Welcome Guest ( Log In | Register )

16 Pages V   1 2 3 > » 

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 03:02 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 50
Đề Bà Đạt Đa Bị Trục Xuất Khỏi Giáo Hội


Sa môn Đề-bà Đạt Đa là người tính khí rất kiêu mạn. Y không chịu ai chi phối. Y có tham vọng thay thế Phật, nhưng y biết các sa môn không ai muốn theo y nổi loạn. Vì thế, y cần đến sự hậu thuẫn của vua chúa hay hoàng tử.

Một hôm, y tự bảo lòng: "Quốc vương Tần-bà-sa-la già rồi; hoàng tử A-xà-thế trẻ trung, dũng cảm, hằng mong thay cha lên ngôi. Ta có thể khuyên hoàng tử chiếm lấy ưu thế, và rồi chàng có thể đến giúp ta thống lãnh giáo hội."

Y đến gặp A-xà-thế. Y tâng bốc chàng đủ điều; y ca ngợi chàng nào là khỏe mạnh, can trường, hào hoa phong nhã!...

Y nói: "Ồ, nếu hoàng tử là vua, ánh vinh quang rực rỡ sẽ đến cho Vương-xá này biết bao! Hoàng tử sẽ chinh phục các nước lân cận; tất cả vua chúa trên thế giới sẽ thần phục ngài: ngài sẽ là đương kim hoàng đế, ngài sẽ được tôn thờ như một thiên thần."

Bằng lời lẽ đường mật, Đề-bà Đạt Đa đã chiếm trọn lòng tin yêu của A-xà-thế. Y nhận được nhiều bảo vật và lên mặt kênh kiệu hẳn ra.

Mục-kiền-liên thấy Đề-bà Đạt Đa thường lui tới với hoàng tử. Thầy quyết định báo cho Đức Thế Tôn biết.

Tôn giả thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, Đề-bà Đạt Đa rất thân thiện với hoàng tử A-xà-thế".

Đức Thế Tôn ngắt lời thầy:

"Hãy mặc cho Đề-bà Đạt Đa làm gì tùy ý; rồi đây chúng ta sẽ biết sự thật. Ta biết A-xà-thế quí trọng Đề-bà Đạt Đa lắm; điều đó không giúp cho y tiến thêm bước nào trên đường đạo hạnh. Hãy mặc cho Đề-bà Đạt Đa tha hồ kiêu mạn! Nó sẽ đốt cháy y lúc nào không chừng. Một khi chuối ra trái, tre lên măng, thế là chúng sắp tàn; những vinh dự mà Đề-bà Đạt Đa đang thọ hưởng cũng sẽ chóng tàn như thế đó."

Tính kiêu mạn của Đề-bà Đạt Đa không mấy chốc đã lên đến tột đỉnh. Y không thể chịu nỗi sự tôn kính dành cho Đức Phật, và một hôm, y đánh bạo thưa Ngài.

"Bạch Đức Thế Tôn, ngài nay tuổi tác khá cao, khó khăn lắm Ngài mới điều khiển nổi tăng đoàn; Ngài nên nghỉ đi thôi. Hãy an tâm quán tưởng giáo pháp tối thượng mà Ngài đã khám phá, còn giáo hội xin để tôi gánh vác."

Đức Thế Tôn mỉm cười:

"Này Đề-bà Đạt Đa, đừng bận tâm đến ta làm gì; ngươi tử tế quá. Ta sẽ biết lúc nào ta nghỉ. Hiện nay, ta còn điều khiển được giáo hội. Hơn nữa, khi thời điểm đến, ta còn không giáo quyền thống lĩnh tăng đoàn cho Xá-lợi-Phất hay Mục-kiền-liên, những bậc trí tuệ minh mẫn như ngọn đuốc sáng ngời, còn ngươi, này Đề-bà Đạt Đa, sự hiểu biết của ngươi tầm thường quá, trí tuệ của ngươi không sánh bằng ánh đèn leo lét trong đêm!"

Đề-bà Đạt Đa cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn nhưng y không thể dấu được ánh lửa sân hận đang bừng cháy trong đôi mắt y.

Đức Thế Tôn sau đó mời tôn giả Xá-lợi-Phất đến.

Ngài nói: "Này Xá-lợi-Phất, hãy đi khắp thành Vương-xá và lớn tiếng thông báo rằng: "Hãy coi chừng Đề-bà Đạt Đa! Y đã ra ngoài chánh đạo. Đức Phật không chịu trách nhiệm về ngôn ngữ và hành động của y; giáo pháp không còn nhằm nhò gì với y, giáo hội không còn dính dáng gì với y nữa. Vì thế, Đề-bà Đạt Đa muốn nói gì tùy ý".

Thật là khổ cho Xá-lợi-phất phải làm một việc đau buồn; nhưng, hiểu ý Đức Thế Tôn, tôn giả đi khắp thành công bố điều ô nhục của Đề-bà Đạt Đa. Dân chúng dừng lại để lắng nghe, một số suy nghĩ: "tăng đoàn đố kỵ Đề-bà Đạt Đa kết thân với hoàng tử A-xà-thế." Nhưng số khác nói:

"Đề-bà Đạt Đa đã phạm phải một lỗi lầm nghiêm trọng nên Đức Thế Tôn mới công khai tẫn xuất y như vậy."


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12995 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 03:01 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 49
Phật Độ Hung Thần A La Va Ca



Tại thành A-ta-vi (Atavi) có một vị vua rất ham mê săn bắn. Một hôm, vừa thấy một con nai to, ngài đuổi theo ngay. Con nai chạy lẹ quá, và vì quyết đuổi theo con nai, nhà vua lạc xa các tay săn khác. Cuối cùng, con mồi chạy mất. Mệt mỏi, chán nản, nhà vua ngồi tựa vào một gốc cây, thiếp ngủ lúc nào không biết.

Bấy giờ hung thần A-la-va-ca (Alavaka) ở trên cây hiện xuống. Hắn thích ăn thịt người, hắn sát hại và ngấu nghiến tất cả những ai đến gần hắn. Thấy nhà vua, hắn ra mặt hớn hở; vì vua ham mê săn bắn khốn nạn kia sắp bị một quả đấm ác liệt thì, may thay, một tiếng động làm ngài thức dậy. Thấy mạng sống của mình bị đe dọa, nhà vua gượng đứng lên, nhưng hung thần đã tóm cố ngài quật xuống. Nhà vua hết lòng van xin:

"Thưa ngài, xin ngài tha mạng cho con. Nhìn vóc dáng dễ sợ của ngài, con biết ngài là một hung thần ăn thịt người. Thưa ngài, xin ngài thương con. Con sẽ không bao giờ quên ơn ngài. Con sẽ dâng ngài những lễ vật tuyệt diệu".

A-la-va ca đáp: "Ta không cần lễ vật! Ta muốn ăn thịt người; ta đói lắm rồi".

Nhà vua đáp: "Thưa ngài, cho con về A-ta-vi, con sẽ dâng ngài mỗi ngày một người để ngài xơi thịt".

"Khi ngươi về nhà, ngươi sẽ quên lời hứa".

Nhà vua đáp: "Không, con không bao giờ quên lời. Hơn nữa, nếu như con không dâng ngài lễ vật hằng ngày, ngài cứ đến thẳng hoàng cung của con mà nguyền rủa, con sẽ theo ngài, ngài sẽ ăn tươi nuốt sống con".

Hung thần tha cho, nhà vua trở về thành A-ta-vi. Nhưng ngài mãi lo nghĩ về lời hứa ác nghiệt của mình; không có cách nào để tránh, ngài buộc phải mang danh là một vị vua hung tàn bạo ngược.

Ngài triệu quan tể tướng và trình bày sự việc đã xảy ra. Suy nghĩ trong giây lát, quan tể tướng tâu vua:

"Tâu bệ hạ, trong ngục A-ta-vi có nhiều tội nhân bị kết án tử hình. Chúng ta có thể nộp chúng cho hung thần. Khi thấy bệ hạ giữ lời hứa với hắn, biết đâu hắn sẽ miễn giảm cho ngài."

Vua chấp thuận lời đề nghị. Ngài ra lệnh cho vệ binh đến khám đường nói với các tên tử tù đã được ấn định từng ngày rằng:

"Cách thành không xa, trên cây đại thọ có một thiên thần rất thích cơm gạo. Ai đến dâng ngài một đĩa cơm dưới gốc cây thì sẽ được ân xá".

Sau đó, mỗi ngày, lần lượt từng người hân hoan bê một đĩa cơm đến đặt dưới cây và không bao giờ trở lại.

Bấy giờ, không còn một tên tử tù nào trong ngục. Quan tể tướng ra lệnh cho các biện lý án sát triệt để khiêm khắc, không tha bất cứ một tên tù nào bị truy tố là sát nhân, trừ phi có bằng chứng hiển nhiên là vô tội, nhưng cũng vô ích thôi; họ phải tìm ra biện pháp khác để thõa mãn hung thần. Họ bắt đầu hy sinh những tên trộm cướp.

Dù họ ra sức kết tội thế nào thì ngục tù cũng lại trống rỗng, nhà vua và quan tể tướng buộc phải tìm các nạn nhân trong đám dân cư lương thiện trong thành. Các cụ già bị tóm cổ đưa tới gốc cây trước, và nếu các vệ binh không nhanh chân thì hung thần có lúc cũng ngấu nghiến họ như các nạn nhân.

Tình cảnh đen tối âu lo bao trùm cả thành A-ta-vi. Các cụ già biến dần đâu hết; không ai hay biết việc gì đã xảy đến cho họ. Và, mỗi ngày, nỗi ân hận của vua lại càng tăng thêm chua xót. Nhưng ngài không đủ can đảm hy sinh đời mình cho quốc dân hạnh phúc. Ngài nghĩ:

"Sẽ không ai đến giúp ta sao? Ta nghe nói, khi thì ở Xá-vệ, khi thì ở Vương-xá, có một người quyền năng cao siêu, đó là Đức Phật mà thần thông diệu dụng của Ngài đã được mọi người Tôn vinh ca ngợi. Họ bảo Ngài thích vân du đây đó. Vậy sao Ngài không đến vương quốc của ta?"

Nhờ uy lực nhiệm màu của Ngài, Đức Phật biết rõ nguyện vọng của nhà vua. Ngài đến thẳng cây đại thọ của A-la-va-ca. Ngài ngồi yên tại đó.

Vừa thấy Ngài, hung thần tức tốc hầm hầm đi tới, nhưng, bỗng nhiên, hắn mất hết nghị lực, hai đầu gối của hắn run cầm cập. Hắn lên cơn thịnh nộ.

Hắn giận dữ hỏi: "Ngươi là ai?"

Đức Phật đáp: "Người có quyền năng vượt hẳn ngươi."

A-la-va-ca giận tím mặt. Hắn muốn xé người đang ngồi trên đất trước mặt hắn, người mà hắn không thể nào xúc phạm; hắn muốn hành hạ Ngài cho đến chết. Đức Phật vẫn ngồi an nhiên tự tại.

A-la-va-ca cuối cùng tìm cách tự trấn tỉnh. Hắn nghĩ bạo lực không thắng nổi, quỉ kế có lẽ thành công hơn, hắn lên giọng vui vẻ nói:

"Thưa Ngài, ta thấy Ngài là một nhà thông thái; hân hạnh cho ta là luôn luôn được hầu chuyện với các nhà thông thái. Ta hỏi họ bốn điều. Nếu đáp được, họ tự do ra về; nếu không đáp được, họ phải ở lại trong ngục tù ta, và ta sẽ ngấu nghiến họ khi nào cần".

Đức Phật nói: "Thử hỏi ta bốn điều xem."

A-la-va-ca nói: "Ta phải báo cho ngươi biết là chưa có ai đáp được bốn điều đó. Ngươi sẽ thấy rải rác quanh đây những mảnh xương người mà ta đã hỏi họ trong quá khứ".

Đức Phật lập lại: "Hãy thử hỏi bốn điều gì xem."

A-la-va-ca nói: "Thế thì, làm sao nhân loại có thể tránh khỏi dòng sông ái dục? Làm sao nhân loại có thể vượt qua biển cả sanh tử, tìm thấy bến bờ an lành? Làm sao nhân loại có thể thoát khỏi bão tố ác trược? Làm sao nhân loại có thể không bị giông gió tham nhiễm?"

Đức Phật ôn tồn đáp:

"Nếu qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng thì nhân loại tránh khỏi dòng sông ái dục; nếu hiểu được việc thiện thì nhân loại vượt qua biển cả sanh tử, tìm thấy bến bờ an lành; nếu làm được việc thiện thì nhân loại thoát khỏi bão tố ác trược; nếu biết thánh đạo dẫn đến giải thoát thì nhân loại không bị giông gió tham nhiễm."

Nghe lời đáp của Đức Thế Tôn, A-la-va-ca hết lòng Tôn kính, cuối đầu đảnh lễ dưới chân Ngài và tuyên hứa thay đổi cách sống man rợ của y. Sau đó, Đức Thế Tôn và A-la-va-ca cùng đến thành A-ta-vi, đến thẳng cung điện của nhà vua.

Hung thần nói: "tâu bệ hạ, nay ta hủy bỏ lời giao ước với ngài."

Nhà vua sung sướng hơn bao giờ hết. Đến lúc biết được người cứu mình, nhà vua reo lên:

"Bạch Đức Thế Tôn, con xin qui y Ngài, Ngài đã cứu con và cứu cả quốc dân con; con xin qui y Ngài, con sẽ dâng hiến đời con cho việc xiển dương Tam bảo, xiển dương ánh sáng huy hoàng rực rỡ của Phật và Thánh tăng."


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12994 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 03:01 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 48
Vũ Nữ Cu Va La Da


Một hôm, Đức Thế Tôn về nước Xá-vệ.

Ngài nhắm đến một người Bà-la-môn tên Ba-rát-va-gia (Bharadvaja) ở trên một cánh đồng cách thành không xa. Nhằm mùa gặt hái, người Bà-la-môn và những kẻ giúp việc của ông đang tổ chức ăn mừng linh đình. Họ vui cười ca hát khi thấy Đức Thế Tôn đi qua. Ngài đưa bát khất thực, những ai nhận ra Ngài đều cung kính đón chào và cúng dường Ngài nhiều lễ vật. Ba-rát-va-gia thấy vậy không hài lòng. Ông đi thẳng đến Đức Thế Tôn và lớn tiếng nói:

"Ông đạo, mời ông đi ngay cho; ông làm gương xấu cho mọi người. Ở đây chúng tôi đang làm việc, chúng tôi đang theo dõi, quan sát những chuyển biến của mùa màng. Đến lúc cày, người nhà của tôi cày; đến lúc gieo, người nhà chúng tôi gieo; tôi cùng cày gieo với họ. Rồi đến mùa, chúng tôi thu hoạch thành quả lao động của chúng tôi. Chúng tôi tự cung cấp lương thực cho chúng tôi; đến khi mọi việc xong xuôi, chúng tôi tha hồ nghỉ ngơi, vui vẻ. Trong khi ông, ông lang thang khắp nẻo phố phường, ông lê la cùng đường cùng xóm, ông chỉ mệt một chút là gặp ai ông cũng chìa bình bát ra. Tốt hơn là ông nên lao động; ông nên cày bừa gieo hạt mà ăn".

Đức Thế Tôn mỉm cười đáp:

"Này bạn, ta cũng cày bừa gieo hạt như bạn, khi công việc làm xong, ta dùng bữa".

Ba-rát-va-gia nói: "Ông mà cày bừa gieo hạt à? Làm sao ta có thể tin được chuyện đó? Trâu bò của ông đâu? Hạt giống của ông đâu? Cày bừa của ông đâu?"

Đức Thế Tôn đáp:

"Hiểu biết trong sạch là hạt giống tuyệt vời mà ta gieo trỉa. Tu tập thánh thiện là mưa lành tưới trên mặt đất phì nhiêu, hạt giống sẽ đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái và già chín trên đó. Ta cầm cày kiên cố: lưỡi cày là trí tuệ, chuôi cày là giáo pháp, thành tín là con bò thiến khỏe mạnh kéo cày. Ta cày đến đâu là ái dục trốc gốc như cỏ phơi trên đồng đến đó, và sản phẩm vụ mùa ta thu hoạch chính là niết bàn".

Ngài tiếp tục lên đường. Nhưng người Bà-la-môn Ba-rát-va-gia cứ lững thững theo sau Ngài; ông muốn nghe được lời cao quí.

Vào thành, Đức Thế Tôn và ông thấy quần chúng đang chăm chú thưởng thức các tiết mục trình diễn của đoàn vũ công tại một công viên. Ái nữ của trưởng đoàn là người hấp dẫn đặc biệt. Họ ít khi thấy một vũ nữ nào duyên dáng xinh đẹp như thế; mỗi khi nàng xuất hiện, những ai không dằn được lòng ham muốn dễ nổi máu chiếm đoạt nàng. Tên nàng là Cu-va-la Da (Kuvalada).

Nàng vừa vũ xong, bao ánh mắt nóng bỏng còn dính chặt vào người nàng. Nàng biết tài năng của nàng, nàng bạo dạn và cao ngạo lắm, nàng lớn tiếng gọi đám ông:

"Khâm phục ta chứ, quí vị! Trong cả thành Vương-xá, còn ai đẹp hơn ta, thậm chí có ai bằng ta?"

Người bà-la-môn Ba-rát-va-gia đáp: "Vâng, thưa cô nương. So với vẻ đẹp của Đức Thế Tôn thì sắc diện của cô nương đã thấm vào đâu?"

Cu-va-la Da nói: "Ta muốn xem vẻ đẹp của Đức Thế Tôn mà ngươi ca ngợi, làm ơn đưa ta đến gặp Ngài."

Đức Thế Tôn nói: "Đây, Ngài ấy đây."

Đức Thế Tôn bước tới trước.

Vũ nữ trố mắt nhìn Ngài.

Sau cùng nàng nói: "Ngài đẹp quá, con sẽ vũ cho Ngài xem."

Cu-va-la Da bắt đầu vũ, điệu vũ khởi đầu từ từ. Nàng choàng quanh người và phủ lên mặt nàng những tấm vải the rực rỡ, vẻ đẹp của nàng trước kia sắc sảo kiêu kỳ bấy nhiêu thì giờ đây chỉ còn là một hứa hẹn lờ mờ. Nàng trông như mặt trăng ẩn hiện trong những ánh mây bàng bạc trong đêm. Một áng mây trôi qua, hiện ra một tia sáng yết ớt. Điệu vũ mỗi lúc một dồn dập nhanh hơn; từng tấm vải the rơi dần, hằng nga xuất hiện trong ánh trong ngần rực rỡ của nàng. Nàng đang xoay vũ tít người thì, bỗng dưng một tia sáng chói lòa đập vào mắt nàng, nàng dừng lại. Nàng thoát y trọn vẹn. Đám đông ngẹt thở, ùa tới trước.

Đức Phật nói: "Cô ấy khốn khổ thay!"

Ngài chăm chăm nhìn nàng. Bấy giờ đôi má của Cu-va-la Da sệ xuống, vầng trán của nàng nhăn nheo và đôi mắt của nàng mờ đục hẳn. Trong miệng chỉ còn lại một vài cái răng xấu xí, trên đầu còn một vài loạn tóc lơ phơ bạc trắng, nàng già nua lụ khụ. Đức Thế Tôn quở nàng như xưa kia Ngài đã quở đám con gái của Ma-vương khi chúng cố quyến rũ Ngài. Ngài đã biến ả vũ nữ diễm kiều thành một mụ già hóm hém.

Nàng thở dài:

"Bạch Đức Thế Tôn, con đã nhận ra những lỗi lầm nghiêm trọng của con. Sắc đẹp phù du chả giúp con được gì. Ngài đã dạy con một bài học cay đắng, nhưng con nghĩ là ngày kia con sẽ sung sướng đón nhận nó. Xin Ngài thuyết giảng cho con những sự thật cao quí; con nguyện vĩnh viễn giải thoát thân này, dù nó mua vui thiên hạ đến đâu, nó cũng chỉ là một xác thân gớm guốc".

Đức Thế Tôn nhận lời thỉnh nguyện của Cu-va-la Da, nàng trở thành một trong những đệ tử thuần thành nhất trong giới môn đệ thuần thành của Phật.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12993 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 03:00 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 47
Sự Rạn Nứt Giữa Tăng Đoàn


Đức Thế Tôn đến thành Kiều-thưởng Di (Kausambi). Ở đó, lúc đầu, ngài rất lấy làm hoan hỷ. Dân chúng nhiệt tình nghe theo lời Ngài, nhiều người đã trở thành sa môn. Quốc vương Ưu Đà Diên (Udayana) là một trong số những tín đồ thuần thành, Ngài cho phép con trai Rát-tra-ba-la (Rashtrapala) xuất gia theo đại chúng.

Tuy nhiên, cũng ngay tại thành Kiều-thưởng Di này mà Đức Thế Tôn đã gặp phải một trong những nỗi buồn da diết. Ngày nọ, một sa môn bị khiển trách về tội vi phạm một lỗi lầm nho nhỏ. Thầy không tự nhận lỗi nên bị phạt. Thầy lại không chấp nhận sự xử phạt, và vì thầy là người vui tính, thông minh lanh lợi, học rộng nhớ nhiều, nên có nhiều người theo phe thầy. Các thầy khác đã hoài công van xin thầy trở về chánh đạo.

Họ nói với thầy: "Đừng tỏ vẻ kiêu ngạo, đừng tự cho mình không vấp phải lỗi lầm. Hãy nghe lời chúng tôi. Hãy bày tỏ tâm tình với các thầy khác, vì họ cùng chung chí hướng thầy; họ cũng sẽ bộc lộ tâm tình với thầy, vì thầy cũng cùng một tín ngưỡng như họ. Nếu như các thầy nghe lời nhau, giáo hội sẽ lớn mạnh, giáo hội sẽ hưng thịnh."

Thầy ấy đáp: "Tôi không cần thầy dạy tôi những điều phải trái. Xin đừng trách tôi".

"Đừng nói thế. Ngôn ngữ của thầy không hợp với giáo pháp. Thầy đanh đi ngược với giới luật; thầy đang gieo cấy mầm mống bất hòa trong giáo hội. Đi thầy, hãy sửa lại phong cách ăn ở. Hãy sống an hòa với đại chúng. Hãy tránh cãi vã, hãy thành tín với giáo pháp".

Vô ích! Đại chúng quyết định trục xuất kẻ ương ngạnh, nhưng, một lần nữa, thầy ấy vẫn không nghe. Thầy ấy vẫn còn trong giáo hội: thầy ấy ngu muội quá, khỏi cần phải xử phạt gì nữa.

Cuối cùng, Đức Thế Tôn đã đứng ra thu xếp. Ngài cố gắng khuyên giải các thầy sa môn; Ngài cầu mong các thầy hãy quên đi bao nỗi bất hòa, hãy cùng nhau tu tập êm đềm như xưa, nhưng chả ai để ý đến Ngài. Rồi một hôm, một sa môn còn bạo dạn đến bạch Phật:

"Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy để yên, xin đừng nói gì cả. Ngài đã giác ngộ chánh pháp, xin Ngài hãy định tâm vào chánh pháp. Ngài sẽ an vui trong cảnh định. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ biết hướng đi của chúng tôi; chúng tôi tranh cãi nhưng không phải không tìm ra phương hướng. Ngài hãy thiền định và xin đừng nói gì cả".

Đức Thế-Tôn không hề nổi giận. Ngài cố khuyên giải nhưng không được. Ngài thấy là Ngài không thể thuyết phục được các sa môn ở Kiều thưởng di; họ hình như bị một vài cơn điên đột khởi nào đó dẫn dắt. Đức Thế Tôn quyết định từ giã họ, nhưng trước tiên Ngài nói với họ:

"Hạnh phúc thay cho ai có được người bạn chân tình; hạnh phúc thay cho ai có được người bạn sáng suốt. Chướng ngại nào mà hai bạn tài đức không thể vượt qua? Người không có bạn tâm giao khác nào vua không có đất nước: phải lang thang phiêu bạt trong cô đơn hiu hắt như thớt voi già trong cánh rừng hoang. Nhưng thà đi một mình còn hơn là chung sống với kẻ ngu muội. Người trí phải một đường một bóng; người trí phải tránh xa ác đạo; người trí phải giữ gìn thanh tịnh như thớt voi già trong cánh rừng hoang."

Ngài ra đi. Không ai cố gắng giữ Ngài lại. Ngài đến một ngôi làng mà Ngài biết là Ngài sẽ tìm ra Bờ-ri-gu, một môn đệ của Ngài, Bờ -ri-gu rất sung sướng gặp lại Ngài và Đức Thế Tôn cũng được an ủi bội phần. Sau đó, A-nậu-lâu Đà, Nan Đà và Kim-tỳ-la cùng theo Ngài. Họ hết lòng cung kính và an ủi Ngài, họ cùng nhau chung sống êm đềm. Đức Thế Tôn nghĩ: "Trong giới đệ tử của ta, ít ra cũng có một số yêu quí ta và thuận hòa như thế."

Một hôm, nhân lúc ngồi nghỉ mát dưới một tàng cây, Ngài chợt nhớ lại những phút giây xáo trộn ở Kiều-thưởng Di thì có một đàn voi dừng chân để nghỉ gần đó. Voi chúa xuống sông lấy nước mang về cho những voi khác. Chúng uống no nê; rồi thay vì cảm ơn voi chúa đã lấy nước cho uống, chúng lại ngược đãi nó, chúng vung vòi đánh đập nó, và cuối cùng, chúng đuổi nó đi. Đức Thế Tôn thấy tình cảnh của Ngài chả khác gì tình cảnh của voi chúa kia: cả hai đều là nạn nhân của sự vô ơn bạc nghĩa thô bạo. Voi chúa nhận thấy nét buồn hiện rõ trên khuôn mặt Ngài, nó đến gần, nhìn Ngài một cách trìu mến; rồi nó lặng lẽ bỏ đi, đi tìm thức ăn nước uống cho Ngài.

Đức Thế Tôn sau cùng trở về Xá-vệ và an trú tại Kỳ-viên.

Nhưng Ngài vẫn đau buồn nghĩ đến các sa môn thô ác ở Kiều-thưởng Di. Rồi, bỗng dưng, một hôm nọ, Ngài thấy họ vào Kỳ-viên. Trông họ âu sầu thê thảm: họ không được mọi người cúng dường, ai ai cũng phẫn uất về sự ngược đãi Đức Thế Tôn của họ. Họ đến để xin Ngài tha lỗi. Vị sa môn phạm tội cũng tự sám hối lỗi lầm của mình, và hình phạt của thầy cũng nhẹ nhàng thôi. Các bạn thân sơ của thầy đều nhận khuyết điểm. Mọi người tuyên hứa nghiêm trì giới luật. Đức Thế Tôn hoan hỷ lắm: giáo hội không còn ồn ào rạn nứt nữa.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12992 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 03:00 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 46
Phật Thuyết Phục Trâu Điên



Đức Thế Tôn rời Kỳ-viên. Ngài dừng chân tại các thành thị, thôn quê để thuyết giảng giáo pháp, nhiều người đã bày tỏ lòng tín ngưỡng chân thành và xin qui y Ngài.

Một hôm, có một cặp vợ chồng già thỉnh Đức Thế Tôn thọ trai với họ.

Cụ Ông nói: "Bạch Đức Thế Tôn, chúng con đã từ lâu ước mong nghe được lời Ngài. Giờ đây chúng con sung sướng lắm, chúng con sẽ hiểu rõ những sự thật cao quí, và trong số thân hữu của Ngài, Ngài sẽ thấy mấy ai thuần thành hơn chúng con."

Đức Phật đáp: "Ta không lấy gì làm ngạc nhiên, ngươi và ta đã là bà con thân thích ở nhiều đời nhiều kiếp."

Cụ bà nói: "Bạch Đức Thế Tôn, chồng con và con đã sống với nhau từ thuở còn xuân; nay thì chúng con đã đến tuổi chín mùi. Cuộc sống đã thắt chặt tình yêu nồng thắm của chúng con. Chưa bao giờ chúng con có đến một lời to tiếng. Chúng con vẫn yêu nhau như ngày còn son trẻ, và bóng chiều tàn của đời chúng con vẫn ngọt ngào như ánh bình minh vừa ló dạng. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài cứu độ chúng con ở kiếp sau cũng yêu nhau tha thiết như ở kiếp này."

Đức Thế Tôn nói: "Được rồi; chư thiên đã che chở các ngươi!"

Ngài tiếp tục lên đường. Ngài thấy một cụ bà đang xách nước ở một cái giếng bên lề đường. Ngài đến gần bà và nói:

"Ta khát lắm, cụ vui lòng cho ta uống một ít nước được không?"

Cụ bà trố mắt nhìn Ngài. Bà xúc động vô vàn. Bà rưng rưng muốn khóc. Bà muốn ôm hôn Đức Thế Tôn, nhưng bà sợ. Nước mắt chảy dài trên hai gò má nhăn nheo của bà.

Đức Thế Tôn nói: "Hãy ôm hôn ta đi!"

Cụ bà chạy ôm choàng vào hai cánh tay của Ngài. Bà thều thào nói:

"Nay thì con có thể chết một cách sung sướng. Con đã gặp Đức Thế Tôn. Con đã được ôm hôn Ngài."

Ngài lại đi. Ngài đến một cánh rừng rộng bao la, tại đó có một bầy trâu sinh sống với bọn mục đồng. Trong số đó có một con lực lưỡng và hung hăng lắm. Nó chỉ chịu kẻ chăn nó, người lạ đến là nó tấn công ngay. Mỗi khi người lạ đến gần, nó gằm sừng xốc tới và thường gây thương tích trầm trọng cho người. Đôi lúc nó còn giết chết người ấy nữa.

Bọn mục đồng thấy Đức Thế Tôn đang bình thản đi tới, chúng la lên:

"Ai đi đó, hãy coi chừng! Đừng đến gần chúng tôi, ở đây có trâu dữ".

Thình lình, con trâu ngước đầu, khịt mũi khì khì; rồi nó gằm sừng nhào đến Đức Thế Tôn. Bọn mục đồng run cầm cập. Chúng kêu lên: "Bọn mình quát thế mà người ấy không nghe". Nhưng, bỗng nhiên, con vật đứng khựng lại; nó quì mọp trước mặt Đức Thế Tôn và le lưỡi liếm chân Ngài, đôi mắt nó hiện rõ nét van xin cầu khẩn.

Đức Thế Tôn âu yếm vuốt ve con trâu, Ngài nhỏ nhẹ nói với nó:

"Con hãy tự nhủ rằng mọi vật trên đời đều phù du ngắn ngủi, rằng an lạc êm đềm chỉ được thấy ở niết bàn. Đừng khóc. Hãy tin ta, hãy tin vào lòng từ bi lân mẫn của ta, rồi con sẽ hóa kiếp. Con sẽ không còn đầu thai giữa loài súc sanh, con sẽ được sanh lên cõi trời với các chư thiên."

Từ hôm đó, con trâu rất mực hiền ngoan. Còn bọn mục đồng thì hết lòng thán phục, cung kính cúng dường lễ vật Đức Thế Tôn. Chúng được Ngài trao truyền giáo pháp và trở thành những môn đệ trung kiên trong giới môn đệ trung kiên nhất của Ngài.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12991 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:59 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 45
Quỉ Kế Của Chiên Già


Trong lúc đó, quần chúng ra mặt khinh bỉ hẳn bọn ẩn sĩ gian ác mà Đức Phật đã vạch trần âm mưu lường gạt của chúng, ý định báo thù của chúng do đó mỗi ngày một thêm căng thẳng. Chúng cùng nhau xây dựng cơ sở gần Kỳ-viên, chúng ra sức ngày đêm rình rập, theo dõi các hoạt động của Phật và đồ chúng của Ngài. Nhưng tất cả đều vô ích; chúng không tìm đâu ra một kẻ hở tầm thường nhất để bôi nhọ giáo hội.

Cuối cùng, một ẩn sĩ nói với đồng bọn hắn:

"Chúng ta đã từ lâu quan sát hành vi của các sa môn này. Đạo hạnh của họ không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, chúng ta phải xúi giục quần chúng chống lại họ, ta đã có cách. Ta quen Chiến-già (Sinca), một thiếu nữ hấp dẫn lắm. Nàng rất có tài thực hiện quỉ kế. Nàng sẽ không từ chối giúp ta, uy danh Thích-Ca nay mai sẽ bị tan biến.

Bọn ẩn sĩ cho mời Chiến-Già đến.

Nàng hỏi: "Các Thầy gọi con có việc chi?"

"Con biết tên sa môn ở Ca-tỳ-la-vệ chứ, người được quần chúng Tôn thờ là Phật đó?"

"Chưa biết, nhưng con nghe nói tiếng tăm Ngài lừng lẫy lắm. Người ta bảo Ngài làm được vô số phép màu huyền diệu."

"Chiến-già, hắn là kẻ thù cay nghiệt nhất của các thầy. Hắn hạ nhục các thầy, hắn muốn tiêu diệt quyền năng của các thầy. Nào, con tin các thầy; hãy đến đây, hãy đứng về phía các thầy. Cô nào hàng phục được người chinh phục, cô ấy sẽ được vô vàn hãnh diện; cô ấy sẽ được vang danh trong giới nữ nhi, cô ấy sẽ được cả thế giới lên tiếng ca ngợi."

Chiến-già bị lời lẽ đường mật của bọn ẩn sĩ lôi cuống. Nàng tin chắc là mai đây Đức Phật sẽ bị Ô nhục, tên tuổi của Ngài sẽ bị nguyền rủa khắp mặt địa cầu.

Bấy giờ, ngày ngày nàng đến Kỳ viên, mỗi khi thấy tín đồ nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp sắp ra về, nàng diện một bộ đồ màu hồng rực rỡ, hai tay ôm một bó hoa. Và nếu có ai tình cờ hỏi nàng: "Cô đi đâu đó!" nàng đáp: "Việc gì đến người mà người hỏi?" Khi đến Kỳ viên, nàng chờ tới lúc vắng vẻ, chỉ còn một mình nàng; rồi thay vì vào trú xứ của Phật, nàng lại thẳng đến nơi cư ngụ của bọn ẩn sĩ gian ác. Nàng ngủ đêm tại đó, nhưng tảng sáng là nàng quay lại cổng Kỳ viên, đến khi gặp mặt tín đồ dậy sớm đi lễ Phật cúng dường thì nàng mới đủng đỉnh ra về. Và có ai hỏi: "Cô đi đâu về sớm thế?" nàng đáp: "Việc gì đến người mà người hỏi?"

Cuối tháng, nàng đổi cách trả lời. Chiều đến, nàng nói: "Tôi đến Kỳ-viên, nơi Đức Thế Tôn đang chờ tôi". Sáng ra, nàng nói: "Tôi vừa từ Kỳ-viên về, nơi tôi đã ngủ đêm với Đức Thế Tôn". Thế là một số người khờ khạo, nhẹ dạ tin nàng, nghi ngờ Đức Thế Tôn bất tịnh.

Sáu tháng sau, nàng lấy một khổ vải quấn quanh bụng. Người ta nghĩ: "Nàng có thai". Và bọn người nông cạn đần độn kia khăng khăng cho rằng đạo hạnh của Đức Thế Tôn chỉ là sự giả vờ.

Chín tháng trôi qua, nàng nịt một trái banh gỗ ngay trước bụng, nàng đi đứng ra vẻ uể oải nặng nề. Cuối cùng, một hôm nọ, nàng vào thẳng giảng đường Đức Thế Tôn đang thuyết pháp. Nàng bạo dạn ngồi đối diện và cất tiếng sang sảng cắt ngang lời Ngài:

"Ngài thuyết giảng giáo pháp cho quần chúng lời lẽ ngọt như đường mật. Còn em, mang thai với Ngài, sắp làm mẹ trong nay mai, thì không có đến một nơi nằm chỗ! Ngay cả dầu mỡ em cần Ngài cũng lờ luôn. Nếu Ngài sợ xấu hổ không lo cho em thì ít ra Ngài cũng có thể gởi em cho một đệ tử nào của Ngài chứ; quốc vương Ba-tư-nặc, hay trưởng giả Cấp-cô Độc chẳng hạn. Nhưng không! Ngài chả đếm xỉa gì đến em, và cũng chả lo lắng gì cho đứa con sắp ra đời! Ngài chỉ biết vui hưởng ái tình mà cóc cần cưu mang trách nhiệm!"

Đức Thế Tôn thản nhiên hỏi: "Này Chiến-già, ngươi nói thật hay vu khống đó? Chỉ có ta và ngươi biết thôi."

Chiến-già gào lên: "Ngài biết rõ quá mà, em đâu có nói láo".

Đức Thế Tôn vẫn bình tĩnh. Chiến-già hầm hầm đứng phắt dậy và định xông đến Ngài, nhưng vì thở mạnh quá nên làm đứt sợi dây buộc trái banh gỗ. Trái banh rơi đạch xuống đất.

Đức Thế Tôn cười, nói: "Đó, con của ngươi sanh rồi đó!".

Đồ chúng giận dữ ùa đến Chiến-già. Họ nguyền rủa và định khạt nhổ nước bọt vào mặt nàng thì nàng cắm đầu chạy mất. Nàng vừa khóc, vừa đau, vừa nhục, vừa hận. Nàng cắm đầu chạy mà không biết chạy về đâu. Bỗng nhiên, lửa dữ bừng cháy hừng hực phủ trọn lấy thân nàng, và nàng, kẻ vu khống Phật, đã bị tàn rụi trong ngọn lửa ác nghiệt khủng khiếp

  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12990 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:59 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 44
Công Chúa Vi Ru Ba



Quốc vương Ba-tư-nặc có một ái nữ tên là Vi-ru-ba (Virupa). Nàng đã đến tuổi kết hôn. Không may, nàng xấu tệ; không một hoàng tử võ tướng nào chịu hỏi nàng làm vợ, ngay cả bọn thương gia cũng khinh rẻ nàng.

Bấy giờ có một khách lạ giàu có đến ngụ tại Tỳ-xá-li. Tên hắn là Găng-ga (Ganga). Quốc vương nghĩ: "Găng-ga chưa bao giờ thấy con gái ta. Có lẽ hắn sẽ không từ chối kết hôn với nàng". Vua triệu hắn đến hoàng cung.

Găng-ga được Ba-tư-nặc khen ngợi, ban tặng đủ thứ. Hắn thuộc dòng thứ dân, và tuy hắn là thương gia, hắn đã tích lũy được một tài sản kết sù, nhưng hắn chưa bao giờ mơ đến việc kết hôn với một công chúa. Vì thế, hắn sung sướng nhận lời.

Quốc vương nói: "Thế thì ngay tối nay, khanh hãy đến hoàng cung đưa ái nữ ta về nhà khanh".

Hắn vâng lời. Đêm tối như mực, hôn lễ diễn ra mà Găng-ga chả nhìn thấy dung nhan của vị hôn thê mình. Vi-ru-ba theo chồng về nhà.

Ngày hôm sau, Găng-ga nhìn vợ, vóc dáng xấu xí của nàng làm hắn giật mình. Hắn muốn tống cổ nàng ra khỏi nhà, nhưng hắn không dám, hắn sợ quốc vương trả thù. Hắn giữ nàng trong nhà, nhưng thật sự nàng là một tù nhân không hơn không kém; nàng không được phép ra ngoài dù bất cứ lý do gì.

Nàng đau khổ lắm. Nàng luôn luôn bày tỏ lòng thương yêu chân thành của nàng với chồng, nhưng vô ích; hắn ra mặt gớm guốc khinh bỉ nàng. Hắn không bao giờ nhìn nàng. Hắn không bao giờ động đến nàng nửa lời. Vi-ru-ba cảm thấy cô đơn lạc lõng.

Một hôm, Găng-ga được một số bạn bè mời dự tiệc. Hắn được báo là: "Ai đến mà không đưa vợ theo đều sẽ bị phạt 500 nén vàng."

Găng-ga quyết định tham dự; bữa tiệc sẽ làm dịu bớt phần nào cuộc sống tẻ nhạt buồn chán của hắn. Nhưng hắn không muốn trình diện Vi-ru-Ba với bạn bè; hắn sợ bị chế nhạo. Hắn nghĩ: "Thà trả 500 nén vàng còn hơn là chúng chế riễu ta."

Ngày hôm đó, Vi-ru-ba âu sầu hơn thường lệ. Nàng khóc, nàng biết chồng nàng đã đi đâu. Nàng tự nhủ:

"Tốt đẹp gì một cuộc sống ê chề như ta? Ta chưa bao giờ có được một niềm an ủi. Chồng ta ruồng rẫy ta. Ta nào có than phiền gì được chàng; ta xấu xí mà, ai ai cũng bảo ta xấu xí mà! Ta chả mang được niềm an vui gì đến cho ai. Ồ, ta tự hận lắm! chết còn sướng hơn là sống như thế này; chết được ngọt ngào hơn. Ta sẽ tự vận. "

Nàng lấy một sợi dây và tự treo cổ.

Ngay lúc đó, tại Kỳ-viên, Đức Thế Tôn thắc mắc: "Trong thành Tỳ-xá-li hôm nay có ai đau khổ thế? Ta có thể cứu khổ cho ai? Ta có thể giúp một tay cho kẻ nào bất hạnh?"

Nhờ oai lực nhiệm màu của Ngài, Ngài biết Vi-ru-ba đang đau khổ. Ngài đến nhà Găng-ga và vào nhà. Vi-ru-ba còn sống. Đức Thế Tôn mở sợi dây mà nàng đã tự buộc chặt vào cổ. Nàng thở mạnh và nhìn quanh. Nhận ra Đức Thế Tôn, nàng gieo mình đảnh lễ dưới chân Ngài. Ngài dạy:

"Này Vi-ru-ba, hãy nhìn vào gương xem."

Vâng lời, nàng nhìn vào gương. Nàng ngạc nhiên và sung sướng reo lên. Nàng đẹp như ngọc nữ của thiên thần. Nàng muốn đảnh lễ Phật một lần nữa, nhưng Ngài đã ra đi.

Trong lúc đó, Găng-ga đã sai lời giao hẹn khôi hài của bạn.

Họ hỏi hắn: "Tại sao cậu đến mà không đưa vợ theo? Bộ cậu sợ bọn này biết mặt vợ cậu sao? Nàng hẳn là đẹp lắm. Mày là thằng chồng ghen đáo để!"

Găng-ga lúng túng không biết trả lời thế nào. Bữa tiệc đã làm hắn phiền muộn. Một trong những người bạn đưa cho hắn một cốc rượu mạnh và nói:

"Găng-ga, uống đi mày! Bọn tao thì vui cười ha hả, còn mày thì lệ tuôn tầm tã. Đến đây mày! Hãy cười với bọn tao. Dzô! Rượu này sẽ dạy mày biết cười."

Đưa tay nâng cốc rượu, Găng-ga cạn chén. Hắn trở nên tươi vui linh hoạt hẳn ra. Hắn uống nữa. Bấy giờ hơi chuếnh choáng, hắn tiếp tục nâng cốc cho đến lúc ngủ vùi.

Bạn hắn bàn: "Trong khi nó đang ngủ, chúng ta hãy vội sang nhà nó. Chúng ta sẽ gặp vợ nó, chúng ta sẽ khám phá lý do tại sao nó không dám cho ai nhìn thấy mặt nàng."

Chúng vào nhà Găng-ga. Vi-ru-ba trên tay còn cầm chiếc gương; nàng đang say sưa ngắm nghía dung nhan của nàng. Mắt nàng sáng lên niềm hạnh phúc. Bọn khách thán phục nàng; chúng lặng lẽ trở ra; giờ thì chúng mình biết rõ máu ghen của Găng-ga rồi ".

Găng-ga vẫn còn ngủ. Chúng đánh thức dậy và nói:

"Bạn ơi, bạn có phúc nhỉ! Bạn đã làm gì mà chư vị thiên thần hoan hỷ ban cho bạn một cô vợ xinh đẹp hy hữu thế?"

Găng-ga thét lên: "Qúa lắm rồi nghe! Ông đã làm gì chúng bay mà chúng bay nhục mạ Ông ác thế?"

Hắn nổi giận bỏ đi ngay. Hắn tức chúng cành hông. Về đến nhà, hắn đạp tung cửa; hắn vừa đi vừa nguyền rủa ôm sòm qua các phòng; nhưng, đôi môi đang văng tục chửi thề của hắn bỗng nhiên khép lại. Hắn kinh ngạc, tái mét. Trước mặt hắn là một phụ nữ xinh đẹp tuyệt vời. Nàng đang đon đả tươi cười. Hắn từ từ hoàn hồn; rồi hắn cũng tươi cười hỏi:

"Ồ, em đứng trước mặt anh mà anh cứ tưởng là một nữ thần rực rỡ nào đó vừa từ hoa viên hiện đến, hỡi em yêu quí, ai đã làm em xinh đẹp như thế?"

Vi-ru-ba kể lại sự tình cho chồng nghe. Từ đó, nàng và chồng nàng nhận ra niềm hạnh phúc thật sự, họ tìm mọi cơ duyên để xin qui y Phật và bày tỏ lòng biết ơn của họ đối với Ngài.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12989 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:58 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 43
Kiều Nữ Xu Bờ Ra Ba


Ba tháng trôi qua, Đức Thế Tôn xuống trần gian và đi thẳng đến thành Tỳ-xá-li. Khi gần đến Kỳ-viên, Ngài gặp một thiếu nữ. Nàng là tỳ nữ của một phú hộ trong thành, hôm đó ông làm việc ở ngoài đồng. Nàng đang bê một thố cơm cho ông dùng bữa. Thấy Phật, nàng cảm thấy sung sướng lạ lùng.

Nàng nghĩ: "Đức Thế Tôn, đúng Đức Thế Tôn rồi. Ta được ngắm Ngài tận mắt; có lẽ ta được sờ Ngài tận tay, Ngài đến gần lắm rồi. Ồ, cúng dường lễ vật cho Ngài là nguồn vui thánh thiện biết bao! Nhưng ta chả có gì là của ta cả."

Nàng thở dài. Nàng đưa mắt nhìn xuống thố cơm:

"Cơm này. Phần ăn của chủ tạ.. Không một người chủ nào có thể bắt làm nô lệ kẻ đã là nô lệ. Ông có thể đánh đập ta, không hề gì! Ông có thể xiềng xích ta, cũng chả sao! ta sẽ nhẹ nhàng mang chịu tất cả. Ta sẽ cúng dường phần cơm này cho Đức Thế Tôn."

Nàng dâng thố cơm cho Phật. Ngài nhận cơm và tiếp tục lên đường đến Kỳ-viên. Thiếu nữ, mắt long lanh niềm sung sướng, đến gặp chủ của nàng.

Vừa thấy nàng, người chủ hỏi: "Cơm ông đâu?"

"Con cúng dường cho Phật rồi. Hãy phạt con nếu ông muốn, con sẽ không khóc; con rất sung sướng về điều mà con đã làm."

Ông không phạt nàng, ông cúi đầu nói:

"Không, ông sẽ không phạt con. Ông còn ngủ mê thì mắt con đã mở. Hãy đi đi! Con không còn là con bé nô lệ nữa."

Thiếu nữ cúi đầu thi lễ.

Nàng nói: "Ông đã cho phép, con sẽ đến Kỳ-viên, con sẽ xin Đức Thế Tôn thuyết giảng giáo pháp cho con."

Ông nói: "Hãy đi đi!"

Đến Kỳ-viên, nàng ngồi dưới chân Phật, và nàng đã trở thành một trong những nữ tu thánh thiện nhất trong hàng đại chúng.

Trong số những người cầu Phật thuyết pháp cùng lúc với thiếu nữ nô lệ này có Xu-bờ-ra-ba (Suprabha), ái nữ của một danh gia vọng tộc trong thành Tỳ-xá-li. Xu-bờ-ra-ba đẹp lắm. Thấy nàng là mê ngay, bao nhiêu thanh niên hào hoa phong nhã trong thành đều đeo đuổi nàng. Cha nàng thấy thế không ít lo ngại. Ông tự hỏi đi hỏi lại: "Ta sẽ gả ái nữ của ta cho ai? Kẻ nào ta từ chối, người ấy sẽ là kẻ thù cay nghiệt của ta."

Và mỗi lần tự hỏi như thế, ông lại trầm tư suy nghĩ hằng giờ.

Một hôm, Xu-bờ-ra-ba nói với ông:

"Thưa cha, hình như cha đang bực tâm bực trí điều gì. Có chuyện gì vậy thưa cha?"

Ông đáp: "Con à, chính con là mối lo ngại của cha. Có quá nhiều người ở thành Tỳ-xá-li muốn hỏi cưới con:"

Xu-bờ-ra-ba nói: "Cha đang lo chọn người cầu hôn cho con. Họ đáng thương lắm! Nếu họ biết rõ tâm tư của con! Thưa cha, đừng lo nữa. Cha bảo họ họp lại và cứ theo tập tục cổ truyền, con sẽ đi giữa họ, con sẽ tự chọn lấy một người chồng cho con."

"Con à, cha sẽ làm theo ý con."

Cha của Xu-bờ-ra-ba đến gặp quốc vương Ba-tư-nặc và được phép bảo sứ giả đi thông báo khắp thành.

"Trong bảy ngày nữa, sẽ tổ chức một cuộc họp mặt các thanh niên muốn cưới Xu-bờ-ra-ba. Thiếu nữ sẽ đích thân chọn chồng trong số thanh niên đó."

Đến ngày thứ bảy, nhiều kẻ cầu hôn tập trung trong một khu vườn lộng lẫy của phụ thân Xu-bờ-ra-ba. Nàng xuất hiện trong một cổ xe, trên tay cầm một lá cờ màu vàng có vẽ chân dung Đức Thế Tôn. Nàng đang cất tiếng hát ca ngợi Ngài. Họ ngạc nhiên nhìn nàng và tự hỏi:

"Nàng sẽ nói gì với chúng ta?"

Cuối cùng nàng bộc lộ tâm tình với các thanh niên:

"Ta không thể yêu ai trong các ngươi, nhưng đừng cho rằng ta cự tuyệt các ngươi. Ái ân không phải là mục tiêu trong lẽ sống của ta; ta muốn qui y Phật. Ta sẽ đến vườn Ngài cư ngụ, và Ngài sẽ thuyết giảng giáo pháp cho ta."

Đau buồn, các thanh niên lặng lẽ ra về, Xu-bờ-ra-ba đến kỳ viên. Nàng nghe Đức Thế Tôn giảng dạy, nàng được nhận vào giáo hội, và nàng trở thành một tỳ kheo ni tâm thành nhất.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12988 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:58 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 42
Phật Điểm Mặt Bọn Giả Dối



Từ Tỳ-xá-li, Đức Thế Tôn đến Xá-vệ, rồi Ngài đến Kỳ-viên. Một hôm, vua Ba-tư-nặc đến hầu thăm Ngài.

Quốc vương nói: "Bạch Đức Thế Tôn, mới đây có sáu ẩn sĩ đến Xá-vệ. Họ không tin giáo pháp của Ngài. Họ cho rằng tri kiến của Ngài không bằng họ, và họ ra sức làm con ngạc nhiên bằng những phép mầu kỳ lạ. Con nghĩ là lời lẽ của họ không đúng, nhưng, bạch Đức Thế Tôn, nếu như Ngài dẹp được tính táo bạo liều lĩnh của họ thì hay lắm. Việc giải thoát thế nhân tùy thuộc vào ánh vinh quang rực rỡ của Ngài. Xin Ngài hãy đối diện với bọn gian manh lường gạt đó và bắt chúng phải im ngay."

Đức Phật đáp: "Này quốc vương, hãy cho xây một tòa đại sảnh gần kinh thành. Hãy hoàn tất trong bảy ngày. Ta sẽ đến. Hãy triệu tập đông đủ các ẩn sĩ bịp bợm đó lại, và rồi quốc vương sẽ chứng kiến ai là người làm được những phép màu cao quí nhất, họ hay ta."

Quốc vương Ba-tư-nặc hạ lệnh xây gấp một đại sảnh đường.

Trong khi đợi đến ngày so tài, bọn ẩn sĩ láo khoét tìm cách đánh lừa các Phật tử thuần thành của Đức Thế Tôn, và những ai không nghe theo lời lẽ quái đãn của chúng thì phải chuốc lấy những hận thù cay nghiệt. Bấy giờ, Đức Thế Tôn không có người bạn thân nào ở Tỳ-xá-li hơn là hoàng tử Ca-la (Kala), em ruột của vua Ba-tư-nặc. Ca-la ra mặt khinh hẳn bọn ẩn sĩ, và chúng quyết định phục thù.

Ca-la là một hoàng tử hào hoa phong nhã. Một hôm, khi dạo qua vườn ngự uyển, chàng gặp một trong những vương phi của vua Ba-tư-nặc, nàng tinh nghịch ném vào người chàng một tràng hoa. Bọn ẩn sĩ hay tin đó, chúng báo với quốc vương là em trai của quốc vương đã cố tình quyến rũ một trong những vương phi của ngài. Quốc vương đùng đùng nổi giận, không để cho Ca-la có dịp phân bua, quốc vương hạ lệnh chặt hết tay chân của Ca-la.

Ca-la khốn nạn đau đớn vô vàn. Bạn bè thân thích vây quanh giường của chàng khóc than thê thảm. Một trong những tên ẩn sĩ quái ác chợt đi ngang qua.

Họ gọi hắn nói: "Mời ngài đến đây, xin ngài phóng rọi quyền năng. Ngài biết Ca-la vô tội chứ. Xin ngài cứu Ca-la với:"

Tên ẩn sĩ đáp: "Hắn tin tưởng thằng con của dòng Thích-ca thì bảo thằng con của dòng Thích-ca cứu nó."

Thế là Ca-la cất tiếng hát:

"Sao Đức Thế Tôn của nhân thế không thấy nỗi đau khổ của con? Chúng con xin kính lễ Ngài, người đoạn trừ hết mọi dục vọng: Chúng con xin tôn thờ Ngài, người xót thương vạn loại hữu tình."

A-nan bỗng nhiên hiện ra trước mặt chàng.

Tôn giả nói: "Này Ca-la, Đức Thế Tôn đã dạy ta những lời có thể hàn gắn vết thương của ngươi".

Tôn giả đọc vài câu kệ, tay chân của hoàng tử hoạt động lại như thường.

Chàng tán thán: "Từ nay về sau, ta sẽ hầu hạ Đức Thế Tôn! Dầu Ngài sai ta làm những việc hèn hạ đến đâu, ta cũng sẽ hoan hỷ làm đẹp lòng Ngài."

Chàng theo A-nan đến Kỳ-viên.

Đức Thế Tôn niềm nở đón nhận chàng vào giáo hội.

Đã đến ngày Đức Thế Tôn định so tài với các ẩn sĩ. Từ sáng sớm, quốc vương Ba-tư-nặc đã đến đại sảnh đường. Sáu ẩn sĩ đều có mặt tại đó. Họ trao đổi cho nhau bằng những ánh mắt và nụ cười hý hửng.

Một ẩn sĩ nói: "Tâu quốc vương, chúng tôi là những người đầu tiên đến nơi dự hội."

Một tên khác nói: "Ngài thiết tưởng kẻ mà chúng tôi đang mong đợi có thật sự đến không?"

Quốc vương nói: "Này các ẩn sĩ, không nên khinh suất người ấy. Qúi vị biết là Ngài đã phái một trong các môn đệ của Ngài đến chữa cho em ta như thế nào, người mà ta đã trừng phạt bất công đó. Ngài sẽ đến. Có lẽ Ngài đến đây rồi, trước mặt mọi người mà chả ai hay biết."

Quốc vương vừa nói xong, một vầng mây trắng bao phủ cả nhà. Đám mây càng lúc càng trắng, và dần dần tan biến thành ánh sáng ban ngày, Đức Phật xuất hiện trong ánh hào quang rực rỡ; phía sau Ngài là A-nan và Ca-la. A-nan trên tay cầm một hoa hồng, Ca-la cầm một hoa vàng, và trong khắp các hoa viên ở Tỳ-xá-li, chưa ai thấy hai đóa hoa kỳ diệu như thế bao giờ.

Vua Ba-tư-nặc thán phục vô vàn. Bọn ẩn sĩ lếu láo không dám cười đùa nữa.

Đức Thế Tôn nói:

"Đom đóm tỏa ánh sáng cho mọi người thấy chỉ khi nào mặt trời lặn, nhưng khi ánh sao vằng vặc xuất hiện thì đom đóm khốn nạn kia liền dập tắt ánh sáng hiu hắt của nó ngay. Bọn giả dối chỉ ồn ào trong lúc Phật im lặng, nhưng khi Phật lên tiếng thì chúng lại sợ khóc và im ngay."

Bọn ẩn sĩ bị báo động. Thấy quốc vương nhìn chúng bằng ánh mắt khinh bỉ, chúng cả thẹn cúi đầu.

Bỗng nhiên, mái tòa đại sảnh biến mất,trên vòm trời cao, Đức Thế Tôn vạch một đường dài từ đông sang tây, Ngài đi trên đó. Thấy pháp màu huyền diệu này, tên đối thủ hỗn láo nhất của Ngài sợ hãi trốn mất. Hắn tưởng tượng một bầy chó săn đang gào thét đuổi theo hắn, hắn cắm đầu chạy riết đến một bờ hồ. Tại đó, hắn cột một hòn đá vào cổ và gieo mình xuống nước. Một ngư phủ thấy xác hắn ngày hôm sau.

Trong lúc đó, Đức Thế Tôn tự phân thân ra hai hình ảnh giống nhau và cùng đi song song với nhau trên đoạn đường thiên giới. Người ta nghe thấy âm vang của Ngài vọng xuống.

"Hỡi các đệ tử của ta, ta sắp lên đến quốc độ của chư thiên. Ma Da, mẫu hậu của ta đã gọi ta; ta phải thuyết giảng giáo pháp cho người. Ta sẽ ở lại với người trong ba tháng. Nhưng, ngày ngày, ta sẽ xuống lại trần gian, và chỉ có Xá-lợi-phất là biết ta ở đâu. Xá-lợi-phất sẽ hướng dẫn đại chúng tu tập theo giáo pháp của ta. Trong khi ta vắng bóng ở bầu trời, tức là ta sẽ đi với mẫu thân ta, ta sẽ thuyết giảng giáo pháp cho người; đây là hình ảnh phân thân của ta."


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12987 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:57 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 41
Ma Ha Ba Xà Ba Đề Được Vào Giáo Hội



Ma-ha Ba-xà-ba Đề mãi trầm tư suy nghĩ. Bà nhận thấy sự vô vị trống rỗng của cõi đời này. Bà muốn thoát khỏi hoàng cung, thoát khỏi kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, và sống một cuộc đời thánh thiện.

Bà nghĩ: "Đức Thế Tôn hạnh phúc biết bao! Đồ chúng của Ngài hạnh phúc biết bao! Tại sao không thể làm như họ? Tại sao ta không thể sống như họ? Nhưng họ lại khước từ phụ nữ. Chúng ta không được chấp nhận vào giáo hội, ta phải lưu lại kinh thành ảm đạm này, ta phải lưu lại hoàng cung thê lương này; ta bơ vơ lạc lõng, dưới mắt ta, tất cả đều trống rỗng!".

Bà đau khổ. Bà vất hết xiêm y sang trọng; bà phân phát châu báu ngọc ngà cho các thị nữ, bà khiêm tốn giản dị trước mặt mọi loài.

Một hôm, bà tự nhủ:

"Đức Thế Tôn từ bi lắm, Ngài sẽ thương xót tạ Ta sẽ đến gặp Ngài, và biết đâu Ngài sẽ tiếp nhận ta vào giáo hội".

Đức Thế Tôn đang trú tại một cánh rừng gần thành Ca-tỳ-la-vệ. Ma-ha-ba-xà-ba Đề đến gặp Ngài, bà rụt rè thưa:

"Bạch Đức Thế Tôn, chỉ có Ngài và môn đệ của Ngài là thật sự hạnh phúc. Còn con, giống như Ngài và mọi người theo Ngài, con muốn đi trên con đường giải thoát. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho con được vào giáo hội."

Đức Thế Tôn im lặng. Bà tiếp:

"Làm sao con có thể an vui hạnh phúc trong một thế giới mà con ngao ngán ê chề? Con đã thấy rõ những hoan lạc hào nhoáng của nó. Con muốn đi trên con đường giải thoát. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho con được vào giáo hội. Con biết có nhiều phụ nữ cũng muốn theo gương con. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho chúng con được vào giáo hội."

Đức Thế tôn vẫn im lặng. Bà tiếp:

"Hoàng cung của con nay tẻ nhạt u buồn lắm. Kinh thành bị bao trùm trong một màn đen tối. Những tấm vải thêu sặc sỡ chỉ đè nặng lên vầng trán con; vương miện, vòng kiềng chỉ làm con thêm đau nhói. Con phải đi trên con đường giải thoát. Biết bao phụ nữ nhiệt tình, biết bao phụ nữ thuần thành đang sẵn sàng nối gót con. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho phụ nữ được vào giáo hôi."

Đến lần thứ ba, Đức Thế Tôn vẫn im lặng.

Ma-ha-ba-xà-ba Đề trở về hoàng cung u tối với hai hàng nước mắt ròng ròng.

Nhưng bà không bỏ cuộc. Bà quyết tâm đến gặp Đức Thế Tôn một lần nữa để van xin Ngài.

Bấy giờ Ngài an trú trong một khu rừng rộng bao la gần thành Tỳ-xá-lỵ Ma-ha-ba-xà-ba Đề tự cắt tóc, khoác lên mình một chiếc y thô sơ màu ngà, bà lên đường đến thành Tỳ-xá-lỵ.

Bà làm cuộc hành trình bằng chân không; bà không hề than phiền mỏi mệt. Bụi bám đầy người, cuối cùng bà đến ngay tịnh xá Đức Thế tôn đang nhập định. Bà không dám vào; bà đúng khóc sướt mướt ngoài ngõ. A-nan chợt đi ngang qua, nhìn thấy bà và hỏi:

"Thưa hoàng hậu, vì sao hoàng hậu đến đây; lại ăn mặc như thế này? Tại sao hoàng hậu lại đứng trước của tịnh xá của Đức Thế Tôn?"

"Ta không dám vào diện kiến Ngài. Đã ba lần Ngài từ chối lời thỉnh nguyện của ta, hôm nay ta đến cầu xin Ngài một lần nữa: Xin Ngài hoan hỷ cho ta, cho giới phụ nữ được vào giáo hội."

A-nan vào tịnh xá, gặp Đức Thế Tôn, bạch rằng:

"Bạch Đức Thế Tôn, Ma-ha-ba-xà-ba Đề, hoàng hậu kính yêu của chúng ta, đang đứng trước cổng tịnh xá của Ngài. Bà không dám gặp Ngài, bà sợ Ngài sẽ khước từ lời thỉnh nguyện của bà một lần nữa. Bạch Đức Thế Tôn, đó đâu phải là lời thỉnh nguyện của một phụ nữ điên rồ, bà không đáng cho Ngài ban ân huệ sao? Hoàng hậu đã một thời là di mẫu của Ngài; lúc nào bà cũng thương yêu chăm sóc Ngài; bà thật xứng đáng được Ngài chiếu cố. Vì sao Ngài dứt khoát không chấp nhận phụ nữ vào giáo hội? Có nhiều phụ nữ rất mực thuần thành, có nhiều phụ nữ can đảm nghiêm trì đường hướng thánh thiện lắm chứ."

Đức Thế Tôn nói: "Này A-nan, đừng cầu xin ta cho phép phụ nữ vào giáo hội."

A-nan cáo lui. Hoàng hậu đang mong gặp A-nan.

Bà lo lắng hỏi: "Đức Thế Tôn nói sao?"

"Ngài khước từ lời thỉnh nguyện của hoàng hậu. Nhưng đừng thất vọng."

Ngày hôm sau, đến gặp Đức Thế Tôn, A-nan thưa:

"Ma-ha-ba-xà-ba Đề không chịu ra về. Bà đang nghĩ đến những ngày dài hạnh phúc của thời bà còn son trẻ. Lúc đó Ma Da còn sống; Ma Da, người phụ nữ diễm kiều nhất; Ma Da, người đã hạ sanh một bé trai. Em gái của Ma Da là người rất cao thượng; bà không hề ganh tị: bà yêu thương ngay cả trước khi bé mở mắt chào đời. Đến khi bé ra đời, mang nguồn vui đến cho tất cả chúng sanh thì hoàng hậu khuất núi. Ma-ha-ba-xà-ba Đề đã sớm hôm chăm sóc đứa bé mồ côi mẹ đó: bé hình như non nớt lắm. Bà đùm bọc che chở bé; bà tận tụy nuôi dưỡng bé, bà bồng bế bảo hộ bé khỏi bị ảnh hưởng của bọn tỳ nữ ác tâm; bà hết lòng trông nom chiều chuộng bé. Đến khi bé lớn lên, bà vẫn không rời bé. Bà đoán biết những sở thích vụn vặt nhất của bé; bà tôn thờ bé, người đã đạt đến nguồn hạnh phúc tối thượng. Người là cây đại thọ che mát các bậc hiền đức cao minh; và giờ đây, khi bà muốn tìm một nơi an trú khiêm tốn dưới bóng cây đại thọ của người thì ước vọng bình dị an lành đó lại bị từ chối. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài độ lượng, xin Ngài hoan hỷ thâu nhận Ma-ha-ba-xà-ba Đề vào giáo hội."

Đức Thế Tôn đắn đo suy nghĩ, rồi trịnh trọng phán rằng:

"Này A-nan, hãy lắng nghe. Hãy đi gặp Ma-ha-ba-xà-ba Đề và nói với bà rằng ta sẵn lòng đón nhận bà vào giáo hội, nhưng với điều kiện là bà phải chấp nhận một số giới luật nghiêm khắc. Đây là giới luật mà ta buộc giới phụ nữ phải vâng giữ khi vào giáo hội; một tỳ kheo ni, dù đã trải qua trăm hạ, cũng phải đứng dậy cung kính trước sự hiện diện của một tỳ kheo tăng, dù cho vị ấy mới vào đạo được một ngày; tỳ kheo ni phải đến gặp tỳ kheo tăng để phát lồ sám hối những điều lỗi lầm và để cầu xin giáo thọ; tỳ kheo ni phạm trọng tội, trước mặt đại chúng tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni, phải được xử phạt thích đáng trong vòng mười lăm ngày; trước khi tỳ kheo ni được nhận vào giáo hội, đức hạnh và chí hướng của họ phải được thử thách trong một giai đoạn là hai năm; tỳ kheo ni không được khích động tỳ kheo tăng. Đây là giới luật buộc tỳ kheo ni phải giữ cùng với những giới luật đã được áp dụng cho tỳ kheo tăng."

Ma-ha-ba-xà-ba Đề sung sướng tuyên hứa nghiêm giữ giới luật. Bà gia nhập giáo hội, và chỉ trong vài tháng sau, nhiều phụ nữ đã nối tiếp theo gương bà.

Nhưng rồi, một hôm, Đức Thế Tôn nói với A-nan:

"Này A-nan, nếu không chấp nhận phụ nữ vào giáo hội, chúng ta có thể duy trì sự tinh khiết trong một thời gian dài, và chánh tín có thể tồn tại, vững mạnh, thanh tịnh cả ngàn năm. Nhưng, này A-nan, nay chấp nhận phụ nữ vào giáo hội, sự tinh khiết đó rồi sẽ bị hoen ố và chánh tín, dù vững mạnh tới đâu, cũng sẽ chỉ tồn tại trong khoảng 500 năm."


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12986 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:57 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 40
Vua Tịnh Phạn Thăng Hà


Gần thành Tỳ-xá-lỵ (Vaisali) có một khu rừng rộng bao la mà người ta đã cúng dường cho Đức Thế Tôn. Trong khi Ngài lưu ngụ tại đó thì có tin báo là phụ hoàng của Ngài, quốc vương Tịnh Phạn, ngã bịnh. Quốc vương già lắm, bịnh tình nguy ngập, rằng quốc vương sắp qua đời. Đức Thế Tôn quyết định về thăm phụ hoàng. Ngài lên đường về thành Ca-tỳ-la-vệ.

Quốc vương nằm buồn hiu trên giường bệnh. Ngài thở thoi thóp, cái chết sắp cận kề. Nhưng khi nhìn thấy con mình, ngài hoan hỷ vui cười. Đức Thế Tôn nói:

"Tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã đi được một đoạn đường dài, hoàng thượng lúc nào cũng nổ lực làm việc thiện. Hoàng thượng chưa từng để tâm đến những ham muốn đê hèn, lòng dạ của hoàng thượng không bao giờ cưu mang thù hận và sân nhuế cũng không bao giờ làm đen tối được đầu óc của ngài. Hạnh phúc thay cho ai ra đời để làm việc thiện! Hạnh phúc thay cho ai nhìn xuống hồ nước trong xanh và thấy được dung nhan tinh khiết của mình. Nhưng hạnh phúc hơn nữa là ai tự quán sát tâm trí và thấy nó thanh tịnh hoàn toàn! Tâu hoàng thượng, tâm trí của hoàng thượng thanh tịnh lắm, việc ra đi của hoàng thượng cũng bình thản êm đềm như buổi chiều tàn của một ngày nắng đẹp".

Quốc vương nói: "Bạch Đức Thế Tôn, ta đã nhận ra lẽ vô thường của thế gian. Ta đã quét sạch mọi dục vọng, ta đã giải thoát hết mọi xiềng xích của cuộc đời".

Một lần nữa, quốc vương đảnh lễ Phật. Rồi ngài quay sang đám trung thần đã có mặt đầy đủ trong điện, ngài nói:

"Các bạn, hẳn ta đã nhiều lần làm phiền các bạn, nhưng các bạn chưa bao giờ tỏ vẻ ác cảm với ta. Các bạn nhân từ tốt bụng lắm. Trước khi ta vĩnh biệt các bạn, mong các bạn hãy tha thứ cho ta. Những gì ta hành xử sai lầm, mong các bạn bỏ qua cho; hỷ xả cho ta nghe các bạn!".

Đám quần thần khóc rống lên, họ thì thào:

"Không, tâu bệ hạ, bệ hạ không bao giờ làm phiền lòng hạ thần!".

Tịnh Phạn vương nói tiếp:

"Còn khanh, hỡi Ma-ha-ba-xà-ba Đề, ái khanh đã là bạn hiền trăm năm của ta, ta đã thấy ái khanh khổ lụy nhiều rồi, ái khanh hãy trấn tỉnh đau buồn. Việc ra đi của ta là một sự giã biệt hạnh phúc. Hãy nghĩ đến sự vinh quang cao quí của người con mà ái khanh đã dày công nuôi nấng này; hãy sung sướng ngắm nhìn ánh hào quang rực rỡ của Ngài".

Quốc vương thăng hà, Mặt trời tắt hẳn.

Đức Thế Tôn nói:

"Hãy nhìn thi thể của phụ hoàng ta xem. Ngài không còn là ngài nữa. Chưa có ai chinh phục được cái chết. Có sinh ắt có tử, hãy đem hết tâm tư tình cảm ra làm việc thiện; hãy đi trên lộ trình dẫn đến trí tuệ. Hãy làm một ngọn đèn trí tuệ, và bóng tối sẽ tan biến vào ánh sáng của nó. Đừng chạy theo ác pháp, đừng vun trồng gốc rễ độc hại; đừng tạo thêm ác trược trên cõi đời này. Kẻ ngu muội lẫn tránh giáo pháp, một khi rời vào hang động của tử thần thì kêu gào than khóc; cũng như phu xe từ bỏ đường quang, chạy vào hiểm lộ gồ ghề, thấy trục gãy bánh rơi mà đấm đầu mếu máo. Người trí là ngọn đuốc soi sáng cho người ngu; người trí dẫn đường cho nhân loại, bởi vì người trí có mắt thấy xa, người khác chả thấy gì cả".

Thi thể của quốc vương được đưa đến một đống củi hỏa táng khổng lồ. Đức Thế Tôn châm lửa, và trong lúc những ngọn lửa hồng phủ kín lên thi thể của phụ hoàng, trong lúc thần dân ở Ca-tỳ-la-vệ đang khóc than thương tiếc, thì Ngài lập lại những sự thật cao quí này:

"Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ. Ồ, khát vọng là mãi mãi sanh tử luân hồi! Khát vọng quyền lực, khát vọng lạc thú, khát vọng sinh tồn, khát vọng là nguồn gốc của mọi đau khổ! Ồ, mọi khát vọng ác trược thánh nhân thấy rõ, các ngươi chưa thấy, thánh nhân dập tắt hết mọi dục vọng, thánh nhân chỉ biết có con đường Bát Chánh".


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12985 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:55 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 39
Tính Kiêu Mạn Của Nan Đà



Đức Thế Tôn hoan hỷ thấy một số bà con thân thích cùng ở trong hàng môn đệ, Ngài đưa hết đến Trúc-Lâm.

Tại đó, chỉ có Nan Đà đáng thương là đau khổ. Chàng lúc nào cũng nghĩ đến Tôn Đà-lỵ; nàng lúc nào cũng vấn vương trong tâm tư mộng tưởng của chàng, chàng ân hận là đã từ giã nàng. Đức Phật hiểu được nỗi khổ đau dằng vặt của Nan Đà, Ngài quyết định chữa trị cho chàng.

Một hôm, ngài dắt tay chàng đến một gốc cây có một con khỉ gớm guốc ngồi trên đó.

Ngài nói: "Hãy nhìn con khỉ kìa, nó chả đẹp gì cả phải không?"

Nan Đà đáp: "Con ít khi thấy con khỉ nào xấu xí như thế."

Đức Thế Tôn nói: "Thật sao? Nhưng nó giống hệt Tôn Đà-lỵ, vị hôn thê trước kia của ngươi".

Nan Đà thét lên: "Ngài nói sao? Ngài muốn nói con khỉ này giống Tôn Đà-lỵ, một công chúa duyên dáng, xinh đẹp sao?"

"Chứ khác gì, Tôn Đà-lỵ khác gì? Cả hai không phải là giống cái? Cả hai không phải là khơi dậy lòng dục vọng của giống đực? Ta tin là ngươi sẽ sẵn sàng từ bỏ con đường thánh thiện để chạy vào vòng tay siết chặt của Tôn Đà-lỵ, cũng như trong khu rừng này, tại một nơi nào đó, có một con khỉ đực bị dục tình mãnh liệt của con khỉ cái này khêu gợi đến độ mê mẫn điên cuồng. Cả hai rồi sẽ già nua, lụ khụ; còn ngươi cũng như con khỉ đực nào đó, sẽ tự thắc mắc không biết điều gì đã làm mình điên rồ ngu dại như thế. Cả hai rồi sẽ chết, riêng ngươi và con khỉ đực nào đó có lẽ rồi sẽ nhận ra sự trống rỗng vô vị của lòng ái dục. Tôn Đà-lỵ chả khác gì con khỉ cái này".

Nhưng Nan Đà không nghe. Chàng thở dài. Chàng mơ thấy Tôn Đà-lỵ mảnh mai, duyên dáng đang thư thả dạo quanh trong một khu vườn đầy hoa rực rỡ.

Đức thế tôn lên giọng sai khiến: "Hãy cầm lấy chéo y của ta!".

Nan Đà vâng lời. Chàng cảm thấy mặt đất ở dưới chàng bỗng nhiên sụp xuống, một trận cuồng phong quét chàng lên tận trời xanh. Khi rút chân lên, chàng thấy mình đang ở trong một công viên tuyệt diệu. Chàng đang dạo bước trên một con đường vàng ròng, hoa lá toàn là các thứ châu báu làm bằng hồng ngọc và bích ngọc thơm ngát.

Đức Thế Tôn nói: "Ngươi đang ở trên cung trời Đao-lợi, hãy mở mắt u tối ra mà xem".

Nan Đà thấy một căn nhà bằng bạc sáng choang được vây quanh bởi một cánh đồng lưu ly rực rỡ. Một tiên nữ kiều diễm hơn Tôn Đà-lỵ đang đứng tại cửa. Nàng mỉm cười. Ngây ngất vì dục vọng, Nan Đà chạy bổ đến nàng, nhưng nàng bất thần hoa tay chận chàng lại.

Nàng nói: "Nan Đà, hãy thanh tịnh trên cõi đời này, hãy giữ lời thệ nguyện. Sau khi qua đời, ngươi sẽ được tái sanh tại đây, rồi ngươi sẽ đến trong vòng tay ân ái của ta".

Tiên nữ biến mất, Nan Đà và đức Thế Tôn trở lại trần gian.

Nan Đà quên hẳn Tôn Đà-lỵ. Chàng bị ám ảnh bởi một cảnh trí thơ mộng mà chàng đã nhìn thấy trên vườn thiên đàng, và cũng chính vì yêu thương tiên nữ mà giờ đây chàng quyết tâm sống đời phạm hạnh"!.

Tuy thế, các thầy sa môn vẫn nhìn chàng bằng cái nhìn rẻ rúng. Họ mặc tẩn chàng; nhưng mỗi khi gặp chàng trong rừng Trúc-lâm, họ thường biểu môi khinh bỉ chàng. Chàng cảm thấy đau buồn. Chàng nghĩ: "Các thầy hình như có ác cảm với ta; ta thử hỏi tại sao?" Một hôm, thấy A-nan đi ngang qua, chàng lại hỏi:

"Tại sao các thầy sa môn lẩn tránh ta? Tại sao ngươi không hỏi han trò chuyện gì với ta nữa? Trước kia, tại thành Ca-tỳ-la-vệ, chúng mình là bạn và cũng là bà con thân thích. Ta đã làm gì xúc phạm đến các người?"

A-nan đáp: "Anh tệ lắm! Chúng tôi luôn luôn trầm tư về những sự thật cao quí, còn anh lúc nào cũng tơ tưởng đến vẻ đẹp của một tiên nữ, Đức Thế Tôn không cho chúng tôi tiếp xúc với anh".

A-nan bỏ đi.

Nan Đà vô cùng ân hận. Chàng chạy đến Đức Thế Tôn, quì mọp dưới chân Ngài khóc nức nở. Đức Thế Tôn nói:

"Này Nan Đà, những ý nghĩ của con tồi tệ lắm. Con là kẻ nô lệ của tình cảm con. Trước kia là nô lệ cho Tôn Đà-lỵ, bây giờ là nô lệ cho một tiên nữ, kẻ đã làm cho đầu óc con xoay chiều. Con sẽ bị luân hồi. Con muốn tái sanh giữa cảnh chư thiên sao? Ngu xuẩn lắm! Phù phiếm lắm! Này Nan Đà, hãy nổ lực đạt đến trí tuệ; hãy nghe theo lời dạy của thầy, hãy diệt trừ những đam mê cuồng loạn đó đi".

Suy tư nghiền ngẫm về những lời dạy của Phật, Nan Đà trở thành một đệ tử thuần phác nhất, dần dần chàng thanh tẩy được tâm hồn. Tôn Đà-lỵ không còn lảng vảng trong tâm tưởng của chàng nữa, và giờ đây, mỗi khi nghĩ đến tiên nữ, chàng lại buồn cười cho cái ý niệm muốn làm thần thánh chỉ vì nàng. Một hôm, chàng thấy trên ngọn cây có một con khỉ gớm guốc đang nhìn chàng, chàng lên giọng hãnh diện nói:

"Ê, Tôn Đà-lỵ không duyên dáng bằng ngươi; ê, so với tiên nữ kiều diễm nhất thì ngươi còn xinh hơn nữa kìa!".

Chàng tự hào là đã chế ngự được lòng ái dục của mình. Chàng tự nhủ: "Ta là thánh thật rồi, về đức hạnh, ta sẽ không còn thua kém gì với sư huynh của ta nữa".

Chàng tự may cho chàng một chiếc y cùng kích thước như y của Đức Thế Tôn. Thấy chàng đi từ xa, các thầy sa môn nói:

"Đức Thế Tôn đến kìa, chúng ta đứng lên chào Ngài".

Nhưng khi Nan Đà đến gần, họ thấy là họ lầm. Họ ngượng ngùng ngồi xuống và nói:

"Trong khi chúng ta ở đây thì cậu ấy đâu có ở trong hàng đại chúng; tại sao chúng ta phải đứng lên chào cậu ấy?"

Nan Đà hý hửng thấy các sa môn đứng lên khi mình đến gần; nhưng chàng chưng hửng thấy họ ngồi xuống lại. Chàng không dám than phiền; chàng sợ các thầy khiển trách. Vả lại đó chưa phải là bài học cho chàng, chàng tiếp tục rảo qua rừng Trúc-lâm, trên mình khoác chiếc y giống như y Phật. Từ xa, lầm chàng là Đức Thế Tôn, các thầy sa môn từ chỗ ngồi đứng dậy, nhưng khi chàng đến gần, các thầy cười òa và ngồi xuống lại.

Cuối cùng, một sa môn đến bạch Phật. Ngài than phiền lắm. Ngài họp các thầy sa môn lại, và trước mặt mọi người, Ngài hỏi Nan Đà:

"Này Nan Đà, con đã thật sự được đắp y cùng kích thước như y của Phật chưa?"

Nan Đà đáp: "Dạ được, bạch Đức Thế Tôn, con được đắp y cùng kích thước như y của Ngài".

Đức Thế Tôn nói: "Lạ nhỉ! Một đệ tử dám đắp y cùng kích thước như y Phật! Con nghĩ gì với việc làm táo bạo như thế? Hành động đó không thể khơi dậy đức tin của người ngoại đạo, cũng không thể củng cố đức tin của hàng tín đồ. Nan đà, con phải thu ngắn y của con lại và trong tương lai, bất cứ thầy sa môn nào may y cho mình cùng kích thước như y Phật, hoặc rộng hơn y Phật, đều phạm phải trọng tội, thầy ấy sẽ bị nghiêm phạt".

Nan Đà tự nhận thấy lỗi lầm, chàng ý thức rằng đã là một thánh giả chân chính thì phải hàng phục được tính kiêu mạn của mình.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12984 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:54 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 38
Những Môn Đệ Mới



Đức Thế Tôn lưu lại ở Xá-vệ ít lâu rồi Ngài lên đường đến thành Vương-xá, nơi mà Tần-bà-sa-la đang đợi Ngài.

Đi được nửa đường, Ngài dừng lại để nghỉ tại một ngôi làng, lúc đó có bảy người đến. Ngài nhận ra họ. Sáu người là bà con, họ là những người giàu có và quyền lực nhứt dòng Thích-ca. Đó là A-nậu-lâu Đà (Anuruđha), Bạt Đề (Bhadrika), Bờ-ri-gu (Bhrigu), Kim-tỳ-la (Kimbala), Đề-bà Đạt Đa (Devadatta) và A-nan (Ananda). Người thứ bảy là Ưu-ba-ly (Upali), một gã hớt tóc.

Một hôm, A-nậu-lâu Đà tự nhủ rằng mình là dòng họ Thích-ca mà không ý thức theo Phật thì thật là điều xấu hổ. Chàng quyết định làm gương, và vì không một nguyên do nào ngăn cách được ý định của chàng nên chàng bày tỏ tâm sự trước tiên với người bạn chí cốt của chàng là Bạt Đề. Bạt Đề suy nghĩ trong giây lát rồi tán đồng ý kiến và quyết tâm noi theo. Sau đó, cả hai thuyết phục A-nan, Bờ-ri-gu, Kim-tỳ-la và Đề-bà Đạt Đa thấy rằng không có tiếng gọi nào cao hơn tiếng gọi xuất gia làm sa môn.

Thế là sáu hoàng tử lên đường theo Phật. Họ khó mà từ giã thành Ca-tỳ-la-vệ khi A-nan, liếc nhìn Bạt Đề, than:

"Bạt đề, anh sống đời thánh thiện mà còn giữ châu báu làm gì?"

Bạt đề e thẹn, nhưng thấy A-nan cũng đeo châu báu, chàng cười đáp:

"A-nan, anh nhìn lại anh xem".

A-nan bẽn lẽn, đỏ cả mặt.

Bấy giờ họ nhìn nhau, thấy ai cũng đeo châu báu. Họ cả thẹn; họ đang lặng lẽ cúi mặt đi thì gặp ngay gã hớt tóc Ưu-ba-ly.

A-nan nói: "Này anh hớt tóc, lấy đồ châu báu của ta không, ta biếu hết cho anh đó".

Bạt Đề nói: "Lấy đồ của ta luôn".

Những vị khác cũng trao hết châu báu cho Ưu-ba-ly. Anh sửng sốt không biết trả lời thế nào. Tại sao những vị hoàng tử này chưa bao giờ gặp anh lại biếu hết bảo vật cho anh thế? Anh phải làm sao đây, chấp nhận hay từ chối?

Hiểu được lòng do dự của gã hớt tóc, A-nậu-lâu Đà nói:

"Đừng ngại nhận những châu báu này. Chúng tôi đang trên đường theo bậc đại sĩ dòng thích ca. Chúng tôi đang trên đường theo Tất Đạt Đa, người đã thành Phật. Ngài sẽ thuyết giảng giáo pháp cho chúng tôi, chúng tôi sẽ qui y theo giáo pháp của Ngài".

Gã hớt tóc hỏi: "Thưa các hoàng tử, các ngài sẽ làm sa môn?"

"Vâng," họ đáp.

Anh lấy hết đồ châu báu và bắt đầu tiến về thành phố. Nhưng, bỗng nhiên, anh suy nghĩ: "Ta đang làm công việc như một thằng khùng. Ai sẽ tin là các hoàng tử ép ta nhận những châu báu này? Ta sẽ bị bắt vì tội trộm cướp hay tội giết người không chừng. Tội nhỏ nhất có thể xảy ra cho ta là ta sẽ gánh chịu sự phẫn uất sâu đậm của dòng tộc Thích- ca. Ta sẽ không giữ những châu báu này. Anh máng chúng trên một cành cây bên vệ đường. Anh suy nghĩ: "Các hoàng tử đó đang nêu gương cao thượng. Họ can đảm vất bỏ hoàng cung, còn ta, chả có gì, ta không dám vất bỏ quán hớt tóc của ta sao? Không. Ta sẽ theo họ. Ta sẽ gặp Phật, và biết đâu Ngài lại nhận ta vào đại chúng! ".

Ưu-ba-ly theo sau các hoàng tử cách một khoảng xa. Anh xấu hổ không dám tháp tùng theo họ. Bạt Đề chợt quay lại, thấy Ưu-ba-ly, chàng gọi lớn:

"Anh thợ cạo kia, sao anh vất hết đồ châu báu của chúng tôi?"

Gã thợ cạo đáp: "Tôi cũng muốn làm sa môn".

"Thế thì cùng đi với anh em chúng tôi", Bạt Đề nói.

Ưu-ba-ly vẫn lúc thúc theo sau. A-nậu-lâu Đà tiếp lời:

"Anh thợ cạo, hãy đi cạnh chúng tôi. Là sa môn thì đâu còn phân biệt, trừ tuổi tác và đức hạnh. Khi chúng ta đứng trước mặt Phật, anh phải là người đầu tiên bạch Ngài, anh phải là người đầu tiên xin Ngài nhận anh vào đại chúng. Vì anh, các hoàng tử sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy rằng họ bỏ hết tính kiêu mạn về dòng tộc Thích-ca của họ".

Họ tiếp tục lên đường, bỗng nhiên, một con diều hâu từ đâu đáp xuống đầu của Đề-bà Đạt Đa và tha đi viên ngọc kim cương mà chàng đã dấu kín trong búi tóc của chàng. Nó đã vạch trần tính giả dối của chàng và làm cho các hoàng tử cười òa. Đề-bà Đạt Đa bấy giờ không còn một bảo vật nào khác nhưng bạn đồng hành của chàng, trong thâm tâm, vẫn còn hoài nghi về lòng chân thành trung tín của chàng.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12983 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:54 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 37
Cấp Cô Độc Cúng Dường


Trong khi Đức Thế Tôn ở tại thành Vương-xá thì Cấp-cô Độc (Anathapindika), một trưởng giả giàu có, từ Xá-vệ (Cravasti) đến. Cấp-cô Độc là một tín đồ sùng đạo. Khi được tin Đức Thế Tôn trú tại rừng Trúc-lâm, ông nóng lòng muốn đếp gặp Ngài.

Cấp-cô Độc lên đường vào một buổi sáng, và khi ông vào rừng Trúc-lâm, một giọng nói thiêng liêng đã đưa ông đến gặp Đức Thế Tôn. Ông được đón chào niềm nỡ; ông cúng dường đại chúng một phẩm vật tuyệt vời, và Đức Thế Tôn hứa đến gặp ông tại thành Xá-vệ.

Khi về đến thành, Cấp-cô Độc bắt đầu phân vân không biết tiếp đón Đức Thế Tôn tại đâu. Vườn tược của ông hình như không tương xứng cho việc đón tiếp một thượng khách như vậy. Vườn cây đẹp nhất trong thành là của thái tử Kỳ Đà (Jeta), Cấp-cô Độc quyết định mua đứt khu vườn đó.

Kỳ Đà nói với ông: "Ta sẽ bán vườn cây nếu ngươi trải vàng khắp mặt đất."

Cấp-cô Độc chấp nhận điều kiện giao ước. Ông cho xe chở vàng đến vườn, và bấy giờ chỉ còn một dãy đất nhỏ còn trống. Kỳ Đà hoan hỷ ca ngợi:

"Này trưởng giả, vườn cây là của ngươi: Phần ta, ta xin hân hạnh biếu ngươi dãy đất còn lại đó."

Cấp-cô Độc cho trang hoàng vườn cây, chuẩn bị đón tiếp Đức Thế Tôn. Ông phái một gia nhân trung tín nhất đến rừng Trúc-lâm báo tin cho Đức Thế Tôn biết là ông sẵn sàng đón tiếp Ngài tại thành Xá-vệ.

Sứ giả nói: "Bạch Đức Thế Tôn, chủ nhân con xin đảnh lễ Ngài. Người hy vọng Ngài đã thoát khỏi khổ đau, bệnh tật; người hy vọng Ngài không quên ước hẹn với người. Bạch Đức Thế tôn, họ đang chờ đón Ngài tại thành Xá-vệ."

Đức Thế Tôn không quên lời hứa với trưởng giả Cấp-cô Độc; Ngài muốn giữ hẹn, Ngài nói với sứ giả: "Ta sẽ đi."

Ngài hoãn lại một vài hôm; rồi Ngài khoác áo, ôm bình, theo sau là một số đệ tử, Ngài lên đường đi Xá-vệ. Vị sứ giả đi trước để báo cho trưởng giả biết là Đức Thế Tôn sắp tới.

Cấp-cô Độc quyết định đi đón Đức Thế Tôn, vợ con ông xin cùng đi, những người giàu có nhất thành thấy thế cũng xin tháp tùng theo họ. Và khi họ nhìn thấy Đức Thế Tôn, hào quang rực rỡ của Ngài làm họ chói lòa cả mắt; Ngài hình như đi trên một đoạn đường toàn vàng.

Họ theo hầu Ngài đến vườn cây của thái tử Kỳ Đà, Cấp-cô Độc thưa với Ngài:

"Bạch Đức Thế Tôn, con sẽ làm gì với vườn cây này?"

Đức Thế Tôn đáp: "Hãy cúng dường cho đại chúng, từ nay và mãi mãi về sau."

Cấp-cô Độc sai gia nhân bê đến một bát vàng đầy nước. Ông rửa tay Đức Thế Tôn và Bạch rằng:

"Từ nay mãi mãi về sau, con xin cúng dường vườn cây này cho đại chúng, những vị sa môn tu tập dưới sự hóa độ của Đức Thế Tôn."

Đức Thế Tôn nói: "Lành thay! Ta ghi nhận lễ vật. Vườn cây này sẽ là nơi an trú tuyệt vời; tại đây, chúng ta sẽ sống êm đềm, chúng ta sẽ tránh được cảnh oai bức, buốt giá. Không có ác thú vào đây: không có cả một cánh muỗi vo ve quấy rầt sự yên tịnh; ở đây tránh được mưa dầm gió rét hay nắng hạn kinh hồn. Vườn cây này thơ mộng lắm. Tại đây ta sẽ thiền định hằng giờ. Cúng dường đại chúng những lễ vật như thế thật là đúng pháp. Người thông minh trí tuệ không nên thờ ơ lạnh nhạt, hãy nên cúng dường nhà cửa, thức ăn, nước uống, y phục cho các thầy sa môn. Trái lại, các thầy sa môn sẽ giáo hóa chánh pháp cho họ. Ai giác ngộ chánh pháp, người ấy sẽ giải thoát khổ đau và đạt đến niết bàn."

Đức Phật và đồ chúng của Ngài tự ra sức xây dựng nền tảng tại vườn Kỳ-viên.

Cấp-cô Độc rất lấy làm sung sướng; nhưng, một hôm, một ý nghĩ nghiêm trọng lại hiện ra trong đầu óc ông.

Ông tự nhủ: "Ta đang được mọi người hết lời ca ngợi, nhưng đối với những việc làm của ta, việc nào đáng được khâm phục như thế? Ta dâng lễ vật, cúng dường Phật và cúng dường các thầy sa môn, điều đó, trong tương lai, ta sẽ được quả phúc; nhưng đức hạnh của ta chỉ có lợi cho ta! Ta phải giúp người khác cùng chia xẻ cái đặc quyền đó. Ta sẽ đi khắp kinh thành, ta sẽ quyên góp lễ vật của những ai ta gặp đem cúng dường Phật và các thầy sa môn. Thế là nhiều người sẽ tham gia vào công việc phước đức mà ta sắp làm."

Ông đến yết kiến Ba-tư-nặc (Prasenajit), vua nước Xá-vệ, một quốc vương cương trực, sáng suốt. Ông tâu với quốc vương về những điều mà ông đã quyết định làm, quốc vương hoan hỷ chấp thuận. Một phái viên được lệnh đi khắp kinh thành để phổ biến thông báo của hoàng triều:

"Đồng bào Xá-vệ nghe rõ! bảy ngày nữa, trưởng giả Cấp-cô Độc sẽ cỡi voi qua khắp kinh thành. Ông sẽ quyên góp lễ vật của tất cả mọi người, sau đó ông đem cúng dường Phật và đồ chúng của Ngài. Vậy mong các ngươi hãy dâng những gì mà ông có thể chấp nhận."

Đúng ngày ấn định, Cấp-cô Độc ngồi trên lưng voi đẹp nhất qua khắp kinh thành, ông quyên góp lễ vật từng người để cúng dường Đức Thế Tôn và đại chúng. Dân chúng vây quanh ông: người thì dâng vàng, kẻ thì biếu bạc; cô này cởi kiềng, o kia cởi xuyến, chị nọ cởi còng; ngay cả những phẩm vật tầm thường nhất cũng được thâu nhận.

Bấy giờ, tại thành Xá-vệ có một thiếu nữ quá nghèo. Nàng phải mất ba tháng trời dành dụm mới đủ tiền mua được một mảnh vải thô mà nàng vừa may xong cho nàng một tấm áo. Thấy đám người vây quanh Cấp-cô Độc, nàng nói với một người đứng xem:

"Trưởng giả Cấp-cô Độc hình như đi xin thì phải."

"Vâng, ông đang đi xin," có giọng đáp.

"Nhưng người ta bảo ông là một trưởng giả giàu nhất thành Xá-vệ. Tại sao ông phải đi xin thế này?"

"Cô không nghe thông báo của hoàng triều được phổ biến khắp thành cách đây bảy ngày sao?"

"Chả nghe gì cả."

"Cấp-cô Độc không phải quyên góp phẩm vật cho chính ông. Ông muốn mọi người cùng tham gia vào công việc phước đức mà ông đang làm, ông đang quyên góp phẩm vật để cúng dường Phật và đồ chúng của Ngài. Tất cả những ai cúng dường đều sẽ được quả phúc mai hậu."

Thiếu nữ tự nhủ: "Mình chưa bao giờ làm được điều gì đáng khen. Điều hay nhất là sắm một lễ vật để cúng dường Phật. Nhưng mình nghèo quá. Mình phải làm gì bây giờ?" Nàng bỏ đi, chán nản. Nàng nhìn xuống chiếc áo mới may: "Mình chỉ cúng dường Ngài được chiếc áo này. Nhưng mình không thể lõa lồ ra đường."

Nàng về nhà cởi áo. Nàng ngồi tại cửa sổ đợi Cấp-cô Độc đến, và khi ông đi qua trước nhà, nàng ném chiếc áo cho ông. Ông cầm lấy và đưa nó cho những người giúp việc.

Ông nói: "Người phụ nữ ném chiếc áo này cho ta có lẽ không còn gì khác để cúng dường. Nàng phải chịu lõe lồ thôi nếu nàng ở nhà và cúng dường lễ vật theo kiểu này. Đi, hãy cố tìm cho ra nàng và xem nàng là ai?"

Bọn gia nhân phải gặp rất nhiều khó khăn trong lúc tìm kiếm cô thiếu nữ. Cuối cùng họ tìm ra nàng và thấy rằng chủ nhân của họ đã đoán đúng: Chiếc áo vất ra ngoài cửa sổ là toàn bộ tài sản của một cô bé nghèo. Cấp-cô Độc vô cùng xúc đông; ông bảo gia nhân đem những bộ y phục sang trọng, xinh đẹp tặng cho cô thiếu nữ thuần thành đã hiến ông chiếc áo giản dị của nàng.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12982 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:53 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 36
Phật Rời Thành Ca Tỳ La Vệ


Một hôm, Da Du đôn hậu đứng nhìn con trai La-hầu-la (Rahula) của nàng.

Nàng ca ngợi: "Con trai của mẹ đẹp làm sao! Đôi mắt của con long lanh quá! Cha của con còn nợ con một di sản hiếu đạo; con phải đi đòi nó lại."

Mẹ con dắt nhau lên sân thượng của hoàng cung. Đức Thế Tôn từ hòa nhẹ bước trên đường phố bên dưới. Da Du nói với La-hầu-la:

"La-hầu-la, con thấy vị sa môn kia không?" Cậu bé đáp: "Vâng, thưa mẹ, thân Ngài đầy cả vàng."

"Ngài đẹp như thiên thần! Chính hào quang thánh thiện từ trong da thịt Ngài tỏa ra như vàng. Con ơi, hãy quí Ngài, hãy yêu quí Ngài, vì Ngài là cha của con. Xưa kia Ngài có những bảo vật quí giá. Ngài có nhiều vàng bạc ngọc ngà rực rỡ; giờ đây, Ngài lại đi khất thực từng nhà. Nhưng Ngài đã có được một kho tàng tuyệt diệu: Ngài đã chứng đắc vô thượng bồ đề. Con ơi, hãy đến gặp Ngài; hãy nói cho Ngài biết con là ai, và đòi lại di sản của con."

La-hầu-la vâng lời mẹ. Cậu đến đứng ngay trước mặt Phật. Cảm thấy một niềm sung sướng kỳ lạ, cậu nói:

"Bạch Ngài sa môn, thật là hân hạnh cho con được đứng đây, đứng trong bóng mát của Ngài."

Đức Thế Tôn ngắm cậu bằng ánh mắt yêu thương, từ ái; La-hầu-la bạo dạn chạy đến bên Ngài. Nhớ lời mẹ dặn, cậu nói:

"Thưa cha, con là con của cha. Con biết cha có nhiều bảo vật quí giá nhất đời. Xin cha trả lại di sản đó cho con."

Đức Thế Tôn mỉm cười. Ngài không trả lời. Ngài tiếp tục khất thực. La-hầu-la lẻo đẻo theo sau Ngài, cậu lập lại:

"Thưa cha, xin cha trả lại di sản đó cho con."

Cuối cùng đức Thế Tôn nói;

"Này con, con chưa biết gì về cái kho tàng mà con đã nghe nhiều người ca ngợi. Khi con đòi lại di sản của con, con nghĩ là con đang đòi hỏi những đồ vật mang tính chất suy hoại. Những bảo vật duy nhất theo con là những bảo vật thân thiết với sự trống không hư ảo của loài người, những bảo vật mà cái chết tham tàn cướp đoạt của những người giàu có giả tạm. Này La-hầu-la, con có quyền đòi hỏi di sản của con. Con sẽ được chia phần châu báu; con sẽ thấy bảy loại đức hạnh, con sẽ biết giá trị đích thực của đức tin và thanh khiết, khiêm tốn và cẩn trọng, vâng phục, hy sinh và trí tuệ. Đi, cha sẽ giao con cho tôn giả Xá-lợi-phất; tôn giả sẽ giáo dục con."

La-hầu-la lặng lẽ theo cha, Da Du cảm thấy lâng lâng sung sướng. Chỉ có quốc vương Tịnh-Phạn là đau buồn; gia đình quốc vương đang từ biệt quốc vương! Ngài không thể không bộc lộ tâm tình với Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn đáp: "Đừng đau buồn gì cả, những ai nghe theo ta sẽ có được kho tàng cao quí! Không có gì phải đau buồn; hãy như thớt voi lâm trận bị trúng tên độc của kẻ thù: không ai nghe voi than phiền bao giờ. Quốc vương khéo điều voi ra trận thế nào thì bậc vĩ nhân trên đời cũng khéo tự điều phục mình thế đó, người ấy dằn được đau khổ. Ai thật tình khiêm tốn, ai chế ngự tham dục như chúng ta điều khiển ngựa hoang, người ấy sẽ bị thiên thần đố kỵ. Người ấy không bao giờ làm ác. Không phải trong hang động của núi rừng, không phải dưới vực sâu của biển cả, quốc vương không thể trốn đâu được những hậu quả tai hại của một ác nghiệp; chúng theo Ngài mãi mãi; chúng in vết trong ngài; chúng bắt ngài điên loạn; chúng cho ngài hưởng được một chút thanh bình! Nhưng nếu ngài làm việc thiện, khi ngài giã biệt trần gian, ngài sẽ được thiện nghiệp của ngài đón chào, giống như những người bạn thân đón ngài từ xa về. Chúng ta sống trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta không hận thù giữa một thế giới tràn ngập hận thù. Chúng ta sống trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta không tật bệnh giữa một thế giới dẫy đầy tật bệnh. Chúng ta sống trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta không lao nhọc giữa một thế giới dẫy đầy lao nhọc. Chúng ta sống trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta không có gì cả. Nguồn vui là lương thực của chúng ta, chúng ta như những thiên thần rạng rỡ. Vị sa môn nào sống trong cô đơn, thầy ấy sẽ duy trì được một tâm hồn tròn đầy an tịnh, thầy ấy sẽ thấy rõ sự thật bằng một cái nhìn sáng suốt vững vàng, thầy ấy sẽ hưởng được một nguồn hạnh phúc mà thế nhân không sao hiểu nổi."

An ủi quốc vương Tịnh-Phạn được đôi lời, Đức Thế Tôn rời thành Ca-tỳ-la-vệ, Ngài lên đường trở lại thành Vương-xá.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12981 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:53 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 35
Nan Đà Khước Từ Vương Vị


Từ khi Tất Đạt Đa ra đi xuất gia, vua Tịnh-Phạn đã chọn Nan Đà (Nanda), một trong những người con trai khác, kế vị vua lên ngôi. Nan Đà sung sướng nghĩ rằng một ngày kia chàng sẽ là quốc vương, sung sướng hơn nữa là chàng nghĩ đến cuộc hôn lễ sắp tới với công chúa Tôn Đà-lị (Sundarika), một Tôn Đà-lị xinh đẹp mà chàng thiết tha yêu quí.

Đức Thế Tôn lo sợ cho em mình; Ngài sợ cho Nan Đà sẽ lạc vào ác đạo. Một hôm, Ngài đến gặp Nan Đà và nói:

"Này Nan Đà, ta đến với ngươi vì ta biết ngươi đang sung sướng lắm. Ta muốn nghe chính miệng ngươi trình bày nguyên do của sự sung sướng đó. Này Nan Đà, nói đi, hãy bộc lộ hết tâm tình cho ta biết."

Nan Đà đáp: "Thưa tôn huynh, em nói ra không biết tôn huynh có hiểu cho chăng, tôn huynh đã từ bỏ vương vị, tôn huynh đã cắt đứt ái ân với Da Du!"

"Này Nan Đà, ngươi mong ngày kia ngươi sẽ là quốc vương, thì ra nguyên do sung sướng là thế!"

"Vâng, điều sung sướng hơn nữa là em yêu Tôn Đà-lị, Tôn Đà-lị mai đây sẽ là hôn thê của em."

Đức Thế Tôn kêu lên: "Khốn nạn thay! sống trong đen tối mà ngươi có thể sung sướng được sao? Ngươi sẽ thấy được ánh sáng sao? Trước hết ngươi hãy loại bỏ niềm hạnh phúc đó đi: Lo sợ phát sanh từ hạnh phúc, kinh hãi và đau khổ. Ai hết lo sợ, hết đau khổ; người ấy không còn biết đến hạnh phúc. Hãy loại bỏ tình yêu đó đi: Lo sợ phát sanh từ tình yêu, kinh hãi và đau khổ. Ai hết lo sợ, hết đau khổ; người ấy không còn biết đến tình yêu. Nếu như ngươi tìm kiếm hạnh phúc trên cõi đời này thì những nổ lực của ngươi sẽ trở thành vô ích, lạc thú của ngươi sẽ biến thành đau khổ, cái chết luôn luôn có mặt, sẵn sàng vồ lấy những kẻ khốn cùng bất hạnh mà khúc hát nụ cười vẫn còn bừng nở trên môi. Thế gian toàn là lửa khói, mọi việc trên đời phải chịu cảnh sanh lão tử vong. Kể từ lúc ngươi mới bắt đầu lang thang thê thảm trong kiếp luân hồi, nước mắt của ngươi đã đổ nhiều còn hơn là nước của sông biển đại dương. Ngươi đã gánh chịu khổ đau, ngươi đã tiếc thương cho những ước vọng không thành, ngươi đã oán than đau đớn khi thấy điều kinh hãi xảy ra. Cái chết của một người mẹ, cái chết của một người cha, cái chết của một người anh, cái chết của người chị, cái chết của một đứa con trai, cái chết của một người con gái; ồ, qua biết bao lần, trải bao thời đại, những cảnh tượng đó chưa làm ngươi đau lòng sao? Biết bao lần ngươi chưa tốn hao tài vật? Và mỗi lần đối diện với đau khổ thì ngươi lại khóc, khóc và khóc; ngươi đã đổ nhiều nước mắt còn hơn là nước của sông biển đại dương!"

Nan Đà, lúc đầu, ít chú tâm đến những gì Đức Phật dạy, nhưng khi bắt đầu lắng nghe, lời lẽ của Ngài đã làm cho chàng xúc động, sâu sắc. Đức Thế Tôn tiếp:

"Hãy coi thế gian như bọt bèo; thế gian là mộng huyển, tử thần rồi sẽ bốc ngươi đi."

Ngài dừng lại.

Nàn Đà thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, bạch Đức Thế Tôn, con xin nguyện làm đệ tử Ngài! Xin cho con theo Ngài."

Đức Thế Tôn dắt tay Nan Đà rời khỏi hoàng cung. Nhưng Nan Đà lộ vẻ đăm chiêu suy nghĩ; chàng e rằng mình hấp tấp quá. Có lẽ chàng đau đớn ân hận điều chàng đã làm. Vì có nói gì đi nữa thì nắm giữ vương quyền vẫn là điều thú vị, cao quí. Còn Tôn Đà-lị? chàng nghĩ: "Nàng đẹp biết bao" Chàng thở dài, nói: "Ta sẽ bao giờ gặp lại nàng?"

Nhưng rồi chàng vẫn theo sau Đức Thế Tôn. Chàng không dám tâm sự với Ngài. Chàng sợ ngài khiển trách, chàng sợ Ngài khinh miệt.

Bỗng nhiên, khi Đức Thế Tôn và Nan Đà quẹo qua một góc đừờng, chàng bắt gặp một thiếu nữ đi tới. Nàng tươi cười. Nhận ra Tôn Đà-lị, chàng cúi mặt không dám nhìn.

Nàng nói: "Anh đi đâu thế?"

Nan Đà không trả lời. Nàng quay sang Đức Thế Tôn.

"Ngài dẫn Nan Đà theo Ngài sao?"

"Vâng", Đức Thế tôn đáp.

"Ngày mai chàng sẽ về chứ?"

Nan Đà muốn đáp lại: "Vâng, anh sẽ về sớm, Tôn Đà-lị! Nhưng chàng lại e ngại, không nói nên lời; mắt nhìn xuống, chàng lặng lẽ theo sau Đức Thế Tôn.

Vậy là Tôn Đà-lị biết Nan Đà không còn của nàng nữa, nàng nức nở khóc.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12980 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:52 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 34
Đức Hạnh Cao Quí Của Da Du


Bấy giờ tất cả phụ nữ ở hoàng cung đều đến đảnh lễ Đức Thế Tôn. Chỉ có Da Du là vắng mặt. Quốc vương tỏ vẻ ngạc nhiên. Ma-ha-ba-xà-ba Đề hỏi: "Thiếp đã bảo nàng cùng đi", nàng đáp: "Con sẽ không đi với mẹ, con thiếu duyên thiếu đức; con không xứng đáng gặp mặt chồng con. Nếu con không làm gì lầm lỗi, chồng con sẽ đích thân đến gặp con, và rồi con sẽ kính lễ chồng con đúng phép. "

Đức Thế Tôn rời khỏi chỗ ngồi, đi thẳng đến phòng Da Du. Nàng đã vất hết y phục sang trọng, cởi bỏ các tấm màn the, ném cả kiềng vòng châu báu; nàng khoác một chiếc áo choàng màu ngà may bằng vải thô. Thấy nàng trang phục như vậy, Đức Thế Tôn vui cười hoan hỷ. Nàng sụp lễ dưới chân Ngài.

Nàng nói: "Ngài thấy đó, thiếp muốn mặc y phục như Ngài mặc, thiếp muốn sống như Ngài sống. Ngài ăn một bữa một ngày, thiếp dùng mỗi ngày một bữa. Ngài không ngủ trên giường; nhìn quanh xem: chả có giường chiếu gì cả, thiếp ngủ trên chiếc băng này. Từ đây, thiếp sẽ không cần hương thơm, thiếp sẽ không cài hoa lên mái tóc thiếp nữa."

Đức Thế Tôn đáp: "Da Du, ta đã thấy đức hạnh cao quí của nàng, nàng không thiệt đâu, ta tán thán đức hạnh của nàng lắm. Có bao nhiêu phụ nữ trên thế gian này đã dũng mãnh như nàng?"

Đức Thế Tôn ngồi xuống, nói:

"Phụ nữ khó tin lắm. Trong số hơn cả ngàn người ngu si ác độc thì may ra mới có một người thông minh đức hạnh. Phụ nữ bí hiểm hơn cả lộ trình của cá lội dưới nước; họ tàn nhẫn như kẻ cướp, họ lường gạt như kẻ cướp; họ ít khi nói thật, vì đối với họ, láo là thật, và thật là láo. Ta thường khuyên đệ tử ta hãy tránh xa phụ nữ. Thấy họ tiếp chuyện với phụ nữ là ta khó chịu rồi. Còn nàng, này Da Du, nàng không giả dối; ta tin tưởng đức hạnh của nàng. Đức hạnh là hoa hương không phải dễ tìm; phụ nữ phải có đôi tay sạch để nắm giữ đức hạnh. Ma-vương che giấu tên nhọn dưới hoa; ồ, biết bao phụ nữ yêu hoa bạc ác, hoa gây thương tích không bao giờ lành! Phụ nữ khốn nạn thay! Hình hài chỉ là bọt bèo, họ đâu nhận ra điều đó. Họ bám chặt vào cõi đời này, rồi ngày ấy đến thì tử thần kéo họ ra đi. Hình hài mong manh hơn cả ảo vọng. Ai nhận ra điều đó, người ấy sẽ bẻ gãy những mũi tên hoa của Ma-vương; ai nhận ra điều đó, người ấy sẽ không bao giờ gặp mặt tử thần. Thần chết sẽ lôi người phụ nữ vô ý hái hoa như cơn nước lũ, do bão tố dâng lên, cuốn phăng cả ngôi làng đang mê ngủ. Này cô, hãy hái hoa, hãy thưởng thức màu sắc của chúng, hãy ngửi trọn hương vị của chúng; thần chết đang rình rập cô đó; trước khi cô được thõa mãn thì thần chết đã mang cô đi rồi. Hãy như con ong kìa; nó bay từ hoa này đến hoa khác, chỉ lấy mật ngọt chứ không làm tổn thương hương sắc của một hoa nào.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12979 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:52 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 33
Truyện Đạt Ma Ba La



Ngày hôm sau, Đức Thế Tôn vào thành khất thực từng nhà. Dân chúng kinh thành Ca-tỳ-la-vệ nhận ra Ngài và cùng nhau ca ngợi:

"Lạ thay! Hoàng tử Tất Đạt Đa xưa kia ăn mặc sang trọng, dong xe qua kinh thành này, nay lại quấn y sa môn bình dị, đó đây khất thực từng nhà."

Họ đổ xô đến các cửa sổ, leo lên các sân thượng, trầm trồ thán phục người khất sĩ.

Một trong những thị nữ của Da Du vừa ra khỏi hoàng cung thì nghe lời tán thán xôn xao. Nàng hỏi nguyên do và được mọi người cho biết. Nàng tức tốc trở về báo tin cho công chúa.

Nàng nói: "Tâu công nương, phu quân của công nương, hoàng tử Tất Đạt Da, đang ung dung đây đó trong thành như một sa môn khất thực!"

Giật mình, Da Du suy nghĩ: "Xưa kia chàng lộng lẫy trong ánh châu báu ngọc ngà, nay chàng lại khiêm tốn trong bộ y phục bình dị, nay chàng lại rực rỡ trong ánh hào quang thiêng liêng." Nàng thì thầm: "Chàng tuyệt diệu quá!"

Nàng leo lên sân thượng hoàng cung. Với nhiều người vây quanh, Đức Thế Tôn đang từ từ tiến đến gần. Nét uy nghi đường bệ từ thân Ngài tỏa ra, Da Du sung sướng đến run người, nàng cất lời nồng nàn ca ngợi:

"Ôi mái tóc bóng ngời mềm mại,
Vầng trán kia rực ánh mặt trời,
Đôi mắt người rạng rỡ tươi vui,
Chân nhẹ bước như sư tử giữa nắng vàng êm dịu!"
Nàng đến gần phụ vương tâu:

"Tâu phụ vương, con trai của phụ vương đang khất thực trong thành Ca-tỳ-la-vệ. Có một đám đông người thán phục đang lần theo Ngài, Ngài đẹp hơn bao giờ hết."

Tịnh-Phạn sửng sốt. Quốc vương rời khỏi hoàng cung, đến gần con nói:

"Ngài đang làm gì vậy? Tại sao Ngài phải khất thực? Hẳn Ngài phải biết là trẫm đang mong Ngài tại hoàng cung, Ngài và cả đệ tử của Ngài."

Đức Thế Tôn đáp: "Ta phải khất thực; ta phải vâng theo giáo pháp."

Quốc vương nói: "Ta là dòng Sát Đế-lợi; chưa bao giờ dòng tộc Thích-ca lại có người khất thực?"

"Phụ vương thuộc dòng họ Thích-ca; còn ta, trong những tiền kiếp xa xưa, ta đã chứng đắc vô thượng bồ đề; ta đã nhận ra vẻ đẹp của tâm từ bi; ta đã hiểu rõ nguồn vui cả lòng tự dâng hiến. Khi ta là đứa bé Đạt-ma-ba-la (Dharmapala), hoàng hậu mẹ ta, một hôm đang cùng ta chơi đùa, quên chào phụ vương, quốc vương Bra-ma Đát-ta (Brahmadatta) khi ngài đi qua. Để trừng phạt hoàng hậu, ngài ra lệnh cho một trong các vệ binh chặt đứt hai tay ta, ngài nghĩ làm thế mẹ ta sẽ đau đớn thấy ta đau khổ còn hơn chính bà chịu đau khổ. Mẹ ta van xin quốc vương, bà nguyện hiến hai tay bà để thay ta, nhưng ngài vẫn khăng khăng tàn nhẫn, ngài vẫn ban lệnh thi hành. Ta vui vẻ như thường, mẹ ta thấy thế cũng hoan hỷ theo. Thế là phụ vương ta ra lệnh vệ binh chặt đứt hai chân ta. Chặt xong, ta vẫn tươi cười. Quốc vương nổi giận hét lên: "Hãy cắt đầu nó ra!" Thất kinh, mẹ ta quì mọp trước mặt phụ vương, bà van xin: "Tâu hoàng thượng, xin cắt đầu thiếp, xin tha mạng cho con ngài!" Quốc vương sắp bác lời thì bằng giọng nói thơ ngây, ta lên tiếng: "Mẹ Ơi, chính vì sự giải thoát của mẹ mà con dâng trọn cả đầu này. Khi con chết rồi, hãy vất xác con trên đường; hãy phơi nó trần trần ra đó; hãy để nó làm mồi cho chim trời." Và khi tên đao phủ tóm lấy tóc ta, ta nói tiếp: "Ồ, thế là con có thể thành Phật, con có thể giải thoát cho tất cả những ai bị sanh tử trên đời! Và giờ đây, hỡi quốc vương Tịnh-Phạn, rốt cuộc ta đã đạt đến trí tuệ; ta là Phật; ta biết đường dẫn đến giải thoát. Đừng than phiền việc làm của ta. Hãy tỉnh giấc; hãy sáng suốt; hãy noi theo con đường đức hạnh cao quí. Ai sống đời thánh thiện, người ấy có giấc ngủ an lành, dù ngủ trên mặt đất hay ngủ ở những thế giới đâu đâu. "

Quốc vương Tịnh-Phạn thán phục đến rơi lệ. Đức Phật tiếp:

"Hãy biết phân biệt đâu là đức hạnh chân chính và đâu là đức hạnh hư ngụy. Hãy biết đâu là chánh đạo và đâu là tà đạo. Ai sống đời thánh thiện, người ấy có giấc ngủ an lành, dù ngủ trên mặt đất hay ngủ ở những thế giới đâu đâu!"

Sụp lạy dưới chân Phật, quốc vương xin hết lòng tín ngưỡng theo Ngài. Đức Thế Tôn hoan hỷ trở về hoàng cung và ngồi vào bàn của phụ vương mình.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12978 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:51 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 32
Truyện Vít Van Ta Ra



Đức Thế Tôn chậm rãi tiến bước trên đoạn đường dài từ thành Vương-xá đến thành Ca-tỳ-la-vệ. Ưu Đà Di đi trước để báo tin cho vua Tịnh-Phạn biết là con trai của ngài đang trên đường về thăm ngài, như vậy quốc vương sẽ an tâm và hết đau buồn.

Về đến hoàng cung, thấy quốc vương đang vô vàn buồn khổ, Ưu Đà Di nói:

"Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy lau sạch nước mắt. Lát nữa đây con trai của bệ hạ sẽ có mặt tại kinh thành Ca-tỳ-la-vệ."

Quốc vương kêu lên: "Ồ, Ưu Đà Di đó à! Trẫm tưởng là khanh cũng quên đệ trình thư tín của trẫm nên trẫm cũng hết hy vọng gặp lại người con yêu quí của trẫm. Nay khanh lại mang tin vui về, trẫm sẽ không khóc nữa; trẫm sẽ vững tâm chờ đợi phút giây hạnh phúc mà chính mắt này gặp lại con trẫm.

Quốc vương ra lệnh cúng dường Ưu Đà Di một bữa ngọ trai thịnh soạn.

Ưu Đà Di nói: "Tâu bệ hạ, bần đạo sẽ không thọ trai ở đây. Trước khi thọ dụng bất cứ một thực phẩm nào, bần đạo phải biết là Thầy của bần đạo đã được cúng dường đúng pháp chưa. Bần đạo sẽ trở lại gặp Bổn Sư của bần đạo."

Quốc vương cả quyết:

"Này Ưu Đà Di, chính lòng trẫm muốn cùng đường vật thực cho khanh mỗi ngày; và cũng chính lòng trẫm muốn cùng dường vật thực cho con trẫm mỗi ngày trong suốt cuộc hành trình mà con trẫm phải trải qua để làm vui lòng trẫm. Xin thỉnh ngài thọ trai, và trẫm sẽ dâng thực phẩm cho ngài mang đến cúng dường Đức Thế Tôn."

Ưu Đà Di thọ trai xong, ngài nhận một bát cơm hảo hạng đem cúng dường con trai của quốc vương. Ưu Đà Di ôm bát, phóng người lên như bay, và chỉ trong chốc lát ngài đã đến gặp đức Bổn Sư. Mỗi ngài sau đó, Ưu Đà Di lại đến hoàng cung của vua Tịnh-Phạn để nhận thức ăn cho Đức Thế Tôn, Ngài rất lấy làm hoan hỷ cho tấm lòng hầu hạ chân thành của đệ tử Ngài.

Cuối cùng, Ngài đến thành Ca-tỳ-la-vệ. Để đón rước Ngài, cả dòng tộc Thích-ca tập trung đông đủ tại một hoa viên rực rỡ. Nhiều người có mặt hôm đó lại tỏ vẻ hiu hiu tự đắc. Họ nghĩ: "Ở đây có nhiều người lớn tuổi hơn Tất Đạt Đa! Tại sao họ phải đảnh lễ Ngài? Trẻ em và nam nữ thanh niên lễ Ngài được rồi; người lớn khỏi phải lễ!"

Đức Thế Tôn vào công viên. Hào quang rực rỡ từ thân Ngài tỏa ra làm cho mọi người chói lòa cả mắt. Vô cùng xúc động, vua Tịnh-Phạn bước tới vài bước, kêu lớn: "Con ơi!" Giọng vua run run; những giọt nước mắt sung sướng chảy dài xuống hai gò má, quốc vương từ từ cuối đầu đảnh lễ.

Thấy phụ vương đảnh lễ con mình, cả dòng tộc Thích-ca cũng tự động cung kính hạ mình thi lễ.

Một chỗ ngồi lộng lẫy đã được chuẩn bị sẵn cho Đức Thế Tôn. Ngài ngồi xuống. Bầu trời quang đãng mở ra, những cánh hoa hồng từ trên không lửng lờ rơi xuống khắp cả hoa viên. Hương thơm ngào ngạt theo gió vươn xa, vươn khắp cả sơn hà đại địa. Quốc vương và cả dòng Thích-ca đều trố mắt ngạc nhiên. Đức Thế Tôn nói:

"Trong một kiếp xa xưa nào đó, ta đã chứng kiến cảnh gia đình quay quần chung quanh ta và đồng thanh lên tiếng ca ngợi. Lúc đó, quốc vương Xan-gia Da (Sanjaya) đang trị vì tại thành Gia Da-tua-ra (Jayatura). Phu nhân của ngài là Phu-Xa-ti (Phusati). Họ sanh được một trai tên là Vít-van-ta-ra (visvantara). Khi lớn lên, Vít-vanta-ra kết hôn với Mát-ri (Madri), một công chúa cực kỳ kiều diễm. Nàng sanh cho Vít-van-ta-ra hai người con: một trai là Gia-linh (Jalin) và một gái là Cờ-rít-na-gia-na (Krishnajana). Vít-van-ta-ra có một con voi trắng đầy đủ phép màu kêu mưa gọi gió theo ý muốn.

Bây giờ, vương quốc Ca-linh-ga (Kalinga) xa xôi kia đang gặp nạn hạn hán khủng khiếp. Cỏ khô, cây héo; người vật chết đói chết khát. Quốc vương Ca-linh-ga nghe tin con voi của Vít-van-ta-ra có phép màu kỳ lạ. Vua phái tám đạo sĩ bà-la-môn đến Gia Da-tua-ra thỉnh voi về xứ hoạn nạn của họ. Các đạo sĩ Bà-la-môn đến nhằm dịp lễ. Ngồi trên lưng voi, hoàng tử đang trên đường đến đền thần để phát phẩm vật bố thí. Thấy sứ giả của nước ngoài, hoàng tử hỏi: "Các ngươi đến đây có việc gì?' Các đạo sĩ Bà-la-môn đáp: "Kính thưa hoàng tử, quê hương của chúng tôi, vương quốc Ca-linh-ga, đang bị hạn hán đói khát. Con voi của hoàng tử có thể mang nước mưa đến cứu sống chúng tôi; chúng tôi xin mượn voi của hoàng tử ít hôm được chăng?' Vít-van-ta-ra nói: "Chuyện nhỏ mọn đáng gì, các ngươi có thể mượn cả mắt lẫn thịt của ta nữa kìa! Vâng, các ngươi cứ tự nhiên dẫn voi đi, cầu nguyện mưa lành sẽ tưới khắp vườn ruộng các ngươi!' Hoàng tử trao voi cho các đạo sĩ bà-la-môn, họ hoan hỷ đưa voi về Ca-linh-ga.

Nhưng dân cư Gia Da-tua-ra lại lo lắng đau buồn; họ sợ hạn hán xảy ra trên chính quê hương của họ. Họ than phiền với quốc vương Xan-gia Da: "Tâu bệ hạ, việc làm của con ngài đáng trách lắm. Con voi của hoàng tử che chở thần dân khỏi chết đói. Nếu trời không mưa thì giờ đây việc gì sẽ xảy đến cho dân chúng? Tâu bệ hạ, hãy mặc xác hoàng tử; hãy để Vít-van-ta-ra đem cả thân mạng ra đền đáp sự ngu xuẩn này.' Quốc vương khóc rống lên. Vua cố né tránh họ bằng những lời hứa hẹn; lúc đầu họ không nghe, nhưng rồi họ cũng nguôi dần và buộc đày hoàng tử đến một sa mạc sỏi đá xa xôi nào đó. Quốc vương ép phải nhận lợi. Xan-gia Da nghĩ: "Khi hay tin bị lưu đày, con ta sẽ đau khổ biết chừng nào.' Nhưng đây không phải là trường hợp đáng kể. Vít-van-ta-ra khiêm tốn nói: "Tâu phụ vương, con sẽ ra đi ngày mai, con sẽ không mang theo một bảo vật nào cả." Sau đó, hoàng tử đi tìm Mát-ri, vợ chàng. Chàng nói: "Mát-ri, anh phải rời khỏi kinh thành này; phụ vương đã đày anh đến một sa mạc độc địa nào đó, một sa mạc khó bề sống được. Em yêu quí của anh, đừng theo anh làm gì; em sẽ phải gánh chịu nhọc nhằn thê thảm; em sẽ phải bỏ lại con thơ; em sẽ phải chết mòn vì cô đơn hiu hắt. Hãy ở lại đây với các con; hãy ngự trên ngai vàng của em; phụ vương đày anh chứ đâu phải đày em." Công chúa đáp: "Hoàng tử, nếu hoàng tử bỏ em lại đây, em sẽ tự sát, và tội ác sẽ nằm tại ngưỡng cửa ra vào của hoàng tử." Vít-van-ta-ra không biết nói sao. Đưa mắt nhìn Mát-ri, chàng ôm chặt lấy nàng, nói: "Vậy thì chúng ta cùng đi" Mát-ri cảm ơn hoàng tử, nàng tiếp: "Em sẽ đưa các cơn theo em; em không thể bỏ các con lại đây để chết dần trong hiu quạnh."

Ngày hôm sau, Vít-van-ta-ra đưa Mát-ri, Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na lên một chiếc xe ngựa dọn sẵn, họ giong xe ra khỏi thành, quốc vương Xan-gia Da và hoàng hậu Phu-xa-ti khóc than thống thiết. Hoàng tử, vợ và các con đi cách kinh thành rất xa thì gặp một đạo sĩ bà-la-môn đến gần nói: "Thưa du khách, đây là đường đi Gia Da-tua-ra?" Vít-van-ta-ra đáp: "Vâng, thế ngài đến Gia Da-tua-ra để làm gì?" Đạo sĩ bà-la-môn nói: "Ta từ một nước xa xôi đến đây, ta nghe tại Gia Da-tua-ra có một hoàng tử độ lượng tên là Vít-van-ta-ra. Hoàng tử trước kia có một con voi kỳ diệu mà chàng đã tặng cho quốc vương Ca-linh-ga. Người ta bảo hoàng tử từ ái lắm. Ta muốn viếng thăm con người nhân từ độ lượng đó; ta muốn hỏi xin hoàng tử một điều. Ta biết không ai kêu cầu hoàng tử trong vô vọng". Vít-van-ta-ra nói với Đạo sĩ bà-la-môn : "Ta là người mà ngài muốn đi tìm; ta là Vít-van-ta-ra, con trai của vua Xan-gia Da Đây. Vì ta tặng con voi của ta cho quốc vương Ca-linh-ga nên phụ vương ta lưu đày ta. Này đạo sĩ bà-la-môn, ta có thể giúp ngài được gì?" Nghe qua moi. việc , đạo sĩ bà-la-môn than phiền cay đắng. Đạo sĩ nghẹn ngào nói: "Thế là họ đánh lừa ta! Ta đã từ nhà ra đi, mang theo biết bao hy vọng, giờ đây chả được gì, ta phải trở về chứ biết làm sao!" Vít-van-ta-ra ngắt lời đạo sĩ: "Này đạo sĩ bà-la-môn, hãy bình tĩnh, ngài không bao giờ kêu cầu hoàng tử Vít-van-ta-ra trong vô vọng đâu". Hoàng tử mở ngựa trao cho đạo sĩ. Đạo sĩ bà-la-môn cảm ơn vị ân nhân và ra đi.

Vít-van-ta-ra tiếp tục lên đường. Bấy giờ hoàng tử đích thân kéo xe. Sau đó chàng thấy một đạo sĩ bà-la-môn khác từ xa đi tơi, trông người nhỏ bé, lụ khụ, đầu tóc bạc phơ, miệng răng vàng khè. Đạo sĩ hỏi hoàng tử: "Thưa du khách, đây là đường đi Gia Da-tua-ra?" Hoàng tử đáp: "Vâng, thế ngài đến Gia Da-tua-ra để làm gì?" Đạo sĩ Bà-la-môn nói: "Ta nghe nói quốc vương của thành đó có một hoàng tử tên là Vít-van-ta-ra, chàng nhân từ lắm; chàng đã cứu vương quốc Ca-linh-ga khỏi chết đói, và bất cứ ai cầu xin chàng điều gì, chàng cũng không bao giờ từ chối. Ta sẽ đến gặp Vít-van-ta-ra, và ta tin là chàng sẽ không từ chối lời thỉnh nguyện của ta." Hoàng tử nói: "Nếu ngài đến Gia Da-tua-ra, ngài sẽ không gặp Vít-van-ta-ra; phụ vương chàng đã đày chàng ra sa mạc." Đạo sĩ bà-la-môn rú lên: "Đau buồn cho ta rồi! Ai sẽ giúp ta trong tuổi già sức yếu này? vậy là bao nhiêu hy vọng đều tan biến cả, ta sẽ về lại căn nhà nghèo khổ như khi cất bước ra đi!" Đạo sĩ khóc sướt mướt. Vít-van-ta-ra nói: "Đừng khóc nữa, ta là người mà ngài muốn tìm. Ngài không gặp ta trong vô vọng. Mát-ri, Gia-linh, Cờ-rít-na-gia-na, hãy xuống xe! Nó không phải là của ta nữa. ta đã biếu nó cho cụ Ông này." Đạo sĩ bà-la-môn vô cùng sung sướng.

Bốn người lưu đày lại tiếp tục cuộc hành trình. Giờ đây họ phải đi bộ, và khi các con thấm mệt, Vít-van-ta-na cõng Gia-linh. Mát-ri bế Cờ-rít-na-gia-na. Một vài ngày sau, họ lại gặp một đạo sĩ bà-la-môn thứ ba. Đạo sĩ cũng đang trên đường đến Gia Da-tua-ra để gặp hoàng tử Vít-van-ta-ra và xin của bố thí. Hoàng tử cởi hết y phục biếu đạo sĩ để đạo sĩ khỏi phải ra về với hai bàn tay trắng. Hoàng tử lại tiếp tục đi. Một đạo sĩ bà-la-môn thứ tư đến, người ngợm đen nám, gương mặt trông hách dịch, dữ tợn. Hắn gắt gỏng nói: "Đây là đường đến Gia Da-tua-ra phải không?" Hoàng tử đáp: "Vâng, thế ngài đến Gia Da-tua-ra để làm gì?" Vị đạo sĩ bà-la-môn muốn gặp Vít-van-ta-ra, chàng chắc chắn sẽ bố thí cho đạo sĩ một phẩm vật tuyệt diệu. Khi biết là mình đang đứng trước mặt hoàng tử bị lưu đày khốn khổ, chả khóc than kể lễ, đạo sĩ cất giọng giận dữ nói: "Ta từ xa lặn lội đến đây, điều đó hẳn không phải là vô ích. Ngươi hẳn đã mang theo nhiều châu báu, hãy đưa hết cho ta." Mát-ri đang đeo một chiếc vòng vàng, Vít-van-ta-ra hỏi xin nàng chiếc vòng; nàng tươi cười đưa chàng chiếc vòng, tên đạo sĩ bà la môn chụp lấy và đi mất.

Vít-van-ta-ra, Mát-ri, Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na tiếp tục lên đường. Họ vượt qua biết bao ghềnh thác tuôn tràn khủng khiếp; họ bám xuống những vực sâu phủ đầy bụi gai chằng chịt; họ băng qua những gò hoang sỏi đá nắng cháy chang chang. Đôi chân của Mát-ri bị đá sỏi cắt xẻ tan tành; hai gót của Vít-van-ta-ra mòn loét tới xương, họ đi đến đâu là để lại một lằn máu đến đó. Một hôm, vít-van-ta-ra đi đầu, nghe tiếng người sụt sùi nức nở; chàng quay lại và thấy Mát-ri đang ngồi bệt xuống đất, khóc than thương tủi cho thân phận nàng. Bắt gặp cảnh thống khổ, chàng nói: "Em yêu quí của anh, anh đã van xin em đừng theo anh đi đày, nhưng em không nghe. Đi, đứng dậy; dù mệt mỏi đến đâu chúng mình cũng đừng để cho các con phải khổ; đừng bận tâm đến những vết thương của chúng mình làm gì". Mát-ri thấy chân của chàng chảy máu, nàng rú lên: "Ồ, anh đau đớn hơn em nhiều! Em sẽ khắc phục đau khổ. Nàng cố đứng lên nhưng tay chân nàng bủn rủn, một lần nữa, nàng lại bật khóc trong nghẹn nghèo ai oán." Tất cả sức lực trong ta đã hao mòn hết rồi, ngay cả tình thương ấp ủ của chồng con ta cũng không đủ giúp ta can đảm. Ta sẽ chết đói chết khát trên mảnh đất khủng khiếp này; con ta sẽ chết, và có lẽ chồng ta cũng sẽ chết.

Từ thiên giới, Đế-thích luôn luôn theo dõi Vít-van-ta-ra và gia đình chàng. Vô cùng xúc động trước cảnh khốn khổ của Mát-ri, Đế-thích quyết định giáng trần, cải dạng thành một ông lão vui tính và ngồi trên lưng con tuấn mã phi như bay đến gặp hoàng tử. Ông lão tới gần Vít-van-ta-ra và ôn tồn nói: "Kính thưa hoàng tử, theo vóc dáng của ngài thì rõ ràng là ngài đã trải qua nhiều gian khổ. Cách đây không xa có một thành phố. Lão sẽ chỉ đường cho hoàng tử. Gia đình hoàng tử phải đến trọ nhà lão và có thể ở lại bao lâu cũng được." Ông lão hoan hỷ giục bốn kẻ lưu đày lên ngựa. Vít-van-ta-ra tỏ vẻ do dự, ông lão nói: "Ngựa này khỏe lắm, quí vị nặng là bao! Phần lão, lão sẽ đi bộ chả hề gì, chúng ta đâu phải đi xa." Vít-van-ta-ra ngạc nhiên nghe nói thành phố được xây dựng trên sa mạc tàn nhẫn này; hơn nữa, chàng chưa bao giờ nghe nói đến thành phố. Nhưng giọng nói của cụ ngọt ngào và Mát-ri yếu đến nỗi chàng phải quyết định đưa cả vợ con lên ngựa theo lời cụ.

Họ đi khoảng ba trăm bước thì thấy một thành phố huy hoàng xuất hiện trước mặt. Thành phố rộng bao la. Một con sông lớn chảy qua thành phố với nhiều vườn hoa xinh đẹp và nhiều vườn cây trái chín đầy cành. Ông lão đưa du khách đến các cổng chính của một tòa lâu đài lộng lẫy và nói: "Đây là nhà lão; ở đây, nếu quí vị muốn, quí vị có thể lưu lại suốt đời. Xin mời vào." Trong một căn phòng nguy nga rộng lớn. Vít-van-ta-ra và Mát-ri ngồi trên ngai vàng; dưới chân, các con đang nô đùa trên những tấm thảm dày sặc sỡ, ông lão biếu họ rất nhiều xiêm y xinh đẹp. Sau đó, những thức ăn thịnh soạn được dọn lên, cơn đói của họ nhờ thế mà dịu dần. Nhưng Vít-van-ta-ra cứ trầm tư suy nghĩ mãi. Bỗng nhiên, chàng đứng phắt dậy, ngõ lời với ông lão: "Thưa cụ, thế này là cháu bất tuân mệnh lệnh của phụ vương cháu. Phụ vương trục xuất cháu ra khỏi vương quốc Gia Da-tua-ra, bắt cháu sống trọn đời trên sa mạc, không được thọ dụng những tiện nghi thoải mái này, cháu không được phép. Thưa cụ, cho phép cháu rời khỏi nhà cụ." Ông lão cố thuyết phục chàng, nhưng vô ích; Vít-van-ta-ra, theo sau là Mát-ri và các con lên đường giã từ thành phố.

Ra ngoài cổng thành, chàng quay lại nhìn thành phố lần cuối, nhưng thành phố đã biến mất; nơi đó bấy giờ chỉ còn là bãi sa mạc nóng cháy. Vít-van-ta-ra sung sướng thấy mình không còn ở lại lâu hơn nữa. Chàng đến một ngọn núi, chung quanh toàn là rừng đồi bao la, chàng bắt gặp một túp lều của một ẩn sĩ nào đó xưa kia cư ngụ. Bằng lá cây, chàng làm một chiếc giường con nho nhỏ cho cả gia đình; sau cùng, không còn gì ân hận dày vò, chàng đã tìm thấy cảnh an lạc tại đó. Hằng ngày, Mát ri vào rừng hái trái, họ ăn toàn trái rừng, họ uống toàn nước suối, một con suối tuôn chảy trong veo mà họ đã khám phá bên cạnh túp lều của họ.

Bảy tháng trôi qua, họ chả gặp một người nào; rồi một hôm, một đạo sĩ bà-la-môn đi ngang qua. Mát-ri đã vào rừng hái trái, Vít-van-ta-ra ở nhà chăm sóc các con đang đùa nghịch trước lều. Vị đạo sĩ bà-la-môn dừng lại quan sát họ rất kỹ. Đạo sĩ nói với người cha: "Thưa bạn, bạn vui lòng cho ta xin các cháu được chăng?" Vít van-ta-ra kinh ngạc đến nỗi không nói nên lời. Chàng lo sợ, đưa mắt nhìn đạo sĩ và rồi tiếp chuyện với người: "Vâng, bạn vui lòng cho ta xin các cháu được chứ? Ta có một cô vợ trẻ hơn ta nhiều, đúng ra nàng là một người đàn bà hách dịch. Nàng lười làm công việc gia đình, nàng bắt ta tìm cho nàng hai em nhỏ có thể làm nô lệ cho nàng. Bạn không cho ta xin các cháu thì để làm gì? Hình như bạn nghèo khổ lắm; bạn phải vất vả lắm mới nuôi nổi chúng. Ở nhà ta, chúng sẽ có nhiều thức ăn, và ta sẽ cố thuyết phục vợ ta đối xử tử tế với chúng được chừng nào hay chừng đó." Vít-van-ta-ra ngẫm nghĩ: "Ta đang bị đòi hỏi một sự hy sinh vô cùng đau đớn. Ta biết làm sao bây giờ? Dù vị đạo sĩ có nói gì đi nữa thì con mình cũng sẽ chịu nhiều đau khổ ở nhà họ; vợ của hắn độc ác lắm, mụ ấy sẽ đánh đập con mình, mụ sẽ thí cho con mình những thức ăn thừa thãi. Nhưng vì ngài đã hỏi xin con mình, ta có quyền từ chối không?" Suy nghĩ kỹ trong giây lát, cuối cùng chàng nói: "Này đạo sĩ bà-la-môn, hãy đem các cháu đi; hãy đưa các cháu đi; hãy đưa các cháu về làm nô lệ cho vợ ngài." Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na òa lên khóc, mếu máo theo vị bà-la-môn ra đi.

Mát-ri trong lúc đó đang hái lựu, nhưng cứ mỗi lần hái được một trái thì nó lại tuột khỏi tay nàng. Điều này làm nàng lo sợ, nàng hối hả trở về. Nàng thương nhớ các con; nàng quay sang chồng hỏi: "Các con đâu?" Vít-van-ta-ra đang nghẹn ngào nức nở. "Các con đâu?" Vẫn không trả lời. Nàng hỏi lại lần thứ ba: "Các con đâu?" Nàng nói tiếp: "Trả lời, trả lời mau. Sự im lặng của anh là giết chế em đó." Bằng một giọng đau thương, Vít-van-ta-ra nói: "Có một đạo sĩ bà la môn đến, ngài muốn xin các con về làm nô lệ! Anh đã cho các con theo ngài rồi!" Mát-ri kêu lên : "Em có thể từ chối được không?" Mát-ri té xỉu, nàng bất tỉnh. Một hồi lâu, sau khi tỉnh lại, nàng kêu khóc nghe não nuột vô vàn. Nàng nhớ thương kể lể: "Con ơi, con sẽ làm mẹ đêm đêm giật mình thức giấc; mẹ đã chọn hái cho con những trái ngon đặc biệt, tên ác độc đó đã đem con đi rồi! Con vừa lững chững biết đi thì mẹ thấy họ bắt con phải chạy. Ở nhà họ, các con sẽ đói khát, các con sẽ bị đánh đập tàn nhẫn. Các con sẽ phục dịch trong nhà của một kẻ xa lạ. Các con sẽ lén nhìn ra đường nhưng không bao giờ gặp lại mẹ cha. Môi các con sẽ bị khô héo, chân các con sẽ bị đau tê vì đá nhọn cắt xẻ; sức nóng của mặt trời sẽ làm nám cả mặt mũi các con. Con ơi, mẹ cha lúc nào cũng chịu đựng gian khổ cho con. Cha mẹ đã mang con qua vùng sa mạc hãi hùng này, lúc đó các con đâu có khổ đau, nhưng giờ đây, việc gì sẽ làm cho các con đau khổ?"

Trong khi nàng đang vật vã than khóc thì có một đạo sĩ bà-la-môn khác ngang qua rừng, một cụ Ông đi đứng quờ quạng. Đạo sĩ giương đôi mắt lèm nhèm nhìn công chúa rồi quay sang bắt chuyện với hoàng tử Vít-van-ta-ra; "Thưa hoàng tử, như ngài thấy, lão già nua yếu đuối; lão không có ai ở nhà để sớm hôm giúp lão; lão thức ngủ một mình; lão chả có con trai con gái gì chăm sóc lão. Nào, cô này còn trẻ, nàng trông khỏe mạnh lắm, cho lão xin cô này về làm nàng hầu. Nàng sẽ đỡ lão thức dậy; nàng sẽ dìu lão đi ngủ; nàng sẽ canh chừng giấc ngủ cho lão. Thưa hoàng tử, cho lão xin cô này, và như vậy là hoàng tử sẽ làm được một việc từ thiện, một việc thánh thiện, một nghĩa cử sẽ được mọi người ca ngợi khắp thế giới". Vít-van-ta-ra chăm chú lắng nghe; chàng đắn đo suy nghĩ. Chàng nhìn sang Mát-ri: "Em yêu quí, em nghe đạo sĩ bà-la-môn nói chứ? Em tính sao?" Nàng đáp: "Anh đã cho đứt hai con Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na yêu quí rồi, anh có thể bố thí nốt em cho vị đạo sĩ này; em sẽ không than phiền gì cả."

Vít-van-ta-ra cầm tay Mát-ri đặt vào tay của vị đạo sĩ bà-la-môn. Chàng không thấy một chút gì ân hận. Chàng chả hề rơi một giọt nước mắt. Đưa tay đón nhận người phụ nữ, đạo sẽ bà-la-môn cảm ơn hoàng tử và nói: "Này Vít-van-ta-ra, nguyện cầu ngài sớm tỏ ngộ sự huy hoàng cao quí; nguyện cầu ngày kia ngài sẽ thành Phật!" Đạo sĩ bà-là-môn ra đi, nhưng đột nhiên ngài quay trở lại nói: "Ta sẽ tìm nàng hầu ở một xứ khác; ta sẽ gởi cô này ở lại đây với các thiên thần thánh nữ của núi rừng sông suối; từ nay về sau, ngài không được biếu nàng cho ai nhé!" Trong khi ông lão bà-la-môn nói như vậy thì sắc diện dần dần biến đổi và đẹp hẳn ra, khuôn mặt của ông lão giờ đây hiện rõ nét hân hoan rạng rỡ.

Vít-van-ta-ra và Mát-ri nhận ra thiên chủ Đế-thích. Họ sụp lạy dưới chân ngài; Thiên-chủ nói với họ: "Các ngươi có thể cầu xin ta mỗi người một điều, ta sẽ ban ân huệ cho các ngươi". Vít-van-ta-ra nói: "Ồ, nguyện cầu ngày kia con có thể thành Phật để mang sự giải thoát đến cho những ai bị tử sinh thống khổ trong chốn núi rừng!" Thiên-chủ đáp: "Nguyện cầu ngươi sớm được huy hoàng, nguyện cầu ngày kia ngươi sẽ thành Phật!" Mát-ri tiếp lời: "Bạch ngài, xin ban cho con ân huệ này: Nguyện cầu đạo sĩ bà-la-môn, người đã xin con chúng con, quyết định bán chúng thay vì giữ chúng trong nhà, nguyện cầu đạo sĩ tìm được người mua ở xứ Gia Da-tua-ra, và nguyện cầu ngươi mua chính là Xan-gia Da." Thiên-chủ đáp: "Được rồi!" Thiên-chủ thăng thiên. Mát-ri thì thầm: "Ồ, nguyện cầu quốc vương Xan-gia Da ân xá cho con trai ngài!" Nàng nghe thiên thần nói: "Được rồi!"

Ngay lúc đó. Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na về đến căn nhà mới của chúng. Vợ của đạo sĩ bà la môn rất hài lòng với hai em bé nô lệ này. Mụ bắt chúng làm việc ngay. Mụ hí hửng ra lệnh. Các em phải vâng theo tính khí bất thường không đâu vào đâu của mụ, nhưng mụ là mụ chủ khắt nghiệt đến nỗi mới đó mà chúng chả còn một chút thiện chí nào làm hài lòng mụ. Mụ thường xuyên chửi mắng đánh đập chúng. Mụ càng đối xử chúng tàn tệ bao nhiêu thì chúng càng cảm thấy chán nản vô vọng bấy nhiêu, cuối cùng mụ nói với đạo sĩ: "Tôi không cần hai đứa nhỏ này nữa. Hãy bán chúng đi và kiếm cho tôi vài đứa khác, những tên nô lệ biết cách làm việc và vâng lời kìa". Đạo sĩ bà-la-môn dẫn hai đứa nhỏ đi lang thang từ thành phố này đến thành phố khác, cố bán cho được chúng, nhưng chả ai chịu mua: giá cao quá.

Sau cùng, vị ấy đến Gia Da-tua-ra. Một trong các quan ngự sử của quốc vương thấy họ lang thang trên đường phố, ông chăm chú nhìn hai em bé, nhìn thân hình tìu tụy và mặt mày rám nắng của chúng, bỗng nhiên, nhờ hai đôi mắt mà ông nhận ra chúng. Ông chận vị đạo sĩ bà-la-môn lại hỏi: "Ngài được hai em bé này ở đâu?" Đạo sĩ đáp: "Thưa ngài, tôi được chúng trong một khu rừng. Người ta biếu chúng cho tôi đem về làm nô lệ; chúng ngỗ ngáo lắm, tôi đang đem bán chúng đó." Quan ngự sự đâm ra lo nghĩ, quay nhìn hai em bé, quan hỏi: "Cha các cháu mất rồi sao mà các cháu phải chịu cảnh nô lệ thế này?" Gia-linh đáp: "Thưa không ạ! Cha mẹ chúng cháu còn sống, nhưng cha bố thí chúng cháu cho đạo sĩ bà-la-môn này." Quan ngự sử kêu to lên: "Quốc vương ơi, Vít-van-ta-ra đã cho đứt cháu nội của ngài, Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na, cho một đạo sĩ bà-la-môn rồi. Chúng làm nô lệ cho y. Y không hài lòng với công việc hầu hạ của chúng nên đem chúng dạo bán từ thành phố này đến thành phố khác." Quốc vương Xan-gia Da-ra lệnh đưa đạo sĩ bà-la-môn và hai em nhỏ đến gặp ngài ngay. Chúng được nhận diện liền.

Thấy cảnh khốn khổ của hai em bé thuộc dòng tộc mình, quốc vương khóc than thê thảm. Gia-linh ngõ lời van xin: "Tâu quốc vương, xin mua giùm chúng cháu, chúng cháu vô vàn cực khổ trong nhà của đạo sĩ bà-la-môn, chúng cháu muốn ở với ngài, ngài sẽ thương yêu chúng cháu. Nhưng xin đừng bắt chúng cháu bằng quyền lực; cha cháu biếu chúng cháu cho đạo sĩ bà-la-môn và mong rằng nhờ sự hy sinh đó mà cha chúng cháu sẽ được nhiều phước đức cho bản thân và cho cả chúng sanh." Quốc vương hỏi đạo sĩ bà-la-môn: "Ngươi muốn bán hai em bé này bao nhiêu?" Đạo sĩ bà-la-môn đáp: "Với chúng thì xin quốc vương cho một ngàn đầu bò". "Tốt lắm". Quốc vương quay sang quan ngự sử nói: "Giờ đây khanh sẽ là người đứng sau trẫm ở vương quốc này, hãy biếu đạo sĩ bà-la-môn này một ngàn đầu bò và trả thêm cho y một ngàn nén vàng." Sau đó quốc vương, theo sau là Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na, đến gặp hoàng hậu Phu-xa-ti. Vừa trông thấy cháu nội, bà sung sướng đến khóc cười lẫn lộn. Bà mặc y phục sang trọng cho chúng và đeo cho chúng nhiều vòng nhẫn xinh đẹp. Bà hỏi cha mẹ chúng. Gia linh đáp: "Cha mẹ chúng cháu sống trong rừng, ở trong một túp lều sơ sài trên một sườn núi. Cha mẹ chúng cháu bố thí hết sạch tài sản rồi. Cha mẹ chúng cháu sống nhờ trái cây và nước suối, bạn bè thân thích toàn là dã thú trong rừng." Phu-xa-ti kêu lên: "Hoàng thượng ơi, sao hoàng thượng không gọi con của hoàng thượng bị lưu đày về!" Vua Xan-gia Da phái một sứ thần đến gặp hoàng tử Vít-van-ta-ra; quốc vương xin lỗi hoàng tử và lệnh cho hoàng tử về Gia Da-tua-ra gấp.

Khi về gần đến thành, hoàng tử nhìn thấy phụ vương, mẫu hậu và các con ra đón chàng; theo sau là một đám đông dân chúng đã nghe nói đến cảnh khốn khổ tột cùng và đức hạnh kỳ diệu của Vít-van-ta-ra, họ hỷ xả tất cả và ca ngợi chàng hết lời. Quốc vương nói với hoàng tử: "Con yêu quí của cha, cha đã làm một việc bất công nghiêm trọng với con; mong con hiểu cho cha sự ân hận này; mong con thương cha: hãy quên đi lỗi lầm nông nổi của cha; mong con cảm thương dân chúng kinh thành: hãy quên đi lối cư xử tệ bạc của họ với con. Những nghĩa cử từ ái của con sẽ không bao giờ làm phiền lòng cha và dân chúng nữa." Vít-van-ta-ra sung sướng ôm lấy phụ vương, trong khi Mát ri ôm chặt lấy Gia Linh và cờ- rít-na-gia-na, còn Phu-xa-ti vui mừng đến bật khóc. Khi hoàng tử ngang qua các cổng hoàng thành, chàng được mọi người đồng thanh ca ngợi. Này bà con dòng tộc Thích-ca, ta là Vít-van-ta-ra đây! Qúi vị vẫn tán thán ta như ngày nào. Hãy lên đường đi đến giải thoát."

Đức Thế Tôn im lặng. Cả dòng tộc Thích-ca chăm chú lắng nghe. Họ đảnh lễ Ngài và xin cáo lui. Nhưng chả ai nghĩ đến việc cúng dường ngọ trai ngày mai cho Ngài.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12977 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 17 2008, 02:51 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 31
Truyện Cò Và Cá


Khi vua Tần-bà-sa-la hay tin Đức Thế Tôn sắp rời rừng Trúc-lâm để lên đường vào dịp nào đó, quốc vương cùng con trai của mình là hoàng tử A-xà-thế (Ajatasatru) đến viếng Ngài.

Đức thế Tôn nhìn hoàng tử trẻ tuổi, rồi quay sang quốc vương nói:

"Thưa quốc vương, nguyện cầu A-xà-thế xứng hợp với lòng tin yêu của ngài."

Đức Thế Tôn lại chăm chú nhìn hoàng tử, Ngài nói:

"Này A-xà-thế, hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ những lời ta nói. Mưu mẹo không bao giờ thành công, độc ác không bao giờ thắng thế. Có một câu chuyện sẽ chứng minh điều đó, một câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu, một câu chuyện mà chính ta tai nghe mắt thấy.

Thuở nọ, ta đang cư ngụ trong một khu rừng; ta là mộc thần. Cây đó mọc giữa hai hồ nước, một hồ nhỏ bé, tầm thường; hồ kia rộng lớn, xinh đẹp. Hồ nhỏ có nhiều cá; hồ lớn sen mọc đầy. Suốt cả mùa hè oai bức năm đó, hồ nhỏ hầu như bị khô cạn hoàn toàn, còn hồ lớn, nhờ bóng sen che nắng, luôn luôn đầy nước và mát mẻ êm đềm. Một con cò băng ngang giữa hai hồ, thấy cá và dừng lại. Đứng một chân, hắn bắt đầu suy nghĩ: "Bọn cá này là một phần thưởng hợp pháp. Nhưng chúng lanh lắm; nếu ta tấn công ồ ạt, chúng sẽ trốn hết. Ta phải dùng mưu. Bọn cá khốn nạn thật! Chúng bị khủng hoảng trầm trọng trong khu hồ cạn nước này! Đằng kia có một khu hồ khác, nước sâu và mát, chúng có thể nhởn nhơ bơi lội, mặc sức vẫy vùng!'.

Một cậu cá thấy cò đứng tư lự, trông nghiêm trang như một ẩn sĩ, cá hỏi: "Bác đang làm gì đó, thưa bác cò? Dường như bác đang suy nghĩ gì thì phải.' Cò đáp: "Này cá, ta đang suy nghĩ, vâng, thật vậy, ta đang suy nghĩ. Ta đang tự hỏi làm sao các cậu và bạn bè các cậu có thể thoát khỏi phận số đau buồn.' "Bác nói sao? Phận số đau buồn của chúng cháu ư?' "Này cậu cá khốn nạn! Các cậu đành chịu chết thê thảm trong hồ nước cạn này. Mỗi ngày, độ nóng càng tăng bao nhiêu thì mực nước lại càng giảm bấy nhiêu, và rồi việc gì sẽ xảy đến cho các cậu? Bỡi vì rồi đây nước hồ sẽ khô hết, các cậu sẽ chết sạch! Bọn các cậu khốn nạn khốn nạn lắm! Ta khóc giùm cho các cậu đó.'

Nghe cò nói như vậy, bọn cá thất kinh, chúng than: "Việc gì sẽ xảy đến cho chúng cháu? Khi nào hơi nóng sẽ bốc cạn hồ nước?' Chúng quay sang cò: "Bác cò, bác cò, bác không thể cứu chúng cháu sao?' Cò lại giả vờ tư lự; cuối cùng, cò đáp: "Ta tin là ta có cách giải cứu khốn khổ cho các cậu.' Bọn cá chăm chú lắng nghe. Cò tiếp: "Gần đây có một khu hồ tuyệt diệu. Nó lớn hơn nhiều so với khu hồ mà các cậu đang sống, lá sen phủ kín mặt hồ, làm cho nước hồ mùa hè không bao giờ cạn. Hãy theo lời ta, hãy sang sống ở hồ đó. Ta có thể cắp các ngươi trong mỏ của ta, mỗi lần cắp một cậu, và rồi mang hết đến đó. Thế là tất cả các cậu sẽ được cứu thoát.'

Bọn cá sung sướng. Chúng sắp thuận theo lời đề nghị của cò thì tôm càng lên tiếng: "Ta không bao giờ nghe theo điều gì quái lạ.' Cá hỏi tôm: "Có gì làm cậu kinh ngạc thế?' Tôm nói: "Kể từ lúc khai thiên lập địa, ta biết không bao giờ cò quan tâm đến cá trừ phi hắn định xơi thịt.' Cò tỏ vẻ bất bình nói: "Cái gì! Mày là loài tôm càng ác độc, mày nghi tao cố tình đánh lừa bọn cá khốn nạn sắp lâm vào cõi chết này sao! Này cá, ta muốn cứu các cậu; ta muốn tìm hạnh phúc cho các cậu. Hãy xem lòng chân thật của ta, nếu các cậu muốn. Hãy chọn đại một cậu cá nào đó, ta sẽ dùng mỏ cắp nó đến hồ sen. Hắn sẽ thấy mọi việc; hắn sẽ nhởn nhơ bơi lội một lát rồi ta sẽ đưa nó về đây.' Cá nói: "Được thế thì hay quá!' Và để thực hiện cuộc hành trình sang hồ sen, chúng chọn một cậu cá lớn tuổi, dù mờ mắt nhưng được coi là khôn ngoan hơn cả. Cò mang cá đến hồ, thả cá xuống nước, và để cho cá tha hồ bơi lội. Cá già khoái lắm, khi về gặp lại bạn bè, cá hết lời ca ngợi cò.

Bọn cá giờ đây hoàn toàn tin tưởng và dâng cả mạng sống cho cò. Chúng nói: "Xin bác cứu chúng cháu, xin đưa chúng cháu đến hồ sen'. "Chiều ý các cậú cò nói. Thế là cò liền dùng mỏ gắp lại cậu cá già mờ mắt; lần này thay vì mang cá đến hồ, cò lại thả cá trên mặt đất và dùng mỏ xé xác nó ra; sau đó cò ăn hết thịt cá, bỏ lai bộ xương tại một gốc cây, gốc cây mà ta là mộc thần trên đó. Làm xong công việc, cò trở lại hồ nhỏ nói: "Bây giờ cậu nào sẽ đi với ta?' Bọn cá nóng lòng muốn thấy căn nhà mới, và thế là cò ta tha hồ chọn cá ngon miệng. Sau đó, từng con từng con cò xơi sạch hồ cá, chỉ còn lại tôm càng. Tôm càng đã bày tỏ thái độ không tin cò, giờ đây tôm tự nhủ: "Ta không tin là các bạn cá có thể sống được ở hồ sen đó. Ta e rằng cò đã lợi dụng lòng tin của cá. Nhưng, điều may mắn cho ta là ta sẽ giã biệt khu hồ khốn khổ này để đến một khu hồ khác rộng rãi hơn, thoải mái hơn. Cò phải chở ta, nhưng ta không được liều lĩnh. Nếu cò lừa đảo kẻ khác thì ta phải trả thù cho chúng' Cò đến gần tôm nói: "Nào, đến lượt cậu.' Tôm nói: "Bác sẽ chở cháu bằng cách nào?' "Trong miệng bác, như các cậu khác.' Cò đáp. Tôm nói: "Không, không; vỏ cháu trơn lắm; cháu rất có thể tuột khỏi miệng bác. Tốt hơn hết là cháu bám chặt chân cháu vào cổ bác; cháu sẽ cẩn thận, không làm đau bác đâu.' Cò chấp thuận.

Cò đáp xuống một gốc cây. Tôm hỏi: "Bác định làm gì thế? Chúng ta mới đi được nửa đường. Bác mệt rồi sao? Khoảng cách giữa hai hồ đâu có rộng lắm!' Cò lúng túng không đáp được. Hơn nữa, tôm bắt đầu siết chặt cổ cò và gằn giọng nói: "Thứ gì đây! Đống xương cá tại gốc cây này là bằng chứng hiển nhiên lòng dạ phản phúc của mi. Mi sẽ không gạt được ta như đã từng gạt nhiều kẻ khác. Ta sẽ giết mi, dù ta phải chết trong cuộc đọ sức này.' Tôm siết chặt râu càng. Cò đau quá; nước mắt ràn rụa; cò van xin: "Cậu tôm ơi, xin đừng siết cổ tôi nữa. Tôi sẽ không ăn thịt cậu. Tôi sẽ chở cậu đến hồ!' "Thế thì đí Tôm nói. Cò đi đến bờ hồ và vương cổ dài trên mặt nước. Thay vì rơi tỏm xuống hồ, tôm siết chặt cổ cò, râu càng siết mạnh đến độ cổ cò phải đứt ra. Mộc thần không thể không lên tiếng: "Hay thay, tôm càng!' ". Đức Thế Tôn tiếp: "Mưu mẹo không bao giờ thành công. Độc ác không bao giờ thắng thế. Không sớm thì chầy, cò gian phải gặp tôm càng. Hoàng tử A-xà-thế, hãy luôn luôn ghi nhớ điều đó!"

Cảm hơn Đức Thế Tôn đã dạy cho con mình một bài học quí giá, vua Tần bà sa la nói:

"Bạch Đức Thế Tôn, con xin nguyện một điều.

"Cho biết xem" Đức Thế Tôn nói.

"Bạch Đức Thế Tôn, khi Ngài đi rồi, con sẽ không thể nào kính lễ Ngài, con sẽ không thể nào thường xuyên cúng dường Ngài, và điều đó làm con buồn lắm. Xin Ngài cho con một lọn tóc, xin Ngài cho con vài cộng móng tay, con sẽ tôn trí tất cả trong tháp giữa hoàng cung của con. Thế là con sẽ giữ được chút gì gọi là một phần thân thể của Ngài, và mỗi ngày, con sẽ kết hoa tươi, đốt hương quí để trang hoàng lễ bái trong tháp."

Đức Thế Tôn biếu tất cả những gì mà Tần-bà-sa-la cầu xin, Ngài nói:

"Hãy tôn trí tóc và móng tay này trong tháp, nhưng trông tâm con, hãy ghi nhớ những gì thầy dạy."

Vua Tần-bà-sa-la hoan hỷ trở lại hoàng cung, Đức Thế Tôn lên đường sang thành Ca-tỳ-la-vệ.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12976 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 16 2008, 03:58 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 30
Tịnh Phạn Phái Sứ Thần Đến Gặp Con Mình



Vua Tịnh-Phạn hay tin con mình đã chứng đắc vô thượng bồ đề và ở trong rừng Trúc-lâm, tại thành Vương-xá. Quốc vương mong gặp lại Ngài. Vua phái một sứ giả đến bạch Phật như vầy: "Bạch Đức Thế Tôn, phụ vương của Ngài, vua Tịnh-Phạn, mong gặp Ngài."

Khi đến rừng Trúc-lâm, sứ giả thấy Đức Thế Tôn đang giảng dạy các môn đệ:

"Có một cánh rừng nối liền với một sườn núi và dưới chân núi là một khu hồ rộng, sâu. Dã thú sinh sống trên bờ hồ đó. Có một kẻ từ đâu xuất hiện, hắn muốn hãm hại các loài dã thú đó, muốn làm cho chúng đau khổ, muốn làm hại chúng. Hắn rào bít con đường thông thương ra khỏi hồ, con đường lui tới an toàn, và hắn mở ra một đoạn đường ngụy tạo dẫn vào một cánh đầm lầy khủng khiếp. Dã thú gặp nạn; chúng sẽ chết từng con một. Trái lại, có một người nào đó xuất hiện để tìm ra sự an lạc, hạnh phúc, phồn vinh cho dã thú đó. Người ấy sẽ hủy bỏ lối đi ngụy tạo dẫn vào đầm lầy và mở ra một lộ trình an toàn dẫn tới đỉnh núi êm đềm. Thế là dã thú sẽ thoát khỏi nguy khốn, chúng sẽ được phồn vinh phát đạt. Này các đệ tử, hãy nhận ra những gì ta muốn nói với các ngươi. Ai sống gần lạc thú trần gian, người ấy như đã thú sống trên bờ hồ sâu rộng đó. Kẻ hãm hại ta, bức bách ta, tiêu diệt ta, ấy chính là tên ác quỉ Ma-vương. Cánh đầm lầy mà tất cả chúng sanh tự trầm mình trong đó là ái dục, là vô minh. Người mưu cầu hạnh phúc, an lạc và thịnh vượng cho chúng sanh là Đấng Toàn giác, là Bậc Thánh Giả, là Đức Phật từ bị Này các đệ tử, Người ấy là ta vậy. Ta mở đường an lành; chính ta phá hủy lộ trình ngụy tạo. Các ngươi sẽ không vào đầm lầy; các ngươi sẽ lên núi, các ngươi sẽ đạt đến đỉnh cao rực rỡ tuyệt vời. Tất cả những gì Đức Thế Tôn làm đều là thể hiện lòng từ bi và mưu tìm hạnh phúc cho môn đệ. Này các đệ tử, ta đã tìm kiếm sự an lạc cho các ngươi.

Sứ giả sung sướng lắng nghe và rồi sụp lạy dưới chân Đức Thế Tôn, bạch rằng!

"Bạch Đức Thế Tôn, xin nhận con vào hàng đệ tử của Ngài."

Đức Thế Tôn dang tay nói:

"Này sa môn, hãy đến đây."

Sứ giả đứng lên, và, bỗng nhiên, y phục cá nhân biến thành hình dạng và màu sắc y phục của một sa môn. Sứ giả quên hết mọi việc, quên cả thư tín của Tịnh-Phạn truyền đi.

Quốc vương mệt mỏi đợi chờ sứ giả trở về. Mỗi ngày, lòng mong mỏi gặp con lại gia tăng. Vua phái một sứ thần khác đến rừng Trúc-lâm. Nhưng rồi quốc vương cũng hoài công chờ đợi người ấy trở về. Quốc vương chín lần phái sứ thần đến gặp Đức Thế Tôn, chín lần được nghe thánh ngôn của Phật, các sứ thần quyết tâm ở lại và xin xuất gia làm sa môn.

Vua Tịnh-Phạn cuối cùng gọi Ưu Đà Di (Udayin) đến.

Quốc vương nói: "Này Ưu Đà Di, như khanh biết, chín sứ giả lên đường đến rừng Trúc-lâm không một ai trở về, không ai cho trẫm biết thư tín của trẫm được đón nhận thế nào. Trẫm chả biết họ có tiếp xúc được với con trẫm không, họ có gặp con trẫm không. Ưu Đà Di, trẫm sốt ruột lắm! Trẫm già rồi, cái chết đang mai phục trẫm đó. Trẫm có lẽ chỉ sống đến ngày mai, nhưng khó mà lường được những ngày sau đó. Này Ưu Đà Di, trước khi nhắm mắt buông tay, trẫm muốn gặp mặt con trẫm. Khanh xưa kia là bạn tâm giao của con trẫm; Giờ đây, mong khanh hãy đến gặp mặt con trẫm. Trẫm nghĩ không ai có thể được tiếp đón trọng vọng như khanh. Hãy nói cho con trẫm biết nỗi khổ đau của trẫm; hãy nói cho con trẫm biết niềm ước vọng của trẫm, nguyện cầu sao con trẫm đừng thờ ơ lạnh nhạt!"

Ưu Đà Di đáp: "Tâu bệ hạ, hạ thần sẽ đị"

Ưu Đà Di lên đường. Vừa đến rừng Trúc-lâm, Ưu Đà Di đã quyết tâm làm sa môn, nhưng lời lẽ tâm sự của vua Tịnh-Phạn quá khắc sâu vào tâm khảm, Ưu Đà Di suy nghĩ: "Ta sẽ báo cho Đức Thế Tôn biết nỗi đau khổ của phụ vương Ngài. Ngài sẽ xúc động thương cảm mà về thăm phụ vương."

Đức Thế Tôn sung sướng thấy Ưu Đà Di thành một trong những đệ tử của Ngài.

Mùa đông hầu như đã quạ Một hôm, thấy thời tiết thuận tiện, Ưu Đà Di bạch Phật:

"Cỏ cây đang bừng rộ nở hoa, mai đây chúng sẽ đâm chồi nảy lộc. Hãy xem những tia nắng mặt trời lung linh qua các cành lá. Bạch Đức Thế Tôn, đây là lúc thời tiết thuận tiện để lên đường. Khí hậu không lạnh, không nóng; và khắp mặt đất bao phủ một màu xanh mơn mởn. Chúng ta sẽ khỏi bận tâm khất thực dọc đường. Bạch Đức Thế Tôn, đây là lúc thời tiết thuận tiện để lên đường."

Đức Thế Tôn mỉm cười hỏi Ưu Đà Di:

"Tại sao ngươi giục ta lên đường, Ưu Đà Dỉ"

"Bạch Đúc Thế Tôn, phụ vương Ngài, vua Tịnh-Phạn, sẽ sung sướng gặp lại Ngài."

Đức Phật suy nghĩ trong giây lát rồi nói:

"Ta sẽ đến thành Ca-tỳ-la-vệ, ta sẽ về thăm phụ vương ta."


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12865 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 16 2008, 03:57 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 29
Phật Hóa Giải Các Cuộc Xung Đột Của Dân Thành Vương Xá



Tín đồ mỗi lúc một gia tăng, quốc vương Tần-bà-sa-la lại bày tỏ đức tin và tình bạn sâu sắc của mình với Đức Thế Tôn. Vua thường thỉnh Phật đến hoàng cung và mời Ngài ngự tại ngai vàng. Mỗi lần thỉnh Phật như thế, vua lại hạ lệnh trang hoàng kinh thành sao cho ra vẻ vui tươi. Hoa giăng khắp phố, cờ bay rợp nhà, hương thơm ngào ngạt, ai ai cũng chưng diện y phục sặc sỡ. Quốc vương đích thân cầm lọng vàng đi đầu nghênh đón và che nắng Đức Thế Tôn.

Nhiều thanh niên quí tộc nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp và nguyện xin qui ỵ Họ muốn làm thánh, họ từ bỏ gia đình tài sản, và chẳng mấy chốc, khu rừng Trúc-lâm đầy ắp những môn đệ thuần thành.

Nhưng cũng có nhiều người tại thành Vương-xá bực tức thấy Phật hóa độ số người xuất gia quá đông, họ lên tiếng phẫn uất khắp kinh thành.

Họ tra hỏi: "Tại sao hoàng tử dòng Thích-ca lại có mặt trên đất nước chúng tả Chưa đủ đạo sĩ thuyết giảng đạo đức cho chúng ta sao? Họ không quyến rủ thanh niên chúng ta bỏ nhà bỏ cửa như vị đạo sư đó. Ừa, ngay cả con cái chúng ta cũng đang từ bỏ chúng tạ Vì hoàng tử dòng Thích-ca mà biết bao phụ nữ phải lâm cảnh góa bụa! Vì hoàng tử dòng Thích-ca mà biết bao gia đình phải mất con mất cháu! Chỉ vì đạo sư đó có mặt trên đất nước chúng ta mà đau khổ sẽ xảy đến cho vương quốc này!"

Đức Thế Tôn sau đó gặp rất nhiều kẻ thù trong số dân cư trong thành. Mỗi khi gặp môn đệ của Ngài, họ tấn công hoặc hủy báng thậm tệ.

Một người đi qua nói: "Vị đại sa môn đó đến thành Vương-xá và chiếm trọn khu rừng Trúc-lâm; vị ấy sẽ chiếm cả vương quốc Ma-kiệt Đà (Magada) này không chừng?"

Một người khác nói: "Vị đại sa môn đó đến thành Vương-xá và đoạt cả môn đệ của Sa-xa Dạ; ngày nay vị ấy sẽ còn quyến rủ ai nữa đây?"

Người thứ ba nói: "Một tai họa dịch hạch còn ít nguy hại hơn là vị đại sa môn đó, bịnh dịch hạch sát hại trẻ em ít hơn."

Một phụ nữ thở dài nói: "Bịnh dịch hạch gây cảnh góa phụ là bao!"

Các môn đệ im lặng. Họ cảm thấy lòng phẫn uất của quần chúng đang dâng cao, họ thuật lại những lời thóa mạ mà họ đã nghe thấy cho Đức Thế Tôn rõ. Đức Thế Tôn đáp: "Này các đệ tử, đừng bận tâm về điều đó. Họ sẽ sớm chấm dứt thôi. Đối với những ai theo hủy báng lăng nhục các ngươi, các ngươi hãy nhẹ nhàng từ tốn nói với họ: "Bởi vì họ hiểu biết sự thật, sự thật chân chính mà các tráng sĩ tin theo, sự thật chân chính mà các đấng toàn thiện giáo hóa. Ai dám xúc phạm đến Phật, bậc thánh giả hóa độ bằng uy lực của sự thật?' Thế là họ sẽ in ngay, và chỉ vài ngày sau đó, khi dạo qua kinh thành, các ngươi sẽ thấy được tán dương cung kính."

Đúng như lời Phật dạy. Lời lẽ hủy báng không còn nữa, mọi người ở thành Vương-xá đều tôn vinh môn đệ của Đức Thế Tôn.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12864 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 16 2008, 03:56 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 28
Xá Lợi Phất Và Mục Kiền Liên



Hai thanh niên bà-la-môn, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên (Sariputra, Maudgalyayana) bấy giờ cũng đang cư ngụ tại thành Vương-xá. Họ là bạn tâm giao và cũng là đồ đệ của ẩn sĩ San-xa Dạ (Sanjaya). Họ đã hứa với nhau: "Ai đắc đạo trước thì thông báo ngay cho người kia cùng biết."

Một hôm, Xá-lợi-phất thấy Át-bệ đang khất thực trong thành Vương-xá. Ông rất đỗi ngạc nhiên về vẻ mặt phúc hậu hoan hỷ, phong thái cao quí hiền hòa, cốt cách điềm tĩnh uy nghiêm của Át-bệ. Ông tự nhủ:

"Đúng rồi, có một đạo sĩ đã xuất hiện trên đời và đã tìm ra chánh đạo dẫn đến thánh quả. Ta phải đến gặp ngài ấy, ta phải hỏi xem đạo sư của ngài ấy là ai và ngài ấy qui ngưỡng theo giáo pháp nào"

Nhưng rồi ông ngẫm nghĩ:

"Giờ này chưa phải lúc để hỏi ngài. Ngài đang khất thực; ta không nên làm phiền ngài. Ta sẽ theo ngài, đợi ngài khất thực xong, ta sẽ đến hầu chuyện với ngài."

Tôn giả Át-bệ bấy giờ nghỉ khất thực. Xá-lợi-phất đến gặp ngài và chào hỏi ngài rất thân mật. Át-bệ cũng khiêm tốn đáp lại lời chào hỏi của Xá-lợi-phất.

Xá-lợi-phất hỏi: "Này bạn, dung mạo của bạn trầm tĩnh làm sao! Ánh mắt của bạn sao mà trong sáng thế! Ai đã thuyết phục bạn xuất giả Bổn sư của bạn là ai? Bạn qui phục theo giáo pháp nào?"

Át-bệ đáp: "Thưa bạn, đức Đại sa môn, con trai của dòng tộc Thích-ca, là bổn sư của tôi"

"Này bạn, bổn sư của bạn nói gì, Ngài dạy những gì?"

"Thưa bạn, tôi mới xuất gia học đạo, tôi mới lãnh hội giáo pháp chỉ trong một thời gian ngắn; tôi chưa thể luận giải dài dòng, nhưng tôi có thể cho bạn biết tóm lược tinh thần của giáo pháp."

Xá-lợi-phất nói: "Này bạn, xin bạn nói ít nhiều gì cũng được, miễn là bạn cho tôi biết tinh thần của giáo pháp. Đối với tôi, chỉ có tinh thần của giáo pháp là quan trọng."

Tôn giả Át-bệ đọc câu:

"Đấng Toàn Giác thuyết giảng nguyên nhân, Đấng Toàn Giác thuyết giảng cứu cánh."

Xá-lợi-phất vô cùng hoan hỷ. Hình như sự thật đã hiển lộ trọn vẹn trước mắt người. Người suy nghĩ: "Các pháp do duyên sanh ắt phải do duyên diệt."Người cảm ơn Át-bệ, và, với niềm hy vọng tràn đầy, người đi tìm Mục-kiền-Liên.

Trông thấy Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên hỏi: "Này bạn, dung mạo của bạn trầm tĩnh làm sao! Ánh mắt của bạn sao mà trong sáng thế! Bạn đắc đạo rồi chăng?"

"Vâng, thưa bạn. Gần thành Vương-xá có một đạo sĩ thuyết giảng về sự giải thoát sanh tử."

Xá-lợi-phất tường thuật lại cuộc hội ngộ của mình và cả hai đều quyết tâm đến gặp Đức Thế Tôn. San-xa Dạ, vị đạo sư của họ, hết lòng khuyên can họ.

Ông nói: "Hãy ở lại đây với ta, ta sẽ ban cho các ngươi một địa vị cao sang giữa hàng môn đệ. Các người sẽ là đạo sư như tạ"

"Tại sao anh em chúng tôi cần phải ngang hàng với ngài? Tại sao chúng tôi phải gieo rắc vô minh? Chúng tôi hiểu giả trị của giáo pháp ngài. Nó chỉ biến chúng tôi thành những đạo sư ngu muội."

San-xa Dạ tiếp tục khuyên nhủ họ; bỗng nhiên, máu nóng từ trong miệng ông vọt ra, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên hoảng sợ, rút lui.

Họ cùng nhau lên đường đến gặp Phật.

"Đây rồi, Đức Thế Tôn nói khi Ngài thấy họ tiến đến gần, đây là hai vị kiệt hiệt nhất trong hàng đệ tử của tạ"

Ngài hoan hỷ đón nhận họ vào Tăng đoàn.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12863 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 16 2008, 03:56 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 27
Phật Tại Rừng Trúc Lâm



Đức Thế Tôn nhớ rằng quốc vương Tần-bà-sa-la xưa kia đã bày tỏ ý định học hỏi giáo pháp, Ngài quyết định đến thành Vương-xá (Rajagriha). Ngài lên đường với trưởng tử Ca Diếp và một vài môn đệ mới khác. Ngài đến trú tại một khu rừng gần thành.

Chẳng mấy chốc, quốc vương Tần-bà-sa-la hay tin các thầy tỳ kheo đã đến. Vua quyết định đến viếng các ngài. Cùng với đoàn cận vệ theo sau hộ tống, quốc vương đi thẳng đến cánh rừng. Nhận ra Đức Thế Tôn, quốc vương thưa:

"Bạch Đức Thế Tôn, Ngài không quên ước nguyện của con chứ; con xin vô vàn biết ơn và kính lễ Ngài."

Quốc vương sụp lạy, Đức Thế Tôn đỡ vua đứng lên và người đứng cách một khoảnh để tỏ lòng tôn kính của mình.

Nhưng trong đám tùy tùng có người nhận ra Ca diếp và coi ngài là bậc thánh đức tuyệt vời. Họ chưa bao giờ thấy Phật nên họ rất đỗi ngạc nhiên thấy quốc vương trọng vọng Ngài đến thế.

Một người bà-la-môn nói: "Quốc vương lạy như vậy hẳn là có lỗi; lẽ ra kính lễ Ca Diếp mới phải."

Một người khác nói: "Đúng, Ca Diếp là bậc đạo sư vĩ đại."

Người thứ ba tiếp: "Quốc vương đã phạm phải một lỗi lầm kỳ dị, đã nhầm môn đệ là đạo sự"

Họ thì thầm với nhau như thế nhưng Đức Thế Tôn đã nghe hết, bởi vì có gì qua nổi sự nhận xét của Ngài? Ngài hỏi Ca Diếp:

"Này người xứ Ưu-lâu-tần-loa, ai xúi giục ngươi từ giã nơi ẩn cư của ngươi? Ai bắt ngươi phải chấp nhận sự nhu nhược của ngươi? Này Ca Diếp, trả lời xem, làm sao ngươi từ giã được nơi ẩn cư quen thuộc của ngươi?"

Hiểu Đức Thế Tôn muốn nói gì, Ca Diếp đáp:

"Ngày nay con mới biết các pháp môn khổ hạnh của con xưa kia đi đến đâu; con nhận thấy tất cả những gì con truyền đạt đều rỗng tuếch. Lời giảng của con là ác pháp, con bắt đầu chán ghét lối sống trước kia của con."

Đáp xong, Ca Diếp sụp lạy dưới chân Đức Thế Tôn, ngài bạch tiếp:

"Con là đệ tử thuần thành của Ngài. Cho con được phép quì lạy dưới chân Ngài! Ngài là Đấng Thế Tôn, là đạo sư hướng dẫn chúng con. Con là môn đệ của Ngài, là thị giả của Ngài. Con sẽ nhứt tâm vâng phục theo Ngài."

Ca Diếp đảnh lễ Đức Thế Tôn bảy lần, cả đám tùy tùng đều lên tiếng thán phục:

"Phi thường thay, đấng đã giáo hóa Ca Diếp thấy rõ vô minh! Ca Diếp coi Ngài là một trong những đạo sư tôn quí nhất, xem Ca Diếp quì lễ trước mặt người khác kìa! Ồ, phi thường thay, đấng đạo sư của Ca Diếp."

Sau đó Đức Thế Tôn thuyết giảng cho họ về bốn sự thật cao quí. Khi Ngài thuyết xong, quốc vương Tần-bà-sa-la tiến đến gần Ngài, và, trước mặt mọi người, dũng mãnh tuyên thệ:

"Con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng."

Đức Thế Tôn cho phép quốc vương ngồi bên cạnh Ngài, vua lại tác bạch:

"Trong đời con, con có năm ước vọng to lớn: ước rằng một ngày nào đó con sẽ là quốc vương; ước rằng một ngày nào đó Phật sẽ quang lâm đến đất nước con; ước rằng một ngày nào đó Ngài sẽ truyền thọ giáo pháp cho con; ước rằng một ngày nào đó con sẽ dốc lòng tín cẩn theo Ngài. Ngày nay, tất cả những ước vọng đó đều được thành tựu. Bạch Đức Thế Tôn, con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng."

Quốc vương đứng lên.

"Bạch Đức Thế Tôn, ngày mai, xin mời Ngài hoan hỷ đến hoàng cung của con thọ trai."

Đức Thế Tôn nhận lời. Quốc vương xin ra về với cõi lòng hân hoan vô bờ bến.

Nhiều người trong đám tùy tùng theo gương quốc vương, họ cũng xin phát tâm qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng.

Ngày hôm sau, tất cả dân cư tại thành Vương-xá đều bỏ nhà để đến rừng, họ trông mong thấy được dung nhan của Đức Thế Tôn. Tất cả đều thán phục, ca ngợi vẻ huy hoàng uy lực của Ngài.

Đã đến giờ Đức Thế Tôn đến vương cung, đường sá đông nghẹt người xem đến độ không thể nhích thêm một bước. Bỗng nhiên, một tanh niên bà-la-môn xuất hiện trước Đức Thế Tôn. Không ai biết anh từ đâu đến. Anh nói:

"Đức Thế Tôn cao cả giữa đoàn người quí tộc, Ngài đem đến sự giải thoát. Ngài tỏa hào quang sáng ngời như vàng ròng đã đến thành Vương-xá."

Với giọng nói vui vẻ, anh kêu gọi dám đông tránh đường, họ nhất tề vâng phục. Anh cất tiếng hát:

"Đức thế Tôn đã xua tan bóng tối; màn đêm sẽ không bao giờ trở lại; Ngài chứng đắc vô thượng bồ đề đã đến thành Vương- xá.

Dân chúng tự hỏi: "Anh thanh niên bà-la-môn có giọng nói ngọt ngào trong sáng kia từ đâu tới?

Anh tiếp tục cất tiếng hát:

"Ngài đã đến rồi, Ngài là Đức Thế Tôn toàn năng cao cả, là Phật Đà vô thượng. Ngài là đấng toàn giác siêu việt trên đời; ta sung sướng được hầu hạ Ngài. Không phải hầu hạ kẻ thất phu ngu muội mà là cung kính hầu hạ bậc hiền giả thánh trí, là kính lễ các bậc tôn túc đức hạnh: có nguồn vui nào trên đời thánh thiện hơn thế? Có tài nghệ kiến thức, quí nghĩa cử bao dung, bước trên đường công lý: có nguồn vui nào trên đời thánh thiện hơn thế?"

Anh thanh niên bà la môn tìm cách chen qua đám đông, đưa Đức Thế Tôn đến tận cung vua Tần-bà-sa-la rồi đi mất. Dân chúng tại thành Vương-xá tin đó là một thiên thần hân hạnh hầu Phật và tán dương đức hạnh cao cả của Ngài.

Vua Tần-ba-sa-la tiếp đón Đức Thế Tôn rất trọng hậu. Sau bữa ngọ trai, quốc vương tâm sự với Ngài:

"Bạch Đức Thế Tôn, con vô cùng sung sướng trước sự hiện diện của Ngài. Con phải thường hầu thăm Ngài, thường lắng nghe những lời cao quí từ kim khẩu Ngài. Giờ đây, xin Ngài nhận cho một phẩm vật cúng dường. Gần thành Vương- xá hơn cánh rừng Ngài ở, có một khu rừng mệnh danh là rừng Trúc-lâm. Nó rộng lắm, Ngài và đồ chúng có thể trụ xứ ở đó thoải mái. Bạch Đức Thế Tôn, con xin dâng Ngài khu rừng Trúc-lâm đó; nếu Ngài nhận lời thế là Ngài sẽ ban cho con một ân huệ cao cả."

Đức Phật vui cười hoan hỷ. Một chiếc thau vàng đựng đầy nước hoa thơm ngát được bê tới. Quốc vương bê thau nước hoa rót lên tay Đức Thế Tôn. Ngài nói:

"Bạch Đức Thế Tôn, khi nước từ tay con đổ qua tay Ngài, tương tự như thế, bạch Đức Thế Tôn, nguyện cho khu rừng Trúc-lâm này cũng từ tay con chuyển qua tay Ngài."

Cả trái đất rung chuyển: giáo pháp ngày nay đã có đất cắm rễ. Cùng ngày hôm đó, Đức Thế Tôn và cả đồ chúng đến trụ tại rừng Trúc-lâm.


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12862 · Replies: 50 · Views: 7,878

HươngQuê
Posted on: Jul 16 2008, 03:55 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 438
Joined: 1-June 08
Member No.: 106


Chương 26
Truyện Bách Ma Ca



Đức Thế Tôn đi được một hồi lâu thì mệt mỏi.

Ngài vào một cánh rừng nhỏ và ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Ngài vừa thiu thiu ngủ thì thấy một đám ba mươi thanh niên vào rừng Ngài chăm chú quan sát họ.

Theo ngôn ngữ và cử chỉ của họ thì rõ ràng là họ đang tìm một người nào. Cuối cùng họ hỏi Phật:

"Ngài có thấy một phụ nữ đi qua đây không?"

"Không, các anh là ai?"

"Chúng tôi là những nhạc công. Chúng tôi lưu diễn từ thành phố này đến thành phố khác. Chúng tôi thường trình tấu trước sự hiện diện của các quốc vương, tài nghệ của chúng tôi được nhiều người hâm mộ lắm. Hôm nay chúng tôi có đem theo một thanh nữ để giúp vui, nhưng trong lúc chúng tôi ngủ say ở bên kia vệ đường thì hắn vơ hết đồ đạc của chúng tôi và trốn mất. Chúng tôi đang truy tìm con nhỏ đó.

Đức Phật hỏi: "Việc làm nào tốt đẹp hơn, các anh đi tìm cô phụ nữ đó hay các anh đi tìm chính các anh?"

Các nhạc công cười ngoặt ngoẹo, ra vẻ châm biếm Đức Thế Tôn.

Ngài nói với người cười to nhất: "Anh chơi đàn của anh xem nào."

Nhạc công khoe tài ngaỵ Anh chơi hay thật; thảo nào anh dễ dàng tin tưởng là các vua chúa đều say mê lời ca điệu nhạc của anh. Khi anh diễn xong, Đức Thế Tôn nói:

"Cho ta mượn cây đàn của anh."

Ngài dạo qua một bản, các nhạc công lắng nghe sửng sốt. Họ chưa bao giờ nghe thấy âm điệu ngọt ngào từ cung đàn của họ phát ra như vậy. Ngay cả gió cũng im lặng phăng phắc, mọi người dường như nín thở lắng nghe tiếng đàn kỳ diệu của Ngài.

Đức Thế Tôn ngừng dạo đàn.

Nhạc công thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, chúng con nghĩ là chúng con đã điêu luyện về nghệ thuật, nhưng thật ra chúng con chưa hiểu tí gì về nguyên tắc căn bản của nó. Xin Ngài thương tình dạy cho chúng con những điều mà Ngài đã quán triệt."

Đức Thế Tôn đáp: "Đến giờ phút này các anh mới thấy kiến thức âm nhạc của các anh còn nông cạn, nhưng trước đây các anh cho là các anh đã bát lãm về nghệ thuật. Vì thế cho nên các anh tưởng là các anh hiểu được các anh, thật ra sự hiểu biết của các anh còn hời hợt lắm. Các anh cầu ta dạy cho các anh nhưng các anh lại cười đùa ngạo nghễ khi ta khuyên các anh đi tìm lại chính các anh!"

Các nhạc công hết dám cười đùa nữa.

Họ thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, chúng con hiểu Ngài, chúng con hiểu Ngài! Chúng con sẽ đi tìm lại chính chúng con."

Đức Phật nói: "Tốt lắm, các ngươi sẽ thông đạt giáo pháp của tạ Rồi đây, như quốc vương Bách-ma-ca (Padmaca), người đã hy sinh thân mạng để cứu sống quốc dân, các ngươi cũng sẽ truyền đạt trí tuệ các ngươi để cứu vớt nhân loại."

Ngài kể lại câu chuyện về vua Bách-ma-ca và các nhạc công chăm chú lắng nghe.

"Xưa kia có một quốc vương công minh, uy dũng, tên là Bách-ma-ca, trị vì tại thành Ba-la-nại. Bấy giờ có một bịnh dịch kỳ dị bỗng nhiên lan tràn khắp thành phố. Những ai nhiễm bịnh đều vàng cả người, và, dù phơi dưới ánh mặt trời, họ vẫn bị sốt run cầm cập. Quốc vương vô cùng xót thương dân chúng, ngài cố tìm phương cách để cứu chữa họ. Ngài hội ý với các y sĩ lừng danh nhất, ngài phân phát thuốc men và đích thân giúp đỡ, chăm sóc người bịnh. Nhưng hết hy vọng, bịnh dịch cứ tiếp tục hoành hành. Bách-ma-ca vô cùng đau đớn.

Một hôm, có một trưởng lão y sĩ đến tâu vua: "Tâu quốc vương, hạ thần biết một thứ thuốc có thể cứu chữa dân Ba-la-nại!' Quốc vương hỏi: "Thuốc gì thế' "Đó là con cá mập Rô-hy-ta (Rohita). Hãy cho người bắt nó và phát cho bịnh nhân mỗi người một miếng, dù nhỏ thế nào chăng nữa, thì bịnh dịch tan biến ngaỵ' Quốc vương cuống quít cảm ơn vị trưởng lão y sĩ đó; ngài ra lệnh cho mọi người giăng sông chài biển để bắt cá Rô-hy-ta, nhưng họ không tìm đâu ra nó. Quốc vương đau buồn chán nản. Sáng hoặc tối, thỉnh thoảng ngài nghe có tiếng khóc than ai oán bên ngoài hoàng cung: "Quốc vương ơi, chúng tôi khốn khổ lắm. Xin cứu vớt chúng tôi với!' Ngài khóc nức nở.

Cuối cùng, ngài suy nghĩ: "Giàu sang quyền thế để mà chi, cuộc sống có ích gì nếu ta không cứu giúp những ai bị khổ đau hành hạ?' Ngài cho gọi người con trưởng nam của ngài đến, ngài nói: "Con ơi, cha để lại cho con tài sản và vương quốc này.' Đoạn ngài đi thẳng lên sân thượng hoàng cung, ngài dâng cúng hương hoa đến chư vị thiên thần và khấn nguyện: "Ta hân hạnh hy sinh mạng sống mà ta cho là vô dụng này. Nguyện cầu sự hy sinh này mang lại lợi ích cho những ai bị khổ đau vây hãm! Ta xin nguyện làm cá Rô-hy-ta theo sông trôi qua thành này!' Ngài từ sân thượng gieo mình xuống đất và biến ngay thành cá Rô-hy-ta bơi theo dòng sông. Cá bị bắt, nó vẫn còn sống khi họ cắt nó thành những mảnh nhỏ để phân phát cho người bịnh, nó chả thấy bị dao búa cắt xẻ gì cả, nó run run cử động với lòng thương yêu tất cả chúng sanh.

Chẳng mấy chốc bệnh dịch biến mất, khắp thành Ba-la-nại, đâu đâu cũng vang lên lời ca tiếng nhạc: "Chính nhờ Bách-ma-ca, đấng minh quân thánh đức cứu vớt các ngươi! Hãy vui lên nào!' hầu hết dân cư trong thành đều tôn kính, tưởng nhớ đến Bách-ma-cạ"

Các nhạc công lắng nghe Đức Thế Tôn, họ hứa qui y theo Ngài để thọ trì giáo pháp.

Tại Ưu-lâu-tần-loa, Đức Thế Tôn gặp ba anh em của Ca Diếp (Kasyapa). Ba đạo sĩ bà-la-môn đức hạnh này có một ngàn đệ tử. Họ thường bị một con rắn độc nhiễu hại, quấy phá các cuộc tế lễ của họ, họ đem sự phiền toái đó đến trình Phật. Đức Phật mỉm cười; Ngài đón gặp rắn độc và bảo nó từ đó về sau hãy để cho họ an ổn tu hành. Rắn độc vâng lời, thế là các cuộc tế lễ của họ không bị gián đoạn nữa.

Ba anh em Ca Diếp mời Phật ở lại với họ vài hôm. Ngài nhận lời. Ngài muốn tạo sự ngạc nhiên cho các chủ nhân bằng cách phóng ra vô số phép màu kỳ diệu, bấy giờ hết thảy mọi người đều xin nương theo giáo pháp của Ngài. Chỉ có người anh cả của ba anh em Ca Diếp là không chịu theo Phật. Người ấy suy nghĩ:

"Đúng, đạo sĩ có nhiều thần lực, Ngài phóng ra vô số thần thông diệu dụng, nhưng ngài chưa thánh thiện bằng tạ"

Đọc được tư tưởng của Ca Diếp, Đức Thế Tôn nói:

"Này Ca Diếp, ngươi cho ngươi là người thánh thiện, nhưng ngươi chưa ở trên đường dẫn đến thánh thiện."

Thấy Phật đoán được ý nghĩ thầm kín của mình, Ca Diếp vô cùng kinh ngạc. Đức Thế Tôn nói tiếp:

"Ngươi không biết làm sao tìm ra đường hướng dẫn đến thánh thiện. Này Ca Diếp, hãy nghe theo lời ta nếu ngươi muốn xua tan màn đêm vây hãm cuộc sống của ngươi."

Ca Diếp suy nghĩ trong giây lát rồi sụp lạy dưới chân Đức Thế Tôn và bạch rằng:

"Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền thọ giáo pháp cho con! Xin cứu con ra khỏi màn đêm tăm tối."

Sau đó Đức Thế Tôn lên núi thuyết giảng giáo pháp cho ba anh em Ca Diếp và môn đệ của ho.

Ngài dạy: "Này các thầy tỳ kheo, các pháp ở thế gian đều đang bừng cháy, nhãn quan đang bừng cháy, tất cả những gì chúng ta nhìn thấy trên đời đều đang bừng cháy. Vì sao thế? vì ngọn lửa yêu ghét chưa được dập tắt. Các ngươi si mê mù quáng là vì thứ lửa này, các người chịu khổ đau, sanh già bịnh chết cũng vì thứ lửa này. Này các thầy tỳ kheo, mọi vật ở thế gian đều đang bừng cháy! Hiểu ta thì ngọn lửa đó sẽ được dập tắt cho các ngươi; mắt các ngươi sẽ hết bị thứ lửa đó làm mù quáng, và các ngươi sẽ hết ham thích cảnh tượng bừng cháy mà các ngươi đang say đắm hiện naỵ Hiểu ta, các ngươi sẽ thấy hết luân hồi sanh tử, các ngươi sẽ thấy chúng ta không bao giờ trở lại trên trái đất này."


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #12861 · Replies: 50 · Views: 7,878

16 Pages V   1 2 3 > » 

New Posts  New Replies
No New Posts  No New Replies
Hot topic  Hot Topic (New)
No new  Hot Topic (No New)
Poll  Poll (New)
No new votes  Poll (No New)
Closed  Locked Topic
Moved  Moved Topic
 

Lo-Fi Version Time is now: 4th May 2024 - 11:44 AM