Welcome Guest ( Log In | Register )

 
Reply to this topicStart new topic
> Thời Kỳ Vong Quốc - Tôn Thất Thiệt
mviet
post Dec 20 2010, 12:53 PM
Post #1


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,769
Joined: 9-September 10
Member No.: 15,235
Country






(Trích trong Bộ HOÀI QUỐC SỬ KÝ TOÀN THƯ của Tôn Thất Thiệt)



Thời Kỳ Vong Quốc - Chương 1

Bộ HOÀI QUỐC SỬ KÝ TOÀN THƯ do sử gia Tôn Thất Thiệt biên soạn và được nhà xuất bản Gió Ðộc ấn hành năm 3050. Đây là câu chuyện dã sử viết về một vương quốc xa xưa vào cuối thể kỷ thứ 20. Mọi chi tỉết trong câu chuyện đều hoàn toàn có tính cách tưởng tượng. Tất cả mọi sự trùng hợp về địa danh, nhân vật và tình tiết đều không nằm trong ý muốn của tác giả.

LỜI MỞ ĐẦU

Câu chuyện xảy ra vào năm thứ sáu đời Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA. Tục truyền rằng vào mùa hè năm Bính Dần 1986, Hoàng Ðế THẠCH ĐỖ MA ra chiếu chỉ bổ nhậm Tổng Trấn LỘ DUNG về trấn nhậm Doanh TUẪN GIÁO thay thế cho Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN được về quê dưỡng bệnh sau 11 năm giữ ấn tín. Mặc dầu thống lĩnh binh quyền trong thời gian rất lâu, BÌNH VIỄN AN chỉ mới thực sự giữ ấn Tổng Trấn được 9 tháng.


CHƯƠNG I

ĐỊA DANH VÀ NHÂN VẬT

1.1 DOANH TUẪN GIÁO


Trấn phủ của Doanh TUẪN GIÁO nằm ở phía Tây Nam của đế đô HỒ SINH là nơi mà hơn 5000 người HOÀI QUỐC thường tụ tập nhau về sinh hoạt. Người HOÀI QUỐC là một sắc tộc thiểu số đến định cư và bắt đầu lập nghiệp từ mùa hè năm Ất Mão 1975. Vương quốc của họ nằm ở phía Tây bờ biển HOÀ BÌNH đã bị bọn Rợ HỒ từ phương Bắc tràn xuống đánh phá và cướp mất.

Gần một triệu người đã lên rừng vượt biển lánh nạn, họ tản mác tứ phương và lập nghiệp trong các Vương quốc lân cận. Một số người HOÀI QUỐC sau khi đào thoát khỏi Vương quốc của họ trên những mộc thuyền và thiết hạm, vượt HOÀ BÌNH Đại Dương để đến nơi cư trú mới là Vương quốc HỒ SINH này.

HOÀI QUỐC là một giống dân bất khuất và kiên cường; đã bị đô hộ hơn ngàn năm bởi những Vương quốc cường thịnh khác, nhưng họ không bao giờ chịu khuất phục và đồng hóa. Ngoài yếu tố thiên nhiên về khí hậu ôn hòa, tương tự như khí hậu ở cố quốc, HỒ SINH còn có đủ phương tiện thuận lợi về phương diện kinh tế nên người HOÀI QUỐC kéo đến lập nghiệp ngày càng đông.

Song song về kinh tế và khí hậu, tín ngưỡng còn là một yểu tố quan trọng khác, có lẽ là hàng đầu đối với người HOÀI QUỐC. Những người HOÀI QUỐC theo THIÊN GIÁO đương nhiên trở thành thần dân của Hoàng Ðế THẠCH ĐỖ MA khi họ quyết định định cư và lập nghiệp tại Vương quốc này.

Mặc dầu có tinh thần họp đoàn và thích sống quây quần vào một nơi, họ chưa có cơ hội để thực hiện ước mơ đó. Trái lại họ phải sống rải rác ở các Trấn lân cận dưới quyền cai trị của những Tổng trấn người bản xứ. Họ được đặc ân của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA cho phép tổ chức và tham dự những nghi lễ tế tự bằng ngôn ngữ của họ trong những đền thờ của người HỒ SINH.

Tuy nhiên điều đó chưa làm cho họ thỏa mãn; họ muốn có một ngôi đền riêng biệt với những sắc thái đặc thù của người HOÀI QUỐC để họ có cơ hội tế lễ cũng như bảo tồn và phát triển nền văn hóa cổ truyền đã có từ nghìn đời của họ.
Ðiều đó đã làm Hoàng Để THẠCH ĐỖ MA không hài lòng vì ngài đã có một chính sách chung, không những được áp dụng cho người HOÀI QUỐC mà còn cho các sắc tộc thiểu số khác. Ðó là chính sách Hội Nhập. Triều đình cho rằng việc hội nhập là điều kiện bắt buộc và cần thiết, trong khi thần dân còn cố gắng gìn giữ những gì thuộc về Dân tộc tính, đó chính là nguyên nhân đưa đến biến cố Bính Dần 1986 làm rúng động khắp hoàn cầu.

1.2 VƯƠNG QUỐC HỒ SINH

HỒ SINH là một Vương quốc mới được thiệt lập vào năm Canh Thân 1980 do sắc dụ của Ðại Đế GIANG PHONG Đệ II. Nhận thấy Vương quốc KIM SƠN dưới quyền cai trị của Hoàng Đế GIANG QUỲNH ngày càng lớn mạnh nên Ðại Đế GIANG PHONG Ðệ II đã quyết định cắt phần đất phía Nam của Vương quốc KIM SƠN để thành lập Vương quốc HỒ SINH và phong cho Phó Vương THẠCH ĐỖ MA làm Hoàng Đế cai trị phần đất mới này.

Tất cå các Vương quốc dưới quyền của Ðại Đế GIANG PHONG đều lấy THIÊN GIÁO làm Quốc giáo nên tất cả thần dân đều có chung một nghi lễ tế tự.

THIÊN GIÁO được sáng lập cách đó gần 2000 năm do THIÊN SAI GIÁO CHỦ, chủ trương tôn thờ THƯỢNG ĐẾ và yêu thương tha nhân trong tình huynh đệ. THIÊN SAI GIÁO CHỦ đã dùng những lời vàng ngọc để giáo huấn dân chúng và cuối cùng dùng vũ khí tối độc là Thập Tự Giá để chiến thắng kẻ thù của nhân loại là Tử Thần và Ngạ Quỷ. Ngoài việc lấy Công Bằng và Bác Ái làm nền tảng, THIÊN GIÁO còn lấy Ðức Vâng Phục làm phương châm để đạt được sự thống nhất chặt chẽ trong mọi tầng lớp tín đồ. Và Ðức Vâng Phục cũng là một yếu tố góp phần vào cuộc biến loạn kể trên.

1.3 VƯƠNG QUỐC HỒ SINH: TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH

Hoàng Đễ THẠCH ĐỖ MA chia lãnh thổ ra làm 47 Trấn và 3 Doanh: Trấn được phân ra làm hai loại: Lãnh Thổ Trấn và Thể Nhân Trấn. Lãnh Thổ Trấn hoàn toàn do các Tổng Trấn người HỒ SINH cai trị và dân chúng thuộc quyền là những người HỒ SINH chính tông cùng những người thuộc các sắc tộc thiểu số muốn hội nhập. Thể Nhân Trấn được qui định trong bộ luật LA LUẬT do Đại Đế GIANG PHONG Ðệ II ban hành là một định chế đặc biệt được áp dụng cho những người sống trong một Vương quốc không phải là quê hương mình.

Doanh là một cơ cấu hành chánh cũ, không còn được áp dụng trong Bộ TÂN LA LUẬT nữa. Hai Doanh thuộc vương quốc HỒ SINH đã được thiết lập trước ngày Bộ TÂN LA LUẬT ban hành cũng có mục đích như Thể Nhân Trấn giành cho người CỦ SÂM và người HÀN ĐỊA. Ngoài Trấn và Doanh, HỒ SINH còn có một tổ chức hành chánh nhỏ hơn là NHA được thiết lập có mục đích thiên về văn hóa và xã hội, chẳng hạn như NHA MỤC VỤ THIÊN GIÁO HOÀI QUỐC được thành lập riêng cho người HOÀI QUỐC trước khi Nha này được nâng lên hàng Doanh.

Khi ban hành chiếu chỉ nâng NHA MỤC VỤ THIÊN GIÁO HOÀI QUỐC lên hàng Doanh và đổi tên thành DOANH TUẪN GIÁO, Hoàng Đế THẠCH ÐỒ MA đã cho rằng: Doanh cũng có quyền hành về tổ chức cũng như Trấn, chỉ khác nhau về danh xưng mà thôi.

1.4 BÌNH VIỄN AN VÀ CÔNG CUỘC DỰNG TRẤN

BÌNH VIỄN AN là một bậc Khai Trấn Công Thần, suốt đời tận tụy hy sinh cho dân, cho nước. Ông là một vị quan tài đức, cương trực, văn võ song toàn đã có công rất nhiều trong việc khai phá và xây dựng Doanh TUẪN GIÁO. Tuy nhiên vì đường lối cương trực của vị Tổng Trấn này không thích hợp với chính sách đối nội của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA nên việc cho Ông về quê dưỡng bệnh vẫn còn là một thắc mắc trong lòng dân chúng.

Kể từ ngày được giao phó trọng trách chăm sóc cho người HOÀI QUỐC, BÌNH VIỄN AN đã tận tâm hoàn thành nhiệm vụ một cách vất vả. Đối với dân, Ông đã cố gắng hy sinh chăm sóc và lo lắng cho họ cả về tinh thần lẫn vật chất. Ðối với Triều đinh, BÌNH VIỄN AN đã tỏ ra là một công thần có lòng cương trực. Nhiều lần những lời đề nghị của Ông đã đi ngược lại với chính sách của Hoàng Đề THẠCH ĐỖ MA.

Mặc dầu theo chế độ Quân chủ, BÌNH VIỄN AN đã cho áp dụng một thể chế dân chủ trong việc chiêu hiền giúp nước. Vì người HOÀI QUỐC ở rải rác trên toàn lãnh thổ HỒ SINH nên tuỳ theo địa dư, Ông phân chia Vương quốc HỒ SINH ra làm 9 KHA.

Kế đó Ông ra lệnh và yêu cầu dân cư thuộc mỗi Kha liên hệ minh danh đầu phiếu để chọn ra ba vị lo việc nước. 27 vị (chức vụ Kha Trưởng và Kha Phó) kể trên kết hợp lại thành BANG HÀNH SỰ giúp đỡ BÌNH VIỄN AN trong tất cả công việc liên quan đến đời sống dân chúng; phần lớn công việc của họ có tính cách tôn giáo như tổ chức và điều hành các nghi lễ tế tự tại các đền thờ.

Ðể kiện toàn tổ chức, những Kha Trưởng và Kha Phó đã đề cử một vị trong số 27 vị làm Bang Chủ để điều hành BANG HÀNH SỰ cho mỗi nhiệm kỳ 2 năm. Bang Chủ của BANG HÀNH SU thuộc nhiệm kỳ Tân Sửu Bính Dần là Giáo Học THIỀN TRANG.

Vì được đề cử trong tinh thần dân chủ và nhất là những vị này không lãnh bổng lộc của triều đình nên tiếng nói của họ rất có giá trị. Hoàng Ðế THẠCH ĐỖ MA đã nhiều lần phủ nhận thực quyền của BANG HÀNH SỰ nhưng người HOÀI QUỐC vẫn áp dụng định chế đặc biệt này vì thể chế đã có từ trước ngày Vương quốc HỒ SINH được thành lập.

Ngoài ra, để cắt bớt gánh nặng trong việc cai trị hơn 5000 người HOÀI QUỐC, Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đã phong cho ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN làm Phó Tổng Trấn, phụ tá cho BÌNH VIỄN AN.

Mùa Thu năm Canh Tý 1984, nhận thấy lòng dân đã quyết tâm mong muốn phát triển hơn nữa (xuyên qua chiến dịch Góp Quỹ Dựng Đền), BÌNH VIỄN AN lúc bấy giờ đang giữ chức vụ Giám Lĩnh của NHA MỤC VỤ đã viết sớ về tấu trình tự sự và đề nghị thiết lập Thể Nhân Trấn cho người HOÀI QUỐC. Căn cứ vào những điều kiện được ấn định trong Bộ LA LUẬT (điều Ngũ Bách Thập Bát) và nhất là dựa vào lời hứa của Hoàng Đế GIANG QUỲNH khi ngài còn cai trị lãnh thổ HỒ SINH, BÌNH VIỄN AN đã cho phép hơn 2000 người ký tên vào tờ sớ gửi về triều đình.

Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA cương quyết bác bỏ thỉnh nguyện này và đồng thời ban hành một Sắc dụ nói rõ về chính sách cai trị của Ngài đối với các dân tộc thiểu số trong Vương quốc thuộc quyền. Chính sách đó là những người từ phương xa đến phải hội nhập vào đời sống của người bản xứ nhất là đối với những người trong lứa tuổi trung niên và đồng ấu.

Ròng rã hơn một năm trời, sau bao lần viết sớ dâng lên và chiếu chỉ ban xuống, người HOÀI QUỐC bắt đầu có những hoạt động mạnh mẽ hơn cho thỉnh nguyện của họ. Họ thành lập BANG BIỆT VỤ gồm những nhân sĩ, luật gia trong nước để vận động và điều hành việc thỉnh nguyện này. Ngoài việc thỉnh nguyện bằng văn thư và bút tự, dân chúng bắt đầu dùng hình thức cầu nguyện ở cả những nơi công cộng nhất là tại Ðền Thờ Vương Quốc để hy vọng tiếng nói của họ sẽ được triều đình lắng nghe.

1.5 LỘ DUNG VÀ NHÓM YỂM TRỢ

Trong lúc cao trào đòi hỏi Thể Nhân Trấn đang lên cuồn cuộn, LỘ DUNG, mặc dầu là người HOÀI QUỐC, lúc bấy giờ đang giữ chức Phó Tổng Trấn của Trấn LẪU GÀ TỒ, liền đứng ra ủng hộ chính sách của Hoàng Ðể THẠCH ĐỖ MA. Ông liên kết với những Phó Tổng Trấn khác gồm có Phó Tổng Trấn MÂY NGÀN, ÐẬU LƯ, CHÁNH NGUYÊN và Quản Giáo Trưởng XÀ ĐẦU để lập thành NHÓM YỂM TRỢ đi ngược lại ý muốn của dân chúng.

Nhóm này đã minh thị lập trường hoàn toàn đồng ý với chính sách đối nội của triều đình và dâng sớ lên Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA yêu cầu cách chức Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN vì họ cho rằng BÌNH VIỄN AN và Bang Chủ THIỀN TRANG đã xui dân dấy loạn.

Khi biết được ý đồ của LỘ DUNG và NHÓM YỂM TRỢ, dân chúng vô cùng phẫn uất vì những người này đã đang tâm đánh mất tinh thần dân tộc. Hơn nữa LỘ DUNG còn là một con người vong ân bội nghĩa đã có những hành động không xứng đáng với người thi ân cho ông ta là BÌNH VIỄN AN. LỘ DUNG còn tỏ ra bất hợp tác với người HOÀI QUỐC trong những cuộc lễ lớn tại NHA MỤC VỤ mặc đầu đã được thơ mời của chính Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN gởi đến tận tư dinh.
Về sau khi biết được đường lối không thức thời này, Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN và ÐẬU LƯ đã rút lui ra khỏi NHÓM YỂM TRỢ nên chỉ còn ba vị mà thôi.





--------------------
mm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
mviet
post Dec 20 2010, 12:59 PM
Post #2


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,769
Joined: 9-September 10
Member No.: 15,235
Country








Thời Kỳ Vong Quốc - Chương 2


CHƯƠNG II

THỜI KỲ LỌAN LẠC


2.1 TÂN TỔNG TRẤN LỘ DUNG

Cuối thu năm Tân Sửu l985, sau bao nhiêu vất vả về tinh thần lẫn vật chất, người HOÀI QUỐC đã nhìn thấy đốm lửa hy vọng khi Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA ban hành đạo dụ nâng NHA MỤC VỤ lên thành DOANH TUẪN GIÁO.

Tuy nhiên sự thành công của người HOÀI QUỐC phải trả một giá quá đắt: đó là việc BÌNH VIỄN AN sẽ ra đi dưỡng bệnh sau 9 tháng đặt nền móng cho Doanh tân lập này.

Trong những lần đi kinh lược hay trong những cuộc hội hè, lễ tế, ông luôn luôn kêu gọi dân chúng chung sức gìn giữ những gì vừa mới đạt được, tha thứ cho nhau theo tinh thần THIÊN GIÁO và nhất là để ông đi bình yên vì ông biết dân chúng thương ông rất nhiều, có thể sẽ xin triều đình để giữ ông lại.

Cuộc biến động bùng nổ thực sự vào mùa hè năm Bính Dần 1986 khi toàn thể dân chúng trong các Trấn nhận được tin Hoàng Ðế THẠCH ĐỖ MA bổ nhậm Tổng Trấn LỘ DUNG về trấn nhậm DOANH TUẪN GIÁO. Họ nghi ngờ ý định của triều đình vì LỘ DUNG luôn luôn ủng hộ chính sách hội nhập và không tha thiết với người HOÀI QUỐC. Hơn nữa trong đạo dụ thành lập DOANH TUẪN GIÁO có đoạn nói rằng: cứ sau 10 năm, triều đình sẽ tái cứu xét để Doanh có đủ điều kiện tồn tại hay không và người có quyền đề nghị đóng cửa Trấn phủ lại là Tổng Trấn.

Dân chúng hoang mang lo sợ thật sự. Ở các đền thờ, đuờng phố, tư gia, đâu đâu dân chúng cũng tụ tập để bàn luận, chia xẻ, ước đoán về những sự việc sẽ xảy ra trong những ngày sắp tới.

Bây giờ có một số nhân sĩ họp cùng với một số Kha Trưởng và Kha Phó đứng ra thành lập BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH để chống lại quyết định của triều đình. Họ mời được một người, trước kia đã từng làm quan Án Sát khi còn ở cố quốc, gia nhập để lãnh đạo phong trào thỉnh nguyện này.
Đó là BẠC TRANG hán tử. BẠC TRANG kể từ ngày lìa cố quốc, chán nản với những bộ sách luật, hình sự và tội nhân, liền lên núi tầm thày học đạo. Khi xuống núi, ông về trú ngụ tại làng CỬU LỘ và làm nghề địa lý vì ông cảm thấy thích hợp với đất đai và nhà cửa hơn là tụng đình.

Việc gia nhập BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH của ông cũng là một giai thoại ly kỳ. Họ bảo rằng sau khi nghiên cứu về mộ phần của các Thánh Tuẫn Giáo người HOÀI QUỐC, ông đã phát hiện ra là tất cả các mộ ấy đều được an táng tại các thế đất không nhiều thì ít có liên quan đến các Hàm Rồng . Ðiều này là một dấu hiệu cho thấy là người HOÀI QUỐC, con cháu các Thánh Tuẫn Giáo sẽ có ngày làm vẻ vang cho quê hương mình.
Và năm Bính Dần l986 là thời điểm để BẠC TRANG hán tử nhập cuộc.

2.2 HỊCH CHÁNH ĐẠO và DIÊN HỒNG ĐẠI HỘI

Sau khi có được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của BANG HÀNH SỰ, BẠC TRANG cấp tốc phổ biến hịch CHÁNH ĐẠO khắp nơi, kêu gọi dân chúng nhất tề đứng lên đòi triều đình phải thoả mãn hai nguyện vọng như sau:

- Thiết lập Thể Nhân Trấn cho người HOÀI QUỐC.
- Đình chỉ việc bổ nhậm Tổng Trấn LỘ DUNG về Doanh TUẪN GIÁO.

Hịch CHÁNH ĐẠO là một công trình tổng hợp do BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH và một số đông người có lòng với đại cuộc. Hịch nêu lên nguyện vọng, lập trường, tư tưởng, cảm nghĩ của dân chúng bằng mọi hình thức văn chương thi phú. Dân chúng đón nhận hịch một cách nồng nhiệt; trái lại Triều đình cảm thấy lo âu vô cùng. Bây giờ XÚ UẾ VÂN đang là Tể Tướng kiêm Nội Bộ Thượng Thư của HỒ SINH, sau khi lĩnh ý của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA, ra lệnh cho các Tổng Trấn người bản xứ dùng mọi phương tiện sẵn có để ngăn chận hịch. Tể Tướng Xú Uế Vân là một người có rất nhiều quyền hành và thế lực; ông đứng ra chăm lo tất cả công việc triều chính trong những lần Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đi kinh lược. Tính tình của ông cũng giống Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và chính sách của Ông có lẽ còn gay gắt hơn nhiều.

Ngày 20 tháng 7 năm Bính dần 1986, BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH dự định sẽ tổ chức một DIÊN HỒNG ĐẠI HỘI trong khuôn khổ buổi lễ Tri Ân và tiễn biệt Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN sau 11 năm nhọc nhằn dựng Trấn. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA ước mong có một cuộc lễ như thế để ông có dịp giới thiệu Tân Tổng Trấn LỘ DUNG với thần dân của Ngài. Nhưng sau khi biết được ý định của BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH sẽ lợi dụng buổi lễ để DIÊN HỒNG ĐẠI HỘI, ông ra lệnh huỷ bỏ buổi lễ và đồng thời ra yết thị công bố với dân chúng là Hoàng Đế đang bị thích khách đe doạ. Đây là một đòn chiến thuật để ông thoát khỏi cảnh phải đối diện với hàng ngàn thần dân của ông vì lúc nào ông cũng cho rằng nhóm chống đối chỉ là thiểu số. Tuy buổi lễ bị huỷ bỏ, dân chúng cũng kéo nhau về tham dự đông đảo để nam phụ lão ấu trong toàn cõi có dịp bày tỏ quyết tâm của họ đối với hai thỉnh nguyện kể trên. Những băng giấy với hàng chữ “THỂ NHÂN TRẤN: thuận” và “LỘ DUNG: bác” được tất cả dân chúng giơ cao và hô to như là một dứt khoát với Triều đình. Tuy nhận được lệnh của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA là không được tham dự buổi lễ, Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN đã cố gắng đến với đám dân của ông vào giây phút cuối trước khi DIÊN HỒNG ĐẠI HỘI bế mạc. Một số đông dân chúng đã xúc động và nước mắt của họ là những chung Ly Bôi Tửu được dành cho những bậc Khai Trấn Công Thần.

2.3 LỘ DUNG VÀ THAM MƯU BỘ

Để chuẩn bị cho việc trấn nhậm Doanh TUẪN GIÁO được dễ dàng, Tổng Trấn LỘ DUNG bắt đầu tổ chức hệ thống nhân sự trong việc điều hành công việc của Doanh phủ, Ông đã thâu nạp được một số người trước kia bất mãn với cựu Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN hoặc những người không bao giờ hợp tác với dân HOÀI QUỐC. Đứng đầu THAM MƯU BỘ của LỘ DUNG là KHUYỂN NGÔN ĐẦU ĐÀ, một người trước kia đã tu luyện tại một tu viện của THIÊN GIÁO. Về võ nghệ, KHUYỂN NGÔN ĐẦU ĐÀ có một binh khí sở trường là “VU KHỐNG LUẬN” mà có lần Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN đã thất điên bát đảo. Kế đến là VÕ CÔN TÚ TÀI, một người có họ hàng đã làm đến chức Quyền GIÁM LĨNH của NHA MỤC VỤ. Sau VÕ CÔN TÚ TÀI là ĐÈN HOA TẶC TỬ đã tung hoành ngang dọc một thời tại Trấn CẨM BÁO. Cả hai nhân vật trên chuyên sử dụng “NẶC DANH THƯ” và võ nghệ đã đến mức thượng thừa, nhất là khi phải giao đấu trong bóng tối. TRANG CỐNG TẦN cũng đầu quân dưới trướng của LỘ DUNG. Mặc dầu không phải là cao thủ lợi hại của phái HẮC MA nhưng TRANG CỐNG TẦN có đường quyền “MẠT SÁT CÀN” cũng làm cho mọi người phải kiêng nể. Ngoài ra trong những ngày còn lận đận với công danh sự nghiệp, LỘ DUNG đã được LÊ GIA TRANG CHỦ mời về trang trại của Ông để nghỉ ngơi và làm Đại Bản Doanh cho mưu đồ đại sự. LỘ DUNG cũng đã móc nối với một số người thuộc VĨNH VÔ NGÃ ÁI HỮU Hội để cộng tác với Ông ta. Một số người sau khi biết được ý đồ của LỘ DUNG đã từ chối hợp tác; tuy nhiên một số khác vì nặng đầu óc địa phương vẫn còn bám sát vị Tổng Trấn để hy vọng có được một chức quan nhỏ trong Doanh TUẪN GIÁO.

2.4 ĐỘT KÍCH DOANH TUẪN GIÁO LẦN THỨ NHẤT

Ngày 21 tháng 7 năm Bính Dần 1986, lúc ấy vào khoảng đầu giờ Mùi trước sân tiền đường của Trấn LẪU GÀ TỒ một khung cảnh nhộn nhịp khác thường. Đoàn người ngựa của Tổng Trấn LỘ DUNG đang chuẩn bị cho cuộc di quân về Doanh TUẪN GIÁO. Tổng Trấn LỘ DUNG trong bộ nhung phục màu đen, có đeo thẻ bài trắng nai nịt gọn gàng, trên tay nắm chặt ấn Tổng Trấn đã được Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA ban cho cách đó hơn một tháng đang duyệt qua hàng quân trước giờ lên đường. Sau khi đưa mắt quan sát quân ngũ lần cuối cùng, Tổng Trấn LỘ DUNG dõng dạc hét to: “Phen nầy nếu không vào được Doanh TUẪN GIÁO, ta thề không về LẪU GÀ TỒ nầy nữa.” Nói xong ông phóng lên chiến mã và hô to: “Lên đường!” Đoàn người ngựa hăm hở phóng ra khỏi cổng thành, lấy hướng Nam của Tử Lộ NHỊ BÁT THẬP trực chỉ Doanh TUẪN GIÁO.

Sau hơn nửa giờ đường, đoàn chiến mã của LỘ DUNG đã đến được ngã tư SINH TỬ Lộ và CÁCH PHI TẦN. Ông cho đoàn quân dừng lại và gửi toán thám báo vào quan sát địa hình địa vật trong Doanh TUẪN GIÁO. Lúc bấy giờ trong Trấn phủ của Doanh TUẪN GIÁO chỉ có lác đác một vài người phụ nữ đang dọn dẹp sảnh đường. Lại có thêm vài tráng niên đang ngồi uể oải chờ đợi bên ngoài dưới bức trướng màu đỏ kẻ chữ “BANG HÀNH SỰ”. Mọi người đều mang tâm trạng bàng hoàng vì sự ra đi đột ngột của Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN, và bồn chồn lo lắng không biết bao giờ Tổng Trấn LỘ DUNG mới đưa quân vào Doanh phủ. Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN đi đi lại lại trước cổng Tiền đường và cũng mang tâm trạng như đám dân trước mặt. Toán thám báo của Tổng Trấn LỘ DUNG phi ngựa vào sân và giả vờ như những tín hữu đến nguyện đường để cầu nguyện. LỘ DUNG sau khi chờ đợi khoảng chừng một khắc và thấy Toán Thám Báo không trở lại thì biết mọi sự vẫn bình thường, liền ra lệnh cho đoàn quân xông vào cổng Trấn phủ.

Vừa bước vào sảnh đường, Tổng Trấn LỘ DUNG liền bị ngay những người phụ nữ vây chặt và bắt đầu cuộc chất vấn. Bọn cận vệ vội vàng tiến lên và bám sát những người chống đối để phòng bị việc bất trắc có thể xảy ra. Những người tráng niên nhận thấy đám quân binh của LỘ DUNG có phần chiếm ưu thế, liền thoát ra cổng thành và tức tốc phi báo cho dân chúng ở gần đó. Chỉ trong khoảnh khắc, dân cư từ các Trấn lân cận đổ về thật đông bắt đầu tấn công LỘ DUNG và đoàn tùy tùng. Với chủ trương bất bạo động của THIÊN GIÁO, họ không dùng vũ lực, nhưng chỉ dùng khẩu khí để giao tranh mà thôi.

Đang khi cuộc cãi vã đến hồi gây cấn thì bất ngờ có một thiếu phụ phóng vào sảnh đường. Thiếu phụ xông thẳng đến Tổng Trấn LỘ DUNG và bắt đầu một màn tấn công dữ dội. Bà dùng tất cả những ngôn từ cả văn hoa lẫn bình dân sẵn có trong văn chương của HOÀI QUỐC để dạy cho LỘ DUNG bài học về đạo làm người, về liêm sỉ, về nhân phẩm . . . Tiếng nói của thiếu phụ oang oang, dõng dạc át cả những tiếng gay go giữa đám dân chúng và bọn cận thần của LỘ DUNG. Không khí bắt đầu căng thẳng, tình trạng trở nên hỗn loạn. Giữa cái nóng oi bức của buổi trưa hè, sắc mặt LỘ DUNG biến đổi từ đỏ sang chàm. Ông lo sợ thật sự và trong khoảnh khắc, vội ra lệnh cho quân liên lạc với Triều Đình. Người thiếu phụ vẫn tiếp tục to tiếng và dồn LỘ DUNG vào góc sảnh đường. Sau này người ta được biết bà là người ở Trấn VƯU SƠN, đã mai danh ẩn tích từ lâu, không màng đến thế sự. Nhưng sau khi thấy cảnh trái tay gai mắt xảy ra tại Doanh TUẪN GIÁO, bà tức tốc xuống núi và gia nhập đám dân CHÁNH ĐẠO. Thấy lòng nhiệt thành, hy sinh của bà và nhất là bà có dáng dấp của một võ tướng, người thời bấy giờ tặng cho bà biệt hiệu ‘THĂNG LONG NỮ TƯỚNG”. Ngoài ra trong đợt tấn công sơ khởi cũng có sự góp mặt của các đại hán TRƯƠNG VÕ HUỲNH, biệt danh “HOẢ TÂM ĐẠI HIỆP”, HỒNG MÃO TIẾN và rất đông anh hùng hào kiệt từ khắp nơi kéo về.

Lúc bấy giờ Tể tướng XÚ UẾ VÂN đang nằm nghỉ trưa tại tư dinh thì được quân của LỘ DUNG cấp báo về tình hình tại Doanh TUẪN GIÁO. Ông vội vàng áo mũ chỉnh tề, vào lãnh chỉ thị của THẠCH ĐỖ MA và liên lạc với Vương quốc THẾ TRẦN để xin viện binh giải cứu LỘ DUNG. Vương quốc THẾ TRẦN liền ra lệnh SỞ CẢNH BỊ mang một đạo quân trong giáp y màu đen, trang bị đoản côn cùng với Tể Tướng XÚ UẾ VÂN phi ngựa như bay về Doanh TUẪN GIÁO. Khi lọt được vào sảnh đường, quân Cảnh Bị vội vàng tách rời đám dân chúng khỏi LỘ DUNG và bảo vệ cho Ông ta thật nghiêm nhặt. Họ không dám động vào đám người chống đối vì Vương quốc THẾ TRẦN chỉ can thiệp khi có những va chạm về vũ lực mà thôi.

Đang lúc tình hình cực kỳ khẩn trương vì dân chúng vẫn tiếp tục la ó dữ dội, bất ngờ có một hán tử đầu tóc bạc phơ sồng sộc tông cửa sảnh đường. Bọn CẢNH BỊ trong một phản ứng tự nhiên đề phòng cuộc tấn kích bất ngờ, đẩy vội Tổng Trấn LỘ DUNG vào nhà xí và đóng chặt cửa lại. Mọi người đều thích chí cười ồ vì mỉa mai thay, trên cửa nhà xí có tấm bảng đề: “LỘ DUNG : bác” đã được dán trong cuộc lễ ngày hôm trước.

Sau khi thấy không có phản ứng nguy hiểm nào nữa, CẢNH BỊ mở cửa nhà xí cho LỘ DUNG bước ra và dân chúng lại tràn đến tiếp tục xỉ vả. Sau này khi nhắc đến hán tử đầu bạc kể trên người ta mới tìm ra được tung tích ông là người ở Trấn CẨM BÁO, họ NGŨ tên CỐT và có biệt danh là “BẠCH THỦ THIỀN SƯ” vì ông làu thông kinh sử của THIÊN GIÁO rất nhiều.

Giáo Học THIỀN TRANG được cấp báo việc đột nhập của Tổng Trấn LỘ DUNG cũng vội vã phi ngựa về Doanh và chạm trán với Tể tướng XÚ UẾ VÂN tại NỮ VƯƠNG Đài trong sân Doanh TUẪN GIÁO. XÚ UẾ VÂN liền không bỏ cơ hội vội vàng thuyết phục THIỀN TRANG để chấp nhận LỘ DUNG. Tuy nhiên tất cả nam phụ lão ấu đều nhất tề phản đối.

Nhận thấy lòng dân đã quyết tâm ngăn chận LỘ DUNG bằng mọi cách, Tể tướng XÚ UẾ VÂN ra lệnh cho LỘ DUNG lui quân về phía cổng thành. Bất thình lình XÚ UẾ VÂN hô to: “Tẩu Vi Thượng Sách”, thế là cả đoàn người ngựa quay đầu phóng vội khỏi cổng thành. Trước khi vượt qua khỏi cổng, Tổng Trấn LỘ DUNG còn ngoái cổ lại, trỏ vào đám dân chúng mà hét lớn: “Ta sẽ trở lại”, rồi phóng ngựa như bay lẫn vào đám bụi mù của đoàn quân chiến bại.

2.5 TẤN CÔNG DOANH TUẪN GIÁO LẦN THỨ HAI

Sau cuộc đột kích lần thứ nhất thất bại, Tể Tướng XÚ UẾ VÂN tức tốc mở cuộc họp hành quân tham mưu quan trọng gồm một số võ tướng của Triều Đình để tìm một chiến thuật khác khả dĩ đưa được Tổng Trấn LỘ DUNG vào Doanh TUẪN GIÁO. Sau khi nghiên cứu tình hình và mổ xẻ ưu khuyết điểm của cuộc tấn kích lần trước, Tể Tướng XÚ UẾ VÂN hoàn tất lệnh hành quân lần thứ hai với những chi tiết như sau:

- Giờ tấn công được ấn định vào khoảng giờ Dậu cùng ngày tức là ngày 21 tháng 7 năm Bính Dần 1986.
- Chiến thuật áp dụng: Nội công Ngoại kích, Tổng Trấn LỘ DUNG ra chỉ thị cho THAM MƯU BỘ của ông xúc tiến ráo riết việc vận động quần chúng ủng hộ lập trường của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và LỘ DUNG, làm hậu thuẫn cho đạo quân tấn công chánh. Nhóm dân ủng hộ này dưới sự điều động của LÊ GIA TRANG CHỦ, KHUYỂN NGÔN ĐẦU ĐÀ, VÕ CÔN TÚ TÀI, ĐÈN HOA TẶC TỬ, TRANG CỐNG TẦN và một số thủ hạ đắc lực của LỘ DUNG sẽ lợi dụng buổi lễ tế thường nhật của người HOÀI QUỐC, xâm nhập trà trộn vào Trấn phủ làm hậu thuẫn cho cuộc nổi dậy chống lại nhân dân của BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH.
- Tể Tướng XÚ UẾ VÂN phong cho Phó Tể Tướng ẨU GÀN BỘ kiêm Công Vụ Thượng Thư làm Phó Nguyên Soái thống lĩnh đạo Hữu quân để giữ cánh phải.
- Nữ Tướng TỈ MA LĨNH đặc trách xã hội THIÊN GIÁO được phong làm Phó Nguyên Soái điều động đạo Tả quân an ninh cánh trái.
- Đích thân Tể Tướng XÚ UẾ VÂN và Tổng Trấn LỘ DUNG sẽ luân phiên thống lĩnh đạo Trung quân tấn công hướng chánh vào Trấn phủ. LIỄU TU SINH chỉ huy toán Ngự Lâm Quân chịu trách nhiệm an ninh cận vệ cho LỘ DUNG.
- Ngoài kế hoạch tấn công, họ còn được sự yểm trợ án ngữ và mở đường của một lực lượng hùng hậu của SỞ CẢNH BỊ thuộc Vương quốc THẾ TRẦN dưới quyền điều động của tình báo Trưởng ĐU LẬT.

Lúc bấy giờ Doanh TUẪN GIÁO có một không khí tấp nập khác thường. Dân chúng từ khắp nơi đổ về càng lúc càng đông cốt để nghe tin tức về cuộc phản công đánh bật LỘ DUNG vào buổi trưa. Họ say mê thích thú theo dõi diễn biến của cuộc đột kích và lấy làm tiếc vì không được góp phần vào trận đánh kể trên. Tuy nhiên họ cũng nô nức trong lòng vì biết rằng chẳng sớm thì muộn LỘ DUNG và đoàn tuỳ tùng sẽ trở lại vào lúc chiều tối. Như thường lệ, Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN chủ tế cuộc lễ thường nhật vào giờ Dậu trong không khí ngột ngạt của một ngày vừa có biến động.

Trong lúc tề tựu, dân chúng phát hiện lác đác một vài thủ hạ thân tín trong THAM MƯU BỘ của LỘ DUNG đang trà trộn vào đám đông đang dự lễ. Bất thình lình có tiếng la to: “Tổng Trấn LỘ DUNG đến”. Thế là khung cảnh hỗn loạn diễn ra. Một số người như ánh chớp phóng nhanh ra cổng thành để quan sát. Nhưng đó chỉ là báo động giả. Cuối cùng buổi lễ được kết thúc một cách vội vã, không có bài hát cũng như lời cầu Cảm Tạ như thường lệ, để dân chúng tự động kéo nhau ra giữ cổng thành.

Chỉ trong khoảnh khắc tiếng vó ngựa dồn dập của đoàn quân SỞ CẢNH BỊ thuộc Vương quốc THẾ TRẦN ào ạt tiến vào Trấn phủ. Trong y giáp màu đen với đầy đủ trang bị cho một cuộc cận chiến, họ bố trí quân cả trong lẫn ngoài Doanh TUẪN GIÁO để ngăn ngừa một cuộc bạo động về vũ lực. Và giờ tấn công đã điểm, cũng nhung phục màu đen, cổ đeo thẻ bài trắng và ấn Tổng Trấn trên tay, LỘ DUNG cùng với XÚ UẾ VÂN oai vệ trên lưng BỘ ÍCH LONG CẦU chiến mã phóng như bay vào cổng bắc của Trấn phủ.

Lập tức trong một phản ứng nhanh nhẹn chưa từng thấy trong cổ kim chiến sử, hàng trăm người của phe chống đối tràn ra, vai sát vai tạo thành một bức tường người dày đặc án ngữ cổng thành. Cùng với chiến thuật cố hữu, tất cả mọi người đều giơ cao và hô to khẩu hiệu : “LỘ DUNG: bác” vang động cả một góc trời.

Dân chúng HỒ SINH gần đó cũng kéo nhau ra quan sát một thế trận thật kỳ lạ chưa từng xảy ra tại vương quốc của họ bao giờ. BỘ ÍCH LONG CẦU của XÚ UẾ VÂN bị vây chặt không thể tiến lên được nửa bước. Cuối cùng cả bốn võ tướng XÚ UẾ VÂN, LỘ DUNG, ẨU GÀN BỘ và TỈ MA LĨNH phải xuống
ngựa và bắt đầu cuộc thương thuyết. Giữa tiếng thét la chống đối của đoàn người, XÚ UẾ VÂN bắt loa kêu gọi dân chúng để cho LỘ DUNG có cơ hội làm Tổng Trấn một thời gian ngắn, nhưng tất cả đều đồng loạt bác bỏ và không chấp nhận LỘ DUNG với bất cứ giá nào.

Lúc bấy giờ phe ủng hộ LỘ DUNG và THAM MƯU BỘ của Ông ta thấy khí thế của phe chống đối cực kỳ mãnh liệt, họ liệu thế không làm gì được đành thúc thủ đứng dụm lại như mèo bị cắt tai dưới NỮ VƯƠNG Đài. Bốn CẢNH BỊ thấy đám dân không có vẻ gì nguy hiểm về phương diện an ninh nên cũng đứng ngoài làm phỗng đá. Chung cuộc chỉ có LỘ DUNG mặt tái mét vì lo sợ và tức giận, đứng chịu trận giữa đám dân đang tràn đầy phẫn uất. XÚ UẾ VÂN mặt đỏ tiá tai cố gắng giải thích và phân trần, nhưng dân chúng không nghe. Phó Nguyên Soái TỈ MA LĨNH giận dữ đi đi lại lại, trong khi Phó Nguyên Soái ẨU GÀN BỘ lộ vẻ tuyệt vọng hoàn toàn.

Nhìn vào lực lượng của phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH, người ta thấy có rất đông anh hùng hào kiệt và nhân dân từ các Trấn. Trong số các KHA TRƯỞNG và KHA PHÓ, có mặt BẢO TRẦM LUÂN của NAM HỔ SINH, HOÀNG NGỌC CHƯƠNG của MIÊU PHÁ THẠCH; TRANG THẾ NGỌC của ÁNH DƯƠNG; TƯ MÃ Ý và BẠCH THỦ THIỀN SƯ của CẨM BÁO. Về các BANG, HỘI có ĐỊNH THIẾU GIA của ẤU NHI ĐOÀN nổi danh với ngón đòn “MỘC TÚC CƯỚC”; LIÊN BÀ BA, Hội Chủ của HIỀN MẪU THIÊN GIÁO Hội; NGƯƠN TRẤN CƯƠNG, Bang Chủ của TRÁNG NIÊN BANG, hợp cùng với TRƯƠNG VÕ HUỲNH, cả hai sở trường về thuật “SÁT NHĨ TRUYỀN THANH” xoáy thốc vào lỗ tai của LỘ DUNG và quan quân Triều đình. Phái nữ cũng góp phần không nhỏ vào cuộc chống cự ác liệt kể trên với sự xông xáo của THIỀN TRANG PHU NHÂN và nhiều phụ nữ khác. Ngoài ra còn có sự góp mặt của hàng trăm hán tử, dân đinh đã mai danh ẩn tích từ lâu nay lại có dịp tung hoành ngang dọc.

Nhận thấy tình hình cực kỳ nghiêm trọng vì khí thế nhân dân càng lúc càng cao, Tình Báo Trưởng ĐU LẬT vội vàng yêu cầu Tể Tướng XÚ UẾ VÂN cho di tản chiến thuật. Trong khoảnh khắc XÚ UẾ VÂN quyết định ra lệnh cho hai Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN phải ra trình diện thượng cấp tại chiến trường.

Bằng một chiêu thức cực kỳ hiểm độc, XÚ UẾ VÂN đẩy hai Phó Tổng Trấn lên lưng BỘ ÍCH LONG CÂU và cùng với LỘ DUNG, ẨU GÀN BỘ phóng ra khỏi cổng thành. Bọn thủ hạ của LỘ DUNG rón rén lợi dụng bóng tối cũng đào thoát khỏi sân Trấn phủ. Dân chúng reo hò, vui mừng, hớn hở vì đã hoàn toàn đẩy lui được cuộc tấn công vũ bão của LỘ DUNG. Tuy nhiên họ không giấu được nỗi lo âu trước mặt vì sự thất thoát của hai Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN.

Màn đêm xuống dần trên Doanh TUẪN GIÁO nhưng đám dân chưa chịu giải tán. Gió lạnh ở đâu bất chợt kéo về. Một vài chiếc lá rụng, bay bay trong gió. Gió càng lúc càng mạnh. Người HOÀI QUỐC bắt đầu thấm lạnh, thấm lạnh bởi trận gió trái mùa và thấm lạnh bởi lối hành xử lạ thường của những quan lại của một Triều đình có một Quốc Giáo luôn luôn lấy TÌNH THƯƠNG làm nền tảng cho việc trị dân giữ nước. Xa xa tiếng trống sang canh buồn bã vọng về xen lẫn với giọng hò ru con của một người thiếu phụ HOÀI QUỐC:

“Hò ơ! . . . Ý dân là Ý của Trời,
Thần quyền Thế lực mấy đời chuyển lay.”

2.6 QUYẾT ĐỊNH THẤT NHÂN TÂM

Rạng sáng ngày 22 tháng 7 năm Bính Dần 1986, XÚ UẾ VÂN ra lệnh họp khẩn cấp với Tổng Trấn LỘ DUNG và hai Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN tại Dinh Tể Tướng. Cả bốn võ quan đều mệt mỏi sau một đêm dài mất ngủ. XÚ UẾ VÂN mất ngủ vì bóp đầu nặn trán cố tìm một phương thức để đối phó với nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH. LỘ DUNG thao thức năm canh vừa tức, vừa sợ. Tức vì không thực hiện đúng lời trước ba quan tướng sĩ là sẽ cách chức BANG HÀNH SỰ khi vừa về nhậm Trấn, trái lại, Ông bị chính những người này đẩy ra khỏi cổng thành. Sợ vì đêm ngủ chập chờn bị ám ảnh bởi hình ảnh của một đám đông vừa hét vừa giơ cao bảng “LỘ DUNG : bác”. ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN trằn trọc suốt đêm vì cảnh lạ nhà lạ nước khi bị bắt ngủ đêm ở trang trại của người dân trong Trấn.

Trong cuộc họp này, ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN không có ý kiến gì để phát biểu. Trái lại XÚ UẾ VÂN và LỘ DUNG đã đưa ra những giải pháp thật táo bạo. Và cuối cùng, một trong những giải pháp đã được ban hành. Đó là việc nghiêm cấm các nghi lễ được cử hành tại Nguyện Đường của Doanh TUẪN GIÁO.

Quyết định trên vừa được ban hành càng làm cho người dân HOÀI QUỐC thêm phẫn uất vì việc cấm đoán các nghi lễ là một điều đã vượt quá sức chịu đựng của họ. Đối với người theo THIÊN GIÁO, tế tự là một hình ảnh thiêng liêng cao trọng thuộc về phần tâm linh không có gì có thể thay thế được. Việc cấm đoán của Triều đình và LỘ DUNG là một điều không thể chấp nhận. Để phản đối với quyết định trên, BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH phát hịch khắp nơi thông báo những biện pháp sau:

- Báo tin cho Quan KHÂM SAI của Đại Đế GIANG PHONG Đệ II và gửi Hoả Tốc Thư cho chính Đại Đế xin can thiệp gấp.
- Mở chiến dịch ăn chay và cầu nguyện cho hai thỉnh nguyện sớm thành công.
- Thực hiện những Thập Tự Giá bằng gỗ cho những ngày không có Hy Tế.

Tối độc hơn nữa BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH cho bày thế trận “THẬP TỰ DI HÀNH” chung quanh hoàng cung của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA tại THẬP TAM ĐÀNG. Sau đó trận thế biến dạng và được bày tại Đền Thờ Vương Quốc ở trung tâm phố thị của Đế Đô HỔ SINH “THẬP TỰ DI HÀNH” là bài quyền thượng thừa của THIÊN SAI GIÁO CHỦ, đã áp dụng trong cuộc tử chiến cuối cùng của Ngài với Ác Thần; và kết quả là Ngài đã chiến thắng một cách vẻ vang.

“THẬP TỰ DI HÀNH” là hình ảnh của một đoàn người vai mang Thập Tự, tượng trưng cho sự đau khổ vất vả của cuộc đời, âm thầm lầm lủi nối đuôi nhau đi trong trận thế như một con rắn khổng lồ uốn khúc lượn quanh Đền Thờ. Về hình thức và tâm lý, đây là một hình ảnh biểu dương lực lượng bất bạo động. Về tâm linh, Thập Tự Giá là vũ khí độc nhất đã chế ngự được Tà Thần, và những người vác nó đã thực hiện đúng lời căn dặn của THIÊN SAI GIÁO CHỦ: “Hãy bỏ mình vác Thập Giá mà theo Ta”.

Một hôm LỘ DUNG phi ngựa ngang đám dân làng đang bày trận thế và rất lấy làm ngạc nhiên vì số người di hành trong thế trận rất đông. Ông khiếp sợ ra mặt và vội vàng họp THAM MƯU BỘ tìm biện pháp đối phó. Để hoá giải thế trận “THẬP TỰ DI HÀNH”, và nhất là để tiêu diệt nhóm chống đối, Ông tức tốc cho thành lập một đạo quân lấy tên là Quân TỬ THỦ ĐỨC TIN THIÊN GIÁO.

Với lập luận là BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH đã đi quá xa trong lĩnh vực tôn giáo, việc thành lập đạo quân này là điều cần thiết. Ông dự định làm lễ xuất quân cho đạo quân trên trong một cuộc lễ lấy tên là GIẢI HOÀ để che mắt triều đình. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và Tể Tướng XÚ UẾ VÂN có biết trước ý đồ của LỘ DUNG hay không là điều mà các sử gia đang cố tìm tài liệu. Sau khi xem thiên văn và nhật nguyệt tuần hoàn, Ông đã chọn được ngày lành tháng tốt cho ngày Tế GIẢI HOÀ.

Đó là ngày 9 tháng 8 năm Bính Dần 1986. Ngày hôm ấy Tể Tướng LỘ DUNG đã đi vào huyền sử của người HOÀI QUỐC THIÊN GIÁO và cũng chính ngày này LỘ DUNG không thể nào quên được bước đường hoạn lộ của Ông.

2.7 SỨC MẠNH QUẦN CHÚNG

Trước ngày buổi Tế GIẢI HOÀ được tổ chức BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH đã ra yết thị cho toàn dân tẩy chay các cuộc hội họp và tế tự do Tổng Trấn LỘ DUNG chủ xướng. Vì nghĩ rằng lần này cũng như mọi lần, nhóm chống đối sẽ không tham dự buổi Tế GIẢI HOÀ nên LỘ DUNG đã cho công văn đi khắp nơi mời gọi mọi người về dự tế.

Bất thình lình BẠC TRANG hán tử và Giáo Học THIỀN TRANG đổi chiến thuật, phổ biến trong Hịch CHÁNH ĐẠO kêu gọi dân chúng về tham dự lễ tế trên cho thật đông để cầu nguyện cho những người đồng đạo cần được bồi dưỡng Đức tin. LỘ DUNG và THAM MƯU BỘ của Ông bất ngờ sa vào thế hoả mù vì không biết phe chống đối sẽ làm gì trong buổi tế.

Trước đó một ngày tức là vào ngày 8 tháng 8 năm Bính Dần 1986, Ông lại cho thi hành một quyết định thật nhẫn tâm khác: Đó là việc cấm chỉ các Phó Tổng Trấn cử hành các buổi tế tự tại các trang trại và nhà dân trong các Trấn, đồng thời Ông cho phong toả cửa CHẦU GIA trong Nguyện Đường để ngăn chận việc hiệp thông thiêng liêng cao quý nhất của THIÊN GIÁO. Những quyết định thật nhẫn tâm vừa kể của LỘ DUNG đã làm cho quả bóng đầy hơi không còn sức dồn nén nữa nên nổ tung.

Chiều ngày mồng 9 tháng 8 năm Bính Dần 1986, người HOÀI QUỐC từ các trấn trong những bộ áo quần sạch sẽ tươm tất, lũ lượt kéo về Đền Thờ Vương Quốc. Có người đi thật sớm để hy vọng chiếm được chỗ tốt trong Đền Thờ. Lúc bấy giờ LỘ DUNG và các thủ hạ cảm thấy nao núng vì phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH đã tập họp đông đảo ngoài sức tưởng tượng. Họ còn mang các bảng hiệu bằng vải phản đối Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và LỘ DUNG về những quyết định có tính cách áp bức tôn giáo nêu trên.

Cũng như thường lệ, Triều đình đã xin viện binh từ SỞ CẢNH BỊ của Vương Quốc THẾ TRẦN đến giữ an ninh cho LỘ DUNG và buổi tế. Sau khi cho đám KHUYỂN NGAO (xem phần chú giải) đánh hơi lục soát khắp cả Đền Thờ để tìm Hoả công và Địa lôi, bọn CẢNH BỊ cho dân chúng tiến vào. Sau vài lời chào mừng trọ trẹ bằng ngôn ngữ HOÀI QUỐC của viên Tổng Trấn người bản xứ, nghi thức tế tự bắt đầu.

Bài hát Ca Nhập Tế được trổi lên với LIỄU TU SINH dẫn đầu cuộc rước, kế đến là các Phó Tổng Trấn đi hàng đôi một: Quản Giáo Trưởng XÀ ĐẦU và Phó Tổng Trấn ĐỒNG TÂM NGUYÊN, Phó Tổng Trấn MÂY NGÀN và MAI KHANG (một Phó Tổng Trấn Vương Quốc bạn ở phiá Nam HỒ SINH, Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN và cuối cùng là vị Chủ Tế, Tổng Trấn LỘ DUNG trong bộ nhung phục đại lễ Thất Phẩm màu xanh.

Vừa thấy LỘ DUNG bước vào Chánh điện, lập tức cả ngàn người không ai bảo ai đồng nhất loạt hét to : “LỘ DUNG:bác” vang dội cả Đền Thờ. Những tấm bảng kẻ hàng chữ trên được giơ cao, tràn ngập như hàng ngàn con bướm trắng lấp lánh phản chiếu ánh nắng chiếu vào từ các khung cửa sổ của Đền Thờ. Tiếng la hét phản đối ầm ầm như sóng đại dương, rền rĩ như những viên đại pháo thần công rớt vào chỗ đứng của vị Tân Tổng Trấn. LỘ DUNG nét mặt ngơ ngác, thẩn thờ như người mất hồn, đã mấy lần cố gắng làm Dấu Thập Tự bắt đầu cuộc tế nhưng đều thất bại.

Ông không ngờ cả ngàn người dân mà Ông đinh ninh sẽ được cai trị trong những ngày sắp tới đang công khai coi thường luật vua phép nước và chức Tổng Trấn oai vệ của Ông. Ông xấu hổ quá, muốn chạy trốn khỏi Đền Thờ nhưng cổng nào cũng bị phe chống đối vây chặt. Ông muốn bay lên Trời để khỏi thấy cảnh nhục nhã, nhưng môn khinh công “CÂN ĐẨU VÂN” ông chưa học xong. Ông muốn chui xuống đất thì bài “ĐỘN THỔ QUYỀN” ông chưa thuộc. Ông muốn tàng hình thành mây khói thì cẩm nang “ẢO ẢNH PHÁP” ông không bao giờ chịu luyện tập.

Ông muốn ngã chết lập tức thì nghe có tiếng thì thầm bên tai “Không, ngươi phải sống; ân đền oán trả.” Cuối cùng không còn cách nào thoát hiểm, Ông lẩm bẩm lập đi lập lại hai tiếng “Từ Hải, Từ Hải” rồi đứng chết lặng tại bàn tế lễ giữa tiếng gào thét của dân chúng. Bấy giờ toán phòng vệ của BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH phải hoạt động ráo riết, rải quân chận các lối lên Chánh Điện để ngăn chận những người quá khích và để bảo vệ cho LỘ DUNG. “HOẢ TÂM ĐẠI HIỆP” TRƯƠNG VÕ HUYNH mở đường máu tiến sát lên Chánh Điện tuyên đọc “Cảnh Cáo Thư” trước mặt các Phó Tổng Trấn thuộc NHÓM YỂM TRỢ của LỘ DUNG. Không khí vô cùng hỗn loạn. Bọn CẢNH BỊ được báo động tràn vào các cửa Đền Thờ để chờ lệnh xung trận. KHUYỂN NGÔN ĐẦU ĐÀ chạy lên chạy xuống như gà mắc đẻ, thỉnh thoảng lại thì thầm to nhỏ vào lổ tai LỘ DUNG, đồng thời vận khí đan điền, hà hơi tiếp sức, chữa trị cấp tốc những chỗ nội thương cho vị thủ lãnh. Đám thủ hạ trong THAM MƯU BỘ của Ông bàng hoàng tìm chỗ ẩn núp hoặc “bỏ Thầy mà trốn đi hết”.

Nhận thấy nếu để LỘ DUNG đứng lâu giữa Chánh Điện sẽ gây thêm sự căm phẫn, viên Tổng Trấn người bản xứ vội ra lệnh cho LỘ DUNG và đoàn Tế lễ bước vào. Như một cái xác không hồn, LỘ DUNG thất thểu bước xuống khỏi Chánh Điện trong sự che chở của Toán Phòng Vệ thuộc BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH.

Sử chép rằng: Sau khi cuộc lễ hoàn tất, những người lo việc quét dọn trong Đền Thờ đã nhặt được Ấn Tổng Trấn của LỘ DUNG trong lúc nguy khốn đã đánh rơi mất. Lại cũng có người kể rằng: Vị Tân Tổng Trấn bị giao động tâm thần quá sức nên đã ngất xỉu và lúc về đã quên chỗ cột con chiến mã của Ông.

2.8 LỄ TRAO GƯƠM TỔNG TRẤN

Sau cuộc tỉ đấu tại Đền Thờ Vương Quốc là tuần lễ dưỡng thương của LỘ DUNG. Ông đã mất đi sự nô nức hăm hở của buổi ban đầu khi mới nhận chiếu chỉ Tổng Trấn của Triều đình. Những lúc bị bắt buộc phải xuất hiện trước ba quân tướng sĩ, Ông đã tuyên bố rằng Ông không có tham vọng gì trong chức vụ Tổng Trấn của Doanh TUẪN GIÁO nhưng vì Đức Vâng Phục và Dạ Trung Thành với Đức Vua mà ông phải liều chết lăn xả vào chốn dầu sôi lửa bỏng ấy. Và sự từ nhiệm không còn là quyết định ở nơi Ông nữa mà tất cả đều tuỳ thuộc vào nơi Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA.

Tể Tướng XÚ UẾ VÂN và Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA sau khi nghe phúc trình tự sự về cuộc Tế Giải Hoà tại Đền Thờ Vương Quốc đã bị nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH bẻ gãy, liền giận dữ triệu tập văn võ quần thần để tìm cách đối phó. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA một mặt ra chỉ thị cho Tể Tướng XÚ UẾ VÂN tống đạt một công văn hoả tốc có triện của Tể Tướng tước bỏ danh hiệu THIÊN GIÁO của BANG HÀNH SỰ và mặc nhiên xem cơ cấu hành chánh nầy như một tổ chức THẾ TRẦN vì đã ủng hộ phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH. Mặc khác Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA ra chiếu chỉ sẽ áp dụng hình phạt tối đa của THIÊN GIÁO là “TUYỆT THÔNG ÁN” cho hai thủ lãnh của nhóm chống đối là BẠC TRANG hán tử và Giáo Học THIỀN TRANG nếu hai Ông vẫn tiếp tục làm loạn và không thừa nhận Tổng Trấn LỘ DUNG. Đồng thời Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA vẫn tiếp tục tiến hành LỄ TRAO GƯƠM cho LỘ DUNG vào ngày 16 tháng 8 năm Bính Dần 1986 tại Đền Thờ ĐỒNG TÂM mặc cho sự chống đối càng ngày càng mạnh. Sử sách đời sau đã cho rằng quyết định của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA lúc bấy giờ là một quyết định chỉ làm thoả mãn tự ái của Ông mà thôi, trái lại nó đã đưa cuộc biến động vào thế khó giải quyết.

BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH và BANG HÀNH SỰ khi biết được quyết định của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA liền hội họp quân dân suốt tuần lễ để tìm phương cách ngăn chận LỄ TRAO GƯƠM TỔNG TRẤN. Theo kế hoạch của BẠC TRANG Hán Tử, nhân dân thuộc phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH sẽ tụ họp trước cổng Đền Thờ vào lúc sớm với hy vọng sẽ được cung nghinh Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA khi Ông ngự giá vào Đền Thờ. Họ sẽ xếp hàng trong vòng trật tự hai bên lối đi dẫn vào cổng chánh của Tiền đường và dự định dâng sớ yêu cầu đình chỉ LỄ TRAO GƯƠM TỔNG TRẤN cho LỘ DUNG. Khi dâng sớ, tất cả mọi người sẽ quỳ xuống theo nghi lễ “THẦN TỬ BÁI LONG NHAN” là hình thức tỏ sự tôn kính và trung thành của người HOÀI QUỐC theo THIÊN GIÁO. Nếu Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA vẫn cương quyết tiến hành ý định của Ông, họ sẽ tiến vào Đền Thờ để trả lời câu hỏi có thừa nhận Vị Tân Tổng Trấn do Hoàng Đế Chủ Tế đưa ra trong lễ nghi TRAO GƯƠM. Tất cả mọi người đều thông suốt kế hoạch và bắt đầu kéo đến Đền Thờ từ đầu giờ thân ngày 16 tháng 8 năm Bính Dần 1986.

Bấy giờ bọn thủ hạ của LỘ DUNG cho treo những băng vải trước cổng Đền Thờ trên đó kẻ những câu tung hô Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và chúc mừng LỘ DUNG sắp được chính thức sắc phong Tổng Trấn. Nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH cũng sẽ trả đũa bằng cách cho giăng những băng vải chống đối LỘ DUNG và chính sách độc đoán của Triều đình. Họ cũng cho phân phát cấp tốc Hịch CHÁNH ĐẠO song song với những băng giấy “LỘ DUNG: bác” để dùng trong lúc dâng sớ hoặc Lễ TRAO GƯƠM. Dân chúng hai phe đến càng lúc càng đông và đứng thành hai nhóm riêng biệt. Nhóm ủng hộ LỘ DUNG chỉ có một số ít nên biết thân biết phận đứng lui vào một góc cạnh Dinh Tổng Trấn ĐỒNG TÂM. Được đặt vào tình trạng báo động trước cả tuần lễ, Vương Quốc THẾ TRẦN đã điều động một lực lượng hùng hậu quân của SỞ CẢNH BỊ có sự tăng cường của bầy khuyển ngao tiến chiếm các cổng và lối đi dẫn vào Đền Thờ. Được biết chi phí cho đám quân CẢNH BỊ trong ngày Lễ TRAO GƯƠM của Tổng Trấn LỘ DUNG lên đến hai mươi hai vạn quan được trả bởi tiền thuế của người HỒ SINH.

Gần đến giờ hành lễ, nhóm ủng hộ LỘ DUNG xếp thành hàng tư tay nắm chặt tay, tiến vào Đền Thờ giữa tiếng la ó của phe CHÂN LÝ và THÁI BÌNH đang đứng án ngữ ở hai bên cổng. Bất thình lình bọn CẢNH BỊ thiết lập cấp tốc một hàng rào ngăn chận lối vào cổng hậu và trong chớp mắt, đoàn xa giá của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA trên có LỘ DUNG phóng vào như ánh chớp. Lý do là Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đã bị bọn nịnh thần tâu rình rằng phe chống đối sẽ ném uế khí vào LONG THỂ của Ông nên Ông phải huỷ bỏ cách thức di hành quang minh chính đại như thường lệ. Thấy bài quyền “THẦN TỬ BÁI LONG NHAN” không có cơ hội biểu diễn, nhóm dân chống đối tìm cách nhanh chân tiến vào Đền Thờ. Tuy nhiên vì có chỉ thị của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA nên bọn lính của SỞ CẢNH BỊ tìm cách hoãn binh không cho họ vào ào ạt như mong muốn. Bọn này đã cho lục soát từng người một, bất kể nam phụ lão ấu thật chậm chạp cốt để giới hạn nhóm người chống đối lọt vào Đền Thờ. Hơn nữa họ tịch thu tất cả hịch CHÁNH ĐẠO trong có những bảng giấy chống LỘ DUNG và vất vào một xó. Cho đến giờ hành lễ chỉ có một số ít cảm tử quân của phe CHÂN LÝ và THÁI BÌNH lọt được vào bên trong mà thôi.

Khi đoàn tế lễ gồm các Tổng Trấn và Phó Tổng Trấn người HỒ SINH cũng như người HOÀI QUỐC và Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA bước vào Chánh Điện thì nhóm cảm tử quân của CHÂN LÝ và THÁI BÌNH bắt đầu phản đối la hét dữ dội. Thế là bọn CẢNH BỊ bên ngoài liền khoá chặt tất cả các cửa Đền Thờ và không cho một ai vào nữa. Nhóm Nhạc công của Đền Thờ phải tập trung tất cả sự chú ý để khỏi hát sai nhịp nhưng cuối cùng đành thất thủ. Nhóm chống đối mặc dầu không có người chỉ huy nhưng cũng đã tự động thích ứng với tình thế; họ tràn lên chiếm cứ các lối đi dẫn lên Chánh Điện và đồng hát to bài “LỘ DUNG: bác” theo một điệu dân ca HỒ SINH mà họ đã tập trước đó mấy ngày. Bọn CẢNH BỊ lập tức thành lập một hàng rào án ngữ, lưng quay lên Chánh Điện, mặt hướng xuống đối diện với đám đông ngăn ngừa bạo động. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đã nhiều lần định làm dấu THẬP TỰ bắt đầu cuộc lễ nhưng bị tiếng la hét ngăn lại. Các Tổng Trấn và Phó Tổng Trấn đều bị tâm thần giao động nặng nề không còn tập trung tư tưởng vào cuộc lễ nữa. Cuối cùng Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA run rẩy đặt gươm lên vai vị Tân Tổng Trấn không có dân hậu thuẫn này. Mặc dầu đã mặc nhung phục Thất Phẩm dày cộm của ngày Đại Lễ, chất thép lanh của lưỡi gươm thấm qua lớp áo cũng làm LỘ DUNG rùng mình. Trong cái không khí hỗn loạn, ồn ào như một buổi chợ phiên, LỘ DUNG chợt nghĩ đến những ngày trước mặt. Theo lẽ thường, vị Tân Tổng Trấn sẽ múa gươm diễn võ trước mặt bá quan tướng sĩ để xác nhận chủ quyền lãnh thổ. Phần Ông, có lẽ sẽ không bao giờ có dịp đi hết chiêu của Đường Gươm Dòng Họ LỘ trên phần đất của Doanh TUẪN GIÁO. Tất cả những nghi thức trong lễ TRAO GƯƠM đều được diễn ra trong sự hối hả cập rập. Không một ai trong Đền Thờ có thể nghe được những lời đối đáp giữa Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và vị Tân Tổng Trấn. Buổi lễ mất đi sự trang nghiêm, long trọng, đồng tâm hiệp ý mà chỉ là những động tác có tính cách hình thức để chứng tỏ quyền bính của một Triều đình mà thôi. Bấy giờ “HOẢ TÂM ĐẠI HIỆP” TRƯƠNG VÕ HUỲNH trong chiếc áo vải nâu, màu đơn sơ như lòng người HOÀI QUỐC, hiên ngang tiến lên giữa Đền Thờ như Kinh Kha sang Tần diệt bạo, hai chân dạng ra như ‘Ngạo Nghễ Tấn”, tay chỉ thẳng vào mặt Vị Chủ Tế, dùng thuật “SÁT NHĨ TRUYỀN THANH” lanh lảnh: “Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA! Hãy nghe tiếng thần dân của Ông.” Tất cả mọi người của phe LỘ DUNG đều tức giận nhưng không làm gì được. Cuối cùng nhóm cảm tử quân của phe CHÂN LÝ và THÁI BÌNH bất mãn kéo nhau ra khỏi Đền Thờ trả lại sự trống trải hoang tàn như tâm trạng của những ngưòi đang phò vị Tổng Trấn bất hạnh.

Trong lúc cuộc lễ TRAO GƯƠM diễn ra trong Đền Thờ thì bên ngoài hàng ngàn người vẫn tiếp tục la thét và hát bài “LỘ DUNG : bác” vang dậy. Bọn CẢNH BỊ và bầy khuyển ngao đằng đằng sát khí án ngữ tất cả các lối vào. Nội khả xuất, ngoại bất nhập. Cuộc chống đối giằng co giữa các quân của BẠC TRANG Hán Tử và bọn CẢNH BỊ kéo dài từ đầu giờ Dậu đến cuối giờ Tuất. Cuối cùng trong một lúc cố gắng khai thông con đường rút lui cho Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và LỘ DUNG, bọn CẢNH BỊ đã dùng ‘CƯỜNG BẠO PHÁP” bất ngờ hạ độc thủ hai người của phe CHÂN LÝ và THÁI BÌNH. Đó là NGŨ HỮU DÕNG, Trưởng nam của BẠCH THỦ THIỀN SƯ thuộc Trấn CẤM BÁO và TRINH CÔ NƯƠNG, Ái nữ của THĂNG LONG NỮ TƯỚNG của Trấn VƯU SƠN. Quân CẢNH BỊ lợi dụng tinh thần bất bạo động của nhóm chống đối bất thình lình dùng đoản côn thúc mạnh vào chấn thuỷ của NGŨ HỮU DÕNG, đồng thời trói chặt hai vị anh hùng nữ lưu của CHÂN LÝ và THÁI BÌNH, và ném vào “tù xa”. Về sau Tình Báo Trưởng DU LẬT của SỞ CẢNH BỊ đã thương lượng với Hảo hán HỒ QUANG NGUYỆT của phe chống đối là sẽ phóng thích hai người kể trên nếu dân chúng hứa sẽ không ném uế khí vào đoàn xa giá của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và LỘ DUNG. Hành động đàn áp trắng trợn này đã gây căm phẫn tột cùng trong lòng người HOÀI QUỐC và hình ảnh uy quyền cao trọng của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA trong phút chốc biến thành hình ảnh của một vị Vua độc tài chuyên chế.

Tục truyền rằng ngay chính đêm TRAO GƯƠM TỔNG TRẤN, trời đất đã xảy ra những chuyện lạ lùng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Sấm chớp nổi lên khắp nơi, đất đai rung chuyển cực mạnh. Trời đổ mưa như thác. Gió thổi điên cuồng vũ bão làm sập đổ dinh thự đền đài trong các Trấn. Sóng thần từ HOÀ BÌNH ĐẠI DƯƠNG cuồn cuộn kéo vào đập mạnh vào chân núi của bờ biển HỒ SINH. Mọi người đều run sợ, tiếng khóc than nổi lên khắp nơi. Người HOÀI QUỐC lo sợ cho ngày THẾ MẠT. Họ kéo nhau ra đứng trên những ghềnh đá cao mé biển hướng về cố quốc than khóc thảm thiết. Bấy giờ có một Lão Đạo Sĩ râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc, vai vác một con dê nhỏ, mờ mờ ẩn hiện trên nền trời đen thẳm, chốc chốc lập loè ánh chớp. Lão Đạo Sĩ đứng do dự hồi lâu rồi bất thình lình ném mạnh con dê xuống lòng biển cả. Lập tức sóng biển thôi gào thét, mưa dứt hạt, gió ngừng thổi và trời đất trở lại quang đãng như không có gì xảy ra.

Chú thích:

Khuyển ngao là một giống vật 4 chân được nuôi trong nhà để lo việc canh gác và bảo vệ cho gia chủ. Giống vật này có một đặc tính là luôn luôn trung thành với người nuôi và chỉ làm theo lệnh của chủ không cần suy xét. Riêng đối với một số người HOÀI QUỐC, khuyển ngao còn được xem là một món ăn bổ dưỡng trong những gia đình bình dân, đó là món MỘC TỒN. Trái lại đối với dân HỒ SINH, khuyển ngao là một giống vật được biệt đãi và được bảo vệ tối đa, có khi còn trọng hơn người. Đó là một nét tiêu biểu nhỏ của sự khác biệt về phong tục tập quán giữa hai bên bờ ĐÔNG và TÂY của HOÀ BÌNH ĐẠI DƯƠNG. Tuy nhiên đến thế kỷ thứ 25 thì giống khuyển ngao không còn xuất hiện trên mặt địa cầu này nữa. Theo tài liệu của các nhà Sinh Vật Học được phổ biến tại Viện Nghiên Cứu “TIẾN TRÌNH NHÂN LOẠI” vào đầu thế kỷ thứ 30 thì có giả thuyết cho rằng: Bất cứ một sinh vật nào trên mặt địa cầu cũng đều bị chi phối bởi Luật Đào Thải. Trong cơ thể của khuyển ngao có một loài vi khuẩn cực mạnh có khuynh hướng phát triển nhanh chóng trong cơ thể của con người. Sau bao nhiêu thế kỷ chung đụng với nhau, một số người đã bị nhiễm loại vi khuẩn ấy cho nên có những hành động tương tự như giống vật bốn chân này. Vì con người có thể làm những công việc của loài khuyển ngao nên về sau giống vật ấy không còn được trọng dụng nữa và dần dần bị mai một. Đó là nguyên nhân đưa đến sự tuyệt chủng của giống vật khôn mà không ngoan này. Trong các cuộc khai quật đồ cổ ở đầu thứ thế kỷ 30, tại những vùng thuộc Vương Quốc HỒ SINH, người ta đã tìm thấy hài cốt của những người có một thời đã nhiễm vi khuẩn khuyển ngao.

2.9 KỲ PHÙNG ĐỊCH THỦ

Người HỒ SINH ở thế kỷ 20 đã đạt được một bước tiến rất quan trọng trong việc phổ biến tin tức đến quần chúng. Có hai hình thức để thông báo tin tức cho dân gian thời bấy giờ. Thứ nhất là lối dùng bút tự in trên giấy trắng được gọi là “hịch” hay “công baó”. Về loại này người ta thấy có tờ “HỒ SINH THUỶ NGÂN CÔNG BÁO” có tầm mức rất quan trọng trong công luận HỒ SINH. Về phía ngôn ngữ HOÀI QUỐC có những tờ như “ĐÔNG HƯỚNG NHẬT BÁO”, “HOÀI QUỐC NHẬT BÁO”, “CHIÊNG ĐỒNG”. . . Vì được viết bằng ngôn ngữ HOÀI QUỐC nên những tờ công báo sau chỉ có tính cách phổ biến nội bộ trong cộng đồng HOÀI QUỐC mà thôi. Trái lại tờ “HỒ SINH THUỶ NGÂN có một tầm ảnh hưởng rất lớn được đón nhận bởi cả người HỒ SINH lẫn HOÀI QUỐC. Có một tờ công báo được sự hỗ trợ tận tình của nhóm LỘ DUNG đã công khai ủng hộ chính sách của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đối với người HOÀI QUỐC. Điều này chẳng những đã không giúp ích gì, trái lại còn làm cho Triều đình có những nhận định sai lầm về người HOÀI QUỐC.

Hình thức thứ hai được dùng để thông báo tin tức đến dân chúng là các “TRUYỀN ẢNH TRẠM”. Đây là phương pháp ghi nhận hình ảnh sống động tại chỗ bằng các âm bản, đoạn chiếu lại cho dân chúng ngay tại các trang trại của họ. Đây là lối thông tin nhanh chóng và kiến hiệu nhất của thời bấy giờ. Tất cá các “TRUYỀN ẢNH TRẠM” của người HỒ SINH và HOÀI QUỐC đã tích cực ghi nhận những diễn tiến trong cuộc binh biến Bính Dần 1986. Bên cạnh “TRUYỀN ẢNH ĐỆ NGŨ TRẠM” của Vương Quốc KIM SƠN còn có “TRUYỀN ẢNH ĐỆ TỨ THẬP BÁT” bằng ngôn ngữ HOÀI QUỐC và “TRUYỀN ẢNH ĐỆ THẬP NHẤT” của người HỒ SINH. Trước ngày lễ TRAO GƯƠM TỔNG TRẤN cho LỘ DUNG, Trạm chủ của “TRUYỀN ẢNH ĐỆ THẬP NHẤT” còn tiến xa hơn nhiệm vụ thông tin thường lệ là thiết lập một võ đài để hai bên liên hệ có cơ hội tỉ thí tranh ngôi bá chủ võ lâm được tổ chức vào một ngày lấy tên là “DIỆN ĐỐI DIỆN QUẦN HÙNG HỘI”. CHÂN LÝ và THÁI BÌNH cử BẠC TRANG Hán Tử đại diện cho phe CHÁNH ĐẠO trong khi Triều đình uỷ quyền Tể Tướng XÚ UẾ VÂN thay mặt cho phái HẮC MA. Cuộc tỉ võ diễn ra vào giờ Thân ngày 3 tháng 8 năm Bính Dần 1986 và được chấm điểm bởi một Ban Giám Khảo của “TRUYỀN ẢNH ĐỆ THẬP NHẤT” Trạm.

Cuộc tỉ võ diễn ra vô cùng ác liệt trước sự chứng kiến của hàng ngàn người qua TRUYỀN ẢNH TRẠM. Khi tiếng cồng khai hiệp vừa dứt XÚ UẾ VÂN tung mình lên võ đài bái tổ và biểu diễn vài thế không lấy gì làm ngoạn mục cho lắm. Vừa phi thân lên sau, BẠC TRANG Hán Tử đã khuỳnh tay thi lễ, uyển chuyển thi bài “AI OÁN QUYỀN” kể lể sự bất lợi về ngôn ngữ của một người HOÀI QUỐC đứng trước công luận của người HỒ SINH đồng thời nói rõ sự thất thế của một thần dân nhỏ bé đang đối đầu với thế lực của một Thần Quyền vĩ đại. Lập tức Ban Giám Khảo của“TRUYỀN ẢNH ĐỆ THẬP NHẤT TRẠM” đã cam kết với BẠC TRANG là cuộc giao đấu sẽ được chấm điểm trên căn bản thuần tuý võ thuật mà thôi. Được sự bảo đảm của Ban Giám Khảo, BẠC TRANG vội vàng xuống Trung Bình Tấn, hai tay khoác mạnh theo thế “PHẢN HỘI NHẬP” tát mạnh vào mang tai của XÚ UẾ VÂN đồng thời co chân phóng ra “THỈNH NGUYỆN CƯỚC” nặng tương đương hơn 2.000 Phán Quan Bút tông mạnh vào ngực của viên Tể Tướng Triều đình. Trong lúc XÚ UẾ VÂN còn đang hoa mắt với lối tấn công liên hoàn vừa kể, BẠC TRANG nhanh nhẹn rút kiếm múa luôn đường gươm bí truyền của Hoàng Đế GIANG QUỲNH là “THỆ HỨA KIẾM” bảo đảm việc khai Trấn cho người HOÀI QUỐC. XÚ UẾ VÂN bị ba thế tấn công liên tiếp, tá hoả tam tinh, vội nhắm mắt tung ra “XẢO NGÔN PHÁP” cho rằng cơ chế hành chánh “Doanh” vẫn còn nằm trong “BỘ LA LUẬT”. Tuy nhiên, với đường quyền vô căn cứ này, XÚ UẾ VÂN đã bị chính nội lực của Ông ta dội lại làm chấn động thân thể phải điều hành chân khí chữa thương gấp. Sau này công luận có xem lại BỘ TÂN LA LUẬT và nhận thấy cơ chế hành chánh “Doanh” không còn được nhắc đến nữa.

BẠC TRANG Hán Tử thấy thời cơ thuận lợi vội vàng tung kiếm cao lên. Thanh kiếm xoay tít như chong chóng, toả hào quang sáng rực, khuấy động không khí với âm thanh vang động trong thế “DIÊN HỒNG HỘI” để người dân có một sự lựa chọn danh chính ngôn thuận. Thấy nguy cơ của mũi kiếm thần bí đang lao xuống như vũ bão, XÚ UẾ VÂN liền lắc đầu, bịt tay, chúi vào góc đài, vung gươm ra sau lưng chống đỡ theo thế “PHẢN DÂN CHỦ”, cho rằng việc tự do không có trong THIÊN GIÁO. Tuy nhiên, thế “PHẢN DÂN CHỦ” của XÚ UẾ VÂN đã quá chậm và mũi kiếm “DIÊN HỒNG HỘI” của BẠC TRANG đã xé toạt mảnh áo đồng thời rạch một đường máu sau lưng vị Tể Tướng của Triều đình.

XÚ UẾ VÂN cảm thấy đau nhói ở lưng liền rùn người xuống thấp, chân đứng Chảo Mã Tấn, tay rút ám khí có tẩm thuốc độc là 22.000 quan tiền trong bọc vải đang đeo ở vai, ném loạn xạ vào người của BẠC TRANG theo thế “TÀI CHÁNH KHUYẾT” cốt làm chướng ngại vật. Tuy nhiên với khinh công siêu đẳng sẵn có, BẠC TRANG tung mình lên cao áp dụng thuật phi thân “QUYẾT TÂM NẠP” bay qua khỏi 22.000 đồng tiền ám khí đang bay toả dưới chân. Vừa đặt chân xuống sân đài, nhận thấy XÚ UẾ VÂN đang lảo đảo vì vừa bị chấn động nội tạng, vừa bị mũi kiếm để lại vạch máu dài sau lưng, BẠC TRANG liền phóng sát lại địch thủ dùng thuật “TỐ CÁO PHÁP” phân bua với Ban Giám Khảo đồng thời sử dụng luôn Nhất Dương Chỉ điểm vào mặt XÚ UẾ VÂN để hoá giải “TUYỆT THÔNG VẠ” là môn sở trường của viên võ quan Đệ Nhất Cao Thủ của Triều đình. Với chiêu thức đầy mãnh liệt bất ngờ này, XÚ UẾ VÂN tối tăm mặt mũi, ấp úng một lúc rồi bất thình lình bật ngửa xuống sân đài, thổ ra một ngụm máu tươi rồi tẩu hoả nhập ma.

Sau trận thắng vẻ vang của BẠC TRANG Hán Tử, Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA tức giận gửi Tể Tướng XÚ UẾ VÂN về Thao Diễn Đường của Hoàng Đế bổ túc võ thuật vì đã sử dụng “XẢO NGÔN PHÁP” không đúng với cẩm nang của Bộ TÂN LA LUẬT đồng thời cử Phó Tể Tướng ẨU GÀN BỘ lên thay thế để biểu diễn võ thuật trong những ngày sau đó. Về sau những nhà nghiên cứu về võ thuật đã có sẵn những nhận định như sau: Thế đánh của BẠC TRANG hoàn toàn nắm chủ động về thế công trong khi XÚ UẾ VÂN nghiêng nhiều về thế thủ. XÚ UẾ VÂN là tượng trưng cho phái võ gò bó, thiếu cởi mở, không dân chủ và lấy sức mạnh của quyền lực để giao đấu. Trái lại, BẠC TRANG với những đòn thế tấn công liên hoàn, uyển chuyển nhưng vũ bão chứng tỏ sự đoàn kết nhất tâm và dũng mãnh là hình ảnh điển hình cho một phái võ của đám đông trên đường làm cách mạng.

2.10 CÔNG LUẬN SAU LỄ TRAO GƯƠM

Sau buổi lễ TRAO GƯƠM ngày 16 tháng 8 năm Bính Dần 1986 không khí sinh hoạt trong toàn lãnh thổ Vương Quốc HỒ SINH trở nên nặng nề ngột ngạt. Tất cả tin tức và hậu quả của buổi lễ đã được nhắc nhớ và truyền thanh đến các gia đình dân chúng. Riêng tại Doanh TUẪN GIÁO, bầu không khí càng trở nên nặng nề hơn nữa vì có nhiều nguồn tin cho rằng Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA sẽ dùng quân CẢNH BỊ có khuyển ngao trợ lực để hộ tống Tổng Trấn LỘ DUNG về bất cứ lúc nào. Trong khi đó Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và phe LỘ DUNG đã chứng kiến tận mắt tinh thần đoàn kết và sự quyết tâm theo đuổi hai thỉnh nguyện mà đám dân chống đối và BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH đã đưa ra.

Để củng cố uy quyền đã bị tổn thương trong buổi lễ TRAO GƯƠM, Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA chính thức ban hành chiếu chỉ cho áp dụng hình phạt tối đa của THIÊN GIÁO là “TUYỆT THÔNG ÁN” đối với hai thủ lãnh của phe chống đối là BẠC TRANG Hán Tử và Giáo Học THIỀN TRANG. Đối với người theo THIÊN GIÁO, “TUYỆT THÔNG ÁN” là một hình phạt vô cùng thảm khốc chỉ được áp dụng trong những trường hợp chẳng đặng đừng mà thôi. Khi bị tuyên án, tội nhân không còn được coi là người theo THIÊN GIÁO nữa và bị cắt đứt khỏi tất cả mọi sinh hoạt tôn giáo cũng như không được thông công vào các nghi lễ. Khi ra chiếu chỉ cho thi hành bản án trên, Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đã nói rằng Ông rất lấy làm đau lòng khi phải quyết định như vậy. Trái lại, người HOÀI QUỐC đã lập luận là Triều đình đã lạm quyền, cố tình dùng bạo lực để đàn áp người dân trong khi họ tự xét không làm điều gì lỗi cả. Nghiên cứu tường tận tất cả những điều khoản trong BỘ TÂN LA LUẬT trong việc ra “TUYỆT THÔNG ÁN”, công luận không tìm thấy một tội hình nào rõ rệt của BẠC TRANG và THIỀN TRANG để đến nỗi lãnh hình phạt thảm khốc trên. Người thời bấy giờ nhận định rằng: Việc không thừa nhận LỘ DUNG là nguyên nhân chánh của án lệnh, và nguyên nhân này đã làm cho quyết định của Triều đình trở nên trơ trẽn. Thế là tất cả mọi người trong Doanh TUẪN GIÁO đều đồng loạt ký tên vào một tờ sớ để phản đối Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA về quyết định độc đoán kể trên và đồng thời yêu cầu Triều đình nếu xét thấy việc làm của họ là đi ngược với THIÊN GIÁO thì cũng cho họ được lĩnh “TUYỆT THÔNG ÁN” như BẠC TRANG và THIỀN TRANG. Tờ sớ cũng được viết ra làm nhiều bản và được gửi đến Quan Khâm Sai của Đại Đế GIANG PHONG Đệ II và nhiều nhân vật trong và ngoài THIÊN GIÁO. Sớ được ký bởi hàng ngàn người HOÀI QUỐC nên chiếm một khổ giấy rất lớn. Người thời bấy giờ gọi là “TỰ ĐIỂN THƯ” vì bên trong dày đặc các nét chữ.

Song song với “TUYỆT THÔNG ÁN” được áp dụng cho hai thủ lĩnh chống đối, BANG HÀNH SỰ của Doanh TUẪN GIÁO cũng bị biện pháp chế tài theo sự cảnh cáo của Triều đình trước đây. Họ bị tướt đoạt tất cả mọi quyền hành đang có, bãi nhiệm tại các Đền Thờ và tất cả mọi sinh hoạt có liên quan đến THIÊN GIÁO. Một số người của phe LỘ DUNG đã mừng rỡ ra mặt khi nghe đọc yết thị của Tể Tướng XÚ UẾ VÂN cách chức BANG HÀNH SỰ. Tuy nhiên BANG HÀNH SỰ cũng nhân danh sự hợp pháp của tổ chức dân cử này và nhất là dựa vào sự hậu thuẫn mạnh mẽ của khối đa số dân chúng nên đã phản công bằng những thông tư gay gắt chống lại Triều đình. Tại một số Đền Thờ trong các Trấn, sự tranh chấp được thể hiện rõ rệt qua việc ra mặt và chống đối của cả hai phe mỗi khi yết thị của Triều đình và thông tư của BANG HÀNH SỰ được tuyên đọc.

Nhận thấy đã đến lúc cần phải có những biện pháp mạnh, liền có quyết định táo bạo. Dựa vào luật của THIÊN GIÁO, vì tất cả mọi Đền Thờ, dinh thự, sảnh đường trong các Trấn đều thuộc về Triều đình nên Ông ra lệnh cho Tể Tướng XÚ UẾ VÂN chuyển nội vụ qua Vương Quốc THẾ TRẦN để xét xử. Lấy lý do là BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH đã chiếm đóng Doanh TUẪN GIÁO bất hợp pháp và vì không thể sử dụng vũ lực đối với thần dân của Ông, nên Ông định nhờ bàn tay sắt của Vương Quốc THẾ TRẦN can thiệp. Điều này càng làm cho người HOÀI QUỐC căm giận vì họ đã đổ bao nhiêu tiền tài sức lực công lao để tậu mãi và xây dựng Nguyện Đường của Doanh TUẪN GIÁO.

Ngày 19 tháng 8 năm Bính Dần 1986 vào khoảng giờ Thân, Giáo Học THIỀN TRANG và BẠC TRANG Hán Tử cho mở một cuộc Hội Công Báo để phản đối những quyết định của Triều đình. Tất cả các TRUYỀN ẢNH TRẠM và CÔNG BÁO trong lãnh thổ của hai Vương Quốc HỒ SINH và KIM SƠN được mời đến sảnh đường của Doanh TUẪN GIÁO bằng văn thư hoả tốc vào buổi sáng cùng ngày để về phó Hội. Không khí trong sảnh đường vô cùng ngột ngạt. Một số dân đinh trong Trấn đã bỏ dỡ công việc thường nhật để về nghe ngóng tin tức và những quyết định trong buổi Hội Công Báo. Sự mỏi mệt và tức giận còn in rõ trên khuôn mặt của những người dân bình dị chất phác này.

Sau lời chào mừng của Giáo Học THIỀN TRANG, Ông tái xác nhận vai trò dân cử hợp pháp của BANG HÀNH SỰ và cương quyết bảo vệ Nguyện Đường và Sảnh Đường của Doanh TUẪN GIÁO. Với lý do tất cả những tài sản này là do công lao mồ hôi nước mắt của toàn thể người dân trong các Trấn tạo dựng, BANG HÀNH SỰ nhận thấy phải có trách nhiệm đứng ra trông nom và quản thủ trong lúc khó khăn này. Ông cũng phản đối trước công luận chính sách đối nội cứng rắn của Triều đình qua việc Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA dùng quân CẢNH BỊ và khuyển ngao của Vương Quốc THẾ TRẦN để đàn áp người dân, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng trong buổi Lễ TRAO GƯƠM TỔNG TRẤN vào tuần trước.

Tiếp theo đó, BẠC TRANG Hán Tử gay gắt đưa ra những lời buộc tội Triều đình xuyên qua hành động thất nhân tâm kể trên. BẠC TRANG cho rằng hành động biểu dương lực lượng tại Đền Thờ Vương Quốc ngày 9 tháng 8 năm Bính Dần 1986 là kết quả của sự uất ức tột cùng của người dân khi bị LỘ DUNG cố tình dồn vào chân tường. Chính LỘ DUNG luôn luôn sắp đặt và viết sớ tấu trình lên Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA một cách sai lạc về sự hậu thuẫn nhân dân mà Ông đang có và điều này đã khiến Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA sa lầy trầm trọng. Với sự đàn áp bất công và tinh thần phản dân chủ của Lễ TRAO GƯƠM, BẠC TRANG kết luận rằng việc làm này hoàn toàn nghịch lý và không phù hợp với nguyện vọng của dân chúng. Ông cũng cực lực phản đối Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đã lạm dụng quyền khi áp dụng “TUYỆT THÔNG ÁN” đối với Ông và THIỀN TRANG. Điều này chứng tỏ Triều đình đã không lấy Chí nhân mà cai trị như vẫn thường tuyên bố. Cuối cùng BẠC TRANG cho phân phát một tờ hịch với những quyết định quan trọng như sau:

- Yêu cầu Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA sửa đổi đường lối cai trị, dùng tình thương thay vì cường bạo.
- Cấp tốc thiết lập THỂ NHÂN TRẦN cho người HOÀI QUỐC.
- Không chấp nhận LỘ DUNG làm Tổng Trấn của Doanh TUẪN GIÁO.
- Ngưng đóng thuế Đền Thờ cho đến khi Triều đình có quyết định rõ rệt.
- Dựng một THẬP TỰ GIÁ để kỷ niệm những ngày không có Hy tế.
- Bình thường hoá mọi sinh hoạt trong Doanh Phủ để tỏ thiện chí với Triều đình.


Trong cuộc Hội Công Báo này, phe chống đối cũng đã cho trình diễn NGŨ HỮU DÕNG và TRINH CÔ NƯƠNG trước các TRUYỀN ẢNH TRẠM và CÔNG BÁO cửa KIM SƠN và HỔ SINH. Đây là ngưòi dân đã bị đàn áp dã man trong buổi Lễ TRAO GƯƠM và chính họ đã trở thành con tin cho một cuộc đổi chác không ai ngờ tới. Nhìn hai chứng nhân sống động trong cuộc Hội Công Báo, công luận đã có một thái độ dứt khoát: Đó là việc không chấp nhận một sự cai trị nào bằng bạo lực. Trước khi cuộc Hội Công Báo kết thúc, cả sảnh đường bất ngờ phát giác ra một việc rất lạ lùng chưa bao giờ xảy ra tại Doanh TUẪN GIÁO: Bức hoạ truyền chân của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA thường ngày vẫn chễm chệ trên tường trong gian đại sảnh đã biến mất từ lúc nào và không ai có thể tìm ra được.

Tục truyền rằng cũng chính đêm hôm ấy, Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA nằm mộng thấy nhận được một phong thư mật, bên ngoài niêm phong cẩn thận có đóng dấu triện của Quan Giám Lĩnh NHA THIÊN VĂN của HỒ SINH do đích thân Quan Lễ Bộ Thượng Thư đệ trình. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA vội vàng xé phong thư thì thấy những dòng chữ như sau: “Mặc dầu đang đúng ở vị thế của Sao Bắc Đẩu, sao THIÊN TỬ đang bị ánh sáng của sao NHÂN DƯƠNG và chòm sao KHUYỂN MÃ lấn át. Đồng thời sao THIÊN TỬ cũng bị sao QUẢ TẠ đe doạ, có thể lọt vào quẻ “LY” của “BÁT QUÁI ĐỒ HÌNH”. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA lo sợ vội cho triệu hồi Chiêm tinh gia người HOÀI QUỐC tên là HUỲNH SEN trước cư trú tại SÀI THÀNH vào Triều giải mộng. Sau khi xem lại lá số tử vi của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA cho năm Bính Dần và nhìn các biến thiên của tinh tú, Ông cho biết nghiệp Bá Đồ Vương của dòng họ THẠCH có thể bị lung lay nếu không sửa đổi. Việc đầu tiên mà Triều đình phải làm gấp là cách chức tất cả các bầy tôi nịnh thần trong Triều. Thứ hai, ngưng tất cả các lệnh bổ nhiệm xét thấy không hợp lòng dân. Thứ ba, lập đàn giải oan cho các oan hồn uổng tử kể cả việc phóng thích và ân xá cho các tù nhân bị các lệnh án bất công tại các ngục thất. Thứ tư, không nên lưu dụng và hội họp với những người sanh vào năm Mùi, tháng Mùi và giờ Mùi vì có thể những người này có sao SÁT CHỦ bản mệnh. Thứ năm, mở cửa ngân khố phân phát tiền bạc giúp đỡ tích cực trong việc xây các Đền Thờ nhất là cho những người Vong quốc. Sau khi Chiêm tinh gia HUỲNH SEN ra về, Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA không tài nào nhắm mắt được. Ông thức trắng đêm để suy nghĩ.

Sáng hôm sau, người dân trong các Trấn của HỒ SINH kháo nhau về một cuộc thương thuyết sắp thành hình.


--------------------
mm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
mviet
post Dec 20 2010, 01:06 PM
Post #3


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,769
Joined: 9-September 10
Member No.: 15,235
Country









Thời Kỳ Vong Quốc - Chương 3

CHƯƠNG III
THỜI KỲ THƯƠNG THUYẾT


3.1 TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN

Lúc bấy giờ có một người bản xứ tên là XUÂN ÁNH VÂN đang làm quan LUẬT SĨ cho Vương Quốc THIÊN THẦN cách Vương Quốc HỒ SINH hơn 400 dặm về phía Nam biết được tự sự liền tình nguyện đứng ra giúp đỡ người HOÀI QUỐC. Được biết Vương Quốc THIÊN THẦN cũng là một nơi mà người HOÀI QUỐC đến định cư lập nghiệp rất đông sau khi lìa bỏ cố quốc. Vì đã tiếp xúc rất nhiều với người HOÀI QUỐC tại Vương Quốc của Ông nên XUÂN ÁNH VÂN có một cảm tình đặc biệt với giống dân kiên cường nhưng nhiều bất hạnh này. Quan LUẬT SĨ XUÂN ÁNH VÂN sau khi nghiên cứu tài liệu và được cắt nghĩa rõ ràng về tình hình Doanh TUẪN GIÁO cùng những thỉnh nguyện của nhóm chống đối, Ông liền đứng ra soạn thảo những đơn từ kiện tụng liên hệ để trình quan Án Sát của HỒ SINH. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA khi biết được BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH đã kết nạp được một Quan Luật Sĩ người bản xứ thì bắt đầu nao núng. Hơn nữa nếu để các Quan Án Sát của Vương Quốc THẾ TRẦN giải quyết nội vụ thì danh dự của Vương Quốc HỒ SINH sẽ bị tổn thương nặng nề và nhất là Đại Đế GIANG PHONG Đệ II sẽ không lấy gì làm hài lòng cho lắm. Do đó Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA ra lệnh cho Tể Tướng XÚ UẾ VÂN thành lập một phái đoàn thương thuyết để tìm một giải pháp ôn hoà cho cuộc tranh chấp. Cuộc thương nghị bắt đầu từ ngày 28 tháng 9 năm Bính Dần 1986 và địa điểm của cuộc hoà đàm là trường Quốc Tử Giám SANH PHÁ TRẠCH cạnh Triều đình của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA.

Ngày đầu của cuộc thương thuyết có mặt của XUÂN ÁNH VÂN và BẠC TRANG đại diện cho phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH trong khi Triều đình cử XÚ UẾ VÂN và một Quan Luật sĩ tên là PHI LÝ Phó hội. Cuộc thương thuyết trong ngày đầu và những ngày kế tiếp không đưa đến kết quả như mong muốn. Phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH cương quyết đòi cho bằng được cả hai thỉnh nguyện vì họ cho rằng cả hai đều hợp tình hợp lý. Trái lại Triều đình có vẻ nhượng bộ một phần nào về thỉnh nguyện Thể Nhân Trấn nhưng lại cương quyết bác bỏ thỉnh nguyện liên quan đến LỘ DUNG vì đó là thể diện của Triều đình. Sau đó XUÂN ÁNH VÂN có ghé lại sảnh đường của Doanh TUẪN GIÁO để tham dự một Tiểu DIÊN HỒNG HỘI của nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH. Tiểu DIÊN HỒNG HỘI được tổ chức hàng đêm tại sảnh đường của Doanh TUẪN GIÁO nhằm mục đích hâm nóng và gìn giữ khí thế quyết tâm của toàn dân. Ngoài ra đây cũng là cơ hội để thông báo tin tức và trao đổi những ý kiến của tất cả mọi người trong việc đệ trình thỉnh nguyện. Việc hội họp tại sảnh đường của Doanh TUẪN GIÁO đã làm cho Triều đình lo lắng và đây cũng là lý do khiến Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA xúc tiến việc trục xuất dân chúng ra khỏi sảnh đường càng sớm càng tốt. Sau khi được toàn thể dân chúng trong sảnh đường vỗ tay tỏ lòng biết ơn về sự giúp đỡ vô vị lợi cho đại cuộc, XUÂN ÁNH VÂN đã tận mắt trông thấy sự quyết tâm của mọi người không thừa nhận LỘ DUNG bằng bất cứ giá nào. Sau đó nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH phát động chiến dịch góp quỹ để có tài chánh làm án phí cho các Quan Luật Sĩ trong việc đưa Triều đình ra trước Quan Án Sát của Vương Quốc THẾ TRẦN. Việc làm này là một sự bắt buộc để ngăn ngừa sự trục xuất của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và đồng thời tái xác nhận chủ quyền của nhân dân trên Doanh TUẪN GIÁO. Cũng trong đêm ấy, số tiền được dân chúng hứa đóng góp lên đến hơn 11 vạn quan. Những ngày sau, cuộc thương thuyết đi vào chỗ bế tắc vì sự cứng rắn của cả hai phe nhất là Triều đình có thái độ lần lựa không quyết tâm giải quyết vấn đề. Trong một lần đàm đạo với hảo hán HỒ QUANG NGUYỆT, Quan Luật Sĩ XUÂN ÁNH VÂN đã tức giận trách móc về tư cách của Tể Tướng XÚ UẾ VÂN: “Ta không ngờ một vị quan Thất Phẩm của một Vương Quốc theo THIÊN GIÁO lại có những lối hành xử như thế. Ta nghĩ Ông ta đã chọn lầm nghề; đáng lý ra Ông ta phải là một tay lái buôn đang xuôi ngược trên thương trường.”

Nghe được những lời ấy, người HOÀI QUỐC thuộc phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH lắc đầu thở dài. Họ tiên liệu thấy kết quả không mấy tốt đẹp của cuộc thương thuyết, và một giải pháp ổn thoả cho một cuộc tranh chấp bắt đầu xa dần, mờ nhạt, thăm thẳm như đường về cố quốc.

3.2 THUẾ ĐỀN THỜ

Vương Quốc HỒ SINH cũng như tất cả các Vương Quốc lấy THIÊN GIÁO LÀM Quốc Giáo đều trông cậy vào các sắc thuế do dân chúng đóng góp để́ có nguồn tài chính cho mọi công việc của Triều đình. Các sắc thuế nầy không có tính cách bắt buộc và ấn định rõ ràng như thuế của Vương Quốc THẾ TRẦN nhưng do lòng tự nguyện của tất cả mọi người đang sống trong lãnh thổ của Vương Quốc.

Trong cuộc binh biến Bính Dần 1986, nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH đã áp dụng một trong những phương thức thượng đẳng để làm áp lực với Triều đình THẠCH ĐỔ MA. Đó là chiến dịch kêu gọi dân chúng ngưng đóng tất cả các sắc Thuế Đền Thờ. Nguyên nhân đầu tiên của chiến dich nầy là khi Triều Đình cho rằng sự chống đối chỉ do một nhóm thiểu số, Bạc Trang liền cho thi hành quyết định trên để chứng tỏ cho Triều đình thấy rằng họ không phải là một nhóm nhỏ như Triều đình lầm tưởng. Quả nhiên điều này đã mang đến kết quả trước mắt. Được biết tại Doanh TUẪN GIÁO có hai loại thuế: Thứ nhất là thuế hàng tuần được thâu nạp trong những buổi lễ tế tự cuối tuần tại các Đền Thờ, thứ hai là thuế Góp Quỹ Dựng Đền do những người hảo tâm tiếp tục đóng góp hàng năm để có chi phí trả nợ cho Nguyện Đường của Doanh TUẪN GIÁO. Loại thuế này được tính trên căn bản là 15 quan tiền một tháng cho những người đã có công ăn việc làm. Người HOÀI QUỐC là một dân tộc có tinh thần hy sinh, rộng rãi trong các việc bác ái, từ thiện. Trước ngày có cuộc tranh chấp, Doanh TUẪN GIÁO thâu được từ 7 cho đến 8000 quan mỗi tháng do hai sắc thuế kể trên. Tuy nhiên kể từ ngày chiến dịch ngưng đóng góp có hiệu lực, số thâu tại cácc Đền Thờ tụt xuống chi còn vào khoảng 1000 quan mà thôi. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA thấy được sự khó khăn của vấn đề tài chánh nên luôn luôn tìm cách kêu gọi thần dân đóng góp trở lại nhưng vô hiệu.

Tục truyền rằng những bộ hạ thân tín của LỘ DUNG đã góp phần không nhỏ trong việc thất thu các sắc thuế kể trên. Trong những ngày đầu khi cuộc chống đối vừa bùng nổ, ĐÈN HOA TẶC TỬ đã ba hoa chích choè với “HỒ SINH THUỶ NGÂN CÔNG BÁO” là nhóm chống đối chỉ có 20 ngưòi, trong khi phe ủng hộ Triều đình quy tụ hơn 4.000 dân. Để hoá giải thực lực của phe chống đối, THAM MƯU BỘ của LỘ DUNG cho người lên núi tìm đến lang y tài ba THỎ VÀNH chuyên khoa về độc dược. Tên này tìm ra một độc chất bằng bột trắng có tên là “MÊ MẪN TÁN” (ngưòi bình dân gọi là thuốc lú) khi đốt lên sẽ tạo một luồng khói khiến những ngưòi ngửi phải nó quên trời quên đất và quên luôn cả những mục tiêu đang theo đuổi. Bọn thủ hạ của LỘ DUNG hí hửng mang về và cho xông hơi độc này một cách bí mật vào nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH tại các buổi tế tự. Quả nhiên hơi độc mang lại hiệu quả: Những người chống đối đã mơ mơ màng màng quên hết mọi sự. Tệ hơn nữa họ quên cả việc mở hầu bao để đóng thuế Đền Thờ như trước kia. Thế là LỘ DUNG thất thu. Thấy kế hoạch độc chất bị đòn phản, KHUYỂN NGÔN ĐẦU ĐÀ xỉ vả thuộc cấp thậm tệ và ra lệnh cho thủ hạ đổi chiến thuật. Lần này họ cũng tìm đến THỔ VÀNH để nài nỉ cho bằng được một loại thuốc khác khả dĩ làm cho những ngưòi chống đối phải luôn luôn tỉnh táo để nhớ việc đóng thuế Đền Thờ. ĐÈN HOA TẶC TỬ mang về một bầu linh dược bằng chất nước màu đen có tên là “SÁO SẬU THUỶ”. Linh dược này khi uống vào sẽ thức trắng đêm, đầu óc thật tỉnh táo và nhớ vanh vách mọi sự. Bọn thủ hạ của LỘ DUNG cho pha vào giếng nước của Doanh TUẪN GIÁO. Quả nhiên nhóm chống đối hoàn toàn mất ngủ, luôn luôn tỉnh thức và đặc biệt họ có một trí nhớ lạ thường. Họ nhớ như in trong lòng, tạc trong dạ hình ảnh của LỘ DUNG với những công việc Ông đã làm trước đây, và chính vì luôn luôn nhớ đến Ông mà trong buổi Tế GIẢI HOÀ và LỄ TRAO GƯƠM, họ đã tràn ngập Đền Thờ đến nỗi LỘ DUNG không biết đàng nào mà chạy. Người đời sau gọi loại linh dược màu đen uống vào tỉnh như sáo sậu này là “cà phê”. Rút kinh nghiệm hai lần thất bại kể trên, thủ hạ LỘ DUNG liền tự tay chế biến lấy một loại kích thích tố khác mà không tìm đến lang y THỎ VÀNH như hai lần trước. Lý do họ phải dùng số tiền còn lại để đóng bù vào số tiền thuế thất thu do nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH gây ra. Loại kích thích tố mà họ tự chế biến có màu đỏ, được rút ra từ máu bò mộng, uống vào rất hăng, dành cho những cao thủ đang tập bài quyền “QUYẾT TÂM NẠP”. Lần này họ cho người len lỏi vào sảnh đường của Doanh TUẪN GIÁO và ướp vào thức ăn của nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH. Quả nhiên khi ăn phải thức ăn có tẩm chất kích thích trên, nhóm chống đối quyết tâm nạp tiền như điên để làm án phí cho các Quan Luật Sĩ đưa Triều đình ra trước tụng đình mà thôi.
Thấy cả ba lần đều thất bại, LỘ DUNG chán nản như người mất hồn. lúc nào cũng thấy trầm tư mặc tưởng. Có những hôm Ông ngồi trong bóng tối liên tưởng đến ngày về làm Tổng Trấn của Doanh TUẪN GIÁO với một THAM MƯU BỘ đếm trên đầu ngón tay không bao giờ lo việc quang minh chính đại mà chỉ loay hoay với những chai lọ đựng toàn bùa mê thuốc lú. Ông cố nén tiếng thở dài.

3.3 TÌNH HÌNH CÁC TRẤN

Trong suốt tuần lễ cuộc thương thuyết đang diễn tiến, nhóm dân của BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH đã cố gắng bình thường hoá mọi sinh hoạt và không tổ chức một hình thức chống đối công khai nào để tỏ thiện chí hoà giải. Đêm mồng 5 tháng 9 năm Bính Dần 1986, BẠC TRANG Hán Tử cho công bố lời kêu gọi của Triều đình, yêu cầu phe chống đối cố gắng giữ sự ôn hoà và không nên có những hành động nhằm biểu dương lực lượng vào cuối tuần lễ ấy. Lý do người HOÀI QUỐC có thông lệ mừng kính các ANH HÙNG TUẪN GIÁO của họ thật long trọng vào đầu tháng 9 mỗi năm. Lo sợ cho một cuộc xáo trộn có thể xảy ra, Triều đình có một yết thị thông báo rằng vì tình hình đặc biệt cho nên các buổi lễ kỷ niệm chỉ được tổ chức một cách âm thầm tại Đền Thờ các Trấn mà thôi. Trái lại BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH phối hợp với BANG HÀNH SỰ cho tổ chức cuộc lễ trên một cách trọng thể tại Doanh phủ. Mặc dầu có lời kêu gọi phe chống đối nên có thái độ ôn hoà, Triều đình lại cho phép phe LỘ DUNG mở đầu chiến dịch Tổng nổi dậy tại khắp các Trấn.

3.4 VI PHẠM VIỆC PHỔ BIẾN HỊCH “TRUYỀN TIN”

Hịch “TRUYỀN TIN” là tờ thông báo tin tức về mọi sinh hoạt của Doanh TUẪN GIÁO được phổ biến hàng tuần tại các Đền Thờ. Kể từ ngày LỘ DUNG được bổ nhậm làm Tổng Trấn, phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH phủ nhận mọi văn kiện có dấu triện của LỘ DUNG trong đó gồm cả hịch TRUYỀN TIN do Ông phổ biến. Thay vào đó, BANG HÀNH SỰ cho phân phát một tờ hịch TRUYỀN TIN khác và cho rằng đó mới là hịch chính thức của Doanh TUẪN GIÁO. Trong những tuần lễ đầu của cuộc binh biến, việc phổ biến hịch của LỘ DUNG đã gây nên những xáo trộn tại các Đền thờ. Cả hai phe chống đối và ủng hộ đã giằng co, cãi vã gây rối loạn tại các nơi ấy. Để ngăn ngừa các cuộc tranh chấp kể trên, Triều đình ra lệnh cho Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN không được phân phát hịch như trước mà phải để trên bàn Tế Tự để người dân có thể lên lấy nếu họ muốn.

Vào buổi chiều ngày mồng 6 tháng 9, LỘ DUNG ra lệnh cho một thuộc hạ của Ông là TỊNH THUYỀN SƯ, trước kia đã từng phục vụ dưới trướng của Ông ở cố quốc, mở màn cho cuộc Tổng nổi dậy. TỊNH THUYỀN SƯ cho gia nhân đón đường Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ và yêu cầu Ông hãy giao việc phân phát hịch TRUYỀN TIN cho họ lo liệu. Lợi dụng lúc KHA Trưởng HOÀNG NGỌC CHƯƠNG đang đàm đạo với Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ trước giờ Tế Tự trong phòng xiêm y, thủ hạ của TỊNH THUYỀN SƯ công khai phân phát hịch TRUYỀN TIN của LỘ DUNG trong Đền Thờ SANH GIANG của Trấn MIÊU PHÁ THẠCH. HOÀNG NGỌC CHƯƠNG vô cùng tức tối vì đã bị bọn thủ hạ của TỊNH THUYỀN SƯ qua mặt. Đến cuối buổi tế tự, trong lúc đang kiểm điểm tiền thuế với ĐẬU LƯ thì HOÀNG NGỌC CHƯƠNG được mật báo hai tên gian phi lại giở trò phân phát hịch lậu một lần nữa ở cuối Đền Thờ. Ném vội giỏ tiền xuống đất, Ông tung mình phi thân ra khỏi cửa sổ không quên cắp theo thẻ bài KHA Trưởng có con dấu của NHÂN DÂN đỏ chót. Cùng lúc ấy, hai tên gian phi vừa mới phóng lên lưng ngựa để tẩu thoát. HOÀNG NGỌC CHƯƠNG nhanh như ánh sao xẹt, phóng sát lại ngựa của hai tên gian phi miệng oang oanh ra lệnh cho chúng phải hạ mã. Sau khi xuất trình thẻ bài KHA Trưởng sáng chói, HOÀNG NGỌC CHƯƠNG cảnh cáo hai tên gian phi không được làm những hành động trái phép vừa kể. Mặt mày tái mét vì lo sợ, hai tên thủ hạ của TỊNH THUYỀN SƯ phân bua rằng chúng chỉ làm theo lệnh của Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ mà thôi. Với chủ trương ôn hoà cố hữu của phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH và nhất là nhận thấy kẻ gian chỉ là những con chốt nhỏ trên bàn cờ, HOÀNG NGỌC CHƯƠNG không muốn bị bẩn tay của một KHA Trưởng nên đành nuốt giận phóng thích chúng sau khi đã cảnh cáo thêm một lần nữa, hai tên thủ hạ của TỊNH THUYỀN SƯ riu ríu leo lên chiến mã, sờ lại đầu thì thấy vẫn còn nằm trên cổ, thì hoàn hồn thúc ngựa lao vào bóng tối trong khi mồm vẫn còn lảm nhảm lời Kinh VỰC SÂU.

HOÀNG NGỌC CHƯƠNG quay trở lại phòng xiêm y gặp ĐẬU LƯ liền phản đối quyết liệt sự vi phạm trắng trợn này của phe LỘ DUNG. Ông nói nếu sự việc trên còn xảy ra, Ông sẽ không bảo đảm trật tự trong Đền Thờ nữa và ĐẬU LƯ hứa sẽ cố tránh việc ấy. Về sau người ta phát giác ra lúc HOÀNG NGỌC CHƯƠNG đang chất vấn hai tên thủ hạ của TỊNH THUYỀN SƯ thì cách đó chừng một trượng, nghĩa tế của Ông là một cao thủ võ lâm của CHÁNH ĐẠO trong võ phục gọn gàng với chiếc thắt lưng màu đen trên có năm sáu sọc trắng đang vận nội công, hăm nóng các bắp thịt, bẻ các đốt ngón tay kêu răng rắc để đề phòng mọi bất trắc.

3.5 MANH NHA CƯỚP QUYỀN

Mặc dầu Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA cương quyết bãi nhiệm BANG HÀNH SỰ của Giáo Học THIỀN TRANG từ sau ngày LỄ TRAO GƯƠM cho LỘ DUNG, đã sợ nhân dân thuộc phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH vẫn tiếp tục ủng hộ và yêu cầu các Kha trưởng và Kha phó tiếp tục nhiệm vụ tại các Đền Thờ ở các Trấn. Các Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN vì Đức Vâng Phục của THIÊN GIÁO đã nhiều lần tuyên đọc nghiêm lệnh cấm BANG HÀNH SỰ nhúng tay vào các nghi lễ tế tự. Tuy nhiên những đại diện dân cư nầy vẫn tiếp tục thi hành những công việc mà họ xét thấy có thể làm được để thể hiện sự hiện hữu của một cơ chế dân chủ đương nhiệm. Điển hình là việc sắp xếp cho người đi thu thuế các Đền Thờ và tuyên đọc các yết thị, thông tư của BANG HÀNH SỰ. Sự đối chọi giữa Triều đình và nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH vào thời kỳ nầy được gọi là cảnh “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”.

Nằm trong kế hoạch “Tổng nổi dậy” cũng vào buổi tối ngày 6 tháng 9 năm Bính Dần 1986, Triều đình chính thức cắt cử bốn nữ binh thuộc hai đạo quân LA SƠN và VĨNH SANH lãnh nhiệm vụ thâu thuế tại Đền Thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH ở Trấn ÁNH DƯƠNG. Được biết những nữ binh kể trên là những phụ nữ đã từ bỏ mọi vật chất, thế trần đầu quân vào những tu viện THIÊN GIÁO, ngày ngày dùng câu kinh tiếng kệ và tu luyện để mai sau ra làm công việc xã hội giúp đời. Trong lúc cuộc đấu tranh đang đến hồi quyết liệt, để có người thay thế những công việc của BANG HÀNH SỰ tại các Đền Thờ, Triều đình chính thức sử dụng các nữ binh của hai đạo quân trên. Một số các nữ binh cố tình phò Tổng Trấn LỘ DUNG nên liều thân xông vào chốn thế trần tục luỵ, nhắm mắt nhảy vào chỗ mũi đạn lằn tên để thi hành những chỉ thị của Triều đình. Và họ đã học được bài học “Tu là cõi phúc, tiền là giây oan”.

Tối hôm ấy các nữ binh phi ngựa đến Đền Thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH thật sớm từ trước giờ Dậu và xông vào đi lấy những giỏ thâu thuế của Đền Thờ cất vào một nơi riêng biệt. Khoàng một khắc sau, những người trong BANG HÀNH SỰ thuộc nhóm ÁNH DƯƠNG phát giác ra ý đồ của nhóm nữ binh Triều đình liền tức tốc cho người đi lấy lại các giỏ và để vào chỗ cũ.

Tuy nhiên nhận thấy sự tranh chấp về vấn đề thâu thuế không lấy gì làm thiệt hại cho cuộc tranh đấu và nhất là đa số nhân dân vẫn triệt để tuân hành chiến dịch ngưng đóng thuế Đền Thờ, nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH quyết định mang những giỏ thâu thuế để lại chỗ của các nữ binh đã cất giấu trước kia. Trước đó ít phút các nữ binh có đi kiểm soát thấy những giỏ đã biến mất thì cho rằng những người trong BANG HÀNH SỰ cố tình ngăn chận công việc của họ. Đến lúc thâu thuế cả hai bên BANG HÀNH SỰ lẫn các nữ binh đều không bên nào động thủ vì bên này tưởng rằng bên kia sẽ lo.

Đến khi thấy không có ai đi thâu, Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN có kêu gọi ca viên của hai nhóm nhạc công trong Đền Thờ thâu giúp nhưng họ đều từ chối. Cả đến lần thâu thế đặc biệt thứ nhì cho Giáo Hội HOÀI QUỐC cũng không ai chịu đảm trách. Kết quả không một xu nào thu được trong buổi tế tự hôm ấy.

Sau buổi lễ, một số phụ nữ của CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH đã tức giận về sự hàng hai của các nữ binh Triều đình nên đã thốt ra những lời mai mỉa như: “Cớ sao các Hiền Tỉ lại dây dưa vào chuyện tiền bạc hôi tanh này. Tu hành mới là việc của các Hiền Tỉ, còn chuyện đó để chúng tôi lo; can chi đến các Hiền Tỉ mà phải nhọc công liễu yếu đào tơ vất vả cành vàng lá ngọc như vậy”. Hoặc chua chát hơn: “Ngày xưa các Nữ tướng xông pha nơi chốn lằn tên mũi đạn cốt để dựng bảng chiêu phu. Vì lẽ gì mà các Hiền Tỉ xông xáo ở chốn đao binh này cho miệng lưỡi người đời thị phi”. Các nữ binh khi nghe những lời châm chọc ấy cảm thấy nhức óc nhưng không làm gì được đành rút trong bọc vải ra những viên linh dược ‘TÁI LỆ NÔN” bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến rồi nuốt chửng.

Tục truyền rằng: Đêm hôm ấy LỘ DUNG đã loay hoay hàng giờ với chiếc túi vải mang về từ Đền Thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH. Ông cầm chiếc túi trên tay, lộn trái rồi lại lộn phải đến năm bảy lượt, nắn nắn bóp bóp mà không thấy đồng xu nào rớt ra. Ông nghĩ đến những tay phù thủy tài ba trong NHÓM YỂM TRỢ của Ông đã hô phong hoán vũ, làm phép cho biến mất BÌNH VIỄN AN khỏi Doanh TUẪN GIÁO. Ông lẩm nhẩm đọc câu thần chú hy vọng có một số tiền xuất hiện trong chiếc túi để mai lên nộp cho Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA. Ông mỉm cười đắc chí về phản ứng lanh lợi này. Nếu nói : “Hô biến!” thì vật trong túi sẽ mất, Ông quyết định nói ngược lại. Sau tiếng hét thật to : “Hô hiện”, Ông vò vò chiếc túi và nghe có tiếng xột xoạt như những mãnh tiền giấy chạm vào nhau. Ông mừng rỡ ra vội vàng mặt thò tay vào túi rút một tờ ra xem thì đó là mãnh giấy có hàng chữ quen thuộc : “LỘ DUNG: bác”.

3.6 ẢI ĐỊA ĐẦU TRONG CƠN BINH LỬA

Trấn CẨM BÁO với hơn 30 trang trại của người HOÀI QUỐC còn được gọi là ẢI ĐỊA ĐẦU. Trong quá khứ, mỗi khi nhắc đến tên CẨM BÁO, BÌNH VIỄN AN cảm thấy lạnh xương gáy vì sự chống đối dữ dội của vùng đất xa xôi này.

Trong cuộc binh biến Bính Dần 1986 BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH cũng vất vả không kém trong nhiệm vụ chống trả với phe LỘ DUNG để giữ dân giữ đất. Với một lực lượng hùng hậu ủng hộ LỘ DUNG cầm đầu bởi bộ ba “TAM XÀ ĐỞM” là LU ĐÀNH PHẾ, LỆCH LẠC NGUYÊN và ÁC NGƯƠN chuyên sử dụng CÀN NGÔN PHÁP hợp cùng với NGỌC MA TỈ cùng đạo quân YÊU THẬP TỰ sở trường về NGƯ SẤU LỆ và LÊ GIA TRANG với bầy nghịch tử chuyên môn về “LÁO LẾU LIÊN HOÀN TRẬN”. Để cân bằng lực lượng tại ẢI ĐỊA ĐẦU, CHÂN LÝ THÁI BÌNH giao toàn quyền thống lĩnh cho “TAM ĐẠO NHÂN” gồm có TƯ MÃ Ý, NGŨ MẠNH SAN và BẠCH THỦ THIỀN SƯ NGŨ CỐT luôn luôn cứng rắn dưới dương quyền “QUYẾT TÂM THỦ”.

Thêm vào đó có sự góp mặt của LIÊM ĐẠI KHẨU với thuật “SÁT NHĨ TRUYỀN THANH” và HÙNG TRANG ĐẠI HIỆP thượng thừa trong “TRỤC XUẤT CHẢO” đã biểu diễn ngoạn mục trong ngày LỘ DUNG tấn công Doanh TUẪN GIÁO và trong ngày tên lang băm THỎ VÀNH đột nhập sảnh đường để án loát Hịch TRUYỀN TIN cho LỘ DUNG. Nếu phái HẮC MA có LÊ GIA TRANG thì phe CHÂN LÝ THÁI BÌNH cũng không chịu nhường bước với sự xông xáo của nhóm anh thư BÌNH GIA TRANG đã hăng say tận tình trong các buổi phát Hịch CHÁNH ĐẠO.

Sáng ngày 7 tháng 8 năm Bính Dần 1986, trong buổi tế tự hàng tuần tại sảnh đường SANH LƯU XINH thuộc Trấn CẨM BÁO, nhóm CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH phát hiện toàn thể THAM MƯU BỘ của Tổng Trấn LỘ DUNG dẫn đầu bởi KHUYỂN NGÔN ĐẦU ĐÀ và VÕ CỔN TÚ TÀI rón rén xâm nhập sảnh đường. Đây là một sự lạ vì chưa bao giờ bọn này xuất hiện cùng một lúc tại những buổi tế tự tại CẨM BÁO này. Lập tức các toán Phòng Vệ của CHÂN LÝ THÁI BÌNH trải mỏng ra, dàn quân cho trấn giữ những nơi quan yếu và nhất là bám sát các tên đầu não trong THAM MƯU BỘ. Nhất cử nhất động của bọn người ủng hộ LỘ DUNG đều được theo dõi cẩn mật. Bị canh chừng từng ly từng tí, THAM MƯU BỘ của LỘ DUNG không dở trò gì được đành âm thầm rút lui trong buổi tế tự đang diễn ra.

Về sau người ta được biết Triều đình cho áp dụng kế hoạch “thả lỏng cương” để hai bên có dịp so tài đọ sức. Ngoài ra phe LỘ DUNG cũng bí mật cho mang uế khí vào sảnh đường ném bừa bãi vào các lối đi để những người có trách nhiệm trong BANG HÀNH SỰ phải dọn dẹp. Với những cuộc chạm trán gây rối loạn ở các Đền Thờ và với sự phóng uế mất vệ sinh tại các sảnh đường, chắc chắn các Tổng Trấn bản xứ sẽ xuống lệnh huỷ bỏ các buổi tế tự của người HOÀI QUỐC ngay lập tức. Phe LỘ DUNG đã nhìn thấy sự thất bại nên cho áp dụng phương thức hạ cấp này để gây chia rẽ giữa người HỒ SINH và nhóm nhân dân của Doanh TUẪN GIÁO.

Tình hình dân chúng hai phe trong buổi tế tự vô cùng ngột ngạt. Hai bên gầm gừ nhau như hai con thú tranh mồi. Cuối cùng sự giận dữ không còn kềm hãm được nên bùng nổ khi tiếng Kinh Cảm Tạ chấm dứt. Hai phe kéo nhau ra ngoài sân sảnh đường dùng khẩu chiến giao đấu ác liệt. Tại một góc sân, LÊ GIA LÃO BÀ áo quần xốc xếch, mồm mép liên hồi, tay dùng Nhất Dương Chỉ xỉa xói vào người ĐỊNH THIẾU GIA của ẤU NHI ĐOÀN. Bà cho rằng nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã vô phép, phản loạn, chống đối với Hoàng Đế và những quan lại đã có THẤT PHẨM của Triều đình và nhất định đòi hạ thủ ĐỊNH THIẾU GIA đang đứng trước mặt. ĐỊNH THIẾU GIA xưa nay vẫn được tiếng là ôn hoà, hiền lành, cũng trở nên bực tức hét trả lại: “Lão bà đừng có coi trời bằng vung, lão thử đụng đến người của Thiếu gia xem sao!”, vừa nói vừa xuống tấn chuẩn bị cho ngón đòn quỹ khóc thần sầu “MỘC TÚC CƯỚC”. LÊ GIA LÃO BÀ liên tưởng đến những chiếc xương sườn dập nát vì cú đá cứng như gỗ của ĐỊNH THIẾU GIA nên đành phi thân ra ngoài.

Ở bên hông sảnh đường, một mụ già vô danh tiểu tốt, không phải cao thủ của phái HẮC MA đã lên ngựa định phóng đi nhưng thấy đấu tràng đang sôi động liền nóng máu, tiếc rẻ nhảy trở xuống. Mụ già phùng mang trợn má, ống quần chân thấp chân cao, khẩu chưởng xối xả vào đám dân CHÂN LÝ THÁI BÌNH làm bụi tung mù mịt. Thấy võ công của mụ già quá non nớt, CHÂN LÝ THÁI BÌNH cho THẮNG THIẾU GIA của TÙNG GIA TRANG nhảy vào đấu tràng. Là một thiếu niên khôi ngô tuấn tú, THẮNG THIẾU GIA đã sớm rèn luyện tâm tính, rèn luyện võ công bất hư của dòng họ TÙNG, luôn luôn xả thân phục vụ dưới lá cờ Vương Đạo. Mụ già thấy một cậu bé nhảy vào đối diện với mình thì cảm thấy tức giận vội dùng “CÀN KHÔN CHƯỞNG” đánh tới tấp vào THẮNG THIẾU GIA.

Không thua kém gì với những cao thủ của CHÁNH ĐẠO, cậu bé dùng toàn lực áp đảo cụ già vào sát chiến mã. May cho mụ già còn biết sợ nằm xà liêm vì tội đả thương trẻ vị thành niên nên không có thủ pháp hung bạo nào chạm vào người cậu bé. Trong lúc bối rối, mụ già lại tung “CÀN KHÔN CHƯỞNG” một lần nữa chỉ vào người cậu bé bảo : “Cha mẹ đâu, sao không biết dạy con cái?” Bấy giờ có một cao thủ của CHÂN LÝ THÁI BÌNH đứng gần đấy đỡ nhẹ “CÀN KHÔN CHƯỞNG” của mụ già dùm cậu bé: “Thiếu gia đây nếu có điều gì thất lễ hoặc xử sự không đúng đạo làm người thì song thân của thiếu gia sẽ chỉ giáo lại. Còn tứ thân phụ mẫu của mụ đã khuất núi từ lâu, lấy ai mà răn dạy mụ nếu mụ làm bậy. Buồn thay!” Mụ già định trả lời là mụ không cần đến cha mẹ nữa, chỉ cần LỘ DUNG dạy dỗ là đủ rồi. Nhưng sực nhớ LỘ DUNG còn quá trẻ chỉ đáng con mụ nên đành lẳng lặng hậm hực phóng ra khỏi đấu tràng.

Cuối sảnh đường cạnh phòng xiêm y, HOẢ TÂM ĐẠI HIỆP TRƯƠNG VÕ HUỲNH rượt nà theo VÕ CỔN TÚ TÀI dùng “ĐOẠT HỒN PHÁP” chất vấn tên ác ma về thủ thuật “NẶC DANH THƯ” mà hắn vẫn dùng trong những lần giao đấu trong bóng tối. Mặc dầu ẩn mình dưới bộ võ phục 3 mảnh dầy cộm VÕ CỔN TÚ TÀI cảm thấy một luồng khí lạnh thấm vào sống lưng vội dùng “PHỦ NHẬN NGÔN” lắc đầu như máy. TRƯƠNG VÕ HUỲNH liền rút kiếm biểu diễn vài thế trong bài “SÁT THỦ KIẾM” cảnh cáo VÕ CỔN TÚ TÀI nếu còn sử dụng “NẶC DANH THƯ” thì chỉ còn cách nhờ người khác viết chúc thư vì không còn ngón tay để cầm Phán Quan Bút viết lách gì nữa. Khi ra về, VÕ CỔN TÚ TÀI có ghé lại tửu điếm cạnh vệ đường gọi tửu bảo mang một bầu rượu và hai cân thịt để điểm tâm nhưng không tài nào nuốt được vì uất khí nghẹn ở cổ họng.

Ở giữa khoảng sân đang cột những con chiến mã của hai phe, một lão già của phe LỘ DUNG đang hung hăng thoá mạ nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH là những kẻ trốn thuế. BẠCH THỦ THIỀN SƯ tức giận, vận mười thành công lực hãm khí đan điền, bụng phình to như cái trống chầu, ưỡn bụng thúc sát người địch thủ trong thế “TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ” miệng hét lớn: “Cha chả! Hay cho tên loạn ngữ dám cả gan buông lời ngược ngạo trước mặt “BẠCH THỦ lão gia. Nhà ngươi huênh hoang láo lếu với võ lâm là có hơn ngàn người ủng hộ, tại sao lại nao núng trong việc đóng thuế cho Triều đình. Cứ về bảo dân ngươi è cổ ra mà đóng, tại sao lại bảo dân ta đóng thuế như chúng bay được. Hay là các ngươi từ xưa đến nay chỉ lo phá phách, chẳng lo đóng góp thuế má để đến bây giờ Triều đình cần tiền thì chúng bay lại nhao nhao lên thế này thế nọ.”

Lão già bị BẠCH THỦ THIỀN SƯ nói trúng tim đen thì ngượng ngùng tìm cách lủi vào đám đông trốn mất. Về sau được biết lão già của phe LỘ DUNG đã bị THAM MƯU BỘ của ông ra lệnh phải đóng thuế gấp đôi gấp ba bù lại những thiếu hụt do chiến dịch ngưng đóng góp gây nên. Vì xót của nên lão già trút tất cả hằn học lên đầu những người thuộc phe CHÂN LÝ THÁI BÌNH nhưng không ngờ gặp phải BẠCH THỦ THIỀN SƯ tụng cho một bài kinh chí lý.

Thấy đấu tràng ngày càng sôi động, bọn CẢNH BỊ của Vương Quốc THẾ TRẦN vội phi ngựa vào sân sảnh đường để điều tra hư thực. Đám đông vội tản mác thành hai phe riêng biệt đứng dọc hai bên con lộ đá tiếp tục dùng khẩu chiến giao đấu. Ánh nắng phản chiếu xuống mặt đường, lấp lánh như một dòng sông bạc. Người HOÀI QUỐC ngậm ngùi liên tưởng đến dòng sông định mệnh ngăn đôi sơn hà ở ĐỆ THẬP THẤT VĨ TUYẾN. Mười một năm sau ngày lìa cố quốc, cảnh nồi da xáo thịt lại tái diễn vì tham vọng của kẻ không nghĩ đến tình cốt nhục, nghĩa đồng bào.

3.6 CUNG ĐÀN LỖI NHỊP


Cũng nằm trong kế hoạch Tổng nổi dậy, Đền Thờ NHẤT THỂ TAM VỊ tại Trấn BẮC HỒ SINH cũng có những xáo trộn nhưng không ác liệt như những nơi khác. Chiều ngày mồng 7 tháng 9 năm Bính Dần 1986 trong buổi tế tự vào khoảng giữa giờ Mùi, bọn thủ hạ của LỘ DUNG công khai lãnh nhiệm vụ thâu THUẾ ĐỀN THỜ. Những tên thủ hạ này đã từng mai danh ẩn tích, âm thầm hoạt động trong đám nhạc công lấy tên là NHẤT THỂ TAM VỊ. Đoàn hát này trước kia đã được nhân dân ở Doanh TUẪN GIÁO khai sáng và giúp đỡ lúc ban đầu.

Về sau vì có những sự bất mãn với những người đang giúp việc trong Doanh Phủ nên một số ca viên đã đang tâm trở mặt. Khi thấy các nữ binh của đạo quân VĨNH SANH không dám thâu thuế vì lo sợ những người của phe CHÂN LÝ THÁI BÌNH tấn công như tại Đền Thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH tại Trấn ÁNH DƯƠNG, bọn nhạc công của LỘ DUNG đã liều mạng xách giỏ đi thâu thuế mặc cho sự chống đối của BANG HÀNH SỰ và nhân dân đang có mặt trong Đền Thờ. Đêm hôm ấy, trong buổi Tiểu DIÊN HỒNG HỘI tại sảnh đường của Doanh TUẪN GIÁO, toàn thể nhân dân đã quyết liệt tẩy chay nhóm ca viên kể trên và yêu cầu BANG HÀNH SỰ công khai có thái độ đối với những đứa con phản nghịch này.

3.7 CUNG NGHINH HÀI CỐT CÁC TIỀN NHÂN ANH HÙNG

Vào giờ Dậu ngày 7 tháng 9 năm Bính Dần 1986, hưởng ứng lời kêu gọi của BANG HÀNH SỰ, hàng ngàn dân cư từ các Trấn trong những bộ áo quần sạch sẽ lũ lượt kéo nhau về Doanh TUẪN GIÁO để tham dự cuộc cung nghinh hài cốt các Anh Hùng TUẪN GIÁO của HOÀI QUỐC. Mặc dầu không có những nghi lễ tế tự long trọng như mọi năm, lễ đài của buổi cung nghinh có vẻ đồ sộ và đẹp mắt hơn. Cờ quạt rợp trời, khói hương nghi ngút, trống chiêng vang dậy làm sống lại không khí linh thiêng và nô nức của những ngày lễ tại cố quốc.

Điều làm cho Triều đình tức giận nhất là sự tham dự đông đảo của hàng ngàn người. Tôn nghiêm và trật tự là hai điểm nổi bật nhất trong cuộc rước. Tất cả mọi người sốt sắng dâng lời cầu nguyện cho sự bình an sớm trở về với Vương Quốc. Tiếng hát lời kinh vang vọng thật xa như nhắn nhủ với ai kia rằng: dầu đang ở trong một hoàn cảnh cực kỳ đen tối, lòng nhiệt thành của họ vẫn không bao giờ bị suy suyển. Họ đã nêu gương sáng Đức Tin cho những người cố tình hủy diệt họ.

Tục truyền rằng trong cuộc cung nghinh kể trên, một tên thủ hạ tâm phúc của LỘ DUNG sau khi dọ thám tình hình đã phi ngựa như bay về cấp báo với Ông như sau: Phe CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH chắc chắn sẽ hố to phen này. Họ đang vận động xin phong thần cho 117 vị Anh Hùng TUẪN GIÁO HOÀI QUỐC. LỘ DUNG cũng hớn hở ra mặt vì sự hớ hênh của phe chống đối.

Trong bản danh sách mới nhất xin phong Thần của THAM MƯU BỘ của Ông mới đệ trình có ghi tất cả là 118 vị. Số thứ tự 118 có hàng ghi chú như sau: “Tổng Trấn LỘ DUNG sắp sửa được Tử Đạo theo ước muốn tại Doanh TUẪN GIÁO. Xin được cứu xét theo thủ tục khẩn cấp.” Tuy nhiên để chứng tỏ cho tên thủ hạ thấy sự hiểu biết sâu rộng của mình, Ông dõng dạc nói: “Thật ra Ta không cần đứng chung danh sách với 117 vị kia; họ đã có Đại Đế GIANG PHONG lo liệu rồi. Còn ta, nếu có mệnh hệ nào thì có Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA sẽ tổ chức một buổi lễ long trọng phong Thần cho ta tại Đền Thờ ĐỒNG TÂM lần nữa. Và ta bảo đảm với ngươi phen này sẽ không có một tên CHÂN LÝ THÁI BÌNH nào lọt được vào Đền Thờ. Lý do ta đã nghe phong phanh là toàn thể SỞ CẢNH BỊ sẽ đứng chật như nêm cối trong Đền Thờ và tất cả khuyển ngao của HỒ SINH sẽ nhận được chiếu chỉ mới về dự Tế. Chắc chắn Ta sẽ thắng.

3.8 QUYỀN SỞ HỮU TRÊN DOANH TUẪN GIÁO

Sau hơn hai tuần lễ cố gắng tìm giải pháp ổn thoả cho cuộc tranh chấp, Quan Luật Sĩ Xuân Ánh Vân hoàn toàn bất lực vì thái độ thiếu nghiêm chỉnh và không thực tâm giải quyết vấn đề về phía Triều đình. Nhận thấy giải pháp ôn hoà khó có thể thành tựu nhanh chóng, Ban Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình quyết định đốt giai đoạn và đẩy mạnh cuộc tranh chấp vào một khúc quanh mới. Trước hết Bạc Trang Hán Tử liên lạc với một Quan Luật Sĩ khác cũng người bản xứ tên là A Lịch Mây và cũng cư ngụ tại Vương Quốc Thiên Thần.

A Lịch Mây là một Quan Luật Sĩ nổi tiếng thời bấy giờ trong cộng đồng người HOÀI QUỐC. Ông đã đứng ra biện hộ cho hai người HOÀI QUỐC can tội cố sát hai tên tay sai của bọn Rợ Hồ, và Ông đã thành công trong hai vụ án kể trên. Ngoài ra, trước kia Ông đã từng cầm quân dẹp giặc HỒ trên quê hương của người HOÀI QUỐC. Với một quá khứ lâu dài nhiều liên hệ với người HOÀI QUỐC, A Lịch Mây xem cộng đồng đau khổ này như là cộng đồng riêng của Ông và vẫn ước ao có cơ hội giúp đỡ cho nhóm dân bất hạnh đang sống lưu đày trên mảnh đất của Ông. Vì thế sự có mặt của A Lịch Mây bên cạnh Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình không là điều lạ đối với người HOÀI QUỐC; tuy nhiên Triều đình cảm thấy không an tâm cho lắm.

Về chủ trương làm việc, vì đã từng là một võ quan, A Lịch Mây luôn luôn áp dụng đường lối cứng rắn, rất ít khi đề cập đến vấn đề thương thuyết. Ông muốn thấy chiến trường được kết thúc nhanh chóng bằng biện pháp mạnh và chỉ nói chuyện thương thuyết khi nào đối phương đã tơi tả trên bãi chiến.

Sau khi nghiên cứu tất cả tài liệu do Chân Lý và Thái Bình cung cấp, A Lịch Mây cho quân mang một phong thư hoả tốc đến Quan Luật Sĩ Phi Lý của Triều đình. Trong thư A Lịch Mây cho Triều đình một thời hạn ngắn là hai ngày để giải quyết vấn đề. Đến ngày thứ ba nếu Triều đình không có thái độ dứt khoát Ông sẽ trình nội vụ ra trước Quan Án Sát của Hồ Sinh.

Vào buổi chiều ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần 1986. A Lịch Mây từ Vương Quốc Thế Trần vượt hơn 400 dặm đàng đến Hồ Sinh để đàm đạo với Bạc Trang và Thiền Trang đồng thời tham dự Tiểu Diên Hồng vào buổi tối tại sảnh đường của Doanh Tuẫn Giáo. Ông đã nhắc nhở ngưòi Hoài Quốc về sự quan trọng của thỉnh nguyện Thể Nhân Trấn vì thỉnh nguyện này sẽ làm cho công luận có một cái nhìn rõ ràng và thuận lợi cho là Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình. Nếu thỉnh nguyện Thể Nhân Trấn được công luận cho là chính đáng thì việc không chấp nhận Lộ Dung trong thỉnh nguyện thứ hai sẽ dễ giải thích cho người Hồ Sinh hơn.

Ngoài ra A Lịch Mây cũng đã dùng rất nhiều thời giờ để giải thích về tính cách pháp lý và chủ quyền của người Hoài Quốc đối với Nguyện đường của Doanh Tuẫn Giáo. Sáng ngày 12 tháng 9 năm Bính Dần 1986 Quan Luật Sĩ A Lịch Mây có đến thăm xã giao Tể Tướng Xú Uế Vân và vào giờ Tỵ hôm ấy, A Lịch Mây đã thay ngưòi Hoài Quốc tại Vương Quốc Hồ Sinh đặt bút ký vào văn kiện lịch sử để trình Quan Án Sát của của Vương Quốc Thế Trần: Đó là lá đơn khiếu nại Triều đình Thạch Đỗ Ma hăm doạ trục xuất người Hoài Quốc ra khỏi Doanh Tuẫn Giáo và tái xác nhận chủ quyền trên cơ sở này.

Tục truyền rằng Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma khi biết tin A Lịch Mây đã nộp đơn phản kháng Triều đình với Quan Án Sát của của Vương Quốc Thế Trần thì cảm thấy trong người nóng hừng hực như hoả nhập. Ông vội đi bách bộ ra vườn Thượng Uyển để tìm một chút gió mát. Vừa đến góc vườn, Ông gặp con mèo trắng mà Ông hằng nâng niu chăm sóc đang vờn vờn cục thịt mỡ béo ngậy bằng những móng vuốt sắc bén. Chú mèo đang định hất cục thịt mỡ vào miệng thì bất ngờ từ trong góc vườn có một chú chuột nhắt phóng vụt ra. Nhanh như cắt, chú chuột ngoạm lấy cục thịt mỡ thơm phức và chui qua lỗ dậu mất dạng. Chú mèo đứng khựng lại, ngơ ngác vừa tiếc vừa giận. Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma thấy cảnh ấy liền tức giận chạy như bay đến chỗ chú mèo trắng, dùng hết sức bình sinh đá tung con vật văng vào góc vườn, miệng lẩm bẩm: “Đồ vô tích sự! Đã đến miệng mà còn để sẩy.” Đoạn Ông hậm hực quay trở vào.

A Lịch Mây sau khi rời khỏi công đường vội tức tốc phi ngựa về Doanh Tuẫn Giáo. Tại đây Ông cùng với Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang mở một cuộc Hội Công Báo để thông báo và giải thích những việc làm của Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình cũng như Bang Hành Sự cho các Truyền Ảnh Trạm và Công Báo trong vùng. Ông nhấn mạnh đến sự hợp pháp của việc quản trị cơ sở Doanh Tuẫn Giáo của ngưòi Hoài Quốc và cho rằng hành động nạp đơn khiếu nại Triều đình Thạch Đỗ Ma là một điều bắt buộc chỉ có tính cách tự vệ mà thôi.

Bấy giờ có một tờ Công Báo viết bằng ngôn ngữ Hoài Quốc vẫn thường bênh vực chính sách của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma đưa ra những câu hỏi nhằm ám chỉ cuộc tranh đấu do Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình chủ trương có bàn tay của bọn Rợ Hồ giật dây. Lập tức A Lịch Mây đả phá lập luận kể trên một cách quyết liệt và thêm rằng: Sự đoàn kết chống lại áp bức bất công của ngưòi Hoài Quốc tại bất cứ nơi nào trên thế giới cũng đều là mối đe doạ cho bè lũ Rợ Hồ.

Trong lúc cuộc Hội Công Báo đang diễn tiến tại Doanh Tuẫn Giáo thì Triều đình Thạch Đỗ Ma cho công bố một bảng yết thị quan trọng: Sứ giả của Quan Khâm Sai Phụng Lễ Nghi của Đại Đế Giang Phong Đệ II sẽ đến Hồ Sinh để làm trung gian hoà giải cho cuộc tranh chấp.

3.9 ÁNH SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM

Nhận thấy tình hình tại Vương Quốc Hồ Sinh càng ngày càng trở nên đen tối, Đại Đế Giang Phong Đệ II ra lệnh cho Quan Khâm Sai Phụng Lễ Nghi xúc tiến nhanh chóng công việc hoà giải giữa Triều đình Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma và Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình. Đại Đế Giang Phong Đệ II không hiểu Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma đã áp dụng chính sách cai trị như thế nào mà thần dân của Ông nổi lên chống đối mãnh liệt như thế. Ông lại càng ngạc nhiên hơn nữa vì sự chống đối này lại nhóm do dân Hoài Quốc, một nhóm dân mà lúc nào Ông cũng dành cho họ một cảm tình đặc biệt.

Lịch sử Thiên Giáo tại Hoài Quốc đã chứng tỏ cho Đại Đế Giang Phong Đệ II biết dân Hoài Quốc có một tinh thần sống đạo rất cao, luôn luôn trọng lễ nghĩa và nhất là không bao giờ có tư tưởng chống lại Thiên Giáo. Họ là con cháu của hơn mười ba vạn Anh Hùng Tuẫn Giáo thì có lý nào trong một sớm một chiều họ lại làm hoen ố dòng máu oai hùng đó sao. Trái lại những tờ sớ về tình hình Hồ Sinh do Phụng Lễ Nghi đệ trình cho thấy Triều đình Thạch Đỗ Ma đã có những hành động thái quá. Thứ nhất là việc cấm cản các nghi lễ tế tự và đóng cửa Chầu Gia tại Doanh Tuẫn Giáo. Thứ hai, đưa các Phó Tổng Trấn ra khỏi Doanh Phủ, bỏ ngõ Nguyện đường và sảnh đường. Thứ ba, cố tình thực hiện Lễ Trao Gươm trong tình trạng hỗn loạn và nhất là vi phạm toàn bộ chủ thuyết Thiên Giáo trong việc đưa Cảnh Bị và khuyển ngao vào Đền Thờ hỗ trợ cho Lễ Trao Gươm. Cuối cùng là việc ra Tuyệt Thông Án cho hai thần dân của Ông kéo theo cả một Tự Điển Thư với gần ba ngàn chữ ký đồng lòng xin chịu chung bản án. Tất cả những sự sai lầm trong chính sách cai trị của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma chỉ vì cố tình né tránh hai thỉnh nguyện của người Hoài Quốc.

Đối với Đại Đế Giang Phong Đệ II, thỉnh nguyện về Thể Nhân Trấn của người Hoài Quốc hoàn toàn hợp lý và chính đáng, phù hợp với những điều đã được nêu ra trong bộ Tân La Luật. Riêng về thỉnh nguyện thứ hai, Ông thắc mắc vô cùng. Tổng Trấn Lộ Dung là người như thế nào? Có lẽ Ông đã làm điều gì không phải đạo đến nỗi dân chúng của Ông chống đối mãnh liệt như vậy. Thế là Ông tức tốc ra lệnh cho Quan Khâm Sai bắt tay ngay vào việc điều tra và giải quyết tình trạng bế tắc tại Hồ Sinh. Sau khi tham khảo ý kiến với những quan lại có nhiều kinh nghiệm về người Hoài Quốc trong Triều đình, Phụng Lễ Nghi yêu cầu Quan Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp của Phái Thông Công lãnh ấn sứ giả của Đại Đế Giang Phong Đệ II.

Nguyên Đức Thiệp là người Hoài Quốc, được sắc phong Thất Phẩm đã lâu và đang giữ chức Chưởng Môn của Phái Thông Công, một môn phái chuyên lo việc phổ biến phong trào tôn kính Nữ Vương của Thiên Giáo. Với chức vụ Chưởng Môn Ông có quyền điều động hàng chục các quan từ Nhất Phẩm cho đến Thất Phẩm cùng giám sát hàng trăm Đệ tử và môn sinh. Tiếng nói của Ông rất có giá trị đối với người Hoài Quốc.

Sau khi thông báo cho Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma biết quyết định của mình, Quan Khâm Sai Phụng Lễ Nghi tức tốc sai Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp lên đường đến Hồ Sinh. Không để mất thời giờ, Nguyên Đức Thiệp cỡi Thần Điêu Bô Inh Thất Nhị Thất đến Ải Phi Tràng của Hồ Sinh. Điều làm cho Nguyên Đức Thiệp ngạc nhiên vô cùng là khi Thần Điêu xà xuống Ải Phi Tràng Ông đã thấy đoàn người ngựa của Lộ Dung túc trực tại đấy tự lúc nào để nghênh rước Ông. Ông còn nhận thấy Quản Giáo Trưởng Xà Đầu có mặt trong đoàn quân ấy. Thế là Ông khỏi tốn hao nội lực để xách túi hành lý vào chỗ cột chiến mã vì mọi việc đã có Lộ Dung sắp đặt.

Nguyên Đức Thiệp sực nhớ lại cách đó một năm, trong khi đi tháp tùng tượng Nữ Vương Du Hành về Doanh Tuẫn Giáo, Diệp Ngà Trang đang giữ chức Giám Lĩnh Đền Thờ Nữ Vương của môn phái Thông Công có báo cáo với Ông là mặc dầu Tổng Trấn Bình Viễn An có mời Lộ Dung về tham dự cuộc cung nghinh năm lần bảy lượt mà Lộ Dung vẫn tảng lờ như không hay biết. Thế mà lần này đích thân Lộ Dung lại hăm hở ra tận Ải Phi Tràng xa xăm này để đón rước Ông. Quả là điều lạ.

Tục truyền rằng: Khi mới bắt đầu đối diện với Lộ Dung tại Ải Phi Tràng, Nguyên Đức Thiệp cảm thấy một luồng ngoại lực lạ thường xâm nhập vào thân thể của Ông. Đồng thời Ông bắt gặp nhãn quan của Lộ Dung đang thi triển “Thôi Miên Pháp” trong bộ “Đoạt Hồn Chân Kinh” của Phái Hắc Ma. Biết Lộ Dung muốn thử công lực và cố tình chiêu dụ mình ngay từ lúc đầu, Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp vội vận chân khí phong toả các huyệt đạo trong người, đồng thời thò tay vào túi móc thẻ bài Chưởng Môn tung lên cao. Quả nhiên Lộ Dung khi thấy ánh sáng lấp lánh của thẻ bài vội vàng thâu hồi “Thôi Miên Pháp” lại, đoạn vả lả vài lời xã giao với Nguyên Đức Thiệp. Trong khi đi đường, Nguyên Đức Thiệp bí mật lấy Chiếu yêu kính rọi vào người của Lộ Dung để tìm hiểu con người của vị Tổng Trấn như thế nào. Nếu là người ngay thẳng thì trong gương sẽ không có hình ảnh gì hiện lên. Khi soi gương vào Lộ Dung, Nguyên Đức Thiệp dụi mắt không tin vào những điều xảy ra trước mắt. Quả là một sự khác thường.

Sáng hôm sau Nguyên Đức Thiệp tiếp xúc với từng Phó Tổng Trấn và các quan Thất Phẩm người Hoài Quốc và đàm đạo với họ rất lâu. Sau hai ngày, một giải pháp cho cuộc tranh chấp của Doanh Tuẫn Giáo thuộc Vương Quốc Hồ Sinh bắt đầu thành hình trong óc của Vị Chưởng Môn.

3.10 THIỆN CHÍ HOÀ GIẢI

Mặc dầu đã nạp đơn phản kháng Triều Đình Thạch Đỗ Ma về chủ quyền trên Doanh Tuẫn Giáo, Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình đã chấp thuận lời đề nghị của Quan Án Sát A Lịch Mây bày tỏ thêm một dấu hiệu hoà giải khác để Triều Đình có cơ hội giải quyết vấn đề một cách êm thắm mà không cần đưa nhau ra trước công đường. Hơn nữa sự có mặt của Quan Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp tại Hồ Sinh chứng tỏ Đại Đế Giang Phong Đệ II và Quan Khâm Sai Phụng Lễ Nghi cũng muốn có một giải pháp trong tình huynh đệ của Thiên Giáo. Bạc Trang Hán Tử gia hạn cho Triều Đình thêm hai tuần lễ để cứu xét nội vụ đồng thời yêu cầu nhân dân thuộc phe chống đối bắt đầu đóng thuế Đền Thờ trở lại để tỏ thiện chí.

Bảng yết thị về việc tái đóng thuế được phổ biến một cách khẩn cấp trong Hịch Chánh Đạo cũng trong tuần ấy. Ngày 13 và 14 tháng 9 năm Bính dần 1986, sinh hoạt tế tự tại các Đền Thờ ở các Trấn hầu như đã trở lại bình thường. Hai nữ binh của đạo quân Vĩnh Sanh định trực tiếp tham gia vào những công việc của Bang Hành Sự tại Đền Thờ Nhất Thể Tam Vị nhưng bị Phó Tổng Trấn Đậu Lư không cho phép. Một vài cuộc cãi vã nhỏ xảy ra tại Trấn Cẩm Báo nhưng không đến nỗi ác liệt như tuần lễ trước. Nhóm người trong Tham Mưu Bộ của Lộ Dung hầu như đã tránh mặt trong những buổi tế tự. Bang Hành Sự của Doanh Tuẫn Giáo không gặp một sự quấy phá hay ngăn cản nào của phe Lộ Dung. Những giỏ tiền thuế đầy ắp lại thấy xuất hiện trong các buổi tế tự. Hai Phó Tổng Trấn Đậu Lư và Chánh Nguyên đã mỉm cười vui vẻ mơ đến ngày thái bình gần kề.

Tục truyền rằng đêm hôm đó, Lộ Dung chong đèn thức tới khuya để đóng tiền thuế do nhân dân Doanh Tuẫn Giáo đóng góp. Từ ngày nhận chiếu chỉ Tổng Trấn, Ông chưa bao giờ thấy đống bạc kết sù như thế. Ông mơ màng nghĩ đến ngày Ông thật sự nắm giữ quyền hành, Ông sẽ cho phá gian đại sảnh mà nhóm Chân Lý và Thái Bình vẫn thường nhóm họp hằng đêm chống đối ông. Ông sẽ cho xây cất lại kiên cố hơn và biến nó thành kho bạc để chứa tiền thuế của Doanh Tuẫn Giáo. Dưới ánh sáng lung linh của ngọn bạch lạp trăm nến, Lộ Dung mải miết đếm. Một ngàn năm trăm, một ngàn sáu trăm, một ngàn bảy trăm . . . Ôi! Tiền nhiều vô kể? Tiếng trống báo hiệu canh năm từ xa vọng về. Tay Ông mỏi nhừ vì lâu ngày không có dịp đếm. Mệt mỏi, Ông ngả người trên chiếc trường kỷ. Bọn thủ hạ vội vã mang chai dầu nóng ra thoa bóp hai bàn tay của vị chủ tướng.

3.11 HÀNH ĐỘNG KHIÊU KHÍCH

Để tiếp tục bày tỏ thiện chí hoà giải, dân chống đối thuộc phe CHÂN LÝ THÁI BÌNH cố gắng bình thường hoá mọi sinh hoạt tại Doanh Phủ. Mọi hoạt động được thu gọn vào những tiểu DIÊN HỒNG HỘI vào buổi tối tại sảnh đường để thông báo tin tức và trao đổi ý kiến. Tuy nhiên, buổi sáng ngày 20 tháng 9 năm Bính Dần 1986, Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN cho phổ biến một khẩu lệnh khẩn cấp của Tể Tướng XÚ UẾ VÂN, tuyệt đối cấm các Kha Trưởng và Kha Phó lên gần Chánh Điện và sử dụng hệ thống phóng thanh để đọc thông tư yết thị của BANG HÀNH SỰ trong các Đền Thờ. Lệnh cấm vừa được ban ra đã gặp sự chống đối mãnh liệt của toàn dân. Họ tức giận vì thái độ khiêu khích, thiếu thiện chí của XÚ UẾ VÂN; đồng thời hỗ trợ cho BANG HÀNH SỰ trong các buổi tế tự cuối tuần đó.

Tại Đền Thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH ở Trấn ÁNH DƯƠNG, KHA Phó NGŨ MẠNH SAN được tăng cường từ Trấn CẨM BÁO, trước giờ tế tự đã hùng dũng bước lên bục cao bên phải Chánh Điện tuyên đọc những thông tư yết thị của BANG HÀNH SỰ mặc cho Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN hết lời can gián. Trong lúc NGŨ MẠNH SAN đang làm nhiệm vụ bên ngoài thì BẠCH THỦ THIỀN SƯ NGŨ CỐT đơn thân độc mã trấn gữ hệ thống âm thanh trong phòng xiêm y ở phía sau của Đền Thờ. Một tên tiểu ma đầu của LÊ GIA TRANG khi nghe NGŨ MẠNH SAN oang oang trong Đền Thờ liền chạy vào phòng xiêm y đinh thi hành lệnh của XÚ UẾ VÂN.

Vừa ló đầu vào, hắn bắt gặp BẠCH THỦ THIỀN SƯ đang sừng sững như pho tượng đồng đen, hai mắt sáng quắc đề phòng bất trắc. Nhận thấy một mình không thể nào áp đảo được THIỀN SƯ, tên tiểu ma đầu phóng vội ra ngoài gọi thêm đồng bọn. Lần này, vừa thấy hai bóng người thấp thoáng ngoài chấn song, BẠCH THỦ THIỀN SƯ gầm lên một tiếng thật to như hỗ dữ nhớ rừng, mười ngón tay cứng như thép nguội nắm chặt lại trong thế “THÔI SƠN PHÁ THẠCH”. Nghe tiếng gầm đinh tai nhức óc, hai tên tiểu ma đầu của LÊ GIA TRANG hồn phi phách tán liền đứng khựng lại. Chúng ước lượng những quả đấm ngàn cân của BẠCH THỦ THIỀN SƯ sẽ tới tấp giáng trên đầu chúng và liên tưởng đến những con cua đồng bị bẹp dúm dưới cái chày to bằng gỗ mà LÊ GIA Lão Bà vẫn thường nấu riêu cho chúng ăn. Thế là không ai bảo ai, cả hai tên đều quay đầu phóng nhanh vào bóng tối mất dạng.

Tại Đền Thờ, SANH GIANG ở Trấn MIÊU PHÁ THẠCH, Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ cương quyết thi hành khẩu lệnh của viên Tể Tướng ngang ngược. Ông đi xăm xăm vào phòng xiêm y và hí hoáy thế nào mà toàn bộ hệ thống âm thanh đều tê liệt. Dầu vậy Kha Trưởng HOÀNG NGỌC CHƯƠNG vẫn hiên ngang tiến lên gần Chánh Điện, vận mười thần công lực, hãm tụ chân khí đầy lồng ngực và tuyên đọc những quyết định của BANG HÀNH SỰ. Sau đó, Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ bắt đầu cuộc lễ mà không có phần âm thanh khuếch đại như thường lệ. Người HOÀI QUỐC lại có dịp sống lại những giây phút thoải mái xa xưa ở quê nhà khi mà nền văn minh điện khí chưa xâm nhập vào những làng quê hẻo lánh. Họ gọi buổi tế tự hôm ấy là một tiến bộ giật lùi.

Ngày 21 tháng 9 năm Bính Dần 1986, tại các Trấn CẨM BÁO và BẮC HỒ SINH, các Kha Trưởng và Kha Phó sở tại được sự tăng cường hùng hậu của nhân dân đã làm chủ tình hình và không gặp những trở ngại nào về âm thanh. Hai Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN có lẽ thấy sự vô lý của Triều Đình và sự cương quyết của những vị đại diện dân nên đành thúc thủ. Riêng về Thuế Đền Thờ trong tuần đó, dân chúng vẫn tiếp tục thi hành quyết định của BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH nên đã tận tâm đóng góp như thường lệ và kết quả lên đến trên một ngàn ba trăm quan tiền.

3.12 THĂM DÂN CHO BIẾT SỰ TÌNH

Vào khoảng giờ Thân ngày 21 tháng 9 năm Bính Dần 1986, trên con đường dẫn về Doanh TUẪN GIÁO có hai bóng chiến mã trên có hai kỵ sĩ đang thong thả hướng về Doanh Phủ. Vẻ ung dung của hai kỵ mã trên tương phản với hình ảnh sôi động ồn ào cách đó hai tháng: cũng trên đoạn đường này vào buổi chiều ngày 21 tháng 7, Tổng Trấn LỘ DUNG đã thống lĩnh một đạo quân hùng hậu, ào ạt tấn kích Doanh TUẪN GIÁO cả hai lần nhưng đều thất bại. Một trong hai người kỵ mã là một thanh niên, vận y phục thứ dân, dáng dấp nhanh nhẹn có vẻ như một người hướng đạo, vừa đi vừa quan sát địa hình địa vật, thỉnh thoảng lại cuối xuống chăm chú tìm đường trên bức địa đồ bằng da. Người thứ hai tuổi trạc ngũ tuần, dáng dấp đạo mạo, oai phong trong bộ nhung phục màu đen của Quan Thất Phẩm, cổ đeo thẻ bài màu trắng. Nét mặt nghiêm trọng của Ông chứng tỏ một sứ mạng quan trọng Ông đang theo đuổi. Thỉnh thoảng Ông lại nhíu mày, mặt thoáng vẻ đăm chiêu như đang suy tư về một vấn đề khó giải quyết. Hai con chiến mã thong thả đi lần đến chiếc cổng lớn có khắc ba chữ đại tự “DOANH TUẪN GIÁO” liền đứng lại. Hai kỵ mã phóng tầm mắt quan sát một lượt đoạn cho ngựa khoan thai tiến vào.

Lúc bấy giờ sân Doanh Phủ vắng vẻ im lìm. Ánh nắng của một buổi chiều thu gần tắt. Gió nhẹ hiu hiu thổi. Một vài chiếc lá vàng cố gắng cất mình lên khỏi mặt đất, bay được một khoảng ngắn rồi lại rơi xuống nằm bất động cách đó không xa. Cạnh chiếc cổng lớn của sảnh đường, BẠCH THỦ THIỀN SƯ NGŨ CỐT đang ngồi truyện vãn với Trại Chủ PHÙNG TẤT THẠNH, một người có trang trại sát bờ thành của DOANH TUẪN GIÁO. Khuôn mặt của họ lộ vẻ mệt mỏi, uể oải sau hai tháng bất đắc dĩ làm công việc “trấn thủ lưu đồn”. BẠCH THỦ THIỀN SƯ thấy khuôn mặt xa lạ của kỵ mã trẻ tuổi đang tiến về phía mình thì liên tưởng ngay đến thủ hạ của LỘ DUNG định giở trò ám muội. Nhưng người này chỉ hỏi thăm lối vào Nguyện đường rồi đi thẳng, khuôn mặt không có vẻ dáo dác như những thủ hạ của LỘ DUNG mà BẠCH THỦ THIỀN SƯ vẫn thường gặp. Vị quan từ từ xuống ngựa, vẫn khoan thai, thong thả đi về hướng Trại Chủ PHÙNG TẤT THẠNH. Khi còn cách độ hai mươi trượng, trống ngực PHÙNG TẤT THẠNH bắt đầu đập loạn xạ. Đúng là LỘ DUNG không sai. Cũng tầm thước đó, cũng dáng dấp hao hao không thể lầm lẫn được, và nhất là bộ nhung phục màu đen quen thuộc hôm nào, PHÙNG TẤT THẠNH định phi thân bay vào sảnh đường để phi báo nhưng Ông đành ngưng lại vì kịp nhận ra sự khác biệt của vị quan Thất Phẩm trước mặt. Thoáng nghĩ có lẽ đây là một võ quan từ phương xa nửa đường ghé thăm Doanh Phủ, PHÙNG TẤT THẠNH vội vàng thi lễ và hỏi thăm danh tánh. Thoáng nụ cười nhẹ trên môi, vị quan trong nhung phục của THIÊN GIÁO ôn tồn nhưng không kém phần oai vệ: “Ta là Quan Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP, phái THÔNG CÔNG, từ Vương Quốc MINH SƠN.

Trại Chủ PHÙNG TẤT THẠNH như từ trời rơi xuống, trống ngực đập liên hồi, bàng hoàng không biết xử trí thế nào. Ông không ngờ con người đang mang sứ mạng quan trọng làm trung gian hoà giải cho cuộc xung đột giữa Triều Đình và BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH hiện diện bằng xương bằng thịt trước mặt Ông. Ông phải làm gì bây giờ. NGUYÊN ĐỨC THIỆP cũng hỏi thăm lối vào Nguyện đường, PHÙNG TẤT THẠNH vội hướng dẫn Vị Chưởng Môn vào cổng sảnh đường đồng thời ra hiệu cho Trại Chủ phu nhân đang đứng gần đó chạy về phi báo cho dân chúng. Khoảng một khắc sau, dân chúng từ các Trấn lũ lượt kéo vào Doanh Phủ.

Chờ cho Vị Chưởng Môn cầu nguyện xong, PHÙNG TẤT THẠNH hướng dẫn Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP vào gian phòng ăn của sảnh đường. Sau khi an vị bên cạnh chiếc bàn dài, NGUYÊN ĐỨC THIỆP nói rõ ý định của Ông là muốn thăm Doanh Phủ và nhân dân của DOANH TUẪN GIÁO. Ông cũng cho biết thêm là chuyến đi thăm có tính cách bất ngờ vì Ông muốn quan sát và điều tra tình hình một cách trung thực. Trong khi chờ đợi dân chúng kéo đến, BẠCH THỦ THIỀN SƯ và PHÙNG TẤT THẠNH cố gắng áp dụng “sa luân chiến” trình bày tất cả những sự kiện liên quan đến cuộc binh biến đang xảy ra. Sau đó không lâu, hảo hán HỒ QUANG NGUYỆT được tin cấp báo sự hiện diện của Quan Chưởng Môn vội hối hả phi ngựa như bay về Doanh Phủ. Ông bước vào sảnh đường và mời NGUYÊN ĐỨC THIỆP ra gian đại sảnh để có chỗ cho dân chúng trình bày nguyện vọng vì lúc bấy giờ dân chúng kéo đến càng đông. Có tất cả mười sáu người đại diện cho mọi giới sĩ, nông, công, thương lần lượt trình bày những sự độc đoán của Triều đình THẠCH ĐỖ MA và hài tội LỘ DUNG trước Quan Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP. Vị Chưởng Môn có cảm tưởng như mình là Quan Án Sát đang nghe bảng cáo trạng dài dằng dặc về những tội ác của vị Tân Tổng Trấn. Tuy nhiên ông vẫn giữ đúng tư cách và tác phong của một sứ giả đi hoà giải, chỉ im lặng ghi nhận tất cả các lời phát biểu. Những tiếng nói uất ức vì bị áp bức, những giọt nước mắt buồn tủi vì thế cô, những phiền muộn vì đối đãi bạo ngược của những người lãnh đạo là những hình ảnh sống động mà vị sứ giả ghi nhận được trong buổi thăm dân hôm đó. Cuộc trình bày nguyện vọng kéo dài từ giờ Thân cho đến cuối giờ Mùi thì tạm ngưng để NGUYÊN ĐỨC THIỆP quá bộ về trang trại của Trại Chủ PHÙNG TẤT THẠNH dùng bửa cơm thanh đạm. Sau đó, Ông trở lại sảnh đường của DOANH TUẪN GIÁO để khuyên nhủ nhân dân tiếp tục thỉnh nguyện ôn hoà trong tinh thần THIÊN GIÁO, gia tăng lời cầu nguyện thì kết quả tốt đẹp hơn.

Ánh nắng bên ngoài đã tắt hẳn, màn đêm buông dần trên Doanh TUẪN GIÁO. Gió thu bắt đầu thổi mạnh mang theo cái lạnh lẽo của những ngày binh biến. NGUYÊN ĐỨC THIỆP cảm thấy tâm hồn giao động. Trước khi phi ngựa ra khỏi cổng thành, Ông còn bắt gặp đỉnh cao chót vót của cây Thập Tự nổi bật trên nền trời đang ngã màu xám. Ông thấy hình ảnh cây Thập Tự của Doanh TUẪN GIÁO như một chứng tích oai hùng, ngạo nghễ như tinh thần của người dân HOÀI QUỐC.

Tục truyền rằng: Đêm hôm ấy NGUYÊN ĐỨC THIỆP chong đèn làm việc rất khuya trong một gian phòng nhỏ ở trang trại của một người thân. Dưới ánh nến lung linh của ngọn bạch lạp, Ông đúc kết lại những chi tiết của buổi đi thăm dân lúc ban chiều. Tờ đúc kết sẽ được viết lại thành Sớ và sẽ được quan Khâm Sai khán trước khi đệ trình Đại Đế GIANG PHONG Đệ II . Tờ đúc kết được tóm lược như sau:

Những lời cáo buộc Tổng Trấn LỘ DUNG:
- Hội họp bí mật với NHÓM YỂM TRỢ, vu khống, xuyên tạc đường lối của Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN và đề nghị Triều đình cách chức vị “Tiền nhiệm khả kính”. (Tài liệu mật và “Sáo ngữ tâm thư”).
- Sử dụng “Nặc danh thư” để bôi nhọ BÌNH VIỄN AN. (Nhân chứng sống)
- Không làm tròn nhiệm vụ của một quan Thất Phẩm của THIÊN GIÁO: Từ chối ngồi Toà Cáo Lỗi, từ chối việc dạy dỗ người muốn tòng giáo (Nhân chứng sống)
- Không muốn hợp tác với người HOÀI QUỐC trước khi nhậm chức Tổng Trấn. (Sớ khiếu nại của các Bang, Hội . . . )
- Chủ tâm tận diệt cơ chế dân chủ hợp pháp là BANG HÀNH SỰ nếu được về làm Tổng Trấn (Nhân chứng sống)
- Không muốn về phục vụ tại Doanh TUẪN GIÁO trước ngày được bổ nhậm vì lập luận “cai trị Trấn HOÀI QUỐC như đi làm dâu trăm họ”. (Nhân chứng sống)
- Không biết tự xử theo liêm sĩ của một Võ quan THIÊN GIÁO, luôn luôn viện dẫn “Đức Vâng Phục” để thực hiện ý đồ (Hịch Chánh Đạo và Nhân chứng sống)

Ngoài ra còn rất nhiều lời cáo buộc mà NGUYÊN ĐỨC THIỆP không đủ can đảm để đọc thêm nữa. Chẳng hạn như những việc cho thi hành lệnh cấm tế tự, đóng cửa Chầu gia, quản thủ tiền bạc, hỗ trợ cho thủ hạ viết “Nặc danh thư” . . . Vị Chưởng Môn nhớ lại hình ảnh sống động của những lão bà, tráng niên, thiếu nữ . . . đã không nén được cơn xúc động khi bày tỏ những điều u uất, thầm kín qua những giọt nước mắt chân thành. Ông nhìn đến chồng hồ sơ cao ngất nghễu trên án thư. Những hàng chữ dày đặc như nhảy múa trước đôi mắt mệt mỏi của Ông. Làm sao có một giải pháp ổn thoả cho đôi bên. Cái hố sâu ngăn cách đã quá to lớn, thăm thẳm dịu vợi không dễ gì lấp cho bằng. Giờ đây phải có sự chọn lựa. Một là thể diện của Triều đình, hai là đời sống tinh thần của hàng ngàn thần dân. Phải chọn một. NGUYÊN ĐỨC THIỆP cố gắng suy nghĩ nhưng không có lối thoát. Ông cảm thấy bất lực, nhỏ bé trước sứ mạng cao cả này. Ông chấp tay thầm thỉ xin Ơn Trợ Lực. Mí mắt của Ông nặng trĩu, mệt mỏi Ông gục đầu trên Án Thư và thiếp vào cơn mê lúc nào không hay. Trong giấc mơ, NGUYÊN ĐỨC THIỆP thấy có một Vị Thần khuôn mặt thật hiền từ hiện đến, trên tay có cầm một cây gậy đang trổ những hoa huệ trắng. Nhận thấy khuôn mặt của Vị Thần rất quen thuộc nhưng NGUYÊN ĐỨC THIỆP không làm sao nhớ ra được. Ông định lên tiếng hỏi thăm lai lịch thì Vị Thần đã nghiêm nghị phán: “Sự Thật vẫn là Sự Thật”. Cán cân Công Lý sẽ nghiêng về những người theo Lẽ Phải, những người đã chọn con đường Chánh Đạo.” Nói xong Vị Thần biến mất. NGUYÊN ĐỨC THIỆP bàng hoàng tỉnh mộng. Dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn bạch lạp gần tàn, ông đọc thấy hai chữ đại tự đỏ tươi “CHÁNH ĐẠO” nổi bật trên tờ hịch màu trắng của nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Tiếng gà gáy sáng từ một thôn sớm gần đó đưa Ông về thực tại. Ông bóc vội tờ lịch, miệng lẩm bẩm: “Lại qua thêm một ngày!”

3.13 CỐT NHỤC TƯƠNG TÀN

Trong lịch sử người Hoài Quốc có hai dòng sông định mệnh đã từng phân chia Vương Quốc bé nhỏ nầy ra làm hai miền Nam Bắc. Hai dòng sông oan nghiệt đó đã chứng kiến bao cảnh huynh đệ tương tàn giữa những người đồng chủng đồng huyết thống. Mười một năm sau ngày dòng sông ở Đệ Thập Thất Vĩ Tuyến không còn chia đôi sơn hà, vì cả giang sơn hoàn toàn bị nhuộm đỏ, người Hoài Quốc trên mảnh đất Hồ Sinh lại ghi vào trang sử đau thương của họ dòng sông thứ ba cũng mang cùng mục đích: chia Nam xẻ Bắc. Phát xuất từ đỉnh núi kiêu căng vô tận, dòng nước chảy qua khu rừng âm u Hận Thù chất ngất, ầm ầm lao xuống bờ vực Tham Lam thăm thẳm. Được tiếp sức bởi những phụ lưu Bất Mãn, Oán Hờn, Ganh Tị, dòng Tham Vọng như con mãng xà hung tợn tàn phá những gì mà người Hoài Quốc đã cố gắng xây dựng sau những năm tháng bị lưu đày nơi đất khách quê ngưòi. Sức tàn phá của con thuỷ quái Tham Vọng được thể hiện rõ rệt trong một số gia đình có sự bất đồng quan điểm về cuộc khủng hoảng Bính Dần 1986.

Lần phân hoá thứ ba này có tác dụng thê thảm hơn hai lần trước. Mặc dầu không có cảnh máu đổ đầu rơi như hai cuộc nội chiến năm xưa, vết thương do cuộc binh biến Bính Dần 1986 gây ra còn đau đớn gấp trăm gấp ngàn lần. Đó là sự đau khổ về dằn vặt nội tâm, tinh thần luôn luôn bị giao động và nhất là anh em họ hàng hoàn toàn bị ly tán. Ở khắp các Trấn, cảnh vợ chồng, cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn bè bất hoà, xung đột, cãi vã lẫn nhau về đường lối mỗi người đang theo đuổi được gọi là cảnh “dở khóc dở cười”. Có gia đình chỉ độc nhất hai anh em may mắn đến được phần đất tự do trong khi cha mẹ còn đang bị gông cùm dưới ách tham tàn của bọn Rợ Hồ. Thế mà chỉ trong một sớm một chiều, anh đứng về phe ủng hộ Lộ Dung trong khi em chiến đấu trong hàng ngũ Chân Lý Thái Bình. Từ ngày anh em ở hai bên chiến tuyến, những lúc gặp mặt nhau trong gia đình hay những bửa cơm thân mật bên nhau không còn là những cơ hội hàn huyên đầm ấm đầy yêu thương nữa. Trái lại đó là những bãi chiến trường nho nhỏ nhưng sôi động ác liệt gây nên biết bao đau thương cho những người cùng huyết nhục.

Có những thiếu niên rời bỏ trang trại thân yêu của mình để suốt ngày quanh quẩn trong sảnh đường của Doanh Tuẫn Giáo vì không muốn thấy cảnh người thân hội họp bàn tán ủng hộ chính sách của Triều đình. Lại cũng có cảnh cha mẹ giọt vắn giọt dài, khóc than cho số phận hẩm hiu vô phúc vì có con cái mù quáng đi theo tiếng gọi của vị Tổng Trấn mất lòng dân. Một số các gia tộc lâm vào cảnh dở khóc dở cười vì sự phân hoá quá rõ rệt: anh em dứt tình dứt nghĩa, chú cháu lên án lẫn nhau, họ hàng cố tình tránh mặt . . . , tất cả càng làm người Hoài Quốc tuyệt vọng. Lại có một vài trường hợp thật là khó xử trí. Một người đang ủng hộ lập trường của Phe Chân Lý Thái Bình, đồng thời định gã con gái cho một gia đình giàu có ở cùng thôn. Tuy nhiên, gia tộc đàng trai lại thề sống chết với Tổng Trấn Lộ Dung. Họ nhà gái không biết xử trí thế nào. Cuối cùng vị sợ con gái của mình lâm vào cảnh ế ẩm như buổi chợ chiều, bên cô dâu đành cắt đứt liên hệ với phe Chánh Đạo để thực hiện cho bằng được cái đám cưới hằng mong muốn, mặc dầu biết rằng làm như thế là chống lại với đa số nhân dân. Còn cảnh bạn bè thoáng chốc trở nên thù địch, lạnh nhạt, cố tình tránh né gặp gỡ nhau để khỏi phải tranh luận đôi co về lập trường khác biệt là cảnh thường thấy nhất tại Hồ sinh thời bấy giờ.

Một đàng khư khư ôm ấp chiêu bài “Vâng phục tuyệt đối” trong khi nhân dân cương quyết nói lên tiếng nói đã phá bất công. Thực ra như đã nói ở trên, nguyên nhân gần cũng như xa gây ra cảnh cốt nhục tương tàn chỉ vì tham vọng của một người. Về sau trong tất cả sử liệu của ngưòi Hoài Quốc, người ta nhận thấy có sự thay đổi quan trọng. Tất cả các sử gia hầu như có khuynh hướng không muốn dùng danh từ “Tham Vọng” để gọi tên con sông phân hoá năm Bính Dần 1986. Không ai bảo ai, tất cả những nhà viết sử đều thích dùng danh từ cụ thể và rõ ràng hơn. Thay vì gọi là con sông “Tham Vọng”, họ dùng tên “Lộ Dung” để nói về dòng sông lịch sử đã gây nên cảnh huynh đệ tương tàn năm xưa.


--------------------
mm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
mviet
post Dec 20 2010, 01:11 PM
Post #4


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,769
Joined: 9-September 10
Member No.: 15,235
Country









Thời Kỳ Vong Quốc - Chương 4

CHƯƠNG IV
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN


4.1 CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN


Sau hai tuần lễ bày tỏ thiện chí hoà giải bằng việc tái đóng góp Thuế Đền Thờ và cố gắng giữ thái độ ôn hoà cố hữu, nhóm Chân Lý Thái Bình ngược lại chỉ nhận thêm sự khiêu khích từ phía Triều đình. Điển hình là việc cấm sử dụng hệ thống phóng thanh tại các Đền Thờ. Hơn nữa, Triều đình vẫn giữ thái độ im lặng, ù lì trong các hoạt động nhằm đẩy mạnh cuộc thương thuyết đi đến một giải pháp cho cuộc binh biến. Trong buổi Tiểu Diên Hồng Hội ngày 26 tháng 9 năm Bính Dần 1986 Bạc Trang Hán Tử liền kêu gọi dân chúng thuộc Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình ngưng đóng các sắc thuế Đền Thờ lần nữa để làm áp lực với Triều đình. Hô còn tiến thêm một bước quan trọng khác để chuẩn bị cho kế hoạch trường kỳ kháng chiến: Vận động công luận người bản xứ để làm hậu thuẫn cho cuộc chiến đấu lâu dài. Cuộc vận động này mở đầu bằng việc phổ biến Hịch Chánh Đạo bằng ngôn ngữ của người Hồ Sinh. Việc phổ biến Hịch Chánh Đạo ấn bản đặc biệt này gồm hai mục đích. Thứ nhất thông báo tình hình tổng quát, xác định lập trường của Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình và giải toả thắc mắc cho những người bản xứ chưa thông suốt vấn đề. Thứ hai, kêu gọi dân chúng Hồ Sinh ủng hộ lập trường chống áp bức bất công của phe Chân Lý Thái Bình. Việc phổ biến Hịch Chánh Đạo bằng ngôn ngữ của người Hồ Sinh được quyết định phải thực hiện cấp tốc bằng mọi giá vào cuối tuần ấy để đạt yếu tố bất ngờ. Địa điểm những nơi cần phổ biến hịch đã được nhóm Chân Lý Thái Bình soạn thảo gấp rút: đó là các Đền Thờ của người Hồ Sinh. Một số quân thám sát của phe chống đối đã cung cấp tin tức liên hệ về địa điểm, giờ giấc các buổi tế tự cuối tuần, ước tính số người Hồ Sinh tham dự các buổi tế tự ấy và nhiều chi tiết quan trọng khác. Ngay đêm hôm ấy, đích thân Bạc Trang Hán Tử đã làm việc rất khuya tại sảnh đường của Doanh Tuẫn Giáo để điều động các nhóm nghĩa quân sớm hoàn thành cả hai loại hịch: ấn bản bằng ngôn ngữ Hoài Quốc như thường lệ và ấn bản đặc biệt nói trên. Nhóm nghĩa quân dưới quyền điều động của Kha Phó Trang Thế Ngọc chịu trách nhiệm ấn bản Hoài Quốc trong khi nhóm nghĩa quân do Kha Trưởng Hoàng Ngọc Chương cầm đầu được giao phó những công tác liên quan đến ấn bản Hồ Sinh. Đoàn xe tứ mã với những con ngựa chiến đã già nhưng dai sức do Hoàng Ngọc Chương và Thâm Kỳ Thi Nhân cầm cương được sự hộ tống hùng hậu của những cao thủ Chân Lý Thái Bình như Mộc Túc Định Thiếu Gia, Tiếu Ngạo Giang Bạch Phượng, Kha Truởng Bảo Trầm Luân, Bang Trưởng Ngươn Trấn Cương và nhiều anh hùng nghĩa sĩ khác đã chuyển vận hàng ngàn tờ hịch suốt đêm từ Doanh Tuẫn Giáo đến các trang trại của dân chúng để ấn loát và ngược lại. Sáng ngày 29 tháng 9 Bính Dần 1986, không khí trong sảnh đường của Doanh Tuẫn Giáo nhộn nhịp khác thường. Hàng trăm người thuộc phe Chân Lý Thái Bình, bất kể nam phụ lão ấu, tề tựu đông đủ để hoàn tất những công việc cuối cùng trước khi hịch được phân phát. Từng nhóm nghĩa quân được phân công rõ rệt, thâu thập tin tức về những Đền Thờ và nhận lãnh số hịch cần thiết để phổ biến vào ngày hôm sau.

Tờ mờ sáng ngày ngày 29 tháng 9 Bính Dần 1986, trong khi nhà cửa trong các trang trại của người dân còn đóng cửa then gài thì các nhóm nghĩa quân đã nai nịt gọn gàng tập họp tại sân tiền đường của Doanh Tuẫn Giáo chuẩn bị xuất quân. Những con chiến mã cũng lồng lộn, miệng hí vang trời, hai vó trước cất lên cao, nôn nóng chờ đợi giờ lên đường. Sau khi kiểm điểm lại đội ngũ lần chót, một tiếng pháo lệnh chát chúa nổ vang; đoàn người ồ ạt phóng ra khỏi cổng thành, tiếng vó câu rộn rã phá tan không khí tĩnh mịch của một buổi sáng còn mờ hơi sương. Trực chỉ hướng Bắc, Hoả Tâm Đại Hiệp Trương Võ Huỳnh đơn thân độc mã nhắm hướng Đền Thờ Thần chiến thắng nằm sát chân núi. Một nhóm nghĩa quân khác dưới sự thống lĩnh của Thăng Long Nữ Tướng cũng phóng về hướng Bắc đến Đền Thờ Nhất Thể Tam Vị. Kha Trưởng Bạch Thủ Võ Nhất Thạnh của Trấn Vưu Sơn dẫn quân lấy huyết lộ Bách Nhất về hướng Đông Bắc tiến đến Đền Thờ Hồ Sinh nằm cạnh biên giới Vương Quốc Kim Sơn trong khi Trang Thế Ngọc Phu Nhân thay mặt đức lang quân cho người án ngữ hai cổng chính của Đền Thờ Nữ Vương Thái Bình tại Trấn Ánh Dương. Hai nhóm nghĩa quân khác do Đại Bàng Võ Ngà Phủ có sự trợ lực của Phụng Lão Gia bố trí dọc theo hai con lộ chính dẫn vào cổng Đền Thờ Ngũ Dấu và Đền Thờ Vương Quốc tại trung tâm thị tứ của Đế Đô Hồ Sinh. Kha Phó Ngũ Mạnh San sau giờ tế tự tại Trấn Cẩm Báo, hiệp cùng Bạch Thủ Thiền Sư Ngũ Cốt và Cải Lương Chi Bảo Thái Viễn đang thúc ngựa như bay về hướng Tây đến Đền Thờ Khải Tấu Phong. Ở hướng Nam Kha Trưởng Bảo Trầm Luân gò mình trên lưng ngựa, cuốn thốc bụi mù tiến về Đền Thờ Thần Nữ. Bang Chủ Tráng Niên Bang Ngươn Trấn Cương và Trại Chủ Phùng Tất Thạnh điều động một số thanh niên nhiệt huyết trấn đóng các cửa ra vào của Đền Thờ Đồng Tâm trong khi đa số nghĩa quân còn lại dồn hết lực lượng lên Ải Địa Cầu Cẩm Báo đang bố trí tại Đền Thờ Sanh Lưu Xinh. Một vài nhóm nghĩa quân còn chịu trách nhiệm thêm tại một số Đền Thờ gần khu vực Đền Thờ chính đã được giao phó. Trong suốt buổi sáng ngày 28 tháng 9 năm Bính Dần 1986, các nhóm Chân Lý Thái Bình đã hăng say hoạt động, trao tận tay người dân bản xứ những tấm hịch Chánh Đạo màu sắc rực rỡ, nội dung phong phú. Một số người Hồ Sinh say sưa nghiền ngẫm tờ hịch quý báo của Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình đến nỗi quên cả lắng nghe những lời giảng thuyết của các Tổng Trấn và Phó Tổng Trấn trong các buổi tế tự. Việc phổ biến hịch Chánh Đạo cho người dân bản xứ đã hoàn toàn thành công, mặc dầu có vài cuộc đụng độ nho nhỏ với những người theo phe Lộ Dung hay các Tổng Trấn bản xứ ủng hộ chính sách của Triều Đình.

Tục truyền rằng Tể Tướng Xú Uế Vân sau giờ tế tự thường lệ tại Đền Thờ Hồ Sinh và Trấn Vưu Sơn bước ra ngoài cổng để tiễn chào dân chúng thì bắt gặp một đại hán của phe Chân Lý Thái Bình đang hiên ngang trao hịch Chánh Đạo tận tay những người dân của Ông. Mặc dầu tức giận tràn hông, Ông vẫn cố nén vì sợ mất uy tín với đám dân trước mặt. Chờ mọi người ra về hết, Ông bước xuống tam cấp trước cổng đền và bắt đầu chất vấn lai lịch của đại hán nọ. Đại hán ưỡn ngực đối đáp không chút sợ sệt. Xú Uế Vân hịch cầm trên tay hịch Chánh Đạo lật lại trang sau bắt gặp ngay hình ảnh để đời của ngày Lễ Trao Gươm cho Lộ Dung: một toán Cảnh Bị đang cầm đoản côn ngăn chận phe Chân Lý Thái Bình tại Đền Thờ Đồng Tâm. Ông rùng mình nhớ lại hình ảnh có một không hai đó. Ông vội vàng vào phòng xiêm y trút bỏ phẩm phục tế tự rồi phóng ngựa như bay về hoàng cung vào gặp Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma. Sau khi báo cáo sự tình, Xú Uế Vân đứng im lặng đợi chờ chỉ thị của Hoàng Đế, đầu óc không ngớ liên tưởng đến cơn giận dữ của Vị Quân Vương sắp bùng nổ. Trái với ý nghĩ của Ông, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma lật vài trang trong tờ hịch Chánh Đạo rồi say sưa đọc. Tể Tướng Xú Uế định lên tiếng nhắc nhưng lại thôi. Cuối cùng Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma xếp tờ hịch lại rồi ôn tồn phán: “Từ trước đến nay, Ta cứ tưởng nhóm Chân Lý Thái Bình chỉ là một bọn dốt nát, không có phương pháp đấu tranh gì ngoạn mục. Thế mà hôm nay chúng lại cho tung ra kế hoạch rải hịch như bươm bướm khắp các Trấn như thế này, lại còn mệnh danh là kế hoạch “trăm hoa đua nở” nữa. Bọn Lộ Dung không thể nào có kế hoạch “trăm hoa” như họ được. Lộ Dung và thủ hạ không bao giờ biết thưởng thức hoa đẹp như nhóm Chân Lý Thái Bình; ngày tối chúng chỉ lo sưu tầm hoa ớt, hoa dâm bụt, cậy xương rồng và cỏ dại mà thôi. Có lẽ trên bàn cờ ta nên cho con chốt Lộ Dung sang sông là vừa. Còn bọn nịnh thần, tay chân của Lộ Dung bên Sở Dịch “Hạch” Thuật, nhà ngươi bảo chúng cũng nên chuẩn bị là vừa. Sáng mai bảo chúng xếp bút lại về quê lo đuổi gà cho vợ vì kể từ nay Ta có thể đọc hịch Chánh Đạo mà không cần tài dịch thuật ác ôn của chúng nữa. Nhớ bảo chúng trình diện tại tư dinh Quan Hầu Mã Ôn Tôn Thất Nghiệp để trả ngựa lại cho Triều đình trước khi lội bộ về quê nghe chưa.” Xú Uế Vân bàng hoàng như người từ mây xanh xuống, mặt mày bí xị, mồm lí nhí hai chữ “Phụng mạng!” rồi đi giật lùi ra ngoài. Hôm ấy trời đổ mưa to.

4.2 VĂN HỌC HOÀI QUỐC DƯỚI ĐỜI NHÀ THẠCH

Trong những năm đầu tiên của triều đại nhà THẠCH, người HOÀI QUỐC một phần vì ngược xuôi vất vả sinh kế, phần khác họ không có cơ hội thuận tiện nên nền văn học chẳng mấy phát triển là bao. Bấ thình lình cuộc binh biến Bính Dần 1986 bùng nổ tạo cho họ một môi trường thích hợp để phục sinh nền văn học tưởng đã bị quên lãng.Trong suốt cuộc khủng hoảng năm ấy, người ta thấy xuất hiện rất nhiều văn nhân thi sĩ mà trước đó không ai thấy họ cầm bút viết bao giờ.

Vào khoảng giữa năm Ất Sửu 1985, để mở màng kế hoạch cướp quyền cai trị tại DOANH TUẪN GIÁO, THAM MƯU BỘ của LỘ DUNG đã cho thủ hạ dùng diễn đàn của một tờ công báo lá cải để viết bài mạt sát, chửi bới Tổng Trấn BÌNH VIỄN AN. Dưới hình thức thể văn xuôi, các loạt bài “Tổng loạn” đã vu khống, xuyên tạc mạt sát cá nhân lẫn chính sách cai trị của BÌNH VIỄN AN và những người đang cộng tác với Ông trong BANG HÀNH SỰ của Doanh TUẪN GIÁO. Ngưòi HOÀI QUỐC lấy làm căm giận vì những lời thoá mạ đê hèn của bọn người chuyên lo phá phách này. Một số người đã viết bài biện minh cho BÌNH VIỄN AN và chính sách của Ông nhưng tờ công báo trên đã bán rẻ lương tâm chức nghiệp nên cố tình ém nhẹm lại tất cả những bài minh xác và tiếp tục con đường lầm lạc. Hơn nữa, BÌNH VIỄN AN là một vị quan nhân từ, luôn luôn chủ trương “vĩ hoà vi quý”, “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo” nên đã khuyên nhủ dân chúng nén giận, gác bỏ mọi hiềm khích. Đến khi nhận được chiếu chỉ cách chức BÌNH VIỄN AN, đồng thời bổ nhậm LỘ DUNG về làm Tân Tổng Trấn, dân HOÀI QUỐC mới vỡ lẽ ra tác giả của những bài“Tổng loạn” kể trên lại là thủ hạ thân tín của LỘ DUNG. Quá ức lòng vì chính sách cai trị áp bức và để phản đối Triều Đình THẠCH ĐỖ MA về việc sử dụng các quan lại thất cách, ngưòi HOÀI QUỐC cấp tốc thành lập BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ và THÁI BÌNH và phổ biến HỊCH CHÁNH ĐẠO nói lên hai nguyện vọng của họ: Yêu cầu Triều đình thiết lập Thể Nhân Trấn cho người HOÀI QUỐC và không chấp nhận LỘ DUNG làm Tổng Trấn của Doanh TUẪN GIÁO và HỊCH CHÁNH ĐẠO đã mở ra một chân trời mới cho nền văn học HOÀI QUỐC trong thời kỳ biến động.

Là một sản phẩm tổng hợp, Hịch CHÁNH ĐẠO quy tụ trên dưới một trăm tài năng xuất chúng về thi văn bao gồm đủ mọi thành phần sĩ, nông, công, thương. Với chủ trương làm sáng tỏ lập trường của người HOÀI QUỐC trong hai thỉnh nguyện, Hịch CHÁNH ĐẠO đã nói lên tất cả sự thật và ý nguyện của dân chúng thời bấy giờ. Những bài viết trong hịch được phân chia làm hai loại: văn xuôi và văn vần. Văn xuôi bao gồm các bài quan điểm, nhận định, bình luận, lập trường, tài liệu, văn kiện, thư ngỏ, thư góp ý, phóng sự, truyện ngắn, truyện dài, phiếm luận, chuyện vui cười, tin tức, tin đồn . . . Văn vần được biết bằng nhiều thể như Đường Luật, thất ngôn bát cứ, lục bát, song thất lục bát, thơ tự do . . . biểu hiện cho các khuynh hướng tình cảm, luân thường đạo lý, trào phúng . . . Đa số văn nhân thi sĩ đã hăng say đóng góp bài vở liên tục hàng tuần trong khi một số ít thỉnh thoảng mới múa bút gọi là góp mặt cho có anh có em. Tuy nhiên tất cả những bài thơ bài văn trong Hịch CHÁNH ĐẠO là những tác phẩm giá trị, có nội dung phong phú, hình thức sáng sủa đã được thai nghén của chính con tim và khối óc của những người đầy nhiệt huyết muốn nói lên sự thật.

Về văn xuôi Hịch CHÁNH ĐẠO tập trung những nhân văn nổi danh như HỒ SINH HÁN TỬ với loạt bài nhận định “Những lỗi lầm của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đã làm Triều đình ăn ngủ không yên trong mấy tuần lễ. Cùng một khuynh hướng với HỒ SINH HÁN TỬ, một kiếm khách vô hình đã sử dụng đường gươm độc thủ “Những hành động mang Độc Tính Ác thần của Triều đình THẠCH ĐỖ MA báo hại Triều Đình phải cấp tốc cử người lên Động Hoa Quả để tìm Tề Thiên Đại Thánh mượn Chiếu Yêu Kính về soi tà. Am hiểu tình hình và thấu đáo ngọn nguồn phải kể đến anh em nhà họ TRỰC vói TRỰC PHÒNG, TRỰC GÁC, TRỰC CHỈ, TRỰC THĂNG đã lột trần những bí mật về chính sách của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đối với người HOÀI QUỐC. Bước sang lãnh vực bình luận pha lẫn nhận định phải nhắc đến PHÙNG MẠNH QUỚI, Kha Trưởng TÂY HỒ SINH, với bài “Đức Vâng Phục” phá tan làn khói dầy đặc che phủ cái chiêu bài cũ rích mà phe LỘ DUNG vẫn thường dùng để chỉ trích nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Pha lẫn một chút trào phúng, tác giả lại tung một chưởng thứ hai “Sắp có phép màu” nhắc nhở đến sự lạ lùng THIÊN SAI GIÁO CHỦ đã hoá bánh năm xưa khiến LỘ DUNG phải vận dụng đến tài năng vô song của ĐỀN HOA TẶC TỬ trong trò ảo thuật “có ít xít ra nhiều”, điển hình là trò đếm dân theo đa số, thiểu số.

Người HOÀI QUỐC là một dân tộc nhiều tình cảm, luôn luôn lo lắng cho những người đang gặp hoạn nạn. Thấy LỘ DUNG đang ở vào thế bí, một số văn nhân đã cố gắng gửi những cánh thư góp ý trên Hịch CHÁNH ĐẠO để tìm lối thoát cho Ông. Sau nhiều lần chờ đợi không thấy vị Tổng Trấn đau khổ thoát ra khỏi Bát Quái Trận Đồ, tác giả đã dùng mục “Trả lời thư tưởng tượng” đề nghị một lối thoát khác mà ai cũng công nhận là đúng: Siêu thoát. Hịch CHÁNH ĐẠO cũng rất hào sảng, luôn luôn giúp đỡ kẻ cơ hàn và là diễn đàn tự do, dân chủ. Hịch chấp nhận tất cả những bài vở của người sang lẫn kẻ hèn. Điển hình là những “Lá Thư Thiếu Cước Phí Số 1, Số 2, Số 3 . . .” của người hàn sĩ LÊ ĐỨC YÊN, nghèo đến nỗi không có đủ hai mươi hai hào để nhờ bưu trạm chuyển thư đi. Người hàn sĩ này tuy nghèo tiền nhưng không nghèo lòng nhiệt huyết nên đã viết đến ba, bốn lá thư thiếu cước phí không gửi. Đại diện cho phái nữ thường góp tiếng trên Hịch CHÁNH ĐẠO là nữ sĩ NGÀ TRINH; dù bận bịu với rất nhiều công việc gia đình cũng không quên dùng thời giờ rỗi rảnh còn lại để nói lên tiếng nói đơn sơ của người phụ nữ HOÀI QUỐC đối với đại cuộc.

Những tác phẩm trong lãnh vực truyện ngắn và truyện dài phải kể đến “Thằng Nhỏ” của DUY HUYNH đã làm những người đang theo đuổi chính sách “thúc trẻ thơ HOÀI QUỐC sớm hội nhập” phải chùn bước. Với lối hành văn ngắn gọn, chân thật, nhà văn tí hon DUY HUYNH đã xứng đáng với danh xưng “Thần Đồng Chính Giáo”, đè bẹp hai “Thần Đồng Nước Mình, Thần Đồng Nước Họ” của văn sĩ HẮC PHỤNG. Về truyện dài, Hịch CHÁNH ĐẠO hàng tuần phải bóp bụng trả tiền ấn loát giấy in cho câu chuyện dài lê thê không có đoạn kết “Thời kỳ mất nước” của sử gia bất đắc dĩ TÔN KHOÁC LÁC. Bài này được viết theo lối giả sử pha kiếm hiệp và dùng nhiều cổ tự khiến bọn thủ hạ LỘ DUNG phải thành lập gấp một bang sưu tra và dịch thuật để truy tầm và phiên âm tên tuổi các nhân vật của cả hai phe HẮC BẠCH HẦU dễ dàng báo cáo lên Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và Tể Tướng XÚ UẾ VÂN. Tục truyền rằng bọn thủ hạ LỘ DUNG trong Sở Dịch Thuật của Triều Đình đã đạt được kỹ thuật siêu đẳng về dịch sách báo HOÀI QUỐC sang ngôn ngữ của người HỒ SINH. Có lần chúng đã hiên ngang dịch “rượu lễ” thành “rượu đế” khiến Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA cảm thấy xây xẩm không ít. Riêng về hai tên “THẠCH ĐỖ MA” và “XÚ UẾ VÂN” trong truyện dài “Thời kỳ mất nước”, bọn chúng không đủ từ ngữ để diễn tả nên đành nói trống không mỗi khi Triều đình thắc mắc. Triều đình lại khen thuởng cho chúng hậu hỉ vì cho rằng bọn này không dám nhắc đến tên vua chúa quan quyền vì sợ “phạm huý”.

Ngoài ra còn nhiều văn nhân đã góp công sức trong việc hoàn tất những tác phẩm văn xuôi để đời cho nền văn học HOÀI QUỐC. LỘ DUNG và bọn thủ hạ rất sợ những tác phẩm trên Hịch CHÁNH ĐẠO vì luôn luôn nói lên sự thật, nhất là trong các tài liệu và văn kiện xác thực. Tục truyền rằng họ đã tìm cách ngăn chận tờ hịch này và cố gắng mua lại với giá thật cao nhưng đều thất bại.

Sang lãnh vực văn vần, mặc dầu số lượng bài vở có phần khiêm nhượng so với văn xuôi. Tuy nhiên không vì thế mà phẩm chất của vần điệu bị giảm sút. Trái lại dân chúng HOÀI QUỐC đã say mê thích thú những bài thơ ý tưởng dồi dào, nội dung xúc tích, âm điệu trầm bổng của tất cả các khuynh hướng trong Hịch CHÁNH ĐẠO. Về tình cảm, để tưởng nhớ và ghi ơn công đức củ vị Khai Trấn Công Thần BÌNH VIỄN AN, thi sĩ lão thành TRÙNG KHƠI đã làm cho ngưòi đọc xót xa rơi lệ với những bài thơ “Ngày ly biệt”, “Nhớ thương”. Đóng góp thường xuyên hàng tuần với những bài thơ bất hủ được viết theo thể tự do, diễn tả đầy đủ ý tưởng không kém một bài văn xuôi là những tác phẩm lừng danh “Hãy đi hoài”, “Thành ngàn cơn sóng”, “Con đò không bến” . . . của THIỆN BIỂN đã làm phe LỘ DUNG dù ghét thơ cách mấy cũng phải học thuộc lòng để ngâm vịnh. Về khuynh hướng trào phúng của văn vần trong Hịch CHÁNH ĐẠO là cả một vườn hoa muôn màu. Dẫn đầu về phẩm cũng như về lượng của loại thơ trào phúng có nữ sĩ XINH NHƯ HOA với những bài lục bát “Yêu thương”, “Thăm Ngài”, “Kiêu Huyền 86” . . . , hay thất ngôn biến thể “Hỏi Ông” đã làm Triều đình dở khóc dở cười. Trước đó nữ sĩ thường lấy bút hiệu khác có tính cách con nhà võ hay sử dụng vũ khí đạn dược như THẦN CÔNG 518, HOẢ LỰU M . . . Một hàn sĩ HOÀI QUỐC khác vừa có tài sáng tác thơ văn lại giỏi cả ngâm vịnh từng ngâm thơ trong các buổi Tiểu DIÊN HỒNG HỘI. Đó là THÂM KỲ THI NHÂN với những bài thơ dí dỏm như: “Cao Thủ Tà Ma”, “Người Chủ Không Quen” . . . nói lên tiếng nói uất ức của người HOÀI QUỐC trong cuộc binh biến lịch sử có một không hai của THIÊN GIÁO phải nhắc đến những bài thơ “Lời cầu không tên Số 1, Số 2 . . . “ của CHIÊN DI TẢN đã làm Triều đình và LỘ DUNG xám mặt vì lo sợ.

Người HOÀI QUỐC thời bấy giờ không ngờ lực lượng Hịch CHÁNH ĐẠO lại có một lực lượng văn nhân thi sĩ hùng hậu đóng góp công lao sức lực như thế. Hàng trăm người đã cung cấp món ăn tinh thần cho dân chúng trong thời kỳ sôi động của năm Bính Dần. Và chính họ cũng như toàn thể dân chúng đã làm cho nền văn học HOÀI QUỐC tiến đến chỗ cực thịnh như đã từng xảy ra trong lịch sử lâu dài của họ.

Tục truyền rằng vào một đêm không trăng, không sao, bên ngoài trời tối đen như mực Bạc Trang Hán Tử đang ngồi cắn bút trong thư phòng để tìm đề tài cho Hịch CHÁNH ĐẠO vào cuối tuần đó, Ông nghe có tiếng nói văng vẳng bên tai. Đúng là tiếng nói của một cao thủ võ lâm có nội lực thâm hậu đang dùng thuật “MẬT NGỮ TRUYỀN THANH” để liên lạc với Ông. Ông vớ lấy chiếc áo ngự hàn khoác vội lên vai, tay nắm chặt chiến phán quan bút phi thân ra ngoài bóng đêm.

Đi gần đến cây đa đầu làng CỬU LỘ, BẠC TRANG thấy một bóng người vận toàn đồ trắng, có dáng dấp như một đạo sĩ. Ông định lên tiếng trước thì vị đạo sĩ đã cất giọng sang sảng: “Ta thấy nhà ngươi và dân HOÀI QUỐC đang xả thân cho đại cuộc nên lấy làm cảm động vô cùng. Ta muốn đóng góp một chút công việc của nhà ngươi đang làm”. Nói xong vị đạo sĩ biến mất. BẠC TRANG kinh hãi vô cùng, dụi mắt liên hồi tưởng như đang mơ. Ông nhìn chung quanh nhưng không thấy bóng dáng một người nào. Nhìn dưới gốc cây đa chỗ đạo sĩ vừa đứng. Ông bắt gặp một cuốn giấy tròn cẩn thận. Ông vội vận nội công tập trung nhãn lực theo “MIÊU NHÃN PHÁP” để soi thủng bóng đêm và liếc nhìn cuộn giấy thì bắt gặp hàng chữ đại tự đập ngay vào mắt “Những lỗi lầm của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA”.

BẠC TRANG vui mừng khôn tả vì cuộn giấy sẽ giúp Ông một phần nào. Tuy nhiên Ông vẫn thắc mắc về lai lịch của vị đạo sĩ thần bí. Lúc trở về thư phòng, BẠC TRANG lại bắt gặp một mãnh giấy hồng điều trên có bốn chữ đại tự màu vàng “HỒ SINH HÁN TỬ” đang nằm trên án thư. BẠC TRANG liền chắp tay đa tạ vị ân nhân vô hình Cuối tuần đó người HOÀI QUỐC say mê theo dõi loạt bài của HỒ SINH HÁN TỬ trong Hịch CHÁNH ĐẠO. Ai cũng tấm tắc ca ngợi bài viết được nghiên cứu kỹ càng tỉ mỉ thật công phu và sâu sắc. Có người đến hỏi BẠC TRANG Hán Tử về tác giả. Với sắc mặt đầy vẻ nghiêm trọng, Ông hạ thấp giọng: “Bài này tại hạ tìm thấy dưới một gốc đại thụ, và gốc đại thụ nầy đã sống cả ngàn năm rồi”.

4.3 TIỀN HẬU BẤT NHẤT

Trong buổi DIÊN HỒNG HỘI tối ngày 30 tháng 9 năm Bính Dần 1986, BẠC TRANG Hán Tử thông báo đến dân chúng thuộc BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ THÁI BÌNH một tin quan trọng. Đó là tin Quan Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP, sau khi được sự đồng ý của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA, sẽ đến Doanh TUẪN GIÁO để làm Chủ sự buổi cầu nguyện đặc biệt cho người HOÀI QUỐC. Tin trên vừa được loan ra, nhân dân từ các Trấn cảm thấy phấn khởi và vui mừng khôn tả. BANG HÀNH SỰ lập tức cắt đặt nhân sự và phác hoạ những công việc cần thiết cho buổi lễ nói trên. Mọi người cảm thấy được yên ủi rất nhiều vì sau hơn hai tháng khủng hoảng, đây là ngày đầu tiên có một vị quan lại THIÊN GIÁO đến chủ sự cho một sinh hoạt về tôn giáo tại Doanh Phủ.

Vả lại đây cũng chính là cơ hội cần phải có để phe CHÂN LÝ THÁI BÌNH chứng tỏ cho vị Sứ giả của Đại Đế Giang Phong Đệ IIthấy rằng họ không phải là những người đang tạo phản, ly khai khối THIÊN GIÁO như những lời xuyên tạc vu khống của phe LỘ DUNG. Tuy nhiên, niềm vui của họ bị dập tắt ngay lập tức. Vì vào buổi tối ngày hôm sau, mồng 1 tháng 10, BẠC TRANG Hán Tử lại chính thức thông báo cho người HOÀI QUỐC là Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đã quyết định yêu cầu Quan Chưởng Môn NGUYỄN ĐỨC THIỆP đình hoãn ngày cầu nguyện kể trên cho đến khi có dịp thuận tiện. Dân chúng thuộc nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH lại càng bất mãn về thái độ tiền hậu bất nhất của Triều đình và nghi ngờ những bàn tay phù thuỷ của phe LỘ DUNG đã ít nhiều ảnh hưởng đến quyết định vừa kể. Đây cũng là lần đầu tiên đích thân vị Sứ giả của Quan Khâm Sai PHỤNG LỄ NGHI chứng kiến một trong những quyết định lạ thường của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA.

4.4 HOÀI QUỐC NHÂN DÂN THIÊN GIÁO HỘI

Cũng trong tuần lễ đó, nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH lại phải đối phó với một hành động khiêu khích khác của phe LỘ DUNG. Đó là việc thành hình của một tổ chức có tên là HOÀI QUỐC NHÂN DÂN THIÊN GIÁO HỘI do 9 thủ hạ của LỘ DUNG cầm đầu. Tổ chức này là hậu thân của đạo quân TỬ THỦ ĐỨC TIN được sáng lập cách đó hai tháng và được phe LỘ DUNG mệnh danh là kế hoạch “bình cũ rượu mới”. Đạo quân TỬ THỦ ĐỨC TIN trong những ngày đầu của cuộc binh biến đã được khai sinh để làm hậu thuẫn cho LỘ DUNG về Doanh TUẪN GIÁO.

Tuy nhiên, nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã dùng sức mạnh nhân dân đập tan ý đồ đen tối ấy trong lần biểu dương lực lượng tại Đền Thờ VƯƠNG QUỐC ngày 9 tháng 8 năm Bính Dần 1986. Sau gần hai tháng thoi thóp, tổ chức trên đã đi vào lịch sử chiến bại của LỘ DUNG sau khi cố gắng tung ra hai tờ hịch lịch sử: hịch thứ nhất kêu gọi người HOÀI QUỐC về dự Tế Giải Hoà ngày 9 tháng 8 và hịch thứ hai phản đối nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã dùng sức mạnh của 282 nghĩa quân phá tan buổi tế kể trên. Sau khi tổ chức đạo quân TỬ THỦ ĐỨC TIN bị khai tử, LỘ DUNG liền cho ra đời một đạo quân khác lấy tên là HOÀI QUỐC NHÂN DÂN THIÊN GIÁO HỘI để hoạt động trong thời kỳ thương thuyết. Vẫn với chủ trương cố hữu là ủng hộ chính sách của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA, đồng thời lên án nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã xúi giục nhân dân dấy loạn chống lại những võ quan THIÊN GIÁO đã được Triều đình cắt cử, HOÀI QUỐC NHÂN DÂN THIÊN GIÁO HỘI đã được khai sinh trong một buổi họp mặt của Sở Xã Hội của Triều đình. Trong tờ hịch TRUYỀN TIN của BANG HÀNH SỰ vào cuối tuần đó, người HOÀI QUỐC tại HỒ SINH đã được thông báo tin tức về tổ chức mới ra đời với đầy đủ chi tiết về tính cách bất hợp pháp và thế đứng yếu kém của tổ chức trên. Và họ đã chuẩn bị mọi thứ cần thiết để khai tử cái gọi là HOÀI QUỐC NHÂN DÂN THIÊN GIÁO HỘI.

4.5 KẾ LY GIÁN VÀ LẬP TRƯỜNG CỦA CÁC VÕ QUAN

Để tạo một cái nhìn lệch lạc cho vị Sứ giả của Đại Đế GIANG PHONG Đệ II, phe LỘ DUNG đã cố gắng thực hiện những công tác từ công khai đến bí mật. Trước hết, họ cho tung ra những tờ sớ đã được thảo sẵn nhằm nói lên sự ủng hộ Triều đình và LỘ DUNG. Hịch này được phân phát tại trang trại của người dân hay tại những dinh phủ của Triều đình hoặc tại những nơi người HOÀI QUỐC thường lui tới để làm ăn buôn bán. Phe LỘ DUNG còn dùng tờ công báo lá cải để xuyên tạc nhiệm vụ hoà giải của Quan Chưởng Môn Nguyễn Đức Thiệp trong lối thông tin mập mờ không chính xác. Họ lại còn rỉ tai tuyên truyền trong dân chúng những điều vô căn cứ có liên quan có liên quan đến cá nhân gia đình và công việc của vị Sứ giả. Và quan trọng hơn hết là kế hoạch ly gián giữa các Phó Tổng Trấn của HOÀI QUỐC với nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH.

Theo THIÊN GIÁO, vâng phục là yếu tố then chốt để bảo đảm tôn ti trật tự. Cuộc binh biến Bính Dần 1986 đã xác định lại thế nào là Vâng Phục đúng nghĩa. Người HOÀI QUỐC tại Doanh TUẪN GIÁO vẫn luôn luôn xác định sự trung thành với THIÊN GIÁO và những quan lại của Triều đình; tuy nhiên, họ chống lại cách thức hành xử quyền hành vô lối của những người đang cầm quyền. Đối với một số các quan lại, họ cũng nhận thấy lập luận hợp lý của nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH, nhưng đồng thời họ cũng bị ràng buộc gắt gao hơn về đức Vâng Phục với các vua chúa nên họ rơi vào tình trạng rất khó giải quyết. Người thời bấy giờ gọi đó là tình trạng “trên đe dưới búa” và điển hình là hai vị Phó Tổng Trấn của Doanh TUẪN GIÁO: ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN không làm sao thoát khỏi vòng cương toả của Triều đình khi nói về Đức Vâng Phục.

Có những lần người HOÀI QUỐC cảm thấy khó chịu về những lời tuyên bố của hai vị quan này. Trong các buổi tế tự vào ngày mồng 3 tháng 10 năm Bính Dần 1986, Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ tại Đền Thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH tại Trấn ÁNH DƯƠNG và Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN tại Đền Thờ SANH GIANG tại Trấn MIÊU PHÁ THẠCH đã có những lời hiệu triệu làm buồn lòng dân chúng rất nhiều. Những lời tuyên bố này không ngoài việc biện minh cho các hành động của Triều đình. Mặc dầu cảm thấy không vui, phe CHÂN LÝ THÁI BÌNH vẫn thông cảm với hoàn cảnh khó xử của hai vị Phó Tổng Trấn và cho rằng các Ông phải làm như thế để tránh những báo cáo của phe LỘ DUNG lên Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA về các công việc cũng như lời nói của hai ông tại các buổi tế tự.

Cũng trong những buổi tế tự cuối tuần đó, người ta thấy xuất hiện một vị Phó Tổng Trấn đến từ Vương Quốc láng giềng KIM SƠN để đồng chủ sự với ĐẬU LƯ và CHÁNH NGUYÊN. Đây là một điều rất lạ vì vị Phó Tổng Trấn này đã đứng lên thuyết giảng trong hai buổi tế ngày mồng 5 tháng 10. Bài hiệu triệu hôm ấy đã nói bóng gió đến cuộc khủng hoảng của người HOÀI QUỐC tại HỒ SINH. Vị Phó Tổng Trấn đã đề cao vai trò lãnh đạo của các quan lại THIÊN GIÁO đồng thời nói lên những điểm tương tự của cuộc chống đối do CHÂN LÝ THÁI BÌNH phát động và lỗi lầm của dân riêng mà THƯỢNG ĐẾ đã tuyển chọn trong lịch sử THIÊN GIÁO. Điều này đã làm dân chúng tức giận và quả quyết vị Phó Tổng Trấn trên đã được LỘ DUNG sai đến để dùng các buổi tế tự chống lại công việc của họ.

Tục truyền rằng vào buổi chiều hôm ấy, sau buổi tế tự tại Đền Thờ NHẤT THỂ TAM VỊ tại Trấn BẮC HỒ SINH, vị Phó Tổng Trấn vừa bước ra khỏi cổng Đền Thờ liền bị hai nữ lưu của CHÂN LÝ THÁI BÌNH chận lại chất vấn. Vị Phó Tổng Trấn nhớ lại hình ảnh của LỘ DUNG trong hai buổi tế Giải Hoà và Lễ Trao Gươm mà Ông có dịp mục kích trên TRUYỀN ẢNH TRẠM. Mồ hôi tráng bắt đầu đổ ra. Tay chân ông lạnh ngắt như đang ngâm vào đá. Ông hối hận vì đã nghe lời xúi bẩy dại dột của LỘ DUNG xả thân vào chốn dầu sôi lửa bỏng này.

Không để vị võ quan kịp tra tay vào gươm, hai nữ lưu đã lạnh lùng rút kiếm múa luôn những thế kiếm xuất quỹ nhập thần của CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Đường kiếm loang loáng quấn chặt lấy địch thủ không rời nửa bước. Những thế đánh không dữ dội, cuồng phong như các đại hán, nhưng uyển chuyển và lanh lẹ rất khó chống đỡ. Vị Phó Tổng Trấn vừa lui dần về phía đường lộ vừa dáo dác tìm chỗ cột con chiến mã, đầu óc liên tưởng đến những ngôi mộ mới xây nằm thẳng tấp tại một nghĩa trang mà Ông có dịp ghé thăm hôm nào. Ông nghĩ tới cái lổ huyệt sâu thẳm sắp được đào lên. Ông rùng rùng mình và nhắm mắt lại. Bất thình lình, tiếng vù vù của hai thanh kiếm ngưng bặt. Ông vội mở mắt ra thì thấy hai nữ lưu đã tra kiếm vào vỏ từ lúc nào. Với giọng bình thản một ngưòi trong họ lên tiếng: “Đây chỉ là lần cảnh cáo, Ngài chớ tái phạm. Nếu Ngài đang muốn tìm một chỗ có dân để cai trị thì nơi đây không phải là chỗ ấy.” Vị Phó Tổng Trấn bàng hoàng như vừa trải qua một cơn ác mộng, vội phóng lên lưng chiến mã chạy như bay đánh rơi cả mảnh giấy giới thiệu ông với dân chúng HOÀI QUỐC có đóng dấu triện của Tổng Trấn LỘ DUNG.

4.6 KẾ HOẠCH THÂM ĐỘC

Buổi chiều ngày 11 tháng 10 năm Bính Dần 1986, vào khoảng giờ Thân, trong lúc sảnh đường của Doanh TUẪN GIÁO đang tấp nập người ra vào để hoàn tất Hịch CHÁNH ĐẠO cho các buổi tế tự cuối tuần thì quân thám báo của CHÂN LÝ THÁI BÌNH mang tin quan trọng về. Tại Đền Thờ ĐỒNG TÂM ở cách Doanh TUẪN GIÁO không xa, phe LỘ DUNG vừa cho phổ biến Hịch TRUYỀN TIN của Ông ta. Trong đó có thông tư mới nhất của Tể Tướng XÚ UẾ VÂN. Toán quân thám báo của nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH khi nhận được thông tư quan trọng kể trên đã tức tối rời Đền Thờ ĐỒNG TÂM phi ngựa như bay về Doanh TUẪN GIÁO.

Họ trao tờ hịch chưa ráo mực cho Giáo Học THIỀN TRANG đang ngồi trước cửa gian đại sảnh. Lúc bấy giờ ngoài GIÁO HỌC THIỀN TRANG còn sự hiện diện của Kha Trưởng TƯ MÃ Ý, Kha Phó TRANG THẾ NGỌC, BẠCH THỦ THIỀN SƯ NGŨ CỐT, Trại chủ PHÙNG TẤT THẠNH và một số bô lão đang ngồi đàm đạo trong phòng ăn của Doanh TUẪN GIÁO. Những nghĩa quân của CHÂN LÝ THÁI BÌNH vừa sắp xếp Hịch CHÁNH ĐẠO, vừa cười đùa vui vẻ trong gian đại sảnh, không hay biết tin tức quan trọng vừa được thông báo cho những người có trách nhiệm. Giáo Học THIỀN TRANG cho người cấp báo ngay cho BẠC TRANG Hán Tử và hội ý khẩn cấp với những người đang hiện diện. Một người trong nhóm đọc to thông tư của Tể Tướng XÚ UẾ VÂN cho tất cả cùng nghe. Nội dung thông tư như sau: “Nhận thấy có tình trạng căng thẳng tại các buổi tế tự và việc thâu góp Thuế Đền Thờ gặp nhiều trở ngại, Triều đình ra lệnh khẩn cấp cắt cử 23 người để lo việc thâu thuế. Nhóm người này được các quan HOÀI QUỐC đề cử và được dân chúng kính mến. Họ được chia thành từng nhóm nhỏ để lo thâu thuế tại các Đền Thờ như sau: Đền thờ SANH GIANG ở Trấn MIÊU PHÁ THẠCH do một toán 5 người. Đền Thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH ở ÁNH DƯƠNG có 3 người. Đền Thờ SANH LƯU XINH ở CẨM BÁO CÓ 5 người và Đền Thờ NHẤT THỂ TAM VỊ tại BẮC HỒ SINH do một toán 10 người chịu trách nhiệm. Trong số 23 người vừa kể, nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH ghi nhận chỉ có 3 người thường được nhắc đến tên tuổi, số còn lại hoàn toàn xa lạ.

Cuộc họp trở nên sôi động. Tất cả mọi người đều tức giận vì nhận thấy Triều đình đã không tỏ lộ một thiện chí hoà giải nào trong khi Sứ giả NGUYÊN ĐỨC THIỆP đang có mặt tại HỒ SINH. Trong lúc BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH âm thầm cố gắng bình thường hoá mọi sinh hoạt để chuẩn bị cho cuộc thương nghị thì Triều đình và LỘ DUNG đã cố tình tạo nên một chuỗi những khiêu khích như: Yêu cầu Quan Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP đình hoãn ngày cầu bình an cho người HOÀI QUỐC tại Doanh TUẪN GIÁO, thành lập HOÀI QUỐC NHÂN DÂN THIÊN GIÁO HỘI và cuối cùng là cắt cử người đi thâu Thuế Đền Thờ. Tất cả mọi người trong cuộc họp có cùng một nhận định là nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH phải áp dụng biện pháp mạnh để ngăn chận việc thâu thuế do những người lạ mặt vừa được đề cử. Việc này sẽ xác nhận vai trò đại diện hợp pháp của BANG HÀNH SỰ đã có từ lâu và chặn đứng những hành động có tính cách “vết dầu loang” của phe LỘ DUNG đang dần dần tìm cách nắm quyền kiểm soát. Sau khi mọi người đều đồng ý, Kha Trưởng TƯ MÃ Ý thông báo cho BẠC TRANG về quyết định của cuộc họp trong lúc những người còn lại cho tổ chức những toán nghĩa quân để ứng phó với tình thế mới. Ngoài việc ngăn chận người của phe LỘ DUNG đi thâu thuế, nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH còn phải đối phó với một vấn đề khác: đó là nguồn tin HOÀI QUỐC NHÂN DÂN THIÊN GIÁO HỘI cũng sẽ cho phổ biến một tờ hịch do họ chủ trương cũng vào chiều hôm ấy.

Chỉ trong khoảnh khắc, hàng trăm nghĩa quân CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã tề tựu đông đủ tại sân tiền đường. Đoàn người ngựa hàng ngũ chỉnh tề, chăm chú lắng nghe tin tức mới nhất trong ngày và nhận công tác cũng như tiêu lệnh trước khi lên đường. BẠCH THỦ THIỀN SƯ oai vệ trên lưng chiến mã, cắt cử người lo canh gác Doanh Phủ và kiểm điểm đội ngũ lần chót. Gió chiều lồng lộng thổi tung mái tóc bạc phơ của người kiếm khách cao niên của Doanh TUẪN GIÁO. Sau gần ba tháng biến động, BẠCH THỦ THIỀN SƯ vẫn không có vẻ gì mệt mỏi. Trái lại gương mặt xạm đen của Ông vẫn còn hằn lên những nét kiêu hùng của tuổi thanh niên ngang dọc. Bất thình lình gương mặt của Ông đanh lại, vẻ tức giận lộ rõ qua đôi mắt sáng quắc. Một tay rút soạt thanh kiếm “Chân Lý Thái Bình” đang đeo ở vai, tay kia Ông tung tờ thông tư của Tể Tướng XÚ UẾ VÂN lên trời. Mọi người dõi mắt nhìn tờ hịch vút lên cao hơn 20 trượng rồi bị gió cuốn thổi đi xa. Như ánh chớp, BẠCH THỦ THIỀN SƯ tung mình vào khoảng không, lao vút theo tờ giấy, lưỡi kiếm trên tay Ông lấp loáng toả hào quang. Tiếng rít của thanh kiếm có cung bậc cao như tiếng sáo. Trong chớp mắt, tiếng rít của thanh kiếm ngưng bặt, kiếm quang vụt tắt và thanh kiếm đã nằm gọn trong tay BẠCH THỦ THIỀN SƯ đã ngồi chễm chệ trên lưng ngựa từ lúc nào. Tờ hịch bị cắt vụn thành ngàn mảnh nhỏ bay lả tả xuống đất. Mọi người đều ồ lên kinh hãi, mồm há hốc, mắt mở to ngạc nhiên về kiếm pháp thượng thừa của vị Thiền sư đầu bạc. Ông trỏ kiếm về hướng Đông Bắc hét một tiếng thật to chát chúa như pháo lệnh “Lên đường! ” Con chiến mã giật bắn người, cất cao hai vó, miệng hí vang, rồi phóng như bay ra cổng. Đoàn người ngựa của nhóm nghĩa quân cũng tung bụi mù bén gót hướng về Đền Thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH ở Trấn ÁNH DƯƠNG trong lúc nắng chiều bắt đầu thoi thóp.

4.7 HOÀI QUỐC NHÂN DÂN THIÊN GIÁO HỘI VÀ HỊCH TIN HÃO

Sau khi được cấp báo từ Doanh TUẪN GIÁO, BẠC TRANG Hán tử liên lạc cấp tốc với Quan Chưởng Môn NGUYỄN ĐỨC THIỆP để thông báo biến chuyển quan trọng vừa xảy ra và yêu cầu Ông nên đến Đền Thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH để quan sát tình hình. Vị sứ giả vội vả thắng yên cương cùng với người hướng đạo phi ngựa về hướng Đền Thờ để điều tra hư thực. Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP vừa đến cổng Đền Thờ liền đứng lẫn vào đám đông ở cuối Đền Thờ để dễ bề quan sát.

Bấy giờ nhóm nghĩa quân của CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã rải đều khắp, ngồi lẫn lộn trong dân chúng và đứng trấn giữ dọc hai lối đi bên hông của Đền Thờ. Đứng cạnh các giỏ thâu thuế là những đại hạn lực lưỡng, mặt hầm hầm sát khí, sẵn sàng ứng phó với mọi bất trắc. Trong phòng xiêm y, Hảo hán HỒ QUANG NGUYỆT hết lời can ngăn Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN không nên đọc thông tư của Tể Tướng XÚ UẾ VÂN vì Ông lo sợ có một cuộc xung đột sẽ xảy ra. Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN đi đi lại lại, vò đầu bức tóc, miệng không ngừng than thở về tư thế “cỡi lưng cọp” lúc bấy giờ. Cuối cùng Ông cũng đành bước ra phòng xiêm y, tiến lên Chánh Điện và bắt đầu tuyên đọc thông tư. Có vài tiếng xì xào ở cuối Đền Thờ. Đa số người HOÀI QUỐC lắc đầu chán nản về lệnh quái ác của Triều đình. Tuy nhiên mọi sự vẫn diễn tiến êm thắm và mọi người nôn nao chờ đợi giờ thâu thuế để rõ hư thực. Khi Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN vừa chấm dứt lời nguyện của nhân dân, tất cả mọi người đều quay xuống, mắt dán chặt vào những người đang cầm giỏ tiến lên. Đến lúc bóng dáng quen thuộc của BẠCH THỦ THIỀN SƯ xuất hiện giữa vùng ánh sáng ở giữa Đền Thờ, mọi người mới thở phào nhẹ nhỏm như vừa trút xong một gánh nặng. Thế là kế hoạch của Phe LỘ DUNG tại thí điểm thứ nhất bị thất bại.

Vừa dứt buổi tế, Bang Chủ của Tráng Niên Bang là NGƯƠN TRẤN CƯƠNG lao vội ra bên ngoài cổng Đền Thờ để chỉ huy nhóm nghĩa quân đang phân phát Hịch CHÁNH ĐẠO. Dân chúng bắt đầu kéo nhau ra về. Trong bóng tối nhá nhem, NGƯƠN TRẤN CƯƠNG phát hiện có nhiều bóng dáng lạ mặt cũng đưa những mảnh giấy cho dân chúng. Biết Phe LỘ DUNG bắt đầu phát động chiến dịch rải Hịch, Ông vội phi thân đến gần một tên thủ hạ của LỘ DUNG và bắt đầu chất vấn. Một số người dân kéo đến bao chung quanh. Ánh trăng sáng soi rõ khuôn mặt dáo dác, xám xịt của tên thủ hạ của LỘ DUNG. Một khuôn mặt hoàn toàn xa lạ, chưa bao giờ lai vãng đến Doanh TUẪN GIÁO. Khi bị tra hỏi, hắn ấp úng hồi lâu về lai lịch của chính hắn cũng như xuất xứ của tờ Hịch. NGƯƠN TRẤN CƯƠNG liếc nhanh hai chữ đại tự bằng mực tàu trên tờ Hịch: “TIN HÃO” A! LỘ DUNG và thủ hạ dám phổ biến tin tức thất thiệt đến người HOÀI QUỐC. NGƯƠN TRẤN CƯƠNG có bao nhiêu máu nóng dồn hết lên mặt, sắc diện đỏ gay như mặt trời đúng ngọ, dồn hết sức bình sanh trong thuật “SÁT NHĨ TRUYỀN THANH” hét lớn: “Ai ra lệnh cho ngươi gieo rắc mầm độc nầy trong dân chúng? Khai ra mau!” Tên thủ hạ lại ấp úng, lí nhí viện dẫn lý do này, lý do nọ. NGƯƠN TRẤN CƯƠNG không nhịn được nữa, ghé sát mồm vào tai đối thủ thì thầm to nhỏ. Lập tức, sắc mặt của tên thủ hạ biến đổi từ xám xịt ra đỏ, từ đỏ sang chàm, từ chàm sang tím rồi trắng bệch. Hai chân hắn run lẩy bẩy. Chồng hịch đang cầm trên tay rơi lả tả xuống đất. Bất ngờ hắn khuỵu xuống, mồm lắp bắp những gì không rõ. Đồng bọn hoảng sợ vội lao tới, xốc nách kẻ xấu số, lôi xềch xệch ra ngoài.

Tục truyền rằng những người có mặt tại cổng Đền Thờ hôm ấy lấy làm kinh hãi về đấu pháp dị thường của NGƯƠN TRẤN CƯƠNG. Họ không biết Ông thì thầm những gì mà đối thủ khiếp sợ ngất xỉu như thế. Có người bạo phổi đến gần xin Ông cho biết đã nói những gì với tên phát hịch đi làm ăn không coi ngày giờ. NGƯƠN TRẤN CƯƠNG chỉ mỉm cười trả lời: “Không! Tại hạ có nói gì đâu, lúc tức giận chỉ hát vài câu cho hắn nghe chơi vậy mà!” Điều này ai cũng cho là lạ. Chỉ có vài câu hát mà tên kia hồn phi phách tán, ngã đánh huỵch như thế. Thật vô lý. Mãi về sau mới có người cho biết: NGƯƠN TRẤN CƯƠNG là một người ghét âm nhạc, không bao giờ hát hỏng. Chỉ những lúc buồn miệng, Ông thật tình có nghêu ngao một vài câu mà Ông đã lượm lặt đâu đó. Những câu đó trích trong phần mở đầu của bài “HỒN TỬ SĨ”.

4.8 CƯỜNG BẠO VÀ PHẢN ỨNG CỦA NHÂN DÂN

Tảng sáng ngày 10 tháng 12 năm Bính Dần 1986, các nhóm nghĩa quân của CHÂN LÝ THÁI BÌNH từ khắp nơi đã tề tựu đông đủ tại sân Đền Thờ SANH LƯU XINH ở Trấn địa đầu CẨM BÁO. Biết chắc chắn Triều Đình và phe LỘ DUNG sau khi thất bại đêm trước tại ÁNH DƯƠNG sẽ tung quân tái phản công tại CẨM BÁO nên CHÂN LÝ THÁI BÌNH dồn hết lực lượng lên ải địa đầu. Có một bất ngờ xảy đến vào buổi sáng hôm ấy là đích thân Quan Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP đứng làm chủ sự cuộc tế tự cùng với Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN. Không khí trong Hội đường, nơi làm chỗ tế tự, trở nên căng thẳng vì quân của hai bên ở vào thế cài răng lược. Khi bài ca Nhập tế vừa chấm dứt, Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN lại bắt đầu đọc thông tư của Triều đình mặc dầu trước đó những người trong BANG HÀNH SỰ hết lòng can ngăn. Và việc phải đến đã đến. Dân chúng bắt đầu la ó phản đối, trước còn ít, sau lan dần ồn ào như một phiên chợ. Một vài ngưòi dân cảm thấy không còn sự trang nghiêm nữa nên bỏ ra ngoài. Phe LỘ DUNG cũng bắt đầu dùng khẩu chưởng phóng vào CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Kha Trưởng TƯ MÃ Ý và BẠCH THỦ THIỀN SƯ yêu cầu Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN bắt đầu cuộc tế trong khi phe LỘ DUNG thôi thúc Ông đọc hết tờ lệnh của Tể Tướng XÚ UẾ VẤN. Nghĩa quân của CHÂN LÝ THÁI BÌNH cho một vài người lên phía trên, vạch trần âm mưu chia rẽ người HOÀI QUỐC của Triều đình THẠCH ĐỖ MA. Họ cho rằng việc cắt cử người không được nhân dân biết danh tánh chỉ gây nên sự loạn lạc phân hoá giữa người HOÀI QUỐC mà thôi, và lúc ấy Triều đình sẽ rửa tay vô can. Tiếng ồn ào la lối trong Hội đường khiến đám Cảnh bị lục đục từ ngoài sân kéo vào. Cuối cùng, mặc cho sự chống đối, Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN cũng hoàn tất nhiệm vụ Triều đình giao phó với kết quả là không ai có thể nghe được danh tánh của những người vừa được đề cử. Quan Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP bình tĩnh đứng yên lặng tại Bàn Tế Tự. Ông không hề nói một tiếng trong suốt lúc xáo trộn. Tuy nhiên đầu óc của Ông đã làm việc dữ dội, ghi nhận toàn bộ hình ảnh của cuộc Tế có một không hai. Đến giờ thâu thuế cũng chỉ thấy BẠCH THỦ THIỀN SƯ và TƯ MÃ Ý làm phận sự vì những người của LỘ DUNG đã thấy rõ lực lượng của CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Thế là Tể Tướng XÚ UẾ VẤN lại thất bại một lần nữa trong kế hoạch thất nhân tâm này.

Gần tàn buổi Tế Tự, mọi người đều cảm thấy thoải mái vì những rắc rối lúc đầu đã qua đi êm thắm. Tuy nhiên, người HOÀI QUỐC cảm thấy thêm một lần chua xót cho thân phận kẻ lưu đày. Số là khi Kha Trưởng TƯ MÃ Ý hộ tống Quan Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP vào phòng xiêm y thì bất thình lình Quan Thất Phẩm ngưòi bản xứ tên là BỒ XỊCH xuất hiện ở cửa hông của Đền Thờ. BỒ XỊCH là Tổng Trấn của CẨM BÁO, một võ quan trung thành của Triều đình THẠCH ĐỖ MA, dáng dấp cao lớn, tuổi đã cao nhưng tác phong vẫn còn mang tính cách võ biền của một người chỉ thích dùng vũ lực. Tất cả lệnh lạc từ Triều đình ban xuống đều được Ông thi hành một cách tích cực không cần suy xét. Ông tỉ mỉ thi hành các lệnh ấy không sai một dấu chấm, dấu phẩy. Trong những tuần lễ trước, Tổng Trấn BỒ XỊCH đã huy động lực lượng CẢNH BỊ của Vương Quốc THẾ TRẦN đến Đền Thờ SANH LƯU XINH để canh chừng những người thuộc phe CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Trong một vài lần nói chuyện với những người chống đối, Ông đã không ngần ngại bảo những người HOÀI QUỐC: “Nếu muốn bảo tồn văn hoá và tập tục thì các ngươi hãy về HOÀI QUỐC mà làm điều đó.” Dầu vậy, người HOÀI QUỐC vẫn tôn trọng Ông là một võ quan THIÊN GIÁO và cho rằng Ông chỉ tuyên bố như thế vì quá trung thành với Triều đình. Sáng hôm ấy, bọn thủ hạ của LỘ DUNG thấy kế hoạch thâu thuế bị thất bại liền chạy vào thậm thọt với Tổng Trấn BỒ XỊCH. Để lập công với Triều đình, Ông liền thông báo cho những tên CẢNH BỊ chuẩn bị sẵn sàng và đích thân Ông tiến đến cửa hông của Đền Thờ.

TƯ MÃ Ý thấy Tổng Trấn BỒ XỊCH ngoắc tay với mình ra ngoài thì nhanh nhẹn bước ra vì tưởng vị võ quan cần thông báo việc gì. Trong lúc TƯ MÃ Ý không phòng bị, bất thình lình Tổng Trấn BỒ XỊCH giở ngay thủ pháp “ẨU QUYỀN”, bàn tay thủ pháp xoè ra, năm ngón khoằm lại như móng vuốt của ác điểu, dùng hết sức chộp ngay cánh tay phải của vị Kha Trưởng. TƯ MÃ Ý hồn phi phách tán tưởng mình đang sống trong một khu rừng già không có luật lệ. Ông vội vàng vận nội lực phong toả các huyệt đạo như thường lệ, miệng thổi một luồng chân khí cực mạnh theo phép “Phản Kháng Phong”, cho rằng việc nắm giữ tay chân Ông là điều vô lý. Tổng Trấn BỒ XỊCH lập tức né sang một bên tránh luồng chân khí, tay vẫn bấu chặt TƯ MÃ Ý, miệng tung ra “CÀN NGÔN NGỮ” là Triều đình đã cử người khác thay thế BANG HÀNH SỰ. BỒ XỊCH thấy TƯ MÃ Ý nhỏ người, chỉ đứng thấp tới vai của Ông, liền chuyển bộ sang thế ‘Miêu Vờn Thử”, lôi TƯ MÃ Ý như mèo tha chuột, đồng thời Ông khoác tay ra hiệu cho tên CẢNH BỊ đang đứng gần đó. TƯ MÃ Ý dùng hết sức bình sinh tập trung tất cả nội lực dồn vào hai chân trong đấu pháp thượng đẳng “Hòn Vọng Phu” biến thân thể của Ông nặng như khối đá ngàn cân. Thế nội công này TƯ MÃ Ý đã luyện tập hơn 40 năm ròng rã vì luôn bị những cường lực đe doạ tại quê nhà. Tổng Trấn BỒ XỊCH thở hổn hển, không ngờ đối thủ nhỏ con mà nội lực thâm hậu như thế. Ông kinh hoàng vội lẩm nhẩm câu kinh xin ơn trợ lực rồi ra sức kéo “tảng đá” người trước mặt. Bấy giờ, dân HOÀI QUỐC từ trong Đền Thờ túa ra như ong vỡ tổ. Họ thấy cảnh bắt người trái phép của viên Tổng Trấn võ biền liền xông đến tiếp tay với TƯ MÃ Ý. Tất cả mọi ngưòi đều chuyển chân khí vào vai, vào tay, vào hông, vào bất cứ nơi nào trên người của TƯ MÃ Ý và bắt đầu kéo Ông ra khỏi sức kềm toả của BỒ XỊCH. BỒ XỊCH cố gắng kéo thêm một lúc nữa, mồ hôi trán bắt đầu nhỏ giọt, hơi thở nặng nề, mồm lắp bắp không ra tiếng. Ông nhớ lại bài học chiến thuật đầu tiên trong cuốn binh pháp của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA là câu châm ngôn “Mãnh hỗ nan địch quần hồ”. Đồng thời Ông cũng nghĩ ngay đến chiến thuật của vị vua đương thời đã chạy vút như gió trong Lễ Trao Gươm cho LỘ DUNG vì sợ đám đông trong cơn giận dữ. Sáng sớm hôm ấy, trước khi ra khỏi thư phòng, Ông có liếc nhìn tờ lịch treo trên tường, thấy có ghi không nên hội họp hay đến gần chỗ đông người. Ông đành buông TƯ MÃ Ý ra. Thế là vị Kha Trưởng phóng vội vào bên trong cấp báo ngay cho Quan Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP. Vị sứ giả của Quan Khâm Sai PHỤNG LỄ NGHI cảm thấy có điều không ổn liền rảo bước sang dinh Tổng Trấn . . .

4.9 LÀM CHỦ TÌNH HÌNH

Vào cuối giờ Ngọ ngày 22 tháng 10 năm Bính Dần 1986, trong lúc nhân dân ở Doanh TUẪN GIÁO đang chuẩn bị thiết lập Lễ Đài cho cuộc rước kiệu NỮ VƯƠNG vào buổi chiều hôm ấy thì quân thám báo lại cho biết thủ hạ của LỘ DUNG sẽ dốc toàn lực để thực hiện kế hoạch thâu thuế tại Đền Thờ NHẤT THỂ TAM VỊ. Lập tức các nhóm nghĩa quân CHÂN LÝ THÁI BÌNH lại nai nịt gọn gàng để lên đường thi hành nhiệm vụ. Dưới ánh nắng gay gắt lạ thường của một buổi trưa mùa thu, đoàn chiến mã ào ạt cuốn thốc bụi mù. Vừa bước vào Đền Thờ, họ bắt gặp thủ hạ của LỘ DUNG đã ngồi chễm chệ tại dãy ghế giữa. Tất cả đều áo quần chỉnh tề, chuẩn bị thi hành lệnh của Triều đình. BANG HÀNH SỰ họp khẩn với nghĩa quân CHÂN LÝ THÁI BÌNH để phân chia công tác và canh phòng cẩn mật các giỏ thâu thuế như thường lệ. Họ biết rằng đây là buổi tế tự cuối cùng của tuần lễ nên phe LỘ DUNG sẽ tìm đủ mọi cách để thực hiện cho bằng được thông tư của XÚ UẾ VẤN. Vả lại Triều đình nhận thấy tầm mức quan trọng của Đền Thờ NHẤT THỂ TAM VỊ nên đã cử một nhóm gồm 10 người để dễ dàng đối phó với CHÂN LÝ THÁI BÌNH.

Sau khi hảo hán HỒ QUANG NGUYỆT lên đọc thông tư của BANG HÀNH SỰ kêu gọi nhân dân ngưng đóng thuế như thường lệ, giờ tế tự bắt đầu. Bọn thủ hạ của LỘ DUNG nghểnh cổ lên cố gắng nghe xem Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ có đọc thông tư của Tể Tướng XÚ UẾ VÂN hay không nhưng chúng lấy làm thất vọng vì vị Phó Tổng Trấn đã rút kinh nghiệm từ hai buổi tế tự hôm trước và buổi sáng cùng ngày nên đã để dành thông tư ấy vào lúc cuối. Thế là BANG HÀNH SỰ vẫn tiếp tục công việc thường lệ. Đến cuối giờ Tế, Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ trịnh trọng tuyên đọc lệnh của Triều đình cắt cử những người của phe LỘ DUNG vào công việc lấy thuế. Hảo hán HỒ QUANG NGUYỆT không chút chậm trễ, lao nhanh lên bục cao bên phải Chánh Điện, dùng hệ thống phóng thanh phủ nhận tư cách đại diện của những người vừa được cắt cử. Tiếng vỗ tay ủng hộ HỒ QUANG NGUYỆT vang dội cả Đền Thờ như một sự khẳng định dứt khoát của người HOÀI QUỐC đối với âm mưu thâm độc của Triều đình.

Tục truyền rằng vào buổi tối hôm đó, tại trang trại của một tên thủ hạ LỘ DUNG, THAM MƯU BỘ của Ông ngồi rầu rĩ, bất động như những tượng đá. Dưới ngọn đèn dầu leo lét, Lão Pháp Sư đang cố gắng gọi hồn cho tên thủ hạ phát hịch TIN HÃO đã mất vía từ đêm hôm trước. Những tên còn lại chán nản bơ phờ vì vừa bị Tể Tướng XÚ UẾ VÂN quở trách vì đã không hoàn thành nhiệm vụ đã được giao phó. Trên chiếc bàn to ở giữa nhà là một chồng TIN HÃO chất cao như núi vì không có cơ hội phổ biến. Lão Pháp Sư loay hoay một hồi lâu bổng thấy tên thủ hạ của LỘ DUNG mấp máy đôi môi. KHUYỂN NGÔN ĐẦU ĐÀ liền kề sát tai vào mồm của tên thủ hạ để nghe hắn muốn nói gì. Hơi thở ngắt quãng, hắn chỉ thều thào được vài tiếng “CHÂN . . . LÝ . . . THÁI . . . BÌNH . . . Không! Chết mất . . .”, đoạn tiếp tục mê man. Lão Pháp Sư lắc đầu thở dài. Lão chìa tay xin tiền công đã gọi hồn cho tên nọ. KHUYỂN NGÔN ĐẦU ĐÀ soát lại túi vải đựng tiền giắt ở thắt lưng nhưng không còn một hào vì tiền đã dốc sạch để ấn loát đống hịch đang nằm trên bàn. Hắn thở dài chán nản, khất với Lão Pháp Sư: “Hôm nay tiểu gia vừa cháy túi. Ngày mai khi lão trở lại, tiểu gia đem cân ký đống hịch vô dụng kia sẽ có tiền cho Lão”. Có tiếng nói mệt mỏi như người thiếu ngủ: “Cân ký ở đâu bây giờ. Hồi chiều tiểu đệ đi dọ khắp cả HỒ SINH mà không nơi nào chịu cân. Họ nói bài vở kém như thế chỉ nên đưa vào chợ để gói cá cho được việc.”


--------------------
mm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
mviet
post Dec 20 2010, 01:14 PM
Post #5


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,769
Joined: 9-September 10
Member No.: 15,235
Country








Thời Kỳ Vong Quốc - Chương 5

CHƯƠNG V
NỒI DA XÁO THỊT


5.1 KẾ HOẠCH THÂM ĐỘC


Trong buổi Tiểu DIÊN HỒNG HỘI tối ngày 17 tháng 10 năm Bính Dần 1986, không khí nặng nề ngột ngạt tràn ngập Doanh Tuẫn Giáo. Tình hình cho thấy có những chuyển biến quan trọng sắp sửa xảy ra cho người HOÀI QUỐC. Thứ nhất đường dây liên lạc giữa Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP, vị sứ giả, và BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã hoàn toàn bị gián đoạn. Thứ hai, quân thám báo của CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã báo tin cho biết thủ hạ của LỘ DUNG sẽ tung hết lực lượng nắm quyền kiểm soát tại các Đền Thờ vào cuối tuần. Nam phụ lão ấy có mặt trong sảnh đường tối hôm ấy đã mường tượng đến hình ảnh kinh hoàng trong lịch sử đau thương của họ.

Đó là cảnh huynh đệ tương tàn. Họ cho rằng có thể Triều Đình THẠCH ĐỖ MA nhận thấy những bất lợi trong giải pháp do sứ giả NGUYÊN ĐỨC THIỆP đệ nạp nên đã cho áp dụng kế hoãn binh cố hữu, đồng thời cho thực hiện kế hoạch thâm độc là mượn tay thủ hạ của LỘ DUNG để gây rối khắp nơi. Nếu kế hoạch diễn tiến đúng như dự liệu, công luận của HỒ SINH sẽ nhìn cuộc biến loạn như một xung đột nội bộ và lúc ấy Triều đình trở nên vô can.

Mặc dầu BANG HÀNH SỰ đã gởi sớ phản đối lên Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và quan Khâm Sai PHỤNG LỄ NGHI vào tuần trước, Triều đình không hề phúc đáp và lên tiếng về lời cáo buộc này. Đến ngày 17 tháng 10, tin tức quân thám báo mang về đã cho thấy điều lo lắng của người HOÀI QUỐC có phần đúng như những gì đã dự đoán. Lập tức những người có trách nhiệm của BANG HÀNH SỰ và BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ THÁI BÌNH tập họp dân chúng để tìm biện pháp né tránh cạm bẫy do Triều đình giương ra. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, nhân dân Doanh TUẪN GIÁO quyết định sẽ áp dụng biện pháp ôn hoà, tránh né mọi sự khiêu khích của phe LỘ DUNG để tránh cảnh nồi da xáo thịt giữa những người đồng chủng.

5.2 VÕ QUAN TRONG THỜI LOẠN

Ngày 18 tháng 10 năm Bính Dần 1986, để chuẩn bị cho buổi Tế tự buổi chiều tại Đền thờ SANH GIANG ở Trấn MIÊU PHÁ THẠCH, Kha Trưởng HOÀNG NGỌC CHƯƠNG đã yêu cầu Doanh TUẪN GIÁO cho tăng cường một số nghĩa quân đề phòng cuộc gây hấn. Lý do đưa đến sự yêu cầu này vì cách đó hai tuần, bọn thủ hạ của LỘ DUNG đã cho thấy những hành động nằm trong chiến dịch giành dân lấn đất. Do đó nghĩa quân của CHÂN LÝ THÁI BÌNH được chia ra làm hai đạo, một đạo do HOẢ TÂM ĐẠI HIÊP TRƯƠNG VŨ HUỲNH thống lĩnh, tiến về Đền thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH ở ÁNH DƯƠNG; đạo còn lại do HỒNG MÃO TIẾN chỉ huy, trực chỉ Đền thờ SANH GIANG tại MIÊU PHÁ THẠCH.

HỒNG MÃO TIẾN đưa quân về Đền thờ SANH GIANG từ lúc sớm và nhận thấy tình hình rất lạ thường : không một bóng dáng thủ hạ Lộ Dung lai vãng. Điều này đã làm cho nhóm nghĩa quân Chân Lý Thái Bình thắc mắc và lo ngại rất nhiều cho đạo quân đang bảo vệ Đền thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH. Trước giờ tế tự, Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN thông báo cho dân chúng biết Ông sẽ nhờ hai chú tiểu đồng đang hầu tế đứng ra lo việc thâu thuế để tránh tình trạng hỗn loạn như tuần trước. Tuy nhiên, đến giờ thâu thuế, không hiểu vì lý do gì mà chú tiểu đồng vẫn không dám thi hành lệnh của CHÁNH NGUYÊN. Thế là vị Phó Tổng Trấn HOÀI QUỐC xách giỏ đi khắp Đền thờ để nhận những quan tiền của dân chúng. Chính buổi thâu thuế hôm ấy Phó Tổng Trấn CHÁNH NGUYÊN đã chính mắt nhìn thấy thái độ tẩy chay của nhân dân HOÀI QUỐC đối với chính sách cai trị của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và LỘ DUNG. Ông đã cảm thấy ngượng ngùng khi đi qua nhiều dãy ghế mà không thấy những đồng tiền ủng hộ ném vào giỏ. Nhìn vị Phó Tổng Trấn trong phẩm phục tế tự, tay xách giỏ đi dọc các hàng ghế để thi hành công việc đáng lý không phải của Ông, người HOÀI QUỐC lắc đầu chán nản, chạnh lòng thương xót vị võ quan của Triều đình. Họ chán nản vì chính sách cai trị quái ác có một không hai của Triều đình THẠCH ĐỔ MA, cố tình tạo ra những khó khăn cho các võ quan thuộc quyền, đồng thời cảm thấy chua xót cho những người lãnh đạo đã vì Đức Vâng Phục gượng ép mà thi hành những điều kỳ dị trước mắt dân chúng.

5.3 BÁM CHÂN QUYỀN LỰC

Đúng như dự án của CHÂN LÝ THÁI BÌNH, Đền thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH ngày 18 tháng 10 năm Bính Dần 1986 đã chứng kiến những vết chân lạc bước của một số người HOÀI QUỐC. Họ đã nhắm mắt tuân hành chỉ thị của những tên cầm đầu phe LỘ DUNG để thực hiện kế hoạch cướp quyền. Phe LỘ DUNG tập trung tất cả lực lượng, chuyển quân đến Đền thờ từ lúc sớm. Họ chiếm cứ những dãy ghế gần sát Chánh Điện đề phòng những người trong BANG HÀNH SỰ sử dụng hệ thống phóng thanh. Một vài phụ nữ mang cả đoản côn bằng gỗ giấu trong những giỏ xách. Họ tìm cách ngồi tập trung thành từng nhóm đông để dễ bề hành động. Không khí trở nên căng thẳng. Ở cuối Đền thờ quân của hai bên đứng xen kẻ trong thế cài răng lược. Lúc bấy giờ vị Tổng Trấn người bản xứ được báo cáo tình hình cực kỳ khẩn trương đã tức tốc can thiệp ngay từ đầu giờ tế. Sau khi nhắc đến sự đau khổ của người HOÀI QUỐC trong kiếp lưu đày, Ông khuyên nhủ mọi người nên dẹp bỏ mọi hận thù, chuyên tâm cầu nguyện phụng thờ Thượng Đế. Những lời lẽ êm ấm thống thiết của Ông khác hẳn thái độ hống hách hỗn xược của Tổng Trấn BỒ XỊCH của CẨM BÁO cuối tuần trước. Sau đó Ông đề nghị một phương thức thâu thuế khả dĩ mang lại trật tự trong Đền thờ: những giỏ thuế sẽ được đặt gần Chánh Điện để những ai muốn đóng góp tiến lên và bỏ vào.

Lúc bấy giờ Kha Phó TRANG THẾ NGỌC định lên bục phóng thanh để chuyển dịch những lời nói của vị Tổng Trấn bản xứ cho người HOÀI QUỐC thì một bóng đen theo sát Ông không rời một bước. TRANG THẾ NGỌC quay lại và nhận ra đó là TÀ ĐỨC NGUYÊN, một thủ hạ đắc lực của LỘ DUNG trước kia đã từng giữ chức vụ Kha Trưởng của Doanh TUẪN GIÁO. Tên này vì bất mãn với một số người trong BANG HÀNH SỰ nên đã cam tâm quy thuận LỘ DUNG để làm tay sai nhận lệnh sai khiến của KHUYỂN NGÔN ĐẦU ĐÀ và VÕ CỔN TÚ TÀI. TÀ ĐỨC NGUYÊN với số lượng máu liều gần bốn phần năm cơ thể, được LỘ DUNG phong làm “Tà Nguyên Soái”, tổng chỉ huy toàn bộ kế hoạch nổi dậy, đã nghênh ngang điều động đám thủ hạ hung bạo xông xáo tại các Đền thờ tuần lễ đó.

Bang Chủ TRÁNG NIÊN BANG là NGƯƠN TRẤN CƯƠNG thấy TÀ ĐỨC NGUYÊN bám sát TRANG THẾ NGỌC, biết có chuyện chẳng lành liền tung mình phi thân đứng sát tên thủ hạ LỘ DUNG. Để tránh tình trạng rối loạn trong Đền thờ, cả ba đưa nhau ra cửa hông trái của Đền thờ. Lúc bấy giờ, một số người thuộc cả hai phe nhận thấy có biến chuyển gay cấn, liền kéo nhau ra ngoài để hỗ trợ. Nhóm LỘ DUNG gân cổ la lối, phóng khẩu chưởng tới tấp vào những người thuộc CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Họ cho rằng TRANG THẾ NGỌC không có quyền tiến lên gần Chánh Điện vì đã bị Triều đình THẠCH ĐỖ MA cách chức. Một số khác buộc tội nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH là ly khai, phản giáo, phiến loạn vì đã chống đối, nhục mạ Hoàng Đế và vị Tổng Trấn thân yêu của họ. Để khỏi lọt vào cạm bẫy huynh đệ tương tàn do Triều đình giương ra để trốn trách nhiệm, Kha Phó TRANG THẾ NGỌC áp dụng lệnh bất bạo động của Doanh TUẪN GIÁO. Ông chìa mặt ra cho phe LỘ DUNG động thủ trước. Đấu trường cực kỳ căng thẳng. Một vài tên thủ hạ của LỘ DUNG định ra tay. Tuy nhiên, chúng kịp thời ngưng tay vì sực nhớ đến hình ảnh đám vợ con lếch thếch xếp hàng ở Sở XÃ HỘI để lãnh phụ cấp cô nhi quả phụ. Chúng đành hậm hực xuôi tay, chỉ chửi bới bâng quơ rồi giải tán. Quân CẢNH BỊ thuộc Vương Quốc THẾ TRẦN cũng được Triều đình THẠCH ĐỖ MA điều động đến để giữ trật tự, đứng chật cả những con lộ dẫn vào Đền thờ. Buổi tế tự chấm dứt trong không khí ngột ngạt khác thường. Những người lo lắng cho đại cuộc đã nhận thấy kế hoạch phân hoá người HOÀI QUỐC của Triều đình đang thành tựu.

Tục truyền rằng đêm hôm ấy trong vườn Thượng Uyển của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA có một trò giải trí mới. Dưới ánh sáng rực rỡ của hàng trăm ngọn đèn lồng treo khắp vườn, Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và Tể Tướng XÚ UẾ VÂN ngồi chễm chệ trên hai chiếc ghế bọc nhung đỏ, say sưa theo dõi hình ảnh sống động trước mắt. Tổng Trấn LỘ DUNG đứng hầu bên cạnh, thỉnh thoảng lại nâng ly nước lên mời mọc vị Hoàng Đế. Ánh sáng soi rõ một khoảng vườn rộng hai sãi tay được quây tròn chung quanh bằng một tấm phên bằng tre. Bên trong có hai chú gà chọi đang ghìm thế. Một con có sắc lông màu đen, thân hình nhỏ thó nhưng bộ vó thật hung tợn. Con kia dáng dấp oai vệ, cao lớn, bộ lông vàng mướt óng ánh như phẩm phục của một võ tướng. Chú gà nhỏ đứng chỉ tới ức của đối thủ nhưng lúc nào cũng hung hăng tìm thế tấn công. Trái lại, con gà lớn điềm tĩnh, tránh né nhanh nhẹn, thỉnh thoảng giáng cho đối thủ những đòn chí tử . Sau một hồi giao tranh, chú gà vàng hình như chỉ tìm cách tránh né mà không cố tâm diệt địch thủ.

Mọi người có mặt đều ngạc nhiên về thái độ kỳ lạ của con gà lớn. Với bộ vó như thế, chỉ cần một chút cố gắng, chú gà lớn có thể hạ độc thủ dễ dàng. Thế mà tại sao nó vẫn cố né tránh. Bổng chốc con gà lớn đứng khựng lại, nhìn chòng chọc về hướng những người đang xem đấu.. Nó gáy một tiếng thật to rồi đứng yên bất động. Chú gà đen thấy cơ hội bằng vàng liền đập cánh bay cao, xoáy cựa bén, móc tới tấp vào ức của địch thủ. Con gà lớn vẫn không nhúc nhích. Máu ở cổ nó bắt đầu rỉ ra. Nhìn kỹ vào cặp mắt tinh anh của nó, người ta thấy hai giọt nước long lanh như giọt nước mắt. Sau hàng chục cú đá, cổ con gà lớn rách nát, máu chảy chan hoà ướt đẫm bộ lông vàng mượt. Nước mắt nó cũng tuôn ra dàn dụa, hoà lẫn với máu thấm xuống lòng đất lạnh và con gà gục xuống chấm dứt cuộc đấu lạ kỳ. LỘ DUNG gương mặt hớn hở, ôm lấy con gà đen vào lòng, tay vuốt ve nựng nịu. Ông cất tiếng hãnh diện: “Muôn tâu Bệ Hạ, ở HỒ SINH không có hai giống gà này. Chúng được mang từ HOÀI QUỐC cách đây 11 năm và cả hai đều chung một giống. Sang đây, con đen này được nuôi bằng thức ăn của người HỒ SINH. Con kia, cố ép cách mấy cũng không được, nó chỉ thích ăn thóc, lúa từ quê hương của hạ thần”. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA cắt ngang: “Nghe nhắc đến thức ăn, bổng ta lại thấy thèm thịt gà”. LỘ DUNG nhanh nhẩu: “Để hạ thần sai thủ hạ ra chợ mua gà về làm thịt dâng Bệ Hạ”. Nở nụ cười khó hiểu, Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA trầm giọng: “Không, ta muốn ăn thịt gà HOÀI QUỐC”. LỘ DUNG lại mau mắn “Vậy để hạ thần mang con gà vàng chết tiệt nhổ lông lập tức.” Bấy giờ Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA lộ vẻ chán nản: “Ta biết con gà vàng đó thịt rất dai, nhai chỉ mỏi miệng. Ta muốn thử con gà đen nhỏ này.” LỘ DUNG rụng rời kinh hãi. Ông cảm thấy tiếc chú gà con dễ nuôi dễ dạy mà Ông hằng yêu thích. Hôm nay, chủ của Ông đã muốn vậy thì Ông phải thi hành. Cãi lệnh Hoàng Đế chỉ thêm khổ, vì ghế Tổng Trấn tại Doanh TUẪN GIÁO vẫn còn dành cho Ông. Ông lẩm bẩm: “Chỉ tức một điều là bọn ác ôn CHÂN LÝ THÁI BÌNH luôn luôn cố thủ trong sảnh đường.”

5.4 RƠI VÀO CẠM BẪY

Sáng ngày 19 tháng 10 năm Bính Dần 1986 Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ quan sát thấy một số người lạ mặt kéo vào hội đường của Đền thờ XANH LƯU XINH ở CẨM BÁO. Những người này tụ họp thật sớm, chia nhau làm những công việc của BANG HÀNH SỰ vẫn thường làm. ĐẬU LƯ về sau mới biết là họ là những thủ hạ của LỘ DUNG, trước giờ không hề lai vãng đến Doanh TUẪN GIÁO. Họ vừa làm việc vừa mạt sát những người trong BANG HÀNH SỰ đang sửa soạn cho cuộc tế sáng hôm ấy. Sau đó, họ bắt đầu họp nhau cầu nguyện và hối thúc Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ bắt đầu cuộc tế vì sợ những người trong BANG HÀNH SỰ dùng hệ thống phóng thanh để đọc thông tư. Phó Tổng Trấn ĐẬU LƯ cố gắng giữ cuộc tế cho khỏi xáo trộn bằng cách yêu cầu hai bên giữ thái độ bình tĩnh. Ông cũng cho áp dụng phương thức thâu thuế như tại Đền thờ NỮ VƯƠNG THÁI BÌNH đêm hôm trước là giỏ thuế được để nguyên tại chỗ và những ai muốn đóng góp cứ tự nhiên tiến lên và bỏ vào đấy. Mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến gần cuối buổi tế tự thì cạm bẫy của Triều đình sập xuống.

Số là Kha Phó BẠCH THỦ THIỀN SƯ NGŨ CỐT, vào gần cuối giờ tế, tiến lên hệ thống phóng thanh để đọc lời kinh cảm tạ như thường lệ, thì phe LỘ DUNG chớp nhoáng hạ độc thủ. TÀ ĐỨC NGUYÊN thấy BẠCH THỦ THIỀN SƯ lửng thửng đi lên Chánh Điện liền ra hiệu cho những phụ nữ thuộc hạ cùng với ÁC NGƯƠN xông đến, kẻ bịt mồm, kẻ vặn tay người Kha Phó của BANG HÀNH SỰ. Thế là những người của LỘ DUNG, bất kể nam nữ, lao vào người BẠCH THỦ THIỀN SƯ và giở tất cả đòn độc. Nhớ đến lời căn dặn của BẠC TRANG Hán Tử trong buổi Tiểu DIÊN HỒNG HỘI đêm hôm trước, BẠCH THỦ THIỀN SƯ cố gắng vận nội công thượng thừa, gồng mình đứng chịu trận. Lúc bấy giờ HOÀNG NGỌC CHUƠNG phu nhân thấy cảnh trái tai gai mắt liền lên tiếng phản đối cảnh đánh đập người vô lý. Lợi dụng lúc hỗn loạn, hạ thủ của LỘ DUNG từ phía sau giáng ngay một quả đấm thôi sơn vào gáy của người phụ nữ Doanh TUẪN GIÁO. Tiếng hét, tiếng la vang dậy khắp hội đường. Cảnh hỗn loạn chưa từng thấy, người người chen lấn, ghế đổ ngổn ngang, đồ đạc văng tung toé. Người của LỘ DUNG vây chặt lấy đám đông, lợi dụng thời cơ thi nhau giở độc thủ. Một thủ hạ của LỘ DUNG khét tiếng về môn khẩu chưởng là lão bà TRANG CỐNG TẦN cũng muốn vu oan giá hoạ cho nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã chạy tội bằng một mưu mô thâm độc. Ngày còn bé, lão bà vẫn thuờng đi xem gánh hát về trình diễn trong những dịp có hội làng. Lão tương tư cô đào thương có những giọt nước mắt khiến người xem lúc nào cũng mủi lòng. Lão bà mong cho có cơ hội để diễn vai trò cô đào thương năm xưa. Hôm ấy quả là một dịp may bằng vàng, lão bà thừa lúc mọi người vô ý, véo mạnh vào đùi, vào mông của mình mấy cái thật đau, nước mắt lập tức chảy ra như suối, mồm rống lên ai oán, thảm thiết, bù lu bù loa như ngày LỘ DUNG bị đả đảo tại Đền thờ ĐỒNG TÂM. Lão bà tự nghĩ giá lúc ấy cô đào thưong thấy bà diễn xuất có lẽ cũng phải xin giải nghệ gấp. Lão bà giả bộ ngã ngữa về đàng sau, định đập đầu vào nền đá ăn vạ. Đập thử một lần hơi mạnh, lão cảm thấy đau nhói, mắt nổ đom đóm nên đành chấm dứt trò chơi dại. Lão bà đành nằm lăn lộn, rên la, mắt dáo dác xem có ai đến gần để lão có dịp tả oán. Nhưng ai cũng làm lơ khiến lão bà bẽn lẽn.

Không khí hỗn loạn kéo dài một lúc lâu thì bọn CẢNH BỊ do sự điều động của Tổng Trấn BỒ XỊCH kéo vào để vãn hồi trật tự. Việc tấn công người vô lý này xảy ra trước hàng trăm cặp mắt, thế mà chỉ sau có hai hôm,VÕ CỔN TÚ TÀI lại láo lếu với HỒ SINH THUỶ NGÂN CÔNG BÁO là BẠCH THỦ THIỀN SƯ đã tung quả đấm vào đầu của một phụ nữ theo phe LỘ DUNG. Thật đúng thầy trò LỘ DUNG chỉ có một thế đánh, đó là “Gian xảo pháp”. Sau buổi tế tự hôm ấy, thủ hạ của LỘ DUNG lại còn chỉ điểm cho bọn CẢNH BỊ dùng bạo lực bắt sống Kha Trưởng TƯ MÃ Ý. Bọn CẢNH BỊ năm, sáu tên lực lưỡng tiến lại gần vị Kha Trưởng, bẻ quặt hai tay Ông ra sau lưng đoạn trói lại và ném vào tù xa. Sau khi cho Ông chịu ngộp thở một lúc lâu vì trong tù xa rất ngột ngạt, chúng thả Ông ra và nghiêm cấm Ông không được lai vãng đến Đền Thờ trong những ngày tới. Ngày hôm ấy, Triều đình THẠCH ĐỖ MA và phe LỘ DUNG đã ghi thêm một thành tích vẻ vang trong chính sách bạo ngược thất nhân tâm kể từ ngày có cuộc binh biến. Người HOÀI QUỐC không ngớt lời oán trách kế hoạch độc ác của Triều đình và trách thầm những người nhẹ dạ đã vì danh lợi mà lọt vào cạm bẫy “cò cá tranh nhau, ngư ông thủ lợi”.

Buổi chiều hôm ấy tại Đền Thờ NHẤT THỂ TAM VỊ ở Bắc HỒ SINH, không khí vẫn tiếp tục căng thẳng. Quân của hai phe tiếp tục gườm nhau bên ngoài Đền Thờ trước giờ tế tự. Lực lượng CẢNH BỊ cũng được điều động đến rất đông để ngăn ngừa những chuyện đáng tiếc. Cuộc giao tranh vào buổi sáng ở Trấn CẨM BÁO đã khiến cho thủ hạ của LỘ DUNG trở nên dè vặt vì mọi người đã nhìn thấy dã tâm phá hoại các buổi tế tự của họ. Cũng vào lúc cuối buổi tế, khi một ngưòi thuộc nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH lên đọc lời cầu cảm tạ, một số phụ nữ thủ hạ của LỘ DUNG định giở trò gây rối như đã làm lúc ban sáng nhưng đã bị những người ở Doanh TUẪN GIÁO phát giác và ngăn chận kịp thời.

Trong ba buổi tế tự cuối tuần ấy, bọn thủ hạ của LỘ DUNG đã cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Ngoài công tác gây rối loạn, khiêu khích những người thuộc phe chống đối, họ còn hoàn tất vai trò ủng hộ Triều đình triệt để qua việc đóng thuế một cách tích cực. Đặc biệt trong tuần ấy, ngoài số thuế thường lệ còn có lần thâu thuế đặc biệt cho “Quỹ Truyền Đạo” của THIÊN GIÁO. Bọn thủ hạ của LỘ DUNG tham dự cả ba buổi tế nên đã lên xuống đóng thuế tất cả sáu lần. Đây cũng là cơ hội ngàn năm một thuở để người HOÀI QUỐC có dịp nhìn rõ dung nhan của những người đang mê muội phò vị Tổng Trấn bạo ngược.

Tục truyền rằng đêm hôm ấy trong một gian nhà tranh của một người HOÀI QUỐC, có mẩu đối thoại, hi hữu như sau. Giọng đàn ông:
- Sáng mai bu mày nhớ ra chợ đong gạo nghe chưa. Lúc chiều tao thấy không còn một hạt trong thúng đấy.
Giọng đàn bà mệt mỏi cất lên:
- Còn đồng nào đâu mà đong với đấu.
Giọng đàn ông trở nên gay gắt
- Thế năm hào tao đưa hôm qua đâu?
- Thì nộp sáu lần thuế rồi còn gì.
Lần này giọng đàn ông đầy bực tức:
- Đồ ngu! Có lên đóng thuế thì giả bộ đặt tay không vào giỏ, ai lại bỏ tiền thật vào. Mười năm nay tao chưa bao giờ đóng một đồng xu thuế. Giá biết trước có ngày như thế này thì tao đã theo bọn CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Ba tháng nay chúng có tốn xu nào đâu. Rõ chán!

5.5 BINH CÔNG CÁN THIÊN VÕ HOÀI QUỐC

Sáng sớm ngày 22 tháng 10 năm Bính Dần 1986, tinh thần dân chúng HOÀI QUỐC hoang mang giao động về nguồn tin sứ giả của quan Khâm Sai PHỤNG LỄ NGHI là Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP đã âm thầm rời khỏi HỒ SINH không một lời giải thích.

Trong lúc ấy tờ HỒ SINH THUỶ NGÂN CÔNG BÁO cho biết vị sứ giả phải về MINH SƠN gấp và sẽ trở lại HỒ SINH trong một thời gian ngắn. Dân chúng của Doanh TUẪN GIÁO suy luận rằng: Giải pháp cho cuộc xung đột giữa Triều đình THẠCH ĐỖ MA và dân chúng HOÀI QUỐC sẽ được vị sứ giả đệ trình, nhưng Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA thấy có những bất lợi về phía Ông nên tìm kế hoãn binh để khỏi phải chấp nhận giải pháp ấy.

Trong khi đó sau ba tháng hoạt động, BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ THÁI BÌNH ngày càng phát triển mạnh, tạo thanh thế lẫy lừng và lôi cuốn dân chúng khắp nơi kéo về hợp tác rất đông. THAM MƯU BỘ của LỘ DUNG hoảng sợ, quyết định dùng kế hoạch tâm lý để hoá giải thực lực của phe chống đối. Kế hoạch này là làm sao có được nhiều bang, hội khác nhau cùng lúc bảy tỏ lập trường ủng hộ chính sách Triều đình. Họ tức tốc tổ chức cho thành lập một đạo quân có tên là BINH CÔNG CÁN THIÊN GIÁO HOÀI QUỐC và cử quan Thượng Sãi TRANG BẠCH THỐ làm Chủ đạo. Đêm 22 tháng 10 năm Bính Dần 1986, LỘ DUNG đã âm thầm làm lễ xuất quân cho đạo quân kể trên. Đây là buổi lễ xuất quân ly kỳ nhất trong lịch sử HOÀI QUỐC. Tất cả đều được tổ chức trong bóng tối, không một người dân nào được mời đến tham dự. Cả vị chủ đạo cũng không biết đạo quân của Ông ta có bao nhiêu người. Trong gian phòng nhỏ tối tăm không một chút ánh sáng, quan Thượng Sãi TRANG BẠCH THỐ đã tuyên đọc lời hiệu triệu đầu tiên gửi cho ba quân tướng sĩ. Trong bộ võ phục ba mảnh màu nâu của Âu phái, cổ đeo yếm bài màu đỏ hình khô mực mà ông vẫn thường mặc trong những ngày đại lễ tại Doanh TUẪN GIÁO lúc trước, quan Thượng Sãi TRANG BẠCH THỐ tay cầm một ngọn nến chỉ đủ soi sáng những hàng chữ viết rất nguệch ngoạc trong tờ hịch. Xuyên bóng tối, ông thầm nghĩ đạo quân của ông có lẽ rất đông và có thể đứng chật cả gian phòng nhỏ hẹp. Ông lấy giọng nghiêm trọng, nhìn xuống tờ hịch và bắt đầu kể tội nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH . . . Sáng hôm sau những người ủng hộ nhóm LỘ DUNG hân hoan ra mặt. Họ nghĩ rằng phía ủng hộ Triều đình vừa có thêm một đạo quân hùng hậu do một vị nguyên soái tài ba lãnh đạo. Và họ kháo nhau về huyền thoại: TRANG BẠCH THỐ . . .

Tục truyền rằng khi còn ở HOÀI QUỐC, TRANG BẠCH THỐ đã làm đến chức Thượng Sãi trong lực lượng CẢNH BỊ HOÀI QUỐC. Dưới quyền sinh sát của ông có hai vị quan khác: một giữ chức Trung Sãi Công Văn lo quản thủ hồ sơ giấy má, người còn lại được phong làm Mã Phu Công Xa lo việc vận chuyển và xê dịch. Vì ở trong lực lượng CẢNH BỊ nên Thượng Sãi TRANG BẠCH THỐ có nhiệm vụ bảo vệ dân chúng tại các thị trấn trong khi các đạo quân tinh nhuệ khác phải trấn thủ lưu đồn tại các biên ải xa xăm. Với bộ vó oai vệ và lối cầm quân độc đáo, Thượng Sãi TRANG BẠCH THỐ đã xông pha ngang dọc trên các nẻo đường của đế đô Sài Thành. Mùa hè năm Mậu Thân 1968, khi bọn Rợ Hồ liều mạng xua quân đánh phá các khắp lãnh thổ HOÀI QUỐC lần thứ hai, TRẤN ĐẠI THỊ, nơi có tư dinh của quan Thượng Sãi – nằm sát đế đô Sài Thành cũng bị tấn công dữ dội. Quan Thượng Sãi đã anh dũng chỉ huy gia nhân trấn giữ cổng tiền và cổng hậu của tư dinh. Trong những lúc nguy kịch, bọn gia nhân vẫn thường chạy vào cấp báo tình hình cho TRANG BẠCH THỐ. Chúng phải đập cửa thư phòng của quan Thượng Sãi và đứng đợi rất lâu vì cửa luôn luôn khoá chặt. Những lúc ấy, giọng nói của ông yếu ớt từ phòng vọng ra: “Hãy bình tĩnh, Ta sẽ bài thế trận để đối phó.” Một tên gia nhân hơi lãng tai nghe như có tiếng nghiến răng của quan Thượng Sãi. Trái lại những đứa khác biết rất rõ chủ tướng của chúng. Trong những lúc thập tử nhất sinh, hai hàm răng của quan Thượng Sãi không bao giờ chịu nằm yên.

5.6 ĐÁNH RƠI MẶT NẠ

Trong những tuần lễ sôi động trong tháng 10 năm Bính Dần 1986, sau các buổi tế tự tại các Đền thờ, người HOÀI QUỐC lại nhận được một tờ hịch đặc biệt có tên là “YÊU TINH” do ĐẠO QUÂN TỬ THỦ ĐỨC TIN phân phát. Đạo quân nồng cốt của LỘ DUNG gượng gạo cho phổ biến tờ hịch trên để chống chọi với hịch CHÁNH ĐẠO của BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Vì yếu kém thực lực về mặt tài chánh cũng như về nhân sự, bài vở trong tờ hịch “YÊU TINH” phải vay mượn, chép lại rất nhiều từ một tờ công báo lá cải của HOÀI QUỐC. Dân chúng ở Doanh TUẪN GIÁO biết rõ xuất xứ của tờ hịch nên đã tẩy chay quyết liệt, không đón nhận mà cũng không màng lưu tâm đến.

Cho đến cuối tháng 10 năm Bính Dần 1986, số dân ủng hộ Triều đình và Tổng Trấn LỘ DUNG vẫn còn rất ít. Mặc dầu có tất cả ba tổ chức đứng làm hậu thuẫn là ĐẠO QUÂN TỬ THỦ ĐỨC TIN. HOÀI QUỐC NHÂN DÂN THIÊN GIÁO HỘI và ĐẠO QUÂN BINH CÔNG CÁN THIÊN GIÁO HOÀI QUỐC, nhân sự điều hành tất cả ba cơ cấu này vẫn do THAM MƯU BỘ của LỘ DUNG quán xuyến. Để chống lại khí thế dũng mãnh của BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ THÁI BÌNH, cả ba tổ chức trên đều lấy chiêu bài bất bạo động, ôn hoà của THIÊN GIÁO làm võ khí để lên án những người chống đối. Trong cuộc tấn công BANG HÀNH SỰ ngày 19 tháng 10 năm Bính Dần 1986 tại Đền thờ SANH LƯU XINH, chiêu bài ôn hoà của Phe LỘ DUNG bắt đầu cho thấy có sự giả tạo. Và ngày 26 tháng 10 năm Bính Dần 1986 thì mặt nạ đạo đức hoàn toàn rơi xuống để lộ những con người thật vẫn thường rêu rao là luôn luôn giữ luật của THIÊN GIÁO.

Để cố gắng thực hiện kế hoạch cưóp quyền kiểm soát, trong hai tuần liên tiếp, THAM MƯU BỘ của LỘ DUNG điều động toàn bộ lực lượng của họ đến các Đền thờ để gây rối. Họ dựa vào thế lực của Triều đình để ngăn chận những công việc thường lệ của những người trong BANG HÀNH SỰ. Họ dùng những phụ nữ chanh chua, đanh đá với những lời lẽ thô tục để chửi bới, khiêu khích và gây hấn với những người thuộc CHÂN LÝ THÁI BÌNH.

Những người của LỘ DUNG đã mạt sát, tấn công phe chống đối ngay cả trong các Đền thờ. Để đáp lại, nhóm CHÂN LÝ THÁI BÌNH một mặt tránh né các cuộc chạm trán với những người gây hấn vì biết đó là kế hoạch thâm độc của Triều đình đang dùng những người HOÀI QUỐC tiêu diệt người đồng chủng. Càng tránh né, Phe LỘ DUNG càng được thế, và cuối cùng sự quá khích đã đưa họ đến bước tiến hung bạo.

Sáng ngày 26 tháng 10 năm Bính Dần 1986, lực lượng CẢNH BỊ của Trấn Cẩm Báo kéo đến Đền thờ SANH LƯU XINH rất đông để giữ trật tự cho buổi tế tự hôm ấy. Buổi tế tự diễn tiến một cách êm thắm và dân chúng kéo nhau ra về trong vòng trật tự. Lúc bấy giờ Mộc Túc Cước ĐỊNH THIẾU GIA của CHÂN LÝ THÁI BÌNH đang dùng máy thâu ảnh ghi lại những sinh hoạt thường lệ thì bất thình lình một tên ma đầu của Phe LỘ DUNG phi thân đứng sát người của Ông. Bằng một thủ pháp của những cao thủ ma đạo, lão ma đầu xoè năm ngón tay to lớn, thô tục, phóng một luồng chưởng phong vào chiếc máy thâu ảnh của ĐỊNH THIẾU GIA. Người dũng sĩ của Doanh TUẪN GIÁO liền nghĩ ngay ra một diệu kế. Ông giả bộ lảo đảo về phía sau. Lão ma đầu không bỏ mất cơ hội, mồm không ngớt dùng khẩu chưởng hạ cấp thổi phù phù vào mặt của ĐỊNH THIẾU GIA, mười ngón tay biến thành hai trảo sắc bén trong thế “Cường San Thảo Khấu” bấu chặt vai của Mộc Túc Cước ĐỊNH THIẾU GIA lôi về đàng sau, kéo lê xềnh xệch. Hành động hung bạo, thô bỉ, tấn công người trái phép không thể nào được chấp nhận tại Vương quốc HỒ SINH. Lập tức, quân CẢNH BỊ xô ập vào, chụp lấy hai tay của lão ma đầu bẻ quặt ra sau như bẻ cánh gà và ném vào tù xa.

THAM MƯU BỘ của LỘ DUNG như từ trời rơi xuống, bàng hoàng về cách đối xử của quân CẢNH BỊ vì chúng vẫn hằng yên chí lực lượng CẢNH BỊ của Trấn CẨM BÁO lúc nào cũng đứng về phe của Triều đình. Bổng có tiếng la ó vang dội từ một góc sân. Mọi người quay nhìn về hướng có tiếng la thì bắt gặp một nữ ác ma cũng của Phe LỘ DUNG đang coi trời đất bằng vung, dùng thủ pháp thô bạo tấn công một thiếu nhi của CHÂN LÝ THÁI BÌNH. Tên nữ ma đầu dùng tờ hịch cuốn tròn như một đoản côn, đập tới tấp vào đầu của đối thủ, tay kia không ngớt phóng chưởng liên tiếp vào ngực đối thủ. Để chứng minh cho công luận HOÀI QUỐC và HỒ SINH là những người ủng hộ Triều đình, cả nam lẫn nữ, đều thích sử dụng bạo lực, quân CẢNH BỊ không để mất cơ hội, thộp cổ tên nữ ác ma cũng trói thúc ké và ném vào tù xa cạnh lão ma đầu đang ngồi ủ rủ. Người HOÀI QUỐC có mặt lúc ấy cảm thấy nhẫn tâm vì thái độ hung bạo của những người thuộc Phe LỘ DUNG. Họ nghĩ ngay đến những lời chối tội của những kẻ đạo đức giả sẽ dùng để phủ nhận hành động xấu xa vừa xảy ra.

Tục truyền rằng lúc bấy giờ hai tên quân tâm phúc của LỘ DUNG phóng ngựa như bay về Triều đình để cấp báo sự việc. Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA vội cho vời Tể Tướng XÚ UẾ VÂN và Tổng Trấn LỘ DUNG về Triều gấp để tìm cách đối phó. Chỉ trong khoảnh khắc, toàn gia của lão ma đầu phủ phục trước sân rồng kể lể thảm thiết về tai hoạ vừa mới giáng xuống. Một người khóc lóc tả oán:
- Muôn tâu Bệ Hạ, Chủ gia của chúng con là VÃN XÚ ĐẦU ĐÀ ở Trấn Bắc HỒ SINH xưa nay vẫn một lòng trung thành với Triều đình và tận tâm phò Tổng Trấn LỘ DUNG. Chúng con đã cố gắng thi hành tất cả chỉ thị của THAM MƯU BỘ. Hôm nay, cúi xin Lượng Cửu Trùng thi ân, tìm cách cứu Chủ gia của chúng con khỏi vòng lao lý, ơn này chúng con nguyện làm thân khuyển mã để đền đáp.

Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA lạnh lùng quay sang Tổng Trấn LỘ DUNG:
- Có đúng những tên này là người của Tổng Trấn không?
LỘ DUNG lớn tiếng một cách quyết liệt:
- Muôn tâu Bệ Hạ, kẻ hạ thần đã xem lại danh sách dân đinh đến cả chục lần mà không thấy tên nào là VÃN XÚ ĐẦU ĐÀ cả.

Bọn thứ dân đang phủ phục trước sân rồng giật mình đáng thót. Chúng đứng bật dậy như những chiếc lò xo, mồm há hốc, ngạc nhiên tột cùng về những lời vừa thốt ra từ cửa miệng của vị Tổng Trấn thân yêu. Bất thình lình Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA đập mạnh tay xuống chiếc án thư, quát to:

- Láo thật. Quân này láo thật. Đã làm những việc ngang ngược mà còn dám nhận là thần dân của Triều đình ta. Cận vệ đâu, lôi cổ chúng ra ngay, không ta lại gọi CẢNH BỊ ném tất cả vào ngục bây giờ.

Bọn người nhà của VÃN XÚ ĐẦU ĐÀ hồn phi phách tán ù té chạy bay ra ngoài. Chúng hoang mang như rơi vào vực thẳm. Chúng vừa khóc, vừa bù lu bù loa, vừa tức, vừa giận, vừa sợ, vừa lo. Đi ngang nhà bếp của Hoàng Cung, chúng thấy một tên thị vệ đang bưng một chậu nước đổ vào một cái rãnh thật sâu. Cái chậu này Hoàng Đế vẫn thường đựng nước rửa tay sau những cuộc họp triều chính quan trọng. Hôm ấy, nước rửa tay có ánh hồng như pha máu.

5.7 ĐÁNH LẠC HƯỚNG CÔNG LUẬN

Đầu tháng 11 năm Bính Dần 1986, cuộc khủng hoảng của ngưòi HOÀI QUỐC tại Doanh TUẪN GIÁO bước vào một giai đoạn mới. Về phía BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ và THÁI BÌNH, họ triệt để áp dụng chính sách bất bạo động, tránh né các cuộc chạm trán, khiêu khích của những người ủng hộ Tổng Trấn LỘ DUNG. Liên tiếp trong vài tuần lễ cuối tháng 10, mặc dầu có những cuộc khiêu khích và tấn công thô bạo vào lực lượng của họ, nhóm người chống đối của Doanh TUẪN GIÁO vẫn duy trì được thế vững mạnh mà họ đã tạo được từ bốn tháng trước. Chủ trương ôn hoà, bất bạo động này có hai mục đích: thứ nhất, thu phục cảm tình của công luận HOÀI QUỐC và người bản xứ, thứ hai, tạo môi trường thuận lợi cho giải pháp êm đẹp của sứ giả NGUYỄN ĐỨC THIỆP sớm thành tựu.

Ngược lại, mặc dầu nhận thấy thỉnh nguyện của Doanh TUẪN GIÁO là chính đáng, hợp với luật lệ của THIÊN GIÁO, Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA không muốn sút giảm uy quyền của một người đang ngồi trên ngôi Cửu Ngũ, nên Triều đình đã làm đủ mọi cách lèo lái cuộc khủng hoảng sang chiều hướng khác. Việc nhắm mắt làm ngơ để cho những người ủng hộ LỘ DUNG gây rối loạn, tấn công BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ THÁI BÌNH trong các buổi tế tự là mục đích chánh trong việc đánh lạc hướng công luận. Khi có những sự va chạm giữa hai nhóm, công luận nhìn vào cuộc khủng hoảng như một xung đột nội bộ của người HOÀI QUỐC. Và khi cuộc xung đột bước vào giai đoạn trầm trọng, nó không những chỉ liên hệ đến một tập thể của người HOÀI QUỐC, mà còn ảnh hưởng lớn lao đến nền an ninh chung của HỒ SINH. Triều đình đã thành công một phần trong kế hoạch đánh lạc hướng kể trên.

Dẫn chứng cho thấy sự suy luận này là đúng khi tờ HỒ SINH THUỶ NGÂN CÔNG BÁO ấn bản ngày 4 tháng 11 năm Bính Dần 1986 cho phổ biến một bài nói về cuộc xung đột giữa Triều đình THẠCH ĐỖ MA và Doanh TUẪN GIÁO. Trong đó, lời phát biểu của một vài Tổng Trấn người bản xứ hoàn toàn bất lợi cho dân chúng HOÀI QUỐC. Trước hết là lời tuyên bố của Tổng Trấn TÍCH HẦU BAO, người đang quản thủ Đền thờ NHẤT THỂ TAM VỊ ở Trấn Bắc HỒ SINH. TÍCH HẦU BAO nổi tiếng lúc bấy giờ vì đã bắt người HOÀI QUỐC trả lệ phí mượn Đền thờ cao hơn các Trấn khác. Theo như HỒ SINH THUỶ NGÂN CÔNG BÁO, một người dân bản xứ tại Trấn của Ông sau khi quan sát cuộc khủng hoảng đã nói với Ông về người HOÀI QUỐC như sau: “Tại sao họ không trở về HOÀI QUỐC cho rồi.” Tổng Trấn TÍCH HẦU BAO không hiểu vì vô tình hay cố ý đã lập lại lời nói nông cạn trên. Dân chúng HOÀI QUỐC lấy làm căm giận vô cùng. Họ cho rằng một võ quan THIÊN GIÁO luôn luôn cổ võ Đức Yêu Thương giữa các tín đồ không thể nào tuyên bố những câu thiếu suy xét như thế, cho dù đó không phải là ý kiến của chính ông.

Kế đó là lời tuyên bố của Tổng Trấn XÚ UẾ VIÊN của Đền Thờ ĐỒNG TÂM. Vị Tổng Trấn này mặc dù có cùng họ “XÚ UẾ” với Tể Tướng XÚ UẾ VÂN nhưng hai người không có liên hệ máu mủ gì. Tổng Trấn XÚ UẾ VIÊN là một võ quan trung kiên của Triều đình, đã từng chống đỡ, bênh vực cho chính sách Hội Nhập của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA bằng những bài viết trên tờ HỒ SINH THUỶ NGÂN CÔNG BÁO trước đây. Ông cũng từng để lộ mối ác cảm của Ông đối với người HOÀI QUỐC, chẳng hạn đích thân tắt những ngọn bạch lạp trong Đền Thờ khi các nghi lễ của người HOÀI QUỐC diễn ra hơi trễ, hoặc tìm cách gây trở ngại trong việc cho mượn Đền thờ ĐỒNG TÂM lúc BÌNH VIỄN AN còn đang trấn đóng ở Doanh TUẪN GIÁO. Lời tuyên bố của ông trong tờ HỒ SINH THUỶ NGÂN CÔNG BÁO có đại ý khinh bỉ nhóm chống đối và xem họ là những con người dữ tợn. Người HOÀI QUỐC đã có quá nhiều kinh nghiệm với vị Tổng Trấn ngang ngược này và lời tuyên bố kể trên chỉ làm tăng thêm hố xa cách giữa Ông và đám dân đang bị lưu đày.

Vị Tổng Trấn thứ ba có tiếng nói trên tờ công báo hôm ấy là Tổng Trấn BỒ XỊCH của Trấn CẨM BÁO. Vì đã từng có những hành động thiên vị rõ rệt nên người HOÀI QUỐC không lấy gì làm lạ khi vị võ quan của Triều đình đã tuyên bố những lời hoàn toàn trái tai. Ông nói: “Tại sao người HOÀI QUỐC không biết ngồi lại với nhau và xử sự như người HỒ SINH”. Thực sự Ông không hiểu gì về kế hoạch thâm độc của Triều đình, đồng thời Ông lại thiên vị những người ủng hộ LỘ DUNG nên những lời tuyên bố của Ông hoàn toàn mất đi tính cách vô tư và đức bác ái của một võ quan THIÊN GIÁO.

Tất cả những lời tuyên bố trên đã làm cho người HOÀI QUỐC theo THIÊN GIÁO chán nản với những người đang cai trị họ. Họ không ngờ những vị võ quan đã bao nhiêu năm mang nhung phục Thất Phẩm của THIÊN GIÁO vẫn còn chất chứa đầy dẫy sự hận thù, lòng ghen ghét và nhất là nhắm mắt làm ngơ trước sự thật. Sự thật ấy là chính sách lần lựa của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA, cố tình tạo một hình ảnh xấu cho đám thần dân bất hạnh đang sống vất vưởng trên Vương quốc của Ông. Họ cũng oán trách những võ quan THIÊN GIÁO của HOÀI QUỐC đã không dám nói lên sự thật và chống trả lại những luận điệu của những người bản xứ cố tình làm thương tổn đến tinh thần dân tộc của người HOÀI QUỐC.

5.8 NẾN HY VỌNG GẦN TẮT

Ngày 5 tháng 11 năm Bính Dần 1986 vào khoảng giờ Mùi, BẠCH THỦ THIỀN SƯ NGŨ CỐT đang ngồi tư lự trước sảnh đường của Doanh TUẪN GIÁO, thì người bưu trạm phi ngựa như bay đến và trao cho Ông một hoả tốc thư có dấu triện của Dinh Tể Tướng. Bức thư đề ngày 5 tháng 11 và được gửi cho Giáo Học THIỀN TRANG. BẠCH THỦ THIỀN SƯ tức tốc chuyển giao bức hoả tốc thư cho vị Chủ sự của BANG HÀNH SỰ. Giáo Học THIỀN TRANG xé vội ra đọc. Cuối cùng Ông ngồi thừ ra, bất động như tượng đá.

Đêm hôm ấy, trong buổi Tiểu DIÊN HỒNG HỘI tại Doanh TUẪN GIÁO, BẠC TRANG Hán Tử và Giáo Học THIỀN TRANG cho công bố bức hoả tốc thư mới nhận được lúc ban chiều. Trong thư, sau khi phủ nhận những sự cáo buộc của Doanh TUẪN GIÁO là Triều đình hỗ trợ cho các cuộc gây rối và tấn công của nhóm LỘ DUNG, Tể Tướng XÚ UẾ VÂN bắt đầu hé mở cho những người chống đối thấy chính sách và kế hoạch của Triều đình trong việc giải quyết hai thỉnh nguyện của BANG PHÒNG THỦ CHÂN LÝ VÀ THÁI BÌNH. Ông cho biết Triều đình rất hân hoan có những cuộc thương nghị giữa Triều đình và nhóm chống đối. Tuy nhiên cuộc thương nghị không phải để giải quyết hai thỉnh nguyện của Doanh TUẪN GIÁO, trái lại cuộc thương nghị chỉ nhắm mục đích giải toả những hiểu lầm giữa Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA và dân chúng HOÀI QUỐC. Tất cả dân chúng có mặt tại sảnh đường đêm hôm ấy đã tức giận ra mặt. Họ không ngờ sau gần bốn tháng trời nằm gai nếm mật, chịu vất vả quá nhiều tinh thần lẫn vật chất, cuối cùng chỉ nhận đươợc một bức thư cứng rắn, thiếu thiện chí hoà giải của Triều đình. Họ tưởng tượng đến sứ mạng hoà giải của Quan Chưởng Môn NGUYÊN ĐỨC THIỆP hoàn toàn thất bại vì sự cương quyết của Hoàng Đế THẠCH ĐỖ MA. Họ nghĩ ngay đến những diễn tiến mới nhất của việc đánh lạc hướng công luận qua những lời tuyên bố của các Tổng Trấn bản xứ trên tờ HỒ SINH THỦY CÔNG BÁO. Và nhất là quân thám báo của CHÂN LÝ THÁI BÌNH đã phúc trình lên những người có trách nhiệm của Doanh TUẪN GIÁO những hoạt động khả nghi của phe LỘ DUNG. Lúc ấy, đối với họ, hy vọng có một giải quyết êm đẹp cho cuộc khủng hoảng thật mong manh.


--------------------
mm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
mviet
post Dec 20 2010, 01:21 PM
Post #6


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,769
Joined: 9-September 10
Member No.: 15,235
Country








Thời Kỳ Vong Quốc - Chương 6

CHƯƠNG VI
TRANH THỦ NHÂN TÂM



6.1 QUYẾT ĐỊNH TÁO BẠO

Trời vào cuối thu, thời tiết bắt đầu thay đổi. Những ngày nắng của mùa hạ oi bức qua đi nhường chỗ cho những đêm dài tưởng như vô tận. Gió lạnh từ phương Bắc kéo về làm cho tâm hồn người xa xứ chùng xuống. Những người HOÀI QUỐC lưu lạc trên vương quốc HỒ SINH cảm thấy băn khoăn lo lắng cho tương lai mập mờ. Doanh Tuẫn Giáo sau 4 tháng sôi sục lửa đấu tranh cũng bắt đầu chuyển hướng. Những diễn biến của tình hình buộc họ phải nghĩ đến kế hoạch “Trường kỳ kháng chiến”.

Vào một đêmcủa tháng 11 năm Bính Dần 1986, ngoài trời gió lạnh rít lên từng cơn, xoáy buốt da thịt. Trên trời không một ánh sao, vạn vật như say sưa chìm đắm trong giấc ngủ. Trong một gian phòng nhỏ hẹp cạnh gian đại sảnh của Doanh Tuẫn Giáo, có một nhóm người đang ngồi quây quần chung quanh một chiếc bàn nhỏ. Họ là những thủ lãnh của Ban Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình. Khuôn mặt của họ thật nghiêm trọng chứng tỏ những điều đang bàn bạc thật quan hệ. Tình hình tại Doanh Tuẫn Giáo tuần lễ ấy cho thấy cuộc chiến đấu của Ban Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình như đi đến chỗ bế tắc vì thái độ ngoan cố của Triều đình. Thêm vào đó, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma cố tình mượn tay công luận Hồ Sinh để bẻ gẩy cao trào chống đối của những người HOÀI QUỐC trong lãnh thổ của Ông. Biết rằng không thể đứng mãi trong thế thủ, Doanh Tuẫn Giáo quyết định đổi chiến thuật, quyết định bước sang kế hoạch “Trường kỳ kháng chiến” và khai hoả kế hoạch bằng một chiêu thức ngoạn mục lấy tên là “Kinh Kha sang Tần”. Các thủ lãnh của Ban Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình đã nghiên cứu tình hình một cách tỉ mỉ, xem xét, bố trí và cắt đặt những công việc cần thiết trước khi cho thi hành kế hoạch. Dưới ánh sáng leo lét của ngọn bạch lạp độc nhất trong phòng, cuộc họp đêm ấy kéo dài đến khuya. Tất cả đều được bảo mật, ngay cả đến dân chúng vẫn thường ra vào Doanh Tuẫn Giáo cũng không một ai hay biết. Khi tiếng gà gáy sáng vừa cất lên, cuộc họp cũng vừa kết thúc. Ánh sáng của ngọn bạch lạp tắt phụt, những bóng đen âm thầm rời khỏi gian phòng họp và kể từ lúc ấy, kế hoạch “Kinh Kha sang Tần”bắt đầu.

6.2 KINH KHA CỦA DOANH TUẪN GIÁO

Hai đêm sau, khi ngưòi dân cuối cùng ra khỏi Doanh Tuẫn Giáo sau buổi Tiểu Diên Hồng Hội ngột ngạt vì những biến chuyển bất lợi trong tuần, đoàn người ngựa của các nhóm nghĩa quân Chân Lý Thái Bình bắt đầu xuất hiện và tiến vào Doanh Phủ. Trên những con chiến mã đen tuyền, tất cả nghĩa quân đều mặc võ phục dạ hành bó chẽn màu đen. Khuôn mặt của họ che kín chỉ còn chừa lại hai mắt. Tất cả tập trung thành đội hình ở giữa sân tiền đường. Một người dáng dấp cao lớn như một thủ lãnh trao cho một nghĩa quân một mảnh giấy nhỏ chỉ vỏn vẹn có ba chữ: “Ải Phi Tràng”. Sau khi ra thủ hiệu báo cáo mọi việc đã xong, đoàn người ngựa âm thầm tiến ra khỏi cổng. Không một tiếng vó ngựa khua động vì tất cả chân chiến mã đã được bọc kỹ bằng những lớp vải dầy. Họ chia thành nhiều nhóm nhỏ và đi nhiều hướng khác nhau để tránh bị theo dõi. Trời tối đen như mực, nhà dân trong các Trấn đều đã cửa đóng then gài. Đoàn người ngựa biến mất sau những lùm cây rậm rạp.

Sau đó không lâu tại Ải Phi Tràng, các nhóm nghĩa quân của Chân Lý Thái Bình lại tái tập họp. Đây là giây phút hồi hộp nhất vì việc bốc thăm tuyển chọn những “Kinh Kha” sẽ xảy ra trong chốc lát. Tất cả mọi người đều nộp những tấm lệnh bài cá nhân của họ cho người thủ lãnh có vóc dáng cao lớn. Ông này bỏ tất cả vào trong một chiếc túi vải màu đen và trộn lẫn. Ông từ từ rút ra từng tấm lệnh bài để chọn đủ số người. Những người được chọn vội vàng xuống ngựa và tập trung vào một góc. Cuộc bóc thăm diễn ra chớp nhoáng. Những người không được chọn phụ giúp những “Kinh Kha” chất hàng chục túi hành lý nặng nề lên Thần Điêu Bố Inh Thất Nhị Thất. Sau đó là cái vẫy tay tạm biệt và đoàn dũng sĩ yên vị trên lưng con thiết điểu. Con chim khổng lồ vỗ cánh vài cái thật mạnh, gió buị tung lên cao, nó hét lên một tiếng thật to như xé rách màng nhĩ và phóng lên trời cao mất hút trong bóng đêm. Thần Điêu Bố Inh Thất Nhị Thất lầm lũi bay suốt đêm và khi những tia nắng ban mai bắt đầu xuất hiện trên nền trời mờ sáng, nó lao nhanh xuống một bãi đất trống. Xa xa qua làn sương mỏng, những “Kinh Kha” của Doanh Tuẫn Giáo đọc thấy ba chữ đại tự “Hoa Thạch Đông” hiện ra mờ mờ trên chiếc cổng lớn. Họ biết họ đang có mặt tại thủ phủ của đế quốc tạp chủng.

6.3 ĐẠI HỘI CÁC HOÀNG ĐẾ THIÊN GIÁO

Tổ chức hành chánh của THIÊN GIÁO lấy Vương Quốc làm đơn vị căn bản. Tất cả đều đặt dưới quyền cai trị của Đại Đế Giang Phong Đệ II tại đế đô La Thành. Tuy nhiên các Hoàng Đế Thiên Giáo tuỳ theo địa dư và ngôn ngữ của vương quốc mình lại liên kết với nhau thành những Liên Quốc, chẳng hạn như Tạp Chủng, và hàng năm mở những đại hội để tham khảo, trao đổi và ấn định chính sách chung cho các Vương quốc trực thuộc. Năm Bính Dần 1986, các Hoàng Đế thuộc Liên Quốc Tạp Chủng chọn thủ phủ Hoa Thạch Đông cách Hồ Sinh hơn 2.000 dặm để làm nơi hội họp. Có tất cả hơn 350 Hoàng Đế và Phó Vương từ khắp nơi thuộc Liên Quốc Tạp Chủng về phó hội. Đại hội được khai mạc tại Hiếu Tân Đại Tửu Lầu nằm trên Thập Lục Đàng ở trung tâm thủ phủ Hoa Thạch Đông, một khu thị tứ rất sầm uất. Tất cả dân chúng của Liên Quốc Tạp Chủng đã theo dõi những tin tức liên quan đến cuộc đại hội thường niên năm ấy. Tất cả các Truyền Ảnh Trạm và Công Báo khắp nơi tề tựu về đông đảo để tường thuật những chi tiết và diễn biến của cuộc đại hội. Những “Kinh Kha” của Doanh Tuẫn Giáo đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở, cố gắng xâm nhập vào Hiếu Tân Đại Tửu Lầu, lợi dụng phiên đại hội có một không hai này để vạch rõ cho công luận và những nhà lãnh đạo Thiên Giáo chính sách cai trị khắc nghiệt và thất nhân tâm của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma của Vương Quốc Hồ Sinh. Ngày mồng 8 và mồng 9 tháng 11 năm Bính Dần 1986, đương lúc Hiếu Tân Đại Tửu Lầu đang tưng bừng đón rước các Hoàng Đế và Phó Vương về phó hội, những “Kinh Kha” của Doanh Tuẫn Giáo đã lén lút đột nhập vào Đại Tửu Lầu không một ai hay biết. Họ còn tìm cách mua chuộc bọn tiểu nhị của Đại Tửu Lầu để chiếm giữ những phòng trọ cạnh các gian đại sảnh lớn dùng để họp. Suốt ngày mồng 9 tháng 11 năm Bính Dần, các nghĩa quân đã âm thầm tránh mặt, tử thủ trong các phòng trọ, và chuẩn bị mọi công tác cho ngày khai hội ngày hôm sau.

6.4 KINH KHA LÀM LỊCH SỬ

Sáng sớm ngày mồng 10 tháng 11 năm Bính Dần 1986, không khí trong gian đại sảnh của Hiếu Tân Đại Tửu Lầu thật tấp nập. Các Hoàng Đế và Phó vương của Thiên Giáo trong những bộ nhung phục võ quan đi đi lại lại, cười cười nói nói. Thấp thoáng bóng dáng của Quan Khâm Sai Phụng Lễ Nghi trong đám đông. Những người làm việc cho các Truyền Ảnh Trạm và Công Báo lăng xăng với những dụng cụ cồng kềnh. Lúc bấy giờ, các “Kinh Kha” của Doanh Tuẫn Giáo cũng nai nịt gọn gàng trà trộn trong đám đông. Họ đảo mắt nhìn khắp gian đại sảnh để tìm kiếm chỗ ngồi của Vị Hoàng Đế Hồ Sinh. Cuối cùng họ cũng tìm thấy. Lập tức họ ra hiệu cho những người trong nhóm và theo dõi từng cử động của Ông.

Buổi đại hội bắt đầu bằng nghi lễ tế tự long trọng, sau đó là phần mặc niệm các Hoàng Đế và Phó vương đã qua đời trong năm Bính Dần. Sau đó là phần giới thiệu tất cả những vị lãnh đạo Thiên Giáo về phó hội trong dịp ấy. Phần nghi lễ khai mạc kéo dài đến gần giờ Ngọ thì tạm ngưng để mọi người ra ngoài nghỉ. Nhận thấy cơ hội đã đến, các nghĩa quân của Chân Lý Thái Bình lập tức bố trí những nơi quan yếu trong đại sảnh và bắt đầu hành động.

Giáo Học Thiền Trang bằng một thủ pháp nhanh nhẹn chưa từng có, Ông tung mình nhảy sát lại ngưòi của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma và vòng tay thi lễ theo bài quyền “Thần Tử Bái Long nhan”. Sau đó Thiền Trang rút xoạc thanh kiếm Chân Lý Thái Bình nắm chặt trong tay. Trong một phút bàng hoàng, vị Hoàng Đế Hồ Sinh đứng chết lặng. Ký ức của Ông làm việc một cách dữ dội. Ông nhớ lại khuôn mặt quen thuộc của người kiếm khách Hoài Quốc đang đứng trước mặt. Đây là một trong số những người đã làm ông mất ăn mất ngủ trong bốn tháng nay. Và cũng chính ông đã ra chiếu chỉ “Tuyệt thông án” cho người thần dân chống đối này. Thế mà hôm nay kẻ đó lại có mặt tại đây, một nơi xa xăm cách vương quốc của ông hơn hai ngàn dặm. Linh tính của ông báo trước có chuyện chẳng lành. Ông vội phóng tầm mắt nhìn qua những người lố nhố trước mặt. Ông bắt gặp một vài khuôn mặt quen thuộc khác đã từng xuất hiện trên các Truyền Ảnh Trạm ở Hồ Sinh và nhất là trong buổi lễ Trao Gươm cho Tổng Trấn Lộ Dung. Họ đến đây với mục đích gì? Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma lúc bấy giờ đầu óc quay cuồng dữ dội. Ông vừa giận, vừa tức, vừa lo, vừa sợ . . .

Giáo Học Thiền Trang ngắm sắc diện biến đổi nhanh chóng trên khuôn mặt của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma và biết chắc kẻ đối diện đang mất tinh thần, ông xoay tít thanh gươm Chân Lý Thái Bình trên tay trong thế “Thượng Nghị Kiếm”, yêu cầu vị Hoàng đế của Hồ Sinh thoả mãn những thỉnh nguyện của Doanh Tuẫn Giáo. Thanh kiếm trên tay của Giáo Học Thiền Trang đang từ uyển chuyển vội biến thế trở nên vũ bão lạ thường trong thế “Đoạt Hồn Kiếm”. Cũng lúc ấy, Thiền Trang thò tay vào ngực rút vội tờ hịch còn thơm mùi mực có năm chữ lớn “Giáo Quyền hay Nhân Quyền”. Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma với sự suy đoán nhanh chóng, biết những người của Doanh Tuẫn Giáo đang chuyển hướng cuộc chống đối của họ sang một vấn đề phức tạp: đó là Nhân Quyền. Điều này sẽ bất lợi hoàn toàn cho ông nếu những tờ hịch kia lọt vào tay của những nhà lãnh đạo Thiên Giáo trong cuộc đại hội. Ông còn bắt gặp hình ảnh nổi bật trên tờ hịch: Đoàn quân Cảnh Bị và bọn khuyển ngao mà ông đã dùng để ngăn chận những người Hoài Quốc chống đối trong buổi lễ Trao Gươm cho Lộ Dung. Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma rút vội thanh kiếm đang đeo ở lưng múa ngay bài kiếm gia truyền của dòng họ Thạch là “Thệ Hứa Kiếm”, yêu cầu Giáo Học Thiền Trang viết vào sớ những gì ông muốn tấu trình và hứa sẽ cứu xét. Giáo Học Thiền Trang thấy đường kiếm quen thuộc của vị Hoàng Đế Hồ Sinh, biết khó lòng thành công bằng đường lối ngoại giao, ông chán nản thu kiếm lại rồi biến mất vào đám đông.

Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma còn đang bàng hoàng vì những biến chuyển dồn dập vừa xảy ra, một mảnh giấy nhỏ chợt bay là đà xuống trước mặt ông. Nhặt vội mảnh giấy, ông đọc thấy những hàng chữ quen thuộc yêu cầu Hoàng Đế giải quyết gấp hai nguyện vọng của Doanh Tuẫn Giáo, đồng thời Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình quyết định phổ biến tờ hịch “Giáo Quyền hay Nhân Quyền” mà Giáo Học Thiền Trang hé mở cho ông xem thấy khi nảy đến tất cả mọi ngưòi có mặt trong cuộc đại hội. Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma vừa lúng túng, vừa lo sợ. Ông nghĩ thời giờ đã quá trễ để làm những gì có thể ngăn chận việc phổ biến hịch. Ông vội lẫn vào đám đông và rảo bước nhanh về phòng trọ.

Tục truyền rằng đêm hôm ấy, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma tức tốc dùng thuật điện đàm viễn liên về Hồ Sinh chất vấn Tể Tướng Xú Uế Vân về sự có mặt của những người chống đối tại thủ phủ Hoa Thạch Đông. Tể Tướng Xú Uế Vân nghe tiếng nói giận dữ của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma thỉ bủn rủn tay chân, hồn phi phách tán. Sau đó Tể Tướng Xú Uế Vân tức tốc cho quân sang Dinh của Lộ Dung để hỏi cho ra lẽ. Lộ Dung cũng thất sắc, bàng hoàng như từ trời rơi xuống, tức giận vì bọn thám báo của Ông vẫn ăn no ngủ kỹ, không hay biết gì về những hoạt động của nhóm Chân Lý Thái Bình. Mấy tuần lễ này ông còn nghe được nguồn tin bọn thủ hạ của ông cố gắng thành lập rất nhiều Bang, Hội, nói là để ủng hộ chính sách của Nhà Vua, nhưng thực ra chúng đang tạo thế lực và giành giật quyền hành lẫn nhau, chuẩn bị cho ngày Ông về Trấn nhậm Doanh Tuẫn Giáo. Một số bộ hạ thân tín của ông đã chống đối những Bang, Hội mới được thành lập vì những tên cầm đầu các Bang, Hội này chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt, một lũ ăn hại. Thảo nào mà nhóm Chân Lý Thái Bình rần rộ đưa người qua thủ phủ Hoa Thạch Đông mà bọn thủ hạ của Ông vẫn tỉnh táo không hề hay biết. Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma nghe Tể Tướng Xú Uế Vân và Lộ Dung trả lời ấm ớ về hoạt động của nhóm Chân Lý Thái Bình thì tức giận tràn hông, mặt đỏ tiá tai, đập bàn rầm rầm, miệng không ngớt quát tháo bọn ăn hại Xú Uế Vân và Lộ Dung.

Sáng hôm sau người ta thấy bọn tiểu nhị của Hiếu Tân Đại Tửu Lầu khệ nệ mang một cải bàn đúc bằng thép nguội vào phòng trọ của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma. Chúng lại khênh ra ngoài chiếc bàn cũ đã bị Hoàng Đế vỗ dập nát vì cơn tức giận đêm hôm trước. Tất cả Hoàng Đế và Phó vương có mặt trong cuộc đại hội chỉ trả một lệ phí tương đối vừa phải. Chỉ riêng Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma ngoài khoản lệ phí ăn ở thường lệ còn phải trả thêm một phí khoản đặc biệt cho việc sửa chữa những đồ đạc của Đại Tửu Lầu bị hư hại vì tánh nóng nảy của Ông.

6.5 HỊCH ĐẶC BIỆT “GIÁO QUYỀN HAY NHÂN QUYỀN”

Trưa ngày 10 tháng 11 năm Bính Dần 1986, các Truyền Ảnh Trạm và Công Báo rộn rịp sửa soạn cho cuộc hội Công Báo được tổ chức tại một gian phòng nằm cạnh gian đại sảnh. Như thông lệ hàng năm, đây là dịp để các cơ quan truyền thông để các Liên Quốc Tạp Chủng có cơ hội nêu lên những câu hỏi liên quan đến những đề tài được bàn thảo trong đại hội. Nhận thấy thời cơ thuận tiện, Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình quyết định dùng diễn đàn của cuộc hội Công Báo để gióng lên tiếng chuông cho công luận khắp nơi biết rõ về cuộc tranh đấu của người Hoài Quốc tại Vương Quốc Hồ Sinh. Lập tức Hảo hán Hồ Quang Nguyệt cùng một vài nghĩa quân cải trang thành những viên chức của hệ thống truyền thông, cổ đeo thẻ bài Công Báo, trà trộn vào phòng họp. Trong lúc mọi người đang say sưa theo dõi cuộc hội với những đề tài thời sự nóng bỏng của Thiên Giáo năm đó, Hảo hán Hồ Quang Nguyệt xuất kỳ bất ý phi thân lên bục cao nêu lên hai câu hỏi với các vị Hoàng Đế đang chủ sự cuộc hội.

- Các Hoàng Đế Thiên Giáo nghĩ gì về Vương Quốc Hồ Sinh không thi hành điều Ngũ Bách Thập Bát trong bộ Tân La Luật khi người Hoài Quốc thỉnh nguyện xin thiết lập Thể Nhân Trấn?
- Các Hoàng Đế Thiên Giáo có cảm tưởng như thế nào khi Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma của Vương Quốc Hồ Sinh đưa Cảnh Bị và khuyển ngao vào Đền thờ để đàn áp người Hoài Quốc?

Khi Hảo hán Hồ Quang Nguyệt vừa dứt câu hỏi, các Hoàng Đế và các Phó vương cũng như tất cả các Truyền Ảnh Trạm và Công Báo có mặt trong gian phòng hội đều nhốn nháo như ong vỡ tổ. Họ không ngờ trong một vùng đất nổi tiếng về tự do như Liên Quốc Tạp Chủng ở vào thế kỷ 20 thật văn minh lại xảy ra một việc trái cẳng ngỗng như thế. Họ lại càng khâm phục những người Hoài Quốc bé nhỏ đã vượt ngàn dặm từ bờ Tây của Tạp Chủng sang tận miền Đông để nêu lên sự thật phủ phàng của một Vương Quốc Thiên Giáo. Họ rất ngạc nhiên vì một Hoàng Đế Thiên Giáo luôn luôn kêu gọi yêu thương lại có thể dùng binh lực của Vương Quốc Thế Trần để đối xử một cách bạo ngược với những thần dân tay trắng như người Hoài Quốc. Và họ cố tìm cách liên lạc với các nghĩa quân của Chân Lý Thái Bình để điều tra xem Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma là nhân vật liều lĩnh như thế nào mà lại có một đường lối cai trị hoàn toàn nghịch với chủ thuyết của Thiên Giáo.

Lúc bấy giờ một số nhỏ nghĩa quân vội lập tức cho phổ biến tờ hịch “Giáo Quyền hay Nhân Quyền” đến các Truyền Ảnh Trạm và Công Báo đang có mặt trong gian đại sảnh. Trong khi đó, lực lượng nòng cốt của Chân Lý Thái Bình cho thi hành kế hoạch tinh vi khác. Họ chia các nghĩa quân ra thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm chịu trách nhiệm một tầng lầu của Đại Tửu Quán. Những nhóm nghĩa quân này với hành tung xuất quỹ nhập thần, lúc ẩn lúc hiện như những bóng ma, mang tất cả các hịch “Giáo Quyền hay Nhân Quyền” bỏ vào phòng trọ của các Hoàng Đế và Phó vương. Đây là sứ mạng cực kỳ khó khăn trong toàn bộ kế hoạch “Kinh Kha sang Tần” của Chân Lý Thái Bình, vì lúc bấy giờ Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma đã báo động với chủ nhân của Hiếu Tân Đại Tửu Lầu tìm cách ngăn cản việc rải hịch của người Hoài Quốc. Vì thế, các nhóm nghĩa quân đã phải thực hiện công tác này trong một thời gian kỷ lục rồi sau đó rút vào bí mật để bảo toàn lực lượng. Đêm hôm đó, quân thám báo của Chân Lý Thái Bình phúc trình cho các thủ lãnh về sự thành công của kế hoạch hịch “Giáo Quyền hay Nhân Quyền”. Họ cho biết các vị Hoàng Đế và Phó vương về phó hội đã chong đèn suốt đêm trong các phòng trọ để đọc tờ hịch của Doanh Tuẫn Giáo đã được biên soạn và ấn loát thật công phu. Hịch này được ấn hành một cách đặc biệt, hoàn thành trong một thời gian kỷ lục vào tuần lể trước ngày “Kinh Kha sang Tần”, trong đó tóm tắt tất cả những diễn tiến kể từ ngày người Hoài Quốc bắt đầu xin thiết lập Thể Nhân Trấn.

6.6 SỰ ỦNG HỘ CỦA CÔNG LUẬN

Sáng sớm ngày 11 tháng 11 năm Bính Dần 1986, thời tiết thay đổi đột ngột, gió lạnh từ phương Bắc kéo đến mang theo những cơn mưa nặng hạt suốt ngày. Phố xá trong thủ phủ Hoa Thạch Đông vắng người qua lại, mọi sinh hoạt chỉ diễn ra trong các lữ quán và trang trại của người dân. Lúc bấy giờ các thủ lãnh của Chân Lý Thái Bình quyết định bước sang giai đoạn kế tiếp. Họ nhận định rằng các tờ hịch “Giáo Quyền hay Nhân Quyền”được phổ biến ngày hôm trước không nhiều thì ít đã làm giao động tinh thần các Hoàng Đế và Phó vương trong cuộc đại hội. Do đó họ quyết định xuất đầu lộ diện toàn bộ lực lượng, công khai nói lên lập trường và nguyện vọng chánh đáng của dân chúng Hoài Quốc taị Doanh Tuẫn Giáo.

Mặc dầu trời mưa như trút nước và gió lạnh như da cắt thịt, các nghĩa quân vẫn ngang nhiên đứng giữa trời để thực hiện cho bằng được kế hoạch. Tất cả nghĩa quân đều vận nội lực thâm hậu, sử dụng thuật “Thiết Bố Sam” làm cho da thịt trở nên cứng như gang thép để chống lại thời tiết lạnh lẽo của thủ phủ miền Đông Bắc. Họ cho giăng những băng vải màu đỏ như máu, trên có kẻ những hàng chữ màu trắng trước cổng ra vào của Hiếu Tân Đại Tửu Lầu. Nội dung của những hàng chữ nhằm chống lại chính sách cai trị độc ác và thái độ lạ lùng của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma. Ngoài những băng vải to kể trên, nghĩa quân của Chân Lý Thái Bình còn đeo trên ngực những bảng nhỏ bằng giấy cứng cũng có cùng nội dung, và di hành chậm chạp, nối đuôi như một con rắn trong thế trận “Mãng Xà Uốn Khúc” trước cổng Tửu Lầu. Quả nhiên thế trận kỳ lạ trong kế hoạch tâm lý của nhóm nghĩa quân Hoài Quốc thâu lượm kết quả khả quan. Một số rất đông các Hoàng Đế và Phó vương từ trong tửu lầu nhìn thấy sự hy sinh gian khổ, dầm mưa giải nắng của các nghĩa quân nên đã bước ra ngoài cổng để thăm hỏi, ủng hộ tinh thần và hứa sẽ tìm đủ cách để giúp đỡ cho người Hoài Quốc Đa số các nhà lãnh đạo Thiên Giáo trong cuộc đại hội đã tỏ thái độ bất mãn, hoặc chống đối hoặc kinh ngạc về đường lối cai trị kỳ dị, thất nhân tâm của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma.

Một điểm đặc biệt trong kế hoạch “Kinh Kha sang Tần” này là sự ủng hộ ra mặt của những người bản xứ tại thủ phủ Hoa Thạch Đông. Những người bản xứ khi biết được Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma có đường lối cai trị hoàn toàn trái ngược với chủ thuyết yêu thương của Thiên Giáo, họ đã tức giận tột cùng và quyết chí tìm cho bằng được Ông để chất vấn. Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma khi hay tin tên tuổi mình đã bị nhóm chống đối công bố khắp nơi liền hoảng sợ, tìm cách lẫn tránh tất cả mọi người vì sợ những câu hỏi lôi thôi có thể làm thương tổn đến uy tín của một nhà lãnh đạo Thiên Giáo. Một mặt ông cố tránh né những người muốn tiếp xúc với Ông, mặt khác ông lại sử dụng đường lối ngoại giao mềm dẽo với những nghĩa quân, hy vọng họ sẽ giảm thiểu hình thức chống đối hoàn toàn bất lợi cho Ông tại địa điểm đầy những nhân vật tai mắt của Thiên Giáo. Do đó, trong hai ngày 11 và 12, Ông đã nhiều lần âm thầm đích thân ra tận chỗ các nghĩa quân Chân Lý Thái Bình đang di hành thế trận “Mãng Xà Uốn Khúc” để thăm hỏi và dùng đòn tâm lý xoa dịu những người đang chống đối. Nhưng các Kinh Kha của Doanh Tuẫn Giáo đã có quá nhiều kinh nghiệm đau thương với vị lãnh đạo của họ nên họ vẫn tiếp tục hoàn tất kế hoạch đã được giao phó.

Tục truyền rằng Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma kể từ lúc phát hiện nhóm Chân Lý Thái Bình đã liều lĩnh kéo quân vượt ngàn dặm xuất hiện tại Đại Hội Các Hoàng Đế Thiên Giáo để nói lên nguyện vọng của họ, Ông bắt đầu lo sợ thật sự. Ông ngầm thán phục sự kiên trì và quyết tâm của những người đang chống đối Ông. Ông liên tưởng đến hình ảnh đám người liều lĩnh này sẽ luôn luôn bám sát Ông như bóng với hình tại bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Họ sẽ xuất hiện tại các buổi tế tự do Ông chủ tế, hoặc những lần hội họp Ông phải tham dự, và nhất định họ sẽ lợi dụng những cơ hội như thế để phản đối chính sách cai trị của Ông, khiến cho uy danh của Ông sẽ bị thương tổn. Trong cuộc Đại Hội Các Hoàng Đế tại thủ phủ Hoa Thạch Đông, Ông đã cố né tránh công luận bằng cách tháo gỡ lệnh bài Hoàng Đế có khắc tên của Ông vẫn thường đeo trên ngực mỗi khi Ông bước ra ngoài gian đại sảnh. Đi đứng đâu đâu cũng vội vội vàng vàng và điều này đã làm cho Ông cảm thấy khó chịu như một kẻ tử tội đang trên đường đào thoát. Ông mong muốn những ngày đại hội qua thật nhanh và kết thúc ngay lập tức để Ông khỏi phải sống trong cảnh ngột ngạt, hãi hùng vì lo sợ. Cả trong giấc ngủ hàng đêm, Ông cũng không tài nào nhắm mắt được. Hình ảnh các nghĩa quân Hoài Quốc như những bóng ma dật dờ khi ẩn khi hiện lúc nào cũng ám ảnh Ông. Ông mệt mỏi, băn khoăn, lo lắng, đầu óc lâng lâng dịu vợi. Có những lúc tinh thần quá mệt nhọc, Ông tự trách Ông đã quá coi thường nhóm người Hoài Quốc đang tá túc trên quê hương của Ông. Ông tự nghĩ phải chi Ông thoả mãn hai thỉnh nguyện của họ ngay từ lúc ban đầu thì Ông đâu đến nỗi khổ sở như thế. Ông ước ao lịch sử có thể đi ngược để Ông có cơ hội thay đổi ván cờ.

6.7 TRANH GIÀNH QUYỀN LỢI

Sau khi kế hoạch “Kinh Kha sang Tần” hoàn tất mỹ mãn, tạo được tiếng vang sâu rộng khắp nơi, Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình tiếp tục lắng dịu mọi hoạt động để chờ phản ứng của Triều đình.

Trong lúc ấy, bên phía những người ủng hộ Tổng Trấn Lộ Dung, một vài sự rạn nứt nội bộ bắt đầu xuất hiện. Trong khi Đạo Quân Tử Thủ Đức Tin Thiên Giáo chủ trương cứng rắn, kể cả việc bạo động, để giành quyền kiểm soát thì trái lại, tổ chức Hoài Quốc Nhân Dân Thiên Giáo Hội lại có vẻ muốn theo đuổi đường lối ôn hoà. Sự bất đồng quan điểm trong hai tổ chức trên không lấy gì làm lạ. Trước hết Đạo Quân Tử Thủ Đức Tin Thiên Giáo là thành phần nòng cốt bao gồm những thủ hạ thân tín đã theo phò Tổng Trấn Lộ Dung từ lâu. Họ đã tuyên chiến với Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình kể từ ngày cuộc binh biến bính dần bắt đầu khởi phát. Những thủ lãnh của tổ chức Tử Thủ Đức Tin như Khuyển Ngôn Đầu Đà, Võ Cổn Tú Tài, Tà Đức Nguyên . . . đã ôm ấp mối hy vọng to tát là một ngày đẹp trời nào đó khi Lộ Dung chễm chệ trên ngôi vị Tổng Trấn của Doanh Tuẫn Giáo, thì họ cũng sẽ được Tổng Trấn ban cho bổng lộc, chức tước. Mặc dù đã cố gắng tả xung hữu đột ngăn chận các cuộc tấn công của Chân Lý Thái Bình, Đạo Quân Tử Thủ Đức Tin chủ lực của Lộ Dung cũng không tài nào bảo vệ nổi cho vị chủ tướng vì thực lực quá yếu kém. Điển hình là lần biểu dương lực lượng của Chân Lý Thái Bình tại Đền Thờ Vương Quốc ngày 9 tháng 8 năm Bính Dần 1986 tại Đền Thờ Đồng Tâm . Trong cả hai dịp này, bọn thủ hạ của Lộ Dung đã run sợ thật sự vì chính mắt họ đã tận mắt nhìn thấy lực lượng đông đảo của nhóm chống đối đang chống lại vị Tổng Trấn tham tàn. Trong lúc Đạo Quân Tử Thủ Đức Tin bị nhóm Chân Lý Thái Bình đánh cho tơi tả, tưởng phải rã đám thì bất ngờ tổ chức Hoài Quốc Nhân Dân Thiên Giáo Hội lại nhảy vào vòng chiến.

Hoài Quốc Nhân Dân Thiên Giáo Hội được cầm đầu bởi Trang Bất Lương, một kiếm khách hết thời vì có quá nhiều tham vọng. Trước kia Trang Bất Lương đã từng làm đến chức Chủ sự trong Bang Hành Sự của Doanh Tuần Giáo. Trang Bất Lương vì bất mãn cá nhân và nhất là chỉ ham chức tước danh vọng nên đã trở mặt chống lại dân chúng của Doanh Tuẫn Giáo. Nhận thấy Lộ Dung đang bị nguy khốn, Trang Bất Lương vội vàng chiêu tập một đám thủ hạ về đầu quân dưới trướng của Lộ Dung. Tổng Trấn Lộ Dung trong lúc chán nản tuyệt vọng thấy có người nhảy vào tiếp viện thì cũng phấn khởi phần nào, Ông chiều chuộng, đối đãi hậu hỉ với Trang Bất Lương khiến Trang Bất Lương mơ tưởng đến nhiệm vụ quan trọng sẽ lọt về tay mình một khi giấc mộng Tổng Trấn của Lộ Dung đạt được. Vì thế, Trang Bất Lương càng ra sức đốc thúc thủ hạ hoạt động mạnh mẽ khắp nơi chống lại Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình. Chúng cho phổ biến tờ hịch “Tin Hão” để đối chọi với hịch “Chánh Đạo” của Doanh Tuẫn Giáo. Nhưng dù cố gắng thế nào đi chăng nữa thì hịch Tin Hão về hình thức lẫn nội dung vẫn rất nghèo nàn nếu so với Hịch Chánh Đạo. Mặc dầu biết rõ ý đồ đen tối của Trang Bất Lương, những thủ lãnh của Đạo Quân Tử Thủ Đức Tin vẫn phải tươi tỉnh ngoài mặt để nhận sự tiếp viện của Hoài Quốc Nhân Dân Thiên Giáo Hội. Tuy nhiên bên trong họ vẫn lo củng cố thế lực để chuẩn bị nắm giữ những vai trò nòng cốt trong Doanh phủ một khi Tổng Trấn Lộ Dung đặt được nền móng cai trị tại Doanh Tuẫn Giáo. Dầu cố gắng che đậy thật kỹ càng, thỉnh thoảng vẫn có sự va chạm nội bộ vì sự tranh chấp quyền bính và chủ trương hoạt động của hai tổ chức.

Một yếu tố khác làm cho những người ủng hộ Lộ Dung trở nên chán nản là thái độ bất cần của Triều đình. Trong những tuần lễ cuối tháng 10, một số thủ hạ của Lộ Dung đã liều lĩnh, chủ trương bạo động tại các Đền Thờ vì tưởng rằng làm như thế sẽ được Triều đình ban thưởng trọng hậu. Bọn chúng đã vô cớ chửi bới, tấn công người của Doanh Tuẫn Giáo cốt để cướp tinh thần của những người chống đối. Lập tức Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình hô hoán khắp nơi, báo động với công luận Hồ Sinh về chủ trương gây cảnh “huynh đệ tương tàn” của Triều đình. Lúc bấy giờ, vì sợ công luận lên án, Triều đình vội vàng phủ nhận hành động của những người ủng hộ Lộ Dung và khép tội họ là những kẻ quá khích, vô đạo. Họ chán nản vì thái độ “đem con bỏ chợ” của Triều đình và rỉ tai nhau bỏ ngũ. Những sự rạn nứt nội bộ, cộng với thái độ “vắt chanh bỏ vỏ” của Triều đình và nhất là những tin tức liên quan đến hoạt động của nhóm nghĩa quân Chân Lý Thái Bình tại thủ phủ Hoa Thạch Đông càng làm cho thủ hạ của Lộ Dung chán nản và mệt mỏi. Vì thế, trong các buổi tế tự cuối tuần vào đầu tháng 11, nhóm ngưòi ủng hộ Lộ Dung bắt đầu thưa thớt, ít thấy xuất hiện và hung hăng như trước. Dầu vậy vẫn còn lác đác một vài tên ngông cuồng dùng những lời loạn ngôn nhục mạ người của Doanh Tuẫn Giáo, điển hình là Vãn Xú Đầu Đà, Trang Cống Tần . . .


--------------------
mm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
mviet
post Dec 20 2010, 01:29 PM
Post #7


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,769
Joined: 9-September 10
Member No.: 15,235
Country








Thời Kỳ Vong Quốc - Chương 7

CHƯƠNG VII
HÒA GIẢI BẾ TẮC



7.1 SỚ PHÚC TRÌNH CỦA CHƯỞNG MÔN NGUYÊN ĐỨC THIỆP

Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma sau cuộc họp với các Hoàng Đế Thiên Giáo tại Hoa Thạch Đông, trở về Hồ Sinh với một sự bực tức khôn tả. Ông căm giận nhóm Chân Lý Thái Bình đã cả gan vạch trần chính sách cai trị khắc nghiệt của Ông cho các Hoàng Đế Thiên Giáo. Vì thế tên tuổi Ông đã được các nhà lãnh đạo Thiên Giáo nhắc nhở luôn luôn và điều này đã làm cho uy tín của Ông giảm sút rất nhiều. Để vớt vát lại chút nào uy tín và hoá giải một phần những thiệt hại do nhóm chống đối gây ra, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma cho triệu tập các quan cận thần trung tín hầu tìm biện pháp đối phó. Sau nhiều ngày hội họp, bàn thảo, Triều đình bắt đầu cho thực hiện kế hoạch thâm độc nhằm đánh lạc hướng cuộc tranh đấu của người Hoài Quốc tại Doanh Tuẫn Giáo.

Buổi chiều ngày 20 tháng 11 năm Bính Dần 1986, trong lúc Bạc Trang Hán Tử đang ngồi đọc sách trong thư phòng thì người bưu trạm hộc tốc gõ cửa trao cho Ông một mật thư hoả tốc có đóng dấu triện của Dinh Tể Tướng. Bạc Trang Hán Tử vội mở ra xem thì bắt gặp một bức thư với thủ bút của Tể Tướng Xú Uế Vân. Trong thư, đích thân vị Tể Tướng của Triều đình Thạch Đỗ Ma mời Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang của Doanh Tuẫn Giáo tham dự cuộc tỉ võ tay ba do Ông đứng làm chủ đài. Cuộc tỉ võ này nhằm mục đích khai thông những bế tắc của vấn đề người Hoài Quốc. Song song với thư mời giao đấu, Tể Tướng Xú Uế Vân cũng còn gửi cho Bạc Trang Hán Tử một bản sao tờ sớ phúc trình của vị sứ giả hoà giải là Quan Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp. Bạc Trang Hán Tử liếc nhìn sơ tờ sớ thì cau mày lộ vẻ khó chịu. Tờ sớ vừa đọc có những điểm vô lý kể sau:

- Sớ phúc trình không đề ngày tháng, niên lịch như các văn kiện quan trọng.
- Thứ hai không thấy dấu triện hoặc ấn tính của Quan Chưởng Môn.
- Thứ ba là điều hết sức quan trọng. Bạc Trang Hán Tử trước kia có tiếp xúc với vị Sứ giả thì được biết tờ sớ phúc trình của Ông khá dài. Những điều nhận xét về Triều đình và dân chúng Hoài Quốc được Quan Chưởng Môn đúc kết và viết lại trên một tờ sớ dài khoảng 9 trang. Thế mà bản sao tờ sớ Tể Tướng Xú Uế Vân gửi cho Bạc Trang hôm ấy chỉ dài độ 3 trang và nhất là nội dung chỉ chứa đựng những lời lẽ lên án việc thỉnh nguyện của Chân Lý Thái Bình. Bạc Trang Hán Tử đã thừa biết 6 trang còn lại của tờ sớ chứa đựng những điều bất lợi cho Triều đình; do đó Triều đình quyết định cắt xén và ém nhẹm không cho phổ biến. Nhất là những giải pháp được Quan Chưởng Môn đề nghị liên quan đến sự ra đi tránh mặt của Lộ Dung cũng không thấy tiết lộ. Bạc Trang Hán Tử cho người liên lạc với Giáo Học Thiền Trang và được biết vị Chủ sự của Bang Hành Sự cũng nhận được một mật thư tương tự. Cả hai vội thông báo cho Đệ Nhất võ quan của Triều đình Thạch Đỗ Ma là Tể Tướng Xú Uế Vân và chấp nhận cuộc tỉ thí vào ngày hôm sau để dò xem thái độ của Triều đình.

Chiều ngày 21 tháng 11 vào khoảng đầu giờ Thân, tại bãi đất trống trải nằm sau bức tường bên ngoài Chánh Điện của Đền Thờ Vương Quốc, cuộc tỉ thí giữa hai bên bắt đầu. Tể Tướng Xú Uế Vân trong bộ võ phục quen thuộc màu đen của Thiên Giáo khuỳnh hai tay bái tổ vào thế. Bài quyền ra mắt của ông ngày hôm ấy thật là uyển chuyển, nhu mì không có vẻ gì thô bạo hung hãn như lần giao đấu với Bạc Trang Hán Tử trên võ đài của Đệ Thập Nhất Truyền Ảnh Trạm. Với nụ cười trên môi, khuôn mặt hớn hở, Tể Tướng Xú Uế Vân một tay vỗ nhẹ vào vai của Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang trong thế “Thông Cảm Quyền”, tay còn lại dùng phán quan bút nguệch ngoạc hai chữ đại tự “Hiểu Lầm” trên mặt đất. Cả hai cao thủ của Doanh Tuẫn Giáo đều nhanh trí đoán biết vị Tể Tướng đang nghĩ gì về cuộc tranh chấp của người Hoài Quốc; tuy nhiên, họ vẫn đứng chờ, chưa vội động thủ. Tể Tướng Xú Uế Vân sau khi thi triển bút pháp trên mặt đất, ông vội luồn tay vào ngực lôi ra tờ sớ ba trang vắn tắt của Quan Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp. Đến lúc ấy, Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang không thể nhịn hơn nữa, cả hai tung người nhảy vọt lên cao như hai chiếc pháo thăng thiên, đầu lắc nguầy nguậy, hai tay khoác liên hồi trước mặt vị Tể Tướng trong thế “Tam Vô Pháp”, ý nói không muốn xem, không muốn nghe, không muốn đọc vì tất cả những lời lẽ trong sớ chỉ là sự lập đi lập lại ngôn ngữ của Triều đình. Tể Tướng Xú Uế Vân thấy hai cao thủ của Doanh Tuẫn Giáo quyết liệt chống lại tờ sớ bửu bối của Ông, nên vội vàng mở nắp một chiếc bầu to trong chứa thứ nước đặc quánh như mật. Ông dốc một hơi vào mồm gần cạn bầu rồi bắt đầu dùng ngữ pháp ngọt ngào rót vào tai hai cao thủ Chân Lý Thái Bình. Ông cố gắng khuyến dụ họ và buộc họ phải nhìn nhận rằng cuộc chống đối Triều đình chỉ do sự hiểu lầm mà ra. Nhận thấy ngữ pháp của vị võ quan Triều đình chỉ làm ngứa ngáy màng nhĩ, cả hai cùng rút vội cặp song kiếm “Chân Lý Thái Bình” và bắt đầu kết hợp theo thế liên hoàn “Thượng Bất Chánh Hạ Tắc Loạn” tố cáo những điều sai quấy của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma và Tổng Trấn Lộ Dung khiến cho dân chúng của Doanh Tuẫn Giáo phải thỉnh nguyện trong khổ sở.

Sau khi cố gắng giao đấu bằng những thế đánh ôn hoà nhưng không kết quả, Tể Tướng Xú Uế Vân bắt đầu nổi nóng. Mặt Ông đổi màu đỏ như gấc, máu dồn lên đầu nóng hừng hực. Thủ pháp của ông và nhất là ngôn ngữ bắt đầu chuyển hướng. Ông bắt đầu để lộ con người thực của Ông. Những thế đánh mềm dẻo, uyển chuyển của “Bồ Câu Pháp” lúc ban đầu bắt đầu trở thành những cái vung tay, đá chân đầy phẫn nộ, hung hãn của “Mã Nhập Quyền”. Hai mắt long lên sòng sọc, mặt đỏ tía tai, tay đập xuống nền đất thùm thụp, mồm phun ra những ngôn từ thật khó nghe. Giáo Học Thiền Trang dùng hết sức bình sinh chống trả mãnh liệt bằng tất cả lập luận vững chắc của một người am hiểu đầy đủ tình hình. Bạc Trang Hán Tử thấy lối đánh của Tể Tướng Xú Uế Vân đầy tính cách hung hăng nóng nảy, ông vội dùng đấu pháp “Tiếu Ngạo Môn” vừa cười cười vừa chọc giận địch thủ. Quả nhiên vị võ quan của Triều đình lại càng nổi nóng, ngôn từ bừa bãi và đấu pháp ngày càng rối loạn.

Đến khoảng giờ Thân, thấy trời đã gần tối, Tể Tướng Xú Uế Vân cảm thấy thấm mệt, vội thu quyền về. Ông biết không dễ gì thuyết phục hai cao thủ của Doanh Tuẫn Giáo chấp nhận những sự lầm lỗi như trong tờ sớ của Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp. Trái lại, buộc lòng ông phải thoả mãn lời yêu cầu của họ là tất cả những thông tư và yết thị trước đây của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma liên quan đến chính sách cai trị đối với Doanh Tuẫn Giáo có những thiếu sót. Để tỏ thiện chí, hai cao thủ của Chân Lý Thái Bình hứa sẽ cố gắng cho sửa đổi những gì xét thấy là không đúng trong việc cắt nghĩa chính sách của Triều đình. Cả ba đều đồng ý sẽ tái đấu vào ngày 5 tháng 12 năm Bính Dần 1986.

Cuối tuần lễ đó, Lộ Dung và thủ hạ rần rộ cho phổ biến tờ sớ thiếu đầu thiếu đuôi đã bị cắt xén quá nhiều của vị Sứ giả. Việc làm đen tối này đã bị hịch Chánh Đạo phơi bày trước công luận trong phần nhận định được viết vào giờ chót vì những thủ lãnh của Chân Lý Thái Bình biết chắc bọn người Lộ Dung sẽ lợi dụng cơ hội này để làm giảm tinh thần phe chống đối. Âm mưu của họ bị đập tan thêm một lần nữa . . .

7.2 QUYẾT TÂM GIỮ TRẤN

Đúng như dự đoán của Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình, Triều đình và Lộ Dung cố gắng nắm quyền chủ động tại các Đền Thờ vào cuối tháng 11 năm Bính Dần 1986. Dựa vào tờ sớ phúc trình của Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp, những người ủng hộ Lộ Dung tin tưởng rằng họ có thể giành lấy quyền kiểm soát tại các buổi tế tự mà không sợ công luận lên án. Một yếu tố khác khiến thủ hạ của Lộ Dung trở nên chủ quan là sự lắng dịu của phe Chân Lý Thái Bình. Sự lắng dịu này trước sau vẫn là chủ trương cố hữu của những người ở Doanh Tuẫn Giáo. Tuy nhiên thủ hạ Lộ Dung đã không nghĩ như thế. Trái lại, họ cho rằng những người chống đối đã bắt đầu chán nản, tan rã hàng ngũ sau gần năm tháng đòi hỏi hai thỉnh nguyện. Trong suốt tuần lễ đó, tin tức của quân thám báo của Chân Lý Thái Bình thu lượm được cho thấy những hoạt động rộn rịp của phe Lộ Dung chuẩn bị cho kế hoạch “Tổng vùng lên” chính thức được phát động vào cuối tuần. Để kế hoạch được thành công hoàn toàn, thủ hạ của Lộ Dung đã thao luyện võ nghệ ráo riết, bày trận giả thực tập hàng đêm, học tập và bàn bạc kỹ lưỡng mọi chi tiết của kế hoạch.

Để đối phó với tình hình đột biến mang chiều hướng bất lợi, Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình một mặt tung ra những nhận định trên hịch Chánh Đạo đả phá sớ phúc trình vắn tắt của Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp có những nhận định thiếu khách quan, mặt khác thu thập ý kiến của dân chúng trong buổi Tiểu Diên Hồng Hội ngày 28 tháng 11 để tìm biện pháp đối phó. Tất cả dân chúng có mặt trong sảnh đường đêm hôm ấy đã nhất tề cương quyết chống lại mọi âm mưu lấn lướt của phe Lộ Dung. Họ khuyến cáo những thủ lĩnh của Chân Lý Thái Bình không nên hoà hoãn nhượng bộ thêm nữa và bày tỏ tinh thần đoàn kết quyết tâm bẻ gãy mọi kế hoạch tiếm quyền của phe Lộ Dung. Giáo Học Thiền Trang vội vàng thảo một tối hậu thư vạch rõ ý đồ đen tối của nhóm người ủng hộ Triều đình và cấp tốc cho người mang thư đến các quan Tổng Trấn của ba Đền Thờ Nữ Vương Thái Bình, Đền Thờ Sanh Lưu Xinh và Đền Thờ Nhất Thể Tam Vị. Trong thư ông tái xác định lập trường ôn hoà cố hữu của Doanh Tuẫn Giáo, đồng thời nói lên âm mưu tiếm quyền kiểm soát của phe Lộ Dung. Ông yêu cầu các vị Tổng Trấn bản xứ tìm biện pháp khôn khéo ngăn chận việc những người do Triều đình cắt cử đi thâu thuế để tránh cảnh hỗn loạn có thể xảy ra vì sự chống đối của những người thuộc Doanh Tuẫn Giáo.

Tối ngày 29 tháng 11 năm Bính Dần 1986, những thủ hạ Lộ Dung kéo đến Đền Thờ Nữ Vương Thái Bình thật sớm, dáng điệu hăng hái, bố trí khắp nơi trong Đền Thờ, chuẩn bị thi hành kế hoạch. Chúng cho người quan sát và canh gác các nơi đang để những giỏ thâu thuế. Không may cho chúng là vị Tổng Trấn bản xứ của Đền Thờ Nữ Vương Thái Bình linh cảm sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra nếu ông không can thiệp gấp. Bức thư của Giáo Học Thiền Trang mà ông nhận được từ buổi sáng nói lên tầm mức quan trọng của vấn đề. Lập tức ông yêu cầu Phó Tổng Trấn Đậu Lư đang chủ tế ngày hôm ấy đặt những giỏ thuế trước Chánh Điện để dân chúng tự động lên đóng góp. Bọn thủ hạ Lộ Dung thấy kế hoạch bị thất bại vào giờ chót liền hậm hực kéo nhau ra về.

Sáng hôm sau không khí ngột ngạt vẫn bao trùm buổi tế tự tại hội đường của Đền Thờ Sanh Lưu Xinh. Lực lượng hai bên gườm nhau như hai con thú dữ trong suốt buổi tế. Nhận thấy tình hình không có vẻ gì là hoà dịu, Phó Tổng Trấn Chánh Nguyên quyết định cử hai chú tiểu đồng hầu tế đi làm công việc thâu thuế. Thế là cả hai lần toan tính đều thất bại. Một số người ủng hộ Lộ Dung đã trở nên giận dữ và một vài cuộc cãi vã nho nhỏ diễn ra nhưng mọi sự đều được dàn xếp êm đẹp. Sau đó phe Lộ Dung kéo dốc toàn lực về Lê Gia Trang để bàn định kế hoạch cho ván bài chót là Đền Thờ Nhất Thể Tam Vị vào buổi chiều cùng ngày.

Vào khoảng đầu giờ Mùi, trong lúc sinh hoạt tại Hồ Sinh có phần mệt mỏi uể oải dưới cái nóng của một buổi trưa rực nắng, đoàn chiến mã từ Doanh Tuẫn Giáo cuốn thốc bụi mù trực chỉ Đền Thờ Nhất Thể Tam Vị. Đây là lần di quân đông đảo nhất của Chân Lý Thái Bình kể từ sau ngày Lễ Trao Gươm 16 tháng 8 năm Bính Dần 1986. Khí thế của nhóm nghĩa quân hôm ấy lên thật cao vì tin tức cuối cùng cho thấy thủ hạ của Lộ Dung sẽ “Tổng vùng lên” bằng mọi giá. Cuộc giao tranh chỉ còn trong đường tơ kẻ tóc. Đoàn người ngựa của Chân Lý Thái Bình vừa đến cổng Đền Thờ liền phân tán, len lõi vào những chỗ quan yếu. Lúc bấy giờ thủ hạ của Lộ Dung cũng đứng rải rác khắp nơi, vẻ mặt cực kỳ khẩn trương. Đạo quân chủ lực của Chân Lý Thái Bình cắt cử khoảng ba mươi cao thủ tiến về phòng xiêm y của Đền Thờ vì họ được cấp báo thủ hạ Lộ Dung đang cố thủ hậu điện, sửa soạn cho cuộc tế. Nhóm Chân Lý Thái Bình trong nháy mắt đã tràn ngập gian phòng xiêm y nhỏ bé. Khẩu chưởng hai bên bắt đầu tung ra. Một số thủ lãnh của Đạo Quân Tử Thủ Đức Tin thuộc phe Lộ Dung thấy khí thế dõng mãnh của Chân Lý Thái Bình thì hoảng sợ, lập tức đào thoát bằng cổng hậu của phòng xiêm y. Số còn lại khẩu chưởng yếu ớt rời rạc như rắn không đầu.

Lúc bấy giờ Tổng Trấn Hầu Bao của Đền Thờ Nhất Thể Tam Vị thấy tình hình cực kỳ căng thẳng, ông vội bước ra giữa chánh điện tuyên đọc bức tối hậu thư của Giáo Học Thiền Trang mà ông nhận được ngày hôm trước. Mục đích của ông lúc bấy giờ là kêu gọi sự bình tĩnh của dân chúng đang có mặt trong Đền Thờ. Vì không thể dùng ngôn ngữ Hoài Quốc, ông nhờ Liễu Tu Sinh chuyển dịch những lời của ông. Liễu Tu Sinh tuổi ngoài hai mươi là một trong những tiểu tử của Lê Gia Trang Chủ, năm đó đang theo học tại trường Quốc Tử Giám Sanh Phá Trạch, nơi đào tạo các võ quan Thiên Giáo cho Vương quốc Hồ Sinh và các Vương quốc lân cận. Liễu Tu Sinh được Lộ Dung nhận làm dưỡng tử nên người môn đồ luôn tìm cơ hội để giúp đỡ đền ơn vị ân nhân của mình. Hôm ấy, vì muốn lập công với Triều đình và Tổng Trấn Lộ Dung, Liễu Tu Sinh cố tình dịch sai lạc bức thư của Giáo Học Thiền Trang và tự ý đọc thêm lệnh cắt cử người đi thâu thuế do Triều đình ban ra trước đó hai tháng. Khi hắn chưa kịp dứt lời thì trời đất như rung chuyển cực độ. Tất cả mọi người có mặt trong Đền Thờ đều đứng bật cả lên, la hét rầm rĩ, phản đối lối dịch đầy thâm độc của hắn. Liễu Tu Sinh sực nhớ đến ngày 9 tháng 8 năm đó, khi những người chống đối gào thét như trời long đất lở, tẩy chay Tổng Trấn Lộ Dung khỏi Đền Thờ Vương Quốc. Hắn lo sợ thật sự và tự than thân trách phận đã dại dột đùa với lửa. Tổng Trấn Tích Hầu Bao đứng ngơ ngác hồi lâu không hiểu vì sao đám dân trước mặt đột nhiên phản đối dữ dội. Một người trong nhóm Chân Lý Thái Bình vội vàng giải thích vắn tắt cho ông. Ông vội ra hiệu cho mọi người bình tĩnh và bắt đầu xin lỗi dân chúng vì đã chọn lầm một người thiếu thành thực để làm công việc dịch thuật. Sau đó Ông tuyên bố huỷ bỏ buổi tế tự vì nhận thấy tình hình không mấy thuận lợi để tránh những sự đáng tiếc có thể xảy ra. Bọn thủ hạ Lộ Dung nghe tin buối tế bị huỷ bỏ thì sung sướng ra mặt. Bọn chúng cho rằng nếu không nắm được quyền kiểm soát thì nên dẹp bỏ những buổi tế tự để dân chúng của Doanh Tuẫn Giáo cũng chịu thiệt hại. Mặc dù chứng tỏ cho Triều đình và phe Lộ Dung thấy sự cưong quyết chống đối lại mọi lệnh lạc vô lý, nhóm Chân Lý Thái Bình lượng định trước tình hình sẽ không lấy gì làm khả quan trong những ngày kế tiếp. Họ cũng ngao ngán về tư cách của những ngưòi đang được huấn luyện để trở thành những võ quan Thiên Giáo như Liễu Tu Sinh.

Tục truyền rằng trong phòng xiêm y của Đền Thờ Nhất Thể Tam Vị buổi chiều hôm ấy, một số thủ hạ của Lộ Dung đã lợi dụng sự đỡ đầu của Triều đình nên đã tỏ ra hống hách bất chấp những lời phân trần phải quấy của nhóm Chân Lý Thái Bình. Nhận thấy đã đến lúc cần phải biểu dương sức mạnh, Bang Chủ tráng niên bang là Ngươn Trấn Cương bắt đầu thi triển công lực. Sau khi quan sát chung quanh, thấy căn phòng quá nhỏ hẹp trong khi người đứng chật như nêm cối, ông nghĩ ngay đến thế “ Phụng Hoàng Đập Cánh” trong “Điểu Quyền” mà ông vẫn thích sử dụng ở những nơi đông người như hôm ấy. “ Phụng Hoàng Đập Cánh” là thế võ rất khó luyện, chỉ có những cao thủ có trình độ võ thuật thượng đẳng và ý chí sắt đá mới có thể thi triễn thế võ này. Ngươn Trấn Cương hít một làn hơi thật dài đầy ngực, vận khí đan điền, máu chuyển hết lên đầu khiến mặt ông đỏ bừng như mặt trời đúng ngọ. Cùng lúc ấy, mười thần công lực dồn hết ra hai cánh tay, các bắp thịt săn cứng như hai thanh thép nguội. Mười ngón tay nắm chặt, cánh tay co vào, khuỷu tay chìa ra như hai cánh chim phụng hoàng sắp sửa bay lượn. Trong lúc những tên thủ hạ Lộ Dung còn đang oang oanh này nọ, Ngươn Trấn Cương lẳng lặng vung hai khuỷu tay thật mạnh. Lập tức hai luồn kinh phong ào ạt tốc ra hai bên. Hai tên thủ hạ của Lộ Dung đang đứng gần đấy thấy luồng nội lực kinh khiếp ào ào bay đến, chúng vội vàng vận hết nội lực trong người ra chống đỡ. Nhưng võ công của chúng quá kém và nhất là phản ứng quá chậm, chúng trở tay không kịp, luồng kình lực vũ bão như cơn lốc, xoáy thốc vào hông của chúng. Như búa tạ ngàn cân va vào cạnh sườn, hai tên thủ hạ của Lộ Dung chỉ kịp kêu lên một tiếng “hự!” rồi lảo đảo bước ra ngoài không dám ngoái cổ lại.

Thấy hai đồng bọn bị sức gió đã ra nội thương trầm trọng, một tên thủ hạ khác kinh vãi vội móc chiếc tù và và định đưa lên mồm thổi để báo động. Lập tức Thuỷ Tần Quới Vĩnh Nguyên của Chân Lý Thái Bình phi thân đứng sát người tên nọ. Thuỷ Tần Quới Vĩnh Nguyên là cao thủ của Doanh Tuẫn Giáo, khi còn ở Hoài Quốc đã từng tham dự các trận hải chiến và đục thủng rất nhiều thuyền bè của bọn Rợ Hồ bằng thủ pháp siêu đẳng của Ông. Thấy thủ hạ của Lộ Dung giở trò thổi tù và như trẻ con, ông tức giận dùng “Nhất Dương Chỉ” điểm ngay mặt hắn hét to “Lão già kia! Dẹp trò rởm ngay, bằng không ta cho đi thổi kèn đám tang bây giờ”. Vì đã từng nghe danh của Quới Vĩnh Nguyên và nhất là cảm thấy da thịt mình không cứng bằng vỏ tàu chiến, tên thủ hạ Lộ Dung vội vàng giấu chiếc tù và vào cạp quần rồi lủi vào đám đông mất dạng.

Sau khi buổi tế tại Đền Thờ bị huỷ bỏ, thủ hạ của Lộ Dung hí hửng kéo về phúc trình tự sự cho chủ tướng. Lộ Dung đang hân hoan mơ tưởng bọn thủ hạ của ông sẽ làm chủ tình hình tại Đền Thờ thì bất thần bọn chúng kéo vào. Sau khi nghe báo cáo, Tổng Trấn Lộ Dung sa sầm nét mặt, nụ cười chợt tắt. Ông điểm ngay vào mặt tên thủ lãnh và giận dữ quát: “Chúng bay chỉ toàn một lũ ăn hại. Ta tưởng chúng bay sẽ làm nên cơm cháo gì, ai ngờ lại mang thân tàn ma dại về nhà. Đã không nắm được quyền kiểm soát còn làm hư buổi tế. Chúng bay có biết rằng nếu buổi tế vẫn được tiếp diễn thì dù bọn Chân Lý Thái Bình có tẩy chay đóng thuế, ta vẫn còn thâu về được vài chục quan tiền. Bây giờ buổi tế đã huỷ bỏ thì lấy tiền đâu bù vào chỗ thiếu hụt đó. Rõ là một đám báo cô”.

7.3 HỘI NGHỊ TAN VỠ

Ngày 5 tháng 12 năm Bính Dần 1986, vào khoảng giờ Ngọ, không khí tại Doanh Tuẫn Giáo đột nhiên sôi động. Một số nghĩa quân và dân chúng của Bang Phòng Thủ Chân Lý và Thái Bình bỏ dở những công việc thường nhật, kéo nhau về tập họp tại Doanh phủ để chuẩn bị cho cuộc tỉ võ đã được giao ước giữa Tể Tướng Xú Uế Vân và hai thủ lãnh của họ sẽ diễn ra vào buổi chiều. Việc tập họp đông đảo này có hai mục đích: thứ nhất để yểm trợ tinh thần của Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang trong sứ mạng khó khăn trước mắt, thứ hai ngăn ngừa những biến chuyển bất ngờ có thể xảy ra vì nghĩa quân của Chân Lý Thái Bình đã nhận được những lời đe doạ liên quan đến hai thủ lãnh của Doanh Tuẫn Giáo.

Cuộc hội ngộ giữa Triều đình và nhóm chống đối vào buổi chiều hôm ấy thật là quan trọng vì không khí căng thẳng đã kéo dài suốt cả tuần lễ. Khởi đầu là việc huỷ bỏ buổi tế tự tại Đền Thờ Nhất Thể Tam Vị vào ngày 30 tháng 11 kéo theo những tin tức liên quan đến việc chấm dứt tất cả các buổi tế tự bằng ngôn ngữ Hoài Quốc trong khắp lãnh thổ Hồ Sinh. Triều đình Thạch Đỗ Ma viện dẫn lý do an ninh trong các buổi tế tự nên đã chuẩn bị cho phổ biến yết thị cảnh cáo phe Chân Lý Thái Bình nếu họ vẫn tiếp tục chống lại những người đã được Triều đình cắt cử đi thâu thuế Đền Thờ. Dân chúng của Doanh Tuẫn Giáo hy vọng cuộc hội ngộ giữa Tể Tướng Xú Uế Vân Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang sẽ mang lại một giải pháp ổn định tình hình đang căng thẳng, đồng thời khai thông những bế tắc liên quan đến hai thỉnh nguyện của Doanh Tuẫn Giáo.

Hai thủ lãnh của Doanh Tuẫn Giáo được đoàn nghĩa quân đông đảo của Chân Lý Thái Bình hộ tống đến Trường Quốc Tử Giám Sanh Phá Trạch ở Trấn Vưu Sơn để gặp Tể Tướng Xú Uế Vân. Cuộc hội ngộ hôm ấy đặc biệt có sự hiện diện của Phó Tể Tướng kiêm Công Bộ Thượng Thư Ẩu Gàn Bộ, một người có khuynh hướng ôn hoà của Triều đình Thạch Đỗ Ma. Trong cuộc giao đấu, Phó Tể Tướng Ẩu Gàn Bộ chỉ đứng ngoài quan sát, chốc chốc lại cúi xuống ghi chép những thế đánh của cả hai phe. Tể Tướng Xú Uế Vân vẫn áp dụng lối đánh cố hữu bằng những thủ pháp ào ạt dồn dập ngay từ lúc đầu,. Khi hai thủ lĩnh Chân Lý Thái Bình chưa kịp chấm dứt bài quyền ra mắt, Tể Tướng Xú Uế Vân đã vội vàng rút một mảnh giấy màu trắng giấu bên trong những tranh sách của hịch Chánh Đạo đang cầm trên tay, cuộn tròn lại như mũi phi tiêu và phóng thẳng vào đối thủ. Ông hớn hở ra mặt, tin tưởng rằng thế phóng ám khí đầu tiên sẽ gây thương tích cho Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang. Ngạc nhiên tột cùng vì lối phóng phi tiêu kỳ dị của viên Đệ Nhất võ quan của Triều đình, hai hảo hán của Doanh Tuẫn Giáo không ai bảo ai đều vận khinh công thượng đẳng sẵn có, tung người lên cao, bốn bàn tay phối hợp đẩy ra một luồng kình lực hãm bớt vận tốc của mũi phi tiêu giấy đang bay vút đến họ. Bạc Trang Hán Tử dáng người nhỏ thó, sở trường về những thế đánh uyển chuyển, vội giở ngay thế “Phi Yến” né người sang một bên, hai tay giang rộng như chim én đang bay lượn, đồng thời dùng mưòi ngón tay kẹp chặt mũi phi tiêu của Tể Tướng Xú Uế Vân. Bạc Trang Hán Tử cảm thấy bàn chân của mình lành lạnh như chạm phải nước. Ôi vội nhìn xuống thì thấy lòng bàn chân loang lổ những vết màu đen như mực. Lấy làm kỳ lạ, ông mở banh mũi phi tiêu giấy thì bắt gặp mảnh giấy quen thuộc: tờ sớ phúc trình vắn tắt của Chưởng Môn Nguyên Đức Thiệp. Phía cuối tờ sớ có điểm khác biệt là lần này có thêm dấu triện chưa ráo mực của vị Chưởng Môn. Lúc bấy giờ cả hai cao thủ của Chân Lý Thái Bình mới vỡ lẽ là Triều đình muốn minh chứng cho họ thấy tờ sớ của Nguyên Đức Thiệp là sớ thật, không phải văn từ giả mạo. Tuy nhiên cả hai người của Doanh Tuẫn Giáo đều ôm bụng cười thầm về đấu pháp ấu trĩ kể trên: tờ sớ được phổ biến đã hơn tuần lễ mà đến giờ đó mực dấu triện vẫn chưa khô.

Tể Tướng Xú Uế Vân thấy lối phóng phi tiêu bị hoá giải nhanh chóng liền chuyển cuộc đấu sang vấn đề Thể Nhân Trấn. Hai chân ông lúc ấy đứng xoạc rộng, hai tay giăng ra như cản đường trong thế “Thái Sơn Ngăn Lộ”, ý nói việc thỉnh nguyện Thể Nhân Trấn của ngưòi Hoài Quốc đã gặp phiến đá to như núi. Đồng thời ông rút vội phán quan bút đang cài ở ngực áo vẽ nguệch ngoạc bức hoạ một Đền Thờ đang được xây cất trên một khu đất rộng. Nhìn bức hoạ, hai cao thủ của Chân Lý Thái Bình ước tính thời giá của Đền Thờ cộng với đất đai sẽ lên tới ít nhất hai triệu quan. Cả Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang lấy làm tức giận, bê hai tảng đá gần đó đưa lên khỏi đầu trong thế “Đội Đá Vá Trời” như oán trách Triều đình đã đòi hỏi ở dân chúng Hoài Quốc một điều không tưởng.

Cuộc tỉ võ hầu như kết thúc vào lúc đó vì hai cao thủ của Doanh Tuẫn Giáo không còn cảm thấy hy vọng gì ở Triều đình. Trước khi rời khỏi đấu tràng, Tể Tướng Xú Uế Vân còn ráng tung hai thế võ quen thuộc: Một có tên là “Phản Kháng Quyền”, lên án những bài viết trong hịch Chánh Đạo thiếu thiện chí, và thế thứ nhì là “Đe Doạ Pháp” cảnh cáo những người chống đối sẽ gặp biện pháp mạnh nếu tiếp tục có xáo trộn tại các buổi tế tự. Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang chán nản, phóng nhanh khỏi đấu tràng, đầu óc đầy những hình ảnh và kế hoạch phải làm cho những ngày kế tiếp.

7.4 NHẤT TRÍ TRONG HÀNH ĐỘNG

Tin tức về sự tan vỡ của cuộc hội ngộ giữa Tể Tướng Xú Uế Vân và hai thủ lãnh của Chân Lý Thái Bình lan rộng nhanh chóng đến mọi người dân ở Hồ Sinh. Triều đình ngầm ra chỉ thị cho các Tổng Trấn người bản xứ hỗ trợ cho kế hoạch đưa người của Lộ Dung đi thâu thuế tại các Đền Thờ. Tham Mưu Bộ của Lộ Dung gấp rút tập họp thủ hạ của ba tổ chức thuộc quyền chuẩn bị đối đầu với nhóm Chân Lý Thái Bình. Đạo Quân Tử Thủ Đức Tin Thiên Giáo do Khuyển Ngôn Đầu Đà làm Tổng khậu, Hoài Quốc Nhân Dân Thiên Giáo Hội do Trang Bất Lương làm Hội Chủ và Đạo quân binh Công Cán Thiên Giáo Hoài Quốc do Trang Bạch Thố làm chủ đạo họp suốt đêm 5 tháng 12 năm Bình Dần 1968 và suốt ngày hôm sau để cắt đặt và duyệt xét tình hình. Họ tiên liệu những phản ứng mạnh mẽ của Doanh Tuẫn Giáo sẽ đổ lên đầu họ một khi Triều đình cương quyết thi hành kế hoạch thâu thuế đã dự trù.

Trong khi đó tại sảnh đường của Doanh Tuẫn Giáo đêm mồng 5 tháng 12 cũng không kém phần sôi động. Nỗi tuyệt vọng vì cuộc đấu tranh đi vào bế tắc cộng thêm thái độ cứng rắn của Triều đình sẽ áp dụng biện pháp huỷ bỏ các buổi tế tự khiến toàn thể dân chúng uất ức tột cùng. Họ cương quyết dốc toàn lực chống lại những áp bức vô lối của Triều đình và thái độ ngang ngạnh của Lộ Dung và thủ hạ của ông ta. Tuy nhiên có một điểm may mắn cho họ là tại Đền Thờ Nữ Vương Thái Bình ở Trấn Ánh Dương đêm mồng 6 tháng 12, buổi tế tự vẫn được diễn ra êm thắm vì viên Tổng Trấn người bản xứ đã khôn ngoan cho áp dụng biện pháp đặt giỏ thuế trước Chánh Điện để dân chúng tự động lên đóng góp. Thất bại tại Đền Thờ Nữ Vương Thái Bình khiến Tham Mưu Bộ của Lộ Dung tức giận. Chúng liền chỉnh đốn hàng ngũ và ra sức thực hiện cho bằng được công tác đã được giao phó vào ngày hôm sau.

Trấn Cẩm Báo, ải địa đầu của Doanh Tuẫn Giáo, nơi chứng kiến những cuộc biến động kể từ ngày lập Trấn thêm một lần nữa ghi dấu sự rạn nứt giữa Triều đình và người Hoài Quốc. Một bên vì thể diện của những người đang nắm giữ quyền hành, một bên vì những thỉnh nguyện chính đáng cần phải thực hiện, cả hai đều bước tới lằn ranh cuối cùng. Tờ mờ sáng ngày mồng 7 tháng 12 năm Bính Dần 1986, lực lượng hai bên tràn ngập hội đường của Đền Thờ Sanh Lưu Xinh của Trấn Cẩm Báo. Quân Cảnh Bị cũng được điều động đến sân tiền đường thật đông sẵn sàng đối phó với những cuộc xung đột của hai phe. Nhóm Chân Lý Thái Bình người đông như rạ đứng chật phía cuối hội đường trong khi thủ hạ của Lộ Dung đứng rải rác phía trên gần bàn tế. Những thủ hạ của Lộ Dung có tên trong danh sách thâu thuế bề ngoài tỏ vẻ lăng xăng nhưng trong bụng phập phồng lo sợ không biết tai ương sẽ ập đến lúc nào.

Tổng Trấn Bồ Xịch của Trấn Cẩm Báo xuất hiện cùng với Phó Tổng Trấn Đậu Lư sáng hôm ấy khiến những người của Chân Lý Thái Bình đoán biết việc gì sẽ xảy ra. Sau khi Phó Tổng Trấn Đậu Lư tuyên đọc bản thông tư của Tể Tướng Xú Uế Vân, trong đó vừa kêu gọi dân chúng giữ thái độ bình tĩnh trong các buổi tế, vừa đe doạ sẽ huỷ bỏ các buổi tế bằng ngôn ngữ Hoài Quốc nếu những người chống đối vẫn bất tuân lệnh của Triều đình. Không khí trong hội đường trở nên căng thẳng khi Tổng Trấn Bồ Xịch bắt đầu tuyên bố. Ông tái xác nhận lệnh bổ nhiệm những người thâu thuế của Tể Tướng Xú Uế Vân và cương quyết cử những người ấy làm công tác đã được giao phó. Có tiếng xì xào từ phía cuối hội đường, dân chúng bắt đầu chuẩn bị. Khi danh tánh năm người của Lộ Dung vừa được xướng lên xong, Hoả Tâm Đại Hiệp Trương Võ Huỳnh lúc bấy giờ đang đứng ở phía trên và Bang Chủ Tráng niên Bang Ngươn Trấn Cương đồng nhất loạt dùng thuật “Sát Nhĩ Truyền Thanh” hét thật to, tẩy chay quyết định của Bồ Xịch. Lập tức không khí trong hội đường ồn ào như vỡ chợ. Tiếng la hét chống đối, tiếng chửi bới xen lẫn tiếng ghế xô đẩy, tiếng chân người bước vội kéo nhau ra ngoài tạo nên khung cảnh thật hỗn loạn. Bọn cảnh bị đang túc trực tại các cửa hội đường liền kéo vào ứng trực. Tổng Trấn Bồ Xịch chỉ đợi có thế, ông tuyên bố huỷ bỏ buổi tế tự và đuổi dân chúng Hoài Quốc về nhà. Toàn thể nhóm Chân Lý Thái Bình lúc bấy giờ cất cao giọng, hát bài kêu cầu Nữ Vương của Thiên Giáo cứu vớt họ khỏi sự khốn khó. Tiếng hát thật cao và to như thách thức, như quyết tâm chống lại sự áp bức vô lối của Triều đình. Tuy nhiên ảnh hưởng của bài hát hôm ấy cũng chất chứa một điều gì u uất, than vãn cho thân phận lạc loài của một thân phận bất hạnh.

Chiều ngày mồng 7 tháng 12 năm Bính Dần 1986, buổi tế tự tại Đền Thờ Nhất Thể Tam Vị ở Trấn Bắc Hồ Sinh cũng chỉ như giọt nước đổ vào một ly nước đã tràn. Buổi tế tự đáng lý phải được huỷ bỏ ngay từ lúc lực lượng hai bên kéo đến Đền Thờ vì mọi người đã tiên đoán kết quả sẽ xảy ra như thế nào. Tổng Trấn Tích Hầu Bao cũng có cùng một đường lối như Tổng Trấn Bồ Xịch của Cẩm Báo, quyết tâm thực hiện kế hoạch cử người Lộ Dung đi thâu thuế. Cũng thông tư của Tể Tướng Xú Uế Vân, cũng sự chỉ định thủ hạ Lộ Dung, cũng chống đối la hét, cũng ồn ào, náo loạn và cuối cùng Đền Thờ trở nên bãi chiến. Việc đụng độ giữa hai phe lần đầu tiên mang cường độ ác liệt khi những người của Lộ Dung bất chấp lệnh cấm cản của Tể Tướng Xú Uế Vân mang những máy thâu ảnh vào Đền Thờ để thâu hình của những người của Chân Lý Thái Bình. Việc làm này đã bị những người chống đối phản ứng quyết liệt và một vài cuộc đụng độ xảy ra. Tham Mưu Bộ của Lộ Dung thấy khí thế ồ ạt của Doanh Tuẫn Giáo liền ra lệnh cho thủ hạ rút lui về hướng cửa hông của Đền Thờ. Tuy nhiên, một vài tên thủ hạ ngông cuồng đã dại dột tấn công người của Chân Lý Thái Bình ở khoảng đất trống nơi tập trung các chiến mã. Lập tức các cao thủ của Chân Lý Thái Bình tung hết chưởng càn quét những người đang ủng hộ Triều Đình. Đấu tràng trở nên sôi động, không khí cực kỳ căng thẳng. Thủ hạ của Lộ Dung cố gắng giải vây cho đồng bọn, đồng thời dìu những tên bị thương nặng ra khỏi đấu tràng. Tiếng la hét, chửi bới vang động khắp nơi. Bọn Cảnh Bị lại được sai đến để tái lập trật tự. Thủ hạ của Lộ Dung mặc dầu một số bị nội thương vẫn hớn hở ra mặt vì thấy phe chống đối lọt vào kế hoạch của Triều Đình. Trong khi đó những người chống đối của Doanh Tuẫn Giáo càng oán trách những người đang nắm giữ quyền bính đã cố tình dồn họ vào chân tường không lối thoát.

Ngày hôm sau tờ Hồ Sinh Thuỷ Ngân Công Báo chính thức loan tin quyết định cấm cử hành các buổi tế tự cho người Hoài Quốc trên toàn lãnh thổ Hồ Sinh. Dân chúng ở Doanh Tuẫn Giáo đã biết trước kết quả đó và họ bắt buộc phải chấp nhận quyết định vì họ chỉ là những thần dân nhỏ bé. Sáng hôm ấy, trời trở lạnh hơn thường lệ. Những tia nắng không đủ sức xuyên thủng màn sương dày đặc. La liệt trên các bức thành chung quanh Doanh phủ, những băng vải với các hàng chữ chống đối Triều đình lại tái xuất hiện. Bầu trời ảm đạm, gió đông lạnh buốt như cắt xé da thịt. Thêm vào cái lạnh của trời đất, người Hoài Quốc còn cảm thấy cái lạnh của những nhà lãnh đạo Thiên Giáo đang nắm quyền. Cái lạnh lẽo của một chính sách cai trị kỳ quặc chưa từng có trong lịch sử Thiên Giáo.

7.5 GƯƠNG ANH DŨNG

Vương Quốc Hồ Sinh, mùa Đông năm Bính Dần 1986, thời tiết có vẻ lạnh lẽo hơn mọi năm. Bầu trời lúc nào cũng ảm đạm, xám xịt như phủ màu tang. Không một ánh nắng. Đêm dài tưởng như vô tận. Gió lạnh từ phương Bắc kéo về buốt giá, se thắt.

Ngoại cảnh có tang thương thay đổi nhưng lòng người Hoài Quốc trước sau như một. Không khí sôi sục và những hoạt động tại Doanh Tuẫn Giáo có vẻ trở nên mạnh mẽ hơn. Tháng 12, những người theo Thiên Giáo chuẫn bị tinh thần mừng đại lễ Thiên Sai Giáo Chủ Giáng Trần cách đó gần 2000 năm khi Ngài mang sứ điệp An Hoà cho những người thành tâm thiện chí. Những biến cố dồn dập vào đầu tháng 12 tại Hồ Sinh khiến người Hoài Quốc băn khoăn lo lắng cho niềm vui của ngày đại lễ không được trọn vẹn. Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma ra chiếu chỉ ngưng các cuộc tế tự của người Hoài Quốc trên toàn lãnh thổ Hồ Sinh càng làm cho dân chúng ở Doanh Tuẫn Giáo thêm tuyệt vọng và chán nản. Mặc dầu cuộc binh biến đã bước vào tháng thứ năm và phải đối đầu với sự cứng rắn của Triều đình, niềm tin tưởng mãnh liệt vào sự tất thắng đã giữ vững tinh thần đoàn kết của dân chúng. Sự đoàn kết này lại một lần nữa thể hiện trong những ngày họ chuẩn bị cho cuộc đại lễ. Dầu Triều đình cố tình gây khó khăn rất nhiều, những chuẩn bị cho đại lễ Giáng Trần tại Doanh Tuẫn Giáo như một minh chứng hùng hồn cho sự nhiệt thành và niềm tin sắc đá cho một giống dân nổi tiếng về lòng sùng đạo.

Ngày 13 tháng 12 Doanh Tuẫn Giáo mang một bộ mặt khác thường. Lúc bấy giờ vào khoảng giờ Mùi, không khí trong Doanh phủ vô cùng tấp nập. Trong gian đại sảnh một nhóm đông dân chúng gồm đủ nam phụ lão ấu hăng say sắp xếp và hoàn tất những công việc cuối cùng cho tờ hịch Chánh Đạo hàng tuần. Cùng lúc trước cửa gian đại sảnh, bên cạnh gốc cổ thụ ở khoảng giữa sân, một nhóm nghĩa quân khác dưới sự điều động của Kha Trưởng Bảo Trầm Luân đang hì hục dựng lên một hang đá giả khổng lồ thật mỹ thuật. Theo truyền thuyết và sử liệu của Thiên Giáo, Thiên Sai Giáo Chủ đã giáng trần trong một hang đá nghèo nàn trong lãnh thổ của một vương quốc nhỏ bé ở vùng Cận Đông. Hình ảnh này cho thấy tinh thần khó nghèo mà vị Giáo Chủ mong muốn các tín đồ của Ngài nên noi theo. Hàng năm, người Hoài Quốc theo Thiên Giáo có tục lệ làm những hang đá giả bằng giấy hay bằng vải nhựa để kỷ niệm ngay giáng trần của vị Giáo Chủ. Đó là một trong những sắc thái đặc biệt có mục đích phát triển tinh thần sống đạo, bảo tồn phong tục tập quán và những nghi thức tốt đẹp mà người Hoài Quốc đã có từ lâu. Điều này là động lực chính thôi thúc họ dâng sớ thỉnh cầu cho một Thể Nhân Trấn để họ có cơ hội thực hiện ước nguyện ấy. Những nghĩa quân, đa số trong lứa tuổi thanh niên, trong lúc làm việc hầu như quên bẵng những khó khăn đang đè nặng sau 5 tháng. Trái lại họ cười đùa vui vẻ như đang sống tại quê hương yêu dấu của họ. Ngoài nhóm nghĩa quân trẻ tuổi đang làm việc ở giữa sân có có một nhóm đông đa số là lão ông, lão bà và phụ nữ đang họp nhau thành từng nhóm nhỏ đứng dọc dưới mái hiên của nguyện đường. Họ vui trò chuyện, chốc chốc lại nhìn ra cổng Doanh phủ như đang chờ đợi điều gì. Gương mặt họ thỉnh thoảng lại thoáng nét băn khoăn.

Bổng chốc từ xa có tiếng vó ngựa vọng lại, một kỵ mã tuổi trạc ngũ tuần, gương mặt phúc hậu, đang cho ngựa phóng nhanh vào cổng. Lập tức những người trong Bang Hành Sự ào ra như đàn ong vỡ tổ; tiếng chào mừng vang dậy. Người kỵ mã trong võ phục màu nâu, lưng đeo thắt lưng trắng bằng dây nhỏ, nụ cười luôn nở trên môi, cúi người đáp lễ dân chúng của Doanh Tuẫn Giáo. Bộ võ phục màu nâu còn lấm tấm một vài giọt sương chứng tỏ ông vừa di hàng từ xa đến. Ông là Tấn Mãnh Nguyên thuộc phái Phan Sanh của người bản xứ tại Vương quốc Kim Sơn. Môn phái Phan Sanh của ông chủ trương cuộc sống khó nghèo thật sự và tất cả môn sinh trong môn phái, từ vị Chưởng Môn cho đến những người mới nhập môn, đều coi nhau như anh em. Tấn Mãnh Nguyên theo dõi cuộc binh biến tại Doanh Tuẫn Giáo kể từ lúc bắt đầu phát khởi, và quan tâm rất nhiều đến đời sống của dân chúng. Khi những quyết định cấm đoán của Triều đình Thạch Đỗ Ma liên quan đến đời sống tinh thần của người Hoài Quốc càng lúc càng trở nên gắt gao, ông lo sợ thật sự. Ông đã đàm đạo rất nhiều với vị Chưởng Môn người bản xứ và cuối cùng, khi các buổi tế tự dành cho người Hoài Quốc tại Hồ Sinh bị huỷ bỏ, ông bắt đầu nhập cuộc.

Tấn Mãnh Nguyên không hề lên tiếng ủng hộ đường lối đấu tranh của Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình. Điều này thật dễ hiểu, vì với tư cách một võ quan Thiên Giáo, ông không muốn có những đụng chạm với Triều đình Thạch Đỗ Ma. Tuy nhiên ông luôn luôn đặt nặng đời sống tâm linh của những tín đồ Thiên Giáo lên trên hết, và đó cũng là lý do chính khiến ông vượt đường xa đến Doanh Tuẫn Giáo để chủ sự một trong những nghi thức tôn giáo cho dân chúng: đó là nghi thức Giải Hoà. Theo Thiên Giáo, tất cả mọi người đều có những sự thiếu sót hoặc lầm lỗi. Thiên Sai Giáo Chủ đã thiết lập nghi thức Giải Hoà để tín hữu có dịp chuộc lại những lỗi lầm đã vấp phạm. Nghi thức này chỉ những võ quan Thất Phẩm hoặc cao hơn mới có quyền làm Chủ sự. Kể từ ngày Doanh Tuẫn Giáo rơi vào cuộc binh lửa, các Phó Tổng Trấn bị Triều đình ngăn cấm không được cử hành bất cứ một nghi thức tôn giáo nào tại Doanh phủ. Hơn nữa, ngày đại lễ kỷ niệm giáng trần của Thiên Sai Giáo Chủ lại gần kề nên nỗi ước ao có những nghi thức cần thiết luôn luôn là vấn đề hàng đầu đối với dân chúng.

Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên sau khi xuống ngựa và chào hỏi những người ra đón rước, ông đi thẳng vào nguyện đường và bắt đầu nghi thức Giải Hoà cho từng người một. Ông đã chứng tỏ tinh thần chịu đựng, sự nhẫn nại và nhất là lòng nhân hậu cần thiết của một võ quan Thiên Giáo. Ông đã từ chối lời mời ăn uống và liên tục Chủ sự nghi thức Giải Hoà cho đến mãi đêm hôm ấy để giúp dân chúng tìm được sự bình an trong tâm hồn. Sự có mặt của Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên tại Doanh Tuẫn Giáo như một ngọn đuốc sáng khơi dậy niềm tin trong lòng dân chúng. Dân chúng sau năm tháng tranh đấu đã mất đi phần nào niềm tin tưởng vào các võ quan và những người lãnh đạo của họ. Trái lại Tấn Mãnh Nguyên đã có can đảm khôi phục lại hình ảnh quý báu cao trọng của những người đã chọn con đường xả thân phục vụ cho tha nhân. Hành động của ông được dân chúng vô cùng cảm phục. Tuy nhiên, Triều đình Thạch Đỗ Ma thấy có điều không ổn . . .

Tục truyền rằng Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma được tin cấp báo Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên bất chấp lệnh cấm đoán của Triều đình, đến Doanh Tuẫn Giáo để lo cho dân chúng, ông ra lệnh cho Tể Tướng Xú Uế Vân và các quan trong triều tìm biện pháp đối phó. Tể Tướng Xú Uế Vân lại xuống lệnh cho các quan thức trắng nhiều đêm, lục lọi tất cả các sách vở, luật lệ hy vọng tìm thấy một khoản luật nào để tìm cách buộc tội Tấn Mãnh Nguyên. Cả một phòng sách rộng lớn trong Tàng Kinh Các đột nhiên trở nên tấp nập. Họ mang cả những miếng kính khuếch đại để phóng to những nét chữ li ti trong các bộ sách luật dày cộm. Tiếng lật sách sột soạt, tiếng bàn cãi, tham luận ồn ào, náo động, đánh tan cái không khí tĩnh mịch của Tàng Kinh Các. Tất cả các sách luật mới cũng như cũ, có quyển đã bị bụi bám nhện giăng từ bao nhiêu đời cũng được chiếu cố. Nhiều quyển sách luật rất lâu đời, bìa đã rách, gáy đã sờn, các trang giấy ngã màu vàng đen, nhàu nát lại còn đóng rêu xanh, ẩm mốc cũng được bàn tay của các võ quan nâng niu tra xét. Sau nhiều đêm lục lọi tìm tòi, Tể Tướng Xú Uế Vân ngồi thừ thở dốc trước cửa Tàng Kinh Các. Ông không thể nào tìm ra sự vi phạm luật lệ của Tấn Mãnh Nguyên. Ông bóp trán suy nghĩ nhiều giờ. Cuối cùng mắt ông sáng lên, ông vỗ đùi khoái chí, cười ha hả và chạy như bay vào tấu trình với Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma.

Sáng hôm sau Tể Tướng Xú Uế Vân liên lạc với Tấn Mãnh Nguyên và nói với ông như sau: “Ngài muốn chủ sự nghi thức Giải Hoà cho dân chúng ở đâu cũng được. Nhưng Triều đình, không muốn Ngài làm việc ấy tại Doanh Tuẫn Giáo. Theo Bộ Tân La Luật quy định những quyền hạn về lãnh thổ, Doanh Tuẫn Giáo thuộc về Vương quốc Hồ Sinh và dĩ nhiên dưới quyền cai trị của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma. Tấn Mãnh Nguyên lắc đầu chán nản. Ông không ngờ Triều đình lại có thể cứng rắn đến như vậy. Ông vội tiếp xúc với vị Chưởng Môn của ông . . .

7.6 NGHI BINH

Tờ mờ sáng ngày 14 tháng 12 năm Bính Dần 1986, khi sương mù dầy đặc trên các đường phố và khí lạnh vẫn còn bao trùm các trang trại, đoàn người ngựa của Chân Lý Thái Bình đã tề tựu trước sân tiền đường của Doanh Tuẫn Giáo. Cuối tuần lễ đó, vì các buổi tế tự của người Hoài Quốc tại các Trấn đã bị Triều đình ngăn cấm. Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình liền quyết định cho dân chúng đến tham dự các buổi tế tự của người bản xứ. Việc làm này khiến Triều Đình và thủ hạ của Lộ Dung áy náy, không hiểu đường lối của những người chống đối sẽ như thế nào tại các buổi tế tự. Dân chúng bản xứ cũng hoang mang lo sợ cho những cuộc xáo trộn có thể xảy ra tại các Đền thờ của họ.

Đoàn chiến mã chia làm hai đạo, một do Bạc Trang Hán Tử thống lĩnh tiến về hướng Bắc đến Đền thờ Sanh Hồ Sinh của Trấn Vưu Sơn, đạo còn lại do Giáo Học Thiền Trang chỉ huy kéo đến Đền thờ Vương quốc nằm tại thủ phủ Hồ Sinh. Ở Đền thờ Sanh Hồ Sinh của Trấn Vưu Sơn, người của Chân Lý Thái Bình chiếm khoảng 10 dãy ghế và tạo sự ngạc nhiên không ít cho người bản xứ. Tuy nhiên, mục đích chánh của cuộc di quân đến Đền thờ ấy không phải nhắm vào dân bản xứ, trái lại nghĩa quân Chân Lý Thái Bình chỉ muốn đặt Tể Tướng Xú Uế Vân vào thế bất an vì ông chính là vị Chủ sự cho buổi tế ngày hôm đó. Quả nhiên Tể Tướng Xú Uế Vân giao động tâm thần khi ông thấy những khuôn mặt chống đối xuất hiện tại Đền thờ của ông.

Tại Đền thờ Vương quốc ở thủ phủ Hồ Sinh, dân bản xứ lo sợ có những xáo trộn nên đã tham dự các buổi tế tự khác. Vì thế số người bản xứ tham dự buổi tế thật là thưa thớt, Trái lại, người Hoài Quốc kéo đến thật đông, ngồi chật các dãy ghế. Trong Đền thờ, vị Phó Tổng Trấn Chủ sự cuộc tế và những người dân bản xứ còn lại cảm thấy có điều không ổn khi đám đông dân chúng Hoài Quốc tiến vào Đền thờ. Trong suốt buổi tế, vị Chủ sự có vẻ không được tự nhiên như thường lệ. Dáng điệu của ông chứng tỏ sự bối rối lo lắng vì không khí ngột ngạt đè nặng lên tất cả mọi người. Cũng trong buổi tế này, Phó Tể Tướng Ẩu Gàn Bộ đã bỏ dở những công việc thường lệ để đến quan sát tình hình vào lúc sớm. Một số các Truyền Ảnh Trạm cũng cho người đến Đền thờ hy vọng ghi lại những hình ảnh đặc biệt của buổi tế.

Tuy nhiên cả hai buổi tế đều diễn ra êm thắm vì Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình quyết định dùng đường lối ôn hoà cho tuần lễ đó. Họ muốn chứng tỏ cho Triều đình thấy rằng thật sự họ là những tín đồ ngoan đạo biết tôn trọng sự trang nghiêm của Đền thờ và các buổi tế tự. Việc xáo trộn đã xảy ra ở các buổi tế tự khác là do những quyết địn thất sách của Triều đình và thủ hạ của Lộ Dung. Hơn nữa họ muốn nhờ tiếng nói của người bản xứ thôi thúc Triều đình giải quyết nguyện vọng chính đáng của họ. Triều đình cũng biết như thế. Sự yên tĩnh của tình hình vào cuối tuần đó không có nghĩa là nhóm Chân Lý Thái Bình đã không còn những phương thức để tranh đấu. Đó chỉ là một chiêu thức trong toàn bộ kế hoạch nghi binh.

7.7 CHUẨN BỊ ĐẠI LỄ GIÁNG TRẦN

Càng gần đến ngày đại lễ Giáng Trần, không khí tại Doanh Tuẫn Giáo càng trở nên tấp nập. Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình phối hợp với Bang Hành Sự của Doanh Tuẫn Giáo định tổ chức một đại lễ thật vĩ đại cho người Hoài Quốc. Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của năm Bính Dần, việc tổ chức nhằm nói lên sức mạnh của đại đa số dân chúng Hoài Quốc đối với hai thỉnh nguyện họ đang theo đuổi. Ngoài ra họ cũng muốn chứng tỏ cho Triều đình thấy lòng đạo đức vô biên và tinh thần đoàn kết có một không hai, chống lại những áp bức vô lối của những người đang lãnh đạo.

Giáng Trần là đại lễ hoàn toàn có tính cách thuần tuý tôn giáo nên mọi chuẩn bị và tổ chức cũng không nằm ngoài mục đích kể trên. Khoảng một tuần trước ngày đó, Doanh Tuẫn Giáo cho người liên lạc thường xuyên với quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên thuộc môn phái Phan Sanh để yêu cầu ông đến chủ sự cho những nghi thức tôn giáo cần thiết. Vì Triều đình Thạch Đỗ Ma cương quyết cấm cách tất cả mọi nghi thức tôn giáo cử hành tại nguyện đường của Doanh Tuẫn Giáo. Những người lãnh đạo của Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình đã khéo léo tổ chức những địa điểm bí mật để Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên có dịp đến chủ sự nghi thức giải hoà cho từng cá nhân. Người Hoài Quốc kéo đến với ông rất đông khiến cho những buổi lễ có nghi thức giải hoà do Tổng Trấn Lộ Dung tổ chức tại các Đền Thờ trở nên thưa thớt, trống vắng. Triều đình lấy làm căm giận vô cùng nhưng đành thúc thủ.

Cũng trong khuôn khổ mừng đại lễ Giáng Trần, Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình quyết định tung ra hai chiêu thức ngoạn mục khiến Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma trở nên bối rối. Thứ nhất, những người lãnh đạo của Chân Lý Thái Bình âm thầm liên lạc với một vị Tổng Trấn người bản xứ đang trấn nhậm một Đền thờ để tổ chức một buổi đại tế cho người Hoài Quốc vào đêm chính lễ 24 tháng 12 năm Bính Dần 1986 tại Đền thờ của ông ta. Được biết lệnh cấm tế tự bằng ngôn ngữ Hoài Quốc đã được ban hành cách đó hai tuần và được tất cả các quan lại trong Vương quốc Hồ Sinh thi hành. Ngoài ra Bạc Trang Hán Tử cũng bí mật mời một quan Thất Phẩm Hoài Quốc từ phương xa về Hồ Sinh để đồng chủ sự cuộc đại tế. Những tờ hịch báo trước cuộc đại tế bằng ngôn ngữ Hoài Quốc được tung ra khắp nơi khiến dân chúng Hoài Quốc nức lòng, phấn khởi ra mặt. Trái lại, Triều đình vô cùng lo âu, tìm đủ mọi cách để ngăn cấm. Liên tiếp trong nhiều ngày, Tể Tướng Xú Uế Vân cho công bố những thông tư, yết thị xác nhận lệnh cấm đoán các nghi thức bằng ngôn ngữ Hoài Quốc vẫn còn hiệu lực và cho biết bất cứ bất cứ một buổi tế nào trong ngày đại lễ cũng phải có sự chấp thuận của Triều đình hoặc các Tổng Trấn bản quyền. Song song với biện pháp trên, Triều đình còn tung quân thám báo dò xét và điều tra về địa điểm và vị võ quan bí mật sẽ chủ sự cho cuộc đại tế. Ngoài ra Triều đình cũng cho gửi các hoả tốc thư đến các võ quan Hoài Quốc ở những vương quốc lân cận cảnh cáo họ không được về Hồ Sinh tiếp tay hay tham dự các hoạt động của nhóm Chân Lý Thái Bình; nếu bất tuân họ sẽ bị nghiêm trị theo luật lệ của Thiên Giáo. Mặc dầu tìm đủ cách thăm dò khắp nơi, Triều đình vẫn đành bó tay vì nhóm Chân Lý Thái Bình đã bảo mật tối đa cho kế hoạch trên.

Song song với kế hoạch đại tế, Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình còn tung ra một chiêu thức khác thật là hiểm độc. Chiêu thức nhằm hoá giải những tai tiếng không tốt về nhóm người đang chống đối Triều đình và nhân tiện đặt Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Chiêu thức này được mệnh danh là “Chiêu Thức Giao Hoà”. Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang thảo sớ dâng lên Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma để mời ông và tất cả các quan lại Hoài Quốc, kể cả Tổng Trấn Lộ Dung cũng như Tể Tướng Xú Uế Vân, Phó Tể Tướng Ẩu Gàn Bộ về tham dự cuộc lễ Giao Hoà tối ngày 24 tháng 12 năm đó. Cuộc lễ Giao Hoà dự định tổ chức trong thao diễn đường của một Trung Học tràng nằm cạnh Doanh Tuẫn Giáo. Lời mời này cũng được gửi đến tất cả những tổ chức thuộc Tham Mưu Bộ của Lộ Dung qua hệ thống công báo của Hồ Sinh. Với kế hoạch Giao Hoà vừa kể, nhóm Chân Lý Thái Bình đã đi bước tiên phong trong việc khai thông những bế tắc giữa Triều đình và nhóm chống đối. Ngoài ra, nó còn biểu lộ tinh thần ôn hoà và thiện chí hoà giải mà giới lãnh đạo Chân Lý Thái Bình vẫn thường ấp ủ. Khi sớ và thư mời được gửi, công luận nhiệt liệt hoan nghênh việc làm của Doanh Tuẫn Giáo, cùng lúc toàn thể dân chúng Hoài Quốc đặt tất cả niềm hy vọng vào sự phúc đáp của Triều đình và Lộ Dung. Tất cả đều chờ đợi trong sự hồi hộp . . .

7.8 DOANH TUẪN GIÁO VÀ ĐẠI LỄ GIÁNG TRẦN

Năm Bính Dần 1986 đánh dấu 12 năm người Hoài Quốc mừng đại lễ Giáng Trần trên đất khách quê người. Những năm trước đó, dưới sự cai trị của Tổng Trấn Bình Viễn An, người Hoài Quốc tại Doanh Tuẫn Giáo vẫn tổ chức đại lễ mừng Thiên Sai Giáo Chủ giáng trần bằng các cuộc tế lễ long trọng và nhạc hội tưng bừng. Năm Bính Dần 1986, mặc dầu đang trải qua một giai đoạn vô cùng khó khăn, các võ quan bị Triều đình đưa đi khỏi Doan Phủ, tinh thần dân chúng đối với ngày đại lễ vẫn không có gì thay đổi. Trái lại sự vắng bóng những người lãnh đạo tinh thần càng làm cho dân chúng cảm thấy gần gũi nhau hơn và tinh thần đoàn kết ngày càng lên cao. Điều này đã làm cho những người lãnh đạo Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình quyết định mừng đại lễ thật long trọng bằng một buổi đại tiệc và nhạc hội. Buổi đại tiệc và nhạc hội được dự định tổ chức thật vĩ đại đánh dấu biến cố quan trọng trong lịch sử của Doanh Tuẫn Giáo. Quyết định trên đã được toàn thể hoan nghênh nhiệt liệt và điều quan trọng hơn cả là nguồn tài lực và nhân lực cho việc tổ chức đều do dân chúng tự nguyện đóng góp.

Chiều ngày 23 tháng 12, một toán nghĩa quân của Chân Lý Thái Bình được phái đến ngã ba Cách Phi Tần và Sinh Tử Lộ để hộ tống cho đoàn xe vận lương đặc biệt đến Doanh Tuẫn Giáo. Đoàn xe vận lương được kéo bằng những con ngựa thồ to lớn lầm lũi tiến vào sân tiền đường giữa tiếng reo hò của những người đang có mặt. Để chuẩn bị cho buổi đại tiệc, Doanh Tuẫn Giáo đã thuê hẳn đoàn xe vận lương kể trên để chuyển hàng ngàn cân thịt và rượu về Doanh phủ. Kể từ chiều ngày 23 cho đến hết ngày 24 tháng 12, hàng trăm nghĩa quân và dân đinh thuộc Chân Lý Thái Bình bắt tay vào việc tổ chức buổi đại tiệc và nhạc hội vĩ đại nhất kể từ ngày người Hoài Quốc đến định cư lập nghiệp tại Hồ Sinh.

Việc tổ chức được phân công rõ rệt. Một toán nghĩa quân gồm đa số thiếu niên lo giăng những giấy cờ phủ sắc dọc bờ thành của Doanh phủ. Trên những trụ cờ cao chung quanh sân tiền đường là những lá đại kỳ phất phới tung bay trong gió. Những ngọn đèn lồng hình ngôi sao năm cánh, màu sắc rực rỡ được treo lên tháp cao và chung quanh nguyện đường, lung linh nhảy múa đẹp mắt. Ở khoảng giữa sân, một toán nghĩa quân khác đang cố hoàn tất bức hoạ vĩ đại cho lễ đài của buổi nhạc hội. Bức hoạ diễn tả hình ảnh sống động của ngày Thiên Sai Giáo Chủ Giáng Trần. Nét vẽ linh động, màu sắc hoà hợp khiến bức hoạ trở nên một trong những hoạ phẩm kiệt tác khó tìm thấy. Trong khi đó ở góc cuối sân tiền đường, ba chiếc hoả lò vĩ đại, trong chứa những lớp than hồng đỏ rực được kê ngay ngắn trên những phiến đá to. Hàng ngàn miếng thịt lần lượt phơi mình trên ánh lửa đỏ, màu vàng cháy xém cạnh bắt mắt, tiếng mở cháy xèo xèo thơm phức, mùi thơm toả ngào ngạt, khói bốc nghi ngút. Dân chúng từng đoàn lũ lượt kéo về Doanh phủ trong những chiếc áo ngự hàn màu sắc rực rỡ. Tiếng cười cười nói nói, những ly rượu mừng thơm nồng, những miếng thịt béo ngậy, tất cả tạo thành khung cảnh nhộn nhịp, vui tươi sống động. Tất cả mọi người hầu như quên bẳng những ngày tháng nhọc nhằn, những đêm dài lo âu trằn trọc cho tương lai của Doanh Tuẫn Giáo. Ngày hôm ấy, ngọn lửa đấu tranh sôi sục của 5 tháng biến loạn đã hoàn toàn tắt lịm, nhường chỗ cho không khí an hoà, hoan lạc. Lòng người lắng dịu, tinh thần thoải mái, họ hy vọng Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma sẽ nhân cơ hội đó nối lại nhịp cầu hoà giải giữa Triều Đình và người Hoài Quốc.

7.9 NIỀM VUI KHÔNG TRỌN VẸN

Sau khi dân chúng đã vui say với buổi đại tiệc trong sảnh đường của Doanh Tuẫn Giáo, toàn thể dân chúng kéo vào thao diễn đường của Trung Học tràng bên cạnh Doanh phủ để dự lễ Giao Hoà và nhạc hội mừng đại lễ Giáng Trần. Trước đó không lâu, Bạc Trang Hán Tử đã nhận được hoả tốc thư của Tể Tướng Xú Uế Vân thay mặt cho Triều đình phúc đáp sớ mời dự lễ Giao Hoà của Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình. Trong thư, Triều đình và các võ quan từ khước lời mời của Doanh Tuẫn Giáo với lý do sớ mời của họ không có dấu triện của Tổng Trấn Lộ Dung. Tể Tướng Xú Uế Vân nhấn mạnh chỉ có Tổng Trấn Lộ Dung mới có đủ tư cách thay mặt Doanh Tuẫn Giáo để thảo sớ mời Triều đình. Bạc Trang Hán Tử đã tiên liệu trước phản ứng của Triều đình nên ông không lấy gì làm ngạc nhiên cho lắm. Ông cho người phối kiểm với các võ quan Hoài Quốc; tất cả cũng đều thoái thác không đến tham dự vì chống đối nhóm Chân Lý Thái Bình hoặc vì áp lực của Triều đình.

Lúc bấy giờ hàng ngàn dân chúng bất kể nam phụ lão ấu, kẻ ngồi người đứng, chen chúc lẫn nhau choán tất cả mọi chỗ trong thao diễn đường. Họ hồi hộp chờ đợi giây phút Lễ Giao Hoà bắt đầu. Bất thình lình Hảo Hán Hồ Quang Nguyệt trong bộ võ phục đại lễ ba mảnh màu xám, tung mình lên lễ đài tuyên bố sự có mặt của Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên và hai tu sinh của Thiên Giáo. Không khí trong thao diễn đường đột ngột bừng dậy. Tiếng vỗ tay vang dội, tiếng gào thét hân hoan vui mừng như sấm động; ca tụng sự hiện diện của những võ quan can trường bất chấp lệnh cấm đoán của Triều đình. Niềm vui mừng của dân chúng pha lẫn niềm hãnh diện, thương yêu dạt dào đối với những vị võ quan Hoài Quốc vẫn còn chút tình đối với đám dân bất hạnh. Nghi lễ Giao Hoà được bắt đầu bằng những bài đọc ngắn trích từ những pho Thánh Thư cổ xưa của Thiên Giáo. Kế đến Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên có vài lời nhắn nhủ và chúc mừng dân chúng. Và sau cùng Nghi lễ Giao Hoà được kết thúc bằng những lời cầu thống thiết cho một nền an bình thật sự đến với vương quốc Hồ Sinh và đặc biệt cho Doanh Tuẫn Giáo. Tiếp theo là phần nhạc hội tưng bừng được trình diễn trên một lễ đài rộng lớn giữa ánh sáng muôn màu của những ngọn đèn rực rỡ. Những bài hát du dương thánh thót, những vũ khúc điêu luyện, những vở hoạt cảnh vui tươi đã mang lại không khí thoải mái vui nhộn cho tất cả mọi người trong đêm đại lễ. Họ say sưa theo dõi buổi nhạc hội đồng thời chờ tin tức về cuộc đại tế bằng ngôn ngữ Hoài Quốc sẽ được thông báo sau đó.

Lúc bấy giờ Tể Tướng Xú Uế Vân bực dọc nóng nảy như ngồi trên lửa. Ông đi đi lại lại trong thư phòng, đầu óc làm việc dữ dội, cố gắng tìm cách ngăn chận buổi đại lễ bí mật của người Hoài Quốc. Suốt cả ngày 24 tháng 12, ông đã cho quân đi dọ thám khắp các Đền thờ để tìm cho ra tung tích vị võ quan và địa điểm của buổi đại tế nhưng vô hiệu. Trong lúc ông hoàn toàn thất vọng và buổi nhạc hội của Doanh Tuẫn Giáo gần kết thúc, vị Tổng Trấn của Đền thờ mà nhóm Chân Lý Thái Bình dự định tổ chức buổi đại tế báo cáo tự sự với Tể Tướng Xú Uế Vân. Vị Tổng Trấn hy vọng vào lúc cuối cùng Triều đình sẽ không có đủ thời giờ giải quyết và mọi sự sẽ được diễn ra như dự liệu. Tuy nhiên, viên đệ I võ quan của Triều đình Thạch Đỗ Ma đã cứng rắn, cấp tốc ra lệnh cho vị Tổng Trấn phải lập tức huỷ bỏ buổi tế, đồng thời đe doạ ông bằng những biện pháp kỷ luật gắt gao nếu vẫn bất tuân lệnh cấm của Triều đình. Thế là cuộc đại lễ của Doanh Tuẫn Giáo bị “bức tử” vào giờ cuối. Khi Hảo Hán Hồ Quang Nguyệt tuyên đọc thông tư khẩn cấp về quyết định và những biện pháp của Triều đình về buổi đại tế của người Hoài Quốc, hàng ngàn ngưòi trong thao diễn đường sững sờ chết lặng. Cả bầu trời như sa xuống, không khí nặng nề ngột ngạt bao phủ cả toà nhà rộng lớn. Họ uất ức, nghẹn ngào không nói nên lời. Niềm vui cuối cùng của ngày đại lễ an hoà đã bị chính những người lãnh đạo của họ huỷ diệt. Những người luôn luôn kêu gọi yêu thương, thân ái lại là những người xoá bỏ niềm an hoà, thanh bình của đám dân cô thế.

Để đối phó với biến chuyển đột ngột do quyết định hà khắc của Triều đình, Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình kêu gọi toàn thể dân chúng kéo về Đền thờ Vương quốc để tham dự buổi đại tế do đích thân Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma chủ sự. Đây là lần đầu tiên Đền thờ Vương quốc chứng kiến một số đông người Hoài Quốc về dự tế. Họ đứng chật cả hành lang và những lối đi dẫn vào Đền Thờ. Khuôn mặt của họ thoáng nét buồn bã, đầu óc nặng trĩu những ưu tư. Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma đứng trên Chánh Điện nhìn xuống đám dân Hoài Quốc, ông cảm thấy lo âu thực sự. Ông nhớ đến hình ảnh hỗn loạn ngày ông cố tình làm lễ Trao Gươm cho Tổng Trấn Lộ Dung ở Đền thờ Đồng Tâm cách đó vài tháng. Ông chờ đợi chuyện chẳng lành sẽ xảy đến. Tuy nhiên đám người Hoài Quốc đã có chủ trương ôn hoà trong ngày đại lễ nên họ chỉ im lặng tham dự cuộc tế. Chỉ đến lúc cuối trước khi cuộc tế bế mạc, cả hàng ngàn người Hoài Quốc đã tự động cất cao bài hát mừng đại lễ Giáng Sinh bằng ngôn ngữ của họ. Tiếng hát của họ thật cao và to làm Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma và một số ít người bản xứ có mặt trong Đền thờ bàng hoàng sững sờ. Mặc dầu bài hát hôm ấy có những cung bậc vui tươi, mừng rỡ chào đón Vị Cứu Tinh của nhân loại, giọng hát của người Hoài Quốc dường như chất chứa một âm hưởng u buồn, than vãn cho số phận hẩm hiu, tiếc nuối cho một ngày vui không trọn vẹn.

Tục truyền rằng trước đó nhiều đêm, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma đã trằn trọc băn khoăn rất nhiều về những diễn biến tại Doanh Tuẫn Giáo. Ông cảm thấy bực dọc vì không thể nào ngăn chận được buổi tế tự của người Hoài Quốc. Mãi đến tối ngày 24 tháng 12, trước khi ngự giá đến Đền Thờ Vương quốc để chủ sự buổi tế tự cho ngày chính lễ, ông vẫn còn ưu tư ray rức. Khoảnh khắc trước giờ ông lên đường, quân tâm phúc của Tể Tướng Xú Uế Vân vội vả phi ngựa về hoàng cung phúc trình tự sự. Hay tin buổi tế bí mật của nhóm Chân Lý Thái Bình đã bị Tể Tướng Xú Uế Vân ra lệnh huỷ bỏ, gương mặt của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma đang từ u sầu trở nên tươi tỉnh. Ông thở phào nhẹ nhỏm; tắt ngọn bạch lạp bước vội ra ngoài. Trong bóng tối, miệng ông nở một nụ cười đắc chí, nụ cười không thể ngờ được trên môi của một nhà lãnh đạo Thiên Giáo. Ông lẩm bẩm : “Thế là xong!” rồi băng mình qua khoảng sân rộng. Cùng lúc ấy, Quan Giám Lĩnh của Nha Thiên Văn ghi nhận một hiện tượng lạ chưa bao giờ xảy ra tại vương quốc Hồ Sinh. Xuyên qua Thiên Văn kính, Quan Giám Lĩnh nhận thấy ánh sánh của sao An Bình đã bị lù mờ toàn diện vì ảnh hưởng của sao Hão Vọng. Một điều lạ lùng khác làm ông muốn toát mồ hôi là vị trí của sao Thiên Tử đã hoàn toàn di động. Thay vào đó, ánh sáng của sao Quả Tạ lại chiếu thẳng vào hướng Hoàng Cung. Ông định vào cấp báo Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma nhưng đoàn xa giá vừa rời cổng thành.

7.10 CÔNG LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC NGĂN CẤM TẾ TỰ

Tờ lịch cuối cùng của năm 1986 rơi xuống. Những tờ lịch mới còn thơm mùi mực của năm 1987 Tây Lịch bắt đầu xuất hiện. Người Hoài Quốc bàng hoàng giật mình vì thời gian qua nhanh như bóng câu. Thấm thoát đã hơn 5 tháng, cuộc biến loạn tại Doanh Tuẫn Giáo vẫn không một tia hy vọng sẽ được giải quyết trong thời gian ngắn. Dân chúng chào đón năm mới trong sự bồn chồn lo âu.

Sau 4 tuần lễ từ ngày Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma ra chiếu chỉ huỷ bỏ tất cả các nghi lễ tế tự của người Hoài Quốc trong toàn lãnh thổ Hồ Sinh, người Hoài Quốc thuộc cả hai phe ủng hộ và chống đối Triều đình đã có những ý kiến trái ngược nhau rõ rệt. Phe ủng hộ Triều đình gồm những người Hoài Quốc trung thành với Tổng Trấn Lộ Dung, được sự hướng dẫn bởi Tham Mưu Bộ của ông, đã bày tỏ thái độ dứt khoát: hoàn toàn ủng hộ lệnh cấm các buổi tế tự của Triều đình. Lý do chính đưa đến thái độ trên là tinh thần tự nguyện, muốn hội nhập hoàn toàn vào xã hội của người bản xứ. Với tinh thần hội nhập này, những nghi lễ tế tự bằng ngôn ngữ Hoài Quốc không còn là điều cần thiết đối với họ. Họ có thể tham dự các buổi tế của ngưòi bản xứ tại các Đền thờ ở các Trấn. Một lý do nữa là sự yếu kém về thực lực. Thủ hạ của Lộ Dung đã cố gắng nắm quyền chủ động tại các buổi tế tự trước kia nhưng không thể nào thực hiện được. Với một số dân thưa thớt lại phải đối đầu với lực lưọng hùng mạnh của Chân Lý Thái Bình, phe Lộ Dung bắt buộc phải ở vào thế thụ động tránh né. Trước đó, họ phải trải mỏng lực lượng để yểm trợ cho thủ hạ tại các buổi tế tự. Điều này đã làm cho thế lực của họ bị suy yếu. Thêm vào đó, sự gia tăng sự đóng góp tài chính để cân bằng sự thiếu hụt của thuế Đền thờ do việc tẩy chay của Chân Lý Thái Bình càng làm cho họ thêm kiệt quệ. Do đó, khi lệnh cấm của Triều đình được ban hành, họ đã tỏ ra hoan hỉ, cảm thấy như trút được gánh nặng. Đồng thời họ cố gắng vận động với Triều đình tiếp tục lệnh cấm đoán để khỏi phải trực diện với Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình.

Về phần người Hoài Quốc tại Doanh Tuẫn Giáo, họ chống đối hoàn toàn lệnh cấm đoán bất công của Triều đình. Đối với họ, các nghi lễ tế tự bằng ngôn ngữ Hoài Quốc vẫn được xem như một điều gì linh thiêng cao quý. Trước hết, nó giúp cho những người tham dự thêm lòng sốt sắng, hiệp thông với những diễn tiến quan trọng trên bàn tế. Kế đến nó còn biểu tượng sắc thái đặc thù của một dân tộc qua những lời kinh nguyện thâm sâu, những bài hát thánh thót bằng ngôn ngữ của họ. Triều đình khi ban hành lệnh cấm đoán các buổi tế tự đã mang đến sự thiệt thòi không ít cho họ về mặt tinh thần. Những lập luận do Triều đình đưa ra để biện minh cho sự cấm đoán như trật tự an ninh tại các buổi tế tự thật ra không phải do lỗi của những người ở Doanh Tuẫn Giáo. Sự rối loạn này bắt nguồn từ thái độ cứng rắn của Triều đình khi những người lãnh đạo cố tình áp đặt thế của kẻ có quyền, bất chấp thái độ chống đối của một đám đông. Một minh chứng hùng hồn về tinh thần kỷ luật và tôn trọng những nơi trang nghiêm đã được dân chúng tại Doanh Tuẫn Giáo thể hiện tại các buổi tế tự của người bản xứ sau khi chiếu chỉ cấm đoán được ban hành. Họ đã tham dự tế tự tại các Đền Thờ Vương Quốc, Đồng Tâm và Nữ Vưong Thái Bình với một tinh thần thật cao, chứng tỏ họ là những thần dân Thiên Giáo có kỷ luật. Tóm lại, việc cấm đoán các buổi tế tự của Triều đình, đối với họ, là một sự hành xử quyền hành quá cứng rắn, gò bó, hoàn toàn vô lý và bất công. Họ hy vọng Triều đình sẽ xét lại và giải toả lệnh cấm để mang lại an hoà cho vương quốc.


--------------------
mm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
mviet
post Dec 20 2010, 01:35 PM
Post #8


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,769
Joined: 9-September 10
Member No.: 15,235
Country








Thời Kỳ Vong Quốc - Chương 8

CHƯƠNG VIII
NGĂN CẤM TẾ TỰ



8.1 NHỮNG HOẠT ĐỘNG TRONG GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN

Kể từ khi các buổi tế tự bị đình chỉ Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình và Bang Hành Sự của Doanh Tuẫn Giáo đã quyết định kêu gọi dân chúng đến tham dự buổi tế tại Đền thờ Vương quốc vào giờ Tỵ mỗi cuối tuần. Theo luật lệ của Thiên Giáo, Đền thờ Vương quốc được xem là Đền Thờ của vị Hoàng Đế đang cai trị vương quốc đó. Do đó, vào những ngày đại lễ của Thiên Giáo, vị Hoàng Đế có bổn phận phải về Đền thờ Vương quốc để chủ sự các cuộc tế. Việc lựa chọn Đền thờ Vương quốc nằm giữa đế đô Hồ Sinh để dự các buổi tế, người Hoài Quốc muốn nhắc nhở Triều đình về tình trạng bơ vơ, lạc lỏng của họ. Họ muốn Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma và những quan lại của Triều đình luôn luôn nhìn thấy sự thiếu thốn về mặt tinh thần của đám dân xa xứ và nhanh chóng giải quyết toàn bộ vấn đề của Doanh Tuẫn Giáo.

Lúc đầu tiên khi người Hoài Quốc kéo đến Đền thờ Vương quốc để tham dự các buổi tế, người dân bản xứ rất đổi ngạc nhiên và lo sợ về những xáo trộn có thể xảy ra. Chính những quan Thất Phẩm bản xứ lúc chủ tế cũng cảm thấy không an tâm khi nhìn thấy đoàn người lạ mặt hiện diện chật ních Đền thờ. Tuy nhiên sau vài tuần lễ, sự lo lắng bối rối lúc ban đầu không còn nữa. Thay vào đó, các quan Thất Phẩm và dân chúng bản xứ đã dành nhiều thiện cảm cho người Hoài Quốc. Thiện cảm tốt đẹp này được thể hiện bằng cách người Hoài Quốc có thể hát những bài hát hoặc đọc những pho Thánh Thư bằng ngôn ngữ của họ trong các nghi lễ của người bản xứ. Điều này đã yên ủi một phần nào cho dân chúng của Doanh Tuẫn Giáo. Tuy nhiên những đặc ân nho nhỏ không thể nào thay thế được sự mất mát to lớn của việc thiếu vắng các nghi lễ bằng chính ngôn ngữ của họ.

Tối ngày mồng 3 tháng giêng năm 1987, hàng ngàn dân chúng kéo về Đền thờ Nữ Vưong Thái Bình ở Trấn Ánh Dương để tham dự buổi cầu nguyện đặc biệt. Buổi cầu nguyện đặc biệt vào đầu năm Tây Lịch có mục đích cầu bình an cho vương quốc Hồ Sinh, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma, các quan lại cao cấp của Triều đình và nhất là cho Doanh Tuẫn Giáo cũng như cho Hoài Quốc. Buổi cầu nguyện được tổ chức sau nghi thức tế tự của Đền thờ Nữ Vưong Thái Bình. Sau phần nguyện kinh đặc biệt bằng 6 ngôn ngữ khác nhau của các sắc dân thiểu số tại Hồ Sinh, người Hoài Quốc đã tiến ra Nữ Vương Đài trước cổng Đền thờ để hát và cầu nguyện cho những mục đích của họ. Hàng ngàn ngọn nến đã được thắp sáng như những biểu tượng nhiệt thành sốt sắng của đoàn người đang tìm kiếm sự an bình chân thật. Mặc dầu đêm hôm ấy trời chuyển mưa to và gió lạnh thổi thật mạnh, đoàn người Hoài Quốc vẫn tiếp tục cất cao giọng hát lời kinh; ánh nến trên tay sáng rực như mang đến hy vọng cho một ngày mai tươi đẹp.

8.2 PHẦN NGOẠI SỬ : VÀI NÉT VỀ DOANH TUẪN GIÁO

Doanh Tuẫn Giáo được thiết lập trên một thửa đất vuông vắn, cân đối về phía Nam của đế đô Hồ Sinh. Diện tích hơn một mẫu tây, có bờ thành bao bọc chung quanh và có kiến trúc của thế kỷ 20. Nằm ở một địa thế vô cùng thuận lợi. Doanh Tuẫn Giáo đã đáp ứng thật nhiều cho những ước vọng của người Hoài Quốc về cả hai phương diện tinh thần và vật chất.

Nằm cách giao lộ nhộn nhịp Sinh Tử Lộ và Cách Phi Tần không xa, Doanh Tuẫn Giáo chễm chệ uy nghi giữa khu vực đông đúc dân cư. Huyết lộ Bách Nhất chạy dọc từ Bắc xuống Nam, xuyên ngang lãnh thổ Hồ Sinh là lối đi quan trọng thường được những người phương xa sử dụng để đến Doanh Tuẫn Giáo. Ngoài ra Huyết lộ Nhị Bát Thập cũng nằm trên trục Bắc Nam giúp những người từ vương quốc Kim Sơn đến Doanh Tuẫn Giáo được mau chóng dễ dàng.

Trước mặt Doanh phủ là con lộ lớn Sinh Lệ Tông, bên trái là một Trung Học tràng của dân bản xứ. Hai mặt còn lại được bao bọc bởi những trang trại của dân chúng. Doanh Tuẫn Giáo có một sân tiền đường thật rộng và một khoảng đất trống để cột chiến mã. Phía trong là một sân chơi cho trẻ em.

Vào những ngày đại lễ, khi có những buổi tế tự hoặc những hoạt động lộ thiên, Doanh Tuẫn Giáo thiết lập một lễ đài đồ sộ tại sân tiền đường để hàng ngàn dân chúng có dịp tham dự. Kiến trúc của Doanh Phủ gồm hai toà nhà lớn: Nguyện đường và sảnh đường. Từ trên nhìn xuống, kiến trúc của Doanh Tuẫn Giáo có hình chữ nhân với Nguyện đường là nét dọc chính, trong khi sảnh đường hoàn tất hình nét ngang. Đây là điểm quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến nhân sự và hoạt động của Doanh Tuẫn Giáo. Trước mặt Nguyện đường là Nữ Vương đài với bức tượng Nữ Vương có đường nét của một phụ nữ Hoài Quốc. Trước hành lang chính dẫn vào Doanh phủ là một cây Thập Tự cao vút, biểu tượng linh thiêng của Thiên Giáo. Ba trụ cờ cao để thượng những lá đại kỳ trong những ngày đại lễ nằm thẳng tấp song song với sảnh đường. Một số các trụ cờ thấp hơn nằm dọc bờ thành của Doanh Phủ. Vào những buổi trưa hè nóng bức, Doanh phủ và sân chơi đuợc che mát bởi những tàng cây cổ thụ và những cây nhỏ chung quanh bờ thành.

Doanh Tuẫn Giáo như đã nói ở trên đã thoả mãn những ước nguyện của người Hoài Quốc vì đạt được cả ba yếu tố: Thiên thời, địa lợi, nhân hoà.

Thiên thời: Việc tạo mãi Doanh Tuẫn Giáo được phát động dưới thời cai trị của Tổng Trấn Bình Viễn An. Trong thời kỳ đó, toàn thể người Hoài Quốc theo Thiên Giáo ở Hồ Sinh đã mơ ước có một đền thờ riêng biệt với những nét đặc thù của dân tộc họ. Việc thờ tự và phát triển tôn giáo chắc chắn phải là mệnh Trời. Vì thế, yếu tố thiên thời thể hiện rõ rệt ngay từ lúc bắt đầu.

Địa lợi : Toạ lạc tại một vùng có khá đông dân cư, nhất là người Hoài Quốc, Doanh Tuẫn Giáo có địa lợi dễ dàng. Bên cạnh các trục lộ giao thông thuận lợi và các khu sinh hoạt sầm uất, vấn đề di chuyển đến Doanh Tuẫn Giáo không còn là một mối ưu tư lớn lao cho dân chúng.

Nhân Hoà : Đây là yếu tố quan trọng hơn hết. Việc tạo mãi và xây dựng Doanh Tuẫn Giáo hoàn toàn do lòng tự nguyện và thiện chí của người Hoài Quốc. Tinh thần đoàn kết và ý chí quyết tâm kiến tạo một nơi linh thiêng để thờ tự và bảo tồn những phong tục tập quán tốt đẹp của người Hoài Quốc đã mang đầy đủ yếu tố Nhân Hoà, một yếu tố không thể thiếu cho bất cứ một công việc nào.

Chính những yếu tố trên đã làm cho thế đứng của Doanh Tuẫn Giáo trở nên vững chắc. Doanh phủ và dân chúng, cả hai tạo thành một khối như keo sơn khó tách biệt. Linh hồn của Doanh Tuẫn Giáo cũng là linh hồn của dân chúng. Nơi đây trở nên một nơi đặc biệt, linh thiêng có thể biểu hiện bằng bốn chữ “Địa Linh Nhân Kiệt”. Như đã nói ở trên, theo các nhà địa lý, kiến trúc hình chữ Nhân một phần lớn ảnh hưởng đến tương lai của Doanh Tuẫn Giáo. Chỉ những người có lòng nhân hậu, tinh thần xả thân phục vụ bác ái vị tha mới có thể hoạt động tại Doanh Tuẫn Giáo. Những kẻ có lòng phản trắc, dạ bất trung hay tinh thần bất mãn đều không tìm được đất đứng tại đó. Ngay cả những nhà lãnh đạo được sai đến cai trị nếu không thể hiện được lòng Nhân như dân chúng mong muốn cũng bị tẩy chay. Ngoài ra, Doanh Tuẫn Giáo luôn luôn giữ được mục đích ngay từ lúc ban đầu, đó là hình ảnh một Đền Thờ của một sắc dân lưu lạc. Bất cứ mọi ý định biến đổi vùng đất ấy cho một mục đích khác đều không thực hiện được vì đi ngược lại với ước nguyện của dân chúng; ước nguyện đó cũng là mục đích của chiến dịch “Góp Quỹ Dựng Đền”.

8.3 THANH TẨY TẬP THỂ

Đầu năm 1987 Tây Lịch, Kim Sơn, vương quốc láng giềng ở phiá Bắc cách Hồ Sinh vào khoảng 50 dặm, có dịp mở rộng cửa ải quan để chào đón đoàn người Hoài Quốc của Doanh Tuẫn Giáo. Với những khó khăn cấm cách bao trùm lên lãnh thổ Hồ sinh, người Hoài Quốc trong thế chẳng đặng đừng phải vượt biên giới đến vương quốc lân cận để thể hiện tinh thần sùng đạo và tìm tự do tín ngưỡng. Sau hơn năm tháng sống trong bồn chồn lo lắng, ngày 11 tháng giêng năm 1987, không khí vui tươi an hoà lại tái xuất hiện với đoàn người của Doanh Tuẫn Giáo. Mặc dầu họ đến Kim Sơn chỉ để cử hành một vài nghi lễ trong một buổi chiều ngắn ngủi, những hoạt động tôn giáo đó đã ít nhiều mang lại niềm an ủi lớn lao cho họ. Trong khi người Hoài Quốc của Hồ Sinh tìm được một chút sinh khí sau những ngày tháng vất vả, triều đình Thạch Đỗ Ma trở nên bối rối vì những hoạt động của Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình bắt đầu vượt ra khỏi vùng kiểm soát. Những hoạt động này lại liên quan đến Kim Sơn, vương quốc có quá nhiều liên hệ với Hồ Sinh.

Nằm tiếp giáp ở phía Bắc Hồ Sinh, Kim Sơn là một vương quốc lớn rất nổi tiếng về nhiều phương diện. Hai trục lộ chính nối liền Kim Sơn với Hồ Sinh là huyết lộ Bách Nhất và Nhị Bát Thập, hai thương lộ sầm uất với hàng triệu ngựa xe nhộn nhịp. Phía Tây của Kim Sơn giáp với Hoà Bình Đại Dương khiến vương quốc này cũng trở thành một hải cảng quan trọng của Liên Quốc Tạp Chủng. Trước khi được tách rời để trở thành vương quốc tự trị, Hồ Sinh là phần lãnh thổ phía Nam của vương quốc Kim Sơn với Hoàng Đế Giang Huỳnh trên ngôi Cửu Ngũ và Thạch Đỗ Ma giữ chức Phó Vương. Chiếu chỉ của đại đế Giang Phong Đệ II nâng Hồ Sinh lên thành Vương Quốc và Phó Vương Thạch Đỗ Ma được tấn phong thành Hoàng Đế để cai trị vương quốc tân lập này. Vì những liên hệ kể trên, sự giao hảo giữa hai vương quốc thật là êm thắm . Trong suốt cuộc binh biến của người Hoài Quốc tại Doanh Tuẫn Giáo, Kim Sơn đã khéo léo đứng ngoài cuộc xung đột, không một lời bàn luận chính thức. Tất cả được xem như công việc nội bộ của Triều Đình Thạch Đỗ Ma. Tuy nhiên ngày 11 tháng Giêng năm 1987 Tây Lịch, vấn đề người Hoài Quốc bắt đầu đi vào một chiều hướng mới.

Chiều hướng mới bắt đầu từ lúc Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên của môn phái Phan Sanh từ Kim Sơn đến Hồ Sinh để giúp đỡ dân chúng Doanh Tuẫn Giáo trong dịp đại lễ Giáng Trần. Lúc bấy giờ lệnh cấm cử hành các nghi thức tôn giáo tại nguyện đường của Doanh Tuẫn Giáo vẫn còn hiệu lực. Các buổi tế tự của người Hoài Quốc tại Đền Thờ các Trấn cũng đều chịu chung số phận. Triều đình Thạch Đỗ Ma chỉ cho phép cử hành các nghi thức đặc biệt khác như thanh tẩy, Quan, Hôn, Tang tế tại một số Đền Thờ thuộc Hồ sinh mà thôi. Sau hơn năm tháng tranh đấu, một số trẻ em sơ sinh và những người trưởng thành muốn tòng giáo gặp khó khăn trong việc lãnh nhận nghi thức Thanh Tẩy. Những gia đình của dân chúng có trẻ em mới sinh quyết định tẩy chay các nghi thức tôn giáo do Tổng Trấn Lộ Dung chủ sự nên họ đã nhờ Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình và Bang Hành Sự của Doanh Tuẫn Giáo thu xếp cho họ. Sau khi tham khảo ý kiến của Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên và vị Chưởng môn phái Phan Sanh tại Kim Sơn, buổi tế tự đặc biệt cho người Hoài Quốc được tổ chức.

Vào giờ Mùi ngày 11 tháng Giêng năm 1987, không khí tại sân tiền đường của Doanh Tuẫn Giáo trở nên nhộn nhịp. Hàng trăm cổ xe tứ mã trên chở đầy nam phụ lão ấu tề tựu đông đủ, sắp hàng ngay ngắn. Các Kha Trưởng và Kha Phó của Bang Hành Sự và các thủ lãnh của Chân Lý Thái Bình bận rộn phối trí công tác cho cuộc di hành đông đảo. Các nghĩa quân trong những bộ võ phục tươm tất, kiểm điểm võ khí, sẵn sàng bảo vệ cho đoàn người sắp lên đường. Trên mỗi tứ xe tứ mã có dán một mảnh giấy nhỏ quen thuộc “Thể Nhân Trấn : Thuận” để làm dấu hiệu liên lạc và nhận diện trong suốt cuộc di hành. Sau khi kiểm điểm đội ngũ lần chót và cắt đặt người coi sóc Doanh Phủ, đích thân Bạc Trang Hán Tử và Giáo Học Thiền Trang thống lĩnh đoàn ngựa ra khỏi cổng thành. Đoàn xe nối đuôi dài như con rắn, theo huyết lộ Bách Nhất, trực chỉ hướng Bắc tiến về vương quốc Kim Sơn. Các nghĩa quân của Doanh Tuẫn Giáo cưỡi ngựa song song với đoàn xe để bảo vệ an ninh ở hai cạnh sườn. Một toán nghĩa quân khác đi đoạn hậu để kiểm soát toàn bộ và hướng dẫn những cổ xe bị lạc đưòng.

Khoảng giữa giờ Mùi, đoàn xe của Doanh Tuẫn Giáo bắt đầu tiến vào địa giới của thủ phủ Kim Sơn. Việc tìm kiếm Đền Thờ Bố Nhị Phát không mấy khó khăn vì mỗi cổ xe đều được cấp phát một mảnh hoạ đồ nhỏ. Đền thờ Bố Nhị Phát nằm trên lộ Kim Kiều của đế đô Kim Sơn là nơi cư trú của Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên. Để người Hoài Quốc có cơ hội tham dự một buổi tế tự đặc biệt trong đó có nghi thức Thanh Tẩy cho các trẻ sơ sinh và những người tòng giáo, ông đã quyết định cho tổ chức buổi tế ngay tại Đền Thờ của ông. Theo lịch Thiên Giáo, hôm ấy là ngày kỷ niệm Thiên Sai Giáo Chủ lãnh nhận nghi thức Thanh Tẩy trước khi bắt đầu sứ mạng truyền đạo của Ngài.

Vừa đặt chân vào Đền Thờ, dân chúng đã sững sờ trước công trình kiến trúc theo lối cổ thật nguy nga tráng lệ. Trên trần cao và chung quanh bốn vách của Đền thờ là những bức hoạ tuyệt mỹ diễn tả lịch sử của Thiên Giáo. Chánh Điện và hai hàng trụ cao bằng đá cẩm thạch bóng loáng phản chiếu ánh sáng đủ màu từ những khung cửa kính ngũ sắc. Đền thờ có vẻ cổ kính đặc biệt khác hẳn những Đền thờ có lối kiến trúc tân kỳ thường thấy ở Hồ Sinh. Người Hoài Quốc cảm thấy tâm hồn rung động. Họ mừng rỡ sung sướng khi tìm thấy sự tự do tín ngưỡng trên vùng đất của vương quốc lân cận.

Các quan Thất Phẩm người bản xứ của môn phái Phan Sanh tại Đền Thờ Bố Nhị Phát cũng cảm thấy vui lây với niềm vui của dân chúng Doanh Tuẫn Giáo. Buổi tế được đồng chủ sự bởi Quan Thất Phẩm Tấn Mãnh Nguyên và một vị quan Thất Phẩm khác người bản xứ. Dân chúng đứng chật cả Đền Thờ, cất cao giọng hát chào mừng đoàn trẻ sơ sinh được cha mẹ bế vào Đền Thờ theo lối đi chính giữa. Hai vị quan Thất Phẩm chủ sự cuộc tế đứng gần Chánh điện chào đón những người sắp lãnh nhận nghi thức Thanh Tẩy bằng cách ghi dấu Thập Tự trên trán của họ. Sau đó toàn thể dân chúng bắt đầu tham dự cuộc tế với tất cả tinh thần sốt sắng. Họ vui mừng sung sướng khi thấy dòng nước tươi mát chảy tràn đầy trên đầu con em họ. Sau đó tất cả mọi người dâng lời cầu nguyện cho những người vừa gia nhập Thiên Giáo qua nghi thức Thanh Tẩy và đặc biệt cho vương quốc Hồ Sinh cùng những nhà lãnh đạo.

Buổi tế đặc biệt tại Đền Thờ Bố Nhị Phát của vương quốc Kim Sơn đã mang đến cho dân chúng của Doanh Tuẫn Giáo cảm tưởng vui buồn lẫn lộn. Vui vì thấy những nhà lãnh đạo Thiên Giáo như các Quan Thất Phẩm của môn phái Phan Sanh và Tấn Mãnh Nguyên đã hết lòng giúp đỡ, thương yêu, lo lắng cho họ trong những ngày tháng lận đận. Buồn vì nghĩ đến đời sống tinh thần thiếu thốn và tương lai mù mịt của Doanh Tuẫn Giáo. Người Hoài Quốc của Doanh Tuẫn Giáo cảm thấy có điều trùng hợp về mối liên hệ giữa họ và môn phái Phan Sanh.

Môn phái Phan Sanh là môn phái của người nghèo. Những người đói khổ về vật chất thường tìm đến các tu viện và Đền thờ của môn phái Phan Sanh để ăn mày sự bố thí. Đối với người Hoài Quốc, tuy không đói về mặt vật chất nhưng họ lại là những kẻ thiếu thốn về phương diện tinh thần. Họ cũng đến Đền thờ của môn phái Phan Sanh để ăn mày những nghi lễ là món ăn cần thiết cho đời sống tâm linh. Những nhà lãnh đạo Thiên Giáo của vưong quốc Hồ Sinh đã khiến thần dân của mình trở nên những người hành khất bất đắc dĩ, bôn ba sang tận vương quốc láng giềng để có được của ăn tinh thần. Thế mà trong các lời hiệu triệu và văn thư gửi người Hoài Quốc, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma lúc nào cũng cho rằng ông hết lòng quan tâm, thương yêu và lo lắng cho họ.

8.4 LIÊN HỘI HOÀI QUỐC TẠI BẮC CA LĨNH

Mặc dầu đầu năm 1987 Tây Lịch đã qua đi được gần một tháng, năm mới của người Hoài Quốc vẫn chưa bắt đầu. Theo cách tính toán ngày tháng của các dân tộc ở phương Đông, đầu năm mới sẽ bắt đầu vào cuối tháng Giêng của Tây Lịch. Năm 1987 sẽ được gọi là năm Đinh Mão.

Cũng như mọi dân tộc khác, người Hoài Quốc có quan niệm những ngày đầu năm là những ngày nghỉ ngơi vui chơi sau một năm dài làm việc vất vả. Đó cũng là những ngày đặc biệt được dành riêng để cảm tạ Ơn Trời đã ban cho họ mọi sự lành trong năm cũ. Ngoài ra, những ngày đầu năm cũng là dịp để gia đình quây quần, đoàn tụ, tưởng nhớ công ơn của tổ tiên ông bà, thăm viếng và chúc tuổi thân quyến bằng hữu. Đó là về phương diện tinh thần. Về mặt giải trí, người Hoài Quốc còn tổ chức các buổi tiệc ăn uống linh đình, tham dự các trò vui công cộng để mừng năm mới. Những phong tục tập quán tốt đẹp đó đã có từ lâu và người Hoài Quốc đã cố gắng gìn giữ cho dầu đang sống trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Sau khi bọn Rợ Hồ từ phương Bắc tràn xuống đánh cướp quê hương vào mùa Xuân năm Ất Mão 1975, hơn một triệu người Hoài Quốc phải rời bỏ xứ sở để lánh nạn tại các vương quốc trên thế giới. Đa số đến định cư lập nghiệp tại Liên Quốc Tạp Chủng và đặc biệt tại vương quốc Hồ Sinh. Những vương quốc láng giềng với Hồ Sinh như Kim Sơn cũng có rất đông người Hoài Quốc kéo đến sinh sống. Sau một thời gian ngắn làm quen với cuộc sống mới, người Hoài Quốc bắt đầu kết hợp lại với nhau thành những Bang, Hội với mục đích giúp đỡ lẫn nhau. Những Bang, Hội trong một vùng có thể kết hợp thành tổ chức lớn hơn chẳng hạn Liên Hội người Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh. Riêng tại Hồ Sinh, ngoài việc tổ chức các cuộc hội họp, lễ lạy trong năm Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh thường đảm nhận việc tổ chức Hội Chợ Xuân hàng năm cho dân chúng Hoài Quốc trong vùng.

Dầu không phải là một Bang Hội, nhưng người Hoài Quốc theo Thiên Giáo tại Doanh Tuẫn Giáo tự động kết hợp với nhau thành một khối dân đông đảo bằng sợi dây tín ngưỡng vô hình. Vào những năm trước ngày Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma của Thiên Giáo về cai trị Hồ Sinh, dân chúng của Doanh Tuẫn Giáo góp mặt với Liên Hội Hoài Quốc Bắc Ca Lĩnh bằng danh xưng Cộng Đồng Thiên Giáo Hoài Quốc. Cho mãi đến những năm sau danh xưng này vẫn thường được dùng để ám chỉ dân chúng Hoài Quốc theo Thiên Giáo thuộc Doanh Tuẫn Giáo.

Cuộc binh biến Bính Dần 1986 của Doanh Tuẫn Giáo khiến Cộng Đồng Thiên Giáo Hoài Quốc chia thành hai phe rõ rệt: phe ủng hộ Triều đình và tổng trấn Lộ Dung, và phe đối nghịch còn được gọi là phe của Doanh Tuẫn Giáo. Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh trong suốt cuộc binh biến của Doanh Tuẫn Giáo đã khéo léo tế nhị đứng ngoài cuộc xung đột, giữ thế đứng trung lập. Cuộc binh biến khởi phát từ mùa hè năm Bính Dần 1986 tưởng như kết thúc trong một thời gian ngắn không ngờ lại kéo dài đến hết cuối năm và chuẩn bị bước sang năm Đinh Mão 1987 trong lúc Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh chuẩn bị cho Hội Chợ Xuân hàng năm.

8.5 CHUẨN BỊ XUÂN ĐINH MÃO 1987

Vì muốn chứng tỏ cho công luận Hoài Quốc và người dân bản xứ biết ai là người đang nắm giữ quyền hành tại Doanh Tuẫn Giáo và là đại diện chính thức của những người Hoài Quốc theo Thiên Giáo, Tổng Trấn Lộ Dung đã ra lệnh cho thủ hạ chuẩn bị kế hoạch đối phó với Hội Chợ Xuân do Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh tổ chức. Viện lý do là Cộng Đồng Thiên Giáo Hoài Quốc đang gặp khó khăn về nội bộ, phe Lộ Dung nhất quyết từ chối việc tham dự Hội Chợ Xuân Đinh Mão 1987. Ba tổ chức ủng hộ Lộ Dung là Đạo Quân Tử Thủ Đức Tin Thiên Giáo, Hoài Quốc Nhân Dân Thiên Giáo Hội và Đạo Binh Công Cán Chính Hoài Quốc tại Hồ Sinh đồng ký tên trên một Bưu điệp gửi đến Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh. Bưu điệp của 3 tổ chức ủng hộ Lộ Dung đã làm cho dân chúng ở Doanh Tuẫn Giáo và Liên Hội tức giận. Trước hết, về mặt hình thức, các tổ chức này đã chứng tỏ họ không hiểu biết gì về thủ tục hành chính khi dùng hình thức “Bưu Điệp” để thông báo quyết định của một tổ chức cho một tổ chức khác. Kế đến nội dung hoàn toàn có tính cách đe doạ và hoàn toàn vô lý. Hai tuần lễ trước ngày khai mạc Hội Chợ Xuân, Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh lại liên tiếp nhận được hai văn thư có dấu triện của Tổng Trấn Lộ Dung xác nhận việc không tham dự, đồng thời ngăn cấm bất cứ tổ chức nào tham dự với danh nghĩa Thiên Giáo. Tất cả việc làm trên đã châm ngòi cho quyết định của Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình và Bang Hành Sự của Doanh Tuẫn Giáo: Nhân danh Cộng Đồng Thiên Giáo Hoài Quốc, họ nhất quyết tham dự Hội Chợ Xuân năm Đinh Mão 1987.

Ngoài 3 gian hàng để triển lãm hình ảnh và sinh hoạt như mọi năm, Doanh Tuẫn Giáo còn lãnh nhận một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Đó là việc thiết lập một cổng Tam quan vĩ đại trước khu hội chợ. Trong các buổi Tiểu Diên Hồng Hội tại sảnh đường của Doanh Tuẫn Giáo, vấn đề thiết lập cổng Tam quan đã được dân chúng bàn thảo kỹ lưỡng. Tất cả đều đồng ý việc dựng cổng kể trên sẽ chứng tỏ cho công luận thấy thực lực hùng mạnh của Doanh Tuẫn Giáo và chính họ mới là những người đại diện chính thức cho Cộng Đồng Thiên Giáo Hoài Quốc chớ không phải những tổ chức đang ủng hộ Tổng Trấn Lộ Dung và Triều đình. Việc kiến tạo Cổng Tam quan được dân chúng giao phó cho Kha Trưởng Bảo Trầm Luân của Trấn Nam Hồ Sinh, kha phó Ngũ Mạnh San của Trấn Cẩm Báo và Mộc Sư Ngũ Đình Thường của Trấn Bắc Hồ Sinh.

Sáng ngày 13 tháng Giêng năm 1987, đoàn xe chở gỗ do những con bò mộng kéo về đến sân Doanh Phủ. Lập tức những nghĩa quân của Chân Lý Thái Bình bắt tay ngay vào việc. Hoạ đồ kiến trúc được nghiên cứu tỉ mỉ và đo đạc chính xác. Tiếng cưa gỗ, tiếng dùi đục, tiếng đóng đinh bắt đầu rộn rã âm vang. Mặc dầu Hội Chợ Xuân được tổ chức tại một khu đất trống cách xa Doanh Tuẫn Giáo, các nghĩa quân của Chân Lý Thái Bình quyết định thực hiện từng phần tại sân Doanh Phủ, sau đó toàn bộ cổng Tam quan sẽ được vận chuyển đến địa điểm tổ chức và ráp lại với nhau. Chỉ trong 3 ngày ngắn ngủi, các phần chính của cổng như trụ, mái, kèo . . . hầu như hoàn thành. Công trình kiến trúc đồ sộ này chiếm cả nửa khoảng sân rộng của Doanh Phủ. Dân chúng có dịp ghé lại Doanh Tuẫn Giáo đều thán phục sự hy sinh và khéo tay của những người có trách nhiệm hoàn tất chiếc cổng Tam quan cho Hội Chợ Xuân của người Hoài Quốc. Riêng đối với dân chúng Hoài Quốc theo Thiên Giáo của Chân Lý Thái Bình, đây là biểu tượng cho tình đoàn kết, chí phấn đấu và sự vững mạnh của một khối đông dân trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt.

Ngoài viêc tham dự Hội Chợ Xuân do Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh tổ chức, Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình còn tự đứng ra tổ chức một Nhạc Hội mừng Xuân Đinh Mão trước Hội Chợ Xuân một tuần. Đây cũng là một hình thức biễu dương lực lượng đáng kể của Doanh Tuẫn Giáo. Thành phần các diễn viên của buổi Nhạc Hội là những nghệ sĩ tài hoa Hoài Quốc ở miền Nam Ca Lĩnh phối hợp với các diễn viên địa phương của Doanh Tuẫn Giáo. Điểm quan trọng của buổi Nhạc Hội mừng Xuân Đinh Mão 1987 của Doanh Tuẫn Giáo là phần cầu nguyện cho quê hương Hoài Quốc và vương quốc Hồ Sinh. Giáo Học Thiền Trang đã chính thức viết sớ mời Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma đến cầu nguyện và tham dự buổi Nhạc Hội kể trên. Cũng như sớ mời dự lễ Giao Hoà trong dịp Đại Lễ Giáng Trần, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma một lần nữa lại lâm vào thế khó xử đối với dân chúng Hoài Quốc.

Không riêng gì Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma, ngay cả Tổng Trấn Lộ Dung và thủ hạ của ông cũng ở trong tình trạng nan giải. Họ tuyên bố sẽ chống đối kỳ cùng những hoạt động của Chân Lý Thái Bình tại Hội Chợ Xuân của Liên Hội Hoài Quốc Bắc Ca Lĩnh. Những lời tuyên bố trên đã khiến cho các hệ thống Công Báo và truyền ảnh Trạm của Hồ Sinh tới tấp phổ biến những bản tin nóng sốt và trông đợi những hành động mạnh mẽ của phe Lộ Dung. Cùng lúc ấy, Liên Hội Hoài Quốc taị Bắc Ca Lĩnh và đặc biệt Doanh Tuẫn Giáo đã chuẩn bị sẵn sàng đối phó mọi bất trắc có thể xảy đến cho những chương trình của họ.

Cũng trong khuôn khổ mừng Xuân Đinh Mão 1987, Doanh Tuẫn Giáo đặc biệt dự định tổ chức một buổi phát chẩn cho những người bản xứ nghèo đói tại đế đô của Hồ Sinh. Với tinh thần hãm mình để cầu nguyện cho hai thỉnh nguyện sớm thành tựu tất cả người Hoài Quốc sẽ nhịn ăn một ngày để lấy tiền giúp đỡ những người bản xứ đói khổ.

Tóm lại, sau sáu tháng sống trong hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, người Hoài Quốc tại Doanh Tuẫn Giáo đã cố gắng thực hiện những điểu quan trọng cho một năm mới. Tất cả những dự định tổ chức của họ đã thể hiện một tinh thần hy sinh cao độ, lòng quyết tâm vượt mọi gian nguy trở ngại và ý chí sắt đá đấu tranh cho một nền công lý và hoà bình thật sự.

Tục truyền rằng sau những ngày mùa đông lạnh lẽo buốt giá, vào một ngày đầu xuân tiết trời ấm áp với những tia nắng sớm ban mai vừa chiếu vào khung cửa kính của thư phòng, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma vén cao bức rèm, mở toang cửa sổ để đón nhận làn nắng ấm. Sau những tháng dài căng thẳng về vấn đề Hoài Quốc, ông chưa có dịp sống lại những thời khắc an bình như những năm đầu lúc vừa lên ngôi Cửu Ngũ. Hơn một tháng nay, sau khi ban hành chiếu chỉ ngăn cấm tất cả các buổi tế tự của người Hoài Quốc, không khí của nhóm chống đối có vẻ lắng dịu. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là đã khoá được chân tay của họ. Ông đang chờ đợi những diễn biến khác sẽ xảy ra cho năm Đinh Mão 1987. Nhìn thấy tấm thảm cỏ xanh mơn mởn trong vườn thượng uyển và ánh nắng ban mai chan hoà cả một khoảng sân, ông chợt có ý muốn bước ra vườn để tắm nắng và làm những động tác thể dục như ông vẫn thường làm trước ngày có cuộc binh biến. Ông vội vàng mở cửa bước nhanh ra vườn. Tháo vội đôi hài thêu cườm ra khỏi hai bàn chân, ông cảm thấy khoan khoái khi được bước trên mặt thảm cỏ mịn như nhung. Ông bước thêm vài bước về phía góc vườn. Đột nhiên ông kêu lên một tiếng thất thanh rồi ngồi bẹp xuống nền cỏ, hai tay ôm chặt lấy bàn chân. Mặt ông nhăn nhúm lại vì đau đớn. Những giọt máu đỏ lấm tấm bắt đầu rỉ ra chung quanh hàng chục gai nhọn đang cắm vào gan bàn chân của ông. Tên quân canh đứng gần đó hồn phi phách tán, phóng vào cấp báo với Quan Ngự Y. Trong chớp mắt, vị quan có bổn phận săn sóc sức khoẻ của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma đã có mặt tại vườn thượng uyển và quan sát những vết thương của ông. Vừa thấy Quan Ngự Y, Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma tức giận hét to:

- Tại sao lại có thứ cỏ gai kỳ lạ này mọc trong vườn, trước kia có bao giờ ta bị gai đâm đâu.
Quan Ngự Y cúi thấp đầu nhìn xuống đám cỏ. Sau một hồi quan sát kỹ lưỡng, ông ngẩng lên và ôn tồn nghiêm nghị:
- Muôn tâu bệ hạ! Theo sự hiểu biết của hạ thần về thảo mộc thì loại cỏ này đã có từ trước ngày Bệ Hạ về cai trị Hồ Sinh. Chúng có một đặc tính kỳ lạ là luôn luôn xinh đẹp mơn mởn tươi tốt quanh năm. Tuy nhiên nếu người săn sóc cho nó không tưới nước bón phân đầy đủ thì tự nhiên chúng trở nên những gai nhọn rất cứng rắn. Đối với đám cỏ này, Bệ Hạ chỉ cần tưới nước bón phân lại thì tức khắc những gai nhọn sẽ trở nên mềm mại và xinh tốt như thường.
- Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma cố nén đau hỏi tiếp:
Thế nhà ngươi có biết xuất xứ và lai lịch của giống cỏ này không?
Quan Ngự Y nhanh nhẹn:
- Đây không phải là loại cỏ bản xứ. Giống cỏ này được mang từ phương Đông sang. Chúng rất dễ chăm sóc và xinh đẹp. Trong Thảo Mộc Thư, loại cỏ nầy được tìm thấy ở ven bờ biển phía Tây của Hoà Bình Đại Dương và chúng mọc rất nhiều ở Vương Quốc Hoài Quốc. Vì thế chúng còn được gọi là Hoài Quốc Thảo.

8.6 DOANH TUẪN GIÁO VÀ NHẠC HỘI XUÂN ĐINH MÃO 1987

Không khí Doanh Tuẫn Giáo vào những ngày cuối năm vô cùng nhộn nhịp. Mọi sinh hoạt thường nhật của dân chúng tại các trang trại của họ hầu như bị đình trệ. Tất cả mọi người đều tham gia vào công việc của Doanh phủ, chuẩn bị cho hai biến cố quan trọng vào dịp đầu năm Đinh Mão. Đó là buổi Nhạc Hội Xuân do Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình tổ chức và Hội Chợ Xuân của Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh.

Tối 23 tháng Giêng Tây Lịch nhằm ngày 24 Tết của người Hoài Quốc, hàng trăm người sau cuộc họp Tiểu Diên Hồng Hội đã tiếp tục ở lại Doanh phủ để hoàn tất tờ hịch Chánh Đạo đặc biệt vào dịp cuối năm. Đây là một kỳ công về văn học của Doanh Tuẫn Giáo nổi bật nhất trong năm. Ngoài những bài vở thường lệ có nội dung liên hệ đến cuộc đấu tranh của người Hoài Quốc trong năm Bình Dần, người ta còn thấy xuất hiện những bài vở đặc biệt mừng Xuân mới. Hình thức lẫn nội dung của tờ hịch là cả một công trình đặc biệt được đóng góp bởi một số rất đông văn nhân thi sĩ thời bấy giờ.

Tờ mờ sáng ngày 25 Tết, giữa cái không khí lạnh lẽo của những ngày cuối năm, tiếng vó ngựa của đoàn nghĩa quân lại rộn rã vang lên. Họ từ khắp các Trấn kéo nhau về Doanh Phủ để chuẩn bị cho buổi Hội Nhạc Xuân được tổ chức vào buổi chiều hôm ấy. Xa xôi nhất ở phía Bắc của Hồ Sinh có sự góp mặt của Võ Nhất Thanh Kha Trưởng của Trấn Vưu Sơn. Bầu đoàn thê tử của Võ gia trang đã thức dậy trước cả tiếng gà gáy sáng, cơm nắm chuẩn bị sẵn sàng và vượt hơn chục dặm đường để góp phần công tác trong buổi Nhạc Hội. Kha Trưởng Hoàng Ngọc Chương và phu nhân của Trấn Miêu Phá Thạch cũng không chịu thua kém, rời khỏi Hoàng gia trang trong lúc trang trại của người dân còn cửa đóng then gài. Các Kha Trưởng Bảo Trầm Luân của Nam Hồ Sinh và Kha phó Ngũ Mạnh San của Trấn Cẩm Báo với trách nhiệm nặng nề là thiết trí lễ đài cho buổi Nhạc hội đã hầu như thức suốt đêm để hoàn tất những công tác cuối cùng.

Vào khoảng đầu giờ Ngọ, sân tiền đường của Doanh Tuẫn Giáo tưng bừng như một buổi chợ phiên. Các toán nghĩa quân bận rộn di chuyển hàng chục chiếc bục gỗ nặng nề sang thao diễn đường của Trung học tràng An Đệ Hiếu, nơi mà Doanh Tuẫn Giáo đã tổ chức Nhạc Hội mừng đại lễ Giáng Trần vào tháng trước. Hàng trăm cây gỗ dài đã được đo đạc, cắt xén hẳn hoi cũng được chất lên những xe tứ mã để ráp tại địa điểm. Cho đến cuối giờ Tỵ, toàn thể lễ đài rộng lớn đã được kiến tạo xong với hai cột gỗ vuông cao vút ở tiền điện. Chính diện của lễ đài là bức hoạ sắc sảo với những nét chấm phá linh động mô tả những cảnh trí của ngày Tết.

Cũng ngày hôm ấy, Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình đã chứng tỏ cho công luận thấy lực lượng đông đảo của họ và sự hậu thuẫn mạnh mẽ của quần chúng. Hàng ngàn người đã kéo nhau vào Thao Diễn đường của Trung học tràng An Đệ Hiếu để tham dự buổi Nhạc hội mừng xuân của Doanh Tuẫn Giáo. Tuy nhiên mục đích chánh của buổi Nhạc hội hôm ấy vẫn là nghi thức Giao Hoà. Mặc dầu sớ mời Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma và các võ quan cao cấp của Triều đình đã được gửi đi, nhưng nhà lãnh đạo của Thiên Giáo vẫn từ khước tham dự với lý do buổi hội họp không do Tổng Trấn Lộ Dung tổ chức. Sát cánh với Doanh Tuẫn Giáo vẫn là Quan Thất Phẩm Tất Mãnh Nguyên của môn phái Phan Sanh. Ông lại lặn lội từ Kim Sơn đến chung vui với đám dân bất hạnh và chúc mừng dân chúng khi buổi Nhạc hội bắt đầu. Đặc biệt ngày hôm ấy, hàng ngàn ngọn nến đã được toàn thể dân chúng thắp sáng như muốn nói lên đức tin vững mạnh và tinh thần hoà giải thực sự của họ. Sau đó buổi Nhạc hội đã được diễn ra tưng bừng với những màn trình diễn hấp dẫn của các nghệ sĩ tài danh. Lại có cả những hình thức mừng Xuân đặc biệt của ngày Tết như múa Lân, đốt pháo . . . khiến mỗi người có cảm tưởng như đang sống lại những ngày thanh bình của quê hương cũ. Tinh thần dân chúng lên rất cao được thể hiện qua những tiếng vỗ tay tán thưởng vang dội. Đặc biệt họ đã thể hiện sự tích cực có một không hai qua việc đóng góp vào những chi phí của Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình cho việc tổ chức; số tiền quyên góp hôm ấy lên đến hơn một vạn quan. Mặc dầu thành công về mọi mặt, sự vắng mặt của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma và các quan lại của ông vẫn làm cho người Hoài Quốc cảm thấy buồn nản. Họ biết rằng cuộc tranh đấu của họ dầu thế nào cũng bị bắt buộc bước sang năm mới, điều mà họ không bao giờ muốn.

8.7 DOANH TUẪN GIÁO VÀ HỘI CHỢ XUÂN ĐINH MÃO 1987

Dư âm của sự thành công buổi Nhạc hội Xuân chưa kịp tận hưởng thì nghĩa quân của Doanh Tuẫn Giáo lại phải bắt tay ngay vào một công tác khác có tầm mức vô cùng quan trọng. Đó là việc dựng chiếc cổng Tam quan cho Hội Chợ Xuân Đinh Mão 1987 do Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh tổ chức. Chiếc cổng Tam quan cũng như những gian hàng triển lãm của Doanh Tuẫn Giáo là một đề tài gây rất nhiều sôi nổi trong cộng đồng Hoài Quốc. Trước đó, Tổng Trấn Lộ Dung và thủ hạ của ông đã liên tiếp gửi văn thư cũng như “bưu điệp” phản đối việc xưng danh Thiên Giáo để tham dự Hội Chợ Xuân của phe Chân Lý Thái Bình. Công luận Hồ Sinh đã chú tâm theo dõi vấn đề và xem Hội Chợ Xuân như một cơ hội để đo lường sức mạnh của hai phe Hoài Quốc. Nhận thức được điều đó, Doanh Tuẫn Giáo dốc toàn bộ nhân lực cũng như tài lực cho dịp thư hùng này.

Sáng ngày 27 Tết, những thớt tượng khổng lồ ầm ầm rung chuyển đường phố của phía Nam Hồ Sinh. Con đường Sinh Tử Lộ nối liền Doanh Tuẫn Giáo với khu hội chợ tấp nập nghĩa quân của Chân Lý Thái Bình. Họ ra sức điều khiển những chú voi to lớn kéo những súc gỗ lớn đến địa điểm dựng cổng. Những bộ phận của mái, cột, mặc dầu đã được tháo ra thành từng mảnh nhỏ vẫn còn cồng kềnh choán chật bề ngang của con lộ. Việc di chuyển chiếm rất nhiều thì giờ, mãi đến đầu giờ Ngọ nghĩa quân mới thực sự bắt tay vào việc ráp cổng. Thời tiết lại cũng bất lợi cho nhóm Chân Lý Thái Bình. Trời lạnh như buốt, gió lại thổi mạnh khiến việc dựng cổng trở nên khó khăn. Mặc dầu ở vào thế kỷ 20 với những phương tiện văn minh cơ khí sẵn sàng, Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình quyết định dùng toàn sức người để kiến tạo công trình vĩ đại nói trên. Quyết định này nhằm mục đích chứng tỏ cho công luận Hồ Sinh nói chung và cộng đồng Hoài Quốc nói riêng sức mạnh của Doanh Tuẫn Giáo.

Chỉ trong khoảnh khắc, 8 chiếc cột khổng lồ đã sừng sững mọc cao vút trước mặt tiền của khu Hội Chợ. Kế đến là những cây đà ngang nặng nề lần lượt gác lên những đầu cột cao. Và cuối cùng, những bộ phận mái ngói vĩ đại được hàng chục sợi dây thừng và hàng trăm người kéo lên. Tất cả đều hăng say làm việc mặc cho gió lạnh liên tiếp thổi xoáy vào da thịt. Không khí vui nhộn và niềm hãnh diện chung đã làm cho họ quên những cực nhọc vất vả và những điều kiện khó khăn của thời tiết. Mãi đến chiều 29 Tết, chiếc cổng Tam quan vĩ đại mới được hoàn thành. Màu đỏ sậm của mái ngói đỏ bật trên 8 chiếc cột trắng. Những đường viền đỏ chung quanh hai cột chánh đóng khung hai câu đối nhắc nhở người Hoài Quốc về quê hương xa xôi. Nổi bật nhất là hai huy hiệu lớn hình tròn của Cộng Đồng Thiên Giáo Hoài Quốc cùng những bảng nhỏ có hàng chữ cổng được thực hiện bởi những người của Doanh Tuẫn Giáo. Người Hoài Quốc cũng như dân bản xứ khi đi vào khu Hội Chợ đã thầm cảm phục kiến trúc đồ sộ nói trên và đưong nhiên công nhận thực lực đáng kể của Doanh Tuẫn Giáo.

Trong lúc công việc dựng cổng đang diễn tiến. Bang Phòng Thủ Chân Lý Thái Bình và Bang Hành Sự của Doanh Tuẫn Giáo vẫn còn tranh luận rất nhiều về đường lối triển lãm cho những gian hàng của họ tại Hội Chợ Xuân. Cuối cùng họ quyết định theo đuổi đường lối ôn hoà để chứng tỏ cho Triều đình và công luận tinh thần hiếu hoà và thiện chí xây dựng. Do đó, một mô hình của Doanh Tuẫn Giáo thật mỹ thuật được kê ngay ngắn ở khoảng giữa của gian hàng triển lãm bên dưới bức họa truyền chân của Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma. Lối triển lãm đơn sơ vừa kể lại có một ý nghĩa thâm thuý khiến công luận một lần nữa dành trọn cảm tình cho khối người đang tranh đấu.

Tục truyền rằng Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma vào những ngày trước khi Hội Chợ Xuân của người Hoài Quốc được khai mạc, ông vẫn băn khoăn do dự không biết nên quyết định như thế nào. Mặc dầu đã nhận được sớ mời của tổ chức Liên Hội Hoài Quốc tại Bắc Ca Lĩnh từ những tuần lễ trước nhưng ông vẫn chưa có lời phúc đáp. Đối với ông, nếu Hội Chợ kể trên do Doanh Tuẫn Giáo tổ chức, ông đã không phải ở vào thế khó giải quyết. Tuy nhiên đây không phải là cuộc họp của những người đang chống đối ông. Nó là một biến cố quan trọng nhất không những cho những người Hoài Quốc theo Thiên Giáo cũng là thần dân của ông mà là cuộc họp vĩ đại nhất trong năm của toàn thể cộng đồng Hoài Quốc ở Hồ Sinh. Khối người này đang chú tâm theo dõi quyết định quan hệ của ông để thẩm định tất cả những gì ông đã làm trong suốt cuộc đấu tranh của người Hoài Quốc của Doanh Tuẫn Giáo. Quả là một điều khó xử vô cùng. Những người Hoài Quốc theo Thiên Giáo đang ủng hộ ông là phe Lộ Dung đã cực lực tẩy chay Hội Chợ Xuân, nếu ông quyết định ngược lại họ sẽ nghĩ gì? Một buổi sáng sớm ông đang đứng tựa cửa sổ nhìn ra ngoài trời, đầu óc quay cuồng với bao ý nghĩ. Suốt cả đêm trước, cơn mưa nặng hạt ầm ầm như trút nước. Bầu trời tối đen, gió mạnh từng cơn tạo nên những tiếng hú ghê rợn. Ông mong Trời mau sáng để thoát khỏi cảm giác âm u đó. Tờ mờ sáng, mặc dầu bên ngoài trời vẫn còn mưa, nhưng gió đã ngưng thổi. Bất chợt, một vầng hồng nhỏ ló dạng ở cuối đường chân trời. Vầng hồng càng lúc càng lan rộng. Mưa đột nhiên tạnh hẳn. Lần đầu tiên trong đời, ông được mục kích cảnh rạng đông huy hoàng. Lòng ông cảm thấy phơi phới, niềm vui nhè nhẹ len vào tâm hồn. Bổng chốc, một bóng trắng nhỏ từ xa bay đến, xà ngay trên vỉa hè trước mặt ông. Ông chăm chú nhìn kỹ. Thì ra đó là một con chim bồ câu trắng nhỏ với đôi mắt non dại thật dễ thương. Đặc biệt chiếc mỏ nhỏ xíu đang cắp một nhánh ô liu xanh mởn. Ông chợt nghĩ ngay đến câu chuyện Lụt Đại Hồng Thủy trong pho Cổ Thư của Thiên Giáo. Con chim bồ câu nhỏ nhìn ông, đầu ngẩng cao, đôi mắt chớp vài cái như muốn nói điều gì. Cuối cùng nó vỗ cánh bay đi. Hoàng Đế Thạch Đỗ Ma suốt ngày hôm đó trở nên tư lự. Mãi đến tối, ông mới quyết định cho quân cấp báo ý muốn tham dự Hội Chợ Xuân của người Hoài Quốc. Và ý nghĩ đến thăm gian hàng triển lãm của Doanh Tuẫn Giáo cũng lởn vởn trong đầu của ông.

Sáng hôm sau, lúc bước vào khu Hội Chợ, thình lình ông bắt gặp chú bồ câu nhỏ hôm trước đang đứng cao chót vót trên nóc cổng Tam quan của Doanh Tuẫn Giáo. Cạnh bên nó là một dấu tròn có nét như một mẫu tự. Ông quay sang hỏi ý nghĩa của mẫu tự ấy, người hướng dẫn cho biết đó là chữ “Thọ”.


--------------------
mm
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Reply to this topicStart new topic
2 User(s) are reading this topic (2 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 13th June 2024 - 11:18 AM