anh Hải Quân chừng 23, 24 tuổi. Nhiều lúc xô mạnh như những người say rượu vì đường quá xấu, nên đôi khi phải ôm chầm vào nhau. Khi tới Hà Tĩnh, tôi thấy thị xã gì mà như phố huyện ngày xưa, toàn nhà tranh, thỉnh thoảng mới có một cái nhà xây cũng cóc gặm và đen nhẻm do những năm tháng nghèo nàn, nên không hề sửa sang. Tôi và anh Hải Quân đi với nhau. Anh rất có cảm tình với tôi. Phần tôi, bất cứ lúc nào, ở đâu, cũng đóng vai một học sinh ở Vĩnh Linh. Tôi theo anh thì tuyệt quá! Đi với một Hải Quân (tên anh là Hảo, anh mặc đồng phục Hải Quân,) vừa không phải bỡ ngỡ từ cảnh vật xa lạ tới mọi cách sinh hoạt đi đường. Lại còn được một “vỏ bọc” vững vàng, ít bị để ý. Anh cho tôi địa chỉ biết thư, đơn vị anh đóng ở Vinh, anh bảo: - Chỗ đơn vị đóng thường bí mật, chỉ giao thiệp thư từ với người nhà, tuyệt đối không được cho một ai biết. Đây là địa chỉ người quen ở Vinh, thỉnh thoảng tôi ra nhận thư. Tôi muốn làm bạn với Hùng. Khi Hùng chữa bệnh về, thế nào củng viết thư cho tôi nhé. Suốt quãng đường từ thị xã Hà Tĩnh ra thị xã Vinh, tôi với anh là một cặp. Đi với Hảo tôi rất thoải mái. Có lúc Hảo thân mật: - Đơn vị đóng ở Bến Thủy từ hai năm nay được lệnh tăng cường “phòng gián bảo mật” vì miền Nam nó đang tung gián điệp ra ngoài Bắc. Tôi hỏi: - Thế ta đã bắt được vụ nào chưa? - Thế Hùng không nghe ta bắn rơi chiếc C-47 ở Cồn Thoi hay sao? Tôi gật đầu: - Tôi muốn hỏi là bắt được ở trong nội địa cơ? Y lắc đầu: - Cái đó, mình làm sao mà biết được. Đến Bến Thủy, khi còn ở phía bên này sông, tôi thoáng thấy Trí trong căn nhà tranh nhỏ Trí đã tả. Trí đứng ở cửa cố nhìn lên xe tìm tôi, nhưng tôi nép vào chỗ khuất. Đến phà Bến Thủy, Hảo bắt tay từ giã tôi. Tôi theo xe về thị xã Vinh. Về tới Vinh, trời đã cập quạng, khoảng 7 giờ rưỡi gì đó. Tôi theo những người đi trọ ở một nhà trọ tập thể để mai lấy vé đi Hà Nội. Nhìn thoáng thành phố Vinh, ngoài một số xí nghiệp, nhà máy ở vùng ven, trong thành phố thật quê mùa, một nửa là nhà tranh. Khách bộ hành trên đường phố, nếu không đi dép râu là đi … đất. Trong khi xếp hàng nộp giấy thông hành lấy vé trọ, trời thì tối, tôi đứng sau một anh bộ đội mang ba lô và mang lon Trung sĩ. Tại một chiếc bàn nhỏ, trên đặt một ngọc đèn chai, một cậu chừng mười lăm, mười sáu đang xem giấy tờ của từng người rồi bán vé. Người nào nó xem giấy, nó cũng hạch hỏi nào là: - Đến Vinh để làm gì? - Năm nay đã đến Vinh mấy lần? - Gốc quê ở đâu? - Còn giấy tờ gì nữa? v.v… Mọi người xếp hàng sốt ruột. Khi gần tới viên Trung sĩ, thấy nó cứ hạch hỏi người trước anh mãi, anh ta bực quát: - Cái thằng này, mày làm cái gì mà mày hạch hỏi người ta nhiều vậy? Mày làm như ở đây có gián điệp không bằng! Tôi cười thầm, “ta đang đứng ngay sau mày đây!” Cũng nhờ anh đó quát tháo, những người sau đỡ bị vặn hỏi. Nhà trọ bến xe Vinh cũng là nhà tranh, nhưng hai dẫy dài hơn. Cũng một giá tiền, hai hào không mùng và bốn hào có mùng. Cũng sàn nứa ọp ẹp lùng bùng như ở Kỳ Anh. Cái mùng cá nhân đen xì, rách lung tung và sực mùi hôi khăn khẳn của nhiều người và nhiều ngày không giặt. Đêm đó rệp cắn ngứa ngáy suốt đêm, tôi thật khó ngủ. Khoảng một giờ đêm, thấy ngưòi ta hét lên kêu mất trộm inh ỏi ở dẫy bên, tôi cũng phải sờ lên cái túi gối ở đầu; rồi buồn cười nghĩ thầm: “ Là một điệp viên thừa sống, thiếu chết, vào được đất địch rồi, ngủ, có cái túi dết vật dụng lại để bị mất trộm.” Sáng hôm sau, mới 5 giờ sáng đã có tiếng loa gọi khách dậy ra lấy giấy tờ. Đã quen thuộc, nên tôi ít phải ngỡ ngàng khi lấy vé xe lên Hà Nội. Xe đò đi Hà Nội có ghế ngồi, mặc dù cũng cóc gặm rách như tổ đỉa. Đoạn đường từ Vinh lên Hà Nội, có lúc hành khách phải xuống xe đi bộ qua cầu, vì cầu cũ kỹ không chịu nổi sức quá nặng khi chở cả người, như cầu Lèn Thanh Hóa, cầu Quất Ninh Bình, v.v… Đường đi thật chê, thậm chí có lúc xe xóc đầu hành khách va cả lên mui xe. Tôi nghĩ những người thợ vặn những con tán (vít) của xe thật tài. |
|
|
![]()
Post
#20
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười Bảy
Gặp Z-5… Sáu giờ chiều ngày 31 tháng 5 năm 1962, xe tới Kim Liên, Hà Nội. Mặt trời mùa Hè đã lặn khi xe còn cách Hà Nội hơn 10 cây số, thế mà những dáng hình quen thuộc của đất thanh lịch nàm năm hãy còn sáng rõ, khi chiếc xe đò chở tôi vào bến Kim Liên. Bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu kỷ niệm của thời niên thiếu năm xưa như ùa về bủa kín hồn tôi. Đó là phút giây giao cảm buổi đầu còn trên xe khi nhìn thấy Hà Thành. Chân tôi rời khỏi xe, teo dòng người chảy ra phố phường, những ngoại cảnh chung quanh đập vào mắt tôi. Con người, xe cộ, biểu ngữ, tôi cảm thấy thật xa lạ đẩy đưa dần tới sự tò mò và cuối cùng là sự cảnh giác của nghiệp vụ. Phải rồi, đây là đất Cộng Sản, đất kẻ thù. Mươi phút, tâm tư chìm lắng vào hố sâu của hoài cảm đến nỗi tách rời thực tế, tôi phải nghĩ đến an ninh của tôi. Tôi đang hướng về ga Hàng Cỏ. Làm một vài động tác nghề nghiệp để quan sát chung quanh, rồi tôi rẽ ngang về phía hồ “Ha Le” trong lúc trời tối dần. Tôi cố ý lắt léo về nơi vắng vẻ để xác định an ninh. Đến đây, tôi xin nói về một điểm thiên bẩm mà trời đã cho cơ thể tôi. Thông thường, thị trường của con ngươi là 160 độ. Như vậy, 10 độ ở phía trái và 10 độ ở phía phải “chết,” nghĩa là khi con ngươi đang nhìn thẳng chính giữa, bất cứ vật gì di chuyển trong phạm vi 80 độ phía bên trái và 80 độ phía bên phải, người đó đều thấy. Trừ người nào có bộ mắt lồi, thì có thể thị trường của mắt rộng hơn. Vậy mà, đôi mắt của tôi, chẳng hiểu thế nào, không phải lồi, đôi khi người ta còn nói là sâu nữa. Qua thử mắt thực tập, thị trường của tôi là 170 độ, có nghĩa là mỗi bên tôi chỉ có 5 độ “chết.” Chính vì thế, trên đường phố, tôi thường trông thấy người quen trước. Ngay khi thực tập theo dõi và chống theo dõi ở Sài Gòn, Brown, Dale và Phan đã khen ngợi nhiều lần. Dù phố thường đông đúc, hay địa hình phức tạp, (trừ khi tôi chủ quan, mất cảnh giác,) tôi cảnh giác thì bao nhiêu người hầu như tôi phát hiện hết. Sau khi xác định không có hiện tượng gì khả nghi cả, tôi đã bắt đầu chủ quan và nghĩ rằng, từ chỗ đổ bộ ở Kỳ Phương, Hà Tĩnh, biết bao hiểm nguy gay cấn, chỉ một chút xíu nữa mình bị bắt, thế mà cuối cùng đều đối ứng linh hoạt thoát được hết. Trời đã tối, theo lời Phan dặn thì tôi không nên mò gần về khu phố tôi đã ở trước kia, vì trong khi đi đường, bất chợt có thể gặp một người quen xưa, một người họ hàng, v.v… Họ sẽ ngạc nhiên rằng tại sao thằng Bình đã di cư từ 1954 mà bây giờ lại gặp ở đây. Từ đấy, có thể tôi sẽ bị phát hiện. Nhưng lúc này, do chủ quan, coi thường đối phương, tôi nghĩ là các ông ấy theo nguyên tắc cứng ngắc, nên quá lo xa, chứ khi ở Hà Nội tôi mới 16 tuổi, bây giờ đã 23-24. Lớn lên mặt mũi thay đổi nhiều, dù người quen có gặp chăng nữa, ai mà nhận được. Vả lại, Hà Nội bây giờ toàn là dân quê ở đâu mới về. Còn một yếu tố nữa, đó là vì lòng tôi cũng xúc động khi nhìn lại cảnh cũ. Nó như có hồn, cuốn hút ve vuốt lòng tôi. Từ hồ Ha Le chấn cứ thả bước, mắt nhìn từng nhà, từng hẻm phố, từng gốc cây. Cảnh cũ còn đây, người xưa không thấy. Hồn lâng lâng, tôi bước mãi vào nơi cảnh quen, người lạ cho tới khi đến phố Tràng Thi rồi Tràng Tiền. Ôi! Hồ Gươm! Hình ảnh hồ Gươm nằm trong ký ức suốt những tháng năm nổi trôi ở miền Nam, bây giờ đã hiện ra trước mắt. Vẫn chiếc Tháp Rùa âm thầm nghiêng bóng đen xẫm với vài vệt vàng sáng lung linh dưới mặt hồ cua những ánh đèn đường chung quanh. Tôi rẽ sang Gô Đa, về Chế Linh, hướng về đền Ngọc Sơn, đến Bà Kiệu. Phố phường đông đúc hơn. Khi tôi qua rạp Phillamoniqufe, nhìn xa xa đầu hàng Dầu, thấy tấm biển đề:“Nhà Trọ Số 5 Hàng Dầu” Chân đã mỏi, người đã mệt và cũng đã 7 giờ 30 tối rồi. Tôi quyết định vào xin trọ nghỉ đêm để lấy sức. Ngày hôm sau làm gì hãy hay. Nhìn bên ngoài, căn nhà một tầng, ngói và tường đen xạm, nứt nẻ vì gánh nặng thời gian. Tôi đi vào, ngọn đèn điện nhỏ, bụi và mồ hóng phủ gần kín, hắt ánh sáng yếu ớt làm cho căn phòng sáng mờ mờ. Tại chiếc bàn kê trong góc, một lão già đang hý hoáy ghi chép. Tôi đoán là chủ nhà. Khi tôi đến gần, ông ta ngẩng lên, cặp kính lão trễ xuống. Tôi dùng từ không lịch sự như Cộng Sản: - Cháu muốn trọ một đêm. Ông ta cũng nhát gừng: - Một đồng, đưa giấy thông hành đây! Tôi rút giấy đưa liền. Ông ghi, rồi đưa cho tôi một miếng bìa con, vuông 5 x 5 phân, mầu vàng, mang số 4. Ông giữ giấy thông hành của tôi để nộp cho công an khu phố (theo nguyên tắc của các nhà trọ.) Tôi cấm tấm bìa đó vào trong nhà. Dưới ánh điện vàng khè không đủ sáng vì mồ hóng, tôi thấy hai dãy giường cá nhân, gồm 8 cái. Mới có 3 người, hai anh bộ đội và một bác có vẻ nông dân. Tôi vào nữa là 4. Tìm được số giường, tôi vất chiếc túi dết, ngả người một tí cho đỡ mỏi. Mấy ngày nay không tắm rửa, tôi phải đánh răng và tắm một cái cho tỉnh người. Sau khi vào đi giải, tôi đã thấy chỗ tắm. Tôi lại xách túi dết ra phố. Tôi tính mua cái bàn chải và hộp thuốc đánh răng, và cái gì để nhét vào dạ dầy trước đã chứ. Tôi đi ra phía bờ hồ và rẽ về phía hàng Đào, hàng họ bầy bán ở vỉa hè. Tôi mua một cái bánh mì ỉu 5 hào trong cái thúng con của một cô bé ngồi bán, một cái áo may ô, một mũ cát. Lúc về, tôi cũng mua một góc thuốc lá Trường Sơn. Thế là toàn thứ thực của xã hội chủ nghĩa. Về tới nhà trọ, có người đã ngủ. Tôi tranh thủ vào tắm, đánh răng và nhai chiếc bánh mì có lẽ đã từ hai, ba ngày trước. Ăn xong, tôi vào xúc miệng, mở vòi nước làm mấy hơi. Tôi ra giường ngả lưng, đốt điếu thuốc Trường Sơn. Thế là cuộc đời cũng vi vu! Nằm trong màn, lúc đó đã 10 giờ, chung quanh mọi ngưòi đã ngủ cả. tôi suy nghĩ, tính toán. Thời gian ở Hà Nội rất ngắn, so với bao việc phải làm. Vậy, ngay từ sáng mai, tôi cứ tìm đường đến nhà thương Việt Đức xem sao, nhất là đóng đúng vai trò đi chữa bệnh. Còn một điều nữa, trước đây ở Hà Nội, còn quá nhỏ, tôi lại ở Hàng Bạc, nên chỉ đi nhà thờ lớn Hà Nội. Nhà thờ “X,” Phúc Xá thượng, hạ ở đâu, thực sự tôi chưa biết. Tôi chỉ nhớ mang máng bãi Phúc Xá, dưới gầm cầu Long Biên (hồi xưa có một lần theo mấy người bạn ra đó đá banh.) Tôi cũng phải ra đó thăm dò xem thế nào. Sáng hôm sau, ngày mồng 1 tháng 6, tôi ra bờ hồ chỗ bến xe điện mua tờ báo Thủ Đô ngồi đọc và nhìn đủ hãng người qua lại. Hầu hết mọi thành phần, mọi lứa tuổi, từ các em học sinh cho đến các bác xích lô đạp, trên mũ hoặc ở cánh tay đều có đeo hay quấn một băng giấy mẫu, trên có hàng chữ: Đả đảo Ngô Đình Diệm bán nước. Chỉ một số ít, cá biệt mới không đeo mà thôi. Người đi bộ, người đi xe, v.v… ai tôi cũng thấy đeo. Điều này, nói lên sự kiện miền Bắc đang tăng cường chiến dịch tuyên truyền chửi bới miền Nam, mà mũi dùi chính là ông Ngô Đình Diệm. Trời mùa Hè trong xanh, mặt trời chiều sáng không gian cũng không làm mờ nhạt được ấn tượng đầu tiên tôi nhìn Hà Nội. Tất cả là một mầu xám xịt, từ những dòng người đông đúc xuôi ngược trên những phố phường với áo mũ, không mầu xanh thì đen, hoặc nâu, và dép nếu không Bình Trị Thiên (râu) màu đen thì ba ta màu xám hay xanh. Đến nhà cửa xỉn lại vì rêu hoặc dơ bẩn, mà tôi nghĩ rằng từ ngày tôi rời Hà Nội đến nay đã hơn 8 năm, nay tôi trở về, chưa một lần quét vôi lại hay sang sửa. Về âm thanh, thực là một thành phố chết, im lìm vắng lặng. Trên đường phố đầy ngưòi, nhưng toàn là xe đạp. Giữa trung tâm thủ đô, nơi sầm uất nhất, mà thỉnh thoảng mới thấy một chiếc ô tô. Tôi đưa mắt nhìn một vòng chung quanh hồ Hoàn Kiếm chu vi 2.300 mét. Cả một vòng như vậy, cứ trung bình 10 phút mới nhìn thấy một chiếc ô tô chạy, mà nếu không là molotova, thì cũng lại là commaca của bộ đội hay công an. Xe tư nhân hầu như không có. Thành phố yên vắng vì không có tiếng động cơ của xe cộ, cũng như của nhà máy. Khác biệt hẳn với Sài Gòn. Sau đó, tôi quẹo lên phố Hàng Đào. Đang mải nhìn một tên công an túm tay một đứa nhỏ chừng 12 tuổi, kéo đi trên đường phố Hàng Bông. Một số ngưòi cũng nhìn theo và họ nói là ăn cắp. Tôi thấy một đoàn xe từ phía chợ Đồng Xuân đi xuống gồm 5, 6 chiếc Simca, Citroen, Peugeot. Chiếc đi đầu cầm cờ Việt cộng và Lào. Đoàn xe đi chầm chậm, vì phố xá hẹp, nên tôi nhìn rõ Kongle và Võ Nguyên Giáp ngồi trong xe. Chà! Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt cộng hôm nay đón Bộ Trưởng Quốc Phòng Lào! Các xe sau chở một lũ lóc nhóc Tướng và Tá, mặt tên nào cũng vênh vênh. Lúc đó tôi nghĩ, anh chàng Kongle bốc đồng đang bị lũ quái, cáo già ve vuốt, thổi! Mặt y dương dương, hớn hở. Sớm muộn, chúng sẽ cho anh chàng ăn mắm ngoé mà thôi! Ngay từ đêm trước khi còn nằm ở Hàng Dầu, tôi đã đặt thành nguyên tắc. Ít ra, cứ mỗi ngày một lần, tôi phải kiểm tra xác định về an ninh của mình. Vì vậy, lúc này nhớ đến, tôi vờ hỏi mua mấy ống khóa, để có điều kiện quay ngang, quay dọc. Cầm ống khóa lên soi, mục đích nhìn hết mọi bộ mặt chung quanh tôi, trong phạm vi 30 đến 50 mét. Rồi sau đó, tôi quặt vào một ngõ hẽm sang phố Hàng Quạt. Đường Hàng Quạt thật vắng người, nhìn thấy một hàng bán nước chè ở vỉa hè. Chính vì tôi muốn nhìn lại phía sau toàn phố, nên tôi cố ý đi qua hàng nước vài bước, rồi như là muốn uống nước. Tôi quay trở lại, ngồi xuống chiếc ghế dài con trước hàng, lật một chiếc chén trên chõng để bà hàng rót nước. Nhờ những động tác này, tôi đã nhìn được hết mọi bộ mặt ở phố Hàng Quạt. Không có bộ mặt nào tôi đã nhìn thấy trước ở bên phố Hàng Đào. Yên tâm, trả tiền 5 xu nước xong, tôi đi về phía nhà thương Việt Đức. Khi gần tới nhà thương, từ xa tôi quan sát, thấy mỗi người vào đều rút giấy đưa cho người gác cổng. Tới nơi, tôi làm theo, đưa tấm giấy thông hành và tời giấy giới thiệu. Tôi nói: - Em là học sinh, mới ở Vĩnh Linh ra, xin vào chữa bệnh. Tất nhiên, mặt tôi sịu xuống và chảy dài ra vì bệnh tật buồn phiền. Y xem giấy, nhìn tôi thông cảm nên chỉ nói nhẹ: - Đi vào chừng 50 mét, rẽ trái sẽ thấy khu nội khoa. Tôi cảm ơn, cầm giấy đi vào. Tôi vẫn cảnh giác, khi bắt đầu rẽ trái, mắt tôi lướt nhanh ra cổng, xem có gì khác thường không? Yên tâm, tôi tiến bước, khi nhìn thấy tấm biển ghi: “Khoa Nội’ trước mấy dẫy nhà to, tôi tiên vào chỗ phong đợi, đã có khoảng 40, 50 người chờ. Hỏi thăm mấy người đợi, tôi đưa giấy giới thiệu cho cô y tá trực. Cô đọc giấy xong nhìn tôi hỏi: - Thẻ học sinh anh đâu? Tôi lấy ví rút thẻ trao cho cô. Cô nhìn thẻ rồi chăm chú nhìn tôi. Tôi thấy cái nhìn khác thường, dù vậy tôi vẫn tỏ ra bình thản nhìn cô. Một lúc sau cô mới chậm rãi trả lời: - Bệnh tim thì sang khu B bên kia. Cô chỉ tay. Thế mà làm người ta hết hồn! Không phải thì nói ngay lúc nãy, còn bày đặt hỏi thẻ học sinh! Tôi cầm giấy ra phía dẫy ghế sau ngồi, tính toán cân nhắc. Thứ nhất, chủ trương của tôi hôm nay chưa phải để đưa tài liệu, mục đích chỉ đến xem những đường lối và cách thức sinh hoạt khám bệnh ra sao thôi. Tôi có bệnh thực đâu mà khám! Hơn nữa, tôi chỉ biết Z-5 là bác sĩ nội khoa ở Phủ Doãn, tức Việt Đức ngày nay, chứ chưa rõ chuyên trách về môn gì: ruột, gan, tim, phổi …? Tôi đang ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ, tính toán, chợt tai tôi nghe thoáng: - Bác sĩ Thọ có ở trong phòng không? Thót người, tôi liếc nhanh về phòng trực. Thì ra một nam y sĩ hỏi cô y tá. Tôi chỉ thấy cô gái gật đầu và ngưòi y sĩ mở cửa bên ra hàng hiên. Phản xạ cấp thời, cân nhắc tình thế, tôi lợi dụng một đám đông, chỗ góc gần hàng hiên, tôi lẫn vào và đi theo ông y sĩ ngay. Cả một dẫy dài, bao nhiêu cửa phòng. Đến một cửa phòng, ông y sĩ mở cửa, tôi đi thoáng qua liếc vào, phòng số 8. Tôi như bị điện giật. Dù nhìn rất nhanh qua cánh cửa vừa đóng lại, tôi đã thoáng thấy bộ mặt của một người mặc áo “blouse” trắng, đeo kính trắng, ngồi ở một bàn giấy to, trong một phòng rộng. Tuy đầu đã bạc, nhưng đúng hình dáng với tấm ảnh 4 x 6 mà Cục đã đưa cho tôi xem, giữ một tuần ở Sài Gòn. Thời cơ đến, tôi phải quyết định lẹ. Tôi vẫn cứ đeo túi dết đi về phía cuối hành lang. Thỉnh thoảng, một người mặc “blouse” trắng đi lại, họ chả để ý đến tôi. Tôi tìm một buồng vệ sinh, nhưng nhìn khắp, chả thấy đâu. Tôi đành cứ đi, tôi lựa cho tay vào trong quần rờ và nắn sờ tìm tài liệu “X”, phải hai, ba lần mới thấy, tôi rút ra. Lúc tôi quay lại, từ buồng số 8 ông y sĩ lúc nãy đẩy cửa bước ra. Thời cơ ngàn năm một thủa, tôi phải liều. Tôi đẩy cửa bước vào. Người đeo kính trắng đó ngửng lên nhìn tôi, mắt ngạc nhiên. Tôi thấy trong phòng còn ba bàn giấy nữa, hai bàn có người, một bàn không. Hai người kia cũng ngửng lên nhìn tôi. Tôi nói cố ý cho họ cùng nghe: - Thưa bác sĩ! Mẹ cháu vẫn cứ sốt, vì vậy … Đúng lúc ấy, hai người kia lại cúi xuống sổ sách. Tôi hạ giọng: - “Nhờ bác sĩ chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi.” Trong lúc hồi hộp, tôi chả nhớ là bao nhiêu chữ. Ông nhìn tôi, đôi mắt mở to, bàn tay ông đang cầm bút rung lên. Mặt ông lộ vẻ hết sức xúc động. Tôi lo quá. Ông này làm sao thế! Ông không đọc lại mật khẩu. Nhanh trí, tôi hiểu ngay là ông bị đột ngột quá. Có thể từ bao năm nay ông mong chờ, ông đã sống với cuộc sống bình thản, giờ đây bất chợt quá chăng? Nếu tình trạng đó, để lâu không lợi. Tôi vội cảm ơn bác sĩ rồi đi ra. Khi ra đến cửa, tôi cố ý quay lại đóng cửa, thế nào ông cũng nhìn theo. Đúng như vậy. Lúc đó hai người kia không nhìn thấy tôi, tôi giơ tay vẫy nhẹ, và mắt cũng làm hiệu là ra theo tôi. Tôi đóng cửa và ra ngoài. Tôi đi theo hành lang vào phía trong, vì nếu đi ra ngoài phía phòng đợi, có thể tôi không vào được nữa. Tôi ra ngoài như vậy, vì có hai vấn đề. Thứ nhất, nếu không phải đấy là Z-5, hoặc là Z-5 nhưng bây giờ vì lý do nào đó, ông sợ, ông không muốn lôi thôi nữa, ông sẽ không ra. Thứ hai, nếu ông theo ra, tùy cơ, tôi sẽ đọc lại mật khẩu. Trường hợp ông không trả lời đúng theo quy ước, tôi sẽ lựa theo tình thế biến chế đi, rồi tôi phải chuồn lẹ. Khi tôi đi tới cuối hành lang, cửa phòng số 8 mở ra và ông đi ra. Tôi quay lại, ông đi về phía tôi. Thái độ và nét mặt ông lúc này đã bình tĩnh, tuy mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi. Tôi coi như không nhìn thấy và đi trở lại phía ông. Ngang qua ông, tôi mới tươi nét mặt nhìn và để một tay lên cánh tay ông, nhẹ giọng: - “Nhờ bác sĩ chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi.” Ông mỉm cười: - “Tôi chỉ chữa tim nhịp đập một trăm ba mươi.” Tôi nhẹ người, liếc nhanh hai đầu hành lang, tôi cho tay vào túi quân lấy tài liệu, nhét vội vào tay ông. Ông định cất tiếng hỏi điều gì nữa, nhưng tôi bỏ đi ngay ra phía phòng đợi, không cần nghe gì thêm. Khi gần tới phòng đợi, tôi nhăn nhó mặt, để tay vào phía trái tim trước ngực, và đi qua phòng trực rồi ra cổng. Tên gác cổng mỉm cười với tôi. Tôi cũng cười đáp lại và đi tuốt ra phía bờ hồ. Lòng tôi lúc đó thật hân hoan phơi phới. Nghĩ lại, tôi thấy thực là may mắn. Thành công bất ngờ! Nếu sau khi cô y tá xem giấy tờ, tôi không ngồi đợi, làm sao tôi nghe được ông y sĩ hỏi về ông Thọ? Phải chăng như thế một xác xuất may mắn nào đó đã nâng đỡ những nỗ lực của ta trong cuộc đời? Một cơn gió mát thổi lướt qua hai bên má tôi mềm mại dịu dàng như bàn tay của một bà tiên: “Ta chúc mừng chú mày!” Bờ hồ! Những gợn sóng lăn tăn rất đều khoảng cách của làn nước trong xanh, đang đuổi nhau vào bờ gây lên những tiếng động nho nhỏ triền miên nhịp nhàng, giữa một màu đỏ rực chan hòa của hoa phượng vĩ. Chung quanh hồ hầu như toàn hoa phượng. Những chùm hoa đỏ ối, nằm đè lên những tàn lá xanh xanh, soi bóng rạp sát mặt hồ. Hoa lá nhún nhẩy lắc lư đùa giỡn với gió Hè thổi qua từ phía sông Hồng. Đã 11 giờ, tôi trở về phía Cầu Gỗ, tính tìm một hàng cơm nào đó để ăn một bữa cơm đầu tiên ở Hà Nội. Khi tới gần nhà thủy tạ, tôi thấy một “kios” bán bia, nước ngọt, với ba, bốn bàn kề ngoài trời sát bờ nước, trống trơn vắng vẻ không có khách. Nhìn những chai bia “Hà Nội”, tôi thấy lòng mình nổi hứng bất tử. Tôi sà vào một bàn. Một cô gái trong “kios” mỉm cười, ra phía bàn tôi: - Anh dùng gì? Tôi đáp cộc lốc: - Một bia “Hà Nội!” Cô ta trở vào, vài phút sau mang một chai bia đã mở nút và một cái cốc có hai cục đá con. Tôi cầm chai bia, vừa rót vào ly vừa nói thầm với chính mình: - Hôm nay, gọi là đặc biệt một chút để thưởng công! Chà, bia “Hà Nội” gì mà lạt thế! Tôi nhấp một ngụm nữa. Vị bia chỉ thấy hơi một chút “gas”, nhạt thếch. Tôi có cảm tưởng như một chai “33” ở Sài Gòn đổ nước lã vào thành hai chai mà uống, chắc cũng còn thơm ngon hơn thế này. Vậy mà đến 6 hào cả đá (không đá 5 hào). Thôi, gọi là cũng có một chút hơi men trong người để tâm hồn bốc khói. Uống xong, tôi thả bước về Cầu Gỗ. Khi đến đầu phố Cầu Gỗ và Tạ Hiền, tôi thấy một đám đàn bà con gái ở góc đường. Mấy người đó tươi nét mặt nhìn tôi, hỏi tíu tít: - Anh có gì bán? - Này, này đưa tôi xem nào! Một chị cứ giằng lấy cái túi dết của tôi, định kéo riêng ra một chỗ để coi. Lúc đó tôi cũng hơi lạ. Sài Gòn đâu có cảnh ấy. Hẳn rằng, cảnh nghèo túng đói ăn, thường nhiều người phải moi móc đồ nhà đi bán, nên mới có kiều con buôn vặt, đứng đón đầu phố. Tôi nói “Chẳng có gì” rồi đi luôn ra phía chợ Hàng Bè. Chợ Hàng Bè bây giờ, trông chẳng khác một cái chợ quê ngày xưa: Dăm ba cái sạp gỗ với toàn rau muống, raul lang, rau cần,...Chợ mà chẳng có một hàng thịt, hàng cá tươi nào, chỉ có cá khô. Tôi đi qua chợ, vào phố Hàng Bè, nhìn cheo chéo thấy một quán cơm và 3, 4 chiếc xích lô đỗ trước cửa. Theo ý nghĩ ngây thơ khi còn ở Sài Gòn, của tôi về Cộng Sản: Hà Nội ngày xưa với bao nhiêu kẻ giầu người nghèo. Người giầu thì giầu quá, sung sướng quá. Ngược lại, người nghèo thì nghèo quá, suốt đời cực nhọc lầm than mà không đủ ăn. Chắc khi Cộng Sản về, giới giầu có bị đánh đổ, bị ghét bỏ, tẩy chay, còn những người nghèo khổ như con ăn, con ở, xích lô, thợ thuyền cả đời đem bát mồ hôi đổi lấy miếng cơm mà Cộng Sản gọi là giai cấp cần lao, dân nghèo thành thị hay bần cố nông gì đấy, có lẽ sẽ có rất nhiều quyền lợi, cuộc sống phải thay đổi. Cuộc đời của những người này, như cảnh chị Dậu trong Tắt Đèn của nhà văn Ngô Tất Tố; dưới chế độ Cộng Sản, sẽ xa rồi...Những ngày tăm tối, để đón nhận bình minh của đảng mang về cho giai cấp mình. Mang trong đầu ý nghĩ như vậy, nên thấy một hàng cơm có nhiều bác xích lô, tôi vào ăn, để xem đời sống của các bác ra sao. Nhìn bên ngoài cửa kính của một quầy nhỏ, tôi thấy dăm, sáu đĩa con con bầy 3, 4 miếng đậu rán một đĩa, đĩa có mấy miếng dứa xào, v.v... Tôi bước vào. Hai dẫy bàn kê dọc theo nhà, trên bàn trống trơn. Bốn dẫy ghế dài kê theo bàn; góc này một anh xích lô tay đang cầm đôi đũa ngồi không; chỗ kia một bác vận quần đùi ngồi chồm hổm trên ghế, để lòi cái cục... cũng có đôi đũa trước mặt. Phía dẫy bàn bên kia, ba người cũng là xích lô ngồi ngả nghiêng túm hụm lại, trước mặt cũng có ba đôi đũa để trên bàn, đang bàn tán hỏi nhau: - Thế nào, từ sáng đến giờ bao nhiêu rồi? - Tao mới được 7 hào, chưa đủ tiền thuế, đói thì ăn đã, chiều tính, còn mày? - Tao được mỗi cú xuống Phà Đen 1 đồng 2. Nắng quá, uống mẹ nó hai hào nước! Ăn hai củ khoai hồi 5 giờ sáng, bay hết mẹ rồi. Phải kiếm cái đút bụng đã, tính sau. Anh thứ ba tiếp: Hôm nay vớ bở, tao được 2 cú đồng 8. Tao phải bỏ riêng 1 đồng nộp thuế. Còn 3 hào, chén đã. Từ giờ đến tối, tao phải cố làm sao được 2 đồng rưỡi, để một : - Vợ mới mà, hết ý! Tôi cũng đến ống đũa lấy một đôi, về một góc ngồi. Giữa lúc ấy, một bà đội khăn vấn, từ nhà dưới đi lên ôm một cái thúng, trong có một nồi cơm to, khói bay nghi ngút, chung quanh nồi có chèn bao tải, có lẽ để giữ cho cơm nóng lâu. Cả 5 người đứng giổ dậy, đến chồng đĩa, mỗi người lấy một cái, cùng đưa đến chỗ bàn, bà hàng đang dùng đũa cả đánh cơm ra. Một đứa bé từ trong nhà đưa theo ra một chai nước mắm và một ống đừng thìa nhôm để chỗ cạnh bà hàng. Mỗi đĩa cơm, lưa thưa vài miếng sắn khô (trông ngon hơn ở Hà Tĩnh nhiều) chừng độ 2 bát cơm. Bà hàng cầm chai nước mắm xóc xóc, vẩy đều vào đĩa cơm, lấy một cái thìa cắm vào giữa, đưa cho một người, người đó trả hai hào. Hết 3 người rồi, còn 2 ngưòi nữa. Tuy tay họ vẫn còn cầm đĩa, nhưng chưa lấy cơm, như chờ cái gì. Đang vẩn vơ suy nghĩ, nhìn ra phía cửa có thêm hai bác xích lô nữa đi vào, thì có tiếng cãi nhau, và có tiếng bà hàng cơm quát to: - Những cái anh này! Của đâu mà lắm thế! Đưa tiền đây, còn để cho người ta bàn hàng chứ! Tôi nhìn lại, thấy hai anh xích lô cầm hai đĩa cháy đầy, mắt nhớn nhác, liếc ngang, liếc dọc, thỉnh thoảng bỏ một miếng cháy vào mồm nhai rau ráu. Thì ra, các anh giành nhau mua cháy, nên chờ từ nãy, mua cháy được nhiều hơn. Hai anh đi về phía gần bàn tôi, vừa đi vừa bốc ăn như đói lắm, mắt hau háu nhìn mọi chỗ. Từ nãy, tôi vẫn liếc nhìn chiếc tủ kính có mấy đĩa món ăn. Tôi muốn ăn, nhưng chưa thấy ai kêu, vì họ ăn toàn cơm với nước mắm, nên tôi hơi e dè. Tôi lấy đĩa, đưa cho bà hàng. Sau khi bà hàng đơm cơm xong, tôi hỏi: - Thức ăn kia bán thế nào? Bà hàng nhìn tôi một lúc, như xét nghiệm xem loại người nào mà dám hỏi thức ăn: - Năm hào một đĩa. - Cho tôi một đĩa. Thế là đĩa cơm của tôi bớt được một phần nước mắm. Bà cúi ra mở tủ, tôi chỉ đĩa lòng gà xào dứa. Tôi cầm về bàn. Hai anh ăn cơm cháy mở to mắt nhìn mãi vào đĩa thức ăn của tôi. Chẳng biết vì khi nãy tôi đã uống bia hay vì cơm sắn khô đắng, tôi ăn vẫn thấy khó nuốt. Phần vì đói, phần để cho mọi người chung quanh không thấy khác thường, tôi cố tỏ vẻ ăn liên hồi. Miệng nhai nhưng đầu tôi vẫn băn khoăn, mắt nhìn mọi người ăn một cách ngon lành. Phải rồi! Mình vửa ở một nơi ăn những thứ ngon xong, chứ lâu rồi thì cũng như họ. Ăn được hai phần ba đĩa cơm, tôi buồn nôn vì đĩa lòng gà đã nguội, hơi tanh tanh, lại thấy có mấy cái lông gà con con trong một miếng ruột gà. Tôi lại phải giả vờ ôm bụng. Hai anh ăn cháy, từ nãy vẫn cứ nhìn tôi, rồi nhìn đĩa cơm và đĩa thức ăn. Tôi vừa bỏ thìa và đũa xuống, mắt hai anh đã sáng lên, nhìn tôi cười. Tôi cũng mỉm cười rồi xoa bụng, kêu trống không: - Không biết tại sao đang ăn lại đau bụng? Hai anh xô lại chỗ tôi rất lẹ, một anh một đĩa cơm thừa, anh kia đĩa ruột gà ăn dở. |
|
|
![]()
Post
#21
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười Tám
Linh Mục “A”, Nhà Thờ “X” Tôi bước ra khỏi hàng cơm, tâm tư nặng chĩu những suy tư về những kiếp người trong xã hội “ưu việt”. Tôi liên tưởng tới một hình ảnh cũng một bác xích lô gần xóm tôi ở Sài Gòn. Một buổi chiều, tôi đang ngồi học, nhìn qua cửa sổ, vẳng nghe tiếng cót két của chiếc xích lô không khách. Bác đang thủng thẳng đạp về, bên cạnh xe đeo lủng lẳng miếng thịt heo và con cá lóc. Người vợ và đứa con trong nhà chạy ra hớn hở, chưa kịp hỏi han, đã bị bác xích lô giục: - Làm mấy món nhậu ngay! Con Tư, sang bà Bẩy lấy cho ba chai đế! Cùng một cảnh đời, nhưng hai không gian, hai hình ảnh. Tôi quẹo về Hàng Dầu, rồi theo phố Mã Mây lên Hàng Chiếu. Tôi phải tránh khu phố Hàng Bạc, mặc dù trong lòng tôi cứ da diết muốn tìm về phố cũ, nhưng tôi vẫn còn e dè. Đến Hàng Chiếu, tôi đi ngược lên Hàng Đậu, rồi lên cầu Long Biên. Chủ trương của tôi là nghe ngóng, thăm dò về Phúc Xá Thượng và Hạ xem linh mục A thế nào. Trước khi lên cầu Long Biên để sang Gia Lâm. Tôi lại làm một số động tác nghiệp vụ để xác định an toàn. Sau khi xác định không có chiếc “đuôi” nào, tôi lên cầu. Chiếc cầu lịch sử nổi danh của Việt Nam ngày nay đã ọp ẹp vì gánh quá nặng thời gian, đã nhìn ngắm quá nhiều biến thiên của đất nước. Trước đây, xe cộ chạy hai chiều. Nhưng bây giờ, cứ hết chiều này qua rồi mới tới lượt chiều kia. Vì thế, xe ứ đọng hai bên đầu cầu hàng dẫy dài. Nhìn những chiếc xe đủ kiểu nhưng cũng nặng nề, ì ạch như tuổi đời chiếc cầu xế chiều. Bên dưới, giòng sông Hồng vẫn cuồn cuộn đỏ máu phù sa như kiêu hãnh nói lên với thế nhân, trong lòng mình còn mang nhiều máu giặc Thanh hồi nào. Sang tới Gia Lâm, tôi thấy Gia Lâm ngày xưa náo nhiệt là thế. Sao giờ vắng vẻ đìu hiu thế này, tôi có cảm tưởng như một phố huyện chiều Đông của một tỉnh miền sơn cước. Đến nhà thờ Gia Lâm ở trung tâm thị trấn, nhìn vào trong sân, tôi thấy đầy sân, một bên là ngô, một bên là lúa, có hai người đội nón đang cầm cào đảo lúa. Còn nhà thờ mốc meo, đóng cả 3 cửa im ỉm. Mỗi cửa lại có một miếng ván đóng chéo từ dưới lên trên, có nghĩa là cửa không mở nữa. Tôi bâng khuâng, bàng hoàng cho tình trạng giáo dân miền Bắc. Tôi vào hẳn trong sân, bốc một nắm ngô xem hạt. Một người ngẩng lên nhìn tôi là một bác già, chừng 57 tuổi. Tôi gật đầu chào bác: - Ngô này năm nay, hay năm ngoái hở bác? - Hai năm rồi đấy cậu ạ! Phơi cái này, rồi đổi cái mới vào. Ông già hiền lành cởi mở, tôi thấy dễ mến. Ông nói: - Tôi đảo hết chỗ này, mời cậu vào uống nước. Chừng 5 phút sau, ông ghếch chiếc cào vào hè, mở nón, lấy khăn vừa lau mồ hôi, vừa đi về phía một căn nhà cửa đang mở: - Mời cậu vào chơi! Tôi theo vào. Trong nhà treo nhiều hình ảnh thờ to: Đức Mẹ và các thánh. Thấy nhà cửa như vậy, tôi nhìn bác và hỏi: - Thưa bác, vậy bác theo công giáo? Ông già niềm nở: - Tôi là trùm họ ở đây! Tôi săn đón: - Cháu cũng là công giáo đây! Ông tỏ vẻ càng hân hoan, tôi gạ: - Nhà thở đây có cha không ạ? Ông lắc đầu: - Từ lâu không có cha, bây giờ nhà thờ làm kho của hợp tác xã, và tôi trở thành người coi kho. Tôi cười: - Vậy sướng quá rồi còn gì! Giàu nhà kho, no nhà bếp! Ông cũng cười. Thấy ông là trùm họ, hiền lành vẻ chất phác, nên tôi vồn vã nhiều chuyện, trong đó tôi lựa hỏi về Cha A. Ông cho biết, hiện cha còn ở nhà thờ “X”, chỉ một tuần vào thứ Bẩy buổi sáng, cha về Phúc Xá Thượng và Hạ để làm lễ sớm mà thôi. Thấy đã thỏa được những điều mình cần biết, tôi xin phép ông già đi ngay, ở lâu không có lợi. Lúc đó đã 3 giờ chiều. Trên đường đi về, khi xuống hết dốc Bến Nứa, tôi thấy một em gái chừng 12 tuổi, mặc áo sơ mi trắng, có vẻ sạch sẽ, tôi hỏi: - Em ơi, có biết nhà thờ “X” ở đâu không em? Em chỉ tay và nói: - Anh đi rẽ ra Quan Thánh là nhìn thấy. Hôm đó là thứ Tư, tôi nghĩ nhà thờ hôm nay vắng vẻ, không tiện vào, nhưng cứ đi qua nhìn xem sao. Tôi rảo bước hướng về phố Quan Thánh. Khi đi ngang qua nhà thờ, bên ngoài có trồng hoa, tôi nhìn vào thấy cả 3 cửa phía cuối nhà thờ đều đóng. Bên ngoài có 7, 8 cậu có vẻ là học sinh, mang theo sách vở, mỗi cậu một chỗ đang xem sách. Thấy thế, tôi rẽ vào. Trên lối đi qua chỗ vườn hoa, thấy một ông già, mặc quần áo nâu đang hý hoáy làm cỏ dưới những cây bích đào, cây hồng.v.v...Tôi vào chỗ các cậu, ngồi sà xuống, cầm một quyển sách toán xem và hỏi một cậu: - Các cậu học chăm quá nhỉ? Một cậu cười: - Sắp thi mới học! Thì ra đây là các cậu học sinh lớp 10 (vỏ bọc của tôi) đang tíu tít học thi (lúc này còn chương trình, hệ 10 năm.) Tôi mở cuốn sách Hình và Đại, thấy chương trình toán, năm cuối lớp đệ Tam và đầu đệ Nhị. Như thế, riêng về toán chương trình thấp hơn gần một năm so với trong Nam. Mục đích là xem nhà thờ, nên tôi chào các cậu đi ra. Đến chỗ bác làm vườn, tôi lên tiếng: - Bác làm cỏ đấy ư? Bác ngẩng lên cười, gật đầu. Tôi ngồi xuống nâng một bông hồng lên xem: - Bông này đẹp quá bác ơi! Ông nói: - Mùa Xuân, có mưa Xuân mới đẹp. Tôi hỏi luôn: - Cha A có nhà không bác? Ông lắc đầu: - Cha đi từ sáng, có lẽ sắp về. Tôi liếc nhìn vào ngõ nhà chung sâu hun hút, nói lảng sang chuyện khác. Chỉ 5 phút sau, tôi nghe tiếng mô tô rồ máy đi vào cổng nhà thờ. Một linh mục mặc áo chùng thâm, tóc cắt “tăng gô”, da mặt hồng hào khỏe mạnh, chạy xe chầm chậm vào khu nhà chung. Tôi hỏi bác làm vườn: - Cha A đấy ư? Ông già lại gật đầu. Cha A đi chiếc xe mô tô “bê can” 2 máy. Dáng dấp người rất khỏe mạnh. Trên đường phố Hà Nội rất ít thấy mô tô, ngoại trừ mô tô của công an hay bộ đội. Như vậy, người cũng phải có một cái thế nào đó, mới xoay được xăng để chạy. Tôi hỏi bác làm vườn một hai câu nữa, về hoa cỏ rồi ra về, tính một ngày khác sẽ đến. Trên đường về, tôi rẽ ra phía chợ Đồng Xuân, lúc đó đã 6 giờ chiều. Ở Hàng Giấy, Hàng Đường người đi lại tấp nập, đông đúc. Nhìn thấy nhà sách Nhân Dân bên kia đối diện với chợ Đồng Xuân, tôi ghé sang. Ngay từ khi còn đi học, tôi đã rất ngưỡng mộ các nhà văn, nhà thơ. Tôi quan niệm rằng: “Các ông là những người tiền phong, đi trước tư tưởng quần chúng, suy nghĩ, tìm tòi, phát triển nhiều tư tưởng mới để giáo dục, chỉ đường, hướng dẫn tư tưởng quần chúng đến chỗ thiện, mỹ của con người. Tiêu biểu của thế hệ sát tôi là: nhà văn: Nhóm Tự Lực Van8 Đoàn, Lê Văn Trương, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, v.v... nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Tú Mỡ, Thế Lữ, Tchya, v.v... Văn thơ của các ông tôi đã đọc và rất thích, rất ngưỡng mộ. Một số người ở lại miền Bắc theo Cộng Sản. Vậy, văn thơ của các ông ấy bây giờ ra sao. Từ tâm trạng ấy, tôi vào các hiệu sách, một trong những hiệu sách lớn của Hà Nội, tôi chỉ nhìn thấy một vài tác phẩm mới như “Đời Cô Lựu”, “Bão Biển” của những nhà văn nhà thơ mà tôi đã được đọc thơ văn của họ thời tiền chiến, còn hầu hết trong núi sách: nếu không viết về hợp tác xã, đoàn viên thanh niên, công nông trường, nhà máy... Thì cũng lại là triết của Karl Marx, Lenine, Mao Trạch Đông, Lưu Thế Kỳ... Mở một cuốn sách nào ra, cũng chỉ đọc được một vài trang, rồi tôi không muốn xem nữa. Tôi thấy thật nghèo nàn về tư tưởng, không có hồn, nhạt phếch. Vì là văn nghệ chỉ đạo cho nên bất cứ một câu chuyện gì, nội dung gì cũng gò bó theo một khuôn thước nhất định. Kể cả phim ảnh, nhạc, kịch cũng vậy. Cứ xem hay đọc vài mươi tờ, đã đoán được đoạn cuối, sự việc sẽ giải quyết ra sao rồi, chán ngấy! Đến đây, Cộng Sản sẽ nói: “Tại vỉ đầu óc anh phản động, bị tiêm nhiễm những lọc độc của đế quốc, phong kiến, rồi đứng từ góc độ của một giai cấp thống trị, để nhìn và xét đoán sự việc nên anh mới thấy như vậy!” Xin lỗi các anh! Để khỏi loãng sự việc của tôi, ở phần cuối tập hồi ký, tôi sẽ xin thưa với các anh về lĩnh vực này. Tôi vẫn mua loại cuốn “Bão Biển” và “Đời Cô Lựu”. Một cuốn “Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi” của Võ Nguyên Giáp. Tôi mua những loại sách báo này có nhiều mục đích: Trang bị cho vỏ bọc của tôi, cũng xem qua trong nói những gì. Với chỉ mật, tôi sẽ ghi những dữ kiện cần thiết. Mua sách xong, tôi rẽ về Hàng Quạt ăn cơm. Đêm đó tôi ngủ ở nhà trọ Hàng Quạt. Sáng hôm sau, mồng 3 tháng 6, như vậy là tôi đã đến Hà Nội đã được 2 ngày rưỡi. Tôi đã hoàn thành một phần tư nhiệm vụ. Như thường lệ, tôi ra bến xe điện bờ hồ, mua một khúc bánh mì, tờ báo “Thủ Đô”, đến một ghế xi măng ngồi ăn và nhìn ra hồ. Theo tin hỏi được từ ông già làm vườn nhà thờ X, 5 giờ chiều nay, Cha A có giải tội hàng tuần. Vậy từ giờ cho đến 4 giờ 30 chiều làm gì? Tôi chợt nghĩ đến Nhà Hát Lớn Hà Nội và phố Tràng Tiền, xưa gọi là phố Tây, nơi sang trọng có nhiều người ngoại quốc, nên các cửa hàng ở đó cũng theo lề lối Âu Tây. Nghĩ như vậy, tôi đứng lên, kín đáo quan sát tất cả các bộ mặt chung quanh trong phạm vi 100 mét. Tôi đi về phía phòng thông tin cũ, rẽ vào một ngõ hẹp rồi quẹo xuống vườn hoa “Con Cóc”. Đến đây, tôi tìm một ghế đá ngồi để xác định an ninh bằng một phương pháp chuyên môn. Không có một hiện tượng nào tôi phải chú ý cả. Yên tâm, tôi ngoặt ra bờ hồ, qua nhà bưu điện, đến nhà hàng “Gô Đa”, vào Tràng Tiền. Tôi đang đi, miên mang suy nghĩ, bỗng tôi chú ý đến hai cô gái môi son. Mặt đánh phấn, chí chóe cười đùa, đang đèo nhau trên một chiếc xe đạp. Hai cô lại mặc “duýp” mới chứ! Đó là một hiện tượng không bình thường ở Hà Nội thời ấy. Tôi đưa mắt nhìn toàn cảnh phố phường lúc đó. Đường phố có vẻ nhộn nhịp hơn. Sáu, bảy chiếc xe du lịch cũ kỹ chạy trên đường. Một chốc, tôi lại thấy những chiếc xe đó quành lại, cứ vòng đi vòng về. Đây đó, tôi thấy nhiều cô gái mặc áo dài đi trên phố, cũng như xe đạp dưới đường. Những chiếc áo dài xanh, đỏ vẫn còn hằn nếp gấp, chứng tỏ đã lâu ngày, có khi hằng năm, hôm nay Chủ Nhật mới sử dụng. Những cô gái này cứ quành đi quành về trên đường phố Tràng Tiền. Tôi tự hỏi, họ làm gì thế? Mắt tôi chợt nhìn, xa xa mãi tít tận thềm nhà Hát Lớn, một đám người lố nhố đang điều hành một máy quay phim. À, một cái bịp của Cộng Sản đây! Những đoạn phim này nếu đưa vào Sài Gòn, vùng “giải phóng”, sang Thái Lan, Tân Đảo, hay nơi nào khác...thì đây: Hà Nội, thủ đô của xã hội chủ nghĩa, dân chúng, xe cộ vui tươi, sầm uất nhé! Họ đâu biết rằng cảnh phố phường vui tươi ấy chỉ có một lúc này. Nhưng, nếu ai có nói với họ không phải như vậy, Cộng Sản đóng phim bịp đấy, thì họ cũng không tin. Thấy chỗ nhà hát lớn như thế, tôi không tiện đến đó nữa. Tôi lang thang xuống phố Huế rồi rẽ sang Tràng Thi quẹo về bờ hồ, ngược lên phố Huyện ra Hàng Trống, Hàng Gai. Hà Nội không có một hiệu ảnh tư nào cả. Những hiệu ảnh lớn ngày xưa, trước 1954, bây giờ còn sót hiệu nào, cũng chỉ thấy đề tấm biển nhỏ: “Ở đây nhận rửa phim và tô màu” (Vậy, nếu ai không biết, vào hiệu bảo “chụp cho tôi cái ảnh”, đúng người đó mới ở trên trời rơi xuống.) Những hiệu ảnh khác bây giờ, hoặc đóng cửa, hoặc chuyển thành một nơi sản xuất hàng thủ công. Toàn bộ mấy khu trung tâm của Hà Nội, tôi chỉ thấy hai chỗ chụp ảnh quốc doanh của nhà nước. Một hiệu ở Tràng Tiền và một ở góc, chéo bờ hồ gần quán mụ Béo ngày xưa. Giữa thủ đô của một nước, nhìn những hiệu may lớn ngày xưa. Một vài cửa hiệu vẫn còn tấm biển quảng cáo tuy đã long lở sơn. Nào “Cai cúp tốt nghiệp ở Paris,” nào “Chuyên viên may mặc, có nhiều năm kinh nghiệm ở Marseilles,” v.v... Bây giờ, thường thường ở cửa kính trước hiệu, đeo hay hán một cái biển nhỏ dài chừng 50 phân, rộng 15 phân. Bằng gỗ hay bằng một tấm bia: “Ở ĐÂY, NHẬN VÁ VÀ LỘN CỔ ÁO.” Nghĩa là, không còn cái cảnh có vải sẵn để may cắt quần áo. Tôi đi nhiều, khắp đây đó trên đường phố Hà Nội, hiệu lớn cũng như hiệu nhỏ, thường thấy cái biển đề như vậy đập vào mắt tôi. Nếu có máy ảnh, tôi sẽ chụp khung cảnh hiệu và tấm bảng này. Chỉ điều này thôi, đã nói lên nhiều sự việc về kinh tế cũng như cuộc sống, của người dân thành phố Hà Nội, dưới chế độ Cộng Sản. Thỉnh thoảng nhìn thấy những ngưòi mồ hôi nhễ nhại, kéo những chiếc xe ba bánh trên đường phố, tôi cứ bần thần suy nghĩ. Trước đây, khi còn ở Sài Gòn, tôi thường ngây thơ lý luận: Xã hội loài người luôn luôn tiến lên, 10 năm sau sẽ khác hẳn 10 năm trước. Điều này là tất yếu ở mọi nơi, mọi nước. Vậy, thời con người thay con vật kéo xe, kéo cầy đã phải qua rồi, trừ những hoàn cảnh, những lúc đặc biệt nào đó. Còn nói chung, sinh hoạt bình thường ngoài đường phố, thì trên thế giới này hiện nay. Dù ở một nước ban khai lạc hậu nào đó, cũng không còn cái cảnh người làm thay con vật. Cảnh người kéo xe ba gác ở Hà Nội bây giờ, là một trong những thực tế đã mở mắt cho tôi, để tư duy, kiến thức của tôi được mở rộng dần. 4 giờ 30 chiều. Tôi phải xúc tiến việc đến với linh mục A. Theo kế hoạch thời gian, tôi phải nằm lỳ ở đấy ít ra 10 ngày để tuyển mộ và huấn luyện cho kịp với ngày 16 hay 18 trao tài liệu “M” theo như quy ước. Tôi tản bộ lên phía nhà thờ X. Khi gần tới nơi, tôi nhìn thấy một cửa phụ phía dưới nhà thờ mở một cánh, và loáng thoáng một vài ông bà già đi vào. Tôi cũng đi vào nhà thờ. Khoảng 15, 16 người, quỳ rải rác ở các hàng ghế trong nhà thờ rộng thênh thang. Hầu hết là các ông bà đã có tuổi. Tôi tiến đến quỳ cạnh một ông già đầu tóc bạc phơ, gần dẫy ghế phía cuối. Một lúc, tôi ghé gần ông già, hỏi: - Thưa cụ, hôm nay cha có giải tội không? Ông già phều phào nói nhỏ: - Có, tí nữa cha ra. Chừng 10 phút sau, cha từ phía sau ra trước bàn thờ, quỳ xuống cúi đầu đọc kinh. Một lúc, người đi xuống. Trong khi đó, ở dưới này một số bà và một ông đứng dậy, ra phía tòa giải tội đứng xếp hàng. Tôi cũng theo đến tòa giải tội đứng vào hàng. Khi đến lượt, tôi tiến lại tòa giải tội, quỳ xuống. Sau khi làm vài thủ tục bắt đầu của buổi xưng tội, để tranh thủ thời gian, tôi nói luôn: - Thưa cha, con vừa ở Sài Gòn ra, con có mang theo một lá tâm thư của cha Hoàng Quỳnh gửi cho cha. Vậy, con có thể đưa cha bằng cách nào cho thuận tiện? Im lặng một lúc, cha nói: - Tí nữa khi giải tội xong, tôi quỳ ở phía dưới nhà thờ. Anh cứ đưa tự nhiên. Tôi băn khoăn: - Thưa cha, như vậy có điều không tiện chăng? Cha nói: - Không sao cả! Ở đây, giáo hữu vẫn thỉnh thoảng đưa thư xin lễ cho tôi. Qua cách đối ứng, và cách nói chuyện của cha, tôi thấy cha là một người rất bình tĩnh, điềm đạm. Vì cha ở trong phòng giải tội, tôi không thể nhìn được nét mặt của người như thế nào, khi bất chợt cha gặp một người ở Sài Gòn ra. Tôi nói tiếp: - Thưa cha, con sẽ gặp cha để thưa chuyện với cha nhiều. Nhưng, con muốn trước đó, cha hãy đọc lá thư của cha Hoàng Quỳnh đã. Vậy, thường ngày cha có làm lễ sớm không? - Sáng mai, tôi làm lễ sớm từ 5 giờ, xong lễ, anh lên gặp. - Con sợ, tí nữa ra ngoài đưa thư không nói được gì. Vậy thưa cha, gặp cha ở đây thuận tiện, hay ở Phúc Xá Thượng hay Hạ, tiện? - Cứ ở đây, tiện hơn. Tôi vờ cuối đầu đọc kinh ăn năn tội như mọi người, rồi ra. Tôi quỳ ở hàng ghế cuối, chờ. Sau hai người nữa, hết người xưng tội. Cha ra, quỳ ở trên tôi khoảng 6, 7 hàng ghế. Chờ cha làm dấu xong vửa đứng dậy tôi cầm thư tiến đến. Gần chung quanh không có ai, tôi nói khẽ: - Sáng mai, con sẽ đến cha! Rồi, tôi xuống cuối nhà thờ và ra ngoài. Tôi ra lối cổng nhà thờ, sát ngay hè phố. Gọi là cổng, nhưng không có cánh cửa, đó là một lối xe ra vào rộng, giữa hai bờ tường xây dọc theo hè phố. Mắt tôi thoáng thấy phía bên phải, một vật gì loáng thụt vào một bờ tường, cách tôi khoảng 10 mét. Phản xạ tự nhiên của nghề nghiệp, lẽ ra tôi quặt theo phía trái theo hè phố để về Hàng Than, nhưng để xác định cái bóng lúc nãy, tôi bước thẳng xuống đường, để sang hè phía bên kia. Lợi dụng một chiếc xe từ phía trái đi lại, quay lại, tôi vờ chú ý nhìn chiếc xe, khi xe đi ngang qua mặt, tôi nhìn theo. Rất nhanh, tôi đã thấy một tên đội mũ cá két xám, đeo kính râm, chừng 30 tuổi. Y đang vờ nhìn về phía phải y, để tôi không thấy mặt. Căng thẳng bắt đầu! Tôi hoàn toàn vờ như không hề biết, cứ thong thả tiến về phía Hàng Than. Tuy vẫn thủng thẳng bước, nhưng lòng tôi đầy phán đoán, cân nhắc. Để xác định rõ, tôi đi về phía chợ Đồng Xuân. Hôm nay, khu mặt tiền chợ có vẻ đông hơn hôm trước, có lẽ vì trời còn sớm. Tôi lại vào hiệu sách, vờ lựa chọn, tìm một cuốn. Khi tôi cố ý với một quyển sách trên kệ cao, tôi đã thoáng thấy tên đó đứng bên kia cửa chợ. Lợi dụng việc chọn sách và mua một cuốn về nông nghiệp, cũng như khi ra quầy trả tiền, tôi đã quan sát hết mọi bộ mặt, quần áo, dáng dấp những người chung quanh mà tôi có thể nhìn thấy. Xong, tôi theo Hàng Giấy xuống Hàng Đường rẽ vào Hàng Bồ, qua Mã Mây, vào quán cơm Hàng Bè lần trước. Cơm nước lúc này, làm sao ăn ngon cho được nữa! Bao nhiêu thính giác, thị giác và trí óc của tôi đang quay cuồng với tên mang kính râm. Nhìn chéo sang góc chợ, tôi thấy tên kính râm đang lảng vảng tiến vào hàng cơm, tôi lại thấy một tên đi xe đạp, mặc áo công nhân xanh, chừng 25 tuổi, tôi đã thấy y ở Đồng Xuân. Hai tên. Tôi cố gắng nhồi cơm vào, chứ tôi còn biết mùi vị gì. Ăn xong, tôi về nhà trọ Hàng Quạt để đi ngủ. Giường tôi nằm giữa hai chiếc giường, mà hai người nằm đó tôi đã biết mặt từ hôm trước. Nói chung, khu tầng dưới tôi nằm, có 9 giường. Hôm trước, chỉ có 3 giường trống là số 1, 2, và 5. Tôi nằm giường 4. Khi tôi vào đi tắm, lúc đó là 8 giờ tối, tôi chuẩn bị lại hết những gì cần thiết. Trong mình tôi chỉ còn 3 tài liệu: 2 của linh mục B và C, 1 tài liệu “M”. Tắm xong ra, tôi thấy giường số 5 có một anh cũng đeo ba lô bộ đội mới vào thuê. Tôi về giường, mỉm cười gật đầu chào, anh cũng gật đầu mỉm cười với tôi. Anh ta chừng 26, 27 tuổi, người trắng trẻo. Trong khi tôi loay hoay sắp xếp giường và túi dết. Anh cũng lục đục tìm thế nằm. Một lúc tôi lên tiếng: - Không hiểu sao, nhà thương ở đây xin nằm điều trị khó thế anh nhỉ? Anh nói: - Tùy theo bệnh. Tôi cũng ở Bắc Ninh về chữa bệnh đây. Tôi hỏi ngay: - Anh bị bệnh gì? Anh thủng thẳng: - Đau dạ dầy. Trong óc tôi đặt ngay một nghi vấn. Được, tao sẽ có nhiều cách để biết về mày. Chữa bệnh hay theo tao? Rồi tao sẽ biết! Đêm hôm đó, phải thú thực, tôi không tài nào ngủ nổi, mệt lắm thì chỉ nhắm mắt. Đầu óc căng thẳng. Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu suy nghĩ, tính toán. - Địch, nghĩa là phản gián Hà Nội đã phát hiện ra tôi? Hay đây chỉ là công an ngầm hình sự theo dõi lưu manh, buôn lậu? - Vì khâu nào bị lộ? Chúng bắt đầu phát hiện ra mình từ lúc nào? Vì sao? Tôi nhớ lại, lúc sáng khoảng 8 giờ rưỡi, 9 giờ, ở bờ hồ bến xe điện, tôi đã xác định là không có “đuôi”. Vậy, có thể địch phát hiện ra tôi từ nhà thờ X. Nếu từ nhà thờ X, có hai lý do khả nghi: Thứ nhất, có thể từ ông già làm vườn. Ông là người đã bị công an tình báo Hà Nội mua hoặc đặt vào để theo dõi, giám sát mọi hinh vi của Cha A. Thứ hai. Cha A ở giữa lòng Hà Nội, lại là một linh mục có khả năng, cương cường, nhiều lần chúng mua chuộc không được. Như vậy, chính chúng thường xuyên đặt người nhòm ngó cha rồi. Vì chính quyền miền Nam đang tăng cường tung gián điệp, biệt kích ra miền Bắc, cụ thể như anh Hảo Hải Quân đã tâm sự với tôi. Hơn nữa, từ Hà Tĩnh tới Hà Nội, đâu đâu tôi cũng thấy khẩu hiệu: “Phòng gian, phòng gián, bảo mật.” Dân chúng đã được giáo dục học tập, thấy một hiện tượng lạ, một người lạ phải đến báo cáo cho công an. Như vậy, tất nhiên, Cục phản gián Cộng Sản đã bí mật rải người canh gác cả 5, 6 nhà thờ ở Hà Nội có linh mục ở. Chúng thừa đoán được là, nếu gián diệp mò về hoạt động, nhà thờ chính là những nơi gián điệp cần bắt mối, liên lạc. Có thể, tại tất cả địa phương, nhà thờ, xứ đạo có linh mục, chúng đều có lệnh cho từng địa phương tùy nghi để bố trí theo dõi, giám sát những hành vi của các linh mục, và những người lạ đến giao thiệp, gặp gỡ. Riêng Hà Nội là trung tâm đầu não của đảng, cũng như của chính quyền, vấn đề này càng được đặt ra đúng tầm quan trọng của nó. Tôi mới đến nhà thờ X lần thứ II. Lần đầu, có thể tôi đã đến trong một lúc sao nhãng nào đó của nhân viên phản gián. Hoặc, nhờ có một số học sinh đang học thi, tôi đồng dạng, nên qua mắt được chúng, chúng vô tình không để ý. Lần này, đến nhà thờ, chỉ có một số ông bà già, còn thanh niên trẻ tuổi không ở công trường, xí nghiệp, nhà máy, thì cũng đội nọ, đoàn kia, họp hành làm gì có thì giờ mà đi nhà thờ. Ngay ngày Chủ Nhật cũng chỉ họa hằn. Bao nhiêu vấn đề làm tôi căng óc suốt đêm. Nhiều vấn đề chưa giải đáp được sáng tỏ, phải đợi những ngày tới. Tôi thấy trước mắt, muốn chống đối, đấu tranh với kẻ thủ lúc này, phải cần có đầu óc minh mẫn, sáng suốt. Như vậy, cần phải khỏe, không ngủ được, không thể khỏe. Do đấy, tôi gạt hết, quyết tâm ngủ ít ra một tiếng, để ngày hôm sau ứng phó với kẻ thù. |
|
|
![]()
Post
#22
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Mười Chín
“Đuôi!!!”... Bẩy giờ sáng hôm sau, tôi mới dậy. Tên đau dạ dầy cũng dậy lúc đó. Tôi nhăn nhó: - Đêm qua, tôi tưởng gần chết! Tim tôi nhiều lúc nghẹt lại tưởng mê man, xỉu đi. Khi ở nhà, đôi khi tôi cũng bị như vậy. Hôm nay, tôi phải vào nhà thương xem sao. Tuổi trẻ mà nhiều khi không muốn sống nữa! Y nói: - Hãy cố gắng đi, có khi vào Việt Đức sẽ chữa khỏi. Khoa học ngày nay, chữa được nhiều bệnh lắm. Tôi hỏi: - Anh đi nhà thương nào? Y trả lời: - Hôm nay tôi chưa đi, còn bận đến nhà người anh họ. Lúc vào rửa mặt, tôi xem trong túi dết: Không còn đồ gì đáng ngại. Trước khi buộc túi, tôi cố ý để đuôi bàn chải ló hơn đuôi hộp thuốc đánh răng đúng nửa phân và quấn vào cái quần lót; giữa cuốn “Đời Cô Lựu” và cuốn của Võ Nguyên Giáp, tôi kẹp một miếng giấy bé bằng đốt ngón tay út giữa hai cái bìa, rồi xếp lại. Khi buộc túi dết, tôi thắt nút quai chèo, dây dài thò dài hơn đúng 3 lần giây ngắn. Xong, tôi đem ra bàn trực gửi, rồi đi. Như thường lệ, tôi cũng ra bến xe điện mua một cái bánh mì nhỏ như mọi khi, sau khi quan sát hết một chu vi có thể được do mắt tôi. Tôi hơi nghi bộ mặt và thái độ của mấy người, hai anh chàng hôm trước không thấy. Ăn xong, tôi đi về phía nhà thương Việt Đức. Tôi quyết định không trở lại linh mục A nữa, trừ trường hợp tôi cắt được đuôi, hoặc có thời cơ thuận tiện. Tôi quẹo xuống Trường Thi, đi qua một đường hẻm và một phố nhỏ, đến một cái ghế đá ở Trường Thi, tôi ngồi nghỉ. Thỉnh thoảng tôi lại để tay lên ngực nhăn nhó. Rất lẹ, tôi đã thấy hai chú, mà tôi đã nghi ngay trên bờ hồ. Á chà! Lại có một cô gái chừng 18 tuổi. Mặt non choẹt, có hai mớ tóc đuôi sam, đang ngồi ở một hàng nước vỉa hè cách xa chỗ tôi đến 250 mét. Dáng dấp ấy, tôi đã thấy đứng ở bến xe điện. Được, xem chúng mày bao nhiêu đứa! Cô gái cứ cúi xuống, hai tay lúc lắc đan len. Như thế, hiện nay là 3 đứa. Tôi vào một cửa hàng quốc doanh, mua một chiếc khăn mặt 5 hào, rồi đi trở về nhà thương Việt Đức. Khi gần tới nhà thương, tôi coi như lần đầu tiên đến đây. Tôi phải hỏi thăm một người đi đường, họ chỉ cho. Tôi lớ ngớ như bộ điệu của một anh chàng ở tỉnh, chưa hề tới lần nào, từ cách đưa giấy tờ, cho tới khi vào trong. Dù không cần quan sát, tôi cũng hiểu mọi cử chỉ hành động của tôi; ít nhất có 6 con mắt không bỏ sót. Tôi cố ý tránh, không bén mảng tới mấy dẫy nhà của Z-5. Tôi hỏi thăm những người y tá để đến thẳng khu phòng khám, chữa về tim. Điều phiền toái là tôi lại không có bệnh. Vì thế, tôi chỉ đến phòng đợi, hỏi han vớ vẩn về tim, có nằm điều trị được không v.v... Khi họ hỏi tôi có giấy giới thiệu không? Tôi lại lắc đầu. Loanh quanh một lúc, thế mà cô ả đan len cũng mò vô, và một anh chàng nữa. Khi ra cổng bệnh viện, ngay khi vừa tới mép cổng, tôi đã thấy anh chàng mặc áo nâu cùng xuống Tràng Tiền với tôi, đứng mãi bên trong giậu găng của một ngôi nhà xa tôi đến 300 mét, thò mỗi cái mặt ra. Ngay chéo bên kia phố, một anh xích lô đầu đội mũ công nhân, mà tôi đã để ý từ dưới Trường Thi, đang lúi húi nắn cái lốp (vỏ) xe. Tôi biết rồi, đừng vờ nữa! Như thế là những 4 người. Điều này đã nói lên tình hình rất căng. Không thể còn lỏng lẻo mơ hồ nữa. Tôi về bờ hồ, sang phía đền Ngọc Sơn. Chỗ có nhiều cây to, có các quán nước ngoài trời, vào một bàn, mua một chai nước ngọt, ngồi nhìn ra hồ. Tôi ngồi nơi vắng lặng như vậy, cho tinh thần được thoải mái để cân nhắc, tính toán. Lúc này, tôi không cần để ý tới người theo dõi cho mệt. Cái cần thiết, tôi đã biết rồi. Mức độ căng thẳng tôi cũng đã nhìn thấy. Vậy, chỉ còn đào sâu tính toán cho kỹ. Rồi theo đó giải quyết. Vẫn làn gió hồ hiu hiu thổi nhẹ, vẫn những bông phượng vĩ đỏ ối quanh hồ, nhưng hôm nay tôi không cần biết, trước mắt mà coi như không thấy. Tôi chưa kết luận, nhưng những hiện tượng vừa qua trong hai ngày cho thấy, phải tới 90% là phản gián Hà Nội đã phát hiện ra tôi. Nếu chúng là phản gián, chúng đã xác minh được tôi rồi. Tôi không phải là người sống ở miền Bắc, tuy có giấy thông hành đầy đủ tên tuổi, quê quán do công an huyện ký. Chúng chỉ cần nhắc điện thoại là biết rõ rồi. Tôi làm gì có tên trong sổ cái. Nếu chúng là phản gián, tôi phải tin chắc nguyên tắc này, chúng sẽ chưa bắt tôi. Chúng cần bí mật theo dõi, để xem tôi đi những đâu, làm gì, giao thiệp với những ai...? Trừ phi tôi định chuồn. Vậy tôi yên tâm, chưa sợ chúng bắt. Tôi cần tỉnh táo, bình tĩnh để đối ứng. Từ nguyên tắc trên, đôi khi chúng lại tạo điều kiện cho tôi đi lại, hoặc ra vào một cách dễ dàng hơn, ở một cơ quan nào đó mà tôi muốn. Có như vậy, chúng mới biết được tôi định làm gì và giao thiệp với ai? Mặt khác, chúng sẽ bố trí nhân viên phản gián sao cho: - Không bỏ sót một việc gì mà không biết, dù nhỏ nhặt của con mồi. Nếu có quay phim thì càng tốt. - Tuyệt đối khéo léo, không để cho con mồi biết là đã bị phát hiện. - Cố tránh đừng để con mồi thấy mặt nhiều lần, nó sẽ nghi ngờ. - Bám riết, không được để mất con mồi. Phải tinh ý, đoán trước được ý đồ của con mồi định làm. Những điều trên, có lúc tưởng như mâu thuẫn với nhau, vì thế, để khắc phục giải quyết, chỉ còn một cách duy nhất là tăng cường đầy người theo dõi, vòng trong, vòng ngoài, v.v... Mục đích của chúng là phải biết rõ về tôi, và tìm hết mọi mắc lưới của tôi. Biết khả năng của địch ưu, cũng như nhược, để tùy cơ ứng biến theo điều kiện của tôi. Về phía tôi, tôi nhận thấy, điều đầu tiên và quan trọng nhất là: Bằng mọi giá, mọi cách dứt khoát không để cho chúng biết là tôi đã biết chúng. Dù sau này, sự việc diễn tiến như thế nào, điều đó chỉ có lợi cho tôi mà thôi. Tôi sẽ phải tạo điều kiện cho đối phương mất cảnh giác rồi bất ngờ cắt “đuôi”. Nếu có thời cơ tôi sẽ trở lại linh mục A. Nắm vững là chúng chưa bắt mình, vậy thôi phải triệt để lợi dụng yếu tố này. Kéo dài thời gian, tung hỏa mù, để trao tài liệu “M”. Tương kế tựu kế, tôi sẽ dẫn đối phương về một chiều hướng khác. Tôi phân tích, cân nhắc, đặt ra những phương hướng trên. Trước mắt, tôi cứ như thế, rồi tùy theo diễn tiến của thực tế, sẽ bổ sung hoặc thay đổi. Một điều tôi buốt ruột đau lòng lúc này, là hộp thuốc hóa trang đã để lại miền Nam. Tôi đã học và thực tập hóa trang nửa tháng trời. Lỗi này không do tôi, mà do các ông dậy tôi. Các ông đã chuyển hết đồ của tôi đi trước. Tôi tin nơi các ông, nên tôi đã không kiểm soát lại. Âu đây cũng nói lên một khía cạnh, về tinh thần tắc trách của cán bộ miền Nam. Tôi sẽ trình bầy thêm sau này. Tôi ý thức được sự nghiêm trọng trong lúc này. Đi hoạt động trong vùng đầu não của địch; đã bị lộ, chẳng khác gì con cá nằm trên thớt. Dù vậy, với bản tính coi thường nguy hiểm của mình, nên tương đối tôi vẫn bình tĩnh. Đây là lúc thử nghiệp vụ giữa miền Nam và miền Bắc. Ở miền Nam tôi chỉ là loại tép riu thôi, nhưng ra đây, tôi cũng dám đùa dỡn với các ngài! Khi đã có chủ định tôi cảm thấy an tâm, bình thản hơn. Ngay sau đó, tôi trở về bến xe điện. Đi Hà Đông chơi, vừa để nhìn rõ được mức độ theo dõi, tôi vừa xem cảnh xây dựng đổi mới của xã hội chủ nghĩa, sau hơn 8 năm thống trị. Chủ trương đã như vậy trong lòng, nên cách đi đứng cũng như cách lên xe điện. Tôi tỏ ra là một người rất chậm chạp, đôi khi còn nhút nhát nữa, như: Ở bến xe điện, tôi ngồi ở ghế xi măng, vờ cứ cắm cúi xem báo, chờ cho xe điện bắt đầu chuyển bánh. Tôi mới giật mình đứng dậy chạy theo, chới với, lúng túng, rồi đành nhìn theo xe điện chạy, tiếc ngẩn ngơ, nhỡ tầu v.v... Mục đích là để cho những người theo dõi tôi, mang một ấn tượng, thằng này dáng bộ thuộc chậm chạp, nhát nữa. Nếu họ biết rằng, với tốc độ xe điện ở Hà Nội, hoặc xe buýt ở Sài Gòn, bất cứ lúc nào tôi cũng có thể nhẩy lên hay nhẩy xuống được. Lúc đó đã một giờ chiều, ngày 4 tháng 6. Chẳng hiểu cô gái ấy ăn cơm ở đâu, bây giờ cũng thấy đứng ở cuối toa xe điện theo tôi vào Hà Đông. Hai người lên xe điện, còn các người kia tôi không thấy. Khi tầu điện ra khỏi thành phố, tôi muốn quan sát lại phía sau, xem có xe nào đuổi theo không. Biết rằng có bốn con mắt đang để ý tôi ở trên tầu. Mắt tôi cứ vờ như đang chú ý đến một người đang gánh rạ dưới đường. Xe điện chạy qua, và tôi phải ngoái lại nhìn theo người gánh rạ. Tôi đã nhìn thấy hai anh chàng ngồi trên một cái Mô bi, đang cúi gò người chạy theo tầu, thật vất vả. Một chiếc Commanca nữa ở phía sau. Tôi chỉ thoáng nhìn thấy kiểu xe và hình dáng người trên xe. Chốc nữa vào Hả Đông là tôi sẽ biết ngay. Chà, khu Cao Xà Lá! Đọc ở trên báo, nghe ở trên đài, tôi tưởng khu này do Trung Quốc giúp xây dựng lớn lắm kia. Thế mà cũng gọi là khu Liên Hợp Trung Quy Mô! (Cao Su, Xà Phòng, Thuốc Lá). Biết họ nói bốc, tôi đã trừ hao đi rồi, thế mà vẫn còn thấy ngạc nhiên. Nhìn toàn khu, chỉ như một cái hãng tư trung bình của miền Nam. Tôi đã nhìn thấy số của chiếc xe Commanca: HN5037. Trên xe có 3 bộ mặt. Tuy tôi chưa chắc, nhưng hiện tượng thì nghi. Nó đã chạy vượt trước xe điện. Vào tới Hả Đông, hành khách xuống, tôi cũng xuống theo. Tôi đi lang thang mấy phố. Nói mãi cái nghèo của Cộng Sản thành nhàm. Tôi chỉ thấy Hà Đông như nhà quê, cái thành phố mà ngày xưa, đầu 1954, tôi và người em họ Phan Gia Ân thường đèo nhau vespa đi vào chùa Trầm, vào trại vải chơi đùa trong thời hoa mộng. Tôi có cảm tưởng lúc đó Hà Đông là một cô gái 18, đôi mươi của hương sắc. Còn bây giờ là một bà lão 60-70 tuổi móm mém. Cuộc đời thăng trầm đã làm cho cô thất cơ lỡ vận, bần hàn, cực nhọc. Quanh quẩn, đến một đầu phố, tôi đã thấy từ xa trong một góc đường, chú HN5037 đang đậu im phăng phắc. Chốc nữa tao về Hà Nội, mày mà mò theo là tao nhớ mày! Tôi trở ra bến xe, về Hà Nội. Xe điện đi được nửa đường, lúc ngừng ở một bến phu, chú HN5037 chạy vượt qua. Tôi nhận được mặt thêm 3 người nữa, đồng thời lúc này tôi cũng khẳng định chúng 100% là phản gián Hà Nội. Tuy vậy, mức độ chúng đánh giá về tôi, tôi chưa xác định được. Với sự hiểu biết của tôi, điệp viên có nhiều loại, nhiều trình độ: Hồ Chí Minh, Fidel Castro, Lý Thừa Văn, v.v... Chẳng đã có thời gian hoạt động tình báo đấy ư? Ở bờ bên kia Bến Hải, khoán 300 đồng sang khu phi quân sự Bắc, mua hay lấy một tờ báo Nhân Dân. Như vậy, cũng là hành động của một điệp viên (điều này, chính ông Hương đã kể). Từ ý nghĩ trên, tôi chẳng cần giữ vỏ bọc là học sinh ở Vĩnh Linh nữa. Học sinh gì mà chúng phải vận dụng đến 7 người một ngày, cả xe Commanca đi theo như thế? Biết người, biết mình một tí. Chúng đã biết tỏng tôi rồi; chúng chỉ không biết tôi ra đây để làm gì thôi. Vì thế, chúng sẽ còn phải mất nhiều tâm sức với tôi. Xe điện về tới bờ hồ thì đã chiều, tôi đi ăn cơm rồi về nhà trọ. Đưa thẻ lấy túi dết. Chưa cần mở ra, tôi đã biết có người mở túi dết của tôi ra rồi. Không sao cả, ngay khi tôi ở hàng cơm ra, tôi đã thấy trên một cửa sổ nhà đối diện, một người chụp ảnh tôi. Cũng không sao cả! Dù tôi muốn hay không, bây giờ cái thế đã như vậy rồi, sợ cũng chả được nữa. Không sợ mấy, tôi còn được cái khoái ngắm cảnh khi cưỡi trên lưng cọp. Đêm ấy, tôi vẫn ngủ quán trọ Hàng Quạt. Tên đau dạ dầy cũng vẫn ở đó. Tôi đã biết nó khi đi ăn cơm. Lúc ở bờ hồ rẽ về, từ xa tôi đã thấy nó đứng nói chuyện với một trong số, người theo dõi tôi từ hôm qua đến bây giờ. Nó chủ quan, nghĩ rằng tôi không thể biết tên kia. Ngoài đường phố người đông như hội, gặp người quen là chuyện thường. Nhưng vì tôi đã biết tên kia, nên biết về nó. Do vậy, tôi đi tắm, xong về giường nằm. Nó không hỏi, tôi cũng chả cần nói, dù có mỉm cười gật đầu chào nhau. Đêm qua tôi mất ngủ. Đêm nay, tâm hồn đã xác định rõ, vì thế, tôi cần ngủ cho lại sức đã. Thời gian chờ còn hơn 10 ngày nữa mới tới 16-18: Ngày quy định trao tài liệu “M”. Trong thời gian này, tôi phải tung hỏa mù bằng cách: - Sẽ dẫn chúng đi lung tung để lợi dụng nhìn được nhiều cảnh vật của Hà Nội, biết thêm nhiều điều hữu ích khi trở về Sài Gòn. Trong khi đó, nếu có thời cơ, tôi cắt “đuôi” ngay. - Ngoài ra, tôi còn phải tỏ ra là một ngưòi có tính tiểu tư sản lãng mạn, lưu luyến cảnh cũ (mặc dù có nhận nhiệm vụ về miền Bắc theo dõi sư đoàn 308, nhưng trong lòng không thích hoạt động. Cụ thể, là không hề chú ý tới những nơi đóng quân, cũng như những bộ đội, xe cộ quân sự gặp trên đường đi qua). Lâu ngày, nhớ Hà Nội, về thăm, chứ không thích hoạt động, thế thôi. - Trong quá trình đi linh tinh như vậy, tôi phải để ý tỉm một địa thế thuận lợi để cắt “đuôi”. Tuy trong lòng tính như thế, nhưng nằm xuống, tôi cũng không làm sao ngủ nổi. Cứ vẫn vơ nghĩ suy, hết sự việc này, lại sự việc khác tiếp nối kéo đến. Ngay khi còn ở Sài Gòn, trước những ngày đi, tôi vẫn tâm niệm là: Ra đi, đẹp nhất là hoàn thành nhiệm vụ trở về. Thứ nhì là ...chết! Khi không may mà chết, chả có gì để nói nữa, vì chết rồi còn biết gì nữa đâu. Hòa cả làng! Trường hợp thứ ba là trường hợp xấu nhất, tức là bị bắt. Phải chịu dải đắng cay, khổ đau rồi cũng chết. Tuy thế, qua bao nhiêu sách báo, truyện tôi đã từng đọc. Trong nhà tù, có biết bao nhiêu những nhân vật quái kiệt, tài ba, những con người xông xáo, muốn làm những việc khác thường, nhưng không gặp thế, gặp thời. Vậy là dịp tôi được gần gũi những bộ óc uyên bác, sẽ học hỏi được nhiều; từ đấy, tư duy và kiến thức của tôi được mở rộng. Giòng suy nghĩ cứ chảy dài vào đêm thâu đổ dần vào giấc ngủ muộn. Sáng hôm sau, Hà Nội mưa dầm dề. Những trận mưa mùa Hè như đổ nước xuống. Tôi ngồi dậy, nghe tiếng mưa rơi và gió thổi bên ngoài, tôi liên tưởng đến một ý thơ của một thi nhân người Pháp, Verlain thì phải, đúng với tâm trạng của tôi lúc này: Mưa gió ngoài phố phường, như mưa gió trong lòng tôi. (Il pleut sur la ville, comme il pleut dans mon ceour). Mắt tôi chợt thoáng bắt gặp một bộ mặt quen thuộc, ngồi nghiêng nghiêng trên giưòng số 9. Gớm thật, những hai tên cùng ngủ với tôi. Tôi đi đánh răng, vừa rửa mặt vừa nghĩ ngợi: Mưa gió thế này đi đâu? Tôi chợt nghĩ, chúng nó bám mình riết quá! Trên nguyên tắc, chúng nó sẽ chưa bắt tôi. Nhưng điều gì có thể chắc chắn là chúng chưa bắt? Nhỡ ra vì một lý do bất thường nào đó, chúng lại vồ thì sao? Vậy, tôi phải phòng hờ cả những trường hợp ngoại lệ. Hai lá thư của các linh mục B và C, tôi xét thấy không thể thực hiện được. Hơn nữa, hai linh mục này cũng chỉ là thứ yếu trong công tác của tôi. Tôi quyết định hủy. Sợ vào chỗ rửa mặt lâu, chúng nó đặt vấn đề, rồi theo vào. Tôi vờ ra cất bàn chải và khăn mặt cho chúng thấy, rồi tìm giấy để chúng biết là tôi đi cầu. Vào nhà xí, sau khi quan sát mọi ngóc ngách, không chỗ nào để bên ngoài có thể nhìn được tôi, trừ lỗ khóa ở cửa. Tôi tụt quần dài treo vào quả nắm là xong, yên tâm. Tôi xé hai lá thư bọc ny lông ra, đọc lại một lần nữa, rồi đánh diêm đốt, cho xuống thùng phân. Như vậy, trong người tôi chỉ còn tài liệu “M”. Tôi phải để trong một tư thế, nếu thấy có hiện tượng bị bắt giữ, tôi sẽ vo viên búng đi nơi khác bằng một động tác mau lẹ bất ngờ. Còn chì mật, chắc chắn muôn đời chúng cũng không tìm ra, dù để ngay trước mặt, chúng cũng không thể biết là cái gì. Ngoài trời, mưa đã ngớt hạt, trời sáng dần, tôi đeo túi dết ra phòng trực lấy giấy tờ. Vừa ra tới cửa, tôi liếc nhanh lên một khung cửa sổ của căn nhà lầu phía bên kia phố, hai bộ mặt lạ của một người đàn ông và của một người đàn bà chừng 30 tuổi. Tôi đi ngược lên phố Lãn Ông, rồi rẽ về Hàng Buồm, vào ngõ Hàng Giầy. Mấy hôm nay tinh thần tôi căng thẳng, nên ăn uống chả ra làm sao cả. Hôm nay, tôi muốn ăn bát cháo. Nơi đây nổi tiếng cháo ngon của Hà Thành thanh lịch của mấy hiệu: Sinh Ký, Tư Ký. Tôi vẫn cố tránh, chưa dám về phố Hàng Bạc. Vì thế nhiều lần tôi cứ phải đi vòng qua. Bây giờ, tôi cũng không phải quá giữ gìn về cách tiêu tiền, dù rằng tôi cũng không tiêu gì quá lố. Khi chúng chưa phát hiện ra tôi, tôi vẫn đóng vai một học sinh ở thôn quê, nên phải tỏ ra dè xẻn chắt chiu. Cũng vẫn là hiệu cháo Sinh Ký nổi tiếng ngày xưa của Hà Nội, mà bây giờ bát cháo thịt bò nhạt nhẽo như nấu cơm nguội. Cháo bò nhưng có lẽ thịt trâu, với 5, 6 mẩu thịt con đen xì. Nhất là cái “dầu cháo quẩy” thật buồn cười, bé tí, khô, cứng ngắc, ăn có vị ngô, trông như hai ngón tay út dính vào nhau. Tôi quan sát hết một lượt, không thấy bộ mặt nào quen. Mãi chéo phía xa, gần ngã tư Tạ Hiền – Lương Ngọc Quyến là hai bộ mặt, một đàn ông và một đàn bà, tôi đã thấy trên cửa sổ trước nhà trọ Hàng Quạt. Họ tỏ vẻ như đang bàn nhau chuyện gì. Cách xa tôi đến 200 mét, nhưng đôi mắt hai người vẫn thỉnh thoảng hướng về tôi. Bên kia đường, ngay trước hiệu cháo, một ông chừng bốn chục tuổi, mặc áo sơ mi cụt tay mầu xám bộ đội, đang vờ hý hoáy chữa cái tay thắng xe đạp, vẫn đưa mắt về tôi. Trong hiệu cháo có mươi người khách. Những người khi tôi bước vào đã có ở đấy rồi, tôi loại. Vào sau tôi, 3 người. Người ngồi mãi góc là một thanh niên, có vẻ học sinh, chừng 20 tuổi, cũng đội cái mũ cối. Tôi không bao giờ nhìn thẳng anh ta, mà chỉ nhìn bằng thị trường mắt của mình, tôi thấy anh ta chú ý tôi không bình thường. Ngay ngoài hè, một phụ nữ khoảng 20, tay xách cái làn cói đang mặc cả mua mấy bắp ngô luộc. Đôi mắt sâu hoắm, nhiều lần cũng liếc tôi như có chủ ý. Với cái khứu giác của nghiệp vụ, tôi đã thấy 3 người, hai người thì chắc chắn, còn người thứ ba, nghi ngờ. Ra khỏi hiệu cháo, tôi trở lên Hàng Bồ, theo Mã Mây xuống Hàng Dầu, rồi đến trưóc đền Bà Kiệu. Hôm nay, tôi lên cầu Thê Húc vào thăm đền Ngọc Sơn. Cảnh chùa vắng vẻ, lác đác dăm bẩy người, với một lũ trẻ con 6, 7 đứa nó đùa đuổi nhau. Nhìn Chấn Ba Đình mốc meo, sứt mẻ đứng chơ vơ như nỗi niềm tăm tối của những kiếp người, đang lê thê sống ở miền Bắc, tôi cũng chạnh lòng đăm chiêu. Thoáng nghe 6, 7 em nhỏ, vì sao đó chửi nhau thật là thô tục, tôi không ngờ. Tại sao, một em nhỏ 10, 12 tuổi lại có những câu tục tĩu như vậy? Đứa nào cũng thế! Một chị phụ nữ chừng 26, 27 tuổi, dáng dấp như một giáo viên hoặc một thư ký của một hợp tác xã ở nông thôn, nghe các em chửi nhau như vậy, nên đứng dậy nói như giáo dục: - Này các em, sao các em là con trai, mà chửi nhau bẩn thỉu thế? Thiếu nhi Thủ Đô là cháu ngoan Bác Hồ mà! Chị mới ở nông thôn ra, chị đọc báo vẫn thấy thiếu nhi Thủ Đô, luôn xứng đáng là ngọn cờ, của cả nước cơ mà! Tôi thấy chị rất nhiệt tình và có ý thức. Nhưng các em, trái lại, lúc đầu chúng đứng nhìn và nghe chị nói; nửa chừng, một đứa rồi hai, ba đứa văng “Con cặc..., im mẹ nó mồm đi!”. Một đứa khác: “Con đĩ mắt toét, biết củ l... gì”. Thậm chí, hai em khác móc đất ở mép nước ném chị ta, và nói: “ngoan con cặc...đây này!”. Chính tôi cũng ngạc nhiên và xông đến mắng: - Các em không được hỗn! Với thái độ và ánh mắt của tôi, chúng phải chạy nhưng còn chưởi lại. Chị nhìn tôi, tôi nhìn chị, thông cảm. Tôi đi ra khỏi đền, lại quẹo xuống Tràng Tiền. Lúc đó đã 11 giờ, tôi vào vườn hoa Chí Linh mở tờ báo Quân Đội Nhân Dân ra đọc. Một lúc, tôi mới ngửng lên, vươn vai, vặn vẹo lưng cho đỡ mỏi người. Đó cũng là lúc tôi đã nhìn thấy hết: Chị xách làn cói, ngồi cách tôi 3 ghế, quay lưng lại phía tôi. Lão hơn 40 tuổi đang đứng xấp vào một chòm cây, thập thò cái mặt xa tôi hơn 200 mét. Đôi vợ chồng (cứ gọi như thế) ngồi ở một ghế đá đường Đinh Tiên Hoàng, quay lưng lại phía tôi, đang nhìn ra phía hồ, xa tôi phải đến hơn 300 mét. Anh chàng có vẻ học sinh đội mũ cát, đang chăm chú đọc sách, ngồi dưới chân bức tượng phun nước, cách tôi hơn 100 mét. Đến đây, tôi khẳng định có 5 người. Như thế, cứ mỗi ngày chúng lại đổi người. “Sao chúng nó lắm người thế!”, tôi tự nhủ. Bốn ngày nay, trong gần 20 người tôi đã thấy mặt. Chỉ có tên đội mũ cát két đeo kính râm của buổi đầu tiên là dễ nghi ngờ nhất, còn hầu hết, trông không có dáng gì là công an ngầm hay tình báo. Chính tụi sau, có thể nghiệp vụ thấp, nhưng đầy nguy hiểm, chúng nó chẳng khác gì quần chúng bình thường đi ngoài phố. Để thử khả năng nghiệp vụ của phản gián miền Bắc, tôi đứng dậy đi loanh quanh trong vườn hoa, mắt lơ đãng nhìn cây lá. Cứ thả bước nhàn du, khi gần tới tên có vẻ học sinh, đang ngồi trên một ghế xi măng, bất chợt tôi ngồi ngay xuống bên cạnh. Y không thể nghĩ, tôi lại đến bên y ngồi, vì vậy, y lúng túng vội xoay người và nghiêng lưng về phía tôi. Tôi ngồi xuống đấy, nhưng mắt vẫn đăm đăm nhìn vòi nước phun từ nơi bức tượng. Tôi hiểu nguyên tắc của người đi theo dõi. Là cố tránh, đừng để cho con mồi thấy mặt mình. Bởi vì, khi đến chỗ khác, lúc khác, mà con mồi lại gặp bộ mặt ấy, thì từ chỗ không biết cũng phải cảnh giác mà nghi ngờ. Nhưng trong trường hợp vừa qua, nếu là ngưòi già nghiệp vụ, hãy cứ ngồi yên, một lúc sau làm như mỏi người mới từ từ xoay thế. Thậm chí, đã trót còn phải gợi chuyện, nghĩa là đôi khi còn phải làm trái với nguyên tắc của nghiệp vụ, con mồi mới khỉ nghi ngờ. Giả sử, con mồi suy nghĩ rằng, nếu nó theo dõi mình, đời nào nó lại nói chuyện với mình. Ngồi mươi phút, tôi đứng lên, đi xuống rạp Eden cũ, bây giờ đổi tên là rạp “Công Nhân”. Hôm nay có phim “Rắn Crơ Ba”, phim Liên Xô. Lần đầu tiên tôi vào xem phim của Cộng Sản Liên Xô. Xem trình độ nghệ thuật Thứ Bảy của Cộng Sản Nga ra sao. Vì hôm đó là chiều Thứ Bẩy nên cũng đông. Giá vé 4 hào. Lẫn ngay trong đám đông, cô ả xách làn cói vất vả xếp hàng, chen lấn. Tôi thoáng thấy “hai vợ chồng”, chúng chẳng lấy vé. Chúng chỉ đưa ra một cái gì đó, có thể là một cái thẻ, mà vì đông khuất tôi kkông nhìn thấy, rồi người xé vé để chúng vào. Vào rạp, tối như bưng, tôi biết chúng nó phải vất vả để nhìn tôi. Còn tôi, biết rồi nên mặc chúng, tôi chú ý nội dung phim. Tôi hiểu, ít nhất còn 3 đứa nữa gác bên ngoài. Có lẽ, ở Hà Nội thời gian đó, duy nhất ở rạp xi nê, mà phải là hôm phim hay. Đông người, may ra mới có thể cắt đuôi, với điều kiện phải có thuốc hóa trang, và một bộ quần áo chưa bao giờ mặc trước đấy. Nếu lúc này tôi có lọ thuốc đó! Trong bóng tối lờ mờ của rạp xi nê, tôi sẽ vờ đi tiểu tiện vài lần, như bị đái “rắt” rồi lần bôi xoa thuốc ngay từ ngoài, 10 phút sau da mặt đã kéo nhăn. Cởi sẵn khuy quần, khuy áo. Nghĩa là phải chuẩn bị sẵn sàng trước. Lúc rạp sắp mãn, vào nhà “xí” thay áo mũ thật nhanh. Nếu cần vất luôn túi dết, gắn bộ râu giả lên, để trở thành một ngưòi khác, chen trong đám đông đi ra. Đã biết hết mặt 5 tên theo dõi mình rồi, lúc đó chỉ lủi nhanh về hướng không có chúng mà chuồn. Chỉ cần như vậy là gâu nên một chuyện thần kỳ, nghĩa là, đột nhiên con mồi biết mất. Lúc này, phần vì tôi không có loại thuốc đó, phần khác, tôi chưa tích cực cắt đuôi, vì muốn dềnh dàng chờ ngày 16, 18. Đấy cũng là một tính toán sai lầm của tôi, mà sau này, thời gian và sự việc mới giải đáp cho tôi. Ở Sài Gòn, tôi đã từng xem màn ảnh ở rạp Rex hoặc Đại Nam. Bây giờ, thấy màn ảnh bé tí, nhỏ con một bề khoảng 2 mét, bề kia 1 mét hai, không có phụ đề chữ Việt, mà còn có giọng nói của một cô gái ở loa phóng thanh, mà ở miền Bắc khi ấy người ta gọi là “thuyết minh”. Nội dung phim. Một ổ gián điệp Đức đang hoạt động trong lòng địch là đất Ba Lan. Lúc này, Nga đang chiếm đóng Ba Lan. Tình báo Nga và Ba Lan, do nhân dân giúp đỡ nữa, đã dùng mưu mô, lừa lọc, cuối cùng bắt trọn ổ gián điệp Đức. Tôi thấy nhạt nhẽo, chán phè, nhất là cảnh gián điệp Đức lơ là, ngây thơ mắc vào những cái bẫy cũng ngây thơ của Nga. Toàn bộ cuốn phim, không có một tình tiết lắt léo, tinh vi nào đáng kể, so với những phim tình báo trước đây tôi xem ở Sài Gòn. Thế mà quần chúng cũng trầm trộ ca tụng. Quần chúng Hà Nội bây giờ, đa số ở các tỉnh mới về từ 1954. Tan rạp, tôi kéo “đuôi” lang thang về mãi Ngã Tư Sở. Thấy một nhà trọ có vẻ sang hơn, tôi vào thuê một buồng. Tôi vẫn đưa giấy thông hành. Tôi nghĩ, dù chủ nhà trọ có phát hiện giấy giả, tôi vẫn không sao, tôi vẫn được thuê như thường. Bởi vì, sẽ có lệnh bí mật bắt chủ nhà trọ đồng ý, không được hỏi han làm khó dễ gì tôi cả. Tiền buồng 1 đồng rưỡi. Tôi ngủ đỡ khổ, và bắt chúng nó, những chiếc đuôi, tốn nhiều công, của hơn. Lúc nãy khi đi đường, tôi đã mua một đôi dép Thái Lan và chiếc mũ xanh công nhân. Phần vì chân tôi đi dép râu vẫn chưa quen, rất đau, cái quai cao su thôi ra đen xì cả chân. Hơn nữa, dép Thái Lan và mũ công nhân là hai mật hiệu khi tôi trao tài liệu “M”. Bây giờ, tôi phải mang trước cho bình thường. Sau khi tắm rửa, đêm đó tôi nằm một mình một buồng, cảm thấy thật dễ chịu. Đem sách ra đọc một lúc, rồi tôi nằm suy nghĩ, tính toán: Mai, Chủ Nhật cứ đến Nhà Thờ Lớn đi lễ xem thế nào? Cứ ghé về Hàng Bạc, xem phố cũ thay đổi ra sao? Ghé luôn Lương Ngọc Quyến, xem bà dì họ thế nào (nhưng sẽ không vào nhà). Tôi hiểu, tất cả những người có nhiệm vụ theo dõi tôi, sau giờ quy định bàn giao con mồi cho người khác, mỗi người phải làm một bản báo cáo, tường thuật tỉ mỉ mọi chi tiết đường đi nước bước của con mồi theo thứ tự thời gian và không gian. Nghiệp vụ càng già dặn, càng phát hiện được những điều sâu sắc, thậm chí cả những động tác vờ vịt, động tác giả của con mồi, nếu cử chỉ ấy có lồng trong một ẩn ý gì. Ngoài ra, mỗi cuối bản báo cáo tường thuật, phải có một câu nhận định: Theo ý anh, con mồi đã có hiện tượng gì nghi ngờ có người theo dõi không? Những tên nghiên cứu và ra lệnh ở nhà, đối chiếu nhiều bản báo cáo, tường thuật để nắm được cái chung, từ đấy chúng sẽ có những biện pháp thích nghi theo những diễn tiến của sự việc. |
|
|
![]()
Post
#23
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi
Kiếp Người, Kiếp Vật!... Sáng hôm sau, tôi vẫn đội mũ cát nhưng đi dép Thái Lan. Còn đôi dép râu tôi đút gầm giường. Đôi dép này mang từ Sài Gòn ra. Khi không thấy tôi đi, tôi biết chắc tụi phản gián tỉm được đôi dép đó. Không có cóc khô gì trong ấy cả. Bắt đầu ra khỏi cửa khách sạn, tôi ghi nhớ bất cứ một bộ mặt, hoặc không thấy mặt thì dáng dấp, dù trong một ngách ở xa xôi, hoặc đứng trong cửa sổ, trừ khi cửa đó khép để khe hở để theo dõi. Nhưng, khi tôi đã nghi một khe hở của một chiếc cửa nào, đi chừng 100 mét, tôi sẽ mượn cớ nào đó quay lại, nhìn thấy khe hở ấy khác đi là tôi đặt vấn đề rồi. Cho nên, hầu như tôi không bỏ sót một cái đuôi nào mà tôi không biết. Nếu tôi chưa biết chắc rõ bao nhiêu cái đuôi, tôi chỉ dẫn vào những ngõ vắng, hoặc ngõ hẹp, là phải lộ hết. Khi tới Ngõ Huyện, tôi vào làm bát phở. Ăn xong, tôi “cố ý” vô tình để quên chiếc mũ cát. Tôi biết, chiếc mũ này, người khác nào đó sẽ tưởng tôi quên, cầm lấy. Nhưng, không những không được, mà có khi còn liên lụy. Chiếc mũ ấy phải về tay một, trong những cái đuôi của tôi, để rồi về tới cơ quan phản gián của Hà Nội. Tôi đến cuối nhà thờ, mới vờ bất chợt vỗ tay lên đầu, và ngơ ngác vội vàng quay lại hiệu phở. Cái mũ đã mất, tôi tỏ vẻ ngẩn ngơ tiếc của, rồi tiếp tục đi trở lại phía nhà thờ. Điều đó sẽ góp một phần nhỏ, trong kế hoạch của tôi đối với chúng sau này. Tôi là người đãng trí. Hôm nay Chủ Nhật mà Nhà Thờ Hà Nội thất vắng vẻ, lưa thưa một vài người đi lễ. Cuối nhà thờ chỉ mở một cánh cửa bên. Trong nhà thờ có tất cả khoảng bảy, tám mươi người, đa số là các ông bà già, còn thanh niên phụ nữ, trẻ con khoảng mười sáu, mười bảy em. Giữa cảnh vắng vẻ và trong ánh sáng lờ mờ vỉ nhiều cửa đóng, óc tôi trầm ngâm liên tưởng đến những hình ảnh buổi thiếu thời, những ngày Chủ Nhật, tôi cũng đi lễ nơi đây. Ồn ào náo nhiệt, chuông trống tưng bừng, rộn ràng, một thời phồn thịnh huy hoàng của giáo dân miền Bắc.Tôi đăm chiêu nhìn mấy chục người, đang gục đầu lâm râm than thở. Tôi chợt nhớ đến mấy câu trong bài “Thăng Long Thành Hoài Cổ” của bà Huyện Thanh Quan: “Lối xưa xe cộ, hồn Thu Thảo. Nền cũ lâu dài, bóng tịch dương. .................................................. Đá vẫn trơ gan, cùng tuế nguyệt. Nước còn cau mặt, với tang thương. Nghìn năm gương cũ, soi kim cổ. Cảnh đấy, người đây, luống đoạn trường. Nhìn cảnh này, ruột tôi cũng đứt từng khúc như bà năm xưa. Cùng một cảnh, hai thời đại, một tâm hồn. Tan lễ, tôi đứng tựa lưng vào hàng rào sắt, nơi tượng Đức Mẹ đứng giữa sân phía cuối nhà thờ. Nhìn những ông bà già lầm lũi ra về, mắt tôi thoáng thấy bà dì họ. Bà có tên là bà Đốc Cắn. Chồng bà chết từ khi tôi chưa biết cuộc đời. Bà không có con, chỉ có con nuôi. Vì tiếc mấy ngôi nhà của anh chị em bà ở Hàng Bạc và phố Lương Ngọc Quyến. Còn tất cả thuộc về Cục Quản Lý Nhà Cửa của nhà nước. Bà dì tôi vẫn mập như xưa, nhưng tóc đã ngả mầu và da đã nhăn. Nét đăm chiêu mang nhiều tư lự. Khi bà đi ngang qua, bà có nhìn thấy tôi, nhưng con mắt của bà nhìn tôi như trăm ngàn người khác qua đường. Phải, làm sao bà có thể nhận ra thằng cháu của bà được. Bởi vì, có đập bể đầu ra, bà cũng không thể ngờ tôi lại ra Hà Nội. Phần tôi, ý thức được vấn đề là tôi đến gặp bà, thì sau này bà phải vào gặp công an. Tôi chỉ nhìn bà bằng con mắt lê thê và đè nỗi niềm xúc động đầy vơi của mình xuống. Tôi theo đường Lý Quốc Sư ra Hàng Bông, về Hàng Gai. Tới đấy, tôi thấy một chị du kích áo nâu, quần đen thắt ống. Vai đeo khẩu CKC, đang nắm tay một em nhỏ chừng 12, 13 tuổi, kéo về phía đồn cảnh sát bờ hồ. Những người đi đường hỏi, chị nói: - Thằng này và mấy thằng nữa đứng nấp trong ngõ, chờ những em gái chạc tuổi đi qua, xông ra bóp ... vú. Tôi nghe mà không hiểu được, tại sao một xã hội suy đồi đến độ kỳ lạ như vậy? - Đến đầu Hàng Đào, bỗng dưng tôi thấy mấy bà ôm thúng bán mấy nải chuối, bà thì mấy trái dứa...ôm quang thúng chạy tóe khói ra. Một anh cảnh sát chừng 22, 23 tuổi đang đuổi theo bà. Anh cảnh sát đã nắm được quang gánh. Bà đó chừng 40, 45 tuổi vừa thở hổn hển, hai tay cứ vặn vẹo vào nhau; - Thưa anh, anh tha cho em, nhà em chỉ có vài nải chuối và mấy quả dứa chín này đem bán, về mua gạo cho các cháu nhỏ. Lần sau em không dám đem đi bán nữa. Tai tôi nghe mà lòng quặn thắt lại. Óc tôi càng mở rộng để hiểu cuộc đời và những kiếp ngưòi. Tôi bỏ đi dọc theo Hàng Đào, đến Hàng Ngang. Hàng Bạc đây rồi! Nhớ đến hai câu thơ: “Cho hay, cảnh cũ ưa ngưòi nhỉ? Ai thấy, mà ai chẳng ngẩn ngơ”. Tôi thấy lòng thổn thức bâng khuâng, vơi đầy khi nhìn phố cũ. Lạ thật! Cũng đường phố ấy, cũng những căn nhà ấy ngày xưa, mà bây giờ tôi lại nhìn thấy bé nhỏ, lũn tũn như những chuồng chim bồ câu. Phố xá thì bé con, ngắn một tị. Chân tôi cứ thả bước, lòng tôi cứ chìm nổi đầy vơi. Tôi đi sát nhà Tân Hưng, chiếc biển hiệu đã gỡ. Còn hai chữ “Tân Hưng “ kẻ vào tường trước đây, hãy còn mờ mờ. Tôi liếc nhìn vào trong nhà, thấy được ngăn ra từng gian, bằng những tấm cót, có những bà nhà quê xa lạ. Ô kia rồi! Mãi trong sân, tôi thoáng thấy chị Thuận. Trông chị mà tôi rất ngạc nhiên: Chị là hoa khôi Hàng Bạc 1952 cơ mà (đầu 1954 chính chị và em trai chị là Hòa đã kể lại), khi ấy tôi chỉ là một cậu bé 15, 16 tuổi. Tôi cũng đã biết, chị được bao nhiêu những tay công tử hào hoa của Hà Thành đắm say, ngưỡng mộ. Con gái Hàng Bạc xưa nay nổi tiếng đài các trâm anh, vừa giầu, lại vừa đẹp, cành vàng là ngọc. 1953, cô Mi nhà Ngọc Chương lại là hoa khôi Hàng Bạc. Dù còn nhỏ, tôi vẫn thấy các cô đẹp như tiên. Thế mà bây giờ tôi nhìn chị Thuận như một bà gái xề, nửa tỉnh, nửa quê đang đút cơm cho con ăn. Giữa lúc ấy, tôi thấy anh Kỳ, chồng chị Thuận. Trông anh già và gầy nhỏng, đi đôi guốc lộc cộc, tay dẫn hai đứa con gái nhỏ ở ngoài phố về. Anh Kỳ đấy ư? Một ngưòi mà trước kia không bao giờ mặc py da ma hay đi dép ra đứng ở cửa hiệu. Nhà anh thường có 4, 5 người ở, đài các thanh lịch lắm. Giờ đây, sau 8 năm, những ngưòi giầu có ngày xưa là đây. Những hình ảnh này cho tôi thấy: Dưới chính quyền xã hội chủ nghĩa, ngưòi giầu trở thành ngưòi nghèo. Ngưòi nghèo trở thành ngưòi cùng cực hơn. Kia, nhà Trường Nguyên; đây Chấn Hưng, Bảo Hưng Long. Lại đây nữa: Bảo Thịnh, Đức Hưng, Bảo Thành, v.v...Toàn thấy những ngưòi nhà quê. Nhà nào cũng quây cót. Sau này tôi hiểu, tùy theo nhà anh bao nhiêu ngưòi, chỉ cho anh ở một phần theo số ngưòi. Phần còn lại, thuộc chính phủ, sẽ cho ngưòi khác ở. Nhìn rạp hát Kim Chung, mà ngày xưa tôi hay chui vào xem chạc. Cũng là rạp hát ngày xưa đó, sao bây giờ trông nhỏ bé thế! Phải rồi, mình đã sống ở Sài Gòn, đã đi xa nhìn những thành phố lớn. Sau lâu ngày, trở lại nhìn Hà Nội, thành phố cổ xưa, nên mới có cái cảm giác như vậy. Ngắm nhìn những chữ đồng, chữ xây “granite” của các cửa hiệu, bây giờ vỡ chữ nọ thiếu chữ kia, với mầu rêu loang lổ của các ngôi nhà như dư âm của một thời vang bóng. Đi theo Tạ Hiền, qua rạp Quảng Lạc, vào ngõ Sầm Công, đến đền Bạch Mã, quẹo lên chợ Bắc Qua, rồi Hàng Chiếu. Tôi kéo lê thê 5 cái “đuôi” đi khắp tứ tung, cho chúng nó phán đoán. Có trời biết được ý định của tôi! Ra tới chợ Bắc Qua, thấy một đám đông túm hụm, có cảnh sát, tôi ghé đến. Một chị chừng 25, 26, mắt đỏ hoe đang nức nở, giọt ngắn, giọt dài đứng bên cạnh cái thúng gạo, phải nói là thúng cát lẫn gạo. Thì ra, một anh chàng nông dân chân đất, cắp một thúng gạo nặng, đậy cái bao tải rách vẻ sợ sệt, lén lút, đến gạ bán cho một chị đi đong gạo. Anh lấm lét nói là công an đang theo dõi bắt anh bán gạo, anh phải vội bán rẻ để chuồn về quê ngay. Chị này tưởng món hời, phải cần nhanh tay chụp lẹ. Thúng gạo nặng đến 15 ký mà anh chỉ lấy 10 ký với 2 đồng cho cái thúng. Anh nói, anh không dám mang thúng về, sợ hợp tác xã nghi ngờ. Công an đầy đường, đâu có dám xem gạo kỹ, dịp may gặp món hời phải vồ sớm, còn đắn đo gì. Sau khi anh kia và chị khẩn trương chia tay, chị hớn hở đội gạo về. Đến Hàng Chiếu, mấy ngón tay giữ thúng trên đầu, thọc sâu xuống những hạt gạo no lành của một ngày may mắn, nhưng cảm giác thấy khác thường. Chị bỏ thúng xuống và bới lên. Chỉ có một lớp gạo ở trên, cón toàn cát bên dưới. Sự việc này cho tôi thấy, ở một xã hội quá nghèo nàn, ngưòi ta chỉ có thể lừa lọc nhau đến như vậy là cùng. Nhìn trị giá của một sự lường gạt, đã đánh giá được mức độ cuộc sống ngưòi dân của xã hội ấy. Tôi vào một quán cơm ở Hàng Chiếu, quán này có vẻ đông người, gần 20 người ăn uống. Tôi tìm một chỗ ngồi. Tôi ngạc nhiên, thấy hai thanh niên mặt mũi sáng sủa nhìn tôi cưòi. Tôi cúi gầm ăn, đầu suy nghĩ, tôi chưa hề quen biết mấy người này, vậy vì sao? Câu hỏi của tôi đã được giải đáp ngay sau đó. Khi tôi vừa đứng dậy, còn một chút cơm thừa, một chút thức ăn thừa, hai người xô đến, mỗi ngưòi giành một thứ. Tiện đó, tôi kéo đuôi vào thăm chợ Đồng Xuân nổi tiếng của Hà Nội thủ đô, như Bến Thành Sài Gòn. Ngoài cửa, có một chỗ bán hoa của hợp tác xã, còn hầu hết mỗi ngưòi mỗi cái thúng hay cái mẹt bán hoa quả hoặc những thứ lặt vặt. Chốc chốc lại ôm chạy quanh vì công an đuổi. Chợ bấy giờ là phụ, là không hợp pháp. Nhà nước đã có những cửa hàng lương thực của từng khu phố. Mọi thứ từ muối, mắm, đậu, hành, v.v... Nghĩa là tất cả về thực phẩm đều có phiếu, tùy theo gia đình cán bộ hay nhân dân. Trong nhân dân lại tùy theo có đặc ân hay không, và tùy theo số ngưòi... Có những phiếu nhất định mỗi tháng, mỗi gia đình được mua bao nhiêu. Ngay từ thời gian này, đã có tình trạng, có phiếu mà không có hàng, càng về sau, càng trầm trọng hơn. Tôi nhìn đồng hồ, 2 giờ. Tôi chợt nghĩ đến nhà trọ Ngã Tư Sở, ở đó có ban công và sân thượng phơi quần áo, rất tốt. Quần áo tôi, hai bộ đã quá bẩn, hôm nay về tắm rửa giặt quần áo. Ngày mai, đi sở thú. Tôi vào chợ mua hai cục xà bông và trở về nhà trọ. Khi về tới nơi, tên quản lý nói, buồng cũ đã có người thuê, chỉ còn phóng số 10. Tôi nói, phòng nào cũng được, nhưng óc tôi nghĩ ngay, như vậy đã có sự sắp xếp. Được, ta sẽ lên phòng xem sao. Sau khi vào phòng đóng cửa, bất chợt 5 phút sau, tôi mở ngay cửa. Dọc suốt hành lang, hai bóng ngưòi rụt nhanh vào phòng số 4, chéo phía đối diện. Hai thanh niên, một tôi đã quen mặt. Trót mở cửa phòng, tôi phải vờ đi ra phía sân thượng, sờ sờ mấy cái dây phơi, ra vẻ định sẽ phơi quần áo ở đấy. Vào phòng lần này, tôi lật chiếu, xem gầm giường, một vài góc khả nghi, chiếc bàn, chiếc ghế... Tôi quan sát toàn bộ. Nếu ở những nước tiên tiến, có thể có những máy ghi âm, máy ảnh tự động. Nhưng ở miền Bắc thời ấy, trình độ lạc hậu, làm quái gì đó, cùng lắm chỉ ở chỗ kín đáo chụp trộm ảnh và tìm điều kiện có khe nứt nẻ nào đó, ngồi nhòm vào buồng là cao. Dù nghĩ vậy, nhưng tôi cũng cứ xem kỹ, kỹ để biết về địch thôi, chứ tôi cũng chả có gì. Trong người tôi chỉ còn tài liệu “M”, đừng hòng bao giờ tôi lấy ra xem, lâu lâu, tôi chỉ lấy cớ gãi, để sờ, sợ rơi mất. Tôi vẫn băn khoăn, đã có sự chỉ định xếp đặt phòng cho tôi, vậy phải có vấn đề gì. Nhìn toàn bộ phòng, không thể có điều kiện gì từ ngoài nhìn vào phòng. Tôi chú ý từng lỗ đinh, từ lỗ khóa. Tôi xem lại lần nữa. À, đây rồi! Có thế chứ! Chúng nó cũng quỷ quái đấy: Bốn góc bàn tôi sờ rồi, không có gì. Thì ra giữa gầm bàn (bàn không có ngăn kéo), chúng dùng keo gắn một chiếc máy ghi âm nhỏ kích thước 12x8x1,5 phân. Có thế, tôi mới an tâm. Kệ nó đấy, tính sau. Tắm giặt đã. Khi vào đi tắm, tôi vừa giặt vừa thẫn thờ suy nghĩ. Như thế này, chúng nó đã đánh giá mình cao quá. Mình có máy móc chó gì đâu, có ai đến giao thiệp với mình đâu. Kể ra, nếu tôi thích chuyện trai gái, mang một cô em về làm trò cho cái máy ghi âm, chúng cũng được một băng mùi mẫn miễn phí. Trong quá trình đi đường, nhiều cô loại gái kiếm tiền cứ cười cười với tôi, như ở vườn hoa Chí Linh, Tràng Tiền, góc Cầu Gỗ, Cột Đồng Hồ... Tắm rửa, giặt quần áo xong thì đã 5,6 giờ. Giặt cả hai bộ, tôi còn mỗi cái quần đùi để mặc, ra đứng ở ban công nhìn chéo ra phố. Tôi thoáng thấy một bộ mặt đứng sâu trong cửa sổ một căn gác chéo nhà bên cạnh. Tôi vờ làm vài động tác thể thao để nhìn kỹ. Bộ mặt quen? À, tên kính râm, đội mũ cát két lần đầu tiên tôi phát hiện ở nhà thờ X. Hôm nay không đội mũ, không đeo kính nên hắn làm tôi ngờ ngợ. Tôi rất ngạc nhiên và lạ lùng. Tôi có cảm tưởng khó hiểu là tại sao, bất cứ nhà nào chúng cũng vào được? Ở xã hội tự do đâu có thể như vậy. Đồng thời, tôi cũng cảm thấy một không khí rình rập, bao quát lúc nào cũng ở chung quanh tôi. Từ cảm giác này, mắt tôi lơ đãng nhìn mấy con sẻ đang ríu rít ở một mái nhà trước mặt, tôi cũng thấy hình như chúng cũng có chất Cộng Sản. Thậm chí, mấy cái cây vô tri đứng im lìm cạnh ngôi nhà, tôi cũng thấy chúng có chất gì của Cộng Sản. Cái chất của soi mói, lọc lừa, lường gạt, không lương thiện. Cùng một bầu không khí của Tổ Quốc quê hương, nhưng quang cảnh, ngưòi và vật ở xã hội này không hợp với tôi. Tôi không có cảm giác gần gũi thân thương, quen thuộc như ở miền Nam. Thấp thoáng ngưòi ở cửa sổ lại chụp ảnh tôi. Tôi đã thấy 5 lần, còn sau lưng hoặc tôi không biết, không kể. Hôm vào nhà thương Việt Đức (kỳ sau), tôi cũng bị chụp 2 lần. Chụp làm gì nhiều thế! Có thể, chúng để làm chứng cớ, tài liệu sau này chăng? Thôi vào đi ngủ! Vào buồng tôi nghĩ ngay tới cái máy ghi âm. Nếu không vì những chủ trương sau của tôi, tôi đã đến chưỏi cho nó một mẻ, hoặc cũng cho nó mấy phát ... rắm. Nhưng tôi đành nằm im coi như không biết. Chính vì tôi tỏ ra luôn luôn chủ quan lơ là, nên nhiều khi, thấy những cái “đuôi” của tôi rất lộ liễu đến độ ngờ nghệch. Hay có thể vì tôi đã biết mặt rồi, nên tôi có cảm giác thế chăng? Đường phố đầy người đi lại, nếu tôi không biết chúng rồi, cũng khó mà biết ai với ai. Chẳng lẽ thấy “gà hóa cuốc”, gặp ai cũng tưởng như họ theo dõi mình hay sao? Tôi cứ vẫn vơ suy nghĩ rồi ngủ lúc nào không hay. Hôm sau, tôi đón xe điện ra bờ hồ. Khi đi qua Hàng Da, nhìn chữ “Pharmacie Thẩm Hoàng Tín” to tướng nhưng đã mờ nhẻm vì thời gian, tôi chợt nhớ tới sư bà Đàm Hương. Hiệu thuốc tây bây giờ đóng cửa im lìm. Mấy cái cửa sổ trên gác, đóng những thanh gỗ cọc cạch che kín mít. Chỉ nhìn thế, tôi cũng đã thấy sự tàn lụi của cái pharmacie rồi, nghĩa là cửa hiệu không còn được mở nữa. Tới bờ hồ, tôi lại mua tờ báo Thủ Đô. Đây là tờ báo có tính cách địa phương, nội thành nên có vài tin lặt vặt hàng ngày, trong khi những tờ Nhân Dân, hay Quân Đội Nhân Dân không bao giờ nói tới. Thực vậy, tôi đi trên đường phố thấy bao nhiêu chuyện cắp trộm, lừa đảo vẫn xảy ra thường thường, nhưng không bao giờ thấy có trên báo. Ngay trên đài truyền thanh (nói qua đường dây) cũng họa hoằn mới nghe thấy một vài sự việc để ngăn chận tội ác và những chuyện xấu của xã hội. Đây cũng là một cái đặc biệt của miền Bắc. Khắp Hà Nội, từ nội đến ngoại thành, ở những đầu phố, hoặc chỗ thường xuyên tụ tập đông người như bến xe, trước nhà bách hóa, v.v… Thường có treo loại ống loa hai tầng để phổ biến tin tức cũng như thông báo (gọi là truyền thanh). Rồi tới giờ quy định mới mở điện bắt vào đài phát thanh. Còn ra dô thì thật là hiếm, nếu không có là không có. Ra dô và máy ảnh phải đăng ký hàng tháng. Mua phim chụp ảnh phải làm đơn xin phép, nói rõ lý do, hoặc phải có giấy của cơ quan giới thiệu. Cho nên, hầu như không một người dân nào có máy ảnh (đồ quốc cấm) nếu đi ra những vùng chung quanh Hà Nội, các bạn sẽ thấy đây đó, nhìn bất cứ hướng nào, cũng thấy hầu như mỗi nhà đều có những cần câu bằng tre chọc thẳng cao lên trời, trông như những lông của con nhím khổng lồ, xù ra khi gặp kẻ thù. Đó là dây ăng ten của ga len ghép đơn giản mấy cực để nghe đài gần. Chỉ nghe được đài Hà Nội và nghe nhỏ tí. Thứ này trẻ con trong Sài Gòn vẫn chơi (loại này thì không phải đăng ký). Ở bờ hồ, dù chẳng cần thiết lắm nữa, nhưng do thói quen nghề nghiệp, tôi vẫn quan sát toàn bộ những khuôn mặt chung quanh tôi. Tôi lại thấy chéo mãi phía hiệu kem trước nhà Thủy Tạ, cô gái chừng 18 tuổi có hai cái đuôi sam. Trông đôi má mủm mỉm đỏ hây, thế mà đòi là phản gián theo dõi tôi. Được! Hôm nay, tôi dẫn cô lên sở thú. Qua cô ta, tôi đã thấy cách bố trí ngưòi theo dõi của Cục phản gián Hà Nội. Ngưòi nào cũng theo tôi một ngày, ít nhất một tuần sau tôi mới gặp lại. Cộng sản làm như vậy để con mồi khỏi nghi ngờ, mất cảnh giác. Cho tới hôm nay, hơn 40 bộ mặt quen thuộc rồi. Tôi nghĩ thầm: Hà Nội sao lắm nhân viên phản gián thế! Rồi đây, những ngày tới còn bao nhiêu nữa? Tôi lên xe điện đi sở thú. Tôi lững thững đi bộ như một kẻ nhàn du đi vãn cảnh. Hôm nay, tôi định sẽ ghé thăm núi Nùng, nơi tương truyền là mồ chôn giặc Thanh cướp nước, cũng như gò Đống Đa, Thái Hà Ấp vậy. Lưa thưa, rải rác một số người, vài hàng quà bánh. Cả sở thú chỉ vỏn vẹn 5, 6 chuồng thú, quá ít so với ngày xưa. Không biết thú đưa đi đâu hết? Tôi đến chỗ một chú cọp đang nằm ngủ, chỗ này đông nhất, hơn 10 người kể cả trẻ con đang đứng ngắm ông ba mươi nằm nhắm mắt. Nhìn con hổ nằm ngủ trong chuồng, với cảnh đám người đứng xem. Tôi đang bâng khuâng nhớ đến bài thơ bất hủ “Cọp Nhớ Rừng” củ Thế Lữ, bất chợt một tiếng rầm rung cây lá, con cọp bật dậy, chồm lên hồng hộc. Mọi ngưòi chung quanh giật mình. Nhiều đứa trẻ sợ quá hét lên, bám lấy người lớn. Cả cô đuôi sam cũng xanh mặt, cuống cà kê dúm người lại. Chẳng hiểu vì sao? Tôi nhìn lại phía xa cách đấy hơn 300 mét, trên củng con đường để đi ngang qua trước chuồng cọp này, một anh mặc quần áo bộ đội đang giang cẳng lôi cương một con ngựa. Con ngựa chồm hai vó trước, không những dứt khoát không nghe theo anh bộ đội để đi nữa, mà còn kéo anh ta đi ngược trở lại. Tôi chợt hiểu con cọp đang nằm nhắm mắt, mũi đánh hơi thấy mùi ngựa, đồng thời con ngựa cũng đánh hơi thấy chúa sơn lâm, nên sợ quá không dám đi nữa, dù còn cách đến hơn 300 mét. Tôi nhìn cô bé đuôi sam, mặt cô ta đỏ lên rồi quay đi. Tôi nghĩ bụng thế mà đòi đi ngành tình báo. Lúc tôi nhìn về phía con ngựa, tôi thấy ở một gốc cây gần đó, một đôi “nhân tình” ngồi bên nhau có vẻ ngây ngất tâm sự, nhưng con mắt của họ tôi nghi quá. Trong căn nhà nhỏ của một quán nước có cửa sổ hướng về tôi, nơi chiếc bàn mãi trong góc quán, tên đeo kính râm, đội cát két đang ngồi hút thuốc lá, mắt lơ đãng nhìn đi đâu, trước mặt là ly nước; và một anh mặc quần áo xám bộ đội, đang gác chân lên chiếc xe đạp, nhìn ra hồ sen, cách chỗ tôi gần 100 mét. Tôi đã thấy anh ta ở bờ hồ. Tôi trèo lên núi Nùng hướng mắt về trường Bưởi, bâng khuâng nghĩ đến Sài Gòn, đến những bạn bè thân quen, những họ hàng ruột thịt và những người trong Cục. Họ có biết tôi đang nằm trên thớt của kẻ thù, đang ngày đêm căng thẳng với kẻ thù, từng phút từng giờ hay không? Hay họ đã quên rồi? Hai nẻo đường đi, một mình tôi đi trên đường hướng về nơi đen tối mịt mù. Tâm tư nặng chĩu nỗi niềm, tôi tìm một ghệ cỏ ngồi dựa lưng, đôi mắt lim dim, lắng nghe tiếng gió rì rào. Loanh quoanh mãi 3 giờ chiều, tôi mới quay bước trở về. Tôi cũng chẳng đón xe điện, cứ lững thững đi dọc theo đường Quan Thánh. Tai vẫn nghe tiếng guốc lộc cộc đều đều của cô gái đuôi sam, sau tôi khoảng ba, bốn mươi thước. Tự nhiên, tôi muốn đùa giỡn, đồng thời cũng muốn thử nghiệp vụ của cô gái này. Phố lưa thưa một số ngưòi đi. Tôi thả bước chầm chậm, tiếng guốc vẫn lách cách theo sau. Đến một quãng phố có một bờ tường xây dọc theo hè phố, và còn chừng 30 thước nữa là một phố cắt ngang. Bất chợt, tôi đi sát bờ tường rồi rảo bước, tôi thoáng nghe tiếng guốc cũng nhanh hơn. Đến đúng chỗ góc phố, tôi quẹo và nép khuất vào một trụ tường, một tay đưa lên ngực, một tay ôm mắt như chóng mặt xây xẩm, lưng tựa vào tường. Cô ả hơi bất chợt nên vội vàng đi nhanh hơn. Khi tới góc phố, đinh ninh là tôi rẽ theo phố ấy, nhưng bây giờ thấy tôi biến đâu mất. Cô ta hốt hoảng bước thẳng xuống đường. Như thế đã đủ, trong một phút đã hiểu tài nhau rồi. Tôi hơi nhích ra một tí cho có vẻ tự nhiên, để cô trông thấy. Mặt tôi vẫn nhăn nhó, tay vẫn xoa xoa ngực bên trái. Khi trông thấy tôi, mắt cô ả sáng lên long lanh như mừng rỡ. Tôi uể oải chầm chậm lê chân theo phố đó. Đến một hàng nước chè bên hè, tôi ngồi đại xuống, lật ly nước chè cho bà háng rót, rồi đầu cứ cúi gầm như sắp ốm bệnh. Chừng một lúc, tôi nhấc chân cho sẳn ra ngoài ghế, rồi bất chợt quay ngoắt ra đường, dựa lưng vào bàn nước. Ở trong cửa, ngay nhà đối điện, cô gái đuôi sam đang ngồi ghế nhìn thẳng sang phía tôi. Cô vội vàng cầm tờ báo trước mặt giơ lên, làm ra vẻ đang đọc để che mặt. Thật đáng buồn cho cô, tờ báo lại ngược, không biết cô đọc làm sao? Cô bị lúng túng chỉ vì tôi cố tạo cho cô tưởng rằng tôi đang ốm bịnh. Dáng điệu chậm chạp đang gục đầu, nhưng bất ngờ quay lại. (Đây là việc làm của một người thiếu chín chắn, sau này tôi ân hận mãi ở trong tù). Tôi vẫn còn lạ lùng là tại sao, nhà nào họ cũng vào được? Chẳng lẽ nhà dân ai cũng biết họ là công an mật? Hay họ có dấu hiệu gì đặc biệt, để nhà dân nào cũng phải cho họ vào? Tôi rẽ về lối chợ Đồng Xuân, đã 4 giờ 30 chiều, thấy một đám đông ồn ào, tôi ghé lại. Tôi không thấy cảnh sát, chỉ thấy người ta đang chỉ trỏ 6 hộp sửa bò “Nestlé” (hiệu con chim, của Pháp) còn mới. Hộp nào cũng mở hé ra, toàn nước bùn đất. Một ông đỏ mặt tía tai, hai tay chống mạng sườn, chõ mồm chửi vào đám đông: “Ông mà bắt được mày, thì ông vặn cổ ra!”. Tôi chẳng hiểu đầu đuôi xuôi ngược. Hỏi người đứng đấy, họ cũng lắc đầu. Sau tôi nghe loáng thoáng đâu: Nó ngâm nước, bóc nhãn hộp sữa ra, đục hai lỗ nhỏ rồi rút hết sữa, cho bùn nước vào, lấy sáp bịt lỗ rồi dán giấy lại như mới. Tôi đã thấy những chuyện như vậy, ở Hà Nội bây giờ không có gì là lạ lắm nữa, nên bỏ đi. Khi tôi xuống tới bờ hồ, mặt trời đã nằm dài trên những chòm cây phía Tây. Ánh nắng xiên khoai chọc tút mãi vào những hốc sâu hoắm, của cây đa già đền Bà Kiệu. Chiều hôm nay gió lộng, cả ngày trời Hà Nội nóng như nung, nên buổi chiều, bờ hồ thật đông đúc, đầy cả ngưòi. Trước lúc về nhà trên đường từ xí nghiệp, nhà máy tan ra. Công nhân thường ghé đây 5, 10 phút để đón ngọn gió hồ chiều. Cho vơi đi phần nào những giờ lao động mệt nhọc khẩn trương. Tôi ghé vào hiệu “Bách Hóa Tổng Hợp” ở bờ hồ. Đây là căn nhà to, ba tầng của một người đã di cư vào Nam, được sửa lại làm nhà bách hóa lớn nhất Hà Nội. Ai đã từng ở tỉnh xa ra Hà Nội mua hàng, cũng đều ghé vào đấy. Tôi rất lạ! Rất nhiều loại hàng tốt, cần thiết bày trong tủ kính có đề giá bán hẳn hoi, nhưng lại để mảnh giấy con ghi: “không bán”. Vừa đi vừa suy nghĩ mãi. Lúc tôi leo cầu thang lên tầng hai, tầng ba, thỉnh thoảng tôi cũng thấy người ngoại quốc đi vào. Chả biết là ngưòi Liên Xô hay là người các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu? Phải chăng, Cộng Sản chỉ cốt bày hàng để tuyên truyền, hay vì hàng cần thiết, nên họ đã chia nhau mua hết thực? Các hàng vớ vẩn thông thường thì nhiều. Mặc dù tiếng loa luôn nhắc nhở khách hàng coi chừng kẻ gian móc túi, vậy mà chỉ trong vòng nửa giờ, tôi đã thấy một người kêu ầm lên mất ví, và lại một lần ở tầng hai, thấy ồn ào, bảo đuổi bắt tên ăn cắp. Tôi cũng phải sờ tay để ý vào cái ví của tôi, kẻo lỡ có ít tiền nó mượn mất, thì thật khó khăn. Một ý nghĩ làm tôi mỉm cười: Gián điệp lại bị cắp móc ví! 6 giờ 30, tôi thấy hơi mệt vì đã đi cả ngày, tôi ghé về Cầu Gỗ ăn cơm, rồi ra xe điện về Ngã Tư Sở. Vào buồng, lúc sắp ngủ, vì tối, tôi rờ tay dưới gầm bàn vẫn thấy còn chiếc máy, không hiểu có thay băng chưa? Đợi sáng mai, tôi xem mới biết. |
|
|
![]()
Post
#24
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi Mốt
Tài Liệu “M”, Đối Tượng Là Ai? Buổi sáng hôm sau, là ngày 14 tháng 6 rồi, chỉ còn một ngày nữa là đến hẹn. Hôm nay, tôi lại phải ra bờ hồ. Trước khi đi tôi cúi xuống xem chiếc máy. Họ chủ quan, cho là tôi không biết, nên lúc dán băng keo, lại dán dịch đến 3 phân so với chỗ hôm qua. Tôi ra đường, sáng hôm nay trời Hà Nội thật đẹp, không mưa không nắng. Không khí dìu dịu làm tỉnh lòng người. Giữa mùa Hè oi ả, có một ngày thế này ai cũng thấy dễ chịu. Tôi lại thả bộ về bờ hồ. Khi tới ven hồ, tâm hồn tôi cũng ngấy ngây với thiên nhiên. Gió hiu hiu của buổi ban mai mùa Hè như mơn trớn da thịt mọi người. Tôi hiểu là hiện giờ cơ quan phản gián của Hà Nội, đang đặt ra nhiều câu hỏi về tôi. Họ chỉ thấy tôi lang thang đây đó suốt ngày, chẳng giao thiệp với ai, chẳng vào cơ quan nào, cứ như là đi tham quan Hà Nội vậy. Để cho chủ trương của tôi sau này thêm hữu hiệu, mắt tôi mơ màng nhìn cảnh vật, trong khi chân bước đều đều từ nhà Thủy Tạ dọc Lê Thái Tổ xuống Trường Thi. Khi tới một cây phượng vỉ bên hồ, tôi thấy hai hòn đá to ngày xưa, lúc còn nhỏ, tôi vẫn thường ngồi đấy câu tôm, bây giờ vẫn còn đấy. Tôi đứng trước hai hòn đá nhìn chăm chăm một lúc, như thiết tha, như quyến luyến cảnh cũ, rồi cúi xuống lấy tay nhè nhẹ vuốt sờ. Sau đó, tôi lùi ra xa mấy bước, lại đứng nhìn, như gửi gấm, hàn huyên gặp lại cố nhân. Tôi đưa mắt từ gốc cây lên đến những bông hoa đỏ ối. Ôi! Những cánh phượng của tuổi học trò. Tôi nhớ mãi câu thơ chẳng biết của ai: Đây mùa phượng vĩ xa xôi, Đây tình niên thiếu, tình tôi nhớ… người. Tôi cúi xuống nhặt một cánh phượng rơi theo gió, đưa lên mũi ngửi, rồi mở cuốn sách trìu mến, nhẹ ép vào. Tôi biết lúc đó, ít nhất có 10 con mắt ở xa hoặc gần đang chăm chú quan sát từng cử chỉ hành động của tôi, để về tường thuật báo cáo. Những tên ở bàn giấy và thường ra lệnh sẽ phải điên đầu. Chả lẽ, một tên gián điệp, một sống hai chết xâm nhập Hà Nội để nhặt cánh phượng vĩ rơi ép vào sách? Nhưng đó là thực tế đấy! Tôi cứ lững thững đi dọc ven hồ, xuống Trường Thi rồi quẹo lên phía bưu điện. Hai cô gái ở chiếc ghế đá cười với tôi, rồi một cô vời vời. Chà, tôi hiểu ngay hai cô là gái kiếm tiền, nhưng các cô không biết tôi đang là con vi trùng bệnh dịch hạch hay sao? Các cô mà mó tới tôi bây giờ, là đời các cô sẽ vào …ấp. Để tránh cho các cô, tôi nghiêm mặt coi như không biết, đi thẳng. Các cô còn nguýt theo, tưởng tôi mô phạm, làm cao. Đến cầu Thê Húc, tôi lên cầu, vào chùa. Lang thang ra mãi phía các gốc si già, tôi trèo ra những gố si là là mặt trước. Tôi nhớ lại ngày 14-7-1953 lúc trước. Pháp và quân đội quốc gia (lúc đó thuộc Liên Hiệp Pháp) tổ chức ngày Quốc Khánh Pháp ở Hà Nội. Trên bờ, có trưng bầy một số vũ khí và 10 chiếc xe “Molotova” còn mới tinh, ở chỗ quán Mụ Béo và nhà Thủy Tạ. Họ nói đó là chiến lợi phẩm thu được của Việt Minh. Dưới nước, ngày hôm đó Pháp chở đến 10 chiếc ca nô loại đổ bộ, chạy xé nước rầm rầm. Trong khi trên trời máy bay biểu diễn cho lính nhảy dù xuống hồ. Chúng tôi còn nhóc, ngây ngất say sưa, lang thang đi xem. Điều đặc biệt: Hàng trăm con rùa lớn nhỏ ở trong hồ, xưa nay sống cuộc đời yên tĩnh. Hôm ấy, tiếng máy ca nô chạy gầm rú ầm ầm, chắc làm các “cụ” nhức đầu, nên cứ chúi vào chỗ mấy gốc si già mọc chằng chịt dưới nước, phía sau đền. Thỉnh thoảng ngộp quá, rùa phải thò đầu lên để thở. Con to, con nhỏ, có con đầu to tướng, hai mép vàng khè. Chúng tôi cứ ngồi sẵn trên những cành si sát mặt nước, chờ “cụ” nào thò đầu lên lại sờ một cái. Có lần một “cụ” đầu mốc meo thò lên đụng ngay vào tay tôi, làm tôi giật mình, suýt ngã xuống hồ. Suốt ngày hôm ấy, chúng tôi gọi nhau tíu tít từ phố Hàng Bạc ra, để sờ đầu…rùa. Tôi trở ra, vòng lại cầu Thê Húc. Đứng trên cầu, nhìn làn nước xanh rì, từng ngọn sóng nhấp nhô dẫy dọn, như cau mày giận hờn, phản đối lũ cầm quyền tàn bạo, khát máu người dân. Ngày xưa, đã hơn một lần tôi thắc mắc, tại sao nước hồ Hoàn Kiếm lại xanh như vậy? Và tôi được trả lời: Một số các nhà địa chất, sau khi thăm dò nghiên cứu những mẩu đất đá nhiều nơi tại Hà Nội, đã kết luận rằng: Chếch ngang phía dưới lòng hồ là một mỏ đồng. Nếu bây giờ khai mỏ, cả khu trung tâm, nghĩa là một nửa thành phố Hà Nội, sẽ không còn. Vì thế, nước hồ Gươm muôn đời vẫn xanh, xanh hơn cả nước biển khơi. Ra tới đầu cầu, tôi nhìn khoảnh đất nằm dài hình chữ “T” giữa cầu và đền Bà Kiệu, xưa kia những ông đồ già, ngồi lom khom viết câu đối và mấy người bày những bàn cờ thế, để thách thức khách thập phương. Cảnh cũ còn đây, nhưng người xưa đâu thấy! Chỉ có “đôi vợ chồng” quen mặt, tôi đã gặp ở ngỏ Hàng Giầy khi đi ăn cháo, đang ngồi như tâm sự yêu đương trên một chiếc ghế xi măng, cạnh gốc phượng già. Mặc chúng mày! Tôi rẽ xuống vườn hoa Con Cóc, để chuẩn bị một địa thế thuận tiện cho ngày hẹn ước, trao tài liệu “M”. Sau một hồi loanh quanh, tôi đã tìm được một chỗ ưng ý. Tôi trở ra đường Đinh Tiên Hoàng, đón tầu điện đi thẳng xuống Bạch Mai. Khi tầu điện đi qua rạp Majestic cũ, bây giờ đổi tên là rạp Tháng Tám, đang trình chiếu cuốn phim “Cô Gái Lọ Lem” của Rumaine. Ở Sài Gòn tôi đã xem rồi, nhưng do Pháp thực hiện; giờ thử coi của Rumaine xem sao? Tôi nghĩ như vậy, nhưng vẫn ngồi trên xe điện đi thẳng xuống chợ Hôm. Đường phố đây thực bụi bặm rác rưởi. Ngó sang rạp xi nê Hà Nội, trông lại càng tiêu điều hơn. Một vài tấm bích chương quảng cáo treo trên tường cũ mèm, rách tả tơi, lưa thưa dăm đứa trẻ chơi đùa ở trước cửa rạp. Tôi rẽ vào khu chợ trời. Ôi, thật là hỗn độn, hổ lốn, lộn tùng phèo đủ mọi loại ngưòi chen chúc. Đây đó, thấp thoáng trong cái xô bồ của một bãi rộng, là những anh chàng cảnh sát đồng phục mầu vàng, và những anh những chị mặc thường phục đeo băng đỏ, xông xáo chạy lăng xăng. Thế mà chuyện cắp trộm, lừa lọc vẫn thường xuyên xảy ra. Chỗ này, một anh cảnh sát đang lập biên bản giữ một chiếc xe đạp, của anh phó chủ nhiệm một hợp tác xã, mua phải xe ăn cắp. Chỗ kia, mấy anh du kích đang giong đi đám đông, một tên ăn cắp chừng 20 tuổi bị trói tay. Trong lúc chen lấn, lợi dụng sự đẩy xô của đám đông, tôi ôm chầm vào vai của một cái “đuôi”, làm cho anh chàng lúng túng, lủi lẹ. Khi y phải tường thuật báo cáo, chỉ huy của chúng sẽ càng phải đau có với tôi. Rời khu chợ trời, tôi trở ra phố Huế, về rạp Tháng Tám, tôi lấy vé vào xem. Trình độ nghệ thuật Thứ Bẩy của Rumaine còn khá hơn của Liên Xô, nhưng phần cuối của nội dung cuốn phim có phần đổi khác. Làm sao cô bé Lọ Lem này, ở trong chuyện cổ tích xa xưa, lại có một số lời nói và hành động cứ như là, thích chủ nghĩa Cộng Sản ấy. Xin chịu thầy! Tôi về Hàng Buồm ăn cơm tối. Thấy một nhà trọ ngay cùng phố, tôi thuê một phòng giá 1 đồng 20, không về Ngã Tư Sở nữa. Ngày hôm sau, 15 tháng 6, tôi hơi mệt, định nằm luôn nghỉ một ngày, nhưng nghĩ đến ngày mai là ngày ước hẹn, hôm nay nằm nhà, mai đi sẽ gây cho các “đuôi” đặt vấn đề hơn. Ngày nào cũng đi lang thang mới là chuyện bình thường, Nghĩ thế, tôi ra đón xe điện đi Cầu Giấy, tôi lang thang đi bộ vào chùa Láng. Cảnh chủa thật vắng lặng đìu hiu. Nơi đây những hội hè tấp nập năm xưa, chỗ hẹn hò lôi cuốn bao nhiêu trai gái Hà Thành, bây giờ hương khói vắng tanh thế này? Thế mà từ góc một bức tường rêu, thập thò ở gốc cây muỗm già sát bờ ao, lấp ló trong bụi dâm bụt phía sau chùa, vẫn những bộ mặt chó chết của lũ cộng thù. Chẳng qua vì cái thế, ta phải tạm chịu các ngươi, chứ trong lòng ta vẫn coi thường các ngươi! Đến đây, tôi nhớ đến mấy câu thơ của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cháu xin phép cụ đổi vài từ trong bài “Khôn Dại” để phù hợp với tâm tạng của cháu lúc này: “Ở đời, biết ai là dại, biết ai là khôn? Khôn ấy hết thời, khôn ấy dại. Dại mà gặp thế, dại mà…khôn. Đố ai biết được, ai khôn dại. Mới giọ là người biết dại…khôn!” Gần trưa, tôi thả bước về đền Voi Phục, tìm lại dư âm của buổi ấu thời. Ngay từ cổng dẫn vào chùa, hai chú voi đá, một chú đã sứt vòi vẫn nằm đấy, vẫn rêu phong cùng tuế nguyệt. Nhìn vào phía trong, mái chùa long lở đen xì, cạnh những tàng cổ thụ khòng khèo vì dãi dầu với năm tháng. Xa xa về phía trái của đền, những mầu đất đỏ au đây đó, lẫn vào mầu xanh bạt ngàn của cây lá. Đó là công viên Thủ Lệ, bởi nhà cầm quyền Cộng Sản đang vận động, thúc đẩy hàng chục ngàn thanh niên nam nữ nội, ngoại Thành đến công trường lao động hằng ngày, để tạo lập công viên. (Sau này tiến hành đến đâu tôi không biết). Trong chùa, cũng loáng thoáng dăm ba người, có thể là những người thích thiên nhiên, hoặc danh lam thắng cảnh của đất nước, hay có khi chỉ là người vào trú những cơn nóng Hè. Bình thường khi đến thăm một ngôi đền cổ, sau khi chiêm ngưỡng những đặc cảnh của đền, tôi thường vào thăm hỏi các vị tu hành, hoặc người trông coi ngôi đền đó. Nhưng ở đây, tôi không được phép, vì ý thức trách nhiệm, biết sẽ gây khốn đốn, khó khăn cho các vị sau này. Cho nên, tôi đành ra một cháng dây đa già, đang nghiêng mình nằm sóng xoài nới bóng mát hữu tình, như mời gọi ngưòi lữ hành mệt mỏi cơ thể, cũng như tinh thần vì những chuân chuyên, chìm nổi của cuộc đời. Tôi ngồi đăm chiêu suy nghĩ đến ngày mai. Nhiệm vụ tôi xâm nhập Thủ Đô hoạt động, nơi đầu não của chế độ Cộng Sản Việt Nam, đã thực hiện ngót ngét nửa phần. Còn tài liệu “M” nữa. Ngày mai, tôi cầu xin anh linh của dân tộc, khí thiêng của sông núi cho tôi hoàn thành nhiệm vụ, rồi thân xác của tôi có theo về với gió bụi, tôi cũng cam lòng. Gọi là để đóng góp phần nhỏ bé của một thanh niên vô tên tuổi, khi quê hương, đồng bào rên xiết lầm than, trong bàn tay đầy máu của lũ giặc cộng. Để khỏi thẹn mặt, cúi đầu trước mặt Cha Anh và các chiến hữu, đã nằm xuống cho tự do của mọi ngưòi. Đất nước, dân tộc đau thương, mỗi người dân Việt mỗi trách nhiệm! Chiều tàn, tôi lại trở về nhà trọ Hàng Buồm, tắm rửa, ngủ nghê cho khỏe để chờ ngày mai. Sáng hôm sau, ngày 16 tháng 6. Tôi vẫn ăn mặc quần áo như ngày hôm trước tôi đi chơi chùa Láng: nghĩa là quần xanh, áo sơ mi trắng, đầu đội mũ xanh công nhân, chân đi đôi dép Thái Lan quai đỏ, vai đeo túi dết. (đó là những vật hiệu quy định khi trao tài liệu “M”). Hôm nay, tôi phải dùng hết khả năng nghề nghiệp, quan sát, xác định rõ bao nhiêu cái “đuôi” của tôi. Vì thế, ngay khi tôi ra khỏi cửa nhà trọ, giữa phố Hàng Buồm đông đúc khách bộ hành ngược xuôi, tôi đã điểm tất cả những bộ mặt, cũng như dáng người chung quanh tôi. Từ gần tới xa, tối đa mắt của tôi, có thể nhìn thấy. Chỉ có hai người tôi đã biết mặt, còn vài ngưòi nữa, tôi khả nghi. Tôi dẫn chúng về ngõ Hàng Giầy, ra Tạ Hiền, xuống Hàng Bạc, sang Hàng Bồ, rẽ Hàng Quạt đến Hàng Gai ra nhà Thủy Tạ bờ hồ. Tơi đi loanh quanh một đoạn đường ngoắt ngoéo như vậy. Tôi mua một ổ bánh mì, một tờ báo Quân Đội Nhân Dân, rồi tôi lững thững đến một chiếc ghế đá sát bờ hồ, khu trước rạp xi nê Phillamonique trông ra. Ngồi tại chiếc ghế xi măng này, tôi có thể nhìn thấy toàn bộ cầu Thê Húc, cách đó hơn 300 mét. Lúc đó là 8 giờ kém 15 phút. Ngồi nhai ổ bánh mì, lợi dụng những động tác vươn vai, hoặc ngúc ngắc đầu cho khỏi mỏi, tôi đã thấy đủ hai người cũ và hai ngưòi nữa tôi đã thấy mặt ở Hàng Buồm lúc vừa ra khỏi nhà trọ. Một người rất khôn khéo đứng nấp sau tấm biển quảng cáo phim, ở trong khung cổng rạp xi nê. Làm sao sót được mắt tôi lúc ấy. Tôi hơi băn khoăn, mọi hôm ít nhất 5 người, sao hôm nay chỉ có 4? Hay còn một tên nữa rất quái quỷ, nấp ở chỗ nào đó trong cái phố xá đông đúc này mà tôi không biết? 10 phút sau, tôi lại tốn công tìm động tác giả, để quan sát một lần nữa. Vô ích, vẫn chỉ 4 mống. Phải chăng cơ quan phản gián Hà Nội thấy hàng tuần lễ nay, ngày nào tôi cũng đi lang thang đây đó, chẳng thấy tỏ ý định làm một cái gì, hay giao thiệp với ai, nên chúng đã giảm người theo? Sở dĩ chúng phải cho nhiều người theo dõi, vì nếu tôi gặp, nói chuy6ẹn với ai, số người ấy phải chia ra để theo dõi ngưòi đó. Nếu tôi gặp hai, hay ba ngưòi trong một ngày, chúng phải tăng cường. Dù sao, đây cũng chỉ là sự phán đoán của tôi, chưa phỉa là kết luận, cho nên tôi vẫn phải cảnh giác tối đa. 8 giờ đúng, bắt đầu tôi căng mắt rõi về phía cầu Thê Húc. Lòng tôi cũng thấy hồi hộp, xốn xang đợi chờ. Đối tượng là ai? Già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà? Chắc chắn không phải là một ông cha, hay ông sư đầu trọc lốc. Nếu thế, cũng phải mặc quần áo bình thường và đội mũ che dấu đầu trọc. 8 giờ 15 rồi, vẫn chẳng thấy gì? Quái thật, phút đợi chờ làm cho tim tôi đập nhanh hơn lúc bình thường. 8 giờ 30 phút. Tôi đã bắt đầu sốt ruột. Theo quy định thời gian trao tài liệu “M” là từ 8 tới 10 giờ. Tôi muốn ngồi từ xa, khi nào thấy đối tượng tôi mới đến. Như vậy có nhiều điều lợi. Tôi chủ động được vấn đề, và quan sát sự an ninh của đối tượng, để từ đấy tùy nghi ứng biến. Tôi lại nghĩ: Hay biết đâu, chính đối tượng cũng có ý nghĩ như tôi thì sao? Nghĩ thế, tôi đứng dậy đi dọc theo bờ hồ, tới ngang cầu, rồi cứ theo bờ hồ đi xuống mãi, hơn 300 mét. Không hề có một ai mặc quần áo như quy định. Người đúng cái này, lại sai cái kia hay ngược lại. Đã trót xuống phía đó, tôi lại kiếm một cái ghế xi măng ngồi. Chiếc ghế này hơi bất tiện, vì bị một cây che với cầu. Dù vậy, thỉnh thoảng tôi hơi nghiêng người về phía trước, vẫn thấy toàn bộ cầu. Trong lòng tôi cũng thấy thấp thỏm như chờ người yêu. Tôi có đọc đâu đó một đoạn thơ, không nhớ rõ là của Lưu Trọng Lư hay Hồ Dzếch: Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé, Anh sẽ trách, cố nhiên nhưng rất nhẹ! …… Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần, Anh sẽ nói: Gớm làm sao nhớ thế! Với tôi bây giờ là: Gớm làm sao lâu thế! Và, tôi cũng đang nhìn điếu thuốc nhgi ngút khói, mặt hướng về cầu Thê Húc. 9 giờ đúng. Một nỗi buồn ở đâu len lén vào lòng tôi. Hay đối tượng có trở ngại gì? Trục trặc gì? Nếu vì lý do nào đó, tôi không trao được tài liệu này, lòng tôi sẽ khắc khoải suốt cuộc đời. Bao nhiêu gian nan, nguy hiểm, sống và chết, bao nhiêu đợi chờ mong ngóng của tôi! Bây giờ, ngưòi ơi, sao cứ biền biệt. Tuyệt vọng rồi lại hy vọng, hay có thể đối tượng lại đang ngồi phía tôi ngồi lúc sáng! Dù thế nào, tôi cũng không đi lại phía ấy nữa. Vì làm như vậy, những cái “đuôi” có thể nghi tôi đang sốt ruột chờ đợi cái gì. Nếu thế, đành để ngày 18 vậy. Tôi đang đầy vơi với nỗi niềm nặng chĩu, kia rồi! Tim tôi khẽ bóp nhẹ. Đối tượng lại là một cô gái mới chết chứ! Đúng rồi: Áo nâu, quần ka ki xám, tay cầm vở hoặc sách, và dép…? Tôi chưa nhìn rõ vì xa gần 300 mét. Tôi vẫn ngồi yên. Đối tượng đi qua cầu đến gần sát cổng đền Ngọc Sơn, ngừng lại, đứng tựa vào lan can cầu và đang cúi nhìn cái gì đó ở dưới nước. Tôi chợt nghĩ, nếu đối tượng cũng có “đuôi” thì sao? Trường hợp này, Cục tình báo miền Nam, và cả Mỹ, chưa nêu ra cho tôi. Tôi đặt giả thuyết: Đối tượng hiện giờ có “đuôi” nghĩa là cũng đang bị phản gián Hà Nội theo dõi. Nếu chúng tôi gặp nhau, địch sẽ cởi được một mắt xích. Nếu không gặp nhau, gần nhau mà không khéo để địch phát hiện có liên quan, thì kết quả cũng như trường hợp trên. Cách giải quyết duy nhất: phải hết sức tinh tế, không để một cử chỉ nào, dù là một ánh mắt, cho những cái đuôi phán đoán được hai ngưòi có liên hệ với nhau. Tôi coi như không chú ý đến cầu, chân bước, quay gáy lại phía cầu. Mắt lơ đãng, nhìn giòng xe đạp xuôi ngược trên đường phố. Khi ngang qua cầu, làm như không chủ định trước, chợt thích ghé vào chơi như mọi khi. Thấy mấy em nhỏ dưới bờ hồ, chỗ chân cầu đang câu tôm, tôi rẽ xuống đứng xem, cầm một con tôm, hỏi chuyện các em. Tôi liếc nhanh đối tượng. Đối tượng chưa nhìn thấy tôi, vì còn cách một cái cầu dài 50 mét. Đối tượng đứng phía cổng đền, tôi đứng phía bờ. Bây giờ, tôi nhìn rõ. Dép râu và 3 quyển vở rõ ràng. Rõ ràng hơn nữa, cô chừng 22 tuổi, có bộ mặt trái soan, da trắng bóc nổi rõ màu đen huyền của đôi mắt. Vô lý! Một cô gái tuổi như thế này, lại “giao thiệp” với Sài Gòn. Nhưng, có thể cô chỉ là một mắt lưới, mà đường dây bí mật đã phái cô đến chỗ hẹn, theo quy ước để nhận tài liệu của Sài Gòn. Tôi đang suy nghĩ, chợt một anh chàng có dáng dấp thành thị, tiến đến đối tượng. Tôi mở to mắt ngạc nhiên theo dõi. Qua thái độ của cô gái và thái độ anh chàng đó, tôi hiểu là anh chàng đi chơi, thấy một cô gái đẹp, sà đến tán. Đúng vậy, cách bỏ đi vào chùa và bộ mặt rất nghiêm, bực tức của cô gái, đã trả lời sự phán đoán của tôi. Tôi quan sát 4 cái đuôi của tôi, trông rõ vị trí đứng ngồi của chúng. Yên tâm, tôi tiến lên cầu. Trên cầu còn hai, ba đứa trẻ và một vài cậu nhơ nhỡ có vẻ học sinh vì cặp sách, một gái, hai trai. Tới giữa cầu, tôi đứng lại nhìn xuống hồ. Chợt nhớ ra: Tôi xắn tay áo lên vài lượt như thể nóng quá. Tay tôi vẫn cầm tờ báo “Quân Đội Nhân Dân” gấp đôi. Tôi hơi băn khoăn, vì đối tượng đeo một túi dết mầu xám, cái này không có quy định trước. Rồi tôi nghĩ, cũng như tôi, có túi dết mà không quy định. Vì còn có mật hiệu phải trả lời nữa chứ. Nguyên tắc quy ước là gặp trên cầu. Nhưng vừa rồi vì lý do anh chàng tán gái, nên cô đó đã phải đi vào chùa, phải linh động. Tôi cũng đi vào chùa, vừa đúng lúc đối tượng từ phía Trấn Ba Đình, định đi vòng lại ra phía cầu. Đối tượng thoáng thấy tôi. Mắt đối tượng mở to, tươi hẳn lên, vừa như ngạc nhiên. Tôi làm sao biết đối tượng đang nghĩ gì, chỉ thấy đối tượng hơi đỏ mặt và hơi lúng túng. Tôi coi như không biết, vờ đứng chăm chú xem cái biển gỗ sơn xanh viết chữ trắng: “Đây là di tích lịch sử đã được liệt hạng…”. Biết đối tượng đang nhìn, hai tay tôi gấp tư tờ báo, rồi gấp 8, theo quy ước. Một phút, hai phút, bằng ánh mắt nhìn ngang, tôi thấy đối tượng đứng xa tôi gần 15 mét, làm như vô tình, chuyển ba quyển vở từ tay này sang tay kia. Tôi rất phấn khởi, thái độ ấy, chứng tỏ đối tượng rất điềm tĩnh. Vậy khi nãy đối tương hơi không được tự nhiên là vì lý do khác. Bây giờ đã trấn tĩnh nên tỏ ra có nghiệp vụ cao. Sự hoan nghênh và phấn chấn dậy lên trong lóng tôi. Một chiến hữu, một đồng chí có khả năng, như vậy mới có thể là đối thủ của kẻ thù. Tôi lững thững đi ra. Mắt tôi liếc nhanh. Nếu “đuôi” đứng ngoài 10 mét, dù chú ý cũng khó phát hiện cái liếc ấy. Hai “đuôi” vẫn chỗ cũ, hai “đuôi” khác đã tiến dịch vào phía cầu. Và, bây giờ thêm một “đuôi” nữa, mà từ sớm tôi không thấy. Anh chàng có bộ mặt vẻ học sinh trong hiệu cháo Sinh Ký, đang đứng một phần ba cầu phía ngoài. Tôi tự hỏi “Thế từ sáng, tên này nấp đâu? Hay vừa mới tới?”. Họ tưởng tôi sẽ vào chùa chơi lâu, như mọi khi nên đang định tiến vào, thấy tôi trở ra, họ vờ vịn lan can cúi xuống hồ nhìn nước. Thực ra, ngay lúc ấy, trong khoảng hai phút thôi, sau khi thấy đối tượng “chuyển vở qua tay”, tôi giơ ngay tài liệu cho đối tượng trông thấy, rồi vất ngay xuống đất, làm như đánh rơi, để đối tượng đi sau lấy rồi cũng xong. Nhưng, tôi hơi ngập ngừng áy náy, chỉ biết đối tượng có phản xạ kịp không, nếu không, sợ rằng lại có thể đẻ ra những tình huống khó khăn khác, nên lại thôi. Tôi cứ chậm chạp tiến về vườn hoa Con Cóc, cách đấy khoảng 700 mét, sà vào một bệ đá, chỗ vòi phun của một con cóc, nơi tôi đã có chủ ý từ hôm qua. Chỗ này có một số đá lổn nhổn, lẫn cỏ với lá khô. Tài liệu của tôi mầu nâu, đồng mầu với lá khô. Hơn nữa, ở đấy có một bụi cây rậm, có rễ mọc nổi, thuận tiện chỗ để. Thò tay vào sờ thì thấy, còn nhìn bên ngoài sẽ không thấy, mà bụi cây lại che được một góc chết. Tôi ngồi thong thả mở báo ra đọc, liếc nhanh các đuôi, rồi lựa thế che dưới tờ báo rộng, tôi để tài liệu. Xong, tôi tiếp tục đọc báo. 10 phút sau tôi ngửng lên, vặn ngưòi. Tôi đã thấy đối tượng ngồi cách xa tôi 150 mét trên một ghế đá, cùng với một bà đang cầm cái chổi dài, có lẽ là ngưòi dọn vườn hoa. Đối tượng thỉnh thoảng lại nhìn tôi. Tôi vẫn vờ xem báo, hết lật trang này lại giở trang kia. Vừa lúc đối tượng nhìn, tôi gãi khuỷu tay phía để tài liệu, một ngón tay cong cong chỉ thẳng vào chỗ tôi đã bỏ tài liệu “M”. Tôi đưa ánh mắt như chăm chú nhìn một cành cây gần tôi, hơi chéo nơi đối tượng ngồi. Quả thực đối tượng là ngưòi điềm tĩnh, không báo cho tôi biết ngay mà mãi ba, bốn phút sau, mặt nhìn hơi khác và giơ tay lên gãi đầu. Lúc này, các “đuôi” có mắt cũng như mù, làm sao đoán được hai hành động rời rạc ấy lại ăn khớp với nhau, trừ phi đã biết trước. Lúc này, lòng tôi thật khó diễn tả. Vừa nhẹ nhàng lâng lâng, trang trải món nợ quê hương, vửa bâng khuân lưu luyến một cái gì, như gần gũi mà lại thật xa xôi; vừa tái tê với cuộc đời đã nằm trên thớt của kẻ thù, mịt mù sống chết lúc nào không hay. Tôi đứng lên, chân không muốn bước mà vẫn phải đi, ngập ngừng giã biệt. Chẳng biết đối tượng có hiểu những nỗi niềm đầy vơi, trong lòng tôi lúc này không? Tôi đang ngày đêm nằm trong nước sôi lửa bỏng. Chợt một ý nghĩ, nếu tôi không có “đuôi” lúc này thì sao? Đời tôi đã chả từng cay ghét chữ “nếu” rồi sao? Tôi đi mãi, ghé ra bờ hồ, để tôi có thể nhìn chéo 40 độ về phía đối tượng cách rất xa tôi chừng hơn nửa cây số. Tôi chỉ còn thấy bóng dáng (không thể nhìn rõ mặt) đối tượng vẫn ngồi yên chỗ cũ. Tôi vửa thẫn thờ đi từ đó tới đây, cũng phải mất hơn 10 phút, vậy đối tượng đến lấy tài liệu chưa? Theo phán đoán của tôi thì chưa. Chỉ qua hai lần tiếp xúc bằng ánh mắt và cử chỉ, tôi đã thấy đối tượng tỏ ra là người trầm tỉnh. Hơn nữa, không bao giờ đối tượng đến lấy rồi lại ngây thơ trở về chỗ cũ ngồi. Vậy thì chưa đâu! Tôi yên tâm, đưa mắt lơ đãng đuổi theo những tảng mây trắng nõn, như những búi bông khổng lồ, đang chầm chậm bò trên nền trời xanh thẫm, về miền Nam xa xôi. Mãi 15 phút sau, bóng dáng của đối tượng mới từ từ tiến đến chỗ tôi ngồi khi nãy, làm như bâng khuâng nhìn vòi nước phun tung tóe từ miệng con cóc bằng xi măng, rồi ra vẻ như mệt, đối tượng ngồi xuống. Tôi vẫn quay mặt ở một góc 40 độ với đối tượng, mục đích khi đôi tượng đứng lên đi, tôi quan sát theo dõi xem đối tượng có “đuôi” hay không? Sao mà ngồi lâu thế! Tôi vừa trách, lại vừa không muốn đối tượng đi, thật là mâu thuẫn. Đối tượng đi là vĩnh biệt rồi. Chẳng hiểu trong lòng đối tượng nghĩ gì mà ngồi mãi không đi, lâu lâu lại nhìn phía tôi. Phải chăng tâm trạng của đối tượng cũng như tôi? Do những điều kiện khắt khe tôi đang nằm trong lưới của kẻ thù, nên khi nhìn đối tượng, một ý nghĩ lởn vởn trong óc tôi, ước gì tôi có thề lên tiếng cùng đối tượng một vài lời nhỉ? Gần 20 ngày qua, tôi đã buộc kín lòng mình, đến trở thành cô độc, lẻ loi trên mảnh đất thân yêu này Chỉ còn có người, một chiến hữu, một đồng chí, tuy ngồi ngay trước mặt, cùng thở hít chung nhau một bầu không khí, cùng bâng khuâng đầy vơi ngắm chung một cảnh hồ, mà người ơi, xa vời vợi! Rồi đây, tuy chúng ta cùng chung một lý tưởng nhưng hai đường đời. Xin cầu chúc cho ngưòi gặp nhiều thuận tiện, may mắn, đạt những thành quả vẻ vang trên đường đi của dân tộc. Thôi, tôi xin cúi đầu biết ơn đối tượng. Thế lả đủ cho kẻ bất hạnh này ghi nhớ mãi mãi, trong những ngày gian khổ tới đây. Mãi gần 12 giờ trưa, mặt trời chói chang đã đốt khô cảnh vật, tôi mới thấy đối tượng đứng lên, không quên nhìn về phía hồ một lần nữa và chẳng hiểu sao, đối tượng quay lưng lại vừa đi vừa gãi đầu, nghĩa là khoảng cách giữa đối tượng và tôi dần dần xa vời vợi. Đối tượng không có “đuôi”, tôi cũng mừng. Chỉ có số phận hẩm hiu của tôi là có “đuôi”, mà những 5, 6 cái. Trời Hạ lúc này trong xanh, chỉ còn một vài vẩn mây, không gian, cảnh vật bừng sáng lung linh. Tôi nhìn thẳng ra Tháp Rùa đứng chơ vơ như hòn non bộ, chiếc bóng nghiêng nghiêng lung linh dưới nước như nhún nhẩy reo vui mừng rỡ. Hai con rùa chẳng biết bò lên chân tháp tự bao giờ đang nằm ấp lên nhau phơi nắng, như hai cái nồi ba mươi đen xì. Những chùm phượng vĩ đỏ ối tràn lan chung quanh hồ, đang sói bóng trên mặt nước, nổi bật lên giữa cái xanh ngắt của bầu trời và màu xanh của lá cây tạo thành một bức tranh sơn mầu rực rỡ. Một trận gió Nồm Nam thổi dọc từ phía “Gô Đa” về. Những chiếc lá me đong đưa dẫy dọn như trăm ngàn bàn tay nhỏ tí đang vỗ, gây lên những tiếng xào xạc lẫn vào tiếng ve kêu vang vang như hồi kèn thắng trận. Thoang thoảng đâu đây mùi nồng nồng ngan ngát của nước hồ tù, mùi dìu dịu ngây ngây của những chùm phượng, mùi ngòn ngọt man mát của mấy bông hồng trong vườn hoa phía bên kia đường, tất cả quyện vào nhau thành một thứ hương ngây ngất hồn người. Tôi đứng dậy, lòng nhẹ lâng lâng, tinh thần sảng khoái. Hôm nay hơi đặc biệt, tôi tự thưởng công 3 đồng, đi thẳng lên ngõ Hàng Giầy chén một bữa nem cua rán. |
|
|
![]()
Post
#25
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi Hai
Lẩn Tránh... Lúc ngồi chờ bà hàng đang cắt, những chiếc nem cua vàng ngậy thơm phức, tôi dật dờ nghĩ đến linh mục A. Chắc từ bữa ấy, người đang chờ, mà tôi mãi biệt tăm. Nếu người hiểu rằng, tôi mà không bén nhậy thì đã đưa người vào chỗ chết rồi. Tôi suy nghĩ, cân nhắc các tình huống xem có thể có điều kiện nào trở lại với người. Với tình trạng bao vây bám sát của địch dày như thế này, không thể được! Không nhìn rõ vấn đề, mơ hồ lao vào, thật là sai lầm, đôi khi lại trở thành người gây tội ác nữa. Đêm ấy, tôi trở lại nhà trọ Hàng Buồm. Đêm nằm suy nghĩ miên man đến cảnh giao tài liệu lúc sáng. Riêng về điểm này, Sài Gòn đã dự trù được trước các tình huống, thật đáng ca ngợi. Nếu không như vậy, không có cách nào tôi trao được tài liệu “M”, khi tôi bị 5, 6 cái “đuôi” bám sát. Thật cũng may, ngay khi tới Hà Nội, tôi đã trao được tài liệu X cho Z-5, lúc địch chưa phát hiện. Chứ bây giờ, làm sao có thể thực hiện được. Giòng suy nghĩ của tôi cứ chảy hoài: Làm sao bây giờ cắt được “đuôi” đây? Tôi nhớ lại những lần thực tập ở Sài Gòn, Biên Hòa, Mỹ Tho, bao nhiêu cái “đuôi” tôi đều phát hiện hết, và cuối cùng tôi cũng đều cho họ vào xiếc, đột nhiên biến mất. Nhiều lần Brown, Dale, và Phan đã bắt tay ca ngợi tôi. Lúc đó, sở dĩ tôi thi thố được khả năng là do: phương tiện lưu thông của đường phố; nhiều nơi tụ họp ăn chơi đông đúc; còn người dân thì chuyện ai nấy lo, họ không cần quan tâm đến việc của người khác. Nhưng ở Hà Nội lúc này, tình huống hoàn toàn ngược lại với 3 yếu tố trên. Muốn cắt “đuôi” bất ngờ thì phải: Lợi dụng xe cộ ngược xuôi đông đúc, nhảy xe này, xuống xe kia, sang xe khác, trong khi đó, đường phố Hà Nội lại toàn là xe đạp, nhảy đâu? Chạy đâu? Những nơi đông đúc tụ hội ăn chơi, có nhiều ngõ trước đường sau, cửa ngang, cửa dọc, xe cộ qua lại nhiều, có chỗ che nấp. Vừa đấy đã biến lên xe chạy chỗ khác rồi; trong khi ở Hà Nội thời ấy làm gì có cảnh đó. Về người dân, đa số dân người Bắc nói chung, và Hà Nội nói riêng, hãy còn mơ hồ về “chiếc bánh vẽ thơm ngon” mà Cộng Sản hứa hẹn, nên còn cuồng tín, quá khích, nghĩa là còn đang bị Cộng Sản bịp, chưa sáng. Ngoài ra, mọi lứa tuổi, mọi loại người đều phải ở trong đoàn thể. Không hội này thì cũng đoàn thể khác. Nếu ai đó, không ở trong đoàn thể nào, là người ngoài vòng pháp luật như ăn trộm, ăn cắp lưu manh…hay như tôi. Nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, phụ nữ, phụ lão, v.v…đều phải đi họp đoàn thể. Thêm nữa, do chiến dịch “Phòng gian, phòng gián, bảo mật” đang được chính quyền thúc đẩy mạnh tối đa. Bất cứ một đoàn thể nào, ngoài công việc riêng của đoàn thể đó ra, đều được giáo dục, chỉ thị như là một ý thức tự giác. Mỗi khi thấy một người lạ ở khu vực mình, phải có trách nhiệm trình báo kịp thời. Thấy một người hỏi thăm đường, hỏi thăm nhà, một hiện tượng không bình thường…Phải đến báo ngay cho nhân viên chính quyền, ở gần nhất trong khu phố. Cho nên, phần vì để khỏi trách nhiệm sau này, phần khác, vì hãy còn mơ hồ tưởng Cộng Sản là chính nghĩa, sẽ đem lại hạnh phúc cho mọi người. Tưởng rồi đây cuộc đời của họ sẽ được hưởng cái “thiên đường hạ giới” do Cộng Sản hứa hẹn (lúc ấy, họ đã đâu nhìn thấy “nó” chỉ là…cái bánh vẽ). Đa số người dân, nếu công an hỏi, là họ chỉ ngay, đôi khi chính họ còn tự động theo dỏi mình nữa. Cụ thể như lão già chó chết ở xã Kỳ Phương, Kỳ Anh. (Tình trạng trên là từ 1965 trở về trước, chứ từ 1965 trở về sau, diễn tiến khác đi nhiều. Xin trình bày ở một đoạn khác). Vì thế, hoàn cảnh của tôi lúc đó, dù phát hiện được hết địch, cũng không chạy được đâu thoát. Phải nghiêm khắc, thành khẩn mà nói, yếu tố cơ bản vẫn chính là tôi chưa hiểu đủ sự tàn bạo, độc hiểm của Cộng Sản. Cộng với tính cớ hữu của người lính chiến của thế giới tự do là ngại khó, ngại khổ (chịu khó khăn, gian khổ một thời gian nào đó thì được, chứ trường kỳ ai cũng ngại). Điểm trên là điểm sai lầm trầm trọng đầu tiên tôi mắc phải. Lúc đó, tôi suy nghĩ, có thể vì ở Hà Nội công an ngầm như rươi, chúng có bổn phận theo dõi mọi người lạ vào thành phố. Vậy, ta thử làm một chuyến đi xa xem sao, vừa đo lường sự phản ứng của phản gián Hà Nội. Đồng thời, nếu có thời cơ, cắt “đuôi” trốn lánh. Tính như vậy rồi, tôi đi vào giấc ngủ và ngày mai sẽ đi Vinh. Sáng hôm sau, tôi dậy sớm lúc 5 giờ, ra đón xe điện, xuống bến Kim Liên. Cho tới khi đến bến xe đò, tôi chỉ phát hiện được 4 cái “đuôi”, hai cái trên xe điện, một đi “mô bi lét” và một đạp xích lô. Nhưng, chừng 15 phút sau, ở bến xe lại có thêm hai cái đuôi nữa, hai người này tôi đã biết mặt. Tôi nhìn phía quầy bán vé đi Vinh, khách đang xếp hàng dài trên 30 người. Tôi đếm thầm, đến lượt mình lấy vé khéo phải 10, 11 giờ. Mỗi người lấy vé rất lâu, phải ghi tên tuổi, nộp giấy thông hành, rồi còn bị cật vấn nữa, tùy theo trường hợp. Tôi cũng đành đứng vào xếp hàng. Lưng chừng tôi mới hiểu, đây là xếp hàng đăng ký lấy vé cho ngày mai. Muốn đi Vinh, phải đến xếp hàng đăng ký trước một ngày. Tôi thấy thật nản! Giữa lúc đanh lửng lơ suy tính, một anh mặc áo bộ đội, cụt một chân chống hai cái nạng, rao bán lại một vé. Thời gian này, đa số dân chúng miền Bắc mặc quần áo bộ đội, Bởi vì, nếu họ không là cán bộ, thì họ cũng là công nhân ở công ty, xí nghiệp, nhà máy v.v…hoặc là bộ đội phục viên. Chỉ khác bộ đội là không đeo quân hiệu, quân hàm. Anh ta đến gần chỗ tôi nói to: - Tôi còn thừa một vé đi Vinh, của ngưòi em bị sốt nặng không đi được hôm nay. Ai đi tôi để lại? Tôi vẫn đứng yên. Có thể số người đang xếp hàng, đã dự trù công việc cho ngày mai mới đi, nên không thấy ai đến hỏi. Riêng tôi, tôi đặt vấn đề ngay, chắc chắn phản gián Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi đi kịp những ngày giờ tôi muốn, để chúng dễ dàng theo dõi tìm manh mối. Thí dụ: chúng nghĩ hôm nay tôi cần gặp ai ở một điểm “X” nào đó, nhưng vì nhỡ xe, tàu, tôi sai hẹn không đến được, hư công việc của tôi, mà chúng cũng không biết tôi làm gì. Tôi hiểu thế, nhưng không sao, tao đã biết mày rồi mà! Tôi tiến đến chỗ anh cụt chân. Cùng lúc ấy, một người cũng tách khỏi hàng đi đến mua chiếc vé ấy. Anh cụt chân chỉ tôi, nói: - Anh này đã đến trước, vậy tôi để cho anh này. Tôi biết, dù có đến sau, tôi cũng vẫn mua được chiếc vé đó. Lúc ấy, một chiếc xe đò chạy đến, anh “lơ” và tài xế mở cửa nói: - Đồng bào đi Vinh lên xe! Hơn 30 hành khách gồng gánh, mo, bị…lục tục kéo nhau chen chúc lên xe. Anh cụt cũng đi và vẫy tôi cùng lên xe. Thì tôi cứ đi lên! Ngay trong số hành khách này, không kể anh cụt chân, tôi còn nhận ra hai người nữa đã quen mặt từ trước, một ngồi sau tôi, và một phía trước. Hành khách lên hết, xe bắt đầu chạy ra đường phố, cũng là Quốc Lộ 1. Ra đường, xe bị cảnh sát ngoắc tay bắt ngừng. Cảnh sát xem giấy tờ ở chỗ tài xế, rồi điểm người xem có đúng với số vé đã bán, v.v… Tên cảnh sát cũng hạch hỏi tài xế lôi thôi. Tôi hiểu rằng, chẳng qua tôi đi hơi đột xuất, phản gián Hà Nội chưa chuẩn bị kịp phương tiện, nên cố ý bắt xe ngừng chờ mà thôi. Hành khách, biết gì đâu. Một bà ngồi cạnh tôi, sốt ruột nói: - Hỏi cái gì mà hỏi lâu thế, không để xe đi cho rồi… Nhưng bà chỉ giám nói nhỏ, cảnh sát không nghe thấy. Chừng 20 phút sau, cảnh sát mới cho xe chạy. Xe chạy tới vườn hoa “Thống Nhất” thì ngừng lại. Một anh “lơ” xách một chiếc thùng chạy qua đường vào vườn hoa, chắc là lấy nước để đổ vào xe. Đúng thế, chừng 5 phút sau, anh xách thùng nước đến đầu xe, anh tài xế đã mở “cốp” để đổ nước. Anh “lơ” lại chạy trở lại vườn hoa. Tôi thoáng nhìn trong vườn hoa, chỗ bụi găng, qua một khe hở lá cành, là bộ mặt an đi “Mô bi lét”. Anh rút ra một cuốn sổ nhỏ và hý hoáy ghi, thỉnh thoảng nhìn ra đít xe, chỗ bảng số. Anh cụt ngồi cạnh tôi giả vờ lơ đãng nhìn đâu, nhưng tôi hiểu là anh cũng chẳng bỏ sót một cử chỉ nào của tôi. Lại còn anh chàng ngồi băng sau nữa. Tôi muốn nhìn lại phía sau. Để cho có vẻ tự nhiên, tôi vờ chú ý đến một chiếc xe hàng từ trước mặt đang chạy lại, và tôi nhìn theo. Phía sau, xa chừng 200 mét, một chiếc Commanca cùng với số xe đã theo tôi vào hà Đông, HN5037, đang đậu sát mé hè, sau hai chiếc xích lô. Chẳng hiểu sao, xe đã đổ nước rồi, mà vẫn chưa chạy. Chẳng lẽ tài xế cũng là phản gián? Chúng có máy điện đàm hay sao mà lạ thế? Hình như tụi phản gián chưa chuẩn bị kịp. Tôi thắc mắc nên để ý. À, tôi liếc mãi phía trong vườn hoa, tên đi “Mô bi lét” và tên “lơ” xe đang nói gì với nhau. Như vậy, rất có thể tên “lơ” là một loại công an mật (cả hình sự, kinh tế và chính trị) đi xe đò đường trường. Đổ nước quái gì đến 20 phút. Nhiều hành khách la ó nhưng anh tài vẫn không trả lời. Tụi phản gián còn chờ gì nữa chứ? Sau cùng, tên “lơ” cũng ra và xe chuyển bánh. Khi xe gần đến Phủ Lý, chiếc xe mang số HN5037 vượt lên trước. Khi xe đó đi ngang qua, tôi thoáng thấy bên trong có 4 tên. Toàn những khuôn mặt lầm lỳ và lạ, có tên đến 40 tuổi. Tôi giả vờ nhìn cánh đồng lúa đang gặt bên đường. Khi xe đò chạy qua, tôi còn cố ngoái lại xem, nhưng thực ra là để nhìn lại phía sau xe. Xa xa chừng hơn 300 mét là một chiếc xe đen kiểu Citroen mà tôi đã nghi. Xe hàng ngừng lại ở thị xã Phủ Lý để đón thêm mấy bà khách nữa, tôi để ý nhìn thấy “chú” HN5037 đậu mãi tít trong phố quay đầu ra. Chiếc xe đen vượt qua. Trong xe cũng 4 người kể cả tài xế, có cả tên đeo kính râm, đội mũ cát két. Hôm nay, y đội mũ và mang kính giống như buổi ban đầu tôi gặp y ở nhà thờ X. Chà, lực lượng hùng hậu quá nhỉ! Tổng cộng 11 tên: 3 trên xe đò, 8 ở hai xe con. Còn nữa không? Chắc hôm nay chúng nghĩ tôi tới điểm hẹn để được đón về Nam, nên chúng phải huy động nhiều thế để mong vồ cả mẻ. Khi xe tới Quất (Ninh Bình), hành khách phải xuống xe đi bộ qua cầu. Một dẫy gần 20 chiếc xe chực chờ để qua cầu. Tôi nghi ngờ một chiếc xe Commanca nữa, vì thoáng thấy một tên trong xe Citroen nói chuyện với người của chiếc xe đó. Qua núi Cánh Diều, Ninh Bình rồi vào Thanh Hóa, xe đò ngừng. Trên xe, tôi cứ vờ limdim ngủ gà, ngủ gật. Có lúc tôi nghe một hai câu trao đổi của những ngưòi ngồi bên cạnh, thì tên cụt cũng đi Vinh. Đến thị xã Thanh Hóa, xe đò ngừng. Khách lên, Khách xuống gần nửa tiếng đồng hồ mới xong. Khi xe ra khỏi thị xã Thanh Hóa, chiếc xe đen vượt qua. Tôi tính thầm, xe đò chạy khoảng 10 cây số nữa thì tới lượt chiếc xe HN5037. Sau đó, tôi lại thấy chiếc Commanca thứ 3 ở Quất với số HN (tôi quên số rồi) chạy sau xe tôi một lúc rồi cũng vượt lên trước. Trên xe này có 3 người kể cả tài xế, có một người, tôi thật khó quên được. Khoảng 50 tuổi, tóc đã điểm sương, đeo kính trắng, phong thái chỉ huy. Có thể vì xe hàng chạy chậm, hoặc thấy tôi từ trước không hề tỏ một ý gì, là nghi ngờ bị theo dõi. Hơn nữa, chúng tin vào còn 3 người của chúng trên xe đò, cho nên cả 3 xe nhỏ đã vượt lên trước. Một kế hoạch chợt lóe lên trong óc tôi. Xe đang chạy trên con đường dài, hai bên toàn ruộng lúa, thỉnh thoảng có một con đường dẫn vào làng xóm xa xa hai bên đường. Bây giờ, nếu bất chợt tôi kêu tài xế ngừng xe cho tôi xuống đây. Không thể vì lý do gì cả 3 tên trên xe cùng xuống (như thế lộ liễu quá). Chúng phải theo xe đi cả chục cây số nữa mới gặp mấy chiếc xe con kia để báo cáo. Hoặc chúng cũng xuống, nhưng phải đi một đoạn nữa mới bảo tài xế ngừng, để tôi khỏi nghi. Còn tụi xe nhỏ phải chờ xe đò chạy tới báo cáo mới biết là tôi đã xuống rồi, lúc đó chúng mới quay xe lại. Như vậy, tôi có ít nhất 20 phút hoặc hơn để thoát thân. Tôi chỉ việc, nếu tôi định ra phía trái là bờ biển, thì khi xuống xe vờ đi rẽ về phía phải; vì chắc chắn 3 tên trên xe sẽ nhìn theo. Đợi khi xe đò chạy đủ xa, để không thể nhìn lại thấy. Lúc đó, với khả năng nhanh nhẹn tối đa, tôi phải bò qua đường, sang phía trái, rồi vắt giò lên cổ mà lủi. Ngược lại, nếu tôi định vào phía núi để chuồn sang Lào, tôi cũng phải làm như vậy để đánh lạc hướng tụi phản gián. Làm cho chúng hiểu lầm, là tôi ra điểm hẹn đón ở phía biển bằng thuyền. Tính trong đầu óc như vậy, nhưng tôi đã không thực hiện. Như tôi đã trình bầy ở trên, vì chưa hiểu đủ sự tàn ác, tham hiểm của Cộng Sản. Tôi cứ nghĩ rằng, dù chúng có bắt được tôi, nhưng tôi đã làm gì đâu, toàn lang thang đi chơi. Hơn nữa, nếu tôi nói là chán chường cuộc sống, vì bị cái thế phải đi, lại nhớ Hà Nội; nên khi ra tới nơi, chỉ đi chơi chứ không hoạt động gì cả… Chắc chúng cũng phải tin thôi. Vả lại, ngưòi của chúng đã hàng ngày thường xuyên theo dõi, thấy thực tế là như vậy, thì cùng lắm chúng giam giữ 2, 3 năm rồi cũng tha!... Thêm nữa, tính hãy còn ngại khó, ngại khổ. Trốn như kế hoạch trên, có thể thoát, có thể bị bắt ở biên giới Lào-Việt, hoặc ở Lào…Điều chắc chắn là rất gian khổ, chui rúc bờ bụi, đói khát…Chính vì những ý nghĩ sai lầm đó, nên đã tính trong đầu rồi, tôi lại không thực hiện. Đó là điều đã làm cho tôi ân hận giầy vò, cấu xé lòng tôi cho tới bây giờ. Nếu lúc đó, hiểu đủ về Cộng Sản, dù vào tới rừng rú đói khát mà chết, tôi vẫn cương quyết xuống xe lúc ấy, để thực hiện kế hoạch. Đây là một lời nói rất trung thực. Tôi sẽ minh chứng bằng thực tế sau này. Xe vào tới thị xã Vinh, trời đã 5 giờ chiều. Tôi xuống xe, vào hiệu cơm quốc doanh đánh một bữa. Thị xã Vinh rất ít xe, vì thế, 3 chiếc xe theo tôi càng phải giơ mặt ra nhiều lần cho tôi thấy. Như vậy, lực lượng của phản gián Hà Nội vào đây tất cả 14 mạng, với 3 chiếc xe: 2 Commanca và một chiếc Citroen 15 mã lực đã cũ. Đang rẽ vào con đường đến nhà trọ, tôi thoáng thấy anh Trí và một chị bế đứa nhỏ, tôi đoán là vợ con anh. Tôi vờ làm mặt xa lạ và định rẽ sang một phố khác. Nhưng, không kịp nữa rồi, anh đã trông thấy tôi. Anh chạy theo đập vào vai tôi: - Hùng đấy à! Đi Hà Nội đã về đấy ư. Đi đâu bây giờ đấy? Anh cứ rối rít vồn vã, trong khi lòng tôi bấn lên, không biết xử trí làm sao. Tôi rất lúng túng, tôi hiểu là vì chuyện này, anh Trí sẽ gặp nguy hiểm về sau. Nhưng trong hoàn cảnh đó, tôi đành để rồi tùy cơ thích nghi cho anh sau này. Nghĩ vậy, tôi cười và nói to (để cho tụi phản gián cũng nghe thấy), trong khi chị bế con cũng đã đến gần. Trí giới thiệu: “Đây là vợ tôi”, rồi Trí tiếp: - Hôm đó, khi về đến nhà, tôi cũng đã nói chuyện với bố mẹ và vợ tôi về Hùng. Bây giờ về nhà tôi ngủ nhé! Tôi sẽ giới thiệu Hùng với bố mẹ tôi. Ông bà cũng muốn gặp Hùng! Tôi cưới lớn: - Thế hai anh chị định đi đâu đây? Trí giơ cái túi có hai quả bí ngô và cái lốp xe đạp đang đeo ở vai, nói: - Đi mua mấy thứ này đây! Tiện thể vợ tôi cũng đi chơi. Trí hỏi tôi ăn uống gì chưa, tôi chỉ vào quán cơm trả lời: - Mình vừa đánh căng bụng ra đây! Trên đường về nhà Trí, tôi ghé mua mấy gió lạc và túi kẹo cho con Trí. Sau khi sang qua phà Bến Thủy, đến một ngôi nhà nhỏ ở bên đường Quốc lộ. Lần trước trong chuyến xe từ Hà Tĩnh ra, tôi đã thấy Trí ngồi trong ấy. Trí mở chiếc khóa nhỏ, kéo tấm liếp vuông che cửa, mời tôi vào. Trong nhà đã mờ tối, Trí tìm đèn đốt lên. Ngọn đèn đầy bụi đất, thật tù mù. Tôi thấy cảnh nhà trí thật nghèo nàn, túng quẫn: Một chiếc phản gỗ thứt thẹo, hai, ba sợi xích xe đạp cũ rích. Một cái khung xe gẫy, vài cái bàn đạp vất lỏng chỏng. Một cái tủ nhỏ tí, đen đũi, cóc gặm; chắc là đựng dụng cụ sửa xe đạp của anh. Anh lấy chổi quét cái phản rác rưởi, rồi vào buồng lấy ra một manh chiếu đã rách ở giữa, trải lên: - Đêm nay, anh em mình sẽ nằm đây, hút thuốc lá, nói chuyện. Thấy nhà thấp lè tè và tối mù, tôi kéo tay Trí: - Còn sáng, mình ra ngoài nói chuyện đi, tí nữa hãy vào. Chị Trí khi nãy đã chào tôi để vào nhà bố mẹ, Trí dặn với theo: - Mình về, chốc nữa anh không vào nữa đâu! Trí quay lại hỏi tôi: - Trong đó là nhà bố mẹ và vợ mình ở. Đêm nào, tôi cũng phải ngủ ngoài này. Cách đây hơn một tháng, mình bị nó cậy cửa, vào lấy hết các đồ chữa xe đạp. Tôi băn khoăn hỏi: - Mất nhiều không? - Gần một trăm đồng. Tôi nhìn Trí ái ngại, nhà đã nghèo, lại còn bị mất trộm. Tôi đưa giấy thông hành cho Trí trình công an để tôi ngủ lại đêm. Trí gạt tay tôi ra, bảo: - Chả cần, ông phó chủ tịch xã ở cạnh nhà mình trong ấy, mình rất quen, không sao đâu! Tôi không muốn gây phiền cho Trí sau này, nên gằn giọng: - Trí cứ nghe tôi, đi trình giấy cho tôi. Trí đồng ý và cầm giấy đi vào xóm. Tôi trở vào trong nhà. Trời đã tối, đường không có đèn điện, nên cảnh vật bên ngoài tối mò. Tôi hiểu là sẽ có nhiều người nhòm ngó, canh gác tôi đêm nay. Nhưng tôi cũng chẳng cần để ý làm gì, tôi có định làm gì đâu. Điều làm tôi suy nghĩ băn khoăn nhiều là Trí. Bây giờ đã trót thế này, chỉ còn một cách là sau này nếu tôi bị bắt, tôi phải khai báo tỉ mĩ thực tế gặp Trí thế nào, từ Kỳ Anh ra. Mặt khác, ngày mai, tôi cứ phải vào thăm bố mẹ Trí thì phản gián Hà Nội mới không nghi Trí. Một lúc sau, Trí trở về: - Ngày mai, Hùng sẽ vào nhà bố mẹ, mình sẽ giới thiệu, bây giờ tối rồi. Nhà rất nhiều muỗi. Trí đem cái màn mầu đen xí, rách mướp ra mắc. Hai người chui vào màn nằm hút thuốc nói chuyện. Chừng một lúc, buồn ngủ quá, tôi ngủ luôn. Đêm đó, có lúc giật mình tỉnh giấc, tôi nghe tiếng xe cộ quần đi, quần lại nhiều lần, đèn pha loang loáng. Trí cũng lấy làm lạ: - Không hiểu sao đêm nay, xe cộ đi lại nhiều thế! Tôi lên tiếng: - Mọi khi có như vậy không? Trí trả lời, giọng ngái ngủ: - Ban đêm, ở đây thường không có xe chạy nhiều thế. Tôi suy đoán: Có thể phản gian Hà Nội cho rằng đêm nay, thuyền hoặc tầu sẽ đến đón tôi (ở đây cũng gần cửa biển), cho nên, để phòng hờ những bất ngờ, họ phải báo cáo cho cả Hải Quân và du kích địa phương ở khu Bến Thủy. Mặc họ, tôi không có ý định gì ở đây cả. Ngày mai, tôi sẽ trở về Hà Nội. Sáng hôm sau, Trí dẫn tôi vào nhà bố mẹ. Chúng tôi len lỏi qua những đường mòn trong xóm vào tới nhà. Một căn nhà 3 gian trống tuếch toác, chỉ có một gian được che bằng những tấm liếp để làm căn buồng, mái tranh lòa xòa, chỗ dài, chỗ ngắn xác xơ. Tôi thấy bố mẹ Trí đã già khoảng 50 tuổi rồi. Ông cụ đang ngồi vá lưới ở sân. Bà cụ trông rất hiền hậu, vẻ quê mùa, đang quét sân. Qua một số câu chuyện, tôi được biết, hai ông bà khi còn ở Thái Lan sống rất dư giả, tuy cũng làm nghề đánh cá, nhưng có chiếc thuyền to chạy máy. Nghe Cộng Sản tuyên truyền nước nhà độc lập, nhân dân hạnh phúc ấm no…Ông bà bùi tai, hồi hương. Ông bà đã được xem những cuốn phim chiếu cảnh sinh hoạt của người dân ở quê nhà, chỗ nào cũng thấy nụ cười và tiếng hát. Hơn nữa trước đây, khi các đồng chí lãnh đạo đảng và nhà nước, lúc bấy giờ còn hoạt động bí mật ở Thái Lan, chính ông bà cũng đã đóng góp nhiều tiền giúp đỡ. Người dân Việt xa quê hương lâu ngày, ai chả nặng lòng với nơi chôn nhau, cắt rốn. Vả lại, rất nhiều người đã bán nhà, đồ đạc về nước rồi viết thư sang đều nói tốt đẹp, cho nên cứ người này theo người kia về với Tổ Quốc thân yêu! Ông bà bán nhà và các thứ, cộng với số tiền đã dành dụm được hơn chục lạng vàng. Khi về tới Hải Phòng, cờ quạt trống chiêng, tưng bừng đón rước. Hơn 400 kiều bào trên chuyến tầu đó được mời đến một khu nhà đón tiếp căng đầy biểu ngữ “Hoan hô những người con yêu, đã trở về với đất mẹ”. Sau đó, gọi là để học tập đường lối chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngõ hầu hội nhập ngay với cuộc sống mới, khỏi bỡ ngỡ buổi ban đầu. Trong việc học tập, có cả việc phải khai báo đăng ký số vàng và tiền mang theo. Đang hồ hởi yêu nước, yêu quê hương về với cách mạng, ai ai cũng nhiệt tình đăng ký với sự hân hoan chân thành. Đăng ký, đều có giấy tờ biên nhận từng loại rõ ràng. Của cải đó nhà nước sẽ giữ cho. Khi về tới địa phương muốn làm ăn khuếch trương công việc gì, đồng bào sẽ lấy dần ra. Đó cũng chỉ là một hình thức bảo đảm an toàn, khi đồng bào mới về chưa ổn định. Cộng sản nói như vậy! Về tới Vinh, Nghệ An, lúc đầu ông bà thăm họ hàng làng nước, đó đây, cho chác người nọ người kia: Hả hê , hồ hởi, phấn khởi, nên cứ phải lấy dần tiền. Giá vàng tính theo giá chính thức của nhà nước thì chả được bao nhiêu. Khi còn chừng một nửa, nhà nước đòi phải có lý do chính đáng mới cho lấy ra. Ông bà chỉ lấy được một lạng nữa, mua cái nhà tranh, sắm chiếc thuyền con đánh cá…Là vừa cạn. Hiện nay, ông bà và hai vợ chồng Trí rất vất vả, chật vật kiếm sống hàng ngày. Bữa cơm, bữa cháo, cơm thường phải ăn độn. Ông bà cứ lắc đầu thiểu não than van cho cái ngu dại của mình. Cả hai ông bà cứ vật nài mời tôi ăn bữa cơm sáng hôm ấy. Tôi tỏ ý phải về Vĩnh Linh, vì đi chữa bệnh đã lâu ngày, ở nhà bố mẹ mong. Thực lòng vì thấy ông bà và Trí quá nghèo khổ, tôi không muốn ăn uống làm gì sợ tốn phí cho ông bà. Nhưng sau, tôi không thể từ chối được. Trí đã phải chạy xóm này, xóm kia mà bữa cơm cũng chỉ có một quả trứng vịt tráng, 3, 4 con cá diếc bé síu và bát rau muống luộc chấm mắm cáy. Tôi rất xúc động biết ơn ông bà, nghèo mà đầy tình nghĩa. Trí muốn đưa tôi ra bến xe, tôi giúi vào tay Trí 20 đồng, nói: - Tôi về Hà Nội, bà cô cho 50 đồng, tôi chẳng tiêu gì, vậy biếu Trí chút ít mua qua cho cháu. Trí nhất định không nhận, tôi phải nằn nì hết sức: - Vậy tôi gửi Trí giữ cho tôi, kẻo về tôi tiêu hết. Tháng sau tôi sẽ lại ra… Mãi Trí mới nhận giữ hộ tôi. Trên đường về Hà Nội, đầu óc tôi thật căng thẳng rối mù. Tôi cứ lo Trí bị liên quan. Tôi có định đến nhà Trí đâu! Làm sao đây! Do sự áy náy bứt rứt về Trí, cộng với cảnh nằm trên nước sôi lửa bỏng. Không chạy đâu được nữa, đầu óc tôi càng thêm rã rời u uẩn. Về tới Hà Nội, trời đã gần tối. Tôi lại về nhà trọ Hàng Buôm. Rất buồn, lo và mệt, vì thế, sau khi ăn uống qua loa, tôi về đi nằm luôn. Đi nằm mà đâu có ngủ được. Bao nhiêu suy nghĩ vơi đầy. Biết thân mình sắp lao xuống vực thẳm của cuộc đời, mà không còn biết cách nào kìm hãm lại được, đành đứng nhìn. Phó mặc, để nó lăn dần vào chỗ chết, bằng con mắt tuyệt vọng não nề. |
|
|
![]()
Post
#26
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi Ba
Phó Mặc... Ưu sầu tràn ắp, tôi đi dần vào giấc ngủ chập chờn năm canh. Sáng hôm sau, khi tôi bừng mắt dậy, mặt trời đã mọc. Những tia nắng bình minh rực rỡ xuyên qua cửa sổ nhà trọ như truyền sinh lực vào cho tôi. Phải rồi, người trai, tấm thân nam nhi đâu được nằm đây mà sầu héo lo âu, phiền muộn. Sự âu sầu này, có giải quyết được những khó khăn sinh tử trước mắt không? Chắc chắn là không! Tôi bật dậy, tắm rửa, đi ăn sáng, rồi đi ra bờ hồ, bên đường Lý Thái Tổ, phía bên kia nhà Thủy Tạ. Tôi đi xuôi mãi xuống đến những ki ốt giải khát. Tôi mua một chai bia Trúc Bạch, loại này khá hơn bia Hà Nội, tuy vẫn nhạt phèo so với bia 33 của Sài Gòn. Tìm một bàn sát mé hồ, một ly bia, một bao thuốc lá, tôi ngồi đăm chiêu nhìn ra hồ, chẳng cần để ý đến những cái “đuôi”. Thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ từ giữa hồ thổi tới, đưa theo cái dìu dịu của ban mai mùa Hè, làm tinh thần tôi sảng khoái. Tôi ngồi cân nhắc, suy lý, tính toán. Sớm hay muộn Hà Nội sẽ bắt, vậy khai báo như thế nào? Tôi nhìn lại toàn bộ sự việc, cái gì có thể che giấu, cái gì không thể che giấu. Điều gì phản gián Hà Nội đã biết và sẽ phải biết về tôi. Dù sau này, chúng có người nằm trong Cục tình báo Sài Gòn. Cứ loại điều này, bổ sung điều kia, dần dần tôi hình thành một nội dung như sau: Tôi dẹp ngay “vỏ bọc 2 và 3”. Hai vỏ bọc này thật ấu trĩ, Cộng Sản không thể tin được. Nếu khai ra bằng đường biển và ngày thuyền sẽ ra đón tại điểm đổ bộ, Cộng Sản sẽ bắt tôi đến điểm hẹn, đánh tín hiệu để hải thuyền vào đón. Sẽ làm cho bao nhiêu chiến hữu khác bị rơi vào bàn tay đầy máu của kẻ thù, sẽ bao nhiêu gia đình nữa khổ đau mất cha, mất chồng, mất anh em. Thà chết, dứt khoát không thể làm thế được! Vậy, nếu bị bắt, tôi sẽ khai là đi đường bộ, do đó chỉ cần moi óc tìm ra những hình ảnh liên quan. Cũng may, tôi đã ra bờ sông Bến Hải, lại có nghiên cứu kỹ Quốc Lộ 1 từ Vĩnh Linh tới Hà Nội. Vậy, dựa vào đó khai. Để phòng hờ những di chứng sau này, tôi về nhà trọ, tôi phải tháo cả chiếc túi con dấu tài liệu tôi đã khâu bên trong quần đùi. Dùng “vỏ bọc 4” là duy nhất. Theo dõi sư đoàn 308 phòng thủ thủ đô Hà Nội, do tướng Vương Thừa Vũ là Sư Trưởng. Do thi cử nhiều lần không đậu, lại chán chường xã hội miền Nam, vì thế, khi có người giới thiệu, tôi cứ đi. Dù trong lòng rất sợ, vì muốn có chút tiền để giúp đỡ cha mẹ già yếu, nên liều. Nghĩa là ở cái thế bắt buộc phải đi. Do đấy, khi tới Hà Nội, tôi chẳng làm gì cho chính quyền miền Nam. Nhớ cảnh cũ thời thơ ấu, nên chỉ đi loanh quanh khắp Hà Nội chơi. Tôi sẽ kể hết sự thực: ra tới Kỳ Anh gặp Phùng Văn Trí, v.v…về tới Hà Nội làm những gì, đi những đâu…đều khai hết, chỉ bỏ những chi tiết liên quan đến tài liệu “M”, “X”, và thư cha Hoàng Quỳnh. Dứt khoát là không hề biết có người theo dõi mình. Lúc đó, tôi ngây thơ tính toán là mình cứ khai rằng chả làm cái gì và giữ đúng lời khai như vậy, tù bất quá 3, 4 năm. Khi được thả ra, nếu có điều kiện sẽ trốn về Nam. Với đầu óc hãy còn ấu trĩ về Cộng Sản của một thanh niên 24 tuổi như vậy, nên tôi yên tâm hơn, và lại bắt đầu đi chơi, muốn bao giờ bắt thì bắt. Ngay chiều hôm ấy, tôi đi xe điện lên Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, thăm con đường Cổ Ngư. Tôi xuống xe điện chỗ đầu Quan Thánh, vào chùa Quan Thánh xem. Những viên gạch cổ lát ở sân chùa, nhiều viên đã bể vỡ, cỏ rêu ở kẽ mọc tùm lum. Toàn bộ cái sân to, chỉ còn là mầu xanh rì của rêu cỏ với từng đống lá khô mục nát. Nơi đây, hẳn khi xưa đã in bao nhiêu vết chân của nhà sư Tuệ Chiếu, bây giờ đã về nơi cát bụi. Tôi rời chùa, rẽ ra con đường Cổ Ngư (giờ gọi là đường Thanh Niên). Ngày xưa, nơi đây là chỗ hẹn hò của trai gái Hà Thành thanh lịch, cũng như khách nhàn du. Đông nhất là vào những buổi cuối tuần, với những hàng bánh tôm, thịt bò khô nổi tiếng Hồ Tây. Giờ đây, Cổ Ngư vắng tanh, trên đường, hai bên hồ gió lộng, thỉnh thoảng đôi ba chiếc xe đạp, hoặc một chiếc xe bò chậm chạp, lê theo bước chân của một bác dân nghèo đang gò lưng phía trước. Tôi lững thững thả bước đi mãi, tai nghe tiếng bì bõm của sóng nước hồ Trúc Bạch bên phải và Hồ Tây bên trái vỗ vào bờ. Cũng vẫn hàng phượng vĩ đỏ ối lắc lư với tiếng ve sầu rả rích. Kia là chùa Trấn Võ. Tôi lại nhớ đến bà Huyện Thanh Quan, rồi Cao Bá Quát: “Trấn Quốc hành cung cỏ dãi dầu. Chạnh lòng cố quốc nghĩ mà đau…” Lên quá tí nữa là “Petite Đồ Sơn” với bao nhiêu kỷ niệm thơ ngây của buổi thiếu thời. Xa nữa là Nghi Tàm, Quảng Bá, với những cây ổi quen thuộc ngày nào. Bây giờ ra sao, nơi quê hương của Thị Lộ mỹ miều? Cảnh Hồ Tây thật quyến rũ hồn du khách. Chẳng hiểu những cái “đuôi” của tôi có cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, trên mảnh giang sơn cẩm tú của Tổ Quốc Việt Nam này không? Mặt Hồ Tây bao la trắng xóa một vùng, lúc này chỉ gợi lên trong tôi một nỗi lạc lõng chơ vơ: “Mênh mông, không một chuyến đò ngang, Lang thang, núi bạc mây chiều …” Chiều đã xuống dần, mặt trời cũng đi ngủ. Một vài con cò trắng cất cánh bay về phương trời xa. Tôi quay lại, trở về, lòng mang mang nặng trĩu. Cứ như vậy, những ngày sau, tôi đi hết về phía này, lại về phía kia của Hà Nội. Cũng nhiều cảnh, nhiều tình huống tệ nạn xã hội xảy ra trên đường làng, đường phố. Tôi nghĩ rằng không cần kể dài dòng nữa. Tuy vậy, có một sự việc nhỏ đến lúc này vẫn còn hằn trong óc tôi. Chiều ấy, tôi đi xe điện xuống vùng Văn Điển. Tôi đang thả mắt nhìn đồng quê hai bên đường, tầu điện đỗ lại một bến phụ, vài người khách lên xuống. Một bác nhà quê, quần áo nâu hai, ba miếng vá, đi chân đất, gánh một gánh củi cành. Bác vội vàng hấp tấp ôm hai bó củi lên tàu, vừa đẩy gọn vào góc, vừa hổn hển thở. Tàu chạy, anh bán vé từ phía đầu toa đi xuống, ngoắc tay ra hiệu cho bác đưa tiền lấy vé. Vì gần cuối đoạn đường rồi, nên chỉ phải trả 5 xu. Bác nhà quê ngước đôi mắt toét nhèm sợ sệt nhìn anh bán vé, chừng hơn 20 tuổi, hai tay bác vuốt hai túi áo: - Xin anh cho em qua một đoạn đường, trời tối rồi, nặng quá, em cả người không còn một đồng xu nào! Tên bán vé, quắc mắt sừng sộ: - Xuống ngay! Khi tàu đỗ ở một bến kế, tên bán vé dùng chân hất đẩy bó củi xuống đường. Bác nhà quê, riềm mắt đỏ choét, cố gò người kéo bó củi lại, miệng cứ nài nỉ: “Lạy anh, anh thông cảm cho em!”. Mọi người trên tàu cũng nhìn với con mắt ái ngại, nhưng họ vẫn đứng yên. Tôi thấy 5 xu quá bé nhỏ, chả lẽ tôi bảo, để tôi mua cho. Tôi vẫn im lặng, vì tôi đã có chủ định. Đến một bến tiếp, tàu đỗ, hai bên đường vắng vẻ, vẫn toàn ruộng lúa, thấy bác xuống, tôi cũng định xuống theo. Nhưng, rất nhanh, tôi đã kịp giữ lại, vì còn hai cái “đuôi” ở trên tàu, bởi vậy, tôi vất nhẹ một tờ giấy 5 đồng, tôi đã gấp nhỏ lại từ trước vào túi áo bác. Bác thoáng nhìn thấy, thì tàu đã chạy rồi. Tay cho vào túi, bác nhìn theo tàu với đôi mắt mở to, ngạc nhiên và xúc động, trong bóng mờ của buổi chiều tàn. |
|
|
![]()
Post
#27
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi Bốn
Lọt Vào Tay Địch... Ngày hôm sau, rồi hai ngày hôm sau nữa, bữa đó là ngày Chủ Nhật…..Như thường lệ, tôi ra bến xe điện ở bờ hồ mua một ổ bánh mì và một tờ báo. Ăn xong, tôi thả bước về Hàng Trống, đình sẽ ghé vào nhà Thờ Lớn để xem lễ ngày Chủ Nhật. Khi gần đến hiệu phở ở góc đường Lý Quốc Sư, tôi đang đứng nhìn hai người xích lô cãi nhau vì tranh khách, mắt tôi thoáng thấy từ xa, hai tên cảnh sát đồng phục chỉnh tề đang đi lại, dáng mặt quen quen. Tim tôi chợt thót nhẹ. Phải rồi! Hai cái “đuôi” đã từng theo tôi, hôm tôi lên chùa Láng. Hôm nay, chúng ăn mặc đồng phục cảnh sát là có vấn đề rồi. Tôi vẫn vờ nhìn chăm chú hai bác xích lô. Đúng như tôi dự đoán, khi hai tên đến gần, một tên tiến đến trước mặt tôi: - Anh vui lòng cho tôi xem giấy tờ! Tôi vờ ngạc nhiên: - Thưa các anh, hỏi giấy gì ạ? Vẫn với giọng nhã nhặn: - Anh có giấy gì thì đưa giấy đó! Không nói một lời, tôi rút ví túi quần sau, lấy giấy thông hành đưa ra. Y cầm xem qua rồi nói: - Thế này không phải, xin mời anh về đồn. Quả là lịch sự! Tôi đã thấy nhiều lần cảnh sát hỏi giấy người khác ở trên đường phố, nạt nộ:”Anh cho xem giấy tờ!”, hoặc “còn giấy gì nữa?”. Còn ở đây, có thể y không phải một cảnh sát chuyên nghiệp, phần khác, tôi là người của chế độ khác mà, nhất lại là tiếp xúc buổi đầu. Hai tên chỉ đường tôi đi trước, chúng kèm sát phía sau. Một số đồng bào đang đi trên đường phố, đứng lại ngơ ngác nhìn theo. Riêng mấy cái đuôi gần đó chủng nhìn theo, nét mặt chúng lộ vẻ nửa như vui mừng hết trách nhiệm, từ nay khỏi phải theo anh chàng lẩm cẩm này nữa, nửa như tò mò nhìn một con mồi đã vào cạm. Hai tên cảnh sát giải tôi về phía Ngõ Huyện, thoáng chỗ góc là chiếc xe Citroen đen, tôi đã thấy trên đường đi Vinh, đang đậu. Khi tới bên cạnh xe, nhìn vào trong, tôi thấy ngay băng trên, ngồi cạnh tài xế là một lão mặc chiếc áo “vét” xám đeo kính râm, chừng 40 tuổi. Một tên cảnh sát mở cửa sau chui vào, tên ngoài ra hiệu tay bảo tôi lên. Như vậy là tôi ngồi giữa hai cảnh sát. Xe chạy. Tôi hiểu rằng, phản gián Hà Nội đã phải mất quá nhiều công lao, mà chả thấy tôi làm cái quái gì cả. Cứ lêu bêu hết ngày này qua ngày khác, cho nên quyết định vồ. tôi cũng chẳng có gì ngạc nhiên lắm. Từ lâu, tôi vẫn biết sẽ có một ngày như thế này. Dù vậy, theo đúng như những dự trù khi bị bắt, tôi vẫn phải vờ ngạc nhiên. Trên đường xe chạy, tôi ngơ ngác hỏi: - Các ông đưa tôi đi đâu đây? Tôi có giấy tờ đầy đủ mà? Tên mặc áo “vét” ngồi trên, quay xuống giọng cộc lốc: - Cứ đi, sẽ biết! Bây giờ thì không lịch sự nữa! Xe đi vòng vèo qua nhiều phố, rẽ vào một phố nhỏ vắng, với cái biển tên đường phố: “Phố Hỏa Lò”. Chéo sang bên là bức tường đá cao sừng sững 7, 8 mét, bên trên cắm mảnh chai và giâng giây điện trần chằng chịt. Từ ngày còn bé hồi xưa ở Hà Nội, và ngay cả lần này, từ khi ra đây, tôi chưa từng đi đến phố Hỏa Lò. Vì vậy, tôi chưa thấy Hỏa Lò Hà Nội bao giờ. Xe đỗ lại trước một chiếc cổng to đồ sộ đóng kín mít, với hai cánh cửa to tuớng như cánh cửa thành ngày xưa. Từ một trong hai cái cổng nhỏ ở hai bên, một tên bộ đội bồng súng chạy ra. Sau khi xem miếng giấy do tên áo “vét” đưa, y đứng nghiêm chào theo lối quân sự, rồi chạy vội vào phía trong. Cửa lớn từ từ mở ra và chiếc Citroen chạy tuột vào. Hai tên cảnh sát giong tôi qua một cái sân rộng có trồng hoa, bên trên là một giàn nho lá xanh rờn. Chúng dẫn tôi vào một cái buồng trống trơn, chỉ có một cái bàn với một cái ghế, trong đó đã có 4 tên trông rất hung thần. Hai phút sau, tên mặc áo “vét” đi vào, đặt cặp xuống bàn rồi lấy ra một tờ giấy, y ra hiệu tôi ngồi xuống ghế. Y đọc: “Lệnh giam giữ, Bộ Công An ra lệnh giam và xét hỏi tên Lê Viết Hùng, tuổi…quê quán…theo giấy thông hành giả…”. Một trong 4 tên hung thần giọng cộc lốc: - Bỏ hết đồ và cởi quần áo ra! Tôi vờ phản đối: - Các ông bắt tôi về tội gì? Tên mặc áo “vét” cau mặt quát: - Đừng vờ vịt, hãy chấp hành lệnh! Bốn tên hung thần như được lệnh, chúng xông đến, thằng thì lục túi dết, thằng thì cởi quần áo tôi, Tên mặc áo “vét” chỉ mặt tôi: - Biết điều thì sống, không biết điều thì càng chết sớm! Vì đã có chủ định, nên tôi chả nói gì nữa. Thằng áo “vét” ngồi bàn ghi biên bản. Trong một căn phòng nhỏ mà chúng bật đến 4 ngọn đèn sáng chói. Chúng đánh giá tôi quá cao, như là một điệp viên có hạng không bằng. Chúng dùng kính “lúp” soi hết vải quần áo của tôi từng chiếc khuy áo, khuy quần, đường chỉ…Một tên quát: - Có máy ảnh không? Tôi lơ ngơ: - Máy ảnh gì? Chúng nó tưởng tôi có máy ảnh nhỏ xíu dấu trong khuy áo, khuy quần, chúng khám hết, tên áo “vét” ghi từng thứ một. Còn cái quần đùi, chúng cũng bắt tôi lột. Tôi thấy ngượng, không muốn cho chúng cởi. Một thằng chỉ vào mặt tôi, quát: - Cởi ra ngay, muốn ăn đòn hả? Chúng nó xúm lại tôi, soi lỗ tai, bới tóc, lỗ mũi, lộn mi mắt, bắt há miệng, xem từng cái răng. Thật may, tôi dã phòng hờ “chì mật”. Từ khi ở Vinh ra lần thứ nhì, tôi đã mua một bó tăm tre. Tôi bỏ “chì mật” vào giữa, chỉ buộc bằng một sợi chỉ con, rất hớ hênh, nhưng vô tình rất khó thấy, mà có thấy thì chỉ thấy đó là một sợi ny lông. Chúng chỉ có thể nghĩ là người buộc tăm để vương vào, và chúng sẽ bỏ qua. Bó tăm chỉ chừng 20 cái, bé bằng hai ngón tay, nên chúng chẳng tháo ra làm gì. Mặt tên nào cũng có vẻ tức tối. Chúng khám xét kỹ lưỡng, cả đôi dép Thái Lan, đồng hồ, bút máy, v.v…Nghĩa là người tôi không còn một cái gì là chúng bỏ qua, mà cũng không thấy gì cả. Cuối cùng, chúng bắt tôi đứng thẳng chân, cúi chống hai tay xuống nền nhà, một thằng vạch lỗ đít tôi, một thằng khác đưa một que sắt thọc vào. Đến đây, tôi phải trình bày một chi tiết hơi…thô tục một chút. Từ khi tôi bị chúng phát hiện, tôi ăn không ngon, ngủ không yên, tinh thần ngày đêm căng thẳng, như một con cá nằm trên thớt chờ ngày làm thịt. Vỉ thế, phân của tôi thường táo bón từng cục như phân dê, ba bốn bữa tôi mới đi ngoài một lần. Do đó, khi thọc que vào thấy lục cục, mặt thằng thọc que tươi hẳn lên, làm cho mắt những tên kia cũng sáng lên long lanh. Chắc chúng nghĩ, đã khám hết mọi chỗ không có gì, mày giấu đây, làm sao qua mắt được chúng ông. Khi chúng kéo que sắt ra, những cục phân rơi lủng củng xuống nền nhà. Tôi rất tiếc, vì đang phải chống tay cúi đầu, nên không nhìn thấy nét mặt của chúng lúc này ra sao? Tôi chỉ thấy tên cầm que sắt vất mạnh vào góc nhà đầy vẻ bực tức, rồi hình như giận lây sang cả tôi, y phát mạnh một cái vào mông tôi rát ràn rạt, quát: - Đứng dậy! Hơn hai tiếng đồng hồ khám xét lục lọi, chả có cóc khô gì. Chúng vất lại cho tôi một cái lược sừng nhỏ, chiếc quần lót và chiếc khăn mặt. Tôi chỉ cái đồng hồ của tôi để trên bàn: - Trả lại tôi cái đồng hồ! Tên áo “vét” đập tay xuống bàn, đứng vọt dậy: - Đồng hồ nào của anh! Đó là tang vật hoạt động của một tên gián điệp! Tôi vờ giật mình: - Sao? Tôi là gián điệp? Y quát: - Câm miệng lại! Chúng vất cho tôi một bộ quần áo sọc xanh trắng: - Mặc vào! “Phải làm sao để lấy lại được gói tăm?” Tôi thầm nghĩ: Để đánh lạc hướng của chúng, tôi vờ xuống nước năn nỉ: - Tôi có răng sâu, đau lắm, các ông cho bàn chải và hộp thuốc đánh răng! Chúng ném cho tôi cái bàn chải, còn hộp thuốc đánh răng, chúng bóp hết rồi xé ra khám, dù bàn chải và thuốc tôi mua ở bờ hồ. Nhưng, đó chỉ là phụ, tôi vờ cho ngón tay vào hàm răng phía trong: - Tôi có răng sâu, ăn uống xong, phải đánh răng hoặc xỉa răng. Các ông không cho tôi thuốc đánh răng, đành phải xỉa bằng tăm vậy. Các ông cho tôi xin gói tăm? Một thằng cầm gói tăm lên, rồi ném cho tôi. Thế là ổn rồi! Khoảng 11 giờ trưa, một tên mặc quần áo cảnh sát có đeo hàm trung sĩ, nhưng không đội mũ, khoảng 35 tuổi, y vào buồng ra hiệu cho tôi đi theo y. Tôi đi trước, y đi sau ngoắc ngón tay chỉ đường cho tôi. Qua bốn, năm lần cửa sắt. Khi đi qua một cái sân nhỏ, dưới gốc cây bàng, tôi thấy một anh cởi trần trùng trục, đang cúi gầm mặt xuống như mang nặng một nỗi niềm suy tư. Khi tên cảnh sát giong tôi đi qua, anh ngửng lên nhìn, anh bị chột mắt bên trái. Tôi chợt nhớ ra những ngày lang thang trên đường phố Hà Nội, trong một hiệu sách, tôi có mở xem cuốn C-47, trong đó có hình anh, chột một mắt trái, Trung Úy Phi Công Phan Thanh Vân. Anh nhìn tôi, tôi nhìn anh. Tôi biết anh, nhưng anh không biết tôi. Anh sẽ tưởng tôi cũng như trăm ngàn người tù khác ở miền Bắc mới bị bắt vào. Tên cảnh sát dẫn tôi mãi vào một hành lang nhỏ tối, sâu hun hút. Qua một cửa sắt nữa, tôi nhìn thấy một dẫy buồng, mỗi cửa buồng mang một số. Tên cảnh sát giao tôi cho cũng một tên mặc đồ vàng, cũng đeo lon Trung sĩ. Tên này nét mặt rất ác ôn, cái mũi đỏ như quả cà chua con ở giữa mặt. Chúng nói nhỏ gì với nhau tôi không nghe rõ. Tên mũi cà chua mặt lầm lì, vẫy tay bảo tôi theo. Y rút chùm chìa khóa to tướng kêu xeng xẻng ở dây lưng, lấy một chìa “mở buồng số 6”. Từ nhỏ đến giờ, tôi chưa hề trông thấy nhà tù lần nào cả, vì thế, từ khi bước vào cổng Hỏa Lò, tôi nhìn cái gì cũng lạ, từ những cánh cửa sắt to, những chiếc khóa lớn, vắng lặng, tịch mịch, âm u… Khi tên mũi cà chua mở cửa buồng, tôi nhìn vào thấy tối lờ mờ. Căn buồng rất hẹp, mỗi bề chỉ chừng 2 mét. Hai bên sát tường, mỗi bên có một sàn xi măng, không có chiếu, mỗi sân rộng từ 65 đến 70 phân, cao hơn mặt nền chừng 60 phân, dưới gầm trống trơn, đen xì. Giữa là một lối đi khoảng 60, 70 phân. Trên mỗi sàn có một cái cùm sắt to tổ bố, gắn liền xuống sàn. Tôi đang mở to mắt lạ lùng nhìn, chưa bước vào, đột nhiên, tên mũi cà chua đập mạnh vào gáy tôi, rồi y hẩy tôi vào: - Đi vào! Lững lờ cái gì? Là một thanh niên sống dưới chế độ Cộng Hòa, Dân Chủ, tôi đã được hấp thụ nhiều khuynh hướng tư tưởng tự do, mà giai đoạn ấy ở miền Nam, chủ nghĩa Nhân Vị của tổng thống Ngô Đình Diệm đang được đề cao, phát triển. Mang một ý niệm, có tội thì xử tù hay bắn, chứ nhân phẩm, tự do cá nhân không được xâm phạm. Vì vậy, mắt tôi nóng lên. Tôi lùi lại như để lấy thế, mắt nẩy lửa nhìn y như muốn ăn tươi nuốt sống, tôi chỉ vào mặt tên mũi cà chua: - Tôi biết hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là không đánh người. Do đó, nếu ông đánh tôi, là tôi đánh lại! Nhìn thái độ quyết tử của tôi lúc đó, y cũng chờn, vì thế, y xuống nước: - Thì tôi bảo anh vào chứ làm sao! Rồi y ra phía ngoài, rút cái chốt cùm. Trở vào, y nhấc nửa phần trên cái cùm cho há ra: - Anh bỏ chân vào! Tôi ngồi ghệ mông vào chiếc sàn xi măng, từ từ tôi nhấc một chân đặt vào một lỗ cùm… Y lừ lừ nói tiếp: - Bỏ cả chân kia nữa! Tôi phải xoay người lại, rồi cũng từ từ chậm chạp bỏ một chân nữa. Y lấy tay xập mạnh cái cùm xuống đánh “xầm” một cái. Sắt trên và sắt dưới dập mạng vào nhau, bật ra tiếng chát chúa. Y quay ra ngoài, đút chốt cùm, đóng xầm cửa lại. Chừng 10 phút sau bỗng cửa lại mở. Lần này y vào cầm trong tay một chiếc gậy gỗ, dài độ 50 phân, to bằng cán xẻng. Y trợn to cặp mắt trắng dã, quả cà chua trước mặt y càng đỏ loét. Phía sau y, bên ngoài cửa, thấp thoáng còn thấy một tên nữa. Y vào là quật tôi ngay, miệng luôn luôn chửi: - Đ. M. mày! Ngang bướng này! - Mày biệt kích, gián điệp này! - Đ. M. chúng mày, ra phá hoại miền Bắc này!… Nó quật tôi túi bụi, tôi phải giơ tay đỡ. Người tôi sôi lên sùng sục, tôi gầm lên: - Đ. M. chúng mày hèn hạ! Cùm tao vào rồi mới đánh! - Chúng mày là lũ dã man!… Máu ở tay và chân tôi đã chảy. Tôi không còn biết đau nữa. Nó quật tôi hàng chục cái lia lịa, rồi ra. Trước khi ra, nó chỉ cái gậy vào mặt tôi: - Cho con chết, con ạ! Rồi đóng cửa, cài then. Tay tôi sưng tìm, nhiều chỗ nổi lên một cục, vai và lưng đau ê ẩm. Máu tay nhiều chỗ chảy đỏ cả bộ quần áo sọc trắng. Chân tôi, lúc vặn vẹo đỡ gậy nó vụt, bị cạnh của chiếc cùm sắc cứa làm máu chảy nhiều chỗ. Lúc này, tôi uất hận quá, không thiết sống nữa. Như thế này rồi cũng chết thôi. Phải chịu bao nhiêu đau đớn nữa rồi cũng chết. Vậy thì chết trước, khỏi khổ. Qua sách báo của Cộng Sản, qua các cuộc phỏng vấn những người vượt tuyến ở Gia Định trước đây, tôi biết là: Lãnh tụ của Cộng Sản thì chúng coi như thần thánh, ai xúc phạm, chúng sẽ giết ngay. Nghĩ như vậy, nhất là nhìn máu chảy tứ tung, chỗ nào cũng máu, uất hận ngập trời, tôi gầm lên: - Đ. M. thằng Hồ Chí Minh! - Đả đảo thằng Hồ Chí Minh! Chúng mày làm cả dân tộc lầm than, đau thuơng, cùng khổ! Tôi cứ thế gào lên, mục đích mong chúng mang súng vào cho mấy phát. Tôi chẳng thiết sống nữa! Một đứa mở chiếc cửa sổ nhỏ tí ở giữa cửa lớn: - Im ngay cái mồm, không thì chết đấy con! Tôi chẳng trông rõ ai cả, tôi hét lên: - Đả đảo thằng Hồ Chí Minh! Một lúc sau, cửa lớn mở, ba thằng bước vào, có cả thằng mũi cà chua đã đánh tôi khi nãy. Chúng mang vào một cái khung sắt, loại sắt tròn, đường kính độ 1 phân rưỡi. Chẳng nói năng gì, một thằng bẻ quặt hai tay tôi ra sau, khóa lại bằng chiếc khóa số 8. Hai thằng lắp cái khung sắt vào đầu và cằm tôi, rồi chúng vặn ốc “vít” ở dưới cằm. Hai hàm răng của tôi bị cái “cùm mồm” xiết chặt lại, một miếng sắt mỏng 3x6 phân, 2 bên có lò xo ép chặt mồm tôi lại. Nói và chửi bây giờ không thành tiếng nữa, chỉ là những âm thanh ú ớ, xìn xịt. Trước khi ra, chúng còn đe: - Con sẽ chết, con ơi! Sau khi cửa đóng, chỗ máu ở chân tôi vẩn chảy. Bây giờ tôi không nằm được, cũng không xoay trở gì được nữa. Hai tay bị khóa đàng sau, hai chân trong cùm sát xuống sàn, mấy chỗ sưng ở tay bắt đầu thấy ngứa. Bây giờ, tôi cảm thấy ngứa khắp cả người. Thái dương giật giật liên hồi, người tôi nóng ran, mắt hoa lên quay cuồng. Chừng 4 tiếng đồng hồ sau, tự nhiên người tôi cứ đảo lộn, quay cuồng như chong chóng. Chỉ còn một thế duy nhất là gục dựa đầu vào tường, mắt nhắm nghiền. Một luồng hơi nóng như lửa chạy từ bụng lên ngực, rồi lên đầu, rồi tôi không biết gì nữa. Khi tôi tỉnh lại, trời đã sáng. Như vậy, tôi đã ngất xỉu qua đêm. Tôi thấy tay chân tê dại và nặng như chì, cả người tôi đau đớn, nhức mỏi rã rời. Tôi chỉ còn hai cái vai ngút ngắc, rung lên vì ngứa. Mãi lâu lắm, thấy chiếc cửa sổ nhỏ mở ra, rồi một giọng hỏi: - Mày còn già mồm nữa không? Tôi mở mắt nhìn, nhưng vẫn ngồi dựa tường bất động. Bây giờ còn chưởi làm sao được nữa! Thấy tôi vẫn ngồi yên, cửa sổ đóng lại. Người tôi lúc đó thật là kinh khủng. Cả chân tay tôi cứ giật giật như bị kinh phong. Chết không chết được. Nếu ai giết tôi lúc này là họ gia ân cho tôi. Bây giờ ngồi viết lại, nghĩ đến tình cảnh lúc ấy, cón thấy kinh hoàng và nỗi hận thù vẫn còn dâng cao như núi. Rồi, tôi xỉu đi lần nữa. Lúc xỉu đi là lúc hạnh phúc. Nhưng tỉnh lại, thì lại kinh khủng quá! Tôi không ngờ chúng nó lại có cái trò ác độc thế này. Tôi chửi chúng để cầu mong chúng cho vài phát đạn. Nếu chúng bắn tôi chết, hòa cả làng. Tôi chết rồi, biết quái gì nữa. Không biết lúc này là mấy giờ rồi? Ôi, loài người thật dã man! Bây giờ, có muốn cắn lưỡi cũng không làm sao cắn được. Mãi một lúc lâu lắm, cửa nhỏ lại xịch mở. Vẫn cái giọng lúc sáng: - Mày còn chửi nữa không? Tôi thấy rằng thôi, hãy chịu chúng nó lúc này, sau sẽ tính, chúng nó không giết mà cứ cùm kiểu này, chịu sao nổi. Vì vậy, tôi nhìn ra cửa sổ ngút ngắc cái đầu. Chúng nó lại đóng cửa sổ lại. Tôi tưởng mình chịu thua, chịu xuống xề, chúng nó sẽ tha cùm tay, cùm mồm ngay. Nhưng bặt đi, mãi tới gần chiều mới thấy cửa lớn mở và hai tên đi vào. Tôi không thấy tên mũi cà chua. Chúng nó đến bên cạnh tôi, một thằng đập tay vào vai tôi giọng giễu cợt: - Thế nào, mày còn cương nữa hay biết hãi rồi? Tôi vẫn ngúc ngắc cái đầu. Chúng vừa tháo cùm mồm, cùm tay tôi, vừa nói: - Mày đã vào đây mà không biết điều thì chỉ có một con đường là chết khổ. Bao nhiêu thằng ba đầu, sáu tai, mọc bao nhiêu cái sừng chúng tao cũng vặn hết. Từ nay phải biết điều, nghe không? Tôi chẳng nói năng gì cả, hai tay như xuội ra, không nhấc lên được nữa. Tôi mệt rã rượi như người không xương. Người tôi lại thấy ngây ngất sốt, tôi nằm phịch xuống sàn. Chúng nó ra ngoài, tôi thoáng thấy chúng đưa vào một cái gì, có lẽ là cơm, để lên phía đầu tôi: - Cơm đấy, ăn đi! Chốc nữa tao lại lấy bát. Đêm hôm đó, một cơn sốt lên dữ dội. Tôi mê man rên rỉ suốt đêm. Cả người tôi đau như giần. Cứ thiếp đi một lúc, rồi lại tỉnh. Miệng lảm nhảm chỉ kêu “mẹ ơi!”. Tôi cầu xin Chúa, xin Trời cho tôi chết đi. Tôi vừa sốt, vừa đau. Hai chân tôi trong cùm tê dại, đau buốt. Bát cơm gạo hẩm và đôi đũa vào từ lúc chúng tháo cùm mồm tôi ra vẫn để lỏng chỏng trên sàn, phía trên đầu tôi. Tôi không muốn ăn uống gì cả, dù đã hai ngày, trừ lúc sáng sớm hôm qua, tôi ăn một ổ bánh mì nhỏ ở bờ hồ khi chưa bị bắt. Miệng tôi đắng và khô, không nhổ ra nước bọt. Sáng hôm sau là thứ Ba. Tôi nằm nghe loáng thoáng có nhiều tiếng phụ nữ cười nói và tiếng nước chảy, như đang có người tắm giặt ở đàng sau tường phía đầu tôi. Nghe những lời qua tiếng lại, tôi biết họ cũng là tù, và ngay sau buồng tôi là bể nước họ giặt giũ, tắm rửa. Cửa sổ nhỏ bỗng mở, tôi nhìn ra chẳng rõ ai. Rồi nghe lẻng xẻng tiếng chìa khóa mở cửa buồng. Một ông chừng 60 tuổi, đầu đã bạc, mặc thường phục, đeo kính trắng bước vào buồng, theo sau có mấy người nữa. Ông hỏi, giọng miền Nam: - Anh không ăn cơm à? Tôi lắc đầu: - Tôi sốt. Y quay lại nói gì với mấy tên phía sau. Tôi thấy chốt cùm kéo ra, một tên nhìn tôi: - Anh bỏ chân ra! Tôi ngồi dậy, mỏi mệt nhấc cái nửa cùm phía trên, rồi chậm chạp nhấc hai chân ra. Máu chảy ra mặt dưới cùm và ống quần tôi đã đen lại. Ông già đeo kính trắng có vẻ khuyên răn: - Anh đã vào đây, đừng bướng bĩnh. Phải ngoan ngoãn biết điều, lợi cho anh. Nếu không, chỉ thiệt thân. Một lúc sau, một người ném vào chỗ tôi một bộ quần áo nữa, cũng sọc, nhưng đã cũ: - Cho anh thêm bộ này. Thay bộ quần áo đó ra, giặt đi. Chúng nhìn thấy quần và áo tôi đầy máu đen. Ông già và mấy người đi ra. Tôi chẳng biết ông già làm gì, có vẻ tử tế. Một lúc sau, cửa lại mở, một tên áo vàng chừng độ 40 tuổi, đeo lon hạ sĩ, vào hỏi tôi: - Tên anh là gì? Tôi nhìn lão: - Lê Viết Hùng. - Tôi hỏi tên thật của anh ở Sài Gòn cơ? Tôi đáp: - Đặng Chí Bình. Lão nghiêm giọng: - Tôi là cán bộ coi xà lim này. Vậy từ nay anh phải nghiêm chỉnh chấp hành mọi nội quy ở đây. Không được la ó, ca hát. Không được quan hệ, nói chuyện với buồng bên cạnh. Không được mang bất cứ loại kim khí nào vào trong buồng. Mỗi buổi sáng mang bô phân, nước giải của mình vào nhà tắm, đổ vào lổ xí, tráng nước trong 5 phút. Nếu bị cùm kỷ luật, một tuần chỉ mở cùm cho đổ bô một lần vào sáng thứ sáu. Một tuần, tắm giặt hai lần vào thứ Hai và thứ Sáu, mỗi lần không quá 15 phút. Nếu anh vi phạm, tùy theo mức độ, sẽ bị kỷ luật cùm một chân, hoặc cùm hai chân, hoặc đưa đi “cát xô”. Tôi ngồi mệt quá như xỉu đi. Tôi dựa lưng vào tường; mặc cho y nói. Một lúc, y vừa nói vừa đi ra: - Tôi sẽ gọi y tá vào cho thuốc. Rồi y đóng cửa lại. Tôi nghe tiếng y mở cửa buồng bên cạnh, một người ra, chắc để đổ phân, 5 phút sau vào, tiếng đóng cửa. Lại mở buồng khác, thấy tiếng chạy lịch kịch, rồi nghe máy nước chảy rào rào, rồi tiếng chân chạy trở về buồng. Sáu, bẩy lần như vậy. Lại thấy mở cửa buồng tôi. Tiếng tên cán bộ xà lim: - Ra đổ phân! Tôi tụt xuống sàn, cúi nhìn vào gầm sàn, thấy cái bô tôn có nắp gỗ đậy. Từ tối qua đến giờ, tôi có ỉa đái gì đâu, nên cứ đứng ngơ ngác. Y thò cổ vào: - Sao không ra đổ thùng? Tôi trả lời: - Tôi chưa…! Y đóng cửa xầm một cái, cài then sắt bên ngoài. Một lúc sau, cửa lại mở. Một bà y tá, mặc áo “bờ lu” trắng ôm cái khay thuốc đi vào. Bà ta chừng 28, 30 tuổi, sau này, tôi được biết tên là Dậu. Bà ta xem các vết thuơng ở chân, tay, vai lưng tôi cho tôi nửa hộp dầu cao “Sao Vàng”, bảo xoa chỗ sưng. Chấm thuốc đỏ vào mấy chỗ chảy máu. Tôi đang sốt, nên tôi nói: - Đêm qua tôi bị sốt và bây giờ cũng bị. Bà cho tôi hai viên thuốc trắng, bảo uống. Khi bà y tá ra, tên cán bộ xà lim lại vào: - Anh mang bát cơm kia ra. Cầm cả cái gáo ra lấy cơm, lấy nước. Khi tôi cầm bát cơm ra, chân tôi đau quá đi khập khiễng. Y bảo tôi để bát cơm cũ xuống đất, lấy gáo lại thùng múc một gáo nước, rồi cầm bát cơm mới đi vào. Tôi nhìn trên bệ tường có 8, 9 bát cơm, tôi cầm một bát và đi vào. Y đóng cửa lại và nói: - Ăn nhanh, 15 phút sẽ trả bát. Tôi đói, từ hôm qua tôi không hề ăn uống gì, nhưng và miếng cơm vào mồm nhai, tôi không nuốt nổi. Mồm đắng hay cơm đắng? Nhưng nếu không ăn, chỉ có chết, nghĩ lại cố gắng nhai và nuốt. Tôi vừa nhai vừa nhìn bát cơm. Cơm thuộc loại gạo hẩm, nhưng không có độn, còn tốt hơn ở hàng cơm ngoài phố. Cơm được đựng trong một chiếc bát to, đường kính miệng bát chừng 17 phân, cao chừng 7 phân, bằng chất gì như nhôm, màu xam xám, rất cứng (có thể là nhôm pha antimoan), hình đít bằng. Lượng cơm bằng chừng hai bát cơm nhỏ gia đình thường dùng. Một bát nhỏ như vậy nữa, cùng loại hợp kim và hình thể như chiếc bát to, đường kính khoảng 10 phân, cao 5 phân, thường thường đựng rau muống già nấu muối, đen xì. Bát canh nhỏ để chồng lên bát cơm. Vì thế khi mở cửa ra, tù tay cầm một gáo dừa, đến thùng nước, múc một gáo nước mầu đen đen (sau này tôi hiểu là gạo rang cho cháy đen; một nắm nấu cho cả mấy trăm người uống), rồi đến cầm một bát một bát cơm đi vào. Cán bộ ở đây gọi là quản giáo, sau khi đóng cửa cài then phía ngoài, lại tiếp tục mở buồng khác. Chừng 10 hay 15 phút sau, quản giáo lại đi mở từng buồng, để tù đưa bát ra chỗ cũ. Múc thêm gáo nước nữa. Cơm nước nấu ở khu nhà bếp, cũng do tù được tuyển chọn đảm trách, hầu hết là tù hình sự, hoặc là cán bộ can tội tham ô hủ hóa. Tôi cố ăn cũng chỉ được khoảng nửa bát cơm, và húp tí nước rau nấu. Khi quản giáo mở cửa, tôi đưa bát ra, y chỉ: - Để chỗ cũ! Tôi không biết nên để cả đũa ở đấy. Y bảo tôi phải đưa lại chỗ “suốt cùm” để. Tôi liếc nhìn buồng bên cạnh, trước mỗi cửa buồng tôi thấy một đôi đũa treo lủng lẳng ở chỗ tay suốt cùm. Tôi không có dây, nên gác đại đũa lên trên cái suốt. Khi vào buồng, dù người còn đau êm ẩm, chân vẫn còn đi tập tễnh, nhưng tôi vẫn thấy thoải mái hơn nhiều. Bây giờ tôi mới để ý kỹ cái cùm: Cùm là hai miếng sắt, mỗi miếng dầy 2 phân rưỡi, bản rộng 8 phân. Nửa dưới, nằm gắn liền với một bờ xi măng sát xuống sàn. Nửa trên, nối với dưới bằng một khâu bản lề, làm bằng chính hai miếng sắt ấy. Phía ngoài cùng, trông như cái hình mỏ vịt, được đục một lỗ dài để xập vào một cái khuy, làm bằng loại sắt vuông khoảng 1 phân rưỡi. Một thanh suốt chốt cùm bằng miếng sắt rộng 5 phân, dầy 1 phân. Từ phía ngoài tường thọc vào cái khuy sắt hình vuông kia là cứng ngắc, bất khả nhúc nhắc, trừ phi bên ngoài cò người rút chốt cùm. Đuôi chốt cùm lại có có chốt, rồi lại một cái khóa nữa. Buồng xà lim thường có hai sàn xi măng, cửa ở giữa. Trần xà lim cao 4 mét. Mãi tít gần sát trần, có một cái cửa sổ nhỏ, kích thước khoảng 60x25 phân. Có 5 chấn song sắt, đường kính 2 phân rưỡi, có lưới sắt che. Vì thế, ngay ban ngày, trong buồng chỉ lờ mờ, nếu không mở cửa lớn. Cửa xà lim bằng gỗ lim, dầy 4 phân có nẹp đai sắt dầy. Giữa cánh cửa, chỗ ngang tầm mắt người đứng, có một cửa sổ nhỏ rộng 20 phân, cao 15 phân, có 6 song sắt con loại 1 phân rưỡi. Như thế, chỉ đút lọt một ngón tay. Bên ngoài có một miếng sắt mỏng mở ra, đóng vào che kín, có chốt. Tường dầy 50 phân. Đây là công trình của thực dân Pháp xây. Bây giờ Cộng Sản dùng để cùm kẹp, giam giữ những người chống lại chúng. |
|
|
![]()
Post
#28
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi Lăm
Chấp Pháp Tại Hoả Lò… Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, tiếng chìa khóa lẻng xẻng đi vào, cửa sổ con bật mở, lộ mặt tên cán bộ xà lim, y nói vọng vào: - Mặc quần áo đi cung! Đêm qua tôi không sốt, nhưng người còn đau ê ẩm, phần khác trời nóng và buồng rất nhiều muỗi, nên suốt đêm người tôi lúc nào cũng đầy mồ hôi và không ngủ yên. Tôi đang mặc quần áo thì cửa mở. Lúc tôi ra, một tên cán bộ áo vàng đang chờ ở cổng xà lim. Thấy tôi y lấy ngón tay ra hiệu cho tôi đi trước. Y đi phía sau, cất tiếng hỏi: - Anh tên Đặng Chí Bình tức Lê Viết Hùng? Tôi gật đầu: - Dạ Lão cán bộ này có đôi mắt lồi và cái môi vẫu hẳn ra. Y đeo lon Trung Sĩ. Hôm tôi bị bắt là ngày Chủ Nhật, vì thế trên đường vào xà lim, tôi không nhìn thấy tù, họ ở trong buồng cả. Hôm nay, trên đường đi qua một cái sân nhỏ, tôi thấy ở góc sân 6, 7 người tù nữ đang lúi húi rửa soong, nồi trong một bể nước. Phía nhà bên cạnh 8, 9 người tù nữa với mấy cái máy may, may quần áo sòng sọc. Thấy cán bộ giong tôi đi qua, họ đều ngửng lên nhìn theo. Đi qua mấy ngách nữa thì ra tới chỗ sân có giàn nho hôm trước. Dẫn đến trước một cửa phòng, y mở cửa bảo tôi vào. Trong buồng, tôi thấy hai người đã ngồi chờ sẵn ở một cái bàn, trên đặt một cặp hồ sơ dầy. Một người tuổi chừng 30 mặc áo 4 túi bộ đội, người kia chừng 35 tuổi, mặc sơ mi trắng ngắn tay. Thấy tay và chân tôi băng bó, chân đi tập tễnh, tên mặc áo sơ mi trắng có vẻ ngạc nhiên: - Chân và tay anh làm sao thế? Tôi thấy y có vẻ vờ, tôi nghĩ y phải biết, dù vậy tôi vẫn nói: - Hôm kia, mấy ông bà cán bộ đánh tôi ở xà lim. Cả hai đều như ngạc nhiên: - Anh làm sao mà bị đánh? Có đau không? Tôi thấy rõ thủ đoạn vờ vịt, nên trả lời thủng thẳng: - Hôm nay đỡ rồi! Tên mặc áo bộ đội chỉ một chiếc ghế đẩu trước bàn, bảo tôi ngồi, xong hắn tự giới thiệu: - Tôi là Thành và ông cán bộ đây là Đức. Chúng tôi là Chấp Pháp Bộ Công An. Chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ và thẩm vấn anh, về những việc anh đã làm. Chúng tôi biết anh còn quá trẻ nên nhất thời ngây thơ, bị lũ tay sai Mỹ Diệm dụ dỗ, thúc đẩy đi ra Bắc làm hại cách mạng. Nhưng, với màng lưới nhân dân của cách mạng. Không một kẻ nào, không một mưu mô nào của Mỹ Diệm mà không bị đập tan. Anh hiểu rằng, về tình báo, trong hàng ngũ của ngụy quyền tay sai của Mỹ Diệm, đầy rẫy những người của cách mạng. Cho nên, việc của anh chúng tôi biết rất rõ. Chúng tôi có đầy đủ hồ sơ tài liệu về anh. Y hất hàm về chiếc cặp hồ sơ, rồi nói tiếp: - Nhưng, với đường lối khoan hồng và giáo dục của đảng và nhân dân, chúng tôi muốn chính anh có trách nhiệm tố cáo, vạch ra hết những tội ác mà bọn tay sai Mỹ Diệm đã đẩy đưa anh ra ngoài này, để đắm mình vào tội phản nhân dân, phản Tổ Quốc. Đảng và nhà nước sẽ đánh giá sự ăn năn thành khẩn của anh. Chỉ có anh mới cứu được anh, không một thế lực nào, một kẻ nào có thể cứu được anh. Tuy vậy gặp anh buổi đầu hôm nay, thấy anh là một thanh niên có học, hiểu biết, cởi mở. Chúng tôi tin rằng sự quan tâm giúp đỡ của chúng tôi, sẽ rất tốt cho anh sau này. Riêng về việc anh bị hành hung trong xà lim, chúng tôi chưa biết rõ sự thể như thế nào. Nhưng, dù sao đó cũng là một việc làm sai trái đối với chính sách giáo dục của đảng và nhà nước. Chúng tôi sẽ phản ánh lên cấp trên, để có biện pháp xử lý. Bây giờ trước hết, anh hãy trả lời về những câu hỏi lý lịch… Từ nãy, tôi vẫn cúi đầu nghe chúng nói. Tôi có chủ định từ trước, nên khi chúng hỏi về lý lịch, thân thế, tôi cứ khai thực. Sau khi chúng ghi xong phần lý lịch, tên Đức nghiêm trang: - Bây giờ, chúng tôi cho phép anh được tự nói lần lượt: Ai tuyển mộ anh? Ai huấn luyện? Huấn luyện những gì, ở đâu, nhiệm vụ gì? Ra Bắc làm sao? v.v…Anh cứ nói! Tôi cứ cúi gầm ngheo chúng thuyết. Tôi tỏ vẻ thành khẩn ngoan ngoãn lắng nghe. Sau khi chúng giục hai, ba lần, tôi mới ngửng đầu lên nói: - Thưa các ông, tôi tin rằng cách mạng đã hiểu hết những việc làm của tôi ở trong Nam, cũng như khi tôi ra Bắc. Tôi vì hoàn cảnh và cuộc sống, nhà nghèo, học hành thi cử mãi không đậu, cho nên phải vào lính tráng. Rồi có người giới thiệu, tôi cứ đi đại để kiếm ít tiền giúp đỡ bố mẹ già. Tôi đã là nhi đồng ở quê tôi, tôi đã đỗ bằng Tiểu Học với hạng ưu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Từ nhỏ, tôi vẫn ngưỡng mộ hình ảnh các anh bộ đội, cho nên sau này, khi lớn lên, dù vì hoàn cảnh tôi phải nhận trách nhiệm của họ. Tôi vẫn nhủ thầm trong lòng rằng, nếu tôi không làm gì được có lợi cho xã hội chủ nghĩa, thì dứt khoát cũng không bao giờ làm hại cả. Cũng vì vậy, khi tôi ra miền Bắc, tôi chẳng hề làm cái gì. Tôi nhớ Hà Nội, tôi chỉ đi thăm các thắng cảnh, cái di tích lịch sử mà buổi thiếu thời tôi đã thường đi chơi. Nhiều lúc, tôi thật chán nản, định gặp anh cảnh sát nào đó, sẽ nói cho anh rõ là tôi ở trong Nam ra. Nhưng, những năm tháng tôi sống ở miền Nam, họ nói Cộng Sản rất ác độc, hay giết người, tôi lại cứ đắn đo, e dè, sợ sệt. Đầu óc tôi cứ rối bung lên, chả biết phải làm sao. Bây giờ, gặp các ông xin thành thật nói hết những gì tôi biết mà nhà nước yêu cầu. Mặt chúng nó rất tươi khi nghe tôi nói, chúng gật gù: - Được, Như thế là tốt cho anh, bây giờ bắt đầu làm việc. Tôi có vẻ ngơ ngác: - Khai từ đâu? Từ lúc đi học, hay từ lúc ra miền Bắc? Chúng lừ mắt nhìn tôi: - Từ lúc cơ quan tình báo Sài Gòn tuyển mộ anh, huấn luyện gì, ở đâu và ai huấn luyện? Khai sơ lược và nhanh. Tôi chậm chạp, vừa suy nghĩ vừa nói: - Tôi ở đại đội thám báo của Sư Đoàn 7 bộ binh. Quen Trung úy Xương bên Nha An Ninh Quân Đội. Ông này đã giới thiệu cho một người tên Hòa, mặc thường phục, đến tuyển mộ tôi, đầu năm 1962. Huấn luyện suốt 3 tháng liền về hoạt động bí mật, về một số tính năng của các loại vũ khí, mìn của miền Bắc thường dùng, về địa đồ, chấm tọa độ v.v… Rồi sau đó chuẩn bị công tác ra Bắc, với nhiệm vụ theo dõi Sư Đoàn 308 phòng thủ, Thủ Đô Hà Nội do tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy. Ngày 20 tháng 5, tên Hòa đưa tôi ra trường bay Tân Sơn Nhất để ra Huế. Rồi từ Huế đưa ra khu phi quân sự. Lợi dụng một đêm mưa to, tôi lội qua sông Bến Hải, sáng hôm sau thuê xe đò đi từ thị trấn Vĩnh Linh. Tôi cứ khai, chúng cứ ghi, chúng thường giục tôi nói lướt, nói nhanh, trong khi tôi định khai chi tiết. Vì thề, tôi cũng nói lướt đi. Thấy tôi ngừng, tên Thành nhắc: - Tiếp tục! Tôi nói tiếp: - Tôi ra tới Rỏn, rồi không có xe, tôi phải đi bộ từ Rỏn ra tới Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Trên đường đi tôi gặp một anh tên là Trí (tôi phải nói rõ chỗ này, vì chúng nó đã biết tôi trở vào Vinh đến ngủ nhà Trí), từ Hà Tĩnh đi Vinh, rồi đi Hà Nội. Ngày 31 ra tới Hà Nội, ngủ nhà trọ số 5 Hàng Dầu, rồi Hàng Quạt v.v... Tôi nhất nhất thuật lại. Tôi chỉ nói rõ có vào nhà thương Việt Đức có một lần (mà chúng đã biết), còn lại, đi chỗ nào, nơi nào, tôi kể hết cho tới khi bị bắt. Dù chúng giục tôi nói nhanh những điểm chính thôi, thế mà lúc chúng bảo tôi về nghỉ cũng đã 12 giờ rưỡi trưa rồi. Tên Đức ra ngoài, lát sau, một mụ cảnh sát đeo quân hàm Trung sĩ đến, ra hiệu tay bảo theo mụ. Đi qua khu nữ, tôi thấy mấy người tù nữ chạy ra đon đả với mụ: - Báo cáo bà Hoa, cái túi của bà chúng cháu đã khâu xong rồi ạ. Mụ gật đầu: - Được rồi! Mụ Hoa nói tiếng miền Nam, chắc là loại cán bộ tập kết. Mụ dẫn tôi vào cổng xà lim, tay mụ xách chùm chìa khóa, đến buồng tôi mụ mở cửa. Lúc đó đã gần 1 giờ, nên cán bộ trực xà lim đã về. Khi mụ đóng cửa, tôi nhìn thấy bát cơm ai đã để sẵn trên sàn. Hôm nay, tôi ăn được 2/3 bát cơm và hết bát canh rau lá cải già. Trong gáo còn tí nước hôm qua, đành uống đỡ. Xong, mệt quá, tôi nằm ngả lưng một tí. Từ lúc về, ăn cơm cho tới bây giờ, tôi cứ băn khoăn. Tại sao chúng bắt tôi khai nhanh như thế để làm gì? Chúng không cần chi tiết ư? Tôi suy đoán lung tung, rối cả óc. Nhưng, có một điều là tôi phải nhớ hết những gì đã khai. Vừa nằm được phút, đã lại thấy mở cửa. Tên mắt ốc nhồi bảo tôi đi cung. Khi tới phòng hỏi cung lúc sáng, tôi đã thấy tên Thành và tên Đức ngồi đấy, cũng với cái cặp hồ sơ dầy cộm trên bàn. Tên Thành chỉ chiếc ghế đẩu trước bàn bảo tôi ngồi. Tên Đức giở hồ sơ: - Bây giờ, anh khai lại chi tiết từ nhỏ theo chúng tôi hỏi. Hết tên này hỏi lại đến tên kia, nhất là chỗ nào chúng chưa rõ, chỗ nào chúng cho là không hợp lý. Lần này thì chúng hỏi quá chi tiết, cả những việc tôi nghĩ không cần thiết như chơi đùa, bạn với ai, tính bố, tính mẹ, tính thầy giáo v.v…; từ lúc tôi còn 6,7 tuổi trở đi… Ngược lại, lần này, nhiều chỗ tôi lướt đi thì chúng lại hỏi kỹ. Tới 5 giờ chiều, tên Đức đọc lại cho tôi nghe và bắt tôi ký. Chúng cho tôi về, 6 giờ lại gọi lên, tiếp tục cho tới 9 giờ tối. Ngày nào cũng 3 buổi, tôi mệt rã rời. Chỗ chân tôi vết thuơng lại làm mủ rất đau nhức, chả có thuốc gì ngoài thuốc đỏ. Cứ liên tục đi cung ngày ba buổi, cả thứ Bảy, Chủ Nhật, 16 ngày liền, tôi mới chỉ khai được tới chỗ tôi bị bắt. Lúc đó đã sang giữa tháng 7/1962, tôi bị bắt vào ngày 24 tháng 6, như thế tôi đã ở trong xà lim hơn 20 ngày rồi. Người tôi đã gầy hẳn đi, dù rằng bây giờ, tôi đã ăn hết cơm, và còn vẫn đói. Điều chính là vì xà lim thật nóng và nhiều muỗi. Suốt đêm, tôi phải cởi trần trùng trục, mồ hôi nhễ nhại. Cái sàn nhớp nháp trắng cả ra vì mồ hôi của tôi. Mồ hôi tôi đêm nào cũng chảy ướt hết cạp quần, thế mà vẫn phải lấy áo đắp vì muỗi. Suốt đêm, giấc ngủ không yên, chỉ có cái áo vừa khua muỗi vừa đắp; lại còn đầu óc căng thẳng vì cung kẹo hàng ngày. Một hôm, tôi đi cung về, tên Nhiễm Hạ sĩ coi xà lim mở cửa buồng rồi nói: - Anh có gì trong này mang hết đi! Tôi có quái gỉ ngoài một bộ quần áo sọc cũ, chiếc khăn mặt và cái lược sừng con. Tôi ôm đồ ra. Dẫn tôi đến buồng số 5, y mở cửa, vào phòng tôi thấy trong đó đã có một ngưòi, chừng 45 tuổi, trần trùng trục, mặc mỗi cái quần đùi đen. Khi lão Nhiễm đóng cửa, tôi quay lại nhìn người đàn ông, ông ta cũng chột một mắt như Phan Thanh Vân. Ông hỏi tôi thân mật: - Anh bị bắt vào lâu chưa? Tôi cũng tình cảm: - Hơn 20 ngày rồi, còn Bác? Ông chậm rãi: - Gần 2 tháng. Tôi tiếp tục: - Bác bị bắt vì tội gì? - Vượt tuyến vào Nam. Còn anh? - Vượt tuyến ra Bắc… Cả hai cùng cười, tôi hỏi nhạt: - Thế mà gặp nhau ở một điểm! Nhìn cái túi vải to ở đầu sàn ông ta, tôi nhẹ nhàng hỏi: - Bác ở đâu? Ông ta có vẻ thận trọng: - Chợ Mơ!... Giữa lúc đó cửa buồng mở. Giờ lấy cơm. Cái gáo dừa của tôi lần này bé quá, chỉ bằng 2/3 cái trước. Tôi không có đũa, phải xin lão Nhiễm cho tôi lấy đôi đũa ở đầu cùm buống số 6 cũ của tôi. Tôi được biết tên ông chột mắt là Hoàn, Lê Văn Hoàn. Sau khi cửa buồng đóng, mỗi người một sàn, đều để bát cơm lên cái cùm ngồi ăn. Tôi thấy ông ta giở túi lấy ra một gói bánh mì khô đã cắt thành từng miếng nhỏ. Ông ta lấy hai miếng để ăn thêm với cơm. Chỉ có 2 người một xà lim, cho nên đương nhiên phải nói chuyện. Phần tôi, do phản xạ nghiệp vụ nên luôn luôn cảnh giác. Nếu là khổ nhục kế hay các thủ đoạn moi tin thì đừng hòng! Tôi tự đặt cho mình một nguyên tắc là dù tù giả hay tù thật, tôi cũng không bao giờ nói những gì tôi không khai với chấp pháp. Tôi cũng phải xác minh xem ông Hoàn này là tù thực hay tù giả. Qua những câu chuyện trao đổi, tôi được biết. Ông Hoàn là cán bộ lưu dụng, y sĩ thú y, quen biết nhiều người trong chế độ cũ đã đi di cư vào Nam. Ông có bằng trung học trước đây, nên Pháp văn cũng khá. Ông có vợ con và nhà ở vùng chợ Mơ, ngoại thành Hà Nội. Vì cách đối xử phân biệt kỳ thị cán bộ trong ngành nên ông buồn, công tác tiêu cực, nên cuối cùng bị cho về vườn. Ông cố gắng chịu đựng cảnh túng nghèo, nhưng cuộc sống càng ngày càng bế tắc. Ông nghĩ tới những bạn bè đã đi vào Nam, rồi từ đó đưa đến ý tưởng vượt tuyến. Tư tưởng ra đi cứ nhen nhúm âm ỉ cho tới một ngày, ông gặp lại một người bạn học cũ, cũng đang sống lất lây ở Hải Phòng lên chơi. Hai người đã tâm sự luận bàn suốt cả đêm, rồi sau đó đã hoạch định một cuộc vượt tuyến vào Nam. Đến ngày đi, vì tình cảm bịn rịn vợ con, ông đã ăn một bữa cơm từ biệt và dặn dò vợ con. Đứa con trai út 10 tuổi của ông đã vô tình nói với bạn nó. Từ đấy, công an biết và theo dõi. Hai ông đi đến Thanh Hóa thì bị bắt. Nghe ông kể lại chuyện của ông, tôi chả đặt vấn đề là tin hay không tin gì cả. Cứ như là nghe cho biết vậy thôi. Phần tôi, tôi cứ thực hiện nguyên tắc đã tự đặt cho mình. Nghĩa là, tôi cũng kể sơ cho ông nghe (những điều tôi đã khai với chấp pháp) là tôi ra Bắc có nhiệm vụ về quân sự. Vì có thiện cảm với xã hội chủ nghĩa, nên tôi chẳng muốn làm gì, chỉ thích đi chơi, đi lang thang khắp Hà Nội… Rồi tương kế, tựu kế, giả như ông ta là người của Cộng Sản làm khổ nhục kế để moi tin, thì qua ông, tôi đã “vờ” thổ lộ được những tâm sự “rất thành khẩn”. Nào là: Xã hội chủ nghĩa thật công bằng, ai cũng như ai, không có kẻ giàu người nghèo như trong Nam. Bác Hồ sống thật giản dị, uy tín của bác thật lớn. Trong tự điển Anh và Pháp cũng thấy nói đến tên bác. Các nhà văn, nhà thơ ít vào miền Nam, hầu hết đều ở miền Bắc, theo kháng chiến. Như vậy, chế độ miền Bắc là chính nghĩa, v.v… Để biết rõ ông Hoàn này là thực hay giả, nên trong những ngày chung đụng chuyện trò, một lần tôi giả vờ “vô tình” tiết lộ một điều mà tôi chưa hề khai với chấp pháp: Đó là chuyện hồi 1954, tôi được đón vào Bình Xuyên theo Trung úy Nghĩa. Còn đối với chấp pháp, qua cách hỏi cung của họ, tôi nắm được một cách chắc chắn là họ không biết gì về tôi cả. Vì thế, họ lần mò từ những sự kiện nhỏ nhặt, những mâu thuẫn, câu nói, những sơ hở… của tôi, để từ đấy hòng phanh phui để biết cái thực về tôi. Điều quan trọng đối với tôi là phải nhớ những điều gì mình đã khai ra, và những điều gì mình chưa hề khai, sao cho hợp lý. Nhiều khi phải vờ quên một sự việc này để che lấp một sự việc kia; hoặc làm ra vẻ ngây thơ non dại để dùng một sự kiện kia làm sáng tỏ sự việc này v.v… Nói chung, đây chính là một cuộc đấu tranh bằng mưu mô, thủ đoạn, giữa một bên là một mình tôi và bên kia là cả một tập thể phòng 44, phòng chấp pháp chính trị của Hà Nội. Cho nên, đầu óc tôi luôn luôn căng thẳng. Những lần đi cung, tôi cũng mắc phải nhiều sai lầm. Có những sai lầm trầm trọng. Trong cuộc đấu trí này, tôi bị yếu thế về nhiều mặt như: Tôi hoàn toàn bị động, họ chủ động mọi mặt. Tôi chỉ như một con chim ở trong lồng, họ có đủ mọi ưu thế của một người cho ăn, hay để cho chết đói hoặc khát. Họ có đủ kiểu cách để biết chỗ yếu của con chim ở trong lồng kia để từ đó, chỉ huy con chim theo ý người. Vả lại, tuổi đời tôi vẫn còn trẻ, vẫn còn bồng bột ngây thơ, chưa hiểu biết mọi mặt của cuộc đời; Tuổi “nghiệp vụ” cũng chưa được bao nhiêu, vẫn còn ấu trĩ và chưa hiểu đủ về Cộng Sản. Tôi cố suy nghĩ, tìm ra những cái ưu của mình và tăng cường phát huy tối đa để phần nào xóa bớt những cái nhược trên. Tôi phải tỉnh táo sáng suốt, nhìn rõ mọi sự việc để đối ứng; kiên trì chịu đựng đau thương gian khổ; nâng cao ý chí căm thù giặc cộng. Lấy ý thức Thiên Chúa Giáo và lý tưởng tự do làm cứu cánh. Sau những ngày tôi phải khai báo chi tiết toàn bộ, một hôm, gần cuối tháng 7 (1962), chúng gọi tôi lên. Lần này, chỉ có tên Đức và một tên cảnh sát lạ mặt đội mũ cối cùng ngồi trong phòng với hắn. Tên Đức chỉ tôi ngồi, rồi nói: - Bây giờ, chúng tôi yêu cầu anh, mỗi ngày hai buổi lên đây. Anh sẽ ngồi viết bản tự khai chi tiết về toàn bộ cuộc đời anh: Ở nhà quê đi học thế nào? Ra Hà Nội, làm gì, với ai và ở đâu? Vì sao vào Nam, làm gì? v.v…Tất cả mọi vấn đề cho tới lúc đi lính, vào tình báo, rồi ra Hà Nội. Ra Hà Nội làm những cái gì? Đi những đâu? Tiếp xúc với những ai? Cho tới khi bị bắt… Hắn cao giọng: - Anh sống hay chết, buồn hay vui của đời anh bây giờ là bản viết này đây. Vậy, phải cố gắng để hưởng lượng khoan hồng, của đảng và nhà nước. Đảng và nhà nước đang mở cửa chờ anh. Anh có toàn quyền viết khác hẳn những lời, những việc đã khai báo trước đây, hoặc những chỗ khi khai báo đã lú lẫn quên đi. Hàng ngày sẽ có một đồng chí cảnh sát ngồi đây với anh. Có yêu cầu gì về giấy bút, hoặc xin đi vệ sinh, phải báo cáo với đồng chí cảnh sát, đồng chí đó sẽ giải quyết. Thái độ viết phải khẩn trương, nhưng không hạn chế thời gian. Tôi luôn miệng vâng dạ, tỏ ra rất ngoan ngoãn dễ bảo. Từ đó, cứ ngày hai buổi: Sáng từ 8 giờ, mụ Hoa hoặc tên mắt ốc nhồi (sau tôi biết tên hắn là Bằng), đôi khi một mụ khác tên là Thơ, Trung sĩ coi khu nữ vào dẫn tôi đi, cũng như dẫn về. 12 giờ trưa về, 1 giờ lại đi và chiều 5 giờ về. Ngày 8 tiếng, Chủ Nhật nghỉ. Thời gian viết này, tuy tôi có vẻ thoải mái hơn trước, nhưng đầu óc cũng không kém suy nghĩ, tính toán. Tôi phải vừa cân nhắc viết gì cho hợp với những điều đã nói, để choáng những sự việc và những thời gian tôi cần giấu, vừa phải ghi nhớ những điều mình đã viết ra và những điều mình đã nói trước đó. Hàng đêm, tôi cứ phải nhẩm lại những điều mình đã viết lúc ban ngày. Chân tôi gần một tháng mới khỏi. Cũng chính tôi đã lợi dụng tên Hoàn ở cùng phòng, giúp về việc chữa chạy cái chân đau này. Qua một số những thử thách, tôi chắc đến 80% y là loại khổ nhục kế vào nằm với tôi để móc tin, vì thế, khi chân tôi mưng mủ làm đau nhức, đêm đêm, tôi cứ than van tâm sự với lão: Bác ạ, nhiều lúc cháu đang suy nghĩ để viết ra hết những điều họ huấn luyện cháu, hoặc những thủ đoạn mưu mô họ giảng dậy cho cháu, nhưng cái chân lại đau nhức không thể chịu được, làm ảnh hưởng đến cái đầu, khiến cháu quên tiệt. Mấy ngày sau đó, y bảo tôi đứng ở cửa sổ nhỏ cứ báo cáo ầm lên là cần y tá. Tôi làm theo và được lão cán bộ Nhiễm, đưa bà Dậu y tá vào tiêm cho một phát và cho thuốc rắc vào vết thuơng. Dăm ngày sau, chân tôi khỏi. Lão Hoàn, cứ mươi ngày hoặc một tuần lễ lại có chuối ăn. Y ra vẻ tâm sự: - Con bé cháu là giáo viên, quen một anh công an ở đây, nên được đặc biệt tiếp tế một tháng hai lần. Tuy chưa kết luận hoàn toàn, nhưng tôi đoán là sớm muộn lão Hoàn cũng đi chỗ khác. Bởi vì, những điều hắn biết chẳng thể hơn được, những điều chấp pháp biết về tôi; nhiều chỗ còn không biết bằng. Một hôm, đầu tháng 8, một việc làm không hợp lý của lão càng lộ rõ hơn. Lúc đó, khoảng 6 giờ chiều, tôi đi cung về chừng hơn một tiếng, lão ra đứng chỗ cửa sổ nhỏ, chõ mồm ra ngoài gọi: - Số 6! Số 6! Có khỏe không? (tức buồng số 6 bên cạnh). Lão mới gọi được 2 tiếng, cửa nhỏ xoạch mở. Lão Hoàn lùi lại, lão Nhiễm chỉ tay vào buồng: - Ai vừa gọi? Hai anh, anh nào? Tất nhiên, phải có người nhận. Lão Hoàn có vẻ rụt rè: - Thưa ông… tôi… Cửa lớn mở, cùm rút ra và Nhiễm quát: - Bỏ chân vào! Anh dám liên lạc với buồng bên cạnh à!? Hoàn cố nằn nì: - Xin cán bộ tha cho! Lão Nhiễm nghiêm mặt: - Bỏ ngay chân vào! Hoàn từ từ bỏ một chân vào cùm. Khi xập cái cùm xuống, lão Hoàn cố ý đẩy cái chân lên quá sâu, để cái cùm lên tới ngang bắp chân, nên lỗ cùm không vừa. Mồm lão kêu tía lia: - Thưa cán bộ, không vừa, đè xuống gẫy chân tôi mất! Thời Pháp làm cùm này là cùm đúc, họ đã tính hết các cỡ chân, thế mà lão Nhiễm loay mãi không cùm được (?), lão quát: - Ôm quần áo theo tôi! Lão Hoàn luýnh quýnh vơ cái túi, khăn mặt, v.v… Lại vờ ôm theo cả cái gáo, khi Nhiễm hất tay lão, bảo bỏ lại, y mới nghe theo. Cửa đóng, tôi chỉ còn một mình. Tốt quá, được cái gáo to một chút, đỡ khổ! Thật là buồn cười và nhạt nhẽo. Gần một tháng ở chung buồng với tôi, lão Hoàn tỏ ra là một người trầm tĩnh, với tuổi đời đã 46. Tại sao, bữa nay lại có cái hành động trẻ con nhố nhăng như vậy? Đến tôi còn chưa làm thế huống chi lão. Gọi buồng bên cạnh bâng quơ để giải quyết cái gì, trong khi nội quy nghiêm ngặt rõ ràng. Từ đấy, tôi chẳng bao giờ thấy Hoàn nữa. Có thể trước đó, bọn Cộng Sản tính rằng, tên Hoàn và tôi gặp nhau là hợp. Một người trí thức, hiểu biết, không thích Cộng Sản trốn vào Nam; một người hoạt động cho miền Nam, lại ở miền Nam ra, gặp nhau, hợp quá rồi còn gì nữa! Lão tìm hiểu về miền Nam là hợp lý. Tôi trả lời rất nhiều chuyện, nhưng chuyện nào cũng tỏ ra chê bai, nghĩa là tìm những mặt xấu để phê phán về chế độ miền Nam. Chúng định, qua lão Hoàn này, sẽ khai thác được cả về mặt tư tưởng lẫn sự việc của tôi. Đừng hòng! Nếu lão cứ theo những lời tâm sự của tôi để báo cáo, thì tôi là người yêu xã hội chủ nghĩa quá xa rồi còn gì! |
|
|
![]()
Post
#29
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi Sáu
Vẫn Trò Cân Não Trong Sự Sống Chết Tù Đày… Dạo này, trời chuyển sang Thu, không khí trở lên dễ chịu. Tôi đỡ khổ với cái nóng, cái hôi hám của cơ thể, nhưng muỗi thì vẫn hành tôi. Dù đêm nào tôi cũng phải chập chờn đập, đuổi muỗi, nhưng tay, chân và những chỗ hở quần áo không che được trên người tôi, luôn luôn có vết muỗi đốt mới. Vết cũ mờ dần, còn mặt vì không có gương, tôi chả làm sao nhìn ra được. Tôi viết khoảng 26, 27 ngày thì xong. Được gần 90 trang giấy. Hai ngày sau khi viết xong, tôi lại bị gọi lên cung. Hôm nay có Đức và một người lạ, sau này tôi được biết tên y là Nhuận, da đen đen chừng hơn 30 tuổi. Ngay sau khi vừa bước chân vào phòng, thái độ của họ nhìn tôi như kẻ thù. Tôi chỉ biết ngồi xuống chiếc ghế đẩu trước bàn chúng như mọi khi, cúi đầu, chờ đợi. Tên Đức đập mạnh tập giấy tôi viết xuống bàn. - Anh viết thế này à!? Anh coi công an là trò đùa với anh đấy à? Tên Nhuận đập bàn đánh cái rầm một tiếng, quát: - Anh muốn sống hay muốn chết? Với cái trò trẻ con này, anh muốn qua mặt công an ư? Chúng tôi tỏ lượng khoan hồng cho phép anh ngồi viết, anh viết láo thế này à? Chúng nó đập bàn xô ghế, quát tháo, nạt nộ, xỉ vả ầm ầm. Tôi cứ lặng lẽ ngồi yên cúi đầu, mặc cho chúng nổi trận lôi đình. Mãi tới khi chúng quát: - Anh câm à? Trả lời đi! Tôi ngửng đầu lên nhìn chúng với ánh mắt sợ sệt buồn khổ: - Thưa các ông, tôi chỉ biết thành thật viết hết những điều chính về cuộc đời tôi, và tất cả những cái gì Mỹ Diệm đã huấn luyện tôi, cũng như những việc tôi đã làm khi ra ngoài Bắc… Tên Đức đập tập giấy tôi viết xuống bàn, trước mặt tôi: - Anh tuởng anh ở trong Nam, chúng tôi không biết được anh à? Anh ra ngoài Bắc làm gì, đi những đâu, chúng tôi biết từ lúc anh chuẩn bị ra đây cơ. Nhiệm vụ anh ra ngoài Bắc, anh khai hoàn toàn láo toét hết. Tôi tỏ thái độ thành khẩn: - Thưa các ông, tôi hiểu cách mạng lắm. Ngay ở trong Nam, các ông không thiếu gì người nằm trong chính quyền. Tôi tin rằng, ngay trong cơ quan tình báo của miền Nam cũng có người của các ông, vì thế tôi đã rất thành thực khai báo sự thật. Hơn nữa, tôi cũng chẳng thích chế độ Mỹ Diệm, nên khi ra tới Hà Nội, tôi đã chẳng làm gì cho chúng cả, tôi chỉ đi chơi thôi… Tên Nhuận chỉ vào mặt tôi: - Anh câm cái miệng anh lại, đừng bịp chúng tôi. Ngay từ khi anh di cư vào miền Nam, cách mạng đã biết anh anh rồi! Anh làm cái gì, ở đâu, giao thiệp với những ai. Anh tưởng, anh che dấu được à? Tôi hỏi anh có biết tên Nghĩa không? Tôi vờ mở to mắt ngạc nhiên: - Có phải Nghĩa ở trại sinh di cư Phú Thọ, học đệ tứ Chu Văn An phải không ạ? Nó đập bàn gắt: - Đừng vờ vịt. Thằng Nghĩa Trung Úy Bình Xuyên, anh có biết không? Tôi vờ tái mặt, giật mình sợ sệt: - Dạ có!… Trong lòng tôi thầm nghĩ, thì ra là thằng già Lê Văn Hoàn chó chết đây mà. Tao đã biết trước, và bây giờ thì kết luận về mày được rồi đây! Tên Đức hý hửng ra mặt: Đấy, anh giấu chúng tôi sao được! Còn bao nhiêu việc khác nữa. Tôi cho phép anh khai báo lại. Không thì anh sẽ biết, anh sẽ chết một cách khốn nạn, đau đớn! Tôi tỏ ra rất hoang mang, sợ sệt, nét mặt ủ rũ như cố nhớ lại một điều gì, rồi như chợt nhớ ra, tươi lên: - Thưa các ông, tôi không ngờ các ông lại biết rõ thế. Thực sự trước đây, tôi thấy không cần nói đến tên Nghĩa ở Bình Xuyên. Bởi vì trước đây tôi vào Bình Xuyên chỉ có mươi ngày, mà lại là do tính trẻ con tò mò của mình, không liên quan gì đến chính quyền Ngô Đình Diệm, nên tôi đã không nói. Vừa qua, tôi đã rất thành khẩn khai báo, tôi cứ lo âu không biết cách mạng có hiểu rõ cho sự thành khẩn của tôi không. Nhưng, thế này, tôi rất mừng, cách mạng đã hiểu hết tôi không lo gì nữa. Chúng nó nhìn đăm đăm, nét mặt cau cau lại, miệng nhếch mép cười: - Anh đừng già họng nữa, nghe tôi hỏi đây… Chúng giở tập tôi viết và tập hồ sơ của chúng. Thằng thì hỏi: - Thời gian ở trại định cư Hà Nội Hố Nai, anh quan hệ với linh mục Loan, trưởng trại thế nào??? Thằng thì hỏi: - Tên Hòa là người Bắc hay Nam? Anh hãy tả lại người nó tôi xem? Nó hay mặc quần áo gì?... (Tôi cứ hình dung ra bóng dáng của ông cậu tôi hiện đang sống ở Pháp để tả) Lúc thì tên này hỏi: - Anh ở đoàn võ Đinh Bộ Lĩnh thường đi với ai? Lúc thì tên kia cật vấn: - Năm anh học Đệ Nhị, trường Hưng Đạo, Cống Quỳnh, những giáo viên nào dậy anh? Chúng nó hỏi lung tung. Đầu óc tôi quá mệt mỏi. 12 giờ trở về xà lim, người tôi đờ đẫn. 1 giờ chiều lại tiếp tục, 5 giờ về, 6 giờ lại đi đến 9 giờ tối. Cứ như vậy kéo dài hơn một tháng trời. Có hôm 3 thằng hỏi, quát nạt, đe dọa; thậm chí có một vài ngày đến 4 thằng thay phiên hỏi, truy. Ban ngày, tụi công an hành hạ. Ban đêm, muỗi đua nhau hút máu. Chỉ có một thời gian ngắn, chân tay tôi đã khẳng khiu, xanh tái. Hơn nữa, tôi càng ngày càng thấy đói nhiều, dần dần mỗi ngày mỗi thiếu. Cơ thể tôi còn chút nào dự trữ, chắc đã bóc ra hết. Tôi nhớ lại, từ lúc mới vào, tuần đầu ăn không hết suất cơm. Hai tuần sau, chén ngon lành. Bây giờ, tôi ước gì được 2 suất ăn cho no một bữa, nhưng không có. Ngày nào cũng vậy, dù đầu óc căng thẳng vì cung kẹo, nhưng khi về buồng, thấy bát cơm là vồ vập ăn ngay, vừa mới ăn đã hết rồi. Bát cơm không còn một mẩu hạt cơm dính, canh húp đến khô cả bát, thế mà mồm vẫn còn thòm thèm, mắt còn nhớn nhác tiếc rẻ nhìn hai cái bát đã sạch trơn. Mỗi lần ngồi xuống đứng lên, tôi đã mắt hoa đầu váng. Thế mà những con muỗi ác ôn, đêm đêm vẫn cứ rủ nhau hút máu của tôi mãi. Hình như chúng toa rập với lũ cộng dã man, để hành hạ tấm thân chỉ còn xương với da của tôi tới chết. Móng tay, móng chân của tôi dài ra, tôi cũng chưa biết làm sao cắt được. Trong những lần đi cung, trên đường đi, một hôm tôi bất chợt thoáng thấy một cái đinh dài chừng 4 phân. Hai ba lần tôi định nhặt, nhưng chưa có thời cơ nào thuận tiện. Rồi một bữa, mụ Hoa dẫn tôi về ngang qua đấy, may quá có một cô tù chạy ra báo cáo gì với mụ. Tôi ngồi xuống, lẹ tay vớt một cái. Thế là được rồi. Những buổi sau đó, tôi ngồi mài mãi đinh xuống sàn xi măng. Mài vài buổi, giờ tôi đã có một con dao nhỏ xíu, nhưng đủ để giải quyết những cái móng tay móng chân, đôi khi còn… ngoáy tai nữa. Bất ngờ một hôm, cửa sổ nhỏ xịch mở, tôi đang ngồi cắt móng tay, không dấu kịp. Thế là tên Nhiễm quát, bắt đưa cho y. Sau đó, y mới mở cửa lớn. Tên này thật tinh quái, y sợ rằng trong lúc loay hoay mở cửa lớn, tôi có thể ném cái đinh vào một góc buồng rồi chối biến đi, nên y đã bắt tôi đưa cái đinh rồi mới mở cửa. Y vào lục lọi khám xét hết cả người tôi. Mọi xó xỉnh, kể cả kẽ cùm, không có gì nữa, y ra và đóng cửa lại. Chừng 30 phút sau, tôi nghe tiếng dép trở lại, rồi động ở đầu cùm, và chốt cùm rút ra kêu cái xoạch. Tôi hết hồn. Cửa lớn mở, y vào cầm theo tờ giấy, đọc: - Lệnh của ban giám thị kỷ luật: Tên Đặng Chí Bình phạt 7 ngày cùm hai chân. Kể từ ngày… đến ngày… vì đã đưa kim khí vào buồng xà lim. Tên Nhiễm nhìn tôi, ra lệnh: - Anh hãy chấp hành lệnh kỷ luật. Tôi thật buồn khổ, biết có xin cũng chả được, đành phải nhắc hai cẳng cho vào cùm. Trong lòng rất hận tên Nhiễm chó chết này. Thế là lại hai chân trong cùm. Đêm hôm đó thật là cay đắng cuộc đời. Hai đầu gối mỏi dừ, muốn co người lại, phải lựa thế từ từ tụt người xuống chỗ cùm một lúc, rồi lại từ từ lựa để lết người lên. Bởi vì cạnh cái cùm rất sắc. Cũng may, kỳ này tôi gầy đét nên hai chân trong lỗ cùm cũng lỏng. Thế nhưng ban đêm, lúc mệt quá thiếp đi, trong khi mê ngủ, quen như mọi bữa mỏi chân thì co mạnh lên, lại bị trầy da chảy máu. Ngồi nhìn máu chân chảy ra trong đêm khuya vắng lặng dưới ánh đèn điện một mình, lại chẳng có gì để rịt, tôi chỉ biết lấy ngón tay quệt; lại chảy, lại quệt…Ôi, thân phận lao tù! Sao giữa loài người với nhau mà tàn ác với nhau như thế này! Có tiếng rên văng vẳng đâu đây, ở một buồng nào đó? Thỉnh thoảng một tiếng rúc dài chặc…chặc…chặc…của một con mối, ngoáy vào trong đêm trường nghe như lời than vãn xót thuơng, cho những kiếp người cùng khổ! Tôi cứ ngồi như thế mãi trong đêm thâu, một tay đuổi muỗi, và một tay thỉnh thoảng lại quệt giòng máu vẫn rỉ ra. Máu tôi bây giờ, quá loãng không đông lại được. Bụng róc rách cồn cào, chẳng hiểu trong bụng tôi có giun nào không? Nếu có, chú mày phen này cũng phải nằm liệt! Một sự an ủi tương đồng chợt nhú lên trong óc tôi. Tôi đói, một sinh vật nữa (biết đâu lại vài con thì sao) cũng đang không nằm yên được, cũng dẫy dụa…thèm ăn như tôi. Chẳng đâu xa, ở ngay trong tôi. Tôi đang miên man đi trong rừng sầu, chợt cửa nhỏ mở, tối mò không trông rõ là bộ mặt ai: - Sao không ngủ, ngồi làm gì? Cũng tiếng hỏi như mọi khi, nhưng hơm nay như ẩn tàng một niềm xót xa giữa người với người. Tôi dịu giọng chỉ vào chân: - Chân tôi bị cạnh cùm làm chảy máu, nó không cạm! Một lúc, tôi nghe tiếng: - Rịt chỗ thuốc này vào. Một ngón tay thò vào, trên đầu ngón có ít thuốc lào. Tôi xố xoay người tìm thế với tay ra. Một bàn tay run rẩy chơi vơi, vì cạnh cùm nghiến vào chân, đang cố dướn tới. Một ngón tay ráng sức thò vào, chỉ cách nhau có 2 phân. Hai bên cùng cố, tôi gắng liều, dù chân có bị cứa ở chỗ khác nữa. Rồi cuối cùng cũng được. Tôi xoay thế để ngồi lại, rịt chỗ thuốc lào đó vào chỗ đang rỉ máu. Cửa nhỏ đóng lại. Tiếng dép trong đêm dài xa dần. Một người nào đó có trách nhiệm đi tuần đêm? Như vậy, dưới đáy con time của người này vẫn còn mốt chút chất người! Một niềm tin tưởng dậy lên trong tôi: Cộng sản không thể nhuộm đỏ hết được tâm hồn mọi người. Sáng hôm sau vẫn đi cung. Phải nói là lúc này tôi sợ đi cung quá rồi. Tôi chỉ muốn được nằm yên, nhưng bây giờ, đi cung thì tuy bị chưởi bới, nhiếc móc, nhưng cái cái chân lại được nghỉ. Cho nên, giữa hai cái cùng khổ cả, tôi phải thích cái khổ ít hơn vậy. Vào buồng hỏi cung, cũng tên Nhuận da chì và tên Đức. Tôi không thể ngờ chúng lại truy kỹ như vậy. Nhiều lúc tôi cũng không biết trả lời sao, dù việc đó là sự thật. Thí dụ, một lần nó hỏi: - Anh nói anh vào nhà thờ “X”, vậy anh gặp những ai? - Tôi chỉ thấy mấy ông bà già… - Vào để làm gì? - Tôi là người Công giáo. Vì hoàn cảnh bắt buộc phải ra Bắc. Tôi sống chơ vơ, heo hút lang thang một mình, chả biết ngày mai ra sao nên tôi tìm vào bất cứ một nhà thờ nào có linh mục để xưng tội. Lỡ có sao, thì mình chết vô tội… Tên Đức đập tay vào bàn nghe cái “thình”, rồi y đứng giỗ dậy sừng sộ: - Anh nói láo thế à! Anh định bịp chúng tôi à! Anh đã lợi dụng xưng tội để nói gì với linh mục đó, chúng tôi đã biết hết, biết hết! Anh hãy khai ra đi để chúng tôi thấy được tư tưởng của anh với linh mục đó! Chúng tôi đã ghi âm cả… Tôi thót tim, lo lắng, chúng nó đã biết hết rồi chăng? Nhưng, tôi chợt nhớ và suy lý, nếu chúng biết sao chúng không hỏi một tí gì về việc tôi trao thư tay cho linh mục? Để thăm dò, tôi vờ ngờ ngác trả lời: - Tôi chẳng hề biết linh mục đó là ai. Tôi cũng chả để ý nhìn người, thế thì tôi nói chuyện cái gì? Chúng cứ khẳng quyết là tôi đã nói gì với linh mục đó. Rồi không sao được, chúng bắt tôi tường thuật tỉ mĩ chi tiết đã xưng tội những gì…Phần vì, tôi sợ là chúng sẽ lấy lời khai của tôi rồi vào bịp Cha A, khó cho cha trả lời; phần khác, tôi đã nắm được chuyện ghi âm của chúng là chuyện không thực, cho nên tôi mạnh bạo: - Chuyện xưng tội chỉ là lấy lệ của người Công giáo. Vì thế, tôi không quan tâm nhiều, nên tôi chả nhớ những tội vặt của tôi. Đến đây, tôi biết là vừa rồi chúng chỉ trộ tôi. Tôi ý thức sẽ lợi về sau, nên tôi cũng không hề nhắc hay đòi nghe cuốn băng ghi âm. Cuối cùng, mãi không được, tên Đức xẵng giọng: - Lúc trở ra anh gặp ai? Tôi chỉ thấy xe cộ và người đi lại… Người đi lại đó, ăn mặc thế nào? - Tôi chẳng để ý nên không biết. Nó lại đập bàn: - Mắt anh nhắm hay mở mà nói không biết!? - Tôi không biết thực, ông cứ bảo tôi biết thì làm sao tôi nói?... Hoặc nó hỏi: - Cơ quan tình báo của and ở đâu? - Tôi không biết, hàng ngày tên Hòa đến dạy tôi, chứ tôi không biết. - Anh nói láo! Anh nói thế mà tai anh nghe được à! Đi làm mà không biết cơ quan ở đâu, không biết cơ quan gì!? - Thưa các ông, thực sự tôi không hề biết. Tôi nhiều khi muốn biết, nhưng trong bài học, ông đã biết đấy, tôi không được hỏi hoặc tìm hiểu những gì không có liên quan. - Nhà thằng Hòa ở đâu? Nó thường đi với ai? Thường đi xe gì? Ngoài lúc dậy, thường thấy nó đi đâu? Suốt cuộc đời tôi, chỗ nào chúng cũng truy. Huấn luyện môn gì, từng môn, thời gian đi học, ở nhà quê, Hà Nội, đi lính ở sư đoàn 7… Cứ miên man, chúng dẫn tôi vào mê hồn trận. Hơn nữa bây giờ, đêm lại bị cùm kẹp, chân tôi tê dại, nhiều lúc chúng đang hỏi cung tôi xỉu, chúng phải cho tôi về. Tôi đã bị cùm chân nửa tháng, mà không thấy chúng tha. Một hôm, tôi hỏi quản giáo xà lim: - Báo cáo ông, hôm trước ông đọc biên bản kỷ luật 7 ngày. Bây giờ đã 15 ngày đề nghị ông xét! Nó cười: - Anh cứ suy nghĩ đi! Tôi chẳng hiểu: - Thưa ông, tôi suy nghĩ gì ạ? - Suy nghĩ gì thì anh biết, đừng hỏi tôi! Rồi nó đóng xầm cửa khóa lại. Tôi hiểu rằng đây là tại chấp pháp cho lệnh cùm tôi. Chứ đã có lần tôi thoáng nghe, ở buống bên cạnh có tù bị cùm, một chân, nghe tiếng đọc biên bản một tuần, thì đúng một tuần là tha, người tù đó cũng vi phạm nội quy. Tôi cũng vậy, mà chỉ là cái đinh con, cắt móng tay, nặng lắm là một tuần cùm một chân. Bây giờ lại bị cùm những hai chân, mà 15 ngày rồi. Tôi giận lắm, nhất định phải làm sao cho rõ vụ này. Tính như vậy, nên hôm sau lên cung tôi hỏi: - Thưa, có phải các ông cho lệnh cùm tôi, vì tôi khai báo không tốt, phải không ạ? Chúng nó nói: - Anh hỏi để làm gì? - Để tôi xác định rõ vấn đề! - Chúng tôi không biết anh bị cùm. Đây là do bên trại giam. Anh nói để xác định rõ vấn đề gì? Tôi nhìn thẳng chúng nó: - Tôi theo và tôi thích xã hội chủ nghĩa nên tôi mới thành khẩn khai báo. Vậy, tôi khai báo đây là do tự nguyện lòng tôi. Nếu như vì tôi sợ cùm kẹp mới khai báo sự thật, sự khai báo đó cũng chẳng tốt gì. Hơn nữa, đối với tôi, như vậy thà chết còn hơn là sự đau khổ làm một thằng hèn. Chúng nó quắc mắt: - Chúng tôi nói là chúng tôi không cùm anh. Để chúng tôi hỏi lại bên trại giam xem thế nào. Cứ thế ngày tháng trôi qua. Cơ thể tôi cũng dần dần tàn lụi. Tôi nghe trong thân thể mình có nhiều triệu chứng lạ. Hai chân tôi gần như mỗi khi đứng lên không vững nữa. Hai mu bàn chân hình như sưng to lên. Những lúc ỉa đái thật là vất vả đau đớn. Cũng may, hai ba ngày tôi mới đi ngoài một lần, do ăn ít, do không có sức vận động nên thành kiết, táo. Mỗi lần đi ngoài, tôi phải cúi xuống gầm sàn kéo bô ra, mờ nắp, đặt sao cho đúng chỗ, rồi tôi lựa nằm nghiêng, đưa mông ra ngoài sàn. Cứ nằm thế mà rặn. Đang đi mà mót giải thì ôi thôi, đành để cho nó chảy qua đùi rồi xuống sàn. Ướt cả quần cũng kệ nó. Chân tê dại, đau nhức, người tôi không còn sức để xê dịch, mỏi dừ, rã rượi. Nằm như vậy, vừa đau, vừa mỏi, vì rất khó khăn, mắt nhiều khi hoa lên, quay cuồng. Lắm lần, đi hai ba tiếng đồng hồ nên tôi thường phải đi vào lúc đêm. Lúc này, cái sống và cái chết gần kề, tôi chẳng còn biết ngượng ngùng bẩn thỉu là gì nữa. Đang nằm ỉa, có ai mở cửa nhỏ cũng mặc. Đi ra được một hòn phân, có khi cũng chẳng rơi đúng bô, nó văng ra ngoài nền xi măng, cũng để đến mai khi gọi cung, hoặc khi cho đổ, lấy tay nhặt vào. Có cái gì khác nữa đâu, khi đi ngoài xong, cố lựa tay đổ gáo nước, rửa từ từ. Một tay dưới vai lại bị thân mình đè chặt, nên chỉ có mấy ngón tay với lên ngó ngoáy cử động. Nhiều khi nước đổ một chỗ, mà tay lại móc một chỗ khác. Hết cả nước rồi, tay vẫn còn đầy phân, đành cố với tay xuống sàn gầm sàn mà quệt. Đỡ bẩn chút nào hay chút nấy, để còn lựa xoay người lại cho đỡ mỏi tê. Một đêm, tôi đang mơ màng, bỗng nghe tiếng khè khè ư ử ở buồng bên cạnh, không rõ số 6 hay số 7. Đêm khuya vắng lặng, tôi lắng nghe. Tiếng ư ử tiếp tục, nhiều khi như tắc nghẹn. Tôi đã xác định được tiếng đó từ phòng số 7. Phòng đó cũng bị cùm, mà cùm một chân. Cùm sau tôi chừng 10 ngày, chả biết vì sao. Tôi suy đoán qua tiếng khò khè: Đó là một người sắp chết vì thắt cổ tự tử. Nhưng, thắt cổ phải có dây, và phải có chỗ treo. Riêng tôi trong nghề biết một cách, chì cần chỗ đuôi cùm trên sàn, nghĩa là chỉ cần cao hơn mặt đất 60 phân, là có thể tự tử được rồi, nhưng với điều kiện không bị cùm chân. Tôi tò mò nghe ngóng. Nỗi niềm của thân mình cũng đang không muốn sống nữa và một người có thể đang đi dần đến chỗ tắt thở làm tôi cứ thức mãi. Đêm thâu vắng lặng, thậm chí nghe rõ tiếng muỗi vo ve, tiếng khò khè càng ngày càng yếu dần. Các chú mối lâu lâu lại rống lên một hồi dài (hình như không thích ngủ ban đêm). Mải miên man theo giòng lệ tưởng, tiếng khè khè im bặt tự bao giờ không biết. Mãi sau, tôi nghe tiếng xẹp xẹp rất nhẹ đi vào xà lim, rồi tiếng mở một vài cửa nhỏ. Khi mở tới cửa sổ của tôi, tôi vờ nhắm mắt ngủ. Rồi tới buồng số 7. Nghe tiếng chân chạy ra mạnh hơn. Khoảng 15 phút sau, ba bốn người đi vào. Tiếng chìa khóa, rồi cửa lớn số 7 mở, tiếng mở cùm. Tôi cố lắng nghe: - Còn sống không? - Lâu rồi, máu khô rồi! Rồi nghe thấy như khiêng một người đi qua buồng tôi. Bất chợt, cửa sổ tôi lại mở, tôi nhắm mắt lẹ nằm im, nghe tiếng cửa nhỏ đóng. Một lúc sau, nghe thấy tiếng nước máy chảy mạnh vào bô. Tiếng nước dội và tiếng chổi quét dưới nền bên buồng số 7. Sáng hôm sau, lúc đi cung, tôi liếc mắt vẫn còn một ít nước màu đỏ sậm, sót ở vỉa hè trước buồng số 7. Như vậy là một người đã may mắn thoát được cảnh khốn cùng này. Xin chúc mừng và ca ngợi sự dũng cảm của bạn. Có thể rồi đây tôi sẽ xin theo vết chân người. - Lâu rồi, máu khô rồi! Rồi nghe thấy như khiêng một người đi qua buồng tôi. Bất chợt, cửa sổ tôi lại mở, tôi nhắm mắt lẹ nằm im, nghe tiếng cửa nhỏ đóng. Một lúc sau, nghe thấy tiếng nước máy chảy mạnh vào bô. Tiếng nước dội và tiếng chổi quét dưới nền bên buồng số 7. Sáng hôm sau, lúc đi cung, tôi liếc mắt vẫn còn một ít nước màu đỏ sậm, sót ở vỉa hè trước buồng số 7. Như vậy là một người đã may mắn thoát được cảnh khốn cùng này. Xin chúc mừng và ca ngợi sự dũng cảm của bạn. Có thể rồi đây tôi sẽ xin theo vết chân người. |
|
|
![]()
Post
#30
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi Bảy
Cố Gắng Để Sống... Hôm nay ở phòng cung, chúng nó truy hỏi: - Năm 1953, khi ở Hà Nội về quê, anh phao lên để người ta đồn anh bị điên, tại sao? Có phải tụi đế quốc đã phao tin cho anh như vậy không? Năm 1954, vào Sài Gòn, lại phao tin anh bị chẹt xe chết, như vậy phải chăng do Mỹ Diệm? - Tôi thật là bỡ ngỡ. Nghĩ lại, kỳ hè 1953, tôi về quê chơi, khi đó tôi mới 15 tuổi. Tôi rất yêu cảnh thiên nhiên đồng quê, thích nghe tiếng sáo diều ngân vang, tiếng chày giã gạo, tiếng gà gáy, tiếng chó cắn, tiếng cọt kẹt của tre làng, trong những chiều Hè gió lộng. Tôi thích thở hít mùi hoa bưởi, hoa cau, hoa soan, mùi nồng nồng của phân trâu với rạ ẩm, xen lẫn với mùi thơm ngây ngất của lúa chín vàng, từ ngoài đồng về. Vì thế, cứ mỗi chiều tàn, tôi thường hay lang thang ra cánh đồng rộng một mình. Tụi trẻ con ở nông thôn và cả ngưòi lớn làm sao hiểu được tâm tư ấy của tôi. Cụ thể, mỗi khi tôi ở ngoài đồng trở về, chúng vây đến hò hét , có đưa nói là tôi điên. Tôi bực mình đuổi chúng, chúng chạy và nhiều đứa la hò: “Điên chúng mày ơi!”. Rồi, họ đồn ầm cả huyện là con ông bà ấy, ra tỉnh vì học nhiều, hoặc thất tình nên điên rồ. Còn vụ chẹt xe: Khi tôi vào Nam, bà Bảo Thịnh là bà cô của tôi có hiệu bán vàng ở mặt phố, trước cửa chợ Bến Thành. Như đã trình bày ở trên, tôi không ưa những người giầu có nên tôi không đến bà. Rồi một lần tình cờ, bà đọc một tờ báo nào đó, có một người trùng tên, họ với tôi bị chẹt xe, đưa vào đến bệnh viện thì chết. Bà viết thư về Bắc, báo cho bố mẹ tôi, khi đó chưa hết hạn 300 ngày của Hải Phòng. Làm bố mẹ tôi đã điên rồ khóc thuơng bao ngày. Tôi cũng trả lời y như vậy với chấp pháp. Chúng không tin và vẫn cứ khẳng quyết là do đế quốc đã chuẩn bị dư luận cho tôi từ khi ấy. Tôi cũng chịu cho cái óc đa nghi của chúng thật là phong phú! Tuy vậy, nhờ đó mà tôi hiểu được một điều là chúng đã về tận quê tôi, để nghiên cứu điều tra kỹ càng về tôi và gia đình bố mẹ tôi. Còn những việc trong Nam, chúng chưa cho tôi thấy là chúng có thể tìm hiểu điều tra được. Dù thế, tôi vẫn thấy chờn sợ, cho sự truy hỏi đào sâu đến tận cùng chi tiết, của từng sự việc của chúng. Truy đi hỏi lại một sự việc có khi đến 7, 8 lần. Hỏi bây giờ rồi bất chợt 8, 9 tháng hay một năm sau lại hỏi lại. Tôi đã bị cùm hai chân hơn một tháng. Điều lạ lùng là không ai nhận cùm tôi cả, mà chân tôi vẫn cứ ở trong cùm. Hỏi chấp pháp thì họ bảo do bên trại giam. Hỏi trại giam, thì một hôm trên đường đi cung về, thấy lão Trì, Trung úy Phó Giám Thị, tôi xông bừa đến: - Báo cáo ban (tôi gọi theo những người tù). Tôi bị cùm hai chân đã lâu mà không biết tội gì, xin ban xét! Y nhìn tôi một lúc rồi hỏi tên, sau khi tôi nói lên, y bảo: Trại không cùm anh. Do ở trên cùm! Nói rồi lão đi luôn. Tôi chẳng hiểu trên là trên nào. Trời đã vào cuối Thu, mấy hôm nay thỉnh thoảng đã có những đợt gió mùa Đông Bắc mò về sớm. Trời lạnh thì muỗi ít, nhưng cái cùm và cái sàn xi măng đã bắt đầu hành chân và lưng tôi. Cả đêm, hình như tôi chỉ thiếp đi từng lúc. Một buổi sáng hôm đó khi tên Nhiễm vào mở cửa sổ con, bảo tôi mặc quần áo đi cung. Khi y mở cùm, tôi không nhắc nổi chân ra. Tôi phải đưa tay xuống nhấc từng chân ra khỏi cái cùm. Khi đứng lên, chân tôi rã rượi như mất cảm giác, nên tôi phải ngồi ngay xuống. Mụ Hoa gọi cung đứng đấy, giục tôi đi nhưng tôi không đứng dậy nổi. Tôi đau đớn nhăn nhó, cố gắng chống tay xuống đất để đứng lên, nhưng vẫn không thể đứng được. Tên Nhiễm cau mày, tiến lại lôi tôi ra, tôi ngã nằm xoài, đầu đập vào cánh cửa, choáng váng. Y đỡ tôi ngồi lên sàn rồi đóng cửa lại. Mụ Hoa đi ra, chừng nửa giờ sau, tên Nhiễm lại mở cửa đi vào, nói: - Lệnh của Ban giám thị cho anh nghỉ một ngày hôm nay. Ngày mai sẽ cùm một chân! Tôi cảm ơn rối rít. Tôi nhìn lão, hôm nay trông lão “không có vẻ” ác lắm! Mấy tuần đầu tôi ghét lảo cay đắng. Bây giờ, tôi đã hiểu là không phải lão cố ý cùm tôi. Chính do lệnh từ trên xuống, cố tìm cách để có lý do cùm, rồi cùm mãi. Khi mình đã là tù, họ muốn tìm cớ để trị, họ có muôn ngàn cớ. Cửa đóng lại, tôi nhìn cái chân mình mà lòng thấy sầu khổ. Sống mà cái chân bị hỏng, đời sống thật là khổ nhục. Tôi vẫn nhớ ngày xưa, ở Đại Hội “khỏe” của trường Nguyễn Bá Tòng, tôi đã từng nổi tiếng về điền kinh: Bơi lội, leo dây, nhẩy… Vậy mà giờ đây chân tôi thế này ư? “Hãy nổ lực! Tự mình, chính mình phải cứu lấy mình!”, tôi tự nhủ thầm như vậy. Rồi thực hiện ngay ý định. Đầu tiên, tôi ngồi ngay trên sàn buông thõng hai chân xuống. Mới đầu, tôi phải dùng tay nắm hai chân lắc lắc, sau dần dần chính chân tôi tự lắc. Rồi từ từ hàng giờ sau, tôi đứng được xuống sàn nhà. Tôi chậm chậm đi lại trong cái khung 2 thước vuông ấy. Cứ đi, mệt nghỉ, một lúc lại đi. Bỗng cửa nhỏ mở, lão Nhiễm nhìn tôi tập đi, y mở luôn cửa to, nói: - Ra lấy cơm! Tôi với cái gáo, đi ra, không thể đi nhanh, nhưng đi được. Tôi múc gáo nước, cầm bát cơm đi vào. Nhìn mặt y, thấy như thoáng ánh lên một sự cảm thông vì tôi đã nỗ lực để sống. Chắc y đã nghĩ rằng, với cảnh lúc sáng, tôi chưa thể ra lấy cơm được; chứng cớ là y đã phải mở cửa coi trước để nhìn tôi xem thế nào. Những thực tế tôi đã trải qua trong cuộc sống, đã hình thành trong tôi một quan điểm: “Hãy tin vào chính mình! Hãy nổ lực hết mình với những cái bản thân mình có! Không ỷ lại! Không trông chờ! Dù cho không đạt được kết quả theo ý muốn, ít ra về mặt tinh thần, cũng không phải đến nỗi thẹn thùng nhìn xuống”. Qua thực tiễn nhiều thời đại của con người. Ở đâu cũng thế! Phương Tây có câu: “Aide toi, et le ciel t’aidera”; Mỹ, Anh cũng có câu: “Heaven helps those who help themselves!”; và Việt Nam chúng ta cũng có câu chuyện về một ngưòi nằm há miệng chờ sung rụng. Hãy trèo lên cây. Nếu vì lý do nào đó, không trèo được, phải tìm cách chọc cho quả sung mình muốn, rơi xuống. Nghĩa là, phải ăn những trái sung trên cây theo ý mình; nếu yếu đuối quá, ít ra cũng phải bò dậy mò mẫm nhặt, những quả sung rơi, như thế vẫn còn một chút chủ động, chọn được quả ngon hơn. Ăn cơm xong, lúc đi ra trả bát, tôi vẫn còn thấy chân mình bì bì, căn cắn, đi lại còn ngượng ngập. Tôi lại vào ngồi sàn kiên trì tập nữa. Tôi phải tranh thủ ngày hôm nay, kẻo ngày mai lại bị cùm rồi. Lúc này, tôi mới thấy buồng khai và thối. Thảo nào, tên Nhiễm lúc buổi sáng, vừa vào buồng đã nhăn mặt lùi ra ngay. Buổi chiều, sau khi ăn cơm xong, trả bát, tên Nhiễm rút chốt cùm ra, tôi hiểu đã hết giờ tự do. Tuy trong lòng thắc mắc là y đã nói cho tôi nghỉ một ngày, tôi vẫn tưởng đêm nay còn được tự do nữa chứ. Tuy thế, tôi không muốn hỏi. Nhưng tôi muốn xin đề nghị một chuyện khác. Khi y nhìn tôi, ý bảo tôi cho chân vào, tôi tỏ thái độ lễ phép: - Thưa ông, buồng của tôi thối quá, xin ông cho tôi tranh thủ 2 phút. Xin ông cho tôi một bô nước, dội cái buồng một cái thôi cho đỡ hôi hám! Y nhìn tôi với con mắt lừ lừ một lúc, rồi quát: - Mau lên! Tôi cố chạy lẹ, dù chân còn tập tễnh, tới chỗ bể nước, mở vội vòi, tráng qua nước giải, rồi lấy đầy bô nước vào đổ trên sàn. Hai tay vội vàng xoa xoa, vét nước xuống nền, lấy chổi thanh hao khua mấy cái, để cho nước chảy ra cái lỗ con ở chỗ chân tường phía đầu nằm. Xong xuôi, tôi ngoan ngoãn vội vàng tự mình nhắc cùm và cho một chân vào trước con mắt gườm gườm của y, trong khi y đang đứng lắc lắc chùm chìa khóa ở tay. Y đóng chốt cùm, rồi đóng cửa, khóa lại. Thế là hết một ngày. Cùm một chân thật dễ chịu so với hai chân. Không phải chỉ bớt một nửa khó khăn, đau khổ, mà bớt được hai phần ba. Thực thế, với kiểu cùm này, nếu bị cùm hai chân, tôi nghĩ rằng không ai chịu nổi hai tháng. Con người tôi luôn luôn nỗ lực, từ bé nếu không tập võ, tôi cũng tập thể thao, thể dục; vì vậy, trong thời gian bị cùm hai chân, hàng ngày tôi vẫn cố nhúc nhích, cử động với những động tác có thể được, để hai chân và cơ thể lưu thông mạch máu. Thế mà, mới gần 40 ngày, hai chân tôi đã không đứng được nữa. Bây giờ, cùm một chân, tôi có thể xoay người, từ từ ngồi lên cái cùm để gập chân lại, hoặc có thể bước một chân xuống nền buồng để tập thể dục, vận động cơ thể. Sau khi quản giáo đóng cửa, tôi lấy chiếc quần cũ hơn hì hục lau sàn, vừa khô được cái sàn, vừa đỡ hôi hám. Tôi có thể cúi xuống gầm sàn kéo cái bô ra, đàng hoàng mở nắp thùng đứng tồ, thoải mái. Mọi khi cùm hai chân, dù tôi cố gắng đến mấy cũng đành phải tè ra nhà, vì không dịch được ra mép sàn, đành từ giữa sàn nghiêng nghiêng nằm tè ra. May mắn thì vào bô được một ít, còn thường ra ngoài. Mà ra ngoài thì chính mũi mình ngửi, và khi được mở cùm thì cũng chính mình phải quét dọn. Bây giờ đêm ngủ, khi quá mỏi, tôi vẫn từ từ lựa thế giở mình được, nên thật dễ chịu. Sáng hôm sau, chưa tới giờ Nhiễm đến, thế mà cửa sổ đã chợt mở. Mặt mụ Hoa, mụ chỉ một ngón tay: - Mặc quần áo đi cung! Rồi có tiếng chìa khóa, tiếng rút chốt cùm và cửa lớn mở. Ra tới phòng cung hôm nay, ngoài Nhuận và Đức, tôi thấy lại có thêm một người lạ nữa. Tên này người Huế, chừng 40 tuổi. Tôi lặng lẽ đi vào. Vẫn chiếc ghế đẩu để chơ vơ trước bàn của chúng. Ngay khi mới tới cửa phòng, mắt tôi đã thoáng thấy một hộp điện lớn đen xì, với nhiều dây điện lổn nhổn, để trên cái bàn nhỏ ở góc phòng. Tôi hiểu ngay là hôm nay tôi sẽ phải đi tầu ngầm, hoặc máy bay mà lúc còn nhỏ, tôi thường nghe người ta nói đó là cách thực dân Pháp thường dùng để tra tấn, những người chống lại chúng. Tôi vờ như chưa nhìn thấy, vẫn ngồi cúi đầu như mọi khi. Hôm nay, chúng tiếp tục nạt nộ, truy hỏi. Chúng đập bàn, đập ghế ầm ầm, nào là “Anh là một tên phản động từ trong máu, đã ăn nhiều bơ thừa sữa cặn của Mỹ Diệm”, nào là: “…lấy vải thưa che mắt thánh, dám lòe bịp cả bộ cong an”v.v…Tôi chỉ biết lẳng lặng cúi đầu trước những lời sỉ vả, quát tháo của chúng. Trong thâm tâm, tôi vẫn lắng nghe, xét và nhận định từng lời, từng thái độ của chúng. Tôi thấy chúng chưa nắm được gì về tôi cả. Chúng đang tìm mọi cách để thọc cho ra những đầu mối, mà tôi không chịu khai. Lòng kiên trì che dấu của tôi như một cái đập ngăn giòng nước. Chúng đang loay hoay nghiên cứu, tìm tòi những lỗ rò. Nếu chúng thọc trúng, nhiều khi đập sẽ bục từng mảng, đôi khi cả đập. Có những lúc tôi khai thật như: Luơng tháng của tôi 5000 ngàn mỗi tháng và đã viết giấy ủy quyền cho bố nếu tôi bị mất tích; hoặc thời hạn công tác của tôi ở ngoài Bắc là 25 ngày…Chúng vẫn không tin, truy đi hỏi lại nhiều lần, nào là vô lý, nói láo, đừng hòng lấy vải thưa che mắt thánh… Chính những điều này, cái thực mà chúng cũng không tin, đã cho tôi nắm chắc chúng chẳng biết điều gì rõ về tôi, ở trong Nam. Trước đây, do những điều kiện tự do rởm, và tinh thần cán bộ thiếu ý thức ở Sài Gòn, nên tụi Cộng Sản nằm vùng có thể cài người vào, hầu hết mọi lãnh vực trong những cơ quan từ trung ương tới cơ sở địa phương. Vì thế, tôi cũng phòng hờ nghe ngóng và rất lo. Nhưng qua những sự việc trên, tôi cảm thấy yên tâm. Chúng nó chẳng nắm được gì quan trọng cả. Tuy vậy, cũng có thể vì vấn đề trở ngại thông tin Bắc Nam, chúng chưa đủ thời gian để thẫm tra về tôi chăng? Cho nên, tôi vẫn luôn đề cao cảnh giác, không dám quá chủ quan coi thường đối thủ. Đến giờ, tôi hiểu thêm được một điều nữa là chúng làm việc có nghiên cứu tập thể. Mỗi một nghi vấn dù nhỏ, trong những sự việc của tôi, chúng đều về đào sâu, nghiên cứu mọi tình huống có thể. Điểm nào chưa sáng tỏ thỏa đáng, chúng đều ghi nhận, rồi gọi tôi lên truy hỏi lại những điều ấy cho tới cùng. Tôi thừa nhận bộ óc tập thể có ưu thế hơn hẳn một cá nhân. Dù vậy, trong trường hợp này, tôi cũng có cái ưu thế của tôi. Tôi chỉ cần có một bộ óc tỉnh táo, và một sự hiểu biết tuơng đối, kết hợp với lòng kiên trì, chấp nhận gian khổ, tôi mong là có thể đối ứng được. Quát tháo, giận khùng chán chê, thấy tôi vẫn ngồi cúi đầu im lặng, bấy giờ tên người Huế chỉ vào mặt tôi, gọi đích danh: - Bình! Anh muốn sống hay muốn chết? - Tôi ngửng đầu lên, tỏ vẻ lo sợ lẫn thành khẩn: - Thưa các ông, giờ đây tôi không biết phải làm như thế nào để các ông tin. Tôi đã khai báo mọi điều tôi biết. Tha thiết mong cách mạng xét cho, tôi được nhờ. Hơn một tiếng đồng hồ từ khi tôi bước chân vào phòng, chúng cố ý chờ xem thái độ của tôi như thế nào, khi nhìn thấy dụng cụ tra tấn. Nhưng tôi cũng cố ý coi như chưa nhìn thấy. Có lẽ quá lâu, nên chúng sốt ruột, tên Nhuận chỉ về phía cái bàn nhỏ trong góc phòng: - Anh có biết cái gì kia không? Tôi vờ như lần đầu tiên nhìn thấy, tôi hiểu rằng dù có sợ hãi xin chúng, chúng cũng không tha. Vả lại, vì chưa có kinh nghiệm và hiểu biết về chúng, tôi vẫn nghĩ một cách đơn giản là mình đã đi làm nghề nghiệp này, chỉ còn gồng mình chấp nhận. Trời đâu có thuơng nữa mà kêu, mà trách oán! Từ ý nghĩ đó, tôi đã trả lời rất thản nhiên: - Thưa các ông, tôi hiểu về loại dụng cụ đó. Trước đâym tôi đã ngu dốt đi làm nghề nghiệp này. Nay bị bắt, sớm muộn tôi vẫn bị nhiều những hành hạ tra tấn. Vậy đây là toàn quyền của các ông. Các ông không tin tôi, tôi không biết làm gì hơn được nữa. Nhưng, có một điều là tôi đã nghĩ không đúng về các ông! Tên ngưòi Huế quắc mắt: - Anh nghĩ điều gì không đúng về chúng tôi? Tôi có vẻ đăm chiêu: - Tôi là một thanh niên sống dưới chế độ miền Nam mà các ông gọi là ngụy quân, ngụy quyền, tay sai của đế quốc Mỹ. Ở miền Nam, tôi thường biết có một số hình thức tra tấn để khai thác phạm nhân. Và tôi đã nghĩ rằng các ông thì khác… Tên Đức ra vẻ sừng sộ, đứng bật dậy: - Anh bảo khác, khác thế nào? - Trước đây, tôi cứ nghĩ các ông là cách mạng. Một chế độ nhân dân, một nền dân chủ thực sự, thường lấy chính nghĩa chứ không dùng bạo lực để lôi kéo lòng người. Tôi vẫn đinh ninh trong lòng như vậy, nên ngay từ khi ra Bắc, tôi đã chẳng muốn hoạt động gì như lời chúng chỉ dậy tôi. Rồi sau khi bị bắt, tôi đã vội vàng thành khẩn khai báo hết với cách mạng. Thêm nữa, quan điểm sống của tôi là: Một là tôi sẽ được mọi ngưòi yêu tôi. Hai là tôi sẽ bị cay ghét, căm thù; chứ nhất định tôi sẽ không để ai khinh rẻ. Đặt giả thuyết, bây giờ vì tôi sợ tra tấn, nên mới phải khai báo với các ông, tôi sẽ đau khổ suốt đời vì tôi là một thằng hèn. Thà để thân mình bị tàn tật vì tra tấn, nhưng tinh thần được thảnh thơi hiên ngang nhìn mọi ngưòi, không bị tủi thẹn cấu xé. Hơn nữa, khai vì tra tấn, tôi cũng chả tốt gì với các ông… Tên Nhuận và tên người Huế đều quát: - Anh đừng già họng nữa! - Câm ngay cái mồm lại, chúng tôi không phải trẻ con! Tôi lại im lặng cúi đầu. Một lúc, tên người Huế đứng dậy: - Bây giờ, chúng tôi cho anh về. Chiều nay lên, chúng tôi sẽ giải quyết. Tôi chẳng hiểu chiều nay chúng sẽ giải quyết gì. Tôi đứng dậy, lúc đó cũng đã 12 giờ rồi. Khi lão Bằng giong tôi về tới xà lim, tôi không thấy tên Nhiễm trực ở đấy. Tên Bằng mở cửa, tôi vào rồi y khóa lại. Vì y không trực xà lim nên y quên (hoặc giả y không biết) không bảo tôi bỏ chân vào cùm. Cảm thấy hơi mừng trong dạ, tôi ngồi ăn cơm. Mới chén được nửa bát, cửa sổ đã xoạch mở. Mặt tên Nhiễm. Y rút chốt, đứng ngoài cửa sổ bảo tôi bỏ chân vào cùm. Buồn thật! Thằng chó chết không cho nghỉ một tí để ăn cơm. Mười phút sau, tôi lại thấy rút chốt cùm. Đã quen lệ, tôi vội vàng nhấc cùm lên và rút chân ra. Cửa mở, tôi cầm bát và gáo ra lấy nước. Tôi để dành gáo nước cho việc đi ngoài và súc miệng, rửa mặt. Thường, tôi đã phải cố gắng uống no nước ngay tại chỗ. Điều này làm mãi, nên thành thói quen. Suốt hàng mấy chục năm trời, cho tới bây giờ, tôi cũng chỉ uống nước sau khi hai bữa cơm, còn hầu hết như không thấy khi nào khát nước. Tôi không cần phải uống nước những lúc không ăn. Lại đóng cùm, lại khóa cửa. Tôi nằm vẩn vơ nhẩm tính sự việc đi cung ban sáng. Chiều nay, chẳng biết có sự gì xẩy đến với tôi. Chưa được muơi phút, cửa nhỏ lại mở. Tên Nhiễm gọi đi cung. Lúc này đã bị bắt gần 4 tháng, râu tóc tôi mọc lung tung beng. Nhiều lúc ngồi không buồn tay cứ rờ rẫm từng sợi râu rồi giật. Cũng thấy đau. Thực ra, ngồi không chả làm gì, hay chả có cái gì để làm, cái tay cứ tự nhiên đưa lên cằm rồi giật, trong khi óc tôi thì cứ trôi theo đường riêng của nó. Bây giờ, gần kề cái chết, đâu cần biết mặt mũi mình ra sao? Tới phòng cung, tôi vẫn thấy 3 tên lúc sáng. Chiếc hộp điện đen xì vẫn nằm im trên cái bàn nhỏ ở góc phòng. Sau khi tôi ngồi ghế, chúng truy tôi rất nhiều về đoạn đường khi qua sông Bến Hải. Chúng bắt tôi thường thuật tỉ mỉ: Lội sang làm sao, nấp thế nào, đi đường nào, cảnh vật ra sao v.v… Vì tôi đã có hai lần ra tận bờ sông Bến Hải và nghiên cứu kỹ khu phi quân sư Bắc (Vĩnh Linh) và toàn khu vực huyệnVĩnh Linh, từ những con đường mòn, đến những bờ suối…Nhất là lại dùng loại ống nhòm nhìn xa 10 cây số, nên chỗ này, tôi nói không khó khăn lắm. (nghĩa là chưa nhìn thấy trước cảnh đó, khó có thể che dấu chúng được). Đến đây, tôi đã cảm thấy thâm ý của chúng khi chúng bắt tôi tả chi tiết tỉ mỉ, từ Vĩnh Linh ra tới Hà Tĩnh. Như vậy, phải ngửi thấy ngay là có vấn đề rồi! Đây là một cái dốt, cái sai của tôi! Vì thực tế, tôi chỉ đi từ Kỳ Anh ra Hà Nội. Còn từ Vĩnh Linh ra Kỳ Anh thì tôi có đi đâu, cho nên khi khai báo nhiều lần trước đây, tôi thường khai lướt đi. Hơn nữa, tôi tập trung nhiều vào những khóa học tập ở Sài Gòn, nhiệm vụ ra Bắc và khi ở Hà Nội. Còn con đường từ Vĩnh Linh tới Hà Tĩnh, tôi đã coi nhẹ, vì thế, chúng đã phát hiện ra chỗ đê rò của tôi. Tên người Huế, sau khi nghe tôi kể lại đi từ Vĩnh Linh ra Hà Nội thế nào, liền hỏi tôi: - Từ Vĩnh Linh ra Hà Tĩnh anh ngồi trên xe hàng, vậy có khi nào anh xuống xe không? Tôi phỏng đoán, chắc xe phải ghé thị xã Quảng Bình, nên tôi trả lời: Có, khi đến Quảng Bình, tôi mót giải nên xuống tìm chỗ đi giải. Y hỏi tiếp: - Từ Vĩnh Linh ra Quảng Bình, có khi nào anh xuống xe không? Tôi vờ như cố nhớ lại một chuyện không đáng nhớ, nhưng thực tế thì lúc đó trong lòng tôi đang bấn lên. Nó hỏi vậy, tất nhiên phải có vấn đề. Trước đây, tôi đã nghiên cứu bản đồ lớn, đường từ Vĩnh Linh ra Hà Tĩnh với Brown và Dale. Vì là bản dồ quân sự thời trước 1954, nên sau này có một số chi tiết thay đổi, mà tôi không biết. Hơn nữa, với tinh thần tắc trách, tuy Dale và Brown có chỉ từng điểm, từng con sông, cái cầu, v.v… nhưng thực tế, tôi đã chỉ ừ ào cho qua, chứ tôi không hề thực sự chú tâm, vì tôi cho là không quan trọng! Do đó, bây giờ tôi lúng túng. Sau một lúc ngẫm nghĩ, tôi mới quyết định nói: - Thưa ông lúc đó, vì mới sang bờ Bắc, tôi rất lo sợ hoang mang, nên bây giờ tôi cũng không còn nhớ là có xuống hay không! Y đập bàn: - Anh nói láo. Ngồi trên xe, xuống hay không mà không nhớ! Anh muốn ngoan cố gan lì với chúng tôi hả? Tôi nghĩ mình đành phải liều, vì vậy tôi trả lời: - Tôi nhớ…hình như không… Tên người Huế đứng giật dậy, quát ầm lên: - Như vậy là anh nói láo hoàn toàn! Chúng tôi muốn thấy sự thành thật của anh, nhưng bây giờ, chúng tôi mới thấy là anh gan lì ngoan cố. Tôi nói cho anh biết, dù anh có ngủ gật, ngưòi ta cũng gọi anh dậy, để bắt anh xuống xe! Thôi chết rồi! Như vậy là sông Gianh không có cầu, mà là qua phà, tất cả hành khách phải xuống xe. Tôi nghĩ thật nhanh. Nếu vì ngoan cố mà không biết phục thiện ở khâu nhỏ này, tôi sẽ chết ở những chỗ quan trọng khác. Vậy hãy đành thành khẩn: - Thưa các ông, tôi đã suy nghĩ luẩn quẩn. Đã nhiều lần tôi muốn nói hết với các ông về việc này, nhưng tôi cứ loanh quanh lo sợ là các ông sẽ bắt tôi về điểm hẹn, để gọi người đến đón. Rồi các ông sẽ tìm mọi cách, để bắt hết những người đó. Như vậy, Sài Gòn họ sẽ biết ngay là tôi phản. Điều tất yếu là gia đình bố mẹ, các em tôi sẽ bị chúng trả thù. Bản thân tôi đã không làm gì được cho bố mẹ và các em nhờ cả, bây giờ nếu để liên lụy khổ đau cho gia đình, thì thà thân tôi bị đau khổ tan nát còn hơn. Chính vì điểm lo sợ ấy, nên tôi đã lúng túng không dám khai thật đường đi ra Bắc. - Như vậy, anh ra Bắc bằng cách nào? Ngay từ mấy hôm trước đó, căn cứ vào chiều hướng chúng truy hỏi, tôi đã linh cảm khâu từ Vinh Linh ra Kỳ Anh khó ổn, nên đã nhẩm tính: Nếu cùng quá, tôi đành phải nhận ra Bắc bằng đường biển. Tôi không hiểu, bật ra điều này, là kéo thêm một mảng. Xuất phát từ đâu? Thuyền nào đưa đi? Những thủy thủ thế nào, bao nhiêu người? Ngày giờ hẹn đón nhau? v.v…Bao nhiêu là chỉ tiết phải lắp vào, sao cho hợp lý về cả không gian, thời gian, sự việc và con người. Tôi cũng đã tính, với tình huống những người thủy thủ đưa tôi đi như vậy, có thể họ còn đưa người khác sau này. Biết đâu, một ngày nào đó họ không may bị bắt, họ sẽ nói đến thời gian đó đưa một người như vậy, như vậy… Dù một hai năm sau, tôi đang ở một trại giam nào, Cộng Sản cũng có đủ bằng chứng cớ để thấy là tôi nói láo. Lúc đó, chỉ có chết với chúng. Trước mắt, từ nay trở đi, tôi luôn luôn mang trong mình một mối lo âu bất ngờ bị chúng phát hiệu. Sau này, nếu chúng tìm ra được một điểm sai nào, tất cả các khâu khác sẽ vô phưong cứu chữa. Thân tôi chắc chắn sẽ bị chúng hành đến tan nát. Tôi sẽ phải khai báo sự việc đi hải thuyền ở Đà Nẵng, theo phương châm:”Càng đon giản, sẽ càng đỡ rắc rối ch sau này”. Tôi sẽ chỉ nói đến những việc phải nói, loại bỏ tất cả những điều gì có thể loại bỏ được. Trước sau, chỉ có một nhân vật Hòa, mọi vấn đề đều do ông ta lo liệu. Chỉ đi một lần. Không nói chuyến đi trước gặp bão phải quay về. Không nói thuyền rời bến ở Biệt Khu Hải Quân, mà từ một nơi vắng vẻ gần mé sông Bến Hải một lần, mới hợp lý việc gì sao lại biết rõ được chi tiết, cảnh vật hai bên bờ sông Bến Hải trong khu phi quân sự Bắc Nam. Như vậy, vẫn giữ kín được nơi xuất phát có lợi cho Sài Gòn sau này. Để bảo vệ cho tên chủ tịch Phong, ở Kỳ Anh, tôi sẽ không nói gì đến y, chỉ tường thuật lúc đêm đổ bộ lên bờ, chôn dấu các vật dụng, sáng hôm sau tìm đường mò ra quốc lộ 1 rồi gặp Phùng Văn Trí, từ đấy về Hà Nội. Điều này, chúng phải tin, bằng chứng là các vật dụng tôi chôn tại chỗ. Những vật dụng này, cũng có lợi cho tôi ở một khía cạnh: Tôi có hai “vỏ bọc”: “buôn lậu thuốc Tây” và “Sư bà Đàm Hướng”. Nếu sau này phải khai ra, thì một trong hai “vỏ bọc” này, có bằng chứng là các loại thuốc Tây tôi đã chôn dấu đó, chúng phải tin lời tôi. Tóm lại, dù có tính toán khai báo thế nào, đây cung là sự ngu dốt sai lầm của tôi. Từ điểm này, tôi có thể bị dẫn đến nhiều khó khăn về sau vì “Một sự bất tín, vạn sự không tin”. Nhưng tôi đành phải chấp nhận và chỉ có biết cố gắng với khả năng hiểu biết và tính toán giới hạn của mình. Đã có chủ đích rồi, tôi ngẩng đầu lên, trả lời: - Tôi ra miền Bắc bằng hải thuyền. Mặt chúng tuơi hẳn lên, mắt mở to, đồng thời chúng khích lệ mềm mỏng hỏi các chi tiết, khi chúng bắt tôi khai nhanh để chúng ghi. Đến bây giờ, tôi đã hiểu đó là một phương pháp của chúng. Bắt đối phương khai nhanh (nếu có mâu thuẫn thật rõ), sau đó lại bắt khai chi tiết, rồi bắt viết; cuối cùng mới truy hỏi, không những ở những điểm chúng nghi ngờ, mà ngay cả điểm thật cũng bị cật vấn ráo riết mọi mặt. Như tôi đã trình bày ở trên, sự việc này bục ra một mảng. Tôi phải cố lắp ghép, ngăn chận sao cho hợp lý, những gì dính dáng về hải thuyền cho tới điểm đổ bộ. Còn từ khi ra Quốc Lộ 1 ở xã Kỳ Phương, cho tới khi bị bắt, dứt khoát phải không có gì thay đổi, trước sau dù bão tố cũng chỉ như một. Thời gian này, tôi lại bị gọi cung liên tục ngày 3 buổi, hơn một tuần lễ. Sau đó, đến giai đoạn căng thẳng tột cùng. Chúng truy lại hết mọi vấn đề trong Nam ngoài Bắc, thậm chí. Nhiều lần chúng sừng sộ định bạt tai tôi nữa. Bây giờ, phần vì cùm kẹp, đói khát; phần khác tinh thần căng thẳng ngày đêm, người tôi rã rượi, run rẩy; ngay đi từ xà lim ra phòng cung, nhiều lần tôi muốn ngã, phải ngồi xuống. Có lẽ cũng thấy thân xác tôi có thể lúc nào đó sẽ chết vì kiệt sức, nên dạo này thỉnh thoảng chúng cho tôi một cái bánh bao, hoặc một cái bánh mì. Bánh bao cũng chỉ có nhân hành, còn bánh mì cũng lẫn bột ngô, nhưng ăn, thật tuyệt vời. Tôi nghĩ rằng bánh bao nhân lạp xưởng trứng, bánh mì “Pa gô đa” của Sài Gòn còn thua xa. Những lần ăn được như vậy, đêm ấy, tôi cảm thấy như cơ thể được truyền vào một sức mạnh; thậm chí, ngày hôm sau đi đại tiện cũng thấy trơn tru sảng khoái. Cứ ba, bốn ngày chúng mới cho một lần, và cũng chỉ được 5 lần là chấm dứt. |
|
|
![]()
Post
#31
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi Tám
Những Vấn Đề Mới… Cung kẹo bây giờ hàng ngày liên miên. Nhiều lúc chúng truy tôi rát quá, người tôi như không còn hồn. Tôi ì ra. Có lúc tôi chả biết đường nào tôi trả lời. Lâu lâu, tôi chỉ biết nói: - Tôi thành khẩn khai báo mọi sự việc từ lúc bé tới bây giờ mà các ông vẫn không tin tôi. Nhiều đêm về nằm, giá ước gì có cách nào đó, để các ông nhìn rõ được trong lòng tôi, cuộc đời tôi không đến nỗi khổ đau như thế này. Chúng đập bàn quát ầm lên: - Anh đừng già mồm, không cần phải có cách gì, chúng tôi cũng đã thấy rõ anh là một tên phản động vô cùng ngoan cố, bao che đến cùng những âm mưu phản dân, phản nước của bè lũ Mỹ Diệm. Ngày đêm, anh tính toán mưu mô, hòng che mắt Bộ Công An của nhân dân. Tôi nói cho anh biết, anh sẽ chết dần, chết mòn trong đau thương khổ cực. Chỉ có một con đường duy nhất là anh tự cứu lấy anh. Đừng mơ hồ trông chờ bất cứ một thế lực, hay một kẻ thần thế nào có thể cứu được anh. Tôi tỏ ra rất thành khẩn: - Thưa các ông, được sự chỉ dạy của các ông, lòng tôi càng thêm phần khởi. Tôi thấy rằng, khi nhận nhiệm vụ ra ngoài Bắc, tôi đã có những hành động và những ý nghĩ đúng, là tôi đã chẳng làm gì cho địch, và khi bị bắt, tôi đã khai báo ngay hết mọi sự thật. Tôi tha thiết đề nghị với các ông, tôi nghe nói rằng trên thế giới hiện nay, người ta đã chế ra máy để biết rõ sự thật, hoặc có loại thuốc người ta uống vào sẽ nói ra hết sự thật, vậy nếu chính phủ ta có các thứ đó, xin hãy cho tôi được thực nghiệm. Tôi xin đội ơn cách mạng suốt đời. Tên Nhuận cười rộ lên: - Chúng tôi không cần những thứ đó cũng vẫn hiểu rõ được anh. Anh còn vì một điểm nào đó, nên đã không nói thật hết với chúng tôi. Nhưng, tôi tin rằng sớm muộn, rồi đây anh sẽ tự giác nói thực hết, mọi âm mưu thủ đoạn của địch với chúng tôi. Tôi biết tỏng là làm gì chúng có loại máy nghe sự thật, hoặc loại thuốc uống vào rối loạn thần kinh, không chủ động được nữa để chúng hỏi gì nói thực cái ấy, v.v… Và dù có các loại máy đó, tôi vẫn tin là không giải quyết được vấn đề. Nhân tiện, tôi đánh một đòn sâu hơn nữa: - Thưa các ông, tôi dám cam đoan trước các ông là, nếu sau đây, bất cứ thời gian nào. Các ông chỉ cho tôi bằng cụ thể, một sự việc gì chính yếu, tôi đã khai không đúng, tôi xin chịu mọi hình phạt của nhà nước cách mạng. Tôi vẫn phòng hờ gài vào hai chữ “chính yếu”. Sự việc chính yếu cao nhất thì tôi cho là chúng nó có người nằm trong Cục tình báo của Sài Gòn, hoặc Z-5 hay linh mục A bị bắt. Hay, chúng bắt được tài liệu “M”. Tôi tin là Z-5 hay linh mục A nếu họ bị bắt, cũng không khai. Và dù họ có khai, thiếu chứng cớ, tôi vẫn không nhận. Còn người của chúng dù có nằm trong Cục. Trên nguyên tắc, nếu không cùng một công tác, không biết ai với ai. Nói chung, với sự hiểu biết của mình, tôi nói, tôi không sợ di họa sau này. Hơn nữa, đây là lúc liều rồi, chỉ có chết và sống thôi mà. Tên Nhuận cau mặt lại, nhìn tôi: - Anh đừng nói nhiều nữa. Hãy nghe tôi hỏi đây. Anh tả kỹ lại chỗ anh chôn những vật dụng mang theo từ miền Nam ra! Tôi lần lượt trình bày lại chỗ chôn dấu tài liệu. Tên Đặng chêm vào: - Anh hãy nhớ kỹ, ngoài những thứ anh kể, anh có quên thứ nào mà anh đã cùng chôn không? Tên Đức đưa một tờ giấy, bắt tôi phải vẽ sơ đồ địa điểm chôn dấu, ghi lại các thứ đã vùi lấp. Từ lúc đó tới giờ, đã gần 5 tháng rồi, tôi phải cố moi óc vẽ sơ đồ các điểm, khoảng cách với Quốc Lộ 1, bụi cây, cây lớn và đường mòn…Chúng hỏi rất chi tiết. Tôi tưởng chúng sẽ cho người vào đào chỗ tôi chôn. Tên Đặng hỏi tiếp: - Nếu anh chỉ cho một người, người đó có thể đào đúng chỗ chôn dấu được không? Tôi nhanh nhẩu: - Được! Tôi nghĩ rằng, tôi vẽ rõ ràng thế này, có đầy đủ các điểm chuẩn, thì ai vào đào cũng lấy được. Bỗng dưng tôi thấy hoa mày, chóng mặt, tôi phải vịn vào bàn. Một nguồn lạnh run từ trong xương sống truyền ra, làm tay chân tôi nổi gai ốc. Chúng hỏi: - Làm sao? Tôi nói không ra hơi: - Có lẽ tôi bị sốt… Chúng cho tôi về. Lúc đó cũng đã gần hết giờ. Khi về tới xà lim, tên Nhiễm qua bảo tôi cho chân vào cùm. Tôi cố cho chân vào, rồi người tôi run quá, từng đợt lạnh chuyển từ xương sống ra khắp người. Mọi khi, muốn gì thì muốn, đi cung về là tôi sà vào ngay bát cơm đã, nhưng hôm nay, tay chân run lẩy bẩy, gai ốc nổi đầy mình. Bát cơm vẫn để đấy. Lạnh quá, lại không có cái gì đắp ngoài bộ quần áo sọc đã cũ vẫn để gối đầu, tôi giở ra, chỉ đủ để quấn cổ và quấn bụng. Bây giờ cả ngưòi tôi run lên. Từ bé tới lớn, tôi chưa thấy cơ thể mình lạ lùng thế này. Tôi chẳng biết làm sao, chỉ biết gọi “Mẹ ơi!”. Tiếng gọi thầm thì như tiếng rên nài nỉ thiêng liêng, tình Mẹ cứu con! Tôi đang ngồi run lẩy bẩy thì cửa nhỏ xoạch mở. Mặt tên Nhiễm. Y rút chốt cùm và mở cửa lớn. Như thường lệ mọi khi, y phải thấy tôi nhấc chân ra khỏi cùm, đem bát ra trả và múc nước. Y đứng một tí, không thấy tôi ra, y nhòm vào, quắc mắt: - Sao không đưa bát ra!? Tôi nói với giọng giật giật vì run: - Thưa ông…tôi sốt… Y đi vào, đứng nhìn một lúc. Tôi nói: - Thưa ông…tôi rét quá, ông…cho tôi cái chăn… Y quát lên: - Chăn, chiếu nào cho anh!? Ba ngày nữa, đến ngày 16 tháng 11 là đầu Đông mới cho mượn chăn, bây giờ đâu có! Trời đất hỡi! Tôi lạnh quá! Cái mông, ngồi xuống sàn xi măng đã lạnh buốt. Hai vai dựa vào tường cũng lạnh buốt. Còn cái chân ở trong cùm nữa! Lạnh trong ra, lạnh ngoài vào. Bụng không có cơm, cũng không có thuốc. Chiếc chân chỉ còn da bọc xương, hai đầu gối của tôi chỉ là hai cục xương. Tên Nhiễm đứng nhìn lột lúc, rồi đi ra, đóng cửa lại. Y còn ghé trở lại đút chốt cùm khi nãy đã rút ra. Chân tôi vẫn để nguyên trong cùm. Chừng 10 phút sau, cửa mở, mụ Dậu y tá vào, mang theo một cái khay. Mụ để cái khay ở sàn trống bên cạnh, rồi quay sang: - Anh làm sao? Tôi vẫn run rẩy cả nguời, hai tay khoanh chặt ép vào ngực, trả lời ngắt quãng: - Tôi…bị…sốt… Mụ đưa cho tôi một cái ống thủy, bảo cặp vào nách,. Trong khi tôi cặp ống thủy, mụ ngoái nhìn toàn buồng của tôi, rồi lại nhìn tôi. Ngoài bát cơm chơ vơ nguội lạnh ở đầu sàn, trong buồng trống trơn, chẳng có một cái gì. Những ngưòi tù ở miền Bắc, thường có chăn màn, quần áo, có khi còn được tiếp tế nữa. Nên trong xà lim, thường vẫn có một số đồ tối thiểu. Phần tôi, chăn mùng không, thậm chí quần áo cũng bị tịch thu, chỉ có một bộ quần áo sọc tù duy nhất. Tên Nhiễm vẫn đứng ở ngoài, một tay vịn cánh cửa nhìn vào. Hình như hắn cũng không tin cả người y tá. Mụ Dậu ra hiệu tôi đưa ống thủy cho mụ. Mụ soi ra ánh sáng. Tôi chả biết bao nhiêu độ. Mụ lục đục lấy ống tiêm, chích cho tôi một mũi. Tôi chả hiểu thuốc gì. Lúc mụ sắp sửa ra, tôi cố nói: - Tôi rét lắm, đề nghị…cho tôi mượn cái chăn… Mụ quay lại nhìn tôi, rồi hất hàm về phía tên Nhiễm: - Hãy đề nghị với ông cán bộ đây. Cánh cửa đóng xầm, tiếng xọc xạch của then cửa như đập, vào nỗi tuyệt vọng của tôi. Tôi mệt mỏi quá, nằm xuống, lại phải cố gắng bò dậy ngay, vì cái sàn xi măng lạnh buốt. Chẳng hiểu ngày xưa trong chuyện võ hiệp của Tầu, tập luyện nằm giường đá, thế nào tôi không biết, chứ tôi thấy cơ thể của một con người không có cách nào chịu đựng được. Nó buốt lên tới gáy, tới đầu. Tôi cũng đã bắt buộc…phải tập nằm từ mùa Hè qua mùa Thu cho đến bây giờ, vậy mà chả quen được. Tôi cứ phải ngồi như vậy suốt đêm. Lúc mỏi quá, mệt quá, ngả xuống, lại phải bò dậy ngay, mấy lần. Tôi chỉ dựa vào tường thiếp đi từng chập. Cơn sốt đã giảm, mồm đắng nhổ không ra nước miếng. Tôi cứ ngồi co ro, đầu ngục xuống. Hồn lãng đãng dật dờ tỉnh mê. Dòng suy nghĩ chập chờn về…lòng nhân ái, tình nhân loại, nghĩa đồng bào…Giữa đêm trường vắng lặng, thỉnh thoảng một tiếng mối kêu lanh lảnh: Chặc, chặc, chặc…kéo dài, vang vào đêm thâu như ngạc nhiên, băn khoăn, tại sao loài người lại hành hạ tàn nhẫn với nhau như vậy!?...Tôi thiếp dần đi, cho mãi tới khi tai nghe loáng thoáng những tiếng cãi cọ nhau, giành nước của những người tù nữ nơi tắm giặt phía sau xà lim, tôi mới giật mình mở mắt. Vẫn cái dáng ngồi hai tay ôm trước ngực, dựa tường. Cả người đau như giần, mệt nhọc; nhưng, khi tôi nhìn thấy bát cơm, từ hôm qua vẫn còn nguyên như cũ, đang mời gọi. Vì sợ chốc nữa quản giáo đến mở cửa các buồng cho đổ bô, sẽ bắt đem bát cơm ra, nên tôi kéo bát cơm đến, ăn vội. Đúng như vậy, tôi đã nghe tiếng lẻng xẻng chìa khóa mở buồng số 1, tiếng ào ào mở vòi nước, tiếng chổi cùn khua khoắng bô, vì bô bằng tôn. Không hiểu sao, bô nào cũng vậy, nước giải đóng thành cao vào chung quanh. Nếu chỉ đổ và tráng nước không, vẫn còn mùi khai thối, vì thế, thường ai cũng phải vội vàng dùng những cuống chổi thanh hao cùn, bó chừng một nắm tay, dài độ 20 phân, thường dựa ở góc bể nước con, khua và tráng cho sạch bô. Vì chính mình, khi đi ngoài phải ngồi vào đó. Nhiều miệng bô, do lâu ngày nước giải ăn mòn, lởm chởm sắc như răng cưa. Ngồi để mông vào một lúc đau không chịu được, phải xoay chỗ khác. Cho nên, khi còn lão Hoàn giam chung với tôi, khi hắn đi xong đứng lên, mông có rất nhiều khoanh tròn răng cưa hằn sâu vào thịt. Đến lượt buồng tôi. Tôi trả bát, đổ bô xong, vừa tra chân vào cùm, lại thấy mở cửa. Mụ Hoa vào gọi tôi đi cung. Hôm nay, ra phòng cung, tôi chỉ thấy Thành và Đức. Lâu lắm mới thấy tên Thành. Tôi nhớ y nhiều vì trong số 6, 7 tên chấp pháp hỏi cung tôi, chỉ có tên Thành này từ ánh mắt, cho đến lời nói, thái độ hỏi cung, tỏ vẻ rất có thiện cảm với tôi. Y tỏ ra một con người rất tình cảm. Có lúc, tôi thấy y cầm cuốn tiểu thuyết “Đoạn Tuyệt” của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Tôi hiểu, y được quyền xem, nghiên cứu vì y là chấp pháp chính trị. Hơn nữa, y đang theo hàm thụ năm thứ tư về Kinh Tế. Dù sao, tôi vẫn thấy y còn chất tiểu tư sản. Tên Thành chỉ chiếc ghế, tình cảm: - Anh ngồi đi. Sao, dạo này anh có được khỏe không? Tôi bận chút công việc, lâu lắm mới gặp lại anh. Tôi cũng mềm mỏng: - Cảm ơn ông, lúc này tôi không được khỏe lắm. Y vờ ngạc nhiên săn đón: - Anh bị yếu đau sao? Anh có ăn được không? Có ăn hết suất cơm không? Sao trông anh gầy thế? Theo cái hiểu của chúng, nếu cứ ăn hết suất cơm là không sao cả. Chúng không thể biết được, do cái đói cào cấu, thèm ăn triền miên hàng ngày, hàng tháng, nên dù sắp chết, tù vẫn thèm ăn. Vì vậy, tôi trả lời thủng thẳng: - Hôm qua tôi bị sốt, nhưng vẫn ăn hết suất cơm. Tên Đức hôm nay cũng có vẻ tươi tỉnh: - Hôm nay chúng tôi gọi anh lên, không phải để hỏi cung anh. Gọi anh lên để nói chuyện…Này, anh Bình, tôi hỏi thực anh nhé! Khi còn ở Sài Gòn, anh có hay đi nhảy, đi chơi gái không? Nhìn y, tôi hơi ngạc nhiên. Y vừa cười vừa hỏi, lại còn nhay nháy con mắt nữa chứ. Tôi nghiêm trang trả lời: - Thưa ông, tôi không biết nhảy. Còn chuyện chơi gái, phần tôi chỉ chú ý đến học hành, phần khác, tôi không thích. Theo quan điểm của tôi, chuyện đó là một thứ cao đẹp của con người. Bỏ đồng tiền ra mua bán làm trò giải trí, thà đi xem xi nê, đọc sách, hoặc ngồi ngắm cảnh thiên nhiên còn thú hơn. Điều đó, vừa vô nghĩa lại vừa tỏ ra sự hèn kém, của người con trai. Cả hai tên đều nhìn tôi cười rộ. Tên Thành tình cảm: - Khi anh ra đi, bố mẹ và các em anh có khỏe không? Bố mẹ anh có biết không? Nhắc đến gia đình, tự nhiên một mối xúc động len lén vào lòng tôi. Vì thế, khi tôi trả lời, niềm xúc động cũng tràn ra theo: - Bố mẹ tôi khỏe. Bố mẹ tôi không biết gì về chuyến đi của tôi. Thành tiếp tục gợi chuyện: - Anh có nhớ bố mẹ và các em anh không? Anh thử nghĩ xem, bố mẹ anh đã phải tần tảo vất vả cả cuộc đời, để nuôi anh đi học, anh đã làm cái gì để đền đáp công lao trời bể ấy? Niềm xúc động càng tràn vào đầy ắp trong lòng. Tôi miên man nhớ tới một hình ảnh không quên:”Buổi chiều ấy, khi tôi còn ở trại học sinh di cư Phú Thọ, Chợ Lớn, thằng em trai đến bảo tôi: - Tối nay, 7 giờ về chỗ sân nhà Tân Định, tan chầu ra, mẹ sẽ gặp anh để làm gì ấy! Đã hai tuần liền, tôi không về nhà, vì ông bố mắng chửi là mải chơi không chịu học hành, nên thi phần 1 trượt. Tối hôm đó, trời mưa giăng ẩm ướt, tôi núp dưới một mái hiên trong sân nhà thờ chờ mẹ. Những hạt mưa nhỏ lấp lánh như những sợi chỉ bạc, dẫy dọn trong ánh đèn điện, hắt ra từ những cửa sổ nhà thờ, càng làm cho buổi tối thêm lê thê da diết. Người mẹ, hai tay thủ trong vạt áo dài vì lạnh, chiếc khăn trùm kín đầu, lò dò từ cửa hông nhà thờ ra sân, dưới mưa rơi, găp con chỉ để nói: - Hãy nghe lời mẹ. Chủ Nhật này về, bố mày hết giận rồi! Và người giúi vào tay tôi 100 đồng. Giờ đây, tôi trong cảnh tù đầy, hình ảnh ấy của người mẹ kính yêu, đã làm nước mắt tôi trào ra lúc nào không biết. Tôi thổn thức, nức nở như một cậu bé con. Chính những tên chấp pháp cũng không ngờ đuợc, và chúng phải im lặng tôn trọng cái phút thiêng liêng ấy. Phải, con người tôi, tha hồ cùm kẹp hành hạ đừng hòng nước mắt tôi chảy ra, trừ mẹ tôi, tình cảm gia đình tôi. Cũng từ đấy, chúng phát hiện được nhược điểm tình cảm của tôi. Và, với Cộng Sản, kinh nghiệm thực tiễn cho tôi thấy, anh càng yếu, càng sợ cái gì, chúng càng lấy cái đó để hành anh. (Sau này, đầy dẫy những minh chứng). Chúng để cho tôi hết cơn xúc động, rồi mới đẩy đưa: - Đấy, anh xem, vì sao hiện nay anh lại bị như thế này. Nguyên nhân chính yếu là do bè lũ Mỹ Diệm, đã lợi dụng bầu nhiệt huyết của thanh niên và lòng bồng bột của anh, để đẩy anh vào chỗ chết. Trong khi hiện nay ở nhà, chúng vẫn phè phỡn xe hơi nhà lầu, tiệc tùng cười vui thoải mái hả hê, không cần biết hoặc không còn nhớ bây giờ anh sống hay chết. Anh phải biết căm thù chúng nó. Hãy tố giác mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng anh, của chúng với cách mạng. Đây là con đường duy nhất, để tự anh cứu sống anh. Chính anh là người quyết định sẽ được hưởng lượng bao dung khoan hồng, của đảng và nhà nước hay không! Tôi vẫn cúi đầu ngồi nghe chúng nói. Tôi thấy chúng lợi dụng sự yếu mềm của tôi với gia đình, để đẩy đưa sang vấn đề chính trị. Tôi suy nghĩ, tương kế tựu kế là sách lược hay nhất và hiệu quả cũng thường cao nhất. Vì thế, tôi tỏ nét mặt vui tươi và tin tưởng: - Thưa các ông, các ông nói rất đúng. Càng suy nghĩ, tôi càng căm thù chúng. Nếu trước đây tôi không di cư vào Nam, thì bây giờ biết đâu tôi chẳng là một anh bộ đội, hiên ngang trong hàng ngũ cách mạng, cầm súng chống lại Mỹ Diệm. Cả hai cùng cười rộ lên, tôi nghe đầy những mưu mô thủ đoạn ở trong. Hai tên cùng đứng dậy, tên Thành nhìn tôi: - Bây giờ cho anh về nghỉ. Sáng mai, chúng tôi sẽ đưa anh vào Hà Tĩnh đào chỗ anh chôn những đồ vật dụng. Về xà lim, đêm hôm ấy, tôi cố moi óc nhớ lại tất cả những gì tôi chôn theo hôm đổ bộ, nghĩ xem có điểm gì quan trọng tôi chưa khai thông. Vì đến nước này, trước hay sau tôi cũng phải vào chỗ chôn dấu. Trước đây, chúng bắt tôi vẽ sơ đồ, hỏi tỉ mỉ từng chi tiết đường đi, nước bước, tôi tưởng chúng đã cho người vào địa điểm tôi chỉ mà không tìm ra, nên bất đắc dĩ chúng bắt tôi đi. Hồi chiều, tên Nhiễm mở cửa bảo tôi ra cắt tóc. Khi ra tới chỗ bể nước nơi vẫn đổ phân, một anh đi chân đất, mặc quần nâu, tuy có vẻ mập nhưng nước da vẫn tai tái, tay cầm cái “tông đơ”, chỉ hè gạch, bảo tôi ngồi. Tên Nhiễm đứng ngay đấy. Chỉ 3 phút, anh húi hết tóc, rồi râu của tôi, anh ta nói với tên Nhiễm: - Báo cáo ông, tôi về. Tên Nhiễm chỉ gật đầu. Hôm nay, đặc biệt, tên Nhiễm gọi thợ cắt tóc cho tôi, và lại đặc biệt cho vào gội đầu. Cũng chỉ vài phút cúi đầu vào vòi nước, vặn xòe xòe, vò một lúc xong! Tôi hiểu, chẳng qua vì ngày mai tôi phải vào Hà Tĩnh, nên hôm nay mới được cắt tóc, chứ gần 4 tháng có cắt đâu. Chẳng biết tóc tôi y cắt thế nào, sờ thấy ngắn ngủi. Kệ nó, cần gì! |
|
|
![]()
Post
#32
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Hai Mươi Chín
Trở Lại Địa Điểm Đổ Bộ... Sáng hôm sau, trời hãy còn tối đất, chưa đến giờ làm việc, đã thấy cửa buồng tôi mở. Khi ra tới phòng cung, nhìn ra sân, dưới giàn nho, tôi thấy ở lối đi giữa, một chiếc xe Commanca đang đậu quay đầu hướng ra phía cổng Hỏa Lò. Tôi nhớ hôm nay là ngày 15 tháng 10. Như vậy, tôi đã bị bắt gần 4 tháng. Trong phòng cung có 3 tên Thành, Đức và Nhuận. Tên Đức chỉ tôi ngồi ghế, rồi nghiêm giọng: - Hôm nay, chúng tôi được lệnh dẫn anh vào chỗ anh đã đổ bộ, để lấy một số vật liệu tang chứng anh đã khai báo. Trên đường đi, hay về, anh phải tuyệt đối chấp hành lệnh của chúng tôi. Nếu anh tỏ ra một vài ý không tuân theo, anh sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Chúng tôi sẽ cương quyết xử lý. Nếu anh tỏ ra thành khẩn chấp hành, điều đó sẽ rất tốt cho anh sau này. Tên Thành mở một gói giấy báo trên bàn: Một nắm xôi với một quả chuối. Hắn đưa cho tôi: - Anh hãy ăn chỗ xôi này, rồi chuẩn bị đi. Chừng 5 phút sau, ăn xong, tôi xin uống nước. Y nhìn quanh không thấy nước, đành sang phòng bên. Y lấy cái tích còn ít nước trà, chắc từ hôm qua, nước hơi thiu, nhưng tôi rót uống hết. Sau đó, tên Nhuận ra ngoài, một lát sau y vào cùng hai tên cảnh sát đồng phục và mang vũ khí. Y quay lại phía tôi tuyên bố: - Theo nội quy đi đường, để đảm bảo an ninh, anh để các đồng chí đây làm thủ tục. Hai tên cảnh sát bắt tôi đứng lên, đưa hai tay ra phía sau. Chúng khóa một cái còng số 8 ở cổ tay, rồi hai miếng khóa ngàm nối với nhau bằng một xích sắt lớn, mỗi miếng bóp khóa ở trên cánh tay tôi phía dưới vai. Trong khi đó, cả 3 tên Nhuận, Thành và Đức đều đeo súng ngắn. Chẳng biết chúng sợ gì tôi, có thể chúng nghĩ tôi biết chút võ vẽ ngày xưa nên chúng đề phòng chăng. Phải khóa hai lần, và 5 tên có vũ trang áp tải. Khi chúng dẫn tôi ra gần tới xe, tên lái xe mặc quần áo xám bộ đội quay lại, nói với chúng: - Hãy khóa tay ra đàng trước cho người ta. Nếu không, khi đi đường xe xóc, ngã gẫy tay. Đúng vậy, khóa phía sau, nếu ngã tôi chẳng làm sao đỡ được, sẽ như quả bí lăn long lóc. Tuy thế, không ai trả lời, và cứ như vậy lên xe. Chúng phải đỡ tôi lên xe, vì tôi không có tay để vịn. Tên Đức ngồi băng trên với tài xế, còn 4 tên ở phía dưới kém tôi vào giữa. Xe bắt đầu chạy ra cổng Hỏa Lò, rồi qua thành phố, trở ra Quốc Lộ 1. Mới hơn 4 tháng nằm trong Hỏa Lò mà tôi đã cảm thấy như lâu lắm, với bao nhiêu đau thuơng nặng nề âm u trong cùm kẹp, cũng như bao nhiêu bão tố vùi dập về cung kẹo. Từ tâm tư, nếp suy nghĩ đến cả con người của tôi cũng đã thay đổi hẳn. Thực vậy, cũng vẫn cảnh sinh hoạt ngược xuôi của phố phường. Cũng vẫn khung trời Hà Nội mây bay, gió thổi; nhưng, tôi nhìn nơi nào, cảnh nào, đâu đâu cũng chỉ một màu héo úa đau thương.. Những xe cộ, tôi thấy tất cả như xa lạ, thuộc về một thế giới khác, cái thế giới không có phần của tôi nữa. Tôi không còn một chút gì dính dáng đến cái vui, cái êm đềm của hạnh phúc, “nếu có”, của thế giới ấy. Một mình tôi tách rời ra, lầm lũi mò mẫm trên con đường chập chùng dẫn xuống địa ngục tối, lầm than. Trên đường đi thật là gian khổ. Đường nhiều ổ gà, xe xóc, tôi như quả bí ngả nghiêng, lăn lộn. Tôi có gì để đỡ đâu, hai tay bị khóa chặt sau lưng, ngay ngồi yên cũng còn khó dựa lưng. Thân thể đau nhừ, tâm tư nặng trĩu ưu sầu. Suốt đường đi, tôi như người câm, âm thầm mím môi, đè nén đau thuơng uất hận vào tim. Những lần xe phải qua phà. Chúng có lệnh đặc biệt nên chỉ tài xế và tên Đức phải xuống đi bộ. Tất cả mọi xe khác, dù bộ đội hay công an, ai ai cũng phải xuống xe. Riêng tôi và 4 tên áp tải vẫn ngồi trên xe. Vì thế, có nhiều con mắt tò mò rõi vào trong xe chúng tôi. Khi thấy một người bị hai lần khóa ngồi giữa 4 công an, con mắt họ thường mở to nhìn tôi. Tôi để ý, mỗi lần xe qua phà, hoặc cầu, một tên cảnh sát có một cái xích nữa mắc vào cái khóa xích phía trên của tôi. Hình như chúng sợ bất ngờ tôi lao xuống sông, để trốn hay tự tử. Khi xe vào thị xã Thanh Hóa, những tên công an và cả tên lái xe cùng xuống hết cả. Lúc đó khoảng 12 giờ, chắc chúng đi ăn. Chỉ còn hai tên cảnh sát ngồi lại trên xe. Chừng nửa giờ sau, tụi công an trở về, tên Thành mang về cho tôi hai gói xôi, có lẽ mỗi gói hai hào. Điều phiền cho chúng là tôi không ăn được, vì tay khóa sau. Chúng hội ý với nhau một lúc, rồi tên Thành quay lại nói: - Bây giờ chúng tôi mở khóa, và sẽ khóa ra phía trước cho anh ăn. Nhưng cần phải tuyệt đối chấp hành nghiêm chỉnh. Anh tỏ ý lộn xộn thì đừng trách chúng tôi. Hắn mở một cái túi xách, chỉ vào trong và nói: - Đáng lẽ chúng tôi phải xích cả chân anh nữa, nhưng để cho anh thoải mái. Vậy, anh phải biết điều! Chúng khóa tay tôi ra phía trước. Tôi ăn xong, tên Thành hỏi: - Anh có hút thuốc không? Trời đất hỡi! Từ sáng, nhìn chúng hút, tôi thèm điên người. Đời tôi bây giờ đau thuơng tràn lối, còn quái gì nữa đâu, cho nên ước mong đuợc hút một điếu thuốc cho say sưa, thế là mãn nguyện rồi. Vì vậy, khi tên Thành hỏi, mắt tôi sáng lên và tỏ ý biết ơn. Tôi thèm nhưng nhất định không mở miệng xin chúng. Chà, thật là ngây ngất đê mê. Mấy tháng trời, hôm nay tôi mới cảm thấy cái thú tuyệt vời. Dù hai tay còn đang bị khóa. Phải ai đó ở trong hoàn cảnh như tôi mới cảm nhận hết được cái thú ngất ngây đê mê đó. Chờ tôi hút xong, chúng lại khóa tay tôi ra phía sau như cũ, rồi hai tên cảnh sát mới đi ăn. Xe vào tới Hà Tĩnh thì đã chiều. Chúng đưa tôi vào trại giam của thị xã. Lúc đó đã 6, 7 giờ tối, tù đã vào hết trong buồng, nên sân trại giam không có một bóng tù. Hai tên cảnh sát giong tôi xuống dưới bếp, mở khóa, rồi chúng nói với mấy tên cán bộ ở đấy. Hai tên nữ cán bộ ăn mặc kiểu nông dân (có thể hết giờ làm việc họ đã thay đồ) dẫn tôi vào bếp. Cơm nước của tù đã hết, hai tên nữ cán bộ bàn nhau một lúc, rồi chúng đi vào một phòng con, lấy nồi cơm nguội của chúng, và nồi thịt heo kho Tàu, chỉ còn nước và hai, ba miếng thịt nhỏ. Chúng đưa ra, đặt xuống đất, bảo tôi ăn đi. Ôi chao, sao mà cuộc đời hẩm hiu của tôi lại có những phút sung suớng như thế này. Ăn miếng cơm nguội, chan với nước thịt kho Tàu, tôi nghĩ rằng trong đời tôi từ trước chưa có bữa cơm nào ngon như thế. Trong nồi còn đến 4,5 bát cơm thế mà tôi chén sạch trơn. Cảm ơn cuộc đời! Cảm ơn con người! Sau đó, một tên cán bộ nam, có lẽ là trực trại, dẫn tôi vào một buồng, có thể cũng là xà lim, nhưng là một xà lim vùng quê nên bẩn thỉu và tối om. Ngọn đèn điện vàng khè đầy mạng nhện và bụi đất chỉ làm cho căn xà lim mờ mờ, chỗ sáng, chỗ tối. Ở giữa buồng, một chiếc sàn gỗ đầy như chiếc giường con, sứt sẹo nằm chơ vơ. Bên trên có cái cùm suốt với hai khoen bằng sắt tròn, loại đường kính 2 phân rưỡi. Tên cán bộ rút suốt cùm, bảo tôi lắp hai khoen vào hai chân, y chốt lại rồi khóa. Không nói thêm một lời, y ra ngoài đóng cửa, khóa lại. Chà, cùm kiểu này thật dễ chịu, cùm hai chân mà tôi thấy thoải mái hơn, cùm một chân ở Hỏa Lò. Tôi có thể đứng dậy, dịch chân sang chỗ nọ, chỗ kia, tha hồ đứng trên sàn vặn vẹo người tập thể dục, hít thở không khí. Cả ngày ngồi xe gò bó nên mệt, tôi ngả lưng cho cơ thể thoải mái, đồng thời thưởng thức cái dư vị của một bữa ăn ngon, mà giờ đây, nước miếng còn thấy ngọt. Hai chân tôi dạng ra chụm vào dễ dàng. Đêm khuya vắng lặng, thỉnh thoảng vang lên những tiếng xọc xạch cọ sát của hai khoen cùm khi tôi cử động đôi chân. Bụng căng no tròn, chân tay thoải mái, có lẽ đêm nay tôi sẽ được một giấc ngủ ngon lành. Nhưng đột nhiên, lưng tôi ngứa ran, cái gì thế? Càng gãi, càng ngứa. Ngứa quá tôi phải bò dậy. Lưng tôi rộp sần hết lên. Duới ánh sáng mờ mờ, tôi chả nhìn thấy cái gì hết, nhưng trong lúc xoa gãi, tôi thấy mùi rệp hăng hăng. Tôi vội bò giật dậy, đứng lên, cởi áo soi dưới ánh đèn. Trời, một cái áo của tôi mà gần 20 con rệp, nhiều con bụng no tròn căng đỏ những máu. Cả mông, cả đùi cũng ngứa. Tôi tụt cả quần ra, vì vướng cùm, nên phải cho tay vào ống quần mà khua, giũ đuổi con rệp. Chả lẽ cứ đứng thế này suốt đêm? Mỏi chân và mệt, tôi lại đành mặc áo ngồi xuống, rồi ngả lưng nằm xuống. Lại ngứa quá, tôi nhổm dậy, căng mắt nhìn xuống sàn. Trong bóng mờ, lổn nhổn những chấm đen di chuyển. Kinh quá, sao nhiều rệp thế! Hình như chúng đói lâu ngày, hôm nay mới có món ăn, nên chúng rủ rê con cháu lũ lượt dũng cảm, xông vào con thịt. Tôi đành ngồi xổm, mỏi rồi lại đứng lên. Người mệt rã rượi, tôi chẳng còn tâm hồn đâu để thuởng thức lại bữa ăn lúc chiều. Bàn chân cũng ngứa. Chỉ còn hai bàn chân phải đứng trên sàn, thế mà chúng cũng rúc vào từng kẽ ngón chân để hút máu. Nếu không có hai cái khoen cùm, tôi đã lao xuống đất nằm, tôi mệt quá rồi. Lũ rệp chó chết này, hình như cũng là đồng chí của lũ Cộng Sản khát máu. Cũng hút máu con người, nhưng chỉ hút và hành hạ những người cùng khổ. Đột nhiên, một tiếng nói của một người con gái vang lên, trong cái âm u vắng lặng của nhà tù; giọng thánh thót Hà Tĩnh từ một buồng bên: - Anh Thời à! Tiếng một người đàn ông, cũng Hà Tĩnh, từ một buồng phía khác: - Nguyệt đấy hỉ! Có người mới vào à! Nhiều tuổi không? Tiếng cô Nguyệt: - Chừng 23, 23, có lẽ là cán bộ bị bắt! Chà! Như vậy khi nãy, cô ả đã nhìn tôi qua một khe hở nào đó, mà tôi không biết. Im lặng một lúc, rồi giọng người đàn ông: - Anh bạn!...Mới bị bắt hỉ? Bắt vì tội chi rứa? Tiếng hỏi rơi vào vắng lặng của đêm thâu. Tôi đang bơ phờ mệt mỏi vì phải ngồi xổm và đứng mấy giờ rồi. Lòng lại nặng trĩu những suy tư tính toán, về ngày mai khi vào tới địa điểm chôn đồ, nên tôi im lặng, để họ tưởng tôi đã ngủ rồi. Đứng và ngồi, vẫn còn phải đuổi muỗi nữa chứ. Hà Tĩnh cũng thực nhiều muỗi, có khi còn hơn ở Hỏa Lò. Quá nửa đêm vừa rã rời vừa nhím mắt lại, không còn cưỡng lại được nữa. Thôi, cũng đành xin hiến dâng những giọt máu loãng, của tôi cho các đồng chí của lũ cộng vậy. Tôi nằm vật ra và thiếp dần. Sáng hôm sau, trại giam chưa tới giờ làm việc, chúng đã mở cửa, mở cùm gọi tôi ra. Tôi để ý, cũng là công an, nhưng những tên công an ở Hà Nội chỉ gặp tôi ở trên văn phòng. Còn giam ra sao, cùm ra sao, đều do những cán bộ của trại giam Hà Tĩnh đảm trách. Hà Nội chỉ giao người và hôm sau lấy lại người. Khi ra tới một phòng làm việc, tôi đã thấy Thành, Đức, Nhuận và hai tên cảnh sát ở đấy. Họ đang nói chuyện với một tên đeo lon Trung Úy ở trong phòng. Khi tôi vào, tên Thành quay lại tôi: - Anh để cho các đồng chí đây làm việc, rồi đi. Làm việc quái gì đâu. Chúng nó lại lủng củng xích với khóa. Vẫn khóa tay tôi ra phía sau như hôm qua. Chúng giong tôi ra chiếc xe hôm trước đã đậu phía trong cổng trại giam. Chúng đỡ tôi lên, cũng cái thế ngồi như ngày hôm qua. Càng đường trong này, càng xóc dữ dội. Người tôi lăn lộn, hai tên cảnh sát, mỗi tên một bên, phải giữ đỡ hai cánh tay của tôi. Trên người tôi, tay tôi, những nốt rệp cắn đêm còn lốm đốm đỏ. Một điều gây cấn cho tôi, những nốt đó bây giờ thật ngứa. Tôi muốn gãi cào thật mạnh cho đã, nhưng tay tôi bị xích thế này, làm sao mà gãi được. Như con trâu, tôi cứ xoay sở, vặn vẹo người cọ lung tung vào thành xe. Càng cọ, lại càng ngứa thêm. Chẳng lẽ lại nhờ những tên công an gãi cho? Chúng nó chẳng thèm làm, và tôi cũng chẳng thèm nhờ. Hơn nữa, chúng biết tôi ngứa chỗ nào mà gãi. Ôi, cuộc đời độc địa: ôi, loài người thương yêu. Xe đi vào tới Kỳ Anh, rồi Kỳ Phương. Đến đây, chúng đưa tôi vào một căn nhà trong xóm. Cũng nhà tranh vách đất, nhưng có vẻ khang trang hơn những nhà chung quanh. Có thể là nhà của một công an xã. Chúng đỡ tôi xuống xe, dẫn đến một gốc cây soan ở mé sân, bảo tôi ngồi xuống. Hai tên cảnh sát đứng kèm hai bên. Ba tên Nhuận, Đức và Thành, có lẽ đi trao đổi vấn đề. Chừng một lúc, có một số trẻ con, rồi một số dân trong xóm tò mò chạy đến thập thò nhìn tôi. Đột nhiên, mấy em nhỏ chừng 12, 14 tuổi nhặt những hòn đất, đá ném vào người tôi, rồi tiếp theo là mấy mụ đàn bà nhà quê, trong đó có một bà già, rống lên xỉa xói, chửi, nào là: - Mày là biệt kích, ăn gan uống máu, làm tay sai cho Mỹ Diệm. - Mày là tên Việt gian bán nước, phản nhân dân, phản cách mạng. ………. Một bà khác cầm chiếc đòn gánh cứ xông vào định đánh tôi, mồm réo lên: - Mày giết chồng tao, ngày nay cuộc đời tao góa bụa, con tao mồ côi. Tao đập vỡ đầu mày ra, cho mày chết! Tôi đã nhìn thấy nhiều cảnh nhân dân miền Nam, sống ở thành phố cũng như ở nông thôn. Tôi cũng đã nhìn thấy nhiều cảnh nhân dân miền Bắc, sống ở nông thôn cũng như ở thành thị. Tôi so sánh, tôi tự thấy con đường mình đi là chính nghĩa, con đường mang ấm no, tự do, nhân bản cho mọi người. Vì thế, trước cảnh này, dù đôi tay bị khóa, tôi vẫn ngẩng cao đầu nhìn họ. Mắt tôi bình thản nhìn những thái độ thù nghịch, hằn học của họ, mà lòng tôi vẫn tự hào. Cũng khá khen cho tụi lãnh đạo miền Bắc, dùng chính sách ngu dân, bần cùng hóa con người, rồi từ đấy bịp bợm, khích lệ, ca ngợi, phỉnh phờ; khêu gợi lòng căm thù của những kiếp người cùng khổ, hướng về đối tượng kẻ thù của chúng. Nhìn thái độ, ánh mắt và lời nói của họ, tôi tự mỉm cười trong lòng. Tôi, đã hy sinh cả tuổi trẻ, cả mạng sống, vào nơi hang hùm nọc rắn, để góp phần nhỏ bé của mình, hòng cứu họ thoát cảnh đời trâu ngựa lầm than, lê thê trong kìm kẹp của Cộng Sản, họ lại chửi bới, sỉ vả, hất hủi. Ngược lại, họ lại hoan hô, ca ngợi, kính yêu những người sẽ giết dần đời họ bằng những lời dụ dỗ phỉnh gạt tinh vi. Tôi nghĩ đến thời đại ngày nay, của con người mà rùng mình ngao ngán. Trắng, đen lẫn lộn! Tôi tha thiết kêu gọi những nhà nước giầu có, các nhân vật tài ba lỗi lạc, hãy đem cái giầu của mình, cái tài của mình, làm cách nào đó, làm cho mọi người dân phân biệt được trắng, đen thực sự. Tôi nói “thực sự”. Vấn đề này, nghe nói đến, ai cũng thấy cũ xưa như trái đất. Tôi nói nó không cũ xưa ở hai chữ “thực sự”. Cộng sản đã, đang và sẽ còn gây cho nhân dân một số nước, một số chính phủ khốn đốn, chỉ vì người dân chưa phân biệt rõ trắng đen, giữa người làm hại và ngưòi làm lợi cho họ. Có người sẽ nói: Điều này đã nói nhiều lần rồi, nhưng dân không tin. Điều quan trọng ở đây là vì sao dân không tin? Vì sao dân không tin gồm nhiều mặt, nhiều vấn đề, đòi hỏi mất nhiều tiền của, nhiều tâm trí ngày đêm đào sâu xét kỹ, nhiều tâm, sức để lăn xả vào những việc làm quên mình. Sẽ không có hiệu quả, nếu thiếu một trong ba yếu tố trên. (Ở đây không phải là một tác phẩm lý luận, tư tưởng, vậy tôi chỉ trình bày một số khái niệm có tính cách phiến diện). Chừng nửa giờ sau, tên Thành, Nhuận và Đức ra bảo tôi đi. Ruộng đồng lúc này hãy còn khô, nên chúng cứ đi tắt, qua cánh đồng chiêm, thẳng hướng tiến bước. Khi gần tới nơi, xa xa tôi đã nhìn thấy chiếc cây to, tôi đã ngồi nghỉ lúc mới đổ bộ lên bờ; phía bên phải là làng xóm nơi có nhà của tên chủ tịch Phong. Tôi cố ý dẫn theo hướng khác, không đi vào làng, tôi bảo chúng đó là con đường tôi đã đi ra Quốc Lộ 1. Thử để xem trước đây đã có tên nào vào tìm chỗ tôi chôn đồ chưa, nên tôi cứ vờ lang thang ngơ ngác ở xa gốc cây. Lúc đầu, chúng cũng theo tôi, sau thấy tôi cứ lơ ngơ nhìn đây đó, như chưa tìm lại được những địa hình quen thuộc, tên Nhuận và Thành giơ tay làm hiệu: - Theo như anh vẽ, thì đến phía này cơ mà! Qua thái độ chỉ dẫn của chúng, trúng phóc, chỉ không thể xác định vị trí chôn chỗ nào gần gốc cây. Đây đó, đã có một vài lỗ nhỏ, đất cát còn lổn nhổn, chứng tỏ đã có người đào bới hàng nửa tháng, mươi ngày trước. Như thế, chúng đã cho người vào tìm, nhưng bới đào lung tung, vẫn không tìm ra. Điều đó,cũng đã nói lên một phần là trước đây, tôi đã chôn giấu tốt. Đã hơn 5 tháng rồi, mưa gió đã làm cho mặt đất, chung quanh gốc cây, chỗ nào cũng tưởng như chưa hề có dấu chân người bước đến. Cả 5 tên cùng đang chờ thái độ của tôi. Thực ra, ngay khi tới gốc cây, tôi đã nhận ra chỗ nào rồi, nhưng tôi chưa vội vàng. Thứ nhất, để chúng đỡ đánh giá cái óc còn tốt của tôi. Thứ hai, tôi đang liếc về chỗ bụi rậm, nơi có tổ kiến vàng và nhiều sâu róm, nơi đã che dấu tôi buổi đầu. Nhưng rồi, tôi đã chả làm nên trò trống gì, để bây giờ lọt vào tay kẻ thù. Tôi cũng thấy lòng thèn thẹn với cả bụi dây, mà giờ đây đã qua mùa Thu, mưa nhiều nên xanh um hơn trước. Liếc sâu vào trong bụi, nhìn ra con đường mòn và thửa ruộng đoàn người xuống gặt ngày ấy, lòng tôi xót xa đầy vơi cho kiếp đời gió mưa của mình. Nhìn ra xa xa, biển khơi một màu xanh ngắt. Nhớ đêm nào các anh đã bế tôi vào bờ. Bây giờ các anh, các bác đang làm gì, có bao giờ các anh, các bác ngồi nhớ lại cái đêm định mệnh đã làm tàn lụi, một đời người thanh niên không? Tự nhiên tôi thở dài nhè nhẹ, như trút dần những nỗi niềm đang buộc chặt trong lòng. Trong lúc tôi đưa mắt nhìn đây đó như cố moi óc để xác định chỗ chôn dấu, tôi thoáng thấy từ xa, nơi một bụi cây cách tôi hơn 200 mét, mọc ở một chỗ hõm đồi cát, mấy cái đầu lố nhố thập thò. Tôi lại nhìn thấy một họng súng đen xì khuất chéo bụi cây. Lòng thầm ca ngợi sự cảnh giác đúng cỡ của Cộng Sản. Chúng đã chủ động ngày giờ đi, và tôi đang ở trong tay chúng, không có một tấc sắt mà còn bị khóa hai lần. Tất cả chỉ vì cái đa nghi phòng hờ của chúng. Tôi đã tả kỹ, vẽ rõ ràng sơ đồ, chỉ cho chúng vào lấy, chúng không tìm ra. Bây giờ phải dẫn tôi đi, có lẻ chúng đã nghĩ, biết đâu, đây lại chả là một kế hoạch có chủ trương của tôi; hoặc biết đâu, những mạng lưới hoạt động của tôi theo dõi, bám sát, đến nay, thấy tôi được dẫn về địa điểm hẹn, đã báo cho Sài Gòn để bất ngờ vài chiếc “máy bay lên thẳng” vũ trang xuất hiện bắn phá, rồi nhào xuống cướp tôi đi. Vì thế, chúng đã huy động du kích xã bố trí, chung quanh khu vực tôi chôn đồ. Phải công nhận Cộng Sản làm việc gì đều tính toán tỉ mỉ, phòng hờ những tình huống có thể xẩy ra. Nhưng, một điều chắc chắn là chúng không thể biết được, tôi đã thấy du kích bố trí, vì từ ánh mắt đến thái độ của tôi đều không có gì khác thường cả. Sau một lúc nhìn khắp nơi cảnh vật, mắt cau cau như thể phải vận dụng óc để nhớ lại, tôi chỉ: - Đào chỗ này! Chúng có một cái xẻng nhỏ của bộ đội, chúng chỉ đào sâu chừng 20 phân đã thấy cả một cái ba lô mầu vàng, to tướng của Nhật và chiếc xẻng con của tôi đã chôn theo. Vải ba lô bây giờ đã trở thành mầu xám đen và đã mục vài chỗ. Rất nhiều rễ cây con mọc chằng chịt chui vào chiếc ba lô. Máy móc, tiền, thuốc Tây, bi đông, v.v… Và cả khẩu súng ngắn phòng thân, đem đi phòng hờ bị kẹt ở điểm đổ bộ chưa ra được đường. Vì được tôi bọc trong một miếng ny lông nên hãy còn nguyên. Sau mươi phút, chúng lấy hết lên. Tất cả đều đúng như tôi đã kê khai trước đây. Một vài thứ đã mủn rách, chúng cũng cho tất cả vào một chiếc bao tải. Tên Thành vác lên vai. Khi lấy các thứ này, chúng vui vẻ ra mặt. Thái độ của chúng đối với tôi cũng bớt phần gay gắt. Tôi nhìn 200 đồng bạc, bây giờ mới thấy thèm, vì vậy, khi về tới xe, tôi lựa lời: - Thưa các ông, số tiền ấy…tôi có được dùng không? Chúng đều quắc mắt, tên Đức cao giọng, dõng dạc: - Đó là tiền của Mỹ Diệm trang bị cho anh để đi hoạt động gián điệp, đâu phải tiền của anh. Hơn nữa, tiền đó còn để làm tài liệu, chứng cớ. Tôi cũng hơi tiếc biết thế hôm đó mang tuốt cả đi, tiêu cho đã. Tôi đã phải dè sẻn tiêu pha. Bị bắt, trong túi còn 20 đồng, vẫn bị tịch thu khi chúng khám xét. Tôi nhớ, trên đường trở ra Quốc Lộ 1, bây giờ đã đào được rồi, không có chuyện gì xẩy ra, chúng cũng hơi chủ quan. Cả 3 tên Thành, Nhuận và Đức đi đường nào tôi không biết, chỉ còn hai tên cảnh sát giong tôi. Ngay khi đào được đồ, tôi kêu tay tôi mỏi và ngứa quá không gãi được. Chúng thấy đã có kết quả, nên cũng dễ dãi đồng ý khóa tay tôi ra phía trước và chỉ một khóa số 8 thôi. Khi di với hai tên cảnh sát ra tới giữa cánh đồng. Tôi nhìn suốt một giải chung quanh, cánh đồng rộng bao la, lại thỉnh thoảng có một ruộng đang có lúa. Vì ở giữa cánh đồng, không có nhà cửa cây cối, hai tên cảnh sát cũng chủ quan. Có lúc cả hai tên cùng đi trước tôi đến 7, 8 thước. Chắc chúng nhìn thấy tấm thân tôi xanh xao gầy gò, bước đi còn không nổi, tay lại còn bị khóa nên chúng cũng chả cần đề phòng gì. Tuy hai tay bị khóa, khi thấy một vũng nước nhỏ có con cua, hay con cá, tôi vẫn đứng lại nhìn, hoặc sà xuống lấy tay hất con cua lên chỗ khô. Giữa cánh đồng, không khí trong lành, tôi đi lại được thoải mái nên người khỏe hẳn lên. Tôi chợt có ý nghĩ, nếu tay không bị khóa, đây là cơ hội đẹp biết bao. Không có cách gì để mở được chiếc khóa này! Tay tôi hơi nhỏ, bây giờ lại gầy nữa, nếu có xà bông, nhất định ra. Tôi nói một cách có suy nghĩ tính toán là nếu tay tôi không bị khóa, hai tên cảnh sát ở giữa cánh đồng, dù có hai khẩu súng ngắn dắt trong bao đeo ở cạnh sườn, tôi sẽ vẫn giải quyết được trong 5 đến 10 phút. Với tình huống này, tôi có khả năng gây cho chúng chủ quan rất dễ. Mà đã chủ quan coi khinh tôi, chỉ vài thế đánh chớp nhoáng là chúng gục, nhất là lúc này lại là lúc tôi phải quyết tử, khác hẳn với lúc tôi chưa bị bắt. Âu cũng là nghiệp chướng của đời tôi! Xe về tới Hà Tĩnh đã 5 giờ chiều. Tôi lại được xuống bếp, lại gặp hai nữ cán bộ hôm qua. Vẫn có nồi cơm nguội của các bà. Hôm nay, lại có hai con cá rô nhỏ kho và một bát con rau muống luộc. Rau muống luộc mà chấm với nước cá kho, thật là hồn bay tận mây xanh. Tôi cắm cúi ăn, lòng thầm biết ơn hai người. Suốt bữa ăn, cả hai đều ngồi đấy, một đọc sách, một khâu. Chả ai nói với ai một lời. Im lặng, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng loong coong của đôi đũa chạm vào bát khi tôi và cơm. Ăn xong, tôi đứng dậy nhìn hai bà với ánh mắt dạt dào tình người. Một người ra ngoài một lúc, một tên công an vào, ra hiệu tôi đi theo y. Trên đường dẫn đến xà lim, bấy giờ tôi mới chợt nhớ đến rệp. Tôi thấy rùng mình. Cứ nghĩ đến đàn rệp lổm ngổm ở chiếc sàn gỗ. Vẫn là căn buồng xà lim hôm qua. Khi y chuẩn bị đóng suốt cùm, tôi nói như than vãn: - Thưa ông, chiếc sàn này nhiều rệp quá! Y nhìn tôi lừ lừ, chẳng nói một lời, bỏ ra, đóng của, khóa lại. Đã có kinh nghiệm, cùm xong, tôi ngồi xổm ngay dậy. Tôi ngồi sầu, suy nghĩ miên man. Vô kế khả thi. Chẳng có cách gì để chống lại lũ rệp. Không lẽ, tôi cứ phải ngồi như vậy suốt đêm? Một ý niệm tràn vào óc tôi. Trong cuộc đời, nhiều khi vì cái thế, phải thua, phải hàng cả con …rệp. Cũng một con người ấy, nhiều khi hiển hách, hét ra lửa, bao kẻ phải cúi đầu lo sợ; nhưng, cũng có lúc vì cái thế. Óc tôi cứ chảy dài theo dòng suy ngẫm, bỗng giọng một người con gái nghe như thì thầm gần đâu đây: - Sao anh không nằm nghỉ? Tôi ngỡ ngàng, vểnh tai về phía tiếng nói, chẳng hiểu nói với tôi hay nói với ai! Im lặng, mấy phút trôi qua. Lúc này, rõ ràng là người con gái ấy nói với tôi, nghe khe khẽ như tiếng thì thào từ một khe nứt ỏ một tấm vách tường: - Sao anh không trả lời? Như vậy, hẳn cô nàng khi nãy có nghe loáng thoáng tôi nói chuyện với lão cán bộ rồi. Cũng với giọng khe khẽ tôi thì thầm: - Xin lỗi, có phải cô Nguyệt? Giọng hơi ngạc nhiên: - Sao anh biết tên tui? Tôi hơi cười: - Tôi còn biết anh Thời nữa! Rồi để đánh tan sự ngần ngại, ngạc nhiên, tôi tiếp: - Có gì đâu, hôm qua tôi nghe anh chị gọi nhau. Và để chủ động, tôi tiếp tục: - Chị bị bắt lâu chưa, về tội gì? - Hơn tháng rồi. Tôi là đoàn trưởng Đoàn Thanh Niên Lao Công của xứ đạo. Họ bắt tôi phải từ bỏ việc làm của tôi, để gia nhập Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Tôi không đồng ý, nên họ ghép tội tôi là phần tử phản cách mạng, họ bắt. Tôi thấy chị tỏ ra cởi mở, không giữ gìn, dễ tin người. Nhưng, cũng có thể chị đã có cái nhìn tinh tế về tôi, nên mới vậy chăng? Tôi tiếp tục: - Còn anh Thời? Chị nói nhỏ: - Tôi không biết rõ lắm! Tôi hơi cao giọng: - Tôi có lời chào và thăm hỏi anh Thời! Tiếng nói từ một buồng phía xa: - Chào anh bạn, anh mới bị bắt vào hỉ? Thấy xa xôi quá, phải nói to không tiện. Nói to trong đêm khuya là một điều bất lợi. Lại tiếng chị Nguyệt nho nhỏ: - Anh bị bắt vì tội gì? Trông anh ốm lắm! Tôi cũng hạ giọng: - Xin cảm ơn sự quan tâm…Chị nhìn tôi có rõ lắm không? Thế mà tôi chả biết chị như thế nào? Một tiếng cười khẽ: - Người ta hỏi lại cứ tảng lờ! Cô này có vẻ đáo để và khôn ngoan. Để khỏi phiền toái những hậu họa vô ích, tôi thủng thẳng: - Tôi là giáo viên cấp II ở Hà Nội, tội vượt tuyến. Một lúc im lặng, rồi với một giọng thắc mắc: - Vượt tuyến gì mà lại cùm hai chân? Ghê nhỉ! Phụ nữ cũng không vừa. Nghĩ vậy, tôi thản nhiên: - Có gì đâu, trong lúc bị vây bắt, tôi đã đánh cán bộ. Lại một tiếng cười khẽ: - Dữ nhỉ! Anh hay đánh người lắm hỉ? Để khỏa lấp chuyện đó, tôi hỏi: - Ở đây có mấy buồng xà lim? Nói chuyện thế này, có khi nào bị cán bộ rình bắt cùm không? - Ở đây có 8 buồng. Nói chuyện nhỏ thế này từ 10 giờ đêm trở đi, không sợ. Thỉnh thoảng nghe tiếng chân cán bộ đi kiểm tra, mình im luôn. Tôi nghĩ bụng, nói chuyện thế này, những lúc hứng câu chuyện, làm sao nghe được tiếng chân. Hơn nữa, gặp phải một tên cán bộ quái, nghe tiếng chân sao nổi. Tuy vậy, tôi cũng không nói ra, tôi nói như than thở: - Sao ở đây nhiều rệp thế, tôi không thể nằm được! Lại tiếng cười xìn xịt. Sao hay cười thế! Hết cười, cô mới như an ủi: - Ngày mai, anh báo cáo cán bộ trực xà lim, xin ít dầu lửa đổ vào các khe gỗ. Tôi nghĩ thầm, ngày mai tôi có còn ở đây nữa đâu. Tuy vậy, tôi im lặng. Cũng quá nửa đêm rồi, tôi đứng lên ngồi xuống nhiều lần đã mỏi quá. Thôi, cũng đành như đêm qua, đành mời mọc hiến dâng cho những con rệp, con muỗi một bữa no nê nữa. Máu của tao, khổ cực đói khát quá, nên vừa hôi tanh, vừa loãng lắm. Lũ chúng mày chỉ có thể hút máu những người nghèo khổ cùng cực, chứ những loại máu thơm ngon bổ béo của những người giầu, chúng mày đừng hòng. Người ta có mùng mền sạch sẽ, và có nhiều loại thuốc để trị chúng mày! Giống như đồng chí của chúng mày vậy, chúng chỉ có thể hút máu mủ, những đám dân nghèo nàn lạc hậu, nhứ những nước giầu có văn minh, người ta có hở cơ ra, chúng mày cũng chỉ “khạp” được một miếng mà thôi. Mới mờ sáng hôm sau, tên công an trực trại đã vào mở cửa, mở cùm bảo tôi ra. Có lẽ lúc này cô Nguyệt còn ngủ, hoặc có thức, tôi cũng không làm sao lên tiếng chào một người “chiến hữu hai đêm”. Lợi dụng lúc tên công an quay lưng đi ra, tôi gõ nhè nhẹ tay vào tường hai cái, gọi là để giã từ người bạn mới có lòng. Cái buổi từ Hỏa Lò ra đi, đã ruột gan đòi đoạn từng cơn. Bây giờ trở về, dù được chúng thông cảm khóa tay ra phía trước, nhưng trong lòng tôi như không còn một chút nhựa sống. Xe long lóc, người tôi ngả nghiêng; vật vờ, rũ rượi, như những chiếc lá úa trước những trận Thu phong cuối mùa. Xe càng chạy trở về, tôi thấy lòng càng quặn thắt, xa dần miền Nam thương yêu. Lần lượt, những hình ảnh bạn bè, họ hàng ruột thịt chan chứa, đầm ấm hiền hòa hiện ra trong óc tôi. Qua khe hở của chiếc mui xe, tôi rõi mắt nhìn một mảnh trời hình tam giác lệch, về hướng Nam. Một mảnh trời xanh xanh mơ hồ, vời vợi, rõ ràng nét mặt của mẹ tôi, với đôi mắt sầu ngấn lệ, nhìn tôi đăm đăm. Một âm vang rền rĩ trong óc: Mẹ ơi! Cách trở ngàn trùng. Hướng về nơi mẹ, ngập ngừng…lệ rơi! Tôi nhắm mắt lại để ngăn giòng lệ khỏi trào ra, uất nghẹn dồn về trái tim đen thẫm. Xe chạy qua Vinh, trên đường đi Thanh Hóa. Hai bên đường ngập lúa chín vàng. Những sóng lúa dập dờn theo chiều gió, những làn hương đồng nội ngất ngây phả ắp không gian, cũng không làm giảm được nỗi buồn héo hắt trong lòng tôi. Xe từ từ ngừng lại ở mé đường. Tôi liếc nhìn ra khi hai tên Thành và Nhuận xuống xe. Nhìn theo con đường đất chạy dài mãi vào nơi làng xóm xa xôi. Mãi trong phía xa, khoảng 200 mét cách đường nhựa nơi xe đậu, tôi thấy có 3, 4 thanh niên và mấy em nho nhỏ, hầu hết là quần đùi, chân đất đang chạy ra phía chiếc xe. Khi các em chạy đến, qua một vài câu trao hỏi, tôi mới hiểu đây là quê hương của tên Thành. Chắc Thành đã viết thư từ trước. Lâu ngày đi làm việc ở Hà Nội xa, may có dịp công tác qua quê nhà, nên y hẹn các em, các cháu ra hỏi han tin nhà, và cũng là để vẻ vang với xóm làng. Mấy thanh niên và các em nhỏ tò mò nhìn vào trong xe. Chẳng biết chúng sẽ suy nghĩ gì với những cái đầu óc bị bao vây trong lũy tre làng! Lũ thanh niên và Thành hỏi han nhau tíu tít, nào là: - Anh Thành ơi! Anh A đã vào chiến trường B rồi (theo miền Bắc lúc ấy: Chiến trường “A” là miền Bắc, “B” là miền Nam và “C” là Lào). - Chị B lên huyện làm y tá. - Anh C đã làm tiểu đội trưởng du kích, v.v… Đột nhiên, một thanh niên giọng háo hức: - Anh Thành ạ, anh Luơng làng mình đã mua được một chiếc xe đạp rồi đấy. “Bình bầu” mãi! 280 đồng giá cung cấp. Hai cái tay “phanh” sáng loáng. Hôm nọ, nói mãi anh ấy mới cho em đi thử một vòng ở sân hợp tác xã, êm như ru, sướng lắm! Tôi nghĩ thầm. Một chiếc xe đạp! Bao nhiêu lâu anh em mới gặp nhau có mươi, mười lăm phút, mà khoe “một chiếc xe đạp”, lại là của người khác cho mượn. Tôi cảm thấy, ở miền Nam, chuyện mua một chiếc ô tô cũng không đến nỗi chiếm vào cái thời giờ ngắn ngủi, mà bao nhiêu chuyện gia đình cần nói. Sự việc này, cho phép tôi hiểu hơn một chút về cảnh sống của người dân miền Bắc. Đám thanh niên, trẻ con còn rờ, còn mó chiếc xe ô tô như một thứ kỳ vĩ lạ lùng. Với đầu óc ngây thơ hạn hẹp của họ, đúng là Liên Xô, Trung Quốc vĩ đại thực, vô địch thực! Nghĩ cho cùng, nếu tôi phải sống như họ, thì tôi cũng chẳng khác gì họ. Vậy, lỗi này đâu có phải tại họ! Mười lăm phút sau, xe lại chạy, những đứa trẻ con còn cố chạy theo để rờ, mó chiếc xe như thể tiếc rẻ chưa rờ đã! |
|
|
![]()
Post
#33
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi
Nguời Mong Không Gặp, Người Gặp Không Mong… Về tới Hà Nội đã 5, 6 giờ chiều. Trời đã lành lạnh buổi đầu Đông. Khi xe vào cổng Hỏa Lò, trời đã chập choạng. Vào phòng, sau khi mở khóa, tên Thành mở cặp lấy ra hai gói thuốc lá “Trường Sơn” và một bao diêm: - Đây là tiêu chuẩn tiền ăn đi đường 2 ngày của anh, còn thừa 5 hào, tôi bỏ thêm hai hào để mua cho anh. Tôi sáng mắt cám ơn. Tên Thành thật tâm lý. 7 hào bạc, bất cứ nó mua cho tôi thứ gì cũng không quý bằng thuốc lá. Tôi thấy trong lòng hân hoan hẳn lên. Một số ngày sắp tới như được hứa hẹn có một người bạn hiền, thật chung thủy, gắn bó, chia sẻ, an ủi thông cảm với tôi trong những lúc đắng cay cùng khổ của một kiếp …tù. Tên Bằng dẫn tôi về xà lim, vẫn trở về buồng cũ, buồng số 5 xà lim III. Giờ này, tên Nhiễm trực đã nghỉ, vì thế tên Bằng mở cửa buồng. Trong buồng, ngoài bộ quần áo sọc cũ của tôi, bây giờ đã nửa mạc. Thật là mừng! Đã cuối tháng 11, trời lạnh nhiều, các cán bộ ở Hỏa Lò đã thay đổi quần áo mùa Đông. Sau khi cùm xong, tên Bằng ra khóa cửa lại. Trong lòng còn đang mải mê niềm hân hoan với thuốc lá, với chăn chiếu, tôi quên bẵng không báo cáo với tên Bằng là chiều nay, tôi chưa ăn cơm. Thật là lú lẫn đáng trách. Từ 11 giờ sáng, ăn hai nắm xôi, mỗi nắm 2 hào ở Vinh, tới bây giờ chả có gì trong bụng cả. Tôi lục đục trải chiếu, cái cùm hôm nay thật lạnh buốt. Đói, lạnh thế nay không thể ngủ được. Hơn nữa, mất suất cơm lúc này là cả một vấn đề. Tôi phải dũng cảm! Khi đó, chắc khoảng 7 giờ. Tôi lựa thế đứng một chân xuống nền, cố với miệng ra gần cửa nhỏ, tôi hô to: - Buồng số 5 báo cáo cán bộ! Một lần, im lặng. Hai lần, rồi lần thứ ba, vẫn im lặng. Tôi thấy ngần ngừ, nhưng cái bụng bắt buộc tôi phải dũng cảm tiến lên. Tôi cố hô thật to một lần nữa. Vừa hô được nửa câu thì cửa sổ nhỏ xịch mở, làm tôi giật mình. Chắc rằng, tôi hô từ nãy, y đã từ đâu mò đến, khe khẽ nghe ngóng, tôi đâu có biết, y quát: - Báo cáo cái gì? Tiếng la của một người lạ, tôi không nghe giọng quen. Tôi dõng dạc: - Báo cáo ông, chiều nay tôi chưa được ăn cơm. Y gằn giọng: - Sao không được ăn cơm? - Tôi đi từ Hà Tĩnh mới về, từ sáng tới giờ chưa ăn. Cửa sổ nhỏ đóng lại. Chừng 15 phút sau, cửa sổ lại mở. Lần này là tên Bằng. Y còn hỏi: - Anh chưa ăn cơm à? Tù bây giờ vào hết trong buồng rồi. Y đi mươi phút, có lẽ xuống bếp. Một lúc sau, y mở cửa, đưa vào cho tôi một bát đầy cơm, với một bát con có ít muối trắng. Y nói có vẻ dìu dịu: - Canh không còn, anh ăn với muối vậy. Tên này mắt lồi, trông dữ tướng, vậy mà tử tế tệ. Tôi mừng hết chỗ nói. Bát cơm gấp rưỡi mọi khi. Chẳng cần đũa, dùng 10 chiếc đũa trời mà tuyệt vời. Vừa ăn, vừa ngẫm nghĩ, nếu mình không dũng cảm lên tiếng, cứ do dự ngại ngần, làm gì có cơm ăn. Vậy trong cuộc đời, nhiều khi phải liều mới đạt kết quả. Hôm nay, tôi thấy lòng vui hẳn lên. Nhiều cái may, thuốc lá này, chăn chiếu này, bây giờ lại bát cơm đầy. Thế mới biết, hạnh phúc của con ngưòi chẳng có tiêu chuẩn quái nào cả. Vì thế, Cộng Sản đã triệt để lợi dụng khía cạnh này, để du hoặc lòng người. Khoảng 15 phút sau, tên Bằng trở lại mở cùm, tôi đem bát ra trả và múc gáo nước. Theo quy định ở xà lim, không được để bát trong buồng. Cùm xong, tôi loay hoay tính toán.Cái chân trong cùm lạnh quá, mình sẽ chiếu cố đặc biệt cho nó. Tôi lồng hai ống một chiếc quần cũ lại, lựa luồn lách vào lỗ cùm, vừa lót, vừa cuốn cho cái chân ngăn cách với sắt. Trải chiếu ra, nằm vẫn buốt lưng, tôi phải gấp lại làm tư, chỉ lót từ mông đến vai. Tôi mặc hai áo, lấy chăn cuộn để hai chăn giáp chéo sang nhau ở dưới lưng (như vậy cũng như nằm lên hai lượt chăn). Nằm xuống, thấy tương đối dễ chịu, tuy sờ hai vai và từ đùi trở xuống vẫn lạnh, nhưng với mức độ lạnh thế này vẫn chịu được. Chỉ còn cái đầu, không có cái gì để gối lên một tí. Khó khăn đẻ ra sáng kiến! Lục lọi, tìm tòi trong óc, cuối cùng tôi nhớ tới mấy bó cuống chổi thanh hao, vẫn thường cọ rửa thùng phân, dựng ở mé tuờng chỗ vòi nước. Để ngày mai, tôi tính cả một kế hoạch, cho việc làm sao để có “một chiếc gối đầu”. Mỗi sáng, tôi được 5 phút làm vệ sinh với những động tác sau: chạy lẹ đem bô đổ vào một cái lỗ chỗ đi ỉa; chạy về mở nước đổ tráng lần một, lần hai cho chổi vào cọ sơ, đổ; tranh thủ rửa hai cái tay, vuốt lên mặt mấy cái, rồi ôm bô vào. Ngày mai, tôi sẽ bỏ rửa tay, rửa mặt, để rửa hai đoạn cuống bó chổi thanh hao, vì các buồng họ làm vội, nhiều khi còn vướng những cục phân nhỏ vào những chạc cành phía trong. Tháo một cái lạt, tất cả đút vào bô, đập nắp, vào buồng là ổn. Đêm ấy, tôi nằm ngủ tương đối dễ chịu, những chú muỗi đành đứng ngoài khóc. Mùa Đông, càng lạnh càng ít muỗi. Thật là kỳ cục. Giá đổi lại mùa Hè ít muỗi, mùa Đông nhiều muỗi, tôi hạnh phúc biết bao! Sáng hôm sau, kế hoạch đã tính kỹ, tôi cứ thế thực hiện. Khi vào buồng, tôi gỡ ra, tỉ mẩn bó lại thành một bó tròn đường kính độ 5 phân, dài chừng 20 phân. Tuy là chổi cọ thùng phân, nhưng tôi rửa kỹ nên chỉ hôi mà không thối. Còn uớt quá, tôi cố với người dựng vào phía trong của gầm sàn, tối nay sẽ ráo. Một lúc, mụ Hoa vào gọi đi cung. Hôm nay lên, tôi gặp tên Nhuận và một tên lạ mặt. Sau một vài câu hỏi xã giao thường lệ, tên Nhuận mở cặp: - Hôm nay, để thấy được sự thành khẩn của anh với cách mạng, chúng tôi sẽ hỏi anh một số vấn đề. Y có chừng 20 cái ảnh đen trắng, loại hình 4x6 mà ai mới bị bắt cũng phải chụp để làm hồ sơ. Y đưa từng cái một, hỏi tôi có biết ai không. Trong khi đưa ảnh cho tôi xem, cả hai đứa đều theo dõi nét mặt và ánh mắt của tôi. Kể cả 20 tấm ảnh gầy ốm, chứng tỏ là ảnh người tù. Tôi không biết một ai. Những dù cho có biết, tôi cũng tảng lờ ngơ ngác không biết. Qua một số thái độ, cách hỏi, cách đưa ảnh, tôi đã ngửi thấy vấn đề. Tôi hiểu trong số 20 tấm hình này, sẽ có từ một đến vài cái là ảnh của những ngưòi từ miền Nam ra, nằm trong một màng lưới tình báo nào đó của Sài Gòn đã bị bắt ở miền Bắc. Số còn lại, hầu hết là ảnh của tù hình sự, hoặc của tù nhân không liên quan đến tình báo. Những ngưòi trong tình báo của Sài Gòn bị bắt, hoặc còn ở một trại giam tỉnh nào đó, hay ở ngay trong Hỏa Lò, nhưng giam riêng biệt nên không biết nhau. Có rất nhiều điều chúng không biết, chúng cần thẩm tra. Vậy, đây cũng chỉ là một trong những phương pháp chúng thăm dò. Tùy theo sự hiểu biết, cũng như quan điểm của những người đã bị bắt, biết đâu, do vô tình, hoặc do thành khẩn, thấy ảnh nguời quen, nói quen. Chúng sẽ tìm hiểu, điều tra quan ở đâu? Trường hợp nào? Bao nhiêu lần? Đã thấy làm những gì? Hay đi với ai? Thường đến chỗ nào? Thường đi xe gì? Mặc quần áo gì? v.v… Từ đấy, chúng có thể phanh phui ra những điểm mà đối tượng kia còn dấu, hoặc xác nhận chiều hướng chúng có thể tin. Chúng sẽ lấy người này thọc người kia, lấy người kia lại thọc người này. Vì những sự kiện tù nhân khai xảy ra ở trong miền Nam, chúng không thể nắm được trong việc thẩm tra, nên chúng chỉ còn dùng những cách như vậy. Với tôi, những trò đó, đừng hòng. Nhiều khi tôi lại tương kế tựu kế, làm cho chúng rối mù thêm, đưa chúng vào cái mối tơ vò cho chúng tha hồ gỡ. Thời gian ở Hỏa Lò, cũng như sau này đi trại trung ương, tôi thấy chúng thường đột xuất diễn cái trò ấy. Tôi biết, chúng đã đua ảnh của tôi đi những nơi nào đó mà quá trình khai báo có trùng hợp một không gian, một thời gian, v.v… để chúng nghi người đó có thể biết tôi. Kỳ này, có khi 2, 3 ngày mới gọi cung. Lúc chúng truy tôi điểm này, lúc điểm khác, lúc sự việc này chưa rõ, lúc việc kia là vô lý, nói láo, v.v… Trời bước sang tháng 12 càng lạnh dữ, lúc đó cũng là tháng 11 Âm lịch. Một chăn, một chiếu nhưng nằm trên đá và sắt, về mùa Đông bụng càng đói ghê gớm. Không có “ca lô ri” để chống lạnh, suốt đêm hầu như tôi không ngủ được, cứ ngồi co ro. Bốn lượt chiếu, hai lượt chăn mà cái lạnh của sàn xi măng vẫn thấu lên lưng không nằm được. Lúc này tôi, ngày đêm, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới ăn thôi. Nghĩ đến bất cứ cái gì cũng thèm chảy nước dãi ra. Mà quái làm sao, bất cứ nghĩ gì, rồi dần dần cuối cùng lại ra chuyện ăn. Nhiều lần tôi đã giận khùng ngay chính với tôi, tại sao lại chỉ nghĩ đến ăn cho nó thèm. Tôi cương quyết dứt khoát bắt óc tôi không được nghĩ đến ăn nữa. Tôi nghĩ đến một anh bạn thân là Nguyễn Văn Nhượng, anh học khóa 10 Thủ Đức. Cuối tuần, tôi lên trường đón anh xuống Sài Gòn, đi chơi khắp thành phố, để rồi xuống chợ Ông Tạ ăn bún chả, thế là cứ nuốt nước miếng ừng ực. Thậm chí, tôi nghĩ đến những ngày còn nhỏ ở Hà Nội, tôi và một người bạn đạp xe vào Hà Đông, rồi chùa Trầm chơi, ghé vào một quán quê bên đường ăn hai gói xôi đậu đen, nước miếng lại chảy ra đầy mồm. Đôi khi từ một cuộc duyệt binh, một đám đánh nhau, một buổi tập võ…nhưng thế nào rồi cũng đến chỗ ăn. Ôi! Thật kính nể Cộng Sản! Thằng Marx đã phát hiện ra cái huyệt của thời đại, cái huyệt của con ngưòi, nên nó đã nghiên cứu viết tập “Tư Bản Luận”. Học trò của tên Marx chỉ cần nghiên cứu thực nghiệm, lại nghiên cứu bổ sung, cuối cùng sao cho thật tinh vi hết cỡ, làm thế nào đó để khi nó thọc vào huyệt là con người dúm lại, dù người đó là ai, chỉ trừ không phải là…người. Những ai chưa từng bị đói, dứt khoát không thể cảm nhận hết được cái đói đã đành, nhưng kể cả những người đã đói hàng tháng, hàng năm mà còn có một cứu cánh tinh thần như ta sắp hết án, trở về sẽ no; vợ sắp ra tiếp tế cho ta, sẽ có bữa no; tội của ta không có gì, sắp được tha, sẽ no. Ngoài biển khơi, cố gắng chịu đựng vào bờ, sẽ no, v.v… Những người đó vẫn chưa cảm nhận hết cái ghê gớm của đói nên hãy còn có tính cương cường, danh dự, tư cách… Chỉ có những ai đã đói triền miên, năm này qua năm khác, ngửng nhìn khắp 4 phương trời, không còn một hy vọng gì có một ngày sẽ no, lúc đó mới thấy được cái ghê gớm của cái đói ở mức độ nào. Sau này, những thiên tới sẽ có nhiều sự việc, nhân chứng sinh động về vấn đề trên. Mùa Đông, thường suốt ngày âm u, không có mặt trời. Trong buồng ngồi nhìn chiếc cùm còn không rõ, ở bên ngoài chắc trời âm u xám xịt, như lòng tôi lúc này. Từng đợt, từng đợt gió mùa Đông Bắc theo nhau tràn về, gây lên cái lạnh tái tê. Gió ào ào luồn qua khung cửa sổ bé tít mãi trên trần, gió lách qua những khe hở của những viên ngói trên mái tạo nên những âm thanh vi vu, rên rỉ, nghe càng thê lương ảm đạm trong chốn ngục tù. Những đầu ngón chân, ngón tay của tôi không hiểu sao sưng lên ngứa buốt không chịu nổi. Tôi không hiểu, tôi mắc bịnh gì? Quái lạ! Từ nhỏ tôi không thấy bệnh này, nó sưng đỏ mọng lên, nhức buốt suốt đêm ngày. Nhất là về đêm, nó nhức tôi không thể ngủ được. Tôi cứ ngồi gục đầu xoa nắn ngón chân, ngón tay, lòng hoang mang lo sợ không biết là bệnh gì. Đêm thâu vắng lặng, chỉ nghe có tiếng gió gầm gừ lồng lộn ngoài trời. Lâu lâu, chiếc cửa sổ con lại xịch mở. Tôi ngửng lên, cửa đóng lại. Tôi hiểu đây là cán bộ tuần tra ban đêm, cứ một hoặc hai tiếng lại mở cửa sổ kiểm soát. Sao mà trời già cũng cay độc, toa rập với lũ người khát máu, hành hạ trăm chiều những kiếp người cùng khổ lầm than! Nỗi niềm chảy dài mãi vào đêm thâu tịch mịch. Lúc này, chắc hẳn cũng 2, 3 giờ đêm. Đột nhiên, cửa nhỏ lại xịch mở. Tôi ngửng lên, qua ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn điện trên trần, tôi chỉ thấy một cái mũi và hai đốm mắt long lanh. Lần này, cửa không đóng lại ngay. Một giọng nói phụ nữ chưa bao giờ nghe: - Sao anh không nằm xuống ngủ? Giữa cảnh âm u, vắng lặng, giọng hỏi han như chứa đựng tình người cảm thông. Tôi trả lời trong một chút xúc động: - Không hiểu sao ngón chân và tay tôi sưng đỏ lên và buốt lắm, tôi không ngủ được. Tôi giơ cả mười ngón tay ra chỗ sáng gần cửa sổ. Giọng nói nho nhỏ như tiếng thì thào: - Anh bị cước đấy! Tôi chợt nhớ ra ngày xưa khi còn bé, nghe người ta nói trâu bị cước chân, khi đã long móng thì chết. Thế mà các móng chân của tôi, tôi cảm thấy nếu mình kéo mạnh, cũng sẽ bong ra, bởi quanh rìa móng chân mọng đỏ lên như có nước, chỉ vỉ cơ thể thiếu chất dinh dưỡng, không có sức đề kháng, vì thiếu quần áo và chăn ấm, vì phải nằm trên cái lạnh của sắt và đá, vì thiếu một ngọn lửa… Nghĩa là, nếu tôi chỉ cần có một trong những thứ trên, chân tay của tôi sẽ không bị như vậy. Cửa sổ vẫn mở. Vẫn hai đốm mắt long lanh và chiếc mũi lúc rõ, lúc mờ. Im vắng nặng nề. Hai thái cực, hai trận tuyến nhưng có cái chung cùng là … con người. Giọng nói êm êm lại cất lên: - Mai anh báo cáo y tá, xin một tí nước muối rồi ngâm chân tay anh vào. Ôi, người này không phải thường xuyên ở Hỏa Lò rồi. Nếu như vì lý do nào đó, anh chết thì thôi, chứ làm gì có chuyện cho nước muối để ngâm chân! Hơn nữa, muối lại là điều tối kỵ trong xà lim. Hoặc, có thể người đó cũng hiểu như vậy, nhưng trước cảnh này phải nói thế cho qua chuyện. Dù sao, giọng nói ấy, hai đốm mắt ấy như ẩn tàng một tình người chân chính, cũng vuốt ve phần nào cõi lòng lẻ loi, cô đơn heo hút đang tràn ngập lòng tôi. Cửa đã đóng rồi. Người đã đi rồi. Chỉ còn tiếng gió gào trên mái. Tôi chợt nhớ đến một bài ca: “Mùa Đông gió, lạnh lùng, gió lạnh lùng. “Chim thôi bay, ngoài mưa gió… hãi hùng. “Gió hú chi cho thêm đau lòng người chiến sĩ… Trong đêm trường…” Gió vẫn lồng lộn thét gào, xà lim vẫn âm u, vắng lặng. Tôi thiếp dần vào đêm kinh hoàng. Bẵng đi 5, 6 ngày không gọi cung. Hôm nay tên Bằng mắt lồi lại gọi. Khi mở cùm, cả bàn chân tôi cũng mọng đỏ lên, vô cùng nhức buốt. Tôi cho chân xuống, xỏ vào đôi dép Thái Lan cũng thấy đau. Tôi đứng dậy, cố gắng khập khiễng đi như người què. Tên Bằng hỏi giọng thờ ơ: - Chân anh sao thế? Tôi trả lời nhát gừng: - Chẳng hiểu sao ngón chân, ngón tay của tôi sưng buốt. Mỗi bước chân tôi đi như dẫm vào đống mảnh sành. Tôi cố gắng khật khưỡng. Có thể vì máu nóng dồn xuống chân, mặt khác, các mạch máu và những tế bào chân, trước nằm im, bây giờ chuyển động, vì vậy tôi thấy đỡ đau buốt dần. Hôm nay, tên Bằng lại chỉ đường sang phía dẫy nhà bên kia sân của giàn nho. Dẫy này, tôi chưa hề bao giờ tới. Tên Bằng dẫn tôi đến một căn buồng lớn ở đầu dẫy. Vào buồng, tôi thấy 6, 7 người ngồi. À, đây là phòng giám thị trại, vì tôi thấy Thuợng úy Trì, Phó giám thị, người miền Trung, ngồi ở một ghế cạnh “buya rô” lớn, trên có rất nhiều hồ sơ và một là cờ đỏ sao vàng nhỏ. Ngồi ghế chính giữa là một tên chừng 45 tuổi, mặc một cái áo “vét tông” gần cạnh đấy, là tên Đức và một số người lạ nữa mặc đồ dân sự. Trong phòng treo một ảnh Hồ Chí Minh lớn ở chính giữa tường, cùng với nhiều khẩu hiệu: đảng, tổ quốc, cách mạng, v.v… đỏ loẹt cả văn phòng. Trước buya rô, vẫn chiếc ghế đẩu chơ vơ của tội nhân. Tên Đức chỉ tay bảo tôi ngồi. Xong, hắn nói tiếp, vẻ trang trọng, đưa mắt về phía nguời mặc áo “vét”: - Đây là Đồng Chí Hồng, Trưởng phòng “44”, Phòng chấp pháp Chính trị. Đồng chí có nhã ý gặp anh. Vậy, anh có điều gì cần, cứ đề bạt. Tên Hồng cười xã giao: - Anh có khỏe không? Anh có cần gì, tôi cho phép anh phát biểu. Tôi nghĩ bụng: Tôi cần gì ư? Một điều mà tôi cần, nếu anh mà thực hiện, anh không còn chỗ ngồi này đâu! Tôi liếc nhìn tấm ảnh Hồ Chí Minh lớn treo trên tường, phía sau lưng y. Tôi chăm chú nhìn vào đôi mắt chó sói của tấm ảnh.Con người vàng ửng như đang đong đưa đổi màu nhìn tôi. Tự nhiên hai mắt tôi nóng rát lên như có lửa, làm cho hai con ngươi của tấm hình như thu nhỏ lại, cụp xuống. Một ý nghĩ ngắn gọn: “Tôi cần cái đầu của người trong tấm hình kia!”. Cuối cùng, tôi nói: - Xin cảm ơn ông, tôi không cần gì cả. Chỉ đề nghị ông giải quyết sớm sự việc của tôi. Y cười nửa miệng: - Anh không chịu khai báo sự thật. Anh không khai báo tốt thì giải quyết sớm thế nào? Tôi hiểu, điều chính là nó muốn xuống nhìn trực tiếp con người của tôi mà thôi. Còn, chỉ là những câu nói phất phơ. Giữa lúc ấy, tôi thoáng thấy một bóng người đi vào cửa, phía ngang chéo sau lưng tôi. Tôi quay lại nhìn ra, một người mặc quần áo nâu cũ và một tên công an áo vàng đi phía sau. Tên công an lùi ra. Tên Đức đứng dậy chỉ cho người áo nâu đến một chiếc ghế dài cạnh tường ngồi, quay mặt về phía tôi và buya rô. Người áo nâu dáng to khỏe, nhưng nước da xám tái, đi chân đất, gấu quần nâu lua tua rách mướp. Khi tôi vừa thoáng quay ra cửa nhìn, tim tôi hơi bóp lại. Người áo nâu cũng nhìn thoáng tôi. Phản xạ cấp thời, tôi chỉ thấy bộ mặt quen quen. Khi người ao nâu vào ngồi ghế nhìn tôi, và nhìn các người ngồi ở bàn giấy, tôi đã nhận ra. Chắc rằng lúc đó mắt tôi phải đờ đẫn vì ngạc nhiên. Tôi không thể tưởng tượng nổi con ngưòi tiều tụy, khúm núm, rụt rè, lấm lét ngồi gần tôi kia là …Trung Úy Nghĩa. Con người mà hình ảnh đó đã in sâu trong óc tôi, đẹp trai, khỏe mạnh ngang tàng, hiển hách một thời của Bình Xuyên 1954-1955 bây giờ là đây. Không khí im lặng, không ai nói một lời. Tôi biết chúng đang bám sát thái độ của Nghĩa và tôi. Chừng 3 phút sau, tên Đức ra hiệu, tên công an bên ngoài vào dẫn Nghĩa ra. Sau đó, chúng nhìn tôi như hỏi bằng ánh mắt. Tôi cúi đầu xuống, im lặng và suy nghĩ với bao nhiêu hỗn loạn trong đầu. Nghĩa là một người trước đây 8 năm tôi thù hận. Suốt 8 năm trường, sau khi Bình Xuyên tan hàng rã đám, tôi đã nhờ bạn bè và chính tôi cố ý đi tìm Nghĩa để trả mối hận thù mà Nghĩa vẫn biệt vô âm tín. Ai ngờ đâu, chỉ vì một sự thử thách vô tình của tôi với tên Lê Văn Hoàn, bây giờ tôi mới được gặp Nghĩa trong cảnh ngộ này. Phải nói, tôi không ngờ được, mà cả ngay Nghĩa cũng không thể biết trước được, có một ngày chúng tôi lại gặp nhau, trong cái giây phút chết lòng. Lòng tôi dâng lên một chút ân hận giầy vò. Dù muốn hay không, giờ đây Nghĩa cũng là một chiến hữu của tôi. Người chiến hữu cùng trong một cảnh ngộ sa cơ, rơi vào tủi cực của cả một kiếp người. Càng hình dung đến hình ảnh tiều tụy của Nghĩa lúc nãy, lòng tôi càng xáo trộn vừa tình thuơng yêu chiến hữu, vừa lòng ân hận lay lắt, đã xóa tan hoang mối hận thù lâu dài, vẫn nằm trong một ngách nhỏ của con tim. Thấy tôi cứ cúi đầu, tên Đức lên tiếng: - Thế nào, anh có nhận ra ai không? Tôi chậm chạp: - Dạ…Nghĩa Bình Xuyên… Tên Đức vừa cười nhạt, vừa hỏi tiếp: - Anh thấy thế nào? Tôi có vẻ hí hửng: - Tôi không ngờ!... Y bóng gió đe dọa: - Anh sẽ còn gặp nhiều chuyện không ngờ nữa! Rồi y đứng dậy: - Thôi, bây giờ cho anh về! Một ngưòi ngồi ghế phía sát cửa đi ra một lúc, mụ Hoa rảo bước vào. Tôi theo mụ về xà lim. Trên đường về, đầu tôi đầy những suy nghĩ, tính toán nên quên cả đôi bàn chân sưng buốt. Cứ tập tễnh bước đi mà lòng nặng trĩu tơ vò. Tôi nghĩ, Nghĩa ở trong một toán biệt kích, hoặc đi cá nhân như tôi. Nghĩa đã ra Bắc từ lâu, và cũng bị bắt từ lâu, hiện đang ở trong một trại giam Trung Ương nào đó để lao động cải tạo. Có thể trước đây, Nghĩa không khai báo đến thời gian ở Bình Xuyên. Bây giờ, mãi 1962, tôi mới ra, do một sự vô tình tôi đã nói đến Nghĩa ở đó. Như vậy, chúng cho rằng Nghĩa còn che dấu nhiều vấn đề. Vì thế, Nghĩa bị lấy về Hỏa Lò để điều tra lại và cho tôi trông thấy, nhưng không cho hai bên nói chuyện với nhau. Vậy là chúng đã gián tiếp đe dọa cả Nghĩa và tôi:”Các anh còn những điều gì nữa mà chưa khai; thì các anh tự liệu”. Bất cứ một ai, khi đã ở trong tay chúng rồi, điều chúng đã biết mà anh không khai, chỉ còn một cách là anh tự tử ngay đi mới thoát. Tôi nghĩ, Nghĩa đang lo sốt vó, và có thể đang oán hận tôi nữa, nếu Nghĩa không hiểu quán triệt sự việc. Ngược lại, tôi chả có cái cóc khô gì phải lo cả. Nghĩa có biết gì về tôi đâu. Còn giai đoạn ở Bình Xuyên, tôi đã khai thật. Câu chuyện đó không tiền, khoáng hậu đối với cuộc đời hoạt động của tôi mà. |
|
|
![]()
Post
#34
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Mốt
Nghĩa “Bình Xuyên”… Để làm sáng tỏ phần nào cuộc đời của Nghĩa. Tôi xin tuờng thuật lại sự việc cũng dính dáng đến một đoạn đời của tôi và một góc bối cảnh ngang ngửa của quê hương… Sự việc xẩy ra vào khoảng tháng 8 năm 1954 tại Bệnh Viện Bình Dân, khi ấy là đường Général Lizé (đường Phan Thanh Giản Sài Gòn sau này). Giai đoạn đó, bệnh viện vừa mới xây xong nên chính quyền, tạm thời dùng làm trại tiếp đón đồng bào di cư từ Bắc vào Nam theo hội nghị Genève. Như tôi đã nói đến phần đầu. Tôi, một thanh niên 16 tuổi mới vào thành đô. Ngay ngày đầu, sống giữa cái ồn ào, hỗn tạp, xô bồ của giòng người đủ mọi thành phần tại bệnh viện này, chẳng biết cuộc đời mình sẽ trôi dạt về đâu. Lúc đó, tuy mới 16 tuổi, nhưng nhờ thích thể dục thể thao, nên người tôi trông cũng nẩy nở cứng rắn. Tôi cũng đã đấm đá nhiễu vị bị ảnh hưởng của phong trào “càn” của học sinh Hà Nội thời 53-54. Khi vào Sài Gòn, tôi mang theo một lạng vàng, đúc thành một cục. Tôi luôn luôn để trong một cái túi nhỏ, khâu kín ở bên trong quần lót. Giữa lúc đó, tôi gặp một “băng” 3 cậu cũng là học sinh “càn” ở Ngõ Huyện Hà Nội: Tuyển, Luân, An, độ 16, 17 tuổi, trốn nhà vào Sài Gòn, và cũng chẳng quen biết ai như tôi. Trông cậu nào cũng ngổ ngáo, dữ tướng, tay to, ngực nở. Thôi thì cùng hội, cùng thuyền, 4 đứa thường nằm chung với nhau một chỗ. 3 cậu kia thuộc loại không cần ngày mai, có đồng nào tiêu hết đồng ấy, lần lượt đồng hồ, rồi quần áo cũng bán dần. Giai đoạn này, theo nguyên tắc từ Tổng Ủy Di Cư. Mỗi đồng bào, mỗi ngày được cấp phát 4 đồng rưỡi, nhưng tên trưởng trại Nhuận, cũng giống như nhiều người khác, mang sẵn trong mình dòng máu tham nhũng, thối nát của một bối cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ, nên y đớp hết. Gia đình đồng bào nào không có thân nhân ở ngoài, không có tiền riêng mang theo, đều lâm vào cảnh thiếu đói. Cũng vì thế, khi Tuyển, Luân và An gặp tôi, các cậu đang ngang ngửa từng ngày, nằm queo từ sáng đến chiều, không có gì trong bụng. Tôi thông cảm, nên lúc thì tôi nói có 200 đồng, lúc thì bảo mới gặp người quen xin được 100 đồng…để các cậu có cái ăn. Khốn một điều là các cậu thuộc loại tiêu tiền không cần tính. Hai trăm đồng nếu mua cơm bữa ăn, 4 người dè xẻn cũng được cả tuần lễ, hoặc mươi ngày. Đây lại vào hiệu gọi phở xào, uống bia, nên chỉ một ngày là nhẵn. Tôi thấy cứ như thế này thì làm sao mà kham cho nổi, nên cũng đành nhiều khi phải nhịn đói cùng nhau, dù tôi có tiền. Họ biết thế, nên tôi đi đâu họ cũng không bỏ rời. Nhiều lúc, chính tôi cũng đói quá không chịu được, tôi lại phải vờ gặp được người quen cho tiền. Giữa cảnh sống dở chết dở đó. Mà đồng bào lại cứ kéo vào ùn ùn. Nằm la liệt đầy cả lối đi, lẫn trong nhà xí, bẩn thỉu, hôi thối, nhưng không còn chỗ. Vì là bệnh viện mới xây, chưa có giường, phản nên tất cả đều nằm xuống nền nhà. Có chiếu, có vải trải ra thì tốt, nếu không, phủi sạch nền mà ngả lưng, chật như nêm cối. Buổi sáng ra, 4 tên, trông ngoài thì có vẻ ‘cậu”, nhưng trong bụng cậu nào cũng có cuộc biểu tình kịch liệt. Chưa biết lấy cái gì cho vào, để dẹp các cuộc biểu tình này. Giữa phòng người đầy ắp chen ra, chen vào. Bất chợt tôi nhìn thấy một anh Trung Úy, quần áo là thẳng tắp, đội mũ sĩ quan, huy hiệu vàng chóe hình nước Việt Nam. Trông anh đầy phong độ, hồng hào đẹp trai, cao khỏe. Mắt tôi chạm mắt anh sĩ quan đó, cùng sáng lên ngỡ ngàng. Tôi ngỡ ngàng vì đây là Nghĩa. Tôi nhớ không lầm, chỉ mới cách đó 6 tháng trước, Nghĩa còn đứng gác soát vé cho rạp hát Kim Chung ở Hàng Bạc Hà Nội. Thường vẫn nể “pha vơ” cho tôi vào xem “cọp”; thế mà giờ đây lại đeo lon Trung Úy, loại Trung Úy rất hách. Nghĩa lúc đó khoảng 28, 29 tuổi. Trước thế và cảnh này, thôi mình tạm thời làm đàn em vậy! Tôi và Nghĩa cùng chạy lại bắt tay nhau rối rít. Tôi mừng khác, và Nghĩa mừng khác, nhưng cuối cùng hai cái mừng đều gặp nhau ở một điểm:”Giải quyết cái mình muốn”. Nghĩa vồn vã: - Bình vào bao giờ đấy? Bố mẹ có vào không? Tôi hân hoan: - Em vào một mình, ông bà “bô” sẽ vào sau. Nghĩa chỉ về phía Tuyển, Luân, An: - Bạn của Bình đấy à! Cũng như Bình chứ? Tôi gật và nhìn lên lon, lên mũ của Nghĩa. Hiểu ý, Nghĩa hạ giọng: - Nói thực với Bình, tôi có ông chú làm Đại Tá trong Bình Xuyên, vì thế, tôi vào, được đề bạt đặc biệt. Tôi đã biết Bình, ngang tàng như Bình ở đấy rất hợp. Bình Xuyên là một đảng lớn. Sài Gòn, Chợ Lớn hầu như do toàn quyền kiểm soát của Bình Xuyên. Cảnh sát, công an đều do Bình Xuyên nắm giữ. Quân Đội Quốc Gia, không có một cá nhân nào, từ Tướng trở xuống dám ho he nói động đến Bình Xuyên. Nói động đến là “củ” liền. Riêng với Bình, tôi sẽ về nói với chú tôi trả cho Bình Thiếu Úy. Chúng ta là người Bắc, phải có “băng” với nhau. Khi Bình đã vào Bình Xuyên mang lon Thiếu Úy rồi, sẽ được phát cho một cái đầu hổ, dấu hiệu của đảng. Nghĩa vạch luôn trong ve áo cho tôi nhìn. Một cái đầu hổ bé tí, đường kính độ 2 phân, bằng đồng, sơn màu xanh xám, đúc rất sắc sảo; cái mồm há ngoác đỏ lòm, giơ mấy cái răng nanh trắng hếu. Nghĩa nói tiếp: - Bất cứ Bình căm tức, thù ghét thằng nào bên quân đội Quốc Gia, từ Đại Úy trở xuống, Bình cứ “nốc ao” nó tự do. Nếu thua Bình chỉ lật ve áo giơ dấu hiệu của đảng, sẽ có nhiều người chung quanh (người của đảng) xông vào đánh thằng đó chết tươi ngay. Còn nếu Bình cảm thấy không đủ sức đánh nó, hãy vờ rủ nó về gần cầu chữ “Y”, Bình rút súng ra cho nó một phát, rồi chạy sang bên kia cầu, sẽ bảo đảm an toàn. Nghe Nghĩa nói, và với cái nhìn thực tế của tôi lúc đó ở Sài Gòn, tôi thừa nhận lời Nghĩa nói có giá trị. Ngay trong bảng đá khắc tên những ân nhân tặng tiền xây bệnh viện Bình Dân, cũng thấy tên Lê Văn Viễn đứng đầu. Đâu đâu, người Sài Gòn, Chợ Lớn cũng nể sợ Bình Xuyên. Tướng, Tá của quân đội Quốc Gia cũng nể, bởi vì Bình Xuyên có đoàn ám sát cảm tử khát máu. Lúc đó, tôi chỉ là một thanh niên mới lớn, nhìn cuộc đời còn đầy ấu trĩ; hơn nữa, vì cái tính ngang tàng thích đấm đá, phải nói Bình Xuyên là đất dụng võ. Do đấy, tôi đồng ý ngay. Nghĩa rất hớn hở: - Thế còn mấy người bạn của Bình thì sao? Muốn có thời gian bàn thảo, trước khi quyết định, tôi nói: - Để em hỏi, chắc các bạn cũng thích như em. Nghĩa nói có việc bận một chút và bảo tôi nửa giờ nữa, ra gặp Nghĩa ở trước bệnh viện. Tuyển, Luân, và An khi biết sự việc đã mừng quýnh, trước hết giải quyết cái dạ dầy đã. Thế là cả 4 tên đều đồng ý lát nữa ra gặp Nghĩa. Khi gặp Nghĩa, 3 cậu khi cũng cứ rối rít anh anh, em em coi như đây là một cơ hội ngàn năm đổi hướng cuộc đời. Theo hẹn ước, 8 giờ sáng hôm sau, Nghĩa sẽ đem xe tới đón. Ngày và đêm hôm đó, chúng tôi bàn tán ồn ào. Lòng tôi cũng hân hoan phấn chấn, cho nên, tôi vờ vào nhà cầu. Khi ra, tôi đưa ra một tờ 200 đồng, mặt dầu dầu tình cảm: - Tao chỉ còn duy nhất 200 đồng này, tao định cất kỹ phòng hờ. Vậy, chúng ta phải ăn dè, tối nay 50 đồng, sáng mai 50 đồng, còn 100 đồng thì đưa cho thằng Luân, ở lại trên này, giữ 2 cái va li: một của tao, và một của 3 chúng mày. Quay lại phía thằng Luân, tôi căn dặn: - Chúng ta chưa biết rõ Bình Xuyên thế nào, vậy cứ xuống người không đã. Nếu có gì không thích, chuồn ra dễ dàng hơn; còn nếu thấy “hẩu”, ba bốn ngày sau, chúng tao sẽ ra đón mày vào. Tôi bàn như vậy, chúng nó thấy hợp lý nên đồng ý ngay, Vả lại, từ ít lâu nay chúng nó vẫn thường nghe theo ý kiến của tôi. Sáng hôm sau, mãi 8 giờ Nghĩa mới lái xe “díp” đến, theo sau là một xe dodge 4, do một Trung sĩ lái. Khi chỉ thấy có 3 chúng tôi, Nghĩa nhìn tôi hỏi ngay: - Còn anh kia nữa đâu? Đã dự trù trước nên tôi tình cảm: - Anh Nghĩa à, lẽ ra 4 chúng em cùng đi một lượt, nhưng vì còn 3 người bạn nữa ở Hà Nội sắp tới, chúng em để Luân ở lại chờ, đón rồi cùng vào luôn. Nhìn thấy tôi vẻ hoan hỉ, Nghĩa cũng tin tưởng, nên y gật đầu: - Được! Từ hôm qua tới nay, tôi đã hiểu Nghĩa lên các trại đón tiếp đồng bào di cư, để dụ dỗ người vào Bình Xuyên. Tùy theo tầng lớp và loại người, Nghĩa hứa hẹn nào phát ruộng, cho đi học, vào hãng xưởng làm việc, làm văn phòng, vào Bình Xuyên có nhiều quyền lợi v.v… Mục đích càng đón được nhiều người, càng tốt. Nhất là những gia đình, có vợ chồng con cái. Dân có đông, thế mới mạnh, lực mới lớn. Cùng lên xe dodge 4 với chúng tôi, có hai gia đình của mấy anh Địa Phương Quân, bồng bế cả vợ con. Nghĩa đặt tay lên vai tôi: - Bình và các anh em về trước, tôi bận chút việc, sẽ về sau. Xe dodge chuyển bánh, chúng tôi chưa hề biết gì về chung quanh Sài Gòn. Nhất là vùng Bình Xuyên, và ngay cả hai tiếng “Bình Xuyên” cũng đầu tiên trong cuộc đời nghe thấy. Chúng tôi thấy xe chạy vòng vèo mãi. Khi xe qua một chiếc cầu, mà sau này tôi biết là cầu chữ “Y”. Tôi thấy ngay giữa cầu, một chòi gác rất xinh xắn, một Quân Cảnh cũng giầy, ghệt, găng tay, mũ sắt trắng, nhấc cây chặn đường xe qua. Xe đi qua một khu phà lớn gồm nhiều phố xá với cái cổng to mang 3 chữ lớn: “TỔNG HÀNH DINH”. Nhìn thoáng bên trong, cũng cột cờ, lính tráng đi lại. Hai khẩu đại bác 105 ly còn mới toanh, với hàng dẫy xe GMC. Tôi có cảm nghĩ, như thế này có khác gì quân đội Quốc Gia! Xe đi qua khu Tổng Hành Dinh, rồi đi mãi qua một số phố xá, đến khu ruộng đồng. Tới chỗ có mấy căn nhà to, có hàng rào giây thép gai, có lính gác, xe đi tuột vào trong. Chúng tôi xuống xe. Mấy gia đình, hòm xiểng chăn màn, bồng bế nhau vào ngồi một chỗ, còn chúng tôi đi lang thang trong sân chờ Nghĩa về. Điều đầu tiên làm cho tôi suy nghĩ mãi, là ở giữa sân có hai cột cờ cao, sơn trắng với hai lá cờ đang tung bay phất phới: Một lá cờ ba sọc Quốc Gia, còn lá cờ kia là cờ đỏ sao vàng. Chỉ khác với cờ Việt cộng là có một nền vuông mầu canh bọc chung quanh ngôi sao. Tại sao cờ Bình Xuyên lại như vậy? Tôi băn khoăn và muốn tìm hiểu. Tôi lân la làm quen với một anh lính nhỏ. Được biết anh là liên lạc của Trung úy Tư, Trưởng đồn, người miền Nam, và Trung úy Nghĩa là phó. Anh có tên là “Ba Nhỏ”. Qua một số chuyện trò, Ba Nhỏ rất thích chúng tôi. Anh tỏ vẻ hiểu biết, chỉ ra phía cột cờ: - Mới cách đây mươi bữa, ở chỗ đó xử tử hai tên do thám của Hòa Hảo! Tôi mở to mắt ngạc nhiên. Anh nói tiếp như chứng minh: - Ở đây, bắn chết người là thường! Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những điều Ba Nhỏ nói chuyện đã làm cho tôi suy nghĩ không ít. Gần trưa cũng không thấy Nghĩa về. Một người lính ra gọi chúng tôi vào một ngôi nhà lớn. Trong nhà rộng thênh thang, những tranh ảnh treo chung quanh tường, chứng tỏ là một nơi huấn luyện quân đội. Mãi trong cùng, nơi một số bàn làm việc, có một Trung úy, một Chuẩn úy và một Trung sĩ. Tên Trung úy hỏi tên chúng tôi. Sau khi biết chúng tôi là người của Nghĩa, chờ Nghĩa về giải quyết, y chỉ ghi tên chúng tôi để làm sổ ăn. Cuối cùng, một tên Trung sĩ ra hiệu: - Bây giờ các anh ra ngoài chờ. Trung úy Nghĩa có thể chiều mới về. 12 giờ trưa các anh ra Câu Lạc Bộ Sĩ Quan ăn cơm. Chúng tôi ra sân, mắt nhìn nhau đều sáng lên, nhất là Tuyển và An. Hai cậu được giải quyết ngay cái khâu dạ dầy, mà lại ở Câu Lạc Bộ Sĩ Quan cơ. Đúng trưa, theo Ba Nhỏ chỉ, chúng tôi đến Câu Lạc Bộ ở gần mé sông. Câu Lạc Bộ gì mà làm tôi ngạc nhiên. Một cái nhà lá dài, trống trơn, không vách, dọc theo ở giữa nhà là những tấm gỗ ghép lại thành một cái bàn dài. Một thúng cơm nhỏ để chỏn vỏn trên bàn, bên cạnh là một bát canh to đầy nước, trong có ba con cá mòi nhỏ, nấu muối. Tôi thử một tí nước tanh đến buồn nôn. Cơm vàng lợt, nguội tanh, có mấy vừng cơm nhão như cháo đặc. Tôi không thể ăn nổi. An và Tuyển vì đói nên cố gắng ăn. Phần tôi, vì trong người vẫn còn tiền, hơn nữa, lúc lang thanh trong trại, tôi đã nhìn thấy nơi gia đình binh sĩ có một hàng cơm nhỏ, nấu ngon lành. Nên, tôi bảo An, Tuyển hãy thông cảm, tôi ra ăn mấy đồng cơm hàng. Buổi chiều cũng không gì hơn, Tuyển và An vẫn phải cố gắng nuốt, vì cơm còn khê nữa. Chúng tôi cứ lang thanh trong khu vực trại. Để xem thế nào, một lần, chúng tôi coi như không để ý, thả bước về phía cổng trại để ra đường. Một anh Trung sĩ chạy ra, lịch sự: - Các anh thông cảm, hãy đi vào trong. Khi làm giấy tờ xong tha hồ muốn đi đâu cũng được. Như vậy là chúng tôi coi như bị giam lỏng rồi. Mãi gần tối, Nghĩa mới về, chúng tôi tíu tít chạy lại đón ngay khi xe díp vào sân, còn chưa tắt máy. Nghĩa cũng tỏ ra rất hưng phấn, tươi tỉnh. Nghĩa cũng hiểu rằng, tuy chúng tôi nhỏ tuổi, nhưng là người đang đi học, có ít nhiều hiểu biết, và cũng ngang tàng bạt mạng. Vậy, nếu thu phục được chúng tôi, cũng có nhiều điều lợi. Nghĩa nói là bận lắm, dù vậy tối nay Nghĩa sẽ xuống ngủ với chúng tôi, để gọi là anh em hàn huyên tình nghĩa. Chúng tôi được dẫn vào một căn nhà lớn khác. Trong trại, có hai căn nhà to. Theo Ba Nhỏ, đây là hai cái kho của tụi Nhật ngày trước. Căn nhà chúng tôi ở có 4 dẫy sàn rộng thênh thang. Ở mỗi góc, lèo tèo dăm gia đình, hoặc là Địa phương quân hay nông dân miền Bắc. Vì biết có Trung úy Nghĩa xuống ngủ, nên mấy tên lính chuẩn bị quét dọn phía đàng góc này, rồi trải chiếu v.v… Trời đã tối, mãi 8 giờ Nghĩa mới xuống. Tên Ba Nhỏ vì thấy vui cũng xuống nằm. Nghĩa huênh hoang chuyện trò cò vẻ rất tự mãn về mình, chúng tôi cũng đẩy đưa câu chuyện cho qua. Tôi hiểu, hiện nay đồng bào di cư đang vào nhiều, Nghĩa có trách nhiệm mời đón, càng được nhiều, uy tín càng lớn.Trong lúc Nghĩa nói chuyện, thỉnh thoảng trên mái ngói cao tít, tiếng một con cắc kè rống vang lên trong căn nhà rộng, làm cho câu chuyện cũng ngập ngừng. Một ngọn đèn 60 watts treo lủng lẳng ở giữa, toàn căn nhà vẫn tối om, chỉ có một đốm sáng lửng lơ là ngọn đèn. Vì thế, nghe tiếng cắc kè kêu, chúng tôi đều cảm thấy hoang vắng gợi sầu. Tỏ vẻ bực bội, Nghĩa sai tên Ba Nhỏ lên phòng cầm cho y cái đèn “pin”. Một lúc sau Ba Nhỏ cầm đèn pin về. Chờ lúc cắc kè kêu, Nghĩa chiếu lên mái, nó nằm chếch ở một cái xà gỗ. Nghĩa đưa đèn cho tôi rọi, rồi rút khẩu súng ngắn ở bên hông, lên đạn. Mọi ngưòi đều đứng hết cả dậy hồi hộp theo dõi. Một tiếng nổ chát chúa vang ngân lên trong đêm khuya, làm giật mình mọi người. Đạn chả trúng cắc kè, nhưng làm tung ra mấy viên ngói, rơi xuống sàn gỗ rào rào. Từ đấy, chú cắc kè cũng im bặt; nhưng Nghĩa thì tỏ ra nghênh ngang, truớc sự thán phục của Tuyển, An và Ba Nhỏ. Đối với tôi, nhìn việc này, tôi thấy đây là một việc làm hỗn độn, chỉ có trong một cái đảng lộn xà ngầu. Sáng hôm sau, 8 giờ, một tiểu đội bồng súng, một Thiếu úy người Bắc hô chào cờ. Có cả Nghĩa và chúng tôi. Hai người lính đếu trong nghiêm kéo hai lá cờ lên. Tên Thiếu úy vừa hô nghỉ xong, chưa kịp hô giải tán, Nghĩa đã tiến đến người Thiếu úy: - Yêu cầu Thiếu úy đưa trả cái “permission” cho tôi! Người Thiếu úy trẻ, nhưng thấp hơn Nghĩa, quay lại: - Tôi đã nói với anh là “permission” do Đại tá cấp cho tôi. Chỉ Đại tá mới có quyền thu lại. Nghĩa chỉ tay vào mặt người Thiếu úy, sừng sộ: - Anh có đưa “permission” cho tôi không? Người Thiếu úy, mặt tím bầm lại, hai hàm bạnh ra gằn giọng: - Nghĩa à, mày đừng lên chân, vì trên vai mày có hai vạch… Mắt long lên sòng sọc. Nghĩa cởi phăng ngay áo ra, phô bộ ngực và cánh tay nở nang, quay lại quẳng chiếc áo về phía tôi, lẹ tay tôi bắt lấy. Nghĩa đi đến gần người Thiếu úy, chỉ tay: - Khánh! Một, mày có đưa không? Hai, mày có đưa không? Khánh liếc nhìn chung quanh, 12 người lính và chúng tôi, rồi nhìn Nghĩa, nghiến răng lắc đầu: - Không thể… Y mới nói được hai tiếng “không thể” thì “bốp”, một cái “crochet” ghim ngay vào quai hàm. Tôi chỉ thấy Khánh đưa một tay lên bịt miệng, rồi đổ nằm dài xuống sân cát. Nghĩa rút khẩu súng ngắn đeo bên hông ra, lên đạn, chĩa vào Khánh đang nằm im lìm giữa sân. Y đi chung quanh, môi bậm lại. Trước những con mắt mở to của 12 người lính và 3 chúng tôi, chừng 3 phút sau, Khánh từ tứ bò dậy, mở tay ra, máu đầy tay, chảy dài đỏ thắm chiếc áo lính. Y quay lại Nghĩa, nói trong tiếng gầm gừ: - Nghĩa à, đời còn dài!... Rồi cứ để máu chảy như vậy, chậm chạp y đi ra khỏi cổng. Nghĩa đến tôi lấy áo, rồi quay lại phía 12 người lính hô: “Giải tán!”. Nghĩa đi về phía văn phòng trước cái mồm còn há hốc của An. Sau đó, qua Ba Nhỏ tôi được biết: Khi hội nghị Genève ký kết, Khánh đang học dở lớp sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức. Khánh cùng một số sinh viên sĩ quan khác đã trốn ra khỏi trường khi đất nước chia đôi. Rồi thì, tình hình biến đổi, Khánh muốn trở lại trường sợ sẽ bị ghép vào tội đào ngũ. Giữa lúc lông bông trên các ngả đời, thì Khánh gặp Nghĩa, quen cũ từ Hà Nội. Trước đây Khánh vẫn khinh Nghĩa là thằng vô học, nhưng bây giờ, cờ đến tay Nghĩa, Khánh đành theo lời hứa hẹn của Nghĩa về Bình Xuyên làm Thiếu úy. Được Đại tá cấp cho một giấy phép đi về giữa Sài Gòn và Bình Xuyên. Khánh từ đó, đi về thả cửa không cần có ý kiến của Nghĩa nữa. Nghĩa tức, muốn thu lại giấy phép nhiều lần, nhưng Khánh nhất định không đưa. Cái điều chính yếu là Khánh, ngưòi có học, cứ nhìn Nghĩa bằng con mắt coi thường người kém học. Nghĩa thì đã mặc cảm từ trước, nên thường hậm hực nhau. Với tôi, đó cũng là một sự việc nữa đã nói rõ về Bình Xuyên. Giai đoạn này, trong khu vực BX, thì tất cả mọi người từ lính tới quan, tới dân chúng, mỗi khi nói tới Lê Văn Viễn, đều kêu là “Ngài”: “Ngài đã đi Pháp rồi!”, “Ngài đã ký lệnh rồi!”, v.v… Được biết. Ở đây thanh toán nhau là chuyện cơm bữa. Mạng người ở BX chẳng có giá trị gì. Chính ngay buổi chiều ấy, Nghĩa đã nói thẳng với tôi, khi thấy tôi lửng lơ không chịu đưa giấy tờ để làm thủ tục: - Các anh có tài, chúng tôi rất hoan nghênh và rất cần sự góp sức góp tài của các anh. Ngược lại, các anh lừng khừng ương ngạnh, bắn bỏ ngay, chúng tôi ở đây không thiếu đạn. Khi ấy, phần còn ít tuổi, phần khác tôi đã hiểu gì rõ ràng về đất nước đâu, cho nên tôi có ý niệm: Một thanh niên, nếu có lý tưởng với quê hương, dân tộc, vào bưng biền theo Việt Minh; nếu chỉ vì tiền tài và danh vọng, hãy vào lính Quốc Gia. Còn dứt khoát, không thể ở với Bình Xuyên, tôn thờ cá nhân của Lê Văn Viễn, của một đạo quân hổ lốn, coi mạng người rẻ như bèo. Tôi quyết tâm, dù Tuyển và An vừa dỗ dành vừa đe dọa tôi: - Thôi, anh em mình đã vào đây, chúng tao cũng vì theo mày. Bây giờ chúng tao đã đưa giấy tờ rồi, mày hãy ở lại cho có anh có em. - Đó, mày thấy anh Nghĩa đấy, mày mà để anh ấy ghét thì thật là nguy hiểm. Chúng tao cũng chẳng vui gì….. Chúng nó đã đưa hết giấy tờ cho Nghĩa rồi. Phần tôi, tôi nói giấy tờ để trong va li, vài ngày nữa, tôi sang Sài Gòn đón Luân sẽ đưa sau. Ba, bốn ngày sau, một buổi chiều, bỗng một chiếc GMC đi vào sân trại, chở theo đầy xe người lố nhố người lớn trẻ con. Chúng tôi chạy ra nhìn lên, thấy thằng chó chết Luân với cả hai chiếc va li. Tên Nghĩa đi xe díp theo sau, chỉ tay bảo Luân đưa va li của tôi xuống, rồi y ra hiệu cho tôi mở ra lấy giấy tờ. Quá bất ngờ, lúng túng, tôi đành phải mở va li. Tơi cứ vờ lục lọi tìm kiếm trước con mắt lừ đừ của Nghĩa. Một lúc, tôi quay lại hỏi to Luân: - Trên đó, mày có mở va li của tao không? Sao không thấy giấy tờ của tao? Thấy thái độ của tôi như vậy, Nghĩa nghiêm giọng: - Tôi rất quý Bình, nhưng với điều kiện là Bình phải nghe lời tôi. Tôi cho Bình đến sáng mai 8 giờ, nếu không có giấy tờ cho tôi, lúc đó đừng trách gì tôi cả! Tôi xách va li vào trong nhà về chỗ nghỉ, lòng ngập đầy giận uất thằng Luân. Hỏi nó, nó bảo: - Nghĩa nói là chúng mày bảo đưa va li vào. Tao biết gì! Chính tôi đã dặn nó, khi nào tôi lên đón nó mới đi. Nhưng thôi, trách nó làm gì. Tối hôm đó, tôi thật lo lắng. Cả 3 đứa đều khuyên tôi, đã trót thế này thì cứ đưa giấy tờ, rồi tính sau. Tôi nghĩ, không đơn giản như vậy. Đưa giấy tờ, nghĩa là tôi đã đồng ý gia nhập đảng Bình Xuyên. Hôm trước, Nghĩa đã nói thẳng là đã vào đây rồi, chỉ có cách duy nhất là phục tùng gia nhập, sẽ có mọi quyền lợi. Muốn ra bây giờ, không được nữa, vì đã biết nhiều chuyện của họ. Nó cũng đã nói thẳng, đã bao nhiêu thằng vào đây rồi trốn, đều không thoát. Rồi nó trừng mắt, khoa tay trước chúng tôi: - Nếu muốn trốn, hãy nhớ kỹ, đừng ở Việt Nam, dù ở đâu Bình Xuyên cũng tìm ra. Có trốn ra ngoại quốc, thì đừng đến nước Pháp, ở Pháp BX cũng tìm ra thanh toán. Mấy ngày trước, tôi đã lân la nói chuyện với 4 người lính gác bốn góc trại. Có người nói bên kia con sông này là Chợ Lớn; nửa tháng trước đây có bắn chết một người, đang đêm bơi qua sông để trốn sang Chợ Lớn. Dù bao nhiêu đe dọa, tôi vẫn nâng cao quyết tâm. Trong mấy ngày lang thang trong trại, tôi đã mò mẫm và tìm hiểu được về đảng BX này như sau: Xuất thân là một đảng cướp, chuyên môn bắt cóc tống tiền những ngưòi có máu mặt, và cũng biết ve vãn chính quyền cai trị. Nhờ thời thế và khả năng khôn ngoan, dưới thời Pháp thuộc, Viễn đã có hàng trung đoàn quân sĩ tay chân trong địa thế sâu hiểm Rừng Sát. Pháp không thể tiêu diệt được, đành chiêu hồi và chịu điều kiện là Viễn vẫn cứ ở cứ khu BX và Rừng Sát. Nhật đảo chính Pháp, cũng chưa hoặc không đủ thời gian để tiêu diệt BX, nên vẫn chấp nhận để BX ở cứ khu cũ. Nhưng tới Việt Minh, con hổ mang bành Hồ Chí Minh núp sau chiêu bài: Độc Lập, Hạnh Phúc, Tự Đo, Cách Mạng, Nhân Dân, Tổ Quốc, v.v…những danh từ mới lạ đó có sức hấp dẫn cuốn hút mọi người, nên đã lôi cuốn được Viễn. Viễn lúc đó trong tay có gần 2 trung đoàn với vũ khí đầy đủ, đã đi theo tiếng gọi cứu nước của cái gọi là “chính quyền cách mạng” để chống Pháp. Với Cộng Sản thì trước sau tất cả mọi đảng phái, tổ chức cũng như cá nhân phi Cộng Sản, dần dần chúng đều tiêu diệt; nhưng, với âm mưu thủ đoạn tinh vi, lúc nào trước tiên Cộng Sản cũng ve vãn mồi chài liên kết, hoặc cô lập kẻ thù “phụ” để diệt kẻ thù “chính”, sau đó, dần dần lần lượt mới hỏi đến các chú ngu xuẩn là kẻ thù…”phụ”. Trong giai đoạn liên kết, Cộng Sản ca tụng hết lời, hứa hẹn cam kết mọi vấn đề. - Nghĩa nói là chúng mày bảo đưa va li vào. Tao biết gì! Chính tôi đã dặn nó, khi nào tôi lên đón nó mới đi. Nhưng thôi, trách nó làm gì. Tối hôm đó, tôi thật lo lắng. Cả 3 đứa đều khuyên tôi, đã trót thế này thì cứ đưa giấy tờ, rồi tính sau. Tôi nghĩ, không đơn giản như vậy. Đưa giấy tờ, nghĩa là tôi đã đồng ý gia nhập đảng Bình Xuyên. Hôm trước, Nghĩa đã nói thẳng là đã vào đây rồi, chỉ có cách duy nhất là phục tùng gia nhập, sẽ có mọi quyền lợi. Muốn ra bây giờ, không được nữa, vì đã biết nhiều chuyện của họ. Nó cũng đã nói thẳng, đã bao nhiêu thằng vào đây rồi trốn, đều không thoát. Rồi nó trừng mắt, khoa tay trước chúng tôi: - Nếu muốn trốn, hãy nhớ kỹ, đừng ở Việt Nam, dù ở đâu Bình Xuyên cũng tìm ra. Có trốn ra ngoại quốc, thì đừng đến nước Pháp, ở Pháp BX cũng tìm ra thanh toán. Mấy ngày trước, tôi đã lân la nói chuyện với 4 người lính gác bốn góc trại. Có người nói bên kia con sông này là Chợ Lớn; nửa tháng trước đây có bắn chết một người, đang đêm bơi qua sông để trốn sang Chợ Lớn. Dù bao nhiêu đe dọa, tôi vẫn nâng cao quyết tâm. Trong mấy ngày lang thang trong trại, tôi đã mò mẫm và tìm hiểu được về đảng BX này như sau: Xuất thân là một đảng cướp, chuyên môn bắt cóc tống tiền những ngưòi có máu mặt, và cũng biết ve vãn chính quyền cai trị. Nhờ thời thế và khả năng khôn ngoan, dưới thời Pháp thuộc, Viễn đã có hàng trung đoàn quân sĩ tay chân trong địa thế sâu hiểm Rừng Sát. Pháp không thể tiêu diệt được, đành chiêu hồi và chịu điều kiện là Viễn vẫn cứ ở cứ khu BX và Rừng Sát. Nhật đảo chính Pháp, cũng chưa hoặc không đủ thời gian để tiêu diệt BX, nên vẫn chấp nhận để BX ở cứ khu cũ. Nhưng tới Việt Minh, con hổ mang bành Hồ Chí Minh núp sau chiêu bài: Độc Lập, Hạnh Phúc, Tự Đo, Cách Mạng, Nhân Dân, Tổ Quốc, v.v…những danh từ mới lạ đó có sức hấp dẫn cuốn hút mọi người, nên đã lôi cuốn được Viễn. Viễn lúc đó trong tay có gần 2 trung đoàn với vũ khí đầy đủ, đã đi theo tiếng gọi cứu nước của cái gọi là “chính quyền cách mạng” để chống Pháp. Với Cộng Sản thì trước sau tất cả mọi đảng phái, tổ chức cũng như cá nhân phi Cộng Sản, dần dần chúng đều tiêu diệt; nhưng, với âm mưu thủ đoạn tinh vi, lúc nào trước tiên Cộng Sản cũng ve vãn mồi chài liên kết, hoặc cô lập kẻ thù “phụ” để diệt kẻ thù “chính”, sau đó, dần dần lần lượt mới hỏi đến các chú ngu xuẩn là kẻ thù…”phụ”. Trong giai đoạn liên kết, Cộng Sản ca tụng hết lời, hứa hẹn cam kết mọi vấn đề. Nếu Viễn tỉnh táo, tự hỏi mình có thể trở thành một tên Cộng Sản được hay không? Dù cho Viễn lúc đó có quyết tâm bằng mọi giá để nhập hàng ngũ Cộng Sản, theo nguyên tắc của Cộng Sản, chúng cũng không bao giờ tin. Chúng không bao giờ tin dùng một ai, nếu người đó không do chính chúng đào tạo khi cón tay trắng, chưa có một việc làm nào ngược lại với chúng, chưa được hưởng những thú ăn chơi nhàn hạ của xã hội tư bản, v.v… Nói cho cùng, trách Viễn cũng là trách oan, vì cho tới ngày nay, sau gần 40 năm, vẫn còn đầy rẫy những đảng phái, tổ chức, cá nhân, những học giả uyên thâm, những nhà tu lỗi lạc,…Thậm chí, ngay những quân nhân Tướng, Tá đã từng vào sinh ra tử, hàng chục năm cầm súng chống cộng, mà vẫn còn mơ hồ với Cộng Sản nữa là Viễn thời đó. Cộng sản khi ấy thổi Bình Xuyên lên tận mây xanh. Chú bé con bị người lớn xui ăn cứt gà đã đem hết khả năng, xông pha nơi hòn đạn mũi tên đánh Pháp để lập công. Khoảng 1946-47, Cộng Sản có bài hát thổi Bình Xuyên: “Bình Xuyên, … Bình Xuyên oai hùng muôn năm!...” Nhưng, có thể lúc đó kinh nghiệm lãnh đạo của Cộng Sản chưa được tinh vi lắm, nên đã để tình huống gây ra một vấn đề. Vào thời đó, trong Nam và Trung có hai đơn vị nổi tiếng với những chiến công đánh Pháp là đơn vị của tướng Nguyễn Bình và của tướng Viễn. Lúc đó, Cộng Sản chỉ có Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà chưa có Trung tướng. Để khích lệ và dụ dỗ, tuy không tuyên bố, nhưng Cộng Sản vẫn ngầm để cho Bình và Viễn hiểu mình sẽ là Trung tướng với điều kiện, phải có những chiến công diệt Pháp ai hơn ai. Với đầu óc và bản chất là một tên tướng cướp, lại luôn có một ám sát đoàn rành nghề. Có thể theo suy lý của Viễn, Viễn cho rằng, sở dĩ Bình lập được nhiều chiến công chống Pháp là vì dưới tay có nhiều người tài. Vậy, không gì bằng, một mặt vẫn công đồn, hoặc phục kích để đánh Pháp, mặt khác hoàn toàn bí mật, cứ tìm những ngưòi tài ba dưới quyền của Bình để thủ tiêu. Giai đoạn này, bên phía Bình, hết ông tiểu đoàn Trưởng này mất tích, lại đến ông Tham Mưu phó kia biến mất; tình báo lắm mới phát hiện xác đã rữa thối trong rừng. Những chiến sĩ thủ túc của những người bị mất tích dần dần đã hiểu chính Bình Xuyên là thủ phạm. Họ căm phẫn tột độ. Đã có một số chứng cớ cụ thể, Bình cũng vô cùng căm phẫn, đã bí mật báo cáo với trung ương. Chúng ta đã biết, Bình là con ruột của Cộng Sản, trong khi Viễn chỉ là loại kẻ thù “phụ”, nhưng giai đoạn đó, Hồ già và trung ương cũng đang điên đầu với Pháp và nhiều vấn đề nội bộ cũng như ngoại giao khác; nếu giải quyết vấn đề này, vừa mất đi một lực lượng chống Pháp, lại còn mất thêm một lực lượng đi đánh Bình Xuyên, cho nên Hồ già rất lúng túng, cứ khất lần hòng tìm ra phương kế tốt hơn. Trong khi đó, tình trạng những cán bộ tài năng dưới quyền Bình bị mất tích cứ tiếp diễn. Những chiến sĩ dưới quyền Bình bị mất tích cứ tiếp diễn. Những chiến sĩ dưới quyền Bình không thể chịu đựng được sự chờ đợi mãi trung ương giải quyết nữa. Họ đòi phải trả thù, nếu không, họ không chịu đi chiến đấu. Trước lòng sục sôi hận thù của các chiến sĩ, Bình dù là người nghiêm túc chấp hành trung ương, trong lòng cũng bầm gan tím ruột. Nên, một đêm âm u tịch mịch, trời không trăng sao, chính Viễn và hầu hết quân lính duới quyền Viễn cũng không thể ngờ, đơn vị của Bình đã bất ngờ công kích một trận với ngọn lửa sục sôi, đã diệt sạch đơn vị của Viễn. Viễn chỉ còn hơn 100 tàn quân, vượt bao nhiêu cửa thần sầu chạy thoát thân. Không còn đường thứ hai, Viễn chỉ còn con đường duy nhất là trở về đầu Pháp. Pháp đã hiểu, và cũng cần, vì thế lại cho Viễn về cứ điểm Rừng Sát và Bình Xuyên. Sau đó, Bình trở thành Trung tướng. Chuyến này, kẻ tử thù của Viễn là Bình. Nhưng, trước hết Viễn phải gây dựng lại cơ đồ, sau mới tính giải quyết mối thù bất cộng đái thiên. Nhưng may thay, Nguyễn Bình đã bị giết bí mật trên đường trở về Hà Nội theo lệnh của Hồ Chí Minh. Cũng từ đó, ngọn lửa hận thù của Viễn mới nhỏ dần, và Viễn quay ra “cũng” làm chính trị, nhưng là chính trị kinh tế xôi thịt, mà chúng ta đã thấy… Một vài ngưòi lính có lần nói với tôi: - Trong Rừng Sát hiện nay (1954), đôi khi chúng tôi đi hành quân, gặp Cộng Sản là thường. Nhưng, hai bên mặc kệ nhau, không xâm phạm đến nhau. Như đã trình bầy về lá cờ ở trên, cái hình vuông mầu xanh là để chỉ sự việc rời trong rừng ra. Cũng qua lá cờ, ta thấy tên Viễn từ trong đáy lòng y hãy còn mơ tưởng già Hồ là chính nghĩa. Xin trở lại vấn đề của tôi và Nghĩa. Đêm hôm đó, lòng tôi đầy lo lắng, nên giấc ngủ cũng không yên. 8 giờ sáng ngày hôm sau, sẽ là giờ hẹn cuối cùng của Nghĩa ra cho tôi. Cả đêm suy nghĩ mà vô kế khả thi, đành để sáng mai, ra sao thì ra, trong khi các bạn chỉ muốn tôi ở lại. Mãi 7 giờ sáng hôm sau, tôi mới dậy, lấy khăn mặt và thuốc đánh răng ra mé sông rửa mặt như mọi sáng. Vì rửa mặt nên tôi cởi đồng hồ tay bỏ lại va li. Tôi đang rửa mặt, lúc đó khoảng 7 giờ 30, một chiếc GMC từ ngoài cổng vào đỗ ở sân. Một người ra hô gọi tất cả mọi người mới vào đi lên Tổng Hành Dinh để trình diện và khám sức khỏe. Tôi không còn kịp cất khăn mặt và bàn chải, bèn đút luôn vào túi quần, rồi trèo lên xe vì Tuyển, Luân và An đang ở trên xe gọi, vời rối rít. Xe đến Tổng Hành Dinh. Mọi người ngồi chờ đông chật một cái phòng rộng, lần lượt đợi khám. Tôi lửng lơ ra chỗ chuồng hổ, xem con hổ đang ăn. Cùng đứng xem với tôi có một anh tên là Hiệu, nghe anh nói chuyện. Anh cũng ở trường sĩ quan Thủ Đức trốn ra, nghe theo Nghĩa vào BX, nhưng bây giờ, anh không muốn nữa. Thấy thời cơ có thể, tôi nháy anh Hiệu theo tôi, lững lờ lân la ra phía cổng. Ở cổng có một người lính gác, nhưng đứng trong chòi, phía sau không nhìn thấy y. Tôi nhìn trước sau, chưa biết tính kế gì đi ra, sợ nó hỏi giấy. Còn đứng lớ ngớ ngoài này, bất ngờ mà Nghĩa ở trong phòng ra nhìn thấy, Nghĩa sẽ biết ngay là chúng tôi định chuồn. Lúc ấy, chưa biết chuyện gì sẽ xẩy ra. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nan, tôi chợt thấy ngoài cổng, phía bên kia đường có một hàng bán mía và mấy lọ kẹo, tôi rút túi lấy ra 5 đồng đưa cho Hiệu (Hiệu chả có đồng bạc nào), nói to cốt để người lính gác nghe thấy: - Này, từ sáng chưa ăn, đói quá, cậu chạy ra hàng mua hai tấm mía đi! Hiệu cầm tiền chạy ra (có ý với tên lính gác là còn một người nữa trong này, nếu nó nghi ngờ, hỏi giấy), chọn một tấm. Khi Hiệu cầm tấm thứ hai, tôi nói to, vọng sang bên kia đường: - Lấy tấm kia cơ mà!… Tôi cứ bảo “tấm kia, tấm kia!”, hai bên nói ra, nói vào, tên lính gác ở giữa. Cuối cùng, tôi vừa chạy ra vừa nói: - Cóc khô, lấy tấm này!… Khi tôi ra đến hàng mía, hai thằng mắt la mày lém, liếc ngang, liếc dọc, vừa lúc đó may sao một chiếc xích lô máy chạy tới đổ một người khách ở chéo một góc. Liếc nhìn về phía chòi gác, người lính thờ ơ, đang nhìn đi đâu, chúng tôi chạy ngay đến chỗ bác xích lô máy: - Chạy sang Chợ Lớn! Bác quay lại: - Mười đồng! Tôi nói trả bác 15 đồng, với điều kiện bác chạy thật nhanh và chạy về phía dưới, nghĩa là trở lại phía trại của tôi, bởi vì phía cầu chữ “Y” xe nào ra cũng bị hỏi giấy tờ, đó là Tổng Hành Dinh. Xe chạy bụi mù, lại không có mui, tôi cứ phải vờ lấy khăn mặt lau mắt để che mặt, sợ bất ngờ gặp tên lính quen, nhất là lúc xe qua trại cũ, anh lính gác thế nào cũng biết mặt. Tôi cứ kêu bụi quá, cúi gầm xuống, lấy khăn mặt ngoáy lỗ tai để che phía bên. Xe chạy qua, thoát nạn! Qua sông là ổn rồi, mới thấy tiếc cái va li, cái đồng hồ, nhất là bao nhiêu tấm ảnh kỷ niệm, cả phim từ hồi bé ở Hà Nội. Nhưng chọn giữa cuộc đời ở lại u tối và các thứ đó, đành phải xa lìa chúng. Xe sang tới Chợ Lớn, Hiệu cảm ơn và chia tay với tôi. Tôi vào ngay tiệm phở chén một bát. Bây giờ tay không, chả biết đi đâu, chẳng một ai quen biết. Lang thangmãi gần tối, Sài Gòn rộng bao la, nhưng tôi chả có chỗ nào dung thân. Tôi lại nghĩ đến bệnh viện Bình Dân, nơi đó đông đúc đầy người, tối cứ vể đấy ngủ, ban ngày sẽ chuốn nơi khác. Tối hôm đó tôi về bệnh viện Bình Dân thực, vì chẳng còn chỗ nào để đi. Tôi vào mãi phía trong, lại gặp một số thanh niên và đồng bào đang bàn tán, ngày mai họ vào Bình Xuyên. Từ chuyện mình vừa trải qua, tôi nghĩ đến các thanh niên khác, không thể để họ chôn vùi vào một nơi đen xấu như vậy, cho nên tôi nói thẳng cho họ biết là tôi vừa ở Bình Xuyên trốn ra, mất hết cả va li quần áo, v.v… Ai nghe cũng sợ hết hồn, anh nào cũng lắc đầu lè lưỡi, cảm ơn tôi. Được hai ngày không có gì xảy ra, tôi bắt đầu chủ quan. Mọi khi dậy là đi sớm, tối 9 giờ mới mò về. Tôi cũng tin vào mắt mình, nếu thoáng thấy Nghĩa là tôi lủi vội. Sáng hôm nay, tôi dậy muộn, cũng nằm gần mấy anh bạn mới. Mải chuyện vui với mấy anh, đột nhiên, tôi nhìn thấy trước mắt mình (lúc đó, tôi đang ngồi dựa tường, nhìn xuống nền, giữa hành lang đầy người) một đôi giầy đen bóng loáng, đôi ống quần vàng ka ki Mỹ là thẳng tắp. Tôi từ từ nhìn lên, tim tôi bóp lại; Nghĩa! Nghĩa đang đứng chống hai tay cạnh sườn nhìn tôi bằng đôi mắt lạnh băng. Tôi liếc sang mấy anh bạn mới, họ đều lủi mất, chắc họ cũng biết ngay đấy là Nghĩa. Tôi đứng bật dậy, tỏ vẻ mừng rỡ, một tay cho vào túi quần sau như lấy ví: - À, anh Nghĩa! May quá, em cứ sợ không có giấy tờ đưa cho anh, anh sẽ giận, em nhớ là đã gửi một người bạn, nên phải lên đây lấy. Em đã lấy được rồi. Bây giờ, anh cho em về dưới đấy với. Nghĩa cứ lừ lừ nhìn tôi, không nói một lời. Một lúc, Nghĩa nhìn ra phía ngưòi cảnh sát đang gác như định gọi vào để bắt tôi (cảnh sát cũng của Bình Xuyên). Tôi vội nói: - Không cần thiết anh Nghĩa à! Chính em thích Bình Xuyên lắm. Nhất là gần anh, bây giờ em đi theo anh về ngay mà. Y nhìn tôi một lúc, rồi ra ý bảo tôi đi trước, y theo sát ngay sau. Đành vậy! Khi gần ra tới cửa bệnh viện, tôi thấy từ trong một căn buồng chéo phía trước mặt tôi đang đi tới, trên một chiếc ghế bố xanh, một cô gái chừng 20, 21 tuổi, có sắc đẹp căng đầy, đang ngồi chải, hong mái tóc đen huyền nhìn ra. Vô tình gặp mắt Nghĩa, cũng đang nhìn về phía cô, cô nàng cười. Nghĩa cũng toét miệng ra. Thôi thì trai anh hùng, gặp gái thuyền quyên! Bốn mắt nhìn nhau, hai lòng mở cửa. Thế là Nghĩa bảo tôi đứng đó chờ y một tí. Tôi cũng nháy mắt ra vẻ tán đồng. Nghĩa rẽ vào, tôi đứng cạnh đấy. Cô ả thấy Nghĩa vào, lại e thẹn cúi đầu, Nghĩa lại càng ngất ngây. Tôi thấy vẻ mặt Nghĩa đờ đẫn. Dịp may một thuở ngàn năm, thôi thì 36 chước, chước nào tối ưu? Tôi lủi lẹ! Như vậy, giai nhân ấy, vô tình đã cứu tôi một hướng đời! Từ đấy cho tới khi tôi phải lên tít trại định cư Hà Nội, Hố Nai Biên Hòa, chẳng bao giờ tôi dám bén mảng đến bệnh viện Bình Dân nữa. Mãi khi Bình Xuyên bị đập tan tành, tôi cũng không hiểu số phận Nghĩa ra sao, và các bạn tôi: Tuyển, Luân và An thế nào? Cho tới 1960, tình cờ tôi gặp lại An, bây giờ là cán bộ thẩm cung ở Bình Dương. An có nói, Nghĩa lên Đại úy, và sau vụ Bình Xuyên, Nghĩa bị mất tích, không biết sống chết thế nào. Còn Tuyển, hiện nay đang làm ở tòa báo VNTP. Tôi định đến thăm Tuyển nhưng chưa có dịp nào. …………. Riêng sau ngày tôi gặp Nghĩa ở Hỏa Lò, đến khi tôi phải đi các trại trung ương, tôi vẫn có ý thăm hỏi về Nghĩa. Mãi về sau, đến năm 1976, khi đó tôi ở trại trung ương số II Phong Quang, Yên Bái, tôi gặp hai thanh niên tội hình sự đã từng sống với Nghĩa gần 3 năm ở trại giam Vĩnh Quang. Theo họ nói, Đại Úy Nghĩa là một người lao động nổi tiếng khỏe nhất trại. Nghĩa thường gánh mỗi bên quang 40 viên gạch thô (gạch chưa nung), như vậy sức nặng thường từ 90 ký đến một tạ. (Chắc Nghĩa cũng bị cuốn hút vào sự thúc đẩy, khích lệ thi đua cải tạo là mê hồn trận của Cộng Sản). Vào năm 1972, Nghĩa bị ho lao, thỉnh thoảng cứ nôn ra máu, kiệt sức dần mà không có thuốc, không có gì bồi bổ, nên Nghĩa đã chết vào một đêm Đông mưa dầm gió Bấc, chấm dứt một kiếp đời xuôi ngược nổi trôi. |
|
|
![]()
Post
#35
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Hai
Phùng Văn Trí, đòn phép “phản gián”?… Kể từ ngày tôi lên gặp Nghĩa về, trời ngày càng lạnh hơn. Với một chiếc chiếu con, một chăn đơn, hai bộ quần áo vải sọc cũ, không một đêm nào tôi ngủ được. Cái sàn xi măng lạnh buốt như nước đá. Ngón chân ngón tay càng sưng buốt, nhức suốt đêm ngày. Chỉ ban ngày, mệt quá tôi mới thiếp đi được một lúc. Ngay hàng ngày đi ra đổ thùng, rửa mặt, tôi cũng không ra được nữa. Chân tôi không bước đi được. Mỗi lần bước xuống như có hàng chục cái kim cắm ngược vào chân. Lúc này, tôi nghĩ là mình sắp chết. Một đêm nào đó hay bất cứ lúc nào đó, tôi sẽ nằm luôn, và không còn biết một chuyện gì về cuộc đời này nữa. Tôi vẫn không sợ chết, trong cảnh đau đớn như thế này tôi cũng mong tử thần đến với tôi càng sớm càng hay, vì chết là hết mọi đớn đau, chết là giải thoát mọi cực hình của một kiếp tù cùng khổ. Suốt ngày đêm, lúc nào tôi cũng nghĩ đến những người đã chết. Từ những ngưòi thân thuộc như ông tôi, bà tôi, bác Hạnh anh ruột của bố tôi chết năm 1948; đến một thằng bạn thân lúc còn nhỏ chết vì lạc đạc của thực dân Pháp…Tôi nghĩ đến các ngôi mộ ở nghĩa trang, những nấm mồ hoang ở ven đường mà tôi đã nhìn thấy… Nhưng, bây giờ mà tôi chết đi, chắc chẳng có những ngôi mồ như thế, sẽ chỉ là một cái bao tải hay một chiếc chiếu rách vùi nông ở một chỗ nào đó, rồi mưa gió và năm tháng sẽ xóa đi, không có ai và chẳng còn ai nghĩ đến tôi nữa, tôi sẽ biến tan vào cõi mờ mịt hư vô. Có lẽ tên Nhiễm trực xà lim cũng nhìn thấy tôi có thể chết, nên y báo cáo lên trên thế nào đó, và ở trên, chúng thấy còn cần ở tôi một số sự việc, chưa thể để cho chết. Nên một hôm, tên Nhiễm mở cửa đưa vào cho tôi một cái chăn nữa và một cái trấn thủ cũng may vải sọc của tù. Ngay từ hàng tháng trước, trên đường đi cung cũng như khi về, đôi khi tôi thấy một vài người tù nữ cũng như nam có mặc áo trấn thủ. Tôi nghĩ là áo tư, hoặc họ có tiêu chuẩn đặc biệt nào đó. Thế mới biết chúng ác thật! Chứng tỏ, chúng chủ trương lấy cả cái lạnh rét, của trời đất để hành con người. Cho tới lúc tôi gần chết, chúng chưa muốn tôi chết ngay, mới phát cho áo lạnh của tù. Ngoài ra, y tá còn xách lên cho tôi một xô nước nóng pha muối, bảo tôi ngồi trên sàn, cúi xuống ngâm tay chân vào. Tên Nhiễm vào tuyên bố, cho tôi nghỉ cùm hai ngày để y tá chữa chân. Tôi tưởng nó tha cùm tôi, nhưng thôi, hai ngày cũng được. Mỗi ngày hai lần, y tá xách xô nước muối cho tôi ngâm chân tay. Vửa có áo ấm lại thêm chăn, chân tay được ngâm nước muối, đêm hôm ấy tôi ngủ một giấc ngon lành. Ngay ngày hôm sau, chân tay đở nhức hẳn. Tôi đã có thể ra đổ bô, mặc dầu đi chưa vững. Thật là lạ, mấy hôm đầu có thêm chăn, thêm áo trấn thủ, thấy dễ chịu, ấm hẳn lên. Thế mà, mấy ngày sau lại vẫn thấy lạnh dữ. Đêm nằm, một chiếc chăn gấp đôi, như vậy là 3 lượt chăn, vậy mà nằm trong chăn vẫn run. Sờ tay chân, đùi, vai vẫn lạnh giá, lưng vẫn buốt như áp vào cây nước đá. Tuy chân tay được ngâm muối hai ngày đã đỡ, nhưng bây giờ, vẫn còn sưng, và vẫn ngứa vẫn nhức. Tại sao lạ vậy? Hay vì trời càng lạnh thêm? Nằm ở đây, thực âm u tịch mịch, nếu không gọi cung, chẳng biết ngày tháng thế nào, bên ngoài ra sao, mù tịt. Hôm nay, có lẽ đã gần cuối tháng 12, không biết là 24, hay 25. Tôi nhớ đến Noel năm ngoái, tôi với anh bạn thân Nguyễn Hữu Lợi, 2 đứa đóng bộ đèo nhau Vespa chạy tung trời Sài Gòn. Thế mà năm nay, hẳn các bạn bè ở phía bên trời ấy, đang nhởn nhơ bay lượn khắp phố phường, để khoe hương sắc của một thời hoa mộng. Riêng mình tôi tách ra, đi một con đường gian khổ, lầm than trong ngục tối âm u. Sáng hôm sau, mụ Thơ vào gọi tôi đi cung sớm. Hàng tuần lễ không đi cung, không hiểu bữa nay có vấn đề gì? Khi còn nằm trong tay chúng, và vẫn trong giai đoạn điều tra khai thác, trong lòng tôi vẫn luôn luôn lo lắng. Biết đâu, một ngày nào đó, chúng có những đường dây của cô gái nhận tài liệu “M” hoạt động bị chúng vồ được. Rồi họ tả lại người đã trao tài liệu cho họ, thời gian họ gặp gỡ… Như vậy thì thật là không còn gì để nói nữa về đời tôi. Ở phòng cung hôm nay là tên Thành và Nhuận. Sau khi chỉ ghế cho tôi ngồi, dăm ba câu hỏi xã giao về sức khỏe, tên Nhuận vừa giở cặp hồ sơ, vừa gườm gườm nhìn tôi: - Hôm nay, anh khai lại cho rõ ràng giai đoạn chúng huấn luyện anh về các loại mực bí mật, loại thông thường và loại đặc! Tôi lại phải ngồi trình bày chi tiết, cách sử dụng các loại thông thường như: Chanh, hành, phèn chua, muối, nước tiểu, v.v… phát hiện bằng sức nóng. Loại đặc biệt, gồm hai ba loại như thuốc viên, máu, v.v… Gần 2 tiếng đồng hồ, thằng thì ghi chép, thằng thì hỏi. Bổng nhiên, chiếc cửa thông sang buồng bên cạnh mở ra. Tôi nhìn sang, tim tôi bóp lại như rỏ máu: Trí! Phùng Văn Trí! Trời ơi! Sao Trí lại bị bắt ở đây? Trông anh xanh xao, nhìn tôi bằng đôi mắt đại tang, trắng dã. Lòng tôi bấn loạn, nhìn theo. Mãi cho tới khi một tên công an dẫn Trí ra lối cửa sau, Trí còn ngoái lại nhìn tôi. Bao nhiêu nỗi niềm thắc mắc, băn khoăn cuồn cuộn dâng đầy trong óc, trong tim tiếp tục rỏ máu của tôi. Chúng có hỏi gì đó tôi cũng không biết nữa. Lòng tôi như bị vặn xé, dứt rời. Trí vì tôi mà bị bắt ư! Hình ảnh bố mẹ Trí già lão, hiền lành! Hình ảnh vợ con Trí nhỏ dại, lam lũ quê mùa! Một cơn đau ập vào lòng tôi, giầy vò cấu xé trái tim đầy ắp khổ đau, ân hận. Đời tôi thà tan tành, thân tôi thà bị cắt, chặr từng mảnh, tôi cũng không đau khổ quặn thắt bằng “Trí vì tôi mà bị bắt”. Cái đau này là cái đau trong tim, trong óc, chết đi, kiếp khác vẫn còn đau. Tôi quay lại Nhuận và Thành, gào lên: - Tôi xin lấy danh dự thiêng liêng của cả đời tôi cam đoan rằng: Anh Trí không hề dính dáng gì với tôi cả! Anh và bố mẹ anh rất quê mùa hiền lành. Tôi chỉ gặp anh hoàn toàn trên đường đi, như tôi đã khai báo và viết nhiều lần trước đây! Tên Nhuận cười khẩy: - Anh điên à! Trí bị bắt vì tội khác chứ có phải vì anh đâu! Tôi không tin được. Tôi hiểu, chúng thấy tôi đau đớn, điên rồ nên chúng nói vậy để trấn an tôi. Chúng tiếp tục truy hỏi tôi nữa. Tôi không còn sợ nữa, tôi nói thẳng: - Xin các ông giết tôi đi. Tôi sống mà đau về luơng tâm, cũng héo đi mà chết. Bây giờ các ông đừng hỏi tôi nữa. Tôi không còn nhớ cái gì, biết cái gì nữa, vì hình ảnh Trí như vậy đã tràn ắp lòng tôi rồi. Thấy tôi như vậy, chúng rất buồn cười, chúng cứ nhìn nhau cười mãi. Cuối cùng tên Nhuận nghiêm mặt, đập bàn: - Anh bị bắt vì tội của anh! Còn Trí bị bắt vì tội khác! Tôi cấm anh không được nói đến Trí nữa! Sự đời nhiều lúc buồn cười thật. Mục đích của chúng là cho tôi và Trí thấy mặt nhau, để hai bên bị áp lực nhau. Chúng cần mỗi người phải nói với chúng về nhau. Thế mà bây giờ chúng lại cấm tôi không được nói về Trí. Ngược lại, lẽ ra (ý gian) tôi càng cố tránh không nói tới Trí mới hợp lý. Nhưng ở đây, mặc chúng cấm, mặc chúng đập bàn la hét, tôi vẫn lải nhải nói về Trí, với nỗi sầu héo không thiết gì đến đời sống của mình nữa. Cuối cùng, chúng cho tôi về với lời đe dọa: - Ngày mai anh lên đây tiếp tục khai bào! Hôm ấy tôi về xà lim, ngồi ăn cơm mà nuốt không nổi. Hình ảnh Trí lúc sáng cứ lởn vởn trong đầu tôi. Đêm hôm đó, tôi cũng không ngủ được, cứ ngồi suy nghĩ về Trí. Làm thế nào để cứu Trí đây? Nói gì chúng cũng không tin. Đời mình bây giờ trước sau cũng chết, dù có phải vì cứu Trí mà chết sớm hơn, tôi cũng vẫn sẵn sàng. Vì vấn đề lương tâm, tôi không còn tính toán thiệt hại hay lợi cho đời tôi nữa. Nếu tôi bị thiệt hại, mà minh oan được cho Trí, tôi làm liền. Tôi suy nghĩ, một vài ngày tới, tùy theo tình hình, tôi sẽ nói thẳng với chúng là tôi đã biết có người theo dõi rồi, nên tôi không dại gì đến chỗ Trí, nếu Trí thực sự là người có liên quan đến màng lưới hoạt động của tôi. Nhưng, nếu như thế, cả một vấn đề lớn sẽ đổ bể hết. Tất cả những khai báo, tất cả những công trình khôn khéo đánh lừa chúng trong suốt 6 tháng nay, chúng sẽ không tin nữa. Thật là một vấn đề sinh tử cam go. Tôi nát đầu! Tôi vẫn hiểu, người làm việc lớn đôi khi phải hy sinh những cái nhỏ một cách phũ phàng. Nhưng, lúc này tôi đâu đã có kinh nghiệm, hơn nữa, bản chất con người tôi, thà chịu thiệt thòi, bỏ lỡ thời cơ tiến thủ còn hơn tình cảm, danh dự bị xâm phạm. (Kính thưa quý vị độc giả: Sự việc xẩy ra đã 40 năm rồi! Vì phải tái bản, tôi đang ngồi đánh máy lại tập hồi ký Thép Đen này. Đến đoạn anh Phùng Văn Trí đây, lòng tôi càng lúc càng dâng lên tran ắp nổi niềm đầy vơi, ngang dọc, ngược xuôi. Ngoại lệ của hồi ký! Là tác giả, xin phép quý vị, tôi được nói lên một tâm ý: “Một người có những hành xử như đoạn này, thất bại là đúng! Và, suốt đời người đó cũng chẳng làm cái gì nên”. Boston Dec. 2002). Hôm sau, chúng lại gọi tôi ra. Lần này là Đức và Nhuận. Tôi vừa mới bước chân vào phòng, chúng đã ầm ầm nổi trận lôi đình: - Anh là một thằng hoàn toàn nói láo. Nhiệm vụ anh ra miền Bắc 25 ngày là để anh theo dõi sư đoàn 308 như anh đã khai báo. Vậy, chúng nó dậy anh về các loại mực bí mật để làm gì? Chúng tôi biết, anh ra đây với nhiệm vụ khác! Anh không chịu khai báo sự thật, đợi chúng tôi phải đưa nhân chứng cụ thể ra, chắc chắn anh không sống được. Tha hồ cho chúng dọa nạt, chửi bới, tôi cứ khăng khăng nói là tôi đã hoàn toàn khai báo sự thật hết cả rồi. Mặt khác, tôi vẫn nói về Trí. Tôi nói thẳng là trong lúc này, ngày cũng như đêm, lúc nào tôi cũng nghĩ đến anh Trí, nghĩ đến bố mẹ, vợ con anh. Lương tâm tôi bị dày vò, xin các ông hãy minh xét cho anh Trí, v.v… Buổi chiều, chúng lại tiếp tục truy hỏi tôi về điểm mực bí mật ấy mãi. Tôi trả lời chúng: - Tôi không biết vì sao tên Hòa lại dạy tôi như vậy. Tôi nghĩ đây là bài học cơ bản, vỡ lòng cho tất cả mọi người mới vào ngành, để hoạt động tình báo mà thôi. Rồi sau đó, tùy theo công tác gì, sẽ huấn luyện thêm riêng về công tác đó. Nghĩ lại, tôi cũng dại thật. Biết thế, trước đấy tôi không nên khai gì về loại mực bí mật và viết thư mật cả. Chúng đã suy ra khá hợp lý rằng: Để gây mạng lưới hoạt động thì mới cần học những món ấy! Nhưng trong thực tế, tháng đầu. Cẩn đã huấn luyện tôi về môn đó, cũng nói đó là bài học cơ bản của một người hoạt động tình báo, như đi học thì mới đầu phải học vần ABC vậy. Gần về chiều, tên Nhuận mở cặp rút ra một tờ giấy viết tay, cùng một loại giấy tô vẫn khai cung, đưa cho tôi. Tôi nhìn thoáng cũng biết là nét chữ của anh Trí. Tôi đọc, chắc chúng đang theo dõi nét mặt của tôi. Đây là tờ giấy một đoạn, anh Trí đã khai. Trong đó, anh Trí bị bắt về tội vượt biên giới theo lối Lào để định trốn về Thái Lan. Lương tâm tôi như được vuốt ve, xoa nắn sau những ngày quặn thắt, dày vò. Tuy vậy, một ý khác đã nổi lên trong óc tôi là dù sao, chúng vẫn nghi anh Trí có vấn đề với tôi, chứng cớ là chúng cố tình để anh Trí và tôi nhìn thấy nhau, để trộ anh Trí, anh không thể che dấu được nữa, vì đã bắt được tôi rồi! Cũng có thể chúng nghi tôi đã giao nhiệm vụ gì đó cho anh Trí, anh Trí trốn sang Thái Lan, rồi về miền Nam báo cho Sài Gòn chẳng hạn. Nghĩa là sự việc anh Trí trốn đi Thái Lan, có liên quan đến việc anh Trí và tôi quen nhau. Vì nghĩ như thế, khi trả lại tờ giấy cho Nhuận, tôi liền làm ra vẻ hân hoan: - Cảm ơn ông, nếu tôi không được đọc tờ khai này của anh Trí, cho đến chết lương tâm tôi vẫn bị cắn rứt, dày vò. Tên Nhuận cười rổn rang: - Tôi đã nói, anh không tin. Rồi hắn nghiêm mặt: - Anh đã giao nhiệm vụ gì cho Trí, và Trí đã nói gì với anh. Trí đã khai báo hết rồi. Anh không tin, tôi sẽ đưa tờ khai của Trí cho anh xem. Chà, biết ngay mà. Y còn định lấy chuyện này lòe chuyện kia. Dù có, tôi cũng không mắc, huống chi ở đây tôi thực không có gì. Tôi chỉ cười trả lời: - Thưa ông, làm gì có chuyện ấy. Tôi đã thưa với các ông là anh Trí không hề biết gì về tôi, anh chỉ biết tôi là một học sinh lớp 10 ở Vĩnh Linh, ra Hà Nội chữa bệnh tim. Chúng nó dứt khoát không tin. Dứt khoát chuyện Trí vượt biên với chuyện của tôi có liên quan. Phần tôi, tôi không sợ. Chúng nghi hay chúng không tin, tôi tù, vẫn tù. Điều làm tôi băn khoăn là anh Trí. Chúng không tin anh, chúng còn giam hãm anh lâu dài, khổ anh và khổ vợ con anh. Như vậy lương tâm tôi vẫn không yên ổn được. Nghĩ như vậy, tôi đã mạnh bạo nói: - Thưa các ông, tôi nói thật, ngày tôi trở vào Vinh; khi xe ra bến xe Kim Liên, có một anh cụt chân đưa vé đến cho tôi, tôi đã nghi anh ấy là công an theo dõi tôi (chỗ này, tôi không nói đến người ngồi trước và sau tôi). Rồi dưới đường, tôi cũng nghi một chiếc Commanca theo tôi, vì thế, không đời nào tôi lại vào nhà anh Trí, nếu anh là một cơ sở hoạt động của tôi. Hơn nữa, ông đã biết anh Trí, tôi không dám có ý coi thường anh, nhưng anh Trí như thế thì hoạt động tình báo làm sao được. Anh quá hiền lành, và trình độ lại chỉ biết đọc biết viết. Chỉ vì cái ngu xuẩn tình cảm của tôi, cứ muốn thanh minh cho anh Trí, vì thế lý trí tôi không còn đủ sáng suốt, đã quên đi cái nguyên tắc mà chính tôi đã tự khẳng quyết “không bao giờ nói đến, biết bị theo dõi” trước đây. Bởi vậy, vừa nghe tôi nói là nghi ngờ bị theo dõi, mắt chúng sáng ngay lên, chúng vồ vập hỏi: - Anh thấy thế nào? Tại sao anh nghi? Hãy tả kỹ những người anh nghi, những xe anh nghi, và nghi từ bao giờ? v.v… Tôi trình bày như vừa khai, nghĩa là tôi chỉ nghi một mình anh cụt chân và một chiếc Commanca, và nghi từ bến xe Kim Liên đi vào Vinh. Hết gjờ, chúng cho tôi về. Sáng hôm sau, chúng gọi đi cung sớm. Hôm nay, có 3 tên là Đức, Nhuận, và tên Đặng người Huế. Thật tôi không ngờ. Như sấm sét, bão bùng. Thái độ của chúng hôm nay khác hẳn, mặt tên nào cũng lạnh như tiền. Chúng truy lại tôi hết mọi sự việc. Những điều trước đây chúng không hề nhắc lại, bây giờ chúng lại sừng sộ hỏi ra, xắn tay, xắn chân, chúng làm tôi rối mù lên. Chúng dứt khoát gán ghép tôi đã biết bị theo dõi từ lâu, và đã gây hỏa mù cho công an, v.v… Tôi không ngờ sự việc diễn tiến đến chỗ căng thẳng như vậy. Dù tôi có tính trước, nhưng ngoài sự dự đoán của tôi. Cung kẹo lại lia lịa ngày đêm. Tôi cảm thấy quá mệt mỏi, đầu óc như không chịu nổi nữa. Tôi như người mất hồn. Ngày nào, chúng cũng đối xử với tôi như một tên tử thù. Thậm chí, có lần chúng giận quá, tên Đặng đã đứng dậy đạp tôi ngã ngửa về đằng sau. Y quát: - Mày sẽ chết, mày biết không!? Số phận mày là một tên gián điệp, mày đã biết, từ trước đến nay một tên điệp viên nào bị bắt, khai thác được hay không, sớm muộn đều bắn bỏ. riêng chế độ xã hội chủ nghĩa đã mở ra cho mày một sinh lộ, nhưng mày ngoan cố không muốn được khoan hồng, mày sẽ đi con đường của mày. Nói rồi, y bỏ về. Tôi ân hận vì việc làm thiếu suy tính, để tình cảm lấn át lý trí của tôi. Chỉ lẩn quẩn vì vấn đề tình cảm mà bây giờ tôi sống dở chết dở. Hai tên Đức và Nhuận còn ở lại, tiếp tục vặn lý, truy hỏi lại nhiều sự việc. Tai tôi ù đi, người tôi xây xẩm nhiều lần suýt ngã xuống nền gạch. Mặc, chúng vẫn bắt tôi phải trả lời từng điểm chúng hỏi. Tôi nói trong hơi đứt đoạn: - Thưa…tôi hoa mày…chóng mặt…xin cho về….. Chúng nó đứng lên đe dọa: - Được, cho về! Ngày mai khôn hồn thì khai lại hết. Không, đi ngủ với giun sớm! Tôi về. Đói, mà cơm không muốn nuốt. Phen này chắc không thể sống được. Thái độ chúng ghê gớm quá! Gần một tuần lễ sau, sáng trưa, chiều, tối, chúng làm như nước sôi, lửa bỏng. Chỉ có tên Thành, ánh mắt của y từ lâu tôi nhìn vẫn thấy như có một chút tình người. Nhiều lần, y thường có thái độ dịu dàng tình cảm đối với tôi. Dạo này, y có vẻ buồn, ít nói. Thỉnh thoảng y cũng ngồi hỏi cung, tôi vẫn bất chợt bắt gặp ánh mắt thăm thẳm của y khi thấy tôi bị mê tơi rũ rượi, như chiếc giẻ rách vì bị 3 tên quần thảo liên tục từ sáng tới tối. Một hôm, tên Đức hỏi tôi: - Năm nay anh bao nhiêu tuổi? Tôi dè dặt nhìn y: - Thưa ông, 24. Y nghiêm trang, lạnh lùng: - Anh có người yêu chưa? Và có hứa hẹn với ai không? Tôi không hiểu tại sao y lạo hỏi đến chuyện riêng tư của tôi làm gì, vì thế, tôi nhìn y như dò hỏi: - Trong thời gian còn đi học, chỉ có yêu thầm, yêu vụng, chứ không hẹn hò với ai… - Bố mẹ chỉ có mình anh là con trai? - Thưa ông, tôi còn một người em trai, năm nay học Đệ Tam. Y gật đầu, vẫn lạnh lùng: - Anh cương quyết không khai báo gì thêm nữa phải không? Trong khi tên Đức hỏi, tên Nhuận vẫn ghi. Tôi trả lời: - Thưa các ông, tôi đã khai báo hết cả rồi. Điều nào chưa rõ, xin ông cứ hỏi. Tôi nguyện xin cố gắng, điều gì tôi iết, tôi sẽ nói hết. Nó hỏi ngay: - Vậy, nhiệm vụ anh ra ngoài Bắc này làm gì? - Thưa ông, tôi đã khai báo rõ ràng nhiều lần rồi. Y đập bàn, quát: - Thôi! Cho về, tôi hết trách nhiệm với anh! Trên đường về xà lim, tôi rất lo lắng sầu héo. Thái độ của các chấp pháp dạo này khác thường. Tôi chưa hiểu chuyện gì nữa sẽ đến với tôi. Sáng hôm sau, khi tôi ra phòng cung, chỉ có mình Nhuận. Nhuận chỉ ghế tôi ngồi, rồi nói: - Hôm nay, có lẽ buổi cuối tôi gặp anh, vì vậy, tôi muốn anh nói thật với tôi một số vấn đề. Trước đây, và từ ngày anh ra Bắc tới bây giờ, với cái nhìn của anh. Anh thấy xã hội chủ nghĩa còn điểm nào chưa tốt, và điểm nào anh không đồng ý? Y ngừng lại một tí, rồi nói tiếp, như tâm tình: - Tất nhiên, chúng tôi cũng còn nhiều điều chưa tốt. Nhưng tôi muốn nghe chính anh, một người ở xã hội khác, cái nhìn có giá trị khách quan hơn. Vậy, anh được toàn quyền nói sự thật, dù sự thật ấy như thế nào. Tôi bảo đảm với anh, anh không bị ảnh hưởng gì cả. Tôi nghe y nói, tôi nhìn y, rồi dè dặt: - Thưa ông, tôi ra miền Bắc, tuy là đi hoạt động, nhưng thực tế tôi không thích chế độ miền Nam, cho nên, tôi đã chẳng làm gì cho họ cả. Tôi chỉ chủ trương thăm lại cảnh cũ thời thơ ấu, nên không để ý nhiều về xã hội. Do đó, tôi có nói cũng khó chính xác… Y có vẻ săn đón, khích lệ: - Không sao, dù không chính xác. Anh cứ nói đi! Như vậy mới thể hiện anh thật lòng. - Thưa ông, nói thực với ông, tôi mới lớn lên, hơn nữa tôi là người ít học, nên chẳng hiểu vấn đề chính trị ra sao. Làm thế nào biết đúng hay sai. Đi ngoài phố, tôi thấy dân chúng đâu đâu cũng nổ lực lao động. Họ làm việc có ý thức trách nhiệm, chứ không như miền Nam. Chỉ có điều là dân ta còn nghèo, còn có người phải kéo xe ba gác. Nhưng, tôi tin rằng vài năm nữa sẽ khá hơn… Y hỏi tôi: - Còn gì nữa? - Tôi chỉ thấy như vậy thôi! - Còn điểm gì anh không đồng ý với xã hội chủ nghĩa? - Tôi thấy cái gì cũng tốt cả…Hay có thể vì sự hiểu biết của tôi kém, nên tôi thấy như vậy chăng! Y cười nhạt, lặng lẽ ghi hết ý của tôi. Rồi tiếp: - Vậy, cụ thể anh đồng ý với xã hội chủ nghĩa ở những điểm nào? Tôi suy nghĩ, nói phải có sách, mách phải có chứng. Tôi phải tìm ra một điểm gì để nó có thể tin được. Tôi ngẩng đầu lên tỏ vẻ tin tưởng: - Trước đây, tôi rất không ưa người giầu, người giầu thì giầu quá, người nghèo thì quá nghèo. Vì vậy, tôi rất vui khi về phố Hàng Bạc, tôi nhìn thấy anh Kỳ chồng cô Thuận đi đôi guốc lộc cộc ngoài phố. Ngày xưa họ giầu lắm, họ hách dịch lắm, không bao giờ đi đôi dép ra đứng trước của hiệu cả. Y ra vẻ dìu dịu: - Tôi hỏi thực anh, sao anh quyết tâm không khai sự thật? Hay anh cho rằng chúng tôi không có biện pháp nào bắt anh phải nói sự thật hay sao? - Thưa ông, không bao giờ tôi dám nghĩ như vậy. Tôi tin tưởng tuyệt đối là với cách mạng, không cái gì cách mạng không biết cả. Còn sự thật, tôi đã khai ngay từ đầu. Tôi rất đau khổ, không hiểu vì sao cách mạng vẫn không tin tôi. Tôi cũng không biết cách nào để cách mạng tin tôi cả. Nó đứng dậy cười gằn: - Thôi, cho anh về! Anh cứ ôm cái quyết tâm, cái ngoan cố ấy của anh sang thế giới khác, rồi Mỹ Diệm chúng sẽ trả công cho anh! |
|
|
![]()
Post
#36
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Ba
Thủ Tiêu Trong Đêm... Mụ Hoa đưa tôi về xà lim. Ngoài trời âm u xám xịt, chắc đang mưa, nhưng lòng tôi còn đen tối om. Nhớ lại, trên đường về, nhìn hình ảnh một con chim sẻ ủ rũ một mình, đang đứng nép tránh mưa rét trong mái hiên nhà bếp, tôi liên tưởng tới những vụ thủ tiêu của Cộng Sản trước đây: Hình ảnh hai chiếc thây, một của ông trùm và một của thanh niên Công Giáo một họ đạo. Bị trói giặt cánh khuỷu bập bềnh, rữa nát trôi trên sông Đáy ngày nào năm 1952 vẫn còn rõ nét trong trí ôi. Hình ảnh Đại Tá Hoàng Thụy Năm, Trưởng đoàn quân sự Việt Nam Cộng Hòa, giao thiệp với Hà Nội theo hội nghị Genève. Cũng bị trói giặt cánh khuỷu, lưỡi bị cắt, đầu và đầu gối bị những chiếc đanh 10 phân đóng ngập, bồng bềnh trôi trên sông Đồng Nai, gần cầu Bình Lợi năm xưa cũng chưa phai mờ… Đó là những hình ảnh tôi đã trông thấy. Còn biết bao nhiêu những vụ thủ tiêu dã man tán khốc của lũ Cộng Sản khát máu đồng bào mà tôi đã nghe. Bây giờ, tôi trong tình thế này, không còn cách nào khác, cũng vui lòng theo các bậc Cha Anh. Trong giấc ngủ chập chờn đêm khuya vắng lặng, tôi thấy tụi nó hai người, mặc quần áo đen, bịt mặt, trói tay và chân tôi đem ra cạnh sông Hồng, chỗ gần Phà Đen. Chúng đâm tôi hơn 10 nhát dao, rồi đẩy tôi xuống sông. Tôi cố vủng vẫy vì ngạt thở, tìm cách hất đầu mình lên khỏi mặt nước. Tôi giật mình tỉnh dậy. Đó chỉ là một cơn ác mộng! Trời lạnh mà tôi cũng toát mồ hôi ra. Hai ngày trôi qua trong đợi chờ lo lắng, thấp thỏm, vẫn không có gì xảy ra. Sáng ngày thứ 3, lão Bằng mắt lồi lại vào gọi tôi đi cung. Khi ra tới phòng cung, tôi thấy chỉ có một mình Thành, bộ mắt buồn xo, đỏ rừ, như mới uống rượu. Nét mặt của Thành hôm nay làm tôi liên tưởng đến Cao Đình Tiệu, cũng một tuổi, báo cho tôi biết sẽ bị An Ninh Quân Đội bắt và tra tấn khai thác ở 365 Phú Lâm. Thành nói, giọng rười rượi buồn: - Bình ngồi đi! Tôi ngồi, Thành vẫn im lặng. Những phút im lặng, nặng nề trôi. Thành vẫn nhìn ra phía cửa sổ, rồi như đắn đo, ngập ngừng: - Lẽ ra tôi không thể gặp Bình, nhưng tôi cố gắng để gặp Bình. Một lần nữa. Từ ngày tôi và một số đồng chí trong cơ quan có trách nhiệm hỏi cung Bình, không hiểu sao dần dà tôi thấy lòng mến Bình. Nhiều lúc, tôi coi Bình như em trai tôi, một người thanh niên bị bắt còn quá trẻ, chưa được biết gì về cuộc đời. Hôm nay, tự đáy lòng tôi, tôi nói với Bình thế này: Bình hãy nghe tôi, dù Bình muốn làm gì, Bình muốn như thế nào đó theo quan điểm của Bình, tôi không có ý kiến. Nhưng, tôi muốn nói với Bình là, tất cả, hãy cần giữ lấy cái đầu đã. Đó mới là người khôn! Chết rồi, vô nghĩa hết, cái gì cũng không làm được. Chết, thiệt thân thôi! Bất cứ muốn làm cái gì, Bình phải tồn tại đã. Bình còn quá trẻ, nên chỉ nhìn cuộc đời từ một góc cạnh nào đó, trong khi cuộc đời muôn mặt. Tôi thuơng Bình, Bình giúp tôi, tôi giúp Bình, tôi sẽ bảo đảm rất tốt cho Bình. Một niềm xúc động len lén vào lòng tôi. Dù ở một khía cạnh nào đó, những lời nói của Thành cũng có những nét thực tế. Tôi xúc động ra mặt: - Thưa ông, tôi rất biết ơn ông. Phải nói rằng trong quá trình, tôi cũng cảm nhận thấy tình ông đối với tôi. Nhưng, bây giờ…Tôi giúp ông được gì?….. Y xua tay, gạt ngang: - Không! Không, Bình đừng nói gì với tôi bây giờ cả. Tôi muốn Bình về đêm nay, suy nghĩ kỹ, cân nhắc mọi mặt cho thấu đáo. Trong ngày mai, nếu Bình muốn gặp tôi, hãy báo cáo với quản giáo trực xà lim là “Muốn xin gặp ông Thành”. Tôi sẽ chờ Bình, nếu không thấy, có nghĩa là Bình không muốn giúp tôi, và lúc đó, tôi cũng đành mặc cho cuộc đời, vì khả năng và quyền hạn của tôi chỉ có một góc nhỏ. Y đứng dậy, ra ý bảo tôi về. Trên đường về xà lim, lòng tôi đầy vơi bao nỗi niềm. Tôi hiểu đây là những vấn đề sống và chết. Chết thì danh dự, mà sống thì cúi đầu. Tôi miên man nghĩ đến bao tấm gương cương cường, bất khuất của các bậc cha ông trong lịch sử. Những nhân vật hèn hạ, hại bạn, hại thầy trong “Tam Quốc Chí”, trong sách báo, trong phim ảnh…Người con trai sống ở đời, phải có tam cương, ngũ thường, phải có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… Tôi nghĩ đến Công Giáo, đến Chúa, đến các linh mục. Cha Quỳnh và bao nhiêu người trong Cục đã đặt niềm tin nơi tôi. Qua thái độ hỏi cung, từ lời nói, từ cử chỉ, từ hiện tượng, chúng mới chỉ nghi tôi, chứ chưa nắm được gì về tôi cả. Nếu chúng đã biết rõ về tôi, và trong hoàn cảnh này, tôi phải khai ra? Tôi nghĩ tới hai trường hợp khác hẳn nhau mà lại rất liên quan đến nhau: Chúng biết rồi mà mình khai, đã còn có chỗ hèn, chỗ kém. Huống chi, chúng chưa biết gì, mình đã khai, vừa hèn hạ, lại còn là một tên phản thầy lừa bạn nữa, chưa nói gì về lý tưởng. Ôi, là một tên lừa thầy phản bạn, thì làm sao tôi sống? Hơn nữa, dù chưa có nhiều kinh nghiệm về Cộng Sản lắm, tôi cũng hiểu là nếu chúng đã định giết, có khai ra, lại bị chúng hành hạ khai thác một thời gian, rồi cũng sẽ bị giết. Bao nhiêu điều tai nghe mắt thấy, kết hợp với nguyên tắc tổ chức của Cộng Sản.Tôi biết, chúng không bao giờ tin dùng một người nào, nếu người đó không phải tự tay chúng đào tạo. Có chăng, vì lợi ích nhất thời nào đó, chúng chũng chỉ dùng có tính cách giai đoạn, rồi không tiêu diệt, cũng tìm cách phế thải sau này. Còn với tên Thành! Nó là ai? Là một tên Cộng Sản. Nó có nhiệm vụ gì? Khai thác tôi. Điều này rõ ràng như ban ngày. Với một tên Cộng Sản, bằng mọi cách, mọi giá, dù có phải kết nghĩa anh em, dù có phải viết giấy cam kết sẽ không bỏ tù anh, nó cũng chỉ quanh một mục đích hoàn thành nhiệm vụ khai thác; rồi sau đó, có hàng trăm ngàn lý do để xé lời cam kết, bỏ nghĩa anh em. Bao nhiêu suy nghĩ, cân nhắc, đắn đo, cuối cùng chỉ làm cho tôi nâng cao quyết tâm “Cứ đi theo con đường mình đã đi!”. Vì vậy, ngày hôm sau, tôi đắp chăn nằm ngủ để bù vào một đêm thao thức. Mấy ngày im vắng trôi qua, nhưng trong lòng tôi lại là cả một trận cuồng phong. Thấp thỏm, lo lắng, đợi chờ, không biết cái gì rồi sẽ đến với mình. Trời đã vào Xuân, nhưng trong ngục tối này, nàng Xuân cũng sợ, nên chẳng thấy dáng nàng đâu. Ba ngày, rồi năm ngày vẫn lặng lẽ trôi đi. Nỗi ưu tư trong lòng tôi cũng xẹp xuống dần. Đêm nay, không hiểu sao mà tôi cứ bồn chồn trong lòng, không ngủ được. Như có linh lính về một điều chẳng lành sắp xẩy đến cho mình, tôi cứ xốn xang quằn quại mãi không yên, lịch kịch dậy đi giải mấy lần. Có lẽ phải khoảng quá nửa đêm, tôi mới cố đi vào được giấc ngủ… Tôi đang mê mệt với giấc ngủ muộn, bỗng nghe thấy tiếng ầm ầm. Tôi vội vàng hất chăn che đầu xuống, nhìn ra. Cửa buồng đã mở, lố nhố ba, bốn người. Toàn người lạ mặt, lại còn thoáng thấy bóng người phía bên ngoài cửa nữa. Thái độ của họ rất lạnh lùng, ai cũng súng ngắn cạnh sườn. Một người cầm chăn tôi kéo mạnh ra, vất sang sàn bên cạnh, quát: - Bò dậy! Tôi hoang mang chưa kịp phản xạ để hiểu chuyện gì, thì một giọng miền Trung nặng, rắn đanh: - Chúng tôi có lệnh đưa anh đi! Hãy chấp hành! Chưa mở cùm, một tên đã khóa hai tay tôi ra phía sau. Một tên khác, khóa lại xích phía trên cánh tay tôi. Rồi chúng lấy một miếng vải đen dài bịt kín mắt tôi. Tiếng mở chốt cùm, tiếng nhấc cùm. Hai tên xốc hai bên cánh tay tôi, quát: - Đứng dậy! Tôi hoang mang tột cùng. Tôi đã đoán trước số phận mình cũng phải tới lúc, nhưng tôi không hình dung nổi cảnh này. Vì nghĩ là không sớm như vậy, nghĩa là chúng còn phải khảo tra tôi một thời gian nữa đã. Vì vậy, tôi vẫn bị bất ngờ. Hơn nữa, trước đây suy nghĩ thì chuyện còn là tưởng tượng, bây giờ là thực tế. Người tôi rủn ra, lòng tôi tái tê, hình như chúng xách người tôi đi, chứ chân tôi như vật vờ trên mặt đất. Mãi tới lúc này tôi mới thấy là dưới chân mình không có đôi dép. Như vậy, chúng không cho tôi đi dép nữa. Chân tôi lệt xệt bước cao, bước thấp. Có lẽ ra cổng Hỏa Lò. Đang đi chúng dừng lại, có tiếng thì thào chúng nó nói chuyện gì đó với nhau. Rối tiếng xe “Commanca” rồ máy. Chúng đẩy, phải nói là chúng xách tôi lên xe, vì lúc này chân tôi nhẹ tênh chỉ có da bọc xương. Xe chạy, có lẽ ra khỏi cổng, người tôi lạng qua phía phải, vậy xe quẹo về bên phải. Trên đường im vắng, chỉ có tiếng động cơ của chiếc xe tôi đang ngồi. Không ai nói với tôi một lời. Vì quá đột ngột nên trí óc tôi cũng đơ ra, chỉ còn nghĩ mình sắp chết. Tôi không còn tinh thần để kịp hỏi chúng đưa tôi đi đâu. Hồn tôi lãng đãng như không còn trong người tôi. Chừng 20 phút, có lẽ bây giờ xe đã đi ra ngoài thành phố, bởi vì xe đi thẳng và gió lạnh thêm. Xe đi chừng nửa tiếng nữa thì dừng lại. Hai tên xách mạnh hai cánh tay tôi. Một tiếng quát lạnh băng: - Đi xuống! Tôi đứng lên, rồi chúng phải nhấc tôi xuống. Chân tôi đạp xuống đất có cỏ ướt. Chúng kéo tôi đi, chân tôi vẫn lướt thướt trên cỏ và đất gập ghềnh. Tai tôi nghe tiếng ễnh ương và tiếng côn trùng rên rỉ. Như thế, chung quanh đây là ruộng đồng. Đi chừng 10 phút, chúng dừng lại. Một giọng en ẻn miền Bắc đột nhiên nổi lên: - Báo cáo đồng chí, đã đào xong! Tiếng miền Trung nói nhỏ hơn: - Có mang vôi không hỉ? Tiếng báo cáo “Có” nghe lẫn vào tiếng gió, có lẽ vì đã đi xa. Chúng kéo xềnh xệch tôi đi, buộc hai tay vào một chiếc cột. Tay tôi chạm, như là một cái cây vì còn cả vỏ. Mấy phút im lặng. Một giọng miền Trung chắc nịch: - Tên Bình nghe đây: “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc Bộ Công An: Tên Đặng Chí Bình, 24 tuổi, quê quán… Can tội gián điệp làm tay sai cho Mỹ Diệm, đã xâm nhập miền Bắc phá hoại cách mạng. Y vô cùng ngoan cố, vẫn kiên trì một lòng bao che những âm mưu hại dân, hại nước, không chịu khai báo sự thật. Nay quyết định xử tử. Theo truyền thống nhân đạo của cách mạng, Bộ cho phép tội phạm 5 phút để suy nghĩ, tự cứu mạng sống của mình, bằng cách khẩn cấp xin khai báo lại sự thật. Bộ Công An Nhân Dân Ngày 27 tháng 01 năm 1963…” Đêm thâu vắng lặng, chỉ có tiếng gió lào xào lẫn với tiếng nỉ non re re re… của côn trùng. Tiếng lên đạn của mấy khẩu CKC nghe rõ mồn một. Giọng miền Trung lại nổi lên dõng dạc: - Tên Bình! Bây giờ giữa sống và chết, cho mi 5 phút… Bắt đầu! Tai tôi ù lên. Đầu tôi như đông đặc lại. Tim tôi như không đập nữa. Tôi nghe như có tiếng o-o kêu ran ran chung quanh. Một thoáng hình ảnh mẹ tôi, một thoáng ân hận về việc Trí. Hình ảnh mẹ tôi, hình ảnh Trí hẫng lên, loãng dần. Trời vào Xuân còn lạnh buốt, vậy mà ở sống lưng tôi như có giòng nước chảy. Hai bàn tay tôi cũng ướt đẫm mồ hôi. Một tiếng quát rổn lên, tim tôi như thắt lại: - Bốn phút rồi; còn một phút nữa! Tiếng gì đó kêu ran trong đầu, tôi chờ, tôi lắng nghe mấy tiếng nổ. Người tôi tê đi như không còn cảm giác. Chân tôi như muốn khuỵu xuống, nếu không có cái cột chắc tôi không thể đứng được. Tôi thấy như hết hơi, không thở được nữa. Chết! Một tiếng “Chấp hành!” dội lên. Tôi tưởng là tiếng súng nổ. Tôi thấy cắn, buốt ở hai bên ngực. Bỗng dưng im lặng, một phút, rồi hai phút, tôi cố lắng nghe, dường như có tiếng thì thào…?! Có người đến cởi dây trói buộc tôi vào cây cọc ra, rồi một giọng người Bắc vang lên: - Số anh còn sống ít ngày nữa, có lệnh hoãn….. Chúng lại xốc nách tôi ra xe. Người tôi như không hồn, mềm nhũn ra, mặc chúng lôi kéo, đẩy đưa tôi đi. Trên đường về, trong lúc ngồi trên xe, một giọng nói quen quen, nhưng tôi không thể xác định được là ai:”…Vì một sự việc đặc biệt, anh còn được sống thêm ít ngày nữa…” Hồn tôi vẫn bồng bềnh, tôi không nói một lời. Lại về xà lim. Chúng cùm chân tôi xong, mới mở khóa trên, khóa dưới tay tôi. Cuối cùng chúng mới cởi khăn bịt mắt của tôi. Mắt tôi hoa lên với đầy những vòng tròn to nhỏ trước mắt. Tôi chỉ thấy lố nhố mấy người. Tới khi tôi nhìn rõ lại cảnh vật, chúng đã ra ngoài và đóng cửa lại rồi. Trời vẫn chưa sáng. Tôi cố lựa chân đứng xuống đất, để với lấy hai cái chăn chúng đã ném ở sàn bên. Thấy lành lạnh ở dưới đùi, tôi sờ quần, thấy ướt. Như vậy, đã đái ra quần mà tôi không biết. Mệt và căng thẳng, tôi nằm xuống đắp chăn. Hồn tôi vẫn lềnh bềnh như đang còn trong một cơn ác mộng. Như vửa từ cõi chết trở về. Tự nhiên, tôi thò tay vào trong áo sờ hai bên ngực. Một nỗi buồn phảng phất, vướng vít trong óc tôi. Sự việc vừa xẩy ra, tôi thấy mình vẫn chỉ là một tên hèn, sợ…..chết. |
|
|
![]() ![]()
Post
#37
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Bốn
Đổi Xà Lim, Bạn Tù Mới... 3 ngày trôi qua. Tôi vừa lại sức, lại hồn, một buổi chiều sau giờ làm việc, (5 giở chiều thì hết giờ làm việc), cửa con bỗng mở, mặt tên cán bộ mắt lồi: - Có gì mang hết đi, cả chăn chiếu! Y rút cùm. Tôi vội vàng lấy chân ra, vơ gọn chăn chiếu. Tôi không quên đút cái gối bằng cuống chổi Thanh Hao vào trong chăn, cuộn lại và mang cả cái gáo nữa. Y mở cửa, tôi ôm đồ ra. Chợt nhớ tới đôi đũa, tôi quay lại xin y cho lấy đôi đũa thường treo ở đuôi chốt cùm phía ngoài. Mọi hôm đi cung, thường ra cuối hành lang rồi rẽ tay phải. Hôm nay, lại rẽ phía trái, vào trong, tới một cái cửa, y mở. Chà, cả một cái sân to lớn, rộng thênh thang, với bao nhiêu dẫy nhà chung quanh. Có 5, 6 cây bàng to tướng, cành trơ trọi với những búp lá non mới nhú, trông khẳng khiu như những cánh tay gầy. Y dẫn tôi vòng theo mé sân, mở mấy lần khóa, rồi tới một khu toàn buồng. Một hàng chữ đỏ kẻ trên tường: Xà Lim II. Hơn 7 tháng trời ở xà lim III, hôm nay tôi mới nhìn thấy xà lim II. Xà lim II ở ngay cạnh cổng phòng trực của trại chung, nên có cái loa, tiếng nói đang vang vang nghe rõ mồn một. Vào tới buồng, đã có một anh nằm đang đắp chiếc chăn bông, lồm cồm bò dậy. Trong khi tên cán bộ rút chốt cùm, tôi tự hiểu, nên nhấc cùm ra và cho một chân vào. Y đóng chốt cùm, khóa cửa. Tôi quay lại gật đầu chào anh bạn mới. Anh chàng này độ 26, 27 tuổi, trông có vẻ khỏe mạnh, tuy da vẫn xanh xao. Anh mỉm cười gật đầu chào lại tôi. Tôi lục đục vừa trải chiếu vừa ngó chung quanh tường, lên cửa sổ. Không khí ở đây có vẻ khoáng đãng hơn xà lim III, cả ánh sáng nữa. Phía trên đầu nằm là một khung cửa sổ to, kích thuớc khoảng 1 mét x 60 phân, với những song sắt đường kính 2 phân, có lưới thép phía trong. Mép dưới cửa sổ chỉ cao hơn nền gạch khoảng 2 mét rưỡi. Do đấy, nếu đứng lên sàn, có thể nhìn ra ngoài được, phía giàn nho. Phía chân nằm, ngay trên cửa ra vào là một khung cửa sổ nữa nhưng bé hơn, khoảng 50 x 30 phân, cũng bọc lưới thép phía trong sát vào chấn song. Cùm và sàn cũng giống như xà lim III. Khác hẳn với cảnh vắng lặng tịch mịch của xà lim III. Ở đây có một chiếc loa gắn ngay trên cửa lớn ra vào trại chung, chĩa ra sân phía trước có giàn nho, nơi tôi vẫn đi cung. Như vậy là ngay cạnh xà lim II, vì vậy nằm trong buồng, tôi nghe tiếng loa rất rõ. Buổi chiều và tối đêm hôm đó, qua những câu chuyện thăm hỏi anh bạn mới cùng buồng, tôi được biết sơ lược về anh: Tên Phạm Huy Tân, nghề chuyên môn là y tá, phục vụ tại một xã ở Hà Nam, đã có vợ và một con. Anh tham gia hoạt động bí mật trong một đảng chính trị: “Tân Cách Mệnh Việt Nam Phong Trào” (gọi tắt là “Tân Phong”). Chủ tịch đảng tên là Chương (tôi quên họ), cũng là chủ tịch một xã thuộc Hà Nam. Đảng Tân Phong đã hình thành hoạt động được gần 3 năm. Đảng kỳ nền vàng có một sao đỏ ở giữa; cũng có tôn chỉ, mục đích, cương lĩnh chính trị; số đảng viên vài chục; đã phát triển lên miền cao là Hòa Bình, Tuyên Quang. Về sau bị lộ, vì Cộng Sản đã cài được người của chúng vào trong Ban lãnh đạo. Vì thế, nhân một buổi họp đảng, (lợi dụng một đám cưới nhiều khách khứa các nơi ra vào, đảng họp bí mật ở giữa một gian nhà trong), bất ngờ, Cộng Sản tới vồ tất cả tại chỗ. Sự việc đã xẩy ra cách đây hơn 6 tháng. Về phía tôi, tôi cũng nói thẳng là ở trong Nam ra. Tất cả những chuyện mà tôi nói chỉ nằm trong phạm vi tôi đã khai báo với chấp pháp. Đồng thời chỉ có khái niệm sơ lược. Qua một số ngày, với một số thử thách của tôi, cùng với những hiện tượng, tôi biết chuyện đảng phái và anh ta bị bắt là có thực. Nhưng, anh ta thuộc loại khôn ngoan vặt. Trong tình thế này, để tự cứu mình, anh ta đã thở ra những hơi muốn “tiến bộ”. Như vậy, anh ta còn nguy hiểm hơn một tên cán bộ dùng khổ nhục kế. Vì mọi người cùng cảnh sẽ mất cảnh giác, dễ tâm sự thổ lộ những tư tưởng và quan điểm, cũng như những công việc mình đã, đang và sẽ làm. Tuy nhiên, dù sao y cũng còn non nớt, cho nên sau những buổi đi cung về, nhiều khi y lộ vui ra nét mặt. Đôi lúc không kìm được, y nói thành lời: Nào là chấp pháp rất tin tưởng và thương mến y, nào là nhiều lúc chấp pháp vỗ vai thân mật như anh em. Ngay ông cán bộ tên Tư người miền Nam trực xà lim cũng tỏ ra có thiện cảm với tên Tân, thường gọi y ra sai làm những việc vặt như làm vệ sinh, hoặc đôi khi sai quét đường đi ở giữa hai dẫy xà lim. Ai đã từng ở xà lim một vài tháng trở lên mà được sai ra làm những công việc này, là một hình thức được chiếu cố, gia ân. Thứ nhất, sẽ được thoải mái, không bị gò bó ngồi một chỗ; hai nữa, điều đó nói lên lòng tin của cán bộ, không sợ anh có thể lợi dụng cơ hội để liên lạc, dưới nhiều hình thức, với các buồng khác, tuy rằng vẫn luôn luôn có cán bộ đứng coi anh làm. Ngay thái độ tên Tân cũng có vẻ bợ đỡ, nịnh nọt cán bộ ra mặt. Thái độ ấy, và ý đồ ở trên, lòng tôi làm sao ưa y được. Dù vậy, tôi vẫn bình thường không tỏ một cừ chỉ nào quá đáng thể hiện là không ưa anh ta. Một lần, tôi hỏi thử: - Liệu vụ án của Tân có đem ra xử không? Và xử thì Tân sẽ bị khoảng bao lâu? Y có vẻ đắn đo, thận trọng, cuối cùng mới thổ lộ: - Theo như một số hiện tượng, từ đấy tôi suy đoán, kết hợp với chấp pháp của tôi, có thể hơn một tháng nữa, vụ án của tôi sẽ được đưa ra xử. Ông Chương đầu vụ có thể bị từ 12 tới 15 năm. Còn tôi, nhiều hy vọng có khi không phải ra tòa. Nếu có ra, cũng chỉ từ 2 tới 3 năm. Qua cách trả lời, cũng như sự suy lý của y, tôi nhận thấy: Tên này đang bị cái bùa tình cảm của chấp pháp, chắc rằng y đã phải tố nhiều người trong tổ chức của y. Y tin như vậy là một cách để tự cứu. Một loại người như vậy, nếu chấp pháp hỏi về tư tưởng, về tâm sự, v.v… của người cùng buồng, là tôi, tất nhiên y phải nói bằng hết. Rồi có khi y sẽ được giao nhiệm vụ gợi chuyện, tìm hiểu tư tưởng và công việc làm của tôi, với những lời hứa hẹn đẹp đẻ. Với tôi, dù có nhận định y không phải là loại người như trên đi nữa, cũng đừng hòng bao giờ tôi tâm sự chuyện riêng, huống chi tôi đã thấy y là một tên cơ hội rõ ràng. Tuy vậy, qua cái nhìn của tôi về y, chưa cho phép tôi nhận định chung về các đảng phái ở miền Bắc. Tuy tôi cũng thấy trong lòng không được vui, vì y là cán bộ chịu trách nhiệm về tuyên truyền, liên lạc mà trình độ như vậy, tư tưởng lại bấp bênh giao động như thế. Ngay bản thân cán bộ cốt cán, cũng không hề có lý tưởng thực sự! Ở đây, tôi lại nói “thực sự”, vì rất nhiều người chỉ có lý tưởng ở mồm, mà không phải ở tim, ở óc. Tôi cũng rất tiếc không được gặp ông Chương nào đó, chủ tịch đảng Tân Phong, để tìm hiểu và học hỏi những khả năng và kiến thức của ông ta, để từ đó thấy được về đảng Tân Phong này. Tuy vậy, qua một cán bộ tuyên truyền, tôi cũng có một số khái niệm về đảng đó. Vì thế, tôi mới thấy trong lòng không có một niềm phấn chấn tin tưởng. Theo Tân, vụ của y có hơn 10 người hiện đang ở trong Hỏa Lò, một số nhẹ ở trại chung. Ngay ở xà lim II này, buồng số hai có một người anh họ cùng vụ, chịu trách nhiệm về ngoại giao và tài chính, y là giáo viên Cấp hai. Xà lim II gồm có 8 buồng, mỗi bên 4 buồng đối diện nhau, không bị cùm, đứng lên cái cùm có thể nhìn thấy từ trán của nhau trở lên. Nhưng, nội quy xà lim nghiêm cấm đứng lên sàn. Bất cứ lúc nào cửa con xoạch mở, nếu thấy anh đứng lên sàn, dù chỉ tựa lưng vào tường đứng chơi. Cùm sẽ được rút ra ngay và mời anh cứ tự nhiên bỏ chân vào, đừng nói gì thêm nữa, vô ích. Trong 8 buồng, chúng dành buồng số 8, bắt một vòi nước máy vào làm chỗ đỗ phân và tắm rửa. Do điều kiện bị cùm, hơn nữa trong buồng không hề nhìn thấy gì bên ngoài, vì thế tất cả linh khí của thân thể, đều tập trung về thính giác, để phán đoán và xác định âm thanh. Càng ở xà lim lâu, thính giác càng bén nhậy, tinh vi. Tuy chưa bao giờ thấy một ai ở cùng xà lim, nhưng lúc đó tôi đã biết: Buồng 1 giam một người, buồng 2, hai người, không bị cùm. Buồng 3 không có người. Buồng 4 là buồng chúng tôi. Buồng 5, nhà tắm, buổng 6, một người. Buồng 7, sát nhà tắm, có hai người đều là nữ, bị cùm mỗi người một chân. Thỉnh thoảng ban đêm, tôi thường nghe tiếng phụ nữ khóc sụt sịt, nhiều khi thành tiếng nức nở thảm thiết ở phía đó. Theo Tân, do sự kích thích tò mò của đàn ông con trai, nên một lần đã liều, khi cán bộ vào gọi cung một cô, Tân đứng trên chiếc chăn bông gấp cuộn lại, y lén, nép nhìn. Cô đó khoảng 20 tuổi, trông như nhà tu, ở xà lim chừng độ gần tháng nay. Tôi nghe chuyện cũng thấy lòng thương hại thông cảm. Tôi là đàn ông thanh niên, bị cùm đã thấy khổ sở khi ỉa đái, phụ nữ thì thật khó khăn. Nhất là đêm hôm, cán bộ đàn ông thường mở cửa con kiểm tra; có khi không mở, chỉ đứng rình qua cái khe của miếng sắt hơi bẻ cong, che cửa con. Ở ngoài nhìn vào thấy nửa buồng, còn ở trong nhìn ra chỉ thấy trần nhà. Chắc rằng, thôi thì thân gái, trong cảnh này cũng đành phó mặc! Vì hai cô này, trong xà lim, tâm trạng hầu hết đều tò mò muốn biết người và sự việc. Hôm qua, buồng số 2 đối diện một anh đã bị bắt tại trận đang đứng trên cùm, kiễng chân thập thò nhìn khi tên Tư, cán bộ xà lim mở cửa số 7 cho ra rữa. Cùm rút chốt luôn, và anh đó đã bị cùm. Tên Tân rất khôn ngoan tinh quái. Y nắm được những quy luật giờ giấc, cùng những mánh khóe rình mò của cán bộ, nên y cũng đứng lên mà lão cán bộ không biết. Trong một ngày, ở xà lim II, giờ tương đối an toàn nhất là sau giờ tan tầm 5 giờ, nghĩa là từ 5 giờ 15 phút đến 6 giờ tối. Lúc đó, cán bộ vừa bàn giao thay ca, kiểm nhận nguời hết lượt xong, đi ăn cơm. Tên Tân tỏ ra nhiều hiểu biết về các cán bộ ở Hỏa Lò, làm nhiều khi tôi phải ngạc nhiên suy nghĩ. Thì ra, lúc mới bị bắt, Tân cũng ở ngoài trại chung, mỗi ngày hàng trăm người, đủ mọi thứ tội. Được gần một tháng, không hiểu vì sự khai báo thế nào của những người trong cùng một tổ chức đảng, nên y bị đưa vào xà lim. Vì vậy, qua chuyện trò với y, tôi được biết: Giám thị trưởng của Hỏa Lò là tên Võ, người miền Nam tập kết. Tuy y chỉ là Thiếu Tá, nhưng đã già rồi, y rất có thanh thế, vì cùng lứa với y mà y quen biết, có nhiều người đã là cán bộ trung ương đảng. Qua đó, tôi đã đoán ra được, hôm đầu tiên tôi bị đánh và bị cùm mồm. Một ông già gần 60 tuổi đeo kính trắng vào tha cho tôi, chính là tên Võ giám thị. Còn hai phó giám thị, một là tên Trì, Trung úy người Quảng Bình, một là tên Lê, Trung úy quê ở Hưng Yên. Hỏa Lò có hai y tá, một nam và một nữ. Nữ là mụ Dậu đã tiêm cho tôi mấy lần khi tôi bị sốt. Theo Tân biết, mụ là cán bộ lưu dụng, vì có chồng là một cán bộ cách mạng nằm vùng nội thành. Nam y tá tên là Huệ, thường coi ở bệnh xá. Ba tên cán bộ văn thư, thường gọi đi cung là lão Bằng, mụ Hoa và một lão già tên Kim cũng đeo kính trắng người Bắc, Thuợng sĩ. Lão Kim này là cán bộ gần như lưu dụng, vì thời Quốc Gia trước 1954, lão cũng là cai tù ở Hỏa Lò, nhưng là người của Cộng Sản cài vào. Còn mụ Hoa có một tiểu sử như sau: Mụ là gái Quảng Trị. Trước 1954, theo chỉ thị của đảng, mụ bán xôi chè cho binh lính ở những đồn bót tại Quảng Trị, rồi yêu đương và trở thành vợ chồng với một anh Trung sĩ Quốc Gia ở trong đồn đó. Cuối cùng, Cộng Sản dùng mụ này làm nội ứng, nên đã chiếm được đồn lính sau một đêm tấn công. Sau hội nghị Genève, mụ bỏ chồng, tập kết ra Bắc theo già Hồ, rồi làm công an ở Hỏa Lò. Đầu năm 1961, một sự trớ trêu, chính người chồng mụ ngày xưa lại vào Biệt Kích và ra Bắc, rồi không may bị bắt đưa về Nghệ An. Lúc ấy, mụ còn là cán bộ ở đó, bất ngờ gặp lại người chồng năm xưa. Mụ đã mua cho một bánh chưng với một cái bánh mì, cùng với một giờ chưởi bới, giáo dục. để cuối cùng người chồng cũ uất hận và khổ đau. Đã quẳng cả bánh chưng, bánh mì ra sân dù đói, và phải đi cùm vì hỗn láo với cán bộ. Nghe tên Tân kể, tôi băn khoăn, làm sao mà y biết rõ thế? Y giải thích là, trong đám tù ở buồng y, có một cán bộ tập kết biết rỏ mụ ta, kể lại. Sau khi nghe chuyện Tân kể, mỗi khi mụ Hoa vào gọi cung tôi, liếc nhìn cái dáng đi vặn vẹo và cái môi thâm xì của mụ. Một nỗi niềm vừa thuơng hại, lại vừa ghét trỗi dậy trong lòng tôi. Ghét, vì mụ đã làm cho bao nhiêu chiến hữu của tôi phải nằm xuống, trong đêm Cộng Sản cướp đồn. Thuơng hại, vì mụ quê mùa, ngu muội, nghe lời phỉnh phờ bịp bợm của tụi lãnh tụ Cộng Sản. Cố hy sinh tất cả, để tiến tới một thiên đàng Cộng Sản không bao giờ có thực. Cũng giống như những người lính của họ Tào, đã nổ lực vượt núi, vượt rừng để tiến tới cái rừng mơ, mà thỏa chỉ, trong truyện Tam Quốc của Trung Hoa. Vào một ngày thứ Bảy, tên Tân được gọi ra cổng kể nhận tiếp tế của vợ. Khi về, y xách theo một cái túi, gồm 2 cái bánh chưng, khoảng 2 lạng muối vừng đã giã, 3 lạng đường phèn (mía), 3 cái bánh mì và 10 quả chuối; đặc biệt nhất là 2 gói thuốc lá Trường Sơn. Ngày từ một vài ngày trước, tôi đã thấy y lấm la lấm lét, nằn nì lão Tư để xin chỗ cơm còn thừa của một buồng bị bệnh không ăn hết, để rồi tên Tư quát “Nhanh lên!”, y vội vàng chạy ra cái chõng, lấy bát cơm thừa đổ lên cái khăn mặt của y, chừng độ một nắm cơm, khoảng 1/3 suất. Y hí hửng sung sướng ngồi ăn, không một chút ngượng ngùng gì với tôi cả. Với một người như vậy, thái độ của tôi càng tỏ ra coi thường miếng ăn. Thực ra, trong lòng tôi, tôi không cần biết y có cái gì cả. Nhưng, trong một căn buồng chật hẹp sát nhau như thế, chạy đi đâu được! Cái gì cũng đập vào tai, vào mắt mình! Thấy y ăn quả chuối, y ăn võ trước rồi ăn ruột sau. Y vuốt ve, nâng niu những thứ đồ tiếp tế như cái gì quý giá nhất của đời y. Tôi chỉ còn cách duy nhất là lựa thế nằm xuống, đắp chăn để khỏi nhìn thấy cái cảnh không muốn nhìn. Nhưng, tới khi y đánh diêm để hút một điếu thuốc, tâm hồn tôi bị xáo trộn dữ dội. Trong một căn buồng quá nhỏ, khói thuốc quạt vào mũi tôi như gãi vào từng tế bào, làm cho hồn tôi như ngây ngất đê mê, và như thách thức lý trí, làm đầu óc tôi đầy vơi những nghĩ suy. Vô kế khả thi. Nhưng, bảo tôi mở miệng ra xin y một điếu thuốc, thà chết! Điếu thuốc của y hút làm bận rộn đầu óc tôi, nghĩ hết cách này đến cách khác, nhưng chẳng cách nào có thể thực hiện được. Để rồi, ngập ngừng di vào giấc ngủ muộn của đêm thâu. Bị cùm mà ở chung với một người không bị cùm, người bị cùm lại thêm một nỗi khó khăn nữa. Nếu bị cùm một mình, tới bữa cơm, cán bộ phải mở cùm cho ra lấy cơm. Một ngày được cho ra đổ bô một lần. Đó, chính là lúc nghỉ chân vào thay đổi chân. Ở đây, hai ngày cán bộ mới mở cho ra một lần để đổ bô phân mình đi đại tiện. Còn cơm, nước, cũng như khi trả bát, tên Tân được ra vào hai lần, mà mình lại phải mang ơn người khác. Nhưng, ở trường hợp này, lại chẳng muốn họ làm cho mình. Còn một vấn đề nữa là những khi đi giải, lúc đầu tôi thật ngượng ngùng lúng túng, chỉ có một cái thế đứng duy nhất, nếu anh kia đang ngồi, là phải vén quần ngay trước mặt anh đó. Rồi lúc đi ỉa, không thể kéo cái bô từ gầm sàn ra, mở nắp, rồi lựa thế lê đít ra cạnh mé sàn mà ngồi đi được. Trong lúc anh kia đang ngồi ở sàn bên cạnh, chỉ cách có 60 phân. Vì vậy, phải cố xách cái bô lên sàn, rồi lựa thế, một chân quỳ, một chân hơi nghiêng nghiêng trong cùm, để mông ngồi lên miệng bô. Như vậy, đỡ hôi cho người cùng phòng, nhưng mình phải chịu cạnh cùm nghiến vào chân. Mỗi lần ngồi khó khăn như thế, thường phải từ 20 đến 30 phút. Nhiều khi ê cả chân, ê cả đít, mỏi cả người. Tuy vậy, lúc rửa chỉ còn một cách duy nhất, là lại phải xách bô xuống nền, dịch đít ra mé sàn, lựa thế hai tay đưa ra phía sau, một rửa, một cầm gáo đổ. Chưa hết, người bị cùm, người không, ở chung một phòng còn bị một khía cạnh tâm lý nhỏ nữa. Người ta nói, trong cuộc đời: Suớng, khổ, vui, buồn, một phần do môi trường chung quanh, nên mầu đen mà cạnh mầu trắng thì hai mầu càng làm rõ cho nhau. Trong khi chân mình lạnh buốt trong cùm, giở người, hoặc ngồi lên, nằm xuống cũng khó khăn; họ, sau bữa cơm, đi bách bộ, dù chỉ 4, 5 bước, đi đi lại lại hai tay chắp sau đít thật tự do. Sáng dậy, họ tập thể dục, chạy tại chỗ dăm phút cho khỏi tê chân. Mình, chân tê lại cắn rần rần cũng đành nằm im mà thèm. Sáng hôm sau, khi Tân và tôi mỗi người một sàn đang cắm cúi ăn cơm, tự nhiên Tân lên tiếng: - Anh Bình này, tôi thấy các anh ở miền Nam vẫn coi thường miếng ăn lắm! Tôi quay sang nhìn y để phán đoán qua nét mặt, y hỏi như vậy là ý muốn gì? Vì chưa xác định rõ, nên tôi cũng lửng lơ: - Miếng ăn thì cần thật, nhưng nhiều lúc chẳng coi ra gì cả. Y cười, hơi ngượng ngùng: - Tôi biết là anh không cần thiết ăn lắm…Anh có dám hút thuốc không? Tôi đã nắm được ý của nó. Tôi sáng mắt lên: Nếu bỏ một bửa ăn để đổi lấy thuốc hút! Tôi đồng ý ngay! Y hơi gượng gạo: - Bây giờ thế này nhé! Thuốc lá thì tôi không cần, tôi chỉ thích ăn thôi. Vậy, để cho công bằng: Một bao thuốc lá Trường Sơn, giá bên ngoài là 3 hào. Trong đây, tiêu chuẩn ăn, bao gồm cả thuốc men do nhà nước đài thọ, cho một phạm nhân là 12 đồng một tháng. Như thế, vị chi mỗi ngày là 4 hào, kể cả canh. Do đó, cơm là 3 hào, còn một hào là canh và thuốc men. Vậy thì, một suất cơm cả canh, 1 hào 8 hay 9, còn một xu chi cho thuốc. Tôi cứ rộng rãi, cho một suất cơm là 2 hào. Vậy nếu anh đồng ý, mỗi bữa tôi chỉ lấy nửa suất cơm thôi, còn canh phần anh. Tôi sẽ đưa cho anh 6 điếu thuốc. Hay một bao là một suất rưỡi. Nhưng mỗi ngày tôi lấy nửa suất thôi, kẻo anh đói quá! Tôi im lặng ngồi nghe và nhìn y tính toán. Rồi y lại tỏ ra một người có lòng nhân ái nữa. Y sợ tôi đói quá, nên mỗi ngày chỉ lấy nửa suất cơm thôi! Lòng tôi trỗi dậy một niềm tê tái lẫn oán thù. Tê tái vì tình người như nước ao bèo. Oán thù, vì một chế độ khinh khủng đã tạo ra một cuộc sống, cùng khổ cho người dân. Những nếp suy nghĩ tính toán vặt vãnh, làm tan hoang cái truyền thống nhân ái, đạo đức, đùm bọc tốt đẹp của dân tộc. Tuy trong lòng nghĩ như vậy, nhưng trong cái thế và cảnh này, tôi sẽ đồng ý đổi nửa suất cơm thôi, và sẽ là lần đổi duy nhất đối với nó. Vì thế, tôi lạnh lùng: - Tôi chỉ cần ăn để không chết thôi! Vậy, chiều nay tôi hãy đổi thử nửa suất thôi, xem sao đã. Y ra trả bát, xong xuôi y lấy bao thuốc đưa cho tôi 6 điếu. Trông y có vẻ hưng phấn, thỏa mãn, cũng lấy một điếu thuốc phì phèo. Tâm tư của tôi thực nặng chĩu. Tôi cũng châm một điếu thuốc, rồi nằm đắp chăn, mắt nhắm nghiền cho hồn say sưa, mà lòng thì quặn thắt. Ngay chiều hôm ấy, khi y lấy cơm vào. Sau khi quản giáo đóng cửa, tôi bảo y cứ xẻ lấy một nửa suất theo ý muốn, rồi đưa lại cho tôi. Vì hút thuốc mà trong lòng lại chẳng vui gì, nên mỗi ngày, tôi chỉ hút một điếu vào lúc sắp đi ngủ. Y tỏ vẻ không được vui khi thấy tôi hút ít như vậy. Những ngày sau đó, lúc hút cũng như lúc thở khói, y cố ý gợi cho tôi thèm, nhưng tôi vẫn lạnh lùng. Thậm chí, y phải hỏi: - Anh không hút thuốc lá nữa à? Tôi thủng thẳng khô khan: - Không thích hút nữa! Một hôm, y còn gạ tôi trắng trợn: - Tôi biết anh chỉ thích hưởng hương hoa tinh thần thôi! Vậy, tôi còn một cái bánh chưng, giá ở ngoài là 5 hào. Tuy nhiên, tôi cũng chỉ lấy hai suất rưỡi, cũng mỗi ngày nửa suất thôi. Anh ăn một lần để thưởng thức cái ngon của bánh chưng? Tôi lạnh lùng nhìn y, lòng căm phẫn: - Cám ơn, tôi không thích! Mặt y cứ trơ ra, không một chút ngượng ngùng. Điều làm tôi không hiểu được là tại sao, y ăn nhiều thế, mà vẫn còn đói dữ như vậy? Mới ngày hôm kia, buổi trưa y đã được quản giáo gọi ra, rồi mang vào một suất cơm thêm. Suất cơm của buồng số 6. Chẳng hiểu vì sao buồng đó, sau một lần đi cung về rồi bị cùm một chân. Anh ta đã tuyệt thực, tới nay đã 4 ngày rồi. Vì tên Tân thỉnh thoảng quét dọn, nên tên Tư đã gọi ra cho một suất cơm. Tôi nhìn cơ thể tên Tân, thấy y chỉ mập hơn tôi vì người tôi quá gầy thôi, chứ y làm sao khỏe, rắn chắc như lúc tôi chưa bị bắt. Vậy mà đồ tiếp tế với lại thỉnh thoảng được cán bộ cho ra vơ vét. Thế mà, nhiều lúc y như điên cuồng, đứng ngồi không yên vì đói. Tôi chẳng hiểu buồng số 6 tội gì, phải tuyệt thực. Chỉ nghe thấy báo cáo xin nước uống, còn nhất định không ăn. Nhưng, cán bộ xà lim cương quyết, có ăn mới cho uống nước. Một bữa sáng, sau khi các buồng đổ bô xong, tên Tư vào gọi tên Tân ra. Tôi nghe mở buồng số 6. Hôm nay cũng là ngày thứ 6 anh ta không ăn. Tôi nghe tiếng nước dội rửa và tiếng quét. Chừng 30 phút sau thì Tân về. Tôi hỏi, được biết: Buồng số 6, năm, sáu ngày nay đầy sàn cứt đái, bôi đầy lên tường. Vào buồng, cơm canh đổ lẫn với cứt, có mùi xông lên không chịu được. Anh ta cứ nằm ngửa, đắp chăn che mặt. Lợi dụng một lúc tên Tư quay ra, Tân hỏi anh ta tội gì, nhưng anh ta không trả lời. Tân nhấc cái chân xuống xem mặt, chừng 30 tuổi, trắng trẻo, anh ta vẫn nhắm nghiền mắt. Tân vội phải đậy chăn lại sợ tên Tư vào biết. Theo Tân, tên Tư nói là, nếu anh ta tuyệt thực mà cho uống nước,chỉ từ 5 tới 7 ngày là chết thôi, bởi vì nước sẽ hòa loãng máu rồi theo nước đi giải ra. Còn nếu không cho uống nước, 20 ngày hay một tháng cũng không chết. Nhưng, có một điều quần áo, chăn của anh ta toàn cứt và cơm thiu nên dù quét dọn, buồng vẫn thối lắm. Những ngày thứ bốn, thứ năm, tôi còn nghe tiếng đập cửa xin nước, nhưng từ ngày thứ 6 trở đi cứ thấy im lìm. Mãi tới đêm ngày thứ 9. Khoảng 10 giờ, nghe có tiếng mở cửa buống số 6, rối tiếng chân người khiêng đi sau khi, có tiếng rút chốt cùm. Tôi và Tân, trong buồng cố lắng nghe, nhưng không biết là anh ta chết hay sống, hay đưa đi đâu. Báo hại, sáng hôm sau tên Tân lại phải quét rửa buồng. Tân về, nhăn nhó bảo là cái chăn cứt thối quá, mà tên Tư bắt giặt phơi ở phía buồng vãng lai. Tân lại kể, khi ra đấy, nhìn vào sân trại chung, y thấy bây giờ Hỏa Lò đầy tù, ngồi đầy cả sân. Cách đây hai tháng, khi Tân còn ở trại chung, trại chỉ có khoảng 4, 5 trăm người. Nhiều buồng chỉ 4, 5 chục người, có buồng để không. Y nói, y gặp người nhà tiếp tế, nói thầm cho biết, ngoài xã hội bây giờ dân chúng hoang mang lắm. Ở đâu, tình nào cũng thế, các nhà tù chật ních. Đầu tháng Tư vừa rồi, có lệnh của Bộ Công An: Tất cả những ai từ lính trơn cho đến Thượng sĩ, mà hồi 1954 chỉ bị học tập và giáo dục tại địa phuơng mấy ngày rồi cho về (Chỉ có sĩ quan mới bị bắt đi học tập ở trại giam). Nay đều được mời vào “ấp” để lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa. Những người Hạ sĩ quan và lính tráng này, biết mình có tí đuôi với chế độ cũ, nên dù ở địa phương nào. Họ luôn luôn tỏ ra là những người tích cực, năng nổ trong mọi lĩnh vực với chế độ mới. Ở địa phương, hợp tác xã, nhà máy, công nông trường, v.v…đâu đâu cũng vậy. Chính vì thế, sau 9 năm nỗ lực công tác, nên ngày nay rất nhiều người đã được đảng hoặc chính quyền tín nhiệm, tin cậy. Có người đã trở thành đoàn viên, có người là tổ trưởng tổ lao động xã hội chủ nghĩa của, công trường hay nhà máy v.v…Thậm chí, có người do tinh thần hăng say, đã công tác, học tập ngày đêm quên mình, nên đã trở thành chủ nhiệm hợp tác xã, hay thư ký công đoàn…..Họ tưởng rằng như vậy là cuộc đời từ nay yên lành, chỉ còn một lòng phơi phới yêu thuơng với chế độ mới của mình. Nhưng, đùng một cái! Bây giờ tất cả được mời đi học tập, bất kể anh đang ở cương vị nào. Lý do: An ninh của Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa đang bị đe dọa! Ngoài nhân dân có cái từ mới là:”Trót xỏ nhầm giầy” (đã đi lính hoặc làm việc với chính quyền Quốc Gia). Dù xỏ nhầm giầy một ngày cũng phải đi. Tỉnh nào vào trại giam tỉnh đó. Sau khi lập hồ sơ và xét hỏi qua loa, rồi được chuyển đi các trại trung ương. Bao nhiêu người ngã ngửa ra. Không những bản thân ngưòi đi tù và gia đình người ấy, mà ngay các cán bộ địa phương cũng không thể nào ngờ được. Bởi vì, đã 9 năm trường dài đằng đẵng, trôi qua rồi! Như thế, cho phép ta nhận định (sau tháng 4/1975). Nếu, Cộng Sản chưa hỏi tội đến những người đã từng cộng tác với “Địch” dù chỉ một ngày, là vì chúng còn muốn lợi dụng, hoặc vì chưa ổn định những công việc khác lớn hơn. Vì tình thế, điều kiện chưa cho phép, sợ hoang mang lòng dân, trong khi chưa ổn định xã hội, chưa nắm được chặt những tầng, loại người chúng nghi ngờ…..Chứ trước sau, sớm muộn gì chúng cũng sẽ hỏi tội. Lúc đó chúng có đầy rẫy lý do hợp lý: Nào là Hạm Đội 7 tập trung về biển Đông, Trung Quốc chuyển quân, Thái Lan động đậy, v.v… và v.v… |
|
|
![]()
Post
#38
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Lăm
Người Nữ Tù Xà Lim II... Cuối Xuân và trời đã bắt đầu sang Hè, không khí trở lên dìu dịu. Thỉnh thoảng vẫn còn những trận mưa Xuân lưa thưa phảng phất, như báo cho nhân thế chuẩn bị đón nhận những ngày nắng hạn. Tối hôm đó, tôi đang ngồi đăm chiêu với bao nỗi đầy vơi của cuộc đời. Giữa cái vắng lặng đến lạnh lùng, sau khi cái loa cạnh xà lim đã tắt ngủm lúc 9 giờ tối. Đột nhiên, từ một cái loa phòng ngoài góc sân có giàn nho phía trước, tiếng một người miền Nam thong thả dõng dạc: “Các anh em chiến sĩ trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa thân mến! Tôi là Phan Thanh Vân, Trung úy phi công thuộc phi đội “X” của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tôi đã nghe theo lời phỉnh phờ dụ dỗ của Mỹ Diệm, lái chiếc C-47 xâm nhập bầu trời miền Bắc xã hội chủ nghĩa để thả gián điệp biệt kích, đã bị bộ đội phòng không của chính phủ cách mạng hạ…..tại Cồn Thoi, Ninh Bình. Tôi đã bị thuơng nặng, nhưng do chính sách khoan hồng của nhà nước cách mạng, đã tận tình cứu chữa cho tôi. Nay, tôi đã bình phục. Được sự giáo dục, đùm bọc của cách mạng, tôi đã thấy được tội lỗi phản dân hại nước của tôi, hiểu được đường lối nhân đạo thuơng yêu dân của đảng và chính phủ. Tôi kêu gọi tất cả các bạn thuộc binh chủng Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hãy vì độc lập của Tổ Quốc, vì hạnh phúc tự do của nhân dân. Các bạn hãy mạnh dạn đứng lên quay về với chính phủ cách mạng, về với nhân dân. Hãy lái máy bay về vùng Mặt Trận Giải Phóng, các bạn sẽ được đón tiếp nồng hậu như anh hùng. Các bạn sẽ góp sức mình cùng nhân dân tiêu diệt kẻ thù là Mỹ Diệm…” Nguyên văn thì tôi không thể nhớ rõ, nhưng nội dung là như vậy. Tai tôi lắng nghe, mà lòng tôi rỉ máu dần dần, tên Tân đang nằm cũng bò dậy nghe. Mắt tôi hơi sượng sùng khi gặp ánh mắt y. Tôi hỏi một câu thăm dò, để giảm nét hổ lòng: - Họ bắt Phan Thanh Vân phải đọc như vậy sao? Tên Tân tỏ vẻ hiểu biết: - Mỗi lần đọc một bản như vậy, được thù lao 5 đồng. Một phần do họ bắt đọc, phần khác, cũng do mình muốn tiến bộ. Thấy y có vẻ hiểu biết thật, tôi hỏi tiếp để sáng tỏ: - Bài viết do họ viết sẵn, hay do mình phải viết? - Họ gợi ý cho mình viết, rồi họ sửa! Tuy ngoài miệng hỏi chuyện Tân, nhưng trong đầu tôi liên miên với giòng suy tưởng. Nếu chúng thu thanh tiếng nói của Phan Thanh Vân, rồi đem về miền Nam, phat cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa nghe. Hoặc cho nhân dân nghe, thì có thể làm ruỗng lòng người có tinh thần, làm nghiêng ngả cho người không có chính kiến, khi những người này còn mơ hồ về Cộng Sản. Thật là tai hại! Tên Tân còn nói tiếp là đã nghe Phan Thanh Vân đọc mấy lần rồi. Hiện nay Vân được ở trại thợ trong khu nhà bếp, tỏ ra rất tiến bộ, cán bộ chiếu cố rất nhiều mặt. Thảo nào, tôi nhớ tới hình ảnh Vân ngồi gốc cây bàng, hôm đầu tiên tôi bị bắt vào Hỏa Lò. Tôi im lặng, chẳng muốn hỏi nữa, về một câu chuyện mà trong lòng mình chẳng vui gì. Lòng tôi cứ bồng bềnh, lững lờ chảy về miền Nam xa xôi. Hàng ngày, tiếng loa ở cổng trại chung cứ chọc vào tai tôi, tình hình Phật giáo sôi sục đấu tranh với chính quyến…Tôi chẳng lạ gì khi nghe đài truyền thanh của địa phương Hà Nội và phát thanh trên vô tuyến của Cộng Sản. Nhưng, với khả năng nghiệp vụ của tôi, cộng với kiến thức riêng, tôi cũng thâu nhận được một số tin tức qua từng khía cạnh của từng sự việc. Những người chịu suy nghĩ thấu đáo, ai cũng hiểu ở đây chính là do bàn tay máu của Cộng Sản. Cộng với cái tự do nhố nhăng không đúng chỗ, không đúng lúc của miền Nam. Với tác phong lề lối làm việc, mang sẵn tinh thần tắc trách nói chung của cán bộ cũng như chính quyền miền Nam. Cộng sản tha hồ, lợi dụng thao túng… Chúng gieo rắc lẫn thổi phồng, bóp méo, khích lệ mọi mâu thuẫn giữa chính quyền với nhân dân, với tôn giáo, với đảng phái. Rồi chờ, khi có điều kiện, có thời cơ, chúng chỉ cần cầm cái gậy chọc vào từng điểm. Thí dụ “Vụ Phật Giáo”.. Chúng sẽ có hàng trăm cách, tùy theo từng nơi, từng lúc. Tôi cứ hình dung: Trong một đám rước đang diễn hành trang nghiêm trên đường phố ở Huế chẳng hạn, của một ngày lễ Phật giáo đặc biệt. Ngay trong đám Phật tử đang diễn hành này, thậm chí ngay trong các tiểu chức sắc ni tăng, chúng đã cài người của chúng vào, cùng làm việc với nhau mà cũng không biết, lợi dụng điều kiện lúc đông đúc, cũng như lúc thuận tiện, chúng dễ dàng bí mật thả truyền đơn chống và mạt sát chính quyền. Các cơ quan có trách nhiệm về an ninh như cảnh sát, mật vụ, v.v… Lúc đó sẽ giải quyết thế nào? Khi chưa hiểu rõ đầy đủ những thủ đoạn tinh vi của Cộng Sản. Khi chưa có kinh nghiệm hữu hiệu để giải quyết những trường hợp phức tạp như thế, chỉ còn một phương pháp ngăn chặn, bằng cách tìm tòi, khám xét làm ngưng đọng đám rước. Đám rước đã rối loạn, Cộng Sản càng làm rối loạn hơn, hò la chính quyền Công Giáo phân biệt, đàn áp Phật tử, v.v…Mâu thuẫn chồng lên mẫu thuẫn, lòng căm hờn chồng lên lòng căm hờn. Lúc đó chỉ có trời mới giải quyết nổi. Thân tôi đang chìm trong nỗi tăm tối ngục tù, giờ đây lại đắp thêm mối ưu tư cho quê nhà miền Nam thương yêu. Hôm sau, chiếc loa ở cổng đã ngừng mồm mép, như vậy là đã 8 giờ, giờ bắt đầu làm việc của một ngày, thế mà vẫn không thấy tên trực xà lim đến cho tù ra đổ bô. Tên Tân ngồi chờ mãi, y đừng dậy đi đi lại lại, rồi không hiểu y nghĩ thế nào lại trở lên sàn, rồi lựa thế kiễng chân, nhìn ra phía cổng xà lim. Y tỏ vẻ phấn khởi, cúi xuống nhìn tôi: - Cửa xà lim vẫn đóng! Tên Tân quái lắm khi cửa xà lim đóng hay khép là an toàn. Y có thể nói chuyện với buồng khác, nhưng mắt vẫn để ý nhìn mép trên của cánh cửa xà lim, khi thấy hé ra là trong này tụt xuống rồi, vì thế ít khi bị bắt. Y cất tiếng gọi: - Số 7! Số 7! Im lặng một lát, y gọi nữa: - Số 7! Một giọng phụ nữ rất trong: - Ai gọi đấy? - Số 4 đây! Dạo này có khỏe không? Vẫn giọng khi nãy: - Cám ơn, khỏe! - Bị bắt vì tội gì đấy? Im lặng một phút, rồi giọng trong lại cất lên: - Kéo chuông nhà thờ Nam Đồng báo cho giáo dân vì công an vào bắt Cha phó. - Bao lâu rồi? Bỗng Tân nhớn nhác tụt vội xuống, trong khi tôi không nghe thấy một tiếng đồng gì khác. Cửa con xịch mở, tên Tư mắt long sòng sọc: - Anh nào trong buồng này vừa đứng lên nói chuyện? Y hỏi để mà hỏi, chứ y thấy tôi ngồi cùm, làm sao mà đứng dậy được. Tên Tân nắm hai tay vào nhau, vặn vẹo: - Thưa cán bộ… Tân chưa nói hết câu, tên Tư đã cúi xuống rút xoạch chốt cùm ra, rồi quát: - Bỏ chân vào! Mặt tên Tân chảy dài. Y biết không còn cách nào khác, nên tự tay nhấc cùm và từ từ nhấc một chân bỏ vào. Tên Tư nhìn qua cử con theo dõi, y chốt cùm vào, không nói gì thêm. Như vậy, tên Tư cũng quái. Y chưa mở cửa, đứng ngoài im lặng nghe đã. Nếu khi y đến, dù đẩy khẽ cửa đi vào. Tân đã biết rồi. Tiếng nói của Tân, Tư còn lạ gì. Thế là tình cảm hay chẳng tình cảm gì, sai là vẫn cùm. Tôi nghe tiếng mở cửa mấy buồng đổ bô, rồi tự nhiên thấy chốt cùm tôi rút ra. Tôi nhẹ tay nhấc cùm, nhấc chân. Cái chân ê đi, bước xuống đất cứ bì bì. Tôi tưởng đi cung, nhưng khi mở cửa, tên Tư không nói gì, tôi chợt hiểu, ôm vội bô vào nhà tắm để đổ, rửa. Tôi gõ nhẹ vào tuồng số 7 mấy cái như ý nói: “Các cô đã làm cho một người nữa bị cùm đấy nhé!”. Đến bữa cơm, tên Tư lại mở cùm cho tôi ra lấy cơm cho cả Tân. Tên Tân mặt rất buồn. Theo y, bị cùm là một chuyện, y còn sợ là vụ của y sắp xử, có thể bị ảnh hưởng xấu vì y đã không giữ tốt nội quy trại giam. Trước đây, ngay khi mới tới xà lim II được mấy ngày, tôi đã biết buống số 7 có hai cô gái đều bị cùm. Tôi rất băn khoăn, dứt khoát đây không phải là tội hình sự rồi. Bởi vì, hình sự rất hiếm phải vào xà lim, cá biệt nào đó. Phải là những tội tương đối quan trọng, nhưng cũng chỉ đến 1 vài tuần hay một tháng là cùng. Hai cô phải là tội chính trị nặng ký mới phải vào xà lim, và còn bị cùm nữa. Mặc dù về lý trí, tôi tin là không phải, nhưng phần tình cảm trong lòng tôi, cũng lắng lo một cách phảng phất. Biết đâu, đây lại chả là chính “đối tượng” nhận tài liệu “M”? Cho mãi tới một hôm, tôi bắt Tân phải tả lại. Y nói dáng người đó như nhà tu, mới khoảng 20 tuổi, tôi mới yên tâm. Dù vậy, tôi vẫn để ý theo dõi với mọi khả năng có thể, kết hợp suy đoán dựa trên những điều kiện đã biết: - Cùng một tội, hoặc cùng một tổ chức, không bao giờ chúng giam chung một buồng ở xà lim. - Hai tội khác nhau, lại cùng bị cùm? Ngay phạm nhân nam ở xà lim, cũng ít khi cùng bị cùm, huống chi là nữ. Vậy nữ bị cùm là hạn hữu, ở đây lại cả hai! Tại sao có sự trùng hợp kỳ lạ như vậy? Câu giải đáp chỉ có thể thỏa đáng là phải có một người thực, một người giả! Với điều kiện của mình như thế này, muốn làm sáng tỏ vấn đề trên. Tôi chỉ còn cách duy nhất là phải lắng nghe những âm thanh, sự việc…..rồi từ đấy suy lý dần. Từ định tâm đó, tôi thấy cá biệt, lẻ tẻ vài lần thôi, còn hầu như cứ cô nằm phía trái, tức cô có dáng nhà tu đi cung. Sau đó, cô nằm bên sàn phải lại đi, rồi thông thường là về trước. Như vậy, nếu cô đi sau về trước này không nói, thì cô đi trước về sau không hề biết là cô sau có đi cung. Lúc này, tôi đã có thể phân biệt được, tiếng động của chốt cùm nào rút, tiếng mở cửa buồng nào; mụ Hoa vào gọi cung hay Bằng, hay Kim già, hoặc lão Tư, họ chưa mở cửa tôi đã biết ngay là ai, qua cách bước sền sệt trên nền nhà, cách cầm chùm chìa khóa lắc, cách mở cửa buồng…..Còn những tật khịt mũi hay hắng giọng thì quá rõ. Óc tổng hợp ngay các âm thanh để ra lời giải đáp không khó khăn gì. Hơn nữa, trừ buồng tôi, cả xà lim chỉ có chiếc cùm buồng 1, và 2 cô gái bị cùm ở số 7. Như vậy, chỉ phân biệt 3 tiếng cùm thì hầu như không lầm. Vì thế, tôi đã nhận định được đến 80% là 2 cô ở buồng số 7: Một cô giả và một cô thật. Nếu chính mình không bị cùm, tôi có thừa khả năng để thử, cũng như mắt nhìn để kết luận. Ngay bây giờ, tôi muốn báo cho cô thật biết để cảnh giác. Không để ý thì khổ. Nhưng đành chịu vì cái chân trong cùm. Cách nào cũng có chỗ bất lợi cả. Vì người kia thường xuyên có mặt ở đấy. Chỉ còn cách chờ đợi một bữa nào bất ngờ cô bên phải đi cung, cô bên trái ở nhà, tôi sẽ lên tiếng nói bâng quơ. Thí dụ: “Chớ có tin người cùng buồng mình” chẳng hạn. Nếu cán bộ có đứng rình, mở cửa con hỏi, giả vờ nằm nhắm mắt ngủ, nằm mơ. Nó chẳng làm gì được mình. Chiều hôm đó, tôi đang nằm vẩn vơ suy nghĩ, cửa con xoạch mở, tên Bằng chỉ tôi: - Mặc quần áo đi cung! Đã hơn một tuần nay không gọi. Hôm nay, không hiểu có gì khác chăng? Từ đêm đem tôi đi bắn tới giờ đã hơn ba tháng rồi, cứ một tuần hai, ba lần chúng gọi tôi đi cung. Vẫn những trò dụ dỗ phỉnh phờ, đe dọa, rồi lại tình cảm. Truy hết chỗ này, lại đến điểm khác. Có lúc, chúng bắt tôi viết hẳn lại một sự việc nào đó cho rõ ràng. Tôi vẫn trước sau như một. Có một vài chỗ do cái dốt của tôi đã bị bục, tôi đã phải lao đao vất vả. Bây giờ đã có thêm kinh nghiệm, đã nắm được những mánh khóe khai thác, những động tác thật, giả hầu như tôi đã thấy trước. Tuy vậy, tôi vẫn tỏ vẻ còn ngây thơ, hiểu biết kém. Đôi khi, tôi phải vờ sa vào những cái bẫy chúng đã giương ra, nhưng tôi vẫn chủ động lái nó thành vô hại, hoặc hại ít. Cũng có lúc tôi làm như hoang mang, dao động để chúng khó xét đoán, hoặc sẽ hiểu sai về con người thực của tôi. Thí dụ: Một hôm 3 đứa hùng hổ đập bàn, xô ghế, nào là xin tha tội xử tử cho tôi, vì tôi còn quá trẻ, chưa suy nghĩ chín chắn; mong đường lối khoan hồng, nhân đạo của đảng sẽ thấm nhuần vào tim vào óc tôi, để tôi sẽ thành thật khai báo hết, v.v…..Nào ngờ, tôi vẫn là một tên ngoan cố ngu xuẩn, chuyến này, cho đi luôn…..Nào là cứu một người là để hy vọng nó sẽ trở nên tốt, chứ không phải cứu một người mà tật xấu vẫn cứ khư khư giữ trong mình; 10 thằng như thế cũng bắn bỏ….. Phải nói rằng, từ ngày chúng đưa tối đi bắn đến giờ, tôi chẳng sợ nữa; ngay dủ bây giờ chúng đem tôi đi bắn thật, tôi cũng vậy thôi. Dứt khoát, tôi không đến nỗi ngắc ngư con tàu đi vừa qua. Tuy thế, tôi vẫn vờ hoang mang lo sợ, xin chúng tha cho. Xin chúng là người trực tiếp với tôi, hiểu tôi đã thành khẩn khai báo mọi vấn đề ngay từ đầu. Hôm nay, không biết chúng còn giở trò gì nữa đây? Vào tới phòng cung, tôi thấy mặt 3 tên: Nhuận, Đức và Đặng rất lạnh lùng. Trên bàn, trước mặt chúng, một chiếc cặp da đen dầy cộm. Thái độ của chúng hôm nay hơi khác thường. Chúng nhìn tôi rất lâu như muốn xét đoán một cái gì. Cuối cùng, tên Nhuận trang nghiêm: - Từ ngày anh bị bắt vào đây đã bao lâu rồi? Tôi nhìn y dè dặt: - Thưa ông, hơn 10 tháng rồi. - Anh có biết rằng, trong Nam chúng đã phái ra đây mấy tên để tìm anh không? Tôi hơi ngỡ ngàng, xen lẫn chút lắng lo trong lòng. Dù thế, ngoài mặt, tôi vẫn xem như họ nói đùa: - Chúng nó tìm tôi làm gì! Tôi quả quyết là không có ai ra tìm tôi cả. Ở trong Nam, tôi là loại vô danh tiều tốt. Chẳng qua chúng trả mấy tháng lương, rồi tung ra ngoài Bắc để lấy tiếng vang là chính; còn bị bắt, sống hay chết, chúng đâu còn cần biết đến nữa. Tên Đặng từ nãy vẫn cứ ngồi yên nhìn và nghe tôi nói, bây giờ đập bàn cái “thình!”, chỉ tay vào mặt tôi: - Ngậm ngay cái mồm anh lại! Hôm nay tôi báo cho anh biết, và không cần giấu giếm gì cả. Người của chúng tôi từ trong Nam ra, đã báo cáo đầy đủ về anh. Chúng tôi đã thấy bộ mặt thật của anh. Anh là một tên ngoan cố đến cùng, muốn đem trứng chọi với đá, dám đội đá vá trời, dám đánh lừa cả Bộ Công An cách mạng! Trong khi vừa xỉ vả tôi, y vừa mở cặp lấy ra một cái phong bì dầy cộm. Y chọn, rút ra một tấm ảnh cỡ 6x9, cố ý cho tôi thấy là còn rất nhiều ảnh nữa. Y vất tấm ảnh xuống bàn, trước mặt tôi, gằn giọng: - Đây, hãy mở mắt ra nhìn. Khôn hồn khai báo lại ngay. Nếu không, lần này chúng tôi sẽ không nương tay với anh nữa, sẽ có biện pháp mạnh! Tôi thoáng nhìn bức ảnh, dù chưa cầm, tôi đã thấy tim mình như thắt lại. Tấm ảnh Phan và tôi chụp ở góc đường Nguyễn Huệ, trông chéo sang rạp xi nê Rex. Phan cao lớn, mặc áo sơ mi ca rô bỏ ngoài quần, đeo kính đen đang quay chéo mặt về phía người chụp ảnh. Tôi, áo sơ mi trắng, bỏ trong quần, đeo kính trắng. Một tay đang cầm mấy cuốn sách, một tay đang chỉ về phía trước mặt. Mặt tôi nghiêng góc với mày ảnh khoảng 30 độ. Tôi điếng hồn, suy nghĩ, phản xạ tổng hợp cấp thời. Chúng đã biết hết rồi chăng? Chúng còn nhiều ảnh nữa hay không? Tại sao chúng lại chụp ảnh ở ngoài đường? Có thể chỉ là một tấm duy nhất, bởi vì Phan đã bị lộ, chúng đã biết lâu rồi. Khi thấy tôi đi với Phan, lạ, chúng chụp một tấm, để sau này phòng hờ dùng trong tình huống áp lực về chứng cớ. Tại sao chúng phải cố ý cho tôi thấy, chúng còn nhiều ảnh nữa? Chính cái “cố ý” này cho thấy, đó chỉ là một động tác giả của chúng để gây áp lực tâm lý. Một điều tôi tin chắc, dù cho nằm ngay trong Cục Tình Báo Sài Gòn, nhưng nếu không cùng một công tác, chúng cũng không thể biết được sự việc. Và dù cho cùng một công tác đi nữa, cũng chỉ biết được từng khâu, từng phần, chứ không thể biết toàn bộ. Mấy phút tính toán, phản ứng nhậy lẹ, thành quyết định. Đầu tiên để thăm dò, tôi làm ra vẻ mạnh bạo, nét mặt tươi lên tin tưởng: - Tôi càng tin tưởng cách mạng hơn. Đây là tên Hòa mà. Như thế này, sự việc của tôi càng được xác minh sớm hơn. Tên Đức đứng bật dậy, xô lại sát tôi, chỉ tay vào mặt tôi, gầm lên: - Anh đừng có già họng! Đấy là tên Hòa à? Tôi mở to mắt ngạc nhiên, cầm tấm ảnh, chỉ khẳng quyết: - Thưa ông, tôi bảo đảm với các ông, đây là tên Hòa mà! Hàng ngày, y đi với tôi, huấn luyện tôi, tôi còn lạ gì mặt y nữa! Đây là một điểm tình cờ, mà lại may. Trước đây, khi tôi tả về ông Hòa, tôi thường lấy hình ảnh người cậu họ tôi, béo trắng, to lớn. Ông là chủ hãng xuất nhập cảng hàn vải Vĩnh An ở đường Hồng Thập Tự. Ông Phan cũng to lớn, chỉ có điểm khác là tôi tả cậu tôi da trắng, đỏ hồng, hay mặc áo sơ mi trắng, trong khi ông Phan da bánh mật, hay mặc áo sơ mi ca rô. Nhưng, trông ảnh làm sao phân biệt được da bánh mật hay da trắng! Còn áo sơ mi và trắng, có điều khoản nào bắt buộc ông Hòa cứ phải mặc áo sơ mi trắng mãi đâu. Còn tôi, tôi chỉ biết cái tên “Hòa”, tên “Phan” tôi không biết. Điều gì chứng minh bắt buộc tôi phải biết tên “Phan” khi mà trong tình báo, với mọi người đều dùng tên giả. Vì thế, tôi cứ khăng khăng hình người trong ảnh là tên Hòa. Điều tôi vẫn lơm lớp lo sợ là, nếu chúng đưa một tấm hình nào đó chụp tôi với Cẩn, hoặc với Hoàng Công An, lúc đó tôi chưa biết tính sao. Bởi vì từ trước, toi chỉ khai tên Hòa duy nhất là người huấn luyện và đào tạo tôi mà thôi. An và Cẩn, người chỉ cao 1m62 là cùng. Chúng tỏ vẻ tức tối lắm, nhưng xem ý chúng không làm gì hơn được. Qua thái độ tức bực của chúng, tôi càng yên tâm hơn. Nếu chúng có vài tấm ảnh nào khác, chắn chắn chúng sẽ lấy ra ném vào mặt tôi. Tôi cầm tấm ảnh đưa trả lại chúng, mặt tôi đầy vẻ hân hoan tin tưởng: - Như thế này, tôi đoán cách mạng đã bắt được tên Hòa rồi, và cách mạng đã xác minh được sự việc của tôi. Tôi rất mong, một buổi nào đó, tôi sẽ gặp tên Hòa ở đây để thỏa phần nào lòng căm phẫn của tôi đối với y. Tên Đặng cười nhạt! Tên Nhuận cầm tấm ảnh, giọng giễu cợt: - Bình đeo kính trắng, đẹp trai, trông tư cách đấy chứ! Tôi cười: - Các ông còn lạ gì xã hội miền Nam! Một anh dốt đặc cán mai, nhưng ra ngoài, cứ ra vẻ ta đây là sinh viên, trí thức, tay luôn luôn ôm chồng sách ngoại ngữ dầy cộm. Hiển nhiên, tôi cũng lây cái nét giả tạo ấy. Mắt tôi có sao đâu, thế mà cũng đeo kính trắng gọng vàng, loại không độ. Bây giờ nghĩ lại, tôi còn thấy ngượng. Hôm nay, chúng tưởng với tấm ảnh ấy, chúng sẽ làm tôi tan hoang, hoặc ít nữa cũng phải bục ra một số mảng. Nhưng cuối cùng, vẫn không giải quyết được gì, chúng bầm gan, tím ruột! Tên Đặng cộc lốc: - Đi về! Tôi về xà lim, thật hú vía! Tuy thế, lòng tôi vẫn đầy lo lắng. Tôi hiểu sự việc chưa thể yên được. Từ ngày tôi bị phát hiện, rồi bị theo dõi ở nhà thờ “X’ tôi đã nhiều đêm ngày suy nghĩ vì sao tôi bị phản gián phát hiện. Tôi tập trung tư tưởng: nhìn, xét, rọi, soi lại từng điểm. Từng khía cạnh, từng sự việc, từ điểm đổ bộ ở Kỳ Phương cho đến khi tới Hà Nội, những ngày vào Việt Đức, lúc sang Gia Lâm…..Tôi không thấy một điểm nào nghi ngờ để bị địch phát hiện. Như vậy, tôi bị địch phát hiện, chỉ có thể: 1) Từ nơi linh mục A. Linh mục đang bị Cộng Sản bí mật theo dõi. Tôi mò đến, nên chúng tìm về nhà trọ để xác minh. Mà đã xác minh, chân tướng tôi lò ra ngay. 2) Từ Paul Lạng ở Paris. Có thể y là nhân viên “hai mang”. Để lấy tiền, y đã cung ấp cho phản gián Hà Nội biết rằng sẽ có một người xâm nhập Hà Nội, nhưng không biết đích xác ngày tháng cũng như nhiệm vụ. Nếu đúng như vậy, phản gián Hà Nội phải tìm ra là tất nhiên. Nhưng điểm này yếu khả năng hơn điểm trên. Tôi mất bao ngày đêm nặn óc suy nghĩ, nhưng vì thiếu cơ sở để nhìn, để xét, cho nên tôi vẫn chưa thể khẳng quyết là do điểm một, hay điểm hai. Bây giờ, lại có thêm tấm ảnh của Phan và tôi. Với tấm ảnh trong điều kiện như hôm nay, tôi chưa thể có ý kiến gì, phải đợi những ngày kế tiếp mới sáng tỏ. Tên Tân bị cùm đến ngày thứ tư, thì mụ Hoa vào gọi đi cung. Qua gần 2 tháng trò chuyện với tên Tân, tôi được biết y chỉ có một chấp pháp duy nhất tên là Châu. Cũng thuộc phòng 44, phòng hỏi cung chính trị. Vậy mà tôi, sao nhiều chấp pháp thế! Trước sau đã 6 người rồi. Mỗi buổi hỏi cung lại thường có từ hai, tới ba người. Có lẽ tại tôi là một điệp viên, có nghiệp vụ, được đào tạo huấn luyện bởi những cơ quan tình báo của một quốc gia, cho nên, để khai thác chúng phải mất nhiều tâm sức hơn? Tên Tân đi cung gần hai tiếng đồng hồ đã về ngay. Tân đã vào buồng mà tên Tư vẫn chưa đóng cửa. Vẫn đứng ở ngoài, trong khi tên Tân vội vàng quấn chăn màn và quần áo. Tân quay lại tôi nói nhanh: - Tôi được ra trại chung, vụ án của tôi sắp xử. Y ôm các thứ ra tới cửa, quay lại gật đầu chào tôi. Cửa đóng, rồi khóa. Tôi thấy nhẹ hẳn người. Từ nay một mình, dù buồn hơn, nhưng không làm phiền toái ai, tôi cảm thấy dễ chịu, tự do hơn. Ngày hôm sau nữa, tôi lại nghe cán bộ vào bảo cô gái bị cùm, phía trái của buồng số 7 mang chăn màn, quần áo ra trại chung. Cô đó đi được hơn một tiếng, rồi cô bị cùm phía phải cũng đi, rất im lặng. Tôi cố gắng nghe để phán đoán, nhưng cũng không hề nghe thấy một âm thanh gì. Như thế, sự nghi ngờ của tôi cô “phía phải” là tù giả cùng chắc đúng hơn nữa… Mặc dù mỗi người một buồng, họ ra đi, lòng mình cũng thấy mang mang vắng lặng. Buồng số hai cũng một người ra trại chung, cùng với hôm Tân đi, có lẽ là người anh họ cùng “vụ” với Tân. Như thế, hiện nay xà lim chỉ còn có 4 người: Một ở buồng số một, bị cùm một chân, một ở buồng số 2, không bị cùm; một ở buồng số 4 là tôi và một ở buồng số 5, không bị cùm. |
|
|
![]()
Post
#39
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Sáu
“Đòn Thù” Của Chấp Pháp và Những Cay Đắng Của Đời Tù... 9 tháng 4, ngày mà tôi nhớ mãi, sau hôm tôi đi cung được 5 ngày. Sáng hôm đó, tên Tư mở cửa buồng cho rửa và đổ bô xong. Tôi đang ngồi mài móng tay xuống sàn xi măng chờ cơm sáng, bỗng cửa con xoạch mở. Theo cách mở cửa con và khóa cửa lớn, tôi đã biết ngay là người lạ. Tôi nhìn lên, cửa con đóng lại và cửa lớn mở to. Đứng ngay giữa cửa là tên Lê, Trung úy Phó Giám Thị, phía sau có tên cán bộ Tư. Nhìn tôi, tên Lê nghiêm trang, nói giọng Bắc: - Theo lệnh trên, anh bị cùm hai chân. Vậy hãy nghiêm chỉnh chấp hành! Tôi choáng váng đến lặng người đi. Tôi bị cùm hai chân! Như thế này, chỉ có tê rồi chết thôi. Tôi đờ đẫn người hỏi, trong khi tên Tư bên ngoài đã rút chốt cùm ra chờ đợi: - Thưa ông, tại vì sao tôi bị cùm hai chân ạ? Tên Lê gằn giọng: - Đó là lệnh trên, anh hãy cứ chấp hành! Một màu u xám như xụp xuống chung quanh tôi. Tôi hiểu, gian khổ cùng khốn lại đoạ đầy tấm thân khốn nạn của tôi. Còn biết nói năng chi, tôi nhấc cùm và từ từ nhấc chiếc chân còn lại ở ngoài đặt vào cùm, tâm tư tôi như đi vào nhà mồ. Đóng chốt cùm xong, tên Lê ra tới cửa còn quay lại: - Hãy suy nghĩ kỹ đi, kẻo rồi không sống được! Tiếng cánh cửa buồng đóng mạnh. Tiếng lạch cạch của then sắt cải cửa như cào vào trái tim đang rỉ máu của tôi. Lần này rõ ràng rồi! Tụi chấp pháp cùm tôi, vì cho tôi ngoan cố, không chịu khai báo sự thật. Lần trước, chấp pháp còn lấp lửng “chúng tôi không cùm anh”, vì lúc đó chùng còn nấp sau cái mặt nạ “dân chủ”, lấy “chính nghĩa” phục vụ nhân dân, lấy “khoan hồng” giáo dục con người sai phạm là chính. Bây giờ, chúng hất cái mặt đó ra rồi, hiện nguyên hình là những con quỷ, đầy mồm nanh vuốt với hai bàn tay máu. Cùm hai chân, khổ cực nhất là cảnh đái và ỉa. Đi đại tiện, tôi phải cố tập hai ngày đi một lần. Nhưng đi đái, dù uống ít nước, ban ngày phải 3, 4 tiếng đi một lần; còn ban đêm, từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng tôi mới dậy đi. Đó là với điều kiện ngủ, chứ vì đau đớn không ngủ được, một đêm cũng phải đi 2, 3 lần. Lúc đi đái, dù cố gắng bằng cách nào, tôi cũng vung vãi cả ra nhà và trên sàn ngủ. Bởi vì, tôi chỉ có một thế duy nhất: nằm nghiêng ở giữa sàn, rồi từ giữa sàn tiểu xuống dưới bô, có khi vào bô, có khi không. Gặp khó khăn phải đẻ ra sáng kiến. Đó là phương châm đối với tất cả mọi sinh vật. Sau hai đêm, chân tôi tê và mỏi nhừ. Nhưng, bứt rứt và khó chịu nhất là hai cái đầu gối không thể gập hẳn lại được. Đa số thời gian tôi phải nằm nhiều. Còn ngồi, thì ở cái thế gù gù, đầu phải gục về phía trước, rất mỏi, không thể ngồi lâu được. Vì vậy, tôi nghĩ nếu lúc cùm vắt chéo hai chân, chân phải sẽ ở bên trái và ngược lại, chân trái sẽ ở bên phải. Như thế, muốn nằm, phải nằm xấp, và chỉ nghiêng về một phía. Nhưng, được cái lợi là quỳ lên rồi ngồi gập lên cái cùm, lúc đó, chân gập sát được, thoải mái hơn. Nghĩ như vậy, buổi sáng hôm sau, ăn cơm rồi trả bát xong, tôi vắt chéo hai chân. Lão Tư nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên. Lão định hỏi, nhưng nghĩ thế nào lại thôi, rồi lão đóng cửa cài then. Tôi lựa thế xoay úp người xuống sàn, chống tay quỳ lên, rồi ngồi lên cái cùm, hai chân gập lại phía dưới mông đít. Thế ngồi thật vững chãi, nhất là hai chân được gập được sát lại mông. Ngồi một lúc mỏi, tôi lại chống tay xuống sàn, từ từ nhoài người ra phía trước, nằm xấp. Như thế, hai chân duỗi ra được thẳng hơn. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn hẳn thế cùm cũ. Tuy vậy, cũng có điều bất tiện của nó là không đi đại tiện được, vì không có thế nào để đưa mông ra được sát mép sàn. Còn đi tiểu tiện, chỉ có một thế duy nhất là quỳ lên, rồi từ giữa sàn cho chéo xuống dưới bô. Thế này có lợi là tôi nhìn thấy miệng bô, nên ít văng ra ngoài, nhưng nước giải rớt ra sàn ngủ nhiều hơn. Tóm lại, kiểu cùm này chỉ có thể dùng ban ngày, từ bữa cơm sáng lúc 9 giờ cho đến bữa cơm chiều lúc 4 giờ. Về đêm, nên đổi lại thế cùm bình thường. Tuy thuận tiện hơn nhau không bao nhiêu, nhưng điểm lợi là chân luôn cử động được, mạch máu lưu thông, giảm bị tê bại chân. Tôi đang ngồi chễm chệ trên cùm, mắt mơ màng nhìn lên một khoảng trời con, rộng chừng 10 phân giữa mép dưới cửa sổ và riềm mái ngói chạy dài theo cửa sổ. Trong cái khung trời này có 6, 7 cái lá nho của giàn nho phía sân trước Hỏa Lò, nơi mỗi khi tôi đi cung đều có đi qua, cửa con bỗng xoạch mở. Tôi quay lại, chỉ kịp thoáng thấy bộ mặt của lão Tư. À ra thế! Khi nãy, thấy tôi vắt chéo hai chân cùm, y không biết tôi định làm gì, vì vậy y mới để ý theo dõi. Bây giờ, y bất chợt mở cửa kiểm tra. Thấy tôi ngồi như vậy, y đã hiểu, nhưng chẳng có gì nói được tôi, nên y lại đóng cửa con lại. Tuy chỉ là một khung trời nho nhỏ với mấy chiếc lá nho xanh rờn, nhưng nó cũng làm cho tâm hồn tôi được thêm một chút thi vị, còn hơn là chỉ nhìn thấy 4 bức tường và hai cái cùm, không một chút sinh khí. Nhiều lúc bâng khuâng, nhìn những chiếc lá nho xen kẽ những mảnh trời xanh xanh, hồn tôi buông trôi dật dờ, như ký thác, gửi gấm những nỗi niềm đầy vơi của mình mà quên đi được phần nào cái nhức mỏi của đôi bàn chân trong cùm. Mấy hôm nay, người lại đưa vào đầy xà lim. Buồng nào cũng có người. Lúc gần trưa thấy tiếng mở cửa xà lim, tôi nghe giọng một người Tầu, nói tiếng Việt không rõ: - Téo mẹ, tui làm sao mà pắt tui? Và ngay sau đó, tiếng quát: - Câm mồm! Tiếng mở buồng số 6, tiếng rút chốt cùm. Tiếng lão Tư cao giọng: - Bỏ chân vào! - Tui làm sao lại cùm cái chân tui! Tiếng xô động huỳnh huỵch, tiếng đóng chốt cùm, tiếng đóng cửa cài then. Rồi im lặng, tôi vểnh tai nghe ngóng. Vẫn im lặng, có lẽ các buồng khác cũng đang vểnh tai nghe những âm thanh để suy đoán như tôi. Im lặng một lúc, tôi lại dõi hồn vào những chiếc lá nho. Vài cơn gió nhẹ, những chiếc lá nho rung rinh, đong đưa như đùa cợt với gió. Bỗng một giọng khàn khàn cất lên nghe rõ mồn một: - Chúng mày không cho làm ăn puôn pán gì cả!...Vợ con tau ăn cái sắn mà không có ăn…Mua cái tậu, mua cái muối, xếp hàng dài dài mà không mua tược!.....Chúng mày giết vợ con tau đi, giết tau đi!.....Téo mẹ cái Cộng Sản! Téo mẹ cái cách mạng!..... Càng lúc giọng càng ầm vang, nhiều khi như gầm lên. Qua giọng nói, tôi đoán ông này cũng đã có tuổi, phải từ 35 đến 40. Có tiếng cửa con xoạch mở, rồi tiếng lão Tư sắc, đanh: - Câm cái mồm lại, mày muốn chết hả? Tiếng người Tầu gầm lên như điên rồ: - Mày giết tau đi! Téo mẹ chúng mày! Tau không muốn cái sống nữa! Chúng mày làm cái dân không có cơm ăn! Téo mẹ cái tồng chí, téo mẹ cái Cộng Sản! Tiếng lão Tầu gầm thật to, vang ra cả ngoài sân khu giàn nho. Mấy tên cán bộ chạy vào. Một giọng lạ như ra lệnh: - Khóa mồm nó lại. Không chịu nữa, cho xuống “cát xô”! Lão Tầu gần như điên khùng, không biết sợ là gì, lão vẫn chửi. Một lúc sau, có tiếng mở cửa buồng. Rồi những tiếng huỳnh huỵch vùng vẫy và giọng của lão Tầu cứ xìn xịt, phì phì như tiếng của con chó bị buộc mõm. Tiếng cửa đóng nghe “xầm”, rồi xà lim lại trở về vắng lặng. Thỉnh thoảng tiếng xìn xịt hổn hển của buồng 6 cứ như cào vào tim của mọi người trong xà lim. Tôi nhớ lại hình ảnh chiếc cùm mồm lúc tôi mới bị bắt vào. Khi đó, tôi còn bị đánh máu me đầy người, lại còn bị cùm hai chân. Nghĩ đến, tôi còn thấy tim mình như bóp thắt, gáy tôi còn rờn rợn. Ở đây, ông Tầu chỉ bị cùm một chân, nhưng chắc cũng không gãi được, vì nếu đã bị cùm mồm thì phải khóa tay ra sau, nếu không, tay sẽ mở được cái vít dưới cằm. Tôi thở dài, thông cảm của ông. Tôi nhớ lại lúc bị cùm hai chân dạo ấy. Khi đó, phần vì mới vào cơ thể của tôi còn có chất dự trữ, còn sức lực để chịu đựng, hơn nữa, đang ở thời gian liên tục đi cung, nên coi như chỉ bị cùm về đêm. Ban ngày hai chân được nghỉ ngơi, thay đổi, máu chạy điều hòa, ít bị tê xuội. Vậy mà tôi cũng chỉ chịu đựng được gần 40 ngày rồi không đi được nữa. Bây giờ, chúng lại không gọi cung nữa. Tôi đã nổ lực phấn đấu bằng cách luôn luôn thay đổi thế cùm, vất vả đau đớn lựa thế duỗi ra co vào như tập thể dục, thế mà bàn chân khi sờ vào cứ bì bì, căn cắn. Tay sờ vào chân, cảm giác như sờ vào chân người khác. Ngày 16 tháng 4, tên Tư mở buồng, thu hết chăn màn và áo trấn thủ. Khi y tới buồng tôi, tôi nằn nì, khẩn khoản: - Thưa ông, tôi chẳng có một cái gì ngoài hai bộ quần áo cũ. Đề nghị ông thông cảm, cho tôi mượn lại một chiếc chăn, tôi xin đội ơn ông và nhà nước. Y quắc mắt, gằn giọng: - Nguyên tắc là nguyên tắc. Không nói nhiều! Tôi đành cởi áo và gấp hai chiếc chăn đưa cho y với bao nhiêu luyến tiếc hận sầu. Y ném xuống đất, phía ngoài cửa. Y như kinh tởm khi cầm tới chiếc chăn, mũi y nhăn lại. Cửa đóng rồi, mà lòng tôi còn ngẩn ngơ tiếc nuối. Tôi hiểu rằng những ngày tới, trong tình trạng cùm kẹp này, tôi còn phải chịu đựng nhiều khổ sở khó khăn hơn nữa. Có tiếng người lục đục vào ôm những chiếc chăn phía ngoài cửa. Chắc là một anh tù hình sự nào đó đi thu chăn về để giặt và nhập kho. Như vậy là hàng năm, cứ 16 tháng 10 thì cho mượn chăn, và 16 tháng 4 thì thu lại. Chiếc loa ở cổng trại chung đã như cái đồng hồ. Ngày nào cũng như ngày nào, sáng đúng 5 giờ tiếng loa bắt đầu với những bài tập thể dục ở trên đài. Giọng một cô gái thanh thanh kéo dài 1, 2…..theo từng động tác, nghe có lúc như tiếng hò kéo gỗ ở một công trường lao động đổ mồ hôi, có lúc lại dồn dập khẩn trương như tiếng đập lúa trong ngày mùa của một hợp tác xã nông nghiệp. Sau 15 phút tập thể dục, tới mục “thanh niên”, rồi đến công trường, nhà máy, bản tin. Từ 6 giờ tới 6 giờ 30 là mục “Quân Đội Nhân Dân”,v.v…Tiếng loa cứ the thé chọc vào tai mọi người cho tới 8 giờ thì câm bặt. Đến 12 giờ trưa lại nheo nhéo. 1 giờ lại tắc họng, để đến 5 giờ chiều lại bắt đầu hò hét cho tới 9 giờ tối mới chịu ngủm củ kiệu. Trong một tuần, sáng thứ Hai và thứ Sáu là hai ngày “giao và đưa hàng”, đó là những từ, tôi nghe tụi cán bộ thường xuyên nói chuyện với nhau. Ngay từ 3, 4 giờ sáng, lúc chưa có tiếng loa phát thanh, ở chỗ sân giàn nho sát với cổng trại chung, tiếng rì rầm, ồn ào hỗn độn của ù, xen lẫn với những tiếng quát tháo của những tên cán bộ, bộ đội về cơm nước, cùm, khóa…để đưa tù đ trại trung ương. Tôi nằm nghe theo dõi những tiếng rì rầm bàn tán. Có ngày là tù chính trị, có ngày là tù hình sự. Như vậy, ở trại chung, hoặc ở xà lim, anh nào sẽ phải đi trại nào, ngay từ tối hôm trước đã được gọi ra tập trung ngủ ở một ngôi nhà gọi là “buồng vãng lai”. Sáng sớm 3 giờ đã được gọi dậy ra chỗ giàn nho phía bên ngoài tường của xà lim II, để nhận cơm nắm, rồi đọc tên, khóa tay chung, cứ hai người một. Tù thường không biết mình sẽ đi trại nào. Nhưng, tôi nằm trong này tôi đã biết trước họ. Ngoài cổng trại chung, sát phía bên kia cũng là địa điểm để xe đạp, những giờ tan tầm, cán bộ thường tập trung lại đó, đôi khi bàn tán, đùa cợt, hỏi han nhau., vì thế từ chiều hôm trước, có khi tôi đã biết tù ngày mai đi trại nào rồi như: Vĩnh Quang, Phú Sơn, Vĩnh Tiến, Tân Lập, Phố Lu, Phong Quang, Trại 5, Quyết Tiến hay “Cổng Trời”, v.v…..Cũng từ địa điểm này, đôi khi nghe được nhiều chuyện giữa cán bộ bàn luận, hỏi nhau trước khi về, hiểu thêm được về chúng và về xã hội miền Bắc. Ngay bữa cơm chiều hôm đó, tên cán bộ hỏi buồng số 6: - Cái mồm còn la nữa hay không? Im lặng một lúc, rồi tiếng mở cửa buồng: - Từ nay, tôi chỉ nghe anh la một tiếng, tôi sẽ cùm cả hai chân, khóa mồm cho vài ngày. Lúc đó, chỉ có chết. Lục đục một lúc. Có lẽ tên Tư mở khóa tay, mở khóa mồm, rồi tiếng mở chốt cùm. Tiếng chân lẹt đẹt ra lấy cơm và lấy nước. Tiếng đóng cửa. Như thế là ông Tàu đã biết sợ rồi. Ai mà không sợ! Chết ngay không sợ, nhưng phải sợ kiểu cùm khóa như vậy. Tôi đã nếm gần hai ngày, bây giờ còn thấy ngán. Ngay hôm sau, tôi lại nghe thấy tiếng mở cửa buồng 6, tiếng quát tháo bảo ôm quần áo ra trại chung. Tôi suy đoán, có thể anh Tàu này vì bất mãn chán chường, chửi bậy ở địa phương hay ngoài đường phố nên bị công an bắt. Bị giữ ở đồn, vẫn chửi, nên sau đó bị đưa vào Hỏa Lò ở trại chung; nhưng ở trại chung, vẫn cứ điên rồ chửi bới la hét, nên mới bị đưa vào xà lim. Vì thế, bây giờ thấy anh ta biết điều rồi, nên được đưa ra trại chung lại, chứ anh ta chả có tội gì đặc biệt cả. Vào một buổi sáng sớm thứ Sáu, tôi đang mơ màng thiếp đi sau một đêm quằn quại vì đôi chân nhức mỏi, vì cơ thể cũng rã rời thiếu ngủ, thiếu ăn và cứ phải nằm trong những thế gò bó, những tiếng xụt xịt, tiếng the thé cãi cọ nhau của nhiều người con gái phía bên ngoài tường làm tôi thức dậy. Có lẽ lúc đó độ 3 giờ rưỡi, 4 giờ sáng…? Tôi lắng nghe, được biết những người tù nữ này đi trại Mỏ Chén. Tôi cũng chẳng biết trại Mỏ Chén ở đâu cả. Qua những tiếng đếm cơm, phát cơm, rồi khóa tay, v.v… Tổng số người là 43. Có hai cô cãi cọ giành nhau là người thứ 43, lẻ, không phải khóa tay. Vẫn nghe có những tiếng khóc tỉ tê, sướt mướt, nức nở, rồi có tiếng một cô quát: - Không cầm lấy cơm, con đĩ! Còn khóc mãi….! Lại có một giọng khác cất lên lanh lảnh: - Tổ sư bố con đĩ, ăn cho lắm “đầu cá khô” vào, bây giờ còn ngồi đấy mà khóc! Làm thối cả ruột người khác nữa! Tôi rất ngạc nhiên, không hiểu họ mắng nhau như vậy là nghĩa gì! Nghĩ một lúc tôi chợt hiểu. Dù đang đau, tôi cũng phải mỉm cười cho cái kiểu ví von ngộ nghĩnh của họ. Sau lúc họ được lệnh ra xe ngoài cổng Hỏa Lò, tôi không ngủ lại được nữa. Đầu óc lại cứ bập bềnh nhấp nhô chảy dài trăm ngả cuộc đời… Tôi nhớ lại những ngày dong duỗi trên khắp các nẻo đường Hà Thành. Ngay từ 1954, khi còn là một cậu bé 15, 16 tuổi, tôi đã nhìn thấy các cô nữ sinh Hà Nội, nhất là các nữ sinh Trưng Vương, đẹp, mềm mại duyên dáng tuyệt vời. Rồi, tôi vào Sài Gòn. Tôi lại được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các nữ sinh Gia Long, Trưng Vương với những đôi mắt huyền, làn da trắng bóc, gót chân đỏ hồng; với ngực nở, eo thon, mông to; với chiếc nón bài thơ nghiêng nghiêng; hai bàn tay đeo “găng” trắng muốt, cỡi trên chiếc solex đen (tương phản với màu của áo quần, của đôi “găng”, của chiếc nón và của da thịt), tất cả tạo thành một bức tranh không còn từ gì dể mà ca ngợi. Bây giờ tôi lại trở về Hà Nội, đất ngàn năm thanh lịch của đài các trâm anh, ngoài những mặt tôi phải tính toán đấu tranh với kẻ thù Việt Cộng, tôi cũng muốn tìm lại những bóng dáng mỹ miều của người con gái thủ đô lúc này ra sao. Thế mà, gần một tháng trời, suốt ngày tôi lang thang khắp 36 phố phường, nhiều khi cả đêm tối, tôi chẳng thấy một cô nào gọi là khả dĩ sánh với Hà Nội năm xưa, và Sài Gòn ngày nay. Họ biến đâu hết! Chỉ có một lần, vào một buổi sáng, trời thật trong không một vẩn mây, đang đi trên đường Hàng Chiếu, tôi thấy từ “ban công” của một căn nhà lầu sát phố, một cô gái chừng 18, đôi mươi, nước da trắng hồng, bộ mặt trái soan với đôi mắt bồ câu, đang làm những động tác thể dục. Tôi liếc nhìn lên, cũng là lúc cô nhìn xuống. Từ trên vai trở xuống mông, tôi thấy như gần bằng nhau. Có thể lúc đó càm súc so sánh của tôi còn sắc nét, bởi vì vừa mới ở Sài Gòn ra, nên mới thấy rõ như vậy. Chứ những năm tháng sau này, khi hình ảnh so sánh đã mờ nhạt do chất chồng thời gian, tôi lại thấy những cô gái miên Bắc vẫn còn nhiều cô đẹp, mặc dù tôi chỉ ở núi rừng, và chỉ nhìn thấy những “bà” cán bộ thôi. Thế mới sợ cho tâm lý con người. Nhìn sự vật phải có điều kiện. Cộng sản đã tích cực lợi dụng khía cạnh này để thống trị con người. Chúng làm mất dần ý niệm so sánh suớng khổ, xấu đẹp, lẫn lộn yêu nước chân chính và phản dân tộ vô tình. Vì thế, nếu ta có nói, người dân cũng không tin. |
|
|
![]()
Post
#40
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Bảy
Chết... Hụt... Đã vào hè, thời tiết càng ngày càng oi nồng và muỗi. Xà lim 2 thật nhiều muỗi, có lẽ vì cửa sổ to, lại thấp nên muỗi nhiều vô kể. Phải nói rằng, tôi kiệt sức một phần vì cùm, nhưng còn một phần nữa vì muỗi. Tôi thường lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Suốt đêm, tay cứ phải cầm áo xua đuổi muỗi. Rồi những lúc mệt mỏi quá thiếp đi, tay chân lại đầy lên nốt muỗi. Ở xà lim 3 vậy mà ít muỗi hơn. Có lẽ vì cửa sổ nhỏ, lại ở mãi tít tận trên cao, cho nên các chú muỗi cũng khó vào. Những người ở buồng khác hầu như đều có màn. Những lúc tắm giặt đem quần áo ra chỗ nhà vãng lai phơi, thỉnh thoảng tôi thấy có màn phơi. Cụ thể, hai người ở chung với tôi trước đây là Hoàn và Tân, họ đều có màn cả. Hơn nữa, những buổi đêm tối, chỉ có buồng tôi có tiếng động, đập và đuổi muỗi; các buồng kia im vắng, có chăng chỉ là tiếng kêu rên ban đêm. Như thế, cả xà lim này, ban đêm, chỉ có mình tôi phải đón nhận tất cả các con muỗi. Ôi khổ cực thân tù: “Mùa Đông rét mướt, mùa Hè muỗi bu!”. Có thể vì cơ thể tôi không còn chất để chống đỡ, lại do người tôi bẩn thỉu, cứt đái, hôi hám, cho nên những nốt muỗi cắn dần dần trở thành ghẻ,ngứa ngáy bắt gãi suốt ngày đêm. Từ nhỏ tới lớn chưa hề bị ghẻ lần nào, chưa biết ghẻ là gì, bây giờ ghẻ suốt cả người, nhất là ở háng, nách, kẽ tay, kẽ chân, trông như hủi. Ngứa ngáy quá tôi không chịu nổi nữa, tôi báo cáo với lão Tư để xin thuốc ghẻ. Tôi phải báo cáo nhiều lần, một hôm mụ Dậu mới xem tôi. Đã lâu không gặp tôi, con mắt mụ nhìn tôi như đượm một chút ngạc nhiên, một chút xót xa cho một người chóng tàn lụi như vậy. Mụ cho tôi một chai thuốc, nhưng tôi chỉ được để ở ngoài chỗ đuôi suốt cùm, phía sàn bên. Hàng ngày khi được mở cùm ra lấy cơm, tôi phải báo cáo cán bộ, tranh thủ đứng đấy bôi, rồi để lại chỗ cũ. Chúng sợ tù tự tử. Uống thuốc ghẻ không chết, nhưng làm cho chúng mất công. Vì điều kiện chữa và bôi như thế, nên ghẻ không thể khỏi được. Đã gần 30 ngày cùm hai chân rồi mà tôi vẫn không được gọi đi cung. Bây giờ, hai chân tôi cứ cắn nhức ở trong xương. Hàng ngày ra lấy cơm, tôi không thể đi nhanh được nữa. Tôi lặc lè những bước đi rất khó khăn, vừa đau nhức, vừa như không nhấc nổi hai chân. Dần dần hai mu bàn chân của tôi tự nhiên sưng múp lên. “Nam túc, nữ mục”. Tôi nhớ các cụ già nói thế. “Đàn ông chân phù, đàn bà mắt phù”, đó là triệu chứng của sự chết! Chuyến này, chắc tôi phải chết. Chúng chả cần phải bắn tôi. Nếu bắn, chết ngay đâu có khổ. Nhưng ở đây, chúng bắt tôi chết dần, chết trong quằn quại, ngắc ngoải, khổ đau; bắt tôi phải nhìn cái chết đến dần dần. Tôi hiểu lòng dạ chúng như vậy. Là người Công Giáo không được tìm cách tự tử. Nhưng, dù muốn tự tử trong tư thế này, tôi cũng không có cách gì tự tử được cả. Anh có gan đập đầu vào tường không? Hay chỉ dang dở, để rồi không chết dược mà lại sống mang bênh thần kinh? Vả lại, tâm lý con người, trừ trường hợp cá biệt, còn nói chung, dù biết là sắp chết, trong lòng vẫn níu kéo từng giây, từng phút để sống. Phải nói, tư tưởng của tôi bây giờ cũng suy sụp lụi tàn rồi. Chân thì nhức buốt, người lại rã rượi ngứa ngáy như điên, tôi không còn đâu tinh thần để phấn đấu nằm xuống,ngồi lên cho mạch máu lưu thông nữa. Tuy thâm tâm tôi hiểu rằng, càng chán nản tiêu cực như vậy, càng đi nhanh đến chỗ chết. Ngay cả khi lấy cơm ăn, tôi cũng phải bò ra, vì không đi được nữa. Có lần, tên cán bộ thấy tôi chậm chạp quá lâu, mất nhiều thì giờ của hắn, hắn kéo tôi vào buồng, để rồi cả bát cơm canh đổ ra đất. Tôi phải bò theo để bốc, nhặt vào, chỉ còn một chút cơm với mấy cọng rau. Chỉ vì, y không dám sờ vào người tôi, sợ bẩn, sợ ghẻ; y cầm vai áo của tôi mà kéo nên mới đổ như vậy. Có lẽ y đã nhìn thấy tôi như thế này, vừa mất thì giờ của y, đồng thới tôi sẽ chết, nên y đã bao cáo thế nào đó, chiều hôm ấy, tên Lê vào. Lê phải mở cửa buồng to ra, mà vẫn đứng ở mép cửa, chắc hẳn vì cái buồng hôi thối lắm rồi. Y nói vẻ dìu dịu: - Tại sao anh ngoan cố không chịu thành khẩn khai báo? Tôi nói giọng hổn hển vì mệt và pha lẫn một chút niêm xúc động. - Tôi…khai hết rồi, nhưng…các ông ấy không tin. Cửa đóng rồi, tôi nằm xuống. Tôi nằm, càm thấy dập dờn như đi trên thuyền. Tai cứ nghe những tiếng lùng bùng, o o , tôi chưa bao giờ thấy cơ thể mình như vậy. Có lẽ, tôi sắp chết, chết đêm nay. Đã 43 ngày rồi, cơ thể không còn sức chịu đựng nữa. Hai chân tôi cứng đơ ra. Tôi muốn lùi người xuống để cho cái chân co lại một chút, nhưng tôi chống tay mà không còn sức để lết. Tay tôi rủn ra, yếu đuối quá! Tôi bằng lòng chết, không thắc mắc gì nữa. Xin Chúa hãy cho con chết! Cho con chết đêm nay, con xin cảm tạ Chúa! Bây giờ muỗi cứ đốt, tao không tiếc chúng mày nữa. Đàng nào thì máu tao cũng thành tro bụi, đất cát, vậy chúng mày cừ dùng đi…Tôi cũng không còn cảm thấy ngứa ngáy nữa. Tôi lịm đi… Tới khi có ai đó kéo tôi dậy. Tôi mở mắt ra, thấy một ông mặc áo “blouse” trắng, đang cầm tay tôi tiêm. Tôi nhìn. Tôi không còn nằm xà lim nữa, mà nằm trên một cái giường gỗ. Tôi cố cúi nhìn xuống hai chân. Hai chân tôi không còn trong cùm mà giạng ra ở cuối giường. Như thề, chúng đã tháo cùm tôi từ bao giờ. Đây là đâu? Tôi tự hỏi. Sao tôi không hề biết gì cả? Tôi đoán đây là tên Huệ, y tá, có lần tên Tân nói với tôi về y. Để y tiêm xong, tôi hỏi y với giọng còn run run xúc động: - Thưa ông, đây là đâu ạ? Mặt y tươi tỉnh nhìn tôi: - Bệnh xá! Rồi y hạ thấp giọng, tình cảm: - Đêm qua, tôi tưởng anh đi luôn rồi. Anh có một sức sống kỳ diệu! Vừa nói, y vừa đứng dậy, cầm khay thuốc sang phòng bên. Tôi nằm, miên man nhớ lại lần lượt; chiếu tối hôm qua, tự nhiên tôi thấy người như nhẹ nhàng, không còn cảm giác đau đớn và ngứa ngáy nữa…Rồi, không biết làm sao, tôi như thấy mình về lại Sài Gòn. Tôi gặp mẹ tôi. Người còn cho tôi một cuốn sách chữ vàng rất dầy, và nói: “Đây là một cuốn sách quý lắm!”…Như vậy, chắc là tôi đã xỉu đi. Rồi một cán bộ nào đó, vô tình đi kiểm tra các buồng, thấy tôi như vậy, nên đã gọi người và xin lệnh đưa tôi xuống bệnh xá. Âu đây, cũng là cơ trời, số của tôi chưa chết được! Nghĩ tới đây, tôi lại thấy người bắt đầu ngứa ngáy. Tôi thử nhấc hai chân, thấy hơi nằng nặng, nhưng được. Tôi lựa thế, cố gắng ngồi dậy. Tuy hơi khó khăn, nhưng tôi ngồi dậy được, và tôi bắt đầu gãi. Chỗ tôi nằm là một căn buồng nhỏ, chẳng có ai. Bỗng cửa mở, tôi thoáng nhìn ra một căn phòng rộng ở bên cạnh, có nhiều giường cá nhân, trên đó, lố nhố một số người gầy như những bộ xương đang nằm. Mụ Dậu vào, mắt mụ sáng lên nhìn tôi: - Hôm qua, tôi tưởng anh chết rồi! Tôi nhìn mụ bằng con mắt cám ơn. Tôi thoáng có ý nghĩ, làm cách nào xin được thuốc ghẻ? Thấy mụ định đi ra, tôi đánh bạo lên tiếng: - Thưa bà, ghẻ tôi ngứa lắm. Xin bà cho tôi thuốc…? Mụ vừa gật đầu, vừa đi ra. Thái độ của mụ tỏ vẻ tích cực giúp tôi chữa ghẻ. Mót giải, nhìn quanh, tôi thấy một cái bô ở góc buồng, tôi cố gắng tụt xuống và chậm chạp lê bước đến chỗ cái bô. Tôi cảm thấy khỏe hơn ngày hôm qua, hôm kia nhiều. Mấy bữa đó, tôi không còn đi được. Như thế, có thể nhờ được tiêm thuốc nên tôi hồi sức. Tôi trở về giường. Hai chân tôi vẫn sưng múp, nặng chình chịch. Tôi mệt mỏi nằm xuống, đúng lúc đó tên Huệ mở cửa đi vào, theo sau là một anh tù hình sự, bưng một tô cháo, khói bay nghi ngút. Huệ đưa cho tôi một lọ thuốc ghẻ: Thầy y có vẻ dễ chịu, tôi hỏi: - Thưa ông, tôi được ở đây bao lâu? Vẻ mặt đắn đo, y dè dặt: - Tôi không rõ, nhưng chắc vài ngày. Tôi hỏi, vì tôi sợ trở về xà lim lại bị cùm. Tôi cố ăn hết bát cháo nấu muối. Mồ hôi vã ra và tôi thấy nhẹ hẳn người. Không có điều kiện tắm, tôi gãi mạnh những nốt ghẻ cho bong vảy. Trong buồng không có ai, tôi cởi hết quần áo ra bôi, bôi đi bôi lại. Tôi tích cực bôi, mong mấy ngày cho khỏi, vì sợ rằng về xà lim, tôi lại bị cùm, không thể chữa được. Chiều hôm đó, khoảng 4 giờ tôi lại được một tô cháo nóng nữa. Tôi vừa ăn xong, tên Lê Phó Giám thị vào buồng với tên Bằng. Y nhìn tôi với vẻ mặt dễ chịu: - Anh có thấy không, đáng lẽ anh đã chết đêm qua rồi, nhưng lòng nhân đạo của đảng đã cứu sống anh. Đảng và cách mạng đã đưa sự sống trở về cho anh. Anh phải ghi ơn đó suốt đời anh. Tôi đã cho lệnh y tế bồi dưỡng anh một tuần cơm cám. Để đáp lại công ơn cứu tử này, anh hãy dốc lòng thành thật khai báo. Đời anh còn dài, anh sẽ có ngày được hưởng lượng khoan hồng của đảng và nhà nước, trở về xã hội làm lại cuộc đời. Tôi thấy y cứ nói đi nói lại, vẫn loanh quanh chỉ có thế, vì vậy, để cho qua chuyện, tôi chậm chạp từng lời: - Trong nơi sâu kín của trái tim này, tôi xin biết ơn đảng và cách mạng, trực tiếp là các ông. Tôi vừa nói, vừa để tay lên ngực. Với một giọng gia ơn, tên Lê tiếp tục: - Tôi thông cảm điều kiện sức khỏe của anh, tôi đã đề nghị trên tạm thời tha cùm cho anh. Ngay chiều nay trở lại xà lim, anh hãy suy nghĩ cho sâu, quyết tâm từ bỏ những tội lỗi sai lầm trước đây bằng cách khai báo hết mọi âm mưu thủ đoạn làm hại nhân dân, làm hại cách mạng của bè lũ Mỹ Diệm với đảng và nhà nước. Chỉ có một con đường duy nhất đó, anh mới được hưởng lượng khoan hồng của đảng. Nó nói, mặc nó nói, tôi cũng chẳng chú ý nghe. Điều tôi chú ý lắng nghe nhất là ba chữ:”Tạm tha cùm”. Chỉ nghe ba chữ này, tôi thấy người tự nhiên nhẹ hẳn đi, như có một nguồn sinh lực ở đâu tràn vào cơ thể. Tên Lê và tên Bằng đã đi rồi, tôi vẫn ngồi yên. Hồn tôi vẫn rung rinh nhảy múa, có cảm giác như một phiến đá nặng nề hằng ngày đè chĩu trên vai, nay được hất xuống rồi, dù rằng tạm bợ. Khoảng 5 giờ chiều, trại chung đã vào hết, tên Bằng vào bảo tôi đi theo y về xà lim. Mùa Hè, lúc này mặt trời chưa đi ngủ, ánh nắng nghiêng nghiêng phản chiếu từ những bức tường nhà trại chung, làm cho cảnh vật sáng lên một mầu vàng ửng. Dăm con chim sẻ ríu rít trên cành bàng, như chia xẻ với nỗi hân hoan đang tràn ứ trong lòng tôi. Nhìn những chiếc lá bàng đang thời kỳ con gái mơn mởn, sau những ngày Đông giá khẳng khiu khô cằn, tôi liên tưởng tới đời mình, mới vừa từ cõi chết trở về, để rồi lại tiếp tục bì bõm lặn lội trong đường hầm đen tối; đâu đã được thảnh thơi đùa rỡn với gió chiều như những chiếc lá bàng kia. Tên Bằng dẫn tôi về xà lim II, nhưng lại mở cửa đưa tôi vào buồng số 2. Như thế càng gần cổng trại chung, càng gần chiếc loa lắm mồm hàng ngày. Thấy tên Bằng hôm nay có vẻ dễ chịu tử tế, tôi khẩn khoản: - Thưa ông, tôi có cái bó chổi dùng làm gối để ở buồng số 4, xin ông bớt chút công mở cửa cho tôi lấy…? Y ngơ ngác, không hiểu, tôi phải nói thêm: - Đó là những cái cuống chổi thanh hao đã cùn, tôi không có gối, nên đã buộc, bó với nhau làm gối. Vừa rồi xuống bệnh xá, tôi còn để lại buồng số 4. Y chạy lại mở cửa con buồng 4. Tôi thấy y hỏi gì người bên trong. Như vậy, buồng 4 lại có người mới rồi. Một lúc, y trở lại bảo tôi: - Vào nhà tắm xem sao? Tôi vội chạy sang buồng 8 ngay đối diện. Tôi đã nhìn thấy cái “gối” của toi ướt nhẻm, vất ở một xó sàn, hãy còn dính đầy phân. Thôi đành! Tôi vội vàng mở vòi nước, đập đập cái “gối” xuống nền cho phân trôi đi, vẫy khô, rồi nhanh nhẹn chạy vào buồng. Như vậy là hôm nay y đã dễ dãi với tôi nhiều rồi. Cửa đóng. Căn buồng này không được sạch, nhưng đã có cái chổi thanh hao, tôi cảm thấy khoáng đãng tự do thoải mái. Chân tôi, tuy chưa được nhanh nhẹn, nhưng từ nãy, do sự hoan hỉ ở trong lòng, tôi cứ thích lăng xăng làm việc. Tôi quét sạch hai sàn, dưới nền, hốt hết váo cái bô. Chai thuốc ghẻ vẫn nằm trong túi, tôi lại cởi hết quần áo tích cực diệt ghẻ. Đêm hôm đó, để chống muỗi, với hai bộ quần áo, mặc một bộ, bộ còn lại, tôi lấy cái quần mặc dài xuống dưới cho hai ống quần phủ che kín hai bàn chân, thắt giải rút ở ngay đầu gối, còn chiếc áo thì trùm lên mặt, cho hai tay lên đầu luôn. Trời nóng, mồ hôi ra ướt đẫm, đắp như vậy khó thở, nhưng còn hơn là để muỗi cắn. Mới được tha cùm, tâm tư còn nhiều sôi nổi, lại thêm mấy ngày thoa thuốc ghẻ, bớt ngứa, đêm hôm ấy, tôi ngủ một giấc thật thoải mái tự do. Hôm sau, lại là ngày tắm giặt, tôi cào hết mọi mụn ghẻ, về buồng bôi thuốc, ghẻ đỡ đi rất nhiều. Chỉ 3 ngày sau, người tôi lại sức hẳn. Hàng ngày, tôi loanh quanh trong buồng ung dung, nhàn hạ. Tôi tò mò cố đọc những giòng chữ nhỏ, những người tù trước đã ghi vào tường bằng một cọng thép hay một cái đinh”. - Trần Minh Châu, tức Cập. Vụ án tình báo 1958. Tôi chẳng hiểu “Trần Minh Châu” là ai, chẳng hiểu “vụ tình báo” này từ 1954 cài lại, hay mới ở miền Nam ra như tôi bây giờ. Rồi một vài hàng chữ nữa rất mờ, nói đến “…vụ án chiếc ấn vàng của Bảo Đại…”. Phần do trình độ, người viết chữ nguệch ngoạc, phần vì đã lâu ngày rồi, chữ mờ, tôi cố gắng nhưng không thể đọc hết được, dù viết rất nhiều. Tôi chỉ thấy ghi 1957…Một vài vụ vượt tuyến… Tôi đang ngồi tỉ mẩn, mò mẫm tìm tòi, đọc những hàng chữ ghi trên tường, cửa con xoạch mở. Mụ Hoa chỉ tôi! - Đi cung! Từ ngày tôi bị cùm do chấp pháp, để đến nỗi phải bò và suýt chết, trong lòng tôi căm lắm. Vì thế, tôi đã chủ trương sẵn. Khi ra tới phòng cung, tôi thấy lại vẫn là ghế đã dành sẵn cho can phạm. Tên Nhuận nhìn tôi, giọng đạo đức giả: - Dạo này anh có khỏe không? Sao anh gầy thế? Tôi cũng nhạt nhẽo: - Cảm ơn ông, tôi bình thường! Tên Thành nói với giọng ra vẻ tình cảm: - Chúng tôi bận việc, lâu lắm không gặp anh. Hôm nay, chúng tôi vào thăm anh. Tôi tin rằng với thời gian lâu như vậy, chắc anh đã biến chuyển tốt. Vậy, hôm nay anh có cần gì nói với chúng tôi không? Chúng tôi sẽ đáp ứng những ý kiến mới của anh! Thấy chúng không hề nói gì đến việc cùm kẹp tôi cả, tôi cần nói ý cho chúng biết là từ nay đừng nói gì đến “chính nghĩa” nữa: - Thưa các ông, từ ngày các ông ra lệnh cùm tôi hai chân, nếu không do một sự may mắn tình cờ, làm sao tôi sống để mà nghĩ với ngợi… Cả hai tên đều mở to mắt, ra vẻ ngạc nhiên. Tên Thành vội vàng: - Hả? Anh bị cùm hai chân à? Ai nói với anh là chúng tôi cùm anh? Đúng là Cộng Sản! Tôi tin là chúng biết hết mọi diễn tiến suốt thời gian cùm tôi, cho tới khi bọn chúng phải đưa tôi xuống bệnh xá để cứu sống. Thế mà, bây giờ chúng lại ra vẻ ngạc nhiên như không hề biết gì cả. Thật là trắng trợn! Tôi càng suy nghĩ, tôi càng thấy chúng lòng lang, dạ sói mà lại cố che giấu dưới bộ mặt từ bi, nhân hậu. Tôi thấy nóng người lên, chẳng biết sợ nữa, nhìn thẳng vào mặt chúng, tôi trả lời: - Tôi ân hận là đã thành thật khai báo hết với các ông! Tên Nhuận đứng giỗ dậy, đập bàn, chỉ ty vào mặt tôi: - Anh láo! Anh trả lời trước cán bộ nhà nước như vậy hả? Tôi vẫn ngẩng đầu, cứng rắn: - Tôi tin tưởng các ông là chính nghĩa, nên tôi đã ngày đêm moi óc, nhớ lại hết mọi sự việc để khai báo với các ông. Ra ngoài Bắc, tôi cũng đã không hoạt động gì cho bè lũ Mỹ Diệm; thế mà giờ đây các ông lại dùng những hình thức tra tấn khai thác củ thực dân, Đế quốc đối với tôi. Để rồi tôi, một thanh niên khỏe mạnh, không chịu nổi với bao nhiêu ngày đêm hành hạ, đến nổi phải bò đi. Rồi cho tới khi, thấy rằng tôi sẽ không sống được nữa, các ông mới tạm tha. Tôi giơ hai tay và vạch hai chân ra: - Đây, các ông xem, hai bàn chân tôi vẫn còn sưng phù, đầy ghẻ lở. Tôi đề nghị các ông cho lệnh bắn tôi đi, tôi cảm tạ các ông! Tên Nhuận cười nhạt, tên Thành vẫn ngồi yên. Một lúc, tên Nhuận nói lớn tiếng: - Chúng tôi đã nói, chúng tôi không cho lệnh cùm anh! Để chúng tôi sẽ hỏi các đồng chí bên trại giam xem thế nào. Chúng tôi muốn cùm anh, chúng tôi sẽ nói thẳng, chứ cần gì phải giấu anh. Còn anh muốn chết? Sẽ được chết! Loại người như anh, cũng không để sống làm gì. Anh đã ăn nhiều bơ thừa sữa cặn của Mỹ và tay sai. Bơ thừa, sữa cặn đã thấm vào xương vào tủy anh rồi, nên anh mới dốc một lòng, một dạ hại dân, hại nước. Anh đã quyết tâm là một tên bán nước, để anh sống làm gì, hại cơm nhân dân! Tôi không chịu dược nữa rồi. Tôi nói với sự phẫn uất căng đầy: - Tôi nói với các ông là, tôi, một thanh niên, giòng máu Việt Nam đang cuồn cuồn chảy trong cơ thể này. Với luơng tâm và danh dự: Nếu nước Việt Nam yêu quý này có giặc ngoại xâm, tôi sẽ là một trong những người lính đứng hàng đầu, cầm súng chiến đấu với kẻ thù, để bảo vệ cho giải giang sơn gầm vóc này. Tôi sẽ sẵn sàng chết cho quê hương, không phải vì tiền, cũng không phải vì danh vọng. Tôi không ưa gì người Mỹ, và tôi cũng chống đối đến cùng tất cả những kẻ nào muốn thống trị đất nước tôi, xâm phạm vào chủ quyền độc lập của mảnh đất hình chữ “S” này!... Tôi thấy cả hai đứa đều tím mặt lại. Trong cái thế này, tôi nghĩ phải xoa dịu chúng, vì vậy tôi nói thêm: - Tôi là một người yêu nước với cả tâm hồn tôi, có chăng chỉ là tôi đã yêu…lầm! Dù gì, hai tên cũng thấy tôi đang nói lên những lời từ trái tim đang sục sôi bầu nhiệt huyết. Chúng không thể phủ nhận được điều đó, vì thế tên Thành mỉm cười nói giọng dàn hòa: - Anh yêu nước như thế là tốt! Vậy, tại sao anh không chịu nói hết với cách mạng, mọi âm mưu thủ đoạn Mỹ Diệm giao cho anh, ra ngoài miền Bắc này? Tôi lợi dụng câu nói của y để đẩy đưa: - Chính vì thế, không phải đợi đến bây giờ các ông hỏi. Tôi đã thấy có trách nhiệm ngay từ lúc đầu, tôi đã khai báo ngay âm mưu, ý đồ của địch giao cho tôi. Các ông đã hiểu rõ lòng tôi, vậy từ nay, tôi đề nghị đừng dùng những từ bán nước, hại dân đối với tôi. Hai đưa cười không trả lời. Một lúc sau, tên Nhuận hỏi với giọng nửa đùa, nửa thăm dò: - Này tôi hỏi thực anh, anh còn điều gì không đồng ý với xã hội chủ nghĩa nữa, khiến anh không chịu khai hết sự thật? Tôi đã hỏi cung nhiều rồi, nhưng tôi chưa thấy ai khó khăn như anh cả. Người ta ai ai cũng vậy, khi đã thấy được ánh sáng chính nghĩa, đều thành khẩn khai báo mọi chi tiết. Chỉ riêng anh cứ khư khư ôm mãi. Rồi y tươi nét mặt thổi và dụ dỗ: - Anh biết không, chúng tôi suy nghĩ về anh rất nhiều, chúng tôi muốn giải quyết thất tôt cho anh. Người như anh về với cách mạng thật có lợi cho nhà nước. Đối với đảng, gỗ cong có việc cong, gỗ thẳng có việc thẳng. Biết đâu, anh hoạt động cho kẻ dịch, vì phi nghĩa nên không thành công, còn hoạt động cho cách mạng, với tài của anh, anh lại chả gặt hái được nhiều kết quả có lợi cho nhân dân?! Tôi cười và nói cho qua chuyện: - Cảm ơn các ông, các ông nói đùa vậy. Tôi là một kẻ quê mùa lại còn trẻ, có biết gì đâu mà các ông nói là tài. Bây giờ thân tôi đã bị bắt, đã có tội với cách mạng, tôi chỉ biết ăn năn đền tội; ngoài ra, tôi không có một ý nghĩ gì khác. Trước khi chúng cho tôi về, tên Nhuận còn cố ra vẻ thân mật: - Bình về suy nghĩ kỹ nhé! Chúng tôi sẽ giải quyết rất tốt cho anh! Tôi lặc lè theo tên Bằng về xà lim, vừa cười thầm trong bụng cho cái trò hề rẻ tiền của chúng. Về mặt gì khác, tôi có thể còn ngây thơ chưa hiểu chúng, chứ về mặt này, tôi không còn lạ gì tim đen của chúng cả. Chẳng qua chúng đã dùng đủ mọi cách rồi mà không có kết quả. Bây giờ, chúng lại đưa mồi ra nhử. Tôi luôn xác định rõ, không mơ hồ: Chấp pháp với bị can (người còn đang trong thời gian thẩm tra khai thác, chưa thành án), cũng có thể ví như người câu cá với con cá, hai ranh giới, hai quyền lợi đối nghịch nhau. Mơ hồ miếng mồi, đớp vào, không lên bờ vào giỏ đợi chờ làm thịt, thì cũng rách mõm, toạc môi. Hôm nay, đã mồng 5 tháng 6 rồi. Đang độ giữa Hè, trời nóng như nung. Tôi được thả cùm đã hơn nửa tháng. Hai bàn chân tôi sau một tuần ăn cơm cám, đã rút lại. Những nốt ghẻ do tôi tích cực bôi thuốc đã thành sẹo. Còn một vài mụn nữa đã đóng vảy đen, hết ngứa, chắc cũng gần khỏi. Như thế, tôi đã ra miền Bắc được một năm lẻ tám ngày, và bị bắt vào Hỏa Lò 20 ngày nữa thì tròn năm. Bây giờ chỉ còn khổ vì nóng và muỗi. Hai cái thật mâu thuẫn nhau. Nóng cỡi trần, vén quần cao lên như quần đùi để ngủ thì đỡ nóng. Nhưng muỗi nhiều quá. Ăn đã triền miên không đủ no, đêm mà để nhiều muỗi hút máu, sớm muộn cũng bị bệnh. Vậy, lại phải mặc áo, che kín người, chân tay, mặt mũi. Thế mà, vì ngủ mệt, trở mình, chỗ nào hở ra, sáng dậy lại thấy đầy nốt muỗi. Quần áo đêm nào cũng ướt đẫm mồ hôi, thật hôi hám! Thôi đành, thân tù mà! Người ta vẫn nói: “Thằng tù, thằng hủi, thằng bổ củi, thằng đốt than” mà lại! |
|
|
![]()
Post
#41
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Tám
Cái Giá Phải Trả của “Người Hùng Điện Biên Phủ"... Đang sáng, trời bỗng tối sầm lại. Mới 2 giờ chiều mà như 6 giờ tối. Tôi dịch về phía cuối sàn, ngồi lên chiếc cùm, rõi mắt ra ngoài chiếc cửa sổ. Một mảnh trời đẹp, dài theo mép cửa sổ, xám xịt nặng chĩu nước. Một làn chớp xanh lè nháng lên, kèm theo một tiếng nổ làm rung rinh cõi lòng. Rồi như tiếng đại bác liên hồi nổ, ầm ầm, ì ì chạy suốt từ phía này sang phía kia, rền van trên bầu trời. Trong ngục tù tăm tối vắng lặng, một mình ngồi nghe sấm chớp rền rĩ, tôi cảm thấy thật cô đơn, heo hút, cách biệt với thế giới loài người. Nằm giữa lòng Hà Nội một năm rồi, mà không hề biết biến chuyển gì của Hà Nội. Gió bắt đầu thổi mạnh, mưa bắt đầu rơi…..Đầu tiên là những hạt lộp độp trên mái ngói, sau đó là ào ào như trời đổ nước xuống. Không khí dịu hẳn lại. Ngồi nghe mưa gió ngoài trời, tôi nghĩ đến cuộc đời hẩm hiu, bất hạnh của mình cũng quay cuồng trong gió mưa của đời. Mưa gió của đất trời thì chóng qua đi, còn mưa gió của đời, thì ôi thôi, dài lê thê, biết bao giờ mới dứt?!..... Tôi cứ ngồi bồng bềnh với giòng suy tưởng ngược xuôi. Tôi nhớ đến cũng một buổi chiều mưa rơi trên thành đô ngày nào…..Hôm ấy, để tránh một trận mưa, tôi nhào vào trú dưới mái hiên của một ngôi nhà bên đường Tú Xương. Cho đến lúc trời đã nặng hạt, từ một góc đường, một cô gái cũng đang đạp vội chiếc xe đạp, đến gần chỗ tôi đang trú. Cô hâp tấp dắt xe lên hè, chợt nhìn thấy tôi, cô lúng túng, nửa muốn vào, nửa muốn đi ra, trong khi trời đang đổ mưa ầm ầm. Vì lúng túng, cô đánh rớt chiếc cặp xuống vũng nước đang chảy ào ào ở mé đường…..Cuối cùng, cô đành vào mái hiên tôi đang trú, mặt ửng hồng, e ấp chả dám nhìn tôi. Cô chừng 18, 19 tuổi, có mái tóc dài óng ả buông xõa sau lưng, bám lất phất những hạt mưa lóng lánh. Đôi mắt huyền long lanh rụt rè, càng làm tăng nét dịu hiền của bộ mặt. Trời càng mưa to, phố càng vắng. Mái hiên vừa hẹp lại vừa nhỏ, nếu cùng đứng ở giữa thì không ướt. Nhưng, vì không dám đứng sát gần nhau, nên cô đứng một phía và tôi đứng một phía. Cả hai đều bị mưa hắt, ướt từ đầu gối trở xuống. Cách nhau có hơn một thước, mà không ai dám quay lại. Mưa cứ rơi và hai người cứ đứng. Với cô ấy, tôi không hiểu thế nào, chứ lòng tôi thì thấy vấn vương, ngập ngừng, nhưng tôi chẳng biết và chẳng dám nói cái gì. Ngay quay lại nhìn, tôi còn không dám, huống chi mở miệng nói năng. Tôi cứ đứng bần thần ngơ ngẩn, tiếc là mình tại sao không đủ can đảm, ra nhặt ngay chiếc cặp cho cô ấy khi nãy!? Đường trơn, phố nhỏ, mưa cứ rơi dầm dề. Gần một tiếng đồng hồ sau, mưa mới tạnh. Lúc tôi dẫn chiếc xe solex xuống đường, cô cũng dắt xe đạp đi ra, hai người đi về hai phía. Trước khi bước chân lên xe, tôi mới dám ngoái lại nhìn, như luyến lưu, như mất mát. Khi đó, cũng là lúc cô nghiêng nón nhìn lại, để rồi hai người đi về hai ngả cuộc đời. Chẳng bao giờ gặp nhau nữa, và cũng chẳng biết nhau là ai…..Bây giờ, cũng một trận mưa rơi, nhưng tôi đang ngồi trong ngục tối một mình. Tôi buông một tiếng thở dài không chủ định, như vĩnh biệt những đoạn đời đã qua….. Tôi cứ ngồi đăm chiêu để hồn lửng lơ về đây đó, mưa đã ngừng lúc nào tôi cũng không hay. Mãi tới khi nghe tiếng cửa buồng xịch mở, tôi mới giật mình nhìn ra: Một người cao lớn, có bộ râu quai nón, đang ôm túm một cái chăn bộ đội mầu cứt ngựa lách cửa đi vào, theo sau là lão Tư. Tên Tư nhìn hết buồng một lượt, rồi ra đóng cửa lại. Tôi và người mới vào gật đầu chào nhau. Để ghệ bọc chăn lên sàn xi măng, tay vẫn còn cầm túm bốn góc cái chăn, anh nhìn suốt lượt trong buồng. Cuối cùng, anh mở to mắt chăm chú nhìn hai cái cùm sắt to lù lù phía cuối sàn. Câu đầu tiên, anh nói với tôi: - Hai cái cùm, trông ghê quá nhỉ! Có lẽ Hỏa Lò đây do thực dân Pháp xây lên, vì thế, chế độ ta giữ lại để làm lưu niệm, cho mọi người thấy sự tàn ác của Đế quốc! Tôi chưa hiểu anh là dạng thế nào, nên tôi chỉ cười, không trả lời. Anh lúi húi mở gói chăn ra, nào màn, nào quần áo, đặc biệt có cả cái điếu con, diêm và thuốc lào. Mọi thứ đều lộn xộn, có lẽ vừa bị khám xong, trước khi chúng cho anh vào buồng. Anh vừa sắp xếp các thứ lại, vừa hỏi tôi: - Anh bị bắt lâu chưa? Tôi nói thẳng: - Một năm rồi! Anh dướn mắt to lên, ngạc nhiên: - Anh nói đùa đấy chứ? Làm gì mà một năm? Tôi lại cười, hỏi lại anh: - Còn anh? - Mới ngày hôm nay. Bắt ở Vinh hồi sáng, đưa về đây ngay. Trông anh có vẻ dữ tướng, thế mà trao đổi qua vài câu nói, kết hợp với thái độ lại tỏ ra hiền, cởi mở. Vì thế, tôi vồn vã: - Anh bị bắt vì tội gì? - Vượt tuyến! Rồi anh ngửng lên, hất hàm: - Còn anh? Tôi nói như đùa: - Cũng vượt tuyến! Anh mở to mắt, ngửng lên nhìn tôi nữa. Để anh khỏi ngỡ ngàng, tôi tiếp: - Nhưng từ Nam ra Bắc! Anh càng ngạc nhiên hơn nữa, anh ngừng xếp dọn, quay hẳn người ra hỏi: - Anh thích chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc? - Không những tôi không thích, mà còn chống. Chứng cớ, tôi đang nằm trong nhà tù của họ. Mặt anh cau hẳn lại, dáng băn khoăn: - Như thế nghĩa là…? - Nghĩa là, tôi là người của chính quyền Sài Gòn, đột nhập Hà Nội để hoạt động tình báo. Anh có vẻ hân hoan ra mặt. Buổi tối hôm ấy, chúng tôi trao đổi tâm sự để biết sơ lược về nhau. Anh tên là Hoàng Hùng, 40 tuổi, quê ở Hải Phòng. Anh theo cách mạng từ ngày 19 tháng 8 năm 1945, Khi đó, anh 21 tuổi. Anh là bộ đội, năm 1958 chuyển ngành về Bộ Tài Chính. Năm 1959, anh lập gia đình và hiện có hai con, còn nhỏ. Muốn được thêm sáng tỏ về anh, tôi hỏi tiếp: - Như vậy, nguyên nhân và động cơ nào khiến anh vượt tuyến vào Nam? Mặt hiện lên nét đăm chiêu, anh chậm rãi: - Vấn đề nguyên nhân và động cơ phức tạp lắm. Thong thả tôi sẽ kể cho anh nghe, vì nó không phải bắt nguồn từ một điểm! - Thế vì sao anh bị bắt? Vẻ mặt anh buồn buồn: - Chỉ vì một anh bạn muốn từ giã người yêu ở Vinh, nên câu chuyện bị lộ. Tối hôm đó, tôi chỉ biết sơ về anh như vậy, và anh cũng tỏ vẻ háo hức muốn biết một vài nét về tôi cũng như về cả hội miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Anh lấy chiếc điếu con con, gói thuốc lào và bao diêm, quay sang tôi hỏi: - Bình có hút thuốc lào không? Thấy anh là một người vui vẻ cởi mở, tôi cũng thấy vui vui. Hơn nữa, anh là một cán bộ đã theo Cộng Sản tứ 1945, hẳn qua anh tôi sẽ hiểu thêm về Cộng Sản trong quá trình. Nghĩ như thế, nên tôi cũng tươi nét mặt: - Tôi chưa hút thuốc lào bao giờ….. Chợt tôi nhớ đã có lần hút ở nhà lão chủ tịch Phong ở Kỳ Phương. Nhưng tôi không đề cập tới chuyện đó, nói tiếp: - Nhưng, để đỡ sầu, tôi sẽ hút thử….. Nói xong, tôi chồm sang bên sàn của anh. Nhìn anh vê điếu thuốc lào cho vào nỏ điếu, dáng ngồi nghiêng nghiêng, làm râu quai nón xồm xoàm vì mấy ngày không cạo. Nét mặt rắn rỏi, nói lên anh là một con người đã có nhiều xông xáo trong gian khổ, hiểm nguy. Anh bật diêm, đưa chiếc điếu lên miệng. Nhìn ngọn lửa que diêm bập bùng nhỏ to theo điệu nhắp của từng nhịp hút “rẹt, rẹt, rẹt…..” Rồi cuối cùng, một tiếng rít dài và nhọn lanh lảnh như tiếng con dế cái hứng lòng gọi bồ rong đêm khuya, làm cho điếu thuốc chui tọt vào nõ điếu. Gân cổ căng lên, anh bỏ điếu xuống sàn, nhắm mắt, ngửa mặt lên trần, miệng tròn như chữ “O”. Từ đấy, như một ống khói tầu thỷ chạy than, khói theo nhau tuôn ra, dẫy dọn, ngập ngừng lửng lơ bay lên trần nhà, rồi tan loãng vào không gian… Ngực anh phập phồng, hổn hển, mắt anh lơ mơ, đờ đẫn. Ngắm anh, tôi chưa hút mà cũng thấy lơ ngơ, dập dờn. Tôi vê một điếu và bắt chước anh. Nhưng, khi kéo một hơi dài, tôi bị sặc, ho chảy cà nước mắt ra. Người cũng rần rật đê mê, ngây ngất bập bềnh như bơi trên biển sóng. Mải chuyện trò rao đổi, tối hôm ấy, mãi khi chiếc loa “nghẹt thở”, chúng tôi mới đi ngủ. Anh nhìn sang, thấy tôi không có mùng mền, quần áo gì cả, anh ái ngại bảo tôi: - Hai anh em nằm quay đầu ngược xuôi, chui vào mùng tôi ngủ đi, kẻo muỗi cắn chết! Hơn một năm rồi, tôi đã chịu được, nhưng vì lòng mến anh, tôi cũng chui vào mùng ngủ chung. Chiếc sàn chỉ rộng 65 phân nên quá chật chội, trời lại nóng. Để khỏi ảnh hưởng đến giấc ngủ của anh, tôi nằm một lúc rồi chui ra ngoài, về sàn mình. Tôi lại mần mò làm thủ tục che muỗi như mọi khi. Anh thấy tôi chỉ có cái gối làm bằng mấy bó cuống chổi, liền ném cho tôi cái vỏ ba lô, giọng thương cảm: - Bình hãy lấy tạm cái này gối đỡ! Lòng tôi len lén dâng lên một niềm xúc cảm. Tình nghĩa đùm bọc của người cùng một nước như ấp ủ hồn tôi. Trước khi chìm vào giấc ngủ muộn, tôi miên man nghĩ ngợi. Anh và tôi, trước đây đứng trong hai chiến tuyến đối lập. Vậy mà giờ đây, do những bối cảnh của cuộc đời, do những thực tiễn của đất nước đẩy đưa, lại gặp nhau trong một hoàn cảnh này, để rồi thể hiện lên như một chân lý về cái thiện mỹ của con người cùng chung một quê hương, một dân tộc. Điều đó, cho phép tôi hiểu và tin tưởng rằng, dù Cộng Sản dùng bất cứ hình thức nào, cũng không thể đổi thay được bản chất chân chính của con người…Từ suy tư ấy, trong đầu tôi lạo lóe lên một nét nữa: Một con người như Hoàng Hùng, với tội vượt tuyến, tại sao Cộng Sản lại đưa vào nằm với tôi, một tình báo của miền Nam? Tôi hiểu, chúng làm việc gì cũng đều có nghiên cứu, nhất là những việc như thế này, lại càng cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn. Tôi băn khoăn lý luận, phân tích, để ít ra dự đoán gần đúng như ý định của chúng. Nếu đúng như tôi dự đoán, việc chúng đưa Hoàng Hùng vào nằm với tôi có phần tốt cho tôi. Chúng đánh giá phần nào, tôi là một người tiến bộ theo hướng nhìn của chúng? Tôi nhớ lại, trong một lần đi cung đã lâu, chúng có hỏi vì sao tôi lại thích xã hội chủ nghĩa. Lúc đó, tôi đã ngẫm nghĩ xem nói gì để chúng có thể tin được. Chúng đâu có phải tay mơ, dễ qua mặt chúng, muốn nói gì thì nói được đâu! Phải có biện chứng “lô gích”, hợp tình, hợp lý mới hòng làm cho chúng tin. Cuối cùng tôi đã nói với nội dung như sau: - Tôi thích xã hội chủ nghĩa, không phải mới đây, mà đã từ xa xưa lắm rồi. Ngay từ lúc tôi còn là một cậu bé 10, 12 tuổi. Tôi đã đậu bằng Tiểu học với hạng Ưu ở Huyện nhà, dưới chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Những buổi đi cắm trại, những ngày hoạt động thiếu nhi, tôi thường được đi chơi với rất nhiều anh bộ đội. Các anh ấy cũng mến tôi, thường dẫn tôi đi chơi đây đó, có khi mang cả về đơn vị của các anh ấy. Nhiều anh bộ đội “Cụ Hồ” luôn ngự trị trong một góc trái tim nhỏ bé của tôi. Lớn lên, do cuộc mưu sinh, do những biến chuyển cuả đất nước, tôi ra Hà Nội, rồi vào Sài Gòn. Một phần, hình ảnh anh bộ đội vẫn chưa mờ nhạt trong tôi; phần khác, tư duy và kiến thức dần trưởng thành theo tuổi đời. Từ trước, tôi vẫn ngưỡng mộ, cảm phục các nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tôi hiểu họ là những người có nhiều kiến thức, uyên bác cổ kim. Họ tìm tòi, phát kiến ra nhiều tư tưởng sâu sắc, có lợi cho nhân quyền xã hội, có lợi cho thời đại mới của loài người. Họ là những người đi tiên phong, chỉ đường và hướng dẫn tư tưởng quần chúng. Sau những biến thiên của đất nước, hầu hết các nhà văn, nhà thơ nhà báo đều ở lại với chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, kể cả sau 1954. Còn ở miền Nam, chỉ có một số cá biệt. Như thế, phải chăng chế độ miền Bắc là đúng, là chính nghĩa? Từ những suy nghĩ đó, dù sau này, vì hoàn cảnh tôi phải làm việc cho chế độ miền Nam, tôi vẫn có một phương châm như kim chỉ nam: “Nếu tôi không làm gì có lợi cho chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng dứt khoát không bao giờ làm hại”. Đấy là lý do tôi nêu lên, khi chúng hỏi cung tôi. Rồi trong thực tế, với tên Hoàn, người chúng dùng làm “khổ nhục kế” với tôi. Tên Phạm Huy Tân, loại chó chết cơ hội chủ nghĩa, tôi cũng thường kể, hoặc nói những khía cạnh tiêu cực của chế độ Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Vậy bây giờ, đưa Hoàng Hùng, một anh bộ đội lão thành, thích chế độ miền Nam, cho vào cùng buồng với tôi,một người của chính quyền miền Nam. Cộng sản, tính lợi dụng tôi làm ruỗng nát lòng mơ tưởng, của Hùng bằng những tư tưởng, mà chúng cho là tôi đã có? Tôi nghĩ, chỉ có như thế, mới giải đáp thỏa đáng trường hợp Hùng và tôi giam chung với nhau. Sáng hôm sau, anh Hùng dậy, sau khi hút thuốc lào, còn sờ và ngắm nghía cái cùm. Anh quay sang tôi: - Tụi thực dân dã man thực. Cùm người ta thế này, thì chỉ có chết thôi! Nghe anh nói, tôi cũng hơi băn khoăn. Một người Cộng Sản, hầu như cả cuộc đời chiến đấu, nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử trong hàng ngũ Cộng Sản, mà lại phát biểu như vậy ư? Không gì bằng thực tế sẽ trả lời anh! Anh còn ở xà lim này, chỉ ít ngày nữa anh sẽ nghe thấy tiếng cùm, tiếng khóa thôi. Nghĩ như vậy, tôi cũng chỉ nhìn anh, cười không nói gì. Cửa con xoạch mở, mụ Hoa chỉ tay vào Hùng, bảo đi cung. Buổi trưa Hùng về, chiều lại tiếp tục đi cung, mãi 5 giờ mới về. Sau khi cửa đóng, Hùng quay lại tôi, giọng ngạc nhiên: - Này, Bình này, sao nhiều tù thế nhỉ? Tôi đi qua sân trại chung, đầy tù?! Ơ! Tôi mở to mắt ngạc nhiên nhìn anh: - Tôi tuởng câu đó phải để tôi hỏi anh mới đúng chứ! Tôi là người của chế độ khác mới đến, anh phải giải thích cho tôi điểm đó mới phải. Vậy, trước đây anh nghĩ thế nào? Nét mặt Hùng rất thành thật: - Suốt cuộc đời, tôi ở bộ đội, đến khi chuyển ngành công tác ở Hà Nội. Thỉnh thoảng trên đường phố, tôi gặp dăm ba người mặc quần áo sọc, quét dọn ở đường, hoặc làm lao động nặng nhọc ở một khu vực nào đó, do một anh công an coi. Theo hiểu biết và quan điểm của tôi, dưới chế độ cách mạng, phải không có nhà tù nữa. Bời vì, khi cách mạng dựng ngọn cờ khởi nghĩa, đánh đuổi thực dân, tuyên bố phá nhà tù để xây trường học cơ mà. Nhưng bao giờ cũng vậy, trong một xã hội, tất yếu phải có người chưa tự giác cao, có lúc gây ra tội lỗi, sai phạm. Đó chỉ là nhất thời, vậy chỉ cần một số ngày giáo dục, một vài biện pháp bắt buộc lao động, cũng chỉ nhằm mục đích giáo dục con người. Nhưng, ngay những số này, cũng rất là hạn hữu. Ngồi nghe anh lý luận, tôi càng khiếp sợ cho sự khéo léo, tinh vi của Cộng Sản. Một người như Hoàng Hùng mà cũng chỉ như một con ngựa kéo xe, hai bên mắt bị che kín. Chỉ được nhìn thẳng về phía trước, bảo đi là đi, bảo đứng là đứng. Tôi phải có trách nhiệm, lựa lời dần dần cho anh biết thực tế. Nhưng bây giờ tôi chỉ nói với anh một cách đơn giản: - Thực tế sẽ hoàn toàn không giống như anh đã nghĩ đâu! Tôi tin rằng những ngày tới, anh sẽ hiểu biết nhiều hơn bằng những sự việc thực tế, và bằng mắt thấy tai nghe. Anh về muộn, tôi đã lấy sẵn cơm nước vào cho anh. Ăn xong, tên Tư mở cửa. Từ sáng, anh chưa được rửa mặt, vì thế khi tên Tư sắp đóng cửa, Hùng tiến ra: - Báo cáo đồng chí, cho tôi ra rửa sơ cái mặt? Tên Tư quắc mắt nhìn Hùng: - Từ nay, tôi cấm anh không được gọi tôi là đồng chí! Anh là một người tù, không ai là đồng chí với anh cả, nghe chưa! Hùng mở to mắt ngạc nhiên, hai quai hàm bạnh ra, cuối cùng nuốt hận, Hùng chỉ nói: - Xin lỗi, tôi quên! Lúc vào ngồi, Hùng có nét đăm chiêu. Qua một thời gian, tôi được biết rõ về Hùng như sau: Anh là con một gia đình giầu có ở Hải Phòng. Đang học Trung học thì tiếng súng ngày 19/9/1945 bùng nổ. Với bầu nhiệt huyết của người con trai Việt, chỉ biết yêu nước, yêu dân đơn thuần. Anh đã theo tiếng gọi của núi sông, thoát ly gia đình, cầm súng giết giặc để bảo vệ quê hương. Anh nhiệt tình hăng say học tập, chiến đấu nên ngay cuối tháng 12/1945 anh đã là Tiểu đội truởng trong Trung Đoàn Thủ Đô. Đơn vị anh đã giành giật với thực dân Pháp từng khu phố của Thủ Đô năm 1946. Cuối cùng, sau khi rút lui về chiến khu, anh đã nổ lực chiến đấu vào sinh ra tử bao nhiêu chiến trường. Hết ở đồng bằng, lại Đông Khê, Cao Bắc Lang. Biên chế đổi thay hết: Từ Sư ”312”, Sư Đoàn Đồng Bằng, tới Sư “320”, v.v… Cuối cùng là chiến dịch Điện Biên. Chính Đại Đội anh đã cắm lá cờ đỏ sao vàng lên nó hầm tướng De Castrie. (Ngay từ cuối 53 đầu 54, chính phủ, bộ quốc phòng Pháp đã gắn lon Thiếu Tướng cho De Castrie, bằng cách từ trên máy bay thả lon, xuống ngay chiến lũy Điện Biên). Bao nhiêu bạn bè đồng lứa với anh lúc đầu, lần lượt nằm xuống hết cho quê hương. Còn sót người nào, ngày nay không là “D” Trưởng, cũng là “E” Phó. Bản thân anh, cao nhất cũng chỉ là “D” Phó, tức Tiểu đoàn phó. Mãi tới khi chuyển ngành năm 1958, anh cũng vẫn là “D” Phó. Chỉ vì, suốt quá trình, anh vẫn có cái đuôi là con tư sản. Do thái độ trong học tập, cũng như trong sinh hoạt tổ chức, anh càng bất mãn, nên đôi lúc cũng có thái độ bất cần. Anh tâm sự: - Bình thử tưởng tượng xem, những ngày họp đảng, họp tổ v.v… Ngay các chiến sĩ dưới quyền mình đi đâu cũng không thèm cho mình biết. Rồi cứ nhỏ to thầm thì chuyện này, chuyện kia. Mình có hỏi đến, chúng nó trả lời việc này đồng chí không nên biết. Mình là thằng chiến đấu chịu đựng biết bao gian khổ. Bao nhiêu lần tưởng tan xương nát thịt, may nhờ hồng phúc nhà mình, còn sống sót, thế mà bị đối xử phân biệt, Bình nghĩ có hận không? Không phải một mình tôi, một số người nữa cũng bị như tôi. Cho nên, khi Sư đoàn tôi về tiếp quản Thủ Đô 10/10/1954, từ địa điểm xuất phát vùng Tây Bắc, trên đường về chúng tôi bắn phi đạn như mưa, gặp cây cối, núi rừng hai bên đường, đều bắn chơi. Tôi ngày càng chán chường, nên có những hành động tiêu cực, chểnh mảng trong học tập. Cũng như trong công tác. Mãi đầu 1958, tôi xin chuyển ngành mới được về công tác ở Bộ Tài Chính, làm phó phòng điều hành. Năm 1959, tôi lấy em gái một người bạn hiện nay là Tiểu đoàn trưởng. Ngay ở Bộ Tài Chính, hiện tượng đối xử phân biệt với tôi cũng vẫn thế. Bởi vậy, tôi đi làm là phải đi làm, nhưng làm sao hăng hái tích cực được nữa. Trong số những bạn bè quen biết thời gian công tác ở Hà Nội, có một anh là sinh viên Văn Khoa năm thứ hai, thời trước 1954. Sau bị đuổi khỏi trường, ngày ngày lang thang cùng mấy người bạn làm sơn mài, mà vẫn đói rách không đủ ăn. Trong quá trình quan hệ, dọ dẫm, thử thách, khi hiểu về nhau, chúng tôi đã có lần nhen nhúm tư tưởng đi Nam. Chúng tôi tìm hiểu, nghe ngóng một thời gian, thấy rằng: Sài Gòn, cũng như Hà Nội trước 54, là một xã hội đầy dẫy thối nát, với toàn loại chính khách xôi thịt đớp hít, chỉ lo cho gia đình cũng như bản thân làm sao được “vinh thân phì gia”. Còn nói đến quê hương dân tộc, chỉ nói đến ở cái mồm. Nhưng, từ ngày cụ Ngô Đình Diệm về nước, Sài Gòn đã đổi khác. Cả cuộc đời cụ đã lo cho nước, cho dân. Cụ đem ấm no hạnh phúc lại cho người dân thực sự, vì vậy dân tin, dân yêu. Mọi người dân miền Bắc, khi Cộng Sản đến tuyên truyền đã không còn nghe theo lời chúng nữa. Vấn đề đã làm cho Bộ Chính Trị Trung Ương đảng điên đầu. Dân chúng thường thầm thì bàn tán, ít nhiều mang trong lòng niềm hy vọng hướng về Nam. Do đó, chúng tôi hoạch định một đường hướng, rồi quyết tâm ra đi, bỏ cả vợ con lại, khi nào về giải phóng hãy hay. Từ đó, tôi lại tỏ ra tích cực rong công tác. Đồng chí Bộ Trưởng là bộ đội cũng chuyển ngành, có sự đồng cảm nên rất thương và tin tưởng tôi. Tôi thường được giữ một số giấy phép cấp cho cán bộ hàng tháng đi công tác, có đóng dấu và chữ ký sẵn của Bộ Trưởng. Tôi lấy 3 cái, điền tên của anh bạn và tôi vào công tác ở Vĩnh Linh, để giải quyết một số vấn đề về tài chính. Chúng tôi hẹn ngày, giờ ra đi. Khi tới Vinh, anh bạn còn vào gặp một người yêu ở đấy. Trong lúc từ giã yêu thương, thế nào đó, anh đã thổ lộ mọi chuyện với người yêu. Cô này lại là công an mật, nên khi chúng tôi lên xe vào Vĩnh Linh, công an đến xét hỏi giấy tờ và bắt về đây….. Những ngày không đi cung, những buổi tối nằm không, tôi thường gợi chuyện anh. Anh cũng mến tôi, nên anh đã kể lại cho tôi nghe bao nhiêu trên đánh ly kỳ. Bao nhiêu câu chuyện ngộ nghĩnh của một số Tướng, Tá trong bối cảnh phức tạp của vùng núi rừng chiến khu Việt Bắc. Anh Hùng, thường ngày vẫn đi cung liên tục, đôi khi cũng có ngày không gọi. Anh rất thích nghe chuyện miền Nam. Anh tỉ mẩn hỏi giá từng ký gạo, cân thịt bò, cho đến rau cỏ và những sinh hoạt thông thường của xã hội miền Nam. Tôi chỉ cần trung thực kể lại cho anh nghe những điều gì tôi biết. Nhiều cái anh không thể tưởng tượng được. Nhưng sự thật bao giờ cũng có hồn, có giá trị nội tại của sự việc. Vì thế, ngồi nghe tôi nói, anh càng tỏ chán chường ghê sợ đời sống lầm than, cơ cực như con vật của đồng bào miền bắc. Tôi thường kể cho anh nghe một vài nét diễn tiến chính, của xã hội từ ngày cụ Ngô Đình Diệm về nước. Tuy vậy, tôi chưa dám nói những điều gì sâu sắc của cá nhân mình, cũng như của chế độ miền Nam. Tôi định rằng, chưa vội, hãy dần dần tùy theo điều kiện. Mục đích, giúp anh nhận chân rõ được bản chất, của từng sự việc và phần nào thực trạng, của đất nước. Những lúc anh đi cung, anh thường để diêm và thuốc lào mời tôi hút tự do. Bấy giờ, mỗi ngày tôi hút 3 điếu, và cũng chính do anh Hùng mà tôi đã biết, hút thuốc lào từ đó. Mấy bữa nay đi cung về, hình như có nhiều điều suy nghĩ căng thẳng, anh ít nói hẳn đi. Tối, anh thường mắc mùng đi ngủ sớm, kêu nhức đầu. Tôi hiểu anh đang gặp khó khăn, sự việc của anh có điều căng thẳng. Do ý thức tế nhị chưa muốn đi sâu vào sự việc của anh. Tôi tính mai kia dần dần sẽ lựa lời thăm hỏi, để nhân đó phần nào góp ý giúp anh chăng. Anh vào đây đã được ngót một tháng rồi, vợ con anh vẫn chưa được gặp. Chiều nay, cũng như mọi khi, tôi đang ngồi buồn bâng khuâng suy nghĩ, chờ anh đi cung về, để biết diễn tiến cung kẹo của anh. Bát cơm của anh tôi đã lấy vào, vẫn lạnh lẽo chơ vơ trên cái cùm ở cuối sàn anh. Cửa mở, anh Hùng đi cung về, tôi thấy anh lách cửa vào, mặt đỏ dừ, hai môi mím chặt. Tôi chưa kịp hiểu và có thái độ gì, đã thấy tên Tư mặt hầm hầm rút chốt cùm. Y bảo Hùng chuyển bát cơm từ chỗ cái cùm lên phía đầu nằm, rồi y nhấc nửa tên cái cùm lên, trong khi Hùng mặt tím bầm, ngồi ghệ ở sàn. Tên Tư quát: - Bỏ chân vào! Hùng lừ lừ nhấc một chân cho vào. Tên Tư quát tiếp: - Bỏ cả chân kia nữa! Mặt Hùng lại biến sang đỏ. Tôi hiểu anh bị một áp lực nào đó, kìm hãm ghê lắm. Không nói năng gì, anh bỏ nốt chân kia. Tôi chưa hiểu nguyên nhân nào khiến tên Tư có vẻ căm hận Hùng. Y nhấc cao chân, rồi đạp mạnh vào nửa cái cùm trên, cho dập mạnh xuống. Sắt trên sắt dưới dập mạnh vào nhau, đồng thời người của Hùng cũng giật lên một cái. Tôi nhìn chỗ cùm, thấy một giòng máu đang rỉ chảy từ trên cùm xuống sàn. Tôi hiểu rằng, khi Hùng cho chân vào, chân đã to, anh lại vô ý để bắp chân nằm bè ra mép lỗ. Vì vậy, khi hai nửa cùm dập lại, thì bắp chân anh bị dập đứt. Tên Tư, coi như không thấy, ra chốt cùm rồi đóng khóa cửa lại. Hùng không nói một lời, mắt nhắm nghiền, nằm ngửa, mặt lại tím bầm. Tôi suy nghĩ, tội vượt tuyến đâu đến nỗi cùm như vậy! Có thể, do sự phẫn uất của một người đã hiến dâng cả một đời cho chế độ, bây giờ lại bị đối xử không ra gì, nên anh Hùng đã thể hiện thái độ căm phẫn nào đó đối với chúng chăng? Tôi cũng không ngờ sự việc, đã trả lời cho câu hỏi của anh, khi mới vào xà lim này, về “cái cùm của thực dân Pháp”, lại quá đầy đủ như vậy. Giòng máu từ chân anh đã đọng lại, nhưng anh vẫn nằm yên. Tôi thấy không đành lòng, bước xuống để một tay lên vai anh: - Anh Hùng! Hãy cố gắng gượng ngồi dậy, ăn tí cơm đã! Anh chỉ lắc đầu, không nói một lời, thái độ tỏ vẻ đừng quấy rầy anh. Tôi hiểu, anh lớn tuổi hơn tôi nhiều, anh đang có những suy nghĩ quyết liệt của đời anh. Tôi phải tôn trọng những phút riêng tư thiêng liêng ấy, thong thả sẽ nói chuyện với anh sau. Tôi về chỗ mình, cũng buồn, nghĩ thương cho một đời của anh. Bao nhiêu công lao sinh tử, để rồi bây giờ là đây? Cửa con xoạch mở! Mặt tên Tư. Y đóng cửa con lại, mở cửa lớn. Đứng ở giữa cửa, y quát to: - Anh có ăn cơm không? Hùng vẫn cứ nghiến răng, nhắm mắt nằm yên. Tên Tư, quay sang tôi gằn giọng: - Mang bát cơm ra ngoài! Tôi thấy rất ngại ngần, nhưng mình là tên tù, tôi đành chậm chạp cầm bát cơm đưa ra. Y đóng cửa đến “xầm” một cái. Tiếng chiếc loa lại léo nhéo vang lên, hết giờ làm việc. Tôi về sàn ngồi, lòng cũng không yên. Ngồi mãi, rồi tôi cũng nằm xuống nhắm mắt, nghĩ ngợi miên man. Đến chừng 6 giờ chiều, giọng ồm ồm của anh Hùng bỗng vang lên: - Bình! Hãy mắc giúp tôi cái màn! Tôi ngồi dậy, quay sang anh. Anh nói mà mắt vẫn nhắm nghiền. Tôi lục cái màn của anh trên đầu sàn, tìm mấy cái lỗ ở trên tường loay hoay mắc màn cho anh. Tôi hơi lúng túng, hơn một năm ở xà lim, vì không có màn nên cũng chẳng để ý. Tường không có đinh, chỉ có những lỗ nhỏ. Những người trước đã khoét lỗ vào tường, lấy sợi dây nhỏ, thắt nút thành một cục rồi nhét vào lỗ và lấy cơm phết chặt, khô đi rất cứng, chắc. Còn đầu sợi dây, bẻ một đoạn chổi thanh hao chừng 2, 3 phân buộc lại, thành cái khuy để mắc màn. Mãi tôi mới mắc xong màn cho anh. Tôi cũng hất đuôi màn, che hết cả chân anh. Mọi khi cũng giờ này, trước khi đi ngủ, tôi bắn một điếu thuốc lào cho say sưa rồi đi nằm. Nhưng bữa nay, anh đang trong tình trạng như thế, tôi cũng chẳng còn lòng dạ nào để say sưa. Ngồi mãi một mình cũng buồn, mới 8 giờ tối. Tôi cũng chuẩn bị những thủ tục che muỗi của tôi để đi ngủ. Tôi nằm, nhưng không sao ngủ được. Tôi nghĩ đến chân anh Hùng to, tuy người anh khỏe, nhưng làm sao nằm ngửa mãi được. Tôi hiểu rằng, anh cũng không bị cùm lâu đâu, nhiều lắm cũng chỉ một tuần. Chân anh quá to, anh sẽ khó xoay sở để ỉa đái dễ dàng như tôi được. Hơn nữa, tôi biết anh cũng không thể chịu đựng được lâu. Tôi cứ nằm trằn trọc vơi đầy bao nổi niềm về cuộc đời, về đất nước. Thân anh Hùng đã vậy, thân mình cũng tái tê trăm ngả thương đau. Tiếng loa tắt ngấm đã lâu, có lẽ cũng hơn 11 giờ rồi. Tôi bỗng nghe tiếng khìn khịt, như tiếng một con gà bị cắt tiết. Tôi vội nằm xoay người lại, liếc sang màn anh Hùng. Dưới ánh đèn 40 watts ở giữa trần, tôi cố căng mắt nhìn qua lần vải thưa của chiếc màn, đã ngả mầu vàng của anh. Tôi thấy mờ mờ một mầu đỏ xậm lan to dần chỗ ngực, trên lần vải áo “may ô” anh vẫn mặc. Tôi hiểu, anh qua phẫn uất và chán chường cảnh đời lầm than, khổ đau của anh, nên anh tự tử. Tôi cho rằng, có thể anh có một cái đinh, thọc mạnh vào mạch máu; hoặc, anh ghé răng cắn những mạch máu ở cổ tay. Chứ trong xà lim, lấy cái gì ra để tự tử được! Tôi cũng suy nghĩ, dù sao trước đây, trong những năm tháng miệt mài hăng say lập công với Cộng Sản. Ít ra anh Hùng cũng đã làm ngã gục nhiều người lính chiến, mang trong mình dòng máu Quốc Gia chống Cộng Sản. Vậy, cần để anh thấm thía những sai lầm anh đã làm, để anh thấm đậm hơn “chính nghĩa bịp bợm” của cái gọi là “cách mạng nhân dân” mà anh đã từng phục vụ. Từ ý nghĩ đó, tôi vẫn nằm yên như ngủ say. Nhưng, những tiếng phì phì như tắc nghẹn của anh, đã làm tôi lại phải mở mắt liếc sang. Giòng máu đỏ đã loang ra đến ngoài màn, chảy xuống nền nhà thành một vũng. Tôi không thể nằm được nữa rồi. Ngồi bật dậy, tôi bước chân xuống đất, chồm sang bên sàn anh. Tôi nhấc màn lên. Máu đỏ lòm, ướt đẫm chiếc áo may ô và một khoảng chiếc chăn bộ đội. Mắt anh vẫn nhắm nghiền, mặt anh xám ngoét. Tôi xúc động, lay lay tay anh: - Anh Hùng! Tại sao anh làm thế? Anh không được chết, người đáng chết là tôi đây này. Anh còn phải sống vì trách nhiệm với vợ anh, con anh, và cần sống để nhìn rõ được nhiều sự thật, mà trước đây mơ hồ. Anh vẫn nằm im, không nói gì với tôi cả. Không làm sao được nữa, tôi vội đứng lên sàn, ngửa mặt ra ngoài phía cửa sổ, gào to: - Báo cáo cán bộ, buồng 2 có người tự tử! Im lặng. Bên ngoài chỉ có tiếng gió rì rào của đêm thâu. Tôi lại gào lên lần nữa. Vẫn im lặng. Lần này, tôi cho miệng ra sát cửa sổ. Mới mở miệng hô “Báo Cáo…” Chưa hết câu, cửa con đã xoạch mở. Giọng một người lạ: - Cái gì? Chắc gì đã nhìn thấy vũng máu còn đỏ xậm dưới nền nhà, dù vậy tôi vẫn nói và chỉ tay sang phía màn anh Hùng: - Anh này tự tử… Tiếng chìa khóa lẻng xẻng mở cửa. Một người lạ mặt mặc thường phục, tôi chưa thấy bao giờ, khẩu súng ngắn đeo trễ một bên hông. Y vào, nhấc cái màn, rồi y nhìn xuống hai cái chân ở trong cùm cũng có máu đã đen xậm. Y vội vàng ra, đóng cửa lại. Khoảng 5 phút . Hôm nay, tôi mới lại thấy mặt tên Thế, cái tên khốn nạn đã đánh tôi khi tôi mới vào xà lim năm ngoái. Y còn đang mặc quần đùi, cởi trần. Chúng rút cùm, nhấc hai chân anh Hùng ra, và giật cái màn xuống. Ngoài cửa đã có cái băng ca bằng gỗ. Tên mặc thường phục, hất chân của anh Hùng ra. Bây giờ tôi mới nhìn rõ, tay trái của anh: cổ tay và khủy tay đều rách nát, đầy máu. Trên cổ anh, ngay chỗ yết hấu, mấy cái bong bóng máu to nhỏ bám ở vết cắt vẫn phập phồng. Tên Nhiễm đã tìm thấy, giơ lên một lưỡi “lam” mỏng. Tên Nhiễm cầm hai tay anh Hùng, tên Thế hai chân, khênh ra ngoài cửa. Tới cửa, quay lại tôi Nhiễm nói: - Tất cả những vật dụng gì của anh ấy, anh bỏ ra! Tôi thu gọn hết, cả cái điếu con, diêm và thuốc lào. Trong lúc quá vội vàng, nên thứ gì của anh Hùng tôi cũng vơ gọn lại. Sau này, tôi tiếc cái điếu và thuốc lào mãi. Buồng tanh ngòm! Tôi đề nghị tên Nhiễm cho tôi lấy một bô nước dội. Sau khi thấy y gật đầu, tôi chạy ra làm 3 bộ nước dội lên sàn và dưới nền. Xong việc, chúng đóng cửa và khóa ngay, lúc đó đã 12 giờ đêm. Tôi lấy chổi quét nước trên sàn xuống, rồi quét nền cho nước chảy xuống một cái lỗ nhỏ dưới nền nhà, chỗ sát tường phía đầu nằm. Đêm đã khuya, vắng lặng, trong buồng vẫn sặc lên mùi tanh của máu! Từ đó, tới lúc có tiếng loa, tôi cứ thấp thỏm không làm sao ngủ được. Chẳng hiểu anh Hùng sống hay chết! Tôi đoán rằng, trong lúc chúng khám, khi anh mới vào Hỏa Lò, anh vẫn giấu được một lưỡi “lam” chắc để cạo râu. Vì là tôi vượt tuyến, đâu chúng khám kỹ như khám tôi. Tôi cứ triền miên nghĩ ngợi, hết ngả nọ đường kia, chợt nhìn đến cái vỏ ba lô anh cho tôi mượn để gối đầu, vẫn còn đây. Hồi đêm vì quá khẩn cấp và căng thẳng, tôi quên khuấy đi. Ngày mai, tôi sẽ báo cáo cán bộ để trả lại anh. Với miền Bắc, đó cũng là một tài sản quý giá. Một ý nghĩ nữa lại lóe lên trong óc tôi. Để biết rõ anh ra sao, cứ để 2, 3 ngày nữa hãy báo cáo. Như vậy, trong thời gian đó, nếu cán bộ đến hỏi cái ba lô, có nghĩa anh Hùng không sao cả, nên đã nhờ cán bộ đến lấy lại. Ngược lại, nếu mấy ngày nữa, không thấy gì, tôi báo cáo trả mà cán bộ cầm đi, anh Hùng cũng vẫn còn sống. Tuy rằng không chắc chắn lắm, nhưng như vậy cũng ang áng đoán được sự việc. Mấy hôm au, tôi thật là thèm thuốc. Thèm thuốc, lại nhớ đến anh Hùng. Một buổi, sau khi tôi trả bát xong, lúc tên Tư sắp đóng cửa, tôi cầm cái ba lô, tiến ra trước mặt y: - Báo cáo cán bộ! Anh Hùng, mấy hôm trước nằm ở đây, thấy tôi không có cái gì gối đầu, anh đã cho tôi mượn để gối. Đêm hôm anh ấy tự tử, vội quá tôi quên trà, xin gửi cán bộ để trả lại cho anh. Y nhìn cái vỏ ba lô bằng vải bộ đội, cũng đã cũ, một phía túi đã rách, đoạn thủng thẳng: - Thôi, cho anh! Tôi lộ vẻ băn khoăn: - Thưa ông, cái này của anh Hùng, chắc gì anh đồng ý cho tôi? Y hất tay đuổi tôi vào, vừa đóng cửa vừa nói: - Tôi nói cho là cho! Đừng nói nhiều! Cửa đóng rồi, tôi vẫn đứng cầm cái ba lô ngẩn ngơ, bần thần. Như vậy, anh Hùng đã chết thật rồi ư? Vợ anh, con anh ở đâu, có biết gì không? Anh Hùng ơi! Còn bao nhiêu điều nữa tôi định nói với anh, và cũng còn bao nhiêu điều nữa tôi muốn hỏi anh. Thế mà, anh đã vội vàng bỏ hết, bỏ cả vợ dại con thơ, để ôm một mối uất hờn, oan nghiệt ra đi….. Tự nhiên, tôi buông một tiếng thở dài nhè nhẹ, lê thê như lời than vãn não ruột, cho một kiếp người vô nghĩa. Chuyện của anh Hùng làm cho tôi hàng tuần lễ, đêm nào cũng thấp thỏm ngủ không yên. Thỉnh thoảng, những lúc giật mình thức giấc, tôi lại liếc sang sàn bên. Hình ảnh anh Hùng nằm thẳng cẳng, hai mắt nhắm nghiền, hai chân trong cùm, máu me bê bết như mới vừa đây….. |
|
|
![]()
Post
#42
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Ba Mươi Chín
Mùa Đông Thứ Hai… Sáng hôm nay, tên Bằng vào gọi tôi đi cung sớm. Phòng cung chỉ có tên Nhuận. Ngay khi nhìn thấy tôi, y tỏ vẻ tươi cười niềm nở. Sau khi chỉ ghế cho tôi ngồi, y săn đón hỏi: - Hôm nay tôi gặp anh, chắc anh sẽ cho tôi biết nhiều điều mới lạ! Tôi tin là hơn nửa tháng nay, anh đã suy nghĩ kỹ để nhìn thấy vấn đề rồi. Bây giờ, tôi để anh tự do nói, anh hãy mạnh bạo nói đi! Chính anh đưa tay ra mở cửa, cho anh vào tương lai đó! Ngồi nghe y nói, tôi tỏ vẻ rất khổ tâm và đau xót. Khi y giục, tôi mới tỏ thật nỗi tuyệt vọng của mình: - Thưa ông, lâu không được gặp các ông, tôi vẫn hy vọng rằng các ông và nhà nước đã xác minh được lòng thành khẩn cùa tôi với cách mạng. Thế nhưng, bây giờ ông lại bảo tôi mở cửa vào tương lai, thì tôi còn biết làm sao được nữa! Và như vậy, nhà nước vẫn chưa kết luận được sự việc của tôi. Đã hơn một năm rồi, tôi mòn mỏi đợi chờ. Y không cười nữa, nghiêm giọng: - Thôi được, chúng tôi vẫn sẵn sàng mở cửa chờ đón anh, cách mạng luôn luôn giang tay cứu vớt những con dân bị lầm đường lạc lối. Muộn còn hơn không! Bây giờ, anh hãy nói lại chi tiết, tả tỉ mỉ ngôi nhà tranh ở Cầu Cống, nơi tên Hòa đã huấn luyện anh. Ngồi nghe y nói, trong dạ tôi cũng hơi lo. Qua tấm ảnh Phan và tôi chụp chung, chắc chắn chúng có người của chúng trong ấy. Bây giờ, tên Nhuận bắt tôi tả lại, như vậy có nghĩa là chúng có thể thẩm tra xác minh. Nhưng đã trót khai trước đây nhiều lần, tôi thường lấy nhà một người Tầu bên Chợ Lớn mà tôi quen biết. Tôi đã đến chơi mấy lần nên nhớ để tả, còn không gian là ngõ Cầu Cống, Khánh Hội; do đó, lúc này tôi chỉ việc moi óc nhớ lại toàn cảnh nhà người Tầu đó để ghi lại. Tuy vậy, trong lòng tôi cũng đầy băn khoăn lắng lo. Tôi nói, nó ngồi ghi, chỗ nào chưa sáng tỏ nó hỏi lại. Mãi gần hết giờ, nó mới cho về. Ngay chiều đó, lại gọi nữa. Khi tôi ra tới nơi, y đưa cho tôi 5 tờ giấy, chỉ cái bàn con ở góc phòng: - Anh hãy ngồi viết tỉ mĩ chi tiết: dụng cụ, đồ đạc…bên trong nhà, bên ngoài nhà. Đường đi từ Khánh Hội vào. Rồi một tờ, anh hãy vẽ một sơ đồ, có chú thích từ phía Sài Gòn sang qua cầu Khánh Hội, cho tới ngõ ngôi nhà đó. Tôi cầm giấy về chỗ bàn con ngồi, óc căng ra. Phải chăng đây là khúc nút, để chúng sẽ cởi tung toàn bộ sự việc ra? Tôi đã suy nghĩ, đào sâu, xét kỹ, nhưng thấy không còn cách nào cả. Mà một khi tôi đã hiểu là không còn cách nào khác, chỉ còn một con đường duy nhất trước mặt, tôi sẽ đường hoàng dấn bước. Bản sơ đồ, thoáng trông có vẻ rõ ràng chi tiết, đường nét sáng tỏ, nhưng nếu đi vào thực tế, chỉ có mù trời. Tôi vẫn để những kẻ hở để phòng hờ sau này. Chiều về tới xà lim, tôi thấy cửa buồng đang mở. Tên Tư đang cầm mấy miếng vải sọc ở cái quần rách của tôi. Thấy tôi về, y sừng sộ hỏi: - Những mảnh vải này, anh xé ở đâu ra? Thấy thái độ của lão như thế, tôi hơi ngạc nhiên trình bầy: - Thưa ông, đấy là ở một bộ quần áo cũ, trại phát cho tôi một năm trước, khi tôi mới vào. Nó đã bở, rách cả hai đầu gối, đũng quần cũng đã bục ra. Tôi phải xé từ đầu gối làm khăn mặt, còn phía trên tôi làm quần đùi, thay đổi lúc mặc trong buồng. Vừa nói, tôi vữa cởi giải rút quần, chỉ quần trong cho y xem. Đến đây, phản xạ cấp thời cho tôi hiểu là chúng đang tìm cớ để cùm tôi. Gần hai tháng nay rồi, hàng ngày tên Tư coi tôi, y còn lạ gì hàng ngày, tôi vẫn mặc chiếc quần đùi rách đi đổ bô, cũng như ra vào lấy cơm, sao y không hỏi. Đến hôm nay, tôi đi cung, chắc y đã được lệnh đến buồng, tìm một lý do để cùm tôi. Các mặt khác thuộc về nội quy, tôi không sai phạm. Không cón cớ gì, chỉ còn cái quần rách. Quần, vải đã cũ, ở xà lim đã hơn một năm, mùa Hè thường phải mặc đêm, mồ hôi ướt đẫm, lại không được giặt thường xuyên, như vậy, làm gì không mục! Thế là y ghép tôi vào tội phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa. Y ra rút cùm, bắt tôi bỏ chân vào. Ôi thân tù, chúng làm thế nào chả phải chịu! Tôi đành phải bỏ chân vào mà lòng tái tê, héo úa. Y xách cả mấy miếng vải hôi hám, mốc meo của tôi đi. Như thế là mới thả cùm chừng gần một tháng, giờ lại cùm. Lại gian khổ bắt đầu. Trời đã cuối tháng 8, vào Thu, cuộc sống của tôi ở trong tù lại bắt đầu…mất ”tự do”. Lại những ngày dài tăm tối với chiếc cùm oan nghiệt, heo hút, cô đơn. Cứ ngày này, qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, và tháng này qua tháng khác, bao nhiêu đau thương tủi cực chất chồng, mò mẫm lặn lội trong vũng bùn đời…lao lý. Chiều hôm đó, sau giờ tan tầm chừng một lúc, các cán bộ đã lấy hết xe ra về. Cảnh sinh hoạt của Hỏa Lò đã vào giờ vắng lặng, chỉ còn tiếng loa léo nhéo đều đều như mọi khi. Chợt tôi nghe tiếng huyên náo, ồn ào của một tốp người, từ phía cổng Hỏa Lò đi vào phía cổng trại chung. Tiếng tên Nhiễm cao giọng: - Sao hôm nay về muộn thế? Rõ ràng tiếng tên Tân trả lời, giọng thổn thức: - Báo cáo cán bộ, bây giờ tòa mới xử xong! Giọng tên Nhiễm gằn mạnh: - Các anh oan lắm sao, còn khóc? Các anh mang theo những cái gì váo đấy? Một vài tiếng xụt xịt, tiếng hỉ mũi, rồi một giọng nói như rên: - Báo cáo cán bộ, có mấy gia đình vợ con lên, cho ít quà… - Anh là Chương à? Anh, tòa xử bao nhiêu năm? Một giọng khàn khàn nghẹn ngào: - Báo cáo, chung thân! - Thế anh kia bao nhiêu năm? Giọng ồm ồm: - Báo cáo, 20 năm! - Còn anh này? Tiếng tên Tân nói trong nức nở: - Báo cáo, 15 năm! Tiếng tên Lê từ trên gác phía ngoài cổng, nói vọng vào: - Đồng chí Nhiễm cho họ vào đi, rồi lên đây tôi nhờ chút việc! Những bước chân xào xạo lẫn với những tiếng xụt xịt của hàng chục người đi qua cổng, nhỏ dần rồi mất hút. Lòng tôi vẫn còn ngỡ ngàng suy nghĩ về tên Tân, đến lời nhận định về vụ án của y, khi tôi hỏi: “Có thể tôi không phải ra tòa. Nếu có ra, cũng từ 2 đến 3 năm là cùng!”. Ngây thơ như thế, nên các cậu khóc là phải rồi! Chủ quan, rồi bị quật một đòn mới choáng váng như búa bổ. Âu đây cũng là một sự việc, để tôi suy ngẫm sau này….. Thấm thoát, trời lại chuyển sang Đông. Những ngón chân, ngón tay của tôi lại bắt đầu sưng nhức. Cứ mỗi độ Đông về, đời tôi càng cay đắng! Sáng hôm nay, tiếng loa vừa ngừng bặt, giờ làm việc đã đến. Tiếng tên Lê phó giám thị ầm ầm quát tháo với vẻ rất bực bội, đang đi dần vào phía cổng trại chung, nơi có một số cán bộ mới tới, đang buộc khóa xe đạp. Giọng tên Lê dội lên đanh đanh: - Hôm qua, đồng chí nào lấy xe đạp của tôi đi? Một giọng rụt rè trả lời: - Báo cáo đồng chí…hôm qua quả tình…..tôi không ra phố. Có lẽ đồng chí Thế?!..... Lê càng bực tức: - Các anh lấy xe không bao giờ hỏi tôi cả. Cứ mỗi lần tôi đi, lại thấy xe không mất “má” phanh, cũng xỉ lốp; không bẹp chắn bùn, cũng đứt dây phanh…..Tôi đi sửa xong, mấy bữa sau, lại tình trạng ấy. Khóa rồi, vẫn mở đi! Có tiếng cười rúc rích nho nhỏ, tiếng tên Lê gào lên hồng hộc: - Tôi nói cho các anh biết là, chưa phải giai đoạn Cộng Sản chủ nghĩa đâu nhé! Lần sau, anh nào lấy xe đừng trách tôi! Qua mẫu đối thoại trên, tôi thấy lũ cán bộ này, từ tên Lê trở xuống. Trong tâm tư vẫn mang một niềm tin về viễn ảnh rực rỡ, hào quang ngày mai của chủ nghĩa Cộng Sản. Từ đấy, tôi cũng thấy được tâm trạng chung của chung của quần chúng nhân dân và cán bộ miền Bắc trong giai đoạn đó (1963). (Tôi không nói những trướng hợp cá biệt), vẫn chưa nhìn rõ chiếc bánh mầu sắc huy hoàng rực rỡ, mùi vị thơm ngon tuyệt thế của chủ nghĩa Cộng Sản, chỉ là chiếc bánh vẽ. Họ chưa thấy được rằng, cái “thiên đường Cộng Sản” ấy, không bao giờ có thể hiện thực, trong xã hội loài người này cả. Thực tế biện chứng như toán học: A cộng B bằng C, thì dứt khoát, không bao giờ A lại lớn hơn C. Chỉ kém hơn, hoặc bằng, trong trường hợp B bằng không mà thôi. Sáng hôm nay, ngày 16 tháng 10, tên Tư mở từng buồng cho ra đổ bô. Xong, y chỉ vào đống chăn ở một góc nền lối đi, cho mỗi người mượn một cái, và tùy người cho mượn áo trấn thủ. Đến lượt tôi, có lẽ lúc này ở xà lim ấy tôi là người ở lâu nhất. Hàng ngày tôi và y vẫn nhìn thấy nhau, vì thế, y có vẻ dễ dãi; chỉ vào đống chăn, y dịu giọng bảo tôi: - Anh không có quần áo, tôi cho anh chọn một cái chăn dầy và một cái áo trấn thủ! Tôi lựa một cái chăn dầy và một cái áo trấn thủ, còn tốt đến 80%. Nghĩ đến những ngày rét giữa Đông sắp tới, tôi đành xề, xuống nước với y: - Thưa ông, tôi không có màn cũng như quần áo, lạnh quá, chân tay của tôi bắt đầu sưng buốt (tôi vừa chỉ ngón chân và gơi tay cho y xem). Đề nghị xin ông, chốc nữa nếu còn thừa, xin ông cho mượn một cái chăn nữa? Tôi xin cảm ơn ông! Y không nói gì cả, hất hàm bảo tôi vào đi. Thôi đành vào buồng! Được cái chăn dầy, trong dạ cũng hý hửng rồi! Tôi đã bỏ chân vào cùm, vẫn chưa thấy y đóng chốt. Tội gì! Tôi lại khe khẽ lấy chân ra. Tuy ngồi, tuy đứng loanh quoanh, nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm không yên. Mắt cứ luôn luôn liếc về chiếc cùm, thành ra được nghỉ cùm một lúc mà lòng vẫn không được thoải mái. Những người ở xà lim có chăn riêng ở nhà mang theo, vẫn đều được mượn thêm một cái. Khi tên Tư mở các buồng cho mượn chăn hết lượt, y đến mở cửa buồng tôi. Tôi tiến ra phía cửa, y chỉ vào 3 cái chăn ở dưới nền: - Anh xếp lại, để trên ghế kia! Tôi cho anh mượn một cái nữa! Nỗi vui mừng hưng phấn như ngày còn bé nhận được quà, chạy ùa vào lòng tôi. Sau khi xếp chăn lên ghế, tôi vội vàng ôm chiếc chăn nữa vào buồng, như ôm niềm ấm êm hạnh phúc cho những ngày Đông rét sắp tới. |
|
|
![]()
Post
#43
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi
“...Thắng Lợi Bất Ngờ Của Việt Cộng”... Miền Nam Đảo Chánh. Hôm nay là mồng 2 tháng 11 rồi Những trận mưa phùn đầu Đông làm ẩm ướt cả không gian, cả ngày u ám không có mặt trời. Thỉnh thoảng một cơn lạnh tái tê len qua cửa sổ, luồn vào trong xà lim, như đem theo niềm cô đơn băng giá, để đầy đọa thêm người tù đói khổ. Cũng như những buổi trưa khác, tôi đang nằm lặn ngụp trong nỗi đầy vơi trăm hướng, của cuộc đời tù tội, mặc cho tiếng léo nhéo của chiếc loa lắm mồm. Chợt nghe một giọng the thé: “…..Theo nguồn tin mới nhận được, cái gọi là Hội Động Tướng Lãnh của Ngụy Quân Sài Gòn đã làm một cuộc đảo chính, lật đổ chế độ độc tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm…..”. Tim tôi như thắt lại, tôi bò nhổm dậy, mắt mở to, tai vểnh lên như muốn hút hết mọi âm thanh của chiếc loa. Phía bên ngoài, một số cán bộ cũng đang huyên náo, bàn tán xôn xao. Một tiếng quát nhẹ của một người nào đó: - Các đồng chí hãy yên lặng, để nghe đã! Tiếng loa vẫn oang oang: “…..Quân đảo chính đã làm chủ tình hình. Anh em Ngô Đình Diệm đang bị bao vây dưới hầm dinh Gia Long. Không khí Sài Gòn rất căng thẳng và nghẹt thở…..” Tôi bàng hoàng và hoang mang cực độ. “Vận nước đã đến ngày điêu linh rồi chăng?”, tôi than thầm. Đây là sự thực hay tuyên truyền của Cộng Sản? Tuyên truyền nào cũng có nguyên tắc của nó. Có những sự việc: “Không” không thể nói thành “Có” được…..Về lý trí, tôi biết đây là một sự việc thực. Nhưng về mặt tình cảm, tôi cố níu kéo, cho là một chuyện tuyên truyền của Cộng Sản, nhằm gây hoang mang cho tinh thần mọi người, chứ không có thực. Từ khi bị bắt, tôi chưa bao giờ đọc kinh cả. Thế mà hôm nay, trước mối hiểm nguy cho một cá nhân, nhưng cũng có thể là mối nguye cho cả dân tộc. Tôi không biết làm sao, chỉ còn biết cầu xin Chúa, cầu xin đấng tối cao hãy che chở cho cụ Ngô, người mà cả cuộc đời tôi kính yêu, trọng nể. Thường ngày, sáng cũng như chiều, tôi chờ đợi bữa cơm như tâm trạng ngày còn bé mong mẹ về chợ. Càng gần giờ cơm, tai càng vểnh lên nghe ngóng âm thanh những tiếng xền xệt, bình bịch của tiếng chân mấy người tù hình sự, khênh chiếc chõng có thùng nước nóng và một số bát cơm vào lối đi giữa của xà lim. Tiếng “kịch” của chiếc chõng để xuống nền; tiếng “xàn xạc” của đít thùng tôn đựng nước cọ xuống nền xi măng…Rồi lại chờ lắng nghe tiếng chân cán bộ với tâm trạng xốn xang: Sao cán bộ đi đâu mãi, không thấy trở về cho tù ăn cơm. Để rồi khi nghe tiếng lẻng xẻng của chùm chìa khóa. Tôi chắc rằng, mắt tôi phải sáng lên: Hạnh phúc đã đến rồi! Đoi khi tôi cũng bị mừng hụt, vì đó chỉ là tiếng chìa khóa của cán bộ Hoa, Bằng, hoặc Kim vào gọi một người nào đó đi cung….. Hôm nay trái lại, cơm đã khênh lên lúc nào tôi cũng không hay. Mãi tới khi cán bộ mở cửa buồng, bảo ra lấy cơm, tôi mới giật mình choàng dậy, như vừa tỉnh một giấc mơ nhiều máu lửa. Lấy cơm vào rồi, tâm hồn tôi vẫn còn lững lơ đâu đấy, không còn cái thú thèm khát, vồ vập ăn như mọi ngày. Đầu óc tôi đang xáo trộn bao nhiêu nỗi chất chồng, đường nọ, ngả kia vối niềm thấp thỏm mong chóng đến 5 giờ chiều, để nghe bản tin xem tình hình Sài Gòn diễn tiến như thế nào. Mong mãi, rồi cũng đến 5 giờ. Phải nói rằng, từ ngày về miền Bắc, chưa bao giờ tâm tạng tôi lại bồi hồi háo hức, tập trung tư tưởng để lắng nghe tiếng loa như vây giờ. Tiếng loa mà tôi vẫn ghét như một “con mụ chửi thuê lắm mồm!”… Tình hình Sài Gòn vẫn căng thẳng. Vẫn thiết quân luật ngày đêm, nhưng có chiều hướng phe đảo chánh đã thành công đến 90%. Họ đang gửi tối hậu thư bắt ông Diệm phải ra hàng, nếu không họ sẽ cho dinh Gia Long tan thành bình địa…..Qua bài bình luận của Hà Nội, chúng cố ý tỏ ra khách quan, (ra cái điều đứa nào trong chúng mày, tao cũng phải diệt). Nhưng ai cũng ngửi thấy, chúng mong muốn phe đảo chính thành công. Người chúng sợ nhất, cho nên chúng thù nhất, là Ngô Đình Diệm. Bộ chính trị của chúng đang phải điên đầu, tính trăm mưu ngàn kế, để làm sao hạ được ông Ngô Đình Diệm xuống, bằng bất kể giá nào. Thế mà, bây giờ lại có những kẻ thay chúng để làm công việc đó, hẳn chúng đang bắt tay nhau với những đôi mắt long lanh chào mừng “Thắng lợi không ngờ!”. Đêm hôm nay nằm hoài không ngủ được, tôi trằn trọc suốt năm canh mong chờ trời sáng để nghe “con mẹ lắm mồm”. Đôi chân vẫn giá buốt trong cùm, tấm thân gầy thấp thỏm suốt đêm thâu! Tiếng gió Bấc than gào như tiếng núi sông báo hiệu với con cháu giống Lạc Hồng, vận nước đã đến ngày tơi tả thê lương. Mùng 3 tháng 11. Sau một đêm dài thao thức quằn quại, hôn mê giữa chán chường và hy vọng, tôi thấy bản tin sáng hôm nay, cũng chưa nói lên điều gì rõ ràng lắm. Có tin anh em Ngô Đình Diệm đã chui vào đường hầm bí mật, ôm theo một va li vàng và kim cương (?). Sau bữa cơm sáng, tôi lại nằm đợi nghe bản tin buổi trưa, nhưng vì suốt đêm qua không ngủ, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Mãi cho tới khi quản giáo mở cửa cho đi đổ bô buổi chiều, tôi mới choàng thức dậy. Cơm chiều xong, cũng như hôm qua, tôi ngồi chờ đợi tới 5 giờ chiều. Hôm nay, lòng tôi không mềm rũ như hôm qua. Óc tôi liên tưởng tới cuộc đảo chính ngày 11-11-1960. Biết đâu chẳng có một thế cờ quật ngược lại phe đảo chính. Một niềm hy vọng nhen nhúm dâng lên trong lòng tôi. Tôi không thấy hồi hộp lo lắng như hôm trước, khi bản nhạc dạo quen thuộc của đài phát thanh Hà Nội trỗi dậy trước giờ phát thanh. Và, cũng là lúc báo hiệu giờ tan tầm của các nhà máy, xí nghiệp. Những tiếng gọi hỏi nhau í ới, những tiếng rì rầm bàn tán của bọn cán bộ, tập trung tại chỗ để xe đạp để lấy xe, hôm nay hình như đông hơn mọi ngày. Có thể trước khi về, chúng còn muốn nán lại ít phút để nghe bản tin, chúng cũng nôn nóng đợi chờ. Chúng không ngờ, cách một bức tường dầy 50 phân, có một người, và có thể một số người, cũng đang nôn nóng đợi chờ như chúng. Hai sự chờ đợi này chắc hẳn mâu thuẫn đối nghịch nhau. Tiếng ả xướng ngôn viên rành rọt: “…..Theo nguồn tin vừa nhận được: Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu trốn đến một ngôi nhà thờ ở Chợ Lớn, do một linh mục người Tầu tên là Tam trông coi. Ở đây, do lòng căm phẫn cả quần chúng, nên có người đã tố cáo với phe đảo chính. Phe đảo chính đã đến bắt Diệm và Nhu lên một xe bọc thép M-113. Trên đường giải về Bộ Tổng Tham Mưu, khi qua đường Hồng Thập Tự, phe đảo chính đã hạ sát Nhu và Diệm bằng nhiều phát súng ngắn và dao găm. Hai tên đã chết ngay tại chỗ trên xe bọc thép…..”. Tai tôi ù lên! Mũi tôi như nghẹt thở! Cái cửa sổ và mấy chiếc lá nho bên ngoài kia như đang nhẩy múa quay cuồng trước mặt tôi “Có thật không?”, tôi tự hỏi, “Hay đây chỉ là một cơn ác mộng?”. Những tiếng reo hò của lũ cán bộ ngoài sân như nhắc nhở tôi “Đừng mơ hồ nữa!”. Có hai tên vừa chạy ra phía cổng, vừa hò to: - Ngô Đình Diệm đổ rồi! - Ngô Đình Diệm bị giết rồi! Chao ôi! Tiếng hò làm một luồng lạnh buốt từ xương sống chạy ngược lên gáy ôi. Tóc gáy tôi như dựng lên, người tôi nổi gai ốc. Tiếng hò đã ra tới cổng rồi, dư âm của nó còn như vặn xé trái tim đã đầy ắp khổ đau của tôi. Chúng ta nhiều người đã thấy, nói chung, những tên cán bộ Cộng Sản thường lầm lì, lạnh lùng ít nói. Không giống như các anh Thiếu úy, Trung úy của ta, thường tươi cười, có khi nô đùa trước người khác. Đối với bọn cán bộ trại giam, những nét đó lại càng rõ hơn. Thế mà hôm nay, chúng hò reo, nhảy lên. Điều đó, nói lên nổi vui mừng to lớn quá, chúng không kìm hãm nổi, nên đã để bộc phát ra như vậy. Trong chúng ta, những ai đã ít nhiều hiểu Cộng Sản đều thấy rằng, cái mũi của chúng tương đối thính lắm. Cho nên nếu khi nào chúng ca tụng, đề cao một cá nhân, một tồ chức hay một quốc gia nào, điều đó có nghĩa là cá nhân đó, tổ chức đó, hay quốc gia đó đã hoặc đang làm những điều thiệt hại cho thế giới tự do, và có lợi cho Cộng Sản. Ngược lại, khi chúng chê bai, chửi bới cá nhân, tổ chức, quốc gia, v.v… có nghĩa cá nhân đó, tổ chức đó, quốc gia đó đã làm những điều trái nghịch lại. Mặt khác, cứ đo lường sự hung hãn chửi bới, cũng như tâng bốc ủng hộ của chúng, sẽ thấy được mức độ lợi hại hoặc hại của đối tượng, cho phe ta hay phe địch…..Điều này gần như trở thành một công lý, chỉ trừ một vài trường hợp hạn hữu cá biệt, mới không đúng, khi chúng dụng ý gây mâu thuẫn. Trong bối cảnh của nước Việt Nam lúc này, một nhà nước do Cộng Sản chiếm đóng thống trị. Còn một nửa, Cộng Sản đã đặt một chân lên, bằng cái gọi là “Mặt trận giải phóng” với những khu vực bưng biền, với một số thôn bản xen kẽ. Ngay trong nội bộ miền Nam, chính quyền chưa đủ thời gian, hoặc chưa đủ khả năng để khẳng định được ai là người của đối phương, ai là người của ta. Lòng dân còn ngang ngửa, chưa biết ai là chính, ai là tà! Vậy làm chính trị, ai cũng phải thấy là: Bất cứ một cuộc binh biến nào trong lúc này, bất cứ một vụ lộn xộn thay ngôi đổi chủ nào, cũng đều nguy hiểm, có lợi ghê gớm cho Cộng Sản. Nghĩa là thiệt hại ghê gớm cho phe quốc gia! Về ông Diệm, thử nhìn tất cả các bộ mặt gọi là chính khách ở miền Nam, ai hơn hoặc bằng ông Diệm? Dù ông Diệm cũng còn nhiều điểm chưa đúng! Nếu không có cái tốt hoàn toàn, chúng ta phải chọn cái tốt vừa vậy. Huống chi, “Nhân vô thập toàn”. Không làm, mới không phạm sai lầm! Bất cứ ai, làm việc, hành động, tất yếu phải có những điều sai lầm. Vậy, trong quá trình xử sự công việc, ông Diệm có điểm gì sai? Tôi cũng như quần chúng thuộc loại dân đen, thấp cổ bé họng, không thể sửa chữa được cho ông đã đành. Nhưng, nếu một ông Tướng không thể sửa được, nhiều các ông Tướng phải sửa được. Một ông Bộ Trưởng không thể sửa được, đa số các Bộ Trưởng sẽ sửa được. Một dân biểu không sửa được, thì cả Quốc Hội, v.v…với điều kiện: vì dân, vì nước, đạt quyền lợi của Tổ Quốc lên trên hết! Không bằng biện pháp này, thì phương pháp khác. Nếu quyết tâm các ngài sẽ sửa chữa được cho ông Diệm, nhất là khi những cái sai lầm ấy không phải là cơ bản. Tóm lại, Duong Văn Minh và bè lũ đã lật đổ và giết chết ông Diệm, phải nhận một trong hai lỗi lầm, hoặc cả hai sau đây: - Không nhìn thấy cái lợi ghê gớm cho Cộng Sản. - Nhìn thấy, nhưng vẫn gục đầu mà làm. Không một lý do nào, không một biện luận nào, không một quốc tế này, tình hình kia, có thể phủ nhận thỏa đáng hai điểm trên. Vậy, nếu ở điểm: 1) Các ông làm chính trị, các ông không nhín thấy một điểm sơ giản như thế. Các ông không đủ khả năng lãnh đạo quần chúng nhân dân là chúng tôi đâu! Hãy nằm im đi! Dẹp! 2) Các ông đã để cá nhân các ông lên trên Tổ Quốc. Loại này cho đi tầu suốt! Những điểm lợi cho Cộng Sản thì nhiều, nhưng điểm ghê gớm nhất là: Khi một chế độ có cuộc đảo chính, mà cuộc đảo chính đó chỉ có mục đích tranh giành quyền lợi cá nhân, muốn ăn chia xôi thịt. Lúc đó sẽ xẩy ra tình trạng gì? Trong chính quyền: Cán bộ thuộc mọi lãnh vực, quân đội cũng như hành chính; ngoài nhân dân ai ai cũng thế, đều tự thấy đây là một xã hội không ổn định, một chế độ lộn xộn. Như vậy, tất yếu lại sẽ có cuộc đảo chính khác. Không tin tưởng được nữa, hảy lo thủ cho bản thân! Cũng chẳng còn dám ủng hộ ai! Có gì là chắc nữa đâu! Lòng dân ly tán, lòng quân nghiêng ngả. Điểm mạnh của một cá nhân, một tập thể, một quốc gia là ở tinh thần, chứ không phải thể chất, vũ khí hay tiền bạc. Vậy, tinh thần của cán bộ và người dân như trên, rã rượi không còn lòng tin. Làm sao chống cộng?!..... Ngay lúc này, Cộng Sản miền Bắc đã ngửi thấy điều đó, là tinh thần quân dân miền Nam đã và đang bị khủng hoảng. Chứng cớ, sau những buổi họp bàn thảo luận của đảng, ít ngày sau, chính những tên chấp pháp đã nói thẳng vào mặt tôi: - Chúng tôi nói thực cho anh biết, tình hình miền Nam lúc này…..Nếu không do vấn đề chính trị quốc tế, vuốt mặt vướng mũi, chúng tôi chỉ cần 5 sư đoàn tinh nhuệ đánh dọc từ Bến Hải vào tới Sài Gòn, không khó khăn lắm…..Chỉ cần nghe tin có đại bình đến, lòng quân, lòng dân đã như trên thì chỉ có chạy. Càng gây hỗn loạn, để rồi cuối cùng tất cả đều phải buông súng….. Đó không phải là những lời nói huyênh hoang không có cơ sở. Tôi nhìn bao quát miền Nam, rồi nhìn toàn diện miền Bắc lúc bấy giờ, tôi thừa nhận lời tuyên bố đó có giá trị. Thực vậy, nếu ai nhìn quán triệt vấn đề sẽ thấy: Khi lòng quân và dân nghiêng ngả thì sẽ rơi vào cái thế “Cuốn chiếu” tất yếu. Kẻ thù dùng một lực lượng tối đa; thần tốc, vũ bão chiếm điểm A, thì điểm B sẽ chạy. Điểm B chạy, thì C, D, E lần lượt cuốn vó hết. Lúc này, thì người có tài thánh cũng đành chịu đứng nhìn, sự hỗn độn, vô chính phủ của quân đội lẩn dân chúng bồng bế chạy mà thôi. Một vấn đề nghiêm trọng nữa, không hiểu những người chủ trương hạ ông Diệm, trong đó có những Tướng, Tá và cả một số người Mỹ, có biết và luờng được những gì xẩy ra trên nửa nước phía Bắc Việt Nam này hay không? Có thấy được sự khủng hoảng, rã rượi tinh thần của người dân miền Bắc ở mức độ nào hay không? Tôi tin rằng, dù cho họ uống sâm nhung, đầu óc họ cũng không thể nghĩ được mức độ tai hại đến như thế! Về việc hạ bệ ông Diệm đã trở thành cái nhân nẩy mầm, để cây trưởng thành cho tới khi kết trái, là 30 tháng 4 năm 1975! Quả thế, mọi từng lớp quảng đại quần chúng nhân dân miền Bắc, sau 8, 9 năm bị lũ Cộng Sản khát máu, dùng bạo lực sắt thép để kìm kẹp thống trị. Họ vẫn nhẫn nhục chịu đựng ngày củng như đêm. Những khi thấy lầm than tăm tối, trong lòng họ vẫn trỗi lên những niềm hy vọng sáng tươi ở chân trời phía Nam, nơi có cụ Ngô mà lũ lãnh đạo miền Bắc ăn không ngon, ngủ không yên. Không những chúng không làm gì được miền Nam, chúng còn đang lo ngay chỗ ngồi của chúng ở miền Bắc cũng không vững. Vì sẽ có ngày Bắc tiến! Bây giờ, niềm hy vọng của họ tan tành, vì cuộc sống, vì nồi cơm, họ đành phải tích cực yêu cái chế độ hiện tại vậy. Hàng triệu tấm lòng như thế, dần dần trở thành triệu triệu những giòng nước nhỏ, góp lại thành thác cuồng xô vỡ bờ tháng 4/75. Những người quật cường, có tính năng hoạt động, hoặc bộc phát do cá nhân, hoặc đã tổ chức thành những tập thể để chiến đấu với lũ cộng tham tàn khắp nơi, từ rừng sâu, góc biển, đến thôn làng thành phố…..Cũng biết bao người đã sa vào tay giặc, và đang bị giam cầm đầy ải trong ngục tù. Nhưng, những người trong tù cũng như những người còn đang chiếc đấu bên ngoài, vẫn kiên trì dũng cảm chịu đựng gian khổ, chiến đấu với lũ cộng thù, để chờ đại quân miền Nam ra giải phóng. Bây giờ, hy vọng của họ trở thành mây khói. Thậm chí, nhiều cá nhân cũng như tổ chức đã tuyệt vọng đầu hàng giặc, àm tôi đã gặp ở các trại trung ương sau này. Hôm nay, mồng 4 tháng 11. Đã 8 giờ sáng rồi, trời còn âm u đen kịt. Mưa rơi nhì nhẹt suốt đêm thâu, mà giờ đây vẫn còn dầm dề, rả rích như giọt lệ sầu của người Mẹ hiền núi sông đang rã rượi, vật vã khóc thuơng đàn con Việt gặp một tai ương đau đớn. Cả đêm qua, tôi đã bàng hoàng mê tỉnh với những giấc mộng hãi hùng. Người tôi rã rượi như một tầu lá úa trong mưa dầm gió Bấc. Đôi chân gầy vẫn giá buốt trong cùm gông, những ngón chân, ngón tay càng sưng lên nhức buốt. Nhưng cái đau đớn của thể xác bây giờ chỉ là thứ yếu, nhường chỗ cho cái đau ruỗng nát cả niềm tin. Cái đau tan tác cả một hướng đời, bơ vơ lạc lõng như con thuyền mục nát trên đại dương, đang bị bão tố dập vùi không còn định hướng. Tôi nằm lịm đi, đang ngụp lặn trong một trời khổ đau, bỗng cửa con xoạch mở. Tôi mệt nhọc, chống tay bò dậy nhìn ra. Chiếc mũi và cặp kính trắng thập thò qua song cửa con. Một giọng miền Nam quen quen: - Anh dạo này có khỏe không? Chà, tên Võ, tên chánh giám thị Hỏa Lò, hơn một năm trước đã vào tha cùm tôi. Tôi vội vàng tươi tỉnh: - Cảm ơn ông, tôi vẫn thường thường….. Y nói với vẻ hồ hởi: - Hôm qua anh có nghe đài không? Tôi đã thấy chạm vấn đề, nên cộc lốc: - Có! Như tràn từ một nỗi hân hoan trong lòng, y xì ra: -Đối với chúng tôi, miền Nam bây giờ không còn đối thủ nữa. Tôi nói với anh là vấn đề thống nhất chỉ còn là thời gian thôi. Á! Thì ra y mừng quá! Y không biết thổ lộ với ai cho đã, bằng nói với một người từ miền Nam ra. Cho nên, mới sáng sớm y đã vào xà lim không kể gì mưa gió, gặp tôi để cho giãn cái bọc sướng vui của y ra. Mà lão sướng vui bao nhiêu, thì tôi ngược lại bấy nhiêu. Cho nên, để câu chuyện qua nhanh càng tốt, tôi chậm chạp trả lời: - Thưa ông, tôi cũng nghĩ vậy! Trước khi đóng cửa con lại, y cười cởi mở: - Thôi nhé! Hãy cố giữ gìn sức khỏe! Hôm nay sao lịch sự thế! Khi vui người ta cũng dễ dãi…..Hai hôm sau, mụ Hoa vào gọi tôi đi cung. Khi tôi ra phòng cung, tôi thấy 3 tên Đức, Nhuận và Thành. Mặt tên nào cũng tươi roi rói, sau khi chỉ ghế cho tôi ngồi, tên Đức đã hỏi ngay: - Mấy ngày nay, anh có theo dõi đài không? - Thưa ông, có! - Anh thấy thế nào? Dù đang cúi xuống, tôi cũng biết là cả 6 con mắt của chúng đang tập trung theo dõi thái độ của tôi. Vì vậy, tôi trả lời, vẻ bình thản: - Thưa ông, nghe đâu có vụ đảo chính, và họ đã giết anh em Ngô Đình Diệm rồi! Tên Nhuận giọng thử ý: - Tôi biết mấy hôm nay anh buồn lắm, vì chủ anh đã chết rồi! Tôi nghĩ, như vậy là tốt cho anh đấy! Anh không còn phải mắc mớ điều gì nữa. Hãu tự cứu lấy mình, hãy khai báo hết với cách mạng. Còn như thằng Dương Văn Minh và một lũ Tướng, Tá, anh cũng biết đấy, chỉ là đồ bỏ! Rồi đây, chúng nó chỉ tranh giành nhau làm tay sai cho Mỹ, không hơn không kém! Tôi vờ ngạc nhiên: - Thưa ông, tôi buồn, hôm nào tôi chả buồn. Còn ông nói Ngô Đình Diệm là chủ của tôi, không đúng. Bởi vì tôi cũng chưa được nhìn thấy ông Diệm bao giờ cả. Hơn nữa, tôi cũng chẳng có ân huệ hay hận thù gì với ông ta. Còn khai báo, ngay từ đầu, tôi đã thành thật khai báo hết rồi, chứ không phải đợi tới bây giờ…. Tên Thành vội vàng cướp lời tôi: - Anh nói vậy mà nghe được à!? Diệm là người Công giáo, anh cũng là người Công giáo, tất nhiên anh phải ủng hộ ông ta chứ? Tôi vẫn tỏ vẻ ngạc nhiên, cãi lại: - Thưa các ông, như tôi đã nói với các ông nhiều lần trước đây, bố mẹ và họ hàng nhà tôi chỉ làm thuơng mại, buôn bán. Chỉ có mình tôi do sự bồng bột của tuổi trẻ, do ảnh hưởng của phim ảnh nên đã ngây thơ nhận nhiệm vụ của họ, ra ngoài miền Bắc. Chứ thực lòng tôi, ai là Tổng Thống, ai là Chủ Tịch cũng thế, vì tôi có hiểu gì về họ đâu! Vả lại, đối với tôi bây giờ, họ lại càng vô nghĩa nữa. Tôi đã chán ghét họ nhiều lắm rồi! Thành lộ vẻ ngạc nhiên, gằn giọng: - Sao anh lại cho là vô nghĩa đối với anh? Mặt rầu rầu, tôi trả lời: - Tôi bây giờ đã hiểu! Ngay khi ông Diệm còn sống, tôi đã thuộc loại đứa con đem bỏ chợ. Không một ai ở Sài Gòn lúc này còn nhớ đến tôi, có chăng chỉ còn bố mẹ và các em tôi. Huống chi, tôi sống hay chết, những người đảo chính còn quan tâm đến làm gì. Như vậy rõ ràng họ cón có nghĩa gì với tôi đâu…..? Có lẽ tên Đức thấy chỉ là những câu đối đáp lằng nhằng, không đưa đến vấn đề gì, nên y đổi giọng: - Theo anh, tình hình miền Nam rồi sẽ như thế nào? - Thưa ông, tôi chẳng biết gì để nhận định. Nhưng, tôi cho rằng với tình hình như thế, rồi đây các Tướng sẽ tranh giành nhau, cắn xé nhua, xã hội sẽ càng lộn xộn. Chắc rằng “mặt trân giải phóng” do đảng lãn đạo sẽ đứng lên cướp chính quyền một cách dễ dàng. Cả 3 đứa sáng mắt lên, tên Nhuận cười rộ: - Khá lắm, anh làm tham mưu được đấy! Tôi lúng túng, dè dặt: - Tôi hiểu các ông cười chế nhạo tôi. Các ông hỏi, tôi phải trả lời. Tôi nghĩ thế nào, thì nói thế, chứ tôi làm sao để biết được những vấn đề lớn ấy. Tên Đức nghiêm giọng: - Tôi nói thẳng cho anh biết, trong điều kiện tình hình hiện nay, vì lý do chính trị quốc tế, vì những khía cạnh liên quan ràng buộc, nếu không, chúng tôi chỉ cần 5 sư đoàn, đánh từ Bến Hải dọc vào tới Sài Gòn, không khó khăn gì lắm! Nghe y nói tôi tỏ vẻ rất tin tưởng: - Như vậy, tôi thật mừng! Các ông sẽ vào bắt được cả Cục Tình Báo Miền Nam. Lúc đó, cách mạng sẽ hiểu được sự thành khẩn của tôi. Để chúng tin hơn, tôi nói một vài sự việc lơ mơ: - Về ông Diệm này, tôi nhớ đến vụ đảo chính (1-1-1960). Lúc đó,dư luận dân chúng miền Nam rất chê ông Diệm. Từ trước, ông vẫn lấy cây trúc ẩn biểu hiện lòng dạ thanh liêm, đạo đức trong sáng của ông. Từ những ý nghĩ cho đến lời nói, tất cả đều là mẫu mực tiết khí của người quân tử. Khi ông ta bị ở vào cái thế cùng quẫn, bị “hội đồng cách mạng” lúc đó vây hãm trong Dinh Độc Lập. Ông đã tuyên bố trên làn sóng điện, trước quốc dân đồng bào, cam kết với “hội đồng cách mạng” là ông bằng lòng chấp nhận sự thỏa hiệp với “hội đồng cách mạng”: như một sự đầu hàng. Thế nhưng, sau đó, khi một số đơn vị ở các quân khu về tiếp ứng, phá được vòng vây và dẹp phe đảo chính, ông Diệm đã nuốt lời hứa, lời cam kết trước đó. Như thế, ông ta đâu còn là bậc quân tử mà cây trúc là biểu hiện? Cả 3 đứa cùng cười, tên Đức giọng phân tích: - Diệm xử sự như vậy, không có gì sai cả. Chỗ này, ông ta đã hành động rất đúng. Bởi vì, lời nói hay lời cam kết trong lúc bị uy hiếp, cưỡng bức, hay dưới một áp lực, đều không có giá trị. Ngồi nhìn và nghe y nói, tôi thấy y cũng có kiến thức và hiểu biết. Từ những sự phân tích trên, tôi chợt suy ngẫm thêm: Thời đại ngày nay, trong kho tàng lý luận muôn mặt, muôn màu mà Cộng Sản đang lợi dụng, ta không nên lạ lùng ngạc nhiên khi thấy Cộng Sản xé bỏ tất cả những lời cam kết, những hiệp định chính tay chúng đã trang trọng ký kết. Chúng vẫn có muôn ngàn lý do để giải thích cho đồng bọn và những người dân dưới quyền chung một cách hợp lý. (Chúng chỉ giữ lại những hiệp định, những lời cam kết nào, chúng thấy có lợi cho chúng mà thôi). Lời giải thích của chúng sẽ: nào là lúc đó do áp lực kinh tế, vì dân chúng quá đói khổ, khi đó tình hình biên giới căng thẳng, lúc đó v.v… và v.v… Vậy, cá nhân hay quốc gia nào đừng thắc mắc, than vãn trách móc chúng, mà hãy trách sự ngây thơ ấu trĩ của chính mình, vì chưa hiểu rõ bản chất của chúng mà thôi!... |
|
|
![]() ![]()
Post
#44
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Mốt
Cái Chết Ám Ảnh Người Tù Trong Xà Lim “Án Chém”… Giai đoạn này, thỉnh thoảng chúng mới gọi cung tôi, lúc thì điểm này, lúc thì điểm kia bắt tôi khai lại. Chúng hy vọng dùng thời gian để lung lạc tôi, do đó chúng vẫn khích lệ, phỉnh phờ, xen lẫn đe dọa, hòng một lúc nào đó tôi không kìm hãm được, phải khai những điều mới với chúng. Nhưng, lúc này tâm hồn tôi như chết rồi! Trời đất đối với tôi bây giờ chỉ còn là một màu đen kịt. Tôi không còn sức phấn đấu nữa! Tôi căm hận cuộc đời, căm hận cả con người. Ngày đêm, tôi chỉ nghĩ đến cái chết! Chết là giải pháp đẹp nhất để giải quyết hết mọi khổ đau, dằn vặt, vò xé trái tim đã nhăn nhúm rỉ máu vì cuộc đời đã chà đạp, bóp nặn quá nhiều. Chân tôi vẫn trong cùm, đêm ngày sưng buốt. Đi cung, gặp chấp pháp bây giờ tôi căm hận, không cần nói đến cùm nữa. Chấp pháp lại càng không bao giờ nói đến hay hỏi tôi bị cùm thế nào, nên tình trạng cứ thế trôi đi. Một hôm, vào cuối tháng 1 năm 1964, tên Tư mở cùm, mở cửa buồng, bảo tôi ôm chăn chiếu chuyển đi chỗ khác. Tôi vội vàng vơ gọn chăn chiếu, ôm một bọc đi theo y. Ra khỏi xà lim II, y bảo tôi đi trước, chỉ vào phía trong sân trại chung, y đi đàng sau. Theo hướng y ra hiệu bằng tay, tôi tập tễnh đi mãi vào phía trong cùng đến một cái cổng sắt nhỏ, cánh cửa cũng bằng sắt. Một bức tường thấp chừng 2 mét rưỡi xây vòng cung, bên trên chăng 5, 6 lần dây điện trần, chạy dọc theo tường, ngăn cách với sân trại chung bên ngoài. Y đẩy cửa, tôi bước vào một cái sân nhỏ, diện tích khoảng 25m x 10m. Ở phía góc sân có chăng một số dây thép để phơi quần áo. Trên sân rụng đầy lá bàng khô, do một cành bàng to vươn vào từ cây bàng lớn ngoài trại chung, cạnh bức tường. Quang cảnh thật là im lìm, vắng lặng. Tiếng sột soạt của những chiếc lá bàng khô, nghe rõ mồn một theo từng bước chân của y và tôi khi đi qua sân. Vào một căn nhà sài, tối lờ mờ, tôi thấy một cái bàn và một cái ghế trong một khu trống, có lẽ là phòng trực xà lim. Y tiến đến trước buồng số 3, mở cửa rồi cúi xuống rút chốt cùm. Đã ở xà lim khá lâu, tôi cũng có chút ít kinh nghiệm. Mặc y đứng chờ, tôi vào buồng, cúi xuống gầm sàn lấy cái chổi thanh hao quét rác bụi, trên chiếc sàn tôi sẽ nằm.Tôi bỏ bọc chăn chiếu lên sàn, rồi lại cúi xuống kéo cái bô ra khỏi gầm sàn, mở nắp. Bên trong, phân và nước giải của người ở trước đã đen xì. Tôi ôm bô phân ra cửa: - Báo cáo ông cho đổ phân, vì phân đã lâu ngày, khó ngửi quá! Y nhìn vào bô, ngần ngừ, rồi gật đầu. Chỉ tay về phía cạnh buống số 1, y nói: - Khẩn trương lên, vào đổ bô đúng lỗ cầu tiêu, rồi lấy một bô nước dội cho sạch! Tôi bước vào cánh cửa chỉ định, ngay phía ngách trái là một lỗ cầu tiêu, bên ngoài là một chỗ rộng có một vòi nước to, cao hơn mặt nền chừng 1 mét để tắm giặt. Vừa tráng bô, tôi vừa suy nghĩ về cái “cầu tiêu”. Chắc hẳn cầu tiêu này dành riêng cho cán bộ, chứ tù làm gì có thời gian để được vào đó đi cầu. Khi trở ra, tôi liếc nhìn thấy xà lim I sâu hun hút rất nhiều buồng, ngay đối diện với buồng số 3 của tôi là buồng số 14. Như vậy, xà lim này to gần bằng cả hai xà lim III và II gộp lại. Tôi chợt nhớ, có lần tên Tân nói với tôi là xà lim I thời Pháp thuộc, gọi là “xà lim án chém”. Tên Tư thấy tôi còn lúi húi đút chiếc bô vào gầm sàn, y quát: - Bỏ chân vào, dềnh dàng mãi! Tôi vội vàng nhấc cùm và cho một chân vào. Trước khi chốt cùm, y còn thò cổ vào nhìn rõ chân tôi đã ở trong cùm chưa, y mới đóng và khóa cửa. Tiếng chân lão lạo xạo đạp lên những chiếc lá khô ngoài sân, xa dần ra phía cỗn. Lại im lặng. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng sột soạt của những chiếc lá khô theo từng cơn gió lăn lóc, trên sân gạch phía bên ngoài. Tôi đang đưa mắt nhìn toàn bộ căn buồng, đột nhiên một giọng ồm ồm cất lên: - Anh bạn buồng số 3 mới vào, khỏe không? Tôi ngạc nhiên, vểnh tai nghe, phán đoán. Tiếng nói phát ra từ mãi tít phía trong, chắc của một buồng nào đó. Vì tôi chưa nắm rõ, cho nên tôi chỉ ho một tiếng to như đáp lại, không trả lời. Trong ánh sáng tờ mờ, toàn bộ căn buồng cũng giống như bên xà lim II, chỉ khác ở miếng cửa sổ lớn phía sau đóng bè ra một cái khung gỗ, bọc kín cửa sổ, như một cái hòm không có đáy để không khí vào buồng. Có thể vì lâu ngày, những tấm ván co rút, nên hở từng khe rộng. Qua những khe hở này, tôi nhìn thấy bức tường Hỏa Lò là một trại giam lớn do Pháp nghiên cứu xây lên. Nhưng, đến tay Cộng Sản, vì chúng cũng đã từng đi tù nhiều, chúng đã thấy được những kẽ hở tù nhân có thể lợi dụng để liên lạc, gọi hỏi với tù nhân bên trong xà lim. Vì đầu óc tôi đang ngâm dầm trong “hũ” sầu đau não nề, nên tôi chẳng thiết suy nghĩ thêm. Nằm lịm dần vào đêm thâu nới nỗi niềm nghẹn uất, xen lẫn những tiếng thở dài khắc khoải chập chờn, mãi tới khi, tôi mơ màng nghe tiếng chìa khóa lẻng xẻng, tiếng cửa đóng ình ình, tôi mới dậy. Trời đã sáng tỏ. Quản giáo đã đến làm việc từ bao giờ, đang mờ cửa cho các buồng ra đổ bô. Không một tiếng nói. Chỉ có những tiếng đóng cửa, tiếng mở cửa, với những tiếng bước chân xèn sẹt nhiều lần, và lâu. Như thế, hầu như buồng nào cũng có người. Đến lượt buồng tôi. Sau khi được rút chốt cùm và mở cửa, tôi khập khiễng ôm bô nước tiểu đi ra. À, tên cán bộ Chiến. Tôi thấy y một vài lần những buổi tôi đi cung. Y là Thượng sĩ, người miền Bắc, thái độ và tác phong của y như một nhà quân sự: Lạnh lùng, ăn nói cộc lốc, đôi lúc có ánh mắt nhìn phớt đời, một nét hơi khác với những tên công an khác. Rồi cho đến lúc lấy cơm, cũng như trả bát của các buồng, tôi không hề nghe thấy một tiếng nói, dù nhỏ. Tất cả chỉ là những âm thanh của sự vật, những tiếng xèn xẹt vội vã của đôi bàn chân người, qua lại phía trước cửa buồng tôi. Những ngày sau đó cũng thế, ngày nào cũng như ngày nào, im lìm vắng lặng. Nhiều lúc, tôi cảm tưởng như đang ngồi trong một cái nhà mồ hoang vắng nơi nghĩa địa, tha ma, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Trời đã sang Xuân, nhưng cơn rét cuối Đông vẫn kéo dài. Vẫn còn những trận gió mùa Đông Bắc về muộn, đem theo những giá buốt hành hạ những kẻ khốn cùng. Ngón chân và ngón tay của tôi vẫn mọng đỏ, ngứa buốt đêm ngày. Những tháng trước đây, tôi chịu đựng một cách kiên trì bao nhiêu gian khổ, cùm kẹp, đói khát, đau đớn, nhưng trong tôi vẫn còn một niềm tin, một cái đích là Tổ Quốc miền Nam tự do của tôi, đang trên đà tăng trưởng một mặt: Kinh tế giầu mạnh, quần sự hùng cường, lòng dân thống nhất, để một ngày nào đó đè bẹp được lũ cộng đỏ bạo tàn. Cứu nhân dân miền Bắc khỏi cảnh tăm tối lầm than rên siết, đưa ánh sáng mặt trời đến khắp nơi trên nửa Bắc của Tổ Quốc Việt Nam thân yêu này, trong đó có tôi. Dù rằng, do những khắc nghiệt của cảnh sống tù đầy tôi có mất đi, vẫn còn ôm ấp trong lòng một niềm tin như vậy mà chết. Nhưng bây giờ, nhìn về miền Nam, tôi phải cụp mắt cúi đầu xuống. Một nỗi tủi hận len lén rỉ dần vào tim tôi. Trước đây, trái tim tôi đã chết một nửa vì tôi sa cơ vào bàn tay kẻ thù, phải bao nhiêu đắng cay uất hận, nửa đó đã đen xì, lạnh lẽo; nhưng, tôi vẫn còn một nửa đỏ, nửa này vẫn còn cuồn cuộn máu hồng tươi thắm, sôi sục ngày đêm, có cơ làm ấm lai cả một trái tim. Nay, nửa đỏ còn lại của trái tim đó đã dần dần đen xạm, hết sinh khí, hết nhựa đời…..Tư tưởng chết nhen nhúm dần, ám ảnh tôi suốt ngày đêm, cứ lởn vởn như một nghiệp chướng trói chặt tấm thân tàn. Đêm nay cũng như nhiều đêm trước, sau một giấc ngủ đầy khắc khoải với bao nỗi đắng cay của kiếp tù đầy, tôi mở mắt mệt nhọc ngồi dậy. Chẳng biết lúc này là giờ nào trong đêm, như thường lệ tôi lựa thế đúng một chân xuống đất, cúi xuống gầm sàn lấy cái bô lên, để chuẩn bị đi đại tiện. Vì ăn uống không đủ, lại còn bị cùm cứ phải nằm yên một chỗ, nên thường đi về đêm. Sau khi đã để cái bô lên sàn, đúng nơi thuận tiện nhất, tôi lựa nghiêng chiếc chân trong cùm, quỳ môt chân để ngồi lên bô. Trời vẫn lạnh như cắt da thịt, tôi khoác chiếc chăn, mặt nhăn nhó vì ngón chân, ngón tay bị cước, vì cạnh cùm đang nghiến vào ống xương chân, vì miệng bô đã nhiều chỗ rỉ sét hằn sâu vào hai bên mông, vì thế ngồi gò bó, người phải gù vẹo đi một bên, và vì táo bón…Cho nên, chừng 20 phút sau, quá đau mỏi, tôi dịch người để chuyển thế. Vô ý, cả bô phân và nước giải đổ nằm ra sàn. Còn người tôi lạng trượt, bật ngửa đầu xuống nền. Do cái chân trong cùm nên đầu tôi không thể xuống tới nền, nhưng cái chân bị cùm khứa mạnh đứt một miếng to, máu loãng chảy chan hòa. Lưng đập vào mép sàn đau điếng, mãi tôi mới bò dậy được. Chăn chiếu, quần áo đầy nước giải, đây đó dăm ba hòn phân trên chăn, trên sàn. Trời sét buốt như kim châm vào da thịt. Ôi! Kiếp tù, còn cảnh nào cay đắng hơn. Tay chân quần áo chỗ nào cũng nước đái. Chỗ cổ chân đau buốt, máu vẫn chảy, tôi chỉ biết lấy tay bóp hai mép đứt để đỡ chảy. Máu bây giờ loãng quá không đông được! Không có cái gì, một miếng giấy hay miếng vải để buộc cho máu cầm. Làm sao được nữa hả trời! Một tay nắm vết thuơng, một tay lật chiếc bô lên, rồi cũng chính mình phải bốc những hòn phân của mình vào bô. Tôi cố lựa thế nhấc cái bô xuống nền, rồi cũng phải dùng bàn tay để vét những vũng nước giải, trên sàn xuống dưới nền. Vì nước giải ướt, người tôi tự nhiên run lên cầm cập, hai hàm răng cứ canh cách đánh vào nhau. Thôi đành máu chảy kệ máu, tôi cố hai tay vắt chỗ chăn ướt, còn một khoảng khô, tôi cứ phải cuốn đại vào người cho đỡ lạnh đã. Nhưng, người tôi vẫn cứ run bần bật, không có cái gì là ấm cà. Cuộc đời nhiều lửa quá! Cho tôi xin một ngọn lửa đời, người ơi! Vết thuơng ở chân tôi, khi nãy máu đã ngưng chảy, nhưng bây giờ vì cái chân cũng run lật bật, làm vết thương rung động, máu lại rỉ ra. Cứ như thế này, tôi cũng chưa biết mình sẽ ra sao. Bỗng chiếc cửa con xoạch mở. Tôi chả nhìn rõ ai, vội vàng lập cập: - Báo cáo cán bộ…! Một giọng khàn cộc lốc: - Cái gì? - Thưa cán bộ, chân tôi bị thuơng, máu chảy ra không cầm được, xin cán bộ cho tôi một tí thuốc lào hao thuốc lá, tôi rịt cho cầm máu?... Tôi cố chỉ chỗ máu chảy, nhưng tôi biết ở vị trí chỗ cửa con như thế, không thể nào nhìn góc độ này được, nên tôi quệt một tay xuống chỗ máu dưới sàn đã đông tím lại, rồi giơ bàn tay đầy máu ra. Vẫn khàn khàn như tiếng ngan đực: - Làm sao bị thuơng? - Thưa ông, tôi đi ngoài ngồi trên bô bị trượt ngã….. Không một tiếng trở lại, cửa con đóng lại. Tôi cũng chẳng có thể đoán được người đó là ai, dù ngày mai tôi có gặp. Có thể, người đó không hút thuốc lá cũng như thuốc lào, đã phải đi xin người khác. Một hành động đúng nghĩa của tiếng “Người!” Trong những lúc thế này, thuốc lào, thuốc lá đắp vết thuơng là một thần dược. Chỉ một tí là cầm máu. Máu không chảy nữa, và hơi ấm trong người đã có chút ít, mặt sàn và chiếu cũng khô một chút, nên tôi thấy đỡ run, nhưng người tôi vẫn rã rời như sắp hết hơi thở. Không nằm được nữa vì chăn chiếu hãy còn ẩm ướt, tôi lấy chiếc vỏ ba lô vẫn gối đầu, giở ra trùm kín cổ, rồi ngồi nghiêng, dựa vào tường nhắm mắt chờ trời sáng. Tôi cứ ngồi nghe ngóng tiếng đêm thâu với cõi lòng đã rửa nát, tả tơi. Tôi nhìn thấy những ngày tới của đời mình, còn đầy rẫy chất chồng thương đau. Để bấu víu vào kiếp sống, tôi phải cố tìm một đốm lửa, dù là đốm lửa sắp tàn trong cái đêm đen dày đặc, cả bốn phương đều mịt mùng tăm tối này…..Nhìn lại suốt quá trình của đời mình, từng mảnh đời to nhỏ xê dịch đẩy xô, theo ngọ cuồng lưu của kiếp người: - Học hành không thành đạt; đời vẫn lang thang, dật dờ, tay trắng. - Nhiệm vụ bé nhỏ đất nước trao cho, không có tài, khả năng lại hèn kém, nên đã thất bại, rơi vào tay kẻ thù. - Đối với gia đình phụ mẫu, thiếu bổn phận làm con, làm anh. Chưa có một việc nhỏ nào gọi là đền công ơn trời biển, của đấng sinh thành. - Trước đây, khi còn ở Sài Gòn, thường tỏ với cơ quan và các linh mục mình là một thanh niên coi thường nguy hiểm, coi cái chết như một giấc ngủ. Nhưng trong thực tế, đêm hôm chúng đưa đi bắn, đã són đái toát mồ hôi ra. Như thế, rõ ràng là một người hèn, sợ chết. Đời một con người hèn kém tầm thường như vậy, có gì để đáng sống cho tốn cơm xã hội, cho chật chỗ loài người! Tuy đạo Công Giáo cấm ngặt con chiên tự tử. Nhưng, tôi đã cầu xin Chúa và Mẹ Maria quá nhiều rồi. Lòng tin của tôi đối với Chúa cũng khủng hoảng, tan hoang như lòng người dân miền Nam đối với chính quyền lúc này. Nhìn khắp bốn phương, tôi không còn một điểm nào để bấu víu, dù cho tạm bợ, để sống. Huống chi trước mắt, với sự hành hạ đày đọa của kẻ thù như thế này, trước sau, sớm muộn gì tôi cũng sẽ chết. Như vậy, tôi còn phải chịu nhiều khổ đau cay đắng, tủi hận nữa, rồi cũng chế! Như thế, quả là vô lý, uất ức! Tôi được sinh ra làm một con người giống như mọi người khác, tại sao tôi không có chủ quyền với bản thân tôi? Thượng Đế dã ban cho tôi cái quyền tối ưu thiêng liêng của con người là sự tự do. Cộng sản đã tước đoạt của tôi hết: từ miếng ăn, tấm áo, đến cả những động tác thong dong tối thiểu nhất của cơ thể. Chỉ còn sự sống của tôi. Quyền tối thượng này chỉ dành cho Chúa và tôi mà thôi. Vậy, Chúa ơi! Ở niềm tin này, con xin giành lấy chủ quyền sự sống của Chúa với con, khỏi tay lũ chó má vô thần. Con xin quyết định lấy sự sống của con. Sau bao ngày đêm đấu tranh tư tưởng gay gắt, cuối cùng, tôi quyết định từ giã cõi đời này. Chết trong lúc này là chiến thắng kẻ thù, là xóa sạch hết mọi vấn đề. Từ đấy, óc tôi dập dờn nghĩ đến bố mẹ, các em, họ hàng, bạn bè quen biết. Nghĩ đến các nhà bác học, những học giả, những nhân vật nổi danh. Có những người đã phải trải qua bao nhiêu năm công phu mệt mài học tập, nghiên cứu, bao nhiêu năm lăn lộn làm nên những sự nghiệp lẫy lừng có lợi cho dân, cho nước, cho xã hội loài người. Họ đáng muôn ngàn lần sống, lại lăn đùng ra chết, để lại tiếc thương cho nhân quần xã hội như: Quang Trung, Nguyễn Thái Học, Pascal, Kennedy, Khái Hưng, Hàn Mạc Tử, Bethoven, v.v… Họ đáng sống, cần sống, thì lại chết. Còn loại thấp hèn vô ích như tôi, cần chết thì lại sống. Nếu cái chết của tôi được thay cho những người ấy, cũng còn có chút ý nghĩa….. Đã quyết định rồi, bây giờ, tôi chỉ còn…..tìm cách chết! Tôi nhìn lên cái thế của chiếc cửa sổ phía sau. Tôi nhìn đến bộ quần áo sọc họ vừa phát cho tôi ngày 16 tháng 10 vừa qua, vải hãy còn bền tốt. Tôi nghĩ đến lão Kim già mắt lơ mơ, hay trực vào những ngày Chủ Nhật…..dần dần tôi hình thành một kế hoạch nhỏ để… chết!... Ngay hai ngày hôm sau, tôi bắt đầu thực hiện kế hoạch. Hàng ngày, lợi dụng những lúc cán bộ mở cửa, hay đóng cửa buồng cũng như cửa nhà tắm, có những tiếng xọc xạch ầm ầm, tôi xé quần ra thành những miếng dài dọc theo quần, mỗi miếng rộng độ 4, 5 phân. Vải còn tốt nên rất dai, lúc đầu tôi phải dùng răng cắn ra, rồi từ chỗ cắn mới xé được. Xé vào những lúc ồn ào có hai điểm lợi: có âm thanh che lấp tiếng xé vải, và chắc chắn nhất, là cán bộ đang bận mở hay đóng cửa, không thể rình ở chỗ cửa con. Rồi chỉ cần đánh một chiếc thừng dài độ 1 mét 20 đến 1 mét 40 là được rồi. Thế mà cũng phải mất hơn 4 ngày. Trong quá trình, lúc đi đổ bô cũng như lúc lấy cơm, trả bát, tôi đều phải cuốn trong người, bởi vì bất chợt cán bộ hay vào ngó buồng, đôi khi lục tung chăn chiếu khám xét, khi mình còn ở trong buồng tắm. Lúc bện thừng, tôi thường phải làm trong chăn, hoặc ngồi thế gập chân lên cùm, rồi quay phía trong sát góc, từ chỗ cửa con nhìn vào không thể nhìn thấy. Cửa con thường bất chợt mở chẳng có một quy luật nào. Hoặc, cán bộ có thể đứng bên ngoài rình nhìn vào mà không cần mở cửa con, theo một cái khe phía trên cửa nhỏ, để quan sát theo dõi được nửa buồng. Vì chưa quen đánh thừng, sau nhiều lần rút kinh nghiệm, cuối cùng, tôi đã có một chiếc dây dài 1 mét 40 phân, đánh loại thừng 3 sợi vặn rất săn, đường kính chừng 2 phân rưỡi, rất nhẵn nhụi bền chắc. Tôi luôn quấn trong người để hễ có thời cơ là thực hiện tiếp kế hoạch. Trong thời gian này, có hai lần gọi tôi đi cung. Cũng truy hỏi, cũng dọa nạt, cũng nhử mồi. Nếu những tên chấp pháp tinh ý, sẽ thấy tôi không còn những nét lo âu, sợ sệt, hoặc băn khoăn đấu trí như mọi khi, và nếu chúng sờ vào bụng tôi, sẽ thấy một cái dây to tướng đang được quấn chặt ở trong quần. Tôi còn gần một bao diêm, từ ngày nào Hà Tĩnh lấy đồ chôn, tên Thành mua cho, tôi vẫn giữ, hàng ngày tôi vẫn thỉnh thoảng lấy ra nhìn nhãn hiệu trên bao diêm, hình một anh công nhân đang cầm búa giơ lên cao, chẳng biết sẽ…nện vào cái gì? Tôi cũng thường lấy ra nhìn chiếc lược và bó tăm, trong đó vẫn còn “lõi” chì mật. Bây giờ, tâm tư của tôi lúc nào cũng như sắp giã từ cõi đời này. Tôi nhìn bất kỳ một cái gì cũng với ánh mắt vĩnh biệt, từ cái chăn, chiếc chiếu, cho đến đôi dép Thái Lan đã mòn, đứt một quai, cả chiếc lược sừng con duy nhất còn lại, khi còn ở Sài Gòn. Tôi cứ thường lấy những que diêm ra xếp thành chữ trên sàn: “Đặng Chí Bình chi mộ!” trong một cái khung hình chữ nhật cũng bằng que diêm, như mộ bia, rồi ngồi nhìn những chữ đó hàng giờ, với bao nhiêu nỗi đầy vơi của kiếp người. Trong cái tắc tị của tinh thần, tôi suy nghĩ đến thuyết luân hồi của nhà Phật. Tôi nhắm mắt, hình dung mơ màng, khi tôi chết đi, kiếp sau biết đâu tôi chẳng là vị tướng tài ba chỉ huy một đoàn quân hàng chục vạn người, đập tan lũ cộng thù, giải phóng đồng bào miền Bắc mà kiếp này, tôi đã không làm được. Hoặc biết đâu, tôi lại đầu thai làm con, của một trong lũ Bộ Chính Trị miền Bắc, lớn lên, chính tôi sẽ là người đào mồ chôn cái chế độ, gọi là xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Nếu tôi đầu thai là một phụ nữ, tôi sẽ là một cô gái hiền dịu, tôi sẽ khôn khéo đem cái sắc đẹp của tôi để phục vụ Tổ Quốc, phục vụ nhân dân, góp phần tiêu diệt lũ cộng thù của dân tộc. Nếu không, ít ra tôi cũng có một lập trường rõ ràng, là chỉ yêu và lấy những ai một lòng thực sự vì dân vì nước, trong lúc quê hương dân tộc đang hồi lầm than nghiêng ngửa như lúc này. Chứ, dứt khoát tôi không lấy những loại chỉ suốt đời lao vào công việc, cũng như học hành, đạt những bằng cấp cao để cốt vinh thân phì gia, quên hết cả giống nòi. Loại này, nói đến quê hương, Tổ Quốc, chỉ nói ở cái lỗ miệng, còn thực tế lại chỉ lo tranh giành địa vị, nấp dưới những bình thường này nọ để …..xui người khác ăn cứt gà. Những loại đó, đừng hòng! Bởi vì, chính thái độ của người phụ nữ có tác dụng huyền diệu giáo dục và nâng cao tinh thần của nam nhi rất nhiều. Ngược lại, cũng do thái độ của nữ giới đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người trai. Họ chỉ biết lăn xả vào tìm tiền và danh vọng để phục vụ…..phụ nữ. Tôi cứ hình dung, tưởng tượng, đặt giả thuyết là tất cả những người Việt Nam thân yêu của chúng ta, từ gia đình đến học đường, cho đến ngoài xã hội, ngoài những vấn đề giáo dục học vấn, phải hun đúc những người thanh niên thấy rõ trách nhiệm với quê hương dân tộc, nhất là khi đất nước gặp cảnh lâm nguy, lầm than…..và, riêng với nữ giới, ngay từ khi còn nhỏ trong gia đình cũng như trong học đường, đã được giáo dục uốn nắn, khích lệ để được trang bị một quan điểm, lập trường là chỉ yêu và lập gia đình với những thanh niên có lòng vì dân vì nước thực sự, đồng thời, phải biết khinh bỉ chán ghét những người thanh niên nào chỉ nghĩ đến mình, đến đại vị, đến phú quý giầu sang, dù quê hương tan tành, dù dân tộc có rên xiết thê lương. Mặt khác, ngoài xã hội, từ báo chí đến các phương tiện tuyên truyền, cũng như quan niệm trong quần chúng, bằng mọi khía cạnh, phải đề cao cổ vũ những người phụ nữ nào đó những hành động cao đẹp ấy, nêu lên những tấm gương chói sáng cụ thể bằng người thực, việc thực, v.v…..một cách đích đáng. Nếu được như vậy, tôi dám hy vọng rằng, chỉ trong một hay hai thế hệ là cùng, lúc đó thanh niên Việt Nam sẽ không thiếu gì người tài, không thiếu gì người lăn xả vào hiểm nguy khi vận nước gặp hồi nước sôi, lửa bỏng; và ngày mai của dân tộc ta, sẽ không thiếu những gương anh dũng, quyết tử vì Tổ Quốc như Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Hoàng Thụy Năm, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ v.v… Thế giới lúc đó, khi nói đến Việt Nam, sẽ phải nói với thái độ như nói tới nước Nhật hay Do Thái vậy. Hầu hết thế giới và chúng ta, khi nói tới dân tộc Nhật, thường chỉ chú ý tới tinh thần võ sĩ đạo của người Nhật là sẵn sàng chết cho quê hương, mà quên là người con gái Nhật đã góp phần chủ yếu để cho nhân dân Nhật có nét tự hào đó. Chúng ta, ai cũng thấy rất đon giản là, một người vợ miệt mài ra sức làm cho người chồng một bữa ăn ngon, nếu người chồng biết ca ngợi, đề cao đích đáng, hãy tin đi, sẽ có và còn nhiều bữa ăn như thế, hoặc hơn thế nữa. Ngược lại, người chồng lại thờ ơ, không có một thái độ, hay một lời nói để khen ngợi bữa ăn đó, lần sau it khi có; nếu còn có, người làm cũng chỉ vì ở cái thế bắt buộc mà thôi….. Óc tôi cứ chảy dài theo dòng suy tưởng vào một giấc mơ. Giấc mơ ấy, có lẽ cuối cùng cũng vẫn chỉ là…..một giấc mơ! Thân tôi hèn, chí tôi thiển; hơn nữa, vì hoàn cảnh bất hạnh đau thương của tôi, tôi đang muốn tìm đến cái chết để lìa bỏ cõi đời này. Chỉ mai kia, tôi đã về với cát bụi mây ngàn…..Trước khi trở về lòng đất mẹ, tôi chỉ biết kêu gọi những bậc Cha Anh, những nhân vật lỗi lạc, những người giầu có, người góp công, người góp của, cùng chung một mục đích để làm những việc này một cách tận tâm, tận lực, lăn xả cho mục đích, giấc mơ đó sẽ hiện thực được, và sẽ trở thành truyền thống yêu nước quên mình của quảng đại nhân Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Khi đó, hẳn là tôi không còn trên cõi đời này, nhưng, những uất khí không còn trong bộ xương nữa. Tôi mở mắt ra, như bừng tỉnh một cơn mê để trở về với thực tại. Tôi xoay lại thế ngồi, nhìn lên cửa sổ phía sau, từ mặt sàn xi măng đến mép dưới của cửa sổ cao độ 1 mét 50 phân. Bức tường dày 50 phân. Một hàng song sắt to tướng ở giữa, ngăn đôi cái độ dày của bức tường, phía trong 15 phân, phía ngoài 35 phân. Một lượt lưới thép ép sát phía trong song sắt. Lưỡi thép đan thành những lỗ hở vuông mỗi bề 3 phân. Tôi xoay lại thế ngồi khác để nhìn cái chân trong cùm. Vì muốn tạo điều kiện cho kế hoạch ngày tới, từ hàng nửa tháng trước, tôi đã lấy cái quần đùi rách, quấn chân tôi thành một cục như một cái tổ. Mỗi lần mở cùm thay chân, tôi chỉ việc rút ra rồi lại đút chân kia vào. Cá biệt, có tên cán bộ cẩn thận, trước khi đóng chốt cùm, còn vào nhìn kỹ, khi trông rõ cái chân tôi nằm trong cùm rồi, mới chịu ra đóng chốt, và đóng cửa. Bốn Mươi Hai Chạm Mặt Tử Thần Chờ mãi rồi thời cơ cũng đến. Hôm ấy là Chủ Nhật. Chiến, cán bộ trực xà lim nghỉ, một cán bộ khác vào thay thế trực ngày Chủ Nhật. Thực là trời giúp để tôi thực hiện được kế hoạch. Gần 8 giờ, tôi nghe tiếng mở cổng xà lim, tiếng chân nhè nhẹ và tiếng chùm chìa khóa lọc xọc. Khi vào tới bàn trực, tiếng xô ghế, rút ngăn kéo bàn, rồi đóng lại, tiếng ném chùm chìa khóa lên bàn, tiếng khì khì thở lúc nặng, lúc nhẹ. Không sai vào đâu nữa, đúng lão Kim già rồi! Lão này, phần vì già phải đeo kính trắng, mắt nhìn tơ lơ mơ; nhưng phần chính, so với các tên công an khác, lại tương đối dễ tính. Có lần, y trông thấy một người đứng lên sàn nhìn ngoài, lại chỉ mắng và giáo dục mấy câu chứ không cùm. Cũng vì thế, hôm nào lão trực, hết buồng này báo cáo hỏi cái này, lại tới buồng kia hỏi cái khác, xà lim hôm ấy có vẻ rộn ràng hẳn lên. Lại còn điều này cũng rất đặc biệt, khác hẳn với những tên công an ác ôn kia, trước khi mở cửa cho các buồng ra đổ bô, lão đi mở cửa con suốt một lượt, thấy buồng nào bị cùm là cúi xuống rút chốt cùm ngay. Rồi cho tới khi tù ra đổ bô, lấy cơm ăn, xong lúc trả bát vô, bấy giờ lão mới cùm lại. Buổi chiều cũng như vậy. Tôi suy nghĩ mãi vẫn chưa hiểu vì sao lão có lòng rộng rãi với người tù như thế. Có thể lão đã già rồi, trông lão phải hơn 60 tuổi; đầu lão tóc đã bạc hơn một nửa, mà lão chỉ có cái lon Thượng sĩ. Lão sắp sửa xuống lỗ, trong tâm tư chắc lão muốn có chút phúc đức để khi chết được thanh thản. Phần khác, theo tên Tân nói, lão là cán bộ lưu dụng, đã là cai tù ở Hỏa Lò. Vì thế, thời 1954 trở về nước, cũng có thể khi ấy, những tên Cộng Sản bị tù mua chuộc và lợi dụng lão, rồi kết nạp lão vào tổ chức. Như vậy, lão đã có nhiều thời gian sinh hoạt, giao tế trong quỹ đao quốc gia, đã thấy được lẽ thiện ác, ân oán ở đời. Bây giờ, 10 năm sau, cũng vẫn…coi tù, thực tế cũng vẫn là anh cai tù. Hơn nữa, hẳn phần nào lão đã thấy được thực chất cái chế độ mà trước đây lão tưởng bở. Cho nên, cuối cùng lão tự hiểu là trong đời: Ở hiền gặp lành; càng khôn ngoan lắm, càng oan trái nhiều. Dầu sao, đây cũng chỉ là sự suy đoán của tôi về lão, trong khi thiếu cơ sở cụ thể, vì vậy, chưa hẳn đã là đúng. Cửa mở, đến lượt buồng tôi đi đổ bô. Tôi ôm bô vào nhà tắm, thoáng nhìn bộ mặt lão, lòng tôi dâng lên một mối băn khoăn. Hôm nay, tôi sẽ phải lợi dụng cặp mắt kém và tính tốt của lão. Nếu thực hiện được mục đích của mình, lão sẽ phải bị kiểm thảo tơi bời, có khi còn bị kỷ luật hoặc hạ từng công tác nữa. Lương tâm tôi áy náy, thấp thỏm. Nhưng, tên cán bộ Chiến, trực chính xà lim, đầy khôn ngoan, quỷ quái, xem chừng tôi không thể lừa y được. Còn tên Điền, phụ trách việc nhận quà tiếp tế của thân nhân tù, và tên Bằng “mắt lồi” vẫn không kém phần tinh quái. Chỉ còn có lão Kim già này thôi. Đành vậy! Chẳng lẽ chỉ vì những suy nghĩ về lương tâm vụn vặt “tiểu tư sản” đó, lại bỏ cả mục đích của mình sao? Vì thế, ngay từ lúc trưa, tôi lấy chiếc ba lô vẫn gối đầu, gấp cuốn lại thành một đoạn dài, thay cho khúc chân từ đầu gối xuống cổ chân. Buổi chiều, khi lão Kim đến rút cùm cho tù nhân đi đổ bô lấy cơm. Trong khi chờ đến lượt buồng mình, tôi tập thử mấy động tác cho thực nhanh, nhuần nhuyễn, hầu như chỉ trong một phút; cởi quần, co một chân vào sát mông, mặc quần, ngồi ngay vào sàn. Lấy cái ba lô đã buộc sẵn, đút vào chỗ ống quần không có chân, để nối với cái túi vẫn đút bàn chân mọi khi. Làm đi làm lại hai, ba lần cho thuần thục. Từ sáng, tôi đã để ý khi lão mở một buồng nào cho ra trả bát, múc nước (ở thùng nước đặt tại mé hè chỗ bàn trực) lão thường ra theo, ngồi vào bàn, có khi cầm chùm chìa khóa đập chơi xuống bàn, có khi mở sổ trực ra nhìn. Dáng điệu chậm chạp, cho tới khi tù cầm gáo nước đi vào buồng, bấy giờ từ bàn lão mới đứng dậy, đi theo vào đóng và khóa cửa. Thời gian từ bàn lão đi theo tới cửa buồng khoảng hơn một phút. Thừa sức để tôi làm những động tác đã thực tập. Gần 4 giờ chiều, đến giờ lão mở các buồng cho trả bát, tôi cũng hơi hồi hộp. Lão mở buồng số 1. Chẳng hiểu buồng số 1 báo cáo hỏi lão cái gì, một lúc lâu đến 5 phút, lão mới đóng cửa cài then và khóa. Buồng số 2 từ hôm tôi đến không thấy mở cửa bao giờ, vậy là không có người. Rồi cửa buồng tôi mở. Tôi lấy dáng đi chậm chạp. Lúc đặt bát cũng như khi múc nước, tôi liếc nhanh, thấy lão ngồi vào bàn, rút ngăn kéo đang lục tìm cái gì. Tôi trở vào buồng. Hơi căng thẳng, tôi làm rất lẹ, trong khi tai vểnh lên nghe tiếng bước chân lão. Tôi vừa hoàn thành xong, và lấy cái chăn khoác lên người thì bước chân lão đi vào. Khi tới buồng tôi, lão thò cổ vào buồng nhìn tôi một lúc, rồi nhìn chân tôi. Tim tôi hơi thắt lại. Tại sao lão lại nhìn tôi lạ lùng thế? Tôi vẫn ngồi yên như vậy, chờ cho lão mở hết các buồng…..Rồi đợi đến 5 giờ, một tên cán bộ khác đến nhận thay “ca”, đi mở các cửa con kiểm tra…..Mãi đến 6 giờ, xà lim mới trở về yên tĩnh, vắng lặng. Từ chiều, bao nhiêu tâm tư, trí có mải tập trung để thực hiện xong bước đầu của kế hoạch, bây giờ tôi như mới hoàn hồn, trở về với nỗi đầy vơi của kẻ sắp giã từ cõi đời. Tôi ngồi gục đầu rũ rượi, ngụp lặn trong một trời khổ đau, uất hận. Óc tôi cứ bập bềnh nổi trôi trên giòng sông thê lương. Trước đây, tôi từng nghe nói đến những người chán đời tự tử, mỗi người mỗi tình huống khác nhau. Còn tôi, tôi vẫn tha thiết với cuộc đời, tôi không chán đời, lòng tôi vẫn khao khát với cuộc sống con người. Nhưng, chỉ vì một cái thế, điều kiện hoàn cảnh đã dồn tôi đến chỗ phải xa lìa cuộc sống. Yêu thuơng đời tha thiết, mà phải xa lìa! Một nỗi đau dầy vò, cấu xé dâng lên đè tôi gục xuống sàn, lịm dần vào đêm thâu… để chờ giờ khởi sự. Đêm khuya im vắng, thỉnh thoảng một tiếng rên rỉ vọng lên từ một buồng nào đó. Đôi khi một tiếng rú giật lên, dài lê thê vang vào đêm trường của một ai đó, chắc trong một cơn ác mộng hãi hùng. Lúc này, chắc hẳn 1, 2 giờ khuya, có tiếng bước chân lạo xạo bên ngoài, phía sau xà lim. Có lẽ là tiếng bước chân của một tên công an vũ trang đi tuần tra. Tôi bò dậy, cởi cuộn thừng, tôi vận cuốn chung quanh bụng ra, giấu dưới chân. Tôi tìm bó tăm, cởi ra, lấy sợi ny lông “chì mật”. Tôi muốn mẩu “chì mật” này sẽ theo tôi về lòng đất, vì thế, tôi đút sâu vào hậu môn. Tôi đang loay hoay đút mẩu “chì mật” thì thoáng nghe có tiếng bước chân, động lá khô ngoài sân xà lim, tôi vội vàng nằm xuống, lấy chăn đắp che kín cả người, cả cùm, chỉ để hở cái mặt. Một lúc, cửa sổ nhỏ bật mở. Như vật là một tên cán bộ đến thay “ca” trực. Cứ hai tiếng một “ca”. Tôi lại bò dậy, lấy cuộn dây dưới chăn ra. Trước hết, tôi thắt chặt nút một đầu dây, rồi lại buộc thanh một nút tuột thòng lọng. Vừa buộc, tôi vừa nhìn lên hàng song sắt ở cửa sổ là một mét rưỡi. Từ mặt sàn xuống đến nền nhà là 60 phân. Như vậy, từ mép dưới của cửa sổ xuống tới mặt nền là 2m10. Tôi hiểu, thường thường người ta muốn thắt cổ tự tử, phải làm sao khi đã thắt rồi, dù muốn cởi ra cũng không được nữa. Bởi vì, con người ai cũng thế, khi sắp tắt thở, do phản xạ tự nhiên, không còn theo ý định của mình nữa, sẽ tìm mọi cách để thở. Như vậy, việc thắt cổ ấy sẽ khó thực hiện được, nếu tôi đứng trên sàn, buộc dây lên song cửa sổ, rồi đạp chân cho người treo lủng lẳng xuống nền nhà, lúc đau đớn vì không thở được, tôi sẽ vùng vẫy với hai tay lên mép cửa sổ, để kéo người lên; hoặc dạng hai chân ra để đứng vào hai sàn bên, làm sao chết được. Vì thế, tôi phải trèo lên mép cửa sổ, rồi thắt theo lối chuyên môn đặc biệt do nghề nghiệp dạy cho, mới hy vọng…..chết được! Trong lúc lúi húi buộc dây, tôi nhìn sợi dây oan nghiệp sẽ kết liễu đời mình. Một niềm xúc động tự nhiên trào vào lòng. Hình ảnh mẹ tôi hiện ra nhìn tôi đăm đăm Rồi hình ảnh bố tôi, các em tôi. Tôi nghĩ đến Cục Tình Báo miền Nam. Nghĩ đến miền Nam thân yêu cách xa vời vợi…Tôi khóc. Không phải vì tôi sợ chết (chứng tỏ tôi đang tìm đến với tử thần). Cũng không phải tôi tiếc thương cõi đời này. Đó chỉ là những giọt lệ tủi hận, của một kiếp người chết trong tăm tối, âm thầm uất nghẹn. Rồi đây, không một ai của miền Nam, kể cả bố mẹ và các em tôi, biết là tôi chết trong tủi hận thế này. “Xin bố mẹ tha tội cho đứa con bất hạnh này!” Tôi lẩm bẩm, quỳ lên, hướng về miền Nam lạy 3 lần, xin vĩnh biệt cuộc đời!... Tôi đứng lên, thọc một đầu dây vào lưới thép, thắt thật chặt vào chân một cái song sắt. Tôi trèo lên cửa sổ. Ngoài mối thòng lọng, bên trên tôi thắt một nút nữa. Nút này tôi chỉ thắt hờ một lần, để nếu kéo mạnh hai đầu, dây sẽ rút chặt lại. Tôi leo hai chân lên như ngồi xổm ở mép cửa sổ. Tôi đút đầu váo cái mút thắt hờ phía trên. Hai tay quàng xuống phía dưới hai đầu gối, rồi đút vào cái thòng lọng và rút buộc chặt hai cổ tay lại. Lúc này, tôi chỉ cần đẩy nhẹ cho người lạng ngã ra là xong. Khi ấy, nút thòng lọng đã buộc chặt hai tay mình, muốn rút ra cũng không được nữa vì cả sức nặng của cơ thể. Hai chân càng đè nặng hai tay, sẽ rút chặt cái nút ở cổ. Vì sức mạnh của cơ thể, càng giẫy dụa, nút ở cổ tay càng chặt và nút ở cổ càng rút vào. Lúc này, người tự tử không muốn chết nữa cũng đành phải gặp tử thần để về lòng đất thôi. Trừ khi…..có người khác cứu. Chỉ 5 phút ngồi trên mép cửa sổ, tôi đã làm xong tất cả, chỉ cần đẩy nhẹ người ra một cái là xong hết mọi chuyện! Bỗng, một tiếng quát to vang lên trong đêm khuya, ngay dưới cửa sổ, phía đàng sau xà lim: - Anh kia! Trèo lên đó làm gì đấy! Tôi giật mình, vội hất người ra lao xuống nền, đầu thoáng nghĩ: Chỉ mười phút thôi! Nghĩa là chỉ trong 10 phút, không còn cứu được nữa. Tôi chỉ thấy cổ mình bị giật mạnh, rồi đầu tôi nóng ran như lửa đốt. Và, tôi không biết gì nữa… Hết tập I Tuyệt vọng sau cuộc đảo chính giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tác giả đã tự treo cổ trong tù để kết liễu đời mình. Cái gì đã khiến ông sống lại; để tiếp tục giai đoạn dở sống dở chết trong lao tù Việt Cộng? Xin xem tiếp Hồi Ký Thép Đen tập II. |
|
|
![]()
Post
#45
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
T H É P Đ E N
Tập II (Chương 43 -- 82) Bốn Mươi Ba Chưa dứt... nghiệp!... Mãi tới khi thấy mũi cay xè, tôi mở mắt thấy lố nhố mấy người, rồi tôi cứ nấc lên, và không thở được nữa. Tôi lại mê man. Đầu tôi vẫn nóng như nung, và như vang vang một hồi còi ai thổi rất dài, đôi lúc ngân nga như tiếng sáo diều…..Rồi tôi tỉnh lại. Mãi một lúc lâu, tôi mới nhìn rõ một người mặc quần áo xanh đang đè chặt ngực tôi. Tôi cảm thấy khó thở. Cố gắng lắm, tôi cũng chỉ thở được khò khè. Bây giờ, tai tôi mới nghe được tiếng người nói, nhưng rất nhỏ: - Sống rồi! Người mặc quần áo xanh mặt trắng trẻo, chừng tuổi tôi, cầm tay tôi và nhìn tôi với một vẻ đầy thuơng cảm. Anh ta cúi sát tai tôi nói: - Đừng dại mà tự tử. Hãy cố gắng mà sống! Tôi muốn với anh ta lời cảm ơn, nhưng tôi không nói được, chỉ đưa mắt nhìn anh ta với vẻ biết ơn. Một lúc sau, tôi thấy một người mặc áo “blouse” trắng ôm khay thuốc đi vào. À, ông Huệ y tá. Ông ta cầm chiếc ống nghe trên khay thuốc đeo vào tai, rồi vạch ngực áo tôi lên, đặt ống nghe chỗ này, chỗ khác. Lúc này tôi đã nghe rõ hơn chung quanh, có hai tên áo vàng là tên Nhiễm vẫn trực xà lim III và tên Kế trực ở ngoài trại chung. Tên Kế tay đang cầm sợi dây thừng bằng vải của tôi, một phía đầu dây có vết cắt. Y tá Huệ nghe ngực tôi một lúc, rồi lấy một gói thuốc gì, bột vàng vàng đổ vào một chiếc ly nhỏ cùng với một chút nước còn lại, trong cái gáo dừa ở buồng tôi. Y quấy một lúc rồi đổ vào miệng tôi, dịu giọng: - Anh uống cái này đi! Cổ họng đau quá không nuốt được, nên tôi chỉ nhấp từng ngụm nhỏ. Ly nước chỉ có một chút mà tôi uống mãi mới hết. Mùi thuốc gì hăng hăng như mùi rau cải bẹ xuống. Sau đó, y lấy chai dầu nóng, dùng bông xoa chung quanh cổ của tôi. Vừa xoa, y vừa nói: - Anh chết thiệt thân anh thôi! Đừng nghĩ quẩn mà dại như thế! Tôi nằm nghe, chẳng muốn nói gì. Vả lại, cũng không nói được. Một lúc sau, chúng ra hết và đóng cửa buồng lại. Lúc này trời đã sáng! Phần đau, phần mệt, tôi lại lịm đi lúc nào không biết….. Mãi tới khi nghe tiếng người gọi, tôi mở mắt ra, trời đã sáng rõ. Tên Chiến, cán bộ trực xà lim, quắc mắt nhìn tôi: - Hôm qua, anh dám đánh lừa cán bộ Kim rồi thắt cổ hả? Tôi nhìn y nhưng không nói được. Y có vẻ bực tức, một lúc, có lẽ hiểu tôi không nói được vì thấy cái cổ sưng to lên của tôi. Y trở ra đóng cửa, và mở các buồng cho ra đổ bô. Đến khoảng 9 giờ, cửa lại mở. Lần này là tên Trì, Thượng Úy Phó Giám Thị và tên Chiến đứng sau lưng y. Tên Trì với giọng miền Trung nặng chịch: - Anh định tự tử theo chân Ngô Đình Diệm? Tôi nhìn y, lắc đầu. Y cười nửa miệng, nói với giọng giễu cợt: - Anh muốn trung thành với Ngô Đình Diệm, anh ôm bí mật xuống lỗ để báo cáo với y hỉ? Thái độ của lão thật đểu cáng, tôi quay mặt vào phía trong nằm im. Trước khi ra, y còn quay lại đe: - Rồi đây, đến lúc muốn sống cũng không đuợc sống! Tôi hiểu, với cộng sản, dù tòa án của chúng đã xử anh tử hình và chờ ngày đem bắn, anh tự tử chúng cũng vẫn cứu sống, để rồi chính chúng thi hành bản án. Chúng muốn bóc lột cả chủ quyền thiêng liêng nhất là sự sống, quyền sở hữu sơ đẳng của con người. Huống chi, tôi vẫn còn đang trong thời gian bị khai thác. Chúng phải cần tôi sống để moi chứ. Cả buổi sáng hôm ấy, chúng không cho tôi ăn uống gì. Vì thế, tôi càng mệt lả, nằm li bì mãi tới chiều. Tới giờ cơm, tên Chiến mới mở cửa, nhìn tôi quát: - Bò dậy, ra lấy cháo! Cả người mệt lả vì đau và vì từ chiều hôm qua tới giờ không có gì trong bụng, tôi cố gượng dậy mà mắt hoa lên. Nhưng, tôi hiểu là nếu không cớ gắng ra lấy cháo ăn, càng đói càng khổ mình, chứ chúng không bao giờ bưng vào cho. Những người tù hình sự làm việc bưng thùng cơm ở ngoài kia thì lại không được phép trông thấy người trong xà lim, nên chắc chắn chúng cũng không cho mang giúp vào. Tôi chập choạng đứng lên, tưởng muốn ngã. Cổ tôi sưng to, không quay đi quay lại được. Tôi vịn sàn, vịn cửa, rồi hai tay lần theo tuờng lảo đảo, chậm chạp ra chỗ lấy cơm. Tới nơi, tôi thấy chỉ là một bát nước cháo. Tôi cảm thấy mệt quá, ngồi bệt ngay xuống hè, cố nâng bát cháo lên húp. Thấy mằn mặn, chắc có pha ít muối. Tên Chiến không muốn mất thì giờ, định giục tôi mang bát cháo vào trong buồng, nhưng khi nhìn thấy tay tôi bưng bát cháo húp còn run run chực đổ xuống nền mấy lần, nên y chỉ thúc: - Mau lên! Vì bụng đói, tôi cố gắng húp. Nhưng, cái cổ đau, cuống họng của tôi bây giờ hình như bé đi, tôi chỉ húp được từng chút một, và mỗi lần nuốt xuống như có mảnh chai cào vào cuống họng, rát như bỏng. Phải đến mười lăm phút sau, tôi mới húp hết bát cháo. Tên Chiến tỏ ý rất bực bội, tôi vừa bỏ bát xuống, y đã cộc lốc: - Vào! Tôi lại chậm chạp đứng lên, lần theo tường lảo đảo vào buồng. Hai ngày húp nước cháo, rồi sau đó ăn cháo 3 ngày. Bây giờ, tay trái của tôi bỗng dưng xuội hẳn ra như bị liệt; còn phía trên đỉnh đầu, suốt ngày đêm cứ cắn như kim châm. Tôi hiểu rằng đây là những phản ứng hậu quả của cơ thể vì việc thắt cổ tự tử. Ngay ngày thứ ba, khi bắt đầu được ăn cháo, chúng đã bắt tôi bỏ chân vào cùm rồi. Tâm trạng tôi lúc này thực buồn nản ghê gớm. Đúng là cái nghiệp mình phải trả, chưa dứt được. Muốn chết cũng không xong! Bây giờ, lại mang bệnh đau óc và xuội tay. Sống như thế này, còn khổ biết chừng nào! Tôi nằm nhớ lại hôm tôi thắt cổ, và suy đoán qua những hiện tượng lúc đó. Phải rồi, khi tôi trèo lên mép cửa sổ, chắc chắn là ánh đèn điện giữa trần của căn buồng, đã chiếu bóng tôi xuống lối đi phía chân tường, sát bên ngoài buồng giam (nhưng vẫn là bên trong Hỏa Lò). Một tên công an vũ trang thỉnh thoảng đi tuần tra bên ngoài, phía sau xà lim, hoặc đang đứng canh trên một vọng gác gần đó, giữa đêm khuya vắng lặng, thoáng thấy một bóng loay hoay ở cửa sổ, hẳn y nghi là có tù đang chuẩn bị tìm cách trốn, nên đã bí mật theo dõi và tiến sát gần cửa sổ. Lúc bấy giờ, một phần do tâm trạng của một kẻ sắp lìa bỏ cõi đời, chẳng quan tâm đến những sự việc chung quanh nữa; phần khác, vì tôi không có định trốn, nên tôi chỉ chú ý đến việc thực hiện “kế hoạch” tự tử của mình mà không để ý gì đến sự việc bên ngoài. Vì vậy, tôi đã không phát hiện kịp. Sau khi theo dõi một lúc, thấy tôi loay hoay với thừng dây tròng vào cổ, y đã đoán được ý đồ của tôi nên quát hỏi. Rồi mặt khác, y chạy ngay vào báo cho cán bộ. Rồi, có lẽ y cũng theo cán bộ vào buồng tôi. Như thế, y phải là cấp chỉ huy của công an vũ trang, và phải quen biết cán bộ quản giáo, y mới vào buồng giam đặc biệt này được. Vậy, tên mặc quần áo công an vũ trang “màu xanh” vuốt ngực tôi và nhìn với vẻ thiện cảm chính là người đã quát tôi bên ngoài cửa sổ chăng? Nghĩ lại, tôi không biết nên trách vì mình không chết được là tại y, hay cảm ơn vì còn sống được là nhờ y? Bần thần một lúc, tôi thấy trong lòng mình như dâng lên một mối thiện cảm với y. Do từ một bộ óc còn chút tình người, từ một trái tim vẫn còn đỏ máu tươi nhân đạo trong chế độ đã hết tình người. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, anh vẫn là một cây sen quý. Vậy mà, tôi chả biết anh là ai, dù mai đây có gặp lại! Tóm lại, từ ngày vào Hỏa Lò tới nay, đã ba lần tôi đến sát với cái chết. Chúa, Trời vẫn bắt tôi phải sống để nhận những đắng cay, tủi nhục của một kiếp lao tù. Sau 5 ngày ăn cháo, cổ tôi dần dần đỡ đau, bây giờ, tôi đã nói được, nhưng vẫn khào khào như con ngan đực. Người tôi đã đói rã rời triền miên vì 5 ngày ăn cháo, nên cơ thể càng cồn cào, mệt mỏi. Tuy nhiên, một điều làm tôi phấn khởi hơn là nhờ sự tích cực tập cử động, cánh tay trái của tôi từ từ đã đưa lên đưa xuống được; sau nhiều lần dùng tay mặt giúp sức đưa lên đưa xuống. Có hưng phấn một chút vì tay trái cử động được, thì lại lo âu thêm vì cái đầu ngày càng nhức nhiều hơn. Cái bệnh đau đầu này làm tôi lo sợ không ít. Ngày thứ 6 kể từ ngày tự tử hụt, tôi bắt đầu được ăn cơm. Bây giờ, bữa cơm thường rất lâu, vì tôi phải nhai thật kỹ từng miếng nhỏ. Tên Chiến thông cảm, nên tới giờ trả bát, y mở hết các buồng khác trước, rồi sau cùng mới mở buồng tôi. Chiều hôm đó, tên Chiến mở cửa gọi tôi ra bàn trực. Tôi không biết sẽ có chuyện gì. Sau khi bảo tôi ngồi, y nghiêm mặt, lạnh lùng: - Hôm chủ nhật vừa qua, anh đã đánh lừa cán bộ, do vô tình đã không cùm anh. Rồi anh xé quần áo trại đánh thừng, đang đêm tự tử. Anh đã vi phạm trầm trọng nội quy xà lim. Hôm nay, tôi gọi anh ra đây, cho phép anh viết kiểm điểm. Anh chuẩn bị ra sao, đánh lừa cán bộ thế nào, vì sao anh định tự tử?.....Tùy theo bản viết kiểm điểm của anh thành khẩn trình bầy và nhận khuyết điểm đến đâu, cách mạng sẽ theo đó để có biện pháp xử lý. Nói xong, y mở ngăn kéo rút ra 3 tờ giấy trắng, đưa một cây bút với lọ mực cho tôi, rồi chỉ vào cái ghế: - Hãy đem ghế ra góc sân kia ngồi viết! Tôi đem cái ghế ra góc sân như y bảo, rồi ngồi bệt, ghệ xuống hè, để giấy lên mặt ghế làm bàn. Nội dung chính tôi viết: Tôi xác định là có tội với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bởi vì rõ ràng tôi đã xâm nhập vào Thủ Đô Hà Nội. Nhưng, vì có lòng thích xã hội chủ nghĩa, nên tới Hà Nội tôi đã không hoạt động gì cho chính quyền miền Nam cả. Khi bị bắt, tôi đã thành khẩn khai báo tất cả sự thực ngay từ đầu. Nhưng, đã gần 2 năm rồi, tôi vẫn bị cùm kẹp ở trong xà lim. Nghĩ rằng trước sau cũng chết và quá đau thương tủi hận vì nhà nước và cách mạng không hiểu cho lòng thành thực của mình, nên tôi đã tìm cách tự tử. Còn sống ngày nào, thì chỉ là những ngày tâm tư bị dằn vặt khổ đau, v.v… Tôi đang viết, bỗng nhiên có tiếng đập vào cánh cổng xà lim thình thình. Tên Chiên ngồi ở bàn hất tay bảo tôi: - Vào ngay nhà tắm, đóng cửa lại! Tôi hiểu là có người đi cung được cán bộ giong về. Ở xà lim, tù nhân khác buồng không được phép nhìn thấy nhau. Một lúc, chắc hẳn đã đưa tù đó vào buồng rồi, tôi nghe tên Chiến nói to: - Nhà tắm ra đi! Có lúc cũng đang viết, cán bộ vào gọi buồng nào đó đi cung, tôi cũng lại phải chạy vào nhà tắm….. Tuy ngồi viết, nhưng tâm tư tôi cũng đầy vơi với bao nhiêu nỗi niềm của cuộc đời. Nhìn những tảng mây trắng đang lững lờ theo gió bay về phương Nam xa xôi, lòng tôi như muốn nhắn nhủ, gởi gắm nỗi nhớ thương chất chồng đang đầy ắp trong tôi về phương trời bên ấy. Một đàn sẻ năm, sáu con vụt sà đáp xuống phía cuối góc sân, nhảy nhót tung tăng, ríu rít chuyện trò với nhau. Sân xà lim vắng lặng đìu hiu, làm gì có đồ ăn cho chúng. Chỉ có những đám rêu xanh mọc bám dài theo chân tường. Chúng thi nhau mổ lấy, mổ để, chẳng hiểu món ăn của chúng là những ngọn rêu xanh, hay những chú côn trùng trong đám rêu xanh ấy? Tôi chợt nhớ lại những đoạn đời ấu thơ nơi quê nhà. Bạn bè dăm ba đứa cũng nhảy nhót tung tăng suốt ngày. Bây giờ, tôi ngồi đây, trong cảnh này! Một tiếng thở dài nhè nhẹ lê thê như tự xót thương cho số phận của mình! Ngày ấy, nay còn đâu! Mùi rêu xanh ẩm mốc, mùi của những chiếc lá bàng khô, và mùi cống rãnh xông lên, tất cả quyện lại thành một thứ mùi hăng hăng, nồng nồng như mùi của một ngôi chùa hoang, hay miếu cổ. Càng làm tăng lên sự tịnh mịch hoang vắng của xà lim. Mặc dù nơi đây nằm giữa thủ đô Hà Nội. Đầu tôi lại tự nhiên cắn nhức, tôi viết đại cho xong, rồi đưa nộp cho y. Lúc đó, cũng đã gần hết giờ buổi chiều. Sáng hôm sau, vừa đến giờ làm việc, cửa buồng tôi đã xịch mở, tên Chiến tay cầm một tờ giấy, nhìn tôi lạnh lùng: - Anh hãy nghe lệnh kỷ luật của Ban Giám Thị: “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – Bộ Công An Lệnh kỷ luật Tên: Đặng Chí Bình xé quần trại, đánh lừa cán bộ, vi phạm trầm trọng nội quy xà lim. Nay quyết định: Cùm hai chân trong thời gian 7 ngày. Kể từ ngày…..tới ngày….. Ban Giám Thị trại, Phó Giám Thị Lê Trì.” Chao ôi! Lại cùm ư! Cổ tôi hãy còn sưng, tiếng nói của tôi còn chưa rõ, đầu tôi vẫn đau nhức như kim châm mà không có thuốc, bây giờ lại cùm hai chân! Tuy nói chỉ 7 ngày, nhưng như những lần trước đây, làm sao tôi tin được, mà sống cũng không sống được! Y trở ra, rút chốt cùm, và bắt tôi bỏ cả 2 chân vào. Như cái xác không hồn, như cái mày, tôi theo lệnh hắn cho thêm chân nữa vào cùm….. This post has been edited by Violet: Jun 5 2008, 08:53 PM |
|
|
![]()
Post
#46
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Bốn
Đường dây tài liệu “M”... bị lộ?... Mùa hè thứ hai đã bắt đầu. Chúng đã thu chăn lại. Tuy trời chưa nóng, nhưng muỗi đã mỗi ngày một nhiều. Tôi nằm vật ra, nhắm mắt, để mặc cho giòng tư tưởng tràn dâng như sóng biển sầu. Tôi chợt nghĩ đến cái biên bản kỷ luật mà tên Chiến đọc. Chúng chẳng nói tới chuyện tôi xé quần để làm gì. Tôi xé quần áo đánh thừng tự tử! Vậy mà trong biên bản, chẳng có một câu nào, hay một ý nào nói đến việc tự tử của tôi cả. Trong dạ cũng hơi băn khoăn, nhưng thôi cũng mặc, chúng muốn nhào nặn thế nào kệ chúng. Thâm mình bây giờ, có còn là của mình nữa đâu! Đầu tôi cứ cắn nhức không thể chịu được. Nó như muốn nổ tung ra. Không thể nào nằm yên được nữa, tôi chống tay bò dậy, lấy hai tay đập đập vào đầu. Tôi đã báo cáo với tên Chiến mấy ngày nay, nhưng vẫn chả có viên thuốc nào, cũng chẳng thấy mặt mũi y tá đâu. Suốt cho đến chiều tối, tôi không thể nằm được, ngồi lên thì đầu đỡ nhức hơn. Nhưng, ngồi mãi hai chân mỏi rừ trong cùm. Tôi rũ rượi dựa vào tường, cố gắng chịu đựng cơn đau, cái mỏi. Đột nhiên, có tiếng đập cửa ầm ầm của một buồng nào đó, rồi im lặng. Chừng một phút sau đập nữa, mấy lần như vậy. Tiếng chân của tên Chiến từ phía ngoài vừa đi vào, vừa quát: - Buồng nào làm cái gì vậy? Một giọng nói như gào: - Tôi ở xà lim đã ba tháng rồi! Hơn một tháng nay không thấy gọi hỏi gì tôi cả. Đề nghị cho tôi gặp chấp pháp để xem sự việc của tôi như thế nào? Ngày nào cũng để tôi thế này, chịu sao được! À ra buồng số 10, dẫy đối diện với tôi, ở phía trong. Giọng tên Chiến chắc đanh: - Câm ngay cái mồm! Anh muốn gặp chấp pháp, phải nghiêm túc đề nghị, không được làm ầm xà lim! Lần sau, tôi cùm cổ anh lại! Giọng số 10, bỗng dưng, như nức nở: - Xin cán bộ cho tôi gặp chấp pháp. Tôi sợ lắm rồi! Suốt ngày ngồi trong cái buồng con một mình thế này, tôi điên mất! Tên Chiến dịu giọng: - Được rồi, nằm im đi, tôi sẽ phản ánh cho! Tôi chẳng hiểu buồng số 10 tội gì. Không bị cùm, mà còn như thế! Qua tiếng nói, tôi đoán chắc khoảng 25, 30 tuổi. Xà lim lại trở về im ắng, chỉ còn tiếng rên ư ử phía trong, không rõ là buồng nào. Tôi vào xà lim I đến nay đã ba, bốn tháng rồi, từ lúc mới vào tôi chỉ nghĩ đến cái chết nên chẳng còn tâm trí đâu mà để ý đến các buồng khác ở chung quanh, như hồi còn ở xà lim II và III. Hàng ngày, bao nhiêu chuyện xảy ra trong cái xà lim nhiều buồng như thế này, tôi cũng chả cần biết. Vì vậy, vào đây đã lâu, tôi vẫn chưa biết gì, dù là khái niệm về các buồng. Ngay bây giờ đây, ngoài hai cái chân trong cùm nhức mỏi, tôi còn phải ôm đầu để chống đỡ với cơn đau từng chập. Đêm đã khuya, thế mà tôi vẫn chưa dám nằm. Đầu đã đau như búa bổ, nhưng óc vẫn cứ suy nghĩ đầy vơi hết chuyện này, chuyện kia của cuộc đời. Người ta nói rằng: “Sầu héo!” Nghĩa là khi sầu, người ta sẽ kém ăn, ít ngủ, người sẽ gầy đi, teo lại, cho nên mới bảo là sầu héo chăng? Một ý nghĩ buồn cười chợt đến trong óc tôi: Nếu ai sầu buồn thì thở ra khói đen. Nếu người nào càng sầu nhiều, khói càng nhiều, càng đen. Miền Bắc này, chắc luôn luôn ngày đêm sẽ bị khói đen bao phủ. Nhất là Hỏa Lò khói sẽ đen kịt, sẽ phải đốt đèn điện ngày đêm, may ra mới thấy đường đi!... Sáng hôm sau, mới gần tới giờ làm việc, cán bộ chưa mở cửa các buồng cho đổ bô, tên Điền coi nhà tiếp tế vào gọi tôi đi cung. Đã khá lâu, gần một tháng rồi, không gọi. Hôm nay không biết có chuyện gì? Ra tới phòng cung, tôi thấy hai tên Đức và Thành. Cả hai nhìn tôi chằm chằm, nhất là cổ tôi bây giờ vẫn còn một vết thâm nâu chung quanh. Tôi đoán mau như vậy, bởi vì vừa đây, trên đường đi cung qua một cài hè trước một phòng khách có cánh cửa kính, tình cờ hôm nay mở ra, thoáng nhìn qua tấm kính, tôi đã bần thần ngạc nhiên không thể ngờ được con người trong kính lại là tôi. Thật là kinh khủng! Cùm kẹp, khổ đau và lo lắng cung kẹo đã tàn phá con người tôi đến thế. Đồng thời, tôi cũng chú ý đến cái cổ của tôi, mặc dù chín ngày rồi, vết thân vẫn còn. Tên Thành chỉ ghế dịu giọng: - Anh ngồi đi! Lâu rồi, chúng tôi không gặp anh. Dạo này anh có khỏe không? Vẫn chỉ là một câu hỏi xã giao lấy lệ như mọi khi của chúng. Cũng như những lần trước, tôi cúi đầu dè dặt: - Dạ, tôi vẫn đều đều!..... Tên Đức, từ nãy lúi húi mở cặp hồ sơ, rút ra một số giấy tờ, bây giờ y mới lên tiếng: - Lâu nay, anh có theo dõi đài không? Phải nói, ít lâu nay, tâm trí tôi cứ lẩn quẩn ngày đêm với những ý nghĩ của người sắp lìa bỏ cõi đời, nên chuyện gì tôi cũng không cần biết nữa. Phần khác, 4 cái loa to ở xa mãi giữa sân trại chung, chĩa ra 4 dẫy buồng chung quanh, nên trong xà lim chỉ nghe loáng thoáng. Thêm nữa, là buồng số 3 của tôi lại nằm mãi phía trong, càng khó nghe hơn. Dù vậy, tôi vẫn trả lời: - Thưa ông, tai tôi dạo này nghe rất kém, nên không rõ! Tên Đức ngần ngừ một lúc, rồi hỏi: - Vậy anh có biết hiện nay, ở miền Nam đang đảo chính xoành xoạch không? Tôi biết là y chỉ muốn làm ruỗng nát thêm lòng tôi ra, nên tôi trả lời cộc lốc: - Không ạ! Những câu hỏi bâng quơ từ nãy tới giờ chỉ là mở đề, lúc này với vẻ mặt lạnh lùng, tên Đức bất chợt hỏi - Khi anh ra Hà Nội, anh thường ra đền Ngọc Sơn để làm gì? Tôi hơi điếng người. Có vấn đề liên quan đến tài liệu “M” rồi chăng? Dù không nhìn thẳng, tôi cũng biết chúng đang theo dõi nét mặt của tôi. Tôi vẫn bình thản, và để thăm dò, tôi trả lời: - Thưa các ông, như tôi đã viết và trình bày nhiều lần trước đây, Hà Nội nói chung, và riêng đền Ngọc Sơn không những là một thắng cảnh nổi tiếng của đất nước, đối với riêng tôi, nơi đó còn mang nhiều kỷ niệm của buổi ấu thời, nên tôi thường ra thăm lại. Tên Đức đứng bật dậy, giơ tay chặn không cho tôi nói nữa, y quắc mắc: - Anh đừng dùng luận điệu cũ rích đó nữa! Tôi nói cho anh biết: Anh đã ra đền Ngọc Sơn để liên lạc với một cô gái! Hiện nay, chúng tôi đã nắm được đầy đủ vấn đề. Vậy, dù anh có không nói ra, cũng không được nữa đâu! Do đó, khôn hồn anh hãy khai rõ mọi chi tiết. Bây giờ, đừng trách gì chúng tôi nữa! Tôi thấy tim mình tưởng chừng như thắt lại. Nghe từng lời, từng ý nó nói, óc tôi suy nghĩ rất nhanh, và nét mặt vẫn không biến đổi. Tới bây giờ đã gần hai năm rồi, phải chăng đường giây “M” hoạt động, chúng đã “vồ” được? Nếu không, tại sao mãi tới bây giờ chúng mới hỏi? Nhưng, tại sao chúng chỉ nói đến đền Ngọc Sơn, mà không nói đến vườn hoa “Con Cóc”? Như vậy, nếu sự việc liên quan tới tài liệu “M”, có thể hiểu theo hai chiều hướng: 1) Do từ Sài Gòn. Nhưng, Sài Gòn không thể biết tôi giao tài liệu ở đâu. Chỉ biết nơi gặp đã được chỉ định là trên cầu Thê Húc. 2) Do đường giây “M”. Bây giờ bị chúng “vồ” được rồi, đường giây “M” đã phải khai báo ra. Nhưng nếu đã khai gặp ở đền Ngọc Sơn, sẽ phải khai nhận tài liệu ở vườn hoa “Con Cóc”, chứ ở đền Ngọc Sơn không có gì cả. Cuối cùng, để biết rõ thêm ý chúng, tôi trả lời, mắt giả vờ mở to ngạc nhiên: - Các ông làm tôi thật ngạc nhiên, tôi không hề nói chuyện với một cô gái nào trong đền Ngọc Sơn cả! Tên Đức quắc mắt, gầm lên, đập mạnh tay xuống bàn: - Đến giờ phút này, anh còn ngoan cố như thế! Vậy anh có lợi dụng mấy đứa trẻ con để gặp cô gái ấy không? Tên Thành từ nãy vẫn ngồi yên, bây giờ cũng gắt: - Anh Bình! Anh phải biết điều. Anh không khai thật ra, những hình phạt đau đớn sẽ đến với anh ngay sau đây! Anh sẽ hối không kịp! Trong khi chúng quát nạt, óc tôi cứ nghĩ tiếp. Dứt khoát không phải do người của chúng nằm trong Cục ở Sài Gòn rồi. Bởi vì, nếu đã biết một, thì phải biết hai, có khi phải biết cả ba là khác. Nghĩa là nếu đã biết tài liệu “M”, phải biết tài liệu “X”, hoặc 3 lá thư của Linh Mục Hoàng Quỳnh. Khichúng quát tháo xong, tôi đã rõ nguyên nhân rồi. Thì ra là thế! Tôi cảm thấy người nhẹ nhõm hẳn lên. Nếu tôi không bình tĩnh và tỉnh táo tính toán, tôi có khi đã “không khảo mà xưng rồi!” Suýt nữa!...Tôi đã tưởng phen này chắc chết với chúng. Thật là hú vía! Vì thế, làm như chợt nhớ ra, tôi tươi mặt ngửng lên: - Trời ơi! Tôi nhớ ra rồi, các ông đa nghi thật. Phải nói đó là một chị phụ nữ, chứ không phải là một cô gái. Hôm đó…tôi không còn nhớ ngày nào; tôi ra đền Ngọc Sơn chơi như mọi khi. Ngồi nhìn mấy em nô đùa, đuổi nhau. Các em vui đùa, nhưng các em lại dùng những câu rất tục tĩu, tôi nghĩ ngay người lớn cũng ít khi nói những câu này…Lúc đó, một chị cũng ở gần đấy mới tiến lại chỗ các em, chị nói là chị mới ở quê ra Hà Nội. Chị khuyên các em không nên nói tục bậy bạ, ví các em là cháu ngoan Bác Hồ, là mầm non của Đảng vĩ đại, đang ra sức vun trồng, là thiếu nhi Thủ Đô, lá cờ đầu vẻ vang của cả nước v.v… Nhưng không ngờ, có thể vì thấy chị là phụ nữ, lại là một phụ nữ quê mùa nên các em đã chửi lại, thậm chí chúng còn lấy những cục đá con ném chị nữa… Tôi thấy chị đó có ý thức tốt đối với xã hội, nên tôi đã đứng lên nghiêm giọng mắng các em… Phải nói, tôi và chị ấy cũng không hề nói chuyện với nhau… và tôi cũng không hề biết tên chị là gì. Tên Đức và Thành nghe tôi nói như vậy có vẻ bớt nóng, nhưng tên Đức vẫn còn khẳng quyết: - Anh đã lợi dụng lúc ấy để trao tài liệu cho chị ta! Câu nói của y càng làm sự việc sáng tỏ. Do đó, tôi cũng bình tĩnh khẳng định: - Tôi không biết vì sao các ông lại biết được sự việc ấy. Trước đây, những chuyện như vậy, cũng như hàng nghìn việc của một người, một ngày đi ra phố đã gặp, tôi kể với các ông làm gì. Nếu hôm nay các ông không nhắc đến, tôi cũng quên luôn. Vì vậy, tôi xin đoan quyết là: Tôi không hề nói chuyện hay đưa bất cứ một cái gì cho chị ta. Các ông đã biết rõ, các ông cứ điều tra, nếu tôi sai, tôi xin chịu hình phạt nặng nhất của nhà nước. Tên Đức vẫn nạt nộ: - Anh đừng già mồm nữa, anh tưởng chúng tôi không biết à! Anh ra miền Bắc, bất cứ anh làm cái gì chúng tôi cũng biết hết. Anh đi những đâu, làm cái gì, anh tưởng chúng tôi là mộc đấy à? Thấy y nói như vậy, để đánh một đòn sâu hơn nữa, tôi cười nói: - Vâng, bây giờ các ông đã biết hết rồi. Bởi vì, ngay từ khi tôi bị bắt, tôi đã thành khẩn khai chi tiết mọi sự thật rồi. Y lại quát to hơn: - Anh không khai chúng tôi cũng đã biết, anh hiểu không? Tôi vẫn cười, nhìn y bằng ánh mắt không tin. Trong khi đó, tôi suy đoán: Tại sao cho đến bây giờ, chúng mới hỏi tôi sự việc ấy. Điều tôi thấy trước mắt là, cho đến bây giờ, vụ án của tôi chúng vẫn chưa tin, chúng vẫn còn đang điều tra. Còn để trả lời câu hỏi trên, vì chỉ đứng một phía cho nên thiếu cơ sở cụ thể, do đó tôi chỉ dám nói có thể ở mấy điểm sau đây: Chúng chưa thỏa mãn về vụ án của tôi, nên chúng phải nghiên cứu lại toàn bộ vấn đề. Từng ngóc ngách, từng khía cạnh, đều phải rà lại; trong đó, chúng cũng nghiên cứu chi tiết lại toàn bộ những bản tường thuật báo cáo của những tên đã theo dõi tôi. Rồi để thẩm tra lại, chúng gọi tôi lên, và để đè chừng bắt bóng, chúng cứ khẳng quyết như sự thật là vậy, rồi xem thái độ của tôi ra sao. Như vậy, tôi chẳng có gì lo lắng nữa, vì thực sự tôi chẳng liên quan cóc khô gì với chị đó cả. Tên Thành nhìn tôi một lúc, rồi đột nhiên hỏi: - Anh muốn tự tử để theo chân Ngô Đình Diệm phải không? Anh định tự tử để chôn chặt sự bí mật của anh à? Tôi tỏ nét mặt buồn buồn, rồi trả lời như tôi đã viết trong tờ kiểm điểm. Tên Thành cười, nói như khích: - Tôi không tin như anh nói. Anh là một người khôn ngoan, lại có chí, anh sẽ không tự tử vì sự khổ cực của giam giữ. Tôi cũng cười: - Thưa ông, tôi có chí quái gì đâu. Bất cứ lúc nào tôi cũng không thiết cuộc sống này. Ngay bây giờ đây, tôi cũng không muốn sống nữa. Tên Đức thấy cứ nói những chuyện không đâu, hơn nữa cũng gần hết giờ, nên nói: - Thôi, cho anh về suy nghĩ để khai rõ sự việc của anh với chị phụ nữ đó trong đền Ngọc Sơn. Tôi đứng lên, nhưng nói một cách khẳng quyết: - Thưa ông, tôi không có gì để suy nghĩ nữa. Chuyện đơn giản như thế, tôi đã thưa rõ rồi! Trên đường về xà lim, lòng tôi trĩu nặng ưu tư, như vậy, vụ án của tôi vẫn chưa ổn. Chúng vẫn còn chưa tin, Vậy, với điều kiện có thể, một mặt chúng sẽ tăng cường nhiều biện pháp, thủ đoạn để khai thác tôi; mặt khác, chúng chỉ thị cho những bộ phận của chúng nằm vùng ở miền Nam tìm tòi những gì có liên quan, dính dáng đến tôi, để hòng làm sáng tỏ vụ án. Chỉ còn mong một điều, một điều không may cho tôi là tôi đã bị chúng phát hiện ngay ngày thứ 3, khi vừa tới Hà Nội. Nhưng, chính từ điểm bất lợi có tính cách quyết định này, mặt trái của sự việc ấy cũng có một điều lợi nhỏ cho tôi: Vì chúng đã theo dõi mọi hành động, đường đi nước bước của tôi từ những ngày đầu này, nên chúng rồi sẽ có thể tin được là tôi đã “không làm gì”, đúng như “lời tôi đã khai báo”. Tôi đã tự phân tích để xác định vấn đề theo chiều hướng như thế, và….. điều đó cũng làm cho bệnh đau óc của tôi càng trầm trọng thêm. Ngay chiều hôm ấy, có tiếng khóa loạch xoạch mở cửa buồng, tôi nhìn ra, một người chừng 30 tuổi ôm một túm bọc chăn màn lách cửa bước vào. Phía ngoài cửa buồng, tên Chiến nói với người mới: - Anh hãy để chăn màn, quần áo của anh ở sàn bên này. Ra đi cung đã! Anh đó ngơ ngác đặt bọc quần áo xuống, liếc nhìn hai chân của tôi đang trong cùm, rồi vội vàng ra theo tên Chiến. Cửa đóng rồi, tôi nhìn thoáng sang bọc chăn màn. Vì lúng lúng vội vàng, anh đó đã để tung tóe cả ra. Tôi thấy rất nhiều bao diêm và thuốc lào, vài khúc bánh mì nhỏ, mấy cái keo giấy…..Nhưng, thuốc lào và bao diêm đã thu hút hết tâm trí của tôi rồi. Tôi cũng băn khoăn chẳng hiểu anh này tội gì, vừa vào đã bị gọi đi cung ngay? Một mặt, có người vào nằm thêm với mình, cũng đỡ buồn. Nhưng mặt khác, trong trường hợp tôi đang bị cùm hai chân, những buổi cơm nước, đổ bô, tôi sẽ không được mở cùm nữa. Như vậy, hai cái chân không được cử động, sẽ càng chóng bị liệt. Gần hết giờ làm việc, cửa mở, anh đó đi cung về. Khi nãy, lúc tôi ra lấy cơm, tên Chiến bảo tôi lấy một gáo dừa nữa múc nước và cầm thêm một suất cơm vào cho anh mới. Vì vậy, suất cơm của anh tôi vẫn để ở cuối chỗ cái cùm bên phía sàn của anh. Sau khi cửa đóng, vì tôi đã có kinh nghiệm, nên bảo anh, khi thấy anh quay lại lúi húi định sắp xếp các thứ: - Anh hãy ăn cơm đã. 15 phút nữa, cán bộ sẽ mở cửa bắt trả bát ngay! Anh quay lại nhìn tôi, dáng vừa ngỡ ngàng lại vừa buồn buồn, hai mắt cứ mở to nhìn hai cái chân của tôi trong cùm: - Tôi mệt lắm, không muốn ăn! Tôi hiểu ngay, anh mới bị bắt, đầu óc còn đang căng thẳng đầy lo lắng, còn bụng dạ thiết đến ăn uống, nhất lại là cơm tù. Trong khi ấy, bụng tôi vẫn đói, ăn cho đã bây giờ phải 3 suất! Nhưng, do lòng tự trọng, làm sao tôi dám mở miệng nói “để tôi ăn cho” được. Anh nhìn chân tôi, có vẻ băn khoăn hỏi: - Anh làm sao mà bị cùm thế? Thấy anh chả hiểu được tình tiết, nên tôi chỉ trả lời đơn giản: - Tôi bị kỷ luật! Tôi hỏi lại anh ngay: - Anh bị bắt bao giờ? - Một tuần rồi! Tôi ngạc nhiên: - Thế mấy ngày trước, anh bị giam ở đâu? - Buồng số 9 ở ngoài trại chung! - Bị bắt về tội gì? - Tôi lái xe khách, đường Tây Bắc, chở hàng lậu. Như vậy, anh này bị tôi hình sự. Vậy, tại sao phải vào xà lim? Tôi tỏ vẻ tình cảm, hỏi anh: - Tội hình sự ít vào xà lim lắm. Vậy, đang ở trại chung, vì sao anh lại phải dọn vào đây? Nét mặt anh cũng đăm chiêu: - Tôi cũng chẳng hiểu sao nữa. Từ hôm tôi bị bắt vào, mới đi cung 3 lần. Xe tôi chỉ chở có 5 ký chè búp, có khi phải bị từ 3 tới 6 tháng. Anh vẫn cứ nhìn hai cái chân tôi: - Anh bị bắt về tội gì, cùm ghê thế? Tôi đã suy đoán được vấn đề. Chắc hẳn là chúng sợ tôi lại tìm cách tự tử nếu để tôi một mình. Những tội chính trị khác cho vào giam với tôi, chúng xét thây không có lợi. Cho nên, mang một anh hình sự vào nằm với tôi một thời gian, vô thuởng vô phạt. Như thế, anh này chắc cũng chẳng ở lâu với tôi. Nghĩ vậy, tôi trả lời: - Tôi là giáo viên trường Phổ Thông Cấp II ở Phủ Lý. Tôi theo tư tưởng “xét lại”. Anh cười hồn nhiên, vẻ vô tâm: - Các anh làm chính trị ghê nhỉ! Rồi như anh chẳng quan tâm đến vấn đề “chính chị, chính em”, anh nhìn suốt sàn tôi một lượt rồi hỏi: - Anh có hút thuốc lào không? - Cũng có hút chút ít, nhưng tôi chưa có gia đình tiếp tế! Anh vồn vã, tự nhiên: - Ồ, thuốc lào tôi thiếu gì! Anh hút phè ra thì thôi! Vừa nói, anh vừa kéo ra một buộc 5 gói thuốc lào…Qua một lúc chuyện trò, tôi thấy anh kiến thức hạn hẹp, nhưng ở anh, thể hiện ra là một con người khinh bạc, giang hồ, vì thế tôi cũng tự nhiên: - Tôi thấy anh có điếu đâu? - Sẽ làm, có ngay! Làm bằng bao diêm, có cơm dán rồi. Giữa lúc ấy, cửa mở. Tôi biết là phải trả bát. Bát cơm vẫn để nguyên, anh ta không ăn. Tôi vội giở cái quần đùi rách ra, nói: - Anh hãy đổ suất cơm vào đây: đem trả, phí đi, vừa để tôi ăn, vừa dán điếu! Anh đó, tên Đà, vừa đổ bát cơm vào chiếc quần lót rách tôi đang giơ ra, vừa trách tôi: - Thế mà từ nãy anh không ăn. Tôi cũng quên không mời, không biết anh đói. Lúc trưa, tôi “quất” 3 cái bánh chưng con với khúc bánh mì, bây giờ hãy còn no. Trả bát xong, anh vào, lúi húi lấy hộp thuốc đánh răng bằng nhôm. Anh dùng tay bóp phía đầu ra, rồi chỉ bằng cái đầu cán bàn chải đánh răng, anh hì hục, loay hoay. Có lúc anh mài mài xuống sàn xi măng. Chỉ một lúc sau, đã có một chiếc nõ điếu bằn nhôm con con, xinh xắn. Anh lấy ra 3 bao diêm không. Anh dùng những tờ giấy bàn gói thuốc lào, phết bánh chưng dán 3 bao diêm vào với nhau để làm thân điếu. Vừa miệt mài làm, anh vừa chuyện trò với tôi. Với thái độ lính tráng, bụi đời, anh vất sang tôi hai cái bánh: - Đừng ăn cơm nguội đó nữa. Ăn mấy chiếc bánh này này! Thấy anh chỉ có ba, bốn cái bánh; hơn nữa, rồi đây anh sẽ đói, nên tôi xua tay: - Đừng phí phạm như vậy, anh Đà ạ! Còn dài ngày, rồi đây anh sẽ đói nhiều. Tôi ăn chỗ cơm này, tốt chán rồi! Tôi ném trả lại cho anh 2 cái bánh. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, anh đã làm xong cái điếu vuông vắn, rất xinh. Anh “bắn” điếu thuốc đầu tiên với nét mặt thỏa mãn, say sưa. Rồi, anh đưa điếu, diêm và thuốc sang cho tôi. Điếu kiểu này, hút hơi khó khăn, vậy mà tôi cũng say đáo để. Phải nói, đêm hôm đó tình cờ lại có thêm suất cơm, tôi ăn xong rồi nằm nghe cái bụng trổi lên những khúc nhạc đê mê, dịu dàng, êm tai. Con tì, con vị cũng rủ nhau tham gia vào buổi “dạ vũ” độc nhất vô nhị từ gần hai năm nay này. Mà quái, cái đầu của tôi hôm nay cũng như hưởng ứng ít nhiều với cuộc vui đó, vì thấy đỡ nhức hẳn đi… Những ngày sau đó, qua những lúc trao đổi, chuyện trò, tôi hiểu được sơ sơ về anh. Anh đã đi bộ đội, và đã phục viên được 4 năm nay. Nhờ chạy vạy, xoay sở mạnh nên anh được lái xe đường trường cùng Tây Bắc. Anh có vợ và hai con. Theo anh, trên miền Bắc hiện nay, nghề lái xe khách đường dài là dễ kiếm ăn nhất, và nhất là nếu lại biết cách “móc ngoặc” với khách. Thỉnh thoảng chở giấu hàng lậu cho khách như chè, gạo, v.v… thì cũng kiếm ăn ra trò. Anh có khả năng kiếm ăn giỏi, nên tính anh rất rộng rãi, lính tráng, khác hẳn với tên Hoàn, tên Tân và cả anh Hoàng Hùng. This post has been edited by Violet: Jun 5 2008, 08:57 PM |
|
|
![]()
Post
#47
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Lăm
Chuyển biến tinh thần... Một điều thật phấn chấn trong lòng tôi! Đúng 7 ngày sau khi bị cùm hai chân, hôm đó vào sáng thứ Ba, tôi đang nằm bơi lội trong nỗi sầu khổ đau vì hai cái chân mỏi nhức trong cùm, với cái đầu cứ cắn buốt từng cơn, bổng cửa buồng xịch mở. Tên Chiến bước vào, trước 4 con mắt mở to của tôi và anh Đà, không biết có chuyện gì với người nào trong chúng tôi. Tên Chiến nhìn tôi, vẻ trịnh trọng: - Hôm nay, lệnh ban giám thị chỉ cùm anh một chân! Tôi thấy như truyền vào cơ thể một nguồn sinh lực, vội vàng nhấc cùm và nhấc chân ra. Tôi ôm cái bô, cùng anh Đà đi vào nhà tắm. Trên đường đi, nhìn thoáng mặt tên Chiến, hôm nay tôi thấy mặt y trông thật dễ coi; hai con mắt y đăm đăm nhấp nháy nhìn tôi nhơn nhơn với cái vẻ như vừa ban ân huệ cho một người cùng khổ. Từ nay, chỉ phải cùm một chân, tôi nằm ngồi sẽ bớt được trăm phần khó khăn. Chỉ còn cái đầu, vẫn ngày đêm hành hạ tôi, như Phật Bà Quan Âm hành ông Tề Thiên Đại Thánh ngày xưa! Những ngày sau đó, đầu tôi càng cắn nhức, nhiều lúc như muốn điên lên. Trước kia, thỉnh thoảng một tháng, có khi đôi ba tháng, tôi mới bị nhức đầu một lần. Tôi chỉ ngậm 1 viên Aspirine, hay Aspro, tan hết viên thuốc là khỏi. Nhưng, từ sau ngày tôi thắt cổ không chết, hậu quả đến với tôi là chứng bệnh quái ác này. Tôi cứ nằm miên man, có vẫn không ngừng nghĩ suy vơi đầy. Tôi nhìn, rồi suy ngẫm, biết bao nhiêu gian khổ từ ngày tôi bị bắt. Biết bao nhiêu lần tôi sát nách với cái chết chỉ trong tấc gang. Giòng suy tư về những chìm nổi của kiếp người, cứ chảy dài trong tâm tưởng tôi. Từ những thực tiễn đau thuơng, tôi thấy rằng: Đời một con người chỉ là một chuỗi dài những con dấu cộng giữa những giai đoạn thuận tiện và khó khăn. Khi ở giai đoạn thuận tiện, con người hớn hở, vui tươi, nụ cười không tắt trên môi. Ngược lại, khi ở giai đoạn khó khăn, mặt mày sầu héo khóc lóc, than van, oán trời, oán đất. Vậy, sự sầu héo, đau thuơng, rên rỉ này có thể thay đổi cái công thức của một đời người trên, trở thành chỉ là những giai đoạn thuận tiện được hay không? Hỏi là trả lời. Ai cũng thấy là không thể được, trừ phi không phải là người. Như vậy, sự sầu héo, rên rỉ đó đã không giải quyết được gì, còn mang một cái hại, tùy theo mức độ. Trước nhất, khi anh sầu héo, chán nản, anh sẽ bi quan, tiêu cực mọi mặt trong cuộc sống. Mặt mày ủ dột như thần sầu. Ngay ngồi lên nằm xuống cũng chán chường, chậm chạp, nhìn đâu cũng thấy một mầu xám úa. Suốt ngày đêm chỉ thở vắn than dài, thì trí óc còn làm sao thoải mái khôn ngoan, minh mẫn để hòng tìm ra một phương cách cải tiến từ giai đoạn khó khăn sang thuận tiện? Huống chi, đã xông vào miền bão tố, vùng lửa đạn để chiến đấu. “Ngay những ai kia, đã chiến thắng mà không từng chiến bại? Ai khoe khôn, mà đã chẳng từng bị dại, đôi ba lần?” Tôi đã sai lầm, sai lầm trầm trọng gần hai năm nay, cứ ngày đêm rên rỉ ngụp lặn trong biển sầu. Cuối cùng, không những tôi không giải quyết được vấn đề, mà còn đa mang thêm những di hại nữa. Phải dũng cảm chấp nhận mọi thương đau trên đường đi tới: Trên đường đi, nhiều cay đắng âm thầm, Hãy nhận lấy để dồn vào………sâu kín! Bằng xuơng, bắng máu, tôi mới rút ra một thực tế: Không được phép chán cuộc sống này, bao giờ cũng phải trang bị tư tưởng lạc quan tích cực cho mình. Tôi nhớ đến một câu danh ngôn của Pháp, nhưng không nhớ tên tác giả: “Quand on n’a pas ce que l’on aime; il faut aimer ce que l’on a!”(*). Bây giờ tôi có cái gì? Ngày 2 bữa cơm ngon tuyệt vời. Mỗi bữa cơm, cứ thấp thỏm đợi chờ, mong ngóng. Rồi khi được hưởng thụ, có cái sướng vập vồ, khao khát mà khi còn ở ngoài đời, một bữa ăn sang nhất cũng không thú bằng, sướng bằng. {(*) Khi mình không có cái mình thích, thì hãy thích cái mình có}. Bởi vì trong thực tế, hạnh phúc của cuộc đời có cái tiêu chuẩn quái náo đâu. Cho nên, người xưa đã rút ra: “Tri túc, tiễn túc, đãi túc hà thời túc, Tri nhàn, tiễn nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn”. Và, tôi cũng xin làm theo cụ Nguyễn Công Trứ. Theo sách sử, mãi tới năm 42 tuổi, cụ mới thành đạt. Còn trước đó, cụ đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, gian nan, nghèo túng. Với “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch”…..Trong những giai đoạn này, ngoài những giờ nhào nặn văn chương để chuẩn bị cho ngày tới, cụ phải tự tạo cho mình những cái cụ chưa có thể có, bằng cách tìm một lối thoát cho tinh thần. Nghĩa là siêu thoát, để quên cái thực tại bần hàn. Tóm lại, nếu không có cái mình thích, hãy thích những cái mình có. Cái “có” của tôi trong cảnh này tuy cũng có, nhưng có phần hạn hẹp, tôi phải tạo nên “cái” tôi chưa có vậy. Do đó, tôi thả hồn bay khắp phương trời, tha hồ theo ý muốn; và tôi vẫn nhởn nhơ nhìn tụi cộng sản. “Mày bắt đượcTrước nhất, khi anh sầu héo, chán nản, anh sẽ bi quan, tiêu cực mọi mặt trong cuộc sống. Mặt mày ủ dột như thần sầu. Ngay ngồi lên nằm xuống cũng chán chường, chậm chạp, nhìn đâu cũng thấy một mầu xám úa. Suốt ngày đêm chỉ thở vắn than dài, thì trí óc còn làm sao thoải mái khôn ngoan, minh mẫn để hòng tìm ra một phương cách cải tiến từ giai đoạn khó khăn sang thuận tiện? Huống chi, đã xông vào miền bão tố, vùng lửa đạn để chiến đấu. “Ngay những ai kia, đã chiến thắng mà không từng chiến bại? Ai khoe khôn, mà đã chẳng từng bị dại, đôi ba lần?” Tôi đã sai lầm, sai lầm trầm trọng gần hai năm nay, cứ ngày đêm rên rỉ ngụp lặn trong biển sầu. Cuối cùng, không những tôi không giải quyết được vấn đề, mà còn đa mang thêm những di hại nữa. Phải dũng cảm chấp nhận mọi thương đau trên đường đi tới: Trên đường đi, nhiều cay đắng âm thầm, Hãy nhận lấy để dồn vào………sâu kín! Bằng xuơng, bắng máu, tôi mới rút ra một thực tế: Không được phép chán cuộc sống này, bao giờ cũng phải trang bị tư tưởng lạc quan tích cực cho mình. Tôi nhớ đến một câu danh ngôn của Pháp, nhưng không nhớ tên tác giả: “Quand on n’a pas ce que l’on aime; il faut aimer ce que l’on a!”(*). Bây giờ tôi có cái gì? Ngày 2 bữa cơm ngon tuyệt vời. Mỗi bữa cơm, cứ thấp thỏm đợi chờ, mong ngóng. Rồi khi được hưởng thụ, có cái sướng vập vồ, khao khát mà khi còn ở ngoài đời, một bữa ăn sang nhất cũng không thú bằng, sướng bằng. {(*) Khi mình không có cái mình thích, thì hãy thích cái mình có}. Bởi vì trong thực tế, hạnh phúc của cuộc đời có cái tiêu chuẩn quái náo đâu. Cho nên, người xưa đã rút ra: “Tri túc, tiễn túc, đãi túc hà thời túc, Tri nhàn, tiễn nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn”. Và, tôi cũng xin làm theo cụ Nguyễn Công Trứ. Theo sách sử, mãi tới năm 42 tuổi, cụ mới thành đạt. Còn trước đó, cụ đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, gian nan, nghèo túng. Với “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch”…..Trong những giai đoạn này, ngoài những giờ nhào nặn văn chương để chuẩn bị cho ngày tới, cụ phải tự tạo cho mình những cái cụ chưa có thể có, bằng cách tìm một lối thoát cho tinh thần. Nghĩa là siêu thoát, để quên cái thực tại bần hàn. Tóm lại, nếu không có cái mình thích, hãy thích những cái mình có. Cái “có” của tôi trong cảnh này tuy cũng có, nhưng có phần hạn hẹp, tôi phải tạo nên “cái” tôi chưa có vậy. Do đó, tôi thả hồn bay khắp phương trời, tha hồ theo ý muốn; và tôi vẫn nhởn nhơ nhìn tụi cộng sản. “Mày bắt được tao, mày giam tao, cùm tao, nhưng đố tụi mày giam cùm được tư tưởng của táo đấy” Một quan điểm nữa. Tôi nhớ đến một câu trứ danh của Madame de Maintenon: “Nếu khi nào anh bị đau khổ, bất hạnh, liều thuốc thần tuyệt vời để chữa khỏi, là anh hãy chỉ nghĩ đến những người đang khổ đau, bất hạnh hơn anh!”. (Quand vous vous trouvez malheureux, songez aux plus malheureux que vous; c’est un remède qu’est infaillible!). Theo quan điểm của tôi, những tư tưởng thuộc loại “Hoa Thơm Cỏ Lạ” của phương Tây và Cổ Học Tinh Hoa của phương Đông đều được rút tỉa ra từ cuộc sống thực tiễn của loài người, qua nhiều thời đại. Tất nhiên, chẳng phải chúng ta chỉ áp dụng nó một cách dập khuôn, cứng ngắc. Mà phải suy lý, phân tích để thích ứng với thực tế, thời đại của chúng ta. Nghĩa là có bổ sung, hoặc sửa đổi đôi chút, nhưng tôi thấy điều này cũng chỉ hạn hữu. Điều quan trọng là ta có áp dụng nghiêm chỉnh hay không mà thôi. Thí dụ: Anh bị cùm một chân, hãy chỉ nghĩ đến người A, người B đang bị cùm hai chân, đến C cụt chân, đến D lòa đôi mắt v.v… Nếu chêm vào đấy, anh nghĩ đến hình ảnh của một người bạn anh đang ở Sài Gòn. Đang đèo một cô gái trên xe vespa Italy phây phây lượn lờ trên phố phường để khoe hương, khoe sắc, tất nhiên hiệu lực sẽ giảm đi. Chỉ có một đêm mầy mò suy nghĩ, sáng hôm sau, tôi nhìn cuộc đời đã thay đổi hẳn, không cón cái mầu xám xịt, héo úa của mọi khi. Tinh thần của tôi được nâng cao rõ rệt. Nhân sinh quan của tôi thay đổi hẳn. Cũng từ đấy, tôi suy nghĩ đến cơ thể của mình. Tôi đang mang cái bệnh đau đầu quái ác này, lại không có thuốc chữa, vậy chính mình phải tự cứu lấy mình. Tôi nghĩ đến phương pháp Dưỡng Sinh (relaxation) của phương Tây, Yoga của Ấn Độ, Đề Khí Vận Công của nghiệp võ, và phương pháp Cốc Đại Phong của Trung Quốc. Tôi rút tỉa những tinh túy nhất, phù hợp với thực tế của cơ thể tôi trong điều kiện này. Tôi cũng lại nhớ đến phương pháp “Long Live” mà một tờ tuần báo Mỹ, đã có công phỏng vấn 100 cụ già nhất, ở khắp nơi trên thế giới (Tất nhiên toàn những cụ trên 100 tuổi cả), rồi đúc kết lại. Câu hỏi chính là: “Vì sao cụ sống lâu như thế?”. Tùy theo chủ quan của mỗi cụ. Các cụ trả lời từ nguyên nhân chính, đến nguyên nhân phụ. Sau đó, tôi trộn lộn tất cả, rồi tự rút ra một phương pháp tạm gọi là “A”, để áp dụng cho chính mình. Tôi cứ áp dụng, rồi lại bổ sung, hoặc sửa chữa, sao cho phải đạt được 3 điểm: - Không mất nhiều thời gian. - Đơn giản, có thể ở đâu và lúc nào cũng làm được. - Hiệu quả cao nhất. Phương pháp “A” chỉ cần từ 15 đến 20 phút mỗi ngày. Nằm thẳng cẳng. Đầu không gối gì, để chân và tay ở tư thế hoàn toàn thoải mái, hơi thở đều đều, từ tốn, mắt nhắm lại. Lúc đó, sẽ thấy một mầu, có thể là mầu xanh, vàng, hồng, đỏ v.v… Dùng ý chí chế ngự sao cho chỉ còn một mầu duy nhất, hiện ra trong óc mình. Như vậy vừa đạt được tinh thần chế ngự mạnh, lại vừa giữ được óc nghỉ ngơi, không một sự việc gì có thể xâm nhập. Những ngày đầu hơi khó khăn, để chế ngự duy nhất một mầu. Nhưng với quyết tâm, sẽ làm được, và dần dần trở thành thói quen. Tôi cứ thực hiện như vậy một cách nghiêm chỉnh. Vì không có đồng hồ, tôi phải nhẩm đếm 300 lần bằng hơi thở, để ước định thời gian tập. Sau này thế nào không biết chứ ngay trước mắt, tập xong, mở mắt ra, tôi cảm thấy tinh thần sảng khoái, mắt sáng ra như sau khi chợp được một giấc ngủ ngon. Còn về mặt tập thể dục. Tôi nghĩ rằng, trên đời này không có một vị thuốc nào, kể cả cao, sâm, nhung…..có thể tốt, bổ bằng thể dục, với điều kiện làm sao cho đúng. Bởi vì, qua thực tiễn cuộc sống, kết hợp với sự suy lý phân tích, ta phải thấy: Ngay cơm gạo là thứ bổ nhất để nuôi sống con người, nhưng nếu ăn quá độ thì không bội thực, cũng làm cho con người mệt mỏi, tức bụng, còn yếu, mệt hơn khi chưa ăn. Tập thể dục, hay tập võ cũng vậy, đừng thấy người ta làm sao, rồi mình cũng làm thế. Cơ thể con người tuy có nhiều cái chung, nhưng cũng có nhiều cái riêng. Về mức độ, lại hoàn toàn khác nhau. Anh A ăn 3 bát cơm, không sao, rất khỏe, nhưng, anh B ăn 3 bát cơm, sẽ khó chịu, muốn bệnh. Anh A cữ 10 lần tạ, khỏe ra, ngực, tay nở nang; anh B muốn cố gắng để cho sức khỏe bằng anh A, nên cũng tập như vậy, da tái lại, gầy đi, nhiều khi còn bị một số chứng bệnh về tim nữa. Từ những suy luận trên, tôi tập một số động tác thể dục thích ứng với cơ thể ngồi tù một chỗ; ăn vừa không đủ no, vừa thiếu chất dinh dưỡng, lại bị cùm một, hoặc hai chân. Một điều nữa, con người sống được là do hai yếu tố chính là thực phẩm và khí trời. Cả hai thứ đều cần thiết và gắn bó với nhau như một chất hữu cơ. Có thứ này mà thiếu thứ kia, con người cũng không sống được. Tuy vậy, về mặt nào đó, không khí cần thiết hơn. Cụ thể, nhịn ăn một vài ngày, không chết; nhưng chỉ cần thiếu không khí trong 10, 20 phút, là đời đi tong! Thế mà, không khí lại vô vàn, vô tận ngay chung quanh ta. Cộng sản chỉ có thể hành người tù về thực phẩm, về cái dạ dầy. Nhưng, về không khí, chúng đành chịu thua. Vậy, tôi phải biết lợi dụng tối đa- Hiệu quả cao nhất. Phương pháp “A” chỉ cần từ 15 đến 20 phút mỗi ngày. Nằm thẳng cẳng. Đầu không gối gì, để chân và tay ở tư thế hoàn toàn thoải mái, hơi thở đều đều, từ tốn, mắt nhắm lại. Lúc đó, sẽ thấy một mầu, có thể là mầu xanh, vàng, hồng, đỏ v.v… Dùng ý chí chế ngự sao cho chỉ còn một mầu duy nhất, hiện ra trong óc mình. Như vậy vừa đạt được tinh thần chế ngự mạnh, lại vừa giữ được óc nghỉ ngơi, không một sự việc gì có thể xâm nhập. Những ngày đầu hơi khó khăn, để chế ngự duy nhất một mầu. Nhưng với quyết tâm, sẽ làm được, và dần dần trở thành thói quen. Tôi cứ thực hiện như vậy một cách nghiêm chỉnh. Vì không có đồng hồ, tôi phải nhẩm đếm 300 lần bằng hơi thở, để ước định thời gian tập. Sau này thế nào không biết chứ ngay trước mắt, tập xong, mở mắt ra, tôi cảm thấy tinh thần sảng khoái, mắt sáng ra như sau khi chợp được một giấc ngủ ngon. Còn về mặt tập thể dục. Tôi nghĩ rằng, trên đời này không có một vị thuốc nào, kể cả cao, sâm, nhung…..có thể tốt, bổ bằng thể dục, với điều kiện làm sao cho đúng. Bởi vì, qua thực tiễn cuộc sống, kết hợp với sự suy lý phân tích, ta phải thấy: Ngay cơm gạo là thứ bổ nhất để nuôi sống con người, nhưng nếu ăn quá độ thì không bội thực, cũng làm cho con người mệt mỏi, tức bụng, còn yếu, mệt hơn khi chưa ăn. Tập thể dục, hay tập võ cũng vậy, đừng thấy người ta làm sao, rồi mình cũng làm thế. Cơ thể con người tuy có nhiều cái chung, nhưng cũng có nhiều cái riêng. Về mức độ, lại hoàn toàn khác nhau. Anh A ăn 3 bát cơm, không sao, rất khỏe, nhưng, anh B ăn 3 bát cơm, sẽ khó chịu, muốn bệnh. Anh A cữ 10 lần tạ, khỏe ra, ngực, tay nở nang; anh B muốn cố gắng để cho sức khỏe bằng anh A, nên cũng tập như vậy, da tái lại, gầy đi, nhiều khi còn bị một số chứng bệnh về tim nữa. Từ những suy luận trên, tôi tập một số động tác thể dục thích ứng với cơ thể ngồi tù một chỗ; ăn vừa không đủ no, vừa thiếu chất dinh dưỡng, lại bị cùm một, hoặc hai chân. Một điều nữa, con người sống được là do hai yếu tố chính là thực phẩm và khí trời. Cả hai thứ đều cần thiết và gắn bó với nhau như một chất hữu cơ. Có thứ này mà thiếu thứ kia, con người cũng không sống được. Tuy vậy, về mặt nào đó, không khí cần thiết hơn. Cụ thể, nhịn ăn một vài ngày, không chết; nhưng chỉ cần thiếu không khí trong 10, 20 phút, là đời đi tong! Thế mà, không khí lại vô vàn, vô tận ngay chung quanh ta. Cộng sản chỉ có thể hành người tù về thực phẩm, về cái dạ dầy. Nhưng, về không khí, chúng đành chịu thua. Vậy, tôi phải biết lợi dụng tối đakhông khí để bù lại phần nào, điều chúng muốn hành tôi về thực phẩm, và những mặt khác của sơ thể. Tôi nhớ lại, khi tôi vào lớp Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, họ đo “pi nhê”. Khi đo vòng ngực, bắt thở hết ra để đo, rồi hít vào thật đầy, đo. Hai lần đo cộng lại chia đôi. Khoảng cách, thở ra hít vào của mỗi người khác nhau. Có người thì 3, 4 hay 5 phân; cá biệt, có anh tới 8, 9 phân. Sự rộng, hẹp này, hoàn toàn không phụ thuộc vào người có ngực nở, to con hay nhỏ con. Người ta gọi khoảng cách đó là khoảng “Sống” của mỗi người. Có người to con, khoảng “Sống” lại nhỏ hơn người bé con. Như vậy, nếu việc gì làm cần sự dẻo dai, bền bỉ, lâu mệt, người có khoảng “Sống” lớn sẽ hơn người có khoảng “Sống” nhỏ. Thí dụ như chạy, hay trèo núi chẳng hạn, nhiều người to con, trông rất “văm”, thế mà chỉ một lúc là phờ râu tôm. Ai cũng biết, phổi con người thở ra thán khí (CO2): khí dơ, có hại; và hít vào là dưỡng khí (O2). Vậy, lá phổi cũng như miếng vải trắng, muốn nhuộm được tốt nhất, phải giặt sạch chất dơ bẩn. Nghĩ như vậy, mỗi buổi sáng, tôi đứng một chân xuống đất, tập một số động tác, và bắt đầu tập thở. Trước hết, tôi thở ra, từ từ, rất dài; hết hơi rồi. Nhưng trong phổi còn thán khí nhưng đọng, chưa ra hết, tôi lại tiếp tục thở ra cho đến khi không còn thở ra được nữa. Bấy giờ, tôi mới hít vào và cố gắng hít thật nhiều cho căng lồng ngực. Để cho các tế bào phổi đủ thời gian tiếp nhận hết dưỡng khí, tôi lại ưỡn ngực, ngưng một, hai giây, rồi mới từ từ thở ra. Cứ như vậy, 10 lần thôi. Điều quan trọng nhất là không cần tập nhiều, (vì tập nhiều thường mất nhiều thời gian nên chóng chán) nhưng phải tập thường xuyên, ngày nào cũng tập. Tất cả chỉ mất 10 hay 15 phút. Tôi thấy cơ thể mình có tiến triển theo chiều hướng tốt. Tinh thần cũng vậy. Thế là tôi nâng quyết tâm, dù thế nào, ngày nào cũng sẽ tập như vậy, như rửa mặt và ăn cơm, cho tới khi chết. Chỉ bỏ tập trong trường hợp bị ốm bịnh, không ăn được cơm. Từ đấy, ngày nào cũng vậy, dù buồn vui, dù gặp bao nhiêu chuyện bất ngờ, căng thẳng, tôi vẫn giữ quyết tâm tập thể dục và một lần làm phương pháp “A”. Thậm chí, có điều kiện nằm không, mỗi ngày tôi làm phương pháp “A” hai lần. Một lần buổi sáng và một lần trước khi đi ngủ. Một điều lợi tôi thấy ngay là trước khi ngủ, tập xong, gối đầu lên gối, chỉ 5, 10 phút là ngủ ngay. Óc không căng thẳng như mọi khi cứ trằn trọc 2, 3 tiếng vẫn không ngủ được. Hơn nữa, tôi thấy bệnh quái ác nhức đầu của mình có vẻ giảm đi, những cơn đau đầu thưa dần. Anh Đà ở buồng tôi chừng hơn 20 ngày… Một hôm, vào buổi chiều, tên Chiến mở cửa bảo anh ôm hết quần áo ra trại chung. Vì chân bị cùm, tôi không thể giúp đỡ dọn với anh, đành rằng trong tù chả có quái gì nhiều, nhưng nó cũng là một hành động tình cảm khi anh đi, và có nhiều hy vọng là…..không bao giờ thấy và gặp lại nhau nữa. Do đó, tôi chỉ ngồi nhìn anh gấp chăn màn, bằng ánh mắt tiễn chào lưu luyến. Trước mặt tên Chiến, anh cầm một gói thuốc lào, cái điếu, và một bao diêm đưa cho tôi: - Anh giữ cái điếu này lại mà hút, tôi được ra trại chung! Tôi xúc động trước tấm lòng của anh, dù vậy, tôi vẫn nói: - Anh mang điếu đi theo để hút, vì đó cũng là kỷ niệm của anh! Anh cười, giọng phớt đời: - Ồ, ngoài trại chung thiếu gì. Anh em đông, nhiều người có. Tên Chiến thò cổ vào quát: - Mau lên, dềnh dàng mãi! Anh ôm bọc chăn màn ra còn ngoái cổ lại: - Anh ở lại khỏe! Cửa đóng rồi, tôi vẫn còn mân mê cái điếu, suy nghĩ mãi về ân tình của một người cùng khổ, tặng cho một người khốn cùng khác. Tôi lại trở về tình trạng ở một mình. Tên Chiến có lẽ hàng ngày quan sát thái độ của tôi, thấy tôi năng nổ lạc quan, không còn ủ rĩ lầm lì, đến độ con ruồi đậu vào mũi cũng không buồn đuổi. Tất nhiên, y đã có báo cáo với cấp trên, và chúng thấy chẳng cần người ở với tôi, kẻo sợ tôi lại tự tử nữa. Ngay chính ánh mắt của y bây giờ, tôi nhìn hàng ngày cũng dường như có chút thiện cảm, không lạnh lùng, ác cảm như trước. Trong những lần ra đổ bô, lấy cơm, trả bát, nhiều lúc bắt gặp ánh mắt của y nhìn tôi với vẻ tò mò. Tôi hơi băn khoăn, không hiểu y có ý định gì đối với tôi, trong khi bản chất của y là một kẻ phớt đời, nói ít mà làm mạnh. Buồng nào tỏ ra ngang bướng, y trị đến nơi. Y nghiêm như vậy nên xà lim rất im lặng. Thỉnh thoảng cũng có vụ tuyệt thực, của một buồng nào đó, y mở cửa, thấy không ra lấy cơm, y chỉ hỏi vì sao không ăn, Tùy theo cách trả lời, nếu người tù tỏ ra không muốn ăn để chết, v.v… Y đóng cửa và nói rằng: - Tôi sẽ không mở cửa buồng anh nữa. Khi nào anh cần ăn, báo cáo tôi! Và, y đã làm như lời nói, không nom, nhìn gì đến nữa. Y vẫn thường nói to với những buồng nào tuyệt thực: - Anh nào muốn chết, cho chết luôn! Y rất ghét thái độ hèn nhát, hoặc nịnh bợ, trong khi hầu như đa số các tên cán bộ khác lại rất thích. |
|
|
![]() ![]()
Post
#48
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Sáu
Mài sắt... nên kim!... Hôm nay là Chủ Nhật. Vào những ngày này, xà lim càng im vắng, vì rất ít khi cán bộ vào gọi buồng nào đi cung. Trời đã vào gần giữa hạ. Không khí hanh khô. Từ những đám rêu xanh ngoài đầu hè, những ẩm mốc (không bao giờ có ánh mặt trời ở các buồng xà lim) bốc lên một mùi nồng nồng, khăn khẳn riêng biệt. Tôi đang ngồi nhìn những nốt muỗi cắn trên tay, chân, mình mẩy và suy nghĩ, phải tìm một cái gì đó để chống đỡ với lũ muỗi này, đột nhiên cửa sổ con mở. Tên Điền thò một ngón tay vào chỉ tôi, giọng cộc lốc: - Đi cung! Rồi y cúi xuống rút chốt cùm, mở cửa lớn. Tôi cũng hơi một chút băn khoăn lẫn ngạc nhiên. Ngay ngày thường, bây giờ thỉnh thoảng chúng mới lại gọi tôi. Còn Chủ Nhật, hầu như từ 7, 8 tháng nay, không bao giờ còn gọi nữa. Vậy sao hôm nay lại gọi bất ngờ như thế này, có chuyện gì đây? Trên đường đi cung, tôi phải đi qua sân trại chung. Cả một cái sân rộng bao la càng làm tăng thêm sự vắng lặng trong ngày Chủ Nhật. Khi đi tới cổng trại chung, bên cạnh xà lim II, nơi ghi dấu một đoạn đời tù, với bao nhiêu gian khổ ngày ấy. Hình ảnh một thân hình da bọc xương, đầy ghẻ lở, hai chân trong cùm, để rồi cuối cùng suýt gặp tử thần, nhưng được may mắn cứu sống. Tôi chợt nghĩ, ở cả 3 xà lim, tôi đều có dịp đến trước ngưỡng cửa nhà…..thần chết, rồi lại trở về. Tử thần chưa đón nhận tôi! Xà lim III, đang đêm đem đi bắn; xà lim II, phải đem xuống bệnh xá để cứu sống; xà lim I, chính tôi đã tìm đến cái chết. Rồi đây, trên đường đời phía trước, còn những gì chờ đợi tôi nữa? Khi tên Điền dẫn tôi qua sân trại chung, quen như mọi khi, tôi rẽ về phía trái, nơi có những phòng tôi thường đi cung, nhưng tên Điền ra hiệu tay về phía phải: - Đi rẽ phía này! Ngay đầu dẫy là một căn phòng lớn, phòng của ban giám thị Hỏa Lò. Tôi hơi ngạc nhiên, khi y ra hiệu bảo tôi vào Ngay từ cửa, tôi thoáng nhìn thấy có 5, 6 người bên trong: Một người đầu hói, tóc đã bạc một nửa, hơi gầy nhưng cao, kính trắng. Áo “vét”, dáng rất nghiêm, lạnh lùng ngồi ở giữa. Bên phải là ông Trì đeo lon Thượng Úy; bên trái là tên Lê, lon Trung Úy. Cả hai đều là Phó Giám Thị. Thái độ hai tên Trì và Lê hôm nay cũng rất trang nghiêm. Còn 2, 3 người nữa ngồi ở ghế bành dài, phía trái buồng, tôi chưa kịp nhìn. Hơi ngỡ ngàng, tôi bước vào. Không khí trong phòng đang yên lặng, tôi mới bước chân qua cửa, bỗng rổn vang lên giọng tên đầu bạc: - Hứ, ừ…ừ! Cặp mắt cứ như…..điện ấy! Tôi biết tất cả những con mắt của chúng đều tập trung vào mình. Tôi tiến đến gần chỗ chiếc ghế đẩu để trước bàn, dành cho người tù, tôi đứng yên. Giọng miền Trung nặng chịch của tên Trì: - Cho anh ngồi! Tôi ngồi xuống, lẳng lặng suy nghĩ, không biết tên già này là ai, y tỏ ra rất tinh quái. Không khí im lặng, nặng nề kéo dài đến 1 phút. Thật là…lâu! Không một tiếng động. Bỗng, giọng tên già lanh lảnh: - Anh Bình! Hãy ngẩng mặt lên nhìn…..tôi! Tôi đường hoàng ngẩng mặt lên, nhìn thẳng vào … mắt y. Lão phải 60 tuổi, hay ngoài, hai mắt sáng long lanh sau cặp kính trắng. Quắc mắt, lão nhìn vào mắt tôi, như thôi miên một lúc, rồi chỉ một ngón tay dài ngoẵng vào mặt tôi, ngoáy ngoáy, quay tròn mấy vòng, giọng rành rọt: - Trong óc anh đang cuộn lên những mưu mô, thủ đoạn chống đối. Chúng đang lộ ra trong mắt anh kia kìa! Anh quay xoắn vào bao nhiêu vòng, rồi sẽ phải mở nó ra bấy nhiêu vòng. Vừa nói, y vừa quay quay ngược lại vòng ngón tay của y, rồi với một giọng như ra lệnh: - Thôi, cho về! Tôi đứng dậy đi ra, theo tên Điền vào xà lim, lòng ấm ức, đầy băn khoăn. Chỉ 10 phút, không hỏi han gì. Như vậy, y là ai? Buổi gặp y ngắn ngủi chỉ 10 phút, nhưng đã ghi hằn nét trong lòng tôi. Cho mãi tới bây giờ, đã 21 năm rồi, hình ảnh buổi Chủ Nhật gặp lão ấy vẫn chưa phai mờ, vẫn như hiện rõ nét trong trí tôi. Giờ đây, chắc lão đã “ngủm” củ kiệu rồi, nhưng tôi vẫn còn không biết lão là ai? Làm gì? Phải nói, trong suốt 18 năm 4 tháng lao tù của tôi, lão là một trong hai tên tinh quái mà tôi về. Về xà lim, suốt buổi chiều và tối hôm ấy, tôi vẫn còn băn khoăn suy nghĩ về buổi gặp lão già, không tên đó mãi. Buổi trưa hôm sau, một buổi trưa nắng hạ gay gắt ngoài trời, trong xà lim ẩm thấp. Bầu không khí như trong trẻo nhè nhẹ vào lòng toi, trong khi tôi lim dim cặp mắt, nằm nghĩ đến…..nhà xí ở buồng tắm. Ngay cạnh lỗ cầu tiều có một thùng gỗ nhỏ, đã mục vì ẩm thấp lâu ngày, đựng những giẻ rách và giấy đi cầu đã dùng rồi. Cầu tiêu này chỉ dành cho cán bộ. Cán bộ nam ít khi vào đây, vì quá xa. Ban tối, tôi thường thấy mấy cán bộ nữ vào nhà tiêu là nhiều. Có thể xà lim I sâu mãi trong này nên im vắng, cho nên cán bộ nữ thường vào tắm rửa. Tất nhiên, tôi chỉ nghe âm thanh để phán đoán. Hơn nưa, những lúc vào đổ bô, liếc nhìn trong thùng gỗ đựng giấy chùi, tôi còn thấy giẻ rách, hoặc băng màn vệ sinh của phụ nữ. Nhiều khi tôi thấy có những mảnh vải to bằng 2, 3 bàn tay, hoặc những rẻo vải của thợ may, cắt thừa từ quần áo ra. Vì vậy, tôi đã hình thành một phương pháp chống muỗi, bằng những thứ vật liệu “vất đi” đó. Sự bẩn, hay sạch trong hoàn cảnh này, chỉ là tương đối thôi. Nghĩ vậy, tôi thực hiện ngay ý định ngay trong những ngày sau đó. Mỗi ngày 2 lần đổ bô, một tuần hai lần tắm, tôi sẽ tranh thủ nhặt rất nhanh những giẻ và vải…..chùi đít đó. Nhặt được mảnh nào, tôi đem ra vòi nước vò cho sạch phân, rồi về buồng phơi ra. Tôi sẽ chọn những mảnh dài, còn tốt, rút sợi rồi se thành chỉ. Để làm kim, tôi sẽ lấy một cái tăm cật, mài thật xuôi và nhọn; đít kim làm bằng cách mài thật mỏng phía ruột tre, còn phía cật ngâm nước cho mềm rồi uốn đầu vào, lấy một sợi tóc buộc chặt hai vòng. Khéo tay một chút là thành một cái kim có lỗ hẳn hoi, tuy rằng khâu mũi hơi thưa, nhưng được. Từ nhỏ, chưa bao giờ có dịp mó vào kim, nhưng bây giờ vì hoàn cảnh, nên tôi phải tập, lúc đầu sẽ xấu, lo gì, rồi sẽ đẹp lần thôi. Khâu vá thì phải có con dao. Tôi nghĩ mãi, không đào đâu ra. Dạo này, chúng ít gọi cung tôi. Hàng ngày, tôi chỉ loanh quanh từ buồng vào nhà tắm. Vì vậy, mỗi lần vào nhà tắm tôi đổ bô như máy, mắt nhìn ngay vào thùng đựng giấy, giẻ chùi, tay bới vội lên vài lần. Chúng cũng nghèo, nên giẻ chùi thật linh tinh, đủ loại. Thậm chí, chúng còn dùng cả lá cây để chùi nữa. Có tí giẻ, chúng chùi thật kỹ, nên…..đầy phân. Tôi cứ đưa vào vòi nước, vò đại, rồi vắt khô, nhét vào cạp quần; trong khi mắt còn nhìn khắp buồng tắm xem có cái gì có thể làm con dao. Cuối cùng tôi đã tìm được. Ở chỗ nép cửa sổ trong buồng tắm, tấm sắt nhỏ ép bên trong vì lâu ngày, nước mưa làm rỉ một góc phía dưới. Chỗ rỉ không đều nhau, nên lồi ra một khoảng to bằng ngón tay cái. Tội vội bẻ. Bẻ mấy lần chưa gẫy, bên ngoài tên Chiến đã quát: - Nhà tắm ra đi! (Mỗi buồng chỉ được 5 phút). - Vâng! Thôi để lần sau bẻ tiếp vậy. Về buồng, dù một chân vẫn bị cùm, tôi cũng thấy vui vui. Bây giờ có thể tìm được dao rồi. Có dao, sẽ giải quyết được nhiều chuyện. Lúi húi móc những miếng vải lại từng miếng cho thật khô, rồi phơi rải ra phía trên đầu sàn. Trên đó còn thừa một khoảng, vì bị cùm, nên tôi phải thụt người xuống đến 30 phân ấy. Tôi dự định sẽ khâu hai cái túi chân, hai cái túi tay và một cái …..túi đầu. Vì thế, tôi phải kiếm nhiều giẻ. Lúc đầu, tôi phải kiếm nhiều giẻ. Lúc đầu, sợ thiếu cho nên trong thùng giẻ to, giẻ nhỏ tôi lấy hết. Nếu nên cán bộ nào đi cầu, ngồi để ý nhìn vào thùng gỗ nhỏ, chắc sẽ lấy làm lạ, không biết bao nhiêu giẻ chùi dạo này đi đâu mất hết. Ngày hôm sau, tôi đã bẻ được miếng sắt nhỏ sây. Nó méo mó, đường kính độ một phân. Tôi mài miếng sắt nhỏ đó vào một chỗ nhám như đá mài ở sàn xi măng. Tôi cũng phải lựa lúc an toàn mới dám mài. Chúng nó mà bắt được, cũng là phạm nội quy. Chỉ trong một ngày, tôi đã hoàn thành một con dao khá sắc bén. Tuy nó không được già lắm, nhưng cắt được móng tay, sau khi ngâm móng tay vào nước một lúc. Còn vắt vải và chỉ thì…..tuyệt cú mèo! Kỳ này, ngày nào tôi cũng có công việc làm. Hết rút sợi, lại se chỉ, lúc thì mài kim. Hơn một tuần sau, tôi đã bắt đầu khâu. Sau một hồi tính toán nghĩ suy, đầu tiên, tôi khâu nối những miếng vải lại với nhau thành một miếng to theo ý muốn. Rồi tôi khâu một đôi túi tay bằng nhau, mỗi cái cũng phải 4, 5 miếng vải, đủ mầu. Vì có dao (cùn thì lại mài, đá mài có sẵn là sàn xi măng), nên cắt đo cũng dễ dàng. Đến 2 cái túi chân, tôi mất nhiều ngày kiếm vải và công khâu hơn. Nhất là bây giờ kim tre xem ra bất tiện, lúc kéo lên kim cứ bị móc vải, tôi phải mài và bọc lại mãi, mất nhiều thời gian. Tôi chợt nghĩ là phải làm được một cái kim…..sắt, thì mới thật tiện lợi. Nghĩ thì dễ, nhưng đào đâu ra…..một mẩu sắt bây giờ? Vì đã có ý định tìm kim sắt, nên tôi ngừng khâu, hàng ngày chỉ lo kiếm vải, rút sợi và se chỉ thôi. Con dao của tôi bây giờ thực đắc dụng. Những lúc ngồi buồn buồn, lại dùng cắt được cả râu nữa. Tay cứ sờ sờ, thấy sợi nào dài là cắt, cắt cả lông mũi nữa. Thật là tuyệt vời! Vì vậy, tôi phải có chỗ giấu tốt, nếu bất ngờ phải chuyển buồng, không bị mất. Nghĩa là phải luôn mang theo bên mình, và làm sao cho chúng không khám thấy, mà lúc lấy dùng cũng dễ. Sau một lúc suy nghĩ, tôi thấy không tiện gì bằng ở ngay hai mép vạt áo, chỗ gấu áo dưới khuy và cúc cuối cùng. Tôi chỉ cần lấy dao rạch nhẹ phía trong một tí, vừa con dao đút vào, như một cái túi, lại luôn đi với người, mà chẳng ai để ý. Cái ý định làm kim luôn lẩn quẩn trong đầu, nên bất cứ lúc nào có dịp được ra khỏi buồng như: Lấy cơm, đổ bô, hoặc trả bát hay đi cung…..mắt tôi thường để ý mọi vật. Một hôm, đến lượt buồng tôi ra đổ bô, như thường lệ sau khi làm xong ở nhà tắm, tôi báo cáo: - Báo cáo, nhà tắm xong! Tên Chiếu ngồi ở bàn quát: - Ra đi! Tôi ôm bô về buồng: mọi khi, y ở bàn cũng đứng lên theo vào đóng cửa. Nhưng hôm nay, khi tôi đi ngang qua bàn y, y nói nhẹ: - Cất bô vào buồng, rồi ra đây tôi gặp! Vào buồng, trước hết, tôi mó mấy miếng giẻ tôi vừa nhặt và nhét trong cạp quần ra, dù hãy còn ướt, tôi cũng đút đại dưới cái gối “vỏ ba lô”. Trong dạ hơi băn khoăn, không biết có chuyện gì? Tôi ra, vừa từ từ tiến đến chỗ bàn y, vừa chuẩn bị tinh thần để đối ứng với những việc bất ngờ. Y ngẩng lên, đút mấy cuốn sổ đang xem trên mặt bàn vào ngăn kéo, rồi chỉ ghế: - Anh ngồi đi! Giọng y có vẻ êm dịu. Sau khi tôi ngồi, y có vẻ ngập ngừng, dè dặt: - Anh ra Hà Nội bằng đường nào? Tôi hơi ngạc nhiên, dù vậy tôi vẫn chậm rãi trả lời: - Dạ, bằng hải thuyền! - Anh đổ bộ ở đâu? Tôi vẫn dè dặt: - Hà Tĩnh ạ! - Anh ra bao lâu thì bị bắt? - Gần một tháng! - Ở miền Nam, anh ở đâu? - Dạ, Sài Gòn! - Miền Nam, dân thường bị đói, vậy hàng năm, chết nhiều không? Tôi mở to mắt nhìn y ngạc nhiên. Y cũng khựng lại, khi thấy thái độ của tôi như vậy: - Thưa ông, ở miền Nam, tôi đã sống 8 năm, tôi chưa hề nghe cái từ “chết đói” bao giờ cả. - Thật à? Nghe tôi nói, mặt y vừa ngẩn ra, vừa ngạc nhiên, y chỉ thốt ra một câu “thật à?” như nửa tin, nửa không tin! Tôi chậm rãi, nói tiếp: - Thực ra, nhà tôi nghèo, vì vậy, tôi phải xin vào trại sinh di cư để đi học, ở đó chính phủ nuôi ăn. Ngay khi còn ở nhà với bố mẹ, tôi cũng chẳng biết bao nhiêu tiền một ký gạo, vì hâu như mọi người không ai chú ý đến gạo ăn. Mà có khi nào bàn đến, cũng chỉ bàn xem chỗ nào bán món ăn ngon thôi. Còn ở trại, trong bữa cơm, trại sinh thường nắm cơm nho nhỏ để ném nhau, mỗi khi họ trêu đùa nhau trong bữa ăn. Đôi khi họ còn dùng cả những mẩu bánh mì trong phòng ăn, để ném nhau nữa. Ngoài xã hội, mỗi khu phố đều có những quán cơm, gọi là “quán cơm xã hội”. Ở đấy, họ chỉ lấy tiền thức ăn, còn cơm, tha hồ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Mỗi bữa chỉ có 5 đồng. Chúng tôi là học sinh nghèo, cũng ít khi hoặc chả bao giờ vào đấy ăn, vì ngượng, sợ những bạn học khác thuộc những gia đình giầu có nhìn thấy, cười. Để ông ý niệm được, tôi xin nói là lúc đó, tức 1962 về trước, Bộ Lao Động Miền Nam ấn định lương tối thiểu cho một ngày làm của một người đàn ông là 45 đồng, đàn bà 42 đồng. Lương này gọi là lương “phù động”, quy định cho một người không biết nghề nghiệp gì, chỉ làm các việc linh tinh như quét dọn, khuân vác, v.v… Nhưng, người ta ít chịu đi làm lắm, vì lười, và vì xấu hổ. Hơn nữa, ở đâu họ cũng không đói, nên họ không cần đi làm kiểu ít tiền như thế. Vậy ông thử tính, với lương công nhân hạng bét, họ cũng làm một ngày, ăn bốn ngày. Trong khi ở miền Bắc này, tôi thấy, làm ngày nào, ngày ấy mới có ăn, mà phải làm cố gắng với hết cả sức lực của mình. Mặt y cứ bần thần suy nghĩ. Một lúc, y nói vẻ ngập ngừng: - Lúc nào anh kể cho tôi nghe câu chuyện anh ra miền Bắc, mỗi ngày một ít. Tôi sẽ gọi anh ra đây! Tôi gật đầu đồng ý. Với những kinh nghiệm nghề nghiệp, tôi “ngửi” thấy y là một người tò mò muốn biết cuộc sống thực tế của miền Nam. Với chức cai tù này, y chỉ biết tội chính của người tù dưới quyền y có trách nhiệm quản lý, nhưng không được quyền biết chi tiết nội dung tội của người đó, nhất là về chính trị. Qua một lúc nói chuyện, nhiều lần mắt y lấm lét liếc ra phía cổng, thái độ ngập ngừng như muốn dặn tôi không được nói với ai là y đã hỏi chuyện tôi; nhưng, có lẽ vì tự ái của một cán bộ nên y lại thôi, để chờ dịp khác thuận tiện. Phần tôi, tôi đã xác định rõ ràng, loại tội như tôi đã rơi vào tay cộng sản, chẳng bao giờ chúng tha, nhất là lúc đất nước lại chia đôi thế này. Vậy, đằng nào cũng thế, sợ quái gì. Tùy theo điều kiện cho phép, sẽ cho y biết thực một số nét về xã hội miền Nam. Đấy cũng chỉ là trách nhiệm của một người bình thường. Giữa người và người, thấy một người khác hiểu lầm điểm A ra điểm B, mà mình biết rõ, mình phải nói, thế thôi. Trong lúc ngồi nói chuyện, y có những nét không được tự nhiên, vừa như băn khoăn sợ sệt, vừa như ham muốn hiểu sự thật nhiều vấn đề mà y bán tin, bán nghi. Y ngồi hỏi chuyện tôi mà cứ nhấp nhỏm không yên. Rồi khi có tiếng động ở cổng, y vội vàng ra hiệu bảo tôi vào. Tôi cũng liếc nhanh, chỉ là lão Bằng vào đi cầu, hay gọi buồng nào đó đi cung thôi. Những ngày sau đó, tôi để ý thấy y nhìn tôi thiện cảm, nhưng chẳng bao giờ y gọi tôi nữa. Như vậy, trước hết tôi khẳng định là không phải y muốn moi móc, khai thác tôi để lấy tin báo cáo lên trên. Bởi vì nếu muốn moi tin, y phải gọi tôi ra trò chuyện nhiều lần nữa, vì câu chuyện đang có chiều hướng thuận lợi cho y muốn tìm hiểu. Như thế, chỉ có thể là y tò mò muốn biết, lại vừa sợ tôi vô tình ra chấp pháp nói rằng cán bộ xà lim gọi ra hỏi chuyện. Hỏi như vậy trong khi không được lệnh, là y có khuyết điểm. Khuyết điểm này lại về tư tưởng. Cuối cùng, vì chỗ đứng và vì nồi cơm, dù tò mò thích biết rõ những điều mình nghi ngờ nhưng y cũng đành chịu vậy thôi. Điều này cũng cho tôi thấy, ngay trong hàng ngũ cán bộ của chúng, nhiều tên tư tưởng cũng đã rạn nứt, bán tin, bán nghi về những lời “thánh kinh” của đảng dạy bảo rồi. Ngay chiều hôm ấy, khi ra lấy cơm, tôi thoáng nhìn thấy ở đầu chiếc nan gỗ sắp long, của cái chõng bằng cây, nhà bếp vẫn khênh thùng nước và cơm, có một cái đinh khoảng 5 phân đã thò đầu ra đến một phần ba rồi. Làm sao mà lấy được đây? Ác cái là, những lúc lấy cơm, tên Chiến thường đứng ngay đấy nhìn, bởi vì trước đây nhiều lần có hiện tượng xẩy ra là buồng được ra lấy cơm trước, cán bộ không để ý, dã bốc một nắm của bát khác bỏ vào bát mình. Có khi bốc cả canh, cả rau nữa, dù là rau muống già nấu muối, đen xì và cũng chỉ được vài gắp, trong cái bát nhỏ.Nhất là hôm nào, lâu lâu có bữa tươi, có mấy miếng thịt heo, hoặc thịt trâu, cán bộ càng phải coi kỹ, kẻo những anh ra sau chịu thiệt. Dù rằng bị cán bộ bắt được, phải bị cùm, có khi còn bị sỉ vả ở xà lim, nhưng mỗi người, mỗi buồng, chả ai trông thấy ai, nên họ đâu có ngượng. Nhiều lúc trả bát, nhiều khi tên cán bộ nào lười không đi ra, đi vô theo, thường đứng ở cửa buồng chờ tù ra đặt trả bát, rồi múc gáo nước đi vào, y chỉ việc đóng cửa cài then thôi. Tôi phải chờ thời cơ, trong lòng cũng hơi lo, nhỡ ở dưới nhà bếp, tên nào nhìn thấy chiếc đinh như vậy, ngứa mắt lấy búa đóng lại thì hỏng. Phải chờ chực mãi; 4 ngày sau mới có dịp. Hôm đó, đúng lúc tôi trả bát, bỗng có tiếng huỳnh huỵch ở buồng số 12, tên Chiến vội chạy vào xem. Thời cơ đến, tôi chả cần biết chuyện đó là chuyện gì, lẹ làng như máy, tôi cúi xuống rút chiếc đinh tôi đã nhắm từ mấy hôm trước. Chiếc đinh đã lúc lắc, nhưng vì đầu chiếc đinh nhỏ, nên kéo ra đau tay quá. Mắm môi, mắm lợi mà không kéo nó ra được. Không có cái gì, tôi vơ vội tà áo của mình làm lót tay, nghiến răng rút. Vừa rút được xong, cửa cổng xà lim xịch mở, tên Kế, cán bộ ngoài trại chung đi vào. Thật hú vía, nếu lão vào sớm một chút, hỏng cả việc. Tôi càm gáo nước đi vào. Bây giờ tôi mới chú ý nghe tiếng quát của lão Chiến, trong lúc y đang cúi rút chốt hai cái cùm, với hai người bên trong buồng số 12: - Cho chân vào! Chốt cùm vào xong, y lại mắng: - Các anh là con vật à? Tù trong xà lim còn đánh nhau! Lúc nãy, vì tập trung chú ý vào việc nhổ đinh, nên tôi không biết vì sao họ đánh nhau. Nhưng, dù sao chăng nữa, câu tên Chiến mắng vẫn đúng với họ. Tôi chẳng biết họ là ai, tội gì, nhưng qua việc này, họ cũng đáng chê! Tên Chiến trở lại buồng tôi cài then cửa, rồi mở cửa nhỏ nhìn vào, thấy chân tôi đã ngoan ngoãn để trong cùm rồi. Y chốt then cùm, xong mới trở vào buồng số 7 gọi cung, vì tên Kế đang đứng chờ. Cửa đóng rồi, tôi quay lưng lại phía cửa, lấy cái đinh ra coi, nó hơi bị cong queo. Lợi dụng những kẻ hở của chiếc cùm sắt, hoay hoay một lúc, tôi đã uốn được chiếc đinh thẳng ra. Nhìn chiếc đinh, tay mân mê: “To quá”, tôi ngẫm nghĩ, mãi đến khi nào mới thành…cái kim!”. Hơn nữa, tôi có được mài tự do đâu. Không nghe ngóng, che giấu cẩn thận, lại một chân nữa vào cùm như chơi. Mà còn mất cả cái đinh, tôi đã tốn nhiều tâm óc mới lấy được, mục đích là để hoàn thành những đồ dùng chống muỗi. Tất cả mọi thứ đã đủ rồi, chỉ còn mỗi cái kim nữa thôi, là sẽ hoàn toàn mục tiêu. Nghĩ như vậy, tôi nâng cao quyết tâm mài. Tôi tìm những giờ an toàn để mài. Ban đêm, im lặng qua, thậm chí có những đêm mất ngủ, tôi còn nghe rõ tiếng gãi bụng rồn rột ở buồng số 14. Buồng số 2 không mở cửa bao giờ. Buồng số 1 ở phía trái, cách một buồng số 2. Buồng 4 ngay cạnh phía phải cùng dẫy; buồng 14 ở ngay đối diện. Ba buồng này; 1, 4 và 14 ban đêm tôi nghe thấy cả những tiếng thở dài, tiếng kéo bô, mở bô, đi giải, hay đi cầu. Vậy bây giờ tôi mài, tất nhiên họ cũng biết, và có thể các buồng phía trong cũng nghe thấy, chỉ có điều họ không biết tôi mài cái gì. Tóm lại, ban đêm tiếng mài nghe rõ, nhưng cũng có lợi điểm là nếu để ý lắng nghe, khi cán bộ vừa mở cổng xà lim, cách xa đến 40 mét, thì trong này đã biết có người vào rồi. Vì vậy, tôi thường mài về đêm, và vào ngày Chủ Nhật. Đầu tiên, tôi đè thẳng cây kim xuống sàn. Cứ đẩy dọc. Một lúc, cái đinh nóng quá, tôi phải lót tay 3, 4 lần vải mà vẫn nóng; sau phải mài nước. Tôi chủ định mài vuông 4 mặt cho nhỏ dần. Khi nào cái đinh bé theo ý muốn, tôi mới mài tròn, và mài nhọn. Điều may là trước đây, tôi đã là thợ kim hoàn, nên tính toán kết hợp với sự khéo tay, cũng không khó khăn lắm, chỉ mất nhiều công. Nhiều lúc mài, tay mỏi rời, tôi thấy cũng nản, định bỏ cuộc vì cái đinh…..to quá, mài lại không được tự do, vừa mỏi tay, vừa căng thẳng tinh thần. Những lúc như thế, óc tôi lại nhớ đến bài học thuộc lòng, trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư lúc còn nhỏ: Có Chí Thì Nên Làm trai chí ở cho bền. Chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con. Khi nên trời giúp công cho, Làm trai năm liệu, bẩy lo mới hào. Trời sinh, trời chẳng phụ nào, Công danh gặp hội, anh hào ra tay. Trí khôn sẵn để dạ này. Có công mài sắt, có ngày…..nên kim. Một thoáng mây buồn vương trong trí tôi! Như vậy, tôi chỉ có thể hiện thực được vế dưới của bài học, cái vế…mài đinh thành kim. Còn vế trên, vừa bất tài, lại vừa mang số phận hẩm hiu nữa, nên đành chịu thua. Không có tài đã là một điều bất hạnh rồi, lại gặp buổi không may, vào xà lim ngồi, đáng quá rồi! Mặc dù đã thừa nhận như vậy, nhưng tôi vẫn không khỏi cảm thấy vướng vất một nỗi uất nghẹn, tủi hờn. Uất nghẹn, tủi hờn của một người không đủ khả năng, để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Chỉ một áng mây đen lững lờ trôi qua, thế mà tay tôi như chùn lại không muốn mài nữa. Nổi buồn nguy hiểm thật, làm chậm bước trên đường đi tới. Thôi tạm biệt mi! Đối với Francois Sagan thì “Bonjour Tristesse”, nhưng tôi thì phải nói “Adieu Tristesse!” mới đúng. Lại bắt tay vào việc. Thật vất vả, hơn nửa tháng trời tôi mới hoàn thành chiếc kim. Do sự khéo tay của nghề vàng, tôi đã biến một chiếc đinh thành chiếc kim thật óng nhọn; nhất là phía đít kim, mài mỏng, uốn gấp lại, rồi mài thành một cái lỗ nhỏ xúi, rất vừa ý. Trong quá trình, tôi vừa làm vừa nghiên cứu, mới đầu chưa tốt, rồi dần dần thành tốt, thành đẹp. Tôi giấu chiếc kim này thật bí mật, ngay trong cái quai ba lô ở đầu giường. Tôi vẫn để chiếc kim tre đấy, phòng hờ cán bộ nào khác thắc mắc, hỏi lấy kim ở đâu để khâu, thì giơ ra. Bây giờ có kim rồi, tôi khâu rất nhanh. Khâu mãi cũng quen tay, nên tôi khâu ngày càng nhanh, mà lại đẹp. Lần lượt tôi khâu đến 2 cái túi chân. Tôi khâu cái túi dài lên quá bắp chân. Tối đến, tôi cho 2 chân vào túi, kéo hai ống quần trùm ra, rồi lấy hai sợi dây buộc lại như đi ủng. Hai tay cũng hai cái túi dài quá cổ tay. Tôi khâu dính liền hai sợi dây vào thành túi, khi cho tay vào rồi, chỉ việc cầm dây cuốn hai vòng, rồi giắt đầu dây chặt lại. Còn trên đầu là cái túi to. Tôi đã cố dành những mảnh giẻ lớn và mỏng để khâu túi … đầu. Lúc đầu, tôi chỉ khâu một cái túi, rồi chui đầu vào. Túi dài xuống bên dưới cổ, cho váo trong cổ áo, rồi khuy áo cổ lại. Nằm một lúc, rất nóng và bí hơi, khó thở. Tôi suy nghĩ, trên đầu có tóc, muỗi không đốt được, vậy có thể tháo phía trên ra, rồi khâu vào như cạp quần, xỏ luồn sợi dây nhỏ để thắt lại, muốn để lỗ to nhỏ tùy ý. Tôi thực hiện như ý nghĩ, xong đội túi vào. Nằm xuống một lúc, thấy vẫn nóng, vẫn khó thở. Tôi lại nghĩ, lỗ mũi mình luôn luôn thở ra hít vào, dù là ngủ, vậy các chú muỗi không dám đến cắn. Tôi lại khoét ra một lỗ rất xinh, lại khâu viền nữa, thò vừa cái chỏm mũi ra và hai lỗ mũi. Thế là ổn rồi! Bây giờ đang đầu tháng 8 dương lịch, vẫn đang giữa mùa hè, trời nóng ghê gớm. Tối đến vẫn phải đóng bộ như trên. Các đồng chí muỗi của cộng sản, từ này chỉ đứng ngoài khóc thôi, nghe các chú! Nhưng sáng dậy, mồ hôi ướt đẫm quần áo. Mùa hè nóng như vậy, ngay cởi trần, và chỉ mặc quần đùi, mà mồ hôi còn ra nhễ nhại, huống chi mặc quần áo, lại che tay chân, trùm kín đầu. Cũng đành, phải chịu đựng chứ biết làm sao! Cũng trong khoảng thời gian này, nhiều đêm tôi phải dậy đột ngột. Có những đêm tôi đang ngủ ngon lành, tôi giật mình thức dậy vì những tiếng đập cửa buồng thình thình. Tôi ngồi lên, mất một lúc mới tháo được túi trùm đầu ra, thì lại nghe người bên ngoài buông thõng một câu: - Thôi, nằm xuống đi! Vài lần xẩy ra như vậy làm tôi ngạc nhiên, nhưng sau tôi hiểu ra. Tên cán bộ đi tuần đêm, thấy tôi nằm thẳng cẳng, tay chân, đầu đều bó kín, nghĩ là tôi tự tử, hay chết rồi không chừng, y liền đập cửa gọi. Đến khi tôi ngồi dậy, rút đầu ra khỏi túi, y đã hiểu là tôi làm như vậy chỉ để chống muỗi, nên y lại bảo nằm xuống… Với tên cán bộ nào thấy như vậy rồi, thì lần sau y không gọi nữa. Nhưng, những tên cán bộ khác lại phải gọi. Mà một đêm thường phải đến 3, 4 tên trực trong khoảng từ 10 giờ tối, đến 5 giờ sáng. Cũng may, dần dần tất cả tụi cán bộ Hỏa Lò đều biết, nên đêm đêm tôi đỡ phải giật mình thức giấc nữa. Chỉ còn những trường hợp đột Bây giờ có kim rồi, tôi khâu rất nhanh. Khâu mãi cũng quen tay, nên tôi khâu ngày càng nhanh, mà lại đẹp. Lần lượt tôi khâu đến 2 cái túi chân. Tôi khâu cái túi dài lên quá bắp chân. Tối đến, tôi cho 2 chân vào túi, kéo hai ống quần trùm ra, rồi lấy hai sợi dây buộc lại như đi ủng. Hai tay cũng hai cái túi dài quá cổ tay. Tôi khâu dính liền hai sợi dây vào thành túi, khi cho tay vào rồi, chỉ việc cầm dây cuốn hai vòng, rồi giắt đầu dây chặt lại. Còn trên đầu là cái túi to. Tôi đã cố dành những mảnh giẻ lớn và mỏng để khâu túi … đầu. Lúc đầu, tôi chỉ khâu một cái túi, rồi chui đầu vào. Túi dài xuống bên dưới cổ, cho váo trong cổ áo, rồi khuy áo cổ lại. Nằm một lúc, rất nóng và bí hơi, khó thở. Tôi suy nghĩ, trên đầu có tóc, muỗi không đốt được, vậy có thể tháo phía trên ra, rồi khâu vào như cạp quần, xỏ luồn sợi dây nhỏ để thắt lại, muốn để lỗ to nhỏ tùy ý. Tôi thực hiện như ý nghĩ, xong đội túi vào. Nằm xuống một lúc, thấy vẫn nóng, vẫn khó thở. Tôi lại nghĩ, lỗ mũi mình luôn luôn thở ra hít vào, dù là ngủ, vậy các chú muỗi không dám đến cắn. Tôi lại khoét ra một lỗ rất xinh, lại khâu viền nữa, thò vừa cái chỏm mũi ra và hai lỗ mũi. Thế là ổn rồi! Bây giờ đang đầu tháng 8 dương lịch, vẫn đang giữa mùa hè, trời nóng ghê gớm. Tối đến vẫn phải đóng bộ như trên. Các đồng chí muỗi của cộng sản, từ này chỉ đứng ngoài khóc thôi, nghe các chú! Nhưng sáng dậy, mồ hôi ướt đẫm quần áo. Mùa hè nóng như vậy, ngay cởi trần, và chỉ mặc quần đùi, mà mồ hôi còn ra nhễ nhại, huống chi mặc quần áo, lại che tay chân, trùm kín đầu. Cũng đành, phải chịu đựng chứ biết làm sao! Cũng trong khoảng thời gian này, nhiều đêm tôi phải dậy đột ngột. Có những đêm tôi đang ngủ ngon lành, tôi giật mình thức dậy vì những tiếng đập cửa buồng thình thình. Tôi ngồi lên, mất một lúc mới tháo được túi trùm đầu ra, thì lại nghe người bên ngoài buông thõng một câu: - Thôi, nằm xuống đi! Vài lần xẩy ra như vậy làm tôi ngạc nhiên, nhưng sau tôi hiểu ra. Tên cán bộ đi tuần đêm, thấy tôi nằm thẳng cẳng, tay chân, đầu đều bó kín, nghĩ là tôi tự tử, hay chết rồi không chừng, y liền đập cửa gọi. Đến khi tôi ngồi dậy, rút đầu ra khỏi túi, y đã hiểu là tôi làm như vậy chỉ để chống muỗi, nên y lại bảo nằm xuống… Với tên cán bộ nào thấy như vậy rồi, thì lần sau y không gọi nữa. Nhưng, những tên cán bộ khác lại phải gọi. Mà một đêm thường phải đến 3, 4 tên trực trong khoảng từ 10 giờ tối, đến 5 giờ sáng. Cũng may, dần dần tất cả tụi cán bộ Hỏa Lò đều biết, nên đêm đêm tôi đỡ phải giật mình thức giấc nữa. Chỉ còn những trường hợp đột xuất, cán bộ Sở Công An sang đi kiểm tra ban đêm, dĩ nhiên không biết, lại đập cửa. Bây giờ, tôi lại thấy hai cái túi tay hơi bất tiện, ở chỗ muốn cầm cái gì, hay buộc dây chẳng hạn, cũng khó. Kẹt nhất là việc…..gãi, vì không có ngón tay. Tôi lại nghĩ việc cải tiến thành đôi…..”găng”, có những ngón tay đỡ lùng thùng. Và, tôi bắt đầu tiến hành, chỉ mươi ngày sau, tôi đã kiếm được mấy miếng giẻ to. Tôi chọn 4 miếng to nhất, xòe bàn tay ra, rồi đặt úp xuống miếng vải. Làm sao, có cái gì để vẽ đây? Tôi nhìn quanh, à cái chổi Thanh Hao kia! Tôi lấy một đoạn cuống, đốt cháy đến đâu tôi dầm vào gáo nước tới đó. Thế là tôi đã có một cục than nhỏ! Tôi nhẹ tay vẽ theo hình những ngón tay xòe ra, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cắt dần theo đường vẽ, được hai miếng cho tay này, và hai miếng cho phía kia. Rồi khâu, khâu xong lộn ngược ra, tôi thấy ở những kẽ giữa hai ngón tay, dồn vào một cục, trông không ra làm sao cả. Tôi lại nghiên cứu, dần dần cũng giải quyết được. Dây buộc ở cổ tay, đêm ngủ giẫy giọn thế nào cứ bị tuột ra. Để tránh tình trạng này, tôi lấy hai cái cúc ở áo cũ, đính vào phía trên cổ tay áo mỗi bên; trên cổ tay “găng” cài vào, mà lại không bị tuột khi ngủ, dù tay có vung vẩy. Bây giờ, tay đeo “găng”, có ngón, gãi cũng được. Ban đêm như vậy người tôi che kín hết, chỉ thò ra ngoài có cái chỏm mũi thôi, vậy mà có nhiều con muỗi cũng thật tinh khôn và dũng cảm. Có hôm, tôi mới đóng bộ, còn nằm thả hồn theo gió mây, chưa ngủ, một chú muỗi đậu vào đốt. Tôi chờ, lừa tay khẽ nện cho chú một phát. Mở túi đầu ra, tôi nhìn thấy máu và một chú muỗi bẹp dí. Lúc này, vào nhà xí, chỉ khi nào thấy miếng giẻ to và còn tốt, tôi mới lấy để chuẩn bị khâu “bí tất” cho mùa Đông tới. Tôi lấy được một miếng vải hoa cũ, tôi khâu một cái túi để đựng kim tre, chỉ và giẻ vụn, bao diêm, cái điếu, lược, bàn chải đánh răng v.v… Bên ngoài cái túi đó, tôi khâu thêm một cái túi nhỏ xíu, để đựng mấy cái tăm. Mỗi cái tăm, tôi dùng ít nhất cũng một tháng, cho tới khi mục gẫy mới thôi. Mỗi lần xỉa răng xong, tôi lại cầm gáo nước đổ một tí để rửa, rồi cắm vào một cái lỗ nhỏ, tôi đã làm sẵn ở túi đựng tăm. Gói tăm, lúc mới bị bắt vào có 24 cái, giờ đã hơn hai năm rồi mà vẫn còn tới 10 cái. Tôi đính dây vào chiếc túi và móc treo cái túi đựng đồ linh tinh này vào cái cuống chổi Thanh Hao, tôi đã cắm sẵn ở một lỗ đinh trên tường. Cuộc sống cũng thấy nề nếp, ung dung hơn trước. Tôi lại hí hoáy tập thêu chữ “B” hoa thật to ngoài chiếc túi ấy. Trông cũng đẹp chán! Dạo này, một điều làm tôi hưng phấn là, kể từ ngày tôi quyết tâm tập thể dục và phương pháp “A” hàng ngày, cho tới nay mới được hơn ba tháng. Vậy mà bệnh nhức đầu quái ác của tôi đã khỏi hẳn, lúc nào tôi cũng không hay. Thêm nữa, tinh thần của tôi tương đối sảng khoái, thanh thoát. Ngay dáng dấp, phong độ của tôi cũng nhanh nhẹn hẳn lên. Thế là, hàng ngày ngoài những lúc lúi húi, loay hoay thêu cái này, vá cái kia, tôi ngồi tập thêu chữ, thêu cành hoa, v.v….Xấu thôi! Nhưng là những tác phẩm, do chính tay mình tạo ra, ngắm nhìn cũng thấy vui vui, thấy cõi lòng nhè nghẹ, lâng lâng như được bồi thêm sinh khí. Hơn là cứ ngồi không, hết nhìn cái cùm, lại nhìn cái bô, với 4 bức tường chật hẹp….. |
|
|
![]()
Post
#49
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Bảy
Những giây phút… mộng mơ!... Bây giờ, tâm hồn tôi thật thư thái, ung dung. Thậm chí, nhiều khi tôi bật ra tiếng ca ông ổng, hoặc ồm ồm đọc thơ. Bất cứ một lời ca, một đoạn thơ, chẳng nhớ, chẳng biết của ai, bài gì, cứ thấy phù hợp với tâm tư vơi đầy của mình, là tự nhiên trỗi dậy thành lời, cho đôi tai cùng thưởng thức những phút tương đồng. Ngồi nhiều mỏi lưng đau đít, lại nằm cho lòng siêu thoát bay nơi nơi, cho hồn lãng mạn dật dờ, chơi vơi đắm chìm trong những vùng trời hương sắc của cuộc đời. Để được nghe tiếng đời xua động, để cho võng lòng đu đưa. Hoàn cảnh thực tại thì chẳng có một cái gì, có chăng chỉ là những cay đắng thương đau. Vì vậy, tôi phải tạo nên những cảnh đời, tôi muốn trong…..mơ. Những điều tôi không làm được trong thực tế, tôi sẽ hiện thực nó trong giấc mơ đầy. Nằm lim dim đôi mắt, tôi nhớ lại những buổi trước ngày đi. Một anh bạn đến rủ tôi đi xem cuốn phim “Tên Trộm Thành Bá Đa”, câu chuyện cổ tích trong “Một Ngàn Một Đêm Lẻ”. Từ hàng chục năm xưa, cuốn phim đã chiếu đi, chiếu lại nhiều lần; nhưng lần nào khán giả cũng đầy rạp. Nội dung phim, tôi không trình bầy ở đây, mà chỉ ghi lại những đoạn tôi muốn đề cập. Tên ăn trộm, đẹp trai đáng yêu này, vì muốn chữa căn bệnh quái ác, lòa và câm của nàng công chúa mỹ miều tuyệt vời, người yêu của y. Y đã phải chấp nhận “đăng ký” cùng nhiều chàng trai khác để đi tìm một bông hồng xanh. Theo lời tiên đế mách bảo vua cha của công chúa. Chỉ có bông hồng xanh mới chữa khỏi căn bệnh kỳ lạ đó của công chúa. Tất cả mọi chàng trai, tất nhiên trong đó có cả tên ăn trộm đáng yêu, sẽ phải đi qua 9 cửa ải thập phần nguy hiểm, mới tới được chỗ có bông hồng xanh. Mỗi cửa ải, với bao gian nan hiểm nguy, chết chóc, lần lượt đoàn người thưa dần, hoặc chết, hoặc bỏ cuộc. Từ cửa ải thứ tư trở đi, khi chỉ còn một mình tên ăn trộm tài ba, hiên ngang và quyết tâm này. Một mình một bóng, y len lỏi nơi núi rừng hoang vắng, đầy chết chóc đợi chờ….. Đến cửa ải thứ năm (nếu tôi nhớ không làm), sau bao nhiêu tính toán mưu mô, với một trận chiến đấu tưởng thập phấn…tử, tên trộm đoạt được chiếc áo tàng hình của tên Sơn Thần trấn ải. Từ đó, trên đường đi tới, chiếc khăn choàng tàng hình này, đã giúp y vượt qua nhiều chặng hiểm nguy kinh hồn…để cuối cùng tìm được bông hồng xanh. Đặc điểm của chiếc khăn choàng tàng hình, là khi nào chủ nhân muốn dùng, chỉ việc buộc quàng chung quanh cổ mình. Tức khắc, người đó sẽ trở thanh vô hình, và nếu có mang hay ôm vật gì theo, người ta cũng không trông thấy cái đó. Đến đây tôi chợt nghĩ, nếu bây giờ trong hoàn cảnh cùm kẹp, giam cầm trong ngục tù bất hạnh này, có được một chiếc khăn choàng như vậy, tôi sẽ làm gì? Tôi sẽ làm điều gì nhỉ?...Tôi lại miên man tưởng tượng: À, tôi sẽ lợi dụng lúc tên Chiến mở cửa buồng cho ra trả bát, chờ lúc y lúi húi quay chỗ khác, tôi chỉ việc quàng cái khăn tàng hình vào cổ mình. Tôi sẽ không đi ngay, cò phải chờ xem bộ mặt ngơ ngẩn và hốt hoảng của y, khi ngẩng lên không trông thấy tôi đâu. Rồi, y sẽ nhớn nhác chạy vào buồng tôi, rồi hộc tốc chạy vào buồng tắm…..cuối cùng không thấy tôi, y chỉ còn cho là tôi đã chạy ra phía cổng xà lim, để ra ngoài sân trại chung. Tôi vẫn chưa chuồn ngay, cứ khoanh tay đứng nhìn bọn chúng nhốn nháo, báo động, bố ráp tìm kiếm tôi khắp Hỏa Lò như thế nào, cả tiếng đồng hồ…Tội gián điệp là một trong những tội nặng nề nhất về chính trị. Một điệp viên, đang còn trong thời gian khai thác, tự dưng biến mất; chắc chắn chúng sẽ dùng nhiều người và nhiều biện pháp cao nhất để truy lùng. Đó là việc bọn chúng! Còn tôi bây giờ, tôi sẽ làm gì nữa đây? Sau đó, chắc chắn vì bụng đã quá đói lâu ngày, hãy tạm xuống bếp riêng của cán bộ Hỏa Lò, kiếm cái gì ăn cho đã một bữa, rồi nhiên hậu mới tính đến những việc khác. Việc thứ hai, trong lúc chúng nghiên cứu, bố ráp và tìm kiếm tôi, thế náo chúng cũng xem lại hồ sơ của tôi. Vậy, tôi sẽ lợi dụng thời gian này, tìm về phòng chấp pháp Bộ Công An, để tùy cơ xem hồ sơ, chúng đã nhận định về vụ án của tôi ra sao. Tôi rất tò mò muốn biết điểm này, bởi vì trong hai năm, “đấu” cung với chúng, tôi chỉ được đứng từ một phía để suy đoán. Ngay tối hôm đó, tôi phải vào Phủ Chủ Tịch,…..để thăm sức khỏe tên cáo Hồ. Trong lúc chờ y vào buồng ngủ, trước hết, tôi hãy thăm cái bếp Chủ Tịch phủ mà tôi nghĩ rằng chẳng thiếu thức ăn sâm, nhưng, bổ béo. Tôi cũng cần hồi sức càng nhanh càng tốt để còn phải làm nhiều việc. Trong quá trình đến Bộ Công An và Phủ Chủ Tịch, tôi đã kiếm được hai khẩu súng ngắn và một con dao sắc, bén vừa ý. Chắc cũng phải 11, 12 giờ khuya, tên cáo già mới vào buồng ngủ. Lúc đó, chỉ còn mình y và tôi trong buồng. Chờ y lên giường nằm và lúc y chỉ còn để đèn ngủ, tôi bật đèn sáng trong buồng lên. Để uy hiếp tinh thần y, tôi vẫn không cho y thấy tôi. Tôi thừa hiểu trên giường y nằm, và trên bàn y ngồi, chắc chắn phải có những nút báo động hoặc những vũ khí cần thiết để tự cứu nguy cấp thời. Bây giờ, tôi thừa lực, thừa tài để không sợ những vật ấy. Nhưng tôi cũng khổng cho phép y sử dụng những thứ ấy. Tôi bắt y quỳ ra giữa buồng. Có thể y sẽ phản ứng hoặc tìm cách chống trả, để trấn áp tinh thần y, tôi xẻo một tai của y. Hơn nữa, không nhìn thấy người, y sẽ phải táng đởm kinh hồn, sợ một phép và làm theo ý muốn của tôi. Đàng nào tôi cũng sẽ giết y, nhưng trước khi phải chết, tôi muốn y được nghe và biết một số điều. Để cho y được rõ ràng, tôi dõng dạc tuyên bố: - Tội của mày đối với quê hương, dân tộc cao như núi Hoàng Liên Sơn, nước biển Thái Bình không rửa sạch hết. Tao là người của trời sai xuống, đại diện hàng triệu người bị mày giết hại, để xử mày đầu tiên. Đây cũng là giờ chế độ cộng sản phi nhân trên trái đất này bắt đầy bị tiêu diệt. Mặc cho nó lạy van khóc lóc, tôi đâm một dao vào tim nó. Lẽ ra, tôi phải mang xác nó vào chuồng cọp sở thú, nhưng tôi đổi ý. Để cho quần chúng nhân dân biết, tôi sẽ vác xác nó về khu phố Hoàn Kiếm và để vào một chỗ kín đáo an toàn. Rồi, tôi tìm một cuộn dây thừng, một tờ giấy bìa to, bút vẽ. Viết cái gì đây? “Thế thiên hành đạo!”? Không được, có vẻ tiểu thuyết Tàu quá! Cuối cùng, tôi viết chữ thật to: “Tên cáo Hồ đền tội! Giờ chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới bị tiêu diệt đã điểm! Đồng bào hãy đứng dậy trả thù! Mặt Trận Toàn Cầu Diệt Cộng”. Tôi sẽ lấy một cuộn dây và một số giấy gói, ít cái kẹp sắt, xong trở lại chỗ giấu xác y. Tôi vá y ra chỗ mấy cây sấu sát bờ hồ, chéo bên hông nhà Thủy Tạ, trước quán “Mụ Béo” trong sang. Tôi kẹp chặt tờ bìa đã viết chữ từ ngực y trở xuống. Xong, buộc dây thòng lọng rút chặt vào hai vai y. Đầu dây kia buộc vào một hòn đá ném kên cành nào tôi định treo. Tôi cắt “cái” của y, rồi lấy dao cậy mồm của y ra, nhét vào cho y ngậm một nửa, còn một nửa để lòi ra ngoài cho nhân dân trông thấy. Tôi làm như vậy vì cái mồm y lừa đảo, bịp bợm, dụ khị biết bao nhiêu người, để rồi cuối cùng, dần dần y lừa tiêu diệt hết. Cho nên, cái mồm ấy, chỉ đáng ngậm “cái ấy” của y. Tôi lại lấy đất, đá buộc thành 5 gói to nhỏ, viết bên ngoài hàng chữ “Mìn nổ chậm”. Tôi leo lên cây, dùng phương pháp liên đới kéo xác tên già lên lưng chừng, rồi cột lại một khoảng cách cho người dưới đất, với tay lên không tới. Tôi treo vào xác 3 dây gói mìn, hai gói còn lại treo trên chỗ chạng cây, phía gốc cây. Tôi buộc những gói mìn nổ chậm giả này, mục đích là kéo dài thời gian, để tụi công an ngần ngại, không dám trèo lên cây lấy xác tên cáo xuống ngay. Nhân dân qua lại đủ thì giờ, nhìn cho sướng mắt. Bây giờ, thừa sức, thừa tài và điều kiện, tôi cũng không thèm giết những người cộng sản khác, vì bất cứ ai, dù ở cương vị nào, họ cũng ít nhiều bị tên cáo già này lợi dụng. Vậy, xét ra họ cũng đáng thương. Tôi chỉ cần giết một vài tên đầu sỏ. Sau một đêm vừa thức vừa làm việc, tất nhiên tôi mệt mỏi, nhưng tôi không ngủ. Tôi phải ngồi trên cây, đặt một tay vào xác y, với chiếc khăn kỳ diệu trên mình, dĩ nhiên xác y cũng tàng hình luôn. Tôi muốn chờ tới khi sáng rõ, mới cho mọi người thấ. Khi đồng bào bắt đầu đi lại đông đảo, tôi mới bỏ tay ra, tụt xuống, tìm một chỗ kín đáo và an toàn để ngủ bù. Tôi cần phải lấy lại sức, để còn làm nhiều việc nữa….. Chiều hôm ấy, tôi mò vào trường bay Gia Lâm, tìm các chuyến bay ra ngoại quốc. Tôi tìm chuyến đi Hồng Kông là nhanh nhất. Rồi từ Hồng Kông, tôi sang xứ cờ Hoa. Tất nhiên trên máy bay, tôi phải thận trọng tránh né hết mọi người. Tôi muốn đến Hợp Chủng Quốc ngay, bởi vì qua thực tế, tôi thấy dù muốn hay không, cũng phải thừa nhận Hoa Kỳ là một nước đã bỏ nhiều công sức, trong mặt trận thế giới chống cộng sản. Hơn nữa, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện cũng như khả năng để giúp tôi thực hiện sớm chiến dịch này. Chương trình dự trù của tôi là trong 6 tháng, hệ thống cộng sản thế giới sẽ bị đập tan hoang về căn bản. Khi tôi mò được đến thủ đô Hoa Thịnh Đốn, chắc tin Hồ Chí Minh tai bị cắt, mồm ngậm chim, xác chết treo cành cây sấu ở bờ hồ Hoàn Kiếm đã được báo chí và truyền hình thế giới đang sôi nổi tìm tòi tường thuật rồi. Hiện giờ đang trong nhiệm kỳ của Tổng Thống Johnson. Cũng có một điều khó khăn cho tôi, đó là vấn đề vốn liếng Anh ngữ cập quạng của mình. Nhưng, với thế chủ động, tôi tin là sẽ giải quyết được. Tôi chuẩn bị trước mấy ý trình bày. Trong lúc mò kiếm cái ăn, hoặc những lúc nghỉ ngơi, tôi cứ lẩm bẩm tập nói trước mấy câu đó. Chắc hẳn, ai cũng biết, với cái khăn choàng tàng hình, tôi vào Tòa Nhà Trắng chẳng khó khăn gì. Tuy là có vợ con, nhưng chắc chắn Tổng Thống Johnson phải có một phòng làm việc riêng. Chờ khi nào ông chỉ có một mình ở trong phòng riêng, đầu tiên, tôi sẽ lên tiếng chào. Chắc hẳn ông ta sẽ ngạc nhiên, đồng thời với bản tính tự nhiên của một vị nguyên thủ, ông sẽ tìm thế tự vệ chống trả. Nhưng tôi sẽ nói: - Ông đừng sợ! Tôi đến với ông như là bạn, cần bàn với ông nhiều việc tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Để ông ta yên tâm hơn và thoải mái nói chuyện, tôi nói thẳng: - Tôi là người vừa giết chết tên Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Vậy, nếu tôi muốn làm hại ông, ông làm sao tránh thoát. Chỉ nghe tiếng nói mà không thấy người, tất nhiên ông ta phải tin lời nói của tôi có giá trị. Tôi mời ông ta ra bàn ngồi nói chuyện. Tôi sẽ nói ngay về tình trạng Anh ngữ kém cõi của mình và yêu cầu ông ta cân nhắc thật kỹ để tìm một người thân tín biết rành tiếng Việt Nam. Người đó phải thuộc cơ quan của Tòa Nhà Trắng. Những lúc tiếp xúc tay ba, người đó phải chịu một điều kiện là bị bịt mắt lại bằng một chiếc khăn đen do chính tôi đưa, và ông ta buộc. Rồi tôi sẽ nói luôn là trong thời gian của cuộc tiếp xúc này, có thể lâu, người đó sẽ không được ra ngoài, phải ở luôn trong một phòng ngay tại Tòa Nhà Trắng. Mặt khác, tôi cũng yêu cầu Tổng Thống Johnson nâng cao ý thức bảo mật, vì mục đích chung quan trọng là tiêu diệt cộng sản một cách hữu hiệu. Tôi cũng yêu cầu ông ta không được nói với bất cứ ai dù là vợ con, về sự vô hình của tôi. Nghĩa là trên trái đất này, Tổng Thống Johnson là người duy nhất biết tôi vô hình. Ngay đối với người thông dịch, cũng sẽ để anh ta tưởng là có một người bình thường đang nói chuyện với Tổng Thống mà anh ta không được phép nhìn thấy mặt. Điều này vô cùng quan trọng, chiến dịch sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn, hoặc có khi thất bại, nếu thiên hạ biết là có người vô hình. Như thế, để sau này, mỗi sự việc xảy ra, người ta chỉ có thể tìm tòi và suy đoán theo lẽ thường tình, không nghĩ là do bàn tay của người vô hình. Người nào đã nghe thấy tiếng nói của tôi mà không thấy tôi, vì cái chủ trương phải tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, nên người đó phải chết rồi. Tóm lại, Tổng Thống hay nước Mỹ sẽ phải chịu trách nhiệm thực hiện những chuyến bay hợp lý để tôi đến các nước cộng sản. Đầu tiên là Liên Xô, rồi Trung Quốc, Cuba, Đông Đức, Tiệp Khắc, v.v… Đồng thời, Tổng Thống mở một chiến dịch toàn cầu với những nước cần thiết hữu quan như Nhật Bản, Pháp, Anh, Tây Đức, Do Thái, Ý, v.v…để tất cả chuẩn bị rầm rộ các phương tiện tuyên truyền, quân đội, tình báo, v.v…một cách cao nhất, hữu hiệu nhất, xông vào giúp nhân dân các nước cộng sản đứng lên tổ chức lại chính quyền Cộng Hòa, Dân Chủ thực sự. Tổng Thống sẽ phải tận dựng tối đa khả năng tác động qua lại giữa bí mật là tôi, và công khai là Mặt Trận Toàn Cầu để làm tan rã nhanh chóng sự chống đối cùng quẫn của cộng sản. Phần tôi, tôi chịu trách nhiệm thanh toán tất cả các đương kim lãnh tụ của các nước cộng sản. Bất cứ một tên cộng sản ngoan cố nào, ở bất cứ một nước nào, muốn đứng lên hô hào tổ chức chống lại, đều bị hình phạt như tên cáo Hồ. Như vậy, tôi nghĩ, tối đa chỉ mất sáu tháng, nhiệm vụ của tôi sẽ hoàn thành. Chủ Nghĩa Cộng Sản sẽ bị xóa sạch trên trái đất này, và nhân loại tránh được một tai ương ghê khiếp nhất. Tôi mở choàng mắt ra để nhìn thực tại của xà lim. Cái chân trong cùm của tôi vẫn còn đang rung rung, như dư vị của một bữa ăn tinh thần thỏa mãn còn xót lại. Ít nhất, tôi cũng được hai tiếng dồng hồ không bị gông cùm, giam hãm trong xà lim án chém của Hỏa Lò Hà Nội này. Tuy vậy, óc tôi vẫn còn đầy vơi thấp thỏm với giấc mộng diệt thù vừa qua, vẫn còn thấy khả năng của chiếc khăn tàng hình còn hạn hẹp, chưa đạt yêu cầu… |
|
|
![]()
Post
#50
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Tám
Một tổ chức tình báo từ… trước 1954… Hồn tôi còn đang bập bềnh, nổi trôi, dập dờn giữa nửa trong là mộng, nửa ngoài là …xà lim, bỗng nhiên cửa sổ nhỏ xịch mở. Tôi giật mình, lúc này đã hết giờ làm việc chiều rồi, chẳng lẽ gọi đi cung? Có tiếng xọch xạch, rồi chốt cùm được rút ra, giọng tên Lê, Phó Giám Thị, rành rọt từ phía cửa sổ nhỏ: - Anh có cái gì mang hết đi! Tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng chợt hiểu ngay là mình chuyển xà lim. Tôi vội vàng chấn chiếc cùm, rút chân ra, trong khi nghe tiếng mở khóa cửa lớn. Tôi chẳng có cái quái gì, ngoài một bộ quần áo sọc tù đã sắp mục; chiếc ba lô cũ, vật kỷ niệm của anh Hoàng Hùng; chiếc túi con nhiều màu đựng ít giẻ rách và các thứ lặt vặt. Tôi ôm gọn tất cả trong tay, tiến ra cửa, dạ băn khoăn chẳng hiểu chúng còn đẩy tôi đến xà lim nào nữa đây? Thân mình, bây giờ có còn là của mình nữa đâu, mặc cho sóng đời dập vùi, đẩy đưa. TÔI đang bần thần ngơ ngác, tên Lê đã ra hiệu tay, hất vào phía trong xà lim: - Vào trong kia! À, thì ra chỉ chuyển buồng thôi; vậy mà cứ tưởng đưa người ta đi đâu. Tôi vào xà lim I đã 5, 6 tháng rồi, nhưng chỉ ở buồng số 3 phía ngoài này, nên những lúc đổ bô, lấy cơm, đôi khi liếc mắt nhìn sâu vào trong, tôi chỉ thấy mờ mờ, hun hút chẳng thấy rõ các buồng. Hơn nữa, như đã nói trên, lúc ấy ngày cũng như đêm, tôi chỉ ngụp lặn trong nỗi sầu tê tái của người sắp tìm tới cái chết, nên tôi đâu cần biết đến những gì xảy ra chung quanh tôi. Đến trước buồng số 6, y mở khóa rồi mở cửa buồng đồng thời, y cúi xuống rút chốt cùm phía bên phải. Buồng số 6 hơi chéo nên trông có vẻ rộng hơn các buồng khác vài chục phân. Sau khi tên Lê chốt cùm, khóa cửa và đã đi rồi, tôi ngước mắt nhìn toàn bộ căn buồng. Vì theo hình thể của Hỏa Lò, nên xà lim I giống như hình một chữ “V” gioãng. Tôi đang lúi húi dùng chiếc chiếu con, và lựa thế xoay cái chân trong cùm để phủi bụi bẩn trên sàn xi măng, đột nhiên một giọng đùng đục cất lên ở buồng số 12: - Anh bạn ở số 3 chuyển vào đấy à? Anh có khỏe không? Tôi mở mắt to ngạc nhiên, phán đoán: - Ai đây? Sao họ bạo thế! Chắc anh này cũng phải nắm vững được tụi cán bộ ra vào, nên mới đường hoàng nói năng như vậy. Nghĩ như thế, tôi cũng lên tiếng: - Cảm ơn anh, tôi bình thường! Anh ở 12 hả? - Tôi ở 12 đây! Rồi như ngập ngừng dè dặt, anh hỏi tiếp: - Mấy tháng trước, anh có chuyện gì buồn, phải tự tử? Hôm đó, tôi tưởng anh đi rồi. Đêm ấy, cán bộ tụi nó chạy ra vào huỳnh huỵch ấy! Đột nhiên, một giọng ông ổng, trọ trẹ tiếng miền Nam, ngay phía phải sát buồng tôi: - Đ. má, chết làm gì! Các em thơm như múi sầu riêng để cho ai? Tôi cau mặt. Tên số 7! Thật là cộc cằn lỗ mãng! Không biết y tội gì? Ngay khi tôi còn ở buồng số 3, thỉnh thoảng vẫn thoáng nghe tiếng hắn om xòm ở phía trong này. Tôi không trả lời hắn và quay sang buồng số 12: - Anh 12 khỏe không? - Khỏe thôi. Vụ án tôi 15 tháng này xử rồi! Chưa biết ra sao? Vì tôi bị cùm chân, không đứng lên được để nắm rõ tình hình, nên tôi e dè hỏi chuyện: - Này anh bạn 12! Anh có quan sát được cán bộ ra vào không, mà nói chuyện đường hoàng thế? Tiếng xìn xịt cười: - Anh yên tâm, tôi đã ở xà lim hơn 5 năm rồi. Tôi đã là vua xà lim, chúng nó, thằng nào ra vào tôi biết hết. Hễ khi nào tôi ho thì đừng nói nữa. Tôi giật mình ngỡ ngàng. Chà! Anh này tội gì mà ở xà lim lâu thế! Không thể kìm được sự tò mò, tôi hỏi: - Anh bị bắt về tội gì? - Hoạt động tình báo! Tôi choáng người, hỏi tiếp: - Bị bắt từ bao giờ? - Đầu 1959. Trong lòng tôi nôn nóng băn khoăn, phải chăng đây là một đồng chí, một đồng nghiệp của tôi? Tôi vội hỏi để thăm dò: - Anh ở đâu? - 80 Quan Thánh, chỗ cửa hiệu sửa xe đạp ấy! Ủa! Như vậy là thế nào? Anh này là ở miền Bắc, vậy tội tình báo của anh là sao đây? Giữa lúc đó, tiếng ho của anh nổi lên. Xà lim trở lại im lặng, tôi vểnh tai nghe ngóng. Quả thật có tiếng động, rất nhỏ ngoài sân, lẫn với tiếng xào xạc của những chiếc lá bàng khô. Rồi tiếng mở từng cửa sổ con mỗi buồng. À, cán bộ đi kiểm tra. Đến buồng tôi, tôi cố nhìn xem tên cán bộ nào, nhưng cửa nhỏ mở ra đóng vào rất nhanh, nên tôi không kịp thấy rõ đó là ai. Một lúc lâu, tiếng lá bàng lại khua động ngoài sân. Chắc rằng trong lòng anh số 12 cũng nôn nóng muốn hỏi chuyện tôi, cho nên tên cán bộ vừa ra, anh đã lên tiếng: - Anh số 6 tên gì? - Bình! Còn anh? - Căn! Nguyễn Văn Căn! - Anh có đồng vụ không? Số 7 lại ông ổng giọng miền Nam: - Chỉ có tôi với thằng chó đó một vụ thôi! Như vậy, từ nãy, số 7 vẫn lắng nghe tôi với anh Căn nói chuyện. Đột nhiên, số 7 đổi giọng ỏn ẻn: - Em Hương ơi! Đêm nay, trời đẹp như thơ, sang đây nằm với anh, anh sẽ cho em hạnh phúc tuyệt vời! Tôi biết là buồng số 9 ở trong cùng, phía cuối dẫy, có hai cô gái. Nhưng, tôi vẫn ngạc nhiên không ngờ tên số 7 lại thả những lời thô lỗ như vậy. Tên số 7 vẫn tiếp tục: - Người đẹp của anh ơi! Trong suốt hai tỉnh Châu Đốc và Hà Nội này, em cứ hỏi một đứa nhỏ nào, có cũng biết Long Châu Sa này là ai. Anh đã đạp trời, khuấy nước. Lấy anh, em sướng cả đời. Của anh, lại thuộc loại ngoại cở, em sẽ phải rú lên vì sướng. Rồi như để tán thưởng cho những lời tán tỉnh ấy, y cười lên sằng sặc, chân y đạp xuống sàn xi măng thình thình. Xà lim vẫn yên ắng, không một tiếng ai trả lời, trong khi tôi mở to mắt ngạc nhiên: Tại sao lại có cảnh này trong xà lim? Thằng này thật đểu cáng, như một tên côn đồ vậy. Có thể vì nó ở xà lim lâu ngày quá, tinh thần ức chế, nên như một tên điên khùng chăng? Tên số 7 lại lên tiếng, giọng rè rè như say rượu. - Em Hương, em không trả lời anh một câu thì anh không ngủ được, anh sẽ không cho buồng nào ngủ hết. Ngày mai, là ngày tắm giặt, anh sẽ quệt phân vào đôi đũa của em, và quần áo của em phơi ở ngoài sân! Đang bực tức y, tôi cũng phải mỉm cười. Cũng có vài tiếng xìn xịt ở các buồng chung quanh. Tôi hiểu là nó đe dọa, nhưng cũng có thể nó làm được, khi nó là một tên không còn là một con người nữa. Có lẽ buồng số 9 cũng nghĩ vậy, nên một giọng nữ cất lên, nghe như tiếng khánh, tiếng ngọc chạm nhau: - Số 7 ngủ đi! Giọng ồng ộc như con heo của số 7 ré lên: - Ồ, ồ, công nương đã lên tiếng! Xin đa tạ, bỉ nhân đêm nay sẽ ngủ ngon lành.Và xin chấp hành mệnh lệnh của công nương. Vài tiếng xì xí. Bản thân tôi cũng phải nhếch mép. Chẳng hiểu số 9 tội gì? Tôi chỉ nhớ ang áng hai cô vào xà lim từ hơn một tháng nay. Trong thâm tâm lúc này, tôi cũng còn muốn hỏi tiếp chuyện với anh Căn để sáng tỏ về vụ án của anh. Nhưng vì chân bị cùm, tôi không chủ động được, phải tùy thuộc vào số 12. Xà lim vẫn vắng lặng, khí hậu hanh hanh dìu dịu, thoảng vài hơi heo may nhè nhẹ đẩy mùa Thu về. Đêm Thu, ngoài trời chỉ biết có trăng không? Hôm nay là ngày bao nhiêu của Âm lịch, tôi cũng không biết. Tôi đang triền miên mong chờ anh 12 lên tiếng để nối lại chuyện cuộc đời đang bỏ dở, đột nhiên tiếng ngọc buồng số 9 lại khua lên: - Số 6 vì sao bị bắt? Tôi hơi bâng khuâng hướng về số 9, nhưng im lặng. Xà lim lại chìm vào hoang vắng, chẳng nghe thấy cả tiếng ho. Tôi hiểu, nếu có buồng nào được ra sân phơi áo, lượt buồng phía ngoài từ số 9 đến số 14 nếu tinh quái đoán được vị trí của cán bộ đứng, có thể đứng lên sàn để nhìn ra sân và thấy rõ được người ở ngoài. Vì thế, cũng có thể những ngày trước đây khi tôi ra sân phơi quần áo, họ đã thấy tôi rồi chăng, cũng như họ có thể đã nhìn được khắp lượt các buồng rồi. Cả anh Căn buồng 12 cũng vậy, hẳn cũng đã tò mò. Cũng có nhiều tên cán bộ rất tinh quái, nhất là tên Chiến. Y thường đứng ở bàn trực nhìn theo người ra sân phơi quần áo. Nếu người đứng phơi, lại đưa mắt nhìn về phía cửa sổ các buồng thì qua thái độ, y cũng có thể biết được buồng nào đã đứng lên nhìn ra sân. Khi đã nghi rồi, y sẽ rình bắt. Lần sau, cũng buồng ấy ra, y sẽ đi vào trong theo dõi qua khe hở của cửa sổ nhỏ, nếu người trong buồng nhấp nhổm đứng lên là chết ngay với y. Những tháng trước, dù không để ý, tôi cũng đã nghe thấy mấy buồng bị bắt cùm rồi. Nhưng, trừ có buồng 12, tôi chưa thấy anh ta bị bắt lần nào. Đây cũng có thể coi như một cuộc đấu trí nhỏ. Anh nào quái hơn, anh đó thắng. Mãi gần một tiếng đồng hồ sau, buồng 12 lại lên tiếng: - Số 6 ngủ chưa? - Chưa, anh ạ. Bây giờ mới khoảng chín giờ chứ mấy! - Anh bị bắt vì tội gì mà bị cùm? Tôi thấy nói ở đây lại có nhiều buồng khác cùng nghe, rất bất lợi. Do đó, để khỏi rắc rối về sau, tôi trả lời: - Đi tìm tự do! Lúc bị vây hắt, tôi đã đánh nhau với cán bộ nên bị họ cùm! - Lúc chưa bị bắt, anh làm gì! - Giáo viên cấp II. - Ở đâu? - Phủ Lý. Để chuyển ý, tôi chủ động hỏi về anh: - Số 7 với anh cùng vụ? - Cùng vụ! - Vì sao bị bắt? - Tại thằng Long Châu Sa giết một đứa bé 12 tuổi ở Hàng Bạc, để đậy miệng nó lại. Vỡ lở nên bị vồ! - Gia đình anh cũng ở 10 Quan Thánh? - Đấy là nhà bố mẹ vợ…..Tôi đã có 2 cháu. - Năm nay, anh bao nhiêu tuổi? - 33. - Tình báo của các anh là do miền Nam, hay thời Pháp còn lại? Im ắng một lúc, có lẽ anh ta đắn đo trả lời, hoặc anh thoáng nghe hiện tượng có cán bộ vào. Mãi sau, anh mới nhỏ nhẹ, nói vừa đủ buồng tôi nghe: - Từ trước 1954 cài lại. Chúng tôi có liên quan đến Trần Minh Châu, tức Cập. Tôi thót người lại, hỏi kỹ thêm: - Tôi tưởng Trần Minh Châu đã xử năm 1958 rồi? - Anh Cập bị xử tử rồi, chuyện về sau mới vỡ. - Còn hơn một tuần nữa xử các anh. Vậy các anh có đoán, các anh sẽ bị bao nhiêu năm không? Như dè dặt, cân nhắc, một lúc sau anh trả lời: - Tôi, nhẹ thì 15 năm, nặng thì 20 năm. Còn số 7, nhẹ từ 10 đến 12 năm, nặng thì 15 năm. Để có ý niệm về vụ mình, tôi hỏi tiếp: - Vì sao họ giam lâu thế, các anh có bị cùm không? - Vì có nhiều rắc rối! Điểm chính là anh Cập đầu vụ đã chết rồi, nên chúng nó khó điều tra. Chúng nó cùm tôi gần 2 năm trời, bán sống, bán chết, tôi đã phải bò lê, bò càng, chân của tôi bị xuội mấy tháng trời. Nếu không có vợ tôi tiếp tế, thuốc men, tôi đã sống không được. - Thế, số 7 thì sao? - Ồ, cái thằng đó, cán bộ tập kết đấy, nhưng là loại lưu manh giở, anh thấy nó vơ vét nịnh bợ cán bộ… Đột nhiên, buồng số 7 gầm lên: - Đ. M mày, thằng Căn, thằng con heo ghẻ! Mày tốt đẹp lắm đấy! Thế là im lặng luôn. Xà lim chìm sâu vào đêm Thu với nhiều nỗi đầy vơi, khắc khoải của mỗi buồng. Tôi lại miên man suy nghĩ! Chợt nhớ lại trước đây, khi tôi còn giam chung với tên Tân ở xà lim II, có lần Tân nói đến một vụ gián điệp, đã giết một đứa bé ở Hàng Bạc. Vụ này đã làm xôn xao cả Hà Nội lúc ấy, không ngờ bây giờ là đây. Phải, có như vậy tôi mới khỏi băn khoăn thắc mắc, khi nghe “12” là gián điệp tình báo. Với sự hiểu biết của tôi, tụi chấp pháp và cán bộ Hỏa Lò cũng thừa hiểu, dù nội quy nghiêm khắc, cán bộ xà lim báo cáo theo dõi tốt; nhưng những lúc sơ hở, những giờ khuya khoắt, làm sao chả có lúc bị can liên lạc với nhau. Vậy, chỉ những bị can nào xét ra vô hại với nhau, hoặc nếu có cũng không đáng kể, chúng mới cho giam chung một xà lim mà thôi. Từ ý nghĩ này, tôi tin chắc tôi khó có thể gặp một đồng chí, một đồng nghiệp cùng ở miền Nam ra, trong thời gian chúng còn đang thẩm tra cung tôi. Sáng hôm sau là ngày tắm giặt! Khi đến buồng tôi tắm xong, tên Chiến ngồi ở bàn quát: - Ra đi! Ở xà lim ai cũng hiểu là khi đổ bộ, hoặc tắm xong rồi, nếu muốn ra trước khi cán bộ giục, phải báo cáo: “Báo cáo, nhà tắm xong!”. Nếu cho ra mới được ra, còn không phải đợi. Vì, đơi khi có buồng khác ra vào, đi cung chẳng hạn. Khi tôi ôm bô với quần áo đã giặt qua bàn y, tôi báo cáo: - Báo cáo, cho phơi quần áo? Mỗi buồng 15 phút (tắm), 10 buồng 150 phút, lại còn lấy cơm, trả bát, như vậy gần hết buổi sáng. Vì thế, để nhanh, khi buồng này báo cáo phơi, y đứng dậy mở cho buồng khác ra. Do đó, buồng ra sân, khi phơi xong, cũng phải báo cáo vào, vì sợ gặp người ở rong đang đi vào nhà tắm. Ra sân, trong khi phơi quần áo, tôi nhìn trên chiếc dây phơi, thấy ngoài một số đồ trại vải sòng sọc, và một số quần áo tư của nam giới, lại còn mấy quần áo phụ nữ ở trong góc. Tôi chợt liếc lên, thấy buồng số 9 và 12 đang đứng lấp ló chỗ cửa sổ rồi. Tôi phải cảnh giác tên Chiến, nếu nó đi vào trong, tôi sẽ lập tức ra hiệu cho 2 buồng đó ngồi xuống. Trong buồng nhìn ra sân thì rất rõ, vì từ tối nhìn ra sáng. Ngược lại, từ ngoài sân nhìn vào, vì qua một lượt lưới thép nên trông không rõ lắm, mặc dù cửa sổ khá to. Tuy vậy, tôi cũng thấy bóng trong buồng 12 có bộ mặt tròn trịa, đầu tóc hớt cao, nhọn hoắt, dạng người mập tròn. Còn bên buồng số 9, cả hai cô đều đứng lên, một cao, một thấp. Tôi đoán, có lẽ cô Hương là cô cao, có mớ tóc dài, bộ mặt trái soan. Cả hai cô cứ rối rít vời như chào tôi. Để giữ cho các cô, tôi không tỏ thái độ gì vì biết tên Chiến, đang đứng chỗ bàn trực nhìn về phía mình.Tôi đang đứng quay lưng về phía hắn, tay vẫn vờ sờ sờ, kéo kéo quần áo ra trên đây, y không thấy mặt tôi, và tôi cũng không dám cử động cái đầu quay về phía các cô. Chỉ dám cười, như để đáp trả những cái vời của các cô. Vào trong buồng, tôi cũng thấy bâng khuâng, lòng nao nao vui. Giữa chốn tù đày cùng khổ thế này, mà tình người vẫn nồng đượm chơi vơi. Ngay chiều hôm ấy, khi trả bát, tôi xin ra ngoài sân lấy quần áo phơi, buồng số 9, hai cô cũng đứng lên. Họ dũng cảm thật, không sợ cùm! Nhưng, cũng chỉ là nhìn nhau thôi, chứ nói chuyện hỏi thăm nhau làm sao được….. Tối hôm ấy, cán bộ trực là tên Điền, người vẫn phụ trách phòng tiếp tế. Tên này có tính ít đi “tua”, và cũng không hay rình rập, thường kiểm tra xong là đi đâu mất, có thể lại ra phòng trực ngoài trại chung, ngồi đấu láo với nhau bên ấm trà cho đỡ sầu đêm Thu. Theo tôi hiểu, một ca trực đêm các khu trong Hỏa Lò, gồm cả trại chung, xà lim và cơ quan, cũng chỉ 4, 5 tên công an; còn vũ trang đi tuần phòng và canh gác bên ngoài thì không kể. Cho nên, chúng nó cũng buồn. Ca sau lại 4, 5 tên khác. Hơn nữa, Ban Giám Thị cũng như cán bộ thường ở ngay những dãy nhà phía cổng Hỏa Lò. Do đấy, có chuyện gì đột xuất, chúng vẫn có đầy đủ người để giải quyết. Mới từ hôm qua đến nay, để ý, theo dõi, tôi đã nắm được toàn bộ số người trong xà lim (tất nhiên, cũng nhờ có sẵn kinh nghiệm của hơn 2 năm nằm xà lim nên mới vững nhanh như vậy). Tổng số: 17 người. Có 7 người cùm một chân; chia ra: Buồng số 1, một người; buồng số 2, không người; buồng số 3, 2 người, một bị cùm một chân; buồng số 4, 2 người; buồng số 5, 1 người; buồng số 6, là tôi; buồng số 8, 2 người, cả hai bị cùm một chân; buồng số 8, 2 người; buồng số 10, 1 người; buồng số 11, 1 người, bị cùm một chân; buồng số 12, 1 người; buồng số 13, không có người; và buồng số 14, 2 người, một người bị cùm một chân. Tôi thắc mắc, không hiểu tại sao hai buồng số 2 và số 13 luôn luôn không mở cửa đến. Nhưng, thỉnh thoảng vào những ngày Chủ Nhật, lại có hàng đoàn người, cả đàn ông đàn bà vào ra im lìm trong buồng này. Như vậy để làm gì? Giữa lúc này, số 12 lên tiếng: - Số 6 quê ở đâu, hở anh bạn? - Hà Nội! - Năm nay bao nhiêu tuổi? - 26 Bỗng buồng số 9 lên tiếng, giọng ngập ngừng: - Số 6 chỉ có quần áo trại, vậy ra không không có người tiếp tế à? Chà cô này để ý thật, tôi cũng mềm dẻo cho qua: - Cảm ơn sự quan tâm, vì một lý do riêng, tôi không có người tiếp tế! - Thế bị bắt đã lâu chưa? Tên Long Châu Sa bỗng hộc lên như con lợn nái đòi ăn: - Công nương của tôi hôm nay nói nhiều quá! Em có biết không? Nghe giọng em nói, anh muốn tụt quần ra thôi! Thật là bỉ ổi. Tôi lờ đi, quay sang 12: - Này, 12 ơi! Anh có biết buồng số 2 và 13 chúng để làm cái gì không? - Ồ, tôi đã ở xà lim này hai năm rồi, năm ngoái, khi ông Vân còn trực ở đây, thấy tôi tù lâu xà lim, nên thỉnh thoảng chiếu cố cho tôi ra quét dọn. Có lần, tôi phải lấy nước dội rửa và quét hai buồng ấy. Theo chúng nói, thời Pháp thuộc, buồng số 2 là chỗ giam Hoàng Văn Thụ, và buồng số 13 giam Trần Đăng Ninh. Bây giờ, chúng để hai buồng đó lại làm lưu niệm. Thỉnh thoảng có các phái đoàn ở các tỉnh, cũng như các cơ quan vào thăm để thấy cái…dã man, tàn ác của thực dân Pháp. Đột nhiên, buồng số 7 ư ử rên, gọi số 10: - Anh bạn số 10, ngày mai là Chủ Nhật, cán bộ khác trực, không phải ông Chiến là được rồi, anh báo cáo, có ít thuốc lào muốn cho cái thằng Căm pu chia điên khùng này nhé! Tôi biết anh bạn có nhiều thuốc lào. Tôi lại hết rồi, 5 năm nay không ai tiếp tế cho cả. Anh bạn nhớ nhé “bố thí” nhé!? Nếu không, tôi bảo đảm với bạn là đũa và bát cơm của bạn thế nào cũng có phân! Thật đúng là một tên vô liêm sỉ. Tôi nghĩ rằng, loại người như tên Việt gốc Căm pu chia này, ở bất cứ một chế độ nào, hay một tập thể nào, cũng chỉ đập phá, làm ung thối tập thể hoặc chế độ đó mà thôi. Vậy tại sao, nó lại là cán bộ tập kết ra Bắc? Rồi màng lưới tình báo của Trần Minh Châu tức Cập lại thu nhận những con người như vậy, dù cho là chỉ với tính cách giai đoạn? Nó là loại “mất nhân tính”, không có cách gì cải hóa được, sớm hay muộn nó cũng phản; như một con chó mà cắn lại chủ, chủ nào nuôi? Ngày hôm sau, trực xà lim lại là tên Nhiễm. Đã lâu rồi, từ hôm tôi tự tử, bây giờ tôi mới lại trông thấy y. Tên này rất nghiêm và khó tính. Thế mà, buồng số 7 vòi vĩnh, nịnh bợ thế nào không biết, tên Nhiễm đã hỏi số 10, có thuốc lào hãy cho thằng khốn nạn ấy một ít. Thực ra, nếu ai có thuốc lào, cũng không hối tiếc gì đối với một người bạn tù; nhưng đâu dám báo cáo cho buồng khác. Như vậy, các anh đã liên lạc với nhau khi vắng cán bộ à? Nếu không, làm sao biết buồng kia hết thuốc lào? Nhưng, có lẽ riêng tên Căm pu chia mất gốc này, ai cũng thấy nó chẳng có chính “chị”, chính “em” gì cả, mà chỉ là loại “chính ăn” hay “lưu manh chính trị”. Cho nên, hầu như tên cán bộ nào cũng có đôi chút dễ dãi với nó. Còn mọi người đồng phạm trong buồng thì coi nó như người hủi, không một ai muốn dây. Tôi chợt nghĩ, nếu đây là một phương pháp đóng kịch tuyệt hảo của y thì sao? Có như vậy mới qua mặt được hết mọi người. Suy nghĩ, và nhận thức về một con người mà mình ít nhiều tiếp xúc (tôi đã có một số kinh nghiệm nghiệp vụ, qua nhiều thực tiễn, đến giai đoạn là “ngửi” vấn đề), chủ quan, tôi thấy y là một tên vô lại từ bản chất. Dù vậy, tôi chưa khẳng định, còn đợi thời gian và sự việc để bổ sung cho nhận thức của tôi thêm bén nhậy sau này. Chả bao lâu đã tới ngày 15. Ngay từ sáng sớm, tên Chiến trực xà lim chưa đến, đã thấy có mấy tên cán bộ lạ vào, mở buồng số 7 và 12 dẫn đi. Mãi tới 12 giờ, hai buồng mới về. Tôi rất nóng lòng muốn biết họ bị xử bao nhiêu năm. Có lẽ, một số buồng khác chung quanh cũng cùng có một tâm trạng như tôi. Lúc này đang là giờ trưa, nhiều lần tôi định lên tiếng hỏi thăm buồng 12 mà cứ ngập ngừng không dám, vì tôi chưa nắm chắc được là cán bộ tinh quái (như tên Thế “mũi cà chua” chẳng hạn) giả vờ nặng chân đi ra cổng, đóng cửa nghe đánh thình một cái, nhưng y lại chưa ra, rón rén trở vào, đứng yên chờ nghe các buồng nói chuyện. Buồng nào chủ quan không để ý kỹ, ôi thôi lại đặt chân vào “cạm”. Cũng có tên, theo kiểu ngồi lì như tên Chiến, y để một cái ghế giữa hai dẫy buồng xà lim, rồi ngồi im đọc sách, hàng mấy tiếng đồng hồ. Buồng nào đứng lên nhìn cổng, rồi nghe ngóng mãi không thấy động tĩnh, hiện tượng gì tỏ ra là có cán bộ ở trong, tưởng là an toàn, bấy giờ lên tiếng gọi nhau, chỉ còn nước há hốc mồm ra mà đút chân vào cùm. Ngập ngừng mãi, không làm sao được, tôi ho hắng gọi 12, nhưng mãi cũng không thấy 12 lên tiếng gì cả. Chắc buổi xử án căng thẳng thế nào đó, nên 12 về nằm liệt không thiết nói chuyện với ai nữa. Tôi suy đoán tới lui, đưa ra nhiều lý do, trường hợp, nhưng tất nhiên là không có lời giải đáp nào chắc chắn. Tôi lại nằm chiếc sàn cạnh buồng số 5, nên không có cách nào để gõ vào tường phía số 7 để hỏi được. Mãi gần tới giờ trưa, giờ làm việc chiều đã tới, bỗng dưng cô Hương buồng số 9 lên tiếng: - 12 và số 7 xử án thế nào? Giọng ìn ịt rên rỉ của số 7: - Người đẹp ơi! Vụ án của anh căng quá, xử từ sáng tới giờ chưa xong. Phen này chắc anh đi “mò tôm” mất em ơi!... Đột nhiên, tiếng cửa sổ nhỏ buồng số 7 xoạch mở, một tiếng quát làm nẩy tim mọi người: - Anh nói chuyện với buồng nào? - Tôi nói chuyện với nàng tiên của tôi! - Nàng tiên nào? - Ở trong mộng! - Tôi cùm cổ anh vào bây giờ, mặc quần áo vào! Cửa buồng số 7 mở, rồi đến phòng 12. Thì ra là tên Bằng! Chắc là nó vào từ lúc buồng 9 vừa hỏi xong, vậy mà không ai biết. Số 7 cũng nhanh trí, không thì số 9 kẹt. Vả lại, tên Bằng này cũng dễ! Thêm nữa, chắc y cũng thông cảm với tên tù đã lâu, lại đang trong ngày xử án tinh thần căng thẳng, nếu không nó cứ truy hỏi tới, thì chắc cũng ra buồng số 9 để cùm. Hoặc giả nó có chủ ý để bắt, nó cứ đứng yên một lúc nữa để nghe hai bên đối đáp, rồi chỉ việc rút chốt cùm là xong! Khoảng 4 giờ chiều, bỗng có tiếng động ở ngoài cổng xà lim, rồi những tiếng xụt xịt đi đang vào trong sân. - Có gan làm, có gan chịu, khóc lóc cái gì! Tòa xử bao nhiêu năm? Tên Chiến vừa hỏi, vừa đập đập chùm chìa khóa lên mặt bàn. Giọng số 7 nói trong nức nở: - Chung thân! - Còn anh kia? Tiếng một tên cán bộ trả lời, giọng miền Trung nặng chịch: - Nguyễn Văn Căn, tử hình. Lê Văn Lượng, chung thân! Có cả tiếng tên Tư trực xà lim III: - Anh kia! Vào dọn quần áo ra trại! Những tiếng bước chân xoèn xoẹt của 4, 5 người đi vào buồng số 7 và 12. Tôi điếng người khi nghe anh Căn bị tử hình, bản thân tôi cũng không ngờ. Tôi liên tưởng tới bản án của Phạm Huy Tân. Hai vụ án, tất cả bị can đều ước đoán mức án dưới sự thực xa. Phải chăng đây là một chủ trương của ngành hành pháp và tư pháp của cộng sản? Tuy mới biết có hai vụ, chưa gọi là đủ để kết luận, nhưng tôi đã thấy chiều hướng đúng, ngả về phía dự đoán của mình. Từ nãy, tôi vẫn chỉ nghe tiếng xụt xịt của Lượng, mà không thấy tiếng của Căn. Trong khi lục đục dọn quần áo ở trong buồng, bỗng số 7 gào to: - Công nương ơi! Từ nay ngàn dậm phương trời, làm sao anh sống được! Có lẽ mấy tên cán bộ, nhất là Chiến, biết số 7 nói với ai rồi. Nhưng, chúng không chấp trong những phút như thế này, vì thế, tên Chiến chỉ quát: - Im ngay cái mồm, ra đi! Lừng khừng mãi! Trong lúc một tên cán bộ dẫn số 7 đi, thì nghe tiếng chốt cùm buồng 12 rút ra đến xoạch một cái. Giọng miền Trung nghe nặng như tiếng giã gạo trong cối đất: - Lúc ở phòng Ban Giám Thị, anh đã nghe đọc quyết định rồi, bây giờ hãy chấp hành! Lúc này, tôi mới nghe tiếng của anh Căn, run run như đang lên cơn sốt: - Vợ con tôi từ nay sống làm sao? - Ngoài tòa, anh có ký đơn xin Chủ Tịch nước, ân xá tội tử hình không? Vừa đóng chốt, tên Chiến vừa hỏi. Tiếng anh Căn: - Báo cáo, có! - Như vậy, anh còn sống thêm 6 tháng nữa, để chờ quyết định tối hậu. - Thưa ông, về tội chính trị từ trước tới giờ, Chủ Tịch nước có tha ai đâu! Tên miền Trung có vẻ cáu tiết: Anh đừng nói láo! Hãy tin tưởng, nghe không! Cửa đóng, tiếng những bước chân xền xệt nhỏ dần ra phía cổng xà lim. Lòng tôi dâng lên một niềm thương mến anh Căn vô độ. Sau khi vểnh tai nghe ngóng và phán đoán là lúc này không còn tên cán bộ nào trong xà lim, tôi liền lên tiếng. Vì tôi muốn là người đầu tiên nói với anh những lời thăm hỏi, ủi an thầm kín, của một người đồng chí hướng: - Anh Căn ơi! Tôi xin chia xẻ nỗi đau buồn của anh. Giọng anh run run, xúc động: - Cám ơn anh, tôi chỉ thuơng vợ con tôi thôi! - Anh hãy nên….. Đột nhiên, tiếng cô Hương buồng số 9 chận ngang câu nói của tôi, bằng một giọng thì thào vội vã: - Cán bộ vào! Tôi thầm cảm ơn người số 9. Trong khi hai bên nói chuyện, lại đều bị cùm, cô đã gác tụi áo vàng cho chúng tôi. Từ lúc này, nếu chúng tôi muốn nói chuyện đều phải nhờ buống số 9. Chẳng hiểu buồng số 9 có thấy như vậy không? Đêm hôm đó, và cả ngày hôm sau, lòng tôi đầy vơi bao nhiêu ngả vì anh Căn. Anh và tôi, tuy mới vừa biết nhau, thậm chí tôi còn chưa trông rõ mặt anh, thế mà lòng tôi cảm thấy thân thương, gần gũi. Có phải lòng tôi như vậy, vì anh là một người lính chiến của thế giới tự do, mang trong mình giòng máu Quốc Gia chống cộng? Điều ấy, có lẽ tôi không phủ nhận. Vâng, có! Nhưng chỉ một phần thôi, phần đó lại chưa phải là phần cơ bản. Bởi vì, trên đường tôi đi, tôi đã gặp nhiều, nhan nhãn, đâu mà chả có những người lính chiến, vào sinh ra tử, không từ nan gian khổ, dù có phải hy sinh tính mệnh, vẫn cầm chắc tay súng, ghim những viên đạn thù vào đầu lũ giặc cộng, vì tự do cho mọi người. Phần chính làm tôi dạt dào mến mộ anh, đó là, anh đã chiến đấu, và không may anh bị rơi vào tay kẻ thù. Bây giờ, anh đã nhận lãnh một bản án tử hình, do tòa án phi công lý của kẻ thù kết tội. Anh đang nằm chờ ngày anh về với cát bụi, một mình giữa đơn lạnh, hoang vắng trong tăm tối gông cùm, không một ai hay. Có chăng, chỉ người vợ dại và hai đứa con thơ của anh. Trong đêm tối mịt mùng này, chỉ có mình tôi, tôi đại diện cho tất cả mọi người đang được hưởng tự do và hạnh phúc, biết ơn anh. Nếu không có hàng triệu triệu những chiến sĩ vô danh như anh, ngoài chiến trường, trong rừng sâu, ngoài biên cương hẻo lánh, hay trong nơi tăm tối ngục tù, thì làm sao có những người đang được nhởn nhơ, ngụp lặn trong đống vàng, và đang bơi lội trong hạnh phúc. Tôi cứ miên man nghĩ ngợi, rồi đi dần vào giấc ngủ muộn đêm thâu. Đang mơ màng, đột nhiên một tiếng cười ré lên làm tôi giật mình tỉnh dậy. Lúc này, có lẽ khoảng 2, 3 giờ đêm, tôi đã ngủ được một giấc khá dài. Đêm càng về khuya, xà lim càng vắng lặng heo hút. Ngoài trời, đêm nay gió thật nhiều! Tiếng gió gầm gào vi vu, nhiều lúc như rít lên trên mái nhà. Tiếng xào xạc, sôi réo từng hồi củ những chiếc lá bàng, lắc lư đập vào nhau theo từng đợt gió mạnh. Tiếng xột xoạt của những chiếc lá rời cành, báo cho thế nhân nàng Thu đã về. Tiếng rên từng chập dài lê thê của buồng số 8; tiếng cò cử như bễ thợ rèn của buồng số 5;…tất cả tạo thành một bản nhạc đêm Thu, cho người không ngủ não nề nằm…..nghe. Hồi nãy, rõ ràng có một gọng cười đã đánh thức tôi dậy, không biết của buồng nào? Tôi đang nằm tỉnh mơ, lòng băn khoăn vì tiếng cười, tai vẫn thuởng thức đệu nhạc Thu đêm dài, đột nhiên, tiếng cười lại ré lên. Lần này nghe rõ mồn một, của buồng số 10; cứ im một tí lại cười. Có lúc dòn khậc khậc như con gà Tây gáy, có lúc ngắc ngư khìn khịt như con heo nái, đang hục mõm trong máng cám tìm ăn; lại có lúc nghe ọt ẹt, õng ẹo như con gà mái muốn đẻ đang gại trứng. Những tiếng cười này làm cho tôi, và có lẽ cho một số buồng khác chung quanh, không ngủ được cho tới sáng. Một tên cán bộ từ ngoài cổng xà lim đi vào, quát ầm lên: - Buồng nào làm ầm thế? Chẳng có tiếng trả lời! Vẫn chỉ là những tiếng sằng sặc như lắc lẻ của buồng số 10. Tên cán bộ vào, mở cửa sổ nhỏ buồng 10, hỏi: - Anh cười cái gì thế! Anh điên à? Im lặng, cả tiếng cười cũng bặt luôn. Tên cán bộ vừa đóng cửa sổ nhỏ lại, vừa gằn giọng: - Anh không ngậm ngay cái miệng của anh lại, tôi vào cùm đầu anh bây giờ! Chỉ im được một lúc, rồi vẫn tiếng cười ấy nổi lên. Có khi, cười chán lại khóc, hễ có cán bộ vào quát thì im, khi cán bộ ra, lại tiếp tục như cũ. Suốt ngày đêm! Sáng hôm nay cũng vậy, nhưng tên Chiến trực chính của xà lim I, xưa nay vẫn có tiếng trị những người tù dở chứng. Y vào, mở cửa buồng số 10: - Anh bỏ ngay cái trò con tiều đó đi! Anh muốn giả điên hả? Tôi đã trị bao nhiêu thằng điên như anh rồi. Anh có ăn được cứt ngon như ăn cơm không? Im lặng, không hề nghe tiếng số 10. Tên Chiến đi ra, số 10 lại tiếp tục cười. Tên Chiến trở vào, rút chốt cùm, quát to: - Bỏ chân vào! Lục đục một lát, tên Chiến lại quát: - Bỏ 2 chân vào! Nếu biết điều, không làm ồn nữa, tôi tha cho, nếu tiếp tục làm ồn, tôi sẽ cùm mồm lại. Anh càng dở chứng, anh càng chết sớm! Nhiều buổi, tôi thấy số 10 đổ cơm nước, linh tinh ra lối đi. Dạo này, cũng không thấy số 10 đi đổ bô hay tắm rữa. Vẫn ngày đêm, lúc cười, lúc khóc. Những tiếng cười, tiếng khóc này càng gợi thêm nỗi não nề, cay đắng cho người chung quanh. Mấy ngày sau, chẳng hiểu cứt, đái của anh ta trong buồng thế nào, mùi thối hoăng xông lên. Ngày cũng như đêm, cứ thỉnh thoảng lại một cơn heo may nhè nhẹ, đẩy vào buồng tôi mùi phân khăn khẳn buồn nôn. Chứng kiến buồng số 10, và bao nhiêu buồng trước đây nữa của xà lim III, xà lim II, tôi lại hình dung cảnh tù đầy của chính mình. Thú thật, tôi rất sợ bệnh thần kinh. Ở trong xà lim như thế này, lâu ngày, rất dễ bị thác loạn tinh thần. Nào là cực khổ đói rét, thần kinh căng thẳng ngày đêm vì cung kẹo, rồi những suy tưởng đến gia đình, bạn bè, xã hội, cuộc đời…..bao nhiêu thứ giằng co, cào xé bộ óc. Miệng thì câm như hến, nhưng đầu óc thì cứ căng ra suốt đêm ngày. Tinh thần bị ức chế tối đa! Vậy, nếu không chịu tìm nhiều lối thoát cho tư tưởng, và có một nghị lực chế ngự mạnh, không sớm thì muộn, tinh thần sẽ không còn bình thường nữa. |
|
|
![]()
Post
#51
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Bốn Mươi Chín
Vượt Ngục .....! Trưa hôm nay, tuy đã đầu Thu, nhưng cái nóng chói chang vẫn như hun đốt không gian. Không khí như một miếng bông thấm khổng lồ, hút khô cảnh vật. Làm môi như co lại, bong ra từng miếng vẩy, để chống lại cái nóng hanh của đất trời. Tôi đang nằm đăm chiêu, vướng vất những suy tư về vụ án của anh Căn, đột nhiên cửa sổ nhỏ mở. Tiếng mụ Hoa, giọng rèn rẹt Quảng Nam: - Đi cung! Rồi mụ quay ra, rút xoạch chiếc chốt cùm. Chà! Lâu quá không đi cung, và cũng khá lâu rồi không gặp mụ Hoa. Chẳng hiểu, bặt đi 4, 5 tháng, tôi đi cung chẳng thấy mụ ta đâu, tôi cứ tưởng mụ đã đổi đi nơi khác rồi. Vừa đi tôi vừa liếc nhìn dáng đi vặn vẹo, với đôi chân vòng kiềng khuều khoào của mụ như múa bên cạnh, tôi liên tưởng tới thời kỳ con gái của mụ. Tôi không thể hình dung được sắc đẹp của mụ thời gian ấy, nó như thế nào mà có thể đánh đổ kềnh một anh Trung Sĩ nhà ta. Để rồi đè bẹp một đồn binh của chúng ta, như lời tên Tân kể lại cho tôi nghe trước đây. Tôi chậm chạp, lầm lủi đi theo mụ. Quen như mọi khi, tôi rẽ về phía trái. Là chỗ dẫy phòng đi cung, nhưng mụ lại ra hiệu bằng ngón tay, hướng ra phía cổng Hỏa Lò. Tôi thấy hơi lạ! Hơn 2 năm trời, chưa bao giờ tôi lại ra phía cổng Hỏa Lò để đi cung, vì vậy, tôi phải chuẩn bị ngay tư tưởng để phòng hờ, đối ứng với những việc bất ngờ. Khi gần tới cổng, mụ dẫn tôi quẹo về phía bên phải, trèo lên một bậc hè, đến một căn buồng có chiếc xe đạp đang dựa vào tường gần cửa buồng. Mụ đẩy cửa, bảo tôi vào. Bên trong là một căn buồng trống trơn, cũng như nhiều căn buồng hỏi cung khác, nghĩa là chỉ có một cái bàn mộc cũ kỹ, trước bàn có một cái ghế đẩu để cho bị can (người tù còn đang trong thời gian khai thác) ngồi. Một tên cán bộ lạ hoắc, chừng 30 tuổi, đang ngồi trước bàn. Trên bàn có một chiếc căp đen đầy, có lẽ đựng hồ sơ. Thấy tôi vào, y chỉ chiếc ghế đẩu, ra hiệu bảo tôi ngồi: - Anh “nà” Đặng Chí Bình? Chỉ thoáng qua giọng nói cùng vài cử chỉ, tôi đã thấy tên cán bộ này ở một tỉnh xa về đây có việc. Tỉnh đó có thể là quê hương tôi. Tôi dè dặt, chỉ “dạ” một tiếng! Y đứng dậy, nghiêm mặt lạnh lùng: - Anh phải thành khẩn trả “nời” rõ ràng những câu tôi hỏi: “Núc” 1954, bố mẹ anh di cư vào “Lam” rồi. Trong cuộc cải cách ruộng đất, nhân dân, trong đó có họ hàng và người ở “nàm” thuê cho gia đình anh đã tố cáo “nà” bố anh, có chôn trong thửa đất nhà anh một cái chum to, chứa toàn đồ cổ bằng sứ và đồng đen. Đường phố cũ bây giờ mở rộng, dẫy phía nhà anh đều phá bỏ. Đây “nà” sơ đồ thửa đất và nhà của bố mẹ anh. Anh hãy chỉ, bố anh chôn cái chum đó chỗ “lào”? “Lếu” tìm thấy, anh sẽ được hưởng một “lửa”. Nhìn và nghe y hỏi, tôi rất ngạc nhiên. Ngạc nhiên là năm 1953, tôi từ Hà Nội về quê chơi mấy tháng, và một đêm yên ắng, tối trời, (ngay chị giúp việc, cũng đã phải cho về quê nghỉ mấy ngày), chỉ có bố tôi và tôi ở nhà, hì hục đào dưới nền nhà bếp để chôn cái chum, thế mà giờ đây bên ngoài đã biết. Như vậy, đã từ lâu và nhiều lần rồi, ngay từ cuối 1954, khi bố mẹ tôi di cư vào Nam, chúng nó đã xâm, chọc và đào khắp thửa đất nhà tôi, nhưng chưa thấy! Bây giờ, từ Hà Nội, công an về điều tra lý lịch của tôi tại quê. Rồi từ đấy, tụi cầm quyền địa phương chợt nhớ đến chuyện cái chum, cho nên chúng đã phái một cán bộ lên Hỏa Lò, xin phép để gặp tôi. Chúng hy vọng tôi biết và nhớ chỗ chôn cái chum, sẽ chỉ chỗ cho chúng đào. Điều thứ hai làm tôi ngạc nhiên là, không biết chúng đánh giá sự hiểu biết của tôi thế nào, mà lại hỏi tôi thế? Tôi nghĩ rằng, ngay một người dân bình thường, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc từ 1954 đến bây giờ; ai cũng hiểu những loại của đó không những không được dùng, mà đôi khi còn bị liên lụy để vào “ấp” nữa. Huống chi, tôi đã là một người tù, lại là một người tù chính trị chống đảng nặng nhất. Vậy, một tên tình báo ra ngoài Bắc, cho dù bẹt đi nữa, cũng phải được học và nghiên cứu về xã hội miền Bắc, nơi sắp sửa xâm nhập để hoạt động. Rồi nó ra ngoài miền Bắc hàng tháng trời đi lại tứ tung; thế mà nó lại không biết một điều đơn giản như vậy hay sao, đến nỗi để mắc vào cái mưu “mua chuộc” trẻ con ấy của cộng sản”? Chỉ có họa chăng là anh ấy điên, mới bị mắc cái “bẫy” ấu trĩ này. Nghĩ như vậy, tôi ngửng mặt lên nhìn y, thái độ và vẻ mặt của tôi càng tỏ vẻ ngạc nhiên hơn, nhưng là cái ngạc nhiên khác: - Thưa ông, khi rời nhà quê, tôi mới 12 tuổi. Hơn nữa, chưa bao giờ tôi nghe thấy bố mẹ tôi nói về cái chum chôn đó cả; cả ngay sau này ở miền Nam cũng vậy. Như thế, có thể đây là một chuyện nhầm lẫn hay chăng? Không biết dáng vẻ của tôi trả lời như thế nào, mặt nó nghệt ra như ngỗng…ỉa. Vừa như tiếc là bao hy vọng của bọn cầm quyền địa phương, cũng như của y lên đến đây, đều không được việc gì. Vừa như ngẩn ngơ bần thần, không biết rồi đây có cách nào để tìm được cái chum. Tâm lý người đời là vậy! Con cá sẩy là con cá to, cái chưa biết và không thể tìm thấy thì cho là quý lắm. Nhìn cái gò má bên trái của y giật giật, và bàn tay của y cứ xoa đi xoa lại trên mặt bàn, tôi chợt lóe lên một ý nghĩ:”Tên này, thật cả đẫn! Hay ta lợi dụng thời cơ chớp nhoáng, chuồn? Thời cơ bất ngờ đưa đến! Thời cơ thường dễ đi, khó đến. Thời cơ đến, không biết chớp lấy, đôi khi còn mang họa nữa ấy chứ! Hơn nữa, canh bạc cuộc đời tôi ra ngoài Bắc đánh với chúng, tôi đã thua rồi cơ mà. Bây giờ được đánh lần nữa, biết đâu chẳng gỡ được. Vả lại, dù thua, tôi có mất thêm gì nữa đâu. Bởi có còn gì nữa đâu mà mất! Tóm lại, hành sự đi, chỉ có được chứ không mất gì cả. Suy tới nghĩ lui xong, tôi tính toán thật nhanh, nhìn tổng quát mọi điều kiện, rồi hình thành ngay một kế hoạch. Bây giờ đã gần 3 giờ chiều rồi, còn 2 tiếng nữa mới tới giờ tan tầm. Tôi liếc nhìn cửa buồng đóng, nhớ chiếc xe đạp dựa tường phía bên ngoài. Tên cán bộ đang cúi nhìn bàn sơ đồ của thửa đất và mấy ngôi nhà tôi. Y chỉ cao bằng tôi. Có mập hơn một chút; nhưng, nhìn bắp thịt tay, tỏ ra là y không có tập tành gì cả. Hơn 2 năm nay, từ khi tôi bắt đầu đi cung, đã thấy ra một điều gần như quy luật: Sau khi chấp pháp hỏi, tra xong, dẫn bị can xuống phòng trực giao cho cán bộ trại. Chứ chưa thấy cán bộ trại lên phòng cung đón bị can mang về bao giờ. Cá biệt, cán bộ trại mới đưa bị can tới phòng chấp pháp. Thông thường, chấp pháp phải đợi ở phòng trực, khi cán bộ vào trại vào các buồng lấy tù ra đến phòng trực, bấy giờ chấp pháp mới ký vào một cuốn sổ để nhận người. Khi đem trả, cũng ký trả. Đầu tôi căng lên vì tính toán, cuối cùng tôi quyết định, phải tiến hành. Có nguy hiểm, nhưng phải liều. Không liều, nhiều khi không có gì cả. Tôi cũng hơi ngập ngừng băn khoăn một chút, khi nghĩ tới sợi chì mật, vẫn giấu trong cái vỏ ba lô gối đầu, để ở buồng xà lim. Thôi, dù sau này có kẻ nào nhìn thấy sợi ny lông, cũng không thể nào cho đó là chì mật. Hơn nữa, nó ở trong đường chỉ của mép túi, có khi cái ba lô ấy dùng đến rách nát, bỏ đi, cũng không ai trông thấy. Thời gian cấp bách quá rồi, không thể chần chừ được nữa. Cứ giùng giằng thì không làm nên việc gì cả! Trong cuộc đời tình báo của tôi, và khi thụ huấn một số “cao nhân” trong nghề, tôi biết nhiều thế đánh, thế khóa, nhưng tựu chung, có mấy thế thật hữu hiệu. Tùy theo người đánh muốn đối phương chết, hay ngất ngay, không một tiếng kêu. Tất nhiên, cũng phải ở những cánh tay, cứng cáp và…yếu tố bất ngờ. Tính rồi, tôi tươi nét mặt, tay vỗ trán nhìn tên cán bộ, vờ nói để có thể đến gần y được: - À, tôi nhớ ra rồi! Tôi nhớ mang máng khoảng 1952 hay 53 gì đó, một hôm chơi trong buồng, tôi không thấy cái chum to nhất, tôi vẫn thường trèo vào trốn ú tim với các em. Tôi hỏi, con em 10 tuổi bảo là bố chôn ngoài vườn hoa, giữa gốc cây đào và cây mơ. Mắt y sáng lên, y cúi gầm xuống tờ giấy ở trên bàn, hấp tấp: - Đâu? Đâu? Cây đào và cây mơ nhà anh ở đâu? “Thế là anh bạn đã lãnh đủ với tôi rồi!” Tôi đứng dậy, tiến sát vào bàn, cũng cúi xuống, tay trái của tôi chỉ chỉ, trỏ trỏ, như tìm những vật chuẩn ở phía sau nhà. Y đang ngồi, tay cầm một cái bút chì cũng rê rê theo ngón tay tôi. Trong khi đó, tôi chậm chạp xê dịch người, lựa đúng khoảng cách để ra đòn có trọng lượng cao nhất. Vận sức vào cánh tay phải, tôi lấy đà quay một vòng, chớp nhoáng chém một phát như búa bổ vào cái gáy đang cúi xuống của y. Tôi vừa sử dụng cùng một miếng đòn của vỏ sĩ Samsaray, vô địch quyền tự do của Cam pu chia, đã hạ võ sĩ Hà Châu, vô địch Hồng Kông, và hạ võ sĩ Vĩnh Tiên, vô địch quyền anh Đông Dương, ở trận võ đài quốc tế những năm trước, được tổ chức trong sở thú (Sài Gòn). Tôi đã tính rồi, bây giờ vì đói khổ lâu ngày, sức giảm đã nhiều, vậy cú đòn đầu này có thể làm y choáng váng. Tiếp theo, tôi sẽ dùng một thế khóa cho ngất đi, mà không cho y chết, bởi vì, y không phải là kẻ thù chính của tôi. Nhưng, thật không ngờ, cú đánh của tôi vẫn còn quá mạnh. Y chỉ kêu được một tiếng “Hực”! nhỏ, rồi gục ngay xuống bàn, tay chân xuội ra, ngất ngay. Tôi chạy lẹ ra chốt cửa lịa. Trở vào, tôi cởi ngay bộ quần áo kaki xám cán bộ của y ra, cởi quần áo của tôi đắp cho y, để mặc y nằm nghiêng dưới chân bàn. Tôi móc ví y, thấy có hơn 10 đồng và nhiều giấy tờ. Tôi xem một cái thẻ, có ghi tên “Đỗ Đình Hạ”. Trong cặp có nhiều giấy tờ, tôi không có thời giờ xem, cứ việc cắp lấy đã. Tên Hạ này không có đồng hồ. Trước khi mở cửa buồng tiến ra ngoài, tôi liếc nhìn tên Hạ. Thấy chân y từ từ co lại, duỗi ra, mặt y hồng hồng trở lại. “Phải cho y ngủ thêm lúc nữa đã”, tôi nghĩ thế, rồi tiến lại sau lưng y, dùng một thế khóa chẹn cổ, không cho y thở; chừng 5 phút, cả người y lẫn tay chân giật dúm lại. Một mùi thối hoăng xông lên. Tôi liếc nhìn xuống phía dưới: Y bĩnh ra một bãi. Nếu cứ giữ thế khóa này 15, 20 phút, chắc chắn y sẽ xuống lòng đất hầu hạ tên “đầu bóng, râu xồm” ở Hồng trường Mạc Tư Khoa. Nhưng, tôi chỉ giữ yên khoảng 6, 7 phút rồi buông ra. Bây giờ, coi như đã trèo lên lưng cọp rồi. Đàng nào cũng thế, không tiến tới không xong. Tôi vuốt lại đầu tóc, quần áo, đi cả đôi dép râu của y, tôi đường hoàng mở cửa tiến ra ngoài. Tên này không có mũ, tôi phải cần có một cái mũ nữa mới giải quyết được. Tôi vừa ra khỏi buồng, liếc nhanh toàn bộ sân giàn nho và cổng Hỏa Lò. Nhìn về phía trái, tôi thấy hành lang sâu hút, có lẽ là khu nhà của bọn công an vũ trang. Đầu không có mũ, ra cổng dứt khoát không ổn. Bằng mọi giá, phải kiếm được một cái mũ. Tôi liếc mắt nhìn chiếc xe đạp vẫn dựa vào tường phía ngoài buồng, chiếc khóa dây đeo ở ghi đông, không khóa vào xe. Có lẽ tên Hạ đã nghĩ đây là trong Hỏa Lò làm gì có ăn cắp. Nhưng, điều đó cũng nói lên là y không có chủ trương gặp tôi lâu. Tôi đành lần vào khu nhà của công an vũ trang để tùy cơ kiếm một cái mũ. Phải làm nhanh, làm lẹ. Lúc này đã gần bốn giờ chiều. Để tới năm giờ là sự việc sẽ đổ bể. Giờ tan tầm, tụi cán bộ trực nhìn sổ, thấy còn tôi đi cung chưa về, sẽ phải báo cáo, và từ đấy phải đến phòng tôi đi cung….. Thấy một cánh cửa khép hờ, tôi lại gần, nghe ngóng, liếc vào bên trong, yên ắng. Tôi đẩy nhẹ, thì ra đây là chỗ rửa mặt và giặt giũ của bọn công an vũ trang. Nhìn lướt qua một lượt không có cái gì tôi cần. Mãi chỗ góc treo nhiều khăn mặt, có một cái mũ nồi đen, tôi tiến nhanh đến, chộp lẹ. Cái mũ đã thủng một lỗ phía sau. Nhìn chéo phía trước mặt, tôi thấy một cánh cửa nữa, cũng chỉ khép hờ. Tay vẫn cầm chiếc mũ nồi, tôi tiến về phía cánh cửa đó. Ghé mắt liếc vào, nghe thoáng có tiếng ngáy nhè nhẹ. Có lẽ phòng ngủ của đám công an vũ trang. Có thể có những tên trực đêm, nên đang ngủ ngày. Như vậy, biết đâu trong buồng cũng có kẻ thức? Tôi muốn gắng kiếm một cái mũ cối của công an, nhưng nếu khó khăn quá, đành dùng cái mũ nồi này vậy. Có còn hơn không. Có mũ, mới che bớt được bộ mặt, chắc là gầy và xanh tái, của tôi. Hơn nữa, nhớ gặp cán bộ quen mặt, chúng khó nhận ra. Thử xem sao? Tôi nghĩ vậy và khe khẽ, từ từ đẩy cánh cửa đang khép hờ đó ra. Tôi giật thót người! Ngay cạnh cửa, một tên công an mặc áo may ô, da trắng hồng, đang ngồi qua lưng ra, lúi húi viết trên một cái rương màu xanh. Quá căng thẳng, tay tôi nhè nhẹ kéo cánh cửa lại như cũ. Hú vía, nếu hắn quay mặt ra thì….. Thôi, không thể kiếm mũ được rồi. Thời gian trôi qua, cấp bách lắm rồi, tôi không được phép chần chừ nữa. Lùi qua phòng rửa mặt, tôi trở ra. Lúc này, tôi đành đội cái mũ nồi lên đầu. Về tới phòng cung, cửa vẫn đóng như trước, tôi đẩy nhẹ, vào lấy cái cặp khi nãy tôi để ghệ vào chân tường, bên trong buồng. Tên Hạ vẫn nằm một đống, căn buồng nồng nặc mùi phân. Ra khỏi buồng, tôi khép cửa lại. Vừa đặt tay vào chiếc xe đạp, định buộc cái cặp vào yên hành lý phía sau xe, mắt tôi chợt thoáng thấy tên Thế “mũi cà chua” đang từ giữa vườn hoa tiến về hướng tôi. Tôi vội vàng nghiêng người đi, như đang tập trung trí óc vào việc buộc cái cặp. Một luồng lạnh chạy từ dưới lưng lên gáy tôi. Qua kẽ nách, tôi thấy đôi dép râu và hai ống quần màu vàng, đang chậm chạp tiến sát lại gần. Tôi thoáng lên một quyết định trong óc. Được, hôm nay, có gì, tôi sẽ cùng chết với tên “mũi cà chua” này. Tôi vẫn bầm gan tím ruột vì trận đòn phủ đầu của nó ở Hỏa Lò, hơn hai năm về trước với tôi. Đôi dép râu và hai ống quần kaki màu vàng đã đến gần hơn, còn cách sau lưng khoảng chừng 7 – 80 phân thì ngừng lại, như ngập ngừng do dự một lúc. Chân trái tôi đã hơi chùn xuống và bàn tay phải nắm chặt lại, sẵn sàng. Nhưng, hai ống quần vàng lại rẽ đi vào phía nhà ngủ, của công an vũ trang. Một hơi thở nén từ nãy bây giờ từ từ xì ra, tôi nhẹ hẳn người. Muốn hay không muốn, lúc này tôi phải tiến ra cổng rồi. Thường ngày, hai cánh cổng lớn Hỏa Lò ở giữa, to như cổng thành, vẫn đóng, chỉ trừ khi có xe ô tô ra vào đặc biệt, mới mở. Còn như bình thường, tụi cán bộ làm việc ra vào, sẽ đi hai ngách cổng nhỏ ở hai bên cửa chính. Mỗi bên, đều có một bàn xét giấy tờ, và một công an vũ trang bồng súng gác phía ngoài. Chiếc ngách cổng này là một lối đi rộng chừng 1m rưỡi, dài chừng 8m bằng bề ngang của chiếc cổng. Bên trên cổng là căn lầu nhiều buồng, xây kiên cố, để bọn giám thị và cán bộ ở. Với lối đi hẹp như vậy, nếu có hai chiếc xe đạp cùng ra vào một lúc, một chiếc phải ngừng lại, nép sát phía tường, nhường cho chiếc kia đi, rồi chiếc này mới đi được. Dắt chiếc xe đạp từ từ về phía cổng, tôi hơi băn khoăn là khi đi qua bàn giấy, có phải cán bộ nào cũng phải trình giấy, hay chỉ người lạ. Vì vậy, tôi dừng lại, vờ cúi xuống sờ sờ, mó mó lại cái má thắng của bánh trước, trong lúc tiến chậm về phía cổng, chờ mấy tên cán bộ đi ra vào để quan sát. Thực ra, đứng ở đây rất nguy hiểm, lỡ bất ngờ có cán bộ quen mặt ra vào, thì chỉ có nước…..độn thổ. Nhưng khốn nổi, tôi lại chưa biết gì về cách ra vào trình giấy tờ…Thật may, nếu không dừng lại để theo dõi, chắc chết. Một số cán bộ đi ra (tất nhiên là lạ) đều ghé vào bàn giấy để lấy tấm thẻ, chắc lúc vào đã phải gởi. Bây giờ, tôi lại lo lắng điều khác, nếu tên cán bộ ngồi ở bàn giấy quen với tên Đỗ Đình Hạ này, việc sẽ đổ bể ra ngay. Nhưng, dù nguy hiểm đến đâu, đã ngồi trên lưng “ông ba mươi” rồi, tôi không còn cách chọn lựa nào khác. Tôi đường hoàng dắt xe tiến tới chỗ bàn giấy. Tên cán bộ ngồi ở bàn giấy chừng 28, 30 tuổi, trông hơi quen quen mặt, hình như tôi đã có lần thoáng thấy y, những khi trên đường đi cung thì phải. Nhưng, lúc này, tôi không thể nhớ ra được. Và, hy vọng là y cũng không thể nhớ ra mặt tôi!..... Khi tới gần bàn, y ngẩng mặt lên nhìn tôi quan sát. Tôi tươi mặt tình cảm: - Chào đồng chí! Tôi, Đỗ Đình Hạ! Y nhìn tôi, mắt y mở to, thoáng vẻ như ngỡ ngàng. Tôi cũng thấy nóng hai bên má, ngực tôi ngứa ran lên. Im lặng và nặng nề. Tôi phải phá tan cái không khí này, vừa cười, tôi vừa nói như ca thán: - Tôi tưởng chỉ một giờ, thế mà kéo dài gần ba tiếng! Giữa lúc đó, có hai tên cán bộ dắt xe đạp từ ngoài cổng đi vào, phải dừng lại một bên chờ vì vướng xe tôi. Tên cán bộ ngồi bàn giấy đưa tay lên cái khay xếp nhiều tấm thẻ, lật vài tấm, rồi cầm một cái lên,mở ra coi. Trước khi đưa cho tôi, y còn nhìn tôi như ngập ngừng định hỏi gì lại thôi. Tôi cầm tấm thẻ, cười với y, rồi dắt xe tránh lối cho hai chiếc xe đạp kia vào. Trời đã đầu Thu mà trán tôi cũng rướm mồ hôi. Đây là cửa ải sinh tử! Nếu tôi qua được, ra khỏi cổng Hòa Lò, coi như thoát 80-90%. Tôi phác một viễn ảnh sơ khởi trước mắt: Để đánh lạc hướng điều tra, lùng sục của công an vì chúng sẽ đặt trọng tâm hướng đi của tôi là về Nam, hoặc hướng Tây để sang Lào, vậy tôi sẽ đi ngược lại về hướng Bắc. Sau đó, tìm cách bán chiếc xe đạp, nằm lì một thời gian, rồi tìm thời cơ ăn cắp một giấy tờ khác, tùy theo điều kiện mới ìm về hướng Nam. Trước cổng Hỏa Lò, tôi đã thấy con phố hẹp và vắng. Liếc thoáng tên cán bộ vũ trang đang đứng gác, nét mặt y trẻ măng, chừng 20 tuổi. Nhìn từ phía sau, tôi thấy đầu tóc y cắt ngắn ngủn và nhọn hoắt lên, như trái bưởi Biên Hòa. Khẩu CKC đeo ở vai y chúc mũi xuống. Chiếc báng súng lắc lư theo nhịp điệu bàn chân y, đang đập đập xuống nền hè. Mắt y hình như đang lơ đãng nhìn mấy cây sấu phía bên kia phố. Lúc tôi dắt chiếc xe đạp ngang qua y, y mới xoay người đưa mắt nhìn tôi, ánh mắt vẫn còn lờ đờ như vừa đắm chìm, trong một giấc mộng dài. Tôi hơi tuơi nét mặt, nhếch mép mỉm cười với y. Môi y cũng cong lên, ngọ nguậy một cách ngờ nghệch thụ động, để đáp lại nụ cười của tôi. Bất chợt, bánh sau chiếc xe đạp tôi đang dắt, nẩy lên một cái từ trên hè xuống dưới đường, chiếc dây xích tuột ra. Đúng lúc đó, từ phía bên kia đường, tên Lê phó giám thị và tên Điền coi nhà tiếp tế đang ngồi trên hai chiếc xe đạp rẽ sang cổng Hỏa Lò. Không kịp tránh nữa rồi! Cả hai tên đang cười đùa gì đấy, bỗng im bặt. Tôi xoay nhanh mặt về phía tên công an vũ trang đang gác, cũng còn kịp thấy hai cặp mắt cú vọ của chúng mở to nhìn tôi. Căng thẳng và hồi hộp. Nếu tôi cúi xuống lắp xích xe, chắc chắn chúng sẽ đến hỏi để xem kỹ mặt tôi. Nếu cứ để tuột xích dắt xe đi ra cổng, chúng có thể càng nghi ngờ hơn, đuổi theo hỏi. thần kinh tôi như tê dại đi mấy giây đồng hồ. Đành quyết định dắt chiếc xe đạp tuột xích đi. Không xong rồi, một tiếng gọi rổn đanh lên của tên Lê, như ra lệnh: - Đồng chí kia, đứng lại!..... |
|
|
![]()
Post
#52
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi
Thành sự… tại thiên!... Đất trời ơi! Người hại con rồi! Hành động của tôi không còn theo sự chỉ huy của cái đầu nữa. Phản xạ như một cái máy, tôi hất chiếc xe đạp ra giữa đường, ba chân bốn cẳng, tôi mở tối đa tốc lực chạy theo dường phố Hỏa Lò, ra phía phố Hàng Bông Ruộm, bên tai vẫn còn nghe tiếng gào ré của tên Lê: - Tù trốn, báo động ngay! Tiếp theo, “Đoàng, đoàng, đoàng!”, ba phát súng rít vang lên trong buổi chiều Thu phố vắng. Tiếng huỳnh huỵch và tiếng hò hét ầm ầm phía sau tôi. Tôi chạy ra gần tới đầu đường. Lúc đó, tự dưng mắt tôi hoa lên, có lẽ vì đói lâu ngày, không đủ sức. Thấy phản ứng của cơ thể mình như vậy, thần kinh tôi càng căng thẳng cùng độ. Tôi tự hiểu, hỏng rồi, tan tành rồi! Tôi đã cố gắng và nỗ lực hết sức mình; nhưng, trời không giúp tôi, Vậy, xin lấy cái chết để trang trải hết món nợ…..quê hương. Ngay lúc ấy, từ một chòi gác ở một góc Hỏa Lò, phía trước mặt, nhiều phát súng nổ xuống mặt đường, chặn lối tôi. Tiếng đạn đi víu víu như xé không khí. Có những viên đạn cày xuống đường tóe tia lửa ra. Tôi vẫn lao đi! Thực sự, lúc này chính tôi muốn tìm những viên đạn. Giữa lúc đó, hai tên cảnh sát, có lẽ đang đứng gác ở ngã tư đầu phố, chạy rượt tới chận đầu tôi. Một số xe cộ ngoài phố sá ngừng lại, vừa xe đạp, vừa ô tô nên súng không bắn nữa. Nhưng, tôi đã lọt vào giữa vòng người với nhiều màu áo vàng, nhiều súng dài, súng ngắn. Chỉ một lúc, tôi ngã đổ kềnh ra đường vì kiệt sức và vì một cú đá vào cẳng chân từ phía sau. Thế là xong! Đời tôi cũng đành tàn lụi theo…..vận nước. Khi hai thằng bẻ giặt hai cánh tay tôi ra phía sau, khóa lại. Hai cái tát chắc nịch như vồ nện vào mặt tôi. Hai tai tôi o o , ù ù, chẳng còn nghe tiếng chửi bới, sỉ vả gì tôi cả. Hai tên công an lực lưỡng, mỗi tên một bên xách tay tôi, giong về cổng Hỏa Lò. Người tôi như chết rồi! Chung quanh chỉ còn có cảm giác thấy loáng thoáng, lố nhố đầy người, ồn ào trên đường phố Hỏa Lò. Phải rồi, bây giờ cũng là lúc tan tầm, nên cán bộ Hỏa Lò kéo ra. Sau này tôi hiểu, chính nhờ lúc đó là giờ tan tầm nên tôi gặp may, nếu không tôi đã bị những trận đòn thù “hội chợ”, có khi phải mang nhiều di ách về sau. Nhưng, khi chúng giong tôi vào đến bên trong cổng Hỏa Lò, có lẽ cũng là lúc tên Đỗ Đình Hạ đã tỉnh, hoặc được cứu tỉnh. Sự việc đã bể tung nguyên nhân, cho nên, bất ngờ một tên công an vũ trang cầm khẩu CKC đâm mạnh mũi súng vào mắt tôi, mồm quát: - Đâm cho mày mù mắt đây này! Tôi chỉ nghe “sột” một cái, máu chảy tóe xuống mũi, xuống mồm, tôi chỉ thấy mờ mờ mầu đỏ ối. Lại một cú “rắc” nữa! Tôi nẩy người lên, rồi nằm vật xuống sân, dưới giàn nho. Hai cánh tay tôi đau nhói như bị gẫy, vì đang bị khóa giặt về phía sau. Tôi không còn kêu được nữa, miệng tôi cứng ra, tai chỉ còn nghe loáng thoáng quát: - Không được đánh chết! Hãy đem nó vào trong phòng! Mắt tôi bỗng tối sầm lại, tôi không thấy gì, và cũng không còn biết gì nữa….. Tôi thấy như có ai đang kéo đầu, kéo từng sợi tóc của tôi, tôi mở mắt ra. Lạnh run, quần áo và người tôi ướt đẫm những nước. Lờ mờ trước mặt, một ông già, quần áo py da ma mầu xanh nhạt, đeo kính trắng, đang ra hiệu tay cho một tên công an còn trẻ, tay đang cầm một cái thùng tôn đầy nước. Tôi cố định thần nhìn kỹ. À, tên Võ, Chánh giám thị Hỏa Lò. Lại có tên Thành và tên Đức chấp pháp nữa. Vẫn đầy người chung quanh tôi, ồn ào, huyên náo. Một tên công an vũ trang, tay vẫn lăm lăm khẩu súng dài. Mặt nó đỏ, mắt nó long lên sòng sọc, đòi đập vào đầu tôi nữa. Giọng miền Nam của tên Võ rít lên, nghe như tiếng kèn đồng thổi nốt cao: - Tôi cấm đồng chí không được đánh nó nữa! Để chúng tôi giải quyết!..... Trong khi đó, tên Thành chấp pháp đang đẩy tên công an vũ trang này ra ngoài. Tên công an vũ trang đó còn cố ngoái lại nhìn tôi bằng đôi mắt nảy lửa. Tôi chợt thấy, y giống hệt tên Đỗ Đình Hạ, nhưng trẻ hơn nhiều; nhất là cái mũi khoằm khoằm, và cái môi trên vều ra, nhòn nhọn như mõm con chuột nhắt. Giống Đỗ Đình Hạ như đúc! Không biết tên này có liên hệ gì với tên Hạ không, mà hung hãn thế? Thì ra, lúc nãy nó bất ngờ đâm tôi một mũi súng. Chủ ý của nó, là định đâm mù mắt tôi. Nhưng, chẳng hiểu vì tôi nhúc nhích cái đầu, hay vì y không đâm trúng đích, mũi súng lại đâm vào giữa hai mắt của tôi, phía trên sống mũi. Máu chảy rất nhiều , và tôi bị ngất đi cũng vì vết thương này. Còn mũi súng thứ hai, y đã đâm trúng vào mồm tôi, làm gẫy 3 cái răng cửa hàm dưới. Một chiếc răng rơi ngay vào mồ, tôi phì ra đất, còn hai chiếc cụp hẳn vào trong, nhưng vẫn còn dính, chưa rơi ra. Tôi cố gắng dùng lưỡi , đẩy hai cái răng lên, nhưng buốt không chịu được. Mồm tôi phì ra đầy máu! Cái môi dưới của tôi rách toác, bây giờ sưng vều lên, tôi không nói được nữa. Hai cánh tay tôi, bị khóa giặt ra sau lưng đau buốt, không biết có gẫy hay không, khi tôi bị đâm mũi súng vào mồm ngã xuống. Lúc này, tôi đã thấy cả tên Trì và tên Lệ, hai Phó Giám Thị, và rất nhiều tên cán bộ Hỏa Lò đến nhìn tôi một cái rồi đi. Chúng cũng chẳng tỏ thái độ căm thù hay thương hại. Nét mặt của chúng, nói chung, nhìn tôi rất lạnh lùng, như một câu chuyện của cuộc đời, không có gì liên quan đến nồi cơm của chúng. Đột nhiên, giọng tên Võ lại nổi lên: - Đồng chí Trì, ra lệnh đưa nó vào buồng lập biên bản! Nhớ, không ai được đánh nó nữa! Gọi đồng chí Huệ, xem chữa vết thương của nó. Rồi cho vào “cát xô” đợi lệnh! Nói rồi, y quầy quả đi vào phía trong. Hai tên công an kéo lê tôi về phía phải, nơi có những dẫy phòng hỏi cung tôi mọi khi. Vào trong phòng, chúng đặt tôi ngồi dựa vào tường rồi cởi khóa. Hai tay tôi như xuội ra! Cánh tay phải của tôi không gẫy, nhưng có lẽ bị sai khớp xương, sưng to lên, rất buốt. Ngoài hai mũi súng, cơ thể tôi cũng bị chúng nó đánh nhiều đòn, ngực và bụng tôi đau ê ẩm ở bên trong, tôi thấy rất khó thở. Trong khi chúng hí hoáy ghi biên bản, tên Huệ y tá mang khay thuốc vào. Y để tôi nằm ngửa xuống nền nhà, lấy bông rửa vết thương trên chỗ sống mũi, giữa hai con mắt của tôi. Xong, y mở một chai nước gì màu xanh xanh, nói nhỏ nhẹ: - Anh hãy nhắm mắt lại! Tôi nhắm mắt lại, rồi cảm thấy một giòng nước re re chảy vào óc, mũi cay xè. Tôi thấy mơ hồ, rồi mê man đi. Khi tỉnh lại, tôi cứ tưởng là đã vào “cát xô” rồi, nhưng không phải, tôi đang nằm trên một chiếc giường con, và tôi hiểu là chúng đã đưa tôi vào bệnh xá. Bất giác tôi đưa tay sờ lên mặt, băng vải quấn kín cả một bên mắt của tôi. Trong mồm, lưỡi tôi đẩy đưa bây giờ thấy trống trải. Một lỗ hổng lớn! Như vậy, y tá đã nhổ hai cái răng gảy gập vào của tôi, lúc nào tôi cũng không hay. Mồm tôi cũng bị băng kín, chỉ còn hai lỗ mũi, vướng vít những vải băng nên thở kêu cứ phì phì. Người tôi đau ê ẩm. Bốn bề im ắng, có lẽ đã là đêm khuya. Tôi thấy bụng kêu ò ọ, cồn cào. Tôi chợt nghĩ, bây giờ mồm miệng băng kín thế này ăn làm sao đây? Cánh tay phải của tôi cắn buốt vô cùng. Tôi dùng tay trái sờ chỗ khuỷu tay phải: sưng to, căng cứng, có quấn băng bằng vải màn, mùi đầu nóng hăng lên. Tôi đau đến nỗi không giở mình nổi nữa. Mệt quá, tôi lại lịm đi….. Một lúc sau, tôi lại tỉnh. Căn phòng nhỏ vẫn đóng kín, im ắng. Thỉnh thoảng có một vài tiếng khúng khắng ho phía bên ngoài. Đầu óc tôi vẩn vơ nghĩ lại những sự việc vừa qua. Nếu tôi ra cổng chậm năm phút, hoặc không vì chiếc mũ, tôi ra cổng sớm năm phút, tôi đã không gặp tên Lê và tên Điền. Lại là những chữ “Nếu” quái ác của cuộc đời. Đời tôi chưa gặp những chữ “Nếu” hiền lành, tốt đẹp; mà chỉ là những chữ “Nếu” hung thần đẩy đưa đời tôi vào chỗ bất hạnh hơn. Tôi càng nghĩ, mắt càng vương lên màu xám xậm. Vận nước! Cuộc đời! Thật đúng là mưu sự tại nhân, thành sự, hay bại sự, là do ông trời! Một màu vàng úa đang lởn vởn giăng mắc quanh tôi, chợt một hình ảnh hiện ra, dẹp tan bức màn màu vàng trước mặt: Đỗ Đình Hạ. Hình ảnh một tên trần truồng nằm một đống dưới chân bàn, cứt đái nhì nhẹt tứ tung, mùi xú uế đầy ắp cả căn phòng. Cu cậu chắc tưởng từ dưới quê lên Hà Nội chuyến này về sẽ vớ bở, ai ngờ đâu! Tôi dám nghĩ rằng, tên Hạ sẽ nhớ suốt đời y. Cho tới già, y vẫn còn căm giận tên chó chết…là tôi. Tôi cũng không ngờ hiệu quả cú đòn chém gáy địch thủ của mình lại mạnh như vậy. Đó là gân cốt từ lâu nay đã không được tập luyện, lại bị đói triền miên rã rời. Nếu bình thường, trọng lượng đòn còn ác độc hơn nữa với sức bật và đà của cả một vòng xoay. Không phải đơn giản mà võ sĩ Hà Châu đã đổ cả cây thịt xuống dài. Trong làng võ thuật Đông Dương, võ sĩ Vĩnh Tiên đã được đề cao là một quái kiệt về chịu đòn, mặt và hai cánh tay sần sùi, sau bao chục năm tập luyện bao cát, thế mà còn không chịu nổi cú đòn đó, huống chi người bình thường. Điều quan trọng là biết tính toán sao cho, cũng là một cái búa tạ quai xuống một cái đe, trọng lượng phải nằm ở đâu để cho toi da Chúng nó đánh tôi thế này, tôi đâu có quyền trách chúng. Nếu không vì còn cần khai thác tôi, chúng nó đã đánh chết rồi. Thằng nhóc con công an vũ trang hung hãn đánh và đâm tôi, có khi nếu không phải là em ruột tên Hạ, cũng là con chú, con bác chứ không chơi đâu. Chúng nó giống nhau lắm. Thôi, các bạn thông cảm cho, vì đời nó thế. Trên cõi đời này còn nhiều chuyện oái ăm lắm. Tôi chợt nhớ đến một ý tưởng đã đọc được trong một tác phẩm nào đó:”…Những người chẳng hề quen biết nhau, nỗ lực xông vào bắn giết nhau, căm thù nhau, để cho những người quen biết nhau, nói chuyện với nhau trong những bàn tiệc; hoặc những buổi liên hoan…”. Tôi mệt và đau quá, lại thiếp dần đi. Mãi tới khi tỉnh lại, trời đã sáng tỏ. Từ hôm qua đến nay, tôi chỉ nằm một thế ngửa. Nằm nghiêng thì vết thương ở tam tinh cứ chảy nước vàng và ra máu. Tiếng lách cách mở khóa, rồi cửa buồng mở. Ông Huệ y tá mặc chiếc áo “blouse” trắng, mồm cũng đeo khẩu trang, đi vào. Tôi nhìn ông, hơi nhúc nhích đầu tỏ ý chào ông. Ông cúi sờ xem vết thương ở tam tinh, rồi ở mồm; cuối cùng mới xem cánh tay tôi. Tôi cứ đinh ninh thái độ của ông sẽ không ưa tôi, một người đã đánh cán bộ và trốn. Nhưng cử chỉ và cái nhìn của ông lại xem có cảm tình hơn cả lần tôi bị cùm hai chân hơn một tháng và phải xuống bệnh xá vì gần chết. Ông vừa sờ vết thương chỗ tam tinh của tôi, vừa nhẹ nhàng nói: - Lẽ ra, hôm qua anh phải vào “cát xô”, chỉ 2, 3 ngày là không cứu được nữa. Cho nên, tôi nói là nếu muốn anh chết, hãy đưa vào “cát xô” lúc này, còn nếu chưa muốn anh chết, tôi đề nghị đưa xuống bệnh xá. Mãi sau mới được sự chấp nhận của đảng ủy. Vừa nói, ông vừa liếc nhìn cánh cửa buồng. Qua thái độ này, tôi tự hiểu là những gì ông vừa nói với tôi, tôi không được nói với bất cứ cán bộ nào, vì không có lợi cho ông. Cũng có thể, năm trước, qua gần hai ngày ông đã thấy tôi là người có ý thức, không làm gì phiền rắc rối cho ông, cho nên lần này ông cho biết một vài ý mạnh bạo hơn. Tôi muốn nói với ông một vài lời biết ơn, nhưng mồm băng kín, không nói được. Ông cũng hiểu vậy, nên ra hiệu tay: - Anh cứ nằm nghỉ đi, chốc nữa có cháo nóng, tôi sẽ vào! Ông Huệ đã ra rồi, tôi vẫn còn vẩn vơ suy nghĩ về ông mãi. Tôi nhớ lại toàn bộ những hình ảnh từ ngày tôi gặp ông. Lúc đầu, ông tỏ ra một người rất nguyên tắc, ăn nói thường ngắn ngọn, đôi khi cộc lốc. Nhưng dần dà, năm này qua năm khác, thái độ của ông đối với tôi hình như có tình người hơn. Chính tôi cũng chưa có điều kiện để biết, thái độ của ông chỉ riêng đối với tôi, hay là đối với mọi người tù, ai ông cũng vậy. Một lúc sau, cửa buồng lại lách cách mở, ông Huệ và một người tù hình sự bưng một bát cháo đi vào. Đến bên cạnh tôi, ông cúi xuống dùng kéo khẽ cắt ra mấy miếng bông vải ở mồm tôi, rồi lấy một cái ống cao su màu nâu đút vào miệng tôi, một đầu cho vào bát cháo: - Anh cố gắng hút thử xem có được không? Muốn hút, tôi phải bậm môi lại, nhưng môi của tôi bị rách, hãy còn sưng, loay hoay mãi, tôi vẫn không hút được. Tôi suy nghĩ, dù đau đớn cũng phải cắn răng mà ngậm miệng lại mà hút. Điều đó, vừa nói lên nghị lực chế ngự mạnh của mình, vừa giúp một cách tích cực, cho cơ thể chóng bình phục. Mặt khác, ai sẽ múc cháo đổ cho tôi đây? Ở đây có phải là bệnh viện đâu? Nghĩ như thế, tôi cố gắng đến nỗi nước mắt tôi dàn ra, vì sự co bóp của cơ miệng. Nhưng, cuối cùng tôi đã ngậm được. Hình như chính ông Huệ cũng đã thấy sự cố gắng của tôi, nên ánh mắt của ông nhìn tôi có niềm thông cảm. Mãi rồi tôi cũng húp hết bát nước cháo nêm muối. Đến ngày hôm sau nữa, tôi đã thều thào nói được. Ông y tá vẫn một ngày ra vào hai, ba lần để chích thuốc cho tôi. Được 3 ngày, ông tháo băng mồm cho tôi, bôi thuốc đỏ và rắc thuốc trụ sinh vào chỗ môi rách. Cho mãi tới hôm ấy, tôi mới sực nhớ, bộ quần áo tôi lột của tên Hạ, đã bị cởi ra từ bao giờ. Tôi nhớ hôm tôi bị đánh, máu chảy đầy quần áo. Vậy mà chúng cũng lột lại, thay vào đấy, tôi được mặc một bộ đồ trại sòng sọc còn mới, với 4, 5 dấu triện đóng: “T.G.H.N.” mà tôi cứ nghĩ đùa là “THẾ GIỚI HỮU NGHỊ’ thực ra là TRẠI GIAM HÀ NỘI….. |
|
|
![]() ![]()
Post
#53
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi Mốt
Cát xô, chiếc… ”quan tài” đá Của Hỏa Lò Hà Nội!... Theo ông Huệ nói, từ đây ra tới cổng Hỏa Lò, ngoài bao nhiêu lần cửa, với bao lần canh gác, ngay chính ông cũng chịu trách nhiệm giữ tôi. Nếu tôi trốn, ông cũng phải chịu trách nhiệm. Tôi cười thầm, hiện giờ ngay việc ngồi dậy tôi còn thấy khó khăn, nói gì tới trốn. Dù thế, cảnh giác cao luôn luôn là một nguyên tắc của cộng sản, cho nên ra vào buồng tôi, ông vẫn phải khóa. Trưa nay, vết thuơng ở tam tinh bỗng nhức quá, đau đến độ mồ hôi của tôi chảu ra đầm đìa, cuối cùng tôi lại lịm đi. Thấy có người lay gọi, mở mắt ra, tôi ngạc nhiên: Tên Thành chấp pháp! Thấy tôi tỉnh dậy, y mỉm cười: - Anh thấy trong người đã đỡ chưa? Tôi nhìn y, hơi ngượng! Trước đây, tôi luôn nói là thích xã hội chủ nghĩa, vậy mà tôi lại đánh cán bộ rồi trốn. Tôi thều thào cảm ơn sự quan tâm của y. Sau khi tôi trốn rồi bị đổ bể, tôi nghĩ rằng từ nay bọn cán bộ, chấp pháp sẽ ghét thù tôi lắm. Nhưng, điều làm tôi ngạc nhiên là tôi không thấy tên Thành có thái độ gì khác trước đây. Từ ánh mắt cho đến cử chỉ, vẫn như những tháng trước tôi gặp y. Y mở một cuốn sổ tay lớn, cầm bút và nhìn tôi: - Nguyên nhân nào đã đưa đến, để anh trốn tù? - Từ trước tôi vẫn thích xã hội chủ nghĩa, và vì thế tôi đã khai báo thật ngay từ đầu. Nhưng rồi, cách mạng không tin, cứ giam cầm, cùm kẹp mãi, nên tôi tìm cái chết. Chết không được, tôi tìm cách trốn! Chỉ nói có bấy nhiêu câu, mà tôi phải nói rất lâu. Nhiều chỗ y nghe không rõ, phải hỏi lại. Y ghi hết. - Anh định trốn từ bao giờ? Tôi nghĩ bụng, tôi có ý định trốn ngay từ khi tôi phát hiện bị theo dõi ngoài phố, nhưng chỉ vì không có điều kiện thời cơ thôi. Tuy nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn khào khào trả lời: - Sau khi tôi tự tử không được! - Ngay khi anh gặp ông cán bộ lạ, một mình hỏi cung anh, là anh có ý định đánh ông ta để trốn? Những việc nay tôi cứ trả lời thật: - Phải nói, mãi tới lúc gần xong buổi cung, tôi thấy ông ta có vẻ lơ ngơ, đờ đẫn tiếc cái chum không tìm thấy, tôi mới lóe lên ý định trốn. - Anh định đánh chết rồi chuồn ra ngay? Tôi biết đây là một câu hỏi bẫy. Nếu có chủ ý mà vô tình, sẽ bị mắc. Tôi trả lời: - Thưa ông, tôi không có ý định đánh chết ông ấy, mặc dù tôi thừa khả năng. Tôi cố ý làm ông ấy vừa đủ ngất đi thôi. Tên Thành tiếp tục hỏi chi tiết nhiều vấn đề: Nào, anh trốn ra đi về đâu? Sẽ làm sao để che mắt công an? Chủ trương trốn về Nam theo đường nào? Hay, ra giao thiệp liên lạc với cơ sở, v.v…? Gần hai tiếng dồng hồ, y vừa hỏi, vừa ghi. Y đã đi rồi, hồn tôi còn chơi vơi khắc khoải. Tôi dĩ nhiên hiểu là “gieo gió, gặt bão”. Vừa qua, tôi đã gieo cái nhân, bây giờ phải chuẩn bị tình thần để lãnh cái quả. Hãy gồng mình lên mà chịu đựng, có thế lý trí mới còn sáng suốt. Buồn rầu, kêu van, đều không phải là của một người tỉnh táo, có lý trí mạnh. Tôi cũng hiểu là, những ngày tới sẽ chồng chất cam go. Vậy, sẽ đừng lạ lùng, ngạc nhiên, để rồi oán hận đất, trời lung tung. Tôi tự nhẩm, nhắc lại ý tưởng sau khi tự tử không chết hơn 4 tháng trước: Trên đường đi, nhiều cay đáng âm thầm. Hãy nhận lấy, để dồn vào sâu kín. Ý tưởng này phải trở thành phương châm trên con đường đi tới của đời tôi. Thực vậy, nếu không tránh được những điều khổ đau, tai ương: không gì bằng hiên ngang ngửng mặt, giơ tay đón nhận. Những khó khăn trong cuộc đời, ai chả từng gặp. Điều khác biệt là thái độ của người gặp khó khăn: Nếu gặp khó khăn lại chùn bước, nản lòng, bi quan, yếm thế; đôi khi, chính khó khăn ấy sẽ đè mình gục xuống, không thể trỗi dậy được nữa. Nhưng, nếu nhìn những khó khăn, chỉ là điều tất yếu của cuộc đời phải có, hãy tỉnh táo xông vào giải quyết. Tin chắc rằng khó khăn sẽ bớt, đôi khi không nói là hết khó khăn. Nhưng, lại phải hiểu rằng, hãy yên trí đi, lại sẽ sắp sửa có khó khăn khác đang đi tới, vì đó là lẽ sống ở đời mà! Tôi cứ quẩn quanh nằm suy nghĩ như thế. Điều đó cũng giúp tôi nhiều, trên đường đi đầy chông gai, hầm hố này. Tôi ở bệnh xá được 6 ngày. Mồm tôi đã đỡ, chỉ mất 3 chiếc răng. Cánh tay phải được ông Huệ lấy lại khớp xương, bây giờ đã giảm sưng, cử động nhẹ được. Trong ngực bị mấy cú đòn ngầm, bây giờ cũng đỡ đau sau mấy ngày khạc ra một đống máu. Riêng vết thương chỗ tam tinh, vẫn còn thấy đau nhức nhiều. Vì không có gương, tôi chỉ lấy tay sờ, thấy vết thuơng hơi lệch về phía mắt trái. Chính ông Huệ một lần nói nhỏ với tôi: - Anh hãy còn may mắn, nếu mũi súng chỉ lệch đi chừng một phân về phía trái, bảo đảm bây giờ anh trở thành “độc nhỡn nhân” rồi! Tôi chỉ hỏi: - Liệu vết sẹo có to lắm không? Ông nói: - Thủ thuật khâu của tôi cũng có hạng lắm đấy, tôi lại cố gắng làm cho anh, cho nên sẹo không to lắm đâu! Hỏi và nói chuyện với ông như vậy thôi, chứ sẹo to hay nhỏ bây giờ còn giá trị gì nữa mà quan tâm. Tôi vẫn phải còn ăn cháo, vậy mà buổi chiều, tên Bằng đã vào nói là có lệnh Ban giám thị đưa tôi vào “cát xô”. Tôi cũng hiểu là phen này chưa chắc đã sống được. Tôi chợt nhớ đến xà lim I, còn một số đồ lặt vặt, nhưng rất có giá trị đối với tôi: Bộ đồ chống muỗi, cái điếu bằng bao diêm, cái vỏ ba lô trong có chì mật và chiếc kim khâu. Chỉ có con dao là mất, trong bộ đồ quần áo để lại đắp cho tên Hạ. Vì vậy, tôi phều phào (cái môi tôi vẫn còn vều ra) nói với tên Bằng, xin lại mấy thứ đó. Y trừng mắt nhìn tôi, rồi buông thõng một câu: - Anh đã định trốn đi, thì còn cần gì những thứ đó! Nghe giọng y nói và cách y nhìn tôi, tôi hiểu là y không căm ghét gì tôi lắm, vì thế tôi nằn nì: - Thưa ông giúp tôi! Ai cũng vậy, đã trốn còn tiếc gì! Nhưng bây giờ tôi không trốn được! - Cả tên Bằng và ông Huệ cùng cười. Không ai nói gì! Khi tôi ra khỏi buồng, rồi ra tời cổng bệnh xá, ông Huệ còn ra theo đưa cho tôi một gói bột trụ sinh: - Anh nhớ hàng ngày rắc vào chỗ tam tinh, đừng để nó làm mủ. Nếu làm mủ ở đấy, đôi khi có nhiều biến chứng nguy hiểm. Tôi vừa tập tễnh đi theo tên Bằng, vừa nghĩ ngợi mông lung. Tình cảm của ông Huệ y tá, tôi chấp nhận. Còn của chấp pháp, tuyệt đối không! Ông Huệ chỉ là y tá, suốt những ngày ở bệnh xá, chẳng bao giờ ông ta hỏi tôi bất cứ một khía cạnh nào, về việc tôi làm. Sân trại chung lúc này đã vắng tanh! Nhưng, tất cả những nhà chung quanh sân trại, nhà nào cũng có tiếng rì rầm, ồn ào như tiếng thác đổ trong rừng sâu. Mãi xa tít phía đàng kia là bức tường và chiếc cổng mầu xanh xanh của xà lim I. Không khí của chiều đầu Thu vẫn còn hanh khô. Những chiếc lá bàng đã đổi mầu, úa dần. Đây đó đã dăm, mười chiếc lá rời cành như báo hiệu mùa Thu tới. Và đây, tôi cũng sắp tới “cát xô”! Đã hơn 2 năm, tôi nằm trong xà lim Hỏa Lò rồi, nhưng chưa biết “cát xô”. Một lần, tôi nghe tên Tân nói, “cát xô” là chỗ kỷ luật những tù nhân án tử hình, chung thân. Ai vào đó, nếu không chết ngay ở đấy, sau đó cũng chết với bao nhiêu chứng bệnh, mang theo trong người. Bây giờ tôi vào, tôi sẽ biết. Đến một chỗ góc của dẫy nhà, một hành lang sâu hun hút dẫn tới một cái cửa sắt dầy. Qua cửa này, có những bậc đi sâu xuống đất. Rồi tới một cửa sắt nữa, rất bé và hẹp. Tên Bằng chọn một chìa, trong chùm chìa khóa đang cầm ở tay mở ra: Một lối đi rất hẹp! Đến đây, từ lối đi đến những bức tường đều toàn bằng đá, đá hộc và đá thuớc; tưởng như một thạch thất trong truyện võ hiệp của Tàu. Một mùi khăn khẳn lợm giọng xông lên. Tên Bằng khạc, rồi nhổ đánh “bẹt” một bãi nước bọt vào một góc tường. Thoáng nhìn, tôi thấy ba, bốn cái chuồng đá hay hòm đá. Bỗng nhiên có tiếng lịch kịch, rồi tiếng chân người, tôi và lão Bằng đều liếc lên nhìn, thấp thoáng có mấy áo vàng bên trên, chắc là những tên cán bộ trực ca tối. Tên Bằng mở cửa hòm đá, chiếc cửa sắt quá nhỏ, tôi phải cúi, lách vào. Hòm đá cũng có cái cùm như trên xà lim. Đặc biệt hơn là có hai sợi dây xích sắt to, bằng loại sắt tròn đường kính hai phân, mỗi sợi dài độ 80 phân, gắn liền vào trong tường đá; ở mỗi đầu sợi xích là một cái khóa bóp. Ở ngoài, tên Bằng rút chốt cùm, lách người vào nhấc nửa trên cái cùm há lên, và bảo tôi bỏ chân vào. Y đóng cùm xuống, trong khi mũi y cứ thở phì phì. Y mở hai khóa ngàm ở đầu hai sợi xích, bóp khóa vào cổ tay tôi. Xong, y ra ngoài chốt cùm. Trước khi đóng cửa, y gằn giọng: - Kỷ luật ở “cát xô”: Mỗi tuần mở cùm một lần, 12 phút vào trưa mỗi thứ Hai. Ngày chỉ được ăn một lần! - Y chỉ tay vào cái nắp sắt tròn, mở một mé góc trong chuồng đá: - Đái, ỉa, nhấc cái nắp lên. Một tuần đổ một lần, sạch hay bẩn thì tùy. Tuy tôi đã nâng cao tinh thần chịu đựng. Đã tự trang bị cho mình một số tư tưởng lạc quan, thế mà trước cảnh này, tôi cũng đầy băn khoăn lo lắng. Thấy không có chiếu chăn gì, chỉ có đá và sắt, tôi đề nghị: - Thưa ông, ông giúp tôi, về buồng tôi cho tôi xin chiếc chiếu và những thứ lặt vặt của tôi. Y đóng xầm cửa lại, cộc lốc: - Bao giờ ra hãy hay. Ở đây không cần! Cửa đóng lại, ánh sáng chỉ lờ mờ. Tôi có cảm tưởng như mình đang ở trong một cái “quan tài” đá, chỉ có khác là cái “quan tài” này hình hộp vuông, mỗi bề 1m50. Ai cao hơn 1m50 thì phải khòm. Nằm cũng không được. Phải lựa thế xoay chân, nằm nghiêng và co chân lại. Nghĩa là, không thể nằm duỗi thẳng chân được. Ông bà ta nói thật đúng:”Ở gần nhà xí mãi không còn thấy thối”. Đúng thế, khi mới vào đây, tôi ngửi ngay thấy cái mùi lợn giọng buồn nôn, vừa khăn khẳn, nồng nồng, lại vừa ngai ngái như mùi thịt chết để lâu ngày. Vậy mà, mới qua 3, 4 tiếng đồng hồ sau, tôi đã không còn ngửi thấy mùi ấy nữa, tuy thỉnh thoảng cũng thấy khó chịu, nhưng không đến nỗi buồn nôn. Tôi hiểu đây là giai đoạn cam go nhất của đời mình. Nếu không nổ lực để sống; tôi sẽ tàn lụi từ đây. Cảnh thế này, chỉ cần mươi ngày là rất nhiều loại bệnh kéo ra: Tê xuội, lao phổi, điên rồ vì thần kinh, ghẻ lở, kiệt sức, v.v…Chết! Một điều khó khăn nhất đối với tôi bây giờ là…không khí! Từ trước, sở dĩ chưa bị bệnh tật là nhờ tập luyện, mà không khí trong lành là chính. Đã đói cơm, đói gạo, nhưng còn không khí bù lại. Ở đây, chúng không ngăn không khí, nhưng không khí lại bị ô nhiễm. Mùi xú uế lại còn nguy hiểm hơn. Cho nên, càng căng lồng ngực hít không khí này vào, càng chóng giã từ cõi đời. Đó là điểm đã mấy ngày nay tôi suy nghĩ nát đầu, mà chưa tìm ra một lối giải quyết. Mỗi ngày, cứ khoảng 12 giờ 30, lúc đó trại chung cũng đã vào hết, bấy giờ tên cán bộ trực mới dẫn một anh hình sự vào đưa cơm nước. Anh hình sự chừng 22, 23 tuổi, xách một hộp gỗ, trong có hai nắm cơm. Mỗi nắm chừng 3 lạng, ở giữa nắm cơm, có ít muối gói trong một miếng lá chuối khô. Nắm cơm được gói trong 2 chiếc lá bàng còn tươi. Trong hộp gỗ, còn có một cái tích to, đựng khoảng 4 gáo nước. Tên cán bộ này thay đổi từng ngày, tùy theo ca trực trưa. Không có cán bộ trực chuyên môn “cát xô”, bởi vì “cát xô” chỉ có mấy hộp đá. Y vào mở cửa, rồi đứng trông cho anh hình sự đưa cơm. Hiện nay, ở mãi phía trong cùng “cát xô”, còn có một người nữa. Đêm qua, tôi đã gọi mấy lần, nhưng không có tiếng trả lời. Cơm vẫn 2 nắm, một cho tôi và một cho người phía bên trong. Thỉnh thoảng, tôi nghe tiếng ho, nhưng tôi gọi vẫn yên ắng. Trưa hôm nay, cũng như trưa hôm qua, tôi vừa rắc ít bột trụ sinh vào chỗ tam tinh, vừa ngồi nhắm mắt vận công, chợt có tiếng lẻng xẻng của chìa khóa và tiếng mở cửa. Tiếng bước chân sột soạt nghe rõ dần, rồi tiếng loạch xoạch mở khóa. Tấm cửa sắt con được kéo lên, một bàn tay đen đen, đầy cáu ghét đẩy nắm cơm vào. Tiếng loảng xoảng xô đông cửa xích sắt, rộ lên khi tôi cầm chiếc gáo giơ ra, cho y rót nước vào. Y chỉ ngồi một lúc, mà mũi cứ thỉnh thoảng phải xì xì thở ra, vì mùi phân và nước giải lâu ngày ở cái bô nhỏ dưới lỗ xông lên, và vì mùi hôi hám của cơ thể tôi, lâu không được tắm rửa. Những mùi đó cuộn vào nhau đầy ắp dưới căn hầm. Tôi liếc ra ngoài, chỉ nhìn thấy đôi ống quần vàng, đứng ở mãi gần cửa ra vào “cát xô”. Khi tên tù hình sự rót nước vào gáo cho tôi, vừa để chống dói, và vừa để có nước kha khá một chút để dự trữ để rửa đít. Tôi trợn mắt, uống gần hết gáo nước, trong khi tay tôi rối rít khua ra hiệu chờ, cho xin thêm đầy gáo. Im vắng, không một tiếng người, chỉ có tiếng rọt rẹt của xích sắt, khi hai tay tôi di chuyển cử động, và tiếng nước rót vào gáo kêu long tong. Sau đó, chính tên tù hình sự tháo chốt cho tấm cửa sập xuống, tên công an chỉ việc đến khóa. Tiếng bước chân nhỏ dần vào phía trong. Rồi những âm điệu của bản nhạc “cho tù ăn” lại trỗi lên một lần nữa. Mỗi ngày, chỉ trong vòng mươi, mười lăm phút, bản nhạc không lời đó được tấu lên, như một điệp khúc. Rồi nhà hầm lại trở về yên lặng như nhà mồ, cách biết với thế giới loài người bên trên. Thỉnh thoảng tiếng rọt rẹt khua động của xích sắt, tiếng ho khục khặc lẫn với tiếng rên rỉ ai oán kéo dài lê thê, càng làm rợn người trong đêm trường. Một điều thật may là ở dưới này, lâu lâu mới có một con muỗi vo ve. Có lẽ vì kín, phần khác, ngay không khí cũng thiếu “oxy”. Cho nên các chú muỗi chẳng thích, hoặc chẳng dám vào. Bị cùm ở “cát xô”, đi ỉa, đi đái thật vất vả! Phải xê dịch làm sao cho đúng lỗ, mà muốn đúng lỗ, thì hai tay phải giơ lên phía đầu. Vì hai sợi xích kéo ngược lên, ngắn, chỉ có hạn, nên cứ phải nằm nghiêng, hai tay giơ lên đầu hàng giờ, có khi 2 giờ vì phân táo bón. Rã rời, đau đớn, nhức mỏi! Đi xong, chẳng lẽ không rửa, mà rửa thì cực nhọc vô vàn. Xoay được thế chân cho nghiêng cái mông, cái tay lại bị dây xích giữ, không với tới. Vì vậy, nhiều khi nước rửa đổ chan hòa ra chỗ nằm, ngồi càng hôi thối, tanh tưởi. Dù đã quen mũi, nhưng khi mở nắp lỗ phân, với nước giải 5, 6 ngày rồi, tôi thấy nhiều lúc như nghẹt thở. Những lỗ phân ở nông thôn không hôi mấy, vì trống trải, mùi hôi khuếch tán trong không khí. Ở đây trong hầm kín, mỗi lần mở nắp ra, ôi thôi, giá con người không có mũi thì tuyệt biết bao! Mùi hôi thối làm nhức đầu, đờ đẫn người, làm mờ cả mắt, tê liệt cả thần kinh. Tôi hiểu, tụi cộng Hỏa Lò không phải không biết cái mùi hôi chết người này, nhưng chúng cố ý coi đó là một trong những phương pháp, để hành tội người tù. Trước đây, tôi đọc sách báo, cũng như tôi đã vào cái nghề “hang một lỗ” này, tôi cứ đinh ninh, khi một điệp viên đã bị đối phương bắt, thì sẽ bị tra tấn bằng mọi cách để khai thác, rồi bắn bỏ. Cho nên, lúc tôi bị bắt, phần thì trước mắt, chúng cũng thấy tôi không, hoặc chưa hoạt động gì, như vậy dứt khoát chúng không thể bắn tôi. Còn vấn đề tra tấn, đối với một người, nếu can trường, dũng lược, cũng chỉ như một trận đòn “hội chợ”. Bởi vì, nếu làm quá đã ngất rồi, mà ngất, thì còn biết đau đớn là gì. Như vậy, chừng dăm mươi trận rồi cũng phải kết cung. Nhưng, với cộng sản, phương pháp của chúng hoàn toàn mới lạ. Cũng chính vì trước đây, chúng đã bị tra tấn dưới thời thực dân Pháp, cũng như Sài Gòn ngày nay rồi. Nghĩa là, chỉ tra, đánh tới tấp năm, mười trận, trong 5, 6 tháng là kết cung. Cho nên, nếu có sự kiên trì, gan lì chịu đựng, thường là bảo vệ được bí mật của mình. Ở đây, chúng dùng thời gian và dạ dầy để khai thác. Như trên tôi đã trình bầy, hầu hết những người lính (người lính tôi dùng theo ý nghĩa là người có tinh thần chống cộng, không hẳn phải cầm súng) của phía Quốc Gia, tự do của chúng ta, tinh thần của họ rất cao, rất dũng cảm, có thể chịu đựng qua những phút cùng khổ, đắng cay cao nhất. Nhưng, với điều kiện ngắn thôi, một tuần, một tháng, một năm, 2 năm là nhiều, chứ xem chừng mãi mãi, không biết ngày nào, hầu như đa số phải bỏ cuộc. Chịu đựng được lâu dài, đòi hỏi kinh qua nhiều trận bão tinh thần; vật lộn giằng co hàng ngày với đói khát, cùm, xích trong những điều kiện ngặt nghèo nhất. Tinh thần bị ức chế cao độ, dồn ép lại thành một xác tín: Cứ chịu đựng gian khổ, khắc nghiệt triền miên, cho tới khi cơ thể không chịu đựng được nữa, những nan bệnh sẽ đè gục xuống đẩy mình về với cát bụi mây ngàn. Bản thân tôi cũng nằm trong nhược điểm đó, nhiều lúc tôi cũng quá nản lòng. Sức người chịu đựng cũng có hạn nào đó! Tôi muốn buông xuôi, mặc cho cơ thể lụi tàn dần. Tôi cũng xác quyết là dù có nỗ lực phấn đấu bao nhiêu, rồi sớm hay muộn cũng phải lìa đời trong cảnh ngục tù này. Những ý tưởng này chỉ nổi lên từng phút, từng giờ, rồi lại phải nhường chỗ cho những tư tưởng lạc quan, tích cực, nỗ lực đến phút cuối cuộc đời. Tóm lại, cuối cùng để tư tưởng lạ quan tích cực với lẽ sống làm chủ tình hình, cũng phải trải qua biết bao trận chiến đấu cam go, giằng co nghiêng ngửa với những tư tưởng tiêu cực, bi quan. Những tư tưởng xấu, tồi bại này cũng như lũ phản động cộng sản. Mỗi khi chúng bị nguy khốn, chúng rút vào trú khu để chờ dịp, lại chui ra quấy phá cuộc đời, làm tê liệt, làm lệch hướng đi của cuộc sống. Vậy, chỉ còn một cách duy nhất, là ta phải luôn luôn trang bị cho mình một nghị lực mạnh. Đó là loại vũ khí hơn hẳn dể chế ngự, dè bẹp chúng. Hôm nay là thứ Hai, như vậy, tôi mới vào “cát xô” được 6 ngày. Ba vết thương đều đã giảm đau nhiều. Chỉ còn vết thương ở tam tinh, hình như có mủ, vì gói thuốc bột trụ sinh ông y tá cho, tôi bôi dè sẻn hàng ngày, cũng đã hết. Vết rách ở môi dưới đã ngứa, ăn da non, cánh tay phải, do tôi tích cực tập luyện, vết thương trật khấp xương nay đã hết sưng tím. Ngược lại, hai cái chân, mặc dù ngày nào tôi cũng xoay sở, tập dịch lên, lùi xuống nhiều lần bây giờ cứ cắn nhức trong xương. Dưới gan bàn chân, cứ râm ran như có nhiều con kiến cắn. Bây giờ ở “cát xô”, tôi không còn ý niệm được về thời gian ngày hay đêm, trừ chừng 15, 10 phút ăn cơm. Thường cứ nằm độ 2 tiếng, lại ngồi chừng 2 tiếng. Nằm nhiều, đau lưng, đau người; lại ngồi, ngồi nhiều đau đít lại phải nằm. Chẳng bao giờ tôi nghe thấy một tiếng động gì ở bên trên. Nhiều lúc, tôi cảm giác là mình ở một thế giới khác, một thế giới mà con người khi sinh ra đã phải đeo xiềng xích, thứ xiềng xích gắn liền vào thân người cho tới chết. Một thế giới riêng biệt, không liên quan, dính dáng gì đến loài người nữa. Nhất là về đêm (tôi chỉ theo sự suy luận và tính toán của mình để biết là đêm), nhiều lúc thấy hoang vắng, không có một sinh vật nào khác nữa cùng với mình, tôi lại gào lên gọi người phía bên trong. Tôi thèm, tôi háo hức được nghe tiếng một đồng loại. Nhưng, dù tôi gào, kêu như năn nỉ người bạn đồng cảnh lên tiếng cho đỡ cô liêu, tịch mịch trong nhà hầm, vẫn không có một tiếng trả lời. Có lúc, tôi nghĩ hay là người đó điếc, hoặc câm? Nhưng, rõ ràng nhiều lần tôi nghe tiếng rầm rầm, rì rì như tiếng đọc kinh cầu nguyện, sám hối. So với bên tôi, thì bên đó rất ít khi nghe tiếng rung reng của xích sắt, có lẽ người đó rất ít cử động. Trong khi tôi, dù kiệt sức, rã rời vì đói, vẫn phải nổ lực, cố gắng tập cử động tay chân. Nếu nằm ngửa, phải ngệch đầu vào tường đá, vì không bao giờ co chân lại được. Nằm nghiêng hai phía, lại phải nằm co, hai tay phải luôn luôn giơ lên phía đầu, vì dây xích có hạn. Tôi đang nằm đầu óc vẩn vơ nghĩ ngợi với những nỗi niềm trăm hướng, bỗng có tiếng động xọc xoạch mở khóa, rồi cửa “cát xô” mở. Một lúc, tôi nghe tiếng mở khóa cái “quan tài” đá của tôi. Miếng cửa sắt được kéo lên. Thì ra tên cán bộ Kế và một tên hình sự vẫn đưa cơm. Tên Kế là người miền Nam, đeo lon Thượng Sĩ, phải 45, 50 tuổi rồi. Y vẫn thường coi buống số 9 trại chung. Hôm nay vào “cát xô”, y phải đeo khẩu trang. Việc mở cùm mở xích cho tù, bắt buộc phải do cán bộ mở, nếu không, chắc y đã sai anh hình sự làm thay. Bởi vì, tôi thấy y mở khóa xích cho tôi mà phải nín thở, nhăn mặt, vội vàng làm cho xong, rồi chạy mãi ra phía gần cửa “cát xô”, mới quay lại quát: - Cho ra đổ bộ và lấy nước dội, làm vệ sinh chỗ nằm! Đồng thời cho tắm rửa 15 phút! Khi tôi chui ra khỏi chuồng, đứng dậy, hai đầu gối của tôi rủn ra, tôi ngã ngồi bệt xuống nền đá. Tôi lại chỗi dậy, cứ như vậy mấy lần. Người tù hình sự nhìn tôi với ánh mắt đầy thương cảm của tình người. Anh ta chừng 23, 23 tuổi, trông mập mạp, nhưng nước da vẫn xám xịt. Mập mạp là vì làm nhà bếp. Dưới chế độ chủ nghĩa, câu:”Giầu nhà kho, no nhà bếp”, dù ở đâu, hay lúc nào, cũng đúng! Sau khi cái chân tôi đã tạm nhuần, bấy giờ tôi mới chui vào mở nắp lỗ phân, lôi cái bô phân và nước giải đã 6, 7 ngày của tôi lên. Tên Kế càng lùi xa lên phía trên cửa “cát xô”. Ngược lại, anh hình sự lại tìm cớ vờ đặt cái khay gỗ xuống gần chỗ tôi, tay lúi húi xếp một nắm cơm, và một bát rau muống già nấu, đen xì. Nhìn bát rau muống, tôi thật là mừng. Hàng tuần nay, ruột sót như cào. Không có một tí rau nào, chỉ ăn cơm với muối. Nhưng muối cũng không đủ. Vậy mà mỗi bữa cơm, tôi vẫn gắng ăn dè ra, thường để giành được…..mươi hạt muối! Từ đó cho đến bữa cơm kế, 24 tiếng, cứ khoảng hai tiếng tôi lại lấy một hạt muối cho vào mồm. Những lúc đó, một mâu thuẫn đã xảy ra, trong nội tại sự việc: một đằng muốn hạt muối ngấm tỏa ra nhiều mùi thơm ngon; đàng khác lại muốn đừng tan nhanh quá. Mâu thuẫn này luôn luôn không thể giải quyết được. Được phía này thì mất phía kia. Anh hình sự quả là cũng quái. Đúng lúc một tên cán bộ nào đó ở phía trên đi qua, hỏi tên Kế cái gì đó, Kế vừa ngửng lên chỉ trỏ nói chuyện, ở dưới này, anh hình sự tươi mặt nhìn tôi khẽ nói: - Anh có biết anh em tù ở trên ca ngợi hành động can trường của anh lắm. Họ còn biết anh từ miền Nam ra hoạt động ở Hà Nội nữa. Chúng em có người được đi dọn rửa phân buồng ấy về nói là anh đánh nó phọt cứt ra. Vừa lúc ấy tên Kế hết nói chuyện, và lại cúi đưa mắt nhìn xuống dưới, tôi không thể nói được lời cám ơn anh em có nhã ý với mình. Tuy vậy, tự trong lòng, tôi cũng thấy dâng lên nhè nhẹ một niềm an ủi; thêm nguồn sống phấn khởi; nhưng lại cũng xen lẫn một chút bâng khuâng man mác buồn. Sự việc thất bại. Bây giờ, tôi đang sống dở, chết dở ở nhà mồ này; và sau này, chắc chắn trong hồ sơ có vết “trốn tù”, “đánh cán bộ”. Như thế, chẳng bao giờ tôi được “hưởng” sự rộng rãi cả. Nếu hôm ấy, tôi thành công! Chúng chỉ còn biết một tù nhân đã bí mật biến mất, trước bao nhiêu hàng rào canh phòng. Nhưng thôi, nghĩ làm gì những chuyện “nồi canh đã bể” ấy, chỉ càng thêm buồn, thêm tiếc!..... |
|
|
![]()
Post
#54
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi Hai
Cái Chết Của Một Người Tù… Linh Mục?... Lúc này, trời đã lành lạnh, một vài hơi heo may đã lò dò về sớm. Không có quần áo thay, dù vậy, tôi vẫn cởi bộ quần áo ra vò mạnh cho đỡ tanh, thối. Cúi vào vòi nước, tôi xoa, cào mấy cái cho bong ít vảy ghét. Cả cái bắp đùi của tôi bây giờ chỉ vừa một chít tay với 3 đốt ngón tay. Hai cái xương phía ngoài đấu gối, trông như hai cái đầu con bọ ngựa ngọ nguậy, ngút ngắc, lúc tôi đứng lên ngồi xuống. Tôi gãi hai mông đít, chả thấy những đầu xương nhọn hoắt. Bao nhiêu công việc, tôi phải làm vội vàng, vì chỉ có 15 phút. Nhưng, có lẽ tên Kế thấy tôi nỗ lực với cuộc sống, cho nên đã để cho tôi hơn 20 phút. Sau khi tôi dùng tay, ăn và húp hết bát canh, còn nắm cơm, tôi mang vào. Cho họ cùm xong mới ăn, vì hết giờ rồi. Cùm, xích xong, và khi cửa buồng sập xuống, những bước chân đi dần vào phía trong. Tôi cũng cố gắng lắng nghe qua những âm thanh để có thể phán đoán chút gì, về người phía bên trong được không. Có tiếng mở khóa và kéo cửa lên, nhưng đợi mãi, không nghe tiếng chân ra ngoài đổ bô và rửa ráy. Im lìm một lúc, rồi nghe tiếng sập cửa và khóa, những tiếng bước chân sền sệt nhỏ dần lên phía cửa “cát xô”. Đã quá nhiều lần tôi gọi buống phía trong rồi, nhưng không hiểu tại sao người trong ấy, không lên tiếng trả lời. Hôm nay, tôi cũng chả muốn gọi nữa! Tôi thấy lạnh run lên, dù tôi đã cố sức vắt khô quần áo, nhưng tôi vẫn run. Thật chẳng có cái dại nào giống cái dại nào. Lần sau, thà chịu bẩn, chịu cứt đái, chứ chả dám giặt nữa. Phải ăn cơm ngay, để có chút “ca lô ri” chống lạnh, tôi run lắm rồi! Trong ánh sáng mờ mờ của căn hầm, khi tôi bẻ nắm cơm ra, mũi tôi thoáng ngửi một mùi đặc biệt, làm nước miếng của tôi rào rào chảy ra đầy mồm. Tôi nhìn ở giữa nắm cơm: một mầu nâu nâu, đen đen, trăng trắng. Thì ra một miếng thịt heo vuông mỗi bề độ 3 phân, dầy độ 5 ly. Ôi chao! Sao tôi lại có cái diễm phúc thần tiên như thế này? Tôi đã biết, ở trong Hỏa Lò, thịt là cả một vấn đề. Một năm, cũng chỉ 3, 4 bữa là cùng, mỗi bữa chỉ được 2 miếng con con bằng hai đốt ngón tay. Hỏa Lò là trại giam của Thủ Đô Hà Nội, bộ mặt của cả nước, có nhiều khách quốc tế, và các “vị” lãnh đạo tối cao của xã hội chủ nghĩa tới lui, mới được hưởng cái “đặc ân” đó. Hôm nay là ngày gì đâu mà Hỏa Lò có thịt!? Vậy, đây chỉ là của cán bộ, và do tài ba nhập nhằng thế nào đấy của anh bếp tù hình sự, để gọi là một chút giúp đỡ cho người, họ có thiện cảm. Tôi hơi lặng người đi vì xúc động, trước một việc làm cao cả của một người có tâm hồn, lấy nghĩa khí để xử thế, đôi khi tiền không mua được. Thực vậy, nếu vì lý do nào đó bị phát giác, không những mất “nồi cơm”, nghĩa là mất chân béo bở ở nhà bếp, phải trở về buồng giam, để tiếp tục những ngày đói triền miên ở trong tù. Hồ sơ còn bị ghi vết xấu, sau này đi trại nào, cũng khó lòng có cơ hội nhận lãnh những “chân” béo bở nữa. Ngoài ra, có khi còn bị kỷ luật, bị cùm ở trại chung. Phải nói, đây là một việc làm tôi suốt đời, không quên. Chỉ vì miếng thịt, dù tôi chưa ăn, chỉ mới ăn cơm, tôi đã quên bẵng đi mọi việc chung quanh. Người hết lạnh lúc nào, ngừng run lúc nào, tôi cũng không hay. Ngay bộ quần áo, cũng đã khô ráo rồi! Bây giờ tôi nằm xuống, cầm miếng thịt hà hít cho nó sướng cái đã, rồi tôi bắt đầu nhẹ cắn một miếng. Tôi bảo đảm, tất cả các tế bào trong cơ thể của tôi đều như đứng bật dậy, cùng nhún nhẩy, đong đưa để đón nhận hương vị của miếng thịt. Tôi vừa nhai, vừa nghe tiếng róc rách, của những giòng nước thơm thơm, ngầy ngậy từ từ chảy ngấm vào con tì, con vị của mình. Đầu óc tôi cứ lâng lâng, miên man bâng khuâng! Xin cảm tạ đấng Tạo Hóa! Tại sao lại có lòng ưu ái đối với thế nhân đến như vậy? Ngài đã ban cho con người một thứ vưu vật tuyệt vời, mà không phải ai cũng được hưởng hết cái giá trị của nó….. Những ngày hôm sau, tôi nhìn nắm cơm, tuy trông bề ngoài cũng như mọi khi, nhưng khi bẻ ăn, thấy rắn chắc khác thường. Phải nói, lượng cơm gần như gấp rưỡi, nhưng được nắm lại thật chặt để trông vẫn như thường. Cũng vì vậy, cơ thể tôi có thêm sức để chịu đựng. Trước dây, tôi chỉ mừng là có được một người tù thông cảm với hoàn cảnh của mình, nên đã tận tình giúp đỡ. Nhưng một đêm, tôi chợt nhận thấy, ý nghĩa của vấn đề còn to lớn hơn. Ở đây, người giúp đỡ tôi, anh ấy nói có nhiều người khác biết. Vậy, đây là quần chúng! Không bị tuyên truyền, không bị lừa lọc, bịp bợm. Bằng thực tiễn và thời gian, quần chúng đã tự hiểu, và tự nguyện giúp đỡ một người bị bọn cường quyền hành hạ. Như thế, việc tôi làm, đường tôi đi, càng ngày càng được sự thương yêu, đùm bọc của quần chúng. Điều đó là một cứu cánh quyết định, giúp tôi vượt qua nhiều gian khổ, trên đường đi tới sau này. Dần dần, tôi càng ít nghe thấy những tiếng rọt rẹt của xích sắt, phía bên trong hơn. Cả những tiếng rên và tiềng rầm rì như tiếng tụng kinh, đã quen thuộc lâu ngày. Đến ngày thứ Bảy tuần đó, sau khi nhận cơm và nước, tôi quen lệ như mọi lần, chờ nghe điệp khúc của điệu nhạc “cho tù ăn” trỗi lên. Tôi chỉ nghe đến “khúc” kéo cửa sắt lên, rồi…..ngừng bặt, ngắt quãng, thay vào đó là tiếng bước chân hấp tấp của anh tù hình sự đi trở ra. Qua khỏi chuồng của tôi, một giọng nói to lẫn trong tiếng thở hổn hển: - Báo cáo cán bộ, buồng phía trong đã chết tự bao giờ rồi! Tiếng bước chân dồn dập đi vào phía trong. Một lúc, rồi tiếng sền sệt chạy trở ra và nhỏ dần về phía cửa “cát xô”. Qua sự phán đoán của tôi, anh hình sự vẫn còn đang đứng đợi chờ trên bực hầm. Đây là trường hợp hi hữu, bất ngờ. Tôi đã có chủ định từ mấy hôm nay, vì vậy gặp dịp không thể bỏ lỡ, tôi vờ ho lên một tiếng, rồi kêu bâng quơ: - Đau bụng quá trời ơi! Tiếng bước chân đi nhanh xuống, giọng nhỏ nhẹ hỏi: - Anh làm sao đấy?!... Chủ động, ý của tôi là cố tìm cách để biết tên anh tù hình sự, và về người ở buồng phía trong. Vì vậy, tôi hỏi ngay, giọng như thì thào: - Tôi mong muốn được biết tên bạn? - Em tên Minh. Còn anh? - Đặng Chí Bình…..Người vừa chết ở phía trong, Minh có biết là ai không? - Ông ấy là linh mục. Tôi thoáng giật mình, hỏi gấp: - Tên gì? - Em không biết! - Linh mục có điếc, hay câm không? - Không câm, không điếc,nhưng không nói với ai từ ngày bị bắt, nên họ mới cho vào “cát xô”. - Lâu chưa?..... Giữa lúc đó, có tiếng người xa xa, anh Minh lẹ chân chạy ngay lên phía trên bậc hầm. Bốn, năm người đi qua chuồng của tôi. Tiếng rút chốt cùm. Tiếng mở khóa xích sắt rủng rẻng. Lịch kịch một lúc, rồi những tiếng bước chân nặng chịch vì phải khênh, kéo một thân người ngang qua chuồng tôi. Một mùi thịt người chết lâu ngày nồng nặc. Mùi đó quạt vào mũi làm tôi bỗng chợt nhớ lại một hình ảnh của quá khứ, ở nghĩa địa Đô Thành, Sài Gòn, ngày 13-14 tháng 11 năm 1960 – Ngày binh biến 11/11/1960 của miền Nam. Hôm đó, tôi theo giòng người vào nhà xác trong nghĩa địa Đô Thành, vừa để thỏa tính tò mò, vừa để xem, biết đâu, lại chả có người quen, mình biết để về báo cho gia đình họ hay. Bao nhiêu dẫy xác chết. Có những xác phình to tướng như xác người ngoại quốc. Có cái lòi ruột, cái mất đầu, có cái chỉ còn….chiếc cẳng chân dính toòng teng một cục thịt lầy nhầy mấy đoạn ruột…..Đặc biệt, một mùi khăn khẳn, tanh tanh, ngai ngái từ những chỗ thịt đã thối nồng nặc bao trùm cả một vùng chung quanh. Người nào vào, cũng có chiếc khăn bịt mũi, vậy mà vẫn vang lên đây đó tiếng nôn ọe, lẫn với tiếng gào, khóc của thân nhân, khi đã nhìn thấy xác của người nhà. Thậm chí, tôi đã rời xa nghĩa địa hàng nửa cây số, thế mà vẫn còn ngữi thấy cái mùi đặc biệt đó. Rồi hôm nay, mũi tôi lại ngửi thấy mùi thịt người chết lâu ngày này, khiến tôi nhớ đến những cảnh đời trong một thời gian khác, ở một không gian khác của Tổ Quốc Việt Nam nhiều nghiệt ngã cay đắng, đó là miền Nam thân yêu, mãi tít xa vời vợi. Nghe qua âm thanh, tôi hiểu chúng đã khiêng người chết lên trên đồi; cửa “cát xô” đã đóng, mà sao mùi xú uế của tử khí còn nồng nặc căn hầm. Chừng nửa giờ sau, cửa “cát xô” lại mở. Nghe tiếng bước chân, tôi biết có hai người đi xuống. Rồi một người đi trở lên. Một lúc, tôi nghe tiếng quét dọn, rồi tiếng phì phì nôn ọe. Tôi hiểu đó là tiếng của anh nhà bếp hình sự. Tiếng mở vòi nước chảy ồ ồ, tiếng xối nước ào ào. Đột nhiên, giọng anh Minh nói như thầm thì: - Mọi khi, họ để vào nhà xác, đêm mới mang đi chôn. Hôm nay, phải đem đi ngay rồi, vì thối quá! - Chết từ bao giờ mà mùi kinh thế! - Mới đêm qua. Nhưng, vì cái chân ông ta bị lở loét thối và có bọ nửa tháng nay rồi. Hàng ngày giòi bọ, bò lổm nhổm ra cả ngoài nền này. Thảo nào, cái mũi tôi đã không lầm khi ngửi thấy mùi thịt chết nhiều ngày. Thấy anh nói có vẻ tự nhiên như không có cán bộ, dù vậy, tôi vẫn chưa yên tâm nên hỏi: - Cán bộ đâu? - Không chịu nổi hôi thối, ông ta trèo lên cửa “cát xô” rồi. - Minh họ gì? - Lê, Lê Hoàng Minh! - Ông Linh mục bị bắt từ bao giờ? - Em không rõ, chỉ biết vào “cát xô” hai tháng nay. - Ông ta chừng bao nhiêu tuổi? - Khoảng 40, 45. Ông ấy bị chết vì cái chân gần đứt rơi ra ở trong cùm, trông thấy cả ống xương chân trắng hếu, rất nhiều giòi bọ. Đột nhiên, một giọng miền Nam quát vang lên từ phía cửa “cát xô”: - Xong chưa? Làm gì lâu thế!?... Tiếng anh Minh vội vàng: - Báo cáo, xong ngay đây ạ! Vừa báo cáo, anh vừa hấp tấp đi lên. Cửa “cát xô” đóng rồi, lòng tôi vẫn vơi đầy với vị Linh mục nào đó. Tại sao người không nói chuyện với tôi? Nếu tôi biết từ trước người là Linh mục, tôi đã có cách để nói chuyện với người. Biết đâu, vừa biết rỏ về người, may ra cổ vũ tinh thần cho người, người lại….chưa chết. Tôi hiểu, có những nhân vật lỗi lạc về nhiều khía cạnh trong cuộc đời, nhưng khi gặp thế cùng, lại quên đi những điều sơ đẳng nhất. Đêm hôm đó, tôi tự dưng thấy rợn người mấy lần, vì dưới nhà…..mồ, bây giờ còn mỗi mình tôi. Thỉnh thoảng, nghe những tiếng lịch kịch phía bên trong, tôi cũng thấy nổi gai ốc lên. Nhất là, mùi khăn khẳn vẫn chưa tan hết dưới hầm. Nhưng, chợt một ý nghĩ dấy lên trong đầu làm tôi yên lòng, bớt thấp thỏm khi nghe những âm thanh lạ trong đêm trường:”Dứt khoát chẳng làm quái gì có ma! Bởi vì rất dễ hiểu, nếu có ma thực, những lũ cộng sản đã bị bóp cổ chết hết rồi, còn đâu!”. Biết bao nhiêu chiến sĩ Quốc Gia, biết bao nhiêu những đồng bào vô tội trong cải cách ruộng đất, trong các nhà tù hiện nay…..bị lũ cộng sản tàn sát, giết hại; lòng căm hờn dâng cao như núi. Nếu chết đi thành ma, lũ cộng làm sao còn! Cũng như, bao nhiêu kẻ ác trên cõi đời này làm sao yên hưởng xa hoa trên đống xương, và máu của người khác…..? Do những suy nghĩ như vậy, tôi không cón cảm thấy rờn rợn, nổi da gà khi nghe thấy những tiếng xọc xạch ở phía trong, lúc đêm khuya nữa. Chắc đấy chỉ là một con chuột nào đó, đi kiếm ăn đêm?... |
|
|
![]()
Post
#55
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi Ba
Những Tấm Lòng…Tù!... Vì hàng ngày đôi chân thường không cử động được, cứ phải nằm yên một chỗ, ba tuần lễ nay, không lần nào tôi đứng lên được ngay, mỗi lần khi được mở cùm để ra đổ bô và tắm rửa. Tôi thường phải vịn tay vào tường đá, đứng lên ngồi xuống vài lần, rồi mới đứng lên và đi được. Cho nên, nếu không muốn trở thành một phế nhân, để càng phải chịu thêm nhiều cay đắng nữa của cuộc đời, tôi không còn cách nào khác là phải phấn đấu đến phút cuối cùng, dù ngày mai có phải chết. Mỗi ngày ba lần, tôi dùng tay xoa nắn, chà sát, đấm bóp hai chân. Chân không tự cử động được thì phải dùng tay giúp vậy; nhưng cũng rất khó khăn, hạn chế, vì cố gắng lắm, hai tay cũng chỉ với tới quá đầu gối một chút mà thôi. Vì thế, ngày cũng như đêm, từ đầu gối trở xuống, nếu ngứa, tôi đã kiếm được một cuống chổi thanh hao, dài chừng 40 phân, để giải quyết. Tôi dùng que chổi này chọc, lách vào trong cùm, gãi chỗ nào ngứa. Có tay, mà nhiều khi như không có vậy! Tôi nằm, miên man nghĩ ngợi, thật là may, hồng phúc cơ duyên thế nào tôi lại gặp được anh Minh đã hết lòng giúp đỡ. Mỗi ngày được thêm gần nữa suất cơm như vậy, chẳng khác nào như được tiếp máu. Tuy về vật chất nó chỉ đáp ứng nhỏ mọn; nhưng về tinh thần, lại là cả một sự tiếp cứu lớn lao. Nó đã móc, nâng tinh thần của tôi lên cao, để khỏi bị chìm nghỉm trong “lò nấu xác” của lũ quỷ đỏ thèm khát thịt người. Trong “cát xô”, tôi không thể nằm thẳng chân thực hiện phương pháp vận công “A”, tôi vẫn thường làm ở xà lim, tôi đổi lại thành ngồi. Mỗi ngày, tôi làm ba lần: sáng, trưa và tối. Nhiều lúc, ngồi tham thiền nhập định xong, tôi nhìn hai cái chân trong cùm, hai cái tay trong xích mà buồn cười. Chẳng biết những vị cao nhân trong võ lâm lúc ngồi điều khí vận công, mà chân tay bị xích, có tập luyện được không? Tôi chưa được đọc thấy một tác phẩm nào có nhân vật bị cùm xích, mà tập được võ công cả. Vì bị cùm và xích, làm sao tập theo được những thế võ trong bí kíp!?..... Hôm nay là ngày thứ 34 ở “cát xô”. Dù tôi đã nỗ lực phấn đấu hết sức mình để tồn tại; dù được sự hà hơi tiếp sức của anh Minh; đến nay, hai cái chân tôi đã phù to lên. Phù này khác với cước vì lạnh trước đây. Phù bây giờ một phần là do thiếu chất dinh dưỡng lâu ngày; nhưng, phần chính là do hai cái chân không cử động được, hầu như ngày nào cũng như ngày nào, cứ đặt yên một chỗ. Nhìn đôi bàn chân sưng phù, tôi thật nản lòng. Bao nhiêu công tập luyện từ hôm vào nhà hầm, đều trôi cuốn theo giòng nước lũ. Một điều khác làm tôi nản hơn là, người đưa cơm hôm nay lạ, không phải là anh Minh nữa; mà là một anh hình sự khác, có đôi mắt ngờ nghệch chậm chạp. Tôi băn khoăn nóng ruột, muốn hỏi người đưa cơm này về anh Minh. Nhưng, phần vì thái độ của anh như vô tình, lơ đãng và lạnh lùng như một cái máy cử động vậy. Phần khác, những tên công an thường theo sát, đứng ngay bên cạnh, nhìn và sai anh hình sự làm, nên tôi không làm sao thực hiện được ý định đó. Có thể vì anh hình sự này mới, công an phải chỉ bảo và thử thách. Cũng có thể vì “cát xô” bây giờ chỉ có mình tôi. Tôi lại cố gắng giữ gìn vệ sinh, cho nên cái “cát xô” đã bớt hôi thối, (những lúc tắm rửa, tôi miệt mài năn nỉ, xin thêm từng xô nước để dội chỗ nằm). Tên cán bộ nào cũng vào đứng sát chuồng của tôi, khi cho ăn cơm. Không còn cảnh bịt mồm, chỗ nước bọt như mọi khi. Ngẫm chuyện đời, tôi thấy là bất kể chuyện gì, việc gì cũng đều có hai mặt mâu thuẫn, đối kháng nhau: Lợi và hại. Chỉ có tỷ lệ, mức độ chênh lệch nhiều hay ít. Sự việc lợi nhất, cũng có cái hại của nó. Ngược lại, điều xấu tệ hại nhất, cũng có cái lợi của nó. Tôi cố giữ gìn vệ sinh cho nhà hầm đỡ hôi thối, như vậy là lợi cho sức khỏe, rất đáng làm; nhưng, bị điều bất lợi như đã trình bầy ở trên. Vì thế, nếu xét một việc mà chưa thấy những mặt mâu thuẫn, là vì ta chưa mổ xẻ, phân tích kỹ mà thôi. Bây giờ, nắm cơm hàng ngày lại nhỏ như trước, khi chưa có sự giúp đỡ của anh Minh. Nghĩa là chỉ còn được khoảng 2 bát cơm con. Tôi đợi mãi, rồi cũng tới ngày thứ Hai, ngày tắm rửa. Hôm nay lại là ngày lão Kim già trực. Từ sau ngày tôi đánh lừa y để tự tử, hễ nhìn thấy tôi đâu, là lão lại quắc mắt lên giận dữ. Câu chuyện đã 5, 6 tháng rồi, và cũng đã 3, 4 tháng nay tôi không gặp lão. Vì vậy, khi lão cúi đầu vào quát bảo, tôi đưa tay cho lão mở khóa xích. Nhìn thấy tôi, mắt lão chớp chớp sau gọng kính trắng, vẻ hơi ngỡ ngàng. Tôi hiểu là lão còn căm ghét tôi nhiều, cho nên tôi cố tránh không nhìn lão. Tôi phải bò ra, vì hai chân không thể đứng lên nổi nữa. Tôi cố tập đứng lên, ngồi xuống vài lần như mọi khi, nhưng vừa buốt vừa run rẩy, lại phải ngồi bệt xuống. Trong khi tên hình sự đưa cơm đang ngồi ghệ ở một bậc đá, gần cửa “cát xô” chờ tôi đổ bô và tắm rửa, đột nhiên, lão già Kim hỏi tôi: - Anh ở “cát xô” bao nhiêu ngày rồi? - Báo cáo “cụ” (ai cũng gọi lão như vậy, vì lão đã trên 60 tuổi rồi), hôm nay là ngày thứ 42 ạ! Tôi trả lời trong hơi thở hổn hển vì mệt. Qua thái độ và cách lão hỏi tôi, tôi cảm nhận hình như lão không ghét tôi nhiều lắm! Nhìn tôi bò ra phía vòi nước một cách vất vả, vì phải mang theo cái bô phân và nước tiểu. Tự nhiên, lão mắng tôi một câu: - Anh như con thú ấy, có chịu nằm yên đâu! Tôi chẳng buồn nói năng chi, vì đang phải nghiến răng chịu đựng cái rát, buốt khi bàn chân nết trên nền đá. Tôi cứ phải nhắc cái bô đặt một chỗ với sức vươn tối đa, rồi lại bò, cứ như vậy cho đến chỗ cống đổ phân. Tôi chỉ rửa ráy qua loa, rồi lại hì hục bò về chuồng như mọi khi. Tôi ngồi húp và ăn bát canh rau muống trước, còn nắm cơm sẽ mang vào trong buồng mới ăn. Nguyên tắc, một tuần chỉ được mở cùm, để đổ bô và tắm rửa trong 15 phút, thế mà hôm nay, lão Kim để cho đến 30 phút. Từ đấy, tôi càng thấy bản chất của một con người, hầu như không thể thay đổi được. Có chăng, chỉ là sự che đậy bên ngoài, vì một lý do nào đó của cuộc sống mà thôi. Lúc khóa, xích tay tôi lão lại hỏi nữa: - Lúc đưa anh vào “cát xô”, cán bộ có tuyên bố bao nhiêu ngày không? - Báo cáo cụ, không! Vì không có dịp thuận tiện nào, nên điều cứ thắc mắc trong lòng tôi là, tôi muốn hỏi anh bếp mới về anh Minh giờ ra sao, đã không thực hiện được. Bốn ngày sau, vào một buổi sáng thứ Sáu, tôi đang nằm băn khoăn về hai cái chân mình (tôi không còn cách nào để phấn đấu luyện tập nữa), đành chịu cho đôi chân mình đi đến chỗ có thể bị liệt. Nắm cơm quá ít, chỉ đủ để ăn không chết, chứ không còn sức để cử động tay chân, Tôi thấy, nếu trước đây không được anh Minh giúp đỡ, tôi đã nằm liệt lâu rồi, và chưa biết những chuyện đau buồn gì đã xảy ra. Bỗng, tôi nghe tiếng lẻng xẻng của chìa khóa, tiếng lịch kịch của cánh cửa hầm “cát xô” mở. Tôi ngạc nhiên, mở mắt ra nghe ngóng. Bây giờ mới khoảng 8 rưỡi, 9 giờ, đâu đã phải giờ cho ăn cơm? Hay lại có một đồng cảnh nữa mới vào? Tôi muốn bò dậy để xem chuyện gì? Nhưng, không ngờ là sức tôi bây giờ không đủ để ngồi dậy nữa! Tiếng chìa khóa mở chuồng của tôi. Rồi cửa được kéo lên. Tên Đại, cán bộ văn thư (làm ở văn phòng) nhìn tôi, rồi quát: - Bò dậy! Đưa tay ra đây để mở xích! Tôi cố chống tay, mấy lần vẫn không bò dậy được. Chỉ vì hai sợi dây xích không đủ dài để chống hai tay xuống nền. Mọi khi, tôi thường phải dùng thêm sức kéo của tay, rồi lấy thế ngồi lên. Bây giờ, người tôi rã rượi, như không còn một tí hơi sức nào. Thấy tôi xoay sở, cố gắng nhưng không thể ngồi dậy được, tên Đại đành phải cúi đầu vào để mở hai cái khóa ở đầu dây xích. Rồi, y ra ngoài rút chốt cùm. Hai tay được tự do, không phải mang sức nặng của sợi dây xích, tôi chống tay bò dậy, thế mà cũng phải mấy lần mới ngồi lên được. Hai mắt hoa lên, quay cuồng, tôi phải cố như lấy gân cả hai tay, mới nâng cho cái cùm há mồm lên, để lấy đôi chân ra. Đôi chân tôi bây giờ sưng húp lên cả mắt cá. Hai bàn chân to tướng với mấy khúc xương tong teo nhăn nhúm, xám xịt, như hai chiếc đũa cắm vào hai củ khoai lang luộc vậy. Tôi cố bò ra khỏi buồng. Y nhìn thân hình của tôi một lúc, rồi dịu giọng: - Cho anh ra rửa ráy, rồi vào viết kiểm điểm. Vừa nói, y vừa chỉ mấy tờ giấy, cái bút và lọ mực đang để trên bậc đá, lối lên cửa hầm “cát xô”. Thật là lạ lùng, mắt của tôi nhìn ngay y, cũng không rõ nữa. Hình ảnh một tên mặc quần áo màu vàng, mồm đang quàng một cái khẩu trang màu trắng trông cũng rất lờ mờ. Tôi lại càng lo sợ, không hiểu vì sao mắt mình lại như vậy. Phải chăng, vì ở rong chỗ mờ tối quá lâu (gần hai tháng trời), mắt luôn luôn phải điều tiết căng thẳng, hay vì mấy năm nay ăn uống đói khát và thiếu chất dinh dưỡng? Có lẽ vì hai lý do. Tôi nghiến răng, kéo “hai củ khoai lang luộc” về chỗ vòi nước rửa hai con mắt xem thế nào. Trời đã vào Thu nên nước bắt đầu lạnh. Tôi vuốt, dụi, rửa hai con mắt, nhưng vẫn không thấy sáng hơn. Tôi bò lại chỗ để mấy tờ giấy và lọ mực. Đầu tiên, tôi viết chữ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”. Do cái tay quen viết theo tay; mắt tôi chỉ thấy những nét ngoằn ngoèo, đen đen mờ mờ trên giấy trắng, không đọc rõ được nét chữ. Tôi quay lại y: - Thưa ông, tôi chả nhìn thấy chữ tôi viết! Y ngạc nhiên, lại gần tôi nhìn. Có thể y thấy thái độ khổ tâm của tôi vì đôi mắt như vậy, nên y bật cả hai cái đèn trong hầm “cát xô”, y lại trèo lên những bậc đá tới của hầm “cát xô”, mở phanh to cho ánh sáng ở trên chiếu vào. Căn hầm đã sáng hẳn ra, nhưng mắt tôi nhìn chữ viết vẫn chưa rõ hẳn, vì vậy tôi bỏ bút xuống, nói với y: - Thưa ông, hiện giờ mắt tôi không nhìn rõ chữ viết. Vậy, để mai kia xem mắt tôi có nhìn thấy, tôi mới viết được. Hơn nữa, lúc này tôi mệt lắm, tôi không biết viết gì!?..... - Được! Sau này anh sẽ viết chi tiết. Còn bây giờ, theo nguyên tắc, anh phải viết mấy giòng ngắn gọn: “Xin nhận hoàn toàn khuyết điểm, sai lầm. Xin cam đoan không bao giờ tái phạm”. Thấy y nói như vậy, tôi cũng cố gắng viết đại theo lời y nói, dù tôi chả nhìn thấy rõ. Tôi cũng viết 3, 4 giòng, ký tên, rồi đưa cho y. Lúc đó mới khoảng 10 giờ, y cầm tờ giấy tôi viết, xem qua, rồi hất tay ra hiệu bảo tôi chui vào chuồng: - Hãy đi vào buồng, tạm cho anh nghỉ cùm và xích! Được lời như cởi tấm lòng, tôi bò vào chuồng có vẻ nhanh hơn lúc tôi bò ra. Cửa chuồng đã đóng, và cửa “cát xô” cũng đã khóa. Tôi loay hoay tìm thế nằm ngửa, gối đầu lên cùm sắt, giơ hai chân thẳng lên, rồi co lại. Dần dần, làm được! Mệt, tôi nghỉ, hết mệt, tôi lại tiếp tục làm. Theo suy lý của tôi, hai cái chân bị phù toàn là nước ở bên trong, bây giờ giơ ngược lên nhiều lần, nước dần dần sẽ phải rút xuống cơ thể. Trưa hôm đó, một cán bộ lạ coi trại chung dẫn anh hình sự vào cho tôi ăn cơm. Ăn xong, tôi lại tiếp tục tập. Thực ra cơ thể tôi lúc này, chỗ nào cũng cần tập, nhưng trong điều kiện tối ưu tiên, phải dành cho hai chân đã. Nghĩa là dồn hết sức của cơ thể để tập cho hai chân. Chẳng hiểu sự suy lý của tôi có đúng hay không, hay vì lý do gì khác mà tôi không biết. Điều trông thấy, cũng như sờ thấy là hai bàn chân tôi, mà tôi gọi là “hai củ khoai lang luộc”, chỉ có một đêm với nửa ngày tập, đã rút được đến hai phần mười. Tôi càng cảm thấy được khích lệ, sáng hôm sau, tôi lại tiếp tục nỗ lực tập nữa. Nhất là đêm vừa rồi lại không bị cùm, xích, tôi cảm thấy tay chân tự do, thoải mái nhẹ tênh tênh, muốn để tay đâu, muốn để chân đâu, tùy theo ý mình. Hỡi tự do! Mi là thiên thần của loài người! Nhưng không phải ai cũng đưọc mi tới thăm. Tuy được tha cùm và xích tay, nhưng tâm tư tôi vẫn thấp thỏm không yên. Thoáng nghe tiếng động cửa lại giật mình lo sợ cán bộ vào cùm, xích lại. Lúc cán bộ vào cho ăn cơm, tôi ngồi nhai miếng cơm, nhưng mắt vẫn theo dõi thái độ của y, sợ bất chợt y bảo bỏ chân vào cùm, bỏ tay vào xích. Thật, nhiều lúc tủi hận cho một kiếp người, chẳng khác gì một con chó! Nhưng, tôi nghĩ rằng con chó không thể ý thức sự cùm xích bằng tôi. Nó làm sao cảm thấy tủi hận, uất hờn, dày vò, cấu xé trái tim đã rướm máu bầm đen như tôi. Tạo hóa sinh ra loài người là sinh vật cao quý nhất, nhưng, cũng là sinh vật đểu giả, nham hiểm, tàn ác nhất!..... |
|
|
![]()
Post
#56
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi Bốn
Tìm Được Cố Vật… Không Gặp… Cố Nhân!... Chiều hôm đó, vào khoảng sau giờ tan tầm được một lúc, cửa “cát xô” lại mở. Tên Đại vào mở cửa chuồng tôi, ra hiệu bảo tôi chui ra ngoài. Khi thấy tôi chui ra khỏi chuồng, y đứng chụm hai chân lại, người thẳng dưỡn lên, nét mặt ra vẻ hết sức nghiêm trang: - Thừa lệnh Ban Giám Thị, tôi tuyên bố anh được tha ở “cát xô”, trở về xà lim, cùm một chân! Nhìn y đứng cứng ngắc, hai mắt nhìn thẳng lên cửa hầm “cát xô”, hai môi mím chặt, trông cả đẫn một cục to tướng, nhưng tôi cũng không cười được. Bởi vì, tiếng sáo “Cầu Sông Kwai” đang trỗi dậy trong lòng tôi như chào mừng dứt điểm “cát xô”, trở về hay trở lên trần thế với xã hội loài người. Sau khi tuyên bố xong, y ra hiệu tay cho tôi bò lên cửa “cát xô”. Dù trong lòng, điệu sáo mê hồn vẫn lả lơi, nhảy múa; nhưng tôi vẫn chưa đi được. Hai bàn chân vẫn nặng chịch, nhức buốt. Chắc rằng ban giám thị cũng hiểu như vậy, nên chúng đợi cho tới khi trại chung vào hết rồi, mới mở “cát xô” cho tôi bò ra. Hai đầu gối chỉ là hai cục xương, nghiến xuống đá và xi măng đau quá! Tôi cố bò lên khỏi lỗ hầm, rồi nằm vật ra, không bò được nữa. Hai đầu gối đã rướm máu. Tên Đại cũng nhìn thấy vậy, y lúng túng không biết phải giải quyết thế nào. Giữa lúc đó, tên Trì, Phó Giám Thị, cùng một tên cán bộ nữa đang từ cổng trại chung đi vào. Y đến bên cạnh tôi, nhìn tôi đang nằm ngửa thở, y liếc đôi chân tôi một lúc, rồi quay sang nói với tên Đại như ra lệnh: - Đồng chí xuống trại thợ, gọi một tên thằng lên cõng nó về xà lim! Tên Đại hấp tấp đi ngay! Tên Trì cứ nhìn đôi bàn chân của tôi, đầu y gật gật. Rồi nhìn tôi, môi trên y nhếch cong lên, để lộ mấy cái răng hô đầy cáu ghét ra ngoài: - Anh chịu đựng tốt hỉ? Tôi im lặng như không nghe y nói gì. Trong khi ấy, tên Đại và một anh tù từ phía nhà bếp đi lên. Khi tới cạnh tôi, tên Đại nói với anh tù như quát, tay chỉ về phía cuối sân: - Cõng tên này về phía kia! Anh tù, chắc là hình sự, chừng 30 tuổi, mập, lùn, da bánh mật, mặc chiếc quần đùi nâu đã vá hai miếng ở mông, với chiếc áo trại nhiều vết dầu mỡ đen xì. Anh cố ý nương nhẹ, đỡ hai tay cho tôi ngồi dậy, rồi nâng tôi đứng lên, nghiêng vai nói nhẹ, giọng miền Nam đã pha Bắc: - Anh ôm cổ tôi! Anh cõng tôi đi trước, tên Đại cầm chùm chìa khóa lẻng kẻng theo sau. Kể từ ngày tôi vào “cát xô” tới hôm nay, là 47 ngày; nhưng nếu kể cả những ngày nằm ở bệnh xá, thì gần hai tháng. Mới chỉ hai tháng, không khí cũng như quang cảnh sân trại chung đã thay đổi, khác lạ hẳn xưa. Rải rác chung quanh cái sân trại rộng lớn là những lỗ “tăng xê” cá nhân, màu đất mới vàng au, từng đống đây đó. Bốn chiếc loa to ở cái chòi giữa sân Hỏa Lò, đang lải nhải chữ Mỹ khiêu chiến, tạo nên vụ Vịnh Bắc Bộ với chiếc tàu Maddox. Những bài nói chuyện, cũng như những thông cáo của những tên lãnh đạo miền Bắc khích lệ, cổ vũ, hô hào quân cũng như dân miền Bắc chuẩn bị chiến tranh. Nào là…..các quân binh chủng tăng cường luyện tập, bố trí công sự, hầm hố, chuẩn bị nhiều phương án tác chiến. Đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống, v.v…Nào là, động viên người và của, chuẩn bị cho chiến tranh lớn…Nào là, ra lệnh và hô hào quần chúng, nhân dân Hà Nội, các trường học, bệnh viện, mọi cơ sở sản xuất không cần thiết cho chiến đấu đều phải di tản, sơ tán khỏi Hà Nội, v.v… Lúc này máy bay Mỹ đã bắn phá thị xã Đồng Hới và Hòn Gay. Không khí sôi nổi và căng thẳng của chiến tranh, tràn ứ khung trời Hà Nội. Khi anh tù hình sự cõng tôi đến cổng xà lim I, tên Đại đẩy cánh cổng, ra hiệu cho anh tù cõng tôi vào. Trời! Sân xà lim đầy những lá bàng, và bao nhiêu là quả! Tôi ngước nhìn lên cành bàng, cả cây bàng trĩu trái xanh, vàng, hồng lẫn trong màu lá xanh. Từng chiếc lá úa vàng, lốm đốm những chấm hồng, đỏ lả lơi rời cành đang dẫy dọn quay cuồng trong gió để trở về cội. Thỉnh thoảng, những tiếng lộp độp đây đó của những quả bàng, đã chín vàng cũng rùng mình lìa cành lao về với đất. Tất cả tạo thành một bức tranh đầy mầu sắc của trời Thu. Ngay trên chạng ba của cây bàng, một chiếc loa mới gắn chỉa thẳng vào xà lim. Từ nay, tôi lại điếc tai với “con mụ lắm mồm”, loại chửi thuê ở bến xe, xó chợ. Khi qua sân, trong lúc chờ tên Đại loay hoay mở ngăn kéo, lấy chùm chìa khóa của các buồng xà lim, anh tù hình sự lựa, khẽ để tôi ngồi ghệ trên hè, dựa vào tường. Tôi đưa mắt quan sát những quả bàng gần sát chân mình. Có những quả vàng ươm, chín rẽ chân chim. Một mùi thơm ngây ngất, ngon ngọt, theo từng cơn gió đẩy đầy ắp vào mũi tôi, mở toang bao nhiêu cửa tuyến, để cho nước miếng tàn đầy mồm. Mũi tôi đang cong lên để đón nhận những làn hương trong gió, đột nhiên, anh hình sự ghé vào tai tôi thì thào: - Chúng tôi ở trại thợ, hoan nghênh anh lắm! Tôi chỉ kịp quay lại mỉm cười và tươi ánh mắt nhìn anh nói với anh lòng thiện cảm của tôi, vì tên Đại đã đứng lên, ra hiệu cho anh tù hình sự cõng tôi vào buồng. Thật là lạ lùng, thấy nó đưa vào gần tới buồng 6, tôi tưởng nó phải cho tôi về buồng cũ, trong đó vẫn còn một số đồ lặt vặt của tôi; nhưng lại là buồng 5, ngay buồng bên cạnh. Khi anh hình sự cõng tôi lách vào cửa, đặt tôi lên sàn xi măng ở một bên, tên Đại cũng vào buồng ra hiệu cho anh hình sự ra ngoài. Tôi liền báo cáo ngay: - Thưa ông, trước khi phải vào “cát sô”, tôi có chiếc chiếu và một bộ quần áo trại cũ, vỏ ba lô, cùng một số thứ lặt vặt còn để ở buồng số 6. Đề nghị ông, cho tôi xin lại, lấy cái dùng! Y nhìn tôi, ngần ngừ một lúc, rồi sang bên buồng số 6 mở cửa. Y sai anh hình sự ôm hết các thứ của tôi sang. Trông thấy những món đồ cũ, thật tôi thấy nở từng khúc ruột, vừa là những đồ kỷ niệm với bao nhiêu công trình, lại vừa còn cái chì mật nữa. Trong khi tôi mừng rỡ, lúi húi vơ gọn những đồ anh hình sự mang sang, tên Đại ra rút chốt cùm. Tôi tự hiểu, nên lê dần xuống phía cái cùm, nâng miếng sắt nửa trên của cái cùm cho há ra, rồi tôi phải dùng tay nâng chân để vào. Vì chân bị phù, nên lỗ cùm vừa khít, thật là chặt. Tôi rất lo lắng! Bề ngang của cái cùm rộng 8 phân là sắt, áp sát vào ống chân. Ở xà lim đã có nhiều người bị thối chân, chỉ vì chân to, cùm chặt. Thối chân ở trong này, làm gì có thuốc chữa, tất nhiên chân ấy phải hỏng, vì sẽ trở thành sâu Quảng. Sau khi tên Đại đã khóa cửa đi rồi, tôi cố gắng vặn, xê dịch cái cổ chân. Quá chặt! Không còn cách nào khác. Chỉ còn mong sao tập tành thế nào cho chân rút phù, mới lỏng ra được. Tôi dõi mắt nhìn sang cái cùm phía sàn bên kia, với ước lượng của mắt, tôi thấy hai lổ cùm bên ấy hình như có nhỉnh hơn. Ngày mai, tôi sẽ lựa lời báo cáo với tên Chiến trực xà lim, xin cùm bên ấy. Lại còn tên Chiến nữa. Không biết sự việc xảy ra do tôi, bây giờ nó có căm hận, ghét tôi không? Điều này, phải đợi sáng mai mới biết. Tôi chợt nhớ anh Căn buồng 12, đối diện với buồng 5 của tôi hiện giờ; rồi hai cô gái buồng số 9 nữa. Chắc rằng họ chẳng biết gì về tôi. Họ chỉ biết tự nhiên tôi đi mất. Có thể, họ cho là tôi đã được ra trại chung, hoặc đi trại trung ương rồi, chứ làm sao họ hiểu được là, vừa qua tôi đã làm một cú động trời, và đến nay, gần chết lại trở về đây? Tôi nằm chờ 2, 3 tiếng đồng hồ, xà lim vẫn yên ắng khác thường. Tôi cảm thấy như đổi thay hết, sau gần hai tháng tôi rời xa. Tôi cứ nằm miên man suy nghĩ, trong khi tiếng loa, bây giờ, nghe rõ mồn một. Chợt, tôi nghe chúng đề cập tới “câu chuyện cảnh giác”:…..chúng nhắc đến việc Biệt Hải miền Nam đã bí mật đột kích hòn Mê….. rồi, chúng nói đến “kế hoạch 34A” của miền Nam, cho người nhái lợi dụng những đêm tối trời, hoặc mưa gió bất ngờ đổ bộ lên những vùng ven biển. Bắt dân, hoặc cán bộ mang ra xuồng cao su rồi chạy ra tàu ở ngoài khơi, chở về Nam để khai thác tin tức tình báo. Điều tôi muốn nói ở đây, “kế hoạch 34A” phải là một kế hoạch bí mật. Vậy sao trên đài, trên báo của cộng sản, chúng đã nói một cách công khai? Như vậy, ta thấy tình báo của cộng sản, đã phải biết kế hoạch này, ngay từ lúc chưa được thi hành. 9 giờ tối, tiếng loa đã tắt, xà lim yên ắng. Thỉnh thoảng một vài tiếng lộp bộp của những quả bàng rơi xuống sân, nghe như tiếng đập nia, xảy thóc ngày mùa. Tôi ho mấy tiếng như gọi, như chào, nhưng vắng lặng vẫn hoàn toàn vắng lặng. Quái thật! Mới 2 tháng, cảnh cũ còn đây mà người xưa đâu ta? Thấp thỏm, băn khoăn mãi, rồi cũng phải chìm dần vào giấc ngủ muộn….. |
|
|
![]() ![]()
Post
#57
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi Lăm
Tin tức, hay tuyên truyền bịp bợm!... Sáng hôm sau, chưa mở mắt, tiếng đài đã léo nhéo! Dù không muốn nghe, tiếng loa vẫn cứ như chọc vào tai mình, nó độc lập với ý chí của mình. Phải nói, nhiều lúc tôi coi tiếng loa như một cái nạn phải chịu đựng vậy. Sáng hôm nay, trong một bài bình luận, tôi chợt nghe đến một ý chúng lý luận cứ như thật ấy! Rằng: “…..Trong chế dộ tư bản mà chúng gọi là thế giới tự do, nguyên tắc sống của xã hội đó là mạnh được, yếu thua, cá lớn nuốt cá bé; cho nên, xã hội ấy tôn thờ và đề cao: Lẽ phải thuộc về sức mạnh. Nhưng, dưới chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã tỏ cho thế giới thấy tính hơn hẳn của chủ nghĩa cộng sản. Một cuộc cách mạng đổi đời từ tận gốc, đã biến đổi hẳn nguyên tắc sống của xã hội tư bản xấu xa cũ, trở thành: Sức mạnh thuộc về lẽ phải. Nghĩa là, nếu có lẽ phải, là có sức mạnh…..” Một người dân bình thường, sống dưới chế độ chuyên chính này cũng thấy ngay, đó chỉ là lý luận bịp bợm, trái ngược hoàn toàn với thực tế của xã hội cộng sản. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hãy nhìn bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, chuyện ở trong nước, cũng như chuyện ở ngoài nước, ta thấy chúng luôn luôn, và còn nhiều lần gấp bội xã hội tư bản, lấy sức mạnh để đè bẹp lẽ phải. Như vậy mà chúng cứ bắt người phải nghe! Phải nói rằng: Nó có lý do của nó. Nó buồn cười như trên đài, trên báo thường xuyên ca ngợi, đề cao tự do. Nhưng có tìm đỏ mắt cũng không thấy có tự do thực sự trong chế độ cộng sản. Sau này, chúng ta sẽ bàn tới. Giờ hành chính đã đến, cán bộ trực xà lim đã bắt đầu mở buồng cho ra rửa ráy. Qua cách mở cửa, và tiếng bước chân đi, tôi biết không phải tên Chiến, nhưng cũng không đoán ra là ai? Tiếng buồng 1 báo cáo xong. Rồi tiếng cán bộ quát: - Ra đi! À, tên Dư! Tên này là Trung Sĩ, tôi có gặp hắn vài lần trực xà lim vào ngày Chủ Nhật. Nhưng, hôm nay là ngày thường, có lẽ hắn đã trực xà lim thay tên Chiến cũng nên. Dư có tuổi, khoảng 50, 55 người thấp bé, cũng là loại tương đối dễ tính, không quá ác ôn như nhiều tên công an khác. Đến lượt buồng tôi, vì đã có chủ ý, tôi vội vàng cố gắng nâng cái cùm, rồi rút chân ra. Mãi không thấy tôi ra, y thò cổ vào, đang định quát hỏi, tôi nói ngay: - Báo cáo ông, tôi ở “cát xô” mới được cõng về đây chiều tối hôm qua, tôi chưa đi được. Chỉ vết cùm hằn ép vào chân mình, tôi nói: - Thưa cán bộ, chân tôi bị phù to quá, lỗ cùm lại nhỏ. Xin cán bộ cho tôi đổi qua cùm bên kia. Vừa nói, tôi vừa chỉ cái cùm ở sàn bên cạnh. Y không nói năng gì cả, đóng sầm cửa lại, cũng chả thấy rút chốt cùm sàn bên. Thôi, mặc, tôi tranh thủ vịn vào sàn chậm chạp tập đi. Hai chân nặng như hai hòn đá, lại còn đau buốt như kim châm, tôi vẫn cố gắng tập đi. Nhìn hai mu bàn chân, tôi thấy điều lạ là chúng sưng to đã đành, nhưng còn tím lại như bên trong có máu bầm đen vậy. Hình như chân sưng lên vì vết thương chứ không phải phù. Các buồng khác đã đổ bô vào đều bị cùm ngay, thế mà buồng tôi không đi rửa, lại chưa bị cùm? Tôi thấy thái độ của y như vậy, tôi càng hy vọng sẽ được đổi cùm. Nghe loáng thoáng buồng 14 bị kiết lỵ ra máu, báo cáo xin thuốc từ mấy hôm trước, bữa nay y tá mới vào, tôi liền báo cáo ầm lên: - Báo cáo ông Dư, chân tôi buốt lắm, xin ông báo y tá cho xin thuốc!... Tiếng chân đi vào rõ dần, rồi cửa con xoạch mở: - Anh báo cáo cái gì, làm ầm lên thế! - Thưa ông, chân tôi tím lại buốt quá, xin y tá cho thuốc! - Chờ đấy! Cửa sổ nhỏ đóng rồi. Bây giờ tôi mới để ý thoáng thấy chiếc lon 3 sao nằm trên một vạch trắng, trên một miếng dạ đỏ nhỏ hình bình hành, gắn ở ve cổ áo, còn mới nguyên. Tôi lại nhớ đến, tên Đại cũng chiếc lon mới toanh. Như vậy, dịp mồng 2 tháng 9 vừa rồi, ngành công an lại cho lên lon. Thời chiến, có nhiều tình huống mới, tụi lãnh đạo bộ chính trị phải mua chuộc phỉnh phờ tụi cán bộ cấp thấp, hạ tầng. Có thể vì mới được lên Thượng Sĩ, nên tên Dư lại càng dễ tính hơn. Mỗi tháng cũng thêm được mươi đồng. Một lúc sau, cửa lớn mở: Bà Dậu y tá. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy bà ta dạo này gầy hẳn đi, da xạm lại, trong tay chân bà ta như con chão chàng, trắng nhờn nhợt. Trong khi đó, ngược lại, bà ta cũng mở to mắt nhìn bộ xương của tôi. Chắc hẳn bà ta cũng chẳng lạ gì chuyện trốn tù của tôi hơn hai tháng trước. Bà sờ tay vào hai mu bàn chân của tôi, dịu dàng hỏi: - Chân anh làm sao tím lại thế? Tôi chỉ lắc đầu, tỏ vẻ cũng không biết tại sao. Bà ta nói thong thả, chậm rãi: - Cái này chỉ chích B1, khỏi ngay. Nhưng, B1 bây giờ rất hiếm. Tôi sẽ đề nghị cho anh ăn cơm cám một tuần. Cuối cùng, tôi chả có thuốc gì cả, nhưng được những lời thăm hỏi, an ủi về tinh thần. Điều làm tôi hưng phấn nhất là thái độ của tên Dư, cũng như của bà Dậu, họ không có vẻ căm ghét tôi đã đánh cán bộ. Chính điều này, lúc đó, tôi chưa nhận thức được đầy đủ, nhưng đã là những yếu tố góp vào sự phân tích của tôi sau này, có phần thực tế hơn. Khi lấy cơm vào, cũng như lúc trả bát, tôi phải bò. Tên Dư đã đóng chốt cùm phía này, và rút chốt cùm phía sàn bên kia, đổi chỗ cùm cho tôi. Hai ngày hôm sau, tôi bắt đầu được ăn cơm….trộn cám. Về xà lim được 5 ngày, tôi đã có thể chậm chạp đi lần theo tường ra lấy cơm, cũng như đổ bô. Sau một tuần ăn cơm cám, và phần khác, do sự nổ lực tập luyện hàng ngày, chân tôi đã bớt trông thấy. Mỗi ngày mỗi rút nhỏ lại, đến bây giờ, tôi đã đi lại được. Cuộc sống lại trở về phong thái của hơn 3 tháng trước đây. Như vậy, có thể nói rằng việc quyết định trốn tù của tôi, đã đúng như tôi nhận định: Nếu không được, tôi cũng không mất cái gì cả! Chợt cái lưỡi đẩy đưa vào khoảng trống ở hàm dưới, tôi thầm nghĩ: Cũng có mất, 3 cái răng và một vết sẹo kỷ niệm ở tam tinh. Đến hôm nay, tôi đã nhận biết là 2 cô gái ở trong buồng số 9, không còn ở đó nữa. Thay vào đấy, bây giờ, là một tù nhân nam. Tiếng cười điên rồ của buống 10 cũng đã hết. Không biết anh ta chuyển đi đâu, tình trạng của anh ta, sau khi tôi đi, diễn tiến thế nào? Anh Nguyễn Văn Căn, bị kết án tử hình, đã ký đơn xin ân xá với tên cáo Hồ (?), tôi biết đây chỉ là một hình thức chính trị, bịp bợm. Một cái khung sơn phết lòe loẹt đủ hình thức dân chủ, nhân dân, chấp pháp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, quốc hội, Công tố viện, luật sư, xin ân xá Chủ Tịch nhà nước, v.v… Tất cả chỉ để che đậy cái “lò nấu xác”, một cái “lò sát sinh” không hơn không kém ở bên trong. Tuy tôi chưa dám kết luận, nhưng nếu tôi đoán không lầm thì anh Căn đã bị xử rồi, nhất là khi tình hình đang biến đổi sang thời chiến. Nhân sự trong xà lim đã thay đổi hết, ngay cả cán bộ trực xà lim cũng là những tên cán bộ khác rồi. Chỉ hai tháng đi “cát xô” mà đổi thay nhiều thế. Tôi cứ nằm vẩn vơ nghĩ ngợi. Thỉnh thoảng một cơn gió nhè hẹ vương rải một mùi hương vừa ngọt, vừa ngây ngất, nhắc nhở tôi mùa bàng chín của Hỏa Lò. Đột nhiên, cửa sổ nhỏ xoạch mở. Tôi giật mình, nhìn ra, thoáng thấy cái môi vẩu nhọn ra như cái môi con cá ngão, tôi đã biết ngay là tên Bằng. Bây giờ, cán bộ Hỏa Lò đối với tôi, cũng như tôi đối với chúng, đã quen nhau, nhẵn mặt nhau quá rồi. Y chỉ nói cộc lốc hai tiếng:”Đi cung!”, rồi cúi xuống rút chốt cùm, mở khóa mở cửa. Tôi vừa nhấc chân ra khỏi cùm, vừa chuẩn bị tư tưởng lên phòng cung. Vì từ ngày tôi trốn đến nay, dã hai tháng hơn mới gọi. Ra tới hè. Trời! Sân xà lim, bàng chín rơi từng đống. Tôi tập tễnh đi qua, mắt nhìn những quả bàng chín vàng ngây, rẽ chân chim lăn lóc khắp sân. Tôi như ngụp lặn vào một trời ngất hương nồng. Dứt khoát, lúc đi cung trở về, tôi phải tìm mọi cách, kiếm một hai quả vào buồng để ngửi, hít cho đã đầy sự khát khao rồi…chén nữa. Ra tới cổng trại chung, cũng là phòng trực, ở hàng ghế lố nhố một số cán bộ và chấp pháp cả hình sự lẫn chính trị, tôi đã thoáng thấy tên Thành. Y đừng dậy, ký vào sổ, rồi quay lại ra hiệu tay cho tôi đi trước. Nhìn sân ngoài của Hỏa Lò, cái sân có giàn nho và rải rác một số luống hoa; đây góc này, góc kia cũng từng đống đất mới vàng ệch, với những lổ tròn của miệng hầm cá nhân hoắm sâu xuống lòng đất. Tôi có cảm tưởng, nhịp độ tù cũng như cán bộ Hỏa Lò thưa ra, chắc cũng nằm trong chủ trương chung của thành phố là sơ tán. Số tù cho chuyển gấp đi các trại trung ương đã đành, ngay số cán bộ ở các khâu, hình như cũng tinh giảm, để trở thành những nhân lực chiến đấu, hoặc phục vụ chiến đấu. Khi tên Thành dẫn tôi vào buồng cung, trong buồng đã có tên Đặng ngồi sẵn; trên bàn vẫn có chiếc cặp hồ sơ cố hữu. Điều tôi thấy hơi khác mọi khi là chiếc ghế đẩu dành cho bị can để cách xa bàn của chúng hơn. Thông thường, trước đây chỉ cách bàn 50, 60 phân. Bây giờ, phải xa hơn 1 m. Không những thế, từ lúc tôi vào buồng, hai tên cứ chăm chú nhìn chân tôi, như soi mói với những ánh mắt vừa băn khoăn, vừa cảnh giác. Tên Thành cố tươi nét mặt, vẻ xã giao: - Lâu ngày, anh không lên đây, anh thấy gì lạ không? Câu hỏi không rõ ràng. Ở buồng này có gì lạ? Hay ngoài sân? Bởi vì, cả hai nơi đều có lạ. Nhưng, để dễ nói chuyện, và cho không khí đỡ căng thẳng, tôi chọn ngoài sân để trả lời: - Thưa ông, tôi thấy một không khí chiến tranh, vì tôi nhìn thấy những hầm trú ẩn cá nhân mới đào. Hai tên đều gật gật cái đầu như câu trả lời của tôi hợp lý theo ý chúng. Vì vậy, tên Đặng nghiêm nét mặt dõng dạc: - Đế quốc Mỹ đã bắn phá tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chúng đe dọa cho nhân dân ta trở về thời kỳ đồ đá. Để rồi xem, chúng có làm được điều chúng nói không? Rồi đây, nhân dân ta sẽ dạy cho Mỹ một bài học. “Tuy Mỹ giàu có, vũ khí tối tân, nhiều phương tiện chiến tranh khoa học, nhìn bên ngoài, nhìn phiến diện, ai cũng thấy mạnh lắm, và ngay bản thân Mỹ cũng lầm như vậy, khi nghĩ về mình. Nhưng, nếu nhìn sâu, phân tích kỹ, không nhìn thấy những nhược điểm nội tại to lớn ngay trong lòng xã hội Mỹ. Nghĩa là nó nằm ngay trong đầu của những người Mỹ. Cho nên, đảng ta đã nhận định: Mỹ chỉ là một tên khổng lồ, chân bằng đất sét”. Ngồi nghe y nói, tuy tôi không đồng ý hoàn toàn, nhưng về cơ bản, tôi cũng có nhiều điểm đồng ý với nhận định của y. Mỹ, nói riêng, và thế giới tự do nói chung, to mà không mạnh, vì đầy dẫy những mâu thuẫn. Vũ khí tôi tân nào cũng phải được chỉ huy, sử dụng bằng con người. Vậy, nếu con người đó không có lý tưởng, mà chỉ vì cuộc sống và đồng tiền, thì còn nguy hại hơn. Vì, có thể sẽ bán, sẽ đưa vũ khí tôi tấn đó, cho kẻ thù bắn ngược lại mình. Mỹ quên mất một điều. Hễ người làm việc nước như lính tráng; cán bộ các loại, các cấp, v.v… mà có nhiều tiền là không có lý tưởng. (Hễ thanh liêm là nghèo). Điều này rất biện chứng như một nguyên tắc vậy. Sau này, càng về cuối thiên hồi ký này sẽ càng có minh chứng, vì lúc ấy mới có nhiều sự việc thực tế để bổ sung cho lý luận thêm sáng tỏ. Bởi vì, lý luận mà không có thực tế cũng như người có mắt mà không có chân. Ngược lại, có thực tế mà không có lý luận, cũng chẳng khác gì người có chân mà không có mắt. Cuối cùng, chẳng cái nào đạt được mục đích cả. Cả hai yếu tố đều cần thiết, phải gắn liền với nhau một cách hữu cơ. Nhưng, cũng kinh qua từ thực tế rút ra: Yếu tố “có chân” có tầm vóc lớn hơn “có mắt”. - Chỉ có lý thuyết mà không có thực hành, không những không đi được, mà rất nhiều khi rơi vào không tưởng, hão huyền chỉ nói chuyện trên trời. - Có thực hành mà không có lý luận: Mắt mù nhưng có đôi chân, ít ra cũng còn mò mẫm đi được, nhưng chỉ đi đến đâu thì biết đến đấy, tùy tiện may rủi. Lý thuyết và thực hành sinh động như sự sống của con người phải có hai yếu tố: Không khí và thực phẩm. Yếu tố “không khí” cũng có tầm vóc lớn hơn yếu tố “thực phẩm”, vì có thể nhịn thực phẩm hàng tuần, không chết; nhưng không có không khí trong mươi mười lăm phút là….chết! Tôi hiểu, tên Đặng nói qua về Mỹ, cũng chỉ là một câu chuyện xã giao mào đề, chứ chúng gọi tôi lên đây, dĩ nhiên, phải có một mục đích khác. Quả nhiên, mặt y trở nên lạnh lùng, vừa mở mấy trang giấy hồ sơ, y vừa gằn giọng: - Anh phải khai chi tiết từ động cơ nguyên nhân đã dẫn đưa anh đến sự việc trốn tù. Anh kể lại từ đầu, từng chi tiết, như anh tường thuật lại sự việc vậy. Đã có nhiều kinh nghiệm về kiểu cung kẹo này rồi, vì thế, tôi suy nghĩ và hệ thống hóa lại toàn bộ, lược bỏ những chỗ nào thấy không có lợi, hoặc sẽ phức tạp lôi thôi, rắc rối sau này. Tôi lần lượt trình bày lại sự việc. Đến đoạn đi tìm mũ, tên Đặng vẫy tay ra hiệu cho tôi ngừng nói. Rồi, y mềm dẻo kích tôi về tâm lý: - Anh hãy kể lại thực chỗ này. Chuyện trốn tù của anh cũng đã xong rồi, nhưng anh phải nói cho hợp lý. Anh nói, tai anh nghe có thông, người khác mới nghe được chứ! Anh vào khu công an là để kiếm súng, kiếm vũ khí, người ta mới nghe được. Chứ chỉ vì cái mũ mà phải mò vào chỗ hiểm nguy như vậy, thật thậm chí vô lý! Nghe y lý luận đẩy đưa, tôi cười thầm trong bụng. Ngay từ những ngày đầu, khi mới bị bắt vào Hỏa Lò, tôi cũng không ấu trĩ sa vào cái bẫy tầm thường như thế. Dù tôi thực có ý định vào khu công an vũ trang để tìm vũ khí, tôi cũng không khai, không mắc bẫy; huống chi, bây giờ đã trải qua biết bao trận thử lửa, đấu trí với chúng hai năm rưỡi trời. Bao nhiêu lỡ lầm mới có những bài học ngày nay. Trước đây, nếu khai một chi tiết gì không thật, chúng nó đập bàn, đập ghế nạt nộ, quát tháo như nước sôi lửa bỏng rằng “nói láo”, “bịp bợm”, “không hợp lý, hợp tình chút nào”, v.v…tôi sinh ra lo lắng. Đôi lúc hớ hênh, lúng túng lại lòi đuôi ra cho chúng nắm được và từ đó chúng phanh phui ra sự thật. Nhưng giờ đây, tôi hiểu rằng, chuyện chúng nạt nộ thế nào cũng mặc chúng; khi đã cân nhắc, tính toán phải khai thế nào, thì cứ thế mà khai. Bởi vì, trong thực tế, có nhiều sự việc mới nghe qua, thật vô lý, không hợp tình, nhưng lại thực 100%. Ngược lại, có những sự việc nghe ra rất hợp tình, hữu lý, nhưng lại hoàn toàn là giả dối. Do đấy, bảo thế nào là vô lý, thế nào là có lý, nhiều khi thật cũng khó xác định. Trên đây, cũng chỉ là lý luận, phân tích một vài góc cạnh của những việc chung ở đời. Chứ với công an, nhất là công an cộng sản, khi mình đã lọt vào tay chúng, chớ có nói chơi, không dễ gì qua mặt chúng được. Trong quyền hạn ngập mình của chúng, nhiều sự việc chúng điều tra tận nơi, từng ngóc ngách chi tiết, chúng mới tin. Vì vậy, muốn qua mặt chúng, phải đòi hỏi có điều kiện, chứ không hẳn đơn giản như lý luận. Tóm lại, sự việc trốn tù, tôi cứ thực tế tuần tự khai báo sự thật. Chỉ có đoạn sau khi ra khỏi Hỏa Lò, tôi khai là sẽ tìm đường về Nam với gia đình bố mẹ, chứ không nói ý định thay vì về miền Nam, lại ngược về phía Bắc, v.v… Để đánh lạc hướng truy lùng của công an…Và, tôi vẫn khăng khăng là tôi thích xã hội chủ nghĩa. Nhưng, cách mạng không tin, nên tôi đã buồn chán tự tử. Tự tử không được, tôi mới tìm cách trốn…..Thế mà, phải cả buổi sáng và suốt buổi chiều hôm ấy, mới khai báo xong vì chúng không tin và truy hỏi nhiều. Hai hôm sau, chúng lại gọi lên, bắt tôi ngồi viết tường thuật lại chi tiết sự việc. Tôi cũng phải viết ròng rã hai ngày trời mới xong. |
|
|
![]()
Post
#58
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi Sáu
Những sai lầm của thế giới tự do… Hôm nay là Chủ Nhật. Ngồi trong xà lim không nhìn thấy trời, ánh sáng hắt vào từ khung cửa sổ mờ mờ, âm u như không có mặt trời. Không khí ẩm ướt, lành lạnh của những ngày cuối Thu. Tôi nằm nghĩ suy, tính toán tìm cách gì để chống cái lạnh của mùa Đông sắp tới. Tôi vẫn băn khoăn lo lắng nhất là đôi chân. Ở trong cùm, năm nào chân cũng bị cước, ngứa buốt suốt cả mùa Đông. Cuối cùng, tôi thấy chỉ có một cách duy nhất là khâu một đôi vớ thật dầy bằng những mảnh giẻ chùi, ở nhà tiêu trong buồng tắm. Vậy, ngay từ hôm nay, tôi lại bắt đầu tìm nhặt giẻ để chuẩn bị cho đôi “bít tất” mùa Đông. Mặt khác, tôi lại phải kiếm một cái gì để làm “con dao” nhỏ. Con dao nhỏ trước, đút trong ve áo đã mất khi trốn tù rồi. Tôi đang ngồi nhìn hai bàn chân của mình, bây giờ đã bé lại, lồi rõ 4 cục xương mắt cá chân. Từng miếng vảy đen xám bong ra, trông như con chó ghẻ rụng hết lông, vừa sần sùi, vừa loang lổ, sờ cờn cợn thấy ghê cả tay. Chợt, tai tôi thoáng nghe tiếng bước chân xèn xẹt, và cửa sổ nhỏ buồng tôi xịch mở. Giọng Quảng Nam của mụ Hoa, nghe như tiếng cua bò trên mâm đồng: - Anh này chuẩn bị đi cung! Rồi mụ ta cúi xuống rút chốt cùm. Cửa mở, tôi theo mụ ra sân, vừa đi vừa nghĩ ngợi băn khoăn: Hôm nay là Chủ Nhật, phải có chuyện gì đặc biệt nên chúng mới gọi tôi. Tôi tự hiểu là tâm trạng mình cứ hay thấp thỏm lo sợ, nhất là trong những khi chúng gọi bất ngờ như thế này. Như, biết đâu, đường dây “M” bị lộ? Biết đâu “Z5” sa lưới? Biết đâu, chúng đã điều tra xác minh, đã rõ ràng sự việc của tôi ở trong Nam, v.v… Hàng chục cái “biết đâu” kéo dài từ hơn hai năm nay rồi, và có lẽ sẽ đeo đuổi tôi suốt những ngày, còn ở trong tay chúng. Mải suy nghĩ trên đường đi, đầu tôi đã ướt hết vì mưa bụi, tôi cũng không hay. Nhìn những hạt mưa phùn li ti dẫy dọn, lúc xọc sang phía bên này. Lúc xiên sang phía kia hàng loạt, theo từng cơn heo may nhe nhẹ, như những giọt nước mắt mùa Thu mến cảnh, mến người, luyến lưu từ giã, nhường lại đất trời cảnh vật cho Đông về. Ra tới phòng trực, tôi thấy chỉ có tên Thành ngồi đấy. Như mọi khi, theo hiệu tay của y, tôi đi về phía sân giàn nho, theo con đường nhò, giữa những luống hoa hồng, cúc, v.v… Trời mưa bay bay, không khí lành lạnh! Những bông hồng nhung tươi thắm đang lắc lư với gió. Những hạt mưa nho nhỏ, đọng lại trên những cánh hoa như những hạt xoàn trắng to, nhỏ dính trên nền nhung đỏ càng long lanh, dưới ánh nắng nhạt trong mưa bay. Một làn hương thoang thoảng, nhè nhẹ, vương vương gợi cho tôi một ý tưởng: tại sao Hỏa Lò là một trại giam, nơi cùm kẹp, xiềng xích tội nhân. Đêm cũng như ngày, chỉ toàn những tiếng rên la thảm khốc, đắng cay tràn lối của kiếp tù đầy…..Lại có những luống hoa đủ loại tuyệt vời như thế? Phải chăng, chúng dùng hoa để làm vơi dịu nỗi thương đau của những người cùng khổ? Hay là, như thông thường của người đời, những cái gì xấu xa thì lại được bọc bằng những vải vóc cao sang đắt tiền? Vật càng xấu, cái bọc càng cần phải đẹp! Vì là ngày Chủ Nhật nên quang cảnh ngoài sân của Hỏa Lò thật vắng vẻ. Nhưng khi bước chân vào phòng cung, tôi thấy lố nhố 6, 7 người. Tôi ngạc nhiên, vì thây mấy người lạ hoắc, lại có cả máy ảnh; chỉ có tên Thành và Đặng là chấp pháp tôi đã biết. Còn 4, 5, người kia, chắc là ở nơi khác đến, tôi chưa hề thấy mặt bao giờ. Đã ở mấy năm trường, bất cứ ai dù tôi không gặp trực tiếp, nhưng ra vào, đi lại nhiều lần, tôi cũng phải thấy dáng quen quen, nếu là người đã làm việc ở Hỏa Lò. Những người lạ mặt ngồi ở một ghế dài, mặt thật lạnh lùng, với những cặp mắt gườm gườm soi mói. Tên Thành chỉ ghế cho tôi ngồi, rồi y mở một gói giấy báo trên bàn, vừa nói: - Hôm nay, anh phải diễn lại tất cả những thái độ, cử chỉ, động tác hôm anh trốn tù. Y đưa cho tôi 2 củ khoai lang và nói: - Anh ăn tạm 2 củ khoai, rồi bắt đầu! À ra thế! Bây giờ tôi mới hiểu. Nhưng, tôi cũng không ngờ chúng đặt vấn đề quan trọng như thế. Có lẽ chúng bắt tôi diễn lại cảnh trốn, để vừa dùng làm chứng từ buộc tội sau này, vừa làm tài liệu rút kinh nghiệm cho chúng. Sau đó, tất cả các chi tiết trong vụ đào thoát “bất thành”, tôi phải lần lượt diễn lại. Có một sự việc tôi buồn cười và nhớ nhất là: Khi đến chỗ tôi phải lấy thế, dùng cú đòn chặt gáy, tên lạ mặt ngồi đóng vai Đỗ Đình Hạ chấp pháp, cứ nhấp nhổm sợ sệt không yên, mắt lấm lét sợ tôi làm thật. Tôi buồn cười là vì, nhìn lại thân hình mình, một người ốm tong teo, khẳng khiu, so với y, một tên khỏe mạnh đường đường “một đấng nam nhi”. Thế cho nên, người ta chỉ sợ bóng, sợ vía là nhiều. Nghe người ta đồn, nghe người ta nói lại, cứ tưởng như ghê gớm lắm; sự thực, nhiều sự việc không đến nỗi như họ tưởng đâu. Chúng nó chụp tôi rất nhiều kiểu ảnh, từ lúc đầu, cho tới lúc tôi dẫn xe đạp ra khỏi cổng Hỏa Lò. Với cách đứng đợi, cách vào lấy thẻ, cách dẫn xe ra cổng, cách cười với tên công an vũ trang đứng gác, cho tới khi gặp tên Lê Phó Giám Thị và tên Điền, v.v…Chúng chỉ “không bắt” tôi diễn cái cảnh khi tôi bị bắt lại, bị đánh tơi bời hoa lá. Vậy mà, cũng đến 12 giờ trưa mới xong, chúng cho tôi về xà lim. Tôi vừa đi vừa nghĩ việc trình diễn như đóng kịch vừa rồi. Tuy là ngày Chủ Nhật, tụi công an vũ trang, đa số là tuổi 20 hay ngoài, cũng ra theo dõi tôi diễn lại. Lợi dụng lúc diễn lại vai trò, mắt tôi vẫn không ngừng nhìn khắp đây đó, để xem có cái gì đem về mài thành con dao nhỏ, mà tôi đang cần không. Mãi đến lúc chúng nghỉ giải lao, tôi xin vào đi giải trong nhà xí của bọn công an vũ trang, tôi mới bẻ được đầu một miếng sắt rỉ, một chiều khoảng hai phân và chiều kia gần một phân. Thế là tôi đã có lại con dao tôi đã mất, cũng thấy vui vui trong dạ. Về tới cổng xà lim, chợt tôi nghe tiếng loa léo nhéo nói về miền Nam: Nào là, Nguyễn Văn Thiệu đang củng cố uy quyền, đưa phe cánh vào những khâu chủ chốt,…..Nào, sau khi lập nền đệ nhị Cộng Hòa…kêu gào Mỹ tăng cường viện trợ để chống đỡ với tình hình càng ngày càng nghiêm trọng, v.v…Tôi nghe, lòng vẫn lửng lơ, man mác bâng khuâng như chiếc cửa của một căn nhà trên lưng đồi vắng. Một cánh cửa đóng hững hờ, còn một cánh mở. Cánh mở để nhìn thấy, suy lý, dựa trên những cơ sở thực tế của miền Nam, của miền Bắc, của phe cộng sản và thế giới tự do: Ông Thiệu đâu phải là đối thủ của cộng sản miền Bắc. Còn cánh đóng: Dù hiểu như vậy, nhưng hãy đè chặt trong lòng, miễn bình luận; vì ở trong một cái thế là nói ra càng tan rữa lòng người, chỉ có cái lợi cho kẻ thù mà thôi. Tôi đã vào buồng, đóng cùm, đóng cửa rồi, lòng tôi vẫn nặng chĩu những suy tư về đất nước, về cuộc đời. Tôi cứ nhắm mắt, mặc cho đầu óc mình bềnh bồng trôi nổi đó đây, suốt về miền Nam, lại ra miền Bắc, lại chạy về Nam…..Tôi nhìn toàn bộ khung cảnh xã hội miền Nam. Tôi nhìn toàn bộ khung cảnh xã hội miền Bắc. Xã hội và con người có nhiều sự việc, về một phía, thật bao la phức tạp muôn màu, nghìn sắc; nhưng về phía khác, cũng rất giản đơn. Nếu ai đó, không bị mờ mắt vì địa vị, vì tiền bạc, nghĩa là không bị cái bả quyền lợi cá nhân che lấp mắt, đều nhìn thấy rõ rành rành. Muốn hiểu vấn đề xã hội, nhiều khi xét từ một tập thể, có khi từ một cá nhân; bởi vì, có nhiều điều liên quan, tương tự, đôi khi giống nhau như một khuôn đúc. Điều chính, cá nhân là một đơn vị. Một đơn vị không thể tách, chẻ nhỏ hơn, để xây dựng nên xã hội. Nhìn về xã hội miền Nam, nhìn về thế giới tự do, điều nổi bật nhất, cái gốc cổ thụ để sinh đẻ ra trăm nghìn cái khác, là: Đã để chủ nghĩa cá nhân lấn áp tập thể, lấn át xã hội, lấn át dân tộc, Tổ Quốc. Đấy là đầu nguồn để sinh sôi, nảy nở ra ngàn đường, trăm nhánh; đến nỗi nhiều người khi nhìn một sự việc nào đó, tưởng như hoàn toàn không có liên quan gì đến cái gốc, là chủ nghĩa cá nhân lên cao. Nhưng, nếu người ta chịu khó mày mò truy nguyên, từ cái này sang cái kia, rồi cuối cùng về đến cái gốc của nó, chính là chủ nghĩa cá nhân; nhiều người sẽ phải ngơ ngác, giật mình. Vì vậy, nếu thấy một người lính không có tinh thần chiến đấu; một người công chức tham nhũng, thái độ cựa quyền; người dân lạnh lùng bàng quan (nhất là người dân có nhìn người thương binh lủi thủi, lặc lè trên đường); đến cả người thanh niên trốn quân dịch, v.v…; đừng ngạc nhiên lắm. Chính đó là những cái quả, của cái nhân là chủ nghĩa cá nhân mà thôi. Từ cái gốc căn bản sai lầm đó, sai lầm này đẻ ra sai lầm khác, cứ như thế chất chồng. xã hội đầy rẫy những hiện tượng tắc trách, thiếu trách nhiệm trong công tác; hời hợt, cưỡi ngựa xem hoa đối với công việc mình phải làm. Trong hàng ngũ cán bộ của chính quyền ở mọi lãnh vực, từ hành chính, chính trị cho đến quân sự, v.v…loại cán bộ này chiếm đại đa số. Những hiện tượng này chỉ biến mất khi người đứng đầu quốc gia thực lòng vì dân vì nước lấy bản thân mình làm gương sáng, mang tâm hồn và khí lực ngày đêm xả thân lo lắng, để có một đội ngũ cán bộ trung ương được đào tạo, thử thách nhiều công phu. “Vạn sự khởi đầu nan!”, cần sao gây được những hạt giống tốt lúc đầu. Tuy nhiên, phải mang tâm huyết chịu đựng vất vả, gian khổ để tìm được chỗ khơi nguồn. Khi nguồn đã được khơi, sau đấy tự nó sẽ chảy thành sông. Tất nhiên còn đòi hỏi nhiều vấn đề khác để hộ trợ, cũng như khích lệ và thúc đẩy, để chủ trương của mình được hiện thực. Chỉ mới sơ khởi như thế, và nhìn về miền Nam lúc này, bộ mặt nào làm được như vậy? Ngay đến cụ Ngô cũng còn một số sai lầm. Nếu cụ còn sống, dù cũng chả làm gì được miền Bắc, nhưng chắc miền Nam đã không mất. Huống chi, trong khi Mỹ là người anh cả, là nước chịu trách nhiệm vì mình và vì người. Giúp đỡ các nước anh em trong thế giới tự do, cũng đã mắc 3 sai lầm trầm trọng: Thứ nhất: Bắt những nước được giúp đỡ phải theo những quy chế, những khuôn thước dân chủ tự do nhất của thế giới hiện nay là nước Mỹ. Thứ hai: Giúp người, nhưng lại vì quyền lợi của mình nhiều hơn. Thứ ba: Quá nghiêng nặng nề về đồng tiền và vũ khí. Từ ba điểm trên, đã đẻ ra rất nhiều những sai lầm nhỏ khác, để cuối cùng hầu như đa số các nước mà Mỹ giúp, đã không đạt được kết quả, không đạt được mục đích. Và, ngay nước Mỹ, không những không được người ta biết ơn, còn bị chửi là thực dân mới, chỉ vì tư lợi thương mại, tìm thị trường tiêu thụ, v.v… Sau đây, ta khái niệm mổ xẻ, phân tích từng điểm: Điểm thứ nhất: Nói về nền tự do dân chủ thực sự trong thế giới loài người hiện nay, không ai có thể phủ nhận được nước Mỹ là một trong những nước có nên dân chủ thực sự tiên tiến. Từ đấy, ta thấy chế độ Cộng Hòa Dân Chủ của Mỹ là chế độ tiến bộ của loài người hiện nay. Nhìn nền dân chủ ưu việt của những nước Anh, Pháp, Mỹ, v.v… những ai thực lòng vì dân vì nước mà chẳng mong muốn nhân dân và đất nước họ cũng được hưởng một nền dân chủ, tự do như thế. Muốn được như vậy, phải cần có một điều kiện, đó là đất nước ấy phải có một số hoàn cảnh giống như nước Mỹ, nước Pháp, nước Anh. Bởi vì, thời đại ngày nay, thế giới đang đảo điên, nghiêng ngửa với cái nạn cộng sản. Cộng sản tàn bạo, khát máu nhưng lại che mắt thế giới bằng cách khoác lên những bộ mặt của Chúa Jesus, của Phật Thích Ca, của Mohamed, v.v…với những đôi mắt giả nhân giả nghĩa từ bi ngấn lệ thương đồng bào, đồng loại; mồm méo xệch cứ lẩm bẩm những lời tha thiết cứu nhân độ thế; làm cho biết bao nhiêu người ngộ nhận, để rồi tán gia, bại sản, tàn lụi cả cuộc đời… Hơn nữa, như một công lý, mỗi người một khác nhau, mỗi nước một khác biệt. Cơm, gạo, bột là những món ăn tốt để nuôi sống con người. Món ăn bổ và ngon như thế đấy, nhưng người ăn mức độ cũng khác nhau. Một người khỏe, ăn 1kg, cơ thể không sao; một người đang có bệnh, ăn 1kg, “ngủm”!. Vậy mà Mỹ, như cơ thể cuả một người khỏe, lại muốn bắt một nước, đang như một người bệnh, ăn những món ăn giống mình và nhiều như mình; rồi cứ bảo phải ăn đi, nó bổ lắm. Nó dân chủ lắm, nó dân quyền lắm, v.v…Thử hỏi, nước đó sẽ ăn làm sao được. Ăn thì chết! Không ăn, Mỹ bảo là phản dân chủ, là độc tài, là…bướng; nay đe cắt giúp đỡ, mai đe cắt viện trợ, v.v… Còn nói về tự do, dân quyền: Để làm sáng tỏ vấn đề này một cách đơn giản, Khổng Phu Tử, hơn hai ngàn năm xưa, đã nói: “Nói mà không thí dụ, và thí dụ mà không đơn giản, thì không sáng tỏ”. Thí dụ hỏi một người: - Anh có biết trái cam không? Người đó trả lời: - Chưa hề trông thấy trái cam bao giờ! Vậy ta hỏi tiếp: - Thế anh có biết trái bưởi không? Người kia vui vẻ trả lời là anh ta không lạ gì trái bưởi. Lúc đó, ta chỉ cần nói đơn giản: - Trái cam giống hệt trái bưởi, nhưng bé hơn và ngọt hơn! Chỉ cần đơn giản như thế, người kia hiểu ngay về trái cam. Chứ ta tuyệt đối không nên cầu kỳ, dùng danh từ hoa mỹ, triết học giải thích nào là: quả cam màu vàng, hình cầu, được bọc một lớp vỏ mỏng, có những túi dầu để duy trì bảo vệ nước cam ở trong được tươi lâu, bên trong có những cái bọc hình bán nguyệt, trong cái bọc này, v.v…và v.v… Nói nhiều, dùng những triết này, thuyết kia đẻ ra vè giai cấp trí thức; cuối cùng người kia chả hiểu, chả biết anh nói cái quái gì cả. Vậy, lý luận về tự do và dân chủ, cụ thể là ở miền Nam Việt Nam lúc này, tôi cũng xin lấy một thí dụ đơn giản để làm sáng tỏ. Ở cùng chung một căn nhà có 4 người là A, B, C, và D. Lúc hòa bình, không có chuyện gì cả, tình người và tình đồng bào thắm thiết, nào chào hỏi, nào hàn thuyên, tay bắt mặt mừng rối rít mỗi khi gặp nhau. Mọi người tha hồ tự do. Anh này muốn đi chơi đâu mặc anh; anh kia nấu nướng ăn gì cũng kệ; anh khác ngủ đến 11, 12 giờ trưa đó là quyền của anh; v.v… Mỗi người đều tự do làm theo ý mình. Nhưng sau đó, vì một lý do nào đó, do những điều kiện và hoàn cảnh tạo nên, 4 người này trở thành kẻ thù không đội trời chung của nhau, và vẫn phải cùng ở một căn nhà. Lúc này, mỗi anh thủ một con dao, rình cơ hội để hạ đối phương để chiếm toàn bộ ngôi nhà, và vì sự sống còn của mình. Vậy, lúc này, tình trạng sẽ ra sao? Mọi người có còn được tự do, ăn lúc nào thì ăn, ngủ lúc nào thì ngủ, thích chỗ nào thì nằm chỗ đó nữa hay không? Lúc này, ai cũng thấy sáng tỏ là tự do trong cảnh đó, là tự do chết! Căn nhà Việt Nam lúc này ra sao? Một nửa nhà là miền Bắc, cộng sản đã chiếm đóng; nửa còn lại là miền Nam, cộng sản đã đặt được một bàn chân vững chắc là:”Mặt Trận Giải Phóng”. Ngay trong chính quyền Sài Gòn, cũng đầy dẫy những người của cộng sản. Tóm lại, căn nhà Việt Nam giống hệt như căn nhà tôi đã trình bày thí dụ ở trên. Bây giờ, ta tự do cho biểu tình, hội họp, đảng đối lập, v.v… và v.v…như khuôn thước của xã hội Mỹ, miền Nam sẽ ra sao? Một cậu bé ngây thơ 15, 16 tuổi cũng thấy ngay là miền Nam mất đi, không có gì là lạ nữa. Nếu có lạ là lạ tại sao miền Nam lại chưa mất! Đó, nếu báo chí và tuyên truyền chỉ can đơn giản trình bày như vậy với quần chúng, riêng về góc cạnh tự do, như trên, lúc đó, nhân dân sẽ ý thức được ngay. Rồi, hàng trăm góc cạnh khác của xã hội cũng trình bày đơn giản như vậy để hỗ trợ, tác động qua lại, nhiều việc sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Thế mà, các cơ quan to lớn chuyên nghiên cứu vể xã hội và về riêng Việt Nam với những quý vị học giả uyên thâm của Mỹ, v.v…lại chưa đánh giá đúng mức, để rồi bắt con bệnh Việt Nam “ngốn” cho bằng người khỏe như “vâm” là Mỹ. Không ăn, các ngài bực mình, la ó là độc tài, là phản dân chủ, v.v… Điểm thứ hai: Ngay cá nhân với cá nhân, nếu giúp đỡ người khác, tất nhiên tôi chấp nhận là ở đời, phải hai bên đều có lợi. Nhưng, nếu cái lợi của phía người giúp đỡ lớn hơn, lấn át cái lợi của người mà mình giúp, lúc đó sẽ ra sao? Tình cảm và lòng biết ơn của người nhận sẽ giảm; đôi khi còn không biết ơn nữa. Thậm chí, cá biệt, người làm ơn không biết xử thế khéo, còn bị người được giúp đỡ căm thù. Nghĩa là, họ thấy họ bị lợi dụng. Như thế, còn làm sao gắn bó, tin cậy nhau nữa. Người được giúp, lúc đó, nếu không thủ đoạn, tính toán, giữ thế với người giúp, thì cũng quay ra buồn chán, tiêu cực, không thể đạt được ý nguyện lúc đầu của người muốn giúp đõ, nghĩa là không đạt mục đích. Vậy, một quốc gia, với một quốc gia khác, trông bề thế hơn, tưởng như phức tạp hơn, nhưng cái nhân, cái gốc cũng như vậy thôi. Do đó, Mỹ đừng lạ, và đừng buồn, tức khi thấy những nước mà mình giúp lại vô ơn, đôi khi còn chửi lại mình, hoặc trở thành kẻ thù của mình. Điểm thứ ba: Tôi thừa nhận trên cõi đời này, đồng tiền mua tiên cũng được, nhưng với điều kiện la phải biết cách. Nếu không, nhiều khi đồng tiền không những không giải quyết được vấn đề, mà còn bị người lấy tiền, nhận tiền, cười chê người cho tiền nữa. Mỹ là “người” có nhiều tiền, chỉ thấy giá trị tuyệt đối của đồng tiền, chứ không thấy những khía cạnh phức tạp khác. Thí dụ: Một người đang hì hục xây một căn nhà. Vì nghèo nên thiếu thốn vật liệu; anh ta cứ đầu tắt mặt tối, ngày cũng như đêm, mưa cũng như nắng, đem sức cần lao để xây dựng căn nhà; nhưng thấy khó thành, hoặc không biết đến bao giờ mới hoàn thành nổi. Mỹ thấy vậy, mang tiền, mang vật liệu đến giúp. Vì không khéo, lại không nghiên cứu từ thực tế, cần những gì về nhiên liệu. Căn nhà kiểu ấy, chỉ cần vật liệu là cây, Mỹ lại đem sắt đến, cứ chở đến ùn ùn. Anh chủ nhà lúc đó sẽ ra sao? Làm, thì không được, để thì phí, hỏng! Trong lúc đó, Mỹ cứ đưa đến, nói tốt lắm, phải tiếp tục xây mạnh đi. Anh chủ nhà hoang mang. Nếu cứ để từ từ, anh ta còn có thể tốt theo kiểu suy nghĩ, sáng tạo của anh ta. Đằng này, lại cứ thúc giục, khiến anh ta thấy cứ để đống nguyên liệu đấy thì không ổn; vì như vậy là từ chối sự giúp đỡ, nên anh ta phải tìm cách chuyển đi chỗ khác, rồi nói dối là đang nỗ lực làm, xây dựng. Anh ta lúc này không còn tập trung hết tinh thần vào việc xây ngôi nhà, vì quá mệt mỏi tính toán trả lời sao về những vật liệu mà Mỹ giúp, đâu còn những giây phút cần cù, miệt mài trước dây. Vả lại, bây giờ, lại sẵn đồng tiền, anh ta phải tìm cách giải trí. Lúc đầu, lâu lâu mới giải trí một lần; sau quen đi. Như thế, cuối cùng căn nhà vẫn chưa xây được, mà tinh thần anh ta trở nên tiêu cực, biếng nhác. Như vậy, nhìn về phía, Mỹ đã gián tiếp làm hại những người mà Mỹ giúp. Tóm lại, phải biết cách dùng đồng tiền thì, uy thế của nó mới phát huy một cách huyền diệu. Không biết dùng, kết quả sẽ không những ngược lại, mà còn làm hư hỏng con người. Còn về vũ khí: Tôi nhớ lại những năm còn ở miền Nam. Tôi xem những buổi duyệt binh, với những cỗ pháo to, những xe tăng lớn và những máy bay phản lực, Phi đội “Lôi Hổ” của Đài Loan gầm rít biểu diễn trên bầu trời Sài Gòn năm 1960. Rồi báo chí, đài phát thanh nói Mỹ có nhiều loại vũ khí nguyên tử. Nào là, chỉ một phần mười kho vũ khí nguyên tử của Mỹ nổ cũng đủ làm tan trái đất. Nào là, Mỹ đang nghiên cứu chế những loại bom ánh sáng, tia “laser”, v.v… Lòng tôi khi ấy dậy lên một niềm tin tưởng to lớn, vững chắc vào thế giới tự do. Tôi tin tưởng gần như chắc chắn là sức mạnh của các loại vũ khí như thế, thừa sức đè bẹp lũ cộng sản khát máu. Nhưng bây giờ, khi đã đi vào thực tế, tôi có điều kiện để nhìn, không những cả 4 mặt của một sự vật, mà còn nhìn được cả phía bên trong của sự vật đó. Sự cọ sát giữa suy lý, nhận thức của mình khi ấy thật là ấu trĩ, ngây thơ. Xét đoán một sự vật, một vấn đề chỉ đứng từ một góc độ, rồi cứ vỗ ngực khẳng quyết với cái hiểu non nớt của mình; không thấy được rằng: Bất cứ loại vũ khí tối tân nào cũng phải do con người chỉ huy và sử dụng. Vì vậy, trừ khi lực lượng quá chênh lệch: một bên 10, một bên 5; hoặc bên này 100, bên kia chỉ có 10 thì không kể. Còn thông thường, chỉ xấp xỉ hơn nhau ít chút một 8, một 10; bên nào có yếu tố tinh thần hầu như bên ấy thắng. Do đấy, yếu tố tinh thần mới quyết định thắng bại. Ngoài ra, nhìn tổng quát cái thế và điều kiện của thế giới ngày nay, tôi dám khẳng quyết là bất kể một nước nào có vũ khí nguyên tử để gây thành Thế Chiến Thứ Ba, thì kẻ đó tự sát. Từ đấy suy ra, các chiến lược gia nào chỉ nặng về vũ khí (làm sao để chế ra loại tối tân hơn, nhiều hơn đối phương…) là có mặt sai lầm. Thực tế, chỉ cần đòi hỏi vừa đủ để làm thế kiềm chế nhau thôi; và hãy chú ý về loại vũ khí chiến thuật thông thường có kỹ thuật cao, để sử dụng trong chiến tranh cục bộ, hoặc khu vực là cần thiết. Điều quan trọng và chính yếu nhất vẫn là phải chú ý về mặt nhân sinh và xã hội. Như tôi đã trình bày ở trên, đây không phải là một tác phẩm tư tưởng, lý luận, nên không được phép dài dòng; nhưng dựa trên những cơ sở biện chứng, tôi thấy Liên Xô dù có mạnh hơn Mỹ, cũng không bao giờ dám đem quân sang đánh Mỹ, hay Anh, Pháp cả. Đó là một điều chắc chắn, trừ phi Liên Xô không phải là nước cộng sản nữa. Kim chỉ nam của họ là dùng áp lực tối đa bên ngoài, xúi dục kích động người dân của nước ấy đứng lên lật đổ chính quyền. Đôi khi cao nhất cũng chỉ dùng một nước cộng sản đàn em tiến hành chiến tranh cục bộ, đem quân sang một nước khác, để giúp một bộ phận nhỏ người bản xứ đứng lên lật đổ chế độ đang cai trị mà chúng bảo là thối nát, và chúng làm cách mạng, v.v…Cứ như vậy, chúng tiến hành nhiều nơi trên thế giới, cho tới khi màu đỏ loang lỗ khắp địa cầu, lúc dó có trời cũng không cứu nổi nước Mỹ khỏi tự nhiên thành cộng sản. Vậy, Mỹ hãy lo ngay cho xã hội Mỹ, hãy làm sao cho người dân Mỹ hiểu đầy đủ về cái cảnh nếu phải sống dưới chế độ cộng sản sẽ bị o ép toàn diện. Mọi người lam lũ lầm than, không có một chút tự do, con người như con vật là chính. Chứ cứ tập trung tâm tư, khí lực để thi đua với Liên Xô, để rồi bị con dao đâm từ phía sau, tự trong lòng, lúc đó, đã muộn rồi!.... |
|
|
![]()
Post
#59
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi Bảy
Những giọt nước mắt… kịch! Miên man chìm đắm trong mối tơ vò tư tưởng, bỗng nghe chốt cùm rút đánh xoạch một tiếng, tôi giật mình như choàng tỉnh một cơn mộng ngày. Thì ra, đã đến giờ lấy cơm chiều. Mải say sưa trong suy tư đến quên cả cái đói chờ cơm! Như vậy, quả thực tôi cũng thấy mình đam mê quá. Vấn đề tôi vừa trình bày, cũng đã lôi cuốn chính tôi nhiều, chứ hầu như khó có một cái gì làm tôi suy nghĩ đến độ quên được, sắp tới giờ cơm; nhất là lúc sau này tôi cứ thấy đói luôn. Có lẽ, thời gian ở “cát xô”, vì bệnh tật đau đớn, người hình như nằm một chỗ không xê dịch, nên tuy ăn uống có thiếu thốn hơn, chỉ vừa đủ sống, nhưng tôi cũng không thấy đói lắm. Bây giờ, trở về xà lim đã gần một tháng, cơ thể dần dần bình phục lại, kể cả tinh thần sau vụ trốn không thành cũng dần được ổn định; vì thế, cơ thể tôi càng đòi hỏi ăn quá chừng. Đến cái độ, chuyện cung kẹo, tin tức tình hình trên đài mỗi ngày mỗi diễn tiến gay cấn như:”…Mỹ sắp đem quân chiến đấu vào miền Nam, các phái đoàn quân sự cao cấp của Liên Xô đến Hà Nội…”, nói chung tình hình đang ngày càng trở nên căng thẳng, hầu như tôi mặc kệ! Tôi cũng hiểu rằng tình hình chính trị bên ngoài có tác dụng trực tiếp đến sinh mệnh đời mình, nhưng điều đó vẫn còn xa. Trước mắt, hàng ngày hàng giờ, là cái đói hành hạ dày vò cơ thể tôi. Hầu như, hàng năm, tôi khao khát thèm một bữa no, nghĩa là giá bất cứ có cái gì cho vào dạ dày cho căng căng một chút, để xem “cái no”…nó ra làm sao? Nhưng, ngày nào cũng như ngày nào, bữa cơm đến, chưa ăn, vừa quay đi quay lại một cái, đã hết rồi; chưa thấy tí gì trong bụng cả. Bụng muốn ăn đến ba, bốn; mà chỉ có một. Lại ở xà lim chỉ có một mình, xoay đằng trước, xoay đằng sau, cũng chỉ bốn bức tường, lấy cái gì nhét vào dạ dày bây giờ. Nếu giẻ mà ăn được, tôi cũng nhai. Lúc đó có lẽ tôi cứ phải ở truồng, bởi vì cứ vặt xé dần quần áo đút vào miệng. Cứ ngày này, qua ngày khác; tuần này, qua tuần khác; tháng này, qua tháng khác; rồi năm này qua, năm khác tới,…đêm ngày, lúc nào cũng đói. Một đêm, không ngủ được vì đói, trằn trọc suy nghĩ rồi khó khăn đẻ ra sáng kiến; tôi tìm ra được một biện pháp để thuởng thức “cái no”, cho nó sướng đời một cái! Thế là cả một dự tính, và tôi quyết tâm thực hiện. Tự nhiên, trong dạ cũng thấy hưng phấn, đầy hy vọng chờ cho tới bữa cơm sáng hôm sau. Vì có mục đích, nên tôi thấy cái đói hình như cũng đỡ cào cấu trong ruột. Khi lấy cơm vào, tôi đổ bát ra một cái khăn, chiếc khăn này làm bằng hai miếng giẻ to trong…nhà cầu, tôi đã vò kỹ nước và khâu lại. Tôi nhúng tay vào gáo nước rồi hì hục, thận trọng, nắm khăn chặt lại. Chỉ thỉnh thoảng có hạt cơm nào vô tình rơi ra, tôi mới cho phép mình…ăn. Tôi túm lại, lấy một sợi chỉ buộc, rồi treo lên cái que nhỏ cắm ở lỗ đinh trên tường. Xong, tôi quay lại húp hết bát canh, rồi chờ đem trả bát. Trả bát xong, lúc đó cũng phải 10 rưỡi, 11 giờ. Khi quản giáo cùm xong, tôi nằm xuống. Trước khi nằm, tôi ngồi nhìn nắm cơm treo lủng lẳng ở bờ tường trước mặt, như gửi gắm với nhiều hứa hẹn là chiều nay sẽ có một bữa căng bụng. Sẽ được thấy cái cảm giác “no”…ra làm sao, mà lâu ngày tôi đã quên rồi. Tuy nằm, nhắm mắt, nhưng làm sao tôi ngủ được, chả có cái cóc khô gì trong bụng cả (có chứ, có một tí nước canh, và mấy ngọn rau muống già, đểnh đoảng nấu muối). Chắc có vài chú giun cũng đang lồng lộn dãy dọn trong ruột tôi, vì phát ra những tiếng kêu “ò ọ” kéo dài như tiếng của thân những cây tre làng xiết vào nhau vì gió trong những trưa Hè oi nắng. Kế nữa là, bao nhiêu hy vọng đời chờ, bây giờ sắp được thưởng thức, bảo sao tôi ngủ được. Tôi nghe từng tiếng thời gian đi, cho tới giờ cơm chiều để mà đã đầy thưởng thức, sau những giờ phút vặn ruột, co gan. Chờ mãi, rồi giờ hạnh phúc ấy cũng phải đến. Phải nói, lúc ôm cái bô ra đổ, trên đường đi nhiều lúc mắt hoa, chân lảo đảo như uống rượu say; nhưng trong dạ dày đầy tin tưởng là hạnh phúc sắp và sẽ đến. Rồi, cho tới khi ra cầm bát cơm chiều vào, bấy giờ, với một cử chỉ hết sức trang trọng, như chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn để đón một người mà mình quý trọng nhất đời. Tôi vừa ăn, vừa nghe tiếng reo vui của quần chúng tế bào dạ dày, đón chào những hạt cơm no lành theo nhau vào nằm dưới đáy bao tử. Ăn hết nắm cơm buổi sáng, lại ăn bát cơm buổi chiều, phải nói rằng có căng bụng. Tôi cứ tưởng tượng dạ dày của mình lúc trước co dúm, nhăn nheo chỉ một tí. Vì lâu ngày có bao giờ được chứa theo khả năng của nó đâu, cho nên các tế bào đã co lại để hàng ngày đón nhận có một phần ba, hay một phần tư số lượng nó muốn. Hôm nay đột nhiên lại đón nhận một số lượng gấp đôi, nó cũng căng rồi. Nó phải làm việc khác ngày thường, nên nó thấy mệt. Vì thế, sau khi trả bát, cùm xong, tôi cũng phải nằm vật ra. Lần này, không phải vì đói, mà vì căng bụng. Hơi mệt, thở hổn hển, nhưng mà chao ôi, sao con người sinh ra trên cõi đời này lại có lúc được no sướng thế, lại được ăn những hạt cơm kỳ diệu làm sao! Sau buổi ấy, tôi thấy sáng kiến đó quả là tuyệt vời; tuy nhiên cũng rất mệt người. Vậy, để thích ứng nhất, mỗi tuần tôi chỉ làm hai lần vào thứ Ba và thứ Sáu. Tuần nào tôi cũng áp dụng, như thế, mỗi tuần tôi được hai lần đã đầy; có khi đê mê suốt đêm cho tới sáng hôm sau. Cũng có hôm bất chợt, tên cán bộ trực trước khi đóng chốt cùm, còn vào buồng ngó nghiêng một lượt; khi thấy một gói treo trên tường, y hỏi và bắt tôi lấy xuống cho y xem. Tôi lấy xuống và trả lời: - Báo cáo, tôi đang ăn bị đau bụng, gói lại để chốc nữa khỏi đau sẽ ăn. Tất nhiên, y làm sao hiểu được nỗi niềm và ý định của tôi. Sáng hôm sau, lại là ngày Chủ Nhật, một Chủ Nhật đầu Đông. Xà lim lạnh ngóm, lại càng thấy vắng lặng hơn. Những trận gió Đông Bắc mò về sớm, từng đợt chui qua cửa sổ, lách qua mái ngói, gây ra những tiếng vi vu rền rĩ, càng gợi nỗi nhớ nhà đối với người tù. Tiếng “con mẹ chửi thuê” trên chạng ba của cây bàng ngoài sân trại đã bị tắt họng, không nói được nữa. Như thế là đã đến giờ hành chính (giờ làm việc) mà vẫn chả thấy tên cán bộ trực vào mở cửa cho tù ra đổ bô? Hàng tiếng đồng hồ trôi qua, xà lim vẫn yên ắng. Chắc các buồng khác cũng như tôi, cũng đang băn khoăn thấp thỏm vì sự bất thường này, nhưng đều chưa có lời giải đáp. Bỗng nghe nhiều những tiếng ồn ào, chuyện trò của một đám đông người gồm cả đàn ông, đàn bà đang đi vào, từ phía cổng xà lim. Tôi hơi cau mày, vểnh tai nghe, và phán đoán. Khi nghe thấy tiếng mở cửa buồng số 2, rồi số 13, tôi đã hiểu. Đây lại là một phái đoàn tham quan nào đó, chúng đang bịp bợm đưa đến Hỏa Lò, nơi xà lim án chém. Tôi đang nghĩ ngợi mông lung, đột nhiên một giọng miền Trung rành rọt từng lời: - Kính thưa các đồng chí, nơi đây thực dân Pháp vô cùng dã man, tàn bạo đã dùng những loại cùm thế này để cùm các đồng chí Hoàng Văn Thụ và Trần Đăng Ninh. Hai đồng chí ấy đã kiên trì chịu đựng gian khổ, lấy máu xương để nhuộm thắm tình giai cấp. Hai đồng chí đã quyết tử, để cho đảng ta quyết sinh. Chúng ta ngày nay được thừa hưởng những thành quả của cách mạng vinh quang do máu xương của các đồng chí đã nằm xuống. Một vài tiếng phụ nữ xụt xịt, rồi nức nở. Trong cảnh vắng lặng, tiếng nức nở làm xao xuyến xà lim. Nghe những tiếng xụt xịt run rẩy của mấy người phụ nữ, óc tôi miên man liên tưởng đến những phương pháp dắt, lái tư tưởng quần chúng của cộng sản thật đáng nể. Chúng áp dụng một phương pháp tinh vi và tuyệt vời, tạo những điều không có trở thành có theo ý muốn của các tên lãnh đạo. Muốn có những người chảy nước mắt khóc lóc trong các cuộc biểu tình phản đối Mỹ, hoặc chính quyền miền Nam đã tàn sát (?) dân làng, đàn bà và trẻ em ở đâu đó, chúng chỉ cần phóng đại sự việc thành ghê tởm, thảm khốc. Cụ thể như vụ Phú Lợi ở Biên Hòa chẳng hạn, trước đây, ở trên đài, trên báo, thậm chí ở các cơ quan nhà máy, chúng bắt quần chúng phải học tập, mổ xẻ phân tích nữa. Rằng thì là, trong một cuộc biểu tình của một huyện nào đó ở Nghệ An, để phản đối sự tàn bạo dã man của chính quyền Sài Gòn, chính quyền đã cho thuốc độc vào thức ăn để giết hại hàng nghìn tù nhân ở Phú Lợi. Chúng sẽ diễn tả quần chúng trong cuộc biểu tình đó đã phẫn uất vô cùng với nhiều tiếng gầm thét, la ó, kêu gào, đau xót,…thậm chí đã có nhiều đồng chí đảng viên trung kiên, nhiều đồng chí đoàn viên ưu tú, và một số cảm tình đảng, cảm tình đoàn đã dạt dào tình thương giai cấp, đã nức nở thương các đồng chí ở nhà tù Phú Lợi như người nhà ruột thịt của mình, v.v… Chúng ca ngợi, đề cao những người khóc đó mới thực là gắn liền thịt da vào giai cấp, v.v…Để rồi, bây giờ chúng tổ chức cuộc biểu tình đó ở Hà Nội, chúng cũng reo hò, gầm thét, đả đảo chính quyền miền Nam. Trong số hàng ngàn, hàng vạn quần chúng này, sẽ có nhiều đảng viên, đoàn viên, cảm tình đảng, đoàn, đang cuồng tín say sưa phấn đấu trong công tác, cũng như mong được vào đảng, vào đoàn. Vì trong lòng đang cuồng nhiệt, từ sự suy nghĩ, đến những xúc cảm tình giai cấp, tự ý niệm có thấy lòng xúc động và căm thù kẻ thống trị, mới là người của giai cấp vô sản thực sự; mặt khác, cũng để cho mọi cấp lãnh đạo thấy mình chính là người của giai cấp, cho nên tự nhiên thành xúc động “thật”, và nước mắt chảy ra. Rồi cũng nức nở như một số người khác vậy. Như vậy, bây giờ sự “khóc” đã thành sự thật. Chúng đến gặp từng người, hỏi tên, phỏng vấn đưa lên đài, lên báo. Chưa có sự thật, chúng còn làm ra thành có. Bây giờ, đã có sự thật rồi, chúng sẽ biết cách phát huy tối đa. Từ điểm đó, ta không lạ gì lắm khi xem những cuốn phim có nhiều người khóc nức nở để tỏ tình thương yêu những người bị tàn sát hàng loạt. Thậm chí, ta còn thấy những người đàn bà Ý, Pháp, Thụy Điển,…..khóc lóc, nước mắt chảy long tong, phản đối Mỹ đã ném bom tàn sát trẻ con, và đàn bà, v.v… Nhất là vụ Mỹ Lai sau này. Về mặt chính trị, điều này, chúng đã thu hoạch được những thành quả vô cùng to lớn. Những hình ảnh ấy có sức thu hút, lôi cuốn lòng người ghê gớm, và nhất là còn có…tác dụng dây chuyền. Tôi phải thừa nhận, đấy là một nghệ thuật của chúng. Vậy, việc mấy con mẹ đang xụt xịt chảy nước mắt ở xà lim này, cũng không ngoài những tâm lý và điều kiện trên. Mãi gần một tiếng đồng hồ, khi chúng đã đi ra rồi, cán bộ mới mở cửa buồng cho xà lim ra đổ bô. Nghe tiếng mở những chốt cùm, và đóng cùm ở các buồng, tôi chợt nghĩ, không biết các người tham quan lúc nãy có biết được xà lim này có 14 buồng. Vậy còn 12 buồng nữa, bên trong hiện giờ có bao nhiêu người đang bị những cái cùm của thực dân Pháp dã man ấy, khóa đôi chân không? Cho nên ở trên đời này, nhất là thời đại ngày nay, người ta lầm nhiều lắm, mà vẫn cứ đinh ninh là mình sáng suốt, đã biết rõ mới chết chứ! Càng gần về trưa, trời càng sáng dần, có lẽ bên ngoài đã có mặt trời. Ban ngày về mùa Đông, ở miền Bắc, mặt trời hay nguợng ngập che màn, cho nên cảnh vật càng lạnh lẽo, đìu hiu. Tiếng loa trưa đang ra rả nói về tên Nguyễn Đức Thuận nào đó, vì vậy, tôi lắng nghe. À! Chúng nó đang ca ngợi tinh thần kiên trì chịu đựng của Thuận trước sự đàn áp dã man vô nhân đạo, tàn ác nhất loài người, hơn cả phát xít Hitler, của chế độ Ngô Đình Diệm. Theo chúng, Nguyễn Đức Thuận đã bị giam hãm gần 3 năm trong xà lim buồng tối, thiếu thốn hết mọi thứ, đến nay mới được thả và chỉ còn da bọc xương. Nhân dân miền Bắc đang săn sóc, bồi dưỡng sức lực lại cho Thuận, để đồng chí Thuận sẽ viết lại những ngày gian khổ cùng cực trong bàn tay đầy máu của Ngô Đình Diệm, để tố cáo với thế giới loài người. Đó là một tấm gương bất khuất trong nanh vuốt của kẻ thù… Hàng tháng trời, chúng cứ ra rả về Nguyễn Đức Thuận, y đang viết tác phẩm hồi ký “Bất Khuất”. Y là cán bộ trung ương, bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt. Sau gần 3 năm ở xà lim, chẳng hiểu vì sao bây giờ y được tha. Và được đưa về miền Bắc. Rồi cuối cùng, y làm Phó chủ tịch Tổng Công Đoàn, mà Hoàng Quốc Việt là chủ tịch. Tôi không muốn nghe, mà cứ phải nghe, đầu tôi muốn nóng lên. Ít ngày sau, tôi đi cung, trên đài vẫn còn nói nhiều về tên Nguyễn Đức Thuận, với cuốn hồi ký “Bất Khuất” của y. Khi vào gặp chấp pháp, tôi chẳng sợ quái gì, tôi hỏi thẳng: - Ở trên đài, dạo này, các ông đang nói về Nguyễn Đức Thuận bị chế độ vô nhân Ngô Đình Diệm bắt giam trong buồng kín xà lim gần 3 năm. Các ông bảo là Ngô Đình Diệm dã man tàn ác. Vậy trường hợp của tôi cũng đã gần 3 năm rồi, và còn chưa biết đến bao giờ thì sao? ![]() Mắt tên Thành quắc lên. Từ trước, y vẫn là người có vẻ có cảm tình với tôi, chưa bao giờ nổi nóng như vậy. Y đập mạnh tay xuống bàn: - Anh không được nói láo? Anh dám ví anh với người cách mạng à? Thấy y nổi sùng, tôi im lặng, rồi nhỏ nhẽ nói: - Thưa ông, tôi không bao giờ dám ví tôi với ông Nguyễn Đức Thuận. Nhưng, tôi thấy ông Nguyễn Đức Thuận ở cấp Trung Ương Đảng, mà Ngô Đình Diệm bắt được lại còn thả ra, cũng như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Đào Sĩ Chu, v.v…đều đã bị bắt, nhưng rồi cũng đã được Ngô Đình Diệm thả hết. Có lẽ, vì ông Diệm thấy họ là cán bộ Trung Ương của đảng, nên không dám giam lâu. Tôi thắc mắc, không biết, nên hỏi ông vậy thôi. Chứ tôi là loại “tép riu”, đời nào tôi dám ví với ông ấy. |
|
|
![]()
Post
#60
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi Tám
Một người tù… Mỹ!... Kỳ này đã cuối Đông rồi, thế mà trời càng lạnh dữ. Có khi cả tuần lễ không thấy ánh mặt trời. Gió lạnh như cắt da, cắt thịt. Bên ngoài, mưa phùn rả rích, nhì nhẹt suốt ngày đêm. Vì vậy, trong xà lim lại càng tối tăm, vả lại đôi bàn tay cũng sưng buốt, không cầm được kim khâu, cho nên hầu như suốt ngày tôi nằm đắp chăn là nhiều. Chỉ khi nào nằm nhiều quá đau lưng, tôi mới ngồi lên một lúc, rồi lại nằm xuống. Không còn cách gì khác, trong cảnh này, tôi lại nằm suy nghĩ mông lung hết chuyện nọ, tới chuyện kia. Tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại nhiều lần câu chuyện chiếc khăn choàng tàng hình trong phim “Tên Trộm Thành Bát Đa”… Tôi thấy, để diệt chủ nghĩa cộng sản trên trái đất này, phải mất ít nhất sáu tháng. Trong sáu tháng ấy, tôi phải nỗ lực đi theo máy bay nhiều lần, hết nước cộng sản này sang nước cộng sản kia. Tôi phải cắt tai và giết nhiều lãnh tụ cộng sản. Nghĩa là…tôi phải vất vả nhiều lắm. Vậy, đã mơ ước, thì mơ ước cho…đã. Sự ước mơ có giới hạn nào đâu? Cho nên, tôi lục lọi, tìm tòi một thần thông khác, sao cho nhẹ nhàng, đỡ vất vả và hữu hiệu, thần kỳ hơn… Tôi nghĩ đến “Cây Đèn Thần của Aladin”! Hiện giờ, với cảnh trong cùm, dạ dày luôn luôn “giặt sạch phơi khô” 23 giờ 40 phút trên 24 giờ, nghĩa là chỉ 10 phút vào buổi sáng và 10 phút vào buổi chiều, dạ dày bị ướt vì có tí cơm; chân tay lại sưng mọng đỏ, ngứa buốt ngày đêm;…và với những cảnh huống như vậy, trong mùa Đông lạnh giá này, nếu…tôi có đèn thần của A La Đanh, tôi sẽ làm gì? Cái gì cần làm trước, làm trước. Tôi lấy cây đèn ra, gãi gãi mấy cái vào thân đèn cho ông thần hiện ra. Sau khi ông thần hiện ra, khoanh tay cúi đầu, lễ phép thưa: - Kẻ thân là tôi tớ của chủ nhân, tuyệt đối phụng mệnh của chủ nhân! Tôi phải ra lệnh ngay là hãy bẻ cái cùm nay ra, và chữa cho tôi khỏi đau và sưng ngón tay, ngón chân đã; bởi vì tay chân còn đau, ăn gì cũng không ngon. Khi thần đã chữa xong, bấy giờ mới làm như A La Đanh, sai thần dọn một bữa ăn thịnh soạn, “chén” ngay tại sàn xà lim này. Nhưng, thần còn phải làm sao cho tôi khỏi rét, run quá! Sau đó, mang ngay tôi về một khách sạn nào đó, ở miền Nam, để tôi tắm rửa, thay quần áo tàm tạm, bình thường. Nghỉ ngơi cho khỏe. Ngày hôm sau, sai thần đưa về nhà thăm cha mẹ và các em; nếu thấy nhà túng thiếu, tặng ít tiền để tiêu xài tàm tạm. Nói chung, phải căn dặn thần không được để một dấu vết gì cho bất cứ một ai nghi ngờ có chuyện lạ lùng của Thần Đèn. Việc cá nhân coi như tạm ổn, cũng phải mất hai ngày đấy chứ, bây giờ phải bắt tay vào nói chuyện đến cộng sản và thế giới loài người. Trước hết, tôi sai thần đèn đưa tôi xuống vùng rừng U Minh, chỗ không người, làm ngay một căn nhà rộng, chứa được độ từ 100 đến 150 người. Căn nhà để trống trơn, chỉ duy nhất có một cái bàn và hai cái ghế. Căn nhà rộng thênh thang sơn ba phần màu trắng, một phần màu đen. Chỉ trong chốc lát, giữa vùng U Minh vắng vẻ, hoang dã, đã có một căn nhà theo ý tôi muốn. Khi đã sắp xếp xong mọi việc, tôi ra lệnh rõ ràng cho Thần Đèn: - Trước khi đưa ai về đây, đều làm họ bất tỉnh!...Hãy lần lượt bắt những tên Chủ tịch đảng cộng sản, hoặc Bí thư thứ nhất, hay Tổng bí thư của tất cả những nước cộng sản về đây đặt ở chỗ màu đen. Tên nào cũng khóa chân và tay. Không để bất cứ một loại vũ khí gì trong người chúng. Tiếp theo, cũng vậy, tôi sẽ ra lệnh cho Thần Đèn làm phép cho họ tỉnh lại hết. Chắc ông nào, bà nấy cũng mở to đôi mắt ngạc nhiên, kể cả Tổng Thống Johnson, và Brejnev cũng thế. Bước thứ hai, mở hết các khóa chân, tay, bắt ngồi tại chỗ. Trước khi bắt đầu nói chuyện, tôi ra lệnh cho thần là nếu trong quá trình tôi nói chuyện, tên nào có tư tưởng chống đối hay bướng bĩnh, thần cho hiện lên trán hắn một điểm tròn màu đen mà chỉ tôi mới trông thấy. Cuối cùng, một điều quan trọng tôi phải nhờ thần đèn, đó là vấn đề ngôn ngữ. Tôi vẫn nói tiếng Việt Nam, nhưng Thần Đèn phải hiển phép thế nào để tất cả mọi người trong nhà này, bất kể là nước nào, cũng đều hiểu toàn bộ những lời nói và ý của tôi…bằng tiếng của họ! Xong xuôi, tôi đứng lên (vì từ sớm tôi vẫn ngồi ghế). Hàng mấy trăm con mắt đang mở to hướng về phía tôi. Đầu óc họ đang căng lên hàng trăm câu hỏi mà chưa được trả lời. Bằng một giọng rõ ràng, thong thả và trịnh trọng, tôi nói: - Thưa quý vị, trước khi thưa cùng quý vị về nhiều vấn đề, tôi báo ngay cho quý vị rõ, chỗ quý vị đang ngồi là trên đất nước Việt Nam. Ngay việc quý vị hiện diện đầy đủ ở đây, không thiếu một bộ mặt lảnh tụ nào trên thế giới, hẳn quý vị đã thấy được quyền lực vô giới hạn của tôi rồi. Do đó, tuyệt đối quý vị đừng có bao giờ có ý tưởng cưỡng lại, hay chống lại, nếu không sẽ mang hậu quả tùy theo mức độ. Hôm nay, tôi đưa tất cả quý vị về đây, để phổ biến một số việc cấp thiết trong thời đại chúng ta, trên quả địa cầu này. Thực ra, vì tôi muốn sự việc diễn tiến một cách nhẹ nhàng, đẹp đẽ, nếu không với quyền lực vô song của tôi, tôi không cần đưa quý vị về đây làm gì. Tôi cứ bắt buộc quý vị phải làm theo ý tôi muốn, ngay tại nước quý vị, điều đó hoàn toàn vẫn được như thường. Cho nên, xin quý vị hãy hiểu và tin như thế. Riêng ông Johnson được mời lên ngồi ghế, bời vì nước ông là mẫu mực về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Ông lại có trách nhiệm phổ biến và chỉ dẫn các nước khác. Bây giờ, xin quý vị hãy lắng nghe và ghi nhớ bốn điều bắt buộc sau đây: Điều một: Hủy bỏ toàn bộ chủ nghĩa cộng sản. Hủy bỏ mọi cơ cấu nhà nước cộng sản. Điều hai: Hủy bỏ toàn bộ chế độ nhà nước quân chủ. Điều ba: Hủy bỏ toàn bộ vũ khí quy ước, kể cả những công thức đã được chế tạo cũng như sắp chế tạo. Riêng điều này, ngay khi quý vị còn ngồi đây, tôi đã ra lệnh triệt phá hoàn toàn, bất cứ che dấu bí mật như thế nào. Quý vị hãy tin như vậy. (Tôi lẩm nhẩm ra lệnh cho Thần Đèn đi thi hành). Điều bốn: Đất nước của quý vị là chung của mọi người dân trong nước quý vị, không hề của riêng một ai. Mỗi một thế hệ, có biết bao nhiêu người tài ba, đạo đức, có khả năng lãnh đạo quốc gia ở mỗi nước. Do đó, chế độ Cộng Hòa Dân Chủ của Mỹ hiện nay là tiến bộ nhất. Dù cho ai lãnh đạo chế độ ấy, có hiền và đạo đức như thánh thì tối đa cũng chỉ được hai nhiệm kỳ. Sau đó, xin mời xuống, cho người khác lên. Không những đất nước là của chung, còn một điều hiển nhiên nữa là, hễ ở lâu trên ghế lãnh đạo, sẽ trở thành độc tài và lừa bịp. Cho nên, bắt buộc toàn bộ các nước trên thế giới phải tổ chức nhà nước theo cơ cấu nhà nước Hoa Kỳ. Điều này Tổng Thống Johnson chịu trách nhiệm phổ biến và chỉ dẫn cho các nước khác. Quý vị đừng bịp bợm rằng “tôi chỉ là Tổng Bí Thư”, “tôi chỉ là Chủ Tịch Đảng”, v.v… hoặc “đấy là do nhân dân muốn!” Không có “nhân dân” nào cả, chỉ có một nhúm người thích chủ nghĩa cộng sản, lấy nhân dân làm cái bình phong để được làm vua không ngai mà thôi. Nói đến đây, tôi nhìn thấy trán của một số người ngồi trong đó đều có điểm đen, nhất là phía cộng sản, và những nước quân chủ. Vì vậy, trước khi tiếp tục nói chuyện, tôi đi xuống phía cộng sản. Với một con dao sắc như nước, hễ tên nào trên trán có chấm đen, tôi xẻo một bên tai. Mới xẻo được gần chục tai, nhìn lại trán của mọi người, tôi thấy điểm đen bay đi sạch trơn. Lúc đó, tôi bèn trở lại chỗ cũ, tiếp tục nói: - Từ nay, xã hội loài người sẽ không có bất cứ một nước nào chơi kiểu đàn anh lấn át nước kia. Chỉ mới có hiện tượng ấy, người nguyên thủ của nước đó sẽ bị xẻo một cái tai để cảnh cáo. Do đó, tất cả chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ đem toàn bộ quỹ về quân sự và vũ khí nguyên tử vào quỹ An Sinh và Phúc Lợi Xã hội. Tăng cường các cuộc tham quan hữu nghị giữa các nước. Xóa bỏ dần cản bất công nghèo đói. Các chính phủ mỗi nước phải chăm lo mọi mặt cho người dân, phải có trách nhiệm dẹp bỏ những mầm mống cướp, trộm, cùng các tệ nạn xã hội. Riêng những nước nào có ý đồ bá quyền, muốn chơi kiểu đàn anh với nước khác, tôi sẽ chịu trách nhiệm trừng trị. Tôi hiểu, tất nhiên cũng sẽ có một số lộn xộn, một số sai lầm. Nhưng, do quyết tâm tạo lập một thế giới tốt đẹp, nhất là tôi lại có cây đèn thần, tôi sẽ làm được. Chỉ trong vòng một tháng là tối đa. Tôi cứ nằm nhắm mắt mặc cho tư tưởng tung hoành. Những lúc như vậy, tôi không cảm thấy cái đó, rét, cùm kẹp, chân tay nhức buốt, cái cô đơn heo hút giữa ngày Đông giá lạnh với gió Bấc, mua phùn…hành hạ nhiều như lúc bình thường. Thậm chí đến nỗi, có khi cán bộ rút chốt cùm, mở cửa cho tôi ra đổ bô, chờ mãi không thấy tôi ra, y thò cổ vào buồng, thấy tôi vẫn nằm yên đắp chăn, chân đang rung lên như những dây đàn muôn điệu đang được dạo nốt nhạc ngày Xuân, bèn quát ầm lên: - Anh này có ra rửa không? Bất đắc dĩ, tôi chỉ trả lời hai tiếng: “Không ạ!”, rồi mặc cho y bực tức đút chốt cùm và đóng sầm cửa lại. Tôi vẫn cứ để hồn lang thang theo những hình ảnh của cuốn phim “siêu thoát”. Chỉ lúc lấy cơm, giấc mộng thần thông của tôi mới phải ngưng lại mà thôi. Thấm thoát, rồi mùa Đông khắc nghiệt cũng phải qua đi, để nhường chỗ cho nàng Xuân về với thế nhân. Bên ngoài, tuy trời đã vào Xuân; nhưng, trong xà lim có cái gì thay đổi đâu. Vẫn là những tiếng cùm, tiếng khóa, với những tiếng rên la của các buồng. Còn tôi, đôi chân và đôi tay vẫn ngứa buốt, vẫn ngồi trùm chăn ủ rũ, với cái dạ dày không dính nước. Nhưng, nghĩ tới mùa Xuân đến, trong lòng tự nhiên cũng ngẫu hứng, buột miệng ngâm nga vang cả xà lim một đoạn thơ Xuân của Nguyễn Bình thì phải, tôi cứ thay đổi đại theo hoàn cảnh của mình: Xuân đã sang rồi, ai có hay Tình Xuân chan chứa, ý Xuân đầy Xà lim buồn lắm…Xuân không đến Sao chẳng về đi, lại ở…đây? Cửa sổ nhỏ xoạch mở, giọng tên Dư, vẻ sừng sộ: - Ngâm nga, hát cái gì đấy? Anh muốn phá trật tự phỏng? Tôi nhìn y, rồi nhỏ nhẹ trả lời: - Thưa ông, thật là buồn! Nhớ nhà quá! - Tôi cấm anh không được làm ồn trong xà lim! Nói xong, y đóng mạnh xánh cửa sổ nhỏ vào như vẻ rất nghiêm khắc. Nhưng, tôi đã thoáng thấy trong ánh mắt của y khi nhìn tôi, một góc có màu xanh nhạt, như một sự dễ dãi và cảm thông:”Tên này ở xà lim mãi, ngày Xuân nó cũng phải nhớ nhà một tí!”, mặc dù cái mồm của y quát tôi. Chính tôi, tôi cũng không hiểu tại sao mình lại có ý nghĩ như vậy khi tôi nhìn mắt y. Phải chăng, đã từ nhiều ngày, có nhiều hiện tượng nho nhỏ tổng hợp lại tôi nhìn ra được tự nơi y, tôi cảm thấy ở tận cùng của trái tim, y vẫn còn một số chất người? Tối hôm nay, tiếng loa làm tôi phải chú ý lắng nghe với những bài bình luận, hoặc thông báo, cùng những lời cảnh cáo của chính phủ miền Bắc đối với Mỹ. Nào là, Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Liên Xô, Kosygin, đích thân đi Hà Nội; Mỹ quyết định dội bom bắn phá toàn Bắc Việt; nào hai Tiểu Đoàn đầu tiên của Quân Lực Mỹ đã rời Okinawa đi tới Nam Việt Nam, v.v… Như vậy, sau bao nhiêu ngày đêm đe dọa, rồi chuẩn bị, rồi lại cảnh cáo lẫn nhau, bây giờ lửa cháy, đạn bay, bom rơi bắt đầu. Lúc này, tôi chỉ nhớ vào đầu 1965, có lẽ khoảng tháng 2, tháng 3 gì đó. Tình hình miền Nam, tình hình miền Bắc đang như nước sôi lửa bỏng. Đất nước đang trong cảnh đầy vơi chìm nổi như thế, mà chân tôi vẫn đút trong cái cùm oan nghiệt. Ngày đêm, lòng tôi như lửa đốt. Tôi như con thú bị nhốt trong chuồng. Nhưng còn thú, dù là cọp, sư tử, hay voi đã ở trong chuồng, đâu có bị cùm nữa, và đâu có bị cho ăn đói. Có những đêm, lòng ngổn ngang bao nhiêu nỗi niềm trăm hướng của đất nước, của gia đình, của cuộc đời, tôi không làm sao ngủ được. Cũng có khi, mệt quá thiếp đi trong đêm dài; rồi giật mình thức dậy, nằm nghe tiếng đêm thâu chầm chậm trôi qua, trong lúc hồn cứ dật dờ bay về phương Nam thân yêu với gia đình. Hình ảnh người mẹ hiền lúc này đã sáng chói, che mờ nhiều bóng khác phía sau. Nhiều đêm, tôi nhớ mẹ tôi đến cái độ quắt quay, nỗi nhớ, niềm thương cứ cuồn cuộn trong lòng, ngút cao như núi. Niềm ước mong to lớn luôn luôn tràn ứ trong lòng là, được cầm tay người mẹ yêu quý mà vuốt ve, mà gục mặt vào cho những giòng nước mắt nhớ thương, nóng hổi tuôn tràn. Cho vơi đi phần nào cái se sắt của tình mẫu tử thiêng liêng. Nhưng, nào có được! Vẫn chỉ là ngút ngàn phương trời mờ mịt. Vẫn ngày đêm chỉ là những tiếng gọi thầm nỉ non, thiết tha từ trái tim rỉ máu. Mẹ ơi! Mẹ ơi! Khi đang ngụp lặn trong một trời thương nhớ đó, đầu óc tôi chợt lóe lên một ý nghĩ. Phải rồi! Thịt chỗ đầu rốn của tôi, đúng là thịt của mẹ. Người ta cắt cái ruột truyền sự sống của mẹ tôi với tôi, khi tôi được sinh ra. Vậy rõ ràng cho tay xuống rờ mó, vuốt ve cái rốn của mình, mắt lim dim tưởng như được gần mẹ, như ngửi thấy hơi hướng ngọt ngào của mẹ. Một nguồn nóng ấm đang tỏa dần ra trong cõi lòng lạnh giá của tôi. Và từ đó, nhiều đêm, dõi theo mãi những ngày xa mẹ, nơi núi rừng biên cương đầy lam sơn, chướng khí sau này, mỗi khi nhớ đến mẹ, tôi lại sờ rốn …của mình. Dạo này, tiếng loa la ó suốt ngày đêm. Mỹ đã đem quân chiến đấu vào miền Nam. Tôi nhìn và suy lý lại toàn bộ những mấu chốt, dữ kiện tản mạn từ sau Thế Chiến Thứ II; sau Chiến Tranh Cao Ly; vụ nói chuyện sức mạnh của Tổng Thống Kennedy với Krouchev, bắt Liên Xô phải nhường bước, mang những đầu đạn hạt nhân từ Cuba về, và rồi vụ Vịnh Con Heo. Rồi, với thực tiễn tình hình miền Nam, miền Bắc Việt Nam lúc này…Tôi thấy ngay hai yếu tố nổi bật quyết định: Thứ nhất: Bất kể tình huống ra sao, Mỹ mang quân vào miền Nam Việt Nam là sai lầm. Trong điều kiện giữa 2 miền hiện nay, nếu Mỹ mang quân vào miền Nam. Vô hình chung đã tạo cho miền Bắc, cũng như cho cái Mặt Trận Giải Phóng của chúng, trở thành có chính nghĩa. Và tất yếu, vế kia là chính quyền miền Nam lại trở thành mất chính nghĩa. Thứ hai: Bây giờ, đã mang quân đội vào rồi, rút ra phải có điều kiện, không phải tự nhiên, bình thường mà rút ra được. Vậy, để giải quyết vấn đề “đã trót” này, chỉ có một biện pháp duy nhất. Nếu Mỹ không làm như vậy, chỉ trừ trường hợp là sau đấy, có những diễn tiến đặc biệt gì khác của thế giới, còn cứ bình thường Mỹ sẽ không giải quyết được vấn đề. Đôi khi còn nghiêng ngửa, khó khăn, dù sau đấy Mỹ có mang bao nhiêu quân vào miền Nam cũng vậy thôi. Đó là: Một mặt, tương kế tựu kế, ngay trong lòng nước Mỹ, lợi dụng báo chí, Quốc Hội, (những cơ quan từ trước toàn vạch áo cho cộng sản xem lưng), bằng mọi cách làm sao để thế giới, và ngay báo chí của phe ta không hề biết. Tạo nên những tin tức để phe cộng sản, tin là Mỹ không bao giờ dám đem quân ra miền Bắc, sợ đụng Trung Quốc, có khi đụng cả Liên Xô nữa. Một mặt, bất ngờ, bằng nhiều đường hướng quân Mỹ và một số quân đồng minh, nhưng chủ chốt là của Việt Nam Cộng Hòa, chớp nhoáng, bất ngờ, thần tốc đổ bộ đánh ra miền Bắc, chấp nhận nếu có phải gặp Trung Cộng. Tôi đã có hơn một tháng ngược xuôi khắp Thủ Đô Hà Nội, một số vùng nông thôn ở miền Bắc, hiểu được một cách cơ bản điều điện xã hội, lòng quân, lòng dân v.v…Tôi nói một cách có cơ sở là sẽ giải quyết miền Bắc về căn bản trong vòng nửa tháng. Từ đấy, giải quyết toàn bộ vấn đề Việt Nam, và cả lẫn miền Bắc. Có thế ngoại giao kìm chân nhờ Nhật và Tây Đức, những phô trương ở lục địa khác. Chưa hẳn Trung Cộng và Liên Xô đã dám vào Việt Nam khi chuyện đã rồi. Bởi vì, như trên tôi đã trình bầy, hãy nắm vững yếu tố “huyệt” thời nay “Hễ Mỹ làm quá, Liên Xô phải lùi; ngược lại cũng thế. Cả hai phe đều tự hiểu, nếu không như vậy là tự hủy diệt cả hai. Vậy, ai cao tay nắm được “huyệt” thì giải quyết lần được nhiều vấn đề. Nhưng, dù trong lãnh vực chính trị, hay quân sự cũng vậy: Yếu tố bất ngờ là nồng cốt trong mọi hành sử. Phải làm sao bịt được mắt đối phương lại mà đánh. Không có một kế hoạch nào thần kỳ cho bằng yếu tố “bất ngờ”. Những thiên tài quân sự, cũng không thể trở thành xuất chúng, nếu trong quá trình xử lý sự việc, thiếu yếu tố bất ngờ! Bởi vì, muốn xử dụng yếu tố bất ngờ, cái trước hết (điều này không đơn giản, biết bao người, thực tế chưa hiểu rõ kẻ thù của mình, nhưng lại cứ tưởng là mình đã biết quá rõ) là, phải hiểu địch đã. Phải hiểu họ rõ, mới làm cho họ bất ngờ được… Sáng hôm nay, cũng như mọi buổi sáng, tôi vừa ra đổ bô vào, tên Dư đã chốt cùm. Cửa đóng, được một lúc cửa sổ nhỏ lại mở. Tên Bằng “môi cá ngão” chỉ mặt tôi, cộc lốc: - Đi cung! Tôi đã biết tên này, tuy y ăn nói nhấm nhẵn như thế, nhưng y không đến nỗi ác ôn lắm. Khi ra tới gần phòng cung, trên con đường hành lang nhỏ hẹp, tôi đang dõi mắt nhìn hai chiếc hầm trú ẩn tập thể to lồ lộ ở góc mé sân trước Hỏa Lò (sân có giàn nho), bỗng mắt tôi chợt nhìn thấy một người rất cao nhưng gầy, cũng mặc bộ quần áo sọc đỏ sậm giống tôi, đang đi từ phía đầu hành lang kia ngược lại hướng tôi, và cũng có một tên công an áo vàng đi kèm phía sau. Tự nhiên tôi thót tim khi nhìn thấy dáng đi lểu khều và đôi mắt…xanh. À, người Mỹ! Phi công Mỹ! Sở dĩ tôi chưa nhìn thấy ngay, vì tôi không ngờ được. Trong tâm, tôi cứ đinh ninh người đó cũng như nhiều người tù đồng bào mình mà tôi vẫn gặp, vì vậy mắt tôi cứ nhìn qua cái lăng kính của óc mình, tức là định kiến, cho nên khi bất chợt nhìn ra, tôi mới giật mình. Anh phi công còn rất trẻ, chỉ khoảng 24, 25 tuổi như tuổi của tôi thôi. Nhưng đặc biệt, đôi mắt anh thật lơ láo, ngờ nghệch. Có lẽ anh đang có rất nhiều ngạc nhiên. Nhìn chung quanh anh, cái gì cũng lạ, không hề giống bất cứ cái gì trước đây, anh đã nhìn thấy ở nước anh; từ cảnh vật cho đến con người, nhất là dáng dấp, phong thái làm việc, cũng như sự đối xử. Chính vì thế đôi mắt anh trở nên ngờ nghệch chăng? Hay vì những phút bão tố tơi bời vừa qua, khi anh bị bắn rơi trên bầu trời, hãy còn ngập tràn nỗi bàng hoàng chưa phai nhạt trong anh? Khi đi ngang qua nhau, anh nhìn tôi, tôi nhìn anh. Anh nghĩ gì, làm sao tôi biết được. Nhưng, có điều chắc chắn mà anh không thể ngờ được rằng, người anh vừa gặp cũng từ miền Nam, miền của tự do dân chủ đã vào mảnh đất này. Chỉ có khác, là anh đã xuống dù, công khai; còn tôi đã đã đổ bộ, bí mật; anh xuống đất vì bị bắt buộc; còn tôi mò vào là do tự nguyện. Dù hai trường hợp khác nhau, nhưng vẫn gặp nhau ở một điểm; đó là Hỏa Lò Hà Nội, mà các anh vẫn gọi là “Khách Sạn Hilton”. Còn tôi khi nhìn anh, lòng tôi dâng lên một nỗi niềm vừa xót thương, vừa ngưỡng mộ biết ơn. Xót thương, ái ngại, vì các anh ở Mỹ, từ khi lọt lòng mẹ đã quen sướng. Bây giờ, trong cảnh này, dù rằng tôi hiểu các anh sẽ được hưởng một quy chế tốt hơn chúng tôi, nhưng tôi tin rằng các anh sẽ thấy khổ cực hơn chúng tôi. Ngưỡng mộ và biết ơn vì các anh thật hiên ngang, dũng cảm. Dù Hà Nội nói riêng, và miền Bắc nói chung với lưới lửa dày đặc, mà các nhà báo gọi là “những tọa độ lửa còn hơn cả Stalingrad trong Thế Chiến Thứ II”, thế mà vì sự tự do của một dân tộc khác, vì sự bần hàn khổ cực đắng cay của những người dân của một nước xa xôi, các anh đã dũng cảm nhận nhiệm vụ vinh quang, không nề hiểm nguy đến tính mạng, đi bắn những kẻ đàn áp tự do. Tôi đi chiến đấu cho dân tộc, cho Tổ Quốc tôi; còn anh lại vì sự tự do của dân tộc tôi, cho nên tôi nhìn anh với sự ngưỡng mộ và biết ơn là thế. Anh đã đi qua rồi, hình ảnh của anh và những suy nghĩ về anh vẫn quấn quít người tôi, mãi tới lúc tôi vào phòng cung. Lại gặp Thành, và một người nữa, dù chưa hỏi cung tôi bao giờ nhưng tôi đã quen mặt. Đi lại cung kẹo mấy năm nay, tôi đã gặp và trông thấy y nhiều lần. Thậm chí, nghe họ gọi nhau, tôi còn biết y tên là Quý. Y có cái sẹo ở trên mí mắt, nên có người còn gọi y là “Quý lẹo”. Qua nhiều lần thấy thái độ của y lúc đùa vui, cũng như trò chuyện với những tên cán bộ khác, tôi biết y không đủ kiến thức, cũng như mánh lới để hỏi cung những loại tội về tình báo; vậy sao hôm nay lại có y ở đây? Chỉ một lúc sau, tôi tìm ra được câu trả lời, dù rằng tôi không dám khẳng quyết, nhưng cũng tàm tạm thỏa mãn điều thắc mắc của tôi. Thời chiến, rất hiếm cán bộ. Đáng lẽ, bây giờ, cung kẹo tôi chẳng còn gì đặc biệt nữa, một mình tên Thành cũng được rồi. Nhưng, có lẽ tên Thành, cũng như Phòng 44 Chấp Pháp cảnh giác cao, sau vụ tôi đánh cán bộ trốn tù, nên gặp tôi bây giờ thường từ hai người trở lên. Sự suy luận này của tôi càng được chắc chắn hơn sau mấy ngày gọi cung tôi lia lịa, cũng chỉ có tên Thành hỏi, chứ tên “Quý lẹo”, tuy dáng cao lênh khênh, cũng chỉ ngồi làm vì thôi, thỉnh thoảng mới đóng góp một vài nụ cười, hoặc vài câu hỏi không đâu, không quan trọng. Suốt buổi hỏi cung hôm ấy, và liền bốn, năm ngày hôm sau, tên Thành hỏi lại toàn bộ từ đầu chí cuối sự việc của tôi. Cũng truy đi, truy lại một số việc có thể y quên, hoặc bây giờ y mới nghi ngờ. Y ghi tóm tắt, thế mà cũng phải một tuần lễ mới xong. Cứ mỗi buổi, tôi phải ký vào bản y ghi, sau khi đã đọc lại. Như vậy, đây là một hiện tượng kết cung của tôi? Phần vì, đã truy hỏi tôi gần 3 năm trời với biết bao nhiêu tình huống gay cấn. Phần khác, thời chiến tranh, Mỹ bắn phá càng ngày càng ác liệt, chưa biết diễn tiến của cuộc chiến sẽ ra sao, cho nên hãy tạm đóng cung của tôi. Sau đó, lại hàng ngày, hai buổi tôi ra phải ngồi viết bản tự khai ở một phòng nhỏ, có một cảnh sát mặc đồng phục, đeo súng ngắn gác. Giai đoạn viết này là lần thứ hai sau hơn ba năm ở Hỏa Lò. Tôi hiểu đó cũng là một phương pháp gạn lọc, so sánh của chúng. Vì hiểu như vậy, cho nên, hầu như những việc chính yếu (trong những điều tôi đã khai, điều gì còn cất kỹ trong đáy lòng) tôi đều ghi nhớ. Nhưng, khi viết lại, tôi bỏ bớt dần đi những sự việc râu ria. Như vậy mới “lô gích”, nghĩa là hợp tình, hợp lý. Óc con người ta thì quên dần đi là việc tất yếu. Lần viết sau, nếu lại có những việc lần trước chưa ghi, ấy mới là rắc rối. Cũng phải gần một tháng mới xong. Điều chính là tôi chỉ viết với nhịp độ bình thường, và lại vừa phải suy xét cân nhắc khi viết. Khi tôi viết được mươi ngày, một hôm, từ một phía cửa sổ phòng bên cạnh, tôi thoáng thấy anh phi công Mỹ, tôi đã gặp lần đầu tiên. Tôi nói lần đầu tiên, để phân biệt với những lần sau đấy trên đường tôi đi và về hàng ngày tôi cũng đã gặp 2, 3 anh phi công Mỹ khác nữa. Có một anh phải đến 40 tuổi, trông rất dữ tướng. Cũng như anh đầu, tay còn quấn băng. Anh nào cũng xanh xao và gầy. Những đôi mắt xanh, hoặc nâu đều ngả thành màu trắng. Khi gặp lại anh phi công buổi ban đầu ở phòng bên, cũng là lúc anh nghiêng người, liếc nhìn thấy tôi. Ánh mắt anh hình như cũng đã nhận ra hình ảnh một người mà anh gặp. Mặt anh tươi hẳn lên, không còn nét đăm đăm nửa như dò xét, nửa như xa lạ lúc buổi đầu gặp anh nữa. Anh cũng đang lúi húi ngồi viết. Thỉnh thoảng đầu anh động đậy, rồi quay lại nhìn tôi. Tôi cũng ngẩng lên nhìn anh bằng một ánh mắt đồng cảnh và gởi đi tình cảm chào hỏi. Vài lần, không hẹn mà chúng tôi đã cười với nhau, dù chỉ là một nụ cười ngập ngừng không rõ nét. Tôi để ý, bên anh không có tên cảnh sát ngồi canh như bên tôi. Có thể chúng nghĩ, anh mắt xanh, mũi lõ lồ lộ, đi đến đâu ai chả thấy ngay. Cho nên, chúng chỉ giao giấy bút, rồi ngồi ở một phòng xa, chờ. Tên cảnh sát phòng tôi cũng thấy tôi và anh phi công Mỹ thỉnh thoảng nhìn nhau. Nhưng, chắc y cũng nghĩ anh kia là người ngoại quốc, ngôn ngữ bất đồng; hai nữa, mỗi người một phòng nên kệ cho nhìn nhau, vì vậy y nhìn thấy cũng quay đi. Hình ảnh anh phi công đó làm tôi nhớ nhất. Cho mãi đến sau này, dáng dấp, khuôn mặt của anh vẫn khắc ghi trong lòng tôi. Chứ ngay những ngày sau đấy, hàng trăm phi công ở Hỏa Lò tôi gặp, nhưng rồi tôi quên mặt ngay. Cũng có thể anh là một trong những phi công bị bắn rơi ngay từ những ngày đầu của vụ trả đũa 5/8/1964 mà theo đài cộng sản, hôm đó chúng hạ được 8 phi cơ, bắt được 3 phi công (thật hay chăng)? Khi đã viết xong, tên Thành còn gọi tôi lên một buổi nữa, thái độ của y hôm đó có vẻ tươi vui, tình cảm. Y nói thẳng có thể y đi công tác xa một số ngày, với bộ điệu úp úp, mở mở như đi vào “B” ấy. Vừa như báo tin mừng được vào “B”, vừa như gián tiếp đe dọa “chuyến này tao vào Nam sẽ biết rõ về mày”. Cuối buổi, hai tay y cuộn vo, xoay xoay hơn 100 trang giấy viết tay của tôi, vừa như thực vừa như đùa, y nói: - Câu chuyện của đời anh, sau này đất nước thống nhất, viết lại cũng hấp dẫn đấy chứ! Tôi hiểu là y sắp chia tay, y nói một câu chuyện cho vui, vì thế, tôi cũng cười, trả lời: - Thưa ông, nếu phải có kiếp sau, tôi xin để kiếp sau. Chứ kiếp này. Đó là chuyện không tưởng. Y và tên Quý đều cười. Sau đó, tên “Quý lẹo” dẫn tôi xuống phòng trực, trả tôi về xà lim. Trên đường về, tiếng loa cứ lải nhải khẩu hiệu:”Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Đó là khẩu hiệu bịp bợm, dùng để bốc thơm mọi người, một hình thức xúi người khác ăn cứt gà: “Hãy nổ lực làm việc và công tác đi. Ngành ngành thi đua! Người người thi đua!”…Khẩu hiệu đó cứ ra rả, không ngày nào là không nói đến. Suốt những năm ở miền Bắc, tôi nghe đã nhàm tai. Thế mà bây giờ bỗng đỗi khác: “Ta vì mọi người, mọi người vì chủ nghĩa xã hội”. Vế dưới đã đổi khác hoàn toàn. Cách mạng mà! Phải luôn luôn thay đổi, luôn luôn đổi mới; nhưng thay đổi theo chiều hướng từ đường rộng rãi thênh thang đi vào con đường trước mắt cứ nhỏ hẹp dần. Đó cũng là một sách lược, một phương châm của những tên lãnh đạo cộng sản, không ngoài mục đích để thống trị người, và giữ cho chắc chắn chỗ ngồi của chúng!... |
|
|
![]()
Post
#61
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Năm Mươi Chín
Hà Nội ăn bom… Xã hội chủ nghĩa sẽ ra sao? Mùa Hè đã chập chững bước tới. Đã có những chú ve sầu dậy sớm, sau một giấc ngủ dài Đông Xuân, đang nỉ non khóc tiếc thương giấc ngủ chưa được đã đầy. Hàng năm, tôi chẳng muốn cho những con ve sầu ngủ. Chúng ngủ, tức là mùa Đông đến. Mà mùa Đông, tôi ghét cay ghét đắng, chỉ vì những ngón chân, ngón tay của tôi, mùa Đông nào cũng sưng, nhức, buốt, và tôi cứ phải đêm ngày nằm trên sàn xi măng lạnh như giường nước…đá; bụng lại không đủ nhiệt, với quần áo hai mảnh bằng vải mỏng và một chiếc chăn đơn. Tôi nghĩ rằng chỉ cần một chút mỡ hay một chút đường hàng ngày, chân tôi đã không bị sưng. Hai thứ đó thật có nhiệt nhiều. Hoặc được ăn no chất bột, tôi cũng có nhiệt để chống lạnh rồi. Cho nên, tôi sợ mùa Đông lắm. Dù sợ như vậy, nhưng năm nào cũng phải đón nhận một lần, đến nỗi tôi coi mùa Đông là biểu tượng của sự lầm than, bất hạnh trên cõi đời này. Tôi nhớ đển một ý tưởng, không nhớ đã đọc được ở đâu, về mùa Đông, nhiều khi tôi buột miệng ngâm vang thành lời trong xà lim. “Bạn đường ơi! Sắp hết lạnh rồi gió Bắc với mưa Đông. Để không bao giờ còn thấy bóng mây sầu vương vất nữa. Bạn ơi, nào có được!”. Phải rồi, đó chỉ là một ước mơ, nào có được trong thực tế chữ cuối cùng thành “Rồi phải được!”, để tin tưởng, để hy vọng chứ! Sáng hôm nay, cũng như buổi sáng khác, tôi đang ngồi đợi tới lượt mình ra đổ bô, bất chợt tiếng còi hụ báo động của thành phố rú lên dai lê thê, ư hử từng hồi rùng rợn, làm nghẹt tim mọi người. Tên Dư quát ầm lên giục buồng số 7 vừa ôm bô ra, phải vào ngay. Y khóa cửa lại. Chắc y chạy ra hầm trú ẩn cá nhân đào ở một góc sân xà lim. Chỉ có một lỗ duy nhất cho y. Một không khí khẩn trương, hồi hộp tràn khắp mọi nơi. Tiếng loa oang oang, rành rọt: “Quân và dân toàn thành phố chú ý! Một tốp máy bay địch từ hướng Tây Bắc, khoảng cách X, độ cao M. Một tốp hướng Đông Nam, khoảng cách Y, độ cao R. Các khẩu đội chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu theo phương án K. Binh chủng “Tên Lửa” theo phương án G. Binh chủng Không Quân theo phương án H…” Bắt đầu đạn nổ, bom rơi như pháo ran khắp cả bầu trời. Thỉnh thoảng những làn chớp nháy xanh lè với những tiếng ùng ục làm run rẩy không gian. Cánh cửa buồng tôi rung lên những tiếng bần bật, như động đất. Những tiếng lộp độp, choeng choeng rơi trên mái ngói, rơi ngoài sân xà lim. Mùi khét lẹt nồng nặc của thuốc súng. Mùi hăng hừng hực của lửa cháy. Thỉnh thoảng nghe râm ran tiếng khóc ở phía bên ngoài, xa xa. Xen vào đấy, đôi lúc, tiếng loa như gào lên:”…Một máy bay “Con Ma” bị tan xác phía Bắc Hà Nội. Hai “Thần Sấm” bị đứt đôi ở phía Nam, v.v… và v.v….”. Lẫn vào những âm thanh náo động là những tiếng bồm bộp, như người cầm que đập vào cái thúng úp vậy. Tôi không thể suy đoán được, đó là tiếng gì. Mãi sau này, khi nghe trên loa nói nhiều về “bom bi”, tôi mới hiểu đấy là tiếng nổ của “bom bi”. Tâm trạng của tôi lúc này thật lửng lửng, lơ lơ vì nhiều ý nghĩ đối nghịch: Trong xà lim, những người không bị cùm có thể sẽ chui vào dưới gầm sàn xi măng để núp. Còn tôi, chân trong cùm, chỉ cần một quả bom nổ gần làm gạch ngói rơi đè cũng đủ chết rồi, vì nằm phơi ra đấy. Nhưng, tôi cũng chẳng lo lắng gì. Nếu có phải vậy, cũng được, chẳng có gì để tiếc, hận. Trong khi ấy, tôi hiểu, các cán bộ ở Hỏa Lò đều đã chui xuống hầm, tùy theo nơi quy định gần chỗ làm việc của chúng. Tuy vậy, thỉnh thoảng, ngay trong Hỏa Lò, tôi cũng nghe thấy mấy tràng trung liên và đại liên, như thế cũng có người chiến đấu. Qua loa phóng thanh, hàng ngày chúng vẫn nói là khi máy bay địch vào bắn phá, mọi người quân cũng như dân, tùy theo điều kiện, trên mái nhà, trên ngọn cây, có súng gì dùng súng ấy, hãy nhắm thẳng vào máy bay địch mà bóp cò. Tôi hiểu, đây là một phương pháp tâm lý rất tinh vi để động viên tinh thần chiến đấu của toàn dân, chứ chúng biết thừa, súng cá nhân mà bắn máy bay phản lực, thì…rất ư là ít kết quả; nhưng chúng được một cái khác to lớn để lòe bịp nhân dân thế giới: Đó là tinh thần chiến đấu dũng cảm và thần kỳ của…toàn dân. Tôi lửng lơ, man mác nghĩ suy và khi thấy máy bay vào phá Thủ Đô Hà Nội, tôi không thấy mừng, không thấy lòng dâng lên một chút niềm tin hay hy vọng gì. Bởi vì, tôi hiểu, dù sau đấy máy bay Mỹ bắn phá như thế nào chăng nữa, cũng không giải quyết được vấn đề. Mỹ và thế giới bên ngoài chưa hiểu rõ thực tế xã hội cộng sản, nhất là cộng sản Bắc Việt Nam! Tôi hiểu từ trước tới nay, các nhà chiến lược, các tư tưởng gia về quân sự của Mỹ đã đánh giá một xã hội, một thành phố theo cách nhìn từ ống kính của những nước tư bản. Mỹ nhìn như vậy về một nước tư bản như Anh, Pháp, Nhật, hay Hòa Lan, Bỉ, v.v…Mỹ đánh giá rất đúng, rất chính xác, nhưng với cộng sản, nhất là cộng sản Bắc Việt Nam, thì hoàn toàn sai! Sai ở những điều kiện và yếu tố sau đây: - Vì Hà Nội là một xã hội cộng sản, cho nên chúng đã điều hành được một cách hữu hiệu vì di tản và sơ tán, nhất là Mỹ lại đã báo trước sẽ đánh đến đâu, đánh đến mức độ nào. Cho dù không báo trước sẽ đánh đến đâu, đánh đến mức độ nào. Cho dù không báo trước, với cái xã hội tự do “không đúng lúc” của Mỹ, phía cộng sản đã biết nhiều vấn đề này ngay từ trước. Tôi nói "tự do không đúng lúc" có nghĩa là lúc hòa bình, tự do như thế là nhất; nhưng khi có chiến tranh, lại vẫn như thế, thì không biết còn gì để gọi nữa. Luôn luôn có những cơ quan, hoặc báo chí vạch áo cho…cộng sản xem lưng rồi! Tóm lại, tất cả mọi thứ gì cần thiết, chúng đã đem về vùng quê, vào núi, vào rừng, kể cả những cơ quan trung ương, kể cả dân chúng. Còn ở lại, chỉ toàn là những người trực tiếp bắn máy bay Mỹ, hoặc những người phục vụ chiến đấu mà thôi. - Nhà cửa, và những công trình trên miền Bắc: Ngay Thủ Đô Hà Nội, cũng chỉ toàn những ngôi nhà nhỏ, đã cũ, mục từ mấy chục năm rồi; có bị tàn phá đổ xuống, cũng là khỏi phải mất công phá đi để làm lại mới. Còn ở ngoại ô, hầu như toàn nhà lá, cũng nho nhỏ như những chiếc lều. Ở các tỉnh, ngay ở thị xã, cũng chỉ nửa cây, nửa lá, nghĩa là nhà tranh vách đất. Nói chung, tất cả mọi phương diện sinh hoạt xã hội thật nghèo nàn, không có gì đáng kể cả. Chỉ duy nhất có một cái lại vô cùng giàu có, vô cùng to lớn, vô cùng hiện đại, đó là vũ khí. Đây là một vấn đề lớn của chế độ cộng sản mà hiện nay nhiều nước, nhiều người nghiên cứu vẫn chưa hiểu rõ được. Hoặc lại hiểu sai, theo cách suy nghĩ, theo cách nhìn của những nước tư bản. Chính vì thế, Mỹ cứ ném bom bắn phá một đợt, một giai đoạn, rồi lại ngừng để nghe ngóng xem cộng sản Bắc Việt đã sắp chết chưa; đã sắp phải van vái Mỹ xin tha cho chưa. Mãi không thấy gì, Mỹ lại ném bom, bắn phá ác liệt hơn nữa; rồi lại ngừng để … nghe. Bởi vì, theo cách suy lý của Mỹ, cộng sản làm sao chịu nổi nữa. Rồi, mãi Mỹ cũng chả thấy thái độ hoang mang khiếp nhược của cộng sản. Chúng vẫn trơ trơ, thậm chí, các mặt trận ở miền Nam của chúng lại càng có sức đánh mạnh hơn. Người hoang mang bây giờ không phải là cộng sản, mà lại chính là Mỹ. Chính vì Mỹ đã không hiểu được kẻ đang phản đối đầu với Mỹ. Nếu những phi vụ, những quả bom, những hỏa tiễn ấy đến bắn phá một thành phố, hoặc một cơ xưởng, nhà máy của Pháp, Ba Tây, hay Na Uy, v.v… chẳng hạn, thì đáng giá đồng tiền bát gạo. Nhưng, mang đánh phá ở miền Bắc thì thật là phí. Tôi dám quả quyết rằng, trừ sự cá biệt nào đó không kể, còn thường thường, một quả bom, một chiếc hỏa tiễn sau khi nổ, nếu nói về kinh tế, chỉ phá được một, hai, ba..phần trăm. Nghĩa là, tiền để chế tạo ra quả bom ấy, chiếc hỏa tiễn ấy còn đắt hơn nhiều lần cái mà nó phá được. Thế mà, Mỹ càng ném bom nhiều, càng bắn phá nhiều, đối với thế giới, Mỹ lại càng mất thế về mặt chính trị nhiều. Những túp lều tranh, hoặc nhà cửa bằng gỗ, bằng cây, bom bỏ cháy vùng, mấy hôm sau lại làm lại cái khác; trong khi máy bay Mỹ các loại, bị lưới lửa phòng không dày đặc, đến nỗi Mỹ phải kêu lên là, trong Thế Chiến Thứ II cũng không có nơi nào dày và ác liệt như vậy. Cho nên, dù người phi công Mỹ rất dũng cảm, dù nghệ thuật lái máy bay điêu luyện, dù nhiều kế hoạch kỹ thuật đánh phá tân kỳ, nhưng máy bay Mỹ rơi rụng cũng nhiều vì phòng không hiện đại của cộng sản. Phần khác, hầu như các loại tính năng ưu cũng như khuyết của các loại máy bay Mỹ vào đánh phá miền Bắc, thậm chí có những loại mãi sau này, gần cuối, mới vào đánh như F-111A, hàng ngày trên loa, chúng đã ra rả, đọc vanh vách, khiến dân chúng bình thường cũng biết rồi. Cho nên, hễ Mỹ sắp sửa có một loại máy bay tối tân mới ra lò nào, chuẩn bị dùng ở miền Bắc, chúng đã biết đầy đủ tính năng, chúng đã yêu cầu Liên Xô cung cấp ngay loại vũ khí để hóa giải. Mặt khác, chúng chỉ dẫn cho bộ đội chiến đấu cố tránh, hoặc hạn chế những cái ưu của loại máy bay đó; ngược lại, hãy nhắm vào chỗ nhược và biết cách khoét thêm vào cái nhược này mà nện vào. Tôi chưa nói những thiệt hại về mặt vật chất, khi đối phương đã biết rõ những loại vũ khí của đối thủ, riêng về mặt tinh thần, cộng cản đã có được một cái lợi to lớn. Khi thấy trên đài, trên báo đọc đi đọc lại vanh vách tính năng chi tiết từng loại vũ khí, cũng như máy bay tối tân của Mỹ. Quân cũng như dân tự nhiên thấy một niềm tin vững mạnh vào sự lãnh đạo sáng suốt, của nhà cầm quyền cộng sản, và đồng thời tự hiểu dù vũ khí của Mỹ nguy hiểm tới đâu, một khi đã biết rồi, còn gì đáng sợ nữa; mà chỉ càng kính phục sự tài ba hiểu biết của giới lãnh đạo. Một khi quân và dân tin như vậy, điều đó trở thành sức mạnh thần kỳ đấy! Tóm lại, dù Mỹ bắn phá như thế nào chăng nữa, cũng không giải quyế được vấn đề; nghĩa là bắt nhà cầm quyền cộng sản miền Bắc xuống thang đánh giá miền Nam chỉ là một sự hão huyền, ảo tưởng. Cộng sản lại biết lợi dụng sự bắn phá ác liệt của Mỹ. Chúng giả lờ la làng để kêu gọi con tim chất phác, đầy lòng nhân ái của loài người để lấy chính nghĩa, để lấy sự ủng hộ. Cộng sản miền Bắc la làng vì lý do chính trị đó; chứ Mỹ đừng lầm là chúng sợ Mỹ. Sau này, với 12 ngày đêm oanh tạc, cho dù năm, mười lần như thế đi, cũng đừng hòng cộng sản xuống thang đánh phá miền Nam, chứ đừng mơ cộng sản đầu hàng như nhiều người suy nghĩ. Trái lại, Mỹ chỉ càng chuốc lấy những lời chửi bới của ngay bạn bè Mỹ. Về sau này, một phần do thời gian cho phép, phần khác, tôi có điều kiện gặp bao nhiêu nhân chứng sống, bao nhiêu sự việc, người thực việc thực ở các trại giam trung uơng của cộng sản. Có những cơ sở thực tế để chứng minh, lý luận từng vấn đề. Gần hai tiếng đồng hồ sau, còi lại hụ báo an, máy bay Mỹ lại đã rút lui sau khi bị hạ hơn 10 chiếc (theo đài cộng sản), với nhiều loại máy bay “Con Ma”, F-105, “Lưỡi Kiếm”, B-52, v.v… và bắt thêm được nhiều phi công. Mãi tên Dư mới mở cửa buồng, tôi ra đổ bô rồi lấy cơm luôn. Khi máy bay Mỹ bắn phá, có nhiều tiếng lộp độp rơi trên mái ngói và dưới sân xà lim mà tôi thắc mắc không hiểu là cái gì; cho nên bây giờ lúc tôi ra chỗ mé sân múc nước, vì sẵn có tình tò mò, tôi liếc nhanh. Tôi nhìn thấy một mảnh kim loại đen xì, khòng khèo, cạnh rất sắc, tôi liền nhặt xem. Lão Dư đã coi tôi lâu ngày; lão biết tôi vẫn còn tính nghịch ngợm của thanh niên; tôi cũng biết vậy, nên ra nhặt đại vào đưa cho y, vẻ mặt tôi rất háo hức: - Thưa ông, không biết mảnh gì đây, khi nãy tôi thấy rơi nhiều lắm. Cái này, ai đang đi, bị rơi trúng đầu, chỉ có chết! Y cầm lấy ngó ngó, xem xem rồi chỉ vào trong bàn: - Mảnh kia mới to kìa. Vì vậy, người ta phải đội mũ sắt, hay mũ rơm để đi lại, hay bắn trả máy bay Mỹ. Thấy y có vẻ dễ dãi, tôi làm tới. Tay cầm gáo nước, tôi tiến lại bàn, thấy một mảnh kim loại to bằng 3 ngón tay mà y đã nhặt ngoài sân trại chung đem vào. Tôi cũng ngó xem, và với vẻ trầm trồ, hỏi lại: - Không biết mảnh gì, rơi nhiều thế? Tôi hỏi y để lấy cảm tình thôi, chứ tôi thừa hiểu đây là mảnh đạn của trung pháo, đại pháo phòng không. Nhìn qua hai mảnh, đã thấy ngay là hai loại đạn khác nhau. Tôi hiểu, chúng có nhiều loại đạn nổ theo từng độ cao. Y cũng muốn tỏ ra hiểu biết, nên nói chậm rãi: - Đây là mảnh đạn súng phòng không của ta đấy! Câu trả lời cũng nói lên sự chất phác, nông thôn của y. Nhưng, điều tôi chú ý hơn cả là y lại nói chuyện bình thường với tôi. Đây cũng là một hiện tượng hiếm thấy giữa cán bộ trực xà lim và tù. Tôi nhớ lại năm, sáu tháng về trước; những ngày đầu tiên mới về trực xà lim I, y thường nhìn tôi bằng con mắt dò xét, không thiện cảm. Nhưng dần dần, thời gian cứ trôi đi, ánh mắt y cũng bớt dần sự soi mói, và thay vào đấy, là sự tò mò; cho tới bây giờ, lại có phần thiện cảm. Chứng cớ là thỉnh thoảng, y hay nói chuyện với tôi. Phần tôi, nhìn lão, tôi thấy lão cũng phải trên 50 tuổi, người nhỏ bé, không có những cách ăn nói thô lỗ, cộc cằn như nhiều tên cán bộ khác, nên tôi thường tươi nét mặt mỗi khi nhìn thấy lão. Ngược lại, với những tên cán bộ ác ôn, lỗ mãng, cộc cằn, tôi thường lạnh lùng, lầm lì; có hỏi, tôi cũng chỉ trả lời nhát gừng. Trưa hôm nay, tôi nằm hoài mà không ngủ được. Bên ngoài, trời nắng chang chang. Tôi nhìn làn da xanh tái, nhăn nhúm của chân tay mình. Đã mấy năm rồi, tôi thèm khát ánh nắng như thèm bát phở ngon lành, sực nức mùi hành, mùi tỏi, mùi thịt bò bốc khói mà không được ăn, chỉ được phép nhìn. Con người thật cũng lạ lùng, cái gì mất đi rồi, không còn cách nào lấy được nữa thì lại quý. Nhìn ánh nắng vàng thế kia, tôi ước gì được tắm mình trong đó một lúc. Da tôi tái, bủng ra là vì thiếu ăn, nhưng cũng vì thiếu ánh nắng mặt trời. Mọi khi cũng giờ này, tôi thường nghe tiếng ồn ào của các em học trò trường mẫu giáo “Tân Trào” phía ngoài phố. Đôi khi, giọng đồng ca véo von của các cháu nhỏ, hòa lẫn với tiếng ve sầu râm ran, tạo thành một điệu nhạc trưa Hè quen thuộc. Nhưng, trưa hôm nay chỉ còn tiếng ve sầu đơn điệu nhặt khoan: có lúc dồn dập, réo rắt như trận mưa rào trên mái tôn; có lúc đột nhiên đều im bặt như phút mặc niệm của một binh đoàn trong lúc chào cờ. Thiếu, vắng hẳn tiếng ca hát của những con chim non trường Tân Trào. Có lẽ các em cũng đã đi sơ tán vùng xa Hà Nội? Tôi đang vẩn vơ ngơ ngác với không khí của buổi trưa Hè, còi hụ lại hú vang. Như tiếng rống của con khủng long đang vật vã giãy chết vì vết tử thương, nấc lên hừng hực từng hồi. Tiếng hú làm những chú ve sầu cũng vội vàng bảo nhau nín bặt. Lại bom rơi, đạn nổ tơi bời; lại những tiếng gào thét giật giọng của chiếc loa to mồm. Ngay Hà Nội, một ngày máy bay Mỹ cũng vào mấy lần. Trong lúc lửa cháy, đạn bay, với những tiếng gầm rít như xé vải của máy bay phản lực, chân ở trong cùm, tôi nằm ngửa tênh hênh nghe tiếng đạn bom. Có điều nào khẳng định sẽ không có một quả bom, không có một hỏa tiễn bắn vào nơi này? Trong cái hỗn loạn của tên bay đạn lạc, nơi nào là an toàn? Có chăng, may ra, chỉ ở dưới hầm trú ẩn. Bất ngờ, một tiếng rắc, sột, như tiếng ly vỡ trên nền gạch, vang lên ở trên mái nhà làm tôi giật mình. Chả nhìn thấy gì cả vì vướng trần nhà, nhưng qua âm thanh, tôi hiểu đã có vài viên ngói bể. Khi máy bay Mỹ đã đi rồi, tôi đang băn khoăn là bên ngoài, Hà Nội, những gì đã xảy ra sau một trận không tập của hàng trăm máy bay Mỹ đủ các loại? Chợt, tiếng tên Dư, cán bộ trực xà lim, ông ổng vang lên: - Chiều nay, các buồng không đổ bô và rửa ráy. Ồng nước Hỏa Lò bị hư! Như vậy, ống nước dẫn vào Hỏa Lò đã bị bom làm hư hại. Phía bên ngoài có tiếng gọi nhau ý ới, lẫn với những tiếng kêu la, xa dần rồi mất hút. Một mùi nồng nặc của khói xăng cháy làm nhức cả đầu. Sáng hôm sau, tên Dư vào tuyên bố là từ nay các xà lim, các buồng chỉ được ra đổ bô một lần vào buổi sáng mỗi ngày. Buổi chiều cho ra lấy cơm mà không được đổ bô nữa. Từ ngày Mỹ bắn phá Hà Nội, xà lim càng ngày càng vắng vẻ hơn. Ngay ngoài trại chung, tù cũng lưa thưa hẳn ra, có lẽ chúng đã chuyển đi trại trung ương hết, chỉ để lại những phạm nhân còn đang trong thời gian khai thác, hoặc liên quan đến những việc còn cần thiết. Trưa hôm nay, tôi đang nằm mơ màng, chợt thấy buồng sáng hẳn lên, tôi ngạc nhiên bò nhổm dậy. Ôi, thật là đẹp! Một chùm sáng như một cái ống bằng giấy bạc thẳng băng, chọc từ trên mái nhà, xuyên chéo qua cửa sổ, đâm vào tường, ngay gần phía châm cùm của tôi. Tôi vừa nhìn những hạt bụi dẫy dọn bay trong chùm ánh sáng, vừa ngỡ ngàng, băn khoăn. Á, thì ra tiếng động như ly vỡ hôm qua đã làm bể một góc viên ngói, phía bên ngoài cửa sổ. Mặt trời đầu Hạ, khoảng 1 giờ trưa, chiếu ánh sáng chói chang chọ thẳng vào buồng tôi một điểm tròn lung linh bằng quả cam, đường kính chừng 4, 5 phân đang le lói, nhấp nháy gần chân cùm. Thật là “buồn ngủ gặp chiếu manh”. Tôi xin cám ơn các anh phi công Mỹ. Của vưu vật trời cho, tôi phải đón nhận. Tôi vội vàng cởi ngay áo ra, xoay chân ngồi hẳn lên cùm. Rồi tôi giơ mặt ra cho chiếc gậy sáng chọc thẳng vào mặt tôi. Tôi rê dần xuống cổ, xuống đến ngực, hai cánh tay. Tôi vặn vẹo, xoay cánh tay sao cho chùm ánh sáng, như chiếc bàn chải hạnh phúc, quét xoa hết cả người. Từ bữa đó, trừ những ngày mưa, hoặc có mây nhiều, còn thì ngày nào tôi cũng được hơn một tiếng đồng hồ hưởng các tia tử ngoại, hồng ngoại của ánh sáng mặt trời. Cứ mỗi ngày, thời gian ánh sáng lọt vào buồng tôi lệch dần về chiều mươi phút, nhưng cũng chỉ trong một tiếng đồng hồ. Một lần, tôi đang ngọ nguậy đưa cánh tay từ từ cho “chiếc gậy thần ánh sáng” chà xát, chợt cửa sổ nhỏ xịch mở: Chiếc mũi nhòn nhọn của tên Dư thấp thoáng ngoài cửa sổ. Y không hỏi, nhưng cứ đứng nhìn xem tôi làm gì. Một lúc, y hiểu, và từ từ đóng lại. Chắc y không thể ngờ người ta lại có thể quý ánh mặt trời đến như vậy. Nếu không vướng khuất mất cái khung gỗ phía sau cửa sổ, ánh sáng chiếu vào buồng tôi lâu hơn nữa. Vì vị thế của lỗ hổng, và cũng vì sự xoay chuyển dần của trái đất đối với mặt trời, cho nên thời gian luồng ánh sáng chiếu vào buồng tôi mỗi ngày mỗi ngắn lại. Cũng thật là buồn cười! Có hôm, máy bay Mỹ đang ầm ầm bắn phá, tiếng đạn, tiếng bom, tiếng máy bay gầm rít quay cuồng, đảo điên giữa sống và chết ở bên ngoài; trong này, tôi vẫn cởi trần, đưa tấm thân gầy vặn vẹo, uốn éo, để cho luồng ánh sáng chà xát, coi như thế giới này chỉ còn có mội một …..mình tôi. Bởi vì, trong 24 giờ, chỉ có một tiếng đồng hồ cố định nắng chiếu vào buồng tôi thôi. Hơn nữa, trong cảnh này, đối với tôi, sự sống và cái chết đâu có còn là vấn đề quan trọng nữa… |
|
|
![]()
Post
#62
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu Mươi
Của “chuột”, và … “người”! Vào một buổi trưa, tôi đang nằm chờ nguồn ánh sáng chiếu vào buồng như mọi khi, mắt tôi đang lim dim, lả lướt trong niềm suy tưởng về những nỗi chìm nổi của cuộc đời; bỗng tai tôi thoáng nghe một tiếng động khẽ, mơ hồ phía dưới nền căn buồng. Tôi hé mắt, liếc xuống: Chà, một chú chuột nhắt, bé tí tẹo, đang ngồi “xổm” dưới gầm sàn phía bên kia, hai… “bàn tay” bé tí tẹo, đang chụm lại đưa lên miệng, như đang gậm nhấm cái gì. Thấy tôi mở mắt ra nhìn, “y” định chuồn. Tôi phải hết sức im lặng, không dám cả thở mạnh, trong khi óc tôi suy đoán thật nhanh: Phía cửa, cánh cửa sát xuống nền, “y” không thể ra vào được, chỉ một lối duy nhất, cái lỗ để nước chảy ra ở phía chân tường, chỗ đầu giường. Lỗ này chỉ lớn bằng mặt chiếc đồng hồ đeo tay, nghĩa là đường kính khoảng 2 phân rưỡi đến 3 phân là cùng, cái lỗ chỉ lọt một quả bàng ăn thông ra một cái rãnh phía ngoài tường. Chắc rằng những “cơ sở” làm ăn cũ của tên chuột này bị động vì …cuộc băn phá của máy bay Mỹ, “y” chưa tìm được đất sống, cho nên tạm thời “y” phải lang thang thăm dò…vùng đất hứa. Thấy lỗ, “y” chui vào buồng tôi. Thật đáng buồn cho “y”. Đất “hứa” này chỉ có gạch, xi măng, đá với sắt, không có đến cả mùi thực phẩm nữa, nói chi đến hạt cơm rơi mà bò vào. Á! Thôi chết rồi! Vừa nghĩ đến cơm, tức khắc như một phản xạ lóe lên trong đầu, tôi bò nhổm dậy nhìn nắm cơm tôi để ở cuối sàn phía chân cùm. Dạ dày của tôi đã giặt sạch phơi khô từ 4 giờ chiều hôm qua cho tới giờ đã 20, 21 tiếng rồi. Tôi đang chờ đến 4 giờ chiều để được ăn một lúc cả hai suất. Với bao nhiêu hy vọng của lúc đợi chờ giờ hạnh phúc, mặc dù dạ dày đang dán chặt vào nhau, thế mà giờ đây, khăn bọc nắm cơm đã bị cắn thủng ra, cơm vãi tứ tung. Nhìn những hạt cơm vương vãi, ruột tôi như…đứt ra từng khúc! Chắc cũng phải mất đến ba, bốn chục…hạt cơm rồi, chứ không ít đâu! Tôi cũng hơi ân hận vì thiếu điềm đạm. Thực ra khi nhìn thấy con chuột, một sinh vật, tôi cảm thấy trong lòng dâng lên một chút ấm cúng, bớt lẻ loi. Chính vì vậy, tôi đã không dám trở mình, không dám cả thở mạnh, sợ con chuột chạy đi mất. Tới lúc, bất chợt phát hiện nắm cơm, tôi không còn kịp bình tĩnh nữa, vội bò nhỏm dậy, khiến cho chú chuột đã phải cong đuôi chuồn vào lỗ mất tiêu; để rồi bây giờ, vừa tiếc…cơm, vừa tiếc phút gặp gỡ…”người bạn” mới quá ngắn ngủi. Tôi chợt thoáng có ý nghĩ, có thể con chuột ấy sẽ trở lại nữa?...Nếu vậy, làm sao bắt được nó, thì thật là tuyệt vời! Dù rằng đối với tôi lúc này, cơm gạo là xương, là máu, tôi cũng quyết định hy sinh mỗi ngày hai mươi hạt cơm cho “người bạn”, để đổi lấy sự sống chung bạn bè, để cuộc sống đỡ cô đơn, heo hút, lủi thủi một mình. Con chuột nhắt này xem ra cũng quái lắm! Chân tôi lại bị cùm, tay không thể với tới cái lỗ dưới nền phía đầu giường. Làm sao đây để bắt con được con chuột này? Người và vật, ai khôn hơn ai? Nhưng, tôi cũng biết rằng khôn hay dại, còn phụ thuộc vào cái thế nữa. Tôi nằm hoạch định một kế hoạch thật tỉ mĩ để khắc phục những nhược điểm về cái thế của mình. Làm sao phải thật nhịp nhàng ăn khớp với nhau. Trưa mai tôi sẽ cố ý để lại mươi hạt cơm ngay dưới nền, ở mãi phía trong, xa cái lỗ, mãi chỗ sát cửa ra vào. Trên sàn, tôi vờ nằm ngủ, tay thủ sẵn cái chổi thanh hao,cầm ngược phía đuôi chổi. Chờ cho chú chuột mò vào, tôi chỉ cần rất nhanh vươn người, đút chặn phía cuống chổi bít cái lỗ, con chuột sẽ không còn lối ra nữa. Dù vậy, tôi cũng khó bắt được nó. Chân ở trong cùm, nếu nó chạy về phía gầm sàn bên kia là ngoài tầm tay của tôi rồi. Như vậy, làm sao giải quyết? Khi cán bộ mở cửa, cán bộ thường hay rút chốt cùm trước. Vậy, tôi chỉ rút chân ra rất nhanh, nhảy ngay xuống trấn phía cửa, để cho con chuột phải vào phía đầu giường. Khi cán bộ mở cửa, mình kéo dập vào, rồi với một cái vồ lẹ, nhưng chính xác là sẽ bắt được. Kinh nghiệm vồ chuột, dù anh nhanh tới đâu, nhưng nếu cứ nhằm con chuột mà vồ, thường là trượt, hầu như không bao giờ được. Phải phán đoán con chuột sẽ chạy, chồm về phía nào, rồi vồ cách con chuột chừng 20 tới 25 phân. Nếu đoán trúng hướng chạy của chuột là vồ trúng (với điều kiện không sợ chuột cắn). Chỉ trong một phút này, cán bộ sẽ lại mở cửa và quát hỏi. Vậy, phải làm sẵn một sợi dây chỉ dài, se 6 lần thật bền, buộc sẵn thòng lọng một đầu; đầu kia cũng buộc sẵn vào cái cột chống sàn bằng xi măng, để khi bắt được chuột, xích nó lại ngay. Cả buổi sáng hôm sau, tôi tính toán mọi việc với con chuột tinh ma này! Cho tới giờ trưa như mọi khi, tôi lại nằm lim dim, thỉnh thoảng he hé đôi mắt liếc nhìn cái lỗ. Tay tôi đã thủ sẵn cái chổi. Thế mà lúc đợi chờ cũng thấy hồi hộp lạ lùng. Tai tôi cũng vểnh lên nghe ngóng, đôi mắt thì hấp háy, lúc mở, lúc nhắm. Mười phút, hai mươi phút, rồi bốn mươi phút trôi qua, không thấy động tĩnh gì cả. Phải chăng con chuột đã biết tôi đang giương bẫy chờ nó? Hay hôm nay, nó kiếm được món ăn khác, nhiều và ngon hơn? Tôi đang phân vân, đã hơi nản lòng đợi chờ, bỗng thoáng nghe một tiếng động rất nhẹ. Ánh sáng chỗ cửa lỗ hơi tối đi, rồi mấy sợi râu thò ra thụt vào. Tôi như nín thở. Một chiếc mũi đỏ hỏn bé tí, rồi cả cái đầu thò ra. Đúng chú chuột hôm qua rồi. Xin mời bạn vào đây. Tôi xin lấy tình bạn bè đối xử. Tôi không làm hại bạn đâu!…Thái độ của con chuột hôm nay thật rụt rè. Nó cứ bước đi vài bước, lại dừng, nghểnh đầu, vểnh tai, nghiêng ngó về phía tôi. Hình như nó cảm thấy, hay ngửi thấy một không khí bất an. Có lẽ mắt, nhưng phải nói là mũi của nó đã ngửi thấy mùi thơm ngon ngất ngây của những hạt cơm đang mời gọi phía cửa ra vào. Biết là nguy hiểm, mất an ninh, nhưng vì dạ dày lép, miếng mồi lại mời gọi, làm cho nó mờ mắt, chân cứ tiến dần vào. Tôi bật dậy như một cái máy, chít ngay đầu cuống chổi vào cái lỗ, lối ra duy nhất của con chuột. Con chuột quả có khôn. Dù chưa thử, nhưng nó cũng biết ngay là không còn chỗ nào thoát ra, ngoài con đường duy nhất đó; vì vậy, nó chồm ra, cứ định chui đầu vào cái lỗ đã bị đầu cuống chổi của tôi bịt kín. Dĩ nhiên là không chui vào được. Mãi một lúc, nó hiểu rằng không còn cách nào nữa, nó sắp bị bắt rồi. Nó rút vào gầm sàn phía bên kia, quay lại nhìn tôi bằng con mắt, tôi đoán là vừa khiếp sợ, lại vừa tức giận. Ngược lại, tôi nhìn nó bằng con mắt…hữu nghị, bạn bè; nhưng chẳng biết nó có hiểu như vậy không? Giữa lúc ấy, chốt cùm tôi xoạch mở. Đã chuẩn bị từ trước, lẹ như chớp, tôi chồm xuống đất chận ngay phía cửa, vì tôi nghe tiếng then cửa đã rút để mở cửa. Trong hoàn cảnh cấp bách từng giây, con chuột tuy bé tí, nhưng vì thấy thế nguy, nhảy những cú nhảy bật lên như lò xo, rất cao. Thậm chí, nó quýnh quá, nhảy cả lên sàn cao đến 60 phân. Tôi vồ cú đầu, trượt! Lợi dụng ngay cái đà đang xiêu đi của cú vồ trượt, tôi lẹ tay vơ một cái như bắt ruồi. Thế mà lại trúng ngay chú chuột. Nó nằm gọn trong tay tôi, đầu ngút ngắc tìm thế cắn. Đang lúc đó cửa mở, tên Dư thò đầu vào quát: - Anh làm cái gì đấy?!... Mắt y mở to vừa ngạc nhiên, vừa bực tức. Tôi vội vàng vừa cho chân con chuột váo sợi chỉ tôi đã buộc thòng lọng sẵn, cột chân nó lại, vừa thở hổn hển trả lời rời rạc: - Thưa ông, tôi…vồ con chuột! Y nhìn con chuột rồi nhìn tôi; lúc đầu, y có vẻ khó chịu, mắt quắc lên; nhưng sau, ánh mắt của y dịu dần xuống như thông cảm với cái tính còn trẻ con của tôi, y chỉ dấm dẳn: - Đập chết, rồi vứt vào nhà xí kia! Tôi ôm bô ra, vừa khẩn khoản: - Thưa ông, tôi buồn quá! Ông cho phép tôi nuôi nó mấy ngày thôi, chứ tôi có cơm đâu mà nuôi nó lâu? Chắc y thấy rằng con chuột bé tí teo, chẳng hại gì. Hơn nữa, như tôi đã nói qua, y cũng thông cảm với tôi chút ít; vì vậy y chẳng nói có đồng ý hay không, chỉ giục tôi đổ bô mau lên. Tôi tỏ vẻ rất ngoan ngoãn, chạy vội vào đổ bô, tráng xong, báo cáo ra liền. Tôi mang bô vào buồng, lại trở ra lấy cơm ngay, vì đã có cơm rồi. Sau khi cùm đã chốt, cửa đóng, tôi cảm thấy căn buồng như ấm cúng hẳn lên. Sau nhiều ngày đêm heo hút một mình, hôm nay, tôi có “người bạn” mới, người bạn đầy tin tưởng. Dù tôi có ăn nói linh tinh điều gì về tư tưởng, tôi cũng chẳng lo gì về hậu họa, cho nên tôi sẵn sàng hy sinh mỗi bữa mươi hạt cơm, không hề ân hận. Trước khi ăn, tôi lấy một hạt cơm ném cạnh nó như một cử chỉ mời mọc. Nó nghiêng cái đầu bé tí, ngó bằng con mắt lấm lét. Hai cái tai và hai mắt nó cứ giương lên, cụp xuống tỏ vẻ sợ sệt, chưa yên tâm. Vì vậy, hạt cơm vẫn để đấy, con chuột không ăn. Tôi vừa ăn, vừa thỉnh thoảng lại nhìn con chuột. Nó cũng nhìn tôi, rồi lại nhìn hạt cơm, nhưng nhất định không ăn. Dành cho nó dăm hạt cơm, còn tôi chén hết. Sau khi trả bát rồi, giờ đây thật yên lặng, chỉ còn con chuột với tôi. Tôi chẳng tìm được cách nào để nói cho nó biết, hiểu được lòng tôi đối với nó là hòa bình, hữu nghị, chỉ là tình bạn bè, hai bên cùng có lợi…Hàng mấy tiếng đồng hồ, cứ ngồi nhìn con chuột lại đăm chiêu suy nghĩ, mong tìm ra một lối giải quyết, để có một cuộc sống chung hòa bình giữa người và…chuột. Vô kế khả thi, nản lòng, tôi đành nằm xuống đi ngủ, sau khi bỏ nốt mấy hạt cơm xuống nền nhà, gần bên nó. Chợp mắt được một lát, tôi giật mình thức dậy. Nhìn xuống chỗ con chuột, thấy nó vẫn ngồi chồm hỗm, ngước đôi mắt tí hin lên nhìn tôi, những hạt cơm vẫn còn nguyên trên sàn. Có lẽ nó không ngủ? Tôi mặc kệ, lại nhắm mắt ngủ tiếp. Tôi nghĩ, rồi trước sau gì nó cũng phải ăn cơm. Nó cũng là một sinh vật như tôi; nếu mai không ăn, thì ngày kia sẽ phải ăn. Tôi thoải mái đi vào những suy tư của riêng mình. Sáng hôm sau, khi tôi mở mắt ra, nhìn xuống nền nhà, con chuột đã …biến mất rồi, cả những hạt cơm cũng bay hết; chỉ còn một đoạn chỉ ngòng ngoèo, chơ vơ nằm đó. Chà, tôi thật là ngố, và đánh giá quá thấp “người bạn” mới này. Chuột mà cắn, chỉ gì lại không đút; trừ có giây kim loại thôi. Thế mà sao tôi không nghĩ ra. Thật là tiếc công, lại tiếc cả người bạn chưa thân đã bỏ nhau rồi. Anh bạn ra đi, vẫn không quên chén sạch mấy hạt cơm của tôi…mời. Bây giờ, chắc gì nó trở lại nữa. Dù vậy, trưa hôm sau, tôi vẫn để lại mấy hạt cơm, cho nó thấy mồi, biết đâu nó lại vào nữa thì sao? Mãi gần mười ngày sau, tôi đã tưởng không bao giờ trông thấy nó nữa, thì cũng vào một buổi trưa, không khí cuối Hạ vẫn còn oi nồng, tôi đang nằm mơ màng chờ giờ cơm chiều, mắt lơ đãng nhìn đây đó chẳng có một chủ định gì, từ chiếc cửa sổ nhỏ, đến chiếc cùm; rồi chợt nhìn đến chỗ mấy hạt cơm dưới nền nhà, tôi thấy đã biến mất. Ngồi bật dậy, tôi đưa mắt nhìn quanh kỹ hơn, không một âm thanh, dù nhỏ bé. Xà lim vẫn yên ắng như tờ. Vậy là chú chuột đã trở lại? Hay một chú chuột khác? Thế là, tôi quyết định ngày hôm sau lại chủ ý rình. Trưa hôm sau, cũng mấy hạt cơm làm mồi, và như lần trước…tôi lại tóm được chú chuột ngày xưa ấy. Có thể thời buổi khó khăn, nó đã tha phương cầu thực nhiều nơi, nhưng vẫn không tìm được nguồn sống, trừ căn buồng của tôi. Tuy đã bị bắt một lần và đã …đào thoát được, (chắc lúc nó thoát, đã tự hứa sẽ “cạch” đến già, không bao giờ trở lại cái buồng của tôi nữa…) Nhưng, khốn thay, mò mẫm đến đâu cũng chẳng có gì đút bụng; cho nên, vì sự sống còn, biết là đầy dẫy hiểm nguy, nó cũng đành phải xông vào chỗ chết để tìm cái sống vậy. Và, lại rơi vào tay tôi. Âu là, dù khôn, dù biết, nhưng vẫn không tách rời khỏi điều kiện, Lần này, tóm được nó, tôi không thể nhân nhượng, tôi không thể để nó có một điều kiện nào thoát khỏi tay tôi một lần nữa. Vì thế nên khi ra trả bát xong, và sau khi đã bị cùm, khóa đâu vào đấy rồi, tôi cúi xuống cầm sợi dây, kéo vào, lựa thế chộp nó. Nó lồng lộn, tìm cách vuột ra, nhưng làm sao được, chân đã bị buộc rồi. Nắm chặt nó trong lòng bàn tay, nhìn đôi mắt thất thần của nó, tôi lịch sự: - Chỉ vì tôi muốn sống chung với “bạn”, vậy bạn vui long cho tôi mượn bạn…hai cái răng cửa! Tôi hiểu rằng, nếu nói được tiếng người, chắc chắn nó sẽ phản đối kịch liệt. Đời nào nó lại đồng ý với cái lý do kỳ khôi ấy. Khốn, đây cũng là cái lý của kẻ khỏe trên cõi đời này mà. Thế là tôi vặn nghiến hai cái răng của nó. Từ nay đừng hòng cắn dây buộc để thoát cũi, xổ lồng nữa nhé…! Người và vật ở với nhau, mãi rồi cũng thành quen. Nó không còn sợ tôi như buổi ban đầu nữa. Thậm chí, đã có lần tôi cho nó rúc cả vào bụng tôi. Cuộc sống của tôi, kể từ ngày có nó, thấy ấm cúng hẳn lên… Tối nay, cũng như mọi tôi, tôi đang ngồi đùa bỡn, chuyện trò với…con chuột, đột nhiên súng nổ như bắp rang, xen lẫn những tiếng ùng ục rung trời chuyển đất. Hôm nay đặc biệt không có còi hụ, như vậy, Mỹ đã có một phương pháp nào đó để đánh lừa màng lưới “ra đa” của cộng sản. Chiếc cánh cửa xà lim rung lên bần bật như trái đất rùng mình. Con chuột hôm nay hình như cũng sợ quá, chui mãi vào chỗ rốn của tôi, Cái tay nó cứ ngọ nguậy, nhất là những cái lông mõm của nó cứ chà đi xát lại, da bụng của tôi làm tôi nhiều lúc nổi da gà, nhưng cũng thật…đê mê. Đèn bỗng phụt tắt. Không biết đường dây điện bị đứt, hay nhà máy điện bị đành? Cả tiếng loa vẫn hồng hộc quát tháo om xòm bây giờ cũng câm bặt. Trời tối đen như mực. Những ánh chớp nhấp nháy xanh lè liên tục với những tiếng đạn nổ, bom rơi. Tôi rất tiếc là cái chân bị cùm, và tôi phải ở xà lim, chứ lúc này mà được nhìn ra ngoài trời, hẳn là như được dự một đêm hoa đăng muôn hồng, nghìn tía của ánh hào quang. Hơn một tiếng đồng hồ sau, còi hụ mới báo an, nghe ư ử như con bò cái gọi đực kéo dài.Vừa ngắt giọng như hết hơi thì súng và bom lại nổ tơi bời; những làn chớp lại nhấp nháy liên hồi như trong quán rượu nhảy đầm vậy. Tôi không thể tưởng tượng được đạn của cộng sản ở đâu mà nhiều thế. Không biết bao nhiêu khẩu pháo bắn “liên chi hồ điệp”, không lúc nào ngừng, tưởng như vỡ cả bầu trời Hà Nội ra! Mà dạo này, mật độ của máy bay Mỹ bắn phá Hà Nội càng nhiều hơn. Có đêm 3, 4 trận; có ngày liên tục không biết bao nhiêu trận. Có khi lại bẵng đi cả nửa tháng yên lành; rồi lại sùng sục đạn réo, hỏa tiễn bay và máy bay rơi, cũng như tơi bời người chết. Tôi hiểu, Mỹ đã dùng nhiều chiến thuật, nhiều thủ đoạn để đánh Hà Nội nói riêng, và miền Bắc nói chung. Nhưng, như tôi đã trình bày ở trên, cộng sản đã nghiên cứu được hết. Tình trạng này, cũng giống như kẻ đi buôn lậu, với lính “đoan” bắt hàng lậu. Người buôn lậu mỗi khi tìm cách giấu hàng mới, chỉ thoát được chuyến đầu. Sau, làm nữa, thế nào cũng bị lộ tẩy. Hôm nay, là Chủ Nhật. Mãi gần 9 giờ, mới có cán bộ vào mở các buồng cho ra rửa. Đến lượt tôi, qua cách mở cửa, mở cùm, tôi đã biết là cán bộ lạ. Khi bưng bô ra khỏi cửa, tôi mới biết đó là tên Ba. Tay này rất lầm lì, ít nói. Y là Trung Sĩ, người Nghệ An, trước đây đã có thời gian trực o xa lim III. Lúc tôi mang bô vào, y đang ở trong buồng tôi. Y trừng mắt nhìn tôi, tay chỉ con chuột: - Chuột nào đây? - Thưa ông, nó chui vào buồng, nên tôi bắt nó! - Ở trong này, ai cho anh nuôi chuột? - Tôi thấy nó bé ti, nên buộc nó chơi cho đỡ buồn… Y gằn giọng quát: - Đập chết, vất ra ngoài! Thấy y nổi nóng, tôi mềm dẻo trình bày: - Thưa ông, tôi đã buộc, nuôi nó hơn nửa tháng nay rồi. Nó không làm ảnh hưởng gì đến xà lim cả ạ. - Không được! Anh có nghe lệnh của tôi không? Thấy tình hình căng, vì tiếc con chuột, dạo này đã quen tôi, nên tôi cố nằn nì: - Xin ông thông cảm, ngày mai tôi sẽ giết nó, ném vào nhà xí! Y quay lại tôi, xửng cổ: - Bỏ chân vào! Tôi ngồi ghệ vào sàn, rồi bỏ chân vào cùm. Y trở ra bên ngoài cửa, chốt cùm. Rồi y xồng xộc đi vào, lấy chân đạp mạnh vào con chuột. Tim tôi như thót lại. Con chuột rất lanh, nhảy tránh được. Y càng tức, co chân lên rồi đạp xuống lung tung nhiều lần. Vì bị vuớng sợi dây “oan nghiệp” mà tôi đã buộc vào chân nó, cuối cùng nó không tránh được. Nghe đánh ‘bẹt” một tiếng. Tôi nhìn con chuột ruột bị phòi ra; hai con mắt tí hon như hai hạt cườm đen trắng long lanh phọt hẳn ra ngoài, long thòng hai chân, hai tay nó run lên bần bật, rồi uể oải dần, cho tới khi ngừng hẳn. Một luồng hơi nóng chạy ngược từ dưới cổ tôi lên trên mắt. Tôi nhìn tên cán bộ! Tôi muốn y phải giống như con chuột. Nhưng, chợt nhìn thấy cái chân mình trong cùm, rồi lại nghĩ đến cái thế của mình lúc này, tôi thấy như có một gáo nước lạnh dội vào đầu. Tôi đành cụp mắt xuống! Trước khi qua ra, đóng, khóa cửa, y còn ngoái lại nhìn tôi bằng đôi mắt lừ đừ khiêu khích. Thân tôi thật hèn! Không bảo vệ được cho ngay…một con chuột. Cửa đã đóng lại, tôi nhìn xác con chuột bẹp dí, ruột gan lòi cả ra ngoài mà thấy như ruột gan mình cũng tìm dần lại. Cái chết của con chuột, làm tôi suy nghĩ và buồn đến mấy ngày; liên tưởng đến cuộc đời, gia đình, xã hội. Bao nhiêu vấn đề đang diễn tiến, đổi thay, thế mà thân mình vẫn cứ nằm dài một chỗ nhìn ngày tháng dần qua…Đã ba năm bốn tháng rồi, nhìn về ngày mai, chưa biết đến bao giờ! Cái khổ cực kinh khủng nhất là cái chân cứ lằng nhằng ở trong cùm. Ngay đến nằm, hay ngồi, cũng còn không được tự do nữa, nói chi được ra ngoài, đi lại. Ở miền Nam, bao nhiêu cuộc đảo chính, bao nhiêu biến thiên, vũng lên…đồi, đồi thành…vũng! Bạn bè, thân thuộc ai còn, ai mất, ai lên đồi, ai xuống vũng? Trong khi quân đội Mỹ kéo vào ùn ùn. Một nỗi ngổn ngang trăm mối trong đầu. Con chuột, “người bạn” mới, chết đi làm tôi rầu rĩ, nặng nề; rôi quên bẵng đi những nguyên tắc sống mà chình mình đã tự đề ra. Mấy ngày qua, lòng tôi cứ héo hắt, âu sầu. Tôi chợt nhớ đến một câu hát “Que sera sera! What ever will be …will be!”, phải rồi. Lúc này hãy buông trôi nó, có suy nghĩ mãi, cũng đâu giải quyết được gì! Tôi lại nhớ đến một ý thơ của Thâm Tâm, nhưng lộn xộn trong đầu: “Mẹ thà coi như giấc ngủ ngày, “Tình thà coi như…khói thuốc san, “Em thà coi như chiếc là bay, “Nước thà coi như…bát cơm đầy…”. Nhưng, tôi hiện giờ, cũng chỉ được hưởng giấc ngủ ngày: còn khói thuốc say và nhìn lá bay thì đâu có! Chứ bát cơm đầy, thì bao giờ mới được hưởng?... |
|
|
![]()
Post
#63
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu Mươi Mốt
Nằm… đếm mùa Thu qua… Trời đã lại chuyển sang Thu. Cứ mùa Thu rồi lại mùa Thu. Tôi cứ nằm đây để đếm mùa Thu qua, cho đến mùa Thu nào cũng?...Trên đài nheo nhéo là cho đến hôm nay, miền Bắc đã bắn rơi được…1261 máy bay Mỹ đủ loại; và đã bắt được nhiều phi công…Cứ mỗi trận đánh, hoặc trong một ngày, trên đài, trên báo chúng thường thông báo rõ ràng. Thậm chí, nhắc đi nhắc lại con số máy bay Mỹ các loại bị bắn rơi trên miền Bắc, cộng vào từng ngày nâng tổng số là bao nhiêu chiếc. Nhưng, riêng về phi công, thì chúng luôn luôn nói lấp lửng: Hôm nay bắt thêm 3 tên, hôm khác bắt thêm hai tên, hôm khác bắt thêm một số tên v.v…nhưng không hề tuyên bố, đã nâng tổng số là bao nhiêu phi công. Điều đó, chứng tỏ là ngay từ lúc này, Việt Cộng đã có ý đồ dùng vấn đề phi công để làm áp lực với Mỹ sau này. Ai cũng hiểu, Cộng Sản ra cái vẻ thông báo với thế giới từng trận đánh, và con số “1261 máy bay Mỹ bị hạ cho tới nay” là phóng đại. Tôi tưởng tượng một câu chuyện về số máy bay Mỹ bị hạ trên miền Bắc, rồi cười một mình: "Một hôm Mao Trạch Đông nhấc điện thoại đặc biệt hỏi chuyện Hồ Chí Minh: -A lô! Chú Hồ đấy hả? -Dạ, em đây. Anh cần dạy gì em? -Trên đài và báo chí, chú mày nói đã hạ được 1261 máy bay Mỹ. Chỗ anh em trong nhà, chú mày phải nói thực với ta: Đúng ra chú mày hạ được bao nhiêu cái? -Thưa, anh hỏi em phải nói thực, để cùng nhau rút ra những bài học kinh nghiệm. Thú thực, chỉ có 514 cái thôi anh ạ. Một tiếng “thình!”, Mao giận quá nên đập tay lên bàn: -Chú mày lại bịp cả ta nữa! Theo tin của cơ quan tình báo tại chỗ của ta thì, Bắc Việt từ khi có chiến tranh phá hoại của Mỹ tới nay, mới bắn rơi được 184 cái thôi! Đến ta với chú mày vừa là đồng chí, vừa là anh em mà chú mày còn bịp, thì trên cái cõi đời này, còn ai mà chú mày không bịp nữa?”. Sáng hôm sau, mùng 2 tháng 9. Mọi năm vào những ngày này, ôi, cứ là nhức cả đầu với tiếng loa. Nào là, thuyết minh cảnh diễn binh, biểu tình; nào là bài diễn văn trang giang đại hải…Nhưng năm nay, chúng đã im lìm làm lễ trước rồi, trong một xó xỉnh núi rừng nào đó. Bởi vì, hầu hết bọn đầu não Cộng Sản Hà Nội đâu còn ở Thủ Đô nữa; chỉ trừ những trường hợp cá biệt, một hay hai tên đi về tiếp xúc với các phái đoàn ngoại giao mà thôi! Chẳng hiểu hôm nay, máy bay Mỹ có vào “thăm” miền Bắc, hoặc Hà nội không đây? Có thể, người Mỹ lịch sự, hay có “giơ” chơi kiểu người lớn! Tôn trọng văn hóa các dân tộc, và nhân phẩm. Dù rằng có phải vì thế mà lính bị chết nhiều, hoặc thua Cộng Sản, thì cũng không thể chơi kiểu tiểu nhân như Cộng Sản được? Cho nên, bà con có thể cứ yên tâm đi cày cho khỏe vào, mà hưởng ngày “Cuốc Khéo:!... Mãi gần 9 giờ, cán bộ mới vào mở các buồng cho tù ra đổ bô. Đến lượt buồng tôi, vừa mới ra khỏi cửa, tôi thoáng thấy tên Dư hôm nay mặc quần áo đại lễ vàng ươm, ủi cứng ngắc. Hai miếng “hàm" Chuẩn úy đỏ loẹt, mới toanh gắn chéo vào hai bên ve áo. Mặt y tươi roi rói dưới cái mũ kê pi cũng màu vàng, có chiếc đai đỏ như máu. Tôi có cảm tưởng cả bộ quần áo, và cái mũ như bằng giấy, nhất là nhìn xuống đầu hai tay áo của y, một bên chỉ thấy chùm chìa khóa đang rung rung, lúc lắc; còn bên chỉ nhìn thấy có hai, ba đầu ngón tay giữa thò ra chừng một đốt, đang ngọ nguậy. Cả con người lão trông, có lúc y hệt như những hình nhân xếp đầy ở ngoài hè, trên phố hàng Mã thời trước 1954. Nhưng, có lúc như những người nhà “đòn” đội mũ, mặc đồng phục để khênh quan tài người chết. Vào buồng tắm, tôi vừa cọ bô vừa suy nghĩ. Đâu phải những tên cáo già Bộ Chính Trị miền Bắc không thấy như vậy! Nhưng, vì chúng đã hiểu, chính những cái “quê một cục” ấy là một yếu tố không thể thiếu, để tạo nên sức mạnh của chế độ đấy! Chúng thừa hiểu những bộ đồ “đờ luých” cắt may vừa vặn, những sự ngang bướng, lấy le, trở thành hình thức oai phong, nhưng trống rỗng tâm hồn hoặc chỉ bàn tán chửi đổng, cấp trên mà thôi! Cho nên, như con rắn, chỉ cần cái đầu thật khôn lanh, tinh quái, còn phần đuôi chỉ biết theo đầu, thì mới mạnh được. Lúc ôm bô trở ra, dù đã hiểu thế, nhưng khi thấy tên Dư (người thì bé nhỏ, mà y lại tỏ ra bộ điệu quan trọng nữa chứ, khi y di chuyển chỗ này đến chỗ kia, trông nó cứng ngắc như trong cái hộp, giống như con ốc “mượn hồn” đang đi trên bãi cát ở biển), tôi phải qua đi chỗ khác, để cho hai cái mép của mình được thoải mái kéo rộng ra hai bên. Khi ra lấy cơm, tôi lại thấy hai tên Chiến và Nhiễm cũng như hai con ốc “mượn hồn”, đang từ ngoài cổng xà lim đi vào. Tên Chiến lên Thiếu úy, tên Nhiễm cũng lên Chuẩn úy. Mặt tên nào cũng tươi roi rói. Tôi nhớ là mới năm 1963 vừa rồi, chúng đã được lên một lượt nữa. Phải chăng, hoàn cảnh đã dẫn đến thời chiến, những tên Bộ Chính Trị phải cần mua, phải cần “bơm” nhưng tên cán bộ cơ sở, hạ tầng trong mọi ngành nghề của toàn quốc? Tôi không được nhìn thấy cán bộ của các ngành khác, cho nên tôi chưa dám kết luận. Ngày hôm sau, mới sáng ra, tên Bằng đã gọi tôi đi cung sớm. Đã khá lâu rồi, phải tới 2, 3 tháng nay, không hề gọi tôi đi. Chả hiểu hôm nay lại có chuyện gì mới? Khi ra khỏi cổng xà lim, nhìn ra sân trại chung, tôi thấy đã khác lạ hẳn với trước dây. Từ mấy căn nhà cạnh xà lim II, ra tới cái chòi, có mắc bốn cái loa ở giữa sân, bây giờ đã đóng cột quây cót lại thành một khu riêng. Những lá cót đóng, che cao chừng 2m2. Nhưng, phía dưới chân để hở ra chừng 30 phân của cái tường cót, thấy rất nhiều những cái chân trắng, đầy lông lá. Đa số là đi chân không, chả có giày, dép đi. Tôi hiểu ngay là mấy buồng kia, cạnh xà lim II, là chỗ giam phi công Mỹ. Phải quây cót ra, chiếm một phần sân, để hàng ngày cho phi công Mỹ ra tắm rửa, ăn uống. Phải quây cót lại vì Cộng Sản không muốn tù Mỹ và tù Việt Nam nhìn thấy nhau. Tôi mải ngoái cổ nhìn những bàn chân to, nhưng gầy (thỉnh thoảng có những bàn chân đen ngòm, xen lẫn với những bàn chân còn quấn băng từng cục), mãi tới khi một tiếng quát làm tôi giật mình: -Không đi, nhìn cái gì? Tôi quay lại, tên Bằng đang lừ đừ nhìn tôi. Tôi tỏ vẻ trầm trồ, nói với y: -Bắt được nhiều phi công quá! Y lạnh lùng, chẳng trả lời tôi. Khi tôi ra tời chỗ phòng trực, cũng vừa lúc có hai tên cán bộ chấp pháp lạ, đang nhận lãnh hai anh phi công, một anh cao lênh khênh gầy nhỏng và một anh tầm thuớc có bộ râu quai nón chổi xể. Anh có bộ râu quai nón đưa mắt nhìn tôi hai lần; chẳng hiểu anh nghĩ gì? Chắc anh thấy một thân hình trắng xanh, ốm tong teo với đôi mắt trắng dã, nên anh nhìn chăng? Nghĩ thế, vì mấy lần trước đây, khi bị đi gọi cung, ra tới sân trại chung, tôi thấy một đám tù thanh niên rách rưới, tuổi khoảng trên, dưới 20, chỉ trỏ tôi với nhiều tiếng nói to: - Nguyễn Văn Trỗi, chúng mày ơi! Tôi cũng không hiểu tại sao đám tù đó nhìn tôi lại gọi là “Nguyễn Văn Trỗi”? Phải chăng chúng nhìn thấy tôi từ ở trong cổng xà lim ra, phía sau có một cán bộ áo vàng; và có thể tôi có một dáng dấp giông giống như tên Nguyễn Văn Trỗi “chó chết” chăng, nên chúng đã thì thầm gán ghép cho tôi? Phải nói, sự gán ghép này chẳng làm cho tôi vui gì. Nhất là tôi cũng chẳng nhìn thấy hình ảnh tên Trỗi ra làm sao? Khi ra tới sân trước, tức là sân có giàn nho, trên hành lang thang đi qua các phòng, tôi liếc vào cũng thấy một vài anh mũi lõ, mắt xanh đang ngồi ở chiếc ghế đẩu của bị can, giống như tôi vẫn ngồi. Như thế, điều này cho phép tôi hiểu, dạo này một số trong ngành chấp pháp của miền Bắc đã được học lớp cấp tốc Anh văn, hoặc những người đã giỏi Anh văn được huấn luyện để bổ sung cho ngành chấp pháp, nhằm tăng cường người hỏi và khai thác phi công Mỹ về tin tức, về những phương pháp, cũng như nghệ thuật không chiến và bắn phá, v.v… Kẻ hỏi cung tôi hôm nay là tên Đặng, người Huế. Kỳ này y lại đeo kính trắng nữa chứ. Một tên cán bộ lạ đang giở chồng hồ sơ dầy cộm trên bàn. Tôi chưa xác định được vấn đề gì, cho nên, theo thói quen như mọi khi, tôi ngồi yên cúi đầu và chờ đợi. Với giọng miền Trung giòn và cứng, tên Đặng bắt đầu lên tiếng: -Dạo này anh khỏe hỉ? -Thưa ông, tôi vẫn bình thường. Y nhìn tôi đăm đăm qua đôi mắt kính, rồi chậm rãi: - Hôm nay, chúng tôi nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ của anh. Đã hơn ba năm rồi, tư tưởng của anh không có gì chuyển biến, chỉ vì anh đã mang sẵn trong người giòng máu phản động. Chính vì vậy, anh chỉ thấy chủ nghĩa xã hội nghèo nàn, lạc hậu, người dân phải đẩy xe bò, không có tự do đi lại, v.v…Anh làm sao nhìn thấy sức mạnh đang vuơn lên như Phù Đổng của toàn dân, một sức mạnh mà Mỹ, một tên hiếu chiến siêu cường hùng mạnh nhất thế giới, cũng đang phải điên đầu, ngang ngửa. Rồi đây, thời gian sẽ gột rửa giòng máu phản động trong con người của anh. Vậy, anh hãy nghe tôi đọc. Những đoạn nào trước đây anh đã khai báo nhưng chưa ký, bây giờ yêu cầu anh ký vào. Cúi đầu, ngồi yên nghe y nói, tôi nhớ lại một buổi gần 3 năm về trước, hai tên Nhuận và Thành đã vui vẻ hỏi tôi nhận định về xã hội chủ nghĩa: Điều gì đồng ý? Điều gì tôi không đồng ý? Tôi nhìn toàn bộ. Ngay từ cái gốc, Cộng Sản chỉ là một chủ nghĩa bịp bợm người ngây thơ, người lười suy nghĩ, để rồi cuối cùng khi mình bị chúng trói được rồi, chúng mới lột mặt nạ ra cho xem bộ mặt thật. Chúng chỉ là một lũ quỷ mắt đỏ, mồm xanh, răng nanh dài thượt, nhọn hoắt, chuyên ăn thịt người. Lúc đó, mình có muốn chống lại, đã muộn rồi! Trong cái thế của tôi lúc đó, khi hai tên Thành và Nhuận hỏi, tôi vẫn không có ý kiến, hoặc nói ngược hẳn lại ý nghĩ, rằng tôi thích xã hội chủ nghĩa lắm. Mãi tới khi tên Nhuận cam đoan những lời nhận định, góp ý xây dựng của tôi sẽ không ảnh hưởng gì đến tôi cả, thì vô lý, không biện chứng; nên đành chỉ nói điều mà ai cũng trông thấy. Đó là cảnh người kéo xe bò, v.v… thấy họ cực khổ quá, nhưng tin chắc rằng ít năm sau sẽ khá hơn… Tôi cố ý nói như vậy để chúng mới tin là “tôi thích Cộng Sản” và cũng có một vài điểm tôi thấy chưa tốt. Tôi còn lạ gì lời dụ dỗ, hứa, hay cam đoan của Cộng Sản! Chỉ có thế. Bây giờ, sau hơn 3 năm rồi, chúng lại đem cái đó ra để sỉ vả tôi. Càng thêm một bài học cho tôi! Chúng chỉ đọc sơ lại, rồi đưa tôi ký. Nhiều chỗ, chúng chẳng đọc cứ đưa tôi ký. Tôi cũng chẳng ngán gì. Dù bảo tôi ký vào bản án tử hình bây giờ, tôi cũng ký. Hơn nữa, tôi cũng tự hiểu, khi đã ở trong tay chúng rồi, những chuyện này cũng chỉ là hình thức. Nếu chúng định giết, định bắn, thì có lý bằng trời chúng cũng bắn, cũng giết. Vậy, ít ra phải hiểu nhau một tí chứ! Chính tôi đã nói thẳng với tên Đặng là khỏi cần phải đọc lại, mất công, cứ xem chỗ nào cần tôi ký, cứ đưa đây! Cả hai tên đều nhìn tôi bằng ánh mắt dịu mềm. Vậy mà cũng tới trưa, tôi mới được chúng cho về. Trên đường theo lão Bằng về xà lim, khi qua sân giàn nho, lão Bằng gặp một tên cán bộ, nên y ra hiệu tay bảo tôi chờ, để ý nói chuyện với tên cán bộ đó. Mấy tháng nay, mới lại nhìn thấy màu trời. Trời mùa Thu thăm thẳm trong xanh. Một vài áng mây trắng lưa thưa đây đó, như những bông cúc, bông huệ trắng dính vào miếng vải xanh cánh chả. Mũi tôi đang tưởng tượng mùi huệ, mùi cúc, chợt mắt tôi nhìn thấy mấy đốm trắng bé tí ti, sáng chói như những con cò trắng bay rất cao.Đến khi tôi chợt nhận ra, đó là những chiếc máy bay, cũng là lúc còi báo động hồng hộc rú lên như con bò mộng bị thọc tiết, nấc lên từng đợt ùng ục. Rồi súng và bom nổ rầm trời… Hôm nay, tôi mới trông thấy máy bay Mỹ nhào xuống như điện chớp; và những đường đạn phía dưới bắn lên khắp đó đây như những đường chỉ trắng, ngắt từng quãng đều nhau chọc thẳng lên bầu trời xanh, trông như những tua khói trắng của chiếc pháo bông, sau khi nổ trong đêm hội hoa đăng. Tôi mải mê ngửa cổ nhìn lên trời, bỗng tôi thót người vì tiếng quát giật giọng: -Chui vào đây! Muốn chết à!? Tôi nhìn về phía tiếng quát. Mãi trong một lỗ hầm tối om, ở một góc sân, một bàn tay áo vàng đang thò ra vời tôi rối rít. Tôi chạy tới gần cửa hầm, nhìn vào bên trong, thì ra tên Bằng cùng với 4, 5 tên áo vàng nữa, tôi chả biết ai với ai. Tên Bằng đang trợn trừng nhìn tôi. Tôi vừa cúi đầu chui vào, y đã cầm tay tôi lôi tụt vào trong, làm tôi ngã chúi đầu vào y. -Ai cho phép anh đứng đấy nhìn máy bay? Tôi nghĩ bụng: “Tôi cho phép tôi đứng chứ ai!” nhưng tôi chỉ nhỏ nhẽ trả lời: -Thưa ông, tôi tưởng không được vào hầm với các ông!? Y chẳng biết phải nói gì với tôi thế nào, cuối cùng, chỉ buông thõng: - Vớ vẫn! Ngồi trong hầm nhìn ra, tôi chỉ thấy một luống hoa hướng dương đã gần tàn, che lấp cửa hầm. Bên ngoài, bom cứ rơi, đạn cứ nổ. Có vào trong hầm, nghe những tên cán bộ thì thầm nói chuyện, tôi mới biết là đa số cán bộ Hỏa Lò phải chạy chui vào trong hầm, là vì chúng sợ máy bay Mỹ thì ít, mà sợ mảnh đạn phòng không rơi vào đầu thì nhiều. Qua câu chuyện của chúng, Hà Nội đã có nhiều người bị thuơng, thậm chí có người chết vì…mảnh đạn của đại pháo và trung pháo phòng không. Hơn một tiếng đồng hồ sau, còi mới báo an. Tên Bằng giục tôi về xà lim ngay. Khi về qua sân trại chung, tôi thấysân vắng tanh. Như vậy, mỗi khi có còi báo động, tất cả tù phải vào trong buồng. |
|
|
![]()
Post
#64
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu Mươi Hai
Thăm tù… người lạ mặt là ai?... Sau buổi đi cung chừng hơn tuần lễ, một buổi chiều, tôi đang nằm nhắm mắt dưỡng sinh, chợt có tiếng khóa xọc xạch, rồi cửa mở. Tôi vội vàng ngồi dậy, nhìn ra: tên Dư. Tôi đang lạ là cơm nước đã ăn, bát trả rồi; lúc này lại sắp hết giờ làm việc; vậy còn cung kẹo gì nữa, y vào buồng tôi làm gì?...Với một giọng nhè nhẹ và dịu dàng, tên Dư nói: -Được lệnh Ban Giám Thị, tôi tha cùm cho anh! Mắt tôi mở to! Mồm tôi há hốc! Tôi tưởng mình nghe lầm. Tôi đờ đẫn cả người, chỉ dạ lên một tiếng; mặc dù trong lòng muốn hỏi lại là, cán bộ nói gì. Tên Dư trở ra ngoài, rút chốt cùm đánh xoạch một cái. Tôi vẫn còn chưa hết bàng hoàng, chậm chạp nhấc cùm, rồi nhấc chân ra. Tôi vừa đặt cùm xuống, y thò cổ vào ngó, rồi y đút chốt cùm lại. Cửa đã cài khóa rồi, tôi còn ngồi ngơ ngác ngẩn ngơ, như vẫn chưa tin. Hai tay tự nhiên cứ vuốt ve, xoa nắn cái chân vừa lấy từ cùm ra. Đã hơn ba năm nay, chiếc cùm cứ ám ảnh đời tù của tôi như một oan nghiệt! Nhiều lần, tôi tưởng đã phải về lòng đất mẹ cũng vì nó. Đến nỗi, năm ngoái, đã có lần tôi định lên gặp chấp pháp tự nguyện, tự nhận mình là kẻ có tội với nhân dân, với đảng, đáng phải chặt một bàn chân để đền tội và để khỏi cùm nữa. Bởi vì, lúc đó, tôi quá khổ đau, phẫn uất, suốt tháng này qua tháng khác, cái chân cứ lằng nhằng trong cùm đêm cũng như ngày. Thà chịu chặt một bàn chân còn sướng hơn! Còn chân, hay mất chân, tấm thân này cũng vẫn ở trong tù. Chặt chân, chỉ bị đau vài tháng, nhưng sau đó, sẽ không còn cái cảnh đái, nằm, ngồi, ngủ, thức với biết bao nhiêu khổ cực, bực dọc vì cái chân cứ dính chặt vào cùm. Thế mà bây giờ, lại được tha! Vậy là từ nay tôi đã được tự do rồi! Sẽ tha hồ, muốn ngồi thì ngồi, muốn đứng thì đứng. muốn đi thì đi. Tha hồ tập thể dục! Ôi, tự do! Sao mà mi quý giá vô ngần! Ta nguyện tôn thờ mi trọn cuộc đời ta! Nhìn lại gia tài mình, tôi chẳng có cái gì để ăn mừng cả, thật đáng tiếc! lòng tôi lúc này cảm thấy nhẹ nhàng, lâng lâng phơi phới. Bây giờ, hàng ngày, tôi có thể làm được nhiều việc trong buồng, chứ không còn đon điệu chỉ có nằm và ngồi như mọi khi nữa. Sáng sớm, ngoài những động tác tập thể dục như mọi lần, tôi lại chạy tại chỗ 100 bước, thở hít nhiều hơn. Nắm chán, tôi lại bò dậy đi bách bộ, cứ 8 bước vừa đúng một vòng cái khung nền hình chữ nhật giữa hai sàn xi măng. Hai cạnh dài, mỗi cạnh 3 bước; hai cạnh ngắn, mỗi cạnh 1 bước. Tôi đi bách bộ nửa tiếng, lại nằm nửa tiếng, rồi ngồi nửa tiếng; cứ luân phiên như vậy, cho tới 9 giờ tôi thì đi ngủ. Sáng 6 giờ dậy. (Dĩ nhiên, thời khắc tôi chỉ ước chừng gắn liền với tiếng đài và giờ giấc làm nghỉ của cán bộ). Cứ như vậy, ngày nào cũng như ngày nào, từ sáng đến trưa, từ trưa tới chiều, từ chiều tới tối… Lúc này, vì mới được tha cùm, nên có vẻ ngoan ngoãn lắm, chưa hề dám tính đến việc tò mò liên lạc, nói chuyện với các buồng khác. Nhưng, vào lúc 8 giờ tối hôm qua, khi tôi nghe thoáng tiếng động ở cánh cổng xà lim, rồi có tiếng giày cồm cộp từ ngoài cổng xà lim, rồi có tiếng giày, còn có cả tiếng xền xệt của đôi dép râu nữa; tôi ngạc nhiên vểnh tai lên nghe ngóng. Ngay khi tôi còn ở Hà Nội, rồi đến những ngày cung kẹo ra vào, lên xuống trong Hỏa Lò hàng mấy năm, tôi cũng chưa hề thấy ai đi giầy, nện xuống gạch cồm cộp như vậy cả. Tôi phân vân, rồi phán đoán hay là người ngoại quốc. Vì vậy, tôi càng cố gắng nghe xem tiếng nói chuyện; nhưng vẫn còn im phăng phắc. Cuối cùng, tiếng giày cộp kệt như đập vào tai mọi người đang đi dần vào buồng số 4. Tôi hơi hồi hộp, buồng số 4 ngay cạnh buồng tôi. Một lúc, rồi cửa đóng, khóa. Không còn một tiếng động. Mãi sau đó, tôi nghe tiếng kéo bô đi giải, rồi không còn nghe gì nữa…Chán rồi tôi cũng ngủ. Ngày mai, trước sau, thế nào chả biết, nhất là bây giờ tôi lại không bị cùm, dễ có điều kiện tìm hiểu hơn. Sáng hôm sau, đến giờ đi đổ bô, tôi lắng nghe khi mở buống số 4 xem thế nào: Có tiếng chân ra vào nhà tắm, nhưng không còn nghe tiếng cộp cộp của đôi giày độc đáo nữa. Rồi sau đó, khi buống số 4 đi cung, tôi cũng không còn nghe thấy tiếng giày nữa. Như vậy, số 4 phải là người Việt! Mà người Việt gì lại đi giày hách thế? Chắc rằng số 4 cũng thấy là tiếng giày của mình lạc lõng, lẻ loi, không thể yên tâm đi được ở đây; vì thế, đã phải bỏ ra để đi chân đất. Chỉ ba ngày sau, tôi nghe thấy tiếng số 4 khi báo cáo xin thuốc đau bụng đi ngoài. Nghe qua tiếng nói, trọ trẹ như giọng Quảng Bình nhưng đã pha nhiều tiếng Bắc, tôi đoán số 4 sấp sỉ chỉ bằng tuổi tôi, nghĩa là khoảng 26, 27 . Điều đó, càng gây cho tôi tò mò, nhất là tiếng giầy đặc biệt. Những ngày tới, tôi sẽ phải tìm được câu trả lời! Sáng hôm sau, sau khi cơm nước xong, tôi đang chuẩn bị đánh một giấc ngủ ngày, bỗng từ ngoài sân có tiếng ồn ào của một đoàn người đi vào xà lim. Tôi nghĩ, lại có phái đoàn nào đó vào tham quan hai cái buồng của Hoàng Văn Thụ và Trần Đăng Ninh? Nhưng, như mọi khi, phái đoàn tham quan thường đi vào Chủ Nhật; vậy nếu không phải, thì đây là đoàn gì? Tôi bước gần ra phía cánh cửa. Áp sát tai vào chiếc cửa sổ nhỏ lắng nghe. Có tiếng mở buồng số 2; rồi lại buồng số 13. Tôi đoán không sai mà! Tôi đang chờ như mọi khi, sẽ lại có tiếng thuyết trình của một tên cán bộ tuyên huấn nào đó về tội ác của thực dân Pháp, đã giam hãm những người cách mạng, v.v… và v.v… Nhưng, cho tới khi cửa của hai buồng đó đóng lại, cũng không nghe thấy một tiếng nói? Thật là lạ, khác thường không giống mọi lần! Tôi đang băn khoăn chưa hiểu đây là loại phái đoàn gì, tai vẫn áp vào cửa sổ nhỏ nghe ngóng; bất chợt, tôi giật thót người lại vì: “Xoạch!”, cửa sổ nhỏ của tôi mở ra. Tôi chỉ kịp lùi vào phía trong, ngơ ngác. Thoáng nhìn ra thấy lố nhố nhiều người, cả màu vàng đồng phục, lẫn thường phục. Cửa lớn buồng tôi mở ra. Tôi càng ngỡ ngàng, và phản ứng tự nhiên là lùi lại sát tường phía đầu sàn. Thật là quá đột ngột, tôi không nghĩ là phái đoàn lại mở cửa buồng các tù nhân, nhất là lại chính buồng tôi; nên phải nói, tôi mất hẳn tự nhiên lúc đầu. Đi đầu là một người mặc chiếc áo ka ki xám 4 túi, tóc đã điểm sương, chừng 50 tuổi. Hai hàng lông mày dầy, tua tủa lông đen như hai con sâu róm lớn đậu phía trên hai con mắt, làm cho đôi con ngươi màu tro của lão như thụt sâu vào, đẩy hai bên gò má gồ ra, càng làm cho nét mặt lão tựa như con khỉ đột, vữa dữ tợn, vừa nghiêm trang. Phía sau lão là hai tên Phó giám thị Thượng úy Trì và Lê, cùng lúc nhúc 5, 6 tên nữa phía bên ngoài. Hai tên Trì và Lê đeo đầy đủ quân hàm, thái độ tỏ ra sợ sệt, lễ phép với tên mặc ka ki xám. Tên mặc áo thường phục này nhìn tôi một cách soi mói. Mắt y đột nhiên dịu xuống. Môi y rung rung, rồi nhếch ra cười nửa miệng: -Anh có khỏe không? Chẳng biết y là ai, nhưng thấy thái độ của tên Trì và Lê như vậy, nên tôi cũng phải tỏ ra ngoan ngoãn: -Cám ơn ông, tôi khỏe! Y quay lại nhìn hai tên Trì, Lê; rồi y cười thành tiếng, vừa gật gật đầu, vừa nói: - Anh uống thuốc liều, một mình dám mò về Hà Nội! Mặt y tươi hẳn lên, nhìn tôi. Tôi cũng nhìn y, định cười; nhưng môi tôi mím chặt, không trả lời y; trong khi đó, hai tên Trì và Lê, mỗi tên đều tay nọ để lên mu bàn tay kia, úp vào phía dưới bụng mặt vẫn nghiêm trang lạnh lùng. Tên mặc áo ka ki xám đưa mắt nhìn suốt người tôi, rồi lại cười, y vừa quay ra, vừa nói: -Thôi, chào anh! Tên Dư đã đóng cửa. Đoàn người đã ra tới sân. Những tiếng xôn xao bàn tán nhỏ dần ra phía cổng xà lim. Tôi vẫn đứng yên trong buồng, với tư thế lúc nói chuyện với tên lạ mặt. Đầu óc tôi vẫn còn ngỡ ngàng chả biết y là ai? Y vào hỏi tôi mấy câu như vậy để làm gì? Có ảnh hưởng gì đến những ngày tới của tôi không? Qua hiện tượng nhìn thấy khi nãy, y phải là một nhân vật có quyền hạn nhất định nào đó của ngành công an, mới khiến cho hai tên Trì và Lê không dám có một tiếng nói, dù là tên đó cười đùa nói với tôi mấy lần. Hai hôm sau, là ngày tắm rửa. Chiều hôm đó, sau khi trả bát xong đã 4 giờ, tôi chờ tên Dư mở cửa cho ra lấy quần áo phơi ngoài dây. Với những tên cán bộ khác, ngày tắm rửa, bữa cơm chiều, khi trả bát xong, các buồng đều phải báo cáo để ra lấy quần áo phơi ngoài sân. Khi ra, nếu quần áo còn ướt, thì để lại mai xin lấy. Chứ thường là đã trả bát (bữa chiều) rồi, chúng không mở cửa nữa. Nhưng, đối với tên Dư, có hơi khác… Về cuối Thu, nhiều khi trời không còn cái nắng chói chang của mùa Hè; và có những ngày nhiều mây, gió nồm Nam, không có ánh nắng, nên quần áo, cái nào dầy, chả khô được. Vì vậy, tên Dư để cho mãi gần 5 giờ, đó là giờ tan tầm, trước khi bàn giao cho “ca” khác, y mời đi mở cửa cho từng buồng ra lấy quần áo. Nhờ vậy, quần áo thường được khô, đỡ hôi hám; nhất là đối với những buồng không có thân nhân tiếp tế, làm gì có xà bông. (Một việc nhỏ đã nói lên con người của y). Tôi đang hai tay chắp sau lưng, lững thững nhà du đi bách bộ trong cái khung nền xà lim, giữa hai sàn, đầu óc đang chơi vơi, chẳng chuyên chú suy nghĩ một cái gì, tựu nhiên cửa lớn buồng tôi mở. Tên Dư nói vừa đủ để tôi nghe: -Cho anh ra sân chơi một lúc! Ô! Sao lạ vậy!?...Đến nỗi tôi không tin vào cái tai của mình nữa. TôI ở xà lim đã gần 4 năm rời. Chưa từng bao giờ thấy có cán bộ nào lại mở cho một buồng nào ra sân…chơi! Vì vậy, tôi phải mất mấy giây ngỡ ngàng, rồi vội vàng chạy ra sân. Tên Dư vào bàn ngồi, lúi húi viết. Thấy ánh nắng vẫn còn một phần ba sân, tôi cởi rất nhanh áo, rồi đứng ra ánh nắng, ưỡn ngực cho ánh nắng mặt trời chiếu thằng vào người. Tôi vừa háo hức, hân hoan vặn vẹo người đàng trước, đàng sau, cạnh phải, cạnh trái cho những tia nắng chui rúc vào toàn cơ thể; tôi xắn cả quần lên, cho đôi chân cũng được hưởng cái món ăn tuyệt vời, từ gần 4 năm nay, không có! Đã gần 4 năm nay, tôi hầu như chỉ ở trong ánh sáng lờ mờ của căn buồng, cho nên nỗi hưng phấn của tôi đã tràn ra ngoài. Tôi chưa thiết nhìn cảnh vật chung quanh, mặc dù tôi hiểu trời Thu tuyệt vời. Nhưng, hãy chờ đấy! Hãy cho cơ thể tôi đói khát ánh nắng lâu ngày, bây giờ, được ăn, được hưởng một bữa tràn trề đã! Gần 20 phút, lúc này, tôi mới kịp suy nghĩ. Tại sao tên Dư lại cho tôi cái đặc ân này? Và, tại sao y biết tôi thích ánh nắng đến cái độ say sưa thế này mà y cho?...Phải rồi, trước đây có mấy lần, khi ấy tôi vẫn còn bị cùm, y đã bắt gặp tôi ngồi trong buồng, giơ từng cánh tay nghểng đầu, ngửa cổ để đón nhận một chùm ánh sáng chỉ bằng quả cam nhỏ. Có thể vì vậy, y đã nảy ra ý định ban hạnh phúc cho một người, mà y không mất mát gì cả, chỉ mất chút công mở cửa thôi, chăng? Dù sao, tôi vẫn vô cùng biết ơn y. Không hiểu y có biết rằng, nhiều khi chỉ nhờ cơ thể một người được bồi dưỡng lúc này, lại là điều kiện để thoát khỏi những bệnh hoạn trầm kha về sau? Để khỏi mất cái đặc ân này, nhất là hôm nay là lần đầu tiên y cho ra, có thể y phải theo dõi, nếu không có gì rắc rối, phiền hà, y mới cho ra tiếp sau này. Vì nghĩ như vậy, cho nên khi tôi thấy buồng số 14 và buồng số 10 thò đầu lên cười với tôi, rồi thụt xuống; tôi vẫn giữ vẻ nghiêm trang lạnh lùng. Bỗng, tôi nhìn thấy trên dây phơi, ở khoảng giữa, có một cái áo “pa đờ suy” và hai cái “sơ mi” trắng còn mới tinh, tay áo có “măng sét” cẩn thận. Dù nhìn từ xa, tôi cũng hiểu đó là áo “sơ mi” của nước ngoài, chứ ở miền Bắc, không ai có quần áo đó. Tôi nhìn thoáng cái dấu hiệu ở cổ áo, nhưng vì xa quá tôi không thể đọc được. Trí tò mò của tôi bị khích thích. Nét mặt vẫn bình thản, không tỏ vẻ gì khác lạ, tôi liếc nhìn về phía bàn Dư, y đang cúi viết. Tôi vờ đi bách bộ vòng quanh sân. Khi tới chỗ hai cái áo “sơ mi”, dù trước đây lúc còn ở Sài Gòn tôi cũng là tay ăn diện (ăn diện theo lối thanh niên học sinh), tôi phải thừa nhận hai cái áo “sơ mi” này thật tuyệt hảo với những đường cắt may điêu luyện, vải Popeline trắng chói mắt, dấu hiệu may cắt tại Paris. Hai cái khuy “măng sét” bằng hai hạt xoàn giả trông như thật. Phải nói ngay ở Sài Gòn, hai chiếc “sơ mi” này cũng thuộc loại sang rồi, huống chi là ở miền Bắc, lại ở trong Hỏa Lò. Nó là vật không thể lẫn lộn, nó độc đáo, như chọc vào mắt hiếu kỳ của mọi người. Tôi còn phải ngây ngất nhìn, thì mắt những tên cán bộ chắc phải “ngứa”, rồi “nhức” lên chớ không chơi đâu. Ai là người có những loại quần áo này? Có đem trộn lộn cũng không chệch vào đâu được nữa. Quần áo này phải đi đôi với tiếng giày cồm cộp hôm nọ, nghĩa là của buồng số 4. Vậy là, bao nhiêu câu hỏi lại hiện lên trong có tôi, càng gợi thêm tò mò về buồng số 4: Là loại người nào? Tại sao lại phải vào xà lim?... Nhiều điều dồn dập cuốn hút lòng tôi, nên tôi quên cả cảnh vật chiều Thu, mà bao nhiêu lâu mới có dịp để ngắm nhìn. Phải nói, hôm nay vừa được “cải thiện” mắt, mà tấm thân cũng được bồi dưỡng những món ăn tuyệt vời. Tôi đang ngẩn ngơ ngụp lặn, bơi lội trong biển nắng, tên Dư ở bàn đã đứng dậy ra mép hè nhìn tôi, tay lúc lắc chùm chìa khóa: -Lấy quần áo vào đi! Tôi ngoan ngoãn, lẹ làng vơ quần áo trại của tôi, rồi đi vào buồng. Khi đi ngang qua y, tôi nhìn y bằng con mắt dìu dịu, tình cảm: -Xin cảm ơn ông! Ánh mắt y nhìn tôi cũng thiện cảm, nhưng không nói một lời. Tôi định gợi chuyện rồi hỏi y về người hôm trước vào buồng tôi là ai; nhưng, ý nghĩ cứ sắp sửa phát ra thành lời lại bị đè vào, vì tôi thấy thời cơ chưa thuận tiện cho những câu hỏi như vậy… |
|
|
![]()
Post
#65
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu Mươi Ba
Người nữ… gián điệp của Sài Gòn!... Buổi trưa hôm nay, gió bỗng nổi nhiều hơn, trời đã lành lạnh, xà lim mới cho mượn chăn, Vì thế sau khi ăn cơm sáng, buổi trưa tôi đã nằm đắp chăn cho ấm, rồi lim dim đi vào giấc ngủ ngày lúc nào cũng không hay. Một lúc, tôi chợt giật mình tỉnh dậy, vẫn nằm im trong chăn, tôi lắng nghe: Ngoài tiếng gió rung những lá bàng ở ngoài sân, tôi đinh ninh không lầm là có nghe thấy, không những bằng tai mà còn bằng cảm giác, một tiếng động lịch kịch phía sàn bên kia…tường. Nghĩa là bên buồng số 6. Chỗ sàn tôi nằm ở sát buồng số 6. Lạ, số 6 từ nửa tháng nay không có người mà!... Nói chung, xà lim dạo này tương đối vắng, có tới 3, 4 buồng không có người. Chính vì thế, khi nghe thấy tiếng động vào sàn, tôi ngạc nhiên. Nhưng vẫn nằm yên lặng, tôi cố vểnh tai chờ nghe có tiếng động nào khác không? “ Chả lẽ trong khi tôi đánh một giấc ngủ trưa, có người vào buồng số 6 mà tôi không biết? Tại sao mãi không vào, lại…đợi đến khi tôi ngủ mới vào?”, tôi tự nhủ. Rồi lại nghĩ cũng có thể vì mới thức giấc, thần kinh còn đang chơi vơi nên tưởng lầm như vậy chăng? Cục kịch! Lần này thì rõ ràng rồi! Rõ ràng tiếng động của ai đó nằm bên kia tường giở mình. Phải rồi, một người bạn, một đồng loại, một sinh vật cũng nằm song song với mình, chỉ cách một bức tường dày 20 phân. (Tường ngăn giữa hai buồng dày 20 phân; còn tường trước và sau dày 50 phân). Để tìm một nguồn an ủi, trong cái vắng lặng heo hút, lẻ loi; tôi rút tay ra khỏi chăn, gõ nhè nhẹ vào tường hai cái: Cạch! Cạch! Im ắng như tờ. Vẫn chỉ có tiếng gió lướt thướt rì rào chui luồn qua mái ngói. Tôi lại gõ thêm hai tiếng nữa như chào, như gọi người bạn mới, nằm cạnh nhau… Cũng vẫn không có một âm thanh nào đáp lại! Tôi suy nghĩ: Có lẽ, người bạn mới bị bắt vào, tâm hồn còn đang giao động, hoang mang; cho nên ai gõ, mặc ai, lòng đang đảo lộn đất trời, cuộc đời tan tác, vào tù rồi, còn thiết cái quái gì nữa! Tôi thông cảm với người bạn mới, tâm trạng nghiêng ngả ngược xuôi khi cuộc đời rơi xuống hố, cho nên, tôi lại gõ nữa, như lời thăm hỏi an ủi của một người. Tôi vểnh tai lên nghe ngóng một lúc. Vẫn yên lặng như không có người. Tôi băn khoăn, thấp thỏm, chả lẽ tôi mơ? Hay, buồng bên ấy có…ma!...Nghĩ như vậy thôi, chứ ngay ban ngày, ban mặt… Tôi thấy mỏi người, liền xoay lại thế nằm quay sang phía khác, không hướng mặt vào tường nữa. Một lúc sau, hai mắt lim dim thả hồn lơ mơ vào giấc tỉnh say. Thình lình, một âm thanh vang lên như tiếng xiết, trượt mạnh vào tường của một vật gì bằng gỗ? Không nằm mơ! Tôi xoay hẳn thế nằm lại, và giơ tay gõ nhè nhẹ vào tường “cạch, cạch!”. Bây giờ thì có hai tiếng gõ đáp lại, rất nhẹ, và thưa. Chính lúc này, tôi cũng không hiểu tại sao, chỉ nghe hai tiếng gõ mà lòng mình thấy vui hẳn lên. Với tay lấy cái lược sừng ở đầu sàn, tôi khua canh cách rốt rít vào tường như reo vui, như vỗ tay chào đón người bạn mới. Bên kia im lặng. Chừng nửa tiếng sau, tôi lại khe khẽ gõ hai tiếng nữa. Cũng có hai tiếng đáp lại, như hiểu ý định tôi nói gì. Tới bữa cơm chiều. Sau khi lấy cơm vào rồi, tôi cố chờ không ăn vội, lắng nghe. Khi cán bộ mở buồng số 6, lấy cơm xong, cửa đóng; tôi nghe rõ tiếng bát đặt lên cái cùm như tôi bên này. Tôi liền gõ tường liên tục 5, 6 tiếng nhẹ, như ý mời anh bạn xơi cơm. Anh cũng ríu rít gõ đáp lại. Chỉ là những tiếng động thay lời, mà tôi thấy lòng mình hân hoan, ấm áp hẳn lên. Khi ăn xong, tôi cũng gõ, và cũng có tiếng vồn vã trả lời. Rồi trả bát, vào buồng, lại đi nằm. Cứ thỉnh thoảng, tôi lại nhè nhẹ gõ hai tiếng vào tường như muốn hỏi anh bạn buồng bên đã ngủ chưa? Hay có buồn không?...Anh cũng luôn sốt sắng gõ đáp trả lời tôi. Dần dần rồi tôi đi vào giấc ngủ đêm thâu. Ngủ được một giấc khá dài, tôi chợt choàng thức dậy. Đêm đã khuya, nhớ đến anh bạn nằm sát bên cạnh, tôi lại “cành cạch” hai tiếng thật nhẹ, để nếu đã ngủ, anh bạn cũng không vì thế mà mất giấc. Vẫn thấy hai tiếng trả lời. Rồi, tôi lại thiếp đi; được một chốc, lại tỉnh. Lại gõ, vẫn có tiếng trả lời. Tôi ngạc nhiên. Như vậy là anh bạn bên ấy không ngủ ư? Suốt đêm, cứ lúc nào chợt tỉnh, tôi gõ, cũng đều thấy tiếng gõ trả lời!?...Gần về sáng, tôi thấy thương người bạn cả đêm sầu héo không ngủ được, nên tôi lấy cái lược gõ liên tục 7, 8 cái liền. Vừa như trách anh sao không ngủ, vừa như an ủi đừng buồn nữa. Anh bạn cũng đáp ứng vồn vã như hiểu ý tôi. Chính vì chẳng nói thành lời, nhất là trong cảnh heo hút, vắng lặng thế này, lòng tôi càng bị lôi cuốn. Ngày hôm sau, tôi muốn chờ nghe tiếng nói của anh bạn với cán bộ để có chút ý niệm về anh. Nhưng, đến buồng anh, lúc đổ bô, cũng như khi lấy cơm, trả bát, tôi không hề nghe thấy một âm thanh gì khác, ngoài tiếng những bước chân xèn xẹt đi qua lại trước buồng tôi. Vì lòng háo hức, muốn biết về người bạn nằm cạnh buồng, nên chiều hôm đó, đợi khi mở buồng số 6 ra lấy cơm, tôi ghé đầu sát đất, để nhìn qua khe hở, rộng chừng độ nửa phân, giữa mép dưới cánh cửa và nền nhà. Hai đôi bàn chân mờ mờ bước qua trước cửa buồng tôi, một đôi bàn chân dép râu đen đen của tên cán bộ Dư; còn đôi bành chân kia: Đi dép Thái Lan, quai đỏ. Đôi bàn chân rất trắng và nhỏ…như của phụ nữ làm tôi giật mình. Phải chăng người nằm phía bên kia, chỉ cách nhau một bức tường dày 20 phân, vẫn đêm ngày gõ chuyện trò với tôi là một người…phụ nữ?... Vẫn như trước, tôi gõ mời xơi cơm. Ăn xong, lại gõ như chào đã ăn cơm cong. Bây giờ, bất cứ lúc nào tôi gõ là bên ấy lại gõ trả lời ngay. Đêm hôm ấy, vào lúc nửa khuya, tôi chợt giật mình thức dậy, và tai nghe tiếng nức nở, nỉ non văng vẳng, lẫn vào tiếng gió rít của đêm thâu, nghe thật não nùng. Tiếng khóc, rõ ràng là âm thanh của một người nữ. Thổn thức, nấc lên từng cơn nghẹn ngào như cầu cứu, như van xin sự giúp đỡ của cuộc đời! Tôi ngồi bật dậy, xác định hướng của tiếng khóc. Đúng là bên buồng số 6. Tôi vội vàng gõ mạnh mấy cái vào tường như hỏi tại sao lại khóc? Hãy nín đi thôi! Không có tiếng trả lời và tiếng khóc cũng ngừng bặt. Để động viên và an ủi, tôi gõ dồn dập thêm mấy cái. Có tiếng gõ trả lời, và đặc biệt là không còn khóc nữa, như hiểu ý. Tôi suy nghĩ một cách chủ quan rằng, có thể trong khi tôi ngủ, người bạn tù nữ ở buồng bên đã gõ gọi, mà tôi không biết; rồi người bạn tù tự dưng cảm thấy tủi thân, giữa đêm khuya vắng lặng không ngủ được, nghĩ đến thân gái sa chân vào chốn ngục tù. Chung quanh im lìm, heo hút như nghĩa địa tha ma, chỉ thấy bốn bức tường lạnh lẽo và hai cái cùm to đen xì nằm im ỉm. Một nỗi cô đơn dâng lên, chỉ còn biết khóc. Chợt một ý nghĩ đến với tôi: Người nữ này tội gì? Chính trị hay hình sự? Ở Hỏa Lò đã gần 4 năm, tôi chưa thấy người phụ nữ nào bị giam một mình ở xà lim cả. Phải nói, xà lim lúc ban ngày đã vậy, huống chi ban đêm, nhất là những đêm mưa dầm gió bấc không ngủ được, cứ trằn trọc một mình một bóng trong căn buồng hẹp vắng vẻ, cô liêu, chỉ nghe những tiếng rên la, hoặc tiếng hét trong cơn mê sảng của các buồng khác; ngay đàn ông cũng ít người chịu đựng được nổi, huống hồ là đàn bà. Do đó, thường chúng phải giam hai người để dựa vào nhau những lúc tối lửa tắt đèn; hoặc giả để không vì chán nản và tuyệt vọng quá mức mà nảy ra ý định tự tử. Thế mà bây giờ lại chỉ có mỗi một phụ nữ trong buồng số 6? Buồng này, tôi đã từng ở, và cũng là nơi tôi đã có kỷ niệm trốn tù bất thành. Buồng đó ở đúng chỗ gẫy khúc của xà lim, nên rộng hơn các buồng khác một chút. Vì vậy, nỗi hoang vắng lại càng lớn thêm ra. Một mình, cứ ngồi đấy suốt đêm, ngày, chỉ có thối ruột ra thôi. Nhận thấy tiếng gõ của mình làm cho buồng số 6 ngưng tiếng khóc, tôi nảy ra ý định phải tìm cách liên lạc được với buồng số 6, để an ủi và hiểu rõ về người bạn tù “láng giềng” này. Nếu liều lên tiếng hỏi, dù có theo dõi được sự ra vào của cán bộ để không sợ bị bắt; nhưng, kinh nghiệm đã qua cho biết, trong xà lim không phải là không cò những loại người của Cộng Sản cho vào nằm cùng buồng, dùng khổ nhục kế, để moi tin, để khai thác cũng như điều tra một người nào đó, hoặc qua những lời đối thoại hỏi han nhau giữa các buồng…Như vậy, che dấu được cán bộ xà lim, nhưng chấp pháp vẫn biết tôi có liên lạc với buồng số 6. Phần khác, buồng số 6 là phụ nữ, các buồng khác họ cũng muốn nói chuyện với buồng số 6, nhưng số 6 không chịu trả lời; vậy càng bất tiện nếu tôi lên tiếng. Tôi nằm nghĩ ngơi, suy tính. Cuối cùng, tôi nghĩ thử đánh kiểu “morse” xem sao, có thể số 6 hiểu lối đánh này. Vì lối này khá thông dụng, ngay trong Hướng Đạo cũng có dạy. Nghĩ thế, tôi lồm cồm bò dậy. Bằng sống chiếc lược sừng nhỏ, với khuỷu đốt ngón tay, tôi hỏi: “Ai đấy?”, im lặng một lúc, rôi tôi nghe tiếng bàn tay xoa xoa lên tường, như trả lời không hiểu. Vậy là số 6 không biết lối đánh “morse”, tôi hơi nản lòng. Nhưng, chợt nảy ra một phương pháp khác… Trước hết, tôi gõ nói về ngày bị bắt của tôi. Nếu số 6 thông mình, hiểu được, sẽ trả lời tôi ngày bị bắt của số 6. Đêm khuya, hơi lành lạnh, tôi lấy cái chăn khoác lên người. Rồi bắt đầu, tôi gõ hai tiếng:”Cạch, cạch!”. Sau khi số 6 cũng gõ hai tiếng trả lời như mọi khi, cũng có nghĩa là lúc này số 6 đang lắng tai nghe. Tôi lại lấy sống chiếc lược sừng để gõ, vì tay gõ mãi cũng thấy đau đau. Tôi bắt đầu gõ:”Cạch cạch…24 lần, ngừng lại; gõ tiếp 6 lần, ngừng lại; 1 lần, ngừng; 9 lần, ngừng, 6 lần, ngừng; 2 lần, ngừng. Tôi chờ đợi, nghe bên kia tường có âm thanh rê đi rê lại, hình như của một cái cán quạt thì phải, như có ý nói là không hiểu, chưa hiểu! Tôi lập lại một lượt như trên. Vẫn tiếng rê ở trên tường. Tôi hiểu “vạn sự khởi đầu nan” là chuyện thường tình; vậy cần phải kiên trì, đừng nản lòng. Từ suy nghĩ này, tôi lại gõ đúng như trên một lượt nữa. Im lặng. Tôi ngồi bên này tường, hình dung ở bên kia, số 6 đôi mắt đang tuy mở, nhưng sẽ chẳng nhìn thấy một cái gì rõ, chỉ vì óc đang bận suy tính về những tiếng gõ của tôi ở trên tường. Chợt, tiếng cán quạt đập rối rít vào tường một lúc, rồi ngừng lại. Và bắt đầu gõ: 24-6-1962. Mắt tôi lúc này hẳn sáng lên, tay tôi cũng cuống quít đập cả lược, cả tay vào tường (dĩ nhiên tôi cũng kềm chế để âm thanh tiếng đập cũng như tiếng gõ không quá lớn đến độ các buồng khác cũng nghe thấy rõ). Vừa mừng vì số 6 đã hiểu; lại vừa thích thú vì số 6 tỏ ra thông minh. Sau đó, số 6 gõ hai tiếng:”Cạch cạch”. Tuy không quy định, nhưng tự nhiên hai tiếng gõ bây giờ như thay cho hai tiếng gọi nói chuyện. Tôi đáp lại hai tiếng như trả lời: “Sẵn sàng”! Rồi, số 6 gõ “25 (ngừng” 9 (ngừng) 1965. Tôi đập chiếc lược lia lịa vào tường mừng rỡ. Như vậy, số 6 đã bị bắt hơn một tháng rồi. Hôm nay, 18-10-1965. Và, cũng có nghĩa là số 6 đã hiểu tôi bị bắt đến nay đã 3 năm rưỡi rồi. Tôi gõ tiếp: Ngày, tháng, năm sinh của tôi. Tôi được trả lời: Ngày, tháng, năm sinh của số 6. Số 6 năm nay đã 37 tuổi. Hơn tôi những 10 tuổi. Điều buồn là đến đây, cách nói chuyện kiểu này gặp trở ngại. Tôi muốn hỏi tên số 6, và bị bắt về tội gì, v.v… nhưng đành chịu. Thật là tức, suốt đêm ngày ngồi không, mà chẳng nói chuyện với nhau được. Bần thần nghĩ ngợi một lúc, chợt trong đầu tôi lóe lên một tia sáng. Phương pháp này tuy hơi mất công lúc đầu; nhưng khi quen, cũng tạm được. Ngay “morse” khi mới tập, cũng nhiều bỡ ngỡ, khó khăn. Nhưng, cứ dùng mãi, đánh mãi, sẽ quen và trở thành gần như nói chuyện bình thường vậy. Muốn nói chuyện tạm được với nhau, cách gì cũng phải qua vần a, b, c…Ở đây, hãy dùng vần chữ Việt, 23 chữ cái: A, B, C, v.v… Vậy A: 1, B: 2, C: 3, v.v… cho tới Y: 24. Để giản đơn và ngắn gọn hơn cứ 10 là một tiếng “thình” của gót bàn tay đập vào tường. Thí dụ: Chữ “Y” là thình thình, cạch, cạch, cạch, cạch. Chữ “K” là thình; chữ “N” là thình, cạch, cạch, cạch, v.v… Sau khi nhẩm tính xong, vấn đề kế tiếp là làm sao để số 6 cũng biết như mình. Tôi hiểu số 6 cũng đang tức bực, không biết cách gì để hỏi và nói chuyện với tôi. Bắt đầu, tôi gõ “cạch, cạch” là tiếng gọi “nói nhé?”; và sau khi số 6 đáp trả hai tiếng “sẵn sàng!”, tôi gõ “cạch”, rồi nói to:”A…À…À…”; “cạch, cạch” lại hô “Bê…ề…ề…”; “cạch, cạch, cạch” lại hô “xê…ề…ề…”. Tôi ngừng, lắng nghe, âm thanh cái cán quạt bên số 6 rê đi rê lại trên tường một cách chập chạp. Tôi lại làm như trên một lần nữa. Một lúc, một lúc, bỗng tiếng cán quạt đập liên hồi vào tường. Rồi số 6 gõ lại:”Cạch (ngừng); cạch, cạch (ngừng); cạch, cạch, cạch (ngừng); cạch, cạch, cạch, cạch (ngừng). Tôi cũng đập rối rít; thậm chí cả gót chân của tôi cũng rung rung, đập đập xuống sàn cho số 6 thấy nỗi vui mừng của tôi. Sau đó, tôi gõ: 5 cạch, 1 cạch, 1 thình 1 cạch, 7 cạch; rồi lấy cái sống lược kéo một cái trên tường nghĩa là sang chữ khác: 3 cạch, 8 cạch, 9 cạch, 1 thình 3 cạch, 8 cạch, kéo lược. Ngừng một lát, bên số 6 cứ xoa xoa tường, ra vẻ không hiểu. Tôi lập lại lần nữa. Số 6 rối rít gõ lại cho tôi… Tôi được biết tên số 6 là: Đào Thị Bắc, Bằng phương pháp cổ lỗ sĩ ấy, tôi và chị Bắc say mê nói chuyện với nhau đêm ngày; trừ lúc ăn cơm hay đi đổ bô thôi. Đêm nào cũng thức khuya để nói…chuyện. Một điều tôi không tưởng tượng được chị Bắc lại là…gián điệp của Sài Gòn. Bốn, năm ngày đầu còn chậm chạp, khó khăn để hiểu nhau; nhưng sau đó, nghe gõ là đã biết ngay chữ gì. Hơn nữa, có nhiều chữ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong câu chuyện, chúng tôi gõ “tắt”, nên càng nhanh hơn. Thí dụ: Chữ “Bình”, chỉ cần gõ chữ “B”, và “Ba”; là “Bắc”; hoặc “CP” là “chấp pháp”, v.v… Sau khi biết được chị Bắc là điệp viên của Sài Gòn và cũng là điệp viên của miền Bắc nữa, tôi càng ngạc nhiên. Như thế, chị Bắc là loại gián điệp “hai mang” ư? (Agen double). Tôi hỏi, chị lại bảo là không phải. Rất nhiều điều tôi muốn biết rõ về chị; nhưng phương pháp liên lạc này không cho phép hỏi được nhiều, nhất là chờ thời gian, nghĩa là hỏi dần dần, vì dạo này, chị thường phải đi cung luôn. Những lúc chỉ đi cung, tôi nằm trong buồng lại thấy buồn. Kể cũng kỳ, trước đây, cứ một mình lùi lủi mấy năm trời có sao đâu; thế mà những lúc chị đi cung, tôi thấy như thiếu vắng một người bạn tâm tình đồng chí. Tôi nghĩ đến buồng số 4. Một điều vui mừng là anh chàng này cũng tỏ ra rất thông minh. Tôi chỉ giải thích vài lần, anh và tôi đã nói chuyện được rồi. Tên anh là: Nguyễn Lân, ở Quảng Bình, anh cũng cùng tuổi với tôi. Bố anh là liệt sĩ trong cuộc chiến tranh chống Pháp. Anh là sinh viên du học ở Rumaine. Anh mới bị bắt, và bị đưa vào Hỏa Lò ngay. Về phần tôi, vì sự việc dài giòng, phức tạp, cho nên tôi chỉ nói với anh tôi là giáo viên Cấp II ở Phủ Lý. Chỉ có tên tuổi là tôi nói thật thôi. Ngay cả với số 6, tuy tôi đã biết chị là đồng chí,đồng nghiệp, nhưng tôi cần tìm hiểu thêm nhiều về chị Bắc đã; bây giờ cũng cứ tạm nói là giáo viên. Rồi dần sau tôi sẽ nói thực. Tự dưng, tôi nôn nao muốn nhìn thấy con người thực của chị Bắc ra làm sao. Đến ngày Chủ Nhật đó, tên Bằng trực. Tôi chỉ theo dõi một lúc, đã nắm được hướng đi nước bước của y. Cứ mở cửa một buồng xong, y lại trở ra bàn ngồi; trong 5, 10 giây sau, người tù trong buồng mới ôm bô đi ra. Có khi y đã ra tới gần bàn, trong này người tù mới ra khỏi buồng. Có thể, y muốn ra ngay để khỏi phải đi cạnh một anh tù hôi hám, lại ôm cái bô thối hoang. Vả lại, y vừa ra tới bàn đã đứng quay lại nhìn tù ôm bô ra rồi. Có thể y nghĩ là như vậy thì tù làm sao có thể liên lạc với nhau trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó được. Vì nắm được như thế, cộng thêm sự háo hức muốn nhìn mặt của số 6, và lại không muốn báo trước cho số 6 biết; cho nên, khi tên Bằng mở buồng số 6, tôi đã chuẩn bị trước, trèo đeo ngay lên khung cửa sổ lớn phía trên cửa ra vào. Mặt tôi giô lên, lộ ra ở chiếc khung có lưới thép. Trèo lên đứng kiểu này không phải dễ; phải có một cánh tay và một cái chân khỏe mạnh đủ để có thể chịu đựng sức nặng của cả cơ thể. Số 6 ôm bô ra đi; tôi phải công nhận “trường” mắt của số 6 tương đối bén nhạy. Mặt tôi cao hơn số 6 đến 1m2, 1m3; thế mà số 6 đã ngửng lên trong khi ôm bô đi ra. Bốn mắt nhìn nhau, chả dám nói một câu. Bỗng số 6 cúi ngay xuống, có thể tên Bằng đã từ ngoài nhìn vào, tôi vụt tụt xuống. Lòng bâng khuâng nghĩ ngợi về con người của chị Bắc. Mặt chị hơi dài, da trắng, môi dưới hơi thưỡn ra. Trên đầu chị, phía trước bên trái có một chùm tóc bạc. giữa những lọn tóc đen buông xõa phía sau vai. Chị mặc một chiếc áo trắng, quần đen, như người nửa tỉnh, nửa quê. Nhưng, tôi cũng hiểu, quần áo đây chỉ là cách trang bị cho một “vỏ bọc” sống ở môi trường miền Bắc mà thôi. Có một điều tôi hơi băn khoăn, là, khi bất chợt chị nhìn thấy tôi, đôi mắt chị sáng lên, tỏ ra một sự vui mừng như lâu ngày mới gặp lại người thân; nhưng ngay sau đó, một nỗi buồn như chiếc màn đen bỏ xụp xuống khuôn mặt của chị. Vì sao thế? Tôi chả hiểu được. Vì vậy, khi chị từ nhà tắm về, tôi im lặng không gõ nữa; và chị…cũng im luôn. Chẳng hiểu vì lý do gì, làm như là thi gan với nhau, không ai chịu gõ gọi nhau nữa. Cho đến suốt bữa cơm chiều, tôi ăn xong, trả bát, sang gõ hỏi anh Lân mấy câu, rồi chào đi nằm ngủ…Mãi tới khoảng 10 tối, thoáng nghe có tiếng người khóc nức nở, trước nhỏ, sau to dần, tôi bò dậy lắng nghe. Thì ra tiếng khóc của chị Bắc. Đã từ nửa tháng nay chị không khóc; bây giờ tại sao lại thổn thức trong đêm khuya? Nếu là một người có lập trường ý thức chính trị rõ rệt, thì ngay gặp một người phụ nữ bình thường trong cảnh này, tôi cũng phải tìm mọi cách, tùy theo điều kiện, để an ủi, giúp đỡ; huống chi đây là một đồng chí, một chiến hữu, vừa là một đồng nghiệp của mình. Vì vậy, tôi không nghĩ ngợi lôi thôi nữa. Tôi gõ cành cạch hai tiếng để gọi. Im lặng. Một lúc, tôi lại gõ hai tiếng. Lần này, chị Bắc đã trả lời, mặc dù rất nhẹ và rời rạc. Tôi hỏi: “Tại sao chị khóc?”. Chị trả lời: “Buồn, nên khóc”. Tôi chỉ biết khuyên chị hãy nhìn cảnh tôi, để mà vui. Tôi đã bị bắt từ hơn 3 năm rồi, mà vẫn còn nằm ở buồng tối đây này. Vả lại, buồn có giải quyết được vấn đề tha sớm hay muộn đâu. Do cách gõ, cho nên tôi chỉ nói được vài ý, mà cũng nói không hết, thường người nghe phải cố suy đoán thêm. Nói chung, sau đó chị hết khóc. Và những ngày sau, tôi và chị tiếp tũc gõ thăm hỏi nhau đêm, cũng như ngày. |
|
|
![]()
Post
#66
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu Mươi Bốn
Một phương pháp liên lạc thần kỳ!... Buổi chiều nay, sau khi hết giờ làm việc. Tôi đang ngồi khoác chân, dựa tường, gõ liên lạc với chị Bắc (chắc cũng đang ngồi như tôi, chỉ cách nhau một bức tường), bất chợt, cửa sổ nhỏ mở. Tôi hơi giật mình. Khi tôi nhìn lên, cửa sổ con đã đóng, lại có tiếng mở khóa cửa lớn. Tôi chồm vội xuống đất, cứ tưởng là chúng đã phát hiện ra tiếng gõ liên lạc giữa buồng tôi và buồng số 6; nhất là người mở cửa lại là tên Trì Phó giám thị. Cái mặt y đầy thịt. Cái đầu cắt tóc ngắn. Hai cái môi xám xịt, ngọ ngoạy dưới cái mũi vừa to, vừa sần sùi. Nhất là hai con mắt y trắng nhờn nhợt. Y đứng nhìn tôi một lúc, rồi lại đưa mắt nhìn khắp buồng một lượt. Tôi thấy rõ tim mình đập mau hơn, chẳng hiểu y muốn gì mà từ nãy cứ lừ lừ chẳng nói. Mãi một lúc sau, với cái giọng miền Trung quả tạ, y mới lên tiếng: - Anh có cái gì mang ra hết đi! Tôi cảm thấy hơi hụt hẫng vì sự bất ngờ này. Thật ra, trong tù tôi cũng đã dọn buồng nhiều lần. Nhưng lần này, tôi thấy tiếc nuối cái buồng. Thứ nhất, chính từ căn buồng này, tôi được tha cùm; thứ hai, số 6 và số 4 là hai người bạn tôi mới quen, chưa biết hết về nhau đã phải chia tay. Chia tay không một lời từ biệt. Nhất là, với số 6, người bạn tù mà tôi tin là cuộc chia tay này sẽ làm chị buồn nhiều hơn tôi. Vì chị là đàn bà, lại có tuổi rồi; chắc rằng nước mắt, sẽ còn phải chảy nhiều nữa. Tôi muốn gõ mấy cái để như lời từ biệt số 6; nhưng tên Trì cứ đứng nhìn, nên tôi cứ phải vờ tìm cái nọ cái kia để kéo dài thời gian. Tôi cứ vờ như xong rồi, ôm bọc đi ra, tới gần cửa lại sực nhớ, quay vào lấy cái bàn chải, rồi tới cái lược, v.v…mục đích mong y đi ra, để tôi gõ vài cái gọi là giã biệt, hoặc vĩnh biệt (?) người đồng chí, và đồng cái nghề “hang một lỗ” này. Chắc y cũng đã hơi sốt ruột nên quay ra. Y vừa quay người, tôi lẹ tay gõ vào tường mấy cái nhè nhẹ. Tôi ôm đổ chăn chiếu ra khỏi cửa, đừng chờ y chốt và khóa buồng số 5 lại. Tôi đang lắt lay, thấp thỏm, không biết y sẽ đưa tôi đi phương nào? Thì không ngờ! Tại sao lại có thể có hai cái không ngờ xảy ra chỉ trong chốc lát: Y qua ra mở buồng số 11! Buống số 11 lại…đối diện với buồng số 6. Nhưng, một điều khác cũng quan trọng không kém đối với tôi là, buồng số 11 nhìn ra được ngoài sân xà lim. Đã từ hơn một năm nay ở xà lim I này, tôi mơ ước được chuyển qua phía dẫy bên này, có được nhiều ánh sáng vì cửa sổ to phía sau, nhìn ra sân xà lim không bịt gỗ, và quan trọng là được nhìn cái sân, được nhìn cảnh vật bên ngoài (dù rằng cái bên ngoài cũng vẫn là ở trong tù). Nhìn toàn bộ cây bàng, và tôi có thể sẽ biết mọi bộ mặt trong xà lim, một cách rõ ràng nhờ cái sân này; vì buồng nào chả cần phải tắm giặt và rồi phải ra sân phơi quần áo. Tôi đã vào buồng rồi, lòng vẫn còn bồng bềnh, khấp khởi trong nỗi vui của đường đi rộng mở dần. Không hiểu số 6 có biết tôi được dọn sang phía đối diện không? Có lẽ, khi chúng nhìn bản sơ đồ giam người ở xà lim I, chợt thấy số 5 và 6 là hai tên gián điệp cùng của Sài Gòn, nên đã nảy ra ý nghĩ là tại sao lại để cạnh nhau “nhỡ chúng liên lạc với nhau bằng “morse” thì sao!”. Vì vậy, chúng đã chuyển tôi sang dẫy đối diện. Từ ngày tôi vào Hỏa Lò đến nay, ngoài những chuyện to lớn là tự tử và trốn tù ra, những nội quy như liên lạc, hay chuyện trò với các buồng khác, hầu như chúng không hề thấy tôi vi phạm. Hơn nữa, cũng đã gần 4 năm, chúng hành tôi ở những chỗ tăm tối rồi. Bây giờ, chúng cho tôi ra ánh sáng một tí kẻo tôi “củ” một cách vô ích, trong khi tôi còn phải là một con vật, để lao động trả nợ sau này cơ mà. Đối với tôi, tất cả những chuyện gì đó, sau hãy xét; bây giờ, tôi được chuyển sang đây, khác nào như cá lại mọc thêm cánh, chim lại còn biết lặn xuống nước nữa. Tôi đang vừa vẫn vơ nghĩ ngợi, vừa quét dọn cho sạch sẽ cái buồng (vì đây là nơi tôi vừa tập thể dục, vừa đi bộ giải trí hàng ngày), chợt có tiếng cán bộ từ ngoài cổng xà lim vào. Tiếng mở cửa sổ nhỏ, từ buồng số 1 đi dần vào tới buồng tôi. Tôi đã biết y là cán bộ Vân, béo ụt ịt, người miền Nam, đang đi kiểm tra người để nhận bàn giao phiên trực. Y mở cửa con rồi, chỉ khép lại chứ không cài chốt phía bên ngoài. Có lẽ để thuận tiện cho y khi đi ‘tua’ khẽ mở ra, không cần phải mở chốt, không có tiếng động, kiểm tra mà tù không biết. Tôi chờ cho tới khi y đi ra. Thậm chí, tôi nghe đoán được tiếng bước chân y đi tới đâu, tôi trèo ngay lên sàn nhìn theo phía sau lưng y. Lúc ra khỏi cổng, y còn khép cổng lại. Bây giờ, phải nói, tôi làm chủ tình hình ở xà lim này. Dù vậy, như tôi vừa trình bày ở trên, trong xà lim sẽ có một vài người nằm vùng, kiểu khổ nhục kế. Nếu không biết điều này, không những bị chân vào cạm, lại còn nguy hiểm hơn vì đôi khi thò cái tư tưởng thật của con tim mình ra, mâu thuẫn với những điều mình đã khó nhọc che dấu và khai báo từ trước tới nay. Để một vài ngày nữa đã, tôi phải kiểm soát được rõ ràng ai là địch, ai là bạn hãy hay. Ngay tối hôm đó, tôi thử dùng cách liên lạc không tiếng nói. Tấm sắt nhỏ che chiếc cửa con khép hờ, ai không biết, tò mò muốn nhìn ra ngoài, lấy ngón tay mở rộng ra. Đẩy ra thì được, nhưng muốn khép lại như cũ thì ngón tay không thể kéo lại được. Cán bộ trở lại, thấy cánh cửa mở to, biết ngay là tù đẩy ra, sẽ chửi mắng, nạt nộ. Nhưng, nếu khôn lanh một tí, cứ tha hồ đẩy rộng ra, nhìn thoải mái. Nghe tiếng cán bộ sắp vào, dùng một cọng chổi thanh hao (buồng nào chả có chổi) có một cái cành, để làm cái ngoéo kéo lại. Hoàn toàn chủ động, đẩy ra kéo vào theo ý mình. Do đó, tôi đẩy thẳng ra, vừa để nhìn rõ, lại vừa đưa mũi ra hít không khí bên ngoài trong lành hơn là trong buồng. Tên Vân, người miền Nam, không được quái lắm, cho nên khi kiểm tra phía dẫy buồng đối diện, y mở toác cửa sổ ra. Còn phía bên tôi, khép hờ. Bây giờ, tôi đẩy ra, hai bên cửa sổ nhìn thông thống sang nhau, chỉ cách một lối đi chừng 2 thước. Tôi nhìn sang buồng số 6 thấy im ắng không động tĩnh gì. Như thế này, chứng tỏ chị Bắc không hề biết tôi lại sang buồng đối diện. Có thể vì thấy tôi đi, chị Bắc buồn bã quá, không chịu theo dõi nghe ngóng. Phần khác, cũng có thể chẳng phải ai cũng tò mò tinh quái như nhau. Tôi chõ mồm ra ho mấy tiếng, rồi nhìn qua lỗ cửa sổ nhỏ mỗi bề 18 cm vào buồng số 6. Vẫn không hề thấy động tĩnh gì. Cũng vì từ trước tôi không ho, nên số 6 không biết tiếng ho của tôi. Tôi không gọi, vì không muốn các buồng chung quanh biết tôi định liên lạc với số 6. Tôi đi bách bộ hàng nửa tiếng đồng hồ, nhìn sang bên số 6, vẫn lặng như tờ. Hàng tiếng đồng hồ sau, cứ loay hoay bực dọc mãi, tôi đã kéo cửa sổ nhỏ lại, đi nằm, thoáng nghe tiếng kéo bô ở bên buồng số 6. Tôi liền bò nhổm dậy, lại đẩy cửa sổ ra, nhìn sang, thấy thấp thoáng một cánh tay trần với một khoảng vai có cái áo lót màu đen. Tôi định ho gọi, nhưng cảm thấy hơi bất lịch sự, nên lại thôi, đành chờ. Chắc rằng, thế nào trước khi vào màn, chị Bắc thế nào cũng phải nhìn ra cửa sổ nhỏ một lần, vì cửa sổ đang mở toang toác ra như vậy. Lúc đó, chắc chị sẽ giật mình khi thấy bộ mặt của tôi, chỉ cách có 2 mét. Thật đúng là đàn bà, chị loay hoay một lúc, rồi giơ tay nhấc cánh màn lên, định chui vào ngủ, không hề nhìn ra ngoài! Không được! Tôi đành chõ mồm ra ho gọi. Cũng phải ho hai, ba tiếng, tôi mới thấy chị Bắc quay mặt ra. Khi nhìn rõ tôi, phản ứng đầu tiên của chị là luýnh quýnh, rồi vội lấy chiếc áo khoác lên người, làm cho tôi buồn cười. Thế rồi, chị Bắc nét mặt tươi rói, áp sát mặt vào cửa sổ con, cười, nhìn tôi bằng ánh mắt long lanh, như thể lâu ngày gặp được người bạn thân. Trong cảnh xà lim vắng lặng, chúng tôi nhìn nhau, không thốt một câu, vì không muốn cho buồng khác biết. Nhưng, chỉ bốn mắt nhìn nhau, mà cũng nói được rất nhiều, tôi cảm thấy như bao nhiêu nỗi niềm ứ đầy trong lòng được vơi bớt. Tôi cũng hiểu là chị Bắc hoàn toàn tin tưởng nơi tôi đã tinh quái để gác cán bộ, nên thái độ của chị rất bình tĩnh, chị áp mặt vào khung cửa sổ nhỏ mà không sợ hãi gì cả. Như hai người câm điếc, tôi dùng tay ra hiệu ý muốn nói với chị Bắc là: Ngày mai, khi nào tôi “ho 2 tiếng, chị đứng lên sàn” bên đó, tôi cũng sẽ đứng lên sàn bên này, rồi tôi sẽ chỉ chị cách nói chuyện. Chỉ có bấy nhiêu ý, mà hai tay tôi, mắt tôi, vừa múa máy, vừa nháy nhó, mãi chị Bắc mới hiểu. Cứ thỉnh thoảng tôi lại ho hai tiếng, mỗi khi tay phải làm lại, động tác chỉ trỏ như lần trước. Cũng vừa lúc ấy, thoáng một tiếng động nhỏ bên ngoài sân, tôi vội vàng ra hiệu tay cho chị Bắc vào màn; còn tôi, nhẹ nhàng kéo cửa sổ con lại, rồi cũng lên sàn nằm. Một lúc sau, tiếng bước chân nhè nhẹ đi vào; đến cửa buồng tôi, thấy cánh cửa sổ hé to ra một tí, lại đẩy vào như cũ. Tôi biết nhưng vờ nhắm mắt như đang ngủ say. Tôi tự nghĩ, khi chưa bị bắt, mình còn qua mặt hàng bao nhiêu tên phản gián, huống chi ở đây chỉ có một tên, lại là một tên công an đơn thuần, làm quái gì có nghiệp vụ! Ngay đêm hôm ấy, tôi suy nghĩ từ những điều kiện thực tế của các căn buồng của xà lim, để tìm ra một kiểu liên lạc tốt nhất. Chỉ một lúc, tôi đã tìm ra được một cách liên lạc hữu hiệu. Xà lim I thật tĩnh mịch và hoang vắng, cho nên chả một tên cán bộ nào lại điên rồ ngồi một mình trong đêm khuya khoắt, để rình mò. Chúng chỉ thỉnh thoảng vào đi “tua”. Bây giờ, tôi ở phía dẫy bên này, lại không bị cùm, có thể nói một cách chắc chắn là nếu tôi muốn, tôi luôn luôn dư sức chủ động nắm được đường đi nước bước ra vào, của bất cứ một tên cán bộ tinh quái nào. Tóm lại, ngay đêm hôm đó, tôi đã tìm ra được một phương thế liên lạc toàn bộ trong xà lim, dù cho có cán bộ ngồi thường xuyên ở bàn trực xà lim chăng nữa. Sáng sớm hôm sau, ngay khi cán bộ trực chưa đến, tôi đã đứng lên, ho gọi số 6 để thí nghiệm. Số 6 đứng lên hớn hở tươi cười khi nhìn thấy tôi. Với thế đứng của hai người, tôi tính toán hình dung hai thế đứng nhìn nhau, qua hai khung cửa sổ phía trên cửa ra vào. Khung cửa này, bề nằm 60 phân, bề cao 50 phân, có 5 chấn song sắt to, bên trong có ghép lưới thép đan, mỗi mắt ba phân vuông. Như vậy, từ hai khung cửa này, tôi và số 6 nhìn sang nhau, đều thấy một khoảng tường hình chữ nhật theo khung cửa sổ, nghĩa là một tấm bảng 50x60 phân. Vì hơi chéo, nên tôi phải tính toán vị trí của số 6 nhìn “tấm bảng” đó ở bên tôi trên tường. Bằng ngón tay trỏ, tôi chỉ viết chữ in; thí dụ:”CHỊ CÓ NHÌN RÕ KHÔNG?”. Vừa viết, tôi vừa quay lại nhìn chị Bắc. Mặt chị tươi roi rói gật lia lịa. Tôi lại viết “CHỊ VIẾT ĐI”, để tôi điều chỉnh tấm bảng cho tôi nhìn thấy trên tường, bên chị bằng hiệu tay. Thế là từ đấy, chúng tôi có thể liên lạc với nhau bất cứ lúc nào, dù có cán bộ hay không. Tuy vậy, để bảo đảm an toàn cao nhất, trừ những lúc cần thiết, còn thông thường tôi để cho cán bộ ra khỏi xà lim, mới nói chuyện. Mật hiệu đã định sẵn. Tôi “ho một tiếng” là “có cán bộ”, chị Bắc chỉ việc ngồi xuống; “ho hai tiếng” là “gọi nói chuyện được”, chị Bắc đứng lên. Cũng với phương pháp này, ngoài buồng số 6, buồng tôi cón có thể nhìn sang hai buồng ở hai bên buồng số 6 là buồng số 5 và buồng số 7 nữa. Và cứ như vậy, số 5 nhìn sang dẫy tôi cũng được ba buồng là 12 đối diện, và 11, 13 ở hai bên. Rồi, buồng này có thể làm trung gian cho buồng kia, từ đấy, có thể nói chuyện, liên lạc toàn bộ các buồng trong xà lim. Dù cán bộ có ngồi ngay đấy canh, thậm chí có những tên cán bộ mẫn cán tích cực kê ghế ngồi đọc sách hàng mấy tiếng đồng hồ để rình, cũng không bắt được chúng tôi liên lạc với nhau. Tù liên lạc với nhau, phải nói chuyện. Ở đây, dù ngồi cả ngày để canh chừng, chúng cũng chẳng nghe thấy một tiếng; có chăng chỉ là tiếng ho, tiếng khạc mà thôi. Lúc đó, tôi nghĩ nếu bọn thực dân Pháp ngày xưa và bọn cộng sản bây giờ, biết được là có một phương pháp liên lạc chuyện trò với nhau như thế này, chắc chắn chúng không bao giờ thiết kế xây xà lim có hai dẫy buồng đối diện nhau nữa. Mục đích của xà lim là không cho người này trông thấy người kia (trừ trường hợp chúng chủ ý để hai người trong cùng một buồng) để gây áp lực tâm lý. Làm cho tù hoang mang, giao động và không thể hỏi han, trao đổi những khúc mắc khó khăn trong khi cung kẹo. Tâm lý của con người nhiều khi rất lạ kỳ, chỉ cần nhìn thấy một người khác cùng vào nghĩa địa, tha ma với mình, tự nhiên mình sẽ thấy mạnh bạo hơn lên. Nhưng, khi chỉ có một mình mình trong rừng sâu, đêm khuya, với những ngôi mả hoang, là rợn tóc gáy, rùng mình, rồi cảm thấy cô đơn, không có ai bấu víu. Mục đích của xà lim là như vậy. Chính vì chúng thấy tôi và số 6 ở cạnh nhau không tiện, nên phải cho sang dẫy đối diện. Sang dẫy đối diện, nếu liên lạc mới nhau bằng lời nói, dù canh kỹ đến đâu thì đi đêm mãi, thế nào chả có ngày gặp ma. Hơn nưa, chúng còn có người gài vào nằm thường trực ở một buồng nào đó trong xà lim, ngoài nhiệm vụ chính là moi tin những người cùng buồng. Nói cách khác, sở dĩ, tôi có thể tung hoành, chủ động sự liên lạc, chuyện trò trong cả xà lim I, chỉ vì cộng sản chưa biết rõ khả năng của tôi, cũng như những kẻ hở của chúng. Nếu chúng biết, chúng thừa sức hóa giải, thừa sức ngăn cấm tuyệt nọc. Cho nên, để cho đối phương biết được về mình, là điều tối nguy hiểm. Vậy mà, Mỹ, cũng như thế giới tự do cứ tự…vạch áo cho cộng sản xem lưng, để rồi vắt chân lên cổ mà chạy. Từ một người lính, cho đến một người dân bình thường, ai cũng nói, cũng thuộc câu “Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng”; nhưng tôi có thể nói ngay rằng nhiều chiến lược gia, những nhà quân sự cầm quyền của phe ta chỉ đọc phương châm đó như là con vẹt thôi. Còn thực tế, thế nào là hiểu đối phương? Thế nào là hiểu mình? Tôi dám nói là họ chưa đủ hiểu. Nếu hiểu, đã không phải chạy hết chỗ này, rút hết chỗ kia. Có nói, lại đổ cho lý do này khác…mà không thấy cái khuyết điểm:hời hợt, rỗng tuếch của chính mình. Khi đã chuyện trò với chị Bắc được mấy ngày rồi, tôi thấy bây giờ cũng thuận tiện. cho nên tôi đã nói thật với chị là tôi cũng ở trong Nam ra. Tôi cũng kể sơ qua gần một tháng trời, khi còn ở bên ngoài, tôi đã đấu tranh đầy thủ đoạn với tụi phản gián Hà Nội. Cuối cùng, tôi ngỏ ý muốn chị thuật lại cuộc đời của chị ra sao, mà lại vừa là gián điệp cho cộng sản, lại vừa cho Sài Gòn, để bây giờ phải vào xà lim, thân gái một mình thế này? Tôi nghĩ, cứ mỗi ngày một tí, điều gì cần rõ, tôi lại sẽ hỏi thêm. Sau khi tôi yêu cầu như vậy, mắt chị đỏ lên, mí mắt rung rung, ngấn lệ long lanh chảy dài xuống má, chị làm cho tôi cũng xúc động, phải nhìn ra hướng khác. Vừa thổn thức chị vừa viết, nội dung: - Như một cơ duyên, tôi rất sung sướng được gặp anh ở đây. Tôi đã suy nghĩ mấy ngày hôm nay. Đời tôi đến đây coi như chấm dứt rồi. Nhưng vì tôi còn một đứa con trai duy nhất hiện vẫn ở miền Nam. Vậy, tôi xin kể lại chi tiết đời tôi, như một lời giối giăng và gởi gấm giọt máu của tôi cho anh. Tôi nhìn chị viết, đôi vai gầy rung rung, thỉnh thoảng lại đưa chiếc khăn trắng lên chùi mắt. Tôi lại liên tưởng đến đời mình. Chị giối giăng ký thác cho tôi ư? Trong cảnh này, tôi hay chị, ai là người sẽ về lòng đất trước, chị có biết được không? Mặc dù lòng mình đầy vơi những nỗi niềm, nhưng nhìn chòm tóc bạc trên đầu chị, nhìn cái dáng đứng nghiêng nghiêng làm cái cổ chị rụt lại; tôi đành phải đè nổi niềm của mình xuống, để gọi là làm “cái cọc mục cho rêu bám” vậy! Từ hôm ấy, trừ những ngày chị phải đi cung, bất kể ngày đêm, tôi và chị thường đứng viết “nói chuyện” với nhau. Thậm chí, nhiều lần, tôi còn giúp chị được những ý kiến để hóa giải một phần nào mưu mô, đòn phép của chấp pháp. |
|
|
![]()
Post
#67
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu Mươi Lăm
Đời hoạt động của người nữ gián điệp… bất hạnh! Những ngày đầu thuật lại chuyện, nước mắt chị Bắc vẫn cứ vòng quanh. Nhìn dáng chị đứng viết, thỉnh thoảng chị quay lại, đôi mắt đỏ hoe, tôi có cảm tưởng như chị kể lể nghẹn ngào. Nội dung sơ lược như sau: …………………………………………. “Đời hoạt động, bây giờ bị bắt, đã là không may rồi; nhưng, ngay đời tình cảm của tôi cũng đầy nước mắt đau thương. Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả ở ngoại thành, Hà Nội. Tôi là nữ sinh Trưng Vương của những năm 1948-1949. Bấy giờ, tôi đang yêu một nam học sinh trên tôi 3 lớp. Khi đó, tôi đang thi Trung Học Phổ Thông và anh ấy thi phần II Tú Tài. Chúng tôi đã yêu thương nhau hơn 4 năm rồi. Anh đã được gia đình tôi công nhận. Vì vậy, thường xuyên hàng tuần, thậm chí, hàng ngày anh vẫn đến kèm dạy thêm cho tôi. Chúng tôi và gia đình đều đã có ý định chờ anh và tôi thi xong sẽ làm lễ cưới. Hai ngày sau khi thi đỗ, như mọi lần, anh đạp xe đến thăm tôi. Lúc về, trở ra tới đầu phố, chẳng hiểu thế nào mà, anh bị một chiếc xe GMC cán vỡ óc, chết ngay, còn chiếc xe đạp cũng bị gẫy đứt đôi. “Được tin sét đánh, tôi tưởng như trời sập. Tôi đã định tự tử theo anh, nhưng nhiều lần đều bị gia đình ngăn cản. Dù chưa cưới, nhưng tôi quyết xin gia đình cho tôi đưa đám anh, như một người vợ. Sau đó, tôi nguyện khép chặt cửa lòng, quyết định suốt đời sẽ không lấy ai nữa. Bỏ ngoài tai những lời khuyên nhủ của bố mẹ và bạn bè. “Tôi đã xin về một vùng quê xa xôi ở Hưng Yên, rồi Bắc Ninh để dạy học. Gần hai năm tôi sống thu mình như một nhà tu hành. Lấy các em học sinh làm nguồn vui của đời. Tôi cương quyết khước từ nhiều người tìm cách rấp ranh, muốn xây dựng gia đình với tôi. Tôi cũng tưởng như vậy là yên thân. Nhưng, chiến tranh đã không để cho các em học sinh được yên lành đi học. Thành ra, tôi cũng chẳng còn chỗ để dung thân, đành lại trở về Hà Nội. “Khi ấy là 1952, chiến tranh ngày càng ác liệt. Một đêm, tôi không ngủ được, và chợt tìm thấy một hướng đi cho đời mình. Đó là, vào quân đội. Mấy ngày sau, tôi thực hiện ngay ý định của mình, dù gia đình có ngăn cản. Là con gái, lại có bằng Trung học Phổ thông, mà anh đã biết, bằng “Diplôme” của 1952 về trước, cũng có nhiều giá trị lắm. Cho nên, quân đội rất hoan nghênh, ưu đãi tôi. Chỉ phải 6 tháng huấn luyện quân sự sơ sơ, tôi đã được đeo lon Thiếu Úy, làm việc văn phòng trong bộ Tổng Tham Mưu. “Quân đội là nơi thu hút biết bao những người anh hùng, những nhân vật lỗi lạc tài hoa của đất nước. Nhất là lại ở bộ Tổng Tham Mưu, nơi có đủ mọi binh chủng, có đủ mọi loại quái kiệt, xuất chúng. Cho nên, tôi, một cô gái Thiếu Úy, tuổi mới 22, 23; không “đổ” với nhân vật này, rồi sớm muộn cũng “đổ” với nhân vật tài hoa khác. Cho nên, cuối cùng, trái tim sắt đá, cánh cửa lòng đã định mãi khép chặt, nay đành mở toang, để đón nhận một nhân vật hào hoa mã thượng, là thiếu tá Trần Ngọc Tính. Trái tim tưởng như khô cằn, hết nhựa tình yêu từ khi mối tình đầu tan nát, bây giờ lại chảy tràn trề nhựa sống, cho mộng tràn gối chăn, cho tình tràn trước ngõ. Để rồi, một đám cưới linh đình hoa bướm với xá pháo đỏ ngập sân… Đùng một cái, đất nước chuyển mình, Hội nghị Genève ký kết. Lúc này, bụng đã có mang 4, 5 tháng, tôi được điều động sang bộ phận đón rước và lo di chuyển cho gia đình binh sĩ di cư vào Nam. Tôi nỗ lực, tích cực công tác lo cho thân nhân, gia đình, vợ con quân đội, nên thường xuyên đi ra, đi vào giữa Sài Gòn và Hà Nội. Cũng giai đoạn này, nhà tôi được chuyển vào Nam và được thăng lên cấp Trung Tá. Tôi miệt mài công tác, cho tới khi trở dạ sinh được một cháu trai mới tạm nghỉ. Cháu trai thật xinh và bụ bẫm. Tôi và anh Tính đặt tên cho cháu là Trang; Trần Ngọc Trang. Tôi những tưởng do mình ăn chay, ở lành, ngày ngày cầu xin Trời Phật độ trì, cho nên Trời Phật đã đền bù cho tôi một cuộc sống tràn trề hạnh phúc giữa thế giới tự do. Nhưng cũng bất ngờ, lại một tin sét đánh nữa đến với tôi. Trong một chuyến công tác, chồng tôi cùng hai, ba người nữa lái chiếc xe “díp” lên Đà Lạt; rồi không hiểu vì sao, trên một khúc quanh, lại gặp trời ẩm ướt, chiếc xe đã bị lao xuống vực thẳm. Hai người bị thương nặng; hai người bị chết, trong đó có chồng tôi. Tôi như điên rồ, gào thét, vật vã mấy ngày đêm. Nếu không vì giọt máu của tôi và anh ấy cỏn đỏ hỏn, lần này, tôi không thể sống được nữa. Tôi còn thiết gì cõi đời đầy máu và nước mắt này. Tôi quá ư đau đớn! Ruột tôi đêm ngày như vặn xé, đứt ra từng khúc. Vì vậy, cho dù bao nhiêu lời khuyên giải, bao nhiêu lời úy lạo của quân đội cũng như chính quyền, tôi đểu bỏ ngoài tai. Tôi không cần biết thế giới này tự do hay cộng sản, tôi cũng chẳng còn ý niệm về chính trị cũng như con người. Lúc này, cũng sắp hết hạn 300 ngày di cư của Hải Phòng. Tôi đã như một người điên, không còn đủ sáng suốt nghĩ suy, quyết định ôm con trở về Bắc với gia đình tôi. Sống, chờ đứa con khôn lớn, rồi tôi xin thí phát ăn mày cửa Phật. Tôi gạt hết mọi lời ngăn cản của bạn bè, ngay của chính quyền cũng như quân đội. Cuối cùng, vì thấy tôi đau khổ quá, họ cũng đành ngao ngán thở dài, để mặc tôi ôm con trở về quê cũ. Tôi trở về Hà Nội. Trên đường đi vì có con dại, nên tôi không gặp khó khăn gì. Tôi về sống với bô mẹ và họ hàng ở khu lao động Thịnh Hào, ngoại ô thành phố Hà Nội Tôi trình bầy tất cả sự thật đời tôi với nhà cầm quyền địa phương của cộng sản. Vì đấy là thực tế, họ cũng thấy rằng cuộc đời tôi quá nhiều đau thương về mặt tình cảm. Thêm nữa, ở địa phương, hầu như suốt ngày đêm, tôi chỉ quấn quít với con tôi, cho nên họ cũng để yên, không làm phiền hà gì cả. Nhưng, điều chính mà sau này tôi mới biết, là vừa về chiếm lại nhiều thành phố, nhiều xóm làng, cộng sản còn nhiều công việc khác to lớn, cấp thiết hơn phải lo, cho nên chúng mới để cho tôi sống yên thân. Mặt khác, càng những năm sau này, các em, các cháu tôi phải đi nghĩa vụ quân sự. Vậy là gia đình ngày càng có nhiều người trong hàng ngũ cộng sản. Vả lại, chính tôi, để được yên thân, ngay trong địa phương tôi cũng tỏ ra tích cực họp hành, học tập, tham gia mọi sinh hoạt v.v… Tôi cũng chả cần biết thế giới này ngược hay xuôi nữa. Cuộc đời tôi cứ thế đều đặn như vậy theo thời gian trôi đi, cho mãi tới đầu 1960. Lúc đó, cháu bé đã 5 tuổi, đã bắt đầu cắp sách đến trường. Vào giai đoạn này, có lẽ đám đầu não tình báo miền Bắc, phat hiện được ra tôi như là một người có đầy đủ điều kiện và khả năng, chui được vào trong giai cấp lãnh đạo của chính quyền miền Nam để hoạt động: -Đào Thị Bắc, một phụ nữ đã từng làm việc ở bộ Tổng Tham Mưu, bản thân lại là cựu sĩ quan, có chồng là trung tá Trần Ngọc Tính. Như vậy, thiếu gì bạn bè, những bạn bè quen biết trước đây, ngày nay, hẳn có người đã leo lên nhiều chỗ đứng cao của quân đội, cũng như của chính quyền Sài Gòn. Một chỗ dựa, một thế đứng vững chắc. Không còn một “miếng mồi” nào tốt hơn miếng mồi Đào Thị Bắc. Từ chỗ chúng tìm tòi nghiên cứu để nhận định, đến khi đã thấy rồi, chúng chỉ còn bắt tay thực hiện. Chúng nghiên cứu tỉ mỉ tư tưởng, cuộc sống của Bắc qua những đoàn thể địa phương, và chính quyền sở tại. Khi đã phân tích nắm được chỗ ưu, chỗ nhược của Bắc rồi. Tùy theo điều kiện, chúng lựa dần dần bằng nhiều hình thức khác nhau, từ nhiều phía khác nhau, để đi đến với Bắc. (Tới đây, chị Bắc không xưng là “tôi” nữa, mà chỉ viết xưng tên). Sau nhiều lần gặp, cuối cùng chúng ngỏ ý, với những lời phỉnh phờ, dụ dỗ, khích lệ có nghiên cứu. Nào là, Bắc đã thích cách mạng nên với về với cách mạng; nào là, Bắc là một người dân thì, phải có trách nhiệm với đất nước, với cách mạng, v.v…và v. v… Nghĩa là, trong cái thế bị chi phối từ nhiều phía, Bắc đã phải đồng ý để chúng tuyển mộ và huấn luyện những bài học cần thiết, về hoạt động tình báo. Sau gần một năm huấn luyện bí mật, nghiên cứu thực tập nhuần nhuyễn vỏ bọc, cũng như các đường dây liên lạc, Đào Thị Bắc đã được tình báo miền Bắc tạo điều kiện hợp lý, hợp tình, để ôm đứa con 5 tuổi vượt tuyến vào Nam. Lý do vượt tuyến, rất đơn giản hợp tình, hợp lý đó là: Tuy đã chán hết mọi sự đời, ôm con về Bắc, tưởng được sống âm thầm, yên ổn. Nhưng, vì điều kiện xã hội miền Bắc nên cũng phải lao động, làm thợ may trong một hợp tác xã và tham gia hầu hết các buổi học tập của xóm giềng. Nghĩa là tỏ ra tích cực để được sống yên. Nhưng, dần dần, càng ngày càng bị để ý. Những tên công an xóm, xã dùng đủ mọi hình thức o ép, đe dọa. Hơn nữa, cuộc sống cũng mỗi ngày một khó khăn, không thể chịu đựng nổi được nữa, nên nhen nhúm dần tư tưởng trốn trở lại miền Nam đã lâu. Mãi tới dịp này, khi gặp thời cơ thuận tiện đưa đến, mẹ con đã luồn lọt, cuốn gói ôm nhau lội sang bên kia bờ sông Bến Hải. (Tất nhiên, những “khâu” này, chúng đã phải dàn dựng như thật, và “lô gích” nữa). Khi đã qua sông Bến Hải rồi, giai đoạn đó, bất cứ ai vượt tuyến cũng đều được đón tiếp để đưa về Huế, rồi đưa vào Sài Gòn ở trại đón tiếp đồng bào vượt tuyến bên Gia Định. Đúng như mọi dự tính của tình báo Hà Nội. Ngay khi vào tới Sài Gòn, Đào Thị Bắc, đã được nhiều bạn bè khi nghe được tin, đã sang trại đón tiếp đồng bào vượt tuyến Gia Định để thăm hỏi. Trong đám này, có trung ta Xuân là bạn của Trần Ngọc Tính và Bắc ngày xưa. Cũng chính trung táXuân đã bảo lãnh và đón mẹ con Bắc ra trại, về một cư xá sĩ quan ở tạm. Trung tá Xuân cũng là một nhân viên…Tình báo của Sài Gòn… Đến đây, chẳng hiểu vì tư tưởng của Đào Thị Bắc thích thế giới tự do, hay vì nghệ thuật khai thác, móc nối của tình báo Sài Gòn cao tay, cuối cùng Đào Thị Bắc đã khai báo hết sự thật với Tình Báo của Sài Gòn, mà đại diện là trung tá Xuân. Tình báo Sài Gòn, cũng nằm trong lề lối chung của chính quyền miền Nam, là làm việc, hời hợt, thiếu ý thức trách nhiệm trong công việc của mình; ưa hình thức đao to, búa lớn, nhưng bên trong rỗng tuếch. Như vậy, làm sao tìm ra được một kế hoạch hoạt động tinh vi. Một kế hoạch mà muốn thành công, đòi hỏi phải nhiều tâm sức, vắt óc tính toán, mổ xẻ phân tích nhiều ngày đêm. Thậm chí, ăn sẽ không ngon, ngủ sẽ không yên nếu chưa tìm tòi nghiên cứu được một kế hoạch thỏa đáng! Hoặc, sẽ đau đầu, nhức óc, về việc tại sao công tác vừa qua lại bị thất bại! Nhân viên, bị bắt, bị chết! Phải coi nhân viên đó như ruột thịt của mình. Luôn luôn phải đào sâu, xét kỹ từng vấn đề để rút tỉa kinh nghiệm. Những người chị trách nhiệm của cơ quan tình báo phải làm việc theo phòng cách: Vì việc nước, phải gửi, phải phái người anh, người em, người con mình vào đất địch để hoạt động. Nếu người anh ấy, người con ấy bị bắt, bị chết, thái độ của mình sẽ ra sao? Từ đấy sẽ thấy là, phải coi việc nước như việc nhà. Tóm lại, với cách làm việc, với lề lối phong thái như trên, làm sao có được một kế hoạch tốt. Cá biệt, có điều gì thành công, hầu như phần lớn là do may mắn mà thôi. Hay, nói theo cách thông thường, là hôm đó, hay lúc ấy, “trời đi vắng”! Chính vì vậy, khi thấy Đào Thị Bắc khai báo, hay nói đúng ra là thú hết những âm mưu, ý đồ của tình báo miền Bắc, tình báo miền Nam đã vội vàng ra cái vẻ “tương kế tự kế”, bí mật tuyển mộ lại Bắc. Tất nhiên, lại phải huấn luyện theo “lò” tình báo của Sài Gòn. Rồi, một mặt vờ cung cấp một số tin tức không phải thiết yếu để hòng “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Một vài năm sau, cố vờ tạo lên một sơ hở của Bắc để Sài Gòn nghi ngờ, nghĩa là thúc ép tình báo cộng sản là “động rồi đấy, hãy đưa Bắc về Hà Nội đi; nếu không, Sài Gòn sẽ bắt”. Phần vì, đánh giá khả năng của đối phương qua đôi dép râu, qua bộ quần áo cà quỷnh; rồi nhìn từ chỗ đó, để suy ra những khả năng khác của kẻ thù; nên đã không thấy một điều quan trọng thiết yếu của cộng sản: Chủ trương của chúng là “chỉ dùng người ngu”. Dùng những thuộc hạ chỉ biết nghe lời. Dù người lảnh đạo có ra lệnh lầm, thuộc hạ cũng cứ cắm cúi thực hiện. Không có, và không cần loại thuộc hạ bàn ngang, tán láo. Loại thuộc hạ này không làm được gì cả. Cứ nhìn những thuộc hạ đầy ngu ngốc, đầy cà quỷnh, đầy ngây ngô, khỉ mán trong rừng…mà quên đi là những tên lãnh đạo trong bộ chính trị của chúng là những tên cáo già, chỉ ngày đêm nghĩ suy, tính toán. Không phải một vài tên, mà là 15, 16 tên như vậy. Hầu như chúng đã thấy trước được nhiều vấn đề (sau này, tôi sẽ minh chứng cụ thể). Một bộ óc trong cái tập thể ấy, sẽ không kém gì một bộ óc khôn quái của chúng ta. Ba cái đầu, hơn một cái đầu. Ở đây, 15, 16 cái đầu chắc chắn phải hơn một cái là ông Tổng Thống. Huống chi, những cái đầu của những vị nguyên thủ phía ta, đến quá nửa thời gian lại dành cho hưởng thụ, phục vụ cho những tham vọng cá nhân và gia đình. Như vậy, làm sao đặt để được một kế hoạch thấu đáo. Làm sao chống lại được cộng sản miền Bắc, mà không phải hết cầu cứu với ông lớn nước này, lại cầu cứu với ông lớn nước khác! Nếu các ông ấy không giúp, tất yếu là …đổ. Tóm lại, về tình huống của chị Đào Thị Bắc: Nếu đầu não của tình báo Sài Gòn là người hiểu biết kẻ thù, phải thấy ngay là, những loại người như Bắc, không bao giờ cộng sản tin dùng cả. Chúng chỉ dùng theo thời gian, theo những yêu cầu đòi hỏi của những giai đoạn ấy; rồi sau đấy; sẽ cho phép “ngồi chơi xơi nước” nếu làm tốt cho chúng. Còn, trong quá trình công tác, lại có gì sai trái, tùy theo mức độ chúng gạt luôn, hoặc cho vào “ấp”. Chúng không tin Bắc, đã không tin, chúng phải theo dõi, để ý. Chỉ cần một hiện tượng không bình thường là chúng đã phát hiện ra ngay rồi. Như thế, cố gắng đẩy chị Bắc về miền Bắc, chẳng khác gì đẩy chị vào tù, hay nói khác, đẩy Đào Thị Bắc vào chỗ…chết! Như vậy, người lãnh đạo tình báo miền Nam lúc ấy, phải nhận một trong hai khuyết điểm sau: - Chưa đủ hiểu sự tinh quái của cộng sản. - Hiểu, nhưng vẫn còn đẩy Đào Thị Bắc đi. Một là để lấy tiếng vang, hoặc may ra có kết quả. Còn nếu không, chết, mặc xác; tù rục xương cả cuộc đời, cũng không cần biết! Nếu là khuyết điểm trên: còn gì để nói nữa (!). Chiến đấu với kẻ thù mà không đánh giá được kẻ thù! Còn nếu là khuyết điểm ở dưới: Người chỉ huy vô nhân đạo. Bất cứ một nhà nước nào, một tổ chừc nào, một cá nhân nào, làm việc không có hậu như vậy, sớm muộn sẽ bị thất bại, đổ vỡ. Đào Thị Bắc, từ tim gan, ruột phổi cho đến giòng máu đang chảy trong cơ thể là người quốc gia, nghĩa là Bắc là con ruột của ta. Con ruột mà ném vào miệng cọp thì thật là hết ý! Vậy, không thể lấy lý do mượn tay kẻ thù, để trừ đi một người ta cần chặt bỏ. Riêng tôi, khi xem chị Bắc viết thuật đến đây, tôi hiểu tình báo Sài Gòn mắc cả hai khuyết điểm trên, cũng chỉ vì lề lối làm việc hời hợt. Trở lại sự việc Đào Thị Bắc:”…Cho tới đầu năm 1965, theo kế hoạch của miền Nam, chị Bắc báo cáo với cộng sản là đã bị lộ. Sài Gòn đã nghi ngờ. Sau một thời gian bảo Bắc đợi lệnh, cuối cùng, vào đầu tháng 5, lệnh từ Hà Nội cho Bắc về. Tất nhiên lại một sự dàn dựng của cả hai bên để Bắc rời Sài Gòn về miền Bắc…” Khi chị Bắc qua sông Bến Hải thì được đưa tuột về ngay Hà Nội. Chúng đưa chị đến ngôi nhà số 23 phố Hàng Đường, lên một căn buồng ở trên gác, phía dưới là một cửa hiệu quốc doanh. Khi vào trong buồng, chúng đưa cho chị một tập giấy, bảo chị hàng ngày hãy viết lại tất cả mọi sự việc từ khi vào Nam: Làm những cái gì, giao thiệp với những ai, đi những đâu…một cách chi tiết. Chị bị coi như giam lỏng, giấy tờ chúng thu hết với lời khích lệ là viết tốt, viết xong mới cho về với gia đình. Gần một tháng trời cặm cụi viết, khi viết xong, nộp cho chúng rồi, chị tưởng là chỉ hai, ba ngày nữa sẽ được cho về thăm gia đình. Nhưng, chúng đã mắng, đã nạt nộ chị, là chúng đã biết hết mọi sự thật. Thậm chí, chúng đưa và nêu cả hình ảnh, chứng cớ. Thế là chị Bắc đành phải khai báo sự thật. Là Sài Gòn đã tuyển mộ chị, huấn luyện chị. Và, tương kế tựu kế, để chị về Hà Nội, nằm trong tổ chức tình báo miền Bắc, hoạt động cho Sài Gòn v.v… và v.v… Khai, viết xong một lần nữa, chị bị chúng đưa thẳng vào buồng số 6, mà tôi đã gặp. Trong suốt những lần đứng viết thuật lại mọi sự việc cho tôi, lúc nào nước mắt chị cũng lưng tròng, nét mặt đầy vẻ khổ đau. Chị cũng hiểu, đời chị đến đây là hết! Chị không còn thiết bất cứ một điều gì trên cái cõi đời này. Nếu trong chị còn le lói chút ánh sáng nào, đó chính là giọt máu duy nhất của chị và của người chồng kính yêu. Cháu vẫn còn ở miền Nam, năm nay đã 11 tuổi rồi, hiện nay đang sống với một người họ hàng ở đường Phan Thanh Giản. (Bây giờ, tôi không thể nhớ rõ số nhà là bao nhiêu nữa). Từ lúc, chị biết tôi cũng là người của chính quyền miền Nam, lại cùng gặp nhau rong cảnh khốn cùng này, ánh mắt chị nhìn tôi đã thay đổi hẳn. Cũng là ánh mắt ấy, nhưng trước đây mỗi khi chị nhìn tôi, hãy còn cái nhờn nhợt của màu nâu, cái màu của nhiều rụt rè, băn khoăn, xa lạ; bây giờ, nó đã đổi sang màu xanh, cái mầu của thân thương, ruột thịt, người trong một nhà. Chính chị đã viết, đời chị lúc này đang như cánh bèo bị nước cuốn chìm nổi, dập vùi, chơ vơ lạc lõng, thế mà cơ duyên gặp được tôi. Cánh bèo ấy như được dạt vào đám bèo to; tuy rằng giòng nước vẫn còn đẩy đưa đám bèo này đi mãi…Thấy chị nghĩ như vậy, tôi cũng cố giả vờ ra vẻ là một đám bèo cho chị dựa: chứ thực ra, trong lòng tôi cũng mịt mùng chả biết đường đi ngả nào, còn đấy hay mất đi lúc nào cũng đâu có hay. Một lần, sau khi cán bộ đã đi ra, tôi lại gọi chị đứng lên nói chuyện. Chị phàn nàn, băn khoăn là quần áo của chị bị mấy chỗ tuột chỉ và đứt mấy khuya áo, nhưng không có kim. Tôi cũng hiểu, gặp khó khăn, chị viết như vậy để kể lể, cũng chỉ như là san xẻ tâm sự; chứ chị làm sao có thể nghĩ rằng tôi lại có kim. Chiếc kim của tôi thực vô cùng quý giá, chẳng bao giờ rời khỏi mình tôi; nhưng với chị, tôi có thứ gì để tiếc chị nữa. Bởi vậy, tôi nói với chị là tôi có kim. Mắt chị mở to, miệng chị mấp máy như nửa tin, nửa ngờ, cho là tôi nói đùa. Nhưng, nét mặt của tôi đang nghiêm trang nghĩ cách nào để đưa được kim cho chị. Và, tôi đã tìm ngay được một cách. Tôi vội viết: “hãy ngồi xuống, chờ một tí”. Tôi lấy cái kim ra, xỏ vào một sợi chỉ, buộc thắt lại. Nối hai, ba sợi chỉ dài độ 3, 4 mét, rồi buộc một đầu vào một đoạn cọng cuốn chổi thanh hao dài khoảng 2, 3 phân. Tôi trèo lên sàn, gọi chị và viết: Hãy cúi sát xuống nền phía cửa. Tôi sẽ “búng” cái cuống chổi sang. Chị nhặt lấy kéo về. Còn muốn dùng chỉ thêm, ngay trong chăn của trại, cứ cách hai sợi, rút một sợi, không sao cả. Một cái chăn có thể rút được 15, 16 sợi chỉ, mỗi sợi dài trên 2 mét. Tha hồ khâu vá. Sợ mất cái kim, tôi dặn chị, khi nào tôi ho hai tiếng, chị cứ việc khâu. Nếu nghe một tiếng ho, cất ngay đi. Tôi sợ cán bộ bất chợt đi vào, đứng rình thấy chị Bắc khâu, vừa bị tịch thu kim, lại vừa bị cùm nữa. Còn một tội to hơn là…phá hoại tài sản của xã hội chủ nghĩa. Thế là chị có kim. Chị bắt đầu việc khâu vá, trong khi đó tôi gọi anh Nguyễn Lân, buồng số 4, đứng lên nói chuyện… |
|
|
![]()
Post
#68
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu Mươi Sáu
Hai cái áo sơ mi, thay đổi một cuộc đời!... Thuận tiện nhất cho tôi có trình bày ở trên, là viết liên lạc với ba buồng đối diện là 5, 6 và 7. Buồng số 5 và số 7 đã hơi chéo góc với buồng tôi rồi, nhưng khoảng cách cũng còn không xa lắm, nên tấm “bảng” cũng không nhỏ đi mấy. Bây giờ, buồng anh Lân (số 4) lại chéo góc hơi xa, tấm “bảng” vì vậy chỉ còn bé tí. Phải viết chữ lớn hơn mới trông rõ. Tôi và anh Lân cũng cố điều chỉnh mãi, dần dà việc nói chuyện cũng không còn khó khăn lắm. Có lẽ vì suýt soát tuổi nhau, nên anh Lân tỏ vẻ rất thích tôi. Hầu như anh cứ đứng suốt buổi để nói chuyện với tôi. Một phần nhờ tôi ở dẫy phía ngoài, có điều kiện canh chừng cán bộ ngày từ ngoài sân; phần khác, tôi ở xà lim đã lâu, thành tinh, nắm được hầu hết những kẻ hở của cán bộ trông coi xà lim, nên mọi việc nói chuyện với chị Bắc hay với anh Lân đều do tôi chủ động. Bởi vậy, nếu tôi không gọi anh, anh đành chịu. Tôi đã quy định, với chị Bắc khi gọi nói chuyện là “hai tiếng ho”; còn với anh Lân là “hai tiếng khạc”; và với số 7 là “hai tiếng nhổ khô”. Nhưng, tôi không cho buồng này biết điều quy định của tôi với buồng kia! Sau nhiều lần nói chuyện, tôi biết được sơ lược nội dung sự việc của anh Nguyễn Lân như sau: Câu đầu tiên anh viết với tôi, đã làm tôi thật ngạc nhiên và buồn cười: “Nguyên nhân chính làm cho cuộc đời anh bị bắt vào Hỏa Lò là do ‘hai chiếc áo sơ mi’”. Hai cái áo này, đã có lần tôi thấy phơi ngoài sân. Quê anh ở miền “Thắt cổ bồng” của đất nước. Cái miền mà chó phải ăn đá, gà phải ăn sỏi”. Bố anh là một cán bộ ưu tú của cộng sản, đã nằm xuống cho cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp. Vì vậy, anh được coi như thành phần cốt cán, con trai duy nhất của một liệt sĩ. Nhờ đó, khi anh mới học hết lớp 6 Phổ thông Trung học, anh đã được ưu đãi chiếu cố đặc biệt của chính phủ, để đi du học ở Rumanie 5 năm về ngành Quản lý kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa. Một tương lai sáng lạn rộng mở khi anh tốt nghiệp trở về nước. Năm nay, 1965, anh đã bước vào năm thứ tư rồi. Cuộc sống cũng như việc học hành của những sinh viên Việt Nam ở thủ đô Bucharest tuy còn nhiều khó khăn về vật chất, nhưng so với quê nhà, đã như từ đang ăn cơm với rau bây giờ được ăn thêm món cá. Chỉ còn một năm nữa thôi là đã thành đạt rồi; nhưng trong dạ của anh lại không mang niềm phấn khởi; vì nhìn về quê hương Việt Nam, anh thấy đầy dẫy nghèo nàn lạc hậu. Sau hàng chục năm tiến lên xã hội chủ nghĩa, vẫn không có gì thay đổi cả. Vì thế, tuy không quá buồn, nhưng lòng anh cũng chả thấy vui khi sắp được trở về mảnh đất quê hương, để trở thành một cán bộ nồng cốt. Rồi, cuộc đời, cũng như mặt biển, chẳng bao giờ phẳng lặng bình yên mãi…! Anh có một người cậu, em ruột của mẹ. Vì mảnh đất đầy khắc nghiệt của quê anh, người cậu từ trước 1954 đã đi tha phương cầu thực, lang bạt kỳ hồ nổi trôi; hết làm phu phen ở Tân Thế Giới, rồi lại trôi dạt về “mẫu quốc” là nước Pháp. Hiện người cậu, đã có vợ con, làm nghề tài xế Taxi ở Paris, sống một đời thợ thuyền nghèo nàn ở Thủ đô xứ người. Từ khi biết thằng cháu được đặc tuyển đi du học Rumanie, ngay gần cạnh nước Pháp, thôi thì, tình ruột thịt cậu cháu hàn huyên qua những cánh thư thuơng nhớ hàng tuần, hàng tháng. Rồi, kỳ Hè năm ngoái, toàn bộ du học sinh Việt Nam học ở Rumaine được chở đến bờ biển Hắc Hải để cắm trại. Người cậu đã biết do đứa cháu báo tin, nên cũng đem gia đình đi nghỉ mát ở đấy, để gặp thằng cháu đã lâu ngày xa cách. Thật là tay bắt, mặt mừng, cậu cháu, anh em được dịp tỏ bầy lòng thương, nỗi nhớ chất chồng từ hàng chục năm qua. Trong dịp gặp gỡ này, người cậu cho đứa cháu yêu vài món quà vặt vãnh, trong đó có…hai chiếc sơ mi trắng nói trên. Qua những cánh thư trao đổi mấy năm trước đây, theo hình dung của anh Lân, gia đình người cậu làm nghề Taxi, chắc cũng rất là chật vật, thuộc loại dân nghèo thành thị, trong giới cần lao. Với sự tưởng tượng của Lân, từ ống kính nhìn giới thợ thuyền ở quê nhà, nghèo nàn phải ở cảnh mặc quần áo vá, đội mũ bạc màu, gia đình vợ con nheo nhóc, nhếch nhác… Vì thế, do tình quý mến và thương cậu, Lân đã dành dụm được 50 francs, định trong dịp gặp cậu này, sẽ gọi là một chút giúp đỡ mợ và các em. Bởi vì, anh đã được may mắn sắp sửa bước lên giai cấp trên, giai cấp có thế có quyền, nên anh nghĩ phải có trách nhiệm cưu mang họ hàng. Nhưng, khi gặp cậu mợ và các em, anh đã mở to mắt, há hốc mồm, trân trân đứng nhìn đến nỗi quên cả bắt tay người cậu. Gần 50 francs anh dành làm quà cho cậu đã như cục than nóng trong túi quần. Anh cứ cho tay vào túi mân mê, định lấy tiền ra, rồi lại ngập ngừng lấy tay ra; để rồi một lúc sau lại đút tay vào, mất cả vẻ tự nhiên khi anh nói chuyện với cậu mợ. Cuối cùng, người cậu đã đút vào túi cháu 500 francs và nói là vì…cậu quá nghèo, mong cháu thông cảm cho lòng cậu, gọi là của thảo để cháu mua thêm giấy bút, sách vở…(!). Đến lúc này, gần 50 francs trong túi của Lân mới chịu nguội lạnh, nằm yên. Trên đường trở về Bucharest. Tiền thì anh đã giấu kín, nhưng hai chiếc sơ mi thì đã thành một đầu đề, điểm đầu mối để anh em sinh viên suy nghĩ bâng khuâng về cuộc sống con người và xã hội. Ngay chính bản thân anh Lân, cũng từ hai chiếc áo sơ mi này, đến những hình ảnh gia đình của người cậu, đã phải thay đổi nhiều cách nhìn đời. Từ những suy nghĩ này, đẻ ra những suy nghĩ khác. Chính ngay khi ông cậu cho hai chiếc áo sơ mi này đã nói…”đây là loại áo thường cậu mua cho cháu, cậu không dám mua loại sang, e rằng cháu về quê nhà mặc, sẽ không tiện, không phù hợp với môi trường, sinh hoạt của quê hương…”. Hai chiếc áo sơ mi “thường” mà còn làm cho Lân và bao nhiêu bạn học phải ngẩn ngơ về cuộc sống con người, về những viễn ảnh của đất nước xã hội chủ nghĩa. Rồi, chính Lân dần dần chuyển biến tư tưởng, thập thò nhen nhúm ý tưởng sẽ giã từ chủ nghĩa xã hội “ưu việt” của loài người, “đỉnh cao” của trí tuệ, “trái tim” của nhân loại. Để chạy sang với ông cậu sống một cuộc đời…phồn vinh giả tạo, tự do chết đói, đẩy dẫy những lạc hậu và bất công…(!) Vì vậy, trong những lá thư sau, Lân có những lời thăm dò, bóng gió để hỏi cậu xem, Pháp có nhận người tị nạn chính trị chạy sang không? Nhờ cậu chuẩn bị lo trước về công ăn việc làm, cũng như cuộc sống, v.v… Khi ông cậu trả lời, tất nhiên cũng bóng gió xa xôi nhưng Lân cũng hiểu là, cứ đi, cậu sẽ lo liệu mọi vấn đề cho, cậu rất hoan nghênh ý kiến đó của cháu, v.v… Dù chỉ là những lời bóng gió, nhưng những lá thư như vậy Lân đều đốt hủy đi. Ít ngày gần đây, tự nhiên như do linh tình, Lân cảm thấy tâm hồn bất an, dù anh vẫn tiếp tục học hành bình thường. Nhưng, rồi anh vẫn không nhận thấy một hiện tượng gì để cho mối lo ngại băn khoăn của anh có cơ sở. Anh cho rằng, chẳng qua, vì lòng đã có ý định chuồn, nên có tật thì giật mình mà thôi, anh lại bỏ qua những băn khoăn anh đã cho là vô căn cớ đó. Cho tới hơn một tháng trước đây, đột nhiên anh nhận được một tờ điện tín từ quê nhà là mẹ anh bệnh sắp chết, phải về ngay. Anh cầm bức điện lên anh tổ trưởng, đồng thời cũng là Bí Thư Chi Bộ, với nét mặt đầy băn khoăn lo lắng, nên về hay không về? Vì, tuy anh là con trai duy nhất, nhưng anh cũng biết rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tình cảm gia đình không phải là một vấn đề lớn lắm. Anh lại sắp ra trường. Bài vở của năm cuối rất nhiều. cho nên, chưa chắc Chi Bộ Đảng đã đồng ý cho anh về. Nhưng, thật là bất ngờ, kh6ng những anh không gặp những lời ngăn cản hay phản đối, mà lại là những lời thúc giục, khuyến khích anh phải về. Nào là, mẹ anh chỉ có một mình anh là con, đời bà đã đau thương quá nhiều, cha anh đã hy sinh cho Tổ Quốc khi mẹ anh còn quá trẻ v.v… Anh đã được tổ chức lãnh đạo lo liệu cho giấy tờ thuận tiện, vé tầu, xe cả về lẫn đi trong nửa tháng. Cùng về với anh cũng có một đồng chí ở sứ quán Việt Nam tại Bucharest. Khi về tới Mạc Tư Khoa, qua thái độ của người đồng chí mà anh phải đi cùng, cũng như qua một số hiện tượng, anh cảm thấy như bị theo dõi, và bị giam lỏng Giấy tờ của anh đều do đồng chí sứ quán nắm giữ hết, với lý do là đồng chí ấy có trách nhiệm trình báo, cũng như lo liệu giấy tờ trên đường về. Chính anh Lân, cũng là người tinh quái, sau một đêm suy xét, tính toán, cảm thấy lần này về không ổn chút nào cà. Nhưng biết làm sao, anh hoang mang cùng độ, biết trở về đến Việt Nam là có chuyện. Vì thế, ngay sáng hôm sau, một mình anh lần ra phố, vẫy một chiếc Taxi, bảo chạy bừa đến tòa đại sứ Pháp. Thực ra, vì anh lo quýnh quá rồi, thấy mình từ từ lăn xuống hố mà không còn bấu víu vào đâu, nên đành liều chạy đến tòa đại sứ Pháp v.v… chứ anh chả biết một chữ Pháp nào, thì biết ăn nói làm sao đây. Sau khi trả tiền xe Taxi, anh thấy ngôi nhà có lá cờ Phap thì xông bừa vào. Lúng ta, lúng túng, ngôn ngữ bất đồng, chẳng ai hiểu ai. Nhất là, khi tòa đại sứ Pháp thấy thái độ của anh nhớn nhác, lo sợ, cứ hai tay chấp lại, lạy xin cứu mạng, rồi định chạy vào chỗ kín để trốn nấp; nên họ đã đưa anh ra xe, đem trao trả cho nhà chức trách Liên Xô. Để rồi, cuối cùng anh bị giong về Việt Nam. Đi qua Trung Quốc, trên đường về, bây giờ kèm thêm một người nữa có vũ trang. Khi về tới Hà Nội, họ đưa ngay đến Hỏa Lò và vào thẳng xà lim (mà tôi đã nghe thấy tiếng giầy cồm cộp độc đáo hôm nọ). Nhìn anh viết kể lại, biết được chuyện của anh, tôi cũng thấy buồn và tiếc cho đời anh. Ngay sau khi anh kể xong sơ lược sự việc bị bắt, tối hôm đó, tôi lại gọi anh đứng lên trao đổi tiếp. Tôi hỏi anh là, gần một tháng nay, anh đi cung kẹo thế nào? Sao anh không dứt khoát chối là không hề có ý định chuồn sang Pháp? Anh trả lời tôi rằng, ngay từ đầu, anh đã khăng khăng một mực là không và chưa bao giờ anh lại có ý định sang Pháp cả. Anh đã tận dụng đủ mọi lý do. Nào là, anh không khi nào lại dại, thả mồi bắt bóng, sắp tốt nghiệp, nghiễm nhiên là một cán bộ có khả năng và có uy tín của nhà nước; nào là, anh còn người mẹ kính yêu, không lẽ lại lỡ lòng bỏ mẹ lại bơ vơ một mình…Dù chúng có dọa nạt, trước sau, anh cũng vẫn một mực chỉ khai như vậy. Còn lý do vào tòa đại sứ Pháp, anh nói là vào lầm chỗ. Anh định đến tòa đại sứ Rumanie để nhờ họ chuyển một chiếc khăn tay kỷ niệm cho một người bạn gái Rumaine; chứ anh không biết một chữ Pháp nào cả, vậy đến tòa đại sứ Pháp để làm gì… Mãi cuối cùng, chấp pháp đưa ra hai tấm hình “photocopy”. Một tấm là của một tờ giấy…nháp lá thư anh gửi cho ông cậu. Tờ giấy này, anh đã xé nhỏ, bỏ trong sọt rác, thế mà, trong anh em sinh viên đã có người theo dõi ngấm ngầm, nhặt hết và ghép lại để “photo”, còn một tấm nữa là bức thư của ông cậu gửi cho anh (chúng đã bóc ra đem chụp, rồi dán lại như cũ, anh vô tình nên không biết). Vì thế, anh không còn chối cãi được nữa. Anh đứng nhìn tôi, tôi nhìn anh. Trông anh mặt mũi cũng sáng sủa, có hai cái tai vều ra hai bên thật to như tai con dơi. Dáng anh cao cao. Tôi cứ tưởng tượng anh mặc áo “ba đơ suy”, đi đôi giầy cồm cộp. Chợt, tôi nhớ đến câu nói của tên Bí thư Chi bộ sinh viên Việt Nam ở Rumaine: …Anh phải về vì mẹ anh đã đau khổ nhiều. Khi cha anh đã hy sinh cho Tố Quốc, mẹ anh hãy còn quá trẻ…!”. Vậy, bây giờ anh Lân đã trở về đấy, và chúng còn cho anh vào…”ấp” nữa. Chắc tên bí thư kia nghĩ rằng người mẹ đã rất vui mừng và tự hào có một người chồng đã hy sinh vì chống Pháp, và bây giờ, bà cũng rất hân hoan sung sướng, hả hê vì đảng đã bắt con bà, một tên phản động định chuồn ra nước ngoài. Phải cho nó cực khổ chết dần trong ngục tù (!). Buổi tối hôm đó, đã muộn, tôi vẫn chưa ngủ được. Câu chuyện đời anh Lân vẫn còn làm đầu óc tôi bồng bềnh với nhiều ngả ngược xuôi của cuộc đời. Bỗng, đèn phụt tắt! Tiếng còi báo động lại hồng hộc, ùng ục như tiếng nấc nghẹn, rồi ré lên một hồi dài u ử. Tiếng rú hãi hùng của hồi còi chưa hết hơi, thì những tiếng nổ đinh tai nhức óc đã bắt đầu rền vang kéo dài. Những lằn chớp xanh lè cả bức tường trắng trước mặt. Tôi tung chăn ngồi bật dậy. Lúc này những tên cán bộ ở Hỏa Lò đang chúi đầu vào “tăng xê”. Vậy là, tôi lại tha hồ thoải mái, kê hẳn một cái chăn lên sàn để đứng cho cao. Tôi đứng sát cửa sổ, nghiêng nghiêng ngó ngó ra ngoài trời. Cả một vạt trời phía Đông Bắc mầu tím thẫm. Từng chuỗi, từng chuỗi những dây chỉ bằng lửa, sợi to, sợi nhỏ, sợi cong cong thun thun, sợi thẳng tuột, vắt ngang, vắt dọc chọc tuốt lên bầu trời; trông nhiều lúc cứ như tuyết rơi vào một đêm Đông trên…màn ảnh ấy. Điều khác là những luồng sáng trắng lại rơi ngược từ đất lên trời và đủ màu xanh, đỏ, da cam, trắng bạc…Trong bức tranh “tuyết rơi ngược” ấy, vẫn có những luồng sáng trắng bạc vun vút chạy ngang, chạy dọc; có lúc quay vòng, vẽ lên những đoạn cung bằng lửa trắng, hoặc mầu da cam vàng ối, ánh cả vào trong xà lim của tôi. Đột nhiên, giữa màn tím thẫm ấy lóe lên một làn chớp làm lóa mắt, rồi một tiếng nổ tưởng đến xé tai của tôi. Một tiếng “choeng” ở ngay sân xà lim bật lóe ra những tia lửa xanh lè làm tôi giật mình, hụp vội đầu xuống, tưởng như một quả bom rơi. Tôi vừa gượng đứng lên, vừa mỉm cười tự chế nhạo mình, sao mà tôi can đảm thế! Thôi, tạm tha thứ, chỉ vì đầu óc đang quá say sưa nhìn ngắm bức tranh muôn mầu hào quang, nên đã không kịp phân biệt rõ ràng. Đó cũng chỉ là một phản xạ tự nhiên mà thôi. Không khí đặc quánh lại, mùi mặn chua của thuốc nổ khích thích vị giác, khiến tôi thấy thèm thèm. Tự dưng cánh mũi tôi phập phồng, ngực tôi như to dần, rồi căng lên, hít sâu mãi vào cho đầy ắp hai buồng phổi cái mùi thuốc nổ say sưa ấy. Chợt, chẳng hiểu vì đâu, tôi nảy lên trong óc một ý nghĩ, một ước muốn thì đúng hơn, len lỏi vào tâm tư là được một quả bom rơi xuống giữa sân Hỏa Lò! Có thể có nhiều người chết, kể cả tôi. Thế là hết cảnh đọa đầy! Nhưng chắc mũi tôi sẽ được hít ngửi mùi, ngầy ngậy, mằn mặn chua chua ấy một cách thỏa thê. Đột nhiên, một tiếng nổ lớn rất gần, ngay đâu đây. Tôi nhìn thấy những chiếc lá bàng rung giật lên, rồi rơi xuống một loạt. Có những chiếc là còn xanh nguyên đang chao đảo lao xuống đất, dù gió chỉ nhè nhẹ, hiu hiu. Cả cái lưới thép tôi đang tì trán vào cũng rung lên. Tiếp theo là những tiếng lộp độp trên mái ngói, tiếng choeng choeng ở sân trong và sân ngoài. Phải nói, từ ngày tôi dọn sang buồng 11 tới nay, đã nhiều đêm, nhiều buổi tối, cả ban ngày, tôi đã được nhìn theo dõi những trận không tập của máy bay Mỹ, cũng như sức chiến đấu, chống trả từ mặt đất. Nhưng, chưa có trận nào vừa lâu, vừa hứng thú như trận đêm nay. Tôi đang mải mê đôi mắt, về góc trời hướng Đông, theo hai đốm lửa to mầu da cam chạy vùn vụt qua những sợi dây lửa xanh đỏ lao xuống đất với góc xiên độ 30 độ, thì một tiếng gào rít lên, tưởng như có sức đè đổ cả cây bàng, và làm sập cái xà lim tôi đang đứng, đến nỗi tôi vội vàng giơ một tay lên đầu như chống đỡ. Quả thực, có một luồng gió ào ào quạt qua những chiếc lá bàng giẫy lên đành đạch, rồi thốc vào xà lim, làm tóc tôi bay ngược ra phía sau. Hơi hồi hộp mà thực say mê. Giá mỗi đêm có một trận thế này, thì cảnh đời ở xà lim đỡ sầu biết mấy! Tôi thấy hứng áu liền ho hai tiếng. Mãi một lúc, tôi mới thấy chị Bắc nhô đầu lên. Tóc chị rối bù, dáng dấp chị còn rụt rè, tôi buồn cười, viết mấy chữ hỏi: - Đầu óc và mặt mũi chị làm sao thế? Bàn tay của chị còn run run, viết nguệch ngoạc: - Tôi sợ quá, phải chui xuống dưới dầm sàn! Thực ra, trong lúc này máy bay bắn phá, đèn đóm trong Hỏa Lò tắt hết. Nhưng, nhờ ánh lửa của đạn, bom nổ chớp sáng bầu trời, ánh vào cả trong xà lim, nên chúng tôi cũng có thể trông rõ nhau. Tuy vậy, để dễ đọc ra chữ, tôi và chị đã phải viết nét lớn hơn, như thế mới một ý tưởng, một câu nói, phải viết lâu hơn, hoặc chỉ viết ý chính trong câu để người kia đoán hiểu ra. Thấy chị viết trả lời như vậy, tôi thầm nghĩ thế mà chị lại nói chị không thiết tha gì đến sự sống nữa. Bây giờ, chị lại làm như vậy. “Nói dậy mà không phải dậy”. Câu này phải nói theo giọng miền Nam mới hay. Tuy nghĩ như thế, nhưng thông cảm vì dù sao, chị cũng là phụ nữ, đêm khuya, một mình một buồng trong xà lim án chém này. Máy bay gầm rú, súng, bom nổ rát ràn rạt, nhà cửa rung lên như trời sắp sập. Có khi mấy buồng kia, ngay đàn ông, cũng chui xuống gầm sàn, huống chi là chị. Vì vậy, tôi cười và động viên chị, đại ý là: - Chị thử nghĩ xem, nếu bom rơi trúng, hay sát gần đây, dù có chui xuống dưới gầm sàn, tôi và chị cũng cứ dắt tay nhau cùng về bên kia thế giới. Còn như bom không rơi, việc quái gì phải chui vào gầm sàn cho khổ. Hãy như tôi, từ đầu trận đánh tới giờ, tôi nhìn say mê một bức tranh hào quang muôn màu. Bức tranh tuyệt vời ấy lại có cả âm thanh nữa. Ngoài ra, người họa sĩ lại vừa xóa đi, lại vừa chấm phết thêm nhiều nét mới. Cũng cùng một chiếc khung, nhưng luôn luôn biết đổi màn ảnh. Thấy thái độ của tôi như vậy, chị cũng có vẻ đỡ sợ. Tôi quay ra sân, vì tai tôi chợt thoáng “nghe” tiếng chân người. Phải nói, do sự cảnh giác cao độ luôn sẵn có trong tiềm thức mình; nên tôi “nghe” được tiếng bước chân người, hoàn toàn là do ‘trực giác”; chứ làm sao mà “nghe” nổi tiếng bước chân đi, hay chạy, trong lúc đạn nổ, bom rơi ầm ầm ngoài kia! Chà, tên Nhiễm. Y đang đi cúi đầu lao về phía trước. Y chỉ mặc mỗi cái quần xà lỏn, chạy như điên, chúi xuống cái hầm cá nhân ở một góc sân xà lim. Cũng may, y mải chạy, chả còn hồn vía đâu mà ngửng đầu lên. Giá ngửng lên, chắc y đã thấy tôi rồi. Tôi cũng hơi giật mình vì bất ngờ. Tôi không thể nghĩ đang lúc tên bay đạn nổ, lại có một tên cán bộ chạy vào như vậy…Lúc tôi quay lại, chị Bắc đã “biến mất” rồi. Trận không tập này tương đối khá lâu, có lẽ gần hai tiếng đồng hồ. Như vậy, Mỹ phải huy động rất nhiều loại máy bay, ở nhiều tầng khác nhau, từ nhiều hướng khác nhau, thay nhau quần đảo với những bài bản của nghệ thuật không tập. Ngược lại, phía dưới đất chắc cũng phải “vãi” ra không biết cơ man nào là đạn, là tên lửa; cứ như bắp rang suốt gần hai tiếng đồng hồ, trong phạm vi ít nhất mỗi bề 20 cây số, như vậy là từ 4 đến 500 cây số vuông… |
|
|
![]()
Post
#69
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu Mươi Bảy
Bản di chúc “sống” của Đào Thị Bắc… Những ngày sau đó, càng chìm sâu vào mùa Đông, trời càng lạnh. Mùa Đông thứ tư của tôi. Dạo này, chấp pháp hình như quên hẳn tôi, không còn gọi đến nữa. Chị Bắc càng ngày trông càng thảm thương, chùm tóc bạc trên đầu chị ngày càng rộng ra. Ngay suất cơm hàng ngày, chị cũng ăn không hết. Trong khi đó, tôi ước gì mỗi bữa đuợc ăn 3 suất. Thấy tình trạng của chị như vậy, tôi rất lo lắng cho sức khỏe của chị. Tôi dùng đủ thứ để động viên chị. Nhưng, mặt mày của chị luôn luôn như tàu lá héo úa của những ngày cuối Thu, không làm sao mà tươi hơn được. Thấy suất cơm của chị cứ để thừa, có khi là một phần ba, một phần tư; thậm chí, đôi khi đến một nửa. Như thế, chị sẽ chết mất thôi! Còn tôi, tôi cũng có điều khó khăn tranh đấu với chính mình. Nhiều lần, tôi ngập ngừng định mở miệng nói với tên Dư xin chỗ cơm ấy; nhưng sợ lão nghi ngờ có sự liên hệ giữa hai người miền Nam. Phần khác, cũng thấy ngượng ngùng. Cho nên, nhiều khi, tiếng nói tưởng như đã ra tới cổ họng rồi, nhưng lại phải nuốt sâu xuống, và đôi chân lại tiếp tục chậm chạp, dùng dằng đi vào buồng. Hình như tên Dư cũng thấy, và hiểu ra những phút ngập ngừng, đắn đo đó của tôi; cho nên một hôm, sau khi các buồng trả bát hết, y vào mở cửa buồng tôi, nói vừa đủ nghe: - Anh có đói ra lấy bát cơm vào mà ăn ... Được lời như cởi tấm lòng, mắt tôi sáng lên nhìn y và nhanh nhẹn chạy ra. Ở chõng cơm, một bát cơm đã ăn đúng một nửa bên bát, còn nửa bên này để nguyên. Tôi cầm vào, chỉ ăn hai phút là xong, vì không muốn làm mất nhiều thì giờ của y. Dù vậy, lão Dư cũng để tới 10 phút sau, mới vào mở cửa để tôi đem bát trả. Khi hết giờ, tôi gọi chị Bắc đứng lên, nói thẳng cho chị biết sự việc như vậy. Mắt chị long lanh, môi chị run run xúc động. Nước mắt chị chảy dài bên gò má. Chị quay vào tường viết: - Anh hãy cố gắng ăn đi. Anh còn trẻ, anh cần phải sống, để còn làm nhiều việc. Được ăn thêm cơm, nhưng trong hoàn cảnh này, tôi không cảm thấy vui gì. Tuy rằng tôi không bảo chị nhường cơm cho tôi, nhưng tôi vẫn thấy lòng bứt rứt. Cuối cùng, tôi phải ra điều kiện với chị. Mỗi ngày, buổi sáng chị phải cố gắng ăn hết suất cơm; buổi chiều để lại một nửa, tôi mới xin ăn. Nếu không, tôi cương quyết không ăn nữa. (Bởi vì, mấy ngày trước đó, bữa ăn sáng và cả bữa chiều, mỗi bữa chị đều để lại nửa suất). Có lẽ tên Dư cũng thấy kỳ này chị ốm yếu quá, vì thế, thỉnh thoảng, sau khi cho hết các buồng ra đổ bô rồi, y vào mở cửa buồng số 6, nói gì đó. Sau đấy, tôi thấy chị Bắc đi sâu vào phía buồng số 9 bên trong; rồi tôi nghe tiếng mái chổi quét rào rào, nhè nhẹ, càng lúc càng nghe rõ dần ra phía ngoài này. Khi chị quét qua buồng tôi, tôi cúi mặt xuống sát nền để nhìn. Bổng tôi thoáng thấy một bóng khác nhấp nhoáng, chỗ tối chỗ sáng ở lối đi nơi chị Bắc đang quét. Phản xạ cấp thời, tôi nhẩy lẹ lên sàn nằm nhắm mắt. Đúng lúc ấy, cửa con xoạch mở: mặt tên Dư. Cửa nhỏ lại đóng vào! Tên Dư này, trông vậy, cũng quái lắm. Y nghi giữa tôi và số 6 có thể có liên lạc với nhau. Y dự đoán, lúc chị Bắc quét ngang buồng tôi, có thể tôi sẽ cúi xuống khe cửa để tìm cách liên lạc. Do đó, từ ngoài y đột xuất vào mở cửa buồng tôi, để xem xét. Nhưng, thấy tôi vẫn nằm, như chẳng để ý gì đến số 6. Chắc rằng y sẽ cho là mối nghi ngờ của y trước đây, nếu có chút nào, là không đúng. Hoặc ít ra, mối nghi ngờ ấy sẽ thu bé lại. Khi chị Bắc quét ra tới ngoài sân, tôi nghe ngóng, phán đoán xem tên Dư hiện đang đứng ở đâu và đang làm gì. Trước hết, phòng hờ phía sau lưng, tôi để mắt sát xuống nền nhìn qua khe cửa, quan sát lối đi giữa hai dẫy buồng xà lim: không có gì. Như vậy, có thể tên Dư ra ngồi lại ở bàn trực, hoặc đứng ở sân? Làm thế nào để biết rõ được đây? Chỉ cần thoáng nhô cái đầu lên khung cửa sổ to nhìn ra sân xà lim, là người ở ngoài thấy ngay. Ác một cái là khi nhô đầu lên để cho tầm mắt vừa đủ quan sát, cái đầu tóc thò lên trước rồi. Chợt, tôi nghĩ ra một cách. Nếu tên cán bộ nào đang đừng ở sân để theo dõi, quan sát các cửa sổ; trong tâm y là chờ thoáng nhìn cái “đầu tóc đen” thò lên là biết ngay. Vậy, bây giờ tôi sẽ ngửa hẳn mặt lên trần, rồi từ từ nâng cao lên đến mép dưới của cửa sổ, mắt tôi sẽ liếc ngang. Vì mang tâm niệm trên, nên cán bộ sẽ không để ý mép dưới cửa sổ. Chà, tôi đã thoáng nhìn thấy tên Dư đang đứng ở sân, đưa mắt nhìn khắp các cửa sổ của các buồng. Tôi im ắng tụt nhanh xuống. Chừng 5 phút sau, tôi lại làm một “cú” y như vậy nữa. Tôi vẫn còn thấy y đi đi lại lại ở sân, mắt vẫn không rời các cửa sổ. Đột nhiên, y đi vào với dáng vẻ vội vàng. Vậy là y đã nhìn thấy buồng nào đã đứng lên? Tôi hơi chột dạ, vội vàng nằm ngay xuống, đắp chăn. Tiếng mở cửa sổ nhỏ của buống số 14. Giọng tên Dư vang lên, sắc và lạnh: - Anh đứng lên làm gì? Một giọng yếu ớt, run run ngắt quãng: - Thưa cụ, tôi xin lỗi cụ, xin cụ tha cho! Tên Dư quát to, vẻ rất bực tức: - Anh ngậm miệng anh lại! Anh bỏ chân vào cùm ngay! - Tôi xin nhận lỗi! Sau, tôi xin hứa không bao giờ tái phạm. - Tội của anh đang như tày đình, không biết lo, không dốc một lòng sám hối, thì không còn có ngày về với vợ, với con! Tôi mà bắt được một lần nữa, vừa cùm, vừa ghi hồ sơ! Rồi, tiếng cửa nhỏ nghe đóng đến “xập” một cái như tức bực. Qua sự việc náy, tôi nhận thấy hai điểm: 1. Phương pháp quan sát của tôi hữu hiệu. Tôi đã đứng lên, nhìn ra sân 2, 3 lần, tên Dư đứng ngay ở sân rình mà không biết. 2. Kết hợp với một sồ lần trước đây, tôi có thể kết luận: - 3 lần trước, ở những tháng trước, khi bắt được số 8 có lưỡi “lam”, Dư chỉ mắng và tịch thu; số 10 đứng lên nhìn ra ngoài, và số 1 nói chuyện với số 3, y đều quát, chửi, nạt nộ, rồi cho một màn lên lớp chứ không cùm. Ngược lại, hai lần khác, một lần tên Bằng bắt được buồng số 12 đứng lên, khi bất chợt y từ cổng xà lim đi vào, y báo cho Dư (là cán bộ đang trực chính xà lim). Hôm sau, tên Dư đã cùm buồng số 12, mặc cho lạy van xin tha. Một lần, vào buổi tối, mụ Hoa vào buồng tắm gội, đã bắt gặp buồng số 3 đứng lên. Sáng hôm sau, Dư vào sớm, cùm buồng số 3. Tại sao như vậy? Chỉ có thể giải đáp: tên Dư đã khôn khéo xử thế theo lối “nhất cử, lưỡng tiện”. Chính y bắt được tù dưới quyền y trực chính, phạm nội quy, y chỉ giáo dục ngăn ngừa, không cùm. Đối với tù, như vậy y là người có lòng nhân có độ lượng; đối với tổ chức, với cấp trên, những người tù y coi ít phạm nội quy chứng tỏ được là y có uy, có khả năng giáo dục nên tù không hề phạm nội quy, phải ngoan ngoãn mọi bề. Ngược lại, tù để cho cán bộ khác bắt gặp phạm nội quy dù nhẹ, y cũng không tha, tỏ rằng cứng rắn, chuyên chính với kẻ thù. Tóm lại, tôi đã nắm được ý của tên Dư. Sau đấy, nếu cần hoạt động hay nhấp nhỏm gì, cứ đợi giờ, ngày lão ấy trực. Ngay chiều hôm ấy, tôi gọi chị Bắc đứng lên, để dặn dò một vài quy định cho chắc ăn: khi chị ra sân, nếu tôi ho một tiếng là ý hỏi có cán bộ đừng rình không; nếu y ngồi ở bàn, chị ho trả lời một tiếng. Im lặng là có cán bộ rình. Khi tôi đã đứng, tôi chỉ cần để ý phía cổng sợ bất chợt có cán bộ nào khác ở cổng đi vào. Vậy, nếu cán bộ ở bàn đứng dậy đi ra sân, chị đưa tay gãi đầu, tôi sẽ hiểu và thụt xuống; hoặc y đứng lên đi vào phía trong, có nghĩa là y vào rình mở cửa nhỏ, chị cứ ra hiệu tay vẫy ngồi xuống. Thực ra, khi một người ra sân, giữa sân, giữa ánh sáng chang chang ở ngoài trời, mình có đứng lên cũng chỉ là để nhìn nhau, thỉnh thoảng cười, để cho mắt mình thấy một người bạn đồng loại; chứ ngày nào cũng nhìn thấy tên áo vàng, tuy cũng là đồng loại nhưng không phải là bạn, vẫn cảm thấy khô khan, cô đơn nặng trĩu một bên lòng. Hai hôm sau, chị Bắc lại được ra quét nữa. Khi chị quét ngang buồng tôi, tự nhiên tôi thấy một gói giẻ buộc lại, to bằng ngón tay nhỏ, nhét vào khe cửa, nhưng hơi khít, nên nhét mãi chỉ vào được một nửa. Tôi lẹ tay, cầm lấy rút vào, rồi giúi ngay vào cạp quần. Một lúc sau, nghe ngóng không có gì, tôi mới mở ra: đó là một miếng giẻ cũ, to bằng bàn tay. Kèm thêm cái kim chị dắt vào bên trong trả lại tôi. Miếng giẻ có thêu chữ, kiểu chữ in, bằng chỉ nhuộm máu; máu đã thành màu nâu xám. Nội dung như sau: Trang con yêu quý, Đây là di vật bằng máu của mẹ. Đời mẹ sắp về với cát bụi. Chú Bình là đồng chí, là chiến hữu của mẹ sẽ thuật lại cho con những ngày cuối của đời mẹ, tại xà lim án chém Hỏa Lò. Một luồng lạnh từ xương sống chạy ngược lên gáy, làm hai tay tôi cầm miếng giẻ cũng như run run. Tôi vừa cảm động trước mối tình mẫu tử thiên liêng, vừa thương cho một người mẹ tàn lụi trong khổ đau, và cay đắng. Tối hôm đó, tôi gọi chị Bắc. Chị đứng lên, mắt đã đỏ hoe. Như vậy là chị đang khóc thầm một mình. Chị lấy khăn lau nước mắt rồi viết cho tôi: - Rồi đây, trong muôn nẻo cuộc đời, anh hãy cố gắng tìm hỏi, giúp đỡ cháu Trang. Dù tôi có nhắm mắt, vẫn một lòng tin nơi anh không bỏ cháu Trang. Đấy là giọt máu duy nhất của tôi còn lại trên cõi đời này. Thấy chị quá khổ đau, lại năn nỉ khẩn khoản, tôi đành phải nhận lời cho chị vừa lòng. Chứ trong lòng mình, tôi tự hiểu, đã rơi vào tay cộng sản, ngày về cũng như lá bàng giữa mùa Đông vậy. Chị cũng nói lên một ước nguyện của chị là nếu sau này, Trời Phật thương cho chị không chết, và có ngày được thả ra, chị nguyện tìm đến ngôi chùa Cao ở Bắc Ninh để thế phát ăn mày cửa Phật. Qua ý kiến đó, tôi thấy chị thật lạc hậu. Lạc hậu ở chỗ chị nhìn và xét về cộng sản 5 năm về trước cũng giống như 5 năm về sau. Chị chưa thấy được rằng, khi mới chiếm được toàn bộ miền Bắc, chúng còn nhiều việc khác cần phải lo ngay, lo trước đã: đó là quốc phòng và an ninh. Quốc phòng phải mạnh. Còn an ninh, bất cứ chuyện gì về chính trị, chúng phải làm ngay; lấy bạo lực của quốc phòng giải quyết tận gốc. Còn các vấn đề khác, sẽ dần dần. Vững cái này rồi mới nói tới cái kia. Khi được cái kia, mới hỏi tội cái này, v.v…Về vấn đề tôn giáo, chúng chủ trương sẽ diệt sạch. Nếu còn phải để tôn giáo, dưới hình thức nào đó, chẳng qua vì những điều kiện khác, vì cái thế của chúng, vì còn một nửa nước là miền Nam nữa; cho nên, chúng chưa thể ra tay diệt sạch tôn giáo miền Bắc. Nhưng, vì vấn đề an ninh xã hội, chúng phải bóp chặt tôn giáo, hoặc sẽ thay đổi nội dung. Bình cũ, rượu mới. Hình thức tôn giáo vẫn thế, nhưng do người của chúng điều hành. Đừng hòng một cá nhân nào đó tự tìm đến chùa, tìm nhà thờ, để đi tu theo ý mình. Tuy hiểu như vậy, nhưng trong tình cảnh này của chị, hãy để chị hy vọng, ước mơ. Thái độ của tôi phải làm như vậy, trong lòng tôi lại càng dào dạt thương chị hơn. Tôi đã hình dung thấy con đường chị sẽ phải đi tới. Nếu không chết trong tay chúng, chị cũng bị đầy đi một công nông trường hẻo lánh nào đó cho tới khi chị tàn lụi gục xuống ở đấy mà thôi, chứ đừng hòng chúng buông tha. Mấy ngày hôm sau, tên Dư lại mở cửa buồng cho chị ra quét nữa, nhưng chị đã mệt quá rồi. Mấy lần trước, chị cố gắng ra quét, mục đích là để đưa trả cái kim và gửi lá thư máu cho tôi. Chị ăn uống như vậy, ngay đứng hay ngồi, cũng hoa mày, chóng mặt, huống chi là quét dọn. Do đó, chẳng hiểu tên Dư cân nhắc, suy nghĩ ra sao, y lại mở cửa buồng tôi, bảo tôi lấy chổi ra quét. Được ra quét dọn, đối với cảnh sống ở xà lim, là một…ân huệ. Bất cứ người tù nào cũng muốn ra khỏi căn buồng chật hẹp của mình. Ra ngoài, vừa thênh thang, vừa có không khí trong lành, chỉ trừ quá ốm yếu, không kể. Vì là lần đầu tiên được quét dọn, tôi tỏ ra hết sức ngoan ngoãn. Trong thực tế, tôi chưa hề vi phạm một điều khoản nội quy nào của xà lim cả. Dùng chữ thực tế không đúng lắm, phải nói là y chưa bắt được tôi, hoặc cán bộ khác, cũng vậy. Vã lại, như tôi đã trình bày, y có một chút thiện cảm với tôi. Tuy nhiên, vì tôi đã có lần toan vượt ngục, thêm vào đó là ý chí phấn đấu để còn sống của tôi, mà y đã nhiều lần thấy, cũng làm y “nể” và e ngại. Vì thế, tuy cho tôi ra ngoài làm vệ sinh, nhưng y vẫn để ý coi chừng và theo dõi. Người tôi, dạo này trông đã đỡ hẳn. Những bắp tay, bắp chân của tôi đã có thịt nhum nhúm lên. Những khi ngồi không buổi tối, tay tôi xoa xoa bóp bóp chỗ bắp thịt, lòng tôi vui buồn lẫn lộn. Vui mừng vì thấy cơ thể mình có sức hẳn lên, nước da tay chân đã đỡ xám xanh đi; nhưng, buồn vì máu thịt này là của chị Bắc. Gần hai tháng nay, trừ những hôm cá biệt do cán bộ khác không kể, còn thì ngày nào cũng có thêm nửa suất cơm. Tôi có xương thịt ra, trong khi chị Bắc lại càng ngày gầy đét lại, làm sao lòng tôi yên được. Đã có lần, tôi gọi chị Bắc và vờ nói là kỳ này tôi hay bị đau bụng lắm; cho nên không thể ăn thêm cơm được nữa. Tôi cũng nói với tên Dư như vậy. Mục đích của tôi là, nếu tôi không ăn nữa, chị Bắc phải cố mà ăn hết. Nhưng, sau đó 5 ngày liền, tôi vẫn thấy chị để cơm dư như vậy, không biết phải làm sao hơn, đành phải xin tên Dư để ăn lại. Trong lòng tôi vẫn bị dằn vặt, giữa việc nhìn thấy sức khỏe mỗi ngày mỗi hao mòn của chị Bắc và cái đói của bản thân mình trước những bát cơm thừa, chắc sẽ đổ đi khi trả về nhà bếp. Ngày ngày, nhìn tấm thân ốm yếu, tiều tụy của chị Bắc, tâm trạng của tôi như trong gia đình có người ruột thịt bị bệnh nặng sắp chết vậy. Dần dà, ngay việc đứng lên viết, nói chuyện với tôi, chị cũng chỉ chịu đựng được 5, 10 phút là cùng, rồi lại ngồi xuống. Nhìn chị thiểu não, mỗi khi đứng lên ngồi xuống phải vịn hai tay vào tường, mái đầu có chòm tóc bạc càng trắng ra đang ngoẹo một bên gục vào tường. tự dưng một niềm xúc động dào dạt dâng lên trong lòng làm tôi muốn khóc. Tình đồng chí, nghĩa đồng bào tràn ngập hồn tôi. Một buổi sáng, sau khi cơm nước và trả bát xong, tôi đang nằm ngóng chờ tên Dư ra khỏi xà lim, để tôi gọi chị Bắc nói chuyện, thì lại có tiếng chân y đi vào. Mở cửa buồng tôi, tên Dư nói nhỏ đủ một mình tôi nghe: - Anh ra đây, tôi nhờ một tí! Tôi vội vàng theo y ra! Tới buồng số 13, y lại nói cũng với giọng nho nhỏ: - Anh về buồng, lấy cái bô của anh, và cái chổi, lấy nước dội, rồi quét sạch từ trên sàn trở xuống hai buồng số 13 và buồng số 2. Tôi nhanh nhẹn về buồng lấy cái bô và chổi vào nhà tắm lấy nước. Vừa mở vòi, tôi vừa suy nghĩ: cũng may, từ ngày tôi vào xà lim I đến nay đã gần hai năm rồi, tôi vẫn có ý muốn nhìn hai căn buồng này xem nó ra làm sao, mà chưa có dịp, hôm nay lại được quét rửa. Điều này, như vậy, cũng nói lên là tên Dư có phần tin tưởng tôi thêm. Có lẽ y thấy tôi nhiều lần ra quét dọn, chả có tò mò, hoặc vi phạm những điều cấm kỵ quy định trong xà lim. Hai buồng này, lúc mới bước chân vào, điều đầu tiên đập vào mắt tôi là cái màu ghê rợn của toàn bộ căn buồng: bốn bức tường và cả dưới nên đến trên trần, tất cả đều quét vôi đen, làm cho toàn bộ căn buồng tối om, đượm đầy không khí tù ngục, thê lương, ảm đạm. Hai cái cùm nằm hai bên sàn cũng đen ngòm. Trên tường, ngay thẳng đối diện với cửa ra vào, có treo một tấm bảng gỗ kích thuớc khoảng 80x40, viết bằng sơn trắng trên nền màu đỏ loét: “Đây là nơi thực dân Pháp đã giam hãm, cùm kẹp, đầy đọa đồng chí Trần Đăng Ninh”. Đó là câu ở buống số 13, còn ở buồng số 2 cũng viết như vậy, chỉ thay vào tên khác là “Hoàng Văn Thụ”. Lúc quét dọn xong, cũng là lúc hết giờ buổi sáng, tôi về buồng. Buổi trưa hôm đó, tôi loay hoay lấy đầu mũi kim cậy nhiều chỗ trên tường trong buồng mình, tôi thấy có chỗ tới 8 lớp vôi quét. Như vậy, từ khi xây lên xà lim này đã được quét vôi ít ra là 8 lần rồi. Trong 8 lớp vôi đó, tôi thấy chỉ có hai lần màu vàng, và 6 lần màu trắng. Không hề có một lần quét vôi đen nào cả. Như vậy, rõ ràng lớp vôi đen ở hai buồng số 13 và số 2 là do chúng quét thêm lên, mục đích lòe bịp với những phái đoàn tham quan là thực dân Pháp dã man, dùng màu đen để uy hiếp tinh thần người tù, và để cho cảnh ngục tù của thực dân Pháp thêm rùng rợn, dã man, tàn khốc hơn. Hôm nay, là ngày tắm. Khi chị Bắc ra sân phơi quần áo, tôi đứng lên nhìn chị. Tôi giật mình, ngỡ ngàng, dạ tôi xót xa như vò muối. Hai bàn chân của chị phù, tái nhợt. Hai mi mắt của chị mọng lên. Bồi hồi và xúc động, tôi phải cúi mặt xuống, không dám nhìn chị nữa. Mới chỉ bốn, năm ngày không nhìn thấy chị, mà chị đã thay đổi nhanh đến như vậy! Tôi thấy thuơng chị quá! Lúc này, những người họ hàng thân thích của chị, những người của tình báo miến Nam đã đẩy chị xuống vực thẳm của cuộc đời, có ai biết là chị sắp chết không? Có ai còn hình dung ra chị đang đếm từng ngày, đợi chờ giờ về lòng đất trong tăm tối, tủi nhục của một kiếp người hẩm hiu, bất hạnh không?... Giờ đây, tôi ngồi viết lại những giòng này, đã vừa đúng 19 năm rồi. Không hiểu chị Bắc còn sống, đang chìm nổi nơi đâu, hay chỉ còn là một nắm xuơng khô, vùi nông ở một xó rừng heo hút nào đó? Còn cháu Trần Ngọc Trang, mảnh giẻ di vật của mẹ cháu, chú vẫn cón giữ. Mảnh giẻ đó còn máu khô và hơi hướng của mẹ cháu. Lúc này, cháu ở đâu? Phương trời nào? Còn sống, hay đã như thế nào trong những biến thiên, đổi thay của cuộc đời, của đất nước? Làm sao, chú thực hiện được lời ký thác của mẹ cháu bây giờ?... |
|
|
![]()
Post
#70
|
|
![]() Nữ Hoàng Lướt Mạng ![]() ![]() ![]() Group: Sinh Họat Posts: 1,895 Joined: 9-April 08 Member No.: 10 Country ![]() ![]() |
Sáu Mươi Tám
Bí mật về nữ sĩ Thụy An!... Đào Thị Bắc rời Hỏa Lò! Thấm thoát thời gian lại sắp tới Hè, nhìn những chiếc lá bàng mới hôm nào, chỉ nhú một một chúm màu xanh xanh ở những đầu cành, thế mà giờ đây đã căng tròn màu con gái. Ngày ngày đón ánh mặt trời để khoe hương với gió, để lắc lư, lả lơi với đời. Mấy con sẻ lạc đàn đa tình cứ rúc mãi vào những chùm lá. Những chiếc cánh nho nhỏ khỏa đập làm những chiếc lá non rung rinh. Vài sợi tơ trời, bồng bềnh vắt ngang sân xà lim. Lóng lánh màu vàng óng của nắng, như muốn cuốn buộc, níu kéo nàng Xuân sắp từ giã khung trời này để về một phương trời khác. Một cơn gió thoảng nhẹ đẩy mùi hương cuối Xuân vào trong buồng. Tự nhiên ngưc tôi cao dần, mũi tôi cong lên, hít sâu mãi vào cho đầy ắp, cái hương ngầy ngậy của chiều Xuân gần tàn. Một tiếng động mạnh vào cánh cổng xà lim làm tôi giật mình. Cánh cổng từ từ mở to, tôi vội vàng ngồi thụp xuống, lòng hãy còn lâng lâng luyến tiếc bẩu trời cuối Xuân. Những tiếng bước chân lẹp xẹp đi qua sân xà lim. Bất chợt vang lên một câu: “turn right here!” của một người Việt nói tiếng Anh làm tai tôi vểnh lên nghe ngóng. Không một tiếng nói nào khác nữa, chỉ có những tiếng bước chân đi dần về phía buồng tôi, rồi tiếng mở cửa buồng số 10. Buồng 10 ngay cạnh buống tôi. Hẳn phải là người ngoại quốc! Ngoại quốc mà phải vào xà lim lúc này, chạy đằng trời cũng chỉ là Mỹ. Tôi yên lặng nghe ngóng. Tôi chỉ nghe được giọng người Việt lúc nãy, cái gì cũng bằng tiếng Anh, nhưng rất nhỏ, nghe tiếng được, tiếng mất. Không hề nghe tiếng đáp lại của ai. Tôi đang đứng đờ người, vận dụng mọi giác quan để theo dõi, đột nhiên cửa sổ nhỏ buồng tôi bật mở khiến tôi giật thót người lại. Tên Dư, y trỏ một ngón tay vào ngoay ngoáy, miệng nói: - Anh dọn hết đồ của anh lại, chuyển buồng! Tôi vừa vơ gọn chăn chiếu và một số thứ lặt vặt, vừa ngẩn ngơ tiếc nuối lo lắng, không biết bây giờ chúng chuyển tôi đi đâu. Vừa xa chị Bắc,vừa không còn điều kiện để nhìn thấy người ngoại quốc (chắc cũng vì người ngoại quốc này tôi mới phải chuyển buồng vào dẫy trong, hoặc xà lim khác?), và một điều to lớn khác…mất nguồn tiếp tế hàng ngày. Khi tên Dư mở cửa buồng, tôi nhìn y như luyến tiếc mà có lẽ tôi có thiện cảm nhất ở Hỏa Lò, bên phía kẻ thù. Tôi ra khỏi buồng với một tâm trạng bâng khuâng. Lại thấy y mở buồng số 12! Lòng tôi ngúng nguẩy mừng vui, như vừa đánh mất một món tiền, lại tìm thấy được. Như vậy, chúng chỉ sợ tôi ở cạnh buồng số 10 thôi. Ở buồng số 12 này, tất cả những điều kiện thuận lợi, tôi tưởng mất, vẫn còn. Tôi loay hoay quét dọn lại sạch sẽ căn buồng. Chợt, tôi nhìn thấy trên tường, chỗ gần phía cùm, có mấy dòng chữ khắc sâu vào tường: Tại nơi này, tôi đã dùng đũa chọc, hủy bỏ một con mắt của tôi, để phản đối chế độ cộng sản độc tài phi nhân đàn áp dã man văn nghệ sĩ. ‘Thụy An: Lưu Thị Yến” Tôi mần mò mãi mới đọc được hết những giòng trên. Phần vì bóng của chiếc cùm làm tối đi; phần khác, vì lâu ngày đã quét thêm một lớp vôi (cũng may, giòng chữ lúc khắc khá sâu, nên lớp vôi không lấp hết được). Nhưng, nếu ai vào buồng chỉ đứng nhìn cái cùm, vô tình sẽ không nhìn thấy giòng chữ viết ở chỗ hơi khuất này. Tôi lại càng tò mò, nhìn tìm khắp chung quanh bốn bức tường, cả những chỗ khuất để xem, may ra còn thấy gì khác nữa không, trong khi óc tôi lần giở lại dòng thời gian xa xưa…Khi đó, tôi còn ở miền Nam, có lần tôi được đọc trên tờ nhật báo Tự Do, thiên phóng sự “Bên Kia Bức Màn Sắt” của ông Hoàng Hải Thủy, trong đó có nói đến cuộc đời tình cảm, cũng như sự nghiệp của nữ sĩ Thụy An. Mối tình của bà có liên quan đến Hoàng Quốc Việt. Theo ông Hoàng Hải Thủy, Hoàng Quốc Việt là tên điệp viên số một của miền Bắc. Hiện, y là chủ tịch Tổng Công Đoàn. Y là một trong 5 tên đầu sỏ. Những ngày lang thang đây đó trên miền Bắc, tôi thường thấy một cái khung 5 tấm hình, được treo mọi nơi: ở những cổng chào, ở những cơ quan khắp các tỉnh trên miền Bắc. Chính giữa là cáo Hồ, sát hai bên là Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, hai bên ngoài nữa là Võ Nguyên Giáp và Hoàng Quốc Việt. Như vậy, nữ sĩ Thụy An đã bị giam ở buồng này. Bây giờ, không biết bà ở đâu? Đã chết hay còn sống ở trại nào?...Chẳng hiểu sao, tôi cứ hình dung tưởng tượng nữ sĩ Thụy An chắc là đẹp lắm. (Sau này, khi đi trại trung ương, tôi được gặp nhiều nhân vật trong đó có Thụy An, Nguyễn Văn Tiến, Tôn Thất Tần, Lý Cà Sa, Nguyễn Chí Thiện, v.v… với biết bao nhiêu vấn đề. Lúc đó, tôi mới có điều kiện để hiểu cụ thể về nhiều sự việc). Chiều hôm ấy, lại thấy đưa một người ngoại quốc nữa vào buồng số 8. Vì có hai người ngoại quốc, nên dạo này có nhiều cán bộ ra vào xà lim. Đa số là cán bộ lạ! Qua những ngày trước đây, tôi đã thấy buồng số 7 giam hai người: một người gầy, cao, chừng 35 tuổi, nước da bánh mật; còn người kia tầm thước, khoảng 30 tuổi, đặc biệt có hai con mắt lồi ra ngoài như hai con mắt cá vàng. Anh cao đi cung thường xuyên. Anh mắt lồi thỉnh thoảng mới đi. Nhưng, đặc biệt, nhiều lần anh cao đi rồi; anh mắt lồi mới được gọi, và…lại về trước. Vậy, anh cao không thể biết anh mắt lồi có đi cung, nếu anh này muốn giấu. Thấy hiện tượng lạ, nên tôi đặt vấn đề. Đã đặt thành vấn đề, tất nhiên, phải để ý theo dõi, nghe ngóng với điều kiện có thể được của tôi. Đã hai lần, khi anh cao đi cung rồi, tên Dư mở cửa buồng số 7 gọi anh mắt lồi ra. Chừng nửa giờ sau, tôi thấy anh mắt lồi ôm một vốc vỏ chuối, lá bánh và giấy báo vụn ra ngoài phía cổng xà lim, một lúc sau mới trở vào. Từ đó, tôi đã có thể tạm kết luận: tù ra khỏi cổng xà lim phải có cán bộ đi theo; ở đây, hắn đi một mình. Qua việc này, tôi lại hiểu thêm là, chỗ bàn trực của tên Dư có một cái tủ nhỏ, không chỉ để đựng giấy tờ, hồ sơ, mà còn là chỗ để thức ăn, bánh trái. Đã biết về tên mắt lồi như vậy, nên tôi không bao giờ lên tiếng nói chuyện với các buồng khác. Nhất là đối với những người ngoại quốc mới vào. Nhưng, vì tính tò mò, tôi cũng quyết sẽ gọi thử hai buồng 10 và 8 khi nào điều kiện cho phép để tôi nói chuyện, may ra biết được tí chút, dù tiếng Anh của tôi chỉ thuộc loại cóc kêu. Hai ngày sau, khoảng nửa đêm, tôi đang ngủ bỗng giật mình, nghe như có tiếng gấu kêu ở trong rừng. Tôi mở mắt, bò dậy, vểnh tai nghe. Thì ra, tiếng buồng số 10…khóc! Phải nói, đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy tiếng một người đàn ông Mỹ khóc. Nghe ồng ộc, hô hố, rất lạ tai. Mới thoáng nghe, tiếng khóc y hệt tiếng người Da Đỏ hát ở trên…màn ảnh mà tôi vẫn thường coi trước đây. Mãi một lúc sau, vì có tiếng nấc và tiếng xụt xịt tôi mới biết đó là tiếng khóc. Sau đó, bỗng một tiếng khóc khác lại ư ử rúc lên ở buồng số 8. Có lẽ vì nghe thấy buồng 10 khóc, vì đồng cảnh, lại là đồng bào, nên cũng chạnh lòng dào dạt nguồn cơn… Tôi hiểu, hai anh ở Mỹ sướng quen rồi, bây giờ phải ở cảnh này. Đìu hiu, tịch mịch, hoang vắng như nghĩa địa tha ma suốt đêm ngày, bảo sao không buồn. Đấy là các anh không bị cùm, nếu cùm như chúng tôi, chắc các anh chả chịu nổi đâu. Tôi đã biết chắc các anh là phi công Mỹ. Vì sáng hôm qua, khi gọi buồng số 10 đi cung, tôi đã liều đứng lên quan sát theo kiểu của tôi. Tôi đã thấy một anh mặc bộ đồ sọc màu đỏ sậm như của tôi. Vì cao lêu nghêu nên đầu của anh gần sát xà trên, của cổng xà lim. Anh đang nói và chỉ trỏ ra sân trại chung với tên cán bộ lạ mặc quần áo thường dân. Anh số 10 có bộ mặt dữ tướng. Bộ râu quai nón như chổi xể càng làm cho đôi mắt anh xanh thêm. Người trông như vậy, mặt như thế mà lại…khóc. Dù trong lòng rất thông cảm và tội nghiệp cho anh, nhưng cứ tưởng tượng ra nét mặt anh khi khóc, tôi cũng phải mỉm cười một mình. Tôi cũng đã thấy mỗi ngày hai lần, một tên cán bộ dẫn một anh tù hình sự bê hai tay hai cái đĩa to, trên mỗi đĩa thường có khúc bánh mì, một quả chuối và một miếng thịt to bằng ba đốt ngón tay. Nhìn khẩu phần ăn của phi công Mỹ, tôi đã phải đăm chiêu suy nghĩ. Đời là thế! Con nhà giầu bao giờ cũng hơn. Người dân của nước lớn, dù thế nào chăng nữa, dù ai có hô bình đẳng dân chủ đến rách mép, vẫn cứ hơn người dân một nước nhỏ. Rất nhiều vấn đề, trên cõi đời này, nói là một việc, nhưng trong thực tế lại là một việc khác, hoàn toàn không giống nhau. Nhưng, đã bảo “đời là thế”, thì còn nghĩ suy làm quái gì cho mệt óc. Thôi, hãy trở về với xà lim. Bởi ánh nắng, những chiếc lá bàng thời kỳ con gái từ màu lá chuối non, nay đã đổi thành màu xanh thẫm. Những chùm hoa nho nhỏ đã bắt đầu xuất hiện. Hàng ngày, những trận nồm Nam thổi bay rắc tứ tung đầy sân những cánh hoa bàng vàng hoe bé tí. Thật cũng lạ, cây bàng to như vậy, mà bông lại bé tí teo! Cứ hai ngày, tên Dư lại mở cửa buống cho tôi ra quét sân một lần. Chỉ quét hoa bàng mà mỗi lần cũng hốt được cả thúng. Nhiều lúc tay tôi vốc từng vốc hoa vàng ngạt ngào hương sắc bỏ vào sọt, tôi tưởng tượng nếu không phải là tù, được sống trong cảnh này thôi, cũng tuyệt rồi! Những khi quét sân, thỉnh thoảng lúc tên Dư cúi xuống bàn hí hoáy viết, tôi lại liếc nhẹ về phía buồng số 10, mong anh phi công đứng lên để nhìn một cái cho đời đỡ tê. Tôi liếc hoài, mà khung cửa sổ của anh vẫn là màn ảnh trống trơn mãi chả thấy nổi hình. Tôi biết anh nhớ quê hương, nhớ gia đình, anh buồn nhiều lắm. Nhưng, suốt ngày cứ ngồi gục trong căn buồng nhỏ đó để mà suy nghĩ, anh cũng chẳng giải quyết được gì hơn. Hãy thỉnh thoảng đứng lên, ngắm thiên nhiên, thả hồn bay bổng với trời mây, hoa lá…Anh bạn chiến hữu ơi! Tôi cũng hiểu, trước khi tụi chúng đưa anh vào xà lim, chúng cũng bắt các anh học thuộc nội quy xà lim rồi. Nhưng, học là một chuyện, vì đấy là ý của chúng. Chúng ta vẫn còn phải có ý của chúng ta nữa chứ! Mấy hôm trước, hai đêm liền máy bay Mỹ xâm nhập bầu trời Hà Nội. Tôi đã được thưởng thức nhiều trận mà tôi gọi là hội hoa đăng. Tôi dám bảo đảm từ xưa đến giờ, chưa có ai tổ chức được một đêm hoa đăng sinh động và vĩ đại như vậy. Tối nay, tôi đi ngủ sớm để đến đêm, nếu có mở hội, tôi còn thức mà tham gia. Chợt, nghe tiếng cán bộ vào mở cửa buồng số 6: buồng của chị Bắc. Tôi vội cúi xuống sát nền, nhìn qua khẽ cửa, thấy chỉ có một cán bộ. Nhìn đôi dép râu, tôi chưa thể phán đoán được là tên cán bộ nào thì chị Bắc đã đi ra. Tôi hồi hộp và thấy lòng bâng khuâng, vì chị Bắc ôm hết chăn màn đi. Như vậy, là chuyển buồng? Chuyển xà lim? Hay chuyển trại?... Khi hai người ra tới sân xà lim, tôi lắng nghe và tính qua tiếng bước chân, khi ra gần tới cổng xà lim, tôi mới dám đứng dậy. Lúc này, nếu tên cán bộ nó quay hẳn người lại, y mới nhìn thấy tôi. Nhưng nếu muốn quay như vậy, qua những động tác của cơ thể trước khi xoay người, tôi có thể biết trước được. Hơn nữa, quay hẳn người lại 180 độ như vậy nhanh nhất cũng phải 1 phần 10 giây, thời gian này cũng đủ để tôi thụp người ngồi xuống. Chẳng ai xa lạ, chính là tên Thế “mũi cà chua”. Thảo nào, y vào lúc nào tôi cũng không hay, tên này quái lắm! Nhìn hình ảnh chị Bắc mặc chiếc áo cánh nâu, đầu đội chiếc khăn vuông mầu xanh nhạt, hai tay túm ôm bọc chăn màn khệ nệ, ì ạch, tập tễnh bước ra khỏi cổng xà lim, lòng tôi bồi hồi, xót xa thương cảm. Như vậy là chị Bắc đã chuyển khỏi xà lim này rồi! Chúng sẽ đưa chị đi đâu? Qua xà lim khác của Hỏa Lò? Hay đi trại trung ương?...Đó, cũng là hình ảnh cuối cùng của chị Bắc mà tôi nhìn thấy; để rồi, không còn bao giờ, dù nghe một ai nói về chị. Lúc bấy giờ, trời đã bắt đầu vào Hè, năm 1966; và như vậy, chị Bắc đã ở xà lim I này được 6 tháng. Hai anh phi công Mỹ, càng về sau càng khóc nhiều, cứ vào lúc đêm khuya. Có nhiều đêm, tiếng khóc của hai anh cũng làm tôi chạnh lòng nhớ nhà. Khiến tôi cũng bị lôi cuốn vào vòng bồi hồi thổn thức. Tôi không muốn nghe hai anh khóc nữa. Tôi vẫn còn những nóng nảy, bực bội của tuổi trẻ, nên đã không dằn được, tôi quát lên: - Don’t cry anymore! Cả hai anh đều im bặt tiếng khóc, có lẽ cac anh tưởng tên cán bộ nào quát! Quát các anh xong, các anh im lặng, tôi lại thấy buồn cười, xen lẫn một chút ân hận. Các anh có biết không, tôi rất thích nói chuyện với các anh. Dù sao, cuộc đời của các anh và tôi đã có một khoảng thời gian cùng thở hít một bầu không khí của Hỏa Lò. Mà các anh vẫn gọi là “Khách sạn Hilton” đó! Cùng chung một kỷ niệm, chúng ta dễ trở thành bạn lắm chứ, phải không các chiến hữu? Sở dĩ, tôi phải nghĩ và nói với các anh nhiều, bởi vì, trong đáy lòng tôi, tôi vẫn ngưỡng mộ và biết ơn các anh đã chiến đấu cho quê hương tôi, một đất nước mà người dân quá khổ cực, lầm than này. Thật là nhanh, mới hơn một tuần lễ, từ những chùm lá bàng sum suê đã nhú ra những cụm quả xanh bé tí; chỉ vài ngày không nhìn, lúc xem lại, đã thấy quả to gần gấp đôi rồi. Thậm chí, tôi có cảm tưởng là tôi nhìn thấy những quả bàng lớn dần từng giờ, to dần theo sức nóng của mùa Hè. Hè năm nay cũng thật lạ, chẳng thấy chú ve sầu kêu? Chẳng biết các chú đi đâu, hay năm nay đặc biệt ngủ muộn! À, phải rồi, có lẽ những tiếng đạn rơi, bom nổ như rung chuyển trời đất của loài người đã làm cho các chú giận, hay sợ, bỏ đi nơi khác, để ngủ yên một giấc dài Đông Xuân chăng? Chứ làm sao giải đáp được là, năm nay tôi chả nghe thấy những tiếng vi vu rền rĩ của bản nhạc cộng đồng vĩ đại của dân tộc các chú tấu lên: ”điệu nhạc trưa Hè” hàng năm! Chỉ khoảng mười ngày sau, cả hai anh phi công Mỹ đã được ra trại chung. Rất tiếc, tôi chưa tìm được dịp nào hỏi chuyện các anh. Tôi chỉ đoán, việc các anh phải vào xà lim có thể là vì khi ở ngoài trại chung, các anh quen tính ngang tàng của người hùng, trong thế giới tự do mà tôi vẫn nhìn thấy trên các phim ảnh, nên đã tỏ chí khí quật cường bất khuất với tụi cộng sản. Nhưng, các bạn cũng như tôi, chỉ biết chuẩn bị đương đầu với dao búa, súng đạn mà đã không biết và không ngờ, là kẻ thù của chúng ta lại khốn nạn và ti tiện túm ngay cái huyệt của con người để chi phối. Đó là cái dạ dày của chúng ta! Chúng hèn thật, nhưng cũng phải công nhận một điều là cái hèn đó của chúng đã từng làm cho những quái kiệt anh hùng, ba đầu sáu tay, đã từng ăn gan cộng sản phải chịu phép một bề; hoàn toàn ngoan ngoãn theo sự chỉ huy của chúng! Hai anh phi công Mỹ ở buồng số 10 và số 8 ra trại chung vào buổi sáng, thì ngay buổi chiều hôm ấy, tôi nghe có những tiếng léo nhéo báo cáo. Qua đó, tôi biết được là chùng đưa vào buồng số 9 hai …cô gái. Từ ngày chị Bắc đi, tôi cũng thấy buồn. Vừa vắng một người bạn đồng chí, đồng nghiệp, vừa mất một nguồn “chi viện” quan trọng cho cuộc sống hàng ngày. Cái bụng đã quen được hưởng thêm tiêu chuẩn, bây giờ phải trở về mức cũ một cách đột ngột, cái mức chỉ đáp ứng được 1/3 số lượng dạ dày mong muốn hàng bữa. Vì vậy, ít ngày sau, tôi phải bắt buộc áp dụng lại cái phương pháp…nhịn buổi sáng, để dành buổi chiều ăn hai khẩu phần vào một, và chỉ hai ngày thứ Ba và thứ Sáu mỗi tuần. Vì mải lo cho cái ăn, nên có một số người vào, tôi chả đôn đáo nép chỗ này, ngó chỗ kia để tò mò tìm hiểu về người mới tới như mọi khi. Chiều hôm nay, sau khi các buồng đã trả bát xong, tự nhiên tên Dư vào mở cửa buồng tôi. Vẫn bằng giọng nói nho nhỏ, nhưng hôm nay có vẻ tình cảm hơn: - Anh đi ra bàn tôi gặp! Khi tôi đã ngồi ghế đâu đấy, y tỏ vẻ thân mật: - Ngày mai, tôi nghỉ phép hàng năm, sẽ có cán bộ khác đến thay. Vậy, anh phải nhớ lời tôi: trong thời gian tôi không có mặt ở xà lim, anh đừng để cho cán bộ nào bắt được anh vi phạm nội quy. Nếu tôi về, nghe các đồng chí phản ảnh, anh đừng trách tôi! Qua câu dặn dò ân cần của y, tôi thấy y cũng thừa hiểu “típ” người như tôi hay tò mò, sục sạo; chỉ có điều y chưa bắt được tôi tại trận, hoặc là y biết nhưng lờ đi, không muốn bắt. Nhưng dù thế nào, tôi cũng không thể phủ nhận là y có thiện cảm với tôi. Thực vậy, theo nguyên tắc, chả có một tên cán bộ nào lại gọi tù trong xà lim ra bảo mình sắp đi phép cả, lại còn dặn dò điều này, điều nọ. Nghĩ như vậy, nên tôi cũng tươi nét mặt: - Ông về phép ở đâu? - Về quê. - Quê ông ở đâu ạ? - Hà Nam. - Ông cho tôi gửi lời thăm hỏi và chào mừng gia đình! Y có vẻ xúc động, đầu chóp mũi y đỏ lên rồi rung rung, mắt y nhìn tôi đăm đăm và gật gật đầu. Thấy thời cơ thuận lợi, tôi hỏi luôn một vấn đề thắc mắc trong lòng mà chưa có dịp: - Thưa ông, hôm nọ có một ông đi với ông Trì và ông Lê vào buồng thăm tôi, ông biết là ai không? Y hơi ngập ngừng, nhìn tôi một lúc, rồi nói chậm rãi: - Ông Nguyễn Văn Long, giám đố sở Công An Hà Hội. À , ra thế! Thảo nào hai tên Trì và Lê nể sợ là phải. Tên Long này còn là đại tá, thường vụ Thành Ủy Thủ Đô của cả nước xã hội chủ nghĩa này nữa đấy. Trên đài truyền thanh Hà Nội, tôi vẫn thường xuyên nghe nói nhiều về y. Sau khi trả lời tôi câu này, hình như tên Dư cảm thấy rằng y đã nói hơi nhiều; mà lại nói cả những điều không được phép nói; vì vậy y tỏ ý bảo tôi vào… |
|
|
![]() ![]() |
Lo-Fi Version | Time is now: 23rd July 2025 - 03:13 AM |