Welcome Guest ( Log In | Register )

14 Pages V  « < 9 10 11 12 13 > »   
Reply to this topicStart new topic
> PLEIKU( Gia Lai )
KhoaNam
post Jul 23 2013, 07:42 AM
Post #121


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 7,735
Joined: 8-August 09
Member No.: 4,377
Country








Trận đánh chiến xa thần kỳ trên đỉnh núi :

Nhổ chốt đèo Chu Pao



Chu Pao ai oán hờn trong gió
Một tấc khăn tang, một tấc đường
(Vô danh)

Quốc lộ 14 nối Kontum và Pleiku là đoạn huyết mạch chiến lược cần phải giự Chi Đoàn 1/8 Thiết kyddược giao giữ an ninh trục lộ và mở đượng Đường từ buôn Pleiboi, qua khỏi căn cứ hoả lực 42 tới phía đông bắc của căn cứ hoả lực 41 dưới chân núi Chu Pao. Qua khỏi núi Chu Thoi (đối diện núi Chu Pao, phía Nam quốc lộ 14 chừng 2Km là tới đồi Sao Mai rồi sau đó là tới Tân Phụ Đoạn đường đến đây là khá an toạn Từ Chu Pao tới Tân Phú do Biệt Động Quân phụ trạch
Rừng núi âm u, sương mù lảng đảng phủ chụp quấn quít từng chiếc chiến xa mờ ảo. Mỗi sáng sớm, khi rừng xanh còn ngái ngủ, Chi Đoàn đã cho xe lăn xích rời vị trí, lục soát và an ninh đoạn đường trách nhiệm trước 8 giờ sáng cho đoàn xe tiếp tế lên Kontum. Thường thì việc mở đường và an ninh trục lộ do các đơn vị Địa Phương Quân đảm trách. Công việc nguy hiểm và nhàm chán, sáng đi, chiều rút. Thời gian lâu không có chi xẩy ra, anh em hay ỷ lại và coi thượng Từ đó, địch điều nghiên thói quen của các đơn vị mở đường để rồi có một ngày mưa bụi âm u, địch ra tay tấn công chớp nhoáng. Thường là đơn vị mở đường bị thiệt hại nặng trong tình huống bất ngờ đọ

Không theo vết xe cũ của các đơn vị bạn, tôi chỉ thị các Chi Đội luôn luôn thay đổi vị trí, đội hình phòng thủ an ninh cũng di chuyển luôn trong ngày. Và nhờ vậy, Chi Đoàn đã bảo toàn khả năng tác chiến và an ninh vùng trách nhiệm trong suốt thời gian cấp trên giao phó.

Cuối tháng 4. 1972, địch bất ngờ tập trung quân và hoả lực tấn công và đánh bật đơn vị Biệt Động Quân trên đỉnh Chu Pao, rồi đào hầm hố, bám trụ, đóng chốt trên đó với đại bác không giật 75 ly, các loại cối và đại liên phòng không. Ý đồ của Bắc quân rõ ràng là cố ý cắt đứt quốc lộ 14, chận đoàn xe tại eo núi Chu Pao và Buôn làng không tên dưới chân núi để cô lập và cắt đường tiếp tế cho Kontụm

Khi xe dẫn đầu đoàn xe vừa tới chân núi Chu Thoi, đại bác, cối và các loại súng của địch từ trên đỉnh Chu Pao ồ ạt tác xạ tới tấp vào đoàn xe. Hai chiếc đầu trúng đạn bốc cháy, các xe đi sau phóng vào các rừng chồi cạnh đường để tránh tầm quan sát của các ổ tác xạ địch, đoàn xe ở giữa và cuối quay đầu lại chờ lệnh

Nhìn lên đỉnh Chu Pao, tử thần như đang múa may, quay cuồng. Giữa cái âm u của núi rừng, giữa cái khét lẹt của súng đạn, viễn tượng Kontum bị cô lập chuẩn bị bước tiến quân kế tiếp của các sư đoàn Bắc quân sau khi gây tổn thất nặng cho quân ta ở Tân Cảnh, Sư Đoàn 23 BB quyết định phá thế địch, lệnh cho Biệt Động Quân phải tái chiếm Chu Pao và Thiết Giáp phải bảo vệ đoàn xe bằng mọi giá. Nhận lệnh "Mặt Trời", hiểu được cái căng cứng của tình thế, ngước nhìn đỉnh núi lờn vờn bóng địch, tôi quay sang người hiệu thính viên:
- Cậu gọi Đại uý Chi Đoàn phó (Phan Chánh Hảo) gặp tôi gấp!
- Bravo! 51 gọi!
- Bravo nghe 51!
- Lệnh Alpha mời Bravo tới 51 họp!
- Nhận rõ 51!

Tôi gặp Phan Chánh Hảo, cho biết một số tình hình và chỉ thị của thượng cập Hảo chăm chú ghi từng chỉ thị ban ra.

- Chi Đội 3 tăng cường thêm phân đội chiến xa chỉ huy, tiến lên ngang núi Chu Thoi, hướng đại bác lên đỉnh Chu Pao dập thẳng vào những vị trí đặt súng của địch khi chúng bắn xuống đường!
- Nhận rõ!
Hảo lui ra và chúng tôi phóng lên xe và tiến hành kế hoạch tạm thời bịt miệng tiếng súng địch Khi chiến xa chúng tôi dàn trận di chuyển nhô ra khỏi vị trí, các loại hoả lực địch từ đỉnh Chu Pao phóng xuống, và vị trí chúng bị lộ, chúng tôi dập tối đa hoả lực đại bác và đại liên vào vị trí địch, dìm địch không ngóc đầu được, nhờ vậy, phần đầu của đoàn xe kẹt trong rừng thưa phóng được ra đường an toàn và hướng đầu về Pleiku. Chi Đội chỉ huy sau đó rút xuống phía Nam căn cứ hoả lực chừng 2 Km, án ngữ bên kia con suối. Chi Đội 1 và 2 chia nhau giữ các khúc quanh nguy hiểm, chiếm các cao điểm chế ngự quanh vụng Và sau đó, toàn Chi Đoàn cũng được lệnh rút sau khi đoàn công voa vượt khỏi khu vực trách nhiệm



Đỉnh Chu Pao, nút chặn oan nghiệt, hiểm hóc lởn vởn bóng tử thần nhìn xuống quốc lộ 14. Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn 23 lòng như lửa đột Đại tá Đạt, hình ảnh con mãnh sư sa cơ trên vùng Tân Cảnh chờn vờn trong đầu ộng Biệt Động Quân không chiếm lại được đỉnh Chu Pao, Lý Tòng Bá, con mãnh sư còn lại trên Cao Nguyên đầy khói lửa, vùng vẫy không chịu bó tay, ông đập tay xuống bản đồ hành quân:
- Phải nhổ chốt Chu Pao bằng mọi giá!
Bộ Tư Lệnh SDD23BB giao trách nhiệm nhổ chốt Chu Pao lại cho Trung Đoàn 45 BB và Chi Đoàn 1/8 Chiến Xa giữ nhiệm vụ yễm trợ hoả lực, đồng thời án ngữ đoạn đường từ Căn cứ Hoả Lực 41 tới núi Chu Pao. Được sự yểm trợ tối đa của không quân và pháo binh, Bộ Binh và Thiết giáp đã tấn công dữ dội các chốt kiên cố của địch trên đỉnh núi. Súng đạn vang trời suốt 7 ngày đêm, cái chốt ác hiểm này vẫn còn nằm nguyên trong tay địch. Những cơn gió núi vẫn thổi, sương mù vẫn giăng những sáng tinh sương, và tiếng súng địch vẫn còn thách thức. Bắc quân nghĩ chắc như nêm là các chốt trên đỉnh Chu Pao là thành đồng vách sắt, bất khả xâm phạm

Sáng ngày 26.04.1972, khi các Chi Đội bố trí xong đôi hình thì bất ngờ có lệnh triệu tập ban tham mưu Chi Đoàn 1/8 Chiến xa. Phiên họp diẽn ra tại "Buôn không tên" dưới chân núi Chu Pao. Ngoài tôi ra, trong buổi họp còn có Đại Tá Nguyễn Văn Chà, Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 45 BB. Ban 3 Trung Đoàn báo cáo lên Đại tá Tư Lệnh Sư Đoàn về tình hình địch, tình hình bạn và và những khó khăn mà Bộ Binh đã phải đối đầi và không vượt qua được Đại tá Lý Tòng Bá bóp trạn Ông xoay người nhìn khắp núi rừng, nhìn lên đỉnh Chu Pao, bỗng mặt ông nghiêm lai một cách cương quyết khi ông nhìn qua tôi, và như một thứ lệnh bất ngờ từ trên trời, vị Tư Lệnh Sư Đoàn nói như đinh đóng:

- Toàn thể gia đình Tài Lực 1/8 (danh hiệu Chi Đoàn trương 1/8) phải nhổ xong chốt Chu Pao nội trong ngày nay! Không cần đợi phi pháo!
Tôi choáng váng và bất ngờ:
- Thưa Đại tá Tư lệnh! Nhổ bằng cách nào?
- Cho chiến xa leo lên đỉnh Chu Pao! Chi Đoàn sẽ sử dụng con đường mòn xe be kéo gỗ khi xưa ở hướng đông bắc Chu Pao để tiến lên đỉnh núi! Con đường không sủ dụng đã lâu đó nay đã ngập cây rừng nhưng chiến xa có thể càn qua được Địch không thể ngờ ta dùng con đường này! Anh cho anh em thám sát ngay và hành động gấp cho tôi!

Sau khi nhận lệnh, tôi đờ người ra, đầu óc xoay tròn những ý nghĩ không có đáp sộ Lần đầu tiên trong đời binh nghiệp với xích sắt, với chiến xa, tôi mới nghe và nhận một cái lệnh cho chiến xa leo núi tấn công địch Cái này sách vở không dạy, binh pháp không thấy đề cập Nếu vị Tư lệnh Sư Đoàn không phải là Đại Tá Lý Tòng Bá, một sĩ quan cao cấp kỳ cựu của binh chủng Thiết Giáp, đã từng du học về Thiết Giáp tại trường Thiết Giáp Saumur của Pháp và Fort – Knox của Hoa Kỳ, có lẽ tôi đã từ chối chấp hành cái lệnh lạ đời này, và chấp nhận luôn hậu quả của việc ra toà án quân sự Nhưng khộng Tôi không có sự lựa chọn nào khạc Tôi chấp hành lệnh

Người tôi như lửa bỏng, tôi về Chi Đoàn đích thân lựa 5 binh sĩ gan dạ và nhanh nhẹn theo tôi đi thám sát địa hình con đường chuyển quận Thầy trò chúng tôi âm thầm như những bóng ma, len lỏi trong rừng cây dưới chân núi, vòng về phí Đông ngọn núi, chúng tôi quả thật tìm ra được con đường mòn xe be kéo gỗ lúc xưa đúng như Đại tá Lý Tòng Bá đã nói. Vì chiến tranh, con đường trở thành hoang vu, không sử dụng, cỏ cây rừng mọc phủ xanh rì nhưng chỉ là những cây non không đủ sức cản chiến xa. Con đường này cộng quân không hề biết, không hề ngờ. Bây giờ tất cả là rừng bao phủ Chu Pao như một chiếc áo xanh lục, âm u theo tháng năm dài, theo những cơn mưa đổ trút xuống rừng xạnh

Từ chân núi lên đỉnh núi xa khoảng không tới một cây số, nếu là địa hình đồng bằng thì có thể không đầy 2 phút, chiến xa có thể phóng qua công sự phòng thủ địch, nhưng ở đây, trước mặt chúng tôi là con đường mòn dốc cao đầy cây rậm, ngoằn nghèo chữ chi khi lên dốc, có khoảng rất hẹp bên cạnh là vực sâu, chiến xa chạy không ngay hay lệch tay lái là có cơ rơi xuống vực Sau khi thẩm sát và lượng định địa hình, chúng tôi xuống núi. Nhìn lại núi Chu Pao , một vùng núi rừng trùng điệp so vai chạy dài từ Đông Nam sang Tây Bắc theo quốc lộ 14 với đỉnh cao đầy hầm hố và các hốc đá ẩn chứa cả một Tiểu Đoàn Bắc quân đóng chốt để cô lập Kontum.

Tôi nghĩ bụng: "Tư Lệnh Sư Đoàn đã phóng mũi lao lên đỉnh núi thì mình phải theo lao, phải chấp hành lệnh" Đếm từng bước dài về lại Chi Đoàn, tôi cho họp toàn bộ sĩ quan để bàn kế hoạch đưa chiến xa M41 leo lên núi tấn công mục tiêu. Tiếng Tư Lệnh Sư Đoàn như còn văng vẳng bên tai tôi:"Phải nhổ xong chốt Chu Pao nội trong ngày nay! Không cần đợi phi pháo!" Khi mục tiêu được chỉ định, lệnh ban ra, hầu hết các sĩ quan trong Chi Đoàn đều kinh ngạc về sứ mạng hiểm nghèo này. Đại uý Hảo, Chi Đoàn phó phá tan bầu không khí nghẹt thở :
- Tại sao Alpha không từ chối cái lệnh quái ác này?
Tôi trầm tĩnh nhìn hết anh em đang căng thẳng chờ câu trả lời:
- Xin anh em nhớ Đại tá Tư Lệnh Sư Đoàn là một sĩ quan Thiết Giáp lừng danh, kinh nghiệm trận mạc từ cấp nhỏ, ông có một cái lý nào đó khi ban lệnh. Chúng ta không có quyền từ chối lệnh này, mặc dù theo tôi, trước mắt chúng ta chỉ có khoảng 20 phần trăm hy vọng chiếm được mục tiêu! Anh em có ý kiến gì hay không?

Sứ mệnh vô cùng nguy hiểm, hầu như bất khả thi, nên mọi người im lặng, không một ai lên tiếng. Tôi nhìn hết anh em, tôi đảo mắt nhìn núi rừng và sau cùng, mắt tôi dán lên đỉnh Chu Pao. Rừng thiêng thúc giục, đỉnh cao thách thức, sứ mệnh là máu, là lửa, là đạn, là trách nhiệm đối với Tổ Quốc và có thể cũng là niềm tự hào: Lần đầu tiên trong chiến sử, chiến xa M41 tiến lên đỉnh núi giải quyết chiến trường. Tôi hít mạnh, buồng phổi căng ra, và cuối cùng, chính tôi chọn phương án tiến quân trong đầu: Hình thành một Chi Đội hổn hợp để làm mũi nhọn tấn kích mục tiêu địch, tất cả thành phần còn lại sẽ dàn quâ tập trung hoả lực tối đa đổ lửa vào mục tiêu để đánh lạc hướng địch

Công tác tấn kích trên đỉnh Chu Pao cực kỳ nguy hiểm, nên thành phần tham dự ngoài xe Chi Đoàn trưởng, Chi Đội trưởng Chi Đội trực còn kèm theo 3 xe tình nguyện Tất cả thành phần còn lại, Chi Đoàn phó, theo kế hoạch, sẽ cho chiến xa bố trí trong rừng, sát phía Nam Quốc Lộ 14 với nhiệm vụ là hướng tất cả các loại súng lên núi, tác xạ tối đa vào mục tiêu khi Chi Đội vượt tuyến tấn kích trên Quốc Lộ 14 để leo lên núi bằng con đường mọn



Phía sau núi Chu Thới có một bãi lầy chiến xa M41 không qua được nhưng M113 thì không trở ngại. Tôi lệnh cho 2 xe M113 của Chi Đội chỉ huy vượt qua bãi lầy, nối cáp dài kéo từng chiếc M41 qua bên nay bãi, sau đó, toàn bộ len lỏi trong rừng tiến về hướng Đông Bắc Chu Pao. Tôi chia đội hình và kế hoạch tấn công như sau:
- Chiến xa M41 mang số 21 do Thượng sĩ Tôn chỉ huy dẫn đầu có nhiệm vụ dò đường, mở đường và soi đượng Khi vừa tới đỉnh sẽ phóng chiến xa đánh thẳng tốc tới phía trước nơi vị trí địch đạt khẩu đại bác 75 ly không giật chế ngự QL14.
- Chiếc kế là chiến xa chỉ huy, khi tới đỉnh sẽ đánh tràn qua hướng Tây để bảo vệ sườn cho chiến xa 21 dẫn đầu.
- Chiếc thứ 3 là chiến xa M41 mang số 11, khi tới đỉnh Chu Pao sẽ vượt qua yên ngựa đánh thẳng về hướng Đông Bắc
- Chiếc thứ 4 là chiến xa M41 của Chi Đội trưởng Chi Đội 2, Trung uý Chính, sẳn sàng tiếp ứng khi có lệnh
- Chiếc thư 5 là chiến xa M41 của Thiếu uý Chi, Chi Đội phó Chi Đôi 3, khi đến đỉnh phải vượt qua đèo yên ngựa cùng với chiến xa 11 mở rộng đội hình dồn địch xuống núi.
- Một Đại Đội của Tiểu Đoàn 4/45 tùng thiết do Đại uý Cẩm, Tiểu Đoàn Trưởng chỉ huy sẽ bám sát chiến xa để bảo vệ và đánh cận chiến với Bắc quận

Từ tuyến xuất phát dưới chân núi che kín bởi rừng xanh, khi chiến xa số 21 vừa băng ngang QL14 thì từ những vị trí đã bố trí sẳn, Đại uý Hải cho lệnh khai hoả tối đa lên đỉnh Chu Pao. Địch không hề hay biết gì về sự chuyển quân của toán xung kích đang âm thầm leo núi, mỗi phút một gang tấc gần về mục tiêu địch Chiến xa chỉ huy theo sát xe dẫn đầu để rồi từng chiếc thay nhau mất hút trong rừng cây.

Là một tín đồ Công giáo, tin ở Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ Maria, tôi làm dấu thánh giá lần chót để cầu xin sự bình anh cho anh em trong những giây phút phải lao vào tuyến lửa, trước khi đoàn xe biến mất trong mầu xanh dày đặc của núi rừng. Từ giây phút này, đầu óc tôi căng thẳng, tôi quên tất cả Mẹ già, gia đình, quên anh chị em, quên những người thân thương, và quên đi cả bản thân mình, trong tâm trí tôi chỉ còn lại có một điều quan trọng sinh tử: "Phải đè bẹp địch ngay trong những phút giây đầu tiên khi phóng vào tuyến địch Nếu không làm được chuyện này, tất cả anh em sẽ phải bỏ xác trên đỉnh Chu Pao, và chiến xa sẽ vùi chôn dưới vực thẩm oan nghiệt dưới chân núi."

Lối mòn lên đỉnh Chu Pao dài không tới một cây số mà hôm nay tôi tưởng nó kéo dài ra vô tận Mười phút trôi qua mà tôi tưởng như cả đời người. Cho đến hôm nay, hơn 30 năm trôi qua, khi nhớ lại trận đánh kỳ lạ này, tuy vẫn còn những cảm giác hãnh diện và thích thú, nhưng dường cảm giác ớn lạnh trên tuyến đầu lửa đạn trong trận đánh vẫn còn chạy trên gáy tôi như mới vừa xẩy ra trên đỉnh núi ngày nào.

Nối đuôi nhau, âm thầm, trừ tiếng vang nhẹ của xích sắt, chiếc này bò theo chiếc kia, xích sắt chiếc sau lăn chính xác in đè lên vết xích chiếc trước, bộ binh tùng thiết in vết dày theo vết chiến xa. Tất cả đều đạn lên nòng, căng cứng, cẩn trọng khi đối diện với tử thần. Tử thần là địch, tử thần là mìn, tử thần là vực thẳm cận kề vết xích lăn của chiến xa, sai một ly là đi một dậm xuống đáy chân đồi.

Tiếng đại bác, đại liên qua lại từ dưới bắn lên, từ trên nả xuống kéo dài liên tục nhận chìm rừng núi trong một âm thanh điên cuồng, hổn loạn Tiếng xích sắt chuyển động của đoàn chiến xa leo núi biến mất trong tiếng đạn nổ liên hồi. Chiến xa cứ bò lên, vượt thêm một đoạn nữa, tôi chợt thấy một phần của đỉnh Chu Pao, phần yên ngựa, nơi thấp nhất nối liền mõm núi phía Đông và rặng núi phía Tây. Tất cả hệ thống vô tuyến đều im lặng, gương mặt chiến binh lạnh lùng trên pháo tháp, lạnh lùng theo vết chân tùng thiết, chờ đợi một cuộc xung phong tập kích quyết liệt bất ngờ vào tuyến địch Thời tiết trên đỉnh Chu Pao còn rất lạnh nhưng áo trận của tôi vẫn đẫm ưới mồ hôi.

Đứng trong vị trí của trưởng xa, khẩu đại liên 50 đã được nối với 5 thùng đạn Một thùng lựu đạn được tháo khỏi hộp, sẳn sàng sử dụng khi chiến xa ủi thẳng tới hầm địch khi đại bác và đại liên không còn hiệu quả mà chỉ có lựu đạn và lưỡi lê. Bên phải tôi, Thượng sĩ Bào thuộc phân đội chiến xa chỉ huy mặt đanh lại, hai tay ghìm chặc khẩu đại liên 50 sẳn sàng nhả đạn Tôi hồi hộp nhìn theo chiến xa dẫn đầu mang số 21, khoảng cách lên tới đỉnh núi một lúc một rút ngắn, tim tôi muốn vỡ tung trong lồng ngực khi chiến xa đầu vừa lên khỏi dốc. Bắc quân vẫn không hay biết gì về sự có mặt của những con cua sắt định mệnh trên đỉnh Chu Pao ngay sát nách hầm hố của các chột Bỗng Tôn hét trong hệ thống âm thoại:

- Mục tiêu hướng 12 giờ! Khoảng cách 50 mét! Bắn!
Tiếng đại bác và đại liên của xe đầu dệt thảm lửa vào các mục tiêu địch. Chợt hai tiếng nổ liền nhau từ hướng 3 giờ của xe mang số 21, nó bị khựng lại, tôi hét lớn trong máy.
- 21 lao thẳng vào mục tiêu! Để hướng 3 giờ cho tôi thanh toán!

Hai tiếng nổ tiếp theo, chiếc 21 bốc cháy. Ngay lúc đó xe chỉ huy vượt qua chỗ đất bằng, ép qua bên phải, đại bác và đại liên càn quét tất cả khu vực trước mặt, cây cối thi nhau rạp ngả, cách xe chi huy chừng 20 mét là khẩu đại bác 75 ly không giật đặt trên tảng đá cao quay nòng về xe chỉ huy. Trong gang tấc chết sống, tôi tung hai qua lựu đạn về hướng địch Địch khai hoả thẳng vào xe chỉ huy, đạn trúng bên hông pháo tháp, Bào bị thương, máu văng tung toé vào mặt tôi. Tôi hét:
- Kéo Bào vào trong! Nạp thêm đạn!
Tôi chụp khẩu đại liên 50 đẩy gần hai thùng đạn vào vị trí khẩu 75 ly địch. Trong nháy mắt, ba chiến xa sau vọt tới, tôi điều động gấp rút qua âm thoại:
- 11 vượt qua yên ngựa, tấn công mục tiêu hướng 3 giờ! Chính số 2 phối hợp 11 mở rộng đội hình càn quét mục tiêu! 34 tấn công hướng trước mặt xe 21!

Lệnh ra như một cái máy. Các chiến xa nhận lệnh phóng ào vào mục tiêu và hướng chỉ định Lúc này ta và địch sát nhau, có chỗ địch kẹt dưới hầm, chiến xa cán lên trên, có nơi địch và ta cài răng lược, cận chiến, đại bác, đại liên trở thành vô dụng, lựu đạn được dùng tối đa. Địch bám chốt cả một tiểu đoàn, quân dố quá đông, địa thế lại chật hẹp, khó xoay trở, mình tung lựu đạn xuống, địch tung lựu đạn lên. Tôi chụp máy hét:
- Cẩm cho con cái nhào vô tiếp sức gấp!
Liền đó, Đại Đội tùng thiết của Đại uý Cẩm từ mé rừng tràn vào hai hướng tấn công của chiến xa và một trận đánh cận chiến vô cùng hào hùng và ác liệt đã diễn ra. Lưỡi lê tuốt trần, lựu đạn nổ khắp nơi. Ta và địch quyện nhau trong trận tử chiến kinh người ngay trên đỉnh Chu Pao. Có bộ binh yễm trợ, Trung uý Chính, Chi Đội trưởng. Chi Đội 2 tức tốc dẫn hai chiến xa tràn qua mõm bên kia của yên ngựa, nơi mà trước đó bộ binh sau gần một tuần quần thảo với Bắc quân đã không chiếm được. Giờ này, chiến xa và bộ binh đang cày nát từng công sự phòng thủ của địch Cùng lúc đó, tại yên ngựa, chiến xa đã ủi sập một một số hần chữ A chống phi pháo của Bắc quận Một số chết chôn tại hầm, một số còn sống không còn chỗ trú ẩn, tàn quân địch thoát chạy xuống triền phía Bắc của núi Chu Pao, liều mạng chống trả bằng B40, B41 và lựu đạn, nhưng cuối cùng đã bị đánh bật khỏi vị trí, bỏ của, bỏ vũ khí và xác đồng chí để chạy lấy người. Trong đời binh nghiệp, chưa bao giờ tôi được chứng kiến và trực tiếp tham dự một trận đánh tuyệt vời của sự phối hợp nhịp nhàng giữa bộ binh và thiết giáp như lần này. Chiêu "nhị thức" ( bộ binh - thiết giáp) đã san bằng các chốt địch trên đỉnh Chu Pao, điều mà các tướng Bắc quân đã bàng hoàng và không bao giờ nghĩ tới. Làm sao, có sĩ quan nào trong binh sử nghĩ tới chuyện dùng chiến xa leo lên núi phá chốt địch!

Đứng trên đỉnh núi, tôi ngẫng mặt nhìn trời, thầm nghĩ: "Chiến công này là của tất cả anh em! Là niềm vui của Chi Đoàn /18. Là niềm tự hào của quân lực, của Sư Đoàn 23 và của tôi!" Nhưng rồi, những vết máu của Thượng sĩ Bào khô lại trên mặt, trên áo chiến của tôi đã làm tôi đau xót về những thương vong, mất mát của thuộc cấp, của anh em thiết kỵ cũng như bộ binh trên đỉnh Chu Pao oan nghiệt mà suốt đời tôi cũng không thể nào quên. Lòng tự hào trong tôi, người lính tác chiến vừa hoàn thành nhiệm vụ khó khăn được thương cấp uỷ thác, bị nguội lạnh và vơi đi.

Chiến thắng nhổ nguyên một tiểu đoàn Bắc quân đóng chốt trên đỉnh Chu Pao đã giữ cho Kontum sống, đã làm buồng ngực của anh em thiết kỵ và Sư Đoàn 23 BB căng phồng niềm tự tin và tự hào, và điều này môt phần đóng góp cho chiến thắng trong trận ác chiến giải toả Kontum sau này.



Sau khi báo cáo kết quả trận đánh lên Sư Đoàn, Đại tá Tư Lệnh chỉ thị cho Tiểu Đoàn 4/45 BB ở lại giữ đồi Chu Pao, Chi Đoàn 1/8 Chiến xa rút vế Pleiku để nhận tiếp tế và vài ngày sau đó lại nhận lệnh di chuyển lên Kontum, để rồi trở thành đơn vị Thiết Kỵ duy nhất có mặt trong các trận ác chiến giải vây thành phố này.

Chiếc trực thăng của Tư Lệnh Sư Đoàn quần trên vòm trời chiến địa. Đỉnh Chu Pao đã im tiếng súng. Cờ vàng ba sọc phất phới trong gió trên mõm đá một mà trước đó mấy giờ, 75 ly không giật của Bắc quân còn uy hiếp Quốc Lộ 14. Đại tá Tư lệnh Lý Tòng Bá gởi qua âm thoại lời khen và chào mừng anh ẹm Từ trực thăng, ông nhìn xuống những mõm đá tử thần trên đỉnh Chu Pao, niềm tự hào về cánh quân Thiết Kỵ của Chi Đoàn 1/8 tràn ngập tim ông. Ông nghĩ đến cái lệnh ban đầu phải nhổ chót Chu Pao bằng mọi giá, và anh em đã hoàn thành sứ mệnh trong một trận đánh tuyệt vời trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Ông nói như để mình ông nghe: "Chú Vinh! Gia đình Tài Lực của chú số một!"
Lê Quang Vinh
(Edit: Hải Triều)
Ghi chú:
Báo cáo kết quả trân đánh lên Sư Đoàn:
Thiết Giáp:
- 1 chiến xa bị phá huỹ
- 2 tử trận
- 4 bị thượng
Bộ binh:
- 7 tử trận
- 12 bị thương.
Bắc quân:
- 30 tử thương bỏ xác tại chộ
- Một số chết bị chôn lấp dưới hầm sập không đào lên được
- Thu 17 súng đủ loại, trong đó có 2 đại bác không giật 75 lỵ

Lê Quang Vinh

Khoá 19 VB Thủ Đức

Binh chủng Thiết Giạp Chi đoàn trưởng Chi Đoàn 1/8 Chiến Xa.
Đơn vị và chức vụ cuối cùng: Thiết Đoàn Phó Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh


--------------------
“Vì Danh Dự Dân Tộc: Chống giặc Tàu.
Vì tương lai Dân Tộc: khai tử tập đoàn bán nước Việt Cộng”


Go to the top of the page
 
+Quote Post
NamQuoc
post Feb 6 2014, 08:43 AM
Post #122


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173
Age: 52
Country








Một thoáng Pleiku


Thật lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa - thực sự vĩnh viễn xa - Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời xin lỗi.

Tôi chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với tôi dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.

Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan Thiết) và đảm trách một vùng hành quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt - Sông Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.

Loanh quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Bộ Tư Lệnh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.

Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẩm máu để có một “Kontum Kiêu hùng”. Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng mạn (và vi phạm quân phong quân kỷ?) như ai.

Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm, không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận chiến đẫm máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.

Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy” này.

Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.

Do cái ân tình đó, nên những ngày không hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán rượu trong khu Chợ Mới. Một tháng, tôi chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân, để “may mà có em đời con dễ thương!”

Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13/3/75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh. Một nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.

Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không phải là những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề… mà những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)

Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được chút thời gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ - nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.

Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết những câu thơ hào sảng:

Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….
cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ Pleiku:

Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
….

Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với những người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy, mà dường như cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài thơ chưa được viết thành lời. Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.

Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Đỗ Bê ... những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku. Khi tất cả - có lẽ cũng như tôi - chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.

Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng 3. Cùng với những đổng đội của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố Núi sẽ không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó”:

Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền

Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao của những thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm) các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!

Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng khuâng.

Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó, nợ người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.

Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku

Phạm Tín An Ninh


--------------------
Trăn trở
Go to the top of the page
 
+Quote Post
caoduy
post Feb 25 2014, 09:56 AM
Post #123


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 52
Country








Mùa Đông Pleiku


Nguyễn Đình Tuấn, một Phi công Trực thăng có dáng dấp và khuôn mặt trẻ nhất của những khóa UH1 đầu tiên ở Ft. Hunter nhưng cũng là một trong những Phi công Trực thăng lanh lẹ và gan dạ nhất trên các chiến trường Vùng II và Vùng III Chiến Thuật.

Nguyễn Đình Tuấn còn được anh em gọi là Tuấn Con Gái hay Tuấn Bụng để khỏi lộn với các tên Tuấn khác trong PD. Bạn Tuấn đang có thì giờ rảnh ngồi viết lại những kỷ niệm bay bổng ngày xưa với những tên người, những biến cố, những địa danh dù đã trên dưới 40 năm, tác giả vẫn nhớ rõ và ghi lại với đầy đủ chi tiết. Thật đáng khâm phục !

Mời các bạn cùng enjoy bài viết đầu tiên trong số nhiều bài viết của Tuấn.

Mùa Đông Pleiku

Mùa mưa đến dưới đồng bằng ! Chúng tôi thất nghiệp, thật là an bình cho đất nước.

Lãnh thổ chúng tôi phụ trách 2 tỉnh Phú Yên và Bình Định, nước dâng lên cao khắp mọi nơi, quân cộng sản trốn lên vùng cao để tránh nước, ước gì chúng tránh “Nước” chúng tôi lên núi rồi thành Tiên thì hạnh phúc biết bao ! Hạnh phúc cho cả dân tộc Việt Nam !

Phi đoàn 243 tăng phái lên Cao nguyên, chúng tôi khăn gói dẫn nhau đi biệt phái 2 tuần lễ.

Hợp đoàn Mãnh Sư 243 với 8 chiếc trực thăng, 32 nhân viên phi hành, 1C&C, 2 Guns và 5 Slicks biệt phái cho SĐ22BB. Chúng tôi đã kết nghĩa với SĐ22, vị Tư lệnh Sư đoàn hơi quý tôi, sau hôm tôi đưa Trung tá Thông vào thị sát Chiến trường, thăm Bộ chỉ huy nhẹ đóng tại quận Phù Mỹ nơi mà Chiến trận đang sôi bỏng cả tuần lễ, Trực thăng không vào tiếp tế được đã 3 ngày, chúng pháo kích chính xác quá. Tôi bay low level từ An Sơn đến Phù Mỹ, làm một lèo theo đường rầy xe lửa, nên Tướng Tư lệnh được dịp thấy máy bay lướt trên đầu ngọn cây, bay sát cánh đồng lúa.

Một hôm tôi làm việc với Tướng, sau một ngày dài bay bổng, ông dặn người Sĩ quan tùy viên giữ chúng tôi lại tư gia ăn cơm tối.

Bữa cơm ngoài trời tư gia Tướng tọa lạc trên sườn núi phía sau Bộ Tư Lệnh Sư đoàn, nhìn cảnh hoàng hôn khó mà quên. Tôi được biết Tướng chưa bao giờ đãi khách. Có tí Beer tôi lâng lâng xúc động vì đa cảm, vì cảnh đẹp và vì hãnh diện cho người Phi công Trực thăng chúng tôi được đãi ngộ. Chiều tối bay về, người Xạ thủ làm rơi cái nòng súng M60, cũng may tôi bay ngoài đồng trống nên không gây tai nạn ..nhưng biết đâu có thằng vẹm nào đó bị vỡ đầu ! Thằng em về trả súng cụt nòng !

Hợp đoàn đáp Pleiku, chúng tôi được cáp 1 barrack trống trải với những ghế bố để tạm trú, nhìn hai hàng ghế bố trơ trọi lạnh lẽo... ôi cô đơn ! 32 nhân viên phi hành biệt phái 2 tuần lễ xa nhà, xa nệm êm chăn ấm, cơm hàng cháo chợ. Tôi sang barrack gần đó, khu độc thân của PD 229 tá túc với thằng Nghị cháy, Nghị là bạn học với tôi thời tỉểu học Giuse Nghĩa Thục, lên trung học Lasan Bá Ninh, rồi nó đi Lasan Ban Mê Thuột.

Người nó bị cháy tan nát sau trận Tân Cảnh, Võ Định, Đồi Chu Pao, Tiền đồn 5, tiền đồn 6, tụi nó những chàng phi công 229, những chàng phi công võ trang đã anh dũng chiến đấu và đền nợ nước, riêng nó bị cháu 60% mà vẫn sống nhăn mà không chịu xuống đất làm, không được giải ngũ thì xin đi bay lại! đời nó gắn liền với trời mây và nàng UH.

Ngày mất nước, tôi lái xe đến tận nhà, đón nó và thằng Nam cò bay ra Hạm đội, nó còn nợ tôi ơn cứu tù ... nghĩa là cứu nó khỏi đi tù cộng sản !

Tôi cất cánh Tân Sơn Nhất về Cần Thơ, lấy cao độ tôi nhìn thấy hợp đoàn Air America làm vòng chờ trên trời cao, hợp đoàn của họ làm vòng tròn trên nền trời Saigon, tôi theo đưôi một cách hồ hởi, lòng thơ thới hân hoan, tôi bảo thằng Nghị khỏi về Cần Thơ nữa, tao đeo tụi nó là chắc ăn, Nghị mỉm cười, mặt bắt đầu tươi sáng lên, nếu tôi bay về Cần Thơ thì tương lai không biết về đâu ?.

Bi giờ bay theo hợp đoàn Air America thì còn gì bằng, đánh bài mà ôm con xì thì chắc như bắp ! hai thằng thấy chân trời hé mở, lòng hân hoan như mở cờ trong bụng. Lúc mới cất cánh tôi nhìn Nghị nó như người vô tri vô giác ngồi im không nói không cười, dĩ nhiên lòng chúng tôi như chết lặng !

Không gì sung sướng bằng một mình một tầu đi chơi và cũng không gì đau khổ bằng một mình một tầu không biết bay về đâu trong không gian bát ngát..sao ta bơ vơ không chốn về ! có phải chăng quả báo nhãn tiền... Sau 1 vòng trên bầu trời Saigon, những người bạn Huê Kỳ của tôi đều biến mất dạng, từng tầu, từng tầu lại từng tầu họ đã có bãi đáp sẵn, tôi trơ trọi, tôi 1 mình. Thật vô duyên ! phải có tầu của thằng Báu nữa thì cũng an ủi cái tuổi già ! Một mình trên vùng trời Saigon, tôi làm gì đây ? Hai đứa im lặng, cảm tưởng hụt hững bị bỏ rơi làm tôi chới với.

Để phá tan bầu không khí im lặng : Mày check cho tao Nhà Bè ở đâu ? Thằng Nghị lôi bản đồ ra loay hoay.

Tôi đổi sang tần số PD231 để nghe những người bạn cùng phi đoàn xưa, để biết tôi không cô đơn ! Có tiếng léo nhéo đáp Đệ Thất Hạm đội. Nhà Bè, tôi nhìn xuống không còn chỗ trống, đông nghẹt Trực thăng. Tao ra Vũng Tầu, Nghị gật đầu.

Từ khi nó quay máy tầu, là lúc nó đã giao mạng sống cho tôi, tôi cưu mang nó từ đây cho đến ngày nó rời Ft. Chaffee về với gia đình em gái nó.

Ft Chaffee tiền tôi không có nhưng bạn tôi có nhiều, thuốc lá từng cây từ niên trưởng Tâm bên Chinook, từ thằng Thế Th/tá BĐQ, từ thằng Hải em ruột Lài, phu nhân Đ/tá Dõng, chúng tôi hút gần chết phải cho thiên hạ hút ké. Nguyễn Trần Thị Oanh.

Pleiku tháng 12 trời lạnh như cắt, tôi gọi điện thoại viễn liên thông qua những em gái bên Tiger, bên MACV để liên lạc về nhà. tôi có sợi giây liên lạc mật thiết với hững người em gái viễn thông này từ ngày mới ra Phù Cát, chúng tôi ôm điện thoại hàng đêm, hàng giờ, Phù Cát buồn chán ngày cũng như đêm, có hôm sáng sớm các nàng đánh thức tôi dậy đi bay.

May sao người nhắc điện thoại trả lời đúng là nàng, Yến người tình Saigon của tôi dạo ấy, cùng tôi mừng rỡ nói chuyện với nhau không kịp thở, tôi bảo em mai lấy Air Vietnam lên Pleiku với anh..trời Pleiku lạnh quá nhớ hơi ấm của em, nhớ vòng tay ấm áp nồng nhiệt của em. Tôi dặn em khi lên máy bay nhờ người phi công dân sự gọi đài kiểm soát Pleiku điện thoại cho biệt đội 243 để Hạ sĩ quan trực ra đón em, tôi đọc số ĐT của Biệt đội, và số ĐT của Nghị cháy để em gọi nó sang đón em về phòng nghỉ ngơi, không tắm rửa vì trời Pleiku quá lạnh, và tôi không muốn mất mùi Saigon khi tôi đi bay về !.

Biệt đội chúng tôi nằm Pleiku liên tục 2 tuần rồi về Phù Cát nghỉ 2 tuần, đứa nào cũng căng thẳng vì đây là lần đầu PĐ đi biệt phái vì tình hình nóng bỏng, lạ vùng bay bổng và bầu trời Pleiku lại gần hơn nên cảnh vật khác hẳn, Đi bay cái gì cũng lạ ! Teo bỏ mẹ !

Có lẽ vùng phố núi cao nên chúng tôi tưởng trời đất gần... tôi gần trời xa đất thì ngán gì ông thần chết ! Chiểu đi bay về Yến đứng đón tôi tại cửa biệt đội.

Chúng tôi ôm nhau.
Trái đất ngừng quay
Chúng tôi ngừng thở
Say đắm hôn nhau
Những chiến hữu tôi
Cũng hạnh phúc lây
Với tình chúng tôi..

Người tình của tôi rất ư là văn minh, em sống tự nhiên như người Tây phương, cũng rượu, cũng Beer, cũng thuốc lá, cũng đàn ông chả kém gì chúng tôi ! Có những đêm hai đứa ngất ngưởng bên két 33 tại Hoàng Gia, tôi mới biết tụi thằng Vũ. Thủy Quân Lục Chiến đóng đô. Có những ngày phì phà thuốc lá vỉa hè Thanh Thế, tôi mặt đỏ gay. Brodard một buổi chiều thật nóng tưởng như cháy da, hai đứa ngồi bên két 33 trong máy lạnh, tôi không bao giờ mặc quân phục đi chơi, cũng không bao giờ quên cái “xẻng”, 4 ông nhẩy dù trắng trẻo ngồi xa “địa” chúng tôi, gia điều muốn bắt nạt, muốn sinh sự với thằng em không mặc đồ lính !

Tôi liếc nhìn, nghĩ bụng, lính Nhẩy dù mà trắng trẻo thì đâu biết trận mạc là cái đéo gì ? Lính nhẩy dù thứ thiệt đều là bạn tôi, thằng Kha, thằng Khiết, thằng Trần Gia Tốn, em ruột tôi là Ngọc Hiếu thuộc TĐ5, sau nó về TĐ14. Yến biết tụi này là thuộc ban Tâm Lý Chiến dù, xui cho tụi nó, tôi lúc nào cũng có 6 viên cho chắc ăn !.

Hai đứa tôi tôi chơi hết 1 két 33, chúng tôi quởn mà, ôm nhau khệnh khạng ra cửa, 4 thằng nhẩy dù đứng đợi trước cửa phì phèo thuốc lá, nếu là 4 ông Nhẩy dù thì không bao giờ đứng đợi ! Allez chơi !

Tôi móc “xẻng” 4 thằng con chạy có cờ, sau này thằng Thọ Dù gập tôi xin lỗi. Yến đã đi hát một thời gian ngắn lúc nhạc trẻ mới thịnh hành nên chúng nó biết em. Hai đứa tôi tận hưởng cuộc đời, lấy phòng ngủ làm nhà ... hầu như mỗi đêm, ngày tôi về phép. Em thích tôi cái lối sống bạt mạng bất cần đời.

Tôi phớt tỉnh trước mọi sự.


Lệ Minh.

Tôi tình nguyện cho những phi vụ hiểm nghèo, tôi vào An Lão, vào Hoài An, đi Chu Pao, vào Lệ Minh một mình. Để vừa lòng Nguyễn Xuân Trình. Sao vậy Trình ?

Gần Tết đầu năm 1974, Tôi bay VR với Tướng Tất, tư lệnh BĐQ cả một ngày, ăn trưa trên tầu bay. Tôi được biết phải cắm cờ VN, phải quay phim gửi về Phủ Tổng Thống làm quà Tết cho Tổng Thống.

Lệ Minh là một quận nhỏ thuộc tỉnh Pleiku không thuộc quyền kiểm soát của quân ta từ lâu.

Ngày N, Trinh bay C&C dẫn Khoa “bàn đèn” cùng hợp đoàn thả một trung đội trinh sát vào cắm cờ quay phim như ciné, hợp đoàn bay low level theo sự hướng dẫn của Đ/úy Trình, Đ/úy Khoa dẫn hợp đoàn đổ một trung đội Trinh sát và phóng viên chiến trường ngay đầu phi đạo Lệ Minh. Tôi được ân huệ bay rescue vì đã bay lead liên tục một tháng rồi. Khoa dẫn hợp đoàn ra an toàn, chắc nó làm dấu Thánh giá cẩn thận ? Có kiêng có lành ? Mọi người thở phào nhẹ nhõm, đinh ninh phi vụ hoàn tất, quân ta hoàn toàn vô sự.

Bỗng trên tầng số FM xôn xa Phe ta không quay phim được ! Vì không có cây để cắm cờ ! Có lỗ mà không có cọc ! Thế mới biết cái nào quan trọng ? Cây cọc bỏ quên trên tầu bay ! Lệ Minh rừng rậm khắp nơi, Trinh sát chỉ biết giết giặc, không biết làm thợ mộc. “Thằng T bay một mình, để nó vào một mình”... Chúng bắt nạt tôi quá DM Chào thua ! Trình hỏi tôi rất lịch sự ? Anh muốn làm sao ? Tao muốn “Kẹp chả”. Tôi trả lời.

Bay một mình lạnh lẽo thấy mẹ ! Vùng Lệ Minh thuộc quyền kiểm soát của chúng từ lâu ! Gun 1 bay đầu, tôi nằm giữa, Gun 2 theo đuôi.Chúng tôi low level vào Lệ Minh lần thứ hai với một người Trinh sát ôm cây cầm cờ. Gần đến phi trường Lệ Minh, bên trái tầu, một đốm lửa phụt lên, tôi Low level quá lẹ, tôi và thằng Liễn nhìn nhau, tôi khỏi cần phải ra lệnh, Liễn cho một tràng M 60 xuống đốm lửa. Liễn là Cơ phi ruột của tôi, nó theo tôi hầu hết các trận lớn và những phi vụ hiểm nghèo. Liễn vượt biển sang sau, hiện ở Nam Cali.

Chuyến Solo hoàn tất ! về đáp thì mới biết Gun 2 của thằng Quang Mập bị dính một mảnh nhỏ của trái B 41Cải tổ. Phát đạn bắn hụt tôi ?

Đ/úy Trình là một phi công giỏi, đầy mưu trí và nhiều tham vọng. Trên trời thì rất là anh hùng, dưới đất mà được như thế thì chúng ta có được một người chỉ huy hoàn hảo ! Đạo đức chỉ huy ? Chắc nước chúng tôi không bao giờ cần những thứ này. Những thằng chết nhát không bao giờ dám bay với tôi, những thằng bỏ tôi ngang xương vì chết nhát một thời gian sau đều chết thiệt ! Thằng Thiệt rỗ, thằng Hùng lìm ...

Có lẽ mạng tôi lớn, tai to quá chăng ? tại Phật mà !.


Xập Xám Cứu Mạng


Tôi đã thoát chết trong sự tình cờ vài lần.

Ngày còn ở PĐ 231, trận Krek đầu năm 1971, Phát từ Đà Nẵng đổi về Biên Hòa, Phát khóa 1 trực thăng, Khóa 8/68 Thủ Đức được ưu tiên bay số 2 vì là “em mới” và bay với tôi, người Hoa tiêu phó nhiều giờ bay, kinh nghiệm đầy mồm ! Chính ra phải nói : Tôi bay với Phát mới đúng lễ nghi quân cách !

Phát điềm tĩnh, trái ngược hẳn với Quá, người leader của chúng tôi, nhưng tôi rất “chịu” Quá, tướng nó không ngang tàng, không bảnh bao, phải nói là lè phè củ mì, nhưng dám ăn, dám nói và dám làm. Ăn đây là ăn tiền , nó đánh bạc giỏi lắm. Hôm anh chị Lộc “Rửa tay gác kiếm” Tôi có gặp nó, bi giờ Quá là Professional Poker USA.

Quá đã từng chửi thề DM các anh nhẩy dù cấp bậc Tr/tá, Th/tá trong BCH Dù đóng tại PT Tây Ninh. Hôm đó tôi tái mặt, đã rình rình nhè nhẹ, để tay lên báng súng, căng quá đấy ! Biết làm sao bây giờ ? Ngày đó chúng tôi 5 chiếc trực thăng làm việc cho Dù. Thiếu óai Quá bay lead, chúng tôi toàn Thiếu oái, trừ Tr/úy Tiên Romeo, Tr/úy Yto Yban và Tr/úy Phùng văn Tấn..

Chiều xuống chúng tôi sửa soạn về tổ, thời tiết không được tốt cho lắm, kiểm điểm lại còn thiếu một phi hành đoàn. Qua hỏi Bộ Chỉ Huy , người SQ Dù trực hành quân trả lời lờ mờ. Hỏi han lung tung vẫn không có câu trả lời chính xác. Một chiếc Trực thăng chưa về, hợp đoàn chúng tôi còn lại 4 chiếc, làm sao đây ? Chúng tôi không về được ? Không bao giờ có chuyện như thế xảy ra .

Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè .

Quá không dằn được tức bực vì lo ngại cho bạn, cho những người Wingman của mình, nó la chửi, gào thét toán loạn, chơi một màn độc thoại, độc diễn trong BCH Dù. Cũng may các anh SQ cao cấp Dù rất bình tĩnh giải quyết vấn đề sau khi ăn một tràng tiếng Đức của Quá, mọi việc ổn thỏa. Từ đó Quá được thăng cấp Đ/tá đặc cách tại mặt trận ! Kèm theo 30 ngày trọng cấm. Lon do chúng tôi gắn, 30 ngày do BTL Không Quân cấp ! Phải Đ/tá mới có quyền chửi DM Tr/tá chứ !

Tôi đã bay với Phát, nó bay giỏi, trầm tĩnh, Low level khỏi chê, có lần đã bay qua 2 cây cau, phải nghiêng cánh. Phi công vùng 1 mà !


Người Tù Binh Hụt


Hợp đoàn 5 chiếc làm việc cho Dù tại ngả ba Krek, nhiệm vụ tiếp tế và tản thương những người anh hùng đã đền nợ nước về hậu cứ, Thằng Công bay số 4 với Quang, người Thiếu Sinh Quân rất chững chạc và đàng hoàng, ít thích binh xập xám. Buổi chiều chúng tôi vào check Phi lệnh, xem mình bay với ai ? làm gì ? rồi ngày mai lè phè ra tầu thi hành nhiệm vụ. Công vào đổi tên phi lệnh tôi xuống bay với nó chiếc số 4, Quang lên chiếc số 2 với Phát, Phát Quang ? Chúng tôi không ai thắc mắc khiếu nại gì cả. số 4 hơi khó bay hơn số 2 một chút, sáng hôm sau đi bay tôi hỏi Công sao vậy ? Nó trả lời : Tao thích Quang lắm nhưng nó không thích binh xập xám, tầu mình có 3 tay rồi, mày nữa là đủ ! Ôi Xập xám !

Hôm ấy trời sương mù, sương mù mỏng, trần mây thấp 300’ , broken..Chúng tôi leo trên mây núp bóng từ bi. Hợp đoàn nối đuôi nhau bay vào Krek, không sợ đạn ở dưới đát bắn lên vì quân thù không thấy đường, dưới bụng chúng tôi được bao phủ bởi trần mây thấp, an toàn trên xa lộ. Đến ngã ba điểm hẹn, hợp đoàn đục mây chui xuống đáp tiếp tế cho quân Dù, rồi bốc những chiến sĩ tử trận về hậu cứ Phi trường Tây Ninh. Ngã ba Krek sương mù mỏng, tầm nhìn rất giới hạn, thằng Công tí nữa thì ủi vào một cây khô không to lắm đứng sừng sững phía bên phải của nó, cây đã chết khô, trùng mầu với sương mù khó nhận thấy.

Tôi giựt cần lái về bên trái tôi, tôi luôn ôm nhẹ cần lái khi vào “hot” chúng tôi luôn luôn bay Dual khi vào nơi nguy hiểm và khi bay low level. Thợ vịn cũng đòi hỏi kinh nghiệm đỡ khổ cho Trưởng phi cơ nhiều lắm. Nhìn nhau nhe răng cười, căng quá ! Không kịp nói gì với nhau, chỉ kịp la DM !

Hợp đoàn 5 chiếc vội vã đáp, chúng tôi cố làm việc thật nhanh để thoát ra khỏi vùng cho lẹ, tử khí bao trùm mọi cảnh vật. Thật ghê rợn ! Bỏ thực phẩm, nước uống và đạn dược xong lại load những tử thi bọc trong poncho đã bốc mùi, chúng tôi vội vã cất cánh. Tầu vừa lên khỏi mặt đất tôi nghe trong tầng số : Số 2 bị bắn rớt, số 3 chần chờ, số 4 chúng tôi chới với, Công khựng lại vì số 3 còn đó, chúng tôi hoang mang một giây, hai thằng nhìn nhau để lấy lại tinh thần, tôi hất hàm với nó như thầm nói : Bình tĩnh ! Tôi vừa nói : Lên mày ! Thì may quá số 3 cất cánh sau 1 giây chần chừ vì shock ! Thế là Công vội đẩy con tầu bay theo người bạn phía trước. Chúng tôi good team work !

Tôi bay nhiều với thằng Công, thàng Thạc, chúng tôi thay phiên nhau bay, chia đều nhiệm vụ. Chúng tôi 4 chiếc trực thăng nối đuôi nhau đáp phi trường Tây Ninh để lại tầu số 2 với 2 chàng phi công Phát - Quang thay vì Phát - Tuấn. Tôi thẫn thờ : Âu cũng là số mạng, thằng Công nhìn tôi : “C’est la vie” Công sau này đi Mỹ lại để học bay Chinook.

Ngay sau đó đích thân vị Phi đoàn trưởng 231 bay tầu rescue lên đón PHĐ lâm nạn nhưng chỉ cứu được 1 người Cơ phi tên Điệu. Tôi hãnh diện được phục vụ Phi đoàn với những người chỉ huy như vậy. Như anh Thân, anh Lộc xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, luôn dấn thân vào chỗ nguy hiểm với đàn em, nóng ruột vì đàn em trong vùng nguy hiểm, giải cứu đàn em không đắn đo suy nghĩ.

Câu chuyện bị bắn rớt tầu được Điệu kể lại ngay sau đó :

Vừa cất cánh tầu số 2 bị bắn rơi ngay tại chỗ, nhờ bản lãnh và kinh nghiệm Phát điều khiển con tầu chạm đất an toàn, không mạnh cho lắm, Điệu bị bất ngờ nên ngã chúi vào những túi xác chết không kịp chạy. Những những người chiến hữu của Điệu cũng không chạy được xa, Phát và Quang bị bắt không xa chỗ tầu rớt, bị trói chặt ngay, Dũng người xạ thủ trắng trẻo cao ráo, hơi gầy,bảnh trai với biệt hiệu Dũng lai, với hai giòng máu trong người, ra phố Dũng luôn có 1 bông mai để cài cổ áo coi cũng bảnh choẹ lắm.

Quân thù la : “Thằng này là xạ thủ” . Chúng bắt trói Dũng và chặt đầu ngay tại chỗ bằng mã tấu . Dũng đền nợ nước không kịp đeo lon. Nó không cần đeo lon lá gì cả ! Người anh hùng Tổ Quốc ghi ơn, không phân biệt cấp bậc. Tôi vẫn nhớ đến nó và câu chuyện tếu nó kể lúc standby. Chúng la to một lần nữa : Còn 1 thằng nữa... Còn một thằng nữa ! Điệu vội kéo Zipper cái Poncho đựng xác chết bên cạnh, dùng tay cào vào xác chết, vơ vét những giọt máu khô bôi vội lên mặt mình, lên áo bay, nhắm mắt nín thở như đã chết rồi, chúng tìm được xác Điệu nằm cạnh Poncho bảo nhau : “Thằng này chết rồi” rồi kéo nhau chạy hết. Quân Dù cũng quanh đây thành chúng không kiểm soát kỹ và cũng không dùng súng bắn.

Điệu bò ra ruộng, ngâm mình dưới bùn đợi tầu lên cứu, nghe tiếng máy bay quen thuộc trên trời , Điệu lôi cái gương tròn nhỏ, bán ngoài chợ dùng để chải đầu (tên Điệu mà !) . Cái gương đã cứu nó, tầu rescue thấy ánh sáng nhấp nháy của Điệu nhào xuống bốc nó về. Điệu hiện ở USA, theo lời Th/tá Tiên. Anh hùng Phát và Quang được trả về ngày trao đổi tù binh, sau đó các anh có chữ “Tù Binh” gắn liền với tên mình. Hiện 2 anh ở USA.

Đó là lần đầu tôi thoát nạn. Ngã ba Krek, tôi, người tù binh hụt !


Mạt Chược Cứu Mạng


Lần thứ hai cũng thật tình cờ. Phù Cát sáng Chủ Nhật, ngày tôi nghỉ lên Phi Đoàn uống café ăn sáng ghi sổ. Quán Th/sĩ Khoa, vừa kêu ly cà phê sữa chưa kịp uống. Xếp đi tìm tôi, anh thích tôi nhưng không để lộ cho ai biết cả. Anh chịu tôi sau ngày tôi vào xin anh đi bay biệt phái hành quân với PD 215.

“ Chú đi với tôi ra Qui Nhơn ăn sáng, nhẩy đầm Matinêe, tắm hơi, đấm bóp”.. Anh làm một hơi. Th/sĩ Khoa đang pha café phải ngửng lên nhìn.

Tôi chới với đầy ngạc nhiên ! Xếp rủ mình đi phố Qui Nhơn để hưởng lạc ? Một chương trình hấp dẫn đầy chất lượng cho ngày Chủ Nhật ! Thật là buồn ngủ mà gặp chiếu manh ! Xếp nói tiếp : Thiếu Tá Đào bao ! Thiếu Tá Đào là Chỉ Huy Trưởng Pháo binh Tiểu khu Bình Định. Mấy ông pháo binh “khẩm địa” !

Yes Sir !

Tôi chưa kịp hớp 1 miếng café sữa nào, bỏ lại trên bàn vội vàng theo xếp. Tôi tự nhiên lấy chìa khóa xe Pickup của xếp, ngày đó sau xếp là tôi, có lẽ chúng không ưa tôi là vì vậy ! Có lần tôi và 3 em gái Saigon : Phụng, Nguyên, Viên ngồi đằng trước, đằng sau 4 ông xếp lớn, anh Thân, anh Hổ, anh Bút và Thành Quang ngồi thùng. Nổ máy xe, đợi xếp lấy nón bay dẫn thằng học trò đi Check out Trưởng phi cơ, thằng Khang Mát.

Ba thầy trò vừa leo lên con dốc nhỏ trước mặt Phi đoàn, thì ngược chiều chiếc xe Jeep của Th/tá Hy, trưởng phòng An ninh quân đội chận lại, Anh Hy hỏi xếp : Thân, sao đi bay 3 người ? Tôi thiếu một tay đây, anh Hy tổ chức mạt chược ngày Chủ Nhật. Xếp rất nể ông An Ninh này. Tôi còn nể hơn xếp gấp trăm lần ! Chưa bao giờ tôi xoa mà thắng anh Hy ! Tôi rất quý mến anh chị Hy. Xếp nhìn tôi chần chừ : Chú ở lại. Tôi lẩm bẩm chửi thề trong bụng ! Anh Hy cười thỏa mãn trong sự đau khổ của tôi rồi lái xe đi ngay .

Tôi im lặng buồn 5 phút tiếc hùi hụi màn đấm bóp tắm hơi.

Tiger Massage anh em chúng tôi có quyền người đấm ta bóp ! Rồi tùy nghi... Ôi những em trẻ đẹp, trắng trẻo, chân dài...! Tôi đưa xếp và thằng Khang Mát ra phi đạo lấy tầu gập Đ/Úy Trình đứng bên cạnh chiếc tầu định mệnh ! Trình bay hành quân nhưng vẫn nhường chiếc tầu định mệnh cho xếp, một hành động đẹp của người học trò kính trọng người thầy.

Trình nói : Th/tá bay chiếc này, để tôi check chiếc khác, một chiếc tầu bên cạnh.

Hành động đẹp này đã cứu Trình thoát hiểm, thật là số mạng. Tôi lái xe về Phi đoàn lòng tiếc hùi hụi. Chủ nhật mất một chầu ăn chơi chùa đầy hào hứng ! Mỡ treo gần miệng rồi mà không được đớp ! Rủa thầm anh Hy, xin lỗi anh, người cứu mạng tôi không chỉ một lần. Vợ chồng Th/tá Hy được bầu là Gia Đình Á Châu Gương Mẫu tại Chicago năm 2009, con cháu nên người, nổi tiếng trong cộng đồng cả Việt lẫn Mỹ. Xuống Câu Lạc Bộ Th/sĩ Khoa lần nữa, tôi gọi ly Café thứ hai, lại chưa kịp uống thì người Sĩ quan trực chạy xuống hớt hải la : Phi đoàn trưởng rớt tầu !

Tôi vội chạy lên văn phòng Phi đoiàn, Hành Quân Chiến Cuộc báo tầu rớt ở Bà Gi, một phi trường nhỏ chúng tôi thường dùng bay tập, máy bị tắt, hệ thống thủy điều hỏng cùng một lúc, tầu rơi như cục đá, lún xuống bùn, người anh cả chúng tôi thiệt mạng ngay tại chỗ vì bị Transmission đè lên người ngộp thở, thằng Khang mát nằm trên bị cháy tả tơi 40% còn sống sót. Nếu tôi ngồi thùng thì sao đây ? Có bao giờ cột giây an toàn khi ngồi sau đâu ! Tôi làm sao sống sót được ?

Dieu seil le sait ?

Hôm ấy tôi không Café, không mạt chược, còn gì là vui thú nữa. Lòng tôi đã gởi theo người anh Cả !


Trung Tâm Y Khoa

Tôi không thiết bay bổng gì nữa, về Saigon khám định kỳ tôi khai bệnh : Xoang mũi, Xoay viêm trái phải nằm Bệnh xá 30 ngày rồi 3 tháng.

Bác sĩ cho thuốc, tôi không uống, vứt thuốc xuống ống cống, không vứt vào thùng rác sợ bị phát giác ! Thuốc theo ống cống ra sông, bệnh ở lại với tôi, tôi nuôi bệnh. Tôi không muốn về Phù Cát !

Tôi lang thang Saigon, lấy chiếc Lambretta của thằng Hai néo 231 chạy ra Vũng Tầu ở với Yến cả tháng trời.


Phố Núi

Trở lại Pleiku, tôi và Yến biệt phái qua phòng thằng Nghị cháy, chúng tôi ngủ chung 1 giường, 3 đứa đắp 2 mền, Yến nằm giữa ôm nhau một cục mà vẫn lạnh đến nỗi thằng Nghị trở dậy lấy cái bếp điện, kê miếng gỗ dầy nửa lóng tay để bếp lên, đút dưới gầm giường làm lò sưởi. Nửa đêm phòng khét lẹt toàn mùi khói.

Tôi và Nghị giật mình thức giấc, miếng gỗ kê dưới bếp điện cháy đen thui, sắp sửa cháy xuống sàn nhà bằng gỗ, Barrack toàn bằng gỗ ! Chúng tôi sắp đốt Barrack ! Chúng tôi sắp biến thành 3 con heo quay !

Thằng Nghị đi gặp Th/tá Mão, Chỉ Huy Trưởng Phòng Thủ xin giấy tờ để Yến ra vào phi trường cho tiện. Có hôm thằng Khoan Th/tá BĐQ xách jeep lại đón chúng tôi đi ăn cơm Tây, đi Phượng Hoàng nhẩy nhót. Chiều đi bay về chúng tôi ra phố ăn cơm, đi nhậu bia ôm với cả băng 229 và thằng Toàn bên Thái Dương (530) .

Tối buồn, hai đứa mò ra phố núi uống bia tôi đậu xe Dodge cũ của SĐ22 Biệt Phái ngay trước cửa tiệm nhậu bên cạnh CLB Phượng Hoàng. Yến thật lịch sự trong thời trang mùa đông, em diện như tài tử ciné, hai đứa vào ngồi lặng lẽ trong góc tiệm. Để khỏi làm phiền bồi bàn, tôi gọi 1 két 33 cho tiện việc sổ sách !

Có lẽ trò chơi này làm phiền lòng mấy người bạn SQ BĐQ ngồi xa, Tôi mặc Nomex 2 mảnh không lon lá nhưng có “xẻng” đeo bên hông, mặt non choẹt , thấy khó ưa ! Than ơi, tôi hiền khô ! các ông BĐQ ra chiều khó chịu. phải chi mấy anh lớn thì dễ tính, Anh Tất, anh Nhu, anh Từ Vấn, anh Hùng, anh Lạc, anh Tay hay thằng Thế, thằng Khoan, thằng Hiển thì tôi được miễn phí ! Cũng may thằng Vinh râu đến đúng lúc, nó ngửi thấy mùi khen khét ngay khi bước vào cửa. Dạo đó nó quá hay ! tôi mê nó cũng vì vậy ! BĐQ thấy thằng Vinh râu, sau câu chào hỏi xã giao mọi chuyện không gì xảy ra ! Các ông ấy đã sửa soạn móc lựu đạn rồi.

Lỗi tại tôi chê hai bông mai lại không mặc áo liền quần nên phe ta nhầm ! Bộ Nomex hại tôi nhiều lần nhưng tôi vẫn thích Nomex ! Chúng tôi sống như những ngày ở Saigon nhưng thú vị hơn nhiều, đầy tình yêu và tình bạn trong bầu không khí chiến tranh. Yến thích diện, em vẽ kiểu, tự chế quần áo. Yến nhiều quần áo đẹp, có dạo báo Saigon chụp hình vào mùa Giáng Sinh, Nhà tiệm vải trên đường Tạ Thu Thâu mà !

Tôi bay bổng, chiến đấu với quân thù, đánh đu với tử thần để được vui chơi với tình nhân và bạn hữu 229. Không khí mát lạnh thú vị hơn Saigon rất nhiều. Nhân dịp phi đội Hải Sư thiếu người bay lead, không dám xuống bốc toán Viễn Thám trong mật khu An Lão để NT Nguyễn Thái Dũng bay C&C phải ra tay rước toán, làm ơn mắc oán không còn ở Phi Đoàn nữa. Hải Sư ! sao không thấy thằng nào nổi cơn mát ! Nếu thành lập Phi Đội bay test thì đã có sẵn chúng Vì thằng Lead tránh nhiệm hơi nặng và nguy hiểm. Tôi tình nguyện biệt phái cả tháng thay vì 2 tuần, chỉ bay lead thôi. Xem tử thần có làm gì được nhau ? !

Vì ham chơi, tôi tình nguyện bay vào chỗ chết để sống. Để được sống sao cho ý nghĩa, chứ không phải để mà sống ! Lôi thôi quá vậy ? ! Cũng là “sống” thôi mà ! Chúng tôi yêu nhau không kể thời gian ...Trời Pleiku sau ngày bay bổng chỉ có : ăn nhậu, sương khói, và yêu đương ! Một thời để yêu và một thời để chết ! Cả Barrack im lặng như tờ. Chúng nó đi đâu hết ? Chuyện lạ ? Ở xứ độc thân chúng ồn ào náo nhiệt cả ngày lẫn đêm, dù có đi bay hay không. Té ra thằng Mạnh, thằng Đài, thằng Phú, thằng Tuân, thằng Nghị, cả bọn chúng nó nằm ngồi trong phòng thằng Mạnh, thằng Đài nghe cải lương trực tiếp truyền thanh ! Tuồng cải lương truyền từ cái Microphone gắn đầu giường thằng Nghị xuống 2 cái loa to tổ bố trong phòng thằng Mạnh thằng Đài... tiếng thở biến thành tiếng hét... tôi và Yến đóng tuồng Tarzan “ Tiếng Hú Giữa Rừng Khuya” để chúng thưởng thức !

Bố quỷ !


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post
caoduy
post Apr 26 2014, 07:52 AM
Post #124


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 52
Country








Mưa Pleiku, cơn mưa dài không dứt

Trải qua khá nhiều năm – hơn 40 năm – và nhiều cảnh ngộ đã trôi qua ấy thế mà tôi vẫn không quên được ấn tượng về mưa Tây nguyên thuở ấy. Và nếu tính thời gian thì cũng trên 50 năm sống ở Nam bộ với biết bao mùa mưa nắng nhưng hình ảnh cơn mưa, cảm giác trong mưa của tôi đối với mưa phương Nam vẫn không thể chồng lên những gì tôi có được và lưu giữ về mưa Tây nguyên, nơi tôi sống 2 năm ở Kontum và 3 năm tại Pleiku. Mưa Pleiku là cái đỉnh của mưa miền núi, tôi bảo lưu điều này!

Thời ấy, Pleiku như một sơn nữ còn nhiều hương rừng trên da thịt đang rụt rè đi những bước chầm chậm vào trung tâm đô thị. Đó là một thị xã mang thật nhiều tính tạm bợ trong kiến trúc nhà cửa, phố phường và cả trong tâm tư nhiều con người không phải dân gốc tại đó, chỉ có mặt vì công việc của người công chức hay quân nhân với tâm trạng tạm cư chờ một ngày đổi về đâu đó theo ý muốn. Thành phố thời chiến tranh lọt thỏm trong một thung lũng lớn và bao quanh đấy là một không khí bất an. Nhìn từ máy bay xuống càng thấy tính tạm bợ của thành phố này, trại lính san sát nhau, mái nhà dân đa phần là mái tôn đã xỉn màu không hứa hẹn gì nhiều về một thành phố miền cao thơ mộng hơi một chút chênh vênh, cheo leo, nhiều đường cong gợi hình gợi cảm theo đúng nghĩa của nó.

Nhà tôi nằm ngay ngã ba, giữa đường Nguyễn Đình Chiểu với con đường lởm chởm đá dẫn vào phía hông bệnh viện thấp bé dưới những cây cổ thụ đêm đêm tôi vẫn nghe nhiều tiếng cú kêu. Và nhà tôi chỉ cách CLB Phượng Hoàng có một bức tường thấp, đó là một chốn nhảy nhót, ca hát nhiều tính dã chiến chủ yếu dành cho lính và đôi khi có…học trò gái của tôi đi cùng với họ! Sau lưng căn nhà gỗ tôi mướn là công viên còn thiếu nhiều sự chăm sóc nếu không kể một căn nhà sàn nghe nói của quan chức lớn nào đó ở Sài Gòn. Tất cả không gian xung quanh nơi căn nhà của tôi là đầy những thứ không nhiều hứa hẹn một tương lai cho ai đó muốn coi Pleiku là quê hương thứ hai.

Những buổi tối mưa, thị xã tối rất đậm và rất nhanh như bị đóng cửa, nhiều lúc ngồi nhà hiu quanh quá tôi đã khoác áo mưa đi ra thì quả thật những lúc như vậy lòng chỉ thầm mong sao…bị pháo kích đặng cho mọi thứ náo động lên môt tí! Nghĩ lại, thật kinh khủng, không hiểu bằng cách nào chúng tôi sống được qua những cơn mưa mỏng, không ồn ào như mưa Nam bộ, không lãng mạn da diết như mưa Huế mà đúng là …mưa rừng mang nhiều nét bí ẩn! Mưa ở đây là mưa yêu dấu, không đi kèm gió lớn làm cho thành phố nghiêng đi như mưa Huế. Nhiều giọt nước đã bị những cây cao ngăn lại, làm tản ra khiến cho nó rơi xuống nhẹ nhàng. Người thuở ấy mỗi khi đi trong mưa mặc áo mưa chứ không ai trùm cái poncho tùm hụp làm mất hết những dáng thon dáng cong nữ tính như bây giờ.

Và kinh nghiệm của tôi là, mưa ồn ào, bặm trợn như giận như hờn như ghen kiểu mưa Sài Gòn vậy mà không làm cản trở những cuộc hò hẹn đứng nghe mưa vì nó chóng tan. Còn mưa Pleiku, không phải như thơ Huy Cận “Đêm mưa làm nhớ không gian / Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la”. Đúng là tôi không bơ vơ một tí nào bởi thứ mưa Tây nguyên ấy không đánh thức nỗi sầu xa xứ, nó không là mưa xứ lạ mà là xứ đang lôi tôi vào sự tạo dựng một mối ràng buộc thân quen.

Một lần chia sẻ với anh bạn mưa Pleiku không làm mình có cảm giác lưu đày phát vãng, tôi được anh cho biết anh có cảm tưởng đây là mưa trên vùng đất mới của những người không quê hương! Đấy là mưa rừng, cũng may thời ấy tôi không có những cuộc hò hẹn hoặc những buổi hai người ngồi ở hai nơi cùng ngắm cơn mưa đa cảm cày xới hồn con người! Và một lần khác, có mặt tại vùng ngoại ô nơi người ta trồng hoa màu rất xanh tốt, nhìn mưa xuống dàn bầu hay dàn su su gì đó, tôi không thấy những chiếc lá bị đánh bẹp giúm dù mưa khá to. Lá rừng và mưa rừng như nương vào nhau tung hứng!

Những đêm mưa thường làm tôi khó ngủ, nó nhẹ như mơn man nhưng tôi không nhận đựơc sự vỗ về đó, cái mà tôi nhận vào những đêm như thế là cảm giác sướt mướt, nhão nhè. Ngay cả khi tôi đang ngủ thì mưa đêm cũng đánh thức tôi dậy, bỏ mặc tôi nằm mường tượng ra ngôi trường tôi dạy chỉ có linh hồn của nó là những cô gái láu táu thông minh và hay ăn hàng mới đáng kể. Còn trong đêm mưa, mấy dãy nhà thấp bé không kiên cố ấy vắng lặng đầy không khí yêu ma, có thể có những hồn ma hiện về đi lại trên hành lang thông thốc gió.

Mưa đêm, nằm mường tượng ra khu chợ trời, nơi đô hội phồn hoa nhất của Pleiku đang sũng nước tội nghiệp dưới ánh đèn vàng vọt của những con đường một thành phố tứ xứ mà đêm ai cũng rút vào nhà trả nó về với nguyên dạng một thị xã mồ côi, không thân thuộc, không quê hương! Mỗi sáng nào đêm qua có mưa, khi đi trên đường tới trường, con đường gây ấn tượng nhờ những đám nữ sinh trường tôi đi tới lớp, trong lòng tôi thường hay hiện ra câu nói thầm thật vớ vẩn rằng đêm qua mưa Pleiku đa cảm đến vậy nhưng không làm chết một ai! Thật may mắn!

Giờ Pleiku không còn là nó của tôi năm xưa nữa. Không phải vì những đổi thay bên ngoài khiến nó xa lạ với tôi, những thứ thay đổi đó như một dòng sông tự chảy khỏi cần một sức đẩy của máy bơm, thời gian trôi và nước trôi theo. Tôi đã về Pleiku một lần cách đây 3 năm, đêm mưa đứng nhìn ra ngoài mắt bị che chắn bởi những khối nhà hình thù kỳ quặc. Không còn mưa rừng trên đường phố Pleiku! Tôi biết lấy gì để yêu mến nó như một người tình, có thể đó là người gốc Tây nguyên không chừng, nếu trời sắp xếp cho tôi như vậy!

Cao Thoại Châu


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post
KhoaNam
post Jul 17 2014, 08:17 AM
Post #125


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 7,735
Joined: 8-August 09
Member No.: 4,377
Country







Giã biệt miền cao


Sau lễ mãn khóa tôi được ưu tiên chọn Phi Đoàn 114 thuộc Không Đoàn 62 làm đơn vị đầu tiên để phục vụ. Điều mà tôi vui mừng nhứt là gặp lại Bố Già Đặng Văn Hậu, người thầy cũ đã dạy khóa tôi, nay là đương kim chức vụ Phi Đoàn Trưởng. Ngày tôi đến trình diện, bố Hậu tươi cười bắt tay tôi khiến tôi vơi bớt nỗi ưu tư của một người lính mới. Trước ánh mắt bao dung của bố, tôi vui mừng hỏi:

- Thưa thầy, khi nào tôi mới được đi bay?

– Anh yên chí, tôi sẽ cho người xác định hành quân để anh sớm đi bay với anh em.

Tôi hân hoan chờ đợi. Đúng như lời hứa hẹn của bố Hậu, một tháng sau, tôi được xác định khả năng hành quân. Những phi vụ đầu tiên của tôi là hộ tống xa đoàn (Escort Convoy), hộ tống hỏa xa (Escort Train). Sau đó, tôi được đi biệt phái ở Kontum để thực tập hành quân. Biệt đội Kontum yểm trợ cho Biệt Khu 24. Sau những phi vụ hướng dẫn khu trục (Forward Air Control) ở những mục tiêu oanh kích tự do hoặc phi vụ quan sát hành quân (Combat Observation), tôi được anh La Kim Điệp gấp rút huấn luyện tôi lái xe Jeep và nhảy đầm. Đó là môn sơ đẳng mà lính hào hoa mới ra lò phải biết để lả lướt với đàn anh. Tôi được thả solo rất sớm và nhận lãnh nhiệm vụ đưa đàn anh tới nhà… đào sau bữa cơm chiều và rước mấy ổng về sau mười giờ đêm. Chiều nào tôi cũng lái xe Jeep đi … rải quân y như đi thả team biệt kích qua nhiều nhà của các giai nhân xứ Thượng yêu lính tàu bay. Để được như đàn anh có … đào cho vơi bớt cái lạnh lẻo của miền cao, tôi lái xe đi ground show khắp phố Kontum. Mấy ngày sau, tôi giao trách nhiệm tài xế đưa đón lại cho anh Thái cơ khí viên vì tôi vừa quen được một cô nữ sinh thơm như … mít, có mái tóc huyền óng ả, khuôn mặt trái soan, đôi mắt đẹp lúc nào cũng ươn ướt, mày rậm, lông mi cong vút. Đặc biệt nàng có hai cái răng khểnh càng làm tăng thêm nét duyên dáng. Thân hình nàng cân đối, hấp dẫn, lộ ra những đường cong tuyệt mỹ trên chiếc áo dài trắng nữ sinh.

Buổi tối đầu tiên đến nhà nàng, tôi khám phá ra người đẹp có tài thổi … tiêu. Tôi yêu cầu nàng thổi vài khúc cho tôi thưởng thức. E ấp, ngại ngần giây lát, nàng mới chịu thổi tiêu cho tôi nghe. Trong buổi sơ ngộ đó, nàng tắt đèn điện và thắp lên một ngọn nến. Tôi hỏi:

- Sao em không để đèn sáng? (Không chịu đèn hả)

Nàng mỉm cười, nhìn tôi:

- Em thích ánh sáng của những ngọn nến hơn đèn điện vì nó làm dịu mắt.

Tiếng tiêu trầm bổng của nàng nghe như tiếng tiêu đệm trong những khúc ngâm thơ tao đàn. Thổi xong, nàng hỏi:

- Nghe được không anh?

Tôi phát biểu cảm tưởng:

- Nghe du dương lắm, tiếng tiêu khiến tâm hồn anh hoài cổ. Anh tưởng tượng em là nàng Kiều xưa còn anh là Kim Trọng trong đêm gặp gỡ đầu tiên. (Cải lương quá!)

– Sao em cũng có cảm nghĩ giống như anh vậy đó.

Về nhà trọ của biệt đội, đàn anh bắt tôi phải báo cáo kết quả. Tôi báo cáo láo với họ là tôi đã tiến chiếm … mục tiêu (Dóc tổ!). Nghe tôi nói nàng thổi tiêu rất hay, một anh diễu cợt, trêu chọc tôi:

- Chắc là em thổi kèn còn giỏi hơn thổi tiêu nữa đó!

Tôi cười nói:

- Vậy thì tôi quá sướng, các bác ạ!

Vào những ngày cuối tuần, bác sĩ Thạch của Bệnh Viện 2 Dã Chiến thường mời chúng tôi đến nhà để dự dạ vũ do vợ chồng ông tổ chức. Cái máy Aikai thay cho nhạc sống nhưng cũng rất hào hứng, tưng bừng. Có khoảng hai chục cặp nam nữ đến nhảy nhót, kể cả chúng tôi trong bầu không khí ấm áp thân mật. Chiều thứ Bảy nào được biệt đội Pleiku gọi điện thoại mời họp mặt thì chúng tôi bay xuống Hội Quán Phượng Hoàng để nhảy đầm. Thỉnh thoảng, chúng tôi chở bác sĩ Thạch xuống Pleiku, phối hợp với Đại úy Nguyễn Chánh Tôn của đơn vị tôi, đi săn thú rừng. Hai tay thiện xạ nầy đã hạ được nhiều con thịt, đem về cho biệt đội nấu nướng rồi đánh chén cả đêm.

Nhân viên phi hành của Phi Đoàn tôi luân phiên nhau đi biệt phái, mỗi nơi mười lăm ngày. Anh nào bị mỹ nhân trói chân, cột cẳng trên đường biệt phái thì xin phép đóng đô dài hạn ở cái nơi mà chàng bị vướng lưới tình nàng. Sau nửa tháng ở biệt đội, về phi đoàn, tôi bay những phi vụ do Trung Tâm Hành Quân Không Trợ II điều động, có khi phải khăn gói lên đường đi tăng phái cho những biệt đội đang yểm trợ những cuộc hành quân lớn.

Nửa tháng làm việc ở Phi Đoàn, vào những ngày cuối tuần, tôi thường hướng dẫn người yêu đi xi nê, đi dạo phố Nha Trang rồi ra bãi biển, ngồi bên nhau trên cát trắng, nhìn trăng buông tơ vàng trên sóng nước bao la mà hẹn ước chuyện tương lai. Có khi tôi dẫn nàng đi ngoạn cảnh ở Hòn Chồng, vào Hải Học Viện hay ra Cầu Đá ăn phở. Người yêu của tôi lúc đó là một nữ sinh, con của một gia đình đạo dòng. Nàng thường dẫn tôi đi xem lễ ở nhà thờ Núi trong những chiều Chúa Nhật. Tôi lại có cái thú riêng qua cầu Xóm Bóng để vui chơi với ngư dân. Họ lái thuyền đưa tôi ra Hòn Yến, Hòn Cò…, ném chất nổ xuống biển để vớt cá đem về làm bữa cơm chiều, mời tôi ra ăn rồi cùng nhau đờn ca cổ nhạc miền… Nam. Những lúc vui chơi với dân đánh cá có tâm hồn mộc mạc, hiền hòa, lòng tôi vơi bớt niềm thương nhớ quê xưa vì nơi chôn nhao cắt rún của tôi là một làng đánh cá nghèo nàn. Sáng nào không có tên trên bảng phi lệnh, tôi cũng chạy ra bãi biển để bơi lội. Khi mệt mỏi, tôi ngồi trên cát trắng nhìn vầng dương từ từ nhô lên ở chân trời phía Đông ửng hồng. Thuyền ngư phủ tấp nập ra khơi. Tôi nằm trên bãi cát trắng vài phút để lắng nghe nhạc trùng dương vọng về giữa buổi ban mai. Hàng cây dừa mượt lá mang những buồng trái xanh trĩu nặng và rặng thùy dương lả ngọn đang xôn xao chào đón ánh bình minh. Tôi sống thân cận với biển từ thuở ấu thơ. Hơi thở của gia đình tôi hòa nhập và tùy thuộc vào hơi thở của biển. Trong huyết quản của tôi cũng chất chứa đầy chất biển mặn nồng. Đáng lẽ tôi phải gia nhập Hải Quân để được gần biển cho thỏa mộng hải hồ nhưng định mệnh bắt tôi làm kiếp chim trời nhớ biển. Nghĩ cho cùng, hai cõi biển, trời bao la đều cho tâm hồn tôi chắp cánh.

Sống bên biển và người yêu qua hai tuần lễ, tôi lại thu xếp hành trang đi biệt phái. Hình như tôi có duyên nợ với… miền Cao Nguyên nên hết biệt phái Kontum lại đến Pleiku, xứ Thượng phủ đầy bụi đỏ trên cỏ cây, hoa lá, trên căn cứ, phố phường. Vào những chiều mù sương, khí lạnh toát ra từ rừng núi âm u. Chờ anh em đi bay về đông đủ, chúng tôi ngồi đầy nhóc trên chiếc xe Jeep rất … bụi đời, chạy ra phố, vào những phòng tắm nước nóng để tẩy sạch phong trần trước khi ăn cơm chiều rồi đi du hí. Biệt đội L19 của chúng tôi nằm trong Căn Cứ 92 do Thiếu Tá Phùng Ngọc ẩn làm Chỉ Huy Trưởng (1965), người đại huynh của chúng tôi văn võ song toàn và rất … chịu chơi! Tôi có đi bay với anh hai phi vụ yểm trợ hành quân ở chiến trường Đức Cơ. Bên cạnh chúng tôi còn có biệt đội Khu Trục AD6. (Phi Đoàn 524– Thiên Lôi) và biệt đội trực thăng H34 (Phi Đoàn Thần Tượng). Thời gian tôi thường đi biệt phái ở miền Cao Nguyên là lúc có nhiều cao thủ của Phi Đoàn 114 tình nguyện dẫn… phu nhân lên Pleiku để biệt phái dài hạn. Đó là những cặp vợ chồng anh Châu Điên, Nghĩa Ruồi, Vĩnh Méo, Hà Thuyên… Có lẽ các chàng nầy đã bị cái lạnh đêm trường của miền cao nhiều đêm dày đạp các chàng dưới gót giầy đồng nên cần phải có người bạn gối chăn để ấp ủ. Do đó mà các chàng khó lòng chém vè để đi lả lướt được (kể như hết nhúc nhích). Còn độc thân như tôi thì mặc sức mà đi dọc về ngang, không bị ai ràng buộc. Có lần đi biệt phái với anh Nguyễn Triết cũng còn độc thân như tôi (không biết có còn origin không), sau phi vụ hành quân ở vùng Dakto (Tân Cảnh) chúng tôi đáp xuống phi trường Phượng Hoàng, rủ Trung úy Nghĩa, Trưởng Trại Biệt Kích gần đó lái xe chạy đến quán Lệ Thanh để nhậu thịt rừng. Tửu quán nầy nằm cạnh ven rừng đợi chờ tiếp đón những chàng trai thời loạn từ chiến trận trở về. Các nàng chiêu đãi viên xinh đẹp không kém chi gái thành đô. Hỏi ra mới biết các nàng từ Sài Gòn đến. Chẳng biết các nàng chán đời hay sao mà lên tới chốn non cao, rừng rậm, cu kêu, vượn hú để phục vụ khách tang bồng. Sau chầu nhậu no say, trước khi bay về Kontum, chúng tôi còn bay rà sát nóc quán của các nàng tiên hạ giới.

Mấy ông có vợ nhiều khi còn láu táu hơn bọn độc thân. Ở phía Tây Bắc Pleiku có một cái buôn Thượng gần bờ suối mà già, trẻ, gái, trai đều tắm thoát y một trăm phầm trăm. Chiều nào các ông có vợ của biệt đội Pleiku, sau khi thi hành xong phi vụ, trước khi về đáp phi trường Cù Hanh cũng bay lượn thật thấp trên cái buôn sexy kia để xem dân Thượng tắm. Nhiều nàng đang đứng bên bờ suối, phô cái … hơ hớ ra ngoài, thấy phi cơ bay quần mãi nên hoảng hốt, lấy tay mà bụm…

Không biết tại sao cái chất tếu thường tiềm ẩn trong tâm hồn lính hào hoa. Chất tếu đã làm cuộc đời bay bổng nở vạn đóa hoa cười dù trong vùng lửa đạn, giữa cơn mưa to, gió lớn chúng tôi vẫn đùa giỡn và cười vang trên tần số máy vô tuyến. Cái tếu nhiều khi làm tăng sức quyến rũ cho kẻ đi mây, về gió đối với giai nhân. Các chàng luôn tếu, luôn yêu đời có lẻ vì thân thể tráng kiện, tim, gan, phèo, phổi, tai, mắt, mũi, họng,… cái gì cũng tốt. Mỗi năm các chàng phải đi khám sức khỏe hai lần, một lần tại bệnh xá của Sư Đoàn Không Quân đang phục vụ, một lần tại Trung Tâm Giám Định Y Khoa ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Có năm tôi gặp cả chục cô chiêu đãi viên của Air Vietnam đi khám sức khỏe định kỳ. Lúc ấy bác sĩ Bôi đang làm việc tại Trung Tâm Giám Định Y Khoa. Một người bạn cùng đi khám sức khỏe với tôi, nhìn thân hình lồ lộ của các nàng mà tặc lưỡi, hít hà, nói:

- Phải chi tớ được thay thế bác sĩ Bôi hôm nay để khám tổng quát cho các nàng.

Anh bạn nầy muốn được no mắt nhưng không nghĩ tới hậu quả của việc khám thân thể các nàng đã có nhiều giờ bay chắc chắn anh ta sẽ tưởng tượng và … lên như điên, thêm tức ngọc hành chứ sung sướng gì mà ham.

Phi Đoàn của tôi có nhiều cao thủ tiếu lâm như cặp bài trùng Tỏ và Tố, thường đi biệt phái Qui Nhơn, Tuy Hòa, chuyên đáp sân ngắn, gió ngang. Không biết hai anh lấy ở đâu cái quần tam giác của phái yếu dùng để che chở cái tòa thiên nhiên đem về đóng đinh dính vào vách tường của biệt đội Qui Nhơn và viết phía dưới một câu: “Các Phi Hành Đoàn trước khi bay, nhớ rờ vô cái này để lấy hên”. Bố già Hậu, Phi Đoàn Trưởng có lầm ra thăm biệt đội, đọc cái câu Tiêu Lệnh Hành Quân kia, ông đứng lắc đầu mà cười (không biết bố có lấy hên trước khi bay về Nha Trang hay không). Một danh tiếu của Phi Đoàn 114 đã làm cho những em gái hậu phương cười muốn đứt .. lưng quần là anh Minh Mọi. Anh nầy đen đúa, khuôn mặt dài, xương xẩu trông giống như sắc dân da đỏ của nước Cờ Hoa. Anh ta mặc áo bay xanh đi biệt phái cao nguyên, lúc trở về đơn vị, áo ngã thành màu đất đỏ. Có lẽ anh quá nặng nợ phong trần nên qua mười lăm ngày chinh chiến, anh không cần thay mảnh phi bào. Có lần trong một phi vụ, anh và cố vấn của đơn vị bị hạ cánh ép buộc xuống một khu rừng rậm của Ban Mê Thuột. Anh đã áp dụng mọi phương thức mưu sinh thoát hiểm, đưa người bạn Mỹ đến chỗ an toàn và liên lạc được với máy bay trực thăng Rescue. Vì rừng cây quá cao và rậm, nên trực thăng phải thả biệt kích xuống cưa cây để dọn bãi đáp mới bốc được phi hành đoàn lâm nạn. Tội nghiệp anh đã qua đời một cách đột ngột vì bị bịnh cảm nặng ở biệt đội Qui Nhơ

n.

Trong khoảng thời gian tôi phục vụ tại Phi Đoàn 114, chỉ có một phi hành đoàn mất tích trong phi vụ hộ tống đoàn xe từ Dục Mỹ đến Khánh Dương. Đó là anh Tiên và Nhi. Một tai nạn xảy ra tại sân bay Dakpet khiến anh Huỳnh Tước phải vĩnh viễn lìa xa tổ ấm khi vợ anh đang mang thai ba tháng. Anh đã ha cánh ở một sân bay không được xác định hành quân. Lúc cất cánh lại vì sân quá ngắn, chiếc L19 chạy gần hết chiều dài phi đạo mà vẫn chưa lên được, anh hoảng hốt kéo cần lái, phi cơ vừa lên tới ngọn cây thì bị triệt nâng rớt xuống. Kể ra thì số tử vong của Phi Đoàn lúc ấy không nhiều và người chỉ huy đơn vị là bố già Đặng Văn Hậu không bị mang tiếng … sát quân.

Tôi như có ký hợp đồng dài hạn với hai biệt đội Kontum và Pleichim (đó là cái tên do anh chàng mắt một mí, râu mép cứng như rễ tre, bụng bự như Trư Bát Giới, biệt danh là Long “Heo” của Phi Đoàn tôi đã đặt cho Pleiku. Anh ta nói: Cu, Chim gì cũng vậy thôi!). Tôi cứ mãi gắn bó với miền Thượng nầy hoài như gà què ăn quẩn cối xay. Có phải chăng tôi bị hấp lực của núi Hàm Rồng. Cái núi ngộ nghĩnh nầy nằm ở phía Đông Nam Pleiku, có dạng giống cái dày dày sẵn đúc của cái phái mà từ ngàn năm xưa đã làm nghiêng thành đổ nước và không thể thiếu được ở cõi trần gian như lính tàu bay không thể thiếu cái phi đạo vì không có nó thì lấy chi mà đáp.

Đã có mấy chiếc máy bay rớt ở núi Hàm Rồng, gần kề cái lạch Đào Nguyên, chắc là bị nó hút. Vậy mà khi bay hành quân về, trước khi đáp chúng tôi cũng lượn một vòng ngắm cái núi dễ thương ấy để lấy hên (chúng tôi đặt tên cho nó là núi Lìn).

Tối thứ Bảy nào biệt đội cũng chia làm hai phe. Một phe đi nhảy đầm ở Hội Quán Phượng Hoàng. Một phe lái xe Jeep chạy dọc quốc lộ 19 để săn thỏ rừng. Những con thỏ đi ăn đêm ở hai bên vệ đường thấy đèn pha sáng, chúng dừng lại nhìn đèn. Mục tiêu rất dễ bắn trúng vì súng đạn chài nên đêm thứ Bảy nào chúng tôi cũng ăn món thịt thỏ nấu rượu chát. Thỉnh thoảng lại đổi sang món thỏ rô-ti. Chúng tôi không dám đi săn ở xa vì sợ gặp lũ Vẹm. Con đường huyết mạch nầy từ Qui Nhơn đến Pleiku, đã có lần Việt Cộng phục kích đánh tan tành đoàn xe của lực lượng ta. Phi vụ hộ tống xa đoàn hôm ấy do anh Trần Chấn Sơn và một cố vấn Mỹ của Phi Đoàn 114 thi hành. Phi Hành Đoàn nầy đã can đảm đáp xuống quốc lộ, bốc một anh Trung úy của đơn vị nhảy dù khi anh ta bị thương, lết ra đường vẫy tay cầu cứu phi cơ. Anh sĩ quan nầy được cứu mạng trong sự may mắn hiếm có. Kể ra anh được phi hành đoàn gan lì của chiếc L19 đa năng, đa hiệu kia cải tử hoàn sanh!

Tôi biệt phái ở Cao Nguyên nhiều lần rồi nên ïcảm thấy hơi nhàm chán bèn xin ra xứ biển Qui Nhơn để được ngắm trăng treo trên ngọn thùy dương, được nghe lại điệu nhạc trầm của biển cả. Lần đi biệt phái Qui Nhơn mà tôi khó quên được là lần đi với tay hảo hán Trương Hải Yến, biệt danh là Yến Fulro. Anh nầy cao như sếu cồ, khuôn mặt rắn rỏi, lì lợm, da ngăm đen như những chú … Ra-Đê.

Tôi rất nặng phần trình diễn khi đi bay. Dây nịt da xệ xuống khỏi rốn, gắn đầy đạn P38 như cao bồi Texas, bên hông phải mang súng Ru-lô, bên trái mang cái dao dài hai tấc rưỡi. Yến Fulro còn nặng phần trình diễn hơn tôi nữa. Anh ta trang bị vũ khí giống như tôi nhưng đặc biệt mang một con dao to như cái dao phay. Có lần anh và tôi ghé vào quán nước dừa ở Bồng Sơn, anh rút dao ra phụ cô em chủ quán chặt dừa nhanh như gọt khoai lang khiến người đẹp nhìn anh cười tủm tỉm hoài (Anh nầy dù mặc quần xà lỏn đi chơi vẫn ăn khách như thường). Yến và tôi đã bay yểm trợ hành quân tận ngoài Tam Quan và vùng thung lũng An Lão, có khi hộ tống xa đoàn từ Qui Nhơn qua khỏi đèo Măng Giang (Từ đèo nầy về cao nguyên thuộc trách nhiệm của biệt đội Pleichim).

Mỗi chiều thứ Bảy, Yến rủ tôi bay xuống Sông Cầu, hạ cánh trên cái phi đạo sát bờ biển (Phi đạo này thuộc loại sân ngắn, gió ngang). Sau khi đáp xuống vẫn để máy phi cơ nổ (Ga-lăng-ti), gài thắng, chúng tôi chạy vô chợ mua tôm biển còn tươi rói và thịt bò mới mổ rồi bay trở về Qui Nhơn, cùng vài thân hữu Bộ Binh làm món Tả-Pí-Lù, cụng ly bốp chát cho tới khi thấy… đời lên hương nồng nàn như mùi rượu. Sau đó, chúng tôi đến vũ trường Hằng Nga ngoài phố hoặc vào những tửu quán có nhạc sống để gầy độ thứ hai. Anh em Không Quân chúng tôi sống với nhau rất đậm tình thân ái, không phân biệt cấp bực, ngành nghề. Qua các biệt đội tôi càng thấy rõ điều đó. Lúc lên xe Jeep, ai lên đầu tiên thì làm tài xế, ai lên ghế trước thì ngồi ghế trước, ai lên ghế sau thì chịu khó ngồi ghế sau. Chúng tôi đối xử với nhau rất bình đẳng đúng như nội dung của bài ca Huynh Đệ Chi Binh.

Biệt đội Qui Nhơn ở sát bờ biển. Tôi lại được dịp ngâm mình trong nước mặn để nhớ miên man về biển quê tôi. Có một hôm đi chợ ở Sông Cầu về, chúng tôi bay thấp khoảng 100 bộ để nhìn phần mộ của cố thi sĩ Hàn Mạc Tử nằm dưới chân đèo Cù Mông ở phía Nam Qui Nhơn, để tưởng niệm nhà thơ bất hạnh.

Hết hạn biệt phái trở về miền nắng vàng, cát trắng, biển xanh của Nha Trang. Trong những ngày cuối tuần tôi cô đơn, đi thẫn thờ trên bãi biển vì người yêu của tôi đã về quê cũ tận ngoài xứ Quảng. Mẹ ruột của nàng thì ở Nha Trang còn cha mẹ nuôi thì ở xứ Kẹo mạch nha. Tôi lại mang hành trang trở về xứ Thượng. Có lẻ núi Hàm Rồng ở Pleiku không còn hấp dẫn nữa nên tôi xin đi biệt phái Ban Mê Thuột, cái xứ được đặt tên là xứ Buồn Muôn Thuở. Biệt đội ở trên lầu 2 của Câu Lạc Bộ Sĩ Quan. Cũng giống như Pleiku, Ban Mê Thuột vương đầy bụi đỏ trên phố phường, cây cối, đường sá. Trời lạnh lạnh khiến khách lạ buồn ngủ hay nghĩ ngợi xa xăm. Chiều nào máy phóng thanh của Phòng Thông Tinh cũng phát ra điệu nhạc Thượng buồn da diết. Cửa phòng chúng tôi ở trông ra đường phố và một cái bùng binh lớn. Bên kia bùng binh là giáo đường với gác chuông cao vượt lên nền trời thường có mây xám phủ giăng. Biệt đội chúng tôi lãnh nhiệm vụ yểm trợ cho Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Những cuộc hành quân của Sư Đoàn nầy thường càn quét địch ở phía Bắc Buôn Hồ và vùng rừng núi phía Tây Nam Ban Mê Thuột. Ngoài ra còn có những phi vụ hướng dẫn khu trục oanh kích mật khu hay điểm tập trung của Việt Cộng làm suy yếu tiềm năng địch. Thỉnh thoảng chúng tôi dướng dẫn đoàn xe từ Nha Trang lên, theo Quốc Lộ 21. Chúng tôi chờ đón xa đoàn ở Khánh Dương và đưa về Ban Mê Thuột.

Qui tụ ở biệt đội nầy gồm nhiều tay hảo hớn như Võ Ý, Nguyễn Đình Đại, Võ Văn Oanh, Lê Hồng Triển, Trương Tố… lại thêm hai anh sĩ quan Liên Lạc Không Quân chịu chơi là Bùi Hùng và Nguyễn Văn Vàng, coi chuyện tử sanh như chuyện … ăn nhậu. Từ thứ Hai tới thứ Sáu, sau bữa cơm chiều chúng tôi thường đến quán Black Cat của Đài Kiểm Báo Pyramid. Quán nầy là quán nhậu và… nhót, có ban nhạc chơi tương đối khá nên lính Việt, lính Mỹ ngồi chật cả quán. Đêm thứ Bảy hằng tuần, Câu Lạc Bộ Sĩ Quan có tổ chức dạ vũ. Các chàng hào hoa phong nhã lại được dịp lả lướt cùng những người đẹp của xứ Buồn Muôn Thuở (Xứ buồn nhưng các em thì luôn… cười toe toét). Tôi được biệt đội phân công đưa một nàng đi bộ về nhà khi hết dạ vũ, vì xe Jeep phải chở nhiều giai nhân về nhiều nơi trong thành phố. Nàng ấy mang tên của… Hằng Nga. Nhà nàng cách Câu Lạc Bộ Sĩ Quan gần hai cây số. Đường đi xuyên qua đồi dốc, dưới những hàng cây cao, cành lá um tùm. Những xóm nhà rải rác nằm im lìm dưới trời khuya. Nếu một mình tôi đi con đường nầy ban đêm chắc tôi cũng sợ bị ma nhác. Đường thì gập ghềnh khó đi, vậy mà nàng mang giày cao gót sánh vai tôi đi suốt quãng đường dài. Qua những chỗ tối, nàng sợ sệt nắm chặt tay tôi. Vào một đêm trời sáng trăng, tôi đưa nàng về ngang một xóm nhỏ, nghe tiếng hát của Nhật Trường vọng ra từ máy thu thanh của nhà ai trong một bản nhạc trữ tình: Chiến tranh qua rồi, đường về chung lối có anh và em….

Nàng bấm tay tôi, hỏi:

- Anh có thích bản nhạc nầy không anh?

Tôi đan những ngón tay của mình vào những ngón tay mềm mại của nàng, trả lời:

- Anh thích lắm vì nó hợp với cảnh tình hiện tại của anh và em nhưng chỉ tiếc là đất nước mình chưa hết chiến tranh.

– Chưa hết chiến tranh nhưng anh vẫn được cùng em chung lối về nhà em.

Đường về chung lối này đã đưa tôi với nàng đến nẻo tình yêu. Vài người bạn Bộ Binh đã báo động cho tôi biết là nàng có số sát kép. Có một sĩ quan yêu nàng, vừa tính chuyện trầu cau thì bị tử trận. Sau đó, một anh chàng khác cặp với nàng được ít lâu thì ra chiến trường bị thương phải cưa mất một chân. Tôi nghe họ nói mà ớn lạnh xương sống, nổi da gà, dựng tóc gáy nhưng vì tôi thuộc nòi lãng mạn, đã bị thần tình ái cho uống thuốc liều nên trời gầm tôi cũng không… nhả!

Đêm nọ sau chương trình dạ vũ, mấy hảo hớn của biệt đội tổ chức đi săn dọc theo con đường đi Bandon. Nàng đi theo tôi. Khi trời sắp rạng đông, tôi bỏ bạn bè ở ven rừng, lái xe Jeep chở nàng về. Lúc nàng xuống xe đi vô nhà, tôi trở đầu xe trên dốc nhưng vì đường đất trơn trợt sau cơn mưa khuya nên xe bị tuột xuống suối và nằm ở tư thế dựng đứng, nước ngập đến nửa xe. May mắn là tôi không bị thương tích. Tôi phải lội bộ năm cây số đến cầu viện chồng của người chị bà con cô cậu với tôi đang làm Chỉ Huy Trưởng Công Binh Kiến Tạo trục chiếc xe Jeep đem về, sửa chữa. Tôi phải mượn tạm chiếc xe Jeep của Công Binh đi đón bạn bè về.

Gặp lại những người Bộ Binh biết chuyện tôi bị lọt xuống suối, họ lại khuyến cáo tôi:

- Tụi tao đã nói con nhỏ đó xui lắm mà mầy không nghe, cứ nhào vô. May mắn là mầy gặp nạn nhưng chưa chết. Rút ra mà dọt đi em ơi!

Tôi vẫn không tin lời họ. Tôi cười bẽn lẽn chứ không trả lời.

Trở về đơn vị sau khi gặp xui xẻo, tôi bỗng được đi nghĩ phép dưỡng sức ở Đà Lạt mười lăm ngày. Tôi buồn nhớ người yêu của tôi giờ đây đã xa vắng. Đi dưỡng sức một mình thì có thú vị gì đâu. Tôi cũng miễn cưỡng thu xếp hành trang, theo chiếc Cessna của đơn vị lên xứ Hoa Đào. Trong chuyến bay này có hai người độc thân là tôi và anh Đinh Lưu Cương. Anh Cương là người hướng dẫn tôi học kinh thánh để cưới vợ theo đạo Thiên Chúa. Ngày đầu tiên đến Trung Tâm Dưỡng Sức Phi Vân, ở Đà Lạt tôi cùng anh Cương đi dạo phố, ăn kem, uống cà phê. Hai đứa cảm thấy nhớ nhà nên hôm sau chúng tôi ra phi trường Cam Ly, đón phi cơ Mỹ, xin tháp tùng vêà Sài Gòn. Tôi được hơn mười ngày sống bên cạnh mẹ, anh, chị, em tôi sau một thời gian dài đăng đẳng xa cách, nhớ thương.

Không biết anh em trong Phi Đoàn có tường trình về sự việc của tôi lên ông Trưởng Phòng Hành Quân biệt danh là Luyện “Cầy” hay không mà lần biệt phái sau khi tôi hết phép, trở về đơn vị ổng cắt tôi đi Quảng Đức (Gia Nghĩa) với anh chàng mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao tên là Lê Hồng Triển chớ không cắt tôi đi Ban Mê Thuột nữa. Nhưng Quảng Đức nằm ở phía Nam Ban Mê Thuột không bao xa nên tôi muốn đi thăm nàng chẳng khó khăn gì, anh Triển lại rất ăn rơ với tôi nữa. Anh chàng hào hoa và đào hoa nầy mới lên Quảng Đức được hai ngày thì đã có… mèo.

Tỉnh Quảng Đứùc được thiết lập trên một vùng đồi thấp, cây cối rậm rạp rất khó xác định tọa độ, vì địa thế chỗ nào cũng gần giống nhau. Đặc biệt là phi trường của cái tỉnh lỵ khỉ ho, cò gáy nầy được làm trên một ngọn đồi dài san bằng. Chúng tôi đặt tên cho nó là sân bay Hàng Không Mẫu Hạm. Dưới triền dốc của hai đầu phi đạo có xác mấy phi cơ vụn vỡ chứng tỏ rằng sân bay nầy rất khó đáp nên đã có nhiều tai nạn xảy ra. Nếu không được xác định khả năng đáp sân này như phi công của Phi Đoàn tôi thì khó lòng mà hạ cánh an toàn được. Có một hôm trời vừa dứt cơn mưa, Triển và tôi ra phi trường để đi bay. Bỗng một chiếc Cessna của Air Vietnam vào vòng phi đạo để đáp xuống. Lúc vào cận tiến, phi công phải tống ga bay lại (go around) bốn năm lần mới đáp được, báo hại hành khách lúc bước xuống phi cơ người nào mặt mày cũng phờ phạc vì đã bị ói mửa.

Đứng ở phi trường nhìn xuống những xóm nhà chung quanh có khác chi đứng trên núi cao nhìn xuống thung lũng. Những ngày mưa tầm tã, chúng tôi lái xe đi ăn cơm ngoài phố rất truân chuyên vì đất đỏ dẻo nhẹo bám đầy bốn bánh xe. Chiếc xe Jeep chạy sàng qua sàng lại như một anh chàng say rượu đi không thẳng đường. Tỉnh nầy còn buồn hơn xứ Buồn Muôn Thuở nữa, phố chợ nghèo nàn, dân cư thưa thớt. Biệt đội chúng tôi nằm trong Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Đức cũng khá đầy đủ tiện nghi. Tôi bỗng gặp Yến, người bạn gái học cùng trường trung học Vũng Tàu với tôi ngày trước. Cô ta làm việc hành chánh ở Tòa tỉnh nầy. Trông cô cũng xinh xắn, duyên dáng như lúc còn là một nữ sinh, chỉ hơi khác xưa là cô ít nói và có vẻ suy tư. Tôi mời cô ăn sáng để cùng nhau nhắc nhở lại những kỷ niệm ngày xưa trong lứa tuổi học trò. Tôi nhớ có lần hội diễn văn nghệ ở trường, tôi đóng vai tráng sĩ trong một vỡ kịch thơ dã sử, Yến đã hóa trang cho tôi. Khi thoa môi son cho tôi xong rồi, cô đứng đối diện với tôi ngắm nghía khuôn mặt son phấn của tôi mãi. Lúc đó, tôi cũng ngắm cô vì cô có cái nốt ruồi hạt mè trên vành môi trông rất hữu duyên. Tội nghiệp cho cô trôi dạt đến cái tỉnh cheo leo nầy để sẽ bị gió núi, mưa ngàn và nỗi ưu tư làm héo úa dung nhan.

Sau lần đi biệt phái Quảng Đức, lần kế tiếp tôi lên Bảo Lộc với cao thủ binh sập sám Nguyễn Đình Đại. Biệt phái ở đây chẳng khác gì đi dưỡng sức ở Đà Lạt vì chúng tôi ở Câu Lạc Bộ Sĩ Quan bên bờ hồ có nhà thủy tọa rất thơ mộng. Dưới tiết trời mát lạnh, những vườn chè xanh ngát tắm nắng ban mai. Cuộc sống ở đây bình lặng như mặt hồ không gợn sóng trong những đêm Thu trăng sáng khắp núi rừng. Buổi chiều đi bay về, Đại cùng các sĩ quan trong Tiểu Khu gầy sòng để điều binh khiển tướng sát phạt nhau. Tôi ngồi đối ẩm với một người bạn sĩ quan già tâm đắc tới khuya. Một đêm, ông bạn nọ mời tôi về cư xá của ổng cách Câu Lạc Bộ hơn một cây số để nhậu. Quá nữa đêm, tôi chếch choáng hơi men, đi bộ về và bị lạc đường, lọt vào cái đầm nước sâu đến đầu gối, lau sậy um tùm. Tới gà gáy đầu, tôi mới mò được đường về phòng đúng lúc Đại cũng vừa về tới. Tôi thì lạnh run vì quần áo ướt còn Đại thì bị cháy túi, mặt mày ủ dột. Giữa canh khuya, hai hảo hán bỗng nhìn nhau mà cười. Đại cười tôi uống rượu say quờ quạng đến nỗi bị ma men dẫn đi nhận nước, may mà thoát được nếu không thì có đường đi theo anh Minh “Mọi” cho có bạn nhậu dưới âm phủ. Tôi cười anh bị con ma đen đỏ lấy sạch hết tháng lương. Vậy mà sáng Chúa Nhựt hôm sau, chúng tôi vẫn có tiết mục vui chơi như thường. Thi hành xong phi vụ FAC (Forward Air Control), tôi rủ Đại bay lên Đà Lạt, đi ăn sáng rồi ngồi quán cà phê Tùng nghe nhạc. Sau đó hai đứa đi dạo phố, ngắm những cô nữ sinh Trường Trung Học Bùi Thị Xuân trong tà áo trắng thướt tha giữa buổi trưa tan học.

Trở về Nha Trang lần nầy, tôi vui mừng gặp lại người yêu từ xứ Quảng vào thăm tôi đúng lúc tôi vừa nhận được lệnh thuyên chuyển ra Phi Đoàn 110 – Không Đoàn 41 (Đà Nẵng), Ải Địa Đầu của lính tàu bay. Tâm trạng của tôi lúc đó nửa vui, nửa buồn. Vui vì tôi được ở gần người yêu và buồn vì phải xa nhiều bạn bè thân mến. Tôi sẽ khó có dịp lên thăm lại miền cao yêu dấu đã gắn ghi nhiều kỷ niệm êm đẹp qua những lần đi biệt phái.

Sau đêm phi đoàn đãi tiệc tiễn đưa anh Dương Vĩnh Tiểng đổi về miền Nam còn tôi thì đổi ra Đà Nẵng, bố già Hậu – Phi Đoàn Trưởng cắt đại huynh Võ Ý lái một chiếc Cessna bay liên lạc kỹ thuật và luôn tiện chở tôi và người yêu đi đến đơn vị mới.

Chuyến bay Nha Trang – Pleiku – Đà Nẵng đã cho tôi nhìn lại cái núi Hàm Rồng quen thuộc và miền Thượng vừa thức giấc dưới ánh nắng ban mai để vẫy tay chào giã biệt. Từ đây, tôi sẽ ra tận Ải Địa Đầu mà nhớ thương Không Đoàn Biên Trấn ngày xưa ./.

Kha Lăng Đa


--------------------
“Vì Danh Dự Dân Tộc: Chống giặc Tàu.
Vì tương lai Dân Tộc: khai tử tập đoàn bán nước Việt Cộng”


Go to the top of the page
 
+Quote Post
caoduy
post Aug 6 2014, 08:35 AM
Post #126


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 52
Country





(Pleime, chương V). Các toán này đóng vai trò các đội "cứu hỏa" nhảy xuống dập tắt các mòi lửa mỗi khi quân du kích Việt Cộng nhúm lên tại các tiền đồn DSCĐ hẻo lánh thuộc Quân Đoàn II.


Chiến dịch Pleime và chiến dịch Pleiku


Sau khi Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ tham dự vào Chiến Dịch Pleime, Thiếu Tướng Kinnard, Tư Lệnh, thảo bản báo cáo chiến trận mang tựa đề là Pleiku Campaign (Chiến Dịch Pleiku ). Tên nguyên thủy của chiến dịch này là Long Reach Operation, diễn tả nỗ lực "với tay" truy kích Bắc Quân từ trại Pleime đến hậu cứ Chu Prong. Việc thay đổi danh xưng này đã khiến cho nhiều người lầm tưởng là chiến dịch Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ tham dự vào hoàn toàn khác biệt Chiến Dịch Pleime. Không hiểu Tướng Kinnard có chủ tâm gây nên tác dụng tiêu cực này không, nhưng hậu quả là các sử gia quân sự và các tác giả Mỹ khi viết về trận Pleime đã có khuynh hướng vùi dập tên Pleime cùng vai trò chính của QLVNCH, và thay thế vào đó trận Ia Drang và vai trò chính của QLHK song song với Quân Cộng Sản Bắc Việt.

Tướng Kinnard thảo xong Pleiku Campaign ngày 14 tháng 3 năm 1966 để đệ trình lên Tướng Westmoreland, US Military Assistance Command, Vietnam. Vì Sư Đoàn 1 Không Kỵ là một đơn vị được tăng phái cho Quân Đoàn II trong Chiến Dịch Pleime, nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tiếp nhận được một bản của tài liệu loại "mật" này. Kế đó, Đại Tá Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, đã tham khảo (số 30) bản báo cáo của Tướng Kinnard khi thảo bản báo cáo Chiến Dịch Pleime (Why Pleime ) với chữ ký của Tướng Vĩnh Lộc, đệ trình lên Trung Tâm Hành Quân/Bộ Tổng Tham Mưu. Trong bản báo cáo này, Đại Tá Hiếu đã bổ túc và sửa sai, một cách âm thầm và gián tiếp, đôi điều thiếu sót và lệch lạc tìm thấy trong Pleiku Campaign.

Một bản thảo của bản Why Pleime đã được gửi đến cho Tướng Kinnard và ông đã hồi đáp cám ơn Tướng Vĩnh Lộc đã tặng cho ông một bản:

20 tháng 12 năm 1966
…Tôi vừa đọc xong cuốn sách tuyệt mỹ Why Pleime và nhận thấy cuốn sách rất dễ đọc và thú vị và khiến tôi sống lại những ngày tháng bận rộn và quan trọng của mùa thu năm ngoái. Thiếu Tướng đã có nhã ý nhắc đến cá nhân tôi trong cuốn sách và, xin Thiếu Tướng tin là tôi cũng ngưỡng mộ những đặc điểm lãnh đạo tài ba của Thiếu Tướng. Cuốn sách này sẽ trở thành một cuốn sách trân quí trong thư việ̣n riêng của tôi…
Major General Harry W.O. Kinnard
Acting Assistant Chief of Staff for Force Development
The U.S. Department of the Army
Former Commander 1st Air Cavalry Division
(An Khe)

1. Nhất Điểm Lưỡng Diện

Khi Việt Cộng bắt đầu tấn công trại Pleime tối ngày 19 tháng 10 năm 1965, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đang tăng phái cho cuộc hành quân Thần Phong 6 ở Bồng Sơn tại vùng ven biển. Cuộc hành quân này là một hành động phản ứng của Quân Đoàn II nhằm chống lại một cuộc tấn công của Việt Cộng tại Quận Hoài Ân khởi sự cùng một lúc với cuộc tấn công vào trại Pleime. Tướng Kinnard đồng quan điểm với Tư Lệnh I Field Force Vietnam và Cố Vấn Trưởng Mỹ Quân Đoàn II mặt trận Hoài Ân chứ không phải Pleime là nỗ lực chính của Việt Cộng (Pleiku, trang 10):

Mặc dù có nhiều báo cáo kế tiếp trong Vùng Chiến Thuật Quân Đoàn II là trại DSCĐ Pleime có thể bị tấn công (hầu hết là không xảy ra) cuộc tấn công của địch vào lúc 191900 tháng 10 gây một ít ngạc nhiên. Nhưng, ngay cả khi thấy địch sung vào trận nhiều quân lính, ý kiến chung đồng thuận là vùng ven biển vẫn là mục tiêu thật sự của các nỗ lực Việt Cộng trong vùng của quân đoàn.

Nhưng Đại Tá Hiếu đã chẩn đoán ngay là Việt Cộng dùng chiến thuật "nhất điểm lưỡng diện" (Pleime, cuối chương II), với điểm là Pleiku, và hai diện là Hoài Ân - phụ - và Pleime - chính. Do đó, Đại Tá Hiếu khuyến cáo với Tướng Vĩnh Lộc, đang trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân Thần Phong 6, cần trở lại Pleiku gấp (Pleime, đầu chương III).

Đại Tá Hiếu còn chẩn đoán thêm Việt Cộng dùng chiến thuật "công đồn đả viện" tại mặt trận Pleime dựa vào những sự kiện sau đây (Pleime, chương IV):

1. Việt Cộng dùng một trung đoàn khi tấn công Pleime nhưng lại không đánh dứt điểm mà chỉ vây hãm cầm chân.

2. Việt Cộng đặt súng phòng không quanh trại Pleime để cấm cản tiếp cứu trại bằng trực thăng vận và buộc Quân Đoàn II phải xuất phái Lực Lượng Đặc Nhiệm Tiếp Cứu bằng đường bộ.

3. Trung Đoàn 33 BV vây lấn trại mới xâm nhập NVN được một tháng, là một lực lượng yếu kém so với Trung Đoàn 32 BV lập ổ phục kích, là một lực lượng đã có mặt và đã sung trận nhiều lần tại Cao Nguyên từ đầu năm 1965.

2. Trung Tá Luật Án Binh Bất Động LLĐNTK

Khi nhận xét về thái độ của Trung Tá Luật coi bộ có vẻ rụt rè không dám mạnh dạn cho Lực Lượng Đặc Nhiệm Thiết Kỵ tiến bước trong bốn ngày, từ 20 đến 24 tháng 10, Tướng Kinnard cho là Trung Tá Luật chỉ dạn dĩ lên được là nhờ vào sự bảo đảm yểm trợ pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ (Pleiku, trang 21):

Để thúc đẩy đoàn quân tiếp cứu di chuyển ngày 24/10, Lữ Đoàn 1 đặt để một toán liên lạc viên pháo binh với đoàn quân thiết kỵ, như vậy bảo đảm pháo yểm Mỹ cho LLĐNTK. Tuy nhiên, chỉ huy trưởng LLĐNTK chọn lựa tiếp tục dừng chân tại vị trí này qua đêm trong khi đó ông phái người trở lui về Pleiku để xin thêm tiếp tế. Toán liên lạc viên pháo binh nhập vào LLĐNTK từ một trong những trực thăng di tản thương binh chiều tối ngày 24/10.

Tại phần tổng kết của bản báo cáo nơi trang 123, Tướng Kinnard còn nhắc nhở lại ý kiến đó:

Sau cuộc giao tranh tiên khởi ngày 23 tháng 10 giữa lực lượng đặc nhiệm thiết kỵ (LLĐNTK) và Trung Đoàn 32 Bắc Quân, Chỉ Huy Trưởng LLĐNTK tỏ ý rất e ngại cho đoàn quân của ông lăn bánh tiến tới Pleime. Chỉ khi có được sự bảo đảm yểm trợ hỏa lực từ các đơn vị pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ và việc đặt để một toán liên lạc viên pháo binh vào trong đoàn quân tiếp cứu thì LLĐNTK mới chịu tiến bước lại tới trại DSCĐ.

Đại Tá Hiếu chỉnh Tướng Kinnard và nói mọi động thái của Trung Tá Luật từ khi xuất trại Pleiku đến khi tới trại Pleime, nhất cử nhất động là làm theo lệnh trực tiếp của Đại Tá Hiếu. Đại Tá Hiếu ra lệnh rành mạch cho Đại Tá Luật là di chuyển đoàn quân tiếp cứu tới Phù Mỹ ngày 21 tháng 11 rồi dừng chân lại tại đó và chỉ hành quân tuần tiễu luẩn quẩn trong đường kính 10 cây số vì hai lý do: một là tranh thủ thời gian để gom góp đủ quân số tăng cường cho LLĐNTK; và hai là để đối ứng với chiến thuật phục kích di động mà Việt Cộng đem ra xử dụng lần đầu tiên trong dịp này - thay vì phục kích tĩnh động như những cuộc tấn công trước đó. Chỉ khi hội đủ hai yếu tố này, Trung Tá Luật mới nhận được lệnh tiến quân (Pleime, chương IV).

Sáng ngày 21 tháng 10, Chiến Đoàn Luật tiếp tục di chuyển, dọc theo trục Phú Mỹ-Pleime, nhưng chỉ thực hiện những cuộc tuần tiễu bạo dạn nội trong một đường kính 10 cây số! Lệnh ban bố rõ ràng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cho Chiến Đoàn Trưởng, Trung Tá Luật, là giả bộ cho đoàn quân sắp tiến tới Trại Pleime, nhưng trong thực tế, ông phải đợi thêm cho đủ lực lượng tăng phái sẽ được di chuyển tới bằng đường không từ Kontum và Bình Định tới Pleiku, ngay khi các điều kiện thời tiết cho phép các di chuyển bằng đường không.

3. Sáng Kiến Truy Kích Địch Sau Khi Giải Tỏa Trại Pleime

Khi đề cập tới trường hợp Sư Đoàn 1 Không Kỵ được trao sứ mạng truy kích địch quân sau khi giải tỏa trại Pleime, Tướng Kinnard phát biểu như sau (Pleiku, trang 31):

Ngày 26-27/10 đánh dấu một khúc quẹo trong cuộc hành quân của sư đoàn tại Pleime. Ngày 26/10, Tướng William C. Westmoreland, Tư Lệnh, Lực Lượng Hoa Kỳ, Việt Nam, thăm bộ chỉ huy tiền phương của Lữ Đoàn tại Homecoming. Ngay cả với số tin tức tình báo ít ỏi vào thời kỳ đó, rõ ràng là nỗ lực của Bắc Quân tại Pleime phải là cái gì hơn việc thông thường, một cuộc hành quân "thử lửa". Trong buổi họp giữa Tướng Westmoreland và các sĩ quan của sư đoàn, đề tài thảo luận nhấn mạnh là các Lực Lượng Hoa Kỳ bây giờ phải làm hơn là chỉ chận đứng địch; phải truy lùng và tiêu diệt địch.

Và đồng thời Tướng Kinnard cũng trích dẫn điện tín nhận ngày 31 tháng 10 xác nhận khẩu lệnh chính thức của Tư Lệnh Field Force Vietnam (Pleiku, trang 15):

Giai Đoạn II: (Văn thư 1312 từ Tư Lệnh FFV, gửi Tư Lệnh, SĐ 1 KK, ngày 310145 tháng 10 năm 1965)

"Đề Tài: Xác nhận khẩu lệnh của Tư Lệnh FFV truyền cho Tư Lệnh SĐ 1 KK ngày 28/10/65.

"Tham Chiếu:
A. Văn thư 1097 từ AVF-CG-CP, DTD 221421Z
B. Văn thư 38215 MAC J311, DTD 270629Z (NOTAL)

"Các đơn vị của SĐ 1 KK hiện có mặt quanh Pleiku sẽ phối hợp với và thiết lập một vùng hành quân quanh trại DSCĐ Pleime và đảm trách thực hiện các cuộc hành quân để tìm, ghim và hủy diệt các lực lượng VC đang tạo nguy khốn trong vùng chung này."

Trong phần 10. Khái Niệm Hành Quân (Pleiku, trang 16) và phần 11. Thi Hành (Pleiku, trang 17), không thấy Tướng Kinnard nói tới sự kiện sáng kiến truy đuổi địch phát xuất từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, đồng thời sự kiện Sư Đoàn 1 Không Kỵ tiếp tục đóng vai trò một lực lượng tăng phái cho Quân Đoàn II.

Đại Tá Hiếu đã bổ túc phần thiếu sót này khi nhắc tới buổi họp quan trọng xảy ra ngày 26 tháng 10 tại Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật/Quân Đoàn II với sự hiện diện của các cố vấn Mỹ và các chỉ huy trưởng của các đơn vị. Trong buổi họp này, Đại Tá Hiếu đã đề nghị truy đuổi địch quân đến tận mật khu Chu Prong với khả năng trực thăng vận của Sư Đoàn 1 Không Kỵ. Trong giai đoạn này, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đóng vai trò nỗ lực chính với hành quân Long Reach và Lữ Đoàn Dù VN giữ vai trò lực lượng trừ bị (Pleime, chương V).

Đại Tá Hiếu cũng hoạch địch rõ ràng khái niệm và phương thức hành quân phối hợp giữa Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ (Pleime, chương VIII).

Trong đợt III, các cuộc hành quân được thực hiện qua một sự cộng tác mật thiết giữa các Lực Lượng Việt Nam và Mỹ: đó là phương thức mới nhất được đem ra áp dụng từ Thế Chiến II. Các đặc điểm của phương thức này là:
- Phối hợp các công tác tình báo và yểm trợ.
- Chia sẻ khái niệm hành quân và kết quả.
- Vùng hành quân riêng rẽ.
- Bộ tư lệnh riêng rẽ.
- Điều quân riêng rẽ.
- Hành động riêng rẽ.
- Trừ bị riêng rẽ.

Phương thức trên đã đem lại nhiều kết quả tốt, đặc biệt trong một nước như Việt Nam trong đó tâm lý quần chúng chứa đựng nhiều phức tạp và tinh tế. Phương thức này cũng tạo nên một tinh thần ganh đua giữa hai quân lực và giữa các đơn vị.

Các cố vấn Mỹ thuộc Quân Đoàn II chuyển đạt đến giới quân sự cao cấp Mỹ sáng kiến hành quân truy đuổi địch và được sự hưởng ứng và chấp thuận của các tướng lãnh Mỹ của I Field Force Vietnam và COMUSMACV.

Sau chiến dịch Pleime, Tướng Westmoreland đã nhận định là khái niệm hành quân phối hợp của Quân Đoàn II là một khái niệm vô tiền khoáng hậu trong chiến trường cận đại (Pleime, lời tựa):

Sự hữu hiệu của nỗ lực khéo tổ chức, ăn khớp mật thiết, cộng tác phối trí chung quả là hiếm thấy trong chiến tranh hiện đại.

4. Vai Trò Eagle Flights DSCĐ

Tướng Kinnard có ghi nhận sự hỗ trợ của các toán Eagle Flights DSCĐ mà Quân Đoàn II cắt đặt cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ dùng về mặt trinh sát. Các toán Eagles Flights được tăng phái đặc biệt cho Thiết Kỵ 1/9 Không Kỵ từ ngày 1 tháng 11 (Pleiku, trang 46) đến ngày 5 tháng 11 (Pleiku, trang 58). Tuy nhiên, Tướng Kinnard có vẻ coi thường các toán trinh sát người thượng này, khi ông lần đầu tiên làm quen với họ ngày 25 tháng 10, trong giai đoạn giải cứu trại Pleime (Pleiku, trang 24):

Thiết Đoàn B 2/9 trở về lại dưới quyền điều khiển của thiết đoàn lúc 1230 giờ và thiết đoàn (-) bắt đầu các cuộc hành quân lùng kiếm trong vùng của Tiểu Khu quận Lệ Thanh (ZA246245) với sự tăng phái của một đội toán LLĐB DSCĐ "Eagle Flight". Đội toán này, tuy mang vẻ một đơn vị không vận, trên thực tế là một nhóm người thượng trinh sát trên bộ gồm sáu tiểu đội với 5 tiền sát viên. Thiết đoàn cũng thăm dò các cạnh sườn của vùng thuộc Lữ Đoàn 1.

Về phía Đại Tá Hiếu, coi bộ các toán Eagle Flight là niềm hãnh diện của Quân Đoàn II (Pleime, chương V). Các toán này đóng vai trò các đội "cứu hỏa" nhảy xuống dập tắt các mòi lửa mỗi khi quân du kích Việt Cộng nhúm lên tại các tiền đồn DSCĐ hẻo lánh thuộc Quân Đoàn II.

Ngày 27 tháng 10, các Toán Bay Đại Bàng thuộc Sư Đoàn Không Kỵ tung vào chiến trường. Từ hoàng hôn tới xế chiều, chúng không ngừng bay trên vùng để tìm kiếm địch. Mọi nghi ngờ về sự hiện diện của địch được kiểm chứng và xử lý, hoặc bằng không kích hay bởi chính các Toán Bay Đại Bàng, hay bởi các lực lượng phản kích.

5. Vai Trò Trinh Sát của các Toán Biệt Cách Dù

Ngoài vai trò hỗ trợ của các toán Eagle Flight Thượng, Quân Đoàn II còn cung cấp cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ các toán trinh sát Biệt Cách Dù trên các chuyến bay trực thăng lùng kiếm địch. Tướng Kinnard không hề đề cập tới điểm này. Đại Tá Hiếu nhắc nhở gián tiếp đến hoạt động của các toán Biệt Cách Dù với việc đính kèm tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng liên quan đến sinh hoạt của Sư Đoàn 1 Không Kỵ tại Pleime và Ia Drang (Pleime, tài liệu B). Xin trích dẫn:

Đợt 2: xử dụng những đơn vị tăng phái nhỏ và phối hợp với Biệt Cách Dù ngụy để thực hiện những cuộc tấn kích vào hậu cứ của ta (28 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1965).

Đổ bộ thẳng bằng "nhảy cóc" vào hậu cần của ta bằng trực thăng (28 tháng 10 đến 10 tháng 11 năm 1965). Các lực lượng xử dụng: từ một tiểu đoàn đến một đại đội của lính Mỹ hay hai đại đội của lính Mỹ phối hợp với Biệt Cách Dù ngụy.

Trước khi đổ bộ. Thám sát các bãi đổ bộ bằng nhiều phi vụ thám sát hay bằng các toán nhỏ Biệt Cách Dù ngụy.

Biệt Các Dù ngụy hay các đơn vị thám sát Mỹ luôn đổ bộ trước để giữ an ninh bãi đổ bộ trước khi bộ binh, đơn vị yểm trợ và sở chỉ huy đổ bộ.

Sau khi đổ bộ quân. Biệt Cách Dù ngụy thường tiến xa tuần tiễu.

6. Biến Cố Ngày 9/11/1965

Ngày 10 tháng 11 năm 1965 (Pleiku, trang 73) , Tướng Kinnard ghi vào bản báo cáo là bắt đầu từ ngày 9 tháng 11

Thế điều quân chuyển hướng từ tây sang đông là để khơi ngòi cho một quyết định gần sắp tới từ Bộ Tư Lệnh sư đoàn Bắc Quân.

và ngày 10 tháng 11 Lữ Đoàn 3 KK thay thế cho Lữ Đoàn 1 KK.

"Một quyết định gần sắp tới từ Bộ Tư Lệnh sư đoàn Bắc quân" là quyết định gì thì Tướng Kinnard không nói rõ. Nhưng trước khi tìm hiểu về quyết định này, chúng ta hãy bàn tới sự chuyển hướng của các cuộc hành quân "từ tây sang đông".

Ngày 8 tháng 11, Đại Tá Hiếu mớm cho Tướng Kinnard hành động chuyển hướng này qua I Field Force Vietnam (Pleiku, trang 67):

Vào khoảng lúc này, Field Force Vietnam yêu cầu sư đoàn di chuyển các cuộc hành quân của mình về phía đông Pleime nếu "không có thêm đụng độ mới nữa trong vùng phía tây".

Đó là thế nghi binh để làm cho Việt Cộng tưởng lầm là Lữ Đoàn 1 KK đã đánh mất tung tích khiến họ đâm ra chểnh mảng để rồi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II sẽ lấy một quyết định chiến thuật bất ngờ giáng lên đầu địch (Pleime, chương V):

Ngày 9 tháng 11, hướng di chuyển và xoay chuyển trọng tâm từ tây sang đông bắt đầu và ngày 10 tháng 11, Lữ Đoàn 3 Mỹ thay thế Lữ Đoàn 1 Mỹ. Nhưng trong thực tế, vào thời điểm này, các đơn vị Việt Cộng nằm tại các địa điểm sau đây, như là các cuộc hành quân sau này tung vào ngay trọng tâm của vùng Chu Prông-Ia Drang cho thấy: ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 66 đóng thành hàng giây dọc theo mạn bắc của sông Ia Drang; Trung Đoàn 32 cũng ở phía bắc trong cùng vùng; Trung Đoàn 33 duy trí các vị trì trong vùng kế cận làng Anta (theo đanh xưng Việt Cộng), đông của rặng núi Chu Prông.

Tin chắc các lực lượng của ta đánh mất vết tích của các đơn vị của họ, Mặt Trận Việt Cộng liền lấy một quyết định để lấy lại ưu thế với một cuộc tiến công. Mục tiêu lại là Pleime và ngày tiến công được ấn định vào ngày 16 tháng 11. Kế hoạch được biết trong nội bộ cán bộ Việt Cộng như là đợt hai của cuộc tiến công Pleime. Tất cả ba trung đoàn sẽ can dự vào lần này, cũng như một tiểu đoàn pháo kích 120 ly và một tiểu đoàn súng phòng không hai nòng 14,5 ly; cả hai đơn vị này đang trên đường xâm nhập và dự tính sẽ tới kịp thời cho cuộc tiến công.

7. Khái Niệm Tấn Công Tại Bãi Đáp X-Ray Ngày 14/11/1965

Và đây là "quyết định gần sắp tới từ Bộ Tư Lệnh sư đoàn Bắc quân" theo tin tình báo Đại Tá có được: tấn công trại Pleime lần thứ hai. Đại Tá Hiếu liền điều nghiên kế hoạch tấn công trước địch tại bãi đáp X-Ray và khái niệm hành quân này được các đơn vị của Sư Đoàn 1 Không Kỵ thi hành.

Điểm thứ nhất, Đại Tá Hiếu đề nghị ngày N được ấn định là ngày 14/11/1945, hai ngày trước khi Việt Cộng dự tính tấn công trại Pleime lần thứ hai, vì vào lúc đó các đơn vị Việt Cộng chưa được tái trang bị về mặt súng phòng không và bịch kích pháo mà địch đã mất mát sau cuộc tấn công trại Pleime - tiểu đoàn bích kích pháo 120 ly và tiểu đoàn súng phòng không hai nòng 14.5 ly chưa tới chiến trường. (Pleime, chương V):

Tỉ lệ 1/10 chứng tỏ tiểu đoàn 1/7 rất là may mắn vì thật bất ngờ là từ trên các đồi bao quát ngó xuống bãi đáp, địch đã không đặt các vũ khí cộng đồng để yểm trợ các cuộc tấn công. Tình trạng này chỉ có thể giải thích bởi các lý do sau đây:

- Địch đã mất gần hết các vũ khí cộng đồng trong đợt đầu.

- Họ bị tiểu đoàn 1/7 tấn công bất ngờ và các cán bộ chỉ huy đã không khéo xử dụng địa thế.

- Các chiến thuật của họ hầu như dựa và "biển người" và họ quá tự tin là cuộc tấn công của họ sẽ làm cho tiểu đoàn 1/7 rã ngũ rất mau chóng.

Tướng Kinnard có cảm nhận được mưu trí của Đại Tá Hiếu (Pleiku, trang 88) khi ông nhận xét:

Hiển nhiên là nỗ lực của Bắc Quân không được hỗ trợ bởi các tiểu đoàn bích kích pháo và súng phòng không không tới kịp vào vùng chiến trận và còn rong ruổi trên đường mòn xâm nhập.

Điểm thứ hai, Đại Tá Hiếu cho đổ bộ quân của Lữ Đoàn 3 Không Kỵ tại vùng phía nam của nơi ba trung đoàn Bắc Quân tập trung, nơi chân rặng núi Chu Prong, chứ không tấn sâu hơn lên phía bắc, không phải để phục kích địch quân tại hậu cứ, mà làm nút chận không cho quân lính của ba trung đoàn địch tràn xuống phía nam, để rồi triệt hạ họ với bom B-52:

Cần lưu ý là từ chiều ngày 15 tháng 11, các phóng pháo cơ B52 đã tham gia vào trận đánh với năm phi vụ oanh tạc hằng ngày tại rặng núi Chu Prông. Ngày 17 tháng 11, các mục tiêu oanh tạc cũng bao gồm bãi đáp X-ray và hai tiểu đoàn của ta được lệnh di chuyển ra cách bãi đáp 3 cây số, về hướng bắc và hướng tây bắc tới một bãi đáp khác gọi là bãi đáp Albany.


Tướng Kinnard cũng nói tới việc dùng đến bom B-52 trong bản báo cáo (Pleiku, trang 88):

Ngày 15/11 cũng được đánh dấu bởi việc xử dụng lần đầu tiên một vũ khí mới của lực lượng Mỹ và gây kinh hoàng cho quân lính địch kể cả những chiến binh gan lì nhất. Ngay sau giờ ngọ, một vùng rộng lớn quanh vị trí YZ8702 thình lình nổ tung với hàng trăm tấn bom làm rung chuyển khắp cùng mặt đất như thể một tấm thảm đang được trải ra. Các phóng pháo cơ B-52 đã đánh rập. Trong năm ngày kế tiếp các phóng pháo cơ khổng lồ làm thịt một vùng rộng lớn của rặng núi Chu Prong. Các chiến sĩ Bắc Quân sống trong hãi sợ các cuộc tấn công này vì họ tin là mỗi cuộc oanh kích bao phủ một vùng 20 cây số vuông và các địa đạo và hầm trú cá nhân không thể bảo vệ họ.

Như vậy, nỗ lực chính trong cuộc tấn công vào hậu cần rặng núi Chu Prong từ ngày 14 đến 17 tháng 11 năm 1965 không phải là Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ của Đại Tá Hal Moore tại bãi đáp X-Ray , mà là các cuộc oanh tạc bom trải thảm của B-52 nhắm vào toàn bộ ba trung đoàn Bắc Quân, đặc biệt Trung Đoàn 32 và 33 trong hai ngày 15 và 16 tháng 11, và đặc biệt Trung Đoàn 66 ngày 17 tháng 11 ngay tại bãi đáp X-Ray. B-52 đã giết hại khoảng 2.000 chiến binh Bắc Quân.

8. Biến Cố Ngày 18 tháng 11 năm 1965

Ngày 18 tháng 11 năm 1965, Tướng Kinnard tiết lộ là một căn cứ hỏa lực pháo binh mới được thiết lập tại bãi đáp Crooks, nhưng lại không nêu rõ lý do (Pleiku, trang 96):

Ngay trước cuộc tấn công, TĐ 2/5 KK, di chuyển tới phía tây vào một vị trí nút chặn, đổ bộ không vận vào bãi đáp Crooks (YA875125) cùng với các khẩu đại bác. Tiểu đoàn này thực hiện tuần tiễu từ căn cứ mới và trong đêm hứng chịu hỏa lực thăm dò nhẹ và sách nhiễu của súng nhỏ và bích kích pháo.

Đại Tá Hiếu nói rõ hơn là vào ngày 17 tháng 11 năm 1965 (Pleime, chương VI):

Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nghĩ là đến lúc tung lực lượng trừ bị vào để chấm dứt trận chiến đã kéo dài khoảng một tháng. Ngoài bị tổn thất nặng nề, địch buộc phải xa vào bẫy các lực lượng của ta giăng ra và xô đẩy vào các lộ trình rút lui mà chúng ta dự kiến.

Lần này nỗ lực chính được thực hiện bởi Lữ Đoàn Dù QLVNCH với sứ mạng triệt hủy các đơn vị Việt Cộng đào tẩu và tất cả các cơ sở xung quanh thung lũng Ia Drang. Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ trước nay gánh chịu tấn công sẽ tiếp tục tạo áp lực từ Đông sang Tây và cung ứng pháo yểm cho Lữ Đoàn Dù.

Cuộc hành quân mang tên "Thần Phong 7" khởi động chiều ngày 18 tháng 11 khi lữ đoàn đươc trực thăng vận tới vùng hành quân, ngay sau khi tới Pleiku.

Chiều ngày 17 tháng 11 năm 1965, Đại Tá Hiếu đã thu xếp nhờ

Phi Đội C130 của Phi Đoàn 7 KQHK vận chuyển trong vài tiếng đồng hồ các đơn vị sau đây: Ban Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù; Ban Chỉ Huy các Chiến Đoàn 1 và 2 Dù; Năm tiểu đoàn Dù: 1, 3, 5, 7 và 8 từ các nơi khác nhau, như Sài Gòn, Biên Hòa, Vũng Tàu và Phú Yên tới Pleiku. Chính là nhờ vào công lao đóng góp của họ mà cuộc hành quân đã có thể khởi sự đúng vào ngày giờ ấn định.

Đồng thời, Đại Tá Hiếu đã yêu cầu Sư Đoàn 1 Không Kỵ đặt một pháo đội mới tại địa điểm (YA875125) để chuẩn bị kịp thời yểm trợ cho Lữ Đoàn Dù VN trước khi cuộc hành quân Thần Phong 7 khai diễn.

Trong giai đoạn này của chiến dịch Pleime, Tướng Kinnard có nói là bắt đầu từ ngày 20 tháng 11, Lữ Đoàn 2 KK thay thế cho Lữ Đoàn 3 KK và tiếp tục lùng kiếm địch quân và Ban Chỉ Huy Lữ Đoàn được đặt tại trại Đức Cơ (Pleiku, trang 102):

Lữ Đoàn 3 di chuyển các đơn vị tác chiến tới bãi đáp Crooks và Golf, để phối hợp điều quân với Lữ Đoàn 2. Lữ Đoàn 2 đảm trách quyền điều khiển các đơn vị tác chiến trong vùng chiến trận này. Sau khi chuyển giao nhiệm vụ, Lữ Đoàn 3 bắt đầu di chuyển về căn cứ An Khê với TĐ 1/7 và các đơn vị tăng phái và cơ hữu khác. Đối với Đơn Vị Yểm Trợ Tiền Phương 3, đây là lần đầu tiên đơn vị được xả hơi từ khi chiến dịch khởi sự ngày 23 tháng 10.

Lữ Đoàn 2 dự tính xử dụng trại LLĐB Đức Cơ (YA840252) như là căn cứ làm việc cho Ban Chỉ Huy Tiền Phương, và đổ bộ xong vào buổi chiều. TĐ 1/5 KK thực hiện tuần tiễu từ bãi đáp Golf, và TĐ 2/5 KK tuần tiễu từ bãi đáp Crooks.

nhưng lại làm lơ vai trò tăng phái cho Lữ Đoàn Dù VN bằng cách hành quân trở lại từ đông sang tây, như Đại Tá Hiếu chỉ cho thấy trong đoạn vừa mới trích dẫn, để thi hành kế của Quân Đoàn II chận địch xuống phía nam và hiệp lực cùng Lữ Đoàn Dù dồn hai tiểu đoàn địch vào hành lang mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tiên liệu địch sẽ dùng để tẩu thoát về hậu cứ bên Căm Bốt.

9. Công Trạng Của Sư Đoàn 1 Không Kỵ trong Chiến Dịch Pleime

Trong phần kết của bản báo cáo, Tướng Kinnard đã đặt một câu hỏi then chốt (Pleiku, trang 123):

Câu hỏi còn lại là liệu có thể chận đứng mối đe dọa nếu không có Sư Đoàn 1 Không Kỵ không?

Và câu trả lời đương nhiên của Tướng Kinnard là không. Ông nêu ra những lý lẽ sau đây: một, Quân Đoàn II không có đủ quân để thành lập một đoàn quân tiếp cứu đủ mạnh để thắng vượt qua ổ phục kích của Trung Đoàn 32 BV gồm 2.000 binh sĩ; hai, Trung Tá Luật e ngại không cho dám cho đoàn quân tiếp cứu tiến bước cho đến khi bị Tướng Kinnard đốc thúc và bảo đảm pháo yểm; ba, đoàn quân tiếp cứu, sau khi giải tỏa được trại Pleime, đã tránh khỏi bị địch quân xâu xé khi thực hiện hành quân càn quét quanh trại, nhờ vào sự yểm trợ pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ; bốn, Quân Đoàn II không có khả năng truy kích địch đến tận mật khu Chu Prong; và năm, ngay cả khi đến lượt Lữ Đoàn Dù VN tham chiến thay các đơn vị Lữ Đoàn 3 KK, lữ đoàn trưởng Dù VN cũng phải nhìn nhận là pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ giết hại địch quân nhiều hơn là các đơn vị bộ chiến Dù.

Các điểm Tướng Kinnard nêu lên đều đúng cả. Xét riêng về tổn thất địch trong chiến dịch Pleime, trong tổng số khoảng 6.000 binh sĩ VC bị loại khỏi vòng chiến, công trạng của ba lữ đoàn không kỵ là 3561 VC chết và 1178 VC bị thương, của B-52 là khoảng 2.000 VC chết, phía các đơn vị QLVNCH là khoảng 450 VC chết (200 quanh Pleime trong hành quân Dân Thắng 21, và 250 tại Ia Drang trong hành quân Thần Phong 7).

Tuy nhiên, Tướng Kinnard quên là tất cả những chiến thắng Sư Đoàn 1 Không Kỵ thực hiện được trong chiến dịch Pleime là nhờ vào tài suy tính của bộ óc tại Ban Tham Mưu Quân Đoàn II: một, Đại Tá Hiếu đã đoán được Việt Cộng lần này dùng thế phục kích di động, nếu không pháo binh của SĐ1KK sẽ bắn vào khoảng chống không; hai, Đại Tá Hiếu đã cung cấp các thông tin tình báo thu thập được từ việc khảo cung các tù binh và hàng binh Việt Cộng, và từ các đội toán Biệt Cách Dù len lỏi trong lòng địch, liên quan đến các vị trí của ba trung đoàn Bắc Quân tập trung tại mật khu Chu Prong; ba, Đại Tá Hiếu đã bày thế nghi binh chuyển hướng hành quân từ đông-tây sang tây-đông ngày 9/11 để có thể tấn công địch cách bất ngờ; bốn, Đại Tá Hiếu đã bày cho Lữ Đoàn 3 KK tấn công vào Chu Prong ngày 14/11 để tránh thiệt hại tối đa cho trực thăng và binh sĩ Mỹ khi Việt Cộng không có trong tay các súng phòng không và bích kích pháo hạng nặng; năm, Đại Tá Hiếu đã đề ra khái niệm dùng vũ khí B-52 chiến lược làm vũ khí chiến thuật lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam; sáu, Đại Tá Hiếu đã sắp xếp đặt để pháo binh của SĐ1KK tại Crooks trong tầm bắn vào vùng Lữ Đoàn Dù sẽ hành quân. Nói tóm lại, Đại Tá Hiếu đã khéo biết xử dụng tới (Pleime, chương V):

một đơn vị có khả năng di động cực cao trên toàn thế giới và đồng thời có những quân cụ và vũ khí hiện đại nhất

Nếu không có tài điều khiển của Đại Tá Hiếu, mãnh lực vô song địch của SĐ1KK sẽ chỉ là một quả đấm thoi sơn tung vào khoảng chân không, không tài nào đánh trúng một địch quân tàng hình tài giỏi. Tướng Westmoreland đã có một thẩm định trung thực hơn liên quan đến vai trò của Quân Đoàn II trong chiến dịch Pleime khi ông viết (Pleime, lời tựa):

Các thành quả nổi bật của các giai đoạn sau có thể, có lẽ, không bao giờ thể hiện được nếu như không có đầu óc thẩm định và con mắt nhìn xa của giới lãnh đạo Việt Nam. Nỗ lực chuẩn bị tiên khởi trên chiến trường, mở đường cho việc xử dụng Sư Đoàn 1 Không Kỵ, đã do các lực lượng Việt Nam hoàn thành. Cũng vậy, thành quả khai thác của giai đoạn chót đã do Lữ Đoàn Dù Việt Nam phần lớn hoàn thành.

Nguyễn Văn Tín
07 tháng 05 năm 2010


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NamQuoc
post Aug 23 2014, 09:13 AM
Post #127


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173
Age: 52
Country







Đâu dễ phai mờ



Một lần tuân lệnh cấp trên, buông súng, bị lưu đày biệt xứ hơn 8 năm mà cũng chưa tởn.Thực ra anh Ý chỉ hơn tôi có cái đế (ảnh Trung Tá, tui Trung Úy) mà ép tôi quá..

Đang phi hành tỏi, chờ vàng, thả cá vào chiên sơ, rồi cho mật ong, nước mắm vào kho...Thì có tiếng phone reo...
Nhà thơ Võ Ý từ Cali gọi sang...Anh bảo tôi là nhân chứng sống, trong cuộc di tản đầy máu và nước mắt, về trên tỉnh lộ 7B,Anh cho biết là đại hội Phố Núi sắp khai mạc tại Cali,Anh cần có một bài viết về cuộc di tản nầy, và anh bảo tôi phải viết, bài viết không dài quá 2 trang, và phải hoàn tất nội trong ngày nay.Viết xong email sang cho anh, để anh sắp xếp đọc trong ngày hội,Nói xong anh cúp phone...
Kêu trời không thấu,Cuộc di tản 2 tháng trời mà bảo tôi viết 2 trang...Trong khi tôi đã có 2 bài viết về cuộc di tản nầy, 2 bài với tổng cộng hơn 12 trang.Bây giờ tôi phải rút từ 12 trang xuống còn 2 trang.Vì tôi chưa nhận giấy giải ngũ,nên cấp trên ra lệnh là tôi phải thi hành,có gì khiếu nại sau. Một lần tuân lệnh cấp trên, buông súng, bị lưu đày biệt xứ hơn 8 năm mà cũng chưa tởn.Thực ra anh Ý chỉ hơn tôi có cái đế (ảnh Trung Tá, tui Trung Úy) mà ép tôi quá...Nhưng dù gì thì lúc lưu đày ra Bắc,Tôi và ảnh cùng chung đội rau tại trại tù Hà Tây,mấy năm trời vui buồn có nhau,...Vậy là tắt lửa, vô khỏ computer liền may ra mới kịp.
*

Xe chầm chậm ngang qua cổng Quân Đoàn, mới hơn 6 giờ sáng, trời lành lạnh sương mờ...Hình ảnh người lính gác cổng trong tư thế tác chiến, không bao giờ phai mờ trong trí tôi, mỗi khi có dịp hồi ức lại, ngày giờ năm tháng mà tôi củng đồng đội chung đơn vị, phải rời bỏ quân đoàn, ra đi mà lộ trình không biết phải đi về đâu? Không nhận bất cứ mệnh lệnh nào củă một cấp trưởng, ra đi chỉ là việc tự phát, thấy đơn vị bạn bỏ đi .. cũng đi theo, chỉ vậy thôi .
Là một đơn vị trừ bị cho vùng hai chiến thuật, các toán Chiến tranh chính trị hành quân, thường xuyên tăng phái cho đơn vị bạn. Đơn vị 201CTCT của tôi vừa từ Kon Tum về hậu cứ quân đoàn, khoảng 10 ngày trước khi di tản, đang công tác tăng phái cho Biệt Động Quân tại B15, khi Biệt Động Quân rút đi, đơn vị tôi tự động rút về Pleiku, trong thành phố KonTum lúc bấy giờ, loa phóng thanh ra rả... Lệnh Đại Tá Tỉnh Trưởng, cấm quân nhân ra khỏi tỉnh với bất cứ lý do gì... Là đơn vị tăng phài, nên đoàn xe của Đại Đội 201 qua cầu Dakpla dễ dàng...
Về quân đoàn, doanh trại tiểu đoàn đóng cạnh truyền tìn,có một đêm giặc pháo ngay vào quân đoàn... Tin tức xấu lan truyền cùng khắp, kể từ khi Ban Mê Thuộc tạm coi như thất thủ...Buổi sáng trước ngày di tản, Trung Úy Quế, ban 3 Tiểu Đoàn, dừng xe gắn máy trước sân tiểu đoàn, anh cho biết là hầu hết các đơn vị trong quân đoàn đã di tản, chỉ còn thiết giáp, truyền tin và mình ...
Anh em xôn xao bàn tán, tiểu đoàn như rắn mất đầu, vị tiểu đoàn trưởng bay đi đâu mất... Trước khi đi, người còn dặn lại tiểu đoàn phó trông coi tiểu đoàn, ông bận đi họp ở quân đoàn... Tiểu đoàn phó mới từ Sài Gòn đổi ra chưa tới 3 tháng ...Tôi thì cũng từ Sài Gòn ra được gần 5 tháng ... Cũng đều từ Tiểu Đoàn 50 CTC T thuyên chuyển về đây.
Đêm đó, tất cả quân nhân trong đơn vị không ai ra lệnh, tự động quay quần bên nhau, ngủ ngoài sân... Hình như ai cũng sợ đơn vị ra đi bất thình lình , mình bị bỏ lại..
Sáng sớm, tiểu đoàn phó cho lệnh phá kho, anh em được thêm khá nhiều lương khô, cũng như đạn dược..
Tôi thấy thương cho người lính gác cổng quân đoàn vô cùng... Thượng phiên không biết có người thay không? Điếm trưởng không biết có còn không? Quân phong, quân kỷ, trong những ngày sau cùng, giết rất nhiều quân nhân không dám tự ý rời đơn vị...
Mấy chiếc M48, còn thật mớ,i đậu rải rác gần cổng .. Nòng súng buồn bả chỉa xuống đồi ... Xe qua khỏi cổng, trên ghế trưởng xa, tôi còn ngoái đầu nhìn lại cổng quân đoàn, hình như tôi linh cảm .. đây là hình ảnh cổng quân đoàn mà tôi được nhìn lần cuối..!
Con đường Hoàng Diệu, và nhiều con đường khác trong thành phố, dù còn sương mờ, dù còn quá sớm để bắt đầu một ngày mới ... vậy mà đường nào cũng rộn rịp, xe cộ đủ loại, xe nhà binh nhiều nhất.. Gương mặt mọi người đều mang nét " giới nghiêm", hình như trong đầu mọi người đều mang nhiều thắc mắc mà chẳng ai giải đáp giùm cho...
Đoàn xe của Tiểu Đoàn 20 , sau khoảng nửa giờ ngừng trên đường Hoàng Diệu, để nghe ngóng tình hình..Vị tiểu đoàn phó ra lệnh lên đường theo sau đoàn xe quân cảnh vừa chạy ngang.. Xe chầm chậm theo về hướng Hàm Rồng.. Tôi nhìn rạp Diệp Kính một lần cuối..Cũng như tôi đã nhìn trường trung học Pleime khi xe từ quân đoàn ra tỉnh..Pleiku không phải là quê hương... Nhưng là đất của quốc gia, bỏ đi thì lòng nào lại không luyến tiếc...!
Tôi nhìn phía trước, tôi nhìn phiá sau ... xe đâu mà nhiều quá, xe lô bồi xe nhà, xe đò, các loại xe quân đội... rồng rắn chầm chậm bò đi. Gần tới Hàm Rồng, xe trước rẽ phải băng lề chạy cày trên đất cỏ... một khoảng khá xa mới thấy lờ mờ dạng một con lộ... mà có lẽ từ lâu không người qua lại.
Lính trên xe nhiều người biết... Con đường nầy dẫn đến Phú Bổn... Đoàn xe vẫn êm ả chạy, chưa thấy gì là nguy hiễm, chưa nghe tiếng súng ..
Xe qua Thung Lủng Hồng... Rải rác một vài chiếc GMC bị lật.. vài xác quân nhân nằm sãi tay bên ba lô súng đạn.. có lẽ tại nạn ...Rồi đoàn xe rồng rắn cũng tới được Phú Bổn...Lính gốc miền Nam có vẽ vui vì được về Nam, dù trên mặt vẫn đầy nét lo âu ... Lính người địa phương, mặt mũi đâm chiêu vì chuyền đi bất ngờ... xa người thân xa vợ xa con...
Đêm Phú Bổn tương đối an toàn, Trung Tá Lò văn Bảo củng vài cận vệ.. đi bộ qua từng xe di tản, an ủi đoàn quân.. ..
Rồi lần lượt tới Phú Túc, tới Củng Sơn, tới bờ sông Ba...
Có những khúc xuyên rừng, công bình ủi dường, đốt lửa cháy rực, Biệt động quân, súng cầm tay dàn an ninh hai bên đường rừng, nhiều em lính quá trẻ, tuổi chưa tới 20.. Họ lặng lẽ cầm súng trong thế sẵn sàng chiến đấu... Không biết họ có nghĩ gì về đoàn quân đang xuối Nam, và thân phận của người lính an ninh đoạn hậu rồi sẽ ra sao?? Một sự bỏ rơi tàn nhẫn quá...!!
Tôi thấy xa xót trong lòng khi nhớ tới những người lính trẻ nầy... Hình ảnh hào hùng đó khó phai mờ trong tôi .
Từ bờ bên kia Sông Ba theo đập Đồng Cam về Hiếu Xương mới là đoạn đường đầy máu.... Biết bao nhiêu xác quân nhân chết trong tư thế dơ tay đầu hàng, bọn quỷ người từ phiá sau bắn tới đoàn lính thất thế đã đầu hàng... trong đám thi thể nầy có Đại Úy Klang thuộc tiểu đoàn 20CTCT. Đập Đồng Cam ngâp tràn xác chết, xác dân lẫn lính, khi trời kêu ai người đó phải dạ.. Chứ làm sao cải được.Đoàn xe chạy sát bên nhau, người đi bộ khít bên nhau .. Phiá trên núi, nơi mà ngày trước quân đội Đồng Minh Đại Hàn đã xây nhiều công sự phòng thủ, giữ an ninh con đường 7B nầy, bây giờ bỏ hoang, cộng quân chiếm đóng, từ trên đó, cứ tà tà bắn xuống đoàn người ... bia di động!!
Khi sắp tới quận Hiếu Xương, tin Thiếu Tá Hải tử thương, người của sở 2 liên lạc ( Nha Kỷ Thuật) vị sĩ quan trẻ tuôi, kinh nghiệm trận mạt đầy người, đang trực tiếp chỉ huy thuộc cấp mở đường máu, xe của ông bị 1 tráo B40... Tin nầy đã gây bàng hoàng xúc động cho hầu hết quân dân trên đường di tản
Buổi chiều , trời đã nhạt nắng, tiếng súng đã dịu đi nhiều ... Lá cờ vàng thân thương được một anh lính địa phương của quận Hiếu Xương phầt bay chào đón đoàn quân di tản .
Dân quận Hiếu Xương đứng đầy hai bên đường, hôm đó là ngày rằm, chén cơm, cái bánh, trái chuối, điếu thuốc, được người dân ần cần trao tận tay người lính...
Tôi nhận một chén cơm, với đôi đũa, có tàu hủ kho tương ... từ tay một cố gái trong tuổi đôi mươi, ăn vội thật ngon, nghe cay cay khoé mắt, lần đầu tiên trong đời lính, tôi cảm nhận được tình quân dân thắm thiết, tình dân đối với lính Cộng Hòa.
Lịch sử dù đã sang trang .. Nhưng sự thật bao giờ cũng phải trả lại sự trung thực cho lịch sử, ai trách nhiệm về việc ra lệnh cuộc rút quân nầy... Sinh mạng người lính, nói đúng ra , là sinh mang của thuộc cấp ... sao ai đó nỡ lòng nào, bỏ con mình trong biển lửa... bao nhiêu oan hồn trên tử lộ 7B... Vẫn còn oán hờn vất vưởng... Bao giờ cờ xưa dựng lại .. Có ai nhớ lập đàn tràng cầu cho sinh linh siêu thoát
Những cái chết lẽ ra phải hào hùng, trả đền ơn sông núi ..Thì họ hình như bị bức tử, chết mà không biết mình chết cho ai, cho mục đích gì?
Cầu mong vong linh quân dân cán chính tan thây, nát thịt trên con đường lộ máu, vì sự tính toán sai lầm của cấp lảnh đạo, sớm siêu thoát.. Thượng Đế, Chúa, Phật ở xa người quá... không biết có thấu hiểu nỗi lòng của người lính Việt Nam Cộng Hòa, cuộc chiến tàn đã bao năm rồi mà vết thương đau vẫn còn như mới ngày hôm qua.

Thy Lan Thảo .

(Viết tại Kỳ Đà Động ... ngày 9/9/2012)


--------------------
Trăn trở
Go to the top of the page
 
+Quote Post
caoduy
post Sep 11 2014, 07:29 AM
Post #128


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 52
Country







CÒN NỢ THANH AN

Thân tặng những ai đã từng ở PLEIKU

Mải bận bịu với những lo toan cho miếng cơm , manh áo của cuộc sống đời thường - Đến hôm nay , gần 40 năm đã trôi qua , dù ở rất gần với BÀU CẠN , với THANH AN &PLEIKU bụi mù đất đỏ , tôi vẫn chưa có lần về thăm lại chốn xưa để tạ lỗi cùng người , cùng mảnh đất đã cưu mang , đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm của cả một thời thanh xuân !

Tôi đến THANH AN sau MÙA HÈ ĐỎ LỬA , cởi bỏ chiếc áo thư sinh , khoác lên vai mảnh chiến y của SƯ ĐOÀN BIÊN TRẤN 23 , địa bàn hoạt động của đơn vị tôi là cả mặt trận cao nguyên bao gồm các tỉnh :

QUẢNG ĐỨC , BMT , PLEIKU , KONTUM & PHÚ BỔN

Nhưng PLEIKU lại là nơi cho tôi rất nhiều kỷ niệm , tôi đến đây đầu tiên để trình diện đơn vị , khởi đầu cho cuộc sống phong sương của đời lính chiến & cũng từ biệt CAO NGUYÊN từ chốn này !

Tôi nhớ sở trà BÀU CẠN với những đêm quân hành vội vã - những sáng , những trưa , những chiều trên đường hành quân được ngắm nhìn những bông hoa cúc dại vàng cả một góc trời KATIKA ( BÀU CẠN )

Tôi nhớ THANH AN , một quận lỵ nghèo của PLEIKU , một thị trấn nhỏ nhoi nằm trên trục lộ nối liền PLEIKU - ĐỨC CƠ một vùng đất nghèo khó , đầy máu và lửa của quê hương , nơi mà người dân vẫn phải độn khoai vào bữa cơm ! nơi mà cái chết vẫn hằng ngày đe dọa , vẫn thường đổi chác miếng cơm , manh áo bằng chính mạng sống của người dân nghèo THANH AN ! Đa số người dân nơi đây mưu sinh bằng nghề hái ĐÓT để làm chổi , đã có bao người phải bỏ mình trên những ngọn núi ở tây THANH AN ,

Tôi thương THANH AN , tôi quý người THANH AN : nghèo tiền bạc , của cải nhưng rất giàu tình thương , giàu lòng nhân ái .

Như một định mệnh , khi cuộc chiến tháng 3/75 nổ ra , đơn vị tôi lúc đó đang đóng quân tại BMT , sau 7 ngày tử thủ tại MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG PHỤNG DỰC , tôi bị bắt và bị dẫn đến nhiều địa danh từ BMT đến biên giới ĐỨC CƠ và cuối cùng lại là một trại tù tự lập tại chính mảnh đất đầy kỷ niệm THANH BÌNH , THANH AN , PLEIKU cho đến ngày được trẳ " TỰ DO "

Tôi nhớ THANH AN nhiều lắm : nhớ mẹ già THANH AN , nhớ người em gái nhỏ THANH AN ngày nào đã dấu cho tôi từng củ khoai , từng khúc củi rừng những lần toán tù chúng tôi đi làm ngang qua xóm ( chúng tôi được phân công đi lấy củi , mẹ và em chặt sẵn cho tôi mang về )

Cũng ngay tại quê hương này ở thời điểm ấy chắc cũng không ít những bà mẹ già , những em gái như THANH AN của tôi cũng đã cưu mang , đã cùng sẻ chia những nỗi đau với anh em , với đồng đội của tôi trong những tháng ngày đau thương và khốn khó ấy !

Lòng mẹ là thế ! tình em chan chứa biết dường nào mà tôi lại vô tâm , vô tâm quá ! không một lời từ tạ THANH AN khi được thả về ...Để đến mãi hôm nay, ngồi tại quê hương này , dù đã gần 40 năm không gặp lại THANH AN - Dù có muộn màng , tôi xin được gởi đến THANH AN , đến mẹ , đến em lời tạ lỗi :

Tôi còn nợ THANH AN , con còn nợ MẸ , anh còn nợ EM - Món nợ ân tình ấy con xin ghi khắc trong tim ...

BK PHẠM QUANG CHIẾN 342
( Để nhớ về THANH AN dấu yêu )


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post
caoduy
post Sep 11 2014, 07:29 AM
Post #129


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 52
Country







Mưa Pleiku


Pleiku sau lễ phật đản đã vào mùa mưa, ban đầu mưa bất chợt, sau dần dà mưa dầm dề, mưa dai dẳng, mưa liên miên, mưa sáng, mưa chiều, mưa đêm, mưa khuya, mưa Pleiku thật lạ cứ tạt đủ bốn hướng là hết mùa mưa, ban đầu mưa chiều tạt hướng Tây....Mưa hình như cũng có hồn gọi ta về với kỷ niệm xưa, mưa khuya lành lạnh trong cơn gió nhẹ thoáng qua, tiếng mưa rả rích hòa với gió xen lẫn tiếng côn trùng nỉ non giống như ai đó đang trách nhẹ ta đã vô tình quên đi một kỷ niệm đẹp đẽ trong quá khứ, mưa đêm thánh thót trong nỗi nhớ bất chợt tràn về, mưa đong đầy nỗi niềm trong từng giọt rơi trên tấm tôn, mái lá.... Sống với Pleiku đã trên chục mùa mưa nhưng tôi vẫn thấy mưa ở đây thật lạ. Có cơn mưa ầm ào thoáng qua, có cơn mưa triền miên não nề. Tiếng mưa tỉ tê kéo lê thê từ ngày sang đêm, từng tiếng mưa rơi gõ vào vách tâm hồn vang lên thành lời tâm sự u hoài luyến nhớ một cái gì gần lắm mà như vẫn rất xa.

Sinh ra và lớn lên từ đất Bắc xa xôi, chuyển vùng rồi làm việc nhiều năm trong nắng gió và những cơn mưa Pleiku-Tây Nguyên. Tuổi thơ tôi chăn bò, cắt cỏ rồi lặn lội nơi ruộng trũng, ao đầm, nhặt ốc, móc cua, bắt cá, vớt tôm với tôi mưa, nắng, bão lũ đã quen lắm lắm từ tấm bé. Vậy mà mỗi lần nghe mưa nơi đây tôi vẫn thấy là lạ thế nào ấy, không thể giải thích nổi. Tiếng mưa nhặt khoan thiết tha như gọi nhớ lại những kỷ niệm của ngày thơ nhớp nháp, sình lầy, vô tư mà thơm tho no đầy kỷ niệm và nặng trĩu nghĩa xóm, tình quê...........

Ai ở xa đến Pleiku nghe tiếng mưa đêm chắc rằng sẽ ngạc nhiên lắm lắm, nhưng nếu chịu khó ở lại hết mùa mưa sẽ cảm thụ được hết, rồi sẽ quen dần với mưa Pleiku và tin chắc rằng những trận mưa đêm sẽ trở thành kỷ niệm không thể nào quên của mỗi con người đã trải nếm qua mùa mưa ở nơi đây, nơi có đủ đầy cái nắng, cái gió, cái đó và cả cái mây mưa......

Đêm nay, đêm Pleiku tháng tư âm, ngày nguyệt tận, trời cũng đã về khuya.........Trằn trọc mãi tôi vẫn không sao chợp mắt được...những kỷ niệm ngày xưa lại lần lựợt hiện về như một cuộn phim quay chậm hành hạ, thôi thúc, dằn vặt tôi, khiến tôi không thể nào chịu nổi,....ngoài trời trận mưa rả rích kéo dài từ chiều đập vào tán lá Bằng lăng trước nhà tạo nên những âm thanh buồn tẻ, nghe thật day dứt, não nùng.......người ta thường bảo những đêm mưa là những đêm buồn, có lẽ đúng như vậy thật,....trên đời này đã có không biết đến bao nhiêu bản nhạc, bài thơ, áng văn chương diễn tả lại cái buồn của những trận mưa đêm, nhưng có lẽ vẫn chưa đầy đủ, phải chăng vì mưa đêm thường ấp ủ những mơ ước, nhớ nhung, mập mờ, huyền ảo, khi thực, khi hư.....Thưở thiếu thời tiếng mưa rơi trên mái nhà đã từng là những lời ru cho giấc ngủ ngon lành của tôi bên hơi ấm mẹ hiền, lớn lên những đêm mưa rơi nghe mới buồn làm sao....đêm nay đây mưa cũng lại rơi và tôi chỉ còn biết cầu mong cho nó hãy là những lời ru cho giấc ngủ mơ muộn mằn được gặp lại những kỷ niệm mới qua về.........Nhưng thôi tôi xin.....không mơ về ai cả mà hãy mơ về một trận mưa thật to để hoa cỏ Pleiku-Tây nguyên mãi xanh, cho rừng hoa dã quì héo khô nảy lộc đâm trồi.............

Cho niềm hân hoan của người trồng cây cà phê, cây bắp, cây tiêu; Cho tiếng cười thêm tươi của Bác nông dân nhìn thửa ruộng đã xong phần gieo xạ và mầm cây con đang nẩy lộc, đâm trồi. Mưa đêm! hãy mưa to nữa lên cho lòng tôi bớt đi nặng trĩu một nỗi niềm mà cứ mỗi lần mưa rơi lại dội về vấn hỏi và hành hạ, cho những ai đến với Mưa Pleiku rồi ra đi luôn mãi nhớ về những trận mưa đêm không thể diễn tả và không thể nào quên....

ST


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post
caoduy
post Feb 3 2015, 08:18 AM
Post #130


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 52
Country







Đón Xuân nơi tiền đồn

Mỗi dịp Xuân về, lòng tôi lại rộn lên những kỷ niệm về những Mùa Xuân cũ. Một trong những Mùa Xuân ấy là cái Tết nơi tiền đồn hẻo lánh trên Cao Nguyên với biết bao hy vọng, nhưng cũng với biết bao trăn trở, khắc khoải, và cả buồn tủi! Đơn vị tôi lúc đó là TĐ11/BĐQ địa bàn hoạt động là Vùng 2 CT, tức QĐII/QK2. Hậu cứ nằm tại Biển Hồ Pleiku, một địa điểm khá thơ mộng với du khách ngày nay, nhưng vào thời đó nó vẫn còn là một nơi hoang vu với khá nhiều căn cứ Quân Sự như TT Huấn Luyện Trường Sơn, Tiểu Đoàn 37 Pháo Binh, Tiểu đoàn Công Binh, LĐ2/BĐQ với Bộ Chỉ Huy và 3 Tiểu Đoàn Tác Chiến lừng danh là 11, 22 và 23. Pleiku trước đó cũng ít được nhắc nhở tới, người ta chỉ biết tới Pleiku như một chiến địa với Pleime, Daktô, Đức Cơ v.v… Nó chỉ được chú ý nhiều từ khi một bài thơ của Vũ Hữu Định viết về Pleiku, được Phạm Duy phổ nhạc dưới tên Còn Một Chút Gì Để Nhớ. Những lời cuả bài thơ thật sống động,

Phố núi cao, phố núi trời mây,
Phố xa không xa, trời thấp thật gần....
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa Đông...


Thực vậy, Pleiku là một xứ sở có thể nói là gần như mưa quanh năm.Pleiku, 1965 Với những người sống ở đồng bằng thì xứ sở này cũng được gọi là “quanh năm Mùa Đông”với tiết trời lành lạnh, phố xá hẹp, nghèo nàn. Trục lộ chính là đường Hoàng Diệu với một số tiệm buôn bán nhỏ bắt đầu từ Bưu Điện Thị Xã qua cầu Hội Thương Hội Phú dài chừng 6-700 mét. Chính vì thế mà thi sĩ diễn tả “đi dăm phút đã về chốn cũ” đủ để biết nó nhỏ như thế nào! Vậy mà dù sao so với Kontum và nhất là so với Phú Bổn và Quảng Đức, Pleiku vẫn là 1 thành phố lớn. Dù muốn dù không, với những người lính tác chiến chúng tôi khi đó, Pleiku là một thành phố ấm cúng với ánh đèn điện, với nước máy, với các hàng quán, nhất là các quán cà phê có dàn nhạc steréo, có các thiếu nữ lượn lờ thanh lịch. Dù là thủ phủ của một bộ phận chiến tranh, Bộ Tư Lệnh QĐII, Pleiku vẫn là một thành phố tương đối thanh bình, do người dân ở đây đã quá quen với những tiếng “đại bác ru đêm” hoặc tiếng gầm rú của máy bay phản lực, tiếng khua vang của trực thăng, hoặc ngay cả tiếng xích sắt của từng đoàn Thiết Giáp, tiếng xe GMC chuyển quân ầm ĩ qua thành phố...


Pleiku vẫn là điểm dừng chân mơ ước của những người lính chiến thuộc Sư Đoàn 22 BB và của đám BĐQ chúng tôi. Những mơ ước nhỏ nhoi đó chỉ đến rất ngắn ngủi trong những lần kết thúc một chiến dịch hành quân, dài ngắn tùy tính chất từng trận đánh. Có khi cả năm trời chúng tôi không được ghé về thành phố này một lần. Như từ Tháng Mười Một năm 1971, Tiểu Đoàn 11/BĐQ chúng tôi đi hành quân trận Plei M’rông (Kontum), rồi sau đó vướng Mùa Hè Đỏ Lửa Kontum tới Tháng Sáu 1972, về tới Hậu Cứ nhưng lại bị cấm trại rồi đi luôn một mạch xuống Bồng Sơn, Tam Quan (Bình Định), rồi lại chuyển qua Đức Phổ, Mộ Đức (Quảng Ngãi), mãi tới Tháng Mười Một 1972 mới kết thúc, và được trở lại thành phố nghỉ ngơi.

Nhưng cuộc chiến đang lúc khốc liệt, Tiểu Đoàn chúng tôi nghỉ ngơi vài ngày để bổ sung quân số, sau đó kéo đi TTHL/BĐQ Dục Mỹ (Ninh Hòa, Nha Trang) để huấn luyện bổ túc cấp Tiểu Đoàn thời gian dự trù khoảng 9-10 tuần. Những tưởng, sau mấy năm lăn lóc sa trường, đây là dịp nghỉ ngơi để ăn cái Tết đầu tiên trong đời quân ngũ với không khí thanh bình thật sự, TĐ Trưởng cũng đã nghĩ đến việc nhân dịp này cho một số SQ lần lượt đi phép thường niên. Tiếc rằng, lệnh đưa xuống Cấm Quân! Lại Cấm Quân!

Trong đời lính, chúng tôi chán nhất là 2 chữ này. Cấm Quân có nghĩa là mọi quân nhân không được rời doanh trại và dĩ nhiên luôn phải ở tư thế sẵn sàng tác chiến, sẵn sàng di chuyển đến khu vực đang xảy ra chiến sự. Cấm Quân khác với Cấm Trại, vì Cấm Trại chỉ trong phạm vi một đơn vị thường là cấp Tiểu Đoàn, đôi khi không hẳn vì lý do chuẩn bị hành quân, có thể do lính vô kỷ luật nên đơn vị bị phạt. Còn Cấm Quân thì trên bình diện lớn hơn thường là một Quân Trấn. Quân nhân trong toàn khu vực không được ra khỏi doanh trại nếu không có những Sự Vụ Lệnh đặc biệt do Đơn Vị Trưởng cấp, vì khi Cấm Quân không một quân nhân nào được đi phép, kể cả phép đặc biệt như tang, hôn...

Quả nhiên, những dự đoán của chúng tôi không lầm! Qua báo chí lúc bấy giờ chúng tôi phong phanh được biết một giải pháp cho Chiến Tranh Việt Nam đã gần hoàn thành, nghĩa là cuộc mặc cả tay đôi giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ đã có kết quả và đang chờ ngày ký kết. Kết quả ra sao thì đám quân nhân chúng tôi, kể cả Tiểu Đoàn Trưởng, không hề được biết. Cũng chỉ phong phanh chúng tôi được biết sắp tới sẽ có chiến dịch “dành dân lấn đất” để khi Hiệp Định ngừng chiến được ký kết thì “bên nào ở nguyên chỗ đó” và từ ngữ chuyên môn gọi là “đóng quân da beo”. Vì vậy một chiến dịch sẽ được mở ra để xác định chủ quyền. Hình thức thi hành ra sao thì chỉ đến khi thực hiện chúng tôi mới được phổ biến.

6 giờ chiều ngày 15 Tháng Giêng năm 1973, tôi nhớ rõ hôm đó là ngày Thứ Hai 12 Tháng Chạp Âm Lịch năm Nhâm Tý, nghĩa là chỉ còn chưa tới 3 tuần nữa là Tết, tôi nhận được một công điện Khẩn từ LĐ2/BĐQ ở Pleiku lệnh cho TĐ11/BĐQ phải sẵn sàng di chuyển lúc 5 giờ sáng ngày hôm sau 16/01/1973. Phần bảo mật ghi Phổ Biến Hạn Chế, nghĩa là chỉ từ cấp Đại đội Trưởng trở lên và những giới chức thẩm quyền đơn vị mới được biết. Công Điện cũng không cho biết sẽ di chuyển tới đâu, chỉ nói thêm rằng “Chi Tiết Cụ Thể Sẽ Nhận Được Khi Di Chuyển”.


Điều tức cười là khoảng 12 giờ đêm, đoàn quân xa đã ồn ào tới khu vực đóng quân của Tiểu Đoàn kéo theo khá đông cư dân của Dục Mỹ, những cô gái bán bãi (danh từ dùng để gọi những người gánh hàng rong đi theo những bãi tập để bán cho binh sĩ đang huấn luyện, gồm đồ ăn nước uống, hầu hết đều là thiếu nữ hoặc phụ nữ, không có nam giới. Những người này cũng gần như toàn bộ là vợ con những cán bộ chiến sĩ trong TTHL).

Họ đến đây để đòi nợ, vì truyền thống của quân trường là ăn thiếu, do người lính chỉ được lãnh lương vào khoảng từ ngày 20 tới cuối tháng, và hầu như lương lính tháng nào “xào” tháng đó. Những người bán thiếu chỉ cần ghi tên và đơn vị của người mua thiếu. Nếu là tân binh huấn luyện thì họ sẽ nhờ những cán bộ cơ hữu như Thường Vụ Đại Đội khóa sinh đòi dùm, còn nếu là đơn vị bổ túc thì họ sẽ nhờ những Thường Vụ của Đại Đội người mua thiếu đòi dùm trừ thẳng vào tiền lương ngay khi phát lương.

Điều đáng tiếc là đơn vị chúng tôi di chuyển đột ngột và bí mật nên cấm mọi cuộc tiếp xúc với bên ngoài, do đó họ không thể vào doanh trại để tìm, cũng không thể kiếm người Thường Vụ Đại Độ để nhờ giúp, họ chỉ có thể tụ tập ở bên cạnh những chiếc xe để chờ.

Khoảng 3 giờ sáng kẻng báo động đánh thức toàn đơn vị, các chốt canh gác ở ngoài cũng được lịnh gọi về. Có lẽ là đặc biệt nhất từ trước tới nay, lần này những toán ở xa có xe đến đón khỏi phải lội bộ. Lính tác chiến thì cái gì cũng nhanh, chỉ lướt sơ một lượt các cấp chỉ huy Trung Đội đã nắm vững quân số của mình để báo cho Thường Vụ Đại Đội, lệnh ngắn gọn được ban ra tuyên bố Tiểu Đoàn phải di chuyển để nhận nhiệm vụ mới và tất cả lên xe. Khi đó những người bán bãi mới tới kiếm các Thường Vụ Đại Đội để nhờ giải quyết. Họ đưa danh sách các người mua thiếu để nhờ đòi dùm, nhưng thực ra đây là những may rủi rất lớn mà họ phải gánh chịu bởi chưa biết người mua thiếu sẽ ra sao và các ông Thường Vụ này có đòi được hay không và làm cách nào để trả... Tuy nhiên, họ cũng cố gắng để vớt vát với một chút hy vọng.

Bộ phận rút sau cùng khỏi căn cứ là Ban Truyền Tin của tôi, vì chúng tôi phải giữ anten chính để nhận Công Điện chót từ Liên Đoàn trước khi chuyển qua hệ thống tiếp vận trung gian trên đường di chuyển. Dĩ nhiên, với hệ thống tiếp vận trung gian qua từng chặng di chuyển, chúng tôi không thể chuyển hoặc nhận những Công Điện thuộc loại Mật được nữa (nhưng lại được nhận Công Điện Hỏa Tốc-Tối Mật). Đúng 5 giờ sáng, sau khi chúng tôi báo cáo đơn vị đã sẵn sàng lên xe, Công Điện gởi tới là di chuyển về Pleiku, lệnh cụ thể sẽ nhận được khi vào vùng phủ sóng (khoảng 50km bán kính với Hậu Cứ Liên Đoàn).

Qua Công Điện chúng tôi thấy rõ là nhiệm vụ đang chờ chúng tôi không thuộc vùng chúng tôi sẽ đi qua hoặc ở phía sau. Nghĩa là chúng tôi sẽ không đi Ban Mê Thuột, hoặc Phú Yên, hoặc Quy Nhơn. Và theo kinh nghiệm, chúng tôi đoán chừng nhiệm vụ mới chắc sẽ không có gì nặng nhọc, hoặc gay cấn, nguy hiểm, và có thể chắc đây không phải là cuộc hành quân đụng địch (bởi vì chúng tôi là Lực Lượng Tổng Trừ Bị Vùng, nếu chiến sự lớn, bắt buộc có cầu không vận để chuyển chúng tôi về Pleiku, tệ nhất cũng là Trực Thăng Vận đổ bộ). Hơn nữa mặc dù là Công Điện Mật và Khẩn nhưng lại không ấn định thời gian di chuyển bắt buộc, bởi thường với những cuộc hành quân gấp rút trong Công Điện ghi rõ thời hạn bắt buộc có mặt, kể cả phải di chuyển đêm qua vùng chiến sự nguy hiểm.

Với những nhận định trên, Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh di chuyển nhưng Đại Đội đi đầu được lịnh tà tà không phải gấp rút. Sau khi rời khỏi căn cứ đúng 5 giờ sáng, đến 6 giờ mới tới Ninh Hòa chỉ cách đúng 12km, 12 giờ trưa tới Đèo Đại Lãnh, 2 giờ chiều mới qua khỏi đèo, và 5 giờ chiều thì Tiểu Đoàn nhận được lệnh đóng quân trong Phi Trường Phú Yên qua đêm.

Phi trường Phú Yên chỉ là một sân bay dã chiến với phi đạo được lát bằng những tấm PSP do khoảng 1 Đại Đội Địa Phương Quân bảo vệ. Vào thời gian đó Phi Trường chỉ được xử dụng cho những chuyến bay quân sự khẩn cấp trong trường hợp Quốc Lộ 1 bị cắt đứt. Có lẽ Phú Yên là 1 tỉnh yên tĩnh nhứt của VNCH khi đó, Tiểu Khu này hầu như không có các đơn vị Chủ Lực trú đóng, Không Quân chỉ có vài chiếc L19, L20 không có Phi Đoàn Trực Thăng nào, còn Hải Quân cũng chỉ có mấy chiếc Tuần Duyên Hạm, không Thiết Giáp. Sau khi bố phòng cho đơn vị xong, nhóm Sĩ Quan chúng tôi kéo nhau vô Thị Xã để ăn tối.

Mới 6 giờ chiều mà phố xá vắng ngắt, hàng quán đã gần như đóng cửa hết chỉ còn rất ít quán xá mở cửa mà chỉ là những quán tạp hóa bán lèo tèo những thứ cần trong gia đình như gạo, mắm... Tôi muốn kiếm 1 gói thuốc hút loại sang như Ruby, Capstan cũng không thấy đừng nói chi thuốc Mỹ như Pall Mall, Lucky, Salem... Mãi sau, nhờ 1 người xe ôm chúng tôi mới tìm được 1 quán ăn, gọi mãi họ mới chịu mở cửa, té ra hôm đó là Thứ Ba không phải là ngày cuối tuần để ăn nhậu, và hơn nữa dân Phú Yên cũng ít ra quán ăn nhậu, ngay cả ăn sáng cũng hiếm vì chỉ có vài quán hủ tíu của người Hoa trên đường Duy Tân.

Gọi được chủ quán mở cửa chúng tôi ngỡ ngàng vì gọi bất kỳ món gì cũng không có, chúng tôi phải đưa tiền để ông ta đi mua đồ, vì nghĩ rằng những bộ đồ rằn ri làm cho ông ta sợ. Cũng may đây là thành phố biển vì vậy chỉ một lúc sau vợ chồng ông ta đã về với đủ thứ tôm cá và cả những con mực khổng lồ còn tươi nguyên đang ngáp. Chúng tôi được ăn một bữa tối ngon lành mà Pleiku không thể có được với cái giá rất rẻ chỉ bằng 1/3 so với giá ở Pleiku.

Sau một đêm an bình, 3 giờ sáng hôm sau tôi nhận được công điện qua tiểu khu Phú Yên tiếp vận. Sau khi giải mã chúng tôi được biết TĐ chúng tôi sẽ về Thanh An. Đoàn quân xa cuả chúng tôi lại tiếp tục lăn bánh về cao nguyên, tốc độ có nhanh hơn, bởi chúng tôi được lịnh phải tới địa điểm trước 3 giờ chiều, nghĩa là chúng tôi chỉ có 10 giờ nữa để di chuyển. QL1 tương đối an toàn và cũng khá phẳng phiu. Chúng tôi tiến vào QL19 cũng xuông xẻ không gặp bất kỳ trở ngại nào, có lẽ địch quân cũng không dám đụng độ với một đơn vị lớn như vậy. Khoảng 12 giờ trưa chúng tôi đã về tới khu vực núi Hàm Rồng, đã có thể liên lạc trực tiếp với LĐ qua hệ thống truyền tin nội bộ. Lịnh hành quân cũng được chuyển trực tiếp không dùng công điện nữa. Rất may TĐ11/BĐQ chúng tôi được chia về trấn đóng khu vực đồn điền trà Cateka Bàu Cỏ, từ ngã ba Hàm Rồng chúng tôi mất chừng 1 giờ di chuyển là đã tới khu vực đóng quân.

Đồn điền trà Cateka tọa lạc trên một bình nguyên khá rộng, tuy vậy diện tích khai thác cũng không nhiều lắm có lẽ khoảng vài ba chục hecta, cơ ngơi cũng chẳng có gì đồ sộ ngoài vài ngôi nhà ngói đỏ làm văn phòng đồn điền và mấy căn nhà lớn lợp tole làm chỗ chế biến trà. Cũng giống như đồn điền trà ở Biển Hồ, trà ở đây cũng chủ yếu xuất khẩu qua Pháp, do đó dân VN hầu như không ai được thưởng thức trà Cateka (dĩ nhiên trừ chúng tôi thỉnh thoảng vẫn được uống trà biếu). Trà Cateka chỉ là trà mộc, nghĩa là trà xấy khô chứ không tẩm ướp hương vị như các loại trà Blao hoặc trà Tàu. Ai quen uống trà Tàu sẽ khó thưởng thức được trà này, nhưng dân thích trà Lipton thì lại rất khoái vì đây là sản phẩm chính để chế tạo trà Lipton khi qua tới Châu Âu. Chia vị trí cho các Đại Đội xong, các ĐĐ trưởng về BCH/TĐ họp tham mưu. Vị trí hiện tại chỉ là tạm thời, ngày mai chúng tôi sẽ phải trải quân trên diện tích thật rộng mỗi đại đội trách nhiệm một khu vực tính bằng nhiều ô vuông trên bản đồ, vì khu vực toàn tiểu đoàn chúng tôi đảm trách kéo dài cả chục ô và vào sâu mỗi bên cũng cả trên chục ô nữa, nghĩa là TĐ có một địa bàn bán kính trên 10km.

Cũng ngày mai liên đoàn sẽ trang bị thêm cho chúng tôi một loại “chiến cụ” mới, đó là những lá cờ vàng 3 sọc đỏ. Mỗi người lính sẽ được cấp phát vài ba chục lá cờ, lớn thì dài khoảng 1m, còn cờ nhỏ thì khoảng 30cm, và sẽ có thêm rất nhiều nữa trong tương lai. Nhiệm vụ mỗi người sẽ là kiếm cây để làm cán cờ và sẽ mang những lá cờ đó đi cắm trong khu vực của mình, leo lên những cây cao nhất để cắm những lá cờ lớn. nếu trong khu vực có nhà dân thì cắm trước cửa nhà họ. Hèn gì trên đường di chuyển chúng tôi đã thấy cờ vàng khắp nơi, những tưởng năm nay sẽ có hòa bình nên dân chúng đón Tết sớm hơn mọi năm. Thanh An, là một quận nằm ở phía Tây Nam thành phố Pkeiku giáp ranh với biên giới Cam Bốt, có 2 tiền đồn do 2 TĐ BĐQ bảo vệ là Pleime (TĐ 82 BĐQ) ở phía Đông và Đức Cơ (TĐ 81 BĐQ) ở phía Nam, đến thời điểm đó chưa có trận chiến lớn nào xảy ra nên tương đối yên bình. Được hoạt động trong khu vực này vào dịp Tết cũng là dịp may lớn với đơn vị bởi chiến sự năm qua chủ yếu ở Kontum và Bình Định chứ Pleiku không có gì cả, do vậy chúng tôi an tâm đón Tết.

Mọi việc diễn ra cũng êm ả như mong muốn, cờ chở tới là chúng tôi đưa xuống các đại đội và giao cho tất cả các binh sĩ và ai nấy hăng say đi cắm, cũng không xảy ra vụ đụng độ nào. Hội Bảo Trợ Gia Đình Binh Sĩ cũng nhân dịp này gởi quà Tết đến toàn thể đơn vị. Các em nữ sinh Trường Minh Đức và Trường Trung Học Pleime cũng đi theo để ủy lạo và giao quà. Tuy nhiên chỉ có BCH/TĐ là được hân hạnh đón tiếp còn các ĐĐ thì ở rất xa, hơn nữa đã phân tán mỏng nên không thể về được, tuy vậy quà Tết thì được phân phối đều đến mọi quân nhân. Đây cũng là lần duy nhất mà tôi nhận được quà từ hậu phương. Gọi là quà nhưng mỗi phần chỉ có 1 khăn mặt, 1 cây crème đánh răng Hynos, 1 cục savon thơm, 1 gói Ruby Quân Tiếp Vụ và đặc biệt 1 lá thư. (Lá thư gởi cho tôi rất vui, của 1 em nữ sinh Minh Đức đang học lớp Đệ Tứ. Tôi lại cũng có một cô chị họ thua tôi cả chục tuổi đang học Đệ Tứ ở trường này, nên có chuyện rất vui về lá thư này. Có dịp, tôi sẽ kể lại hầu quý bạn).

Hiệp Định Paris trôi qua êm đềm, chỉ vài vụ đụng độ lẻ tẻ với du kích VC nhưng chúng cũng không chủ trương và ham đánh vì thế chỉ nổ súng một lúc là chúng chuồn mất. Còn 10 ngày nữa là Tết, lịnh cũng chỉ nói đơn vị giữ vững vị trí không để VC lấn đất, không có thêm một chỉ thị đặc biệt nào khác. Gần nơi đóng quân của BCH/TĐ, có một con suối cắt ngang rừng trúc, chúng tôi thường tới để tắm giặt. Nước suối trong xanh, bờ là bãi cát trắng mịn trải dài, phong cảnh thật thơ mộng. Sau khi cho lao công đào binh đào giao thông hào phòng thủ chung quanh khu vực chừng hơn 1 hecta, chúng tôi dựng thêm mấy nếp nhà tranh làm câu lạc bộ và nơi uống cà phê, nhờ đám hậu cứ mang một ít đồ xuống bán. Vì khá gần thị xã nên hầu như ngày nào chúng tôi cũng được tiếp tế, thậm chí có thể ăn cả hủ tíu hoặc phở nóng nữa. Một điều chưa từng xảy ra với lính đi hành quân như chúng tôi, nhưng mấy ông Địa Phương Quân thì chỉ coi là chuyện bình thường, mấy ổng còn nhiều hơn nữa kìa…Một đơn vị BĐQ đang chờ "trực thăng vận"

Đêm Giao Thừa Quý Sửu được chúng tôi đón mừng thật hào hứng, trong cái chòi lớn dùng làm câu lạc bộ. Tôi hy sinh một cục pin PRC 25 để thắp đèn vừa đánh bài vừa uống rượu. Chẳng biết đêm đó chúng tôi uống hết mấy chai Martel, và tôi thức được tới mấy giờ, nhưng khi tôi mở mắt thì đã là trưa Mùng Một rồi. Tôi đánh răng rửa mặt xong định qua lều TĐ trưởng chúc tuổi thì đã thấy ồn ào, đám lính tốp thì lắc bầu cua, tốp thì binh xập xám. Ông TĐT, đang ngồi trong CLB cùng các SQ Tham Mưu TĐ, thấy tôi bước vô hỏi đêm qua ngủ ngon không, có mơ thấy em nào không. Tôi cũng cám ơn và chúc tuổi mọi người, ai nấy đều nồng nhiệt nói lên những mơ ước của mình về một ngày mai không tiếng súng.

Lời hát của bài Một Mai Giã Từ Vũ Khí “rồi có một ngày có một ngày chinh chiến tàn…” trong chiếc casette nghe sao mà day dứt. Ngày đó có phải đang đến không? Bao giờ thì ngày đó sẽ đến? Văng vẳng từ chiếc radio đài SG bài Ly Rượu Mừng, mở qua đài Phát Thanh Quân Đội thì lại cũng bài đó. Đến bao giờ chúng ta có thể thoải mái ngồi trong phòng khách nâng ly rượu chứ không phải là ngồi trong những túp lều như thế này? Những người hiện diện tại đây nếu không vì cuộc chiến bẩn thỉu do bọn Cộng Sản Bắc Việt muốn nhuộm đỏ miền Nam thì hẳn giờ này họ cũng đang vui vẻ với vợ, với con với những người thân, với bạn bè và tất nhiên với những ly rượu mừng. Thế mà giờ đây mỗi người đón Xuân chỉ với ước mơ nhỏ nhoi,

Vui cùng ruộng nương cùng đàn trâu,
Với cây đa khóm trúc hàng cau. Với con đê có chiếc cầu tre…
Ta lại gặp ta còn vòng tay mở rộng thương mến bao la
Chuông chùa làng xa chiều lại vang
Bếp ai lên khói ấm tình thương
Bát cơm rau thắm mối tình quê
Có con trâu có nương dâu, thiên đường này mơ ước bao lâu.

Chung quanh chúng tôi là màu xanh của núi rừng. Bao giờ chúng tôi được chuyển đổi sang màu xanh của thanh bình nơi đồng quê, có vườn ruộng, có túp lều tranh, với người vợ hiền và bầy con thơ? Đến bao giờ chúng tôi mới rũ bỏ được hết những căm thù, những tàn nhẫn của chiến tranh để được làm người dân hiền hòa trong một đất nước thanh bình im tiếng súng, vắng tiếng bom? Liệu sau Hiệp Định Paris, bọn Cộng Sản này có chịu rút về miền Bắc, trả lại cuộc sống an vui cho chúng tôi? Có phải là mùa Xuân này không?

Chuyện sẽ không xảy ra dễ dàng như thế. Nhưng cuộc sống vẫn luôn là những chuỗi hy vọng, và chúng tôi vẫn luôn hy vọng, trong lạc quan: ngày đất nước thanh bình đang đến, trong tự do và trong hạnh phúc với muôn người.

Mũ Nâu Trương Trọng Kiên

Cựu SQTT/TĐ11/BĐQ



--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post
caoduy
post Feb 25 2015, 08:15 AM
Post #131


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 52
Country







Cuộc di tản đầy máu và nước mắt

Không phải mãi hai ngày sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau vụ di tản rút quân bỏ miền Trung. Vào buổi tối ngày 17.3.1975, tại bữa cơm đãi một số Viên Chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại nhà ông Thomas Polgar, Trưởng CIA, ở Sài Gòn, Tướng Ðặng Văn Quang Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu, đã lật trang sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu. Rất giống người Nga tiêu diệt đội quân của Nã Phá Luân vào năm 1812 bằng cách bỏ đất để câu giờ hầu chấn chỉnh tổ chức quật ngược thế cờ, Tướng Quang cho rằng quyết định của ông Thiệu đi theo chiến lược đó sẽ đánh bại quân Bắc Việt. Tướng Quang nói ‘’Có thể mùa mưa sẽ giúp chúng tôi như thể Ðại Tướng mùa Đông đã giúp người Nga’’.

Tại Cao Nguyên Trung Phần, dân chúng không chờ giải thích. Họ thấy rõ quá rồi nên tự lo lấy.Khi quân Bắc Việt pháo kích Kontum, con đường dẫn xuống Pleiku tràn ngập dân di tản chạy trốn pháo kích. Trong khi các Ðơn Vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu rời các vị trí ở Pleiku và các phi cơ vận tải bay lên bay xuống phi trường suốt ngày đêm, người dân biết ngay đến lúc chạy theo Quân Ðội.

Vào đêm Chủ Nhật, một đoàn xe vận tải dài thòng âm thầm rời khỏi Pleiku từng cái một đèn sáng choang. Phóng viên Nguyễn Tư nghĩ nó ‘’giống như một đoàn xe đi chơi cuối tuần trở về nhà’’. Phía sau, những tiếng nổ lớn phát ra từ các kho đạn bị phá và bầu trời đen nghịt khói từ các bồn xăng đốt cháy.

Trong khi đoàn xe tiến về hướng Nam tung lên những đám bụi đỏ mờ mịt, từng đoàn người dân đi bộ dài như rắn bò hai bên Ðường Quốc Lộ song song với đoàn quân xa. Một vị Nữ Tu Công Giáo nhớ lại ‘’trẻ thơ và trẻ em được chất lên xe bò và người kéo đi. Mọi người đều hoảng hốt. Người ta cố thuê mướn xe bằng mọi giá’’. Trong ba ngày 16, 17, 18, tháng ba, cuộc di tản di chuyển êm thắm khỏi Pleiku và giữa các đoàn quân xa là hàng trăm dân sự đi theo cuộc di tản. Và cũng từ đó bắt đầu một đoàn công voa di tản đầy máu và nước mắt.

Ði được nửa đường tiến ra Duyên Hải, đoàn xe bị khựng lại để cho Công Binh Quân Ðoàn II cố làm xong chiếc cầu nổi ngang qua sông Ea Pa cách đèo Cheo Reo (Phú bổn) vài cây số. Tướng Phạm Văn Phú tiên liệu hai ngày sẽ sửa xong con Ðường số 7 nhưng mãi ba ngày vẫn chưa sửa xong cây cầu. Ðến chiều tối ngày 18.3, xe cộ và lính tráng đã đi được ba ngày và một đám dân tỵ nạn khổng lồ bị khựng lại dọc theo con đường và dồn cục tạm nghỉ ở chung quanh châu thành Tỉnh Phú Bổn. Cái châu thành nhỏ bé cheo leo này làm sao cung cấp đủ nhu cầu cho đoàn di tản này, nhiều người bỏ nhà ra đi chỉ có bộ đồ trên người. Vì hoảng sợ, địch đe dọa phía sau, đói khát và có những băng lính không còn Cấp Chỉ Huy nữa sanh đạo tặc, đoàn người đòi cứ tiến đi không cần biết hậu quả ra sao. Trước tình thế hỗn quân hỗn quan này, các giới chức lãnh đạo không thể nào thuyết phục dân chúng và điều động xe cộ vũ khí thành một phòng tuyến phòng thủ.

Và y như xảy ra khi quân Ðức bao vây khóa chặt Paris năm 1940, dân châu thành cũng chạy trốn, làm tắc nghẽn mọi con đường, Quân Ðội không thể nào di chuyển để bảo vệ họ trước kẻ địch. Tình hình đe dọa hỗn loạn. Cần phải có những bàn tay tổ chức. Nhưng Tướng Lê Duy Tất vẫn còn ở Pleiku với đoàn hậu vệ Biệt Ðộng Quân, trong khi Ðại Tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn xe, đã phải bỏ xe đi bộ đến Bộ Chỉ Huy ở Cheo Reo.

Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu di chuyển xuống Quốc Lộ số 7, Tướng cộng sản Văn tiến Dũng cũng đã bị đánh lừa theo kế hoạch của Tướng Phú. Trước khi khởi sự chiến dịch 275, Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh sư đoàn 320 về những con Ðường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể nào dùng nó như là lối thoát sau cùng. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Tây Phương nói dân chúng đang bỏ Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập và Hà Nội đánh tín hiệu ngày 16.3 báo cho biết Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã di tản về Nha Trang, Dũng mới bắt đầu nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch quân rút được không. Ðến 4 giờ chiều cùng ngày, công điện của Hà Nội đến báo, tình báo Bắc Việt báo một đoàn xe dài từ Pleiku tiến về phía Nam xuống Ban Mê Thuột. Tin này làm cho Tướng cộng sản bối rối. Phải chăng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phản công hay là chạy trốn?

Tình báo của Dũng cho ông ta câu trả lời ngay sau đó, đúng như tình hình diễn biến ở trên. Ðến lúc này bộ chỉ huy cộng sản mới dở bản đồ ra, chiếu đèn pin và dùng kiếng phóng đại dò tìm địch quân. Kiểm điểm lại, Tướng Dũng và Tướng Kim Tuấn, tư lệnh sư đoàn 320, mới biết bị Tướng Phú lừa ngay trước mắt, Tướng Dũng khiển trách Tướng Kim Tuấn, đồng thời phối trí các đơn vị di chuyển về tụ điểm Quốc Lộ 7 để tiêu diệt đoàn công voa di tản về Tuy Hòa.

Ðoàn xe Quân Dân miền Nam cầu mong sao cho thời gian chậm lại để đi kịp về miền biển không bị cộng sản tấn công. Nhưng không kịp nữa, khi màn đêm buông xuống ngày 18.3 lúc đoàn xe kẹt ở Cheo Reo, quân cộng sản bắt đầu pháo kích vào đám đông dân di tản. Họ hết còn bí mật nữa và kẻ thù ở trong tầm tay. Ðêm ngày 18.3, những đơn vị tiền phong của sư đoàn 302 đụng độ với đoàn xe Quân Ðoàn II ở Cheo Reo. Cùng lúc các đơn vị khác đụng độ với Ðoàn Quân hậu bị Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân ở Thị Trấn Thành An ngã tư Quốc Lộ 14 và Quốc Lộ 7. Ðại Tá Lý đi bộ mãi rồi cũng tới Bộ Chỉ Huy Cheo Reo kịp lúc để giúp điều động Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vào vị trí phòng thủ chống các cuộc xung phong của quân Bắc Việt ở lối vào Thị Trấn phía Tây. Ðồng thời, pháo binh Bắc Việt rót vào. Ðoàn xe cái đầu ở Cheo Reo nhưng cái đuôi vẫn còn ở Pleiku. Việt cộng tha hồ pháo kích. Sáng hôm sau, xác chết và xác bị thương lính tráng và dân nằm la liệt trên Ðường Phố Cheo Reo (Phú Bổn) cùng với hàng trăm xe cộ bị phá hủy hoặc bỏ rơi. Một phi công trực thăng Không Quân Việt Nam báo cáo: ‘’Khi tôi bay thấp, tôi có thể nhìn thấy hàng trăm xác chết nằm rải rác dọc theo con đường cạnh các xe còn cháy’’.

Mặc dù lực lượng cộng sản đã chiếm được Phi Trường Phú Bổn, Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vẫn còn giữ được lối vào châu thành và cây cầu phía Nam sửa xong. Ðây là một cú cải tử hoàn sinh, Ðại Tá Lý và các Cấp Chỉ Huy của ông có cơ hội ra lệnh cho đoàn xe lên đường trở lại với 2.000 xe nổ máy ầm ầm lăn bánh.

Nhưng đoàn xe di chuyển không bao lâu, Tướng Phú cho trực thăng đến đón Ðại Tá Lý ra khỏi Cheo Reo. Thế là đầu không còn ai Chỉ Huy chỉ có Tướng Tất Chỉ Huy ở phía sau. Từ ngày 19 trở đi, Chỉ Huy đầu đoàn công voa là những Ðơn Vị Trưởng cấp Tiểu Ðoàn, Ðại Ðội mạnh ai lấy ra lệnh.

Bất kể hỏa lực của cộng sản, trực thăng của Không Quân Việt Nam bắt đầu đáp xuống bốc những người Lính và dân bị thương dọc theo con đường. Khi những người di tản được trực thăng chở đến Phi Trường Tuy Hòa, họ kể những chuyện khủng khiếp xảy ra cho họ. Ngày 19.3, đầu đoàn xe đã đến Sông Côn chỉ còn cách Tuy Hòa 40 km. Nhưng ở đoạn đuôi nửa đường giữa Cheo Reo và Sông Côn, quân Bắc Việt lại đánh ngang hông đoàn xe, lần này ở khoảng Thị Trấn Phú Túc. Không Quân Việt Nam được gọi đến oanh kích chặn tiến quân của địch nhưng đã nhầm lẫn bỏ bom xuống Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân (Làm tổn thất gần 1 Tiểu Ðoàn). Nhưng Liên Ðoàn này vẫn tiếp tục chiến đấu giữ cho con đường mở.

Ðoàn xe chạy qua Cheo Reo cho đến ngày 21.3 thì quân Bắc Việt chọc thủng các vị trí cố thủ của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, vượt qua chiếm châu thành và cắt đứt con đường. Trong số khoảng 160.000 người của đoàn xe di tản, nhiều người dân bị cô lập với Lính của Ba Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Theo lệnh Tướng Phú, Tướng Tất, vẫn còn ở phía sau đoàn xe, phải bỏ mọi vũ khí và quân trang nặng để chạy khỏi Phú Bổn càng nhanh càng tốt. Hàng ngàn người chạy vào rừng. Lính tráng với vợ con bên cạnh bị rượt bắt và tấn công nhiều lần.

Một số ít giơ cờ lên được trực thăng đáp xuống bốc. Nhưng đa số cầm chắc bị đói và bị bắt.

Những người may mắn, các bà mẹ trẻ dính máu, các cụ già và phụ nữ người mặc áo dính bùn, và những người lính gào khóc, chân không, bước xuống trực thăng trước khi các phóng viên bủa ra hỏi thăm tin tức tại phi đạo Tuy Hòa. Các trực thăng bắt đầu chở thực phẩm và nước cho đoàn xe vẫn còn dài thòng di chuyển như con rắn vì đã có nhiều người đói.

Trong khi ở đuôi đoàn xe bị tấn công dữ dội và Tướng Tất cùng các Ðơn Vị còn lại cố chống trả bọc hậu, các Ðơn Vị đầu đoàn xe đã tiến vào ranh giới Tuy Hòa, trên con Sông Ba, cách Thị Trấn 20 cây số. Chiếc cầu nổi mà Tướng Cao Văn Viên hứa cũng đến kịp lúc, nhưng không kịp với lực lượng cộng sản đã đắp mô các ngã đường nằm giữa Sông và Tuy Hòa. Chiếc cầu không thể nào chở xe nổi đến chỗ Bắc nên phải mượn 4 phi cơ C-47 của Quân Ðoàn IV chở từng khúc đến.

Ngày 22.3, đúng một tuần sau khi đoàn xe di tản đầy máu và nước mắt rời Pleiku, chiếc cầu được bắc xong, đầu đoàn xe vội vã vượt qua con sông quá nặng làm chiếc cầu phao lật, người trong xe cộ phải lội sông. Nhưng đến cuối ngày, đoàn xe vẫn tiếp tục vượt qua khi chiếc cầu được sửa lật lại. Ngay cả đến thời thiết cũng tiếp tay cho cộng sản để làm cho đoạn cuối đoàn xe đến Tuy Hòa chưa hết nạn.

Trời nắng đột nhiên trở thành mưa gió lạnh lẽo cho người di tản. Không những thời tiết thay đổi xấu gây ra bệnh tật mà nó còn làm cho phi cơ quân sự không bay lên yểm trợ, chống trả những cuộc tấn công dưới đất của việt cộng. Từ ngày 22.3, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân bị kẹt đánh trong một trận đánh bọc hậu vừa đánh vừa lui trước nỗ lực rượt theo rất rát của quân cộng sản. Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân đã thu góp xe tăng và pháo binh để bảo vệ con đường ở khúc quẹo thung lũng gần cầu nổi. Họ đánh câu giờ để cho người di tản và Lính kịp vượt qua sông.

Ðồng thời, những Ðơn Vị đi đầu đã vượt qua Sông Ba rồi phải phá mô việt Cộng để tiến vào Tuy Hòa. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân chỉ còn ít quân sống sót đã gom góp được hơn chục thiết giáp M-113 vừa đánh vừa ủi các mô tiêu diệt các vị trí cộng sản. Ðến ngày 25.3, vị trí cuối cùng của quân Bắc Việt bị tiêu diệt nốt, Biệt Ðộng Quân bắt tay được với Lực Lượng Ðịa Phương Quân ở phía Ðông Tuy Hòa.

Ðoàn xe khập khễnh tiến vào Tuy Hòa như một đoàn xe ma. Xấp xỉ 60.000 người dân đến đích, hai phần ba hay hơn 100.000 người bị bỏ lại dọc đường, chết sống không ai biết. Về phía Quân Ðội, 20.000 quân tiếp vận và yểm trợ, chỉ còn 5.000 người đến nơi. Sáu Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân 7.000 người, chỉ còn 900 đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn II ở Nha Trang và đóng chốt bảo vệ Thành Phố.

Một vị Tướng ở Bộ Tham Mưu đã buồn bã nói: ‘’70% lực lượng tác chiến của Quân Ðoàn II gồm Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh Chiến Ðấu và các Ðơn Vị Truyền Tin đã bị tan rã từ ngày 10 đến 25.3’’. Vì thế chuyện phản công tái chiếm Ban Mê Thuột không thể giao phó cho Quân Ðoàn II.

Canh bạc Tướng Phú chọn Quốc Lộ 7 có thể đã an toàn nếu các cầu nổi được bắc kịp thời và Tướng Viên đổ lỗi cho vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II. Tướng Viên tin rằng Tướng Phú phải hoãn cuộc di tản ít ngày để cho các Kỹ Sư Công Binh kịp bắc cầu. Tướng Viên cũng tin rằng hoãn lại cho phép điều động sắp xếp kỹ hơn nhất là kiểm soát dân chúng. Theo một vị Tướng Mỹ thông thạo các Sĩ Quan cao cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lỗi lầm không những ở kế hoạch di tản của Tướng Phú mà ở ngay chính Tướng Phú và lỗi lầm đầu tiên và quan trọng nhất là để mất Ban Mê Thuột. Một vị Tư Lệnh Quân Ðoàn cương quyết hơn không cần phải rút quân như vậy. Một Sĩ Quan Tùy Viên Mỹ tuyên bố: ‘’Một vị Tư Lệnh mạnh như Tướng Toàn (Trước đó là Tư Lệnh Quân Ðoàn II) có thể phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, sử dụng toàn bộ Hải, Lục, Không Quân có trong tay đã có thể kềm hãm quân Bắc Việt, cố thủ thêm một năm nữa’’.

Nhưng ngày 25.3.1975,không còn cơ hội đó. Cuộc di tản tự làm cho mình thất bại đau đớn, như lời Tướng Viên mô tả, hoàn tất, gây một cơn ác mộng tâm lý và chính trị to lớn cho ông Thiệu, cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cho dân chúng Việt Nam Cộng Hòa. Một dư luận đồn thổi khắp nước và cả ở những viên chức dân sự và quân sự cao cấp nói rằng: Tổng Thống Thiệu và người Mỹ, trong một thỏa hiệp mật của Hiệp Định Paris, đã cố kết với nhau cho cộng sản chiếm một phần lớn lãnh thổ Nam Việt Nam. Tại sao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu can trường suốt hai mươi năm không thua đột nhiên bị ra lệnh rút khỏi Cao Nguyên, bỏ Pleiku và Kontum không một tiếng súng giao tranh ?

Tinh thần đổ vỡ vì mất bốn Tỉnh trong ba tháng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh nặng và vô ích không tái chiếm nổi Ban Mê Thuột đã làm cho dân chúng Nam Việt Nam hết còn tin tưởng Tổng Thống Thiệu có thể bảo vệ họ. Vậy ai khác có thể làm được? Phe đối lập ông Thiệu vô tổ chức, đứng ngoài chờ thời cơ và người Mỹ tiếp tục làm ngơ. Chỉ có ông Thiệu là người phải tìm ra cách nào để lấy lại tinh thần cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trước khi ông tìm ra hướng đi hợp tình thế thì tin xấu từ Quân Ðoàn I bay về. Cũng lại di tản và cuộc di tản Quân Ðoàn I bi thảm không kém để kết thúc ngày 30.4.1975.

Đại Tá Trịnh Tiếu


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post
KhoaNam
post Mar 2 2015, 07:38 AM
Post #132


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 7,735
Joined: 8-August 09
Member No.: 4,377
Country







Hoàng hôn chụp xuống Pleiku evacuation2

Bài phóng sự ngày 16 tháng 3-1975 trên Chính Luận Sài Gòn : Hoàng hôn chụp xuống Pleiku evacuation2

Apr 27, 2004

Sau Khi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II Di Tản Về Nha Trang, Hoàng hôn chụp xuống Pleiku, Phố Xá Tràn Ngập Người: Trẻ, Già, Lớn, Bé Không Biết Đi Đâu
Lời giới thiệu: Miền Nam Việt Nam thực sự đã không bị xụp đổ trên phương diện quân sự khi thị tráán Phước Long bị thất thủ. Cũng không do việc mất Ban Mê Thuột. Toàn bộ cuộc tái phối trí trở thành cuộc rút lui bi thảm đưa đến việc mất miền Nam thực sự bắt đầu từ lúc Pleiku ra đi.

Nhân dịp tháng 4-2004, 29 năm sau, Dân Sinh San Jose phổ biến 2 bài báo chụp lại trên vi phim về cuộc rút quân kể trên. Bài báo thứ nhất đăng trên Chính Luận số 3338 ngày thứ Ba 18 tháng 3-1975 với tựa đề: Hoàng hôn chụp xuống Pleiku. Bài báo này do phái viên Nguyễn Tú điện về trong lúc chính ông cũng đang tìm đường tháo chạy.
Bài báo thứ hai trên Chính Luận với tựa đề: 8 giờ đêm Chủ Nhật, Kontum – Pleiku bi thảm ra đi, bỏ lại phía sau những cột khói, những vùng lửa. Bài này đăng ngày 19 tháng 3-1975 và được ghi là do Nguyễn Tú đọc về, xen lẫn tiếng khóc nức nở của chính ông.
Bài báo thứ hai này đăng trang nhất báo Chính Luận số 3339 được coi là tin tức duy nhất được loan báo về cuộc rút quân ở Cao Nguyên. Bài này đã được các báo ngoại quốc dịch lại và đăng tải trên các hệ thống tin tức quốc tế.
Hai bài báo kể trên trích trong tài liệu sưu tầm của IRCC dành cho viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose. Ký giả Nguyễn Tú sau thời gian kẹt lại Việt Nam hiện đã qua Mỹ định cư tại DC.

(Sài Gòn 17-3) Chiều tối Chủ Nhật ngày 16 tháng 3-1975, bạn Nguyễn Tú, đặc phái viên Chính Luận tại chiến trường Quân khu 2, đã từ Pleiku gọi điện thoại về cho biết tình hình Pleiku, sau khi Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 di tản về Nha Trang. Bạn Nguyễn Tú cho biết là trong hai ngày qua, đồng bào trong toàn tỉnh đã hoang mang tới cực độ khi nghe tin các bài phát thanh ngoại quốc loan báo Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 di tản về Nha Trang. Giới hữu trách không có lời giải thích nào để trấn an đồng bào mỗi phút lại càng mất thêm tinh thần, mạnh ai lo liệu phương tiện di tản ra khỏi vùng giao tranh và tránh mặt quân cộng sản.

Chiều qua, các phố xá đã đóng cửa không buôn bán cầm chừng như trước đây và đồng bào đã đổ xô hết ra đường, nhốn nháo ngược xuôi tìm lối chạy. Người ta thuê bao đủ mọi loại xe, chất hết đồ đạc quần áo để chuẩn bị chạy. Giá xe từ 200 ngàn, nửa triệu một chiếc đã tăng lên nhiều hơn nữa. Những người ít tiền cũng vét túi, chung nhau thuê xe, và các loại xe, từ xe lam, xe vận tải, xe lô, xa nhà, xe Honda, cho đến cả xe ủi đất, xe cứu hỏa, xe cần trục, máy cày v.v… đều chất đầy ắp đồ đạc, đầu nối đuôi dài dài trên các đường phố chính như Hoàng Diệu, Võ Tánh, Phan Bội Châu, Quang Trung, Hai Bà Trưng. Tất cả đều rộn ràng di chuyển, nhưng không biết di chuyển theo lối nào, vì con đường duy nhất có thể chạy về Quy Nhơn là quốc lộ 19 thì đã bị địch cắt. Áp lực của quân cộng sản vẫn nặng nề trên con đường băng rừng băng núi này, cái chết có thể đe dọa tập thể tỵ nạn bất cừ nơi nào và bất cứ giờ phút nào.

Những chuyến bay của Hàng Không Việt Nam đã ngưng từ mấy hôm nay nên phi trường chỉ còn là nơi hoạt động rộn rịp của các loại máy bay quân sự. Tin tức một số gia đình thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và các ngoại kiều được di tản ra khỏi Pleiku làm cho mọi người càng thêm hốt hoảng. Họ chỉ còn trông ngóng vào con đường sống duy nhất là quốc lộ 19. Họ cầu nguyện và mong ngóng cho quốc lộ này được giải tỏa mau lẹ để lánh xa nơi quân cộng sản kéo tới.

Cảnh hốt hoảng càng thêm mãnh liệt hơn khi một số đồng bào tỵ nạn ở Kontum, Thành An, Phú Nhơn v.v… kéo về Pleiku chờ mở đường chạy giặc. Ám ảnh… đại lộ kinh hoàng và chợ Đông Ba rực cháy ngày nào ở miền Trung là một ám ảnh khó xóa nhòa trong tâm tư mọi người.

Dắt dìu nhau ngược xuôi ngoài đường phố, và đồng bào ngơ ngác thầm hỏi nhau biết chạy đi đâu bây giờ? Từ cả tuần, báo chí không lên Pleiku nữa, do đó có muốn được đọc những lời tuyên bố rất bình tĩnh của các giới chức Sài Gòn cũng không được.

Qua điện thoại, bạn Nguyễn Tú báo tin cho tòa soạn và bạn đọc Chính Luận biết là bạn đang tìm cách thoát khỏi Pleiku cùng đồng bào và sau đây là bản tin cuối cùng của bạn từ Pleiku gửi về cho tòa soạn và bạn đọc Chính Luận.
Lại thêm một hoàng hôn:
Bạn Nguyễn Tú cho biết, qua điện thoại, nguyên văn như sau:
Lại thêm một hoàng hôn, có thể hơn thế nữa, bắt đầu. Trưa hôm nay từ 12 giờ, dân chúng Thanh An, Phú Nhơn và các vùng lân cận Pleiku đều đổ xô về thị xã Pleiku. Họ đang sống những giờ phút lo âu, kinh hoàng ngoài đường phố. Trên khắp ngả đường đều chật các xe đủ loại, xe quân sự, xe dân sự, xe chở hàng, xe ủi đất, xe chữa lửa, xe máy kéo có rờ moọc, bên trên chất đầy những “gia bảo” cuối cùng của dân chúng. Tất cả các gia đình, già trẻ lớn bé, dân sự cũng như quân sự, ngồi sẵn trên xe, để chờ di tản mà họ không biết là đi đường nào. Các lực lượng diện địa của ta và các lực lượng trong ngành an ninh, quân cảnh, cảnh sát đều không còn có thể kiểm soát được nữa. Vì tất cả các nhân viên đó đều lo lắng cho chính gia đình họ. Ngoài đường phố đầy rẫy những người đi bộ. Những quân nhân, và thường dân tay xách nách mang và bồng bế các trẻ thơ, xách những giỏ đồ đạc lang thang khắp phố, không biết đi đâu nữa. Pleiku đang sống trong một không khí kinh hoàng chưa từng thấy, hơn cả cố đô Huế năm 1972.

Kontum – Pleiku coi như bị bỏ ngỏ, vì các nhân viên có trong trách an ninh đã chỉ lo cho riêng gia đình họ và không còn ai còn có tinh thần đảm nhận trách vụ của mình… Sự kiểm soát đã lọt ra ngoài tay của các giới lãnh đạo chính quyền tỉnh. Riêng các lực lượng chính quy còn có kỷ luật và tinh thần chiến đấu. Nhưng tình trạng hỗn loạn xáo trộn của dân chúng Pleiku ra đầy ngoài đường, đã tạo nên một cảnh tượng thật không thể tưởng tượng nổi. Trên khuôn mặt mỗi người đều lộ vẻ lo âu, không tả hết. Chiến tranh thực sự chưa tới Pleiku. Chưa một đạn pháo kích nào của địch bắn vào thị xã Pleiku. Hoàng hôn của Pleiku có thể coi như đã bắt đầu, đồng thời có thể tiếp luôn những cảnh hoàng hôn khác.
Tình trạng Pleiku bi thảm quá!
+ + +
Bài phóng sự tiếp theo viết ngày 17 tháng 3-1975.
8 Giờ Đêm Chủ Nhật, Kontum – Pleiku Bi Thảm Ra Đi Bỏ Lại Phía Sau Những Cột Khói, Những Vùng Lửa
Bản tin này được đọc giữa tiếng khóc nức nở của bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú
(Sài Gòn 18-3) Sáng nay bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, tại một địa điểm dừng chân trên đường rút lui của quân dân hai tỉnh Kontum – Pleiku, báo tin qua điện thoại quang cảnh di tản bi thảm của đồng bào. Dưới đây là nguyên văn ghi lại lời bạn Nguyễn Tú đọc qua điện thoại.
Tất cả lên đường:
Tối nay, Pleiku đã thực sự hỗn loạn. Tất cả dân chúng Pleiku thêm vào đó dân chúng ven tỉnh, dân chúng thuộc vài quận gần thị xã Pleiku, và cả dân chúng Kontum đã đổ xô nhau chạy về Pleiku đều xuống đường và tổ chức một đêm không ngủ. Không phải để biểu tình chống ai, mà để vội vàng hốt hoảng tiếp tục chất các hàng hóa, bàn ghế, tủ giường, cùng những vật dụng riêng lên đủ thứ xe: Xe lam, 3 bánh, xe vận tải hạng nặng, xe Jeep, xe dốt rác, xe GMC nhà binh, xe Honda. Thậm chí xe be, xe cần trục, xe máy kéo, trác lơ, xe hốt rác. CẢ đến xe chữa lửa cũng được dùng để chất đồ và chở người. Xe nào chất xong đồ là người leo lên ngồi sẵn, xe nào đôi nhíp cũng gần như thăng bằng, vì chất quá nặng.
Từ trưa, các lực lượng an ninh trong thị xã Pleiku như Quân Cảnh, Cảnh Sát bỏ tất cả nhiệm sở không còn thấy bóng một ai, mặc dù hôm qua thứ Bảy 15 tháng 3 còn canh phòng rất gay gắt các ngã ra vào tỉnh và thị xã Pleiku.
Mọi đường phố không còn một nhân viên công lực nào giữ trật tự nữa. Tất cả mọi người đều về nhà lo việc di tản cho gia đình. Liên lạc vô tuyến của hệ thống quân đội không còn được điều hòa và hữu hiệu như trước nữa tuy vẫn chưa hẳn gián đoạn. Các nhân viên truyền tin cũng thay phiên nhau về nhà để lo việc di tản gia đình. Sự kiểm soát an ninh trật tự có thể coi như đã tuột khỏi tầm tay chính quyền địa phương Pleiku. Tại tư dinh Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku, các nghị viên, các Trưởng Ty, Sở hấp tấp ra vào họp liên miên.

Chưa bao giờ các đại diện dân cử kể cả đối lập và chính quyền đã sát cánh với nhau như thế. Chưa bao giờ lập pháp, hành pháp, tư pháp đều đồng một lòng, một dạ như thế. Đồng một lòng một dạ trong một câu hỏi duy nhất: Bao giờ thì di tản? Mấy giờ thì di tản? Trên thực tế thì Pleiku đã sống giờ thứ 25 từ hôm qua thứ Bảy 15 tháng 3. Hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3 lúc 19 giờ đã có điện trở lại trong toàn thị xã.
Đèn ngoài đường và trong các tư gia cũng được thắp sáng. Có lẽ là một hội hoa đăng cuối cùng. Khắp các đường phố, dân chúng đi lại hết sức nhộn nhịp, tất tưởi. Ngay từ xế trưa hôm nay 16 tháng 3, các xe nào đã chất xong đồ vật đều chuyển bánh trên Quốc Lộ 14 đi về Phú Bổn thành một đoàn dài. Nhưng phải kể từ 20 giờ ngày hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3, sự di chuyển toàn diện của dân chúng mới thực sự bắt đầu, đoàn xe ước chừng đến hàng ngàn chiếc, bật đèn pha nối đuôi nhau trên hàng chục cây số trông như một cuộc “trở về nhà sau cuộc nghỉ cuối tuần.” Nhưng đây đâu phải là “đoàn xe thanh bình.”
Sáng kiến vĩ đại:
Cuộc di tản đại quy mô của hai tỉnh gom lại là Kontum và Pleiku do sáng kiến tư nhân có thể coi như là “vĩ đại” ở chốn Tây Nguyên hẻo lánh này.
“Mục tiêu đầu tiên là Phú Bổn. Sau đó sẽ tính.” Đó là lời một đồng bào di tản nói với Chính Luận. Nhưng ra khỏi thị xã, được vài cây số thì đoàn xe bị kẹt vì những chiếc xe nhỏ hơn như xe lam, xe ô tô nhỏ, xe Honda muốn vượt trước. Phải một giờ sau vụ kẹt xe này mới được giải tỏa.
Dân chúng nghèo cũng ra đi bằng phương tiện thiên nhiên, trời đã phú cho họ là đôi chân của chính họ. Họ đây là gồm cả già, trẻ, lớn, bé, con nít còn bồng trên tay, đàn bà đang mang bầu, tay xách, nách mang một vài manh chiếu, một vài bọc quần áo, buồn tủi, lo âu, gia đình nọ nối tiếp gia đình kia đi hàng một sát bên lề đường để tránh đoàn xe. Đèn pha của đoàn xe lần lượt chiếu các bóng lưng còng xuống của người lớn, những bóng nhỏ hơn của các trẻ em tay níu vạt áo hoặc ống quần của người bố hay người mẹ. Họ lặng lẻ thất thểu bước nọ trước bước kia trong đêm tối của tâm hồn.
Cuộc di tản này chắc chắn sẽ kéo dài tới ngày hôm sau. Thế là Kontum và Pleiku đã bỏ ngỏ, chính thức và không chính thức. Không chính thức mà chính thức vào hồi 20 giờ đêm ngày Chủ Nhật 16 tháng 3-1975.
Pleiku không còn gì để cho tôi săn tin thêm nữa.
Ba lô vẫn cõng trên vai, hồi 22 giờ 30 tôi theo đoàn người di tản ra khỏi thị xã Pleiku. Bầu trời hôm nay đẹp quá, hàng ngàn vì sao lấp lánh như thiên thần nháy mắt với trần gian, hay đó là những ám hiệu dục dã: “Lẹ lên!”
Nếu tôi có một người bạn đường đi bên tôi, tôi sẽ bảo: “Bạn ơi, trên trời có bao nhiêu vì sao thì lòng tôi đau xót còn hơn thế nữa.”
Đốt, phá, bỏ rơi:
Các kho súng, kho đạn tại tỉnh Pleiku đã được lệnh thiêu hủy, tiếng nổ lớn nối liền tiếng nổ nhỏ. Từng cột khói đen bốc lên trong lửa đỏ từ các bồn nhiên liệu cũng được lệnh phá hủy. Tất cả đều bùng cháy. Nhiều khu phố trong thị xã Pleiku đã bị toán người đập phá nhà cửa của các chủ nhân đã di tản, và đã bị phóng hỏa, ít nhất tôi cũng đếm được 14 đám cháy trong những khu phố khác nhau.
Nhiều tiếng súng cũng đã nổ trong thị xã. Có tin Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku đã hạ lệnh cho đốt kho giấy bạc trong Ty Ngân Khố, ước lượng khoảng 300 triệu và trong khi tưới xăng để đốt, ông Trưởng Ty Ngân Khố đã bị phỏng. Không còn một bác sĩ tư nào trong thành phố. Quân cũng như dân y viện không còn hoạt động. Một số bệnh nhân tại dân y viện cũng như một số thương binh tại quân y viện Pleiku đã bị bỏ rơi lại vì không còn ai lo cho họ nữa. Chính họ trong tình trạng bệnh hoạn chẳng tự mình làm được. Ngoài sự chịu chết đói dần mòn ngay trên giường bệnh.
Một nguồn tin đáng tin cậy cho hay là Chuẩn tướng Tất, Tư Lệnh Mặt Trận Kontum – Pleiku đang chỉ huy cuộc triệt thoái lực lượng chính quy đi về hướng Nam trên quốc lộ 14.
Trên đường nóng bỏng:
(Pleiku 17-3) Sáng nay, cuộc di tản đang tiếp diễn dưới ánh mặt trời huy hoàng của một ngày đầu tuần. Hàng ngàn chiếc xe dân sự và quân sự vẫn nối tiếp nhau trên quốc lộ 19 đi về hướng Phú Bổn. Nhiều xe vì chở quá nặng không chạy nổi đã bỏ lại trên đường.
Các quân nhân được lệnh triệt thoái dưới quyền tư lệnh của Tướng Tất đã thi hành một cách rất trật tự và kỷ luật. Các đơn vị Biệt Động Quân đã được lệnh đi hai bên quốc lộ 14 ở những chỗ xung yếu để bảo vệ đoàn xe di tản dân sự và quân sự. Các đoàn người đi bộ thật là thảm thương, đàn bà, con trẻ đi bên lộ dưới ánh nắng nóng bỏng không giọt nước để uống.
Dọc quốc lộ từ Pleiku đến Hậu Bổn là tỉnh lỵ của Phú Bổn, đoàn xe cứ nối dài. Đoàn người đi bộ, bị bỏ lại sau, nhưng họ vẫn cứ cố gắng lết đi trên đường nóng bỏng dưới ánh nắng của Pleiku. Chưa biết đêm nay họ có thể tới được Phú Bổn bằng đôi chân của chính họ hay không. Sẽ có nhiều người sẽ bị chết đói, chết khát dọc đường. Dọc Quốc lộ 14 đi về phía Phú Bổn các làng, các ấp, các buôn đều trống trơn không còn một ai. Cảnh hoang tàn dọc quốc lộ 14 tôi không làm sao mà còn có trí óc để nghĩ ra những danh từ tường trình với độc giả.
Bi thảm quá đồng bào ơi!
Hôm nay thay vì lá thư hàng tuần sự tường trình của tôi có thể ngắn ngủi và không mạch lạc. Mong quý vị độc giả phương xa ở tại cái thủ đô đầy ánh sáng hiểu cho.

Cho tới nay vẫn không thể hiểu được lệnh bỏ ngỏ Kontum – Pleiku là ở đâu mà ra và tại sao lại có sự ra đi hấp tấp trong dân chúng trong khi các nhà cầm quyền quân sự đã trù liệu kế hoạch từ trước. Không có giải thích nào cho dân chúng. Không có tổ chức nào để di tản dân chúng trong trật tự và an ninh, không có một sự trợ giúp nào cho các dân nghèo không có phương tiện đi xe.
Từ năm 1954 cho tới nay, chính tôi đã chứng kiến bao cuộc di tản. Cuộc di tản Kontum – Pleiku dể lại cho tôi một mỗi chán chường. Sống với những hy vọng mong manh từ năm 1954 đến năm 1975 tới nay tôi cảm thấy không còn đủ sức, đủ ý chí để bấu víu lấy cái chút hy vọng mong manh ấy nữa. Ngoảnh về phía Pleiku khói vẫn ngùn ngụt bốc lên vì những đám cháy đêm qua.
Dọc lộ xe tăng, đại pháo dạt ra hai bên đường để bảo vệ những chỗ xung yếu để cho đoàn xe di tản dân sự và quân sự có thể đi chót lọt tới Hậu Bổn tức tỉnh lỵ Phú Bổn. Nhưng trên đoạn quốc lộ 14 từ Pleiku tới Hậu Bổn vẫn xảy ra nhiều đoạn đường kẹt xe, có thể kể hàng 5 đến 10 cây số chưa biết rằng đoàn xe có thể tới Hậu Bổn được không. Và từ Hậu Bổn sẽ đi đâu chưa ai rõ. Riêng cho tôi không còn có trí óc nào để nghĩ đến tương lai dù rằng tương lai chỉ là ở một giây, một phút sau đó.
Điện đàm dứt đoạn…

Nguyễn Tú, Chính Luận

Ghi chú: Trên đây phóng viên Nguyễn Tú mới chỉ tường thuật được đoạn mở đầu của chuyến rút quân bi thảm và sau đó thì hết phương tiện liên lạc. Thực sự đoàn quân dân rút từ Tây Nguyên về Duyên Hải đã hoàn toàn làm tan rã cả Quân Khu II với hàng ngàn người chết dọc đường và đưa đến cảnh toàn thể miền Nam vỡ ra thành từng mảnh vụn.



--------------------
“Vì Danh Dự Dân Tộc: Chống giặc Tàu.
Vì tương lai Dân Tộc: khai tử tập đoàn bán nước Việt Cộng”


Go to the top of the page
 
+Quote Post

14 Pages V  « < 9 10 11 12 13 > » 
Reply to this topicStart new topic
1 User(s) are reading this topic (1 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 28th March 2024 - 10:27 AM