Welcome Guest ( Log In | Register )

 
Reply to this topicStart new topic
> Tình yêu qua ngưỡng cửa di trú, Lê Minh Hải
AnAn
post Aug 12 2016, 02:45 PM
Post #1


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 6,737
Joined: 12-November 08
Member No.: 702
Country




Tình yêu qua ngưỡng cửa di trú


Người mẹ đưa người con trai đến Văn phòng Robert Mullins International (RMI) đúng hẹn. Bà nói rất muốn người con trai lấy vợ ở Việt Nam và muốn hỏi rõ thủ tục kết hôn. Người vợ tương lai, theo người mẹ, là con của một người bạn thân, rất ngoan và tháo vát. Người con trai ngồi hiền lành, chỉ cười. Vẻ mặt hớn hở pha chút lo lắng. Anh chỉ gặp người vợ sắp cưới trên những tấm hình được gửi từ bên kia bờ Thái Bình Dương. Anh sinh trưởng ở Mỹ, tốt nghiệp kỹ sư điện toán và đã ra làm việc được ít năm. Anh là người con trai duy nhất và trên anh còn ba người chị. Ðó là một trong những nguyên nhân, theo người mẹ tâm sự, “rất muốn cháu lấy vợ Việt Nam”.

Cũng như thế, có người phụ nữ chưa đến 40, đã ly dị chồng bên Mỹ. Chị muốn làm “Công hàm độc thân” để về Việt Nam kết hôn lần nữa. Người đàn bà còn rất trẻ này vẫn còn tin tưởng nhiều về cuộc hôn nhân sắp tới với người bạn xưa, chia sẻ: “Chẳng lẽ ở vậy mãi sao!”.

Còn hơn thế nữa, khi một vị đứng tuổi góa bụa, trên 70 tuổi, đến văn phòng RMI an nhiên hỏi thăm những khó khăn khi ông muốn về Việt Nam lấy vợ, và người vợ tương lai này chỉ bằng tuổi con hay cháu ông. Ông cười hiền hòa, “cái số nó vậy”, và giải thích như lời tâm tình: người bạn vong niên bên Việt Nam muốn cho người con gái “làm bạn đời săn sóc ông” như để trả một món nợ ân nghĩa không sao báo đáp….

Ðó là những câu chuyện chồng chất theo năm tháng, thân quen, mà nhân viên của các văn phòng RMI chăm lo như việc nhà, theo dõi, đốc thúc và giải quyết với kết quả tốt đẹp nhất. Và việc kết hôn với “người bên Mỹ” là một trong những biến cố gia đình quan trọng đánh dấu hơn 41 năm sinh hoạt của cộng đồng người Việt tỵ nạn trên thế giới nói chung, và tại Hoa Kỳ nói riêng.

Hồ sơ Bảo Lãnh Diện Vợ/Chồng và Hôn Phu/Hôn Thê: đậu hay rớt là một vấn đề cần thảo luận

Trước khi một nhân viên Lãnh sự Hoa Kỳ có thể cấp bất cứ loại chiếu khán (visa) nào, họ cần bảo đảm một cách chắc chắn rằng tất cả những đòi hỏi đều phải được đáp ứng và không hề có chỉ dấu gian dối nào trong hồ sơ bảo lãnh. Dĩ nhiên, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể để giúp cho nhân viên Lãnh sự có thể quyết định chính xác, nhưng trên thực tế, hầu hết những hồ sơ bảo lãnh đều dựa trên “sự cảm nhận” của nhân viên Lãnh sự khi duyệt xét từng hồ sơ. Mặc dù các nhân viên Lãnh sự khá quen thuộc với văn hóa Việt Nam, nhưng họ vẫn chỉ là người ngoại quốc và họ cũng không thể tránh được việc duyệt xét hồ hơ theo cái nhìn của người Hoa Kỳ. Hầu hết những hồ sơ được xem là có sức “thuyết phục” là những hồ sơ có phong cách tìm hiểu và kết hôn giống như người Hoa Kỳ.

Trong cái nhìn của các nhân viên lãnh sự Hoa Kỳ, nhiều người trong hồ sơ bảo lãnh, từ hai phía, thường đến với nhau, qua cuộc hôn nhân vì “lợi ích” nhiều hơn là vì mối tình chân thật. Người bảo lãnh ở Hoa Kỳ đi tìm ở người hôn phối thể hiện nét văn hóa Việt Nam, và người ở Việt Nam muốn tìm một đời sống tốt đẹp hơn ở nước ngoài. Ðôi khi, cả hai người đều thú nhận rằng tình yêu chưa đến với họ qua cuộc hôn nhân.

Hơn một nửa cuộc hôn nhân tại Hoa Kỳ đã vác chiếu ra tòa ly dị. Nhân viên Lãnh sự biết rõ điều này, nhưng trong buổi phỏng vấn cấp chiếu khán, họ chú trọng đến mối liên hệ trước khi việc kết hôn xảy ra. Ở Hoa Kỳ, đôi tình nhân tự do quen biết, gặp gỡ nhau mà ít khi cần sự giúp đỡ của thân nhân, hay bè bạn. Họ biết nhau, gặp nhau trong nhiều tháng, hay nhiều năm, trước khi kết hôn. Họ dễ dàng gặp gỡ cha mẹ chồng, hoặc cha mẹ vợ tương lai. Họ thường có hoàn cảnh kinh tế tương đồng, vì thế không có những sự thay đổi lớn lao về tài chánh ảnh hưởng đến họ hay gia đình của họ, nếu họ kết hôn. Sau khi lấy nhau, họ cũng sẽ không phải di chuyển đến nơi xứ lạ quê người, phải học ngôn ngữ mới, và không phải bỏ lại sau lưng những người thân yêu nơi cố quốc.

Ngược lại, phần lớn người bảo lãnh diện vợ/chồng, hay diện hôn phu/hôn thê, đến Việt Nam chỉ trong thời gian ngắn để gặp người bạn tình, thường đã được họ hàng, hay bạn bè giới thiệu, chứ không do họ tự lựa chọn. Và kết quả cuộc hôn nhân với “người bên Mỹ” thường mang lại cho người hôn phối ở Việt Nam sự thay đổi lớn lao, thường là tốt đẹp hơn. Thêm vào đó, gia đình của người được bảo lãnh còn ở Việt Nam có thêm một điều ích lợi rất thực tế, đó là con cái của họ, sau khi sang định cư ở nước ngoài, sẽ gửi tiền về giúp đỡ, và có thể bảo lãnh cho họ đi di dân sau này.

Tuy nhiên, những nan đề chính khác mà người được bảo lãnh thường gặp phải là:

– Họ thường tổ chức nghi lễ đính hôn, hay kết hôn, quá đơn giản trong chuyến về Việt Nam đầu tiên, trước khi có cơ hội tìm hiểu người hôn phối nhiều hơn. Hình ảnh nộp trong lúc phỏng vấn đôi khi không đủ sức thuyết phục; chẳng hạn như hình ảnh người thiếu nữ không thoải mái khi phải cố gắng bày tỏ cảm xúc của mình với người đàn ông mà họ mới gặp lần đầu. Hoặc hình ảnh chụp nghi lễ đính hôn, hoặc lễ cưới, tiệc cưới, không thấy đông người, trông tẻ nhạt… dễ gây cho người phỏng vấn “cảm giác” hình ảnh chỉ chụp vài tấm cho “lấy có” để làm bằng chứng mà thôi. Thêm vào đó, hình ảnh nên có là những buổi đi chơi với nhau trước và sau “ngày vui”. Người phỏng vấn sẽ cảm thông hơn khi thấy hình chụp đôi uyên ương đi hưởng “tuần trăng mật” nơi thơ mộng….

– Vì sự kiện có ý định gian dối trong việc bảo lãnh khá cao ở Việt Nam, nên đã tạo cho nhân viên Lãnh sự trong lúc phỏng vấn luôn có giả thuyết rằng sự liên hệ giữa hai bên “không trong sáng”. Người được bảo lãnh sẽ phải bỏ nhiều công sức để vượt qua cái “cảm nhận” cố hữu đó.

– Nhân viên Lãnh sự biết rằng đã có một số người được bảo lãnh phải trả cho người bảo lãnh số tiền từ 30,000 Mỹ kim trở lên để được định cư tại Hoa Kỳ.

– Vì có quá nhiều hồ sơ, nhân viên Lãnh sự gần như không bị giám sát bởi cấp cao hơn. Các nhân viên cao cấp ít khi tra hỏi về quyết định của nhân viên Lãnh sự có trách nhiệm phỏng vấn. Vấn đề kháng cáo thường không thành công vì nhân viên Lãnh sự có thể bỏ qua tất cả những chứng cớ liên hệ nếu họ “cảm thấy” hồ sơ này không “trong sáng”.

Hỏi Ðáp Di Trú

– Hỏi: Ðiều gì làm cho các nhân viên Lãnh sự nghi ngờ về mối liên hệ?

– Ðáp: Một hồ sơ dễ dàng bị từ chối nếu người được bảo lãnh không thể trả lời những câu hỏi liên quan đến đời sống của người bảo lãnh, hay về sự liên hệ giữa hai người, hay người được bảo lãnh trả lời những câu hỏi khác với những thông tin mà người bảo lãnh đã cung cấp cho văn phòng di trú. Người bảo lãnh và người được bảo lãnh phải cung cấp những thông tin giống nhau cho Lãnh sự. Và điều quan trọng là người được bảo lãnh KHÔNG BAO GIỜ thay đổi những gì đã cung cấp, nếu nghĩ rằng những điều khai khác đi sẽ làm cho nhân viên Lãnh sự dễ dàng chấp nhận hơn. Luôn luôn trả lời những sự kiện đã cung cấp, và nhớ chính xác những dữ kiện này.

– Hỏi: Những bằng chứng liên hệ nào có sức thuyết phục nhất đối với nhân viên Lãnh sự?

– Ðáp: Hầu hết nhân viên Lãnh sự muốn biết bằng chứng về sự liên hệ kể từ lúc hai người gặp nhau lần đầu tiên, hay kể từ khi hai người làm quen với nhau qua điện thoại, emails hay thư từ; cộng thêm những hình ảnh tổ chức lễ đính hôn hay kết hôn. Thẻ điện thoại là cách liên lạc tốt để tiết kiệm tiền điện thoại nhưng không tốt để chứng minh về sự liên hệ. Và, nếu đôi uyên ương “quá bận rộn”, hay “quá mệt mỏi” để liên lạc với nhau thường xuyên, thì Lãnh sự cũng có thể sẽ “rất bận rộn” nên không thể lắng nghe những lời giải thích xin lỗi và hồ sơ sẽ bị từ chối.

– Hỏi: Phải làm gì dù khi đã có nhiều chứng minh và liên lạc thường xuyên, nhưng vẫn bị Lãnh sự bác hồ sơ?

– Ðáp: Nếu Lãnh sự quyết định gửi đơn bảo lãnh trở về cơ quan di trú ở Hoa Kỳ, người bảo lãnh chắc chắn có cơ hội tốt hơn để thuyết phục cơ quan di trú về sự liên hệ trong sáng của mình. Các nhân viên di trú thường cởi mở hơn các nhân viên Lãnh sự ở Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian chờ đợi để hồ sơ bảo lãnh được Lãnh sự ở Việt Nam hoàn trả cho Sở di trú Hoa Kỳ, và Sở này gửi thư cho người bảo lãnh để yêu cầu giải thích và bổ túc những lý do bị Lãnh sự từ chối sẽ khá lâu. Chính vì thế, quý vị cần chuẩn bị hồ sơ bảo lãnh thật kỹ lưỡng từ những lúc khởi đầu mối quan hệ với người được bảo lãnh ở Việt Nam.

Khách đến ngày đầu tiên với vẻ mặt lo âu, căng thẳng. Vì có vốn liếng Anh ngữ, anh tự làm đơn, nộp giấy tờ bảo lãnh cho hôn thê (fiancée) ở Việt Nam. Sau tờ biên nhận vài tháng, anh nhận được thư của cơ quan di trú Hoa Kỳ đòi bổ túc thêm chứng cớ về sự liên hệ của hai bên. Nhưng sau khi bổ túc theo yêu cầu, như anh cho biết, hồ sơ xin bảo lãnh hôn thê bị từ chối. Anh không hiểu tại sao và không biết phải làm sao? – một trở ngại khác, khách đến nhờ văn phòng làm lại bộ Công Hàm Ðộc Thân để về Việt Nam lấy chồng. Lý do: khách đã từng ly hôn nhưng không hề biết luật rắc rối ở Việt Nam đòi hỏi phải có thêm bộ “Ghi chú ly hôn”. Và rất nhiều trường hợp khác gặp trở ngại từ Lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn, làm sai bảo trợ tài chánh, không biết thủ tục kháng cáo khi bị từ chối, gặp khó khăn trong thủ tục khám sức khoẻ, và nhiều vấn đề nan giải khác… Chính vì vậy, điều mà các thân chủ quan tâm đầu tiên cho hồ sơ bảo lãnh là tìm một văn phòng chuyên môn đảm trách.

Uỷ thác niềm tin

Hầu hết thân chủ đều muốn đến một văn phòng chuyên về di trú được người thân quen giới thiệu. Người Việt mình trọng hai chữ “tín nhiệm”. Khi những người thân quen giới thiệu một văn phòng dịch vụ đã hoàn tất thành công các hồ sơ bảo lãnh cho chính họ, thường mang lại niềm tin giới thiệu tiếp cho họ hàng, bạn hữu…. Sự tín nhiệm này luôn được người bảo lãnh ở Hoa Kỳ và người được bảo lãnh ở Việt Nam quan tâm. Một số đông khác chọn sự ủy thác của mình qua những dịch vụ di trú được quảng cáo trên các cơ quan truyền thông. Tâm lý của nhiều người muốn chọn các văn phòng có người ngoại quốc và có chi nhánh dịch vụ ở Việt Nam. Khách cũng có thể thẩm định phần nào về những loại quảng cáo “giá rẻ bất ngờ” mà nhiều người đã phải ân hận khi lỡ “trao duyên” cho các văn phòng này. Khách cần lệ phí bảo lãnh trong tầm tay nhưng điều quan trọng vẫn là công việc bảo lãnh phải trôi chảy. Những văn phòng uy tín luôn xem trọng khách hàng, theo dõi hồ sơ như công việc nhà, và nhất là không thể có quan niệm “kiếm sống” bằng cách hứa hẹn với khách hàng những điều mà chính họ biết rằng không thể làm được.

Khách hàng biết rất rõ những văn phòng uy tín có thể giúp họ vượt qua những trở ngại, vì các văn phòng này được sự tín nhiệm trong cộng đồng, có uy tín với các công sở liên hệ đến di trú của chính phủ; cũng như có một đội ngũ chuyên viên giàu kinh nghiệm, tận tâm và chân thành.

Về phía bên nhà, người được bảo lãnh – vợ hay chồng – thường giao phó việc chọn lựa văn phòng cho người hôn phối bên Mỹ. Họ chỉ quan tâm khi hồ sơ gặp vấn đề: thời gian chờ đợi quá lâu hay gặp trở ngại với Lãnh sự Hoa Kỳ. Vấn đề lo âu đầu tiên là thủ tục giấy tờ làm Công Hàm Ðộc Thân của người bên Mỹ. Ðối với các Sở Tư Pháp ở Việt Nam, mỗi tỉnh có “quyền” giải quyết thủ tục kết hôn theo kiểu của mình. Mặc dù hiện nay, năm 2016, thủ tục “đăng ký kết hôn” được nhà nước loan báo đơn giản hóa một chút, cho phép hạ một cấp cơ quan hành chánh lo việc này. Có nghĩa là thay vì Sở Tư Pháp Tỉnh giải quyết thì nay là cấp Thành Phố; hoặc cấp Quận, Huyện. Chưa biết việc “đơn giản hóa” này trong tương lai có dễ thở hơn trước không nhưng nhiều cặp vợ chồng mới đây cho biết vẫn là kiểu “hành-chính” theo nghĩa vẫn “hành” là “chính”!

Người bảo lãnh chưa hề kết hôn thường dễ dàng hơn người đã từng ly hôn. Với tâm lý tiện lợi, người hôn phối ở Việt Nam vẫn thích những dịch vụ có thể lo “từ A đến Z”, chẳng hạn như: lo luôn thủ tục “đăng ký kết hôn” (thường rất tốn kém), tổ chức nghi lễ đám cưới, tìm chỗ thuê xe cưới, tiệc cưới, giấy tờ bảo lãnh và những giấy tờ liên quan khác, giới thiệu và, nếu có thể, lo luôn việc hướng dẫn những chuyến đi hưởng tuần trăng mật….

Nhưng, các loại dịch vụ được quảng cáo lo “từ A đến Z” như đã kể trên thường để lại nhiều kinh nghiệm không vui cho khách hàng. Giống như sức khỏe vậy, người ta thường tìm đến các bác sĩ chuyên khoa hơn là bác sĩ toàn khoa, khi muốn được chữa bệnh đặc biệt của mình đến nơi đến chốn. Nhưng con đường được đoàn tụ với vợ, chồng ở Hoa Kỳ không phải lúc nào cũng như mặt nước hồ thu…

Đoạn trường ai có qua cầu mới hay…


Như các bài góp ý khác của văn phòng Robert Mullins International trước đây, việc bảo lãnh vợ-chồng, hay hôn phu-hôn thê, không còn dễ dàng như trước biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Với tiêu lệnh “an ninh quốc gia”, các cơ quan liên hệ đến di trú của chính phủ được toàn quyền về thời gian xem xét các hồ sơ bảo lãnh, nhất là những người bảo lãnh đến từ các quốc gia có tên trong “danh sách cần quan tâm”. Cộng thêm việc thiếu nhân viên di trú và ngân sách thiếu hụt, các cơ quan di trú không thể nào làm khác hơn là chịu đựng những lời than phiền, đôi khi phẫn nộ, từ khách hàng về sự chậm trễ giải quyết hồ sơ bảo lãnh. Và các văn phòng chuyên trách về di trú cũng bị ảnh hưởng không ít về sự “kiên nhẫn” của khách hàng.

Thông thường, những khách hàng chọn được văn phòng chuyên môn và theo đúng sự hướng dẫn của văn phòng thì hồ sơ bảo lãnh được chấp thuận dễ dàng. Và ngược lại, hoặc vì những lý do “thầm kín” đi ra ngoài sự hiểu biết của văn phòng, những hồ sơ bị từ chối hẳn, hoặc được yêu cầu bổ túc thêm chứng minh, giấy tờ; hay phải chờ đợi quá lâu, phản ứng nóng nảy thường xảy ra và đôi khi bất chấp những lý giải hợp tình, hợp lý. Dù sao đi nữa, những phản ứng này có thể hiểu được và nên chia sẻ.

Trong hoàn cảnh này, người vợ ở Việt Nam thường có phản ứng sốt ruột dữ dội nhất, và cũng thường lên tiếng than trách những người liên hệ trong hồ sơ bảo lãnh. Người bảo lãnh, người chồng, luôn lãnh chịu những áp lực hối thúc từ người vợ, gia đình vợ, họ hàng và bạn bè bên vợ. Người bên ngoài thường hay góp ý, bàn tán và sự tưởng tượng đôi khi đi quá xa. Người chồng bên này đại dương bỗng chốc bị mang tiếng “không sốt sắng” và “có ý muốn” bỏ rơi người vợ bên nhà! Thí dụ không thiếu: Anh A đến văn phòng trong trạng thái mệt mỏi, xin tham vấn trường hợp bảo lãnh của anh. Vì muốn tiết kiệm tiền, anh đã tự làm hồ sơ bảo lãnh vợ, và hồ sơ gặp trở ngại phía Lãnh sự Hoa Kỳ ở Việt Nam. Họ của anh giống với họ của vợ. Lãnh sự yêu cầu anh và vợ anh phải nộp khai sinh của hai bên cha-mẹ. Anh không có khai sinh cha mẹ. Không biết xoay sở ra sao, anh đành thúc thủ và đã để hồ sơ kéo dài. Bên gia đình vợ “tiếng chì tiếng bấc”, cho rằng anh muốn bỏ… vợ! Có lúc, lòng kiên nhẫn của anh mòn dần. Anh đến nhờ văn phòng giúp đỡ. Dĩ nhiên, vợ anh sau đó đã sang Mỹ đoàn tụ với anh và mọi việc sáng tỏ. Anh được rửa mối “hàm oan” và tình yêu ngày càng mặn nồng….

Ngày rời Việt Nam vốn là kỷ niệm khó quên. Nước mắt, nụ cười, thương nhớ, với biết bao kỳ vọng, mong chờ nơi xứ lạ quê người của người đi và những người ở lại. Một điều mà ít ai để ý là tại phi trường trong ngày tiễn biệt, người đi từ Sài Gòn thường được vây quanh đông đảo bởi toàn bộ gia đình và bạn bè thân thiết; nhưng số đông này nhỏ dần với những người đến từ các tỉnh xa xôi. Nhưng dù nhiều hay ít, tình cảm thân thương vẫn dạt dào.

Tuy nhiên, có người nói: “Hôn nhân không phải là thuyền cập bến mà bắt đầu ra khơi”. Sau mười mấy giờ bay với nhiều thổn thức, những người vợ, người chồng sắp gần gũi nhau. Duyên phận thế nào, đó là chuyện mai hậu. Bởi thuyền đã bắt đầu ra khơi. Và đó lại là một chuyển tiếp khác của một đời sống muôn vàn đổi thay, và sẽ được gửi đến quý vị trong Phần 3 của loạt bài này trong kỳ tới.

Lê Minh Hải


--------------------
***Bình yên một thoáng***
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Reply to this topicStart new topic
1 User(s) are reading this topic (1 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 30th April 2024 - 02:33 AM