Welcome Guest ( Log In | Register )

165 Pages V   1 2 3 > » 

NamQuoc
Posted on: Oct 17 2020, 11:01 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



  Forum: TIN TỨC NĂM CHÂU · Post Preview: #164327 · Replies: 0 · Views: 171

NamQuoc
Posted on: Oct 17 2020, 11:01 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



  Forum: TIN TỨC NĂM CHÂU · Post Preview: #164326 · Replies: 0 · Views: 136

NamQuoc
Posted on: Oct 17 2020, 11:01 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173




  Forum: TIN TỨC NĂM CHÂU · Post Preview: #164325 · Replies: 0 · Views: 136

NamQuoc
Posted on: Oct 16 2020, 12:05 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



'Cả thế giới theo dõi' ứng viên thẩm phán Tòa án Tối cao Mỹ


Ngày 12-10, Ủy ban Tư pháp Thượng viện Mỹ bắt đầu cuộc điều trần dài 4 ngày, mở đầu "một tuần dài cãi nhau", với ứng viên thẩm phán Tòa án Tối cao Mỹ Amy Coney Barrett. Theo đánh giá của phe Cộng hòa, bà chắc chắn được chọn.

Ngày 12-10, Ủy ban Tư pháp Thượng viện Mỹ đã mở cuộc điều trần phê chuẩn dài 4 ngày với ứng viên thẩm phán Tòa án Tối cao Mỹ Amy Coney Barrett (48 tuổi) do Tổng thống Donald Trump đề cử, theo Hãng tin Reuters.
Cuộc điều trần với bà Barrett - một thẩm phán với tuổi khá trẻ và có quan điểm bảo thủ được chọn để lấp vào chỗ của cố phẩm phán tự do Ruth Bader Ginsburg - đã bắt đầu với việc các thượng nghị sĩ đưa ra những tuyên bố mở màn.
Tiếp đó, bà Barrett có tuyên bố mở màn sau khi 22 hội viên Ủy ban Tư pháp Thượng viện Mỹ được trao cơ hội nói. Bà sẽ đối diện với nhiều câu hỏi từ các thượng nghị sĩ vào ngày 13 và 14-10.

Các hội viên Đảng Dân chủ đã kiên quyết phản đối việc đề cử bà Barrett. Ứng viên tổng thống Đảng Dân chủ Joe Biden cho rằng việc đề cử ứng viên thẩm phán Tòa án Tối cao Mỹ nên diễn ra sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ ngày 3-11-2020, nhưng ông Trump muốn điều này diễn ra càng sớm càng tốt.

"Đây sẽ là một tuần dài cãi nhau" - thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Lindsey Graham, chủ tịch Ủy ban Tư pháp Thượng viện Mỹ, đánh giá. Ông nói thêm: "Hãy cho thấy sự tôn trọng và đặt ra nhiều thử thách. Hãy nhớ rằng cả thế giới đang theo dõi".

Bà Barrett đeo khẩu trang đen, ngồi đối mặt với các thượng nghị sĩ. Chồng và 7 người con của bà ngồi phía sau, tất cả đều đeo khẩu trang.

Thượng nghị sĩ Graham cho biết hiện Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế (53) so với Đảng Dân chủ (47), do đó gần như chắc chắn bà Barrett sẽ được phê chuẩn trở thành tân thẩm phán Tòa án Tối cao Mỹ.

"Hoạt động này có lẽ không nhằm thuyết phục lẫn nhau, nếu không có điều gì đó ly kỳ diễn ra. Toàn bộ hội viên Đảng Cộng hòa sẽ bỏ phiếu thuận và phe Dân chủ bỏ phiếu chống" - ông Graham nói.
Tòa án Tối cao Mỹ là nơi đưa ra các quyết định quan trọng ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực trong đời sống của người Mỹ gồm vấn đề phá thai, chăm sóc sức khỏe, quyền sở hữu súng... Có 9 thẩm phán được bổ nhiệm trọn đời tại tòa và họ chỉ bị thay thế khi qua đời hoặc chủ động nghĩ hưu.

Việc bà Barrett nhảy vào thay thế chiếc ghế của cố thẩm phán Ginsburg sẽ khiến cán cân quyền lực tại Tòa án Tối cao Mỹ nghiêng sang phe bảo thủ nhiều hơn. Cụ thể, nếu đề cử của ông Trump được thông qua, Tòa án Tối cao Mỹ sẽ có 6 thẩm phán bảo thủ và 3 thẩm phán tự do.

Bà Barrett lần đầu tiên được khoác chiếc áo thẩm phán vào năm 2017 và bà là thẩm phán Tòa phúc thẩm liên bang khu vực số 7 của Mỹ. "Thẩm phán Amy Coney Barrett phản đối nhiều thứ mà cố thẩm phán Ruth Bader Ginsburg đã dành cả đời mình để đấu tranh" - đài NBC News bình luận.


BÌNH AN






  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #164323 · Replies: 0 · Views: 1,416

NamQuoc
Posted on: May 6 2020, 11:54 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Chỉ là khách thôi


Ôm nhau, hôn nhau bỗng trở thành nguy hiểm. Con cái không thăm viếng cha mẹ, bạn bè không thăm viếng nhau là bày tỏ tình yêu.

Một buổi sáng đầu Tháng Tư, giữa đại dịch cúm Vũ Hán, bạn tôi điện thư chia sẻ một bài thơ chị mới nhận được từ con trai, nguyên văn như sau:

“Someone posted this poem on Facebook.

We fell asleep in one world, and woke up in another.
Suddenly Disney is out of magic,
Paris is no longer romantic,
New York doesn’t stand up anymore,
The Chinese wall is no longer a fortress, and
Mecca is empty.
Hugs & kisses suddenly become weapons, and
not visiting parents & friends becomes an act of love.
Suddenly you realise that power, beauty & money
are worthless, and can’t get you the oxygen you’re
fighting for.
The world continues its life and it is beautiful.
It only puts humans in cages.
I think it’s sending us a message:
You are not necessary. The air, earth, water and
sky without you are fine. When you come back,
remember that you are my guests. Not my
masters.”

Bài thơ rất hay, không có tên tác giả. Có thể là con trai chị, với chút rụt rè trong bài thơ đầu tiên do cảm xúc bất ngờ. Có thể là chủ nhân tài khoản Facebook đã đăng bài thơ. Có thể là một ai đó vô tình hay cố ý không ký tên vì chẳng ai sở hữu gì trong cái thế giới đang bị dịch hoành hành này.

Bao nhiêu thành phố đóng cửa lúc nửa đêm để tránh dịch lây lan?

Bao nhiêu thành phố rộn rịp, náo nhiệt khi mọi người đi ngủ rối thức dậy không một bóng người, bóng xe, không một tiếng động? Đâu rồi cảnh giới thần tiên của địa đàng Disney? Paris đã hết nên thơ và New York không còn sừng sững thách thức nữa. Vạn Lý Trường Thành thôi là pháo đài đồn lũy và thánh địa Mecca hoàn toàn hoang vắng.

Ôm nhau, hôn nhau bỗng trở thành nguy hiểm. Con cái không thăm viếng cha mẹ, bạn bè không thăm viếng nhau là bày tỏ tình yêu.

Trong thoáng giây, người ta ngộ ra quyền lực, nhan sắc và của cải đều vô nghĩa, không thể đánh đổi dưỡng khí cho buồng ngực thoi thóp kêu đòi.

Thế giới vẫn tiếp tục sinh tồn và đời vẫn đẹp, chỉ là con người bị giam giữ trong những cái lồng.

Tôi nghĩ có một thông điệp cho chúng ta: “Loài người không cần thiết. Bầu trời, quả đất, sông biển vẫn an nhiên không cần con người có mặt. Nếu có khi nào tái sinh, hãy nhớ con người là khách, không là chủ nhân của vũ trụ này.”

Có vẻ như thiên nhiên không cần con người thật vì rừng có nhiều loại gỗ quý, đại thụ sống hàng nghìn năm; có những giống lan hiếm, đẹp và thơm tự mình, không cần tay người chăm bẵm; có đủ loài muông thú từ to lớn, hung dữ đến bé xíu hiền hậu, cả triệu triệu sinh vật muôn loài, muôn vẻ, là cư dân trên trái đất tuy phải tranh sống theo định luật mạnh được yếu thua song không làm hại bầu trời và địa cầu như loài người.

Tuy nhiên, có lẽ Thượng Đế không thể không khai sinh con người để hoàn thành ý nghĩa những công trình tạo tác của ngài vì không có con người thì thiên nhiên không được thưởng thức và lấy cái gì mà ngợi khen vẻ đẹp, sự hùng vĩ, sức sống màu nhiệm tuyệt vời làm nên quả đất lung linh màu sắc này?

Quả đáng tội, từ con người thuở ban sơ, đất rộng, người thưa, sống chui rúc trong hang động có sẵn, ăn bốc, ngủ đất, lấy lá cây che thân, trí khôn chỉ dùng để tự vệ và kiếm lương thực hằng ngày bằng cách giết và ăn thịt những sinh vật yếu hơn nó, trí khôn ấy phát triển với thời gian, với những thử thách Thượng Đế cài đặt đó đây trên hành trình sinh tồn của nó nên được mài dũa ngày một sắc bén và tinh tế hơn.

Có lẽ Thượng Đế đã tiên đoán đường bay của mũi tên một khi đặt trên dây cung nên ngài không quên thiết lập một giới hạn cho loài người: Khi sinh ra cũng là khi bắt đầu già nua và… chết. Để chống lại sự khắc nghiệt và bất công này, những đứa con tài ba và ngỗ nghịch của Thượng Đế bảo nhau: “Hãy sống, làm việc và cống hiến như không bao giờ chết.” Đối với thành phần nhân loại ưu tú này, chết là vắng mặt nhưng không có gì hoàn toàn mất vì họ để lại nhiều di sản quý giá cho người sau tiếp tục.
Trong dịch COVID-19, Việt Nam chỉ còn là bức tranh tĩnh vật tuyệt đẹp trong ống kính của duy nhất một nhiếp ảnh gia cô đơn. (Hình minh họa: Manan Vatsyayana/AFP via Getty Images)

Năm tháng qua, mùa trong trời đất cũng theo nhau qua, nhiều thế hệ nhân loại đã đến mặt đất này rồi đi nhưng mọi thành tựu hữu ích cho con người ở lại. Hoa cỏ trong thiên nhiên thường có dược tính chữa được các bệnh vặt nhưng cũng có loài độc dược. Quả trên cành không phải quả nào cũng đầy đủ nắng gió để thơm ngon như nhau. Từ một gốc sản sinh nhưng con người không hoàn toàn là phiên bản rập khuôn nhau.

Thừa hưởng thông minh Thượng Đế ban cho ở mức độ hơn kém, có người “biết cách ăn cắp tài sản trí tuệ của Thượng Đế” (Trần Doãn Nho) nhưng nghĩ là mình hơn Thượng Đế, làm ra những sản phẩm khiếm khuyết mà không sửa chữa được vì không thực sự có quyền năng của Thượng Đế. Đó là tạo sinh con cừu Dolly bằng thử nghiệm sinh học trong phòng nghiên cứu của Viện Roslin được chính phủ Anh Quốc tài trợ. Dolly ra đời, giống hệt mẹ về cả hình dáng lẫn tính tình, được xem là bước thành công đột phá của nhóm nghiên cứu trong công nghệ nhân bản tạo ra mầm sống từ một tế bào động vật trưởng thành.

Quá trình lâu dài này phải trả một giá không rẻ: chất xám và thời gian của các khoa học gia, sự hy sinh vô nghĩa của những con thú vô tội. Trong 277 quả trứng từ một con cừu cái kết hợp với tế bào vú của cừu mẹ chỉ có 29 phôi được tạo thành và chỉ có ba cừu con được sinh ra mà Dolly duy nhất sống sót. Chưa hết, vì lý do bảo mật, Dolly đã phải sống cả cuộc đời ngắn ngủi bảy năm của nó trong phòng thí nghiệm, được xếp đặt cho thụ tinh với cừu đực và trải qua ba lần sinh nở với tổng cộng sáu đứa con, lần đầu sinh một (1998), lần hai sinh đôi (1999), lần ba sinh ba (2000).

Mùa Thu năm 2001, lúc 5 tuổi, Dolly bị chứng viêm khớp, đi lại khó khăn, được chữa trị khỏi. Ngày 14 Tháng Hai, 2003, Dolly bị bệnh phổi nặng và được tiêm thuốc cho ngủ giấc ngàn thu. Vẫn chưa xong, hy sinh cuối cùng của nó là phải giúp các nhà nghiên cứu có câu trả lời về lý do nó chết non. Người ta tìm ra telomere (đoạn cuối DNA) của Dolly rất ngắn, thường thấy nơi hiện tượng lão hóa của động vật và loài người. Công luận dậy sóng một thời về mục đích vô luân của công trình tạo sinh vô tính, đẻ ra những sinh vật quặt quẹo như Dolly. Để làm gì? Tranh quyền Thượng Đế ư? Nối dài đời người hơn một kiếp trần gian ư?

Cũng như mọi biến cố xảy ra, qua lúc hiểm nguy ồn ào, huyên náo hay lặng lẽ đến tê dại như thời dịch COVID-19, tất cả sẽ nhanh chóng chìm vào quên lãng ngoại trừ các nhân vật “phi thường” vẫn nuôi tham vọng phi thường nhiều lần hơn khả năng họ có. Hết phòng thí nghiệm Roslin, Anh Quốc, đến phòng thí nghiệm Vũ Hán với giấc mơ thống lĩnh thế giới rất ngông cuồng của nhiều thế hệ cầm quyền một nước Tàu Cộng Sản với dân số một tỷ ba trăm triệu dân, không đủ lương thực để ăn, không đủ đất để sinh sôi nảy nở, chống nạn nhân mãn chỉ có một cách bóp mũi các bào thai gái. Họ tự hào với lịch sử thôn tính các chư hầu, với Vạn Lý Trường Thành tô son điểm phấn lại, với văn hóa Khổng Mạnh một thời mẫu mực, với danh lam thắng tích mỹ lệ lưu dấu người xưa cùng bao nhiêu truyền thuyết cổ dễ làm mê đắm lòng người.

Từ nhiều năm qua, khối dân chúng thấp cổ bé miệng khắp nơi trên hoàn vũ không ai biết Tàu Cộng đã âm thầm làm những gì ở phòng thí nghiệm Vũ Hán được nước Pháp giúp hình thành với tiêu chuẩn an ninh được xem là tột bực, với trợ giúp tài chánh của nước Mỹ năm 2015 khi có tổng thống Dân Chủ ngồi ở Bạch Ốc, tới $3 triệu 700 ngàn, với cả sự đầu tư không biết là ở con số nào của một tỷ phú Hoa Kỳ làm chủ một quỹ từ thiện lớn nhất hành tinh loài người.

Chỉ biết khi một ngày cuối năm 2019, con siêu vi Corona từ nơi này xổng cũi xông ra phá nát gần hết cuộc sống yên vui và phồn thịnh của thế giới nhưng đủ thông minh để miễn trừ thủ phủ chính trị và tài chánh cùng thành phần chóp bu của Tàu Cộng được coi là ông chủ đã sản sinh ra và nuôi dưỡng nó.

Cho tới trưa ngày Thứ Tư, 22 Tháng Tư, 2020, thế giới có 2,621,499 trường hợp lây nhiễm và 182,991 người qua đời vì COVID-19.

Chết là thiên thu vĩnh biệt nhưng sống con người cũng cách chia, nhìn nhau nghi hoặc và tiếc nhau từng nụ hôn:

“Hôn em anh rất khát khao
sợ con Vũ Hán dạt dào quanh môi
anh ơi em xét nghiệm rồi
anh chưa, em mới là người phải kiêng”
(Ai Kiêng? thơ Nguyễn Hàn Chung)

Bà mẹ nhớ xót xa một vòng ôm gần gụi:

“Đi ngang vườn nhà con gái
Hái được một nhánh hoa trà
Mẹ, con nhìn nhau qua cửa
Hoa gần mà con thật xa.”
(Hoa Trà, thơ Trần Mộng Tú)

Con gái lại càng sợ lây siêu vi làm khổ mẹ:

“Con hái trong vườn nhà con
Một chùm kim hương màu đỏ
Mở cửa nhà mẹ lén vào
Đặt hoa, chạy ra theo gió.”
(Hoa Kim Hương, thơ Trần Mộng Tú)

Người chị buồn tủi bên mộ phần em gái:

“Hoa thủy tiên vàng bụi nhỏ
Ngập ngừng nở trong nghĩa trang
Người phu cô đơn dựng cuốc
Hai người thôi, một đám tang.”
(Hoa Thủy Tiên, thơ Trần Mộng Tú)

Nhìn những con đường Sài Gòn nối tiếp nhau bình thường xôn xao, ồn ã, nhếch nhác, lôi thôi nhưng đầy sức sống, hỏi thầm mấy triệu sinh linh của một thành phố sáng đêm rộn ràng như nồi nước sôi trên bếp đâu hết rồi? Sài Gòn trong dịch COVID-19 chỉ còn là bức tranh tĩnh vật tuyệt đẹp trong ống kính của duy nhất một nhiếp ảnh gia cô đơn chưa bao giờ thấy Sài Gòn như thế.

Nhìn những con đường Quận Cam thân quen bình thường lũ lượt xe cộ ngược xuôi bây giờ vắng lặng, các nhà hàng thanh lịch lao xao người vào ra giờ đây cửa đóng im lìm. Hàng cây hai bên đường nhớ vai người bộ hành cũng buồn không rụng lá nên không có xe quét mà sạch như lụa mới ai phơi dưới nắng trưa.

Có lẽ Thượng Đế cũng buồn khi chỉ tạo ra thiên nhiên có cái đẹp hoàn hảo của một bức danh họa bất động nên Thượng Đế tạo thêm con người với nhiều lầm lỗi nhưng nó có ngũ quan và một trái tim đầy xúc cảm, là cây đàn muôn điệu cống hiến cho đời những thanh âm buồn vui. Phần thưởng của nó là thời gian đi qua mặt đất như một người khách trọ (trong nhạc của Trịnh Công Sơn) hay như lời nhắn nhủ trong bài thơ con trai bạn tôi gửi cho mẹ một buổi sáng Tháng Tư buồn ở quê người.

Gặp gỡ hay từ giã, gần gũi hay chia lìa, qua đại dịch COVID-19, người khách trọ hãy biết trước biệt ly nằm sẵn trong thân phận mình.

Để bớt đau thương.

(Bùi Bích Hà)
  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #163604 · Replies: 0 · Views: 1,539

NamQuoc
Posted on: Dec 22 2019, 11:58 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Nhà sử học Doug Wead mô tả Tổng thống Donald Trump


Trong một cuộc phỏng vấn với Daily Caller News Foundation (DCNF) hôm 6/12, nhà sử học Doug Wead đã mô tả Tổng thống Donald Trump là một nhà lãnh đạo xuất sắc và người Mỹ sẽ còn nhớ mãi đến cách điều hành chính phủ của ông.

Ông Wead có quyền tiếp cận đặc biệt đối với Tổng thống Trump, gia đình Tổng thống và các nhân viên cấp cao của Nhà Trắng để viết cuốn sách “Inside Trump’s White House: The Real Story Of His Presidency” (tạm dịch: “Bên trong Nhà Trắng của ông Trump: Chuyện thật về nhiệm kỳ tổng thống của ông”).

Trong cuốn sách được công bố hôm 26/11, ông Wead mô tả Tổng thống là một “nhà lãnh đạo vĩ đại”, người đã dành nhiều năm để điều hành chi tiết những gì chính phủ đang làm.

Ông Wead nói: “Điều khiến tôi ngạc nhiên là cái có vẻ ‘hỗn loạn’ ấy vốn đã được tính toán và có chủ đích. Ông Trump sẽ làm nổ tung cái gì đó để rồi ông ấy sửa chữa nó, nếu ông ấy không làm nổ tung lên thì ông ấy không sửa chữa được. Nổ càng to thì việc sửa chữa lại càng tốt.

“Tôi đã nhìn thấy phương thức của sự hỗn loạn đó”.

Ông Wead mô tả cách điều hành của Tổng thống Trump tựa như binh pháp Tôn Tử “Trong thế hỗn loạn luôn có thời cơ”.

Nhà sử học cho biết ông Trump từ lâu đã quan ngại về các vấn đề của nước Mỹ, ông thất vọng vì tình trạng thâm hụt thương mại của đất nước, vì các chính sách quốc phòng và thấy rõ người Mỹ đã bị đánh thuế để phục vụ cho các chương trình hỗ trợ nước ngoài.



Ông Wead viết trên Twitter hôm 3/12: “Quả là một Tổng thống vĩ đại. Ngài đã làm mọi thứ đều sáng rõ”.

Ông Wead đề cập đến một câu nói của con rể ông Trump: “Qua thời gian, họ sẽ nhớ ông Trump. Người dân sẽ nhớ đến tính trung thực và thẳng thắn của ông ấy”.

Doug Wead



  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #163071 · Replies: 0 · Views: 479

NamQuoc
Posted on: Dec 21 2019, 03:19 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173





  Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #163069 · Replies: 0 · Views: 203

NamQuoc
Posted on: Dec 21 2019, 03:19 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



  Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #163068 · Replies: 0 · Views: 155

NamQuoc
Posted on: Dec 21 2019, 03:19 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173




  Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #163067 · Replies: 0 · Views: 145

NamQuoc
Posted on: Aug 1 2019, 09:41 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Chốn cũ đường xưa


Hồi trước, ở Sài gòn, cánh đây lâu lắm, tròm trèm…nửa thế kỷ lận nhen… Tất cả cái loại xe hơi, hai đèn trước, đều phải có “mắt mèo” nghĩa là phải sơn màu vàng lên 1/3 bên trên mặt kiếng của đèn trước, ý là… hỏng cho bác tài pha đèn ban đêm, làm chói mắt người hay xe chạy ngược chiều!

Bởi vậy, bác tài có muốn… chơi ác pha đèn, cũng… bó tay!!!

Khúc đường gần bịnh viện đều có bảng “cấm nhận kèn” để bịnh nhân khỏi giựt mình!

Xe đậu trong đường Sàigon đều phải tuân theo bảng đậu “ngày chẵn lẻ”…

Tất cả xe tắc-xi đều sơn trùng một màu xanh hoặc vàng xanh, ý là để “khách bộ hành” biết nó từ đàng xa để… quơ tay đón và cũng. có ý là nếu, hỏng… phải xe tắc xi, mà là xe du lịch tư nhân lại đi ”dù” rước khách… kiếm chúc cháo là biết liền, cũng dĩ nhiên, xe nào “nhảy dù” như vậy, bị bắt là bị phạt, lớ quớ còn bị tịch thu bằng lái!

Xe tắc xi phải có đèn hộp “bắt chết luôn” trên mui xe, về đêm, hộp đó có đèn cháy sáng để khách biết mà… dơ tay đón… để cho khỏi lộn với xe du lịch!

Xe buýt cũng phải sơn một màu đặc trưng riêng để dể phân biệt với xe đò…

Ví dụ Xe Buýt Vàng thì… sơn màu vàng đặc trưng… khác thiên hạ…

Bến xe nầy ở gần Bà Quẹo… mà bà con gọi là Bến-Tô-Bít-Vàng…

Kế bến xe buýt vàng nầy có hãng cơm xấy Hồng Hoa (?) làm cơm xấy cho lính…

Xe cộ phải đàng hoàng, cái nào ra cái đó, lộn xộn… hỏng nên thuốc!

Bắt đầu 18 – 20 tuổi… mới cho thanh niên lái xế hộp 4 bánh du lịch… để lấy le, sau đó vài ba năm, bác tài… trẻ mới lên được 1 “hạng”, rồi cày vô lăng… vài năm nửa, mới cho… mó tới xe tải, rồi “chạy xe” thêm vài niên, mới “đủ ngày” để lấy dấu E để lái xe đò, nghĩa là khi bác tài lái… mấy chục tánh mạng hành khách, thì bác tài… vô tuổi trung niền rồi, nên… hết máu thanh niên, háo thắng, ưa nóng gà… chạy ẩu!!!

Chớ không có cái chuyện “giao trứng cho ác” được!

Ở ngã tư đèn đỏ, có vạch sơn trắng, tất cả xe cộ đều ngừng sau vạch đó, xe nào cáng mức sơn, mà nhè ông đạp xích lô thấy được… ổng chửi cho tắt bếp, quê lắm nhen!!!

Nhà bán thuốc tây, thì bảng hiệu đề Nhà Thuốc Tây hoặc Nhà Thuốc Gác (đó là danh từ chung) chớ khộng ai lấy Tên Riêng (danh từ riêng) để đề bảng hiệu bán thuốc tây!

Hai bảng hiệu nầy luôn luôn là bảng màu xanh đậm và chữ trắng, nó còn có hộp đèn chữ thập xanh gắn thêm, để đêm hôm, người mua thuốc… đứng ở xa, cũng thấy!

Tiệm nào bán thuốc bắc thì có chữ “đường” ở sau, Ví dụ: Vĩnh Sanh Đường, Nhị Thiên Đường, Thiên Hòa Đường…

Còn chùa thì có chữ “tự”… dính ở sau, ví dụ: Huỳnh Kim Tự, Thới Hòa Tự, Long Vân Tự, Linh Sơn Cổ Tự…

Tiệm bán vàng thì bảng hiệu chỉ có 2 chử, chử đầu luôn luôn là chử “kim”, ví dụ: Tiệm vàng…Kim Hưng, Kim Liên, Kim Sen, Kim Hoàng, Kim Phát…

Địa Danh ít khi dùng chữ Thái (kỵ húy vua Thành Thái ?) mà dùng chử Thới: Ví dụ: Thới Bình (Cà Mau), núi Châu Thới ( Biên Hòa), Bình Thới (quận 11), Tân Thới Hiệp (chỗ tập lính QT) Thới Tam Thôn, Thới Hòa (Vinh Lộc) Thới Nhứt, Thới Nhì, Thới Tam, Thới Tứ (Hóc Môn), Xuân Thới Sơn (chỗ đương trạc, giỏ tre… )

Nhà dân cất dọc đường lớn, xa lộ, người ta luôn luôn tự động cất nhà thụt lùi vô trong, ở xa lộ, cách Xa Lộ ít nhứt là 50 mét! Lý do là để cho an toàn chuyện xe cộ, thứ 2 nếu có mở rộng đường xá thì khỏi phải dời nhà…

Nhà mà dời đi, dời lại là điều ông bà xưa kiêng kỵ, nên, hỏng ai ham lú mặt ra đường!

Dọc đường cái trống trơn, hỏng ai… dám gan, tới chỗ đó… tự nhiên cất nhà…

Nếu gan cùng mình, cất nhà đại… thì cứ cất, đợi cất xong, bên Điền Địa hỏi Bằng Khoán đất, hỏng có, thì “coi như”… gia chủ xách tụng đi ăn mày… ở tòa bố!

Còn những tên cất nhà, mà lấn từng tất đất, bà con nói nhẹ rằng “thằng đó hết xài”!

Thằng nào “hết xài”… thì nó, chỉ còn nước… đội quần mà đi, nhục lắm!!!…

Ở Sàigon, cái vụ học hành, có ba thứ trường để học:

Trường Công Lập, Trường Tư Thục và Trường Hàm Thụ

Trường Hàm Thụ là trường… mà… hỏng ai tới trường!

Bất kể ai, vì hoàn cảnh gì đó không tới trường học trực tiếp được, thì cũng có cách học để tiến thân, đó là “học trường hàm thụ”. Nghĩa là, cứ… đi làm sở, làm sùng tà tà hay làm việc nhà nấu cơm hoặc cày sâu cuốc bẩm đồng sâu nước mặn…

Nếu muốn tiến thủ trong cuộc đời… thì ghi danh học Trường Hàm Thụ, trường sẽ gởi Bưu Điện bài học, bài làm tới nhà và làm bài xong, gởi bưu điện tới cho trường chấm bài, rồi trường gởi bài tiếp…

Cứ thế… cứ thế…

Chỉ tới ngày thi, thì thí sinh phải đi thi mà thôi…

Bởi vậy, anh em nào có tinh thần cầu tiến, cứ học, nếu thi đậu thì đáng nể lắm!!!

Trường Tư Thục thì học sinh phải “đóng tiền trường” hàng tháng và bằng Tú Tài cũng giống y như học sinh Trường Công Lập…

Trường Công Lập là… trường công, học sinh không đóng tiền trường suốt 7 năm Trung Học…

Đặc biệt, trường Công Lập nam nử… lại cho học riêng, như:

Trường Công Lập Nữ Trung Học: Lê văn Duyệt, Gia Long, Trưng Vương… vv…

Trường Công Lập Nam Trung Học: Hồ Ngọc Cẩn, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Pétrus Ký, Lý Thường Kiệt, Quốc Gia Nghĩa Tử… vv…

Ở trường công nam, Nam Sinh mặc đồng phục Quần xanh áo trắng… bỏ áo vô thùng, trên miệng túi áo, có ghi tên trường hẳn hẹ… nên đố thằng nào… dám hó hé!

Ở trường công nữ, Nữ Sinh đồng phục là mặc áo dài trắng, quần trắng…

Có… thời khắc “mấy nhỏ áo dài trắng”… bắt chước mấy cô Ca Sỹ Sàigòn, bận áo dài vạt “lửng”… còn tay áo thì kiểu “rặc lăn”… là… tay áo dài nối vô thân áo…

Thiệt… quả là báo đời…một phen!!!

Mấy anh chàng Nam Sinh trường công vì học chung “tòn-là đực rựa”… nên nhiều thằng dòm… quí nàng áo dài… vạt lửng… bước đi với tà áo (cố tình) thước tha yễu điệu, tụi đực rực… áp nhau thấy, tụi nó…rụng rúng bầy bầy!!! Hì hì…

Bởi vậy, mới có chuyện, mấy “tay tổ” trường công nam, cúp cua vô Lăng Ông Sở Thú Tao Đàn… để “trồng cây si” mấy nàng áo trắng, thây kệ chuyện, bị… cồng-sing!!!

Và… thấy tiếp… ở Sàigòn năm xưa…

Cây xăng nào cũng có “vòi bơm bánh xe gắn máy, xe hơi” đứng ở giữa hai trụ xăng…

Đang chạy xe, thấy bánh xe mềm, tấp vô cây xăng, dựng xe trước “cây bơm”, lấy tay “quây” cây kim hơi, về số 5 (5 năm ký hơi)… rồi ung dung ngồi xuống, mở nấp vòi, ịnh đầu bơm hơi vô vòi ruột xe… để cho nó tự bom, cây kim bơm hơi, quơ quơ nghe cạch cạch cạch, tới khi, nghe kêu cái teng, đủ hơi, là máy bơm tự động ngừng bơm…

Bơm xe như vầy, nghe… nó phẻ cách gì, chớ 2 tay “thụt ống bơm”… mệt lắm!!!

Nhưng… úi chà… cứ bom cây xăng riết, ruột xe Honda tòn – là… nước không hà!

Biết được ruột xe có nước là do vô vá xe tại tiệm sửa xe “Sĩ Solex” kề bên trường Lê văn Duyệt và bên kia đường… có rất nhiều ruộng rau muống xanh um!

Trên đường Phan Đình Phùng Sàigòn 3, kề bên chợ Vườn Chuối có đường xe lửa chạy ngang và bên kia đường rầy, có căn nhà 3 từng, đó là nhà “cho mướn sách” Cảnh Hưng, cho mướn sách là cho đọc giả… mượn sách về nhà đọc, nhưng phải “đóng tiền thế chưn” bằng 1/2 giá tiền sách in ở trang bìa, khi đem trả sách, Cảnh Hưng trừ tiền mướn vô tiền thế chưn, tiền mướn, cứ 1 cuốn 1 đồng 1 ngày… răng rắc!

Mấy nhà bán sách và tác giả có sách xuất bản… hỏng vui với Cảnh Hưng…

Nhà Cảnh Hưng chứa sách để cho mướn… hỏng biết mấy chục ngàn cuốn, vì sách nằm trong kệ… đen nghẹt, bít kín từng trệt và 2 từng lầu…

Ông Cảnh Hưng… tướng tá… hơi nhỏ con nhưng vui tánh, học trò khoái lắm!

Thằng học trò nào mê Kiếp Hiệp, muốn luyện chưởng hay… muốn đột nhập “cái ban.vài ba túi”… thì tới đây… tìm bí kíp!!!

Ông Cảnh Hưng… biết tẩy học trò hết ráo nhen, thấy mặt, ổng cười hì hì, liền cho mượn cả tuần mới trả, với 2 đồng một tuần… là cái… giá-ghẽ-ghề…

Bởi vậy, học trò “mê đọc sách” Cảnh Hưng… quá xá cở là vậy đó đa!!!

Phụ việc ông Cảnh Hưng là bốn năm đứa nhỏ, chuyện môn, chạy đi lấy sách… theo sự “chỉ chỗ” của ông chủ hay lấy sách đọc giả trả, rồi đem sách để “chỗ cũ”…

Ông Cảnh Hưng có trí nhớ… siêu phàm tàn canh gió lốc…

Khi ai tới mướn sách, chỉ cần nói tên sách, là ông Cảnh Hưng, nói liền, thí dụ:

– Bộ Tam Quốc Chí có 3 cuốn, nhưng khách đang mướn cuốn 1 và 2…

– Ủa ? Ông chủ có cả chục bộ lận mà ?

– Thì ờ… người ta mượn hết ráo rồi, giờ còn cuốn 3… Cuốn 1 và 2 mai trả…

–… vậy đi… lấy tui cuốn 3… cũng được!

Ông Cảnh Hưng ra lịnh:

– Tèo, mầy lên từng 2 kệ số 7 ngăn 6 lấy cuốn 3 bộ Tam Quốc Chí cho ông Hai!

Học trò Đệ Lục nghe ông Cảnh Hưng… nhớ từng vị trí cuốn sách nằm ở đâu trong rừng sách từ trên lầu xuống tới đất… thấy mà xám hồn luôn!!!

Ông Cảnh Hưng có quen với nhiều nhà xuất bản, như Yên Sơn (Phú Nhuận) chẳng hạn, khi đang sách in, ông… được ưu tiên “thộp” một mớ… đem về cho mướn trước, khi nào in đủ số, sách… mới phát hành! Bởi vậy, coi sách “nóng hổi” là vậy!

Mỗi loại sách, Cảnh Hưng có ít lắm 15 bộ mới đủ cho mướn…

Đặt biệt, những cuốn sách hồi xưa, xa lắc, xa lơ… xuất bản từ hồi…bà cố hỉ cố lai 8 đời vương ông hoãnh… nhà Cảnh Hưng cũng có!!!

Như cuốn Tôi Kéo Xe của Tam Lang hay cuốn Con Trâu của Trần Tiêu in năm 1940 hoặc cuốn Chồng Con in năm 1941!!!

Biết “rõ” như vậy là do Cô dạy Việt Văn cho “thuyết trình” ở lớp những Tiểu Thuyết xưa, mà sách… xưa ơi là xưa, thì chỉ có ở nhà Cảnh Hưng!!!

Thế là học trò Đệ Lục tức tốc mượn về, để… mần thuyết trình trong lớp…

Sách cho mướn, được bao thêm bìa giấy xi măng, trên đó, viết chi chít ngày mượn…

Ngoài ra, học trò muốn mượn “cuốn nào hây hây”, thì… hỏng hiểu “do đâu”, ông Cảnh Hưng liền nói tuốt luốt một lèo cho nghe, cái nội dung cuốn “sách hây” hoặc là bất kể cuốn nào mà học trò còn… mù mờ, nghe xong, thế là học trò mượn liền!

Ông Cảnh Hưng còn… quảng cáo cuốn sách… thứ dữ… “chỉ tao mới có”…

Sách nầy thuộc loại “cái ban môn phái” mà học trò khi ấy… đang muốn luyện thử!

Đó là cuốn Lục Tàn Ban (quên tên tác giả)

Đây là cuốn sách viết về… cái bang bảy tám túi, coi… hay hết kỵ luôn:

Lục Tàn là 6 nhân vật (tàn tật) gồm: Thằng đui, thằng điếc, thằng mất 2 giò, thằng mất 1 tay, thằng mất 1 chưn, thằng cụt 2 tay

Thằng đui làm… Ban Trưởng Lục Tàn!!! (ối trời… *&%#?><… ) Sáu ông cố tàn nầy… luyện chưởng, luyện gồng, luyện nghe, luyện thấy, luyện chạy… thuộc hàng cao thủ võ lâm… để trả thù cho sư phụ bị sát hại năm xưa… Giới giang hồ cho rằng “môn phái” đó bị tiêu diệt, khi 6 đệ tử sau cùng bị thương nặng trong rừng, không ai cứu chữa và ai cũng tưởng… chết hết rồi! Mấy thằng học trò Đệ Lục coi say mê Lục Tàn Ban luôn!!! Có thằng còn “luyện thử”… cách dòm xuyên màn đêm của cao thủ Lục Tàn Ban!!! Bởi vậy, thằng nào… non tay ấn, luyện nhản riết, tới độ mang kiếng cận dầy cui, chớ ở đó mà đổ thừa “tại bị”… rồi nói dóc là “tao lo học” tới cận thị!!! Ba-xạo quá nha mấy cha!!!

Trên đường Phan Đình Phùng, sáng sáng có xe lấy rác, có gắn cái chuông kêu len ken Cuối hẻm 376 là đình Phú Thạnh, là chỗ con nít ưa tụ tập, thả diều, bắn đạn… Trước nhà số 380 Phan Đình Phùng Sàigòn 3 có “phong tên” nước công cộng… Ở đó có đông người “chuyên gánh nước mướn” được bà con các hẻm xung quanh “mướn” gánh nước mỗi sáng sớm, gánh từng đôi nước về nhà… Mấy bà (cô) gánh nước khoái đọc cuốn tiểu thuyết Rặng Trâm Bầu của Lê Xuyên! Nước phong tên ở đây được chảy từ cái sa-tô-đô cũng nằm ở đường Phan Đình Phùng… và và… nếu ai… hà tiện, thì khi khát nước, cứ lại phong-tên khòm lưng mở vòi uống… chùa… Bà con gọi là “uống nước khum”… Cùng phe gánh nước mướn ở phong-tên, cũng có mấy người “ở đợ” nhưng được gọi nghe cho… nhẹ hơn là “con sen”, sáng sớm cũng ra gánh nước về nhà cho chủ… Lúc đó và sau đó, Tân Nhạc với điệu Boléro thịnh hành trên khắp nẻo đường và có nhiều bản nhạc “hợp với tâm trạng – hoàn cảnh” nên Ca Sỹ thứ thiệt hát là rung động trái tim, nên được mấy bà chị gánh nước khoái, cứ nhè mấy bản đó hát mãi, tiếng ca “nhảo nhẹt” mà hát… hoài hoài hỏng biết chán, bà con nghe riết phát nhàm… Dần dà, cộng thêm mấy chị… ma-ri-sến ”làm sở Mỹ”, rồi dân vũ nữ quán Bar, phòng trà… thuộc loại quá “date”… cũng hát những bản điệu Boléro thịnh hành! Ma Ri Sến thất nghiệp cũng về gánh nước và cũng hát “bản tủ” như mấy chị kia… Cứ hát riết, phát ngấy, bà con gọi giọng hát đó là… giọng rên… ma ri sến!!! Mấy chị… sáng sớm vừa chờ nước vô thùng vừa hát tân nhạc véo von, chỉ có vài bài tủ, mấy chị cứ hát riết nghe… phát mệt… (Đã vậy, nó còn “cộng hưởng” rồi “trùng tên” với… cái vụ con gái rơi của ngài thượng sĩ – tổng thống da đen Bocasa bên châu phi, tên cô là Mary… Cô Mary gái lai đen nầy ở vùng Ngã Năm chuồng chó, ngài tông-tông Bocasa nhờ báo Trắng Đen tìm dùm, thế là cô Mary… trở thành ngọc ngà châu báu… ) Và “miệng thế gian”… đặt cho chết tên cho giọng ca… mới nổi, giọng ma-ri-rến! Giọng marisến… làm mệt lỗ tai… thính giả! Hát “bản nhạc tủ” miết, làm cho nó… lờn, tới độ, bà con nằm nhà hay đi ngang… nghe… thì biết là tiếng hát của con Sến nào!!! Khi ở nhà bà chủ, tên là Con Sen, sau đó, nàng ra Vũng Tàu làm “ma ri sến”… ở mấy cái Bar Thiên Thai, Ạc-ăng-Sen… ở Bãi Trước… Vì vậy, giọng ca con sen hay con sến… đều như nhau… Và bà con… giận, khi nghe hoài mấy bản nhạc “tủ”, nên nói: – Mấy con nhỏ đó… là sến nướng… nên ca hoài!!! – Mấy con sến đó… ca đi ca lại miết, nghe mệt thấy mẹ!!!

Ở đầu đường Phan Đình Phùng, có nhà số 3 đó là Đài Phát Thanh Sàigòn… Ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt có tòa đại sứ Miên, bên kia đường là cây xăng rất lâu đời và ở ngã tư nầy, năm 63 hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu… Cũng ở ngã tư nầy, có tiệm cơm tàu, ở đây có món “cơm thố”… ngon bá chấy!!! Cơm thố được hấp trong cái xửng tre có cả chục ngăn, thố là chén nhỏ rí, chừng 3 muỗng cơm, vì vậy, ăn xong, thố chất 1 chồng 15 cái… cao như núi!!! Một số… dân chơi cầu 3 cẳng, loại tứ hải giai huynh đệ… tới ăn cơm thố ở đây, ý là, để khoe chồng thố cao nghệu… để “lấy le” với thiên hạ… đó nha bà con!!!

Phang Đình Phùng… cụng vô đường Lý Thái Tổ… ngay tại ngã ba… Ở ngã ba nầy, có Phòng Trà Lệ Liễu và chủ Phòng Trà là chị Ba Liễu! Quán “Chị ba Liễu” là chổ gặp mặt mỗi chiều tối của rất nhiều Nhạc Sỹ – Ca Sỹ Sàigon trước khi đi hát Phòng Trà hay Hát Rạp hoặc quán Bar… Đây là “quán ruột” của Thanh Kim, Đệ Nhất Danh Cầm Hạ Uy Di… DK, HC, MLQ, GL… hát ở Phòng Trà Lệ Liễu cho khách (rất đông) thưởng thức… Thí dụ: DK ca bài Ai Ra Xứ Huế thì chị ba Liễu “trả công” là 1 ngàn 8… Có “chàng – lính” bận đồ trận bốn túi, đội Bê Rê đen, vì là em (đệ tử) của Thanh Kim, nên chàng ta… xâm mình, bậm gan, đổ lỳ, dám… thót lên sân khấu Lệ Liễu để hát bài Đường Xưa Lối Cũ và bài Tàu Đêm Năm Cũ… (cũ mèm không hà) Chàng hát… một cách khơi khơi, trong khi Nghệ Sỹ thứ thiệt ngồi lủ khủ ở đó… Chàng lính trận nầy, vì ỷ có Thanh Kim… lo, nên hỏng lo trật nhịp, chàng ta cất tiếng… véo von liên tiếp hai bài tân nhạc, thì Chị Ba Liễu… coi bộ… nghe được được, chị… tức tốc tiến ra sân khấu, liền… móc bóp, xỉa cho chàng 9 trăm đồng… gọi là “lính góp vui”, rồi Chị Ba còn… xúi… (quá đã) – Đêm nào, nếu rảnh… em tới hát nhen!!! Lính mà… hát vậy, được đó…!!! – Dà dà… $%%$!!! (vô mánh) Anh chàng lính nầy, về đơn vị… móc xấp tiền, dứ dứ lên trời… hét: – Bữa nay, tao đãi anh em cả làng một chầu… cơm tấm – cà phê – thuốc lá!!! – Chắc còn… dư bộn tiền đó ông thầy!!! – Thì thì… Băm 3 mí lỵ tôm khô củ kiệu… cho sạch nhách luôn!!! – Hoan hô thẩm quyền!!! – Hé hé…cho xin chữ ký đi ông… khò khò… Phòng trà Lệ Liễu là chổ Nghệ Sỹ Sàigòn… tụ lại nói dóc, trước khi đi hát… Và cũng là chỗ “tụ tập” của những tay tổ đờn vọng cổ Văn Vỹ, Năm Cơ, Ngọc Sáu… Khi Ca Sỉ hát xong tới khua, trước khi về nhà, lại tụ nhau ở quán Cháo Đêm sau hàng cây… dái ngựa cổ thụ ở đường Hồng Thập Tự, quán cháo cũng gần đường xe lửa từ bên đường Phan Đình Phùng chạy qua…

Cũng ở đường Phan Đình Phùng, ngay trong vòng chợ Vườn Chuối là nhà của Soạn Giả Nguyễn Phuong, khi ấy anh Nguyễn Phương có đứa con gái nhỏ cỡ trên 10 tuổi và nó cùng với Ba Má… đặt lời thoại cho vở cải lương!!! Cô gái nhỏ cùng ba má ngồi 3 góc trong phòng, đóng làm 3 nhân vật… nói chuyện, rồi đánh máy luôn, đó là ”làm thoại” để Nguyễn Phương “lấy câu trẻ con” soạn tuồng cải lương… Đó là cách Nguyễn Phương đang soạn tuồng và… bị bắt tại trận… hì hì… Nguyễn Phương là Đạo Diển cho đoàn Thanh Minh Thanh Nga và mỗi tuồng cải lương được đánh máy sáu bảy bản để cho anh em “nhắc tuồng” đứng sau màn nhung hay cánh gà… đọc câu cho Đào Kép đứng ở ngoài sân khấu… nói hay ca!!! (cứ tưởng Đào Kép học thuộc lòng hết vở tuồng, hỏng có đâu nhen!!!) Nguyễn Phương là trưởng ban kịch Tân Dân Nam , chuyên kịch trên đài truyền hình Sàigòn chiều thứ bảy hàng tuần, gồm có hề TV, TT, NĐT.vv… và bà vợ của Nguyễn Phương là chị của phu nhân tướng CVV… Bởi vậy, do đó, Nguyển Phương… mới “tó” được cái giấy phép ngon lành… là mượn tàu Hải Quân để đóng phim xi-la-ma!!! Đó là phim “Hải Vụ 709” định quay ở Rạch Giá… Nhưng vì tình hình chiến sự ác liệt ở đó, nên phim Hải Vụ 709 bị đình chỉ… kéo dài và sau cùng phải bãi bỏ, nếu không, thì anh chàng Thủ Đức sẻ làm… tài tử xi-nê mà lại đóng vai Trung Úy Hải-Quân… nhảy xuồng đổ bộ rồi! Uổng thiệt nhen…

Cũng thời gian đó, ban Tân Dân Nam đang “dợt tuồng” kịch truyền hình, đó là vở “Ai Là Thủ Phạm” tại nhà anh Nguyễn Phương… Lúc đó chàng (vì là lính) được Nguyễn Phương giao đóng vai Cảnh Sát Trưởng… Úi chà chà… Nguyễn Phương biểu chàng ta phải “tập” trước… cách còng tay thủ phạm ăn trộm kim cương, em NĐT đóng vai thủ phạm… Còng tay… mà phải “tập” ý là… để chàng… còng… mà hỏng đau tay NĐT!!! Tới khi lên sân quay 2 tại đài Truyền Hình Sàigòn… ngài Cảnh Sát Trưởng, bước vô, làm mặt ngầu, liền móc còng (hân hạnh) còng tay NĐT… ngay tức khắc nhen!!! Bàn tay NĐT đẹp như chính NĐT, chàng lính cầm 2 tay người đẹp, tra vô còng số 8… mà chàng ta thấy… quá đau lòng!!! Hì hì… Trên truyền hình, anh chàng lính, chỉ… lộ diện trên màn ảnh nhỏ của Đài Truyền Hình Sàigòn chỉ được có… 30 giây cuối cùng của vở kịch… thôi hà! Soạn Giả Nguyễn Phương chuyên môn hút Thuốc Gò khi soạn tuồng và điếu nào cũng bự tổ nái, đốt cháy liên tục, khói bay mờ mịt như đống un buổi chiều tà! Và trên bàn viết thường có… rờ vẹt… ba bốn khúc Thuốc Gò loại “nặng” đô, đó là… phòng khi, nửa đêm soạn tuồng… mà hết thuốc hút!

Từ ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt chạy lên tí nữa là Ngã 6 Sàigon, ngay “bùng binh” ngã 6 nầy, có xe lửa chạy qua và là chổ bắt đầu của đường Yên Đổ, ở đây, trên đầu đường Yên Đổ,có khu Kiều Lộ (sửa, tráng dầu đường hư… ) Nằm chung trong khuôn viên khu Kiều Lộ… là Sở Phú De đó đa!!! Phú De là chổ… nhốt chó chạy rong, bị “xe bắt chó” bắt được trong đường phố! Ai mất chó, cứ vô Phú De tìm là y như rằng… nó ngự ở đó và bỏ tiền chuộc chó về! Bởi đó, hồi xưa, DA trong báo CO có viết bài Phú De Giao Chỉ, đọc nghe nhức xương Trong khu Kiều Lộ nầy có cái… cưa tay, bự chà bá, dùng xẻ gổ lóng… Ở đây có Kỹ Sư Bê và Hồ Lợi và Hồ Lợi là dân chơi tài tử… chánh cống bà lang trọc. Trong văn phòng khu Kiều Lộ của Hồ Lợi… có tùm lum… đờn cò, gáo, xến, ghi ta thùng, ghi ta phím lỏm… treo tá lả trên tường, để nhân viên nào… quởn mà khoái đờn vọng cổ thì cứ vô… tập vợt thả giàn và… Hề Minh và danh cầm Thanh Kim, Tạo Minh Đời… vv… xuất thân từ đây! Hề Minh là danh hề diễu có tiếng trên bầu trời Cải lương một thời… Tạo Minh Đời cười được 18 giọng riêng biệt và còn có khiếu một mình vừa nói giọng ông nội, giọng cháu nội trai, gái, giọng con gái… rất hay, giống y giọng… như trong “gia đình bác tám”… nhất là giọng chó mèo cắn lộn… là nghe hay hết phản luôn! Nhứt là… mở đầu câu… a… bê… cê… ca… nháy giọng xe lửa đề pa… của bản Chuyến Xe Lửa Mồng Năm của Trần văn Trạch… y chang Trần văn Trạch!… nhưng “hỏng có thời” nên anh Đời không nổi tiếng như anh Minh và anh Kim… Thanh Kim là Đệ Nhất Hạ Uy Di Cầm chuyên đờn 6 vọng cổ… nhưng né… ló mặt trước bàn dân thiên hạ truyền hình, Thanh Kim chỉ đờn cho gánh hát và chơi tân nhạc cho quán Bar và Phòng Trà và học trò Thanh Kim là TKH… – Anh Kim, sao anh chỉ “thâu dỉa” mà hỏng thấy anh lên sân khấu hay truyền hình ? – Tao… xí-giai thấy bà… miệng rộng tàn hoạt, cười hô hố, tướng tá như đấu bò! – Thì… có sao đâu… – Tao… trốn… để khán thính giả tưởng tao… đẹp trai đó mầy… hỏi hoài!!! – Ờ ờ… hehehe…

Năm 1965 đường Xa Lộ Saigon – Biên Hòa làm xong và dọc bên đường xa lộ đang đào để xuống ống cống vuông vuông lọt lòng trên 2 mét của Sàigòn Thủy Cục… Lúc đó, chạy xe gắn máy ở Xa Lộ thiệt… là êm, êm như mơ… Do đó, mấy tay anh chị… mới dám đi Gobel, Sachs, Rummi… chui lòn qua bụng xe be trên có 3 lóng gỗ… dài thòn bự tổ kền, đó là… chọt lét tử thần!!! Cũng thời… xa xưa ấy, khi chở “người đẹp” ngồi đằng sau Xe Gắn Máy thì hai chân người đẹp Để Về 1 Bên, không Cô nào… dám gác cẳng 2 bên! Nếu xe chở là chiếc Vespa Spring… thì thấy “nàng” ngồi sau… ôm eo ếch bác tài… thì… thì… ngó, thấy… đẹp như mơ luôn!!! Còn nói gì “mấy nhỏ áo dài trắng” đi Vélo Solex… thì dòm… hết phản nghen! Gỗ rừng đem về đổ đống ở chỗ ngã ba xa lộ đi Vũng Tàu, nên ngã ba nầy có tên Ngã Ba Bến Gỗ… Từ ngã ba Bến Gỗ tới một xí là Căn Cứ Long Bình của Quân đội Mỹ… Chỉ mỗi con đường Phan Đình Phùng mà có… quá xá chuyện xưa tích cũ...*

Chàng Hiu 374
  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #162684 · Replies: 0 · Views: 505

NamQuoc
Posted on: Aug 1 2019, 09:41 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Chuyện cái lon Guigoz – Một vật dụng thân thuộc của người Sài Gòn xưa


Lon Guigoz là vật dụng quen thuộc và gắn liền với tuổi thơ của nhiều người, từ trước 1975 cho đến những năm 1980. Đây là một loại lon sữa của hãng Nestle Pháp, Hòa Lan, phổ biến ở miền Nam trước 1975.

Lon Ghi-gô, có người gọi là lon gô, hay có nơi đọc trại đi, là mi-gô, bi-gô… đã gắn bó nặng tình nặng nghĩa với đời sống của nhiều thế hệ người Việt.

Loại sữa Guigoz của Hòa Lan được nhập cảng vào Việt Nam nhiều nhất là sau khi người Pháp trở lại Việt Nam vào khoảng năm 1956. Có hai loại sữa Guigoz, loại trắng cho trẻ sơ sinh, và loại màu vàng cho tuổi từ một năm trở đi. Loại sữa bột này phổ biến đến nỗi hầu như gia đình trung lưu nào cũng nuôi con bằng sữa Guigoz, và những chiếc lon nhôm, dày dặn, với dung tích 0.75 lít, có chiều cao 18cm, đường kính 8cm, không rỉ sét này thường được các bà nội trợ cất giữ để đựng thực phẩm ở trong bếp, trừ muối, nó có thể đựng đường, ớt, tiêu hành hay các thức ăn khô.


Trước năm 1975, tầng lớp lao động hoặc công nhân viên lương ít thì nuôi con bằng sữa bò, còn sữa Ghi gô dành cho tầng lớp trung lưu trở lên nuôi con vì hồi đó hàng ngoại nhập độc nhất chỉ có loại sữa này.

Khi dùng xong hết sữa, các vỏ lon được đem cho bà con thân thuộc để xài vì thời đó vỏ lon Ghi gô xài bền, mẫu mã đẹp, rất hữu dụng để đựng đường, bột và các thứ linh tinh khác cho các bà nội trợ. Các nhà giàu có nhà còn dùng lon Ghi gô để đựng vàng lá, đúng là thượng vàng hạ cám, lon này có mặt khắp nơi trong mọi gia đình.

Từ năm 1965 trở về sau, miền Nam đã nhập cảng nhiều loại sữa bột khác dành cho trẻ em; nhưng chiếc lon sữa Guigoz vẫn còn tồn tại trong hầu hết gia đình vì nó bền, chắc, khó móp méo hay hư hỏng.

Sau năm 1975, sữa Ghi-gô không còn được nhập cảng, và cái vỏ lon của nó trở nên quí giá và thông dụng với tất cả mọi tầng lớp trong xã hội miền Nam. Công chức và công nhân đi làm bới theo cơm đều đựng trong long Ghi-gô, dân làm rẫy đi rừng cũng vậy, vì nắp lon đậy kín, khi bị mưa lỡ để bên ngoài chưa kịp mang vào chòi cũng không bị nước mưa thấm vào. Và đối với dân lao động, vỏ lon Ghi-gô trở thành thân thiết hơn bao giờ hết vì ngày nào đi làm đều kè kè bới theo “gô cơm”.

Người thiết kế ra chiếc lon thon dài, có những đường viền nổi, có nắp đậy kín này không biết là ai. Nhưng chắc rằng, khi sáng tạo ra loại lon đặc biệt này cho nhãn sữa Guigoz, ông/bà này cũng không thể ngờ được rằng, nó hữu dụng, đa năng đến như vậy với người dân ở nơi xa xôi vùng viễn đông.

Rất nhiều người gốc Sài Gòn kể lại rằng loại sữa này gắn bó với tuổi thơ họ hệt như viên bi, con cá, cái kẹo.

Sau 1975, lon gô gắn bó với những người đi rừng lấy củi, làm rẫy, hoặc làm bạn với những người lính thất trận phải đi tù ở những nơi rừng thiêng nước độc… Lon gô có thiết kế nắp đậy kín, dùng để đựng cơm mang lên rừng, đến trưa mở ra mà cơm vẫn còn nóng hôi hổi. Dù chỉ là cơm độn bắp và muối mè nhưng là một bữa ăn thịnh soạn cho những người cần lao thuở cơ cực.

Cùng nhìn lại những lon Guigoz nay đã trở thành món đồ cổ được rao bán với số tiền tương đối lớn:

Nhạc Xưa Thời Báo
  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #162683 · Replies: 0 · Views: 237

NamQuoc
Posted on: Aug 1 2019, 09:41 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Đói


Nạn Đói năm Ất Dậu

"Tầu cười, Tây khoái, Nhật no,
Việt Nam hết gạo chết co đầy đường"

Vào một ngày của tháng Ba năm Ất Dậu, 1945, trong căn nhà sàn đất, tường gỗ ba gian, chỉ có hai mẹ con Đốc Gàn ngồi dệt cửi và quay suốt. Cậu bé hỏi:

- U ơi! Sao dạo này mỗi ngày u con mình chỉ được ăn một bữa cơm, một bữa cháo thế này? Con đói run, không quay suốt được.

Người mẹ trẻ ngồi trên khung cửi tiếp tục dệt vải và thương hại nhìn về phía đứa con năm tuổi đang ngồi quay suốt dưới đất:

- Thì gạo lúa sắp hết rồi. Có tiền cũng không mua được. Mình phải ăn dè ăn xẻn, kẻo hết gạo lấy gì mà ăn. Con không thấy người ta chết đói đầy đường đó sao?

Nguyên nhân nào đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu?

Gạo là thức ăn chính của dân chúng Việt Nam nhưng đã biến mất trên thị trường, vì:

Thứ nhất, Nhật Bản áp lực Pháp ra lệnh cho nông dân Việt dùng ruộng đất trồng đay, bông vải - thay vì lúa - để phục vụ nhu cầu quốc phòng. Vì thế, trong dân gian, đã có câu ca dao rằng:

Ai ơi khổ nhất giồng đay,
Giồng đay, đay nghiến có hay nỗi gì?
Phá ngô bỏ ruộng mà đi,
Nhổ cây đay đắng có khi rũ tù.

Thứ nhì, chính phủ Pháp tích trữ một số gạo khổng lồ để nuôi quân, đề phòng nguồn tiếp tế từ Pháp chuyển đến không kịp. Đàng khác, Nhật cũng áp lực Pháp phải cung cấp một số gạo đủ nuôi sống Quân Đoàn 38 trú đóng ở Đông Dương trong sáu tháng.

Thứ ba, tất cả các phong trào kháng chiến "Đánh Pháp - Đuổi Nhật" đều lo tích trữ lương thực để nuôi quân. Việt Minh có kho dự trữ lớn nhất. Các lực lượng này đã phục kích các đoàn xe tiếp tế lương thực từ Nam ra Bắc.
Thứ tư, Không Lực của phe Đồng Minh đã oanh tạc phá hủy các hệ thống giao thông để ngăn chặn đường tiến quân của Nhật, khiến việc canh tác ruộng đất bị đình trệ và đường tiếp tế bị cắt đứt.

Tầu cười, Tây khoái, Nhật no,
Việt Nam hết gạo chết co đầy đường.

Làng Nam Ninh của Đốc Gàn chia ra hai xóm. Xóm trên gồm toàn người theo đạo Công Giáo, sống quây quần chung quanh một ngôi nhà thờ mái ngói, được đặt tên là Họ Đạo Mông Triệu. Xóm dưới gồm những người theo các đạo khác. Trước cửa nhà thờ Mông Triệu có một đài Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chôn 14 bộ hài cốt của người trong làng đã bị vua Minh Mạng xử tử vì không chịu bỏ đạo Công Giáo. Hai ông tổ của Đốc Gàn nằm trong danh sách 14 vị tử đạo này.

Trước đài có một ngôi nhà xây gạch đỏ đẹp nhất họ. Đó là nhà ông bà Trùm Hương, nổi tiếng giầu có. Ông nhận chức "Trùm" vì có thời được dân làng bầu làm trưởng khóm. Tuy chức này không chính thức nằm trong hệ thống cai trị nhà nước và cũng không có ghi trong bản hương ước, nhưng vẫn là chức vị được mọi người kính nể. Nhất là cả hai ông bà lại rất đạo đức, các cha xứ đều thương mến. Ông bà có hai con trai và ba con gái. Cô Tin, con gái đầu lòng, 17 tuổi. Cô Cậy, 9 tuổi và cô Mến, gái út, 3 tuổi. Hai cậu con trai, Trần Thái Hòa, 15 tuổi và Trần Công Bình, 13 tuổi. Tất cả năm người con của ông bà Trùm Hương đều ngoan đạo như bố mẹ. Sáng tối đi nhà thờ đọc kinh, xem lễ và công đức rất rộng rãi mỗi khi nhà thờ mở cuộc quyên góp. Ông bà thuê thày giáo từ tỉnh Nam Định về dạy học riêng cho các con.

Nạn đói thực sự bắt đầu từ vụ mất mùa năm 1943 và trải dài từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra đến các tỉnh miền đồng bằng Bắc Việt. Hai tỉnh có số người chết đông nhất là Nam Định và Thái Bình. Theo tài liệu của một người Nhật là ông Yoshizawa Minami thì số người Việt Nam chết trong nạn đói là 2 triệu. (1)

Còn giáo sư người Mỹ, ông David G. Marr lại ước tính con số này là 1 triệu người. (2)

Thấm nhuần tinh thần bác ái của đạo Công Giáo, ông Trùm Hương thường nhắc nhở mọi người trong nhà, từ bà Trùm đến các con và kẻ ăn người ở phải thực hành lời Chúa dạy trong Phúc Âm: "Ai cho người đói khát bát cơm, chén nước là cho chính Chúa". Ông còn nhấn mạnh thêm rằng:

- Trong ngày tận thế, Chúa chỉ phán xét công tội của con người căn cứ vào các hành vi bác ái họ đã làm khi còn sống mà thôi.

Từ khi có nạn đói xảy ra, vào mỗi buổi sáng, cô Tin có bổn phận ra mở cổng, mời những người xin ăn vào cả trong sân. Mọi người trong nhà lớn bé đều theo lệnh ông Trùm Hương ra phát cơm và giúp đỡ những người đau yếu. Có người ăn no quá, nằm lăn ra chết vì "bội thực". Lại có người nhìn thấy chum mắm tôm của ông Trùm để ngoài sân, háu đói thò tay múc rồi húp ừng ực như húp cháo. Người khác đến kho thóc, bốc những nắm thật lớn, rồi nhồi nhét vào miệng nhai nghiến ngấu và nuốt trửng. Một hồi sau, những người này cũng lăn ra chết. Lý do vì mắm tôm chỉ là thứ gia vị, chứa nhiều vi khuẩn độc; còn thóc là hạt gạo chưa lột lớp vỏ nên rất sắc và nhám, khi nuốt những thứ ấy vào trong dạ dày đang trống rỗng thì chẳng những không giúp ích gì cho cơ thể, mà chỉ làm tan nát dạ dày đang đói, nên tránh sao cho khỏi cái chết!

Tin tức về lòng hảo tâm của gia đình ông bà Trùm Hương cứu đói được truyền miệng rất nhanh đến các làng xung quanh. Số người xin ăn đổ về nhà ông càng ngày càng đông. Lúc đầu, ông bà còn ấn định giờ giấc phát cơm và xếp hàng cho có trật tự. Nhưng ngày qua ngày, kho lúa vơi dần nên sau đó ông bà phải phát cháo thay vì cơm.
Đến cuối năm 1944, nạn đói tại hai tỉnh Nam Định và Thái Bình trở nên hãi hùng, nhất là vào khoảng giữa tháng 10 đến tháng 11 lại xảy ra một trận lũ lụt. Nhà cửa, đồng ruộng, vườn tược bị nước tàn phá hết. Các phương tiện lưu thông tiếp tế bị tắc nghẽn. Khắp hang cùng ngõ hẻm, từ thành thị đến thôn quê, xác người da bọc xương trần truồng nằm chết la liệt. Người sống phải lấy quần áo người chết để che ấm cho mình. Không còn một thứ rễ, củ hay hoa lá, sâu bọ nào có thể nhai được mà người ta bỏ sót. Có nơi người ta đã bắt đầu ăn thịt người chết để chống đói. Mỗi buổi sáng, các phương tiện chuyên chở được trưng dụng để đem hàng đống xác chết đi chôn ở các hố đào vội vàng và phủ lấp qua loa một lớp đất mỏng. Các nhân chứng kể rằng trong đống xác chết vất xuống hố, có cả những người còn đang hấp hối. Họ thều thào khẩn nài: "Đừng chôn sống tôi! Hãy để tôi chết đã rồi hãy chôn!" Mùi hôi thối nồng nặc bay khắp nơi và tại một số vùng đã bắt đầu có bệnh dịch.

Ngay tại ngã ba Quốc Lộ 1 và con đường lớn dẫn vào Họ Đạo Mông Triệu có một cây đa rất lớn. Các cụ trong làng cho biết nó đã có từ trên 100 năm qua. Các nhánh cây rủ xuống đất theo đường hàng ngang, tạo nên một bức tường dài khoảng 5, 6 thước. Nhờ bóng mát cây đa mà ngã ba này trở thành điểm dừng chân của các chuyến xe đò và khách bộ hành. Những người bưng thúng bán mẹt tụ tập tại đây thành một cái chợ di động. Họ bán nước, trầu cau, thuốc lào, thuốc vấn... Phía sau cây đa trở thành một nhà vệ sinh công cộng lộ thiên cho khách phương xa.
Nguời ta gọi đây là Cây Đa Hẹn Hò, vì tương truyền rằng từ thời xa xưa, có một đôi trai gái dùng gốc cây đa này làm nơi hò hẹn. Nàng là con nhà giàu có trong làng, có tài thổi sáo. Chàng là con nhà nghèo, nhưng có tài làm thơ và ngâm thơ. Hai bên thương yêu nhau, nhưng cha mẹ nàng phản đối kịch liệt vì không "môn đăng hộ đối". Vì thế, mỗi đêm chàng và nàng thường hẹn hò nhau ra gốc cây đa này. Nàng thổi sáo, chàng ngâm thơ. Họ than thân trách phận cho cuộc tình dang dở bằng những bài thơ sầu muộn ngâm vang hòa lẫn tiếng sáo thật não nề. Vào một đêm mưa bão, hai bên đang tình tự với nhau thì một tiếng sét kinh hoàng xé đôi cây đa và chặt đứt hai thân thể của đôi tình nhân đang ôm nhau ân ái. Từ đó, mỗi đêm dân làng nhìn thấy hai bóng người mặc áo trắng xóa phủ từ đầu xuống chân bay lượn quanh cây đa và có tiếng sáo văng vẳng đâu đây. Ban ngày, người ta tụ tập đông đúc buôn bán, nhưng khi mặt trời lặn là mọi người vội vã rời khỏi nơi này, nhất là những đêm mưa. Kể từ khi có nạn đói, ngày nào cũng có người chết ở gốc cây đa này. Vì thế, mỗi đêm người ta nhìn thấy rất nhiều bóng ma áo trắng lảng vảng ở đây.

Vào một buổi chiều kia, có một cặp vợ chồng với một đứa con nhỏ miệng luôn ngậm vú mẹ dừng chân tại gốc Cây Đa Hẹn Hò này. Cậu bé Đốc Gàn tò mò đến gần. Bất chợt, người chồng đưa hai cánh tay gầy guộc ra vồ lấy cậu. Nhanh như chớp, ông ta thọc hai bàn tay vào túi cậu. Nhưng trong túi chẳng có gì cả. Theo phản ứng tự nhiên, cậu bé vùng mạnh và la:
- Buông tôi ra! Buông tôi ra!

Người đàn ông té bò ra đất. Ông thều thào:
- Em có gì ăn không? Anh chị đói quá!

Cậu bé Đốc Gàn vừa tức vừa sợ, nhưng khi nhìn thấy đứa bé đang ngậm vú mẹ, cậu mủi lòng, nghĩ đến thân phận mình. Đã từ lâu, cậu muốn có đứa em để chơi chung. Có lần cậu hỏi mẹ: "U ơi, bao giờ u có em bé?" Mẹ đỏ mặt ấp úng trả lời bâng quơ: "Thì làm sao mà biết được. Con chỉ hỏi vớ vẩn thôi!"

Cậu đưa tay trấn an người cha của đứa bé:
- Ông chờ tôi về lấy đồ ăn nhá!

Nói rồi, cậu ta chạy nhanh về nhà, vào bếp lấy hết hai củ khoai lang để trong rổ và chạy vội ra gốc cây đa. Tới nơi, cậu thấy người chồng nằm ngửa, không động đậy, còn người vợ nằm nghiêng, ôm đứa con nằm co quắp, miệng vẫn còn ngậm vú mẹ. Cậu bé đến gần nói lớn:
- Tôi mang khoai ra cho anh chị đây! Tỉnh dậy mà ăn!

Cậu chỉ gọi vậy thôi, chứ không dám đụng vào người họ. Ba thân xác vẫn nằm bất động. Một người lạ vừa chống gậy đi tới, nói với cậu:
- Họ chết rồi! Gọi làm gì nữa!

Nói chưa dứt lời, người này giựt luôn một củ khoai trong tay cậu. Chẳng may, củ khoai rớt xuống đất, bẹp dị, dính đầy cát. Người này sợ cậu lấy lại, liền nằm xoài ra đất, vồ lấy củ khoai bẩn thỉu ấy, nhét nhanh vào miệng. Đốc Gàn thấy vậy, ôn tồn:
- Đây, tôi cho ông củ khoai này luôn!

Rồi cậu bé Đốc Gàn buồn bã, lững thững trở về, đem theo hình ảnh đứa bé nằm chết bên cạnh mẹ cha.

Người Hà Nội kể rằng có một điều kỳ lạ là đang khi nạn đói xảy ra như vậy thì lại có nạn dịch chuột cống. Hằng hà sa số những con chuột cống to bằng con mèo từ lỗ cống chui lên, thản nhiên bò trên đường phố, không biết sợ người, lại còn trố mắt trừng trừng nhìn người đi qua. Các tổ chức thiện nguyện đang vất vả chôn cất người chết, lại phải lo bẫy chuột và chôn chuột để tránh dịch hạch.

Những xác chết trên đường thì còn được mang đi chôn, còn những xác ở giữa đồng hay bờ rào, bụi tre thì cứ nằm chết thối rữa ra. Vì thế, đến vụ mùa năm sau, tức năm 1946, đồng ruộng tươi tốt, được mùa lạ thường. Người ta giải thích là nhờ xác người trở thành phân bón nên mùa màng mới trù phú như vậy.

*****
Làm việc bác ái cũng phải làm cho khôn ngoan

Trong suốt bao nhiêu tháng trời, cảnh tượng những con người với bộ xương bọc da đã trở thành một tai họa nặng nề kinh khủng đổ xuống gia đình ông bà Trùm Hương. Nhưng ông lại không quan niệm như vậy. Ông bảo rằng Chúa thương gia đình ông nên mới gửi Thánh Giá đến để ông vác đền tội lập công trên nước Thiên Đàng. Mỗi tối, khi đọc kinh chung trong gia đình, ông động viên tinh thần mỗi người:
- Đời sống trần thế thì vắn vỏi. Khổ cực cách mấy thì cũng không quá 100 năm. Cuộc sống đời sau mới là vĩnh cửu.

Một buổi sáng kia, cô Tin ra mở cổng, vừa nâng thanh gỗ chốt cửa ra thì bất chợt hai cánh cửa đẩy mạnh về phía cô. Bình thường, cô phải kéo mạnh mỗi cánh cửa về phía mình, vì cửa làm bằng gỗ lim rất nặng. Hôm nay, cả hai cánh cửa bỗng nhiên đập mạnh vào mặt cô khiến cô té ngửa người xuống đất. Thì ra vào đêm hôm trước, hàng trăm người đói khát đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà ông Trùm. Nhiều người đứng tựa vào cửa và đã chết đứng tại chỗ. Khi chốt cửa vừa mở ra, sức đẩy của hàng trăm người ép vào cánh cửa, đập vào người cô Tin, khiến cô té xuống đất, nằm sõng soài. Cô bị hàng ngàn người hốt hoảng như những con ma đói tràn vào như sóng và dẵm nát thân thể cô. Cô tắt thở ngay tại chỗ.

Nhà ông bà Trùm Hương hôm đó tan hoang. Những người hành khất từ phương trời xa lạ như những con chó sói đói, cuồng điên xông vào phá kho gạo dự trữ. Có những tên bất lương lợi dụng thời cơ vào cả trong nhà lục lọi và lấy đi tất cả những gì chúng có thể mang đi được.

Phải mất cả tiếng đồng hồ, ông Trùm Hương mới tìm thấy xác con, máu me đầy người, nằm chết chung với một đống xác người chỉ còn da bọc xương. Trước hoàn cảnh bi đát này, ông Trùm gọi tất cả con cái và gia nhân tạm thời rút khỏi nhà, đến tá túc tại mái hiên tiền đình nhà thờ. Họ đem theo cả xác cô Tin.

Cha xứ Giuse Kiên cho lệnh giật chuông nhà thờ báo động. Mọi giáo dân, già trẻ lớn bé, khi đến nhà thờ, nhìn thấy xác cô Tin, mới biết tai họa vừa xảy đến cho gia đình ông Trùm Hương. Ai cũng bùi ngùi đau đớn trước cảnh "làm phước nên tội" này.

Bà Trùm Hương khóc rũ rượi:
- Chúa ơi, Chúa ở đâu? Sao con khổ thế này?

Ông Trùm ghé sát vào tai bà, an ủi:
- Bu mày đừng khóc lóc như vậy. Chúa có thương thì Chúa mới gửi Thánh Giá cho mình vác.

Rồi ông ngước mắt lên trời lâm râm nhắc lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu khi bị treo trên Thánh Giá:
- Lạy Cha, xin cất chén đắng này cho con, nhưng xin theo ý Cha, chứ đừng theo ý con!

Tất cả các hội đoàn trong họ đạo, theo sự hướng dẫn của cha xứ, đã tổ chức đám táng cho cô Tin thật trang trọng. Trong hoàn cảnh đói kém, người chết nằm ngổn ngang đầy đường, ông Trùm Hương chỉ xin mọi người thêm lời cầu nguyện cho linh hồn con gái ông, còn mọi hình thức khác, ông xin được giản tiện tối đa, không có tiệc tùng như thông lệ sau mỗi đám tang. Quan tài của cô Tin được các giáo dân và cha xứ rước từ nhà thờ ra nghĩa trang Mả Sặt. Cậu bé Đốc Gàn ở trong đoàn cầm cờ tang dẫn đầu đoàn rước. Nhiệm vụ cầm cờ này Đốc làm thay cho người cha đi vắng, vì theo cấp bậc trong làng, cha của Đốc Gàn được chỉ định vào "chức" cầm cờ trong các buổi đình đám, lễ hội.

Ngay sau đám táng cô Tin, cha Kiên cho triệu tập tất cả các thanh niên, thiếu nữ trong họ lại để lập Đoàn Cứu Đói, Đoàn An Ninh và Đoàn Tobia. Đoàn Cứu Đói có nhiệm vụ nấu cơm cháo và phát chẩn cho người ăn xin. Đoàn An Ninh có nhiệm vụ canh gác ngày đêm khu vực họ đạo, không cho người ăn xin đến gõ cửa từng nhà, để tránh tình trạng người chết nằm la liệt ở khắp các hang cùng ngõ hẻm, gây sợ hãi và bệnh tật cho mọi người. Còn Đoàn Tobia lo việc chôn cất những người chết trong ngày.

Theo lệnh cha xứ, từ nay tất cả thóc gạo, đồ ăn thức uống, quần áo cứu đói phải được tập trung ở cuối nhà thờ để Đoàn Cứu Đói và Đoàn An Ninh quản thủ và cấp phát.

Tối hôm đó, ông bà Trùm Hương được Đoàn An Ninh hộ tống đưa về nhà. Nhìn cảnh tượng nhà tan cửa nát, đồ đạc bị lục lọi, mất mát thì dù có đạo đức cách mấy cũng phải đau lòng xót ruột và buồn chán. Duy chỉ có mình ông Trùm vẫn giữ được bình tĩnh, tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa an bài. Khi thấy mọi người khóc lóc, rầu rĩ, ông trấn an:
- Thánh Gióp ngày xưa giầu có biết bao nhiêu, con cháu đầy đàn, vậy mà chỉ trong khoảnh khắc, ông mất hết tiền của, con cháu và bạn bè, phải nằm trên đống tro ở chuồng heo. Kinh Thánh viết rằng Chúa đã khen ông Gióp là người đơn sơ ngay thẳng, kính sợ Chúa, xa lánh tội. Chúa cũng khen ông là người có một không hai trong loài người. Còn mình đau khổ có thấm tháp gì so với ông Gióp!

Đêm đó, Đoàn An Ninh còn lôi được thêm mười xác chết ở vườn sau nhà ông Trùm ngay gốc mấy cây chuối đã bị đào tróc rễ.

Thực ra, trong xóm đạo còn có một gia đình cũng giầu không kém gì ông bà Trùm Hương. Đó là ông bà Giáo Hiệt. Dân làng gọi ông là "Giáo", vì có thời ông mở lớp dạy học chữ quốc ngữ. Tuy hồi thiếu thời, ông được cha mẹ gửi lên tỉnh Thái Bình học, nhưng chưa đậu được bằng cấp gì thì cha mẹ đã gọi về để coi sóc thợ thuyền, vì ông là con một trong gia đình. Ông tổ chức lớp học gồm cả trai lẫn gái, nên bị các bà lời ra tiếng vào, rồi đi tới chỗ tẩy chay. Theo các bà, con gái không cần biết chữ, biết chữ chỉ để viết thư cho trai thôi, chứ chẳng được tích sự gì. Vì thế ông Giáo Hiệt bất mãn dẹp lớp học luôn.

Ông bà Giáo Hiệt có tới sáu người con. Vốn ảnh hưởng nếp sống phóng khoáng ngoài tỉnh thành, ông thích bàn chuyện chính trị và thường giao tiếp với lãnh tụ nhiều đảng phái. Ông đặt tên các con cũng theo tinh thần yêu nước. Bà Giáo Hiệt mắn đẻ, cứ năm một, bà cho ra đời một đứa con trai. Ông đặt tên bốn đứa con trai là : Độc, Lập, Tự, Do.

Sau đứa con thứ tư, ông Giáo cảnh giác vợ:
- Thôi, nghe bà! Bốn thằng con trai là quá đủ rồi. Đẻ thêm một thằng nữa, hóa ra ngũ quỷ đấy nhá! Bà ráng đẻ cho tôi hai đứa con gái nữa thì tôi sẽ đặt tên cho nó là Hạnh và Phúc. Độc, Lập, Tự, Do, Hạnh, Phúc. Quá đẹp!

Quả nhiên ba năm sau, bà Giáo cho ra đời đứa con gái. Nó mang tên Phạm thị Ngọc Hạnh.
Nếu nói rằng ông bà Giáo Hiệt giầu có mà keo kiệt thì không đúng, vì ông cũng rộng rãi tham gia công việc bác ái trong họ đạo, nhưng rất kín đáo và có tính toán. Ông thường nói rằng:
- Chúa dạy ta khi làm việc bác ái thì phải kín đáo. Làm phúc bằng tay phải thì đừng cho tay trái biết.

Vì vậy, ông Giáo Hiệt thường công đức qua ngả nhà thờ, nghĩa là ông giúp đỡ ai cũng đều qua cha xứ. Điển hình là trong vụ cứu đói này, nhà ông bà chỉ cách sân bên hông nhà thờ có một cái ao. Chờ lúc vắng người, ông cho gia nhân gồng gánh gạo và muối vòng theo con đường nhỏ sát bờ ao sang nhà thờ, giao cho cha xứ. Còn cổng nhà ông thì cửa đóng then cài ngày đêm. Có ai đến xin ăn thì người nhà bảo lên nhà thờ và quả thực tại đây họ được phát đồ ăn.

Từ khi xảy ra vụ lộn xộn cướp phá nhà ông Trùm Hương, ông Giáo Hiệt còn rộng tay bố thí hơn nữa. Ông bí mật liên lạc với các đảng phái, nhất là cán bộ Việt Minh, đưa tiền cho họ mua gạo và giao tận nhà cho ông. Cái khôn ngoan của ông Giáo Hiệt là ông không công khai xây kho lúa hay kho gạo cho mọi người trông thấy, vì biết rằng để của nổi trong nhà lúc này là rước họa về nhà. Khi nạn đói vừa xảy ra, ông cho bí mật đào hầm chứa gạo ngay dưới sàn nhà bếp. Chỉ có các gia nhân thân tín và chính các con ông đào chiếc hầm này. Còn lý do ông bỏ tiền mua gạo của các đảng phái, vì lúc đó đang có phong trào "Đánh Pháp - Đuổi Nhật", nên đảng nào cũng phải hoạt động mạnh để lôi kéo lòng dân. Nhiều chuyến xe chở gạo cứu trợ của chính phủ từ Nam ra Bắc bị các đảng phái phục kích lấy hết, nên họ thừa gạo nuôi đảng viên, lại còn dư đem bán. Thêm nữa, chỉ có các đảng phái võ trang chở gạo thì mới không bị dân chúng chặn xe ăn cướp mà thôi.

Tuy nhiên, bà giáo Hiệt không thích kiểu sống bác ái kín đáo như thế này. Có nhiều khi bà bị người trong xứ mắng khéo để lọt đến tai bà:
- Giàu có mà keo kiệt thì phải nói đến ông bà Giáo Hiệt. Dân chúng chết đói la liệt ngoài đường mà ông bà ấy cứ bình chân như vại, chẳng cho ai một bát cơm, chén cháo!

Họ có biết đâu là ông bà cũng làm phúc bố thí cũng chẳng kém gì ông bà Trùm Hương, nhưng mọi việc đều diễn ra một cách rất âm thầm. Thỉnh thoảng cha xứ Kiên lên tòa giảng cám ơn ông bà Trùm Hương về tấm gương bác ái. Còn tên tuổi ông bà Giáo Hiệt thì chẳng bao giờ được cha nhắc tới. Nhưng bà Giáo Hiệt đâu có biết là chính chồng bà đã năn nỉ xin cha đừng bao giờ nhắc đến tên ông giữa đám đông người. Nhiều lúc bà Giáo Hiệt còn ra mặt giận dữ trách chồng:
- Đức bác ái của ông sao mà nhút nhát quá vậy! Chúa nói đèn thì phải để trên cao soi sáng cho thiên hạ biết lối mà đi. Còn đèn của ông sáng mà lại bỏ xuống hầm kín. Mình làm việc nhân việc nghĩa, chứ có ăn gian nói dối gì mà cứ phải giấu giấu, đút đút.

Ngược lại, bà Trùm Hương thì phải chịu quá nhiều cực khổ do tấm lòng bác ái, nhất là sau vụ con bà - cô Tin - bị chết thảm thương. Mỗi lần nhớ thương con, bà quay sang cằn nhằn ông Trùm:
- Tôi thấy ông giữ đạo và làm việc bác ái mà không có sự khôn ngoan. Chúa dạy phải khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim bồ câu. Cứ xem gia đình nhà ông Giáo Hiệt ấy. Người ta cũng làm phúc bố thí, mà khôn ngoan, nên gia đình bình yên, con cái đỡ cực nhọc. Đàng này nhà mình lúc nào cũng như cái chợ ấy. Có lúc ốm đau nằm nghỉ cũng không yên. Nhà cửa thì bị trộm cướp có vũ khí rình rập đêm ngày. Chẳng biết sống chết ra sao.

Nghĩ cho cùng thì đây cũng chỉ là hai cách sống đạo khác nhau, nhưng cùng chung một mục đích: Bác Ái. Có tấm lòng bác ái đã khó, nhưng có khả năng để bố thí lại càng khó hơn. Rồi khi hành xử lòng từ bi bác ái, cũng cả là một vấn đề gian nan. Không phải Trời Phật ân thưởng ngay trong cuộc đời này, mà trái lại có khi còn bị nhiều tai nạn hoặc hàm oan nữa. Cuộc sống của ông bà Trùm Hương và Giáo Hiệt là những trường hợp điển hình.

Tuy vậy, nhiều khi trên đời cũng có những tấm gương hy sinh, bác ái gặp may. Một lần kia đi lễ, Đốc nghe một cặp vợ chồng được cha xứ cho lên toà giảng cổ võ giáo dân đóng góp tài chánh hằng năm cho Giáo Hội. Anh chị chưng diện quần áo bảnh bao, xức thuốc thơm đắt tiền, lượn qua lượn lại trong nhà thờ, khiến ai cũng được hưởng lây mùi thơm. Anh chị khuyên giáo dân nên rộng tay đóng góp cho Giáo Hội qua kinh nghiệm của chính bản thân họ:
- Vợ chồng chúng tôi xin được làm chứng với quý vị điều này: Trước đây gia đình chúng tôi rất là nghèo. Nhưng cứ mỗi lần đóng góp cho nhà thờ một thì Chúa lại thưởng cho chúng tôi mười. Và nhờ vậy ngày nay gia đình chúng tôi trở nên giàu có, ăn ngon mặc đẹp. Con cái đều học hành thành tài và đời sống rất hạnh phúc. Chúa là người cha rất giàu có và rộng lượng. Ngài không thua bất cứ một người cha nào trên thế gian này về lòng rộng rãi.

Đốc đang khấp khởi mừng thầm vì có thêm một động lực mới đóng góp cho chương trình quản lý nhà Chúa. Chợt có tiếng xì xầm phía sau:
- Gớm, chỉ có cái tài lẻo mép. Vợ chồng mở miệng ra là cãi nhau về tiền. Hạnh phúc, giàu có cái khỉ gì? Tiền dâng cho Chúa mà cứ như là tiền cho Chúa vay một ăn lãi mười vậy.

*****************

Trong năm 1945, lợi dụng tình trạng các đảng phái chính trị tranh nhau nổi lên hoạt động cứu nước, các đảng cướp cũng mọc lên như nấm để kiếm ăn.


Nạn đói năm Ất Dậu 1945 (vientay.com)


Lúc đầu chỉ là những vụ ăn trộm, đào ngạch, khoét vách vào ban đêm để lục lọi thức ăn dưới bếp. Về sau, nảy sinh ra các đảng cướp, có vũ khí, mã tấu, giáo mác. Chúng ăn cướp có kế hoạch như đi hành quân, hết làng này đến làng khác. Đi tới đâu chúng cũng tìm nhà giầu cướp của, hãm hiếp phụ nữ một cách công khai.

Người ta tự hỏi lúc đó ai đang cai trị mảnh đất Việt Nam? Trên nguyên tắc, thực dân Pháp vẫn còn đang đô hộ Việt Nam trong giai đoạn này. Nhưng khi Pháp đầu hàng Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945), thì Nhật (cùng phe Trục với Đức) đã đặt ra nhiều yêu sách đối với Pháp tại Đông Dương. Chẳng hạn Thỏa Hiệp Pháp-Nhật ký ngày 19-8-1942, Pháp phải xuất cảng sang Nhật một triệu tấn gạo lấy từ các mùa gặt năm 1942-1943 tại Việt Nam. Đến ngày 9-3-1945, Nhật mới chính thức đảo chính Pháp và nắm quyền tại Việt Nam. Nhưng lúc đó, Nhật đang lo ngại có thể bị thua trận, nên bề ngoài vẫn phải tuyên bố "long trọng trao trả độc lập cho Việt Nam" để làm giảm sự chống đối của các phong trào đuổi Nhật đang rầm rộ khởi phát. Ngày 17-4-1945 Hoàng Đế Bảo Đại trao quyền cho ông Trần Trọng Kim thành lập chính phủ, nhưng thực chất, Bảo Đại cũng không có quyền hành gì, ngoại trừ việc quản lý nội bộ.

Làng Nam Ninh có một tướng cướp tên là Mãnh Hổ, rất hung dữ, ai cũng phải sợ. Cha xứ được mật báo tên này đang hoành hành ở làng dưới và không bao lâu sẽ đến xóm đạo của cha. Cha liền họp bàn với Đoàn An Ninh để triệt hạ tên này. Đương đầu trực diện thì không được, vì bọn cướp đông người, lại có võ nghệ. Vì thế, kế hoạch được dựng lên là các thanh niên trai tráng sẽ nấp trong nhà dân dọc theo hai bên đường. Dưới đất, nhiều dây thừng căng ngang qua đường được vùi sơ bằng một lớp cát.

Khi Mãnh Hổ và đoàn cướp đi qua ổ phục kích, các dây thừng nhất loạt được giựt lên, ngăn chúng lại. Phía trên mái nhà các mảnh lưới đan bằng dây thừng tung xuống. Thế là cả đoàn bị vướng dây rợ tứ tung, gỡ không ra. Cùng lúc, gạch đá từ hai bên đường tới tấp ném qua và từ mái nhà trút xuống. Toàn bộ băng đảng bị thương, máu me lênh láng, còn phe xóm đạo thì bình yên vô sự. Tướng cướp Mãnh Hổ và toàn bọn bị bắt sống. Cha xứ nạp chúng cho nhà nước trừng trị. Kể từ đó không có đám cướp nào dám bén mảng đến xứ đạo Mông Triệu nữa.

Thực sự thì dân chúng trong làng Nam Ninh ít người bị đói, vì tuy ruộng đất bị quân phiệt Nhật trưng thu trồng đay, nhưng vườn tược chung quanh mỗi nhà khá nhiều, nên họ giồng khoai, giồng sắn hay chuối và các cây thực dụng khác, nhờ vậy, cũng đủ tạm sống qua ngày. Nhà nào lỡ bị túng thiếu chút ít thì bà con lối xóm giúp đỡ chia xẻ cơm áo cho.

Sau gần 2 năm hoành hành, nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu dần dần tan biến nhờ 3 lý do chính:

Thứ nhất, Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh ngày 15-8-1945, nên Việt Nam không còn phải xuất cảng một số lượng gạo kếch sù sang Nhật nữa.

Thứ nhì, Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, phi cơ Đồng Minh không còn bắn phá các trục lộ giao thông nữa, nên sự tiếp tế lúa gạo từ miền Nam ra Bắc được dễ dàng.

Thứ ba, dân số tại Bắc Việt đã giảm sút rõ rệt, vì một số khá đông di cư vào Nam lập nghiệp. Còn những người đã thoát chết trong nạn đói không cần di chuyển đi đâu cả. Họ được tiếp tế và bắt tay vào cuộc sống mới.
Sức tàn phá của nạn đói được giảm đi phần nào cũng là nhờ sự hy sinh của tín đồ các tôn giáo. Với tinh thần bác ái của Công giáo hoặc đức từ bi hỉ xả của Phật giáo, các đạo hữu rất hăng say trong công tác cứu đói và làm việc có tổ chức dưới sự lãnh đạo của các tu sĩ. Họ đạo Mông Triệu với cha xứ Giuse Kiên là một trường hợp điển hình của hàng ngàn các xứ đạo khác.

Vào một buổi trưa hè nóng bức, cha xứ Kiên đang ăn cơm thì có tiếng gõ cửa sau nhà. Cha hơi ngạc nhiên vì những người xin ăn không ai vào được cửa phía này, còn giáo dân thì ai cũng biết giờ này cha ăn cơm và ngủ trưa. Họ không dám phiền cha, trừ trường hợp khẩn cấp lắm. Khi cha ra mở cửa thì thấy một người con gái, mặt mũi hom hem, đội chiếc nón lá rách tả tơi, chứng tỏ đây là một nạn nhân của nạn đói.
- Thưa cha, cha không nhận ra con à?

Cha Kiên lắc đầu nhẹ, hơi nhăn trán lại cố gợi trí nhớ xem là ai. Người con gái tiếp:
- Con là Tình, hội Con Đức Mẹ đây, cha!

Tình là một cô gái trong họ, cha mẹ mất sớm, ở với bà thím. Tính nết hơi lẳng lơ. Cô bỏ làng đi biệt tích cả mấy năm nay. Có người nói đã bắt gặp cô làm "me Tây" ở tỉnh. Cha Kiên cũng được người ta báo tin cho biết như vậy. Hôm nay, bỗng dưng cô trở về thăm cha. Tuy ngạc nhiên, nhưng cha vẫn niềm nở:
- À, Tình, cha nhớ rồi. Kỳ này trông con gầy đi nhiều!

Cô nàng mừng rỡ quá, vì được cha nhận ra. Cô bỏ chiếc nón khỏi đầu và nhìn cha với giọng cầu khẩn:
- Cha có gì ăn không? Cho con ăn với. Con đang đói quá!

Cha Kiên không trả lời ngay. Cha nghĩ rằng biết đâu nhờ cái đói này mà cha có thể đưa nàng trở về cuộc sống ăn ngay ở lành. Cha muốn cứu linh hồn cô trước khi cứu thể xác. Cha nhìn thẳng vào mắt cô:
- Con đã bỏ nhà thờ mấy năm nay. Con hãy sốt sắng d
dọn mình xưng tội ngay bây giờ, rồi cha cho ăn cơm.

Tự nhiên Tình xìu nét mặt lại, đứng lặng người ngẫm nghĩ hồi lâu. Có lẽ cuộc đời trụy lạc của cô trong suốt mấy năm qua đang hiện ra rõ nét. Cô xấu hổ, không dám xưng tội với cha. Cô ngập ngừng:
- Thôi, thưa cha, vậy thì thôi vậy. Chào cha con đi!

Vừa nói, cô vừa nhặt chiếc nón và chạy đi luôn trước sự ngạc nhiên của cha.

Cha Kiên thở dài, trở lại bàn cơm. Cha vừa lo vừa thương hại cô. Nhưng cha lại nghĩ rằng trước sau gì thì con Tình cũng gặp bạn bè trong Đoàn Cứu Đói cuối nhà thờ. Nó chẳng dám đi xa nữa đâu. Có gì mà phải bận tâm. Vì thế, sau bữa cơm, cha bình thản đi ngủ trưa.

Theo thói quen, sau giờ nghỉ trưa, cha ra nhà thờ đọc kinh Nhật tụng. Vừa quỳ xuống làm dấu thì ông Từ khúm núm đến ghé sát vào tai cha:
- Bẩm lạy cha, con Tình nó nằm chết ở cổng sau nhà xứ mình rồi!

Cha xứ hoảng hốt buột miệng:
- Lạy Chúa!

Nhưng cha lấy lại bình tĩnh ngay và bảo ông Từ:
- Được rồi!

Ông Từ hiểu ý là cha đã được bá cáo. Nhiệm vụ ông đến đây là hết. Ông lặng lẽ lui ra.

Cha Kiên không mở sách kinh ra đọc. Cha quỳ, lấy hai tay úp vào mặt suy nghĩ: Linh hồn và thể xác, cái nào phải ưu tiên cứu cấp? Hồn là quý, xác là hèn. Nhưng không cứu xác trước thì làm sao cứu được hồn?

Cha nhớ đến phép lạ Chúa hóa năm chiếc bánh và hai con cá cho cả hàng ngàn người ăn. Khi ấy, dân chúng đi theo Chúa đông quá sức. Họ say mê nghe Lời Chúa. Lời Chúa là Lời Hằng Sống. Lời Chúa có sức cải tử hoàn sinh và Lời Chúa đưa con người đến sự sống muôn đời. Nhưng nghe Lời Chúa lâu quá, dân bắt đầu cảm thấy đói, thấy khát. Các tông đồ xin Chúa đuổi dân về đi. Người đông thế này, lấy gì cho họ ăn, lấy gì cho họ uống? Giải pháp của các tông đồ rất đúng và rất thực tế. Nhưng Chúa lại không nghĩ như vậy. Lời Chúa là lời hằng sống để giải quyết cái đói về tâm linh của con người. Nhưng không thể lấy Lời Chúa mà nuôi thể xác con người được. Có thực mới vực được đạo! Phải cho họ ăn uống no nê. Bao tử có đầy thì mới có sức mà theo đạo và giữ đạo. Chúa muốn cho họ ăn uống để tiếp tục nghe Chúa giảng đạo. Vì đuổi dân đi, lấy ai theo đạo? Và vì thế, Chúa đã làm phép lạ với chỉ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà 5.000 ngàn đàn ông - chưa kể đàn bà con nít - được ăn thỏa thuê, lại còn dư cả thùng, cả thùng.

Cha Kiên tự hỏi mình: Hay là chính cha có lỗi đã bỏ Tình chết đói? Cha không cần và cũng không thể làm phép lạ như Chúa, vì cha đang dư thức ăn để cho đi. Chưa hết đâu! Cha để cho cô chết trong tình huống tội lỗi này, có thể cô chết mất linh hồn lắm chứ? Phải chăng cha đã giết cả linh hồn lẫn thế xác của Tình? Cha bắt đầu lo lắng. Không biết Tình còn nhớ bài học giáo lý cha đã dạy mà ăn năn tội cách trọn trước khi chết không? Con người chỉ cần một giây, một phút nhớ đến Chúa và hối hận vì đã phạm tội mất lòng Chúa trong giờ sau hết là đủ để Thiên Chúa lòng lành tha thứ hết mọi tội lỗi.

Cha không muốn nghĩ tiếp nữa. Cha xin phó dâng tất cả trong tay Chúa. Tuy nghĩ vậy, nhưng lương tâm cha vẫn còn áy náy. Bất chợt, qua cửa sổ trước mặt, cha nhìn thấy anh Phạm văn Độc, Trưởng Đoàn Tobia, con ông bà Giáo Hiệt vừa đi ngang qua. Cha chạy vội ra, gọi anh lại gần:
- Anh Độc, anh còn nhớ cô Tình, hội Con Đức Mẹ trước đây không?

- Dạ, con nhớ chứ cha. Cô vừa chết ở cổng sau nhà xứ, chúng con đã bỏ xác lên xe bò, sắp sửa đem đi chôn.

Cha nói thật chậm, sợ anh Độc nghe không rõ lệnh của cha:
- Tôi muốn làm phép xác cô ta trong thánh lễ chiều nay tại nhà thờ. Anh báo với ông Trùm cho tôi như vậy nhá!

Vâng lệnh cha xứ, anh giữ xác cô Tình lại để làm phép trước khi chôn. Khổ nỗi, xác cô lại nằm dưới cùng trong chiếc xe ba gác. Thế là anh em trong Đoàn lại phải khênh từng xác chết xuống, mới lấy được xác cô Tình ra.
Trong Thánh lễ chiều hôm đó, xác cô Tình được bó trong một chiếc chiếu do họ đạo cung cấp. Cha làm lễ cầu hồn và rảy nước Thánh lên xác của cô trước khi đem đi chôn. Mọi người đọc kinh Vực Sâu cầu cho linh hồn Maria.
Sau lễ, bên ngoài tiền đường nhà thờ, các bà xúm nhau lại, xì xầm bàn tán um cả lên:
- Gớm, cái con đĩ này mà cha còn làm lễ, làm lạy gì cho nó. "Me Tây" thì chỉ có sa hỏa ngục!
- Cái con này nó lẳng lơ lắm cơ đấy. Cha cụ cũng phải giữ mình, không thì cũng chết với nó!

Biết rằng các bà đã bàn luận lạc đề khá xa, nên có tiếng đàn ông xen vào:
- Thôi đi các bà ơi! Cho tôi can. Đừng có xét đoán người ta. Lo thân mình đi. Đàn bà ai mà chẳng lẳng lơ. Tội hay không thì chỉ có Chúa biết.

Thằng Kích có tiếng là hay trêu chọc các bà cũng xông vào ăn có:
- Thôi đi các mệ! Các mệ có biết chuyện Diêm Vương không? Để tôi kể các mệ nghe: Ngày kia Diêm Vương bắt được hai phụ nữ: Người thứ nhất là gái giang hồ. Người thứ hai là hội viên Hội Con Đức Mẹ. Diêm Vương hỏi cô gái giang hồ:
- Chị kia, chị làm gì ở trần gian?
- Dạ, con mua vui cho thiên hạ. Ai buồn bực, đến gặp con là ra về vui vẻ như Tết.

Diêm Vương cười hả hê:
- Thế thì tốt. Cho trở về trần gian làm người tiếp. Chúc vui vẻ!

Diêm Vương quay sang hội viên Hội Các Bà Mẹ:
- Còn chị kia, chị làm gì?
- Dạ, con thờ chồng nuôi con. Hằng ngày chịu khó đọc kinh xem lễ. Con vào Hội Các Bà Mẹ để kể cho nhau mọi thứ chuyện trong xứ đạo. Hội chúng con nhiều chuyện vui lắm!

Diêm Vương vội vàng ngắt lời:
- Bắt! Bắt ngay lấy con mụ lắm chuyện này. Âm phủ đầy dẫy những mụ lắm chuyện như con mụ này!

Thằng Kích phá lên cười, dòn như nắc nẻ. Các bà thì vừa bực vừa buồn cười về câu chuyện tếu nó vừa kể, nhưng vẫn la lối xỉa xói:
- Bắt! Bắt cái đầu mày. Bà đánh cho chết bây giờ, cái thằng khỉ gió này!

Đốc Gàn Trần An Bài

CHÚ THÍCH:

(1) Tài liệu "Chiến Tranh Châu Á Trong Tiềm Thức Của Chúng Ta". Bản dịch của Ngô Thế Vinh, trích dẫn trong bài "Từ Ất Dậu 1945, 60 năm đi tới cây cầu Cần Thơ 2005", đăng trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 51, tháng 2 & 3 năm 2000, tr. 170-171

(2) "Vietnam 1945, The Quest for Power", University of California Press, Berkeley, 1995, tr. 97-98



  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #162670 · Replies: 0 · Views: 395

NamQuoc
Posted on: Aug 1 2019, 09:41 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Tự tình trong ngăn ký ức


MỘT THÁNG SAU KHI CHIA TAY

Không thấy em vào Sài Gòn như đã hẹn. Cũng không có tin tức hay thư từ nhắn gởi. Em đang ở đâu? Đà Lạt hay Nha Trang? Phần tôi thì những ngày chờ đợi nhập ngũ thật là vô vị: quán xá với bạn bè, thơ thẩn trên căn gác lững trong tâm trạng bồi hồi với nỗi nhớ nhung và chờ mong một lần gặp lại nhau trước khi tôi chấp nhận dấn thân. Tôi nhớ em và nhớ Đà Lạt. Nhớ những ngày vui qua mau, nhứt là buổi chiều dạo phố sau cùng và buổi sáng bịn rịn dưới bến xe. Tôi muốn gặp lại em. Tôi cần gặp lại em. Và lần này tôi sẽ không bỏ lỡ cơ hội “ cạnh tranh “ với người quân nhân lịch thiệp đó. Còn được một tuần nên tôi vẫn hy vọng gặp lại em, và tôi vẫn đang chờ…

MỘT NGÀY TRƯỚC KHI TRÌNH DIỆN NHẬP NGŨ

Đọc thư đến thuộc lòng mà vẫn không thấy chán. Em vẫn lịch sự trong ngôn từ. Không có lời yêu thương nhưng bàng bạc mấy câu nhung nhớ. Vậy là không có cơ hội như mong ước. Thôi cũng đành. Cả buổi tối lê la quán xá với người bạn mà lòng cứ nghĩ vẩn vơ đâu đó. Hai mối sầu đời chia hai dòng suy tưởng mặc dù gặp nhau trong tâm trạng đồng cảnh. Mai tôi đi, nhưng hắn chờ ngày sau cùng mới chịu trình diện. “ Họ cho thời hạn 3 ngày. 72 tiếng đồng hồ. Tao chỉ cần một phút bên em cũng đủ rồi! Trình diện sớm lỡ như em lên tìm ngay lúc mình kẹt trong Quân Vụ Thị Trấn hay trên Trung Tâm 3 thì uổng công chờ đợi lắm. Mà sao mày không chờ ngày cuối rồi trình diện chung với tao?!… “ Hắn nói nghe có lý. Nhưng tôi không thấy lưu luyến gì nữa. Có thêm một, hai ngày cũng không mang lại nguồn vui đích thực trong tôi và cho cả những người thân trong gia đình. Vã lại…Em cũng đang ở thật xa. Định phận đã sẵn dành. Tôi vui lòng chấp nhận. Ngày mai, 17-07-1972 sẽ là ngày tôi nhập cuộc.

MỘT CHIỀU TRÊN BÃI CHIẾN THUẬT

Biển đang xậm màu. Nắng nghiêng bóng núi. Toàn cảnh “… Em nằm xỏa tóc đợi chờ anh “ đủ nói lên vẻ đẹp của quân trường nơi miền thùy dương cát trắng. Đã có gió mát làm dịu cơn nóng nung người sau một ngày cắm lá ngụy trang lúp xúp chạy, bò. Giờ nghỉ ngơi để chờ buổi học ban đêm là dịp tốt để cả đám “ Gian Thương Nhập Môn “ ngồi quây quần kể cho nhau nghe những câu chuyện buồn vui của thời “ Đại Học Sĩ “. Chuyện giảng đường và hội học của trường Chánh Trị Kinh Doanh nói hoài không chán. Vài tên tình cờ nhắc lại lớp đàm thoại Anh Ngữ mà em và tôi đã góp mặt từ ngày đầu cho đến lúc cuối. Thật là một ngẫu nhiên tuyệt vời để tôi thêm nhớ em vì mới hôm qua tôi nhận thư em từ Đà Lạt. Trong thư, em nói ông thầy người Mỹ gốc Thanh Niên Thiện Chí có tình cờ gặp em và sẵn dịp từ giả trước khi qua Phi dạy bên đó. Các bạn tha hồ hỏi han nhau về những gương mặt trong nhóm của họ, trai cũng như gái, còn tôi thì gối đầu lên nón sắt nằm nhìn trời, ngắm mây, vừa nghe cả nhóm cười nói, vừa nghĩ về em và khung trời đại học để tạm quên hiện tại nhọc nhằn. Giờ này em đang làm gì nhỉ?! Mới giữa tháng 9. Viện Đại Học còn nghỉ hè sao lại lên Đà Lạt? Hay là anh Thưởng và chị Nga cần giúp gì đó chăng?

MỘT SÁNG CUỐI TUẦN TRÊN PHỐ BIỂN

Thấm thoát đã xong thời gian huấn nhục. Ngày phép đầu tiên, dù chỉ vài tiếng, cũng đủ cho tôi hăm hở xuôi ngược phố phường rồi ra Duy Tân trải lòng mình với biển. Biển vào thu hiền hòa gợn sóng. Điệp khúc rì rào quen thuộc làm tôi tạm quên em và Đà Lạt để nhớ về Vũng Tàu và thời mới lớn. Phải chi em chưa lên Đà Lạt để chuẩn bị cho niên học mới thì thật là …

Cứ như trò chơi cút bắt! Trọn mùa hè chưa được gắn “ con cá “ nên không được đi phép cuối tuần. Còn bây giờ thì tôi làm “ con bà phước “, hết dạo phố đến ra biển ngắm cảnh cho qua ngày giờ. Nắng tháng 10 vẫn còn gay gắt, nhưng gió quyện từng cơn làm tôi thấy dễ chịu. Bãi vắng, người thưa. Rải rác đó đây là những màu áo tiểu lễ của Đồng Đế bên cạnh những mái tóc dài đưa chân trên bãi cát, hay chụm đầu trong hàng quán, dưới rặng dừa hoặc hàng dương rậm mát. Biển trưa ngập tràn ánh nắng. Trời quang, thanh thóat như trong tranh vẽ. Sóng nước tràn bờ, vỗ nhịp nhàng như khúc nhạc. Ước gì ngủ được một giấc ngay trên bãi thì tuyệt vời!…Bước chân trở về Độc Lập lại đưa tôi đi ngang qua cửa hàng tạp hóa của mẹ em ở gần chợ Đầm.

Bà không nhận ra tôi. Và tôi cũng không dừng lại chào hỏi. Chỉ gặp nhau một lần. Dễ gì nhận ra nhau!? Huống chi mấy tháng trước tôi là bạch diện thư sinh, còn bây giờ thì đen như tượng đồng trên Hòn Khô, lại đang mặc đồ tiểu lễ để dạo phố. Khác biệt nhiều quá! Làm sao bà cụ nhớ tôi là ai!?

MỘT THOÁNG MÔNG LUNG GIỮA ĐÊM…” HỜI “

Đêm mang hơi lạnh từ Trường Sơn về ngang quận đường. Đêm yên lắng để những tâm hồn yêu văn nghệ của Chi Khu Hòa Đa quây quần nghe “ mấy đứa em Sinh Viên hát nhạc thính phòng …” Người Thiếu Tá Quận Trưởng luôn ưu ái và trân trọng gọi chúng tôi như thế. Thì cũng vẫn là Nguyễn Duy Tân với Bao Giờ Biết Tương Tư, Ngô Quốc Thắng và Lâm Hoài Nam với Giờ Này Còn Gần Nhau và tôi thì lúc nào cũng Mộng Dưới Hoa mà em đã từng nghe đúng một năm về trước, tại giảng đường Tri Nhất. Vô hình chung chúng tôi đã hát lại những bài trong đêm văn nghệ Giáng Sinh của Khóa 8 Chánh Trị Kinh Doanh để nhớ mùa hội học và cũng để tăng thêm nôn nao trong lòng mọi người, nhứt là Tân, Thắng, Thưởng, Lộc, Thìn, khi sáng mai nhóm bạn Đà Lạt sẽ về cao nguyên còn tôi trở lại SàiGòn với tấm giấy phép đầu tiên trong đời Lính do Thiếu Tá Dụng Văn Đối cấp cho đi một tuần. Một nghĩa cử đẹp của Đàn Anh dành cho nhóm Sinh Viên Sĩ Quan Đòng Đế đến Bình Thuận và tham gia công tác Chiến Tranh Chính Trị tại quận nhà!

- Sao mày không lên Đà Lạt với tụi tao? Hai ngày cho Đà Lạt cũng đủ để mày thăm “ Nàng “ rồi. Thời gian còn lại dành cho gia đình cũng được!

Nguyễn Ngọc Thưởng rủ rê và tôi đã có lúc phân vân suốt từ chiều đến giờ. Nhớ em nhưng tôi cũng nhớ nhà. Phần lớn là vì không rõ em còn trên Đà Lạt với anh chị hay đã về Nha Trang khi Viện Đại Học đóng cửa ăn Noel và Tết Dương Lịch suốt hai tuần lễ. Không có em thì Đà Lạt sẽ lạnh càng thêm lạnh. Và chắc chắn là tôi sẽ không chịu đựng được nỗi cô đơn trong đêm thánh vô cùng cho dù gia đình Thưởng luôn xem tôi như người trong nhà. Thôi thì tôi còn những ngày phép Nha Trang và em có một tháng nghỉ Tết sắp đến. Chắc chắn sẽ gặp em ở phố biển để tâm tình và kể chuyện giảng đường. Ngày mai tôi sẽ xuôi nam còn Thưởng và các bạn ngược bắc, ra Phan Rang để lên Đà Lạt. Hy vọng lá thư nhờ Thưởng mang về sẽ kịp đến tay em trước khi chúng tôi trở lại nơi này đúng vào ngày đầu năm dương lịch.

MỘT NGÀY TRƯỚC THỀM XUÂN CHIẾN DỊCH

Gần trọn ngày phép cuối tuần dành cho các bạn bị L19 “ vớt đầu “ trên đường về từ Phan Thiết. Bốn người đã tỉnh lại và sẽ hồi phục sau này. Chỉ có một bạn không may còn đang hôn mê trong tình trạng nguy kịch.


Từ Quân Y Viện Nguyễn Huệ về lại phố chính, tôi cứ hình dung gương mặt của em và tưởng tuợng về những câu chuyện sẽ trao đổi. Mấy bạn rủ đi quán nhâm nhi cà phê và nghe nhạc cho đã trước khi về lại quân trường nhưng tôi tách riêng để về chợ Đầm. Và tôi hụt hẫng khi mẹ em cho biết là “… Ngày mai em nó mới về đến nhà!…” Ngày mai!? Thật tiếc quá! Ngày mai khi em đổ đèo Ngoạn Mục thì tôi đã phải vượt đèo Cả trên đường ra Qui Nhơn. Không hẹn mà nên,16 tên lãng tử tình nguyện tăng phái cho Khóa đàn anh đang thiếu người, và chọn Đồ Bàn làm nơi đón Tết trong khi toàn bộ Đại Đội SVSQ của chúng tôi sẽ nhận công tác Chiến Tranh Chính Trị đợt 2 ngay tại Khánh Hòa. Tôi chỉ “ Dạ! “ mà không thêm được lời nào khi mẹ em vui vẻ mời “ … Cháu nhớ ghé ra đây ăn Tết với cả nhà nghe!…” Là định mệnh sẵn dành hay là tôi và em không hữu duyên trong trò chơi tình cảm?!

MỘT ĐÊM NGOÀI PHỐ NHA TRANG

Tôi đeo quai chảo đúng 24 tiếng đồng hồ. Quân Lực VNCH vừa có thêm một Chuẩn úy “ sữa “ . Giấy phép mãn khóa có hiệu lực vào ngày mai, nhưng từ ban chiều, khi nhận phép là tôi và vài bạn khác đã vác túi quân trang đi vòng bãi tác xạ để ra quốc lộ 1 đón xe Lam vào Nha Trang. Tôi ghé qua thăm mẹ em và được biết vì sao em không thể dự ngày lễ và đêm văn nghệ mãn khóa như đã hứa với tôi và các bạn Đà Lạt. “…Em nó vừa về đây là đi ngay ra Quân Y Viện Duy Tân ngoài Đà Nẵng. Cháu Phước bị thương nặng lắm…” Lá thư ngắn với lời giải thích nhờ mẹ em trao lại chỉ là một dấu nhấn để xác định vị trí của tôi trong cuộc đời của em. Một vị trí rất khiêm nhường nếu không muốn nói là mơ hồ trong vườn hoa tình ái.

Thật đúng là định mệnh! Và em thì không thể không có bổn phận với người Trung úy vui tánh mà tôi đã gặp đúng một năm về trước.
Đêm Nha Trang nhộn nhịp và rộn ràng. Phố biển vẫn sôi nổi với những sinh hoạt cố hữu. Bạn rủ đi nhậu tại một quán quen trên đường Hoàng Tử Cảnh, nhưng chưa bao lâu là tôi rút sớm để tìm ra Duy Tân ngồi ngắm biển đêm và nhớ em rồi nhớ cả quân trường mà tôi vừa mới rời khỏi sau gần 10 tháng “ …Thao trường đổ mồ hôi…” Sẽ còn trở lại Nha Trang vì tôi phải trình diện Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở Dục Mỹ ngay sau khi hết hai tuần phép mãn khóa. Có thể tôi sẽ tìm thăm em. Cũng có thể tôi sẽ không ghé lại nơi này. Có lẽ nên thả nổi tình cảm như hiện nay để giữ hoài cho thật đẹp những kỷ niệm xưa: kỷ niệm của thời trọ học huy hoàng và dễ thương của đời sinh viên.

Biển đêm vẫn thì thào lời sóng. Nha Trang vẫn trữ tình như muôn thuở. Nhưng lòng tôi đang man mác một nỗi buồn lo. Buồn cho hiện tại, lo cho tương lai. Tiếng thở dài theo khói thuốc tan loãng vào cánh gió. Trong khi lòng tôi quặn thắt từng hồi thì biển vô tư giữ hoài một điệp khúc: đều đặn và thong thả đến lạnh lùng. Đêm nay tôi lại nhớ em trong nỗi bồi hồi nghĩ về Đà Lạt. Gĩa từ Đồng Đế. Tạm biệt Nha Trang.

Ước gì có em đêm nay, ơi mái tóc Khánh Ly của mù sương núi đồi và nắng hồng phố biển!

MỘT CÁNH THƯ MUỘN MÀNG

Tôi nhận thư em ngay lúc Đà Nẵng đang lâm vào tuyệt lộ. Đọc thư em mà thầm lo cho đồng môn xưa và thành phố cũ. Đà Lạt cũng đang lên cơn sốt chiến tranh nhưng em và các bạn vẫn cố gắng hoàn tất học trình. Tôi thông cảm cho em và bạn bè. Bốn năm theo học không thể bỏ dở dang vào phút cuối. Mặc dù không hy vọng Quân Bưu sẽ còn hoạt động hữu hiệu vì Đà Nẵng đang vô cùng hỗn loạn, nhưng tôi vẫn hồi âm vội vàng. Ngoài lời nguyện cho em và các bạn được mọi sự an lành và hoàn thành mơ ước, thì lá thư mang lời chính thức tỏ tình, sau gần 3 năm chỉ có Thân và Thương lúc mở đầu hay kết thúc. Đã đến lúc phải nói thật Lời tim và Ý tình mặc dù em đã đoán biết từ lâu. Em sẽ phải trả lời “ tối hậu thư “ nếu cánh thư bay về tận phố núi. Ngược lại thì coi như tôi nợ em một lời hồi âm và có thể sẽ giữ mãi câu bày tỏ trong lòng vì ngày mai của tôi, của đơn vị, và của Đà Nẵng cùng quân dân vùng 1 Chiến Thuật coi như đã được tính sổ.

MỘT LẦN VỀ THĂM PHỐ NÚI

10 năm! Thấm thoát mà đã 10 năm! Đà Lạt vẫn đẹp và trầm lắng như ngày xưa mặc dù hoàn cảnh và cuộc sống đã hoàn toàn thay đổi. Tôi bồi hồi đưa chân qua những đường xưa, dốc cũ mà cứ ngỡ như đang chập chờn trong cơn mộng du của hiện thực.

Kỷ niệm được dịp bừng dậy, nồng nàn, mãnh liệt, khi nhìn lại khung trời thân quen của thung lũng, núi đồi, phố xá, khuôn viên Đại Học và gặp gỡ những đồng môn kiêm đồng đội quân trường. Bốn ngày du lịch đủ để sống lại trọn mùa trọ học, đủ để tôi lâng lâng với cảnh vật và con người, nhưng không đủ thời lượng để tôi xác định tình cảm đích thực dành cho em sau đúng 10 năm xa cách. Tình cảm xưa dành cho em vẫn còn, nhưng hoàn cảnh đã thay đổi đến cùng cực. Mặc cảm của một kẻ lỡ thời, thất thế, đang trĩu nặng trong lòng đã làm tôi chùng bước. Thà để kỷ niệm vẫn đơm hoa theo từng nỗi chạnh lòng, hay bồi hồi, lâng lâng của hoài cảm luôn trở thành mộng mơ trong từng cơn hạnh phúc khi nhìn lại những gì tôi đã trìu mến nhứt, còn hơn gặp nhau để rồi không biết tình cảm sẽ dẫn về đâu, tương lai sẽ ra sao khi tôi chỉ là một “ phó thường dân ” của chế độ mới. Thà giữ mãi kỷ niệm trong lòng để mái tóc Khánh Ly và tà áo dài mềm như sương của giảng đường Spellman và trong những chiều tan trường sẽ là hình ảnh đẹp muôn đời trong tôi khi nhớ về Đà Lạt và thời trọ học. Thật là mâu thuẫn phải không em?!

MỘT CÁNH THIỆP HỒNG

Cám ơn em đã có giải pháp cho trò chơi cút bắt trong tình cảm dành cho nhau. Tấm thiệp cưới không có gì đặc biệt, nhưng mảnh giấy kèm theo làm tôi chạnh lòng. Chỉ võn vẹn có mấy dòng nhưng là cả một khung trời sâu thẳm của đáy lòng em. Đọc xong tôi cảm thấy buồn. “ Người xa thì đã thật xa. Người gần thì cũng không gần hơn người đã xa. Qúa khứ nhạt nhòa. Tương lai vô định. Chỉ còn hiện tại. Mà hiện tại thì cứ như một canh bạc, trong đó nhà cái và nhà con cũng chỉ là một người. Phức tạp quá phải không?!…” Mà thôi!

Dù sao thì em cũng đã chọn cho mình một con đường. Dẫu vô định thì cũng còn chiếc bóng chung đôi để dò dẫm bước. Còn tôi… Tôi vẫn loay hoay trong định phận với hy vọng sẽ có chút ánh sáng ở cuối đường hầm dẫn đến một ngày mai yên bình để tự an ủi mình trong từng ngày lây lất sống.

MỘT THOÁNG TỰ TÌNH

Bây giờ thì tôi đã cách Đà Lạt đúng nửa vòng quay trái đất. Đã có lối thoát. Đã có một ngày mai như lời nguyện ước. Nhưng tôi phải trả bằng một chuyến ly hương không có vé khứ hồi. Chiều nay, buổi chiều cuối tuần đầu tiên nơi xứ người đã làm tôi chợt nhớ em, nhớ đồng môn, bè bạn, trường lớp, và tất cả những gì thuộc về Đà Lạt ngay khi vừa hít thở không khí đang vào Thu của vùng đông bắc Hoa Kỳ. Cũng là cơn lạnh vừa đủ kéo cao cổ áo. Cũng là sương trắng nhẹ giăng buổi sớm mai, màu nắng hiền dịu lúc chiều tà. Cũng những đồi núi nhấp nhô với từng rặng thông xanh biếc. Nhưng buồn thay! Đà Lạt bây giờ đang ở ngoài vạn dặm. Còn chăng chỉ là những hình ảnh trong ngăn k‎ý ức đang tuần tự lướt qua trong đầu như một khúc phim chiếu chậm của vô thức. 25 năm về trước, bước chân trọ học dẫn tôi đến giảng đường để gặp em. Còn bây giờ bước lưu vong đang khuấy động hồn tôi trong từng ngày hội nhập. Tôi lại đổi đời.

Lại phải thích ứng với hoàn cảnh. Nhưng là hoàn cảnh của một trời tự do và hạnh phúc đích thực. Không phải thứ ngục tù bao la mà em còn đang chịu đựng. Đà Lạt là em. Em là Đà Lạt, là kỷ niệm ngàn đời không phai. Vì vậy tôi vẫn hoài nhớ em. Em có hiểu điều này không, ơi mái tóc Khánh Ly của một mùa trọ học?!

HUY VĂN



  Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162682 · Replies: 0 · Views: 5,025

NamQuoc
Posted on: Jun 3 2019, 10:16 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Ngôi Sao Đơn (ngày cuối thê lương)


Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay.
Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.

Tháng 4-99, tôi đọc được bài viết của bà Lê Văn Hưng (Phạm Thị Kim Hoàng) có nhắc đến vị sĩ quan tên Nghĩa ở kề cận với Tướng Hưng đến giây phút chót, chắc đó là ông Nghĩa đã viết đoạn hồi ký mà tôi may mắn có được.

Gần cuối năm 1999, tôi đọc truyện dài Nửa Sơn Hà của nữ văn sĩ Kathy Trần có đoạn viết về Tướng Nam, Tướng Hưng, tác giả chú thích là lấy tài liệu từ Phạm Trung Nghĩa. Nghĩa nầy chắc là Nghĩa khác.
Tôi không truy tìm được tông tích tác giả của xấp tài liệu nầy để ngỏ ý xin phép được phổ biến. Tôi nghĩ đây là tài liệu quí hiếm để người viết sử đối chiếu với các tài liệu khác, nên tôi tự ý cho phổ biến trước và sẽ xin phép sau, khi nào biết được tác giả. Mong ông Nghĩa hoặc người em của ông Nghĩa có đọc được thì hãy liên lạc với tôi (qua nhà báo)

Hồi ký hay ký ức là những bài viết kể lại sự kiện đã qua theo trí nhớ, theo chủ quan của người viết. Do vậy, nhiều người cùng chứng kiến chung một sự kiện mà khi kể lại, từng câu chuyện của từng người đem đối chiếu thấy không giống nhau 100%. Người viết sử muốn được trung thực thường hay tìm đọc những tài liệu từ các hồi ký, nhứt là hồi ký của những người viết không nhằm mục đích riêng tư nào, để chọn lựa lấy những chi tiết đáng tin cậy, thuyết phục được người đọc mà dựng lại lịch sử. Đọc đoạn hồi ký ngắn của ông Nghĩa, tôi nghĩ đây là người viết hồi ký không có dụng tâm gì cả, đáng tin cậy là trung thực trong tầm nhìn, trong giới hạn hiểu biết của ông, cạnh vị Tướng anh hùng của Quân Lực VNCH, người đã quyết định can đảm vào phút chót cuộc đời quân nhân của mình “Tướng chết theo thành”.
Trân trọng giới thiệu cùng đọc giả đoạn hồi ký đặc biệt nầy.

***
San Jose, tháng 3-2000
Nguyễn Phước Đáng

Lời tác giả gởi người em
“... Anh cố gắng nhớ và ghi lại những gì xảy ra vào những ngày hấp hối của Quân Đoàn IV và cái chết bi hùng của Tướng Lê Văn Hưng. Không là văn sĩ, anh cũng không làm khung trước, nhớ gì viết nấy. Anh mong những vị chỉ huy trực tiếp của Tướng Hưng, những người đã từng trù dập, bôi bẩn vị danh tướng khi ông còn tử thủ ở An Lộc địa. Anh muốn nói tới Tổng thống Thiệu, Tướng 3 sao Nguyễn Văn Minh hiện còn sống tại Mỹ. Nếu quí vị còn sĩ khí của một vị tướng lãnh, hãy viết lên sự thật, để tỏ lòng sám hối, về những ngày tháng hè 72 An Lộc – Bình Long.
“... Nếu có thể, em liên lạc với Thiếu tá Phương, Trung Uý Phúc, đi diện HO, hiện sống tại Mỹ để biết thêm chi tiết về Tướng Hưng trong thời gian ông ở Sư Đoàn 5 BB mà anh không biết...”

* *
Lúc đó khoảng 8h30 tối ngày 30-4-75. Bộ quân phục nghiêm chỉnh vẫn còn trên người Chuẩn Tướng và tôi. Bên trong phòng ngủ Chuẩn Tướng, ngay sát đầu cầu thang trên lầu, sau nụ hôn vĩnh biệt của phu nhân vừa kịp đặt trên má chồng, ông Tướng đã vội vã đẩy bà ra phía ngoài và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay người lại, thấy tôi còn đứng lại trong phòng, giọng ông thảng thốt:
- Nghĩa! Mầy đi ra...
Vừa nói ông vừa nắm lấy tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạ
- Tôi ở lại cùng Thiếu Tướng!?...(*)

Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hằng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng Chuẩn Tướng lạc đi. Cái níu đẩy tôi ra ngoài, sự cọ xát ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi có cảm giác mình như là thỏi sắt đang bị rút ra khỏi cục nam châm. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt oà khóc!

Đứng bên ngoài, tôi và phu nhân tai còn vọng nghe tiếng rít cài then khô khốc từ bên trong. Bất giác, tôi và bà Tướng mọp người xuống nền gạch, cố đưa mắt nhìn vào khe hở dưới cửa. Mọi sự diễn ra không đầy 1 phút sau đó. Một tiếng nổ chát chúa vang lên bên trong cánh cửa. Tôi hoảng hốt ngưng khóc, đứng bật dậy. Với tiếng nổ đó, tôi đau đớn nhận rõ chắc chắn chuyện gì đã xảy ra rồi! Trong phòng không còn tiếng động nào. Tôi đưa tay thử lay động cánh cửa. Vô hiệu! Tôi lùi lại nhìn xuống phía chân cầu thang kêu lớn khi thấy có 3-4 cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên (hình như có cả Thiếu Tá Phương):
- Kiếm một con dao... cạy cửa mau...

Người tài xế tên Giêng cầm con dao to, nhọn, chạy nhanh lên và đích thân nạy cánh cửa bật ra. Mọi người cùng ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cũng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn Tướng. Ông đang ngữa người, nửa thân trên nằm trên tấm nệm trải drap trắng, 2 cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, màu máu tươi nhuộm thắm phần ngực trái chiếc áo thun trắng bên trong. Cả phần chân Chuẩn Tướng buông thỏng bên ngoài, 2 gót giày chấm đất. Có lẽ Chuẩn Tướng đã ngồi cạnh thành giường, 1 tay cổi 2 khuy áo trên, tay kia đưa nòng colt 45 ấn vào chỗ trái tim...

Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng ngay ngắn lại trên giường, gương mặt ông xanh tái, lấm tấm mồ hôi, miệng há, đôi mắt chưa khép, biểu lộ sự đau đớn cực độ. Vừa đặt đầu ông lên gối, bà Tướng vuốt mắt cho chồng... Chuẩn Tướng đã yên nghỉ! Viên đạn oan nghiệt đã xuyên thật chính xác quả tim người anh hùng.

Đứa con đầu lòng, Lê Uy Hải, lúc đó vừa tròn 6 tuổi, đã nhặt được đầu đạn đưa cho mọi người xem, rồi mím môi khép 5 ngón tay giữ chặt “kỷ vật”. Nhìn cử chỉ ấy, tôi nghĩ tuổi thơ ngây dại của cháu đã trôi qua mất kể từ buổi tối hôm nay rồi. Khoảng một tiếng đồng hồ trước đó hai anh em (em gái 3 tuổi) còn đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch cạnh phòng cha, hai đứa bé không hề hay biết lát nữa đây vành khăn tang trắng sẽ phủ lên tuổi ấu thơ hồn nhiên của mình.

...................
...Quả thật tôi chỉ biết rõ quãng đời của Chuẩn Tướng vào thời điểm Cần Thơ, thủ phủ Miền Tây, thật sự đã vô chủ. Cần Thơ gần như chỉ bước vào cuộc trong đêm 29-4. Mười giờ đêm, lúc tôi đang mơ màng, điện thoại từ T.O.C/ Quân Đoàn gọi sang trình Chuẩn Tướng diễn tiến tình hình: Các trực thăng từ Quân Đoàn 3 , từ Sài Gòn... bay lẻ loi về miền Tây đáp bất kỳ nơi nào đáp được... Tôi thức luôn tới sáng vì điện thoại gọi đến liên tục.

12 giờ khuya, nghe có tiếng xôn xao ồn ào ngoài cổng dinh, tôi bước ra và nhìn thấy hàng dòng người cuồn cuộn tuôn trên đại lộ phía bên kia công viên. Cuộc diễu hành náo loạn như đang giữa ban ngày. Tôi kinh ngạc hỏi người lính gác cổng mới biết đó là đoàn người kéo nhau ra bến Ninh Kiều để lên tàu Hải Quân... ra đi. Tôi ngỡ ngàng tự nhủ: “Như vậy là Phó Đề Đốc Thăng tự động dẫn đoàn tàu của ông di tản ư?” (Các lực lượng Không Quân, Hải Quân, lực lượng Đặc Chủng ở miền Tây đều nằm trong hệ thống điều động của BTL/ Quân Đoàn IV) Trong làn sóng người lục tục kéo đi, bất chợt tôi nhìn thấy xe của Chuẩn Tướng Chương Dzềnh Quây, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV. Tôi quay vào, gọi ngay cho Thiếu Tá Trưởng Toán Trực TOC hỏi ông có biết vụ nầy không, rồi vội vã lên lầu trình Chuẩn Tướng. Chính ông cũng đang thức như tôi, và bảo tôi gọi Đại Tá Trang, Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi để ông nói chuyện.

Lúc đó đã 3 giờ sáng ngày 30-4. Tôi đã thấm mệt nhưng vẫn cố nhướng mắt chịu đựng. Giờ nầy giá có Phúc thì hết chê. Phúc khoẻ mạnh, tháo vát, giỏi giắn... Nhưng Trung Uý Phúc đang kẹt lại Sài Gòn sau một chuyến “quá giang” trực thăng về Sài Gòn, ngày trở lại đơn vị bằng đường bộ, quốc lộ Sài Gòn – Long An bị cộng quân cắt đứt với trận chiến dằn dai nhiều ngày, chưa khai thông được.

7 giờ 30 sáng 30-4, tại phòng họp BTL, như thường lệ, Phòng 3 thuyết trình tình hình trong đêm vừa qua trước 2 vị Tướng và các quan chức. Lần nầy có vẻ nghiêm trọng về việc lực lượng Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải bỏ đi, mang theo Chuẩn Tướng Tham Mưu Trưởng, Đại Tá Diệp, Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh (Cần Thơ), Thiếu Tá Chánh Văn Phòng Tư Lệnh, Đại Tá Đạt, Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh Số 5.
8 giờ 30 Đại Tá Thiên được cử tạm thời đảm trách chức vụ Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh.

9 giờ 30 hai vị Tướng Lãnh gặp nhau trong phòng việc của Tư Lệnh Phó. Chuẩn Tướng bảo tôi gọi Chuẩn Tướng Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 đang chỉ huy công cuộc giải toả quốc lộ Long An, nói ông khẩn dùng trực thăng bay về Bộ Tổng Tham Mưu để biết rõ tình hình thực tại. Trên đường bay, Tướng Lạc không bắt liên lạc được với không phận Sài Gòn, nên phải quay về. Chuẩn Tướng lại lệnh cho tôi gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để ông gặp Tướng Trưởng Phòng 3. Tôi lạnh người khi nghe tiếng người tuỳ phái cho biết:

‘“Tổng Tham Mưu hiện không còn ai. Các Tướng Tá, Sĩ Quan cao cấp đang ở tại cơ quan MACV của Hoa Kỳ.”

Tôi hiểu liền các vị ấy có mặt tại đó để làm gì! Sau vị nguyên thủ quốc gia (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu), B/Tổng Tham Mưu cũng đã lặng lẽ đóng cửa!... Và như vậy, có nghĩa là riêng Quân Đoàn IV phải tự lo liệu lấy. Buông ống điện thoại xuống, tôi đứng ỳ tại chỗ, một cảm giác tê buốt chạy dọc thân thể: “Đất nước thực sự đã mất rồi...”

Tôi bước vào phòng trình tự sự lên 2 vị Tướng. Tôi thấy mắt Chuẩn Tướng hơi chùng xuống, rồi gật đầu tỏ ý không cần thêm gì nữa. Tôi bước ra ngoài, một nhân viên văn phòng trao chiếc radio và cho biết đài phát thanh Sài Gòn thông báo dân chúng đón nghe thông điệp khẩn của Tổng Thống Dương văn Minh. Tôi quay trở vào phòng trình Chuẩn Tướng. Lúc nầy Thiếu Tướng Nam đã trở về phòng ông. Chuẩn Tướng vội vã rời phòng bước xuống bậc thềm hướng về toà nhà Tư Lệnh. 15 phút sau, tôi ghi vội nội dung lời phát biểu cuối cùng của Tổng Thống Minh, định sang trình 2 vị Tướng. Gặp Chuẩn Tướng đang bước xuống bậc tam cấp, tôi vừa trao tờ giấy vừa nói vắn tắt:
- Tổng Thống Minh đã đầu hàng!...

Chuẩn Tướng quày quã đẩy cửa vào Phòng Tư Lệnh. 15 phút sau, Chuẩn Tướng trở lại văn phòng mình và bảo tôi gọi để ông nói chuyện cùng 16 Tiểu Khu Trưởng. Đó là lệnh ban hành thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Vùng IV kể từ giờ phút nầy. Các đơn vị dừng quân và bố trí tại chỗ chờ lệnh Quân Đoàn. Nếu nó “bung” thì làm lại liền. Thiếu Tướng Tư Lệnh cũng gọi cho 3 Tư Lệnh Sư Đoàn 7, 9 và 21.

Mặc dù nhận rõ thông điệp của Tổng Thống Minh, nhưng hai vị Tướng Lãnh trách nhiệm sinh tử Vùng IV lúc nầy muốn ngăn trở những hổn loạn có thể xảy ra trong cảnh tối tăm nầy. Chính vì vậy mà giờ phút nầy, Chuẩn Tướng vẫn liên lạc cùng Tướng Tần, Tư Lệnh Vùng IV Không Quân, hỏi ông về việc sử dụng bom CPU. Tôi không rõ chuyện thảo luận của 2 vị về việc nầy, nhưng 1 tiếng sau đó, sau khi rời phòng họp, Tướng Tần cùng các sĩ quan của ông đã lên các phi cơ rời căn cứ... nối gót lực lượng Hải Quân!....

Giờ phút nầy, tôi đang giúp Chuẩn Tướng điều chỉnh lại bộ dây ba chạc trên người ông, Chuẩn Tướng như đang trong tư thế đối đầu tại chiến tuyến. Cửa phòng xuỵt mở, 3-4 Đại Tá tất bật kéo nhau vào. Các vị nầy trong số 7 vị Đại Tá được Tư Lệnh Quân Đoàn đề cử vào chức vụ Phụ Tá Tư Lệnh Phó đặc trách về Xây Dựng & Bình Định, Địa Phương Quân & Nghĩa Quân... Thấy điệu dạng họ như vậy, Chuẩn Tướng cười mỉm:
- Các ông làm gì vậy? Tôi còn đây mà.

Thì ra các vị đến để yêu cầu ông Tướng trình Tướng Tư Lệnh để họ được đảm nhiệm chức vụ Trung Đoàn Trưởng, lấp chỗ các vị đã tự ý rời nhiệm. Tôi ngầm hiểu ý nghĩa về việc yêu cầu đó: Thông thường các Trung Đoàn Trưởng được cấp trực thăng C & C sử dụng trong ngày. Tôi được biết Đại Tá Bùi Huy Sảnh, Trung Đoàn 33 cũng vừa rời bỏ chức vụ. Chẳng biết ông có di tản được không?

Ban hành thiết quân luật, Vùng IV đang có vẻ chuẩn bị đối phó với tình hình hơn là treo cờ hàng. Ngay khi hay tin Sài Gòn thất thủ, chợ búa, hàng quán được dân chúng Cần Thơ mua vội bán vội, cố thu xếp nhanh chóng trở về nhà, vẻ mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố như chuẩn bị đón cơn mưa lớn.

Sau bức thông điệp đầu hàng của Tổng Thống Minh, mọi liên lạc viễn thông với Sài Gòn đều bị cắt đứt. Chúng tôi không biết gì về tình hình Thủ Đô. Tuy vậy, cho đến trưa, tình hình Cần Thơ và 16 tỉnh lỵ vẫn yên tĩnh, chưa có bóng dáng một nhóm cộng quân nào vào các Thị Xã. Các Tiểu Khu vẫn còn liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.

Buổi cơm trưa thật lạnh lẽo, tôi không thấy đói, nuốt vội qua loa, rồi để nguyên binh phục, kể cả giày, ngả lưng trên giường. Tôi biết, kể từ giờ phút nầy, biến cố sẽ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Buổi sáng, tôi đã tự ý gọi Đại Đội Trưởng Tổng Hành Dinh yêu cầu cho đổ đầy xăng chiếc Jeep Tư Lệnh Phó, xe tôi, xe Ford Custom mang số ẩn tế dùng cho gia đình Chuẩn Tướng. Cho tới giờ phút này, tôi chưa hề được Chuẩn Tướng ra lệnh lạc nào cả...

13 giờ, chúng tôi trở vào Bộ Tư Lệnh, cách tư dinh Tư Lệnh Phó độ 300 mét. Tôi thấy xe Falcon đen cũng đưa bà Tướng cùng 2 con rời cổng dinh. Tôi hơi ngạc nhiên và lo lắng... Có tiếng ồn ào phía Phòng 2 Quân Đoàn: Một núi giấy tờ đang được đốt cháy ngùn ngụt. Có lẽ các hồ sơ quan trọng được thiêu huỷ? Tôi không rõ Đại Tá Trưởng Phòng có còn đó không, và việc thiêu huỷ giấy tờ nầy do lệnh của ai? Tôi cũng không rõ giờ phút nầy có còn đủ các Trưởng Phòng không? Chuẩn Tướng cũng không gọi đến vị Trưởng Phòng nào, ngay cả Trung Tá Tòng, Trưởng Phòng 3 ! Tôi tự hỏi, “Trong tình huống nầy, 2 vị Tướng có còn chỉ huy cấp dưới được nữa hay không” Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt, nghẹt thở.

14 giờ 30, Chuẩn Tướng lại trở về tư dinh. Ông bước lên bực thềm, nhưng không bước vào trong như mọi khi, mà đứng tại hiên tiền đình, nhìn mông lung ra khoảnh sân phía trước. Tôi đứng bên trái Chuẩn Tướng, cách vài bước, hơi chếch phía sau, hướng tầm mắt theo ông. Mới vào Hè mà cảnh vật như đã Thu, Đông. Trời chiều ảm đạm, thê lương, từng mảng mưa bụi lạnh lẽo thả xuống tàn phượng vĩ đang nở hoa đỏ ối giữa sân, thêm hình ảnh bất động của Chuẩn Tướng trước mặt, tất cả mang đến cho tôi một cảm giác u-buồn, tan tác... Bất chợt, Chuẩn Tướng quay lại hỏi tôi:
- Cô đi đâu?
- Thưa, cô đến nhà thờ xin lễ rửa tội.
Vừa lúc đó cửa cổng dinh mở toang, chiếc Falcon trườn vào. Tôi thở ra nhẹ nhõm.

Mấy ngày nay, tình hình chiến sự, tình hình đất nước đen tối như vậy, mà người thợ may riêng không ngớt giải quyết mớ vải vóc mới tinh cho bà Tướng cùng thân quyến. Bây giờ lại đi xin rửa tội. Tôi không bao giờ nghĩ ra chuyện ông bà Tướng đã âm thầm cùng bàn bạc chuẩn bị cái chết cho toàn gia đình. Và phần bà đã dọn mình bằng chính cung cách riêng của bà. Bà muốn khi từ giã cõi đời sẽ cùng con cái được đón nhận là con chiên của Chúa, và bước vào áo quan với bộ đồ mới tinh, trong trắng... Nhưng vào phút cuối cùng, khi nhìn thấy 2 con thơ dại, Chuẩn Tướng thay đổi ý và nằn nì bà ở lại đùm bọc 2 con.

Buổi sáng, ngay sau khi bản thông điệp của Tổng Thống Minh vừa dứt, bà Tướng gọi sang văn phòng bảo tôi tìm cho bà càng nhiều càng tốt thuốc varium 5mg. Bà Tướng vốn bị bệnh mất ngủ đã nhiều năm, nên việc bà cần loại thuốc nầy không có gì đặc biệt, tôi nghĩ vậy. Nhưng khi gọi cho Trung Tá Lưu, Liên Đoàn Trưởng 74 Quân Y, ông khuyên tôi đừng nên can dự vào, để lương tâm khỏi bị ray rứt sau nầy.. Rốt cuộc tôi xuống trạm xá Quân Đoàn và người sĩ quan trợ y đã dốc hết số thuốc còn lại trên trăm viên. Bà Tướng nhận số thuốc rất điềm nhiên trước giờ đi nhà thờ xin lễ rửa tội.

Gương mặt Chuẩn Tướng thoáng chút rạng rỡ khi thấy vợ con về đến dinh an toàn. Ông bước đến bên xe đón bà, trao đổi vài lời rồi lên xe trở lại Bộ Tư Lệnh.

Đã 3 giờ chiều. Tôi được biết có cuộc hẹn gặp gỡ thảo luận về việc tiếp thu Cần Thơ giữa BTL/Quân Đoàn IV với đại diện của phía cộng quân. Mọi sự sẽ diễn ra tại văn phòng Tư Lệnh. Tôi không rõ ngoài 2 vị Tướng còn có những ai khác, phía cộng quân bao nhiêu người và ai đã thảo ra văn bản để đôi bên cùng đồng ý ký kết.

16 giờ, Chuẩn Tướng rời Bộ Tư Lệnh và đây là lần hiện diện cuối cùng của ông tại bản doanh nầy. Xe chúng tôi vừa ra khỏi cổng chánh, ông ra hiệu dừng lại và bước xuống xe xem coi chuyện gì xảy ra ở phía trước. Bên kia đường, đối diện vòng đai và cổng chánh Bộ Tư Lệnh có rất nhiều thanh niên, kẻ quần tây, người quần đùi ở trần đang nối đuôi thành hàng dài phóng chân rảo nhanh. Tôi ra hiệu cho anh quân cảnh sang bên kia đường đón chận hỏi 1 người trong số họ. Thì ra những thanh niên nầy thoát ra từ trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ đã bỏ ngõ. Giờ phút nầy có lẽ không gì thần tiên bằng là họ đang được trở lại nhà. Hèn gì họ vừa chạy vừa biểu lộ vẻ vui mừng rối rít. Nhìn cảnh tượng trước mắt, tự dưng tôi thấy dâng lên trong lòng nỗi cô độc, trống vắng làm sao! Hình như chỉ còn mỗi một xe jeep chúng tôi độc hành trên con đường ngắn quen thuộc, mà giờ đây như xa lạ và dài lê thê ra...

Đến ngả tư nơi tiếp giao giữa Bộ Tư Lệnh với dinh Tư Lệnh Phó và dinh Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh, Chuẩn Tướng ra hiệu dừng xe. Ông bước xuống, đứng nhìn bao quát, có vẻ như đang sắp xếp một thế trận. Tôi nhìn ra 4 phía lộ, và nhận ra vẻ trống vắng rờn rợn. Lác đác vài xe gắn máy, xe thồ, xe đạp đang hối hả gò lưng.

Cả một góc phố thoi thóp, im ỉm khiến tôi liên tưởng đến những đoạn film có cảnh tương tự: Les Sept Mercenaires, O.K Coral... thời còn đi học. Bổng từ phía chân cầu Nhị Kiều xuất hiện một chiếc xe jeep đang theo đại lộ Hoà Bình lao nhanh về phía chúng tôi. Chiếc jeep dừng lại cạnh xe Chuẩn Tướng. Người ngồi trên xe là Tướng Mạch Văn Trường, tân Tư Lệnh Sư Đoàn 21. Ông là 1 trong vài vị Tư Lệnh được Tổng Thống Thiệu ra sắc lệnh thăng cấp trước khi lên phi cơ rời Việt Nam.

Tướng Trường xuống xe trình Tướng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn điều gì tôi không nghe được, nhưng với vẻ hấp tấp và gương mặt đầy lo âu, cộng với tình hình trước mặt, tôi đoán chắc Bộ Tư Lệnh của ông hiện đã tan rã. Chuẩn Tướng bảo Tướng Trường theo ông về dinh.

Tại phòng khách, hai vị cùng ngồi trên ghế “canapé”. Với giọng nói cứng cỏi, quả quyết, ông nói với Tướng Trường rằng giờ nầy ông chỉ huy. Ông bảo Tướng Trường cùng Trung Tá Thành, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh đến đóng bản doanh tại dinh Tiểu Khu Trưởng. Chuẩn Tướng bảo Trung Tá Thành lệnh cho 2 Chi Đoàn thiết vận xa M.113 đang ở vùng quận lỵ Bình Minh lập tức quay về Cần Thơ và cho người đến tận bến phà lệnh cho toán chuyển vận phải túc trực ưu tiên chở đoàn thiết vận xa vượt sông. Ra lệnh xong, Chuẩn Tướng đứng lên, vào phòng rửa mặt trong lúc Tướng Trường vội vã ra xe đến dinh Tiểu Khu Trưởng.

Đèn phòng vừa bật sáng, tôi nhìn ra cửa sổ, bóng tối đã nhợt nhờ ngoài sân. Phía cuối phòng, bà Tướng và gia đình đã ngồi vào bàn ăn, có vẻ vẫn an bình như mọi bữa cơm tối hằng ngày. Người lính phục dịch đặt trên bàn tiếp khách, chỗ Chuẩn Tướng đang ngồi, 1 cái dĩa, muỗng và 2 trứng gà ngâm trong ly nước sôi.

Tôi đứng cạnh bàn viết đặt sát cửa sổ phòng khách, trên bàn có 2 máy điện thoại: 1 tự động và 1 qua tổng đài viên. Tối nay tôi tăng cường thêm 1 PRC 25 mở tần số của BTL/SĐ 21 và Thiết Đoàn 9 để liên lạc, theo dõi. Hình như hệ thống truyền tin của Bộ Tư Lệnh đã ngưng hoạt động từ 17 giờ, vì tôi gọi không có tiếng tổng đài viên trả lời. Còn máy tự động dường như bị cắt. Lúc nầy, Thiếu tá Trịnh Đức Phương, nguyên Chánh Văn Phòng, cũng từ dưới phòng anh bước lên đứng phía trái Chuẩn Tướng. Cả 3 chúng tôi im lặng, hồi hộp nhìn về phía màn hình TV vẫn sáng trong, im ỉm.

Phái đoàn 2 bên rời BTL/Quân Đoàn đã gần 2 tiếng đồng hồ và chính lúc nầy là giờ qui định phát thanh. Chúng tôi không phải chờ đợi lâu thêm. Có tiếng nói vọng ra từ TV, tự xưng là phát ngôn viên của BTL/Quân Đoàn và đọc văn bản thông báo “BTL đã đầu hàng. Các đơn vị phải buông trao vũ khí...” Bản văn vắn tắt, nhưng thật rõ ràng, đầy đủ. Nghe đọc bản văn như vậy, tất cả chúng tôi, những người hiểu rõ nội dung bản văn chung trong phiên họp 2 bên đều chết điếng: Đây không phải là bản văn đã được 2 bên thoả thuận ký kết. Lập tức Chuẩn Tướng bảo tôi chuyền máy PRC 25 đến chỗ ông ngồi, đích thân ông cầm ống liên hợp gọi “Hổ Cáp” (danh hiệu Trung Tá Thành trong đặc lệnh truyền tin) bảo ông Thành dùng M 113 lái đến dinh để đi cùng Chuẩn Tướng đến đài phát thanh. Nghe đến đó, tôi lùi một bước về phía cửa, ra hiệu cho Trung Sĩ Sao (cận vệ) chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Tôi trở lại chỗ cũ vừa kịp nghe lời đáp của Trung Tá Thành vang lên trong loa khuếch đại. Lời lẽ vẫn còn mang vẻ lễ độ của một cấp thừa hành, nhưng rõ ràng đó là lời từ chối thi hành lệnh. Thật khó đoan chắc có lực lượng đáng kể nào của cộng quân đã có mặt ở Thị Xã hay Bộ Tư Lệnh chưa, nhưng với văn bản vừa phát ra, chắc chắn sẽ hung hiểm vô cùng nếu tự nhiên xuất hiện một chiến xa rầm rộ di chuyển trong đường phố lúc nầy. Tôi tin rằng Chuẩn Tướng hiểu rõ điều đó.

Trong cảnh biến động nầy, tuy lòng có lo âu, sợ hãi, nhưng nhìn thấy đức tính gan dạ, bất khuất của ông, như là dũng tướng tới bước đường cùng vẫn tả xung hữu đột, tôi khâm phục ông xiết bao! Với tinh thần tự nhận trách nhiệm tối cao, hai vị Tướng Lãnh muốn quân nhân phải được bảo đảm an toàn, ít nhứt cũng cho những binh sĩ khi họ không còn được quyền cầm vũ khí trong tay nữa. Sau bản thông điệp của Tổng Thống Minh, có ai biết được chắc chắn về số phận của những đơn vị trước đó đang trực tiếp giao tranh ác liệt cùng các lực lượng cộng quân và rồi bổng dưng họ phải buông súng trong cơn hận thù còn sôi sục của đối phương?

Đang miên man nghĩ suy, tôi giựt mình khi điện thoại reo vang. Nhấc ống nghe lên, tôi vội chuyển liền cho Chuẩn Tướng khi nhận ra giọng trầm trầm, chậm rãi của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Có lẽ Thiếu Tướng hỏi Chuẩn Tướng về bản văn phát thanh vừa rồi. Tôi nghe Chuẩn Tướng trình bày là mọi việc đã giao cho Đại Tá Sáu, ThMPh/ ChTrChTr/Quân Đoàn đại diện cùng đi với phe cộng quân. Vì sao bản văn chung bị tráo? Và tình trạng Đại Tá Sáu ra sao chỉ duy nhứt Đ/T Sáu biết mà thôi.

Tôi không nghe Chuẩn Tướng báo với Thiếu Tướng chuyện ông tính đến đài phát thanh mà không thành. Cuộc điện đàm giữa 2 vị Tướng kết thúc. Buông ống liên hợp xuống, Chuẩn Tướng thừ người, ngồi bất động. Lần đầu tiên tôi nhận ra vẻ mệt nhọc tuyệt vọng trên gương mặt ông. Chỗ dựa cuối cùng đối với đơn vị và những đàn em thân tín mà ông từng chỉ huy giờ đã bật gốc. Trong một cử chỉ buông xuôi, Chuẩn Tướng đưa 2 tay về phía trước, bằng một giọng nói oai mãnh, bất khuất ông đã quất về phía tôi và Thiếu Tá Phương một tràng lanh lảnh và đanh thép, khiến tôi rụng rời, vì biết sắp phải xa ông, vị Tướng tôi luôn kính quí. Tôi cúi đầu lặng thinh, cả một khoảnh khắc chơi vơi để 3 chúng tôi mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng...

Chuẩn Tướng đứng lên bảo tôi tập hợp toán lính gác để ông nói chuyện. Thượng Sĩ Trưởng Toán Tiểu Đội bảo vệ dinh Tư Lệnh Phó tập hợp quân thành 2 hàng bên hông dinh. Bằng một giọng cảm động, chân tình, Chuẩn Tướng cám ơn họ đã vẫn ở bên ông đến giờ phút cuối cùng nầy và bảo anh em bây giờ ai muốn rời dinh cứ tuỳ ý... Bổng có tiếng người lính gác ở trên cao báo động có xe cộng quân đến. Lập tức Chuẩn Tướng chạy vào trong nhà. Tôi hô toán cận vệ vào vị trí, rồi xách máy PRC 25 theo ông lên lầu. Chuẩn Tướng vào phòng ngủ rồi trở ra với khẩu XM 18 trên tay, chạy ra bao lơn, nằm xuống nhìn ra phía đường. Lúc nầy tôi mới nhận ra đường phố đang tối thui.

Điện toàn bộ Thị Xã bị tắt ngúm. Như vậy điện trong dinh hiện có là do đường dây từ máy phát điện riêng của BTL/Quân Đoàn. Trong bóng đêm u-uất đó, 2 vệt sáng rực phát ra từ 2 đèn pha chiếc xe jeep vừa rời cổng dinh Tiểu Khu, quét thẳng về phía chúng tôi trông thật ghê rợn. Nhưng khi ra đến ngả tư, ánh đèn lại rẻ trái theo đại lộ Hoà Bình hướng về BTL/Quân Đoàn. Họ không đến chỗ chúng tôi. Chuẩn Tướng đứng lên, lùi trở về phòng. Tôi dùng máy PRC 25 thử gọi danh hiệu của Tướng Trường và Trung Tá Thành. Gọi 3-4 lần vẫn khong có tiếng đáp lại. Có vẻ như hệ thống máy đầu bên kia đã ngưng.

Chắc chắn phải có biến cố bên dinh Tiểu Khu Trưởng, chỗ Tướng Trường và Trung Tá Thành đến đóng bản doanh hồi chiều. Dinh Tiểu Khu Trưởng và dinh Tư Lệnh Phó chỉ cách nhau hơn 300m thôi, nếu có tiếng súng nổ chúng tôi phải nghe được, nhưng sự việc máy không còn mở túc trực chứng tỏ tình trạng Tướng Trường rất bi quan. Có thể ông và Trung Tá Thành đã bị bắt. Và như vậy tình hình trong dinh chúng tôi cũng rất nguy ngập, không rõ địch sẽ xuất hiện lúc nào. Có lẽ Chuẩn Tướng thấy rằng thì giờ đang rất cấp bách, nên ông bước đến đẩy cửa vào phòng bà. Và đây chính là giờ phút ông thuyết phục bà cần phải sống. Hai cháu bé đang vô tư đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch lối ra bao lơn. Tôi trở xuống nhà để tìm gặp, dặn dò toán gác. Thật ra tìm họ cũng là để tự trấn an mình.

10 phút sau, Chuẩn Tướng gọi tôi lên lầu gặp ông. Tại đây tôi thấy ngoài tôi và Thiếu Tá Phương, còn có đông đủ những binh sĩ đã từng phục dịch Chuẩn Tướng cùng gia đình rất lâu năm. Chuẩn Tướng đứng tại phòng ngủ, hai cánh tay ghì chặt đứa con gái 3 tuổi để cho đầu cháu tựa vào má ông. Bà Tướng đứng bên cạnh. Hai bàn tay măng non của cháu bé hồn nhiên lùa vào mái tóc cha làm loả xoả vài lọn tóc rối trên trán Chuẩn Tướng. Bức tranh bi thảm ấy khiến lòng tôi ngậm ngùi tê cứng. Bằng giọng nói tha thiết, ân cần, Chuẩn Tướng gởi lại bà cùng 2 con cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho tới sáng sẽ không có chuyện gì xảy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống bà cùng gia đình về Sài Gòn rạng sáng ngày mai, 1-5.

Đó là lời uỷ thác cuối cùng của Chuẩn Tướng. Dù đã từng xông pha bao chiến trận, nhưng trong giờ phút tử biệt nầy, Chuẩn Tướng không nén được nỗi uất nghẹn trong lời nói. Ông lấy lại trầm tỉnh thật nhanh, quát bảo tất cả trở xuống dưới nhà, chỉ còn mình tôi và bà Tướng ở lại. Để rồi giây phút vĩnh quyết đã đến!...

Hồi Kết

Lúc đó đã 9 giờ đêm 30-4. Chúng tôi xúm quanh giường ngủ giúp bà Tướng lau rửa thân thể, thay y phục cho ông. Chừng đỡ lưng Chuẩn Tướng lên, mọi người lại đau lòng rấm rứt khóc khi thấy vẫn còn máu tươi rĩ ra chỗ viên đạn thoát ra khỏi thân thể ông. Chuông điện thoại lại reo lên. Tôi lật đật mời bà Tướng tiếp chuyện với Thiếu Tướng Tư Lệnh. Bà sụt sùi báo tin Chuẩn Tướng đã... ra đi... Cuối cùng bà nghẹn ngào cảm ơn Thiếu Tướng Tư Lệnh đã gọi đến thăm hỏi, an ủi bà... Để rồi... 8 tiếng đồng hồ sau, lúc 5h30 sáng ngày 1-5, hai vị Tướng cao cấp nhất lãnh thổ vùng IV cùng gặp được nhau ở bên kia thế giới, với cùng ý chí “Tướng phải chết theo thành”

Chuông điện thoại lại reo. Tôi nhắc ống nghe lên, giật mình khi nhận ra tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện. Giọng ông thật khẩn cấp, ông cần nói chuyện với Tướng Tư Lệnh Phó. Tôi quyết định nhanh trong trí, “Không cho Đại Tá biết Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết!” Tôi nghĩ, hệ thống điện thoại đã bị ngắt hoặc do đơn vị nầy đã bỏ nhiệm sở từ chiều, không lý gì bây giờ lại tái lập? Chắc cộng quân đã chiếm đóng và đang kiểm soát các cuộc điện đàm... Sau nầy khi hồi tưởng lại, tôi mới thấy mình thật ngu khờ: Chỉ vì muốn bảo toàn thi hài Chuẩn Tướng mà tự ý trả lời Đại Tá Cẩn là Chuẩn Tướng đang bận chỉ huy các đơn vị nên không thể rời máy tiếp chuyện Đại Tá được.

Tôi nghĩ chỉ có cách đó mới ngăn được Đại Tá, để ông không đòi gặp Chuẩn Tướng nữa. Tôi còn tự ý trả lời “Lệnh của ông Tướng truyền đi hồi sáng vẫn không thay đổi” khi Đại Tá hỏi đến điều nầy. Hậu quả là Đại Tá tiếp tục cho Tiểu Khu mình tử thủ, để rồi ông bị bắt, sau đó đưa về Cần Thơ và Cộng quân đã đưa Đại Tá ra xử bắn trước đám đông dân chúng. Trong lúc chỉ huy chiến đấu, Đại Tá Cẩn đã bị thuộc hạ của mình phản trắc, khống chế từ sau lưng. Tôi tin rằng chính vì vậy mà ông không kịp thực hiện được hành động can trường như Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó và Thiếu Tướng Tư Lệnh đã làm, khi Tiểu Khu thất thủ, mà đành để bị bắt sống. Ông vốn là Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 9 tăng viện chiến trường An Lộc mùa hè 72, được vinh thăng Đại Tá và trở thành Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện sau đó. Pháp trường của kẻ thắng càng tô đậm thêm ý chí hiên ngang, bất khuất của người dũng sĩ trước mũi súng quân thù. Tổ quốc sẽ mãi mãi ghi nhớ ơn Ông cùng những người, cho dù là hàng binh sĩ, trong những giờ phút nầy vẫn còn ngả gục và thắm máu đào trên khắp đất nước non sông.

Có tiếng rè rè từ máy PRC 25 và loa khuếch đại vang lên tiếng gọi danh hiệu Chuẩn Tướng. Tôi nhìn lại bản đặc lệnh truyền tin và nhớ ra giọng nói của Thiếu Tá Điệp, Tiểu Đoàn Trưởng 1/31 đang trong vùng hành quân thuộc quận Bình Minh, chắc anh không liên lạc được với Bộ chỉ huy Trung Đoàn và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, nên mới gọi thẳng về Chuẩn Tướng. Tôi báo cho Thiếu Tá Điệp biết chuyện của Chuẩn Tướng và cầu chúc anh may mắn. Trong đêm nay còn bao nhiêu đơn vị đang trong tình trạng bơ vơ, lạc đàn như Tiểu Đoàn của anh, kêu gọi cấp chỉ huy trong vô vọng và đành chờ đợi ánh bình minh để nhận lãnh số phận mình... Từ đó tôi quyết định tắt hẳn máy PRC 25.

Tôi bước trở lại phòng Chuẩn Tướng và nhìn thấy ông ngời sáng trong bộ lễ phục với đầy đủ quân hàm trên 2 cầu vai, cùng dây biểu chương, huy chương. Bà Tướng đang xếp gấp tư lá cờ vàng ba sọc đỏ và lần tay mở nút áo đặt lá cờ ngay ngắn chỗ phần ngực ông. Xong xuôi, bà ngước lên nói cùng tôi, bà mong muốn lễ tang Chuẩn Tướng được tổ chức đúng lễ nghi quân cách. Tôi gật đầu im lặng. Trong bối cảnh nầy, tôi thấy mình cần phải tận lực giúp đỡ bà, còn việc thành bại là hướng sắp tới.

Trời đã khuya, chỉ còn độ nửa tiếng nữa là sang ngày hôm sau. Thân nhân của Chuẩn Tướng vẫn còn đó cạnh ông. Có lẽ cũng không ai nhắm mắt được đêm nay. Tôi đến cầu thang, trở xuống nhà dưới, theo cửa sau vòng ra sân với đầu óc trĩu nặng lo nghĩ. “Khi hay tin Chuẩn Tướng tuẫn tiết, liệu bọn Cộng Sản có chấp nhận để yên cho mai táng ông không, mai táng bình thường thôi, chớ chưa nói đến chuyện đúng lễ nghi quân cách? Hay là đêm nay mình tìm nơi an táng ông chính tại trong khuôn viên dinh?...” Tôi lắc đầu, bỏ ý nghĩ đó và dừng lại chỗ cuối sân, nhìn ra cổng sắt. Đêm đen ghê rợn trùm phủ vạn vật.

Trời tối đến độ tôi không nhận ra cánh cửa cổng. Còn vọng gác thì im sửng trên cao, không biết có còn người gác hay không? Sự im lặng chết chóc khiến tôi hoảng sợ đứng ỳ tại chỗ, không dám nhích tới. Tôi có cảm giác đang bị bao vây, rình rập, dòm ngó từng động tác. Tôi trở gót, theo cửa sau, bước lên phòng khách nhìn quanh quẩn, nơi đây cũng tối om, chỉ có chút ánh sáng của ngọn đèn trên lầu hắt xuống cầu thang cho tôi nhìn rõ nhà dưới trống vắng, không còn người lính phục dịch nào ở đó. Tôi quyết định nghỉ lại nơi đây. Đêm nay nếu có sự kiện gì xảy ra từ phía ngoài vào, tôi sẽ là người đón nhận, hay biết trước tiên. Trong bóng đêm cô tịch, tôi ngồi nhớ lại những việc vừa xảy ra, tất cả nhanh chóng kết thúc, tưởng chừng như một giấc chiêm bao! Sự đời như bọt nước bèo trôi, tụ rồi tan, mới hạnh phúc đó đã tan vở, mới cười vui đó đã ôm ra khóc.

Lòng tôi bổng chơi vơi rung động nhớ lại lời nói ôn nhu của Trung Tá Nghiêm, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chánh Tri Sư Đoàn 21, khi ông giới thiệu một pháp môn tu thiền cho tôi vào những ngày cuối năm 73 tại văn phòng Tư Lệnh ở Chương Thiện. Sự thôi thúc dâng lên kỳ lạ, tôi xúc động ngồi lại ngay ngắn, chắp tay trước ngực, tâm thành khẩn hướng vọng đến đức thầy Lương Sĩ Hằng, xin ông nhận tôi là môn sinh. Từ đó đến nay đã 24 năm trôi qua, không ngờ nỗi đam mê với môn học nầy, tôi vẫn tiếp tục đeo đuổi và tôi tin chắc sự ổn định được đầu óc nhờ hành thiền, đã giúp tôi viết lại bài anh hùng ca nầy một cách tuần tự, rõ ràng, nhớ rõ như mọi chuyện mới vừa xảy ra.

Sau đó tôi nằm xuống và tạm quên được mọi việc và chìm trong giấc ngủ. Lúc tôi trở giấc, trời vẫn còn tối, lòng tôi lại nặng trĩu khi đối diện với thực tại. Tôi bước ra sau, về phòng mình, gắp rút lo việc cá nhân khi thấy kim đồng hồ đã chỉ gần 5 giờ sáng..

Tôi trở lên lầu, gặp Thiếu Tá Thuyên, Phụ Tá Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn, đang đứng cạnh giường Chuẩn Tướng thút thít khóc. Anh vừa mới đến. Như vậy, tin về Chuẩn Tướng trong đêm đã lan truyền ra ngoài. Sự tao ngộ cũng thật vội vàng, ngắn ngủi. Anh rời dinh liền sau đó, lúc trời vẫn còn mờ tối. Đó là vị sĩ quan duy nhứt của BTL/Quân Đoàn đã đến nghiêng chào trước thi hài Chuẩn Tướng. Tôi bàn định cùng bà Tướng lo thu xếp những gì cần thiết mang đi, đề phòng trước, nếu bị buộc phải rời dinh. Thâm tâm tôi nghĩ đến người bạn chí thân hồi cùng ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 31, Trung uý Nguyễn Vĩnh Thành. Mấy năm nay Thành đã thuyên chuyển về Sở Hành Chánh & Tài Chánh Số 5 và cùng gia đình đang ở Cần Thơ, nhờ vậy chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Hiện tại chắc chắn tôi phải nhờ Thành rất nhiều.

Trong lúc chờ trời sáng, tôi bàn với Thiếu Tá Phương là anh đảm trách phần việc tại dinh, còn tôi ra ngoài tìm Thành và đi mua quan tài. Lúc tôi tiến đến cổng chuẩn bị ra ngoài, tôi sững sờ khi thấy thái độ của mọi người, trong ánh mắt của họ, tôi đọc được nỗi hoang mang nghi ngại: Họ đánh giá tôi một ra khỏi đây, không bao giờ trở lại!

Lúc đó gia đình Chuẩn Tướng còn ở trên lầu. Tôi mở hé cánh cổng để vừa đủ đi qua, mắt tôi nhìn thấy Đại Tá C. một trong những Phụ Tá của Tư Lệnh Phó đang đứng nơi công viên Hoà Bình nhìn về phía cổng ra vào. Khi thấy tôi đã nhận ra ông, Đại Tá lật đật rảo bước, may mà tôi chưa kịp gọi ông! Tôi vòng bên trái dinh, theo đường tắt rảo bộ đến nhà Thành. Tôi bổng mừng rở khi thấy Đại Tá Vinh đang hàn huyên cùng với 3-4 người tại trước cổng BTL/Đặc Nhiệm 4 của ông (Chức vụ cùng danh xưng có tính cách điều hành nội bộ của BTL/Quân Đoàn IV do Tư Lệnh đề ra, phần lớn nhằm giải quyết số sĩ quan cao cấp “ối động” tại BTL) Tôi thầm ngợi khen ông trông vẫn tỉnh táo và trẻ trung trong bộ áo quần thường dân.

Trong buổi sáng hôm nay, không hẹn mà tất cả chúng tôi đều mặc thường phục, hoà nhập vào lớp thường dân. Gặp được Đại Tá, tôi đặt thẳng vấn đề Chuẩn Tướng đã chết và bà Tướng muốn chôn ông đúng theo lễ nghi quân cách, xin Đại Tá với tư cách một sĩ quan cao cấp, đến gặp họ (CS) để nói giúp. Tôi tưởng đã giải quyết được một gánh nặng to lớn khi Đại Tá Vinh đoan quyết đó là trách nhiệm của ông trong lúc nầy.

Đến nhà cha mẹ vợ Trung Uý Thành, tôi thật sự cảm động khi thấy mọi người trong gia đình đều ùa ra đón tôi. Tất cả đã biết tin Chuẩn Tướng tuẫn tiết, nên rất lo cho số phận của tôi. Tôi kể sơ cho mọi người biết Chuẩn Tướng chết như thế nào, trước đó ông dặn dò điều gì, và tôi đang rất cần được giúp đỡ đễ thực hiện lời uỷ thác của người chết. May mắn là nhà Thành có khoảng sân khá rộng, tôi xin được gởi chiếc Falcon và chiếc jeep sơn màu xanh với số ẩn tế dân sự. Chuyện gia đình Thành chấp nhận giữ 2 chiếc xe giúp tôi giữa lúc đen tối nầy là một hành động can đảm, như chấp nhận một bản án, nếu có người tố giác (mà lúc đó thiếu gì bọn ba-mươi-tháng-tư) Tôi biết như vậy, nhưng trong cơn nguy cấp, tôi không có cách nào hơn, đành phải nhờ Thành.

Rất may là những ngày sau đó, khi chúng tôi đã rời Cần Thơ, biết tin gia đình Thành vẫn yên ổn. Viết lại những dòng nầy, tôi luôn ghi nhớ tấm lòng của cả hai bên gia đình Trung Uý Thành đối với gia đình Chuẩn Tướng.

Tôi cùng Thành lên chiếc vespa của anh đi đặt mua chiếc quan tài, rồi trở lại Sở của anh. Do ý của Thành, tôi tìm gặp Trung Tá Bia, Phụ Tá Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5 để nhờ ông chỉ dẫn và giúp lo việc tẩn liệm Chuẩn Tướng. Ông đang thay Đại Tá Chánh Sở hiện vắng mặt, chờ đợi người của Cộng Sản đến để bàn giao. Trung Tá hứa là ông sẽ đến liền sau khi xong việc ở đây và căn dặn tôi chuẩn bị những thứ gì cho việc tẩn liệm. Tôi cùng Thành hướng xe về phía chợ. Khác với ngày 30-4, buổi sáng hôm nay, 1-5, Thị Xã Cần Thơ thật ồn ào, rộn rịp. Gần như mọi nhà đều có người đổ xô ra đường, có nhiều con lộ bị nghẹt cứng. Dân chúng đi bộ tràn ra cả lòng đường, chúng tôi phải xuống xe dẫn bộ, len lỏi tìm lối vượt qua. Tôi chợt nhìn thấy Trung Uý Việt, Tuỳ Viên Tư Lệnh đang đứng trong sân nhà của Trung Uý Minh, sĩ quan Quân Sử BTL, tôi lật đật kéo Thành tấp vào. Gặp Việt, tôi hỏi ngay tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh.

Buổi sáng, trước khi rời dinh, một hạ sĩ quan văn phòng đã đến trao cho tôi tờ giấy ghi tên họ của tôi đã “đăng ký trình diện” và cho tôi biết tin Thiếu Tướng Nam cũng đã tự sát. Tôi hỏi lại và được Trung Uý Việt xác nhận điều đó. Anh còn cho biết thêm, xe cứu cấp Quân Y Viện Phan Thanh Giản do anh và Trung Uý Danh gọi đã đến và mang Tư Lệnh về Quân Y Viện trong tình trạng hấp hối. Việt kể, lúc đó khoảng 5 giờ sáng, Thiếu Tướng đang ở dưới hầm, ông bảo 2 tuỳ viên lên nhà, rồi dùng colt tự sát khi ông còn lại một mình. Tôi không tiện hỏi han thêm, vì còn quá nhiều việc để làm.

Xe chúng tôi chạy ngang qua nhà Thiếu Tá Qu., Trưởng Phòng 1/SĐ 21, tôi nhìn thấy Thiếu Tá ngồi sau một cái bàn đặt ở ngoài sân, đang hí hoáy ghi. Một số người đứng vây quanh bàn ông. Tôi vỗ vai Thành bảo chạy chậm lại để kịp đọc được dòng chữ ghi trên tấm bảng đặt sát bàn viết “Nơi đăng ký trình diện nguỵ quân” Tôi ngờ ngợ nghĩ “Như vậy, Th/T Qu. là người do CS cài đặt vào Quân Đoàn ư? Hay ông nhạy cảm, muốn lập thành tích để được là người cách mạng ba-mươi-tháng-tư?”

Ra đến khu chợ, tôi ghi nhận một điều là hầu hết các tiệm ăn đều chật cứng thực khách. Lúc đó tôi bổng thấy đói và nhớ ra từ đêm qua tôi chưa có thứ gì vào bụng. Tôi cùng Thành tìm chỗ ngồi để ăn sáng. Tiếng cười nói trao đổi giữa thực khách vang lên ỏm tỏi. Có 2 người khách ngồi cùng bàn với chúng tôi, nói với nhau:
- Ăn cho đã! Ngày mai biết còn xài tiền được nữa không?!...

Tôi để Thành ngồi tại quán, một mình đi sâu vào chợ. Mắt tôi choáng ngộp với toàn màu đỏ: Cờ cộng sản cùng những cây vải đỏ bày bán khắp nơi. Dân chúng nơi đây quả đã sớm hội nhập với hoàn cảnh mới! Tôi mua các thứ trà, nhang, đèn cầy, vải liệm... rồi trở ra cùng Thành phóng nhanh về dinh.

Quan tài đã được đem đến và được đặt trên 2 giá gổ chính giữa nhà. Tôi hơi phập phồng khi thấy có 2 cán binh cộng sản miền Nam đang trên vọng gác. Họ không đả động gì tới bên trong dinh. Hình như họ được lệnh chỉ ở đó mà thôi? Có lẽ thấy yên tâm phần nào, bà Tướng nói với tôi và Thiếu Tá Phương, ý bà dự định quàng lại 3 ngày. Tôi thấy cổ áo quan cũng “khiêm tốn”, nên bàn với Thành đến Quân Y Viện Phan Thanh Giản tìm xin bộ ny-lông. Tôi muốn nhân dịp nầy để biết đích xác tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Xe chúng tôi tới cổng Quân Y Viện, lác đác còn vài thương binh đang khập khễnh cùng thân nhân hối hả ra cổng.

Khi vào sâu bên trong, tôi nhận ra nơi đây im lìm, trống vắng. Y-sĩ, nhân viên lẫn thương bệnh binh... đều đã rời viện tự bao giờ rồi. Một ít thương binh tôi còn gặp có lẽ vì thân nhân ở xa mới vừa đến để đón họ. Duy nhứt chỉ một người đàn ông trạc tuổi tôi còn đứng trong sân cạnh chiếc xe gắn máy của anh. Tôi thầm mong gặp được nhân vật có vai trò đúng như Trung Tá Bia. Tôi liền đến gần và đánh bạo bộc bạch cùng anh việc tôi đến đây. Rất may, tôi gặp đúng người. Anh trao cho tôi bộ ny-lông giấu nơi yên xe kèm theo lời nói:
- Thật may quá, chỉ còn một bộ duy nhứt. Từ sáng tới giờ phát hết rồi!

Tôi hỏi thêm:
- Thiếu Tướng Nam nằm ở đâu?

Anh chỉ Phòng Lựa Thương cách đó chừng 30m và dặn dò tôi coi chừng, đã có chúng nó. Tôi cẩn thận nhìn quanh một lượt. Khi thấy chỉ có 3 chúng tôi, tôi cảm ơn anh, rồi bảo Thành chạy xe đến đậu sát bậc thềm căn phòng, rồi ngồi trên xe chờ tôi. Tôi vừa bước vào cửa phòng là thấy ngay một thi thể được phủ kín bằng tấm drap trắng, chỉ ló ra ngoài 2 chân vẫn còn mang đôi giày da quân đội. Thi hài nằm trên chiếc băng-ca đặt trên 2 giá sắt cao gần 1m. Một chiếc bàn nhỏ đặt trước đầu băng-ca, trên có một lon nhôm đựng cát dùng thay bát hương, một hộp quẹt diêm và một thẻ nhang nhỏ đã bốc ra. Trong Phòng Lựa Thương vắng ngắt . Tôi đoán chắc đây là thi thể của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi bùi ngùi mục kích nỗi cô độc của ông. Tôi bước tới đưa tay kéo nhẹ tấm phủ trên đầu để được nhìn thấy gương mặt Thiếu Tướng hiền từ như người đang ngủ.

Một vết đạn khoét từ thái dương trái trổ một đường kính cỡ trái chanh nơi thái dương phải, vệt máu đã thẩm đen chạy dài từ đó xuống gò má, đến cổ và động lại trên bâu áo phải làm lem lấm 2 ngôi sao thêu màu đen. Bộ quân phục chiến đấu vẫn trên người Thiếu Tướng đến giây phút cuối cùng. Tôi đốt một nén hương cặm vào lon cát đã có 3 chân nhang của ai đó đã đến đây trước tôi. Tôi kéo tấm vải phủ lại như cũ, rồi lặng lẽ rời Quân Y Viện, với nỗi lòng thật nặng nề, mệt mõi như người bệnh. Giờ phút cấp bách nầy, tôi không thể làm gì hơn được cho vị Tướng Tư Lệnh kính quí!. Nhưng tôi hy vọng quí vị quân y sĩ của Quân Y Viện sẽ không bỏ mặc Thiếu Tướng. Tôi trở về dinh để chờ đón Trung Tá Bia. 20 phút sau Trung Tá đến.

Sau lớp vải liệm là đến chiếc túi ny-lông ôm chặt thi thể Chuẩn Tướng. Chúng tôi đưa thi hài xuống nhà dưới. Trung Tá Bia bảo tôi nâng phần đầu. Lễ tẩn liệm đơn sơ, nhanh chóng do Trung Tá Bia chỉ dẫn thực hiện. Tôi đứng ở đầu quan tài lặng nhìn Trung Tá Bia điều khiển mấy người lính trong dinh làm động tác cuối, từ từ đậy nắp áo quan. Bổng có tiếng la lớn uất nghẹn:
- Trời ơi!... Ông “thầy” ơi!

Rồi bóng một người lao đến bên quan tài, anh xúc động gần như quị xuống. Tôi nhận ra đó là Thiếu Tá Lành, Tiểu Đoàn Trưởng 3/33. Tiểu Đoàn của anh sáng nay cũng đã tuân lệnh giải giáp, giao vũ khí, cởi bỏ quân phục tại chỗ, rồi từ trong vùng hành quân lội bộ ra lộ, mạnh ai nấy tự tìm phương tiện về nhà. Thiếu Tá Lành được tin cái chết của Tướng Hưng nên tìm đến tư dinh. Anh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, sau khi rời quân trường, về Tiểu Đoàn 2/31 cuối năm 1968. Do đã từng phục vụ dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Hưng, thuở đó là Trung Đoàn Trưởng 31, nên anh vẫn nhớ và kính quí vị “thầy” của mình...

Đúng lúc đó Trung Uý Phúc xuất hiện. Anh cùng vợ con đáp xe đò từ Sài Gòn xuống tới. Mọi việc xong xuôi, Trung Tá Bia từ giã chúng tôi để về nhà gặp gia đình. Từ hôm qua, 30-4, tên ông vẫn còn nằm trong sổ cấm quân ban hành từ hơn 1 tuần nay của BTL/Quân Đoàn. Một người lính vào nói nhỏ cho tôi biết một nguồn tin rất bất lợi cho chúng tôi. Do vậy, tôi, Phúc và Thiếu Tá Phương thuyết phục bà Tướng nên an táng ngay cho ông và rời dinh càng sớm càng tốt. Chúng tôi phân chia công việc cho nhau: Phúc cùng vài nhân viên đến khu đất nhà ở Cái Răng lo đào huyệt. Phần tôi lo xe tang. Thành đưa tôi đến Hội Mai Táng Từ Thiện của Hiệp Hội Xe Đò Cần Thơ. Rất may cho chúng tôi là người đại diện cho Hiệp Hội chấp thuận, dù biết đó là đám tang của một vị Tướng. Ông cho biết là phải lo cho đám tang khác lúc 15 giờ. Vậy chúng tôi cần phải chuẩn bị sẵn sàng, lúc xe tang đến là phải di chuyển liền.

Từ lúc đó cho đến khi xe tang xuất hiện, chúng tôi thu xếp mọi thứ đem theo để khi rời dinh sẽ không trở lại nữa. Riêng phần gia đình Chuẩn Tướng, buổi sáng sớm sau khi gặp Thành tôi đã trở về hướng dẫn xe Falcon và xe jeep dân sự đến gởi bên nhà Thành rồi, với số hành lý chứa trong cóp sau xe.

Giờ phút trôi qua chậm chạp với nỗi lo lắng chờ đợi của tôi. Từ 16 giờ tôi bắt đầu sốt ruột, bứt rứt không yên. Mảng nắng chiều vàng vọt còn cố níu lại trên đỉnh tàn sao cao ngất. Đúng lúc tôi đang bối rối với chút mong manh hy vọng, bổng có tiếng ồn ào, rồi cánh cửa cổng mở toang. Chiếc xe tang đen ngòm đưa phần đuôi trườn vào sân. Các nhân viên trên xe nhanh nhẩu nhảy xuống chạy vào nhà. Đã chuẩn bị sẵn, chúng tôi cùng họ đưa quan tài lên xe. 5 phút sau tất cả chúng tôi bắt đầu rời dinh. Anh Phương, Phúc và tôi cùng gia đình bà Tướng ngồi trên xe tang. Thành và những nhân viên khác dùng phương tiện riêng chạy theo sau xe tang. Lúc xe rời cổng lớn một đoạn, tôi nhìn lại thấy có nhiều người chạy ùa vào dinh. Vĩnh biệt tất cả, vĩnh biệt cả con chó berger chúng tôi đau lòng phải bỏ nó lại!... Xe quẹo ra đại lộ Hoà Bình để hướng về Cái Răng.

Tại huyệt mộ, một cậu bé trạc độ 14 tuổi, nhưng đôi tay thật thông thạo, nhịp nhàng với miệng hô khẩu lệnh điều khiển lên xuống đòn tay, rút dây khéo léo, đưa êm thắm quan tài đến đáy huyệt. Họ nhanh chóng phụ giúp chúng tôi lấp đất và đấp vung lên thành hình ngôi mộ. Chúng tôi ngậm ngùi chào từ biệt Chuẩn Tướng, để lại mình ông đơn độc như cố Thiếu Tướng Nam mà tôi đã gặp vào buổi sáng.
Chúng tôi về đến Cần Thơ thì trời đã tối. Bà Tướng và gia đình cùng Thiếu Tá Phương, Trung Uý Phúc đến nương náu tại một ngôi chùa. Sau nầy chính các vị sư ở đây đã giúp xây mộ cho Chuẩn Tướng. Tôi về nhà Thành để trông coi 2 chiếc xe. Chúng tôi hẹn gặp nhau lúc 8 giờ sáng ngày mai, 2-5, để về Sài Gòn. Tôi khẩn khoản yêu cầu Thượng Sĩ nhất Triệu, tài xế xe Falcon, cố gắng giúp đưa gia đình bà Tướng về đến Sài Gòn, một lần nầy nữa thôi.

Buổi tối, tôi mở tất cả va-li trong cóp xe ra kiểm soát lại, đem thiêu huỷ tất cả hình ảnh binh bị của Chuẩn Tướng. Ban chiều tôi đã trình bày cùng bà Tướng là không nên giữ lại những gì sẽ có hại cho gia đình bà, trên đường về không biết bất trắc ra sao. Hơn 10 giờ đêm, tôi vào giường thao thức không ngủ được. Tôi lo nghĩ đến chuyện di chuyển ngày mai. Nếu vì bất cứ lý do gì, người tài xế vắng mặt, thì tôi phải đảm trách phần việc khó khăn nầy của anh. Tôi chỉ từng lái xe jeep mà chưa từng lái chiếc xe tương đối cồng kềnh nầy, khó khăn nhứt là lúc lên xuống phà. Chiếc jeep giao cho Thiếu Tá Phương, Trung Uý Phúc và gia đình.

Buổi sáng 2-5, tôi vô cùng mừng rỡ và cảm động khi thấy Thượng Sĩ Triệu xuất hiện. Không chỉ riêng chúng tôi mà người hạ sĩ quan già nầy, trong thời gian chờ giấy xuất ngũ, vẫn tận tuỵ với Chuẩn Tướng đến giờ phút hiểm nguy nhất. Đêm qua, khi về đến nhà Thành, Trung Sĩ Sao, cận vệ của Chuẩn Tướng mới bịn rịn từ giã tôi ra bến xe để về với gia đình chắc chắn đang rất trông chờ anh.

Không biết có còn dịp gặp lại nhau nữa không, tôi nghẹn ngào chia tay người bạn tâm đầu ý hợp và gia đình Trung Uý Thành rồi lên xe đến điểm hẹn. Xe tôi đi đầu, xe Phúc theo sau, bắt đầu xuống phà Cần Thơ trực chỉ Sài Gòn. Chúng tôi cùng chung tâm trạng mong nhanh chóng rời khỏi nơi đây. Qua bên kia bờ, mới đi được vài cây số, xe tôi gặp một toán cộng quân miền Nam đứng rải trên đường chận lại xét hỏi. Nhờ vậy xe Phúc thoát qua lọt. Một nữ cán binh, có vẻ là Trưởng Toán, cổ quàng khăn rằn, biểu tượng cán binh miền Nam, vai mang chiếc radio nhỏ đang phát vang rền một bài ca vọng cổ. Cô ta tiến đến bảo tôi mở cửa xe. Thấy chiếc va-li, họ lôi xuống bảo mở ra xem.

Trong đó chỉ toàn là quần áo. Tôi mừng thầm là họ không khám phá ra chỗ cóp xe. Đến lượt cái bóp tay của bà Tướng, trong đó có một xấp tiền độ một trăm ngàn. Tôi choáng váng khi thấy cô ta lôi ra một xấp hình. Cô ta chú mục từng tấm một. Toàn là hình ảnh của Chuẩn Tướng mặc quân phục tại chiến trường. Có tấm chụp chung với cố vấn Hoa kỳ nữa. Không kịp trấn tỉnh, tôi trả lời họ đây là vị Tướng đã chết rồi. Thế là họ ra lệnh bắt giữ bà Tướng và tôi với những tang vật đó. Trong lúc rộn ràng, tôi lấy cớ đến đóng cửa xe, rồi ra dấu bảo tài xế rồ máy chạy đi, mặc bà Tướng và tôi tự lo liệu sau. Tôi hy vọng, khi không thấy xe tôi, Phúc sẽ dừng xe lại chờ.

Chúng tôi bị đưa về BChH quận Bình Minh hiện do cộng quân chiếm giữ. Cùng chung số phận bị bắt còn có đôi nam nữ tuổi trạc 20-25 với lý do khá ngộ nghĩnh: Họ mang theo người số tiền gần 40 ngàn mà không có... “đăng ký”! Tại BChH quận, nữ cán binh áp giải chúng tôi đứng ra “tố giác tội trạng” chúng tôi trước hơn chục dân chúng hiếu kỳ, tính tình vốn chất phác của người miền Nam, họ chưa quen hình thức “đấu tố” nầy, nên chỉ trố mắt đứng nghe. Thao thao đã mồm rồi cô ta giao cả 4 chúng tôi cho một ông già, nói là cô cần đi dùng cơm trưa. Trong phòng bây giờ chỉ còn lại một nhân viên nầy.

Tôi thầm khấn nguyện vong linh Chuẩn Tướng độ trì cho chúng tôi sớm rời được nơi đây. Một lát sau, bổng dưng ông già trông giữ chúng tôi đem giao trả mọi thứ và cho chúng tôi đi. Có lẽ ông ta không phải là cộng sản chính cống. Chúng tôi lập tức lên xe thồ ra quốc lộ đón xe đò hướng về Vĩnh Long. Ngồi yên trên xe đò rồi, tôi lần dò kiểm lại cá ...


Nghĩa
  Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162493 · Replies: 0 · Views: 2,671

NamQuoc
Posted on: May 20 2019, 09:17 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Trump kêu gọi điều tra mối quan hệ của Joe Biden với Trung Quốc


Trong cuộc trả lời phỏng vấn kênh Fox News mới đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã nói rằng cựu Phó Tổng thống Joe Biden nên bị điều tra vì có những cáo buộc rằng gia đình của ông này đã bỏ túi hàng triệu USD từ chính phủ Trung Quốc.

Tổng thống Trump lên tiếng kêu gọi điều tra ông Joe Biden dựa vào cáo buộc trong một cuốn sách của ông Peter Schweizer cho rằng ông Hunter Biden – con trai của cựu Phó Tổng thống Joe Biden, đã lợi dụng chức vụ của cha để ký một hợp đồng kinh doanh béo bở với Ngân hàng Trung Quốc do nhà nước Trung Quốc kiểm soát.

Trao đổi với người dẫn chương trình Steve Hilton về vấn đề có nên điều tra gia đình Biden, ông Trump cho hay: “100%. Đó là một nỗi ô nhục. Và sau đó ông ta [Joe Biden] nói rằng Trung Quốc không phải là đối thủ cạnh tranh của chúng ta. [Thực tế] Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn của ta. Họ muốn kiểm soát thế giới này.”

Trong cuốn sách xuất bản 2018 với tựa “Các Đế chế Bí mật: Làm thế nào Giới Chính trị Hoa Kỳ Che giấu Tham nhũng và Làm giàu cho Gia đình và Bạn bè” (Secret Empires: How the American Political Class Hides Corruption and Enriches Family and Friends), tác giả Peter Schweizer đã cáo buộc ông Hunter Biden đã kiếm được rất nhiều tiền trong thời điểm Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đang đàm phán với Trung Quốc.

“Phó Tổng thống [Biden] đang đàm phán một loạt các vấn đề rất nhạy cảm với Trung Quốc, bao gồm Biển Đông, thương mại, chuyển giao công nghệ v.v… Thời gian ngắn sau khi họ trở về Mỹ, công ty của Hunter Biden đã nhận được một thỏa thuận cổ phần tư nhân trị giá 1 tỷ USD từ chính phủ Trung Quốc. Chúng tôi không có cách nào để biết được Rosemont đã thực hiện bao nhiêu cho thỏa thuận này vì không có yêu cầu công bố,” ông Schweizer viết.

Cựu Phó Tổng thống Biden và các đối tác của ông đã phủ nhận cáo buộc của ông Schweizer và cho rằng tác giả theo đường lối bảo thủ này đã viết cuốn sách nêu trên vì động cơ chính trị.

Khoảng hai tuần trước, Dân biểu Cộng hòa Bradley Byrne cũng đã lên tiếng cho biết cần phải điều tra các mối quan hệ của cựu Phó Tổng thống Joe Biden với Trung Quốc vì “có thể có những yếu tố an ninh quốc gia rất quan trọng” liên quan trong đó.

Trả lời phỏng vấn trên Fox News, ông Byrne cho hay: “Khi ai đó đưa ra một bình luận như thế về người đã có nhiều thập kỷ làm việc tại Thượng viện Mỹ, 8 năm làm phó tổng thống Mỹ, chúng ta đã có những câu chuyện về các mối quan hệ với con trai ông, về các mối quan hệ kinh doanh. Ai đó cần phải bắt đầu đặt câu hỏi rằng điều gì thực sự đang diễn ra ở đây?”

Dân biểu Byrne cho rằng gia đình của Tổng thống Donald Trump và chiến dịch tranh cử của ông đã bị điều tra liên quan tới Nga, và do đó ông Biden cũng nên bị điều tra tương tự.

Theo ông Byrne, Hạ viện Mỹ do đảng Dân chủ kiểm soát có lẽ sẽ không tiến hành điều tra ông Biden. Ông Byrne kêu gọi Bộ Tư pháp và Thượng viện Mỹ do đảng Cộng hòa chiếm đa số hãy triển khai các cuộc điều tra chính thức.

Trả lời câu hỏi rằng liệu mối quan hệ của ông Joe Biden với Trung Quốc có “cấu thành tội phạm hình sự”, ông Byrne nói: “Có thể là có. Bây giờ tôi không thể nói là có, vì chúng ta không biết toàn bộ sự thật. Nhưng đó là lý do chúng ta cần có một cuộc điều tra để thu thập sự thật, và sự thật mà chúng ta biết là rất rắc rối.”

Như Ngọc
  Forum: TIN TỨC NĂM CHÂU · Post Preview: #162467 · Replies: 0 · Views: 153

NamQuoc
Posted on: Apr 10 2019, 10:16 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Pierre Darcourt: Những ngày sau 30-4


Thứ Tư, ngày 30 tháng Tư, 1975

Cuộc di tản ồ ạt và ồn ào của người Mỹ đã chấm dứt. Chiếc trực thăng cuối cùng đã nặng nề cất cánh lúc tờ mờ sáng từ khu vườn hoa của tòa đại sứ Hoa Kỳ làm tung lên một đám bụi, mù trời: đó là mớ tro từ những tài liệu mà người Mỹ đã đốt suốt đêm qua. Người dân Sài Gòn được nghe đài phát thanh Úc Đại Lợi mới được biết là Tổng Thống Ford của Hoa Kỳ vừa mới thông báo cho toàn dân Mỹ là Hoa Kỳ đã chấm dứt sự hiện diện ở Việt Nam sau hơn 15 giờ thật dài lo âu về một cuộc hành quân di tản khó khăn trong đêm qua đầy thảm họa. Bản thông báo có chữ ký của Tổng Thống Gerald Ford đã được phát ngôn viên của ông là Ron Nessen đọc trước ống kính truyền hình :

– “Trong suốt tuần vừa qua, tôi đã cho lệnh phải giảm nhân viên của các phái bộ Hoa Kỳ ở Sài Gòn xuống đến mức có thể di tản họ nhanh chóng trong trường hợp khẩn cấp mà vẫn không trở ngại cho công tác được giao phó.. Trong ngày thứ hai, phi trường ở Sài Gòn bị pháo binh và rốc-kết nã vào liên tục nên phải đóng cửa. Tình hình quân sự trong vùng đã tồi tệ nhanh chóng. Vì thế, tôi đã phải ra lệnh di tản tất cả nhân viên Hoa Kỳ hiện còn lại ở Việt Nam.

Bây giờ thì cuộc hành quân di tản đã chấm dứt. Tôi ngợi khen hết tất cả những binh sĩ thuộc quân lực Hoa Kỳ đã tiến hành rất tốt cuộc di tản này, cũng như Đại Sứ Graham Martin và nhân viên thuộc phái bộ của ông, họ đã hoàn thành mỹ mãn sứ mạng của họ trong những hoàn cảnh thật khó khăn. Cuộc hành quân này đã chấm dứt một chương trong lịch sử Hoa Kỳ. Tôi yêu cầu tất cả người Mỹ hãy siết chặt hàng ngũ, tránh mọi đả kích lẫn nhau về quá khứ, để tiến tới tất cả những mục tiêu chung của chúng ta, và hãy cùng nhau chung lưng góp sức vào những công việc lớn còn lại của đất nước mà chúng ta phải thực hiện ”

Sau đó vài phút ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, Henry Kissinger bằng một giọng nghiêm trọng và một vẻ mặt mệt mỏi, đã bình luận với báo chí về những biến cố trong 24 giờ cuối cùng. Ông ta đã chứng minh quyết định của Tổng Thống Ford trong việc thi hành “kế hoạch Bốn” để di tản “những người bị đe dọa nhất” qua một loạt tấn công của lực lượng Cộng Sản Bắc Việt vào phi trường Tân Sơn Nhất. Không một lúc nào ông nói tới chuyện tướng Dương Văn Minh đòi hỏi sự ra đi của tất cả người Mỹ và phải đóng cửa tòa đại sứ Hoa Kỳ trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nghe Henry Kissinger nói, người ta chỉ thấy quyết định cuối cùng của Hoa Kỳ ở Việt Nam chỉ do điều bận tâm duy nhất là phải cứu mạng sống của những công dân Mỹ cuối cùng còn hiện diện ở Sài Gòn. Về vấn đề này ông ta cho rằng mục tiêu đã đạt: chỉ tiếc rằng có 2 binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến bị tử thương vì đạn rốc-kết đã rơi vào phi trường Tân Sơn Nhất trước khi cuộc hành quân bắt đầu khai triển và có 2 phi công tử nạn vì trực thăng của họ bị rơi ở biển Nam Hải. Ông cũng cho biết là Hoa Kỳ coi như đã đạt được một mục tiêu khác là đã di tản 5.500 người Việt Nam ở Miền Nam cùng lúc với 950 người Mỹ cuối cùng, thay vì trước đó “kế hoạch Bốn” (tức là cuộc hành quân di tản bằng trực thăng) trên nguyên tắc chỉ có dự trù bốc đi những công dân Mỹ mà thôi.

Cuối cùng về mục tiêu thứ ba, cũng như hai mục tiêu vừa nói, ông Kissinger trích dẫn từ thông điệp mà Tổng Thống Ford đã nói với thế giới ba tuần qua: Hoa Kỳ đã cố gắng tạo một tình hình cho phép tiến tới một cuộc thương thảo ở Miền Nam Việt Nam. Ông Kissinger đã ước tính rằng chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ đã làm hết sức mình qua trung gian của các nước thứ ba mà ông không muốn nêu lên đây. Ông cho biết là giai đoạn đầu của sự di tản đã được tiến hành với sự dồng ý ngầm của Miền Bắc và của CPLTCHMN” mà chúng ta đã cho họ biết rõ ý định của chúng ta”. Nhưng sau đó ông ta không chịu nhìn nhận là không thể giải thích được sự leo thang đột ngột về các đòi hỏi của Cộng Sản. Đánh giá thái độ ” không nhẫn nại” của họ, ông ta ghi nhận

” Mới vừa tuần lễ trước đây, họ chỉ đòi sự ra đi của ông Thiệu. Khi đã đạt được chuyện đó rồi, họ lại không thừa nhận người kế vị. Nhưng sau đó khi đã tìm thấy được người đối thoại là tướng Minh mà dường như họ đã đòi rồi, thì họ lại còn muốn thêm nữa.

” Mới vừa tuần lễ trước đây. họ chỉ đòi các cố vấn quân sự Mỹ phải ra đi, vài ngày sau đó họ lại đòi sự ra đi của tất cả những người Mỹ”

Trong những trường hợp đó, ông Kissinger từ chối không thể nói trước được là một cuộc thương thyết có thể thiết lập được giữa những người anh em thù địch hay không, hay là phải nghi đến chuyện Bắc Việt sẽ dùng lực lượng quân sự để cưỡng chiếm Sài Gòn bằng võ lực đây. Trong mọi trường hợp, ông ta xác nhận là Hoa Kỳ không nhìn nhận một chánh phủ Sài Gòn lưu vong.

Thật không còn gì rõ ràng hơn ! dân chúng Sài Gòn chua cay cười khẩy rồi mới chịu tắt máy thu thanh của mình. Kissinger vừa mới viết trên tấm mộ bia của chúng ta :

– “Nước Việt Nam ư ? Đã hết rồi ! Và người ta không muốn nghe nói tới nó nữa ! Cuối cùng Hoa Kỳ đã tìm lại được sự yên ổn trong lương tâm của họ !”

Lúc này tiếng đại bác nổ rền liên tục ở ngoại ô thủ đô Miền Nam Việt Nam, đang có những cột khói tuôn lên cuồn cuộn chung quanh. Cuộc cướp phá hôi của không vì thế mà chấm dứt…. Có nhiều nhóm người có vẻ như tướng cướp, mặc toàn đen hay quân phục kaki, súng M.16 cầm tay, băng đỏ đeo ở cánh tay, đang lang thang khắp thành phố. Đặc công Cộng Sản xâm nhập hay xuất hiện từ bóng tối ? Không phải ! Đó chỉ là bọn vô lại, bọn tự vệ của các khu phố hoặc là bọn côn đồ chuyên nghiệp đang đóng vai tiền sát viên của “lực lượng cách mạng” để đi vơ vét những nhà cửa hay biệt thự không có người ở. Họ tự trang bị rất dễ dàng. Trên các đường phố, các vỉa hè, ở các cống rãnh… đâu cũng có nón sắt, áo giáp chống đạn, cạt-bin và lựu đạn, thậm chí còn có cả súng liên thanh nữa. Hàng trăm xe của người Mỹ bỏ lại chật đường hay trong các khu chung cư, phần lớn đều chỉ còn có cái sườn chơ vơ, không vỏ ruột, không ghế ngồi, không máy móc…

Chung quanh phi trường Tân Sơn Nhất ầm ì tiếng súng của chiến trận đã trở lại từ sáng sớm. Các tiểu đoàn Dù tập trung trên các đường bay đang anh dũng chiến đấu để giúp các phi công cất cánh mang đi được bao nhiêu phi cơ hay bấy nhiêu. Hơn 130 phi cơ và 20 trực thăng đã đến được phi trường Utapao ở Thái Lan, căn cứ B.52 của Hoa Kỳ, ngoài 18 chiếc phi cơ và trực thăng khác đã đến được các chiến hạm của Hạm Đội VII trong các điều kiện mạo hiểm hết sức khó khăn.

Vào hồi 8 giờ sáng, hai tràng đại pháo 152 ly Cộng Sản đánh trúng ngay trường trung học Gia Long, làm cho 12 người chết ngay tại chỗ, trong đó có một vị sư của chùa Xá Lợi ở gần đó. Nhưng đó chỉ là những tràng tác xạ cảnh cáo hay để điều chỉnh mà thôi. Đồng thời lại có một loạt rốc-kết bay xuống thành phố người Hoa ở Chợ Lớn. Một chiếc trực thăng quan sát bị rơi ở ngoại ô Phú Lâm vốn đang bị pháo kích.

Vào lúc 9 giờ sáng, tướng Dương Văn Minh có một phiên họp tại Dinh Độc Lập với ông Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền và ông Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu. Họ vẫn chưa có tin tức gì của phái đoàn đi vào gặp các sĩ quan Cộng Sản ở “trại Davis”, Tân Sơn Nhất. Tướng Minh nhờ hai vị này thảo một bản tuyên bố đơn phương ngừng bắn để lát nữa đây ông sẽ đọc trên đài phát thanh Sài Gòn.

Đã không thấy còn lính gác trước dinh Độc Lập nữa. Bất cứ ai muốn vào đây cũng được.. Một người nhỏ thó, nhưng mập mạp bụng phệ bước qua cửa rào băng qua bãi đậu xe và bước lên bậc thang danh dự. Đó là tướng Vanuxem, một trong những cựu “thống chế” của De Lattre ở Bắc Việt (nguyên tác: Tonkin ), chuyển sang nghề làm báo. Tướng Minh đã từng phục vụ dưới quyền của Vanuxem, đã tiếp ông rất niềm nở và thân mật, rồi kéo ông ra riêng, cảm động nói
– “Thưa Đại Tướng, không còn có gì để làm được nữa rồi ! Để tránh một cuộc tàn sát, tôi sẽ đầu hàng Cộng Sản. Ông là một người lính già, và chúng ta đã từng phục vụ chung trong cùng một bộ quân phục, ông có thể nhận chuyển giùm tôi một thông điệp cuối cùng cho các đồng hương của ông không ?

Tướng Vanuxem ghi vội mấy hàng chữ do tướng Minh đọc cho ông:

– “Chúng tôi yêu cầu nước Pháp tiếp nhận những người Việt Nam từng được nuôi dưỡng và đào tạo trong tinh thần, trái tim và lý tưởng của quốc gia này. “

Sau đó tướng Minh vôi vàng lên xe Mercedes của Tổng Thống để đi đến đài phát thanh.
Hồi 10 giờ 15: tướng Minh loan báo qua đài phát thanh bản tuyên bố của ông “ra lệnh cho tất cả binh sĩ và lực lượng địa phương quân của Việt Nam Cộng Hòa phải bình tĩnh chấm dứt chiến sự và ở đâu ở đó. ”

Khi tướng Minh về đến Dinh Độc Lập, vẫn có 3 chiến xa M.48 của QLVNCH đang bố trí im lặng dưới những gốc cây to trong vườn. Hai sĩ quan trẻ chạy lại gặp Tướng Minh, bực tức la lên:

– “Không thể có vấn đề đầu hàng. Chúng tôi sẽ chiến đấu và sẽ chết tại đây”.

Tướng Minh đưa hai bàn tay to lớn của ông ta nắm chặt vai của họ và nói với họ bằng một giọng rất cương quyết::

– ” Đã quá trể rồi các bạn ơi ! Nếu chúng ta kháng cự thì họ sẽ nghiền nát thành phố bằng đạn pháo”.

Sau vài phút bàn cãi, các sĩ quan này trở lại vị trí và các chiến xa rời khỏi Dinh Độc Lập, chỉ để lại khoảng 30 binh sĩ với nhiệm vụ “cận vệ” cho Tổng Thống.

Vào lúc 11 giở 30, ở ngay trung tâm thủ đô, một vị đại tá lớn tuổi thuộc Cảnh Sát Dã Chiến, trong lễ phục chỉnh tề chậm rãi bước về phía kỳ đài “Chiến Sĩ Trận Vong” trước Quốc Hội VNCH. Đến đó rồi, đứng dưới tượng hình to lớn của hai quân nhân uy nghiêm màu đồng đen, người sĩ quan cảnh sát lột mủ cát kết xuống cầm đặt vào ngay trái tim của mình xong rút súng bắn ngay một phát vào đầu. Ông ta bật té ngữa, nằm dài ra phía sau, bất động trong tư thế nghiêm lần cuối cùng giữa một bãi máu đỏ đang lan rộng ra…..

Tiếng đại pháo của Cộng Sản vẫn tiếp tục nổ dữ dội hơn, càng lúc càng gần hơn, về hướng Tân Sơn Nhất, nơi các chiến binh thuôc binh chủng Nhảy Dù đang đánh một trận chiến cuối cùng.

Trời Sài Gòn đang mưa…

Trong đại sảnh của Dinh Độc Lập, tướng Dương Văn Minh cùng các thành viên trong chánh phủ đang ngồi chờ Cộng Sản tới. Ông ăn mặc thật giản dị, một quần màu chàm đậm và một áo bốn túi. Ông cho người sĩ quan tùy viên biết là : “những người cách mạng không ai đeo cà vạt”
Ông chấp tay sau lưng đi tới đi lui, như một vị chủ nhà đang chờ khách đến. Ông không tỏ vẻ gì lo lắng hết. Tại sao phải sợ ? và sợ cái gì mới được ? Ông đã cho lệnh toàn quân ngừng chiến đấu. Hai điều kiện mà phía “những người cách mạng đã đặt ra: đuổi hết người Mỹ ra khỏi Việt Nam, và giải thể Quân đội và Cảnh Sát thì coi như đã thực hiên. Kể ra ông cũng có thể chạy đi trong giờ phút cuối cùng bằng trực thăng. Nhưng ông thích ở lại để chờ những người đại diện của CPLTCHMN. Xét cho cùng, những người lãnh đạo của “phía bên kia” phải chăng cũng là người Miền Nam như ông ? Tại sao ta không tin họ? Ông sẵn sàng trao quyền lại cho họ. Ngoài chuyện không thể thực hiện cuộc thương thuyết như đã hứa thì ông tin chắc rằng ông đã cứu Sài Gòn khỏi một sự tàn phá và hằng triệu sinh mạng. Và sau đó người Pháp còn có thể thực hiện được một phép lạ! Tướng Minh bám chặt cho đến cùng những bảo đảm mà đại sứ Jean – Marie Mérillon đã trao cho ông. Vài phút trước đó, ông đã có nói thật câu này cho một nhà báo thuộc thông tấn xã A.F.P : “Ông hãy nói rõ cho Đại Sứ Pháp biết là ông đã có thấy tôi ở đây…”

Một lời nói sau cùng có ý nghĩa, thống thiết, nhưng hỡi ôi ! không có một chút giá trị nào !

Thình lình, tướng Minh giật nẩy người. Ông nghe một tiếng động lớn, xen lẫn với tiếng xích xe. Ông nhìn đồng hồ: Đúng 12 giờ 4 phút. Vài phút đã trôi qua. Tiếng máy xe càng ngày càng nghe to hơn. Đúng 12 giờ 10 phút, ba chiếc xe tăng T.54 cán dẹp những hàng rào cản sơn màu trắng đỏ bao quanh Dinh Độc Lập. Họ bắn chỉ thiên một tràng dài, ủi sập cánh cổng lớn và cán lên trên và tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, cày bừa lên các bãi cỏ trong sân. Hai chiếc xe Jeep và một xe vận tải chạy đến, qua mặt các chiến xa. Tất cả đều mang cờ của CPLTCHMN, (cờ của MTG MN xanh đỏ với ngôi sao vàng ở giữa). Trên 15 anh “bộ đội”, mặc quân phục xanh và đội nón cối súng trường cặp nách chỉa tới trước, có một sĩ quan cấp tá dẫn đầu, đang rầm rập chạy lên các bậc thang trước bao lơn chánh.. Toán binh sĩ gác Tổng Thống Phủ đã để súng xuống thành một đống trên sân từ trước, đưa hai tay lên và đầu hàng…

Một vài phút nữa trôi qua. Trên sân thượng của Dinh Độc Lập xuất hiện một số lính với quân phục màu xanh. Họ hạ cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH xuống và từ từ kéo lá cờ của họ lên.

Trong lúc đó, vị sĩ quan cao cấp được 4, 5 chú bộ đội súng ống đầy mình hộ tống, ập vào đại sảnh, nơi mà tướng Dương Văn Minh đang hội họp với những người cộng sự viên thân cận Nhất của ông ta. Thấy vị sĩ quan này đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội nhân dân Miền Bắc, nên tướng Minh tưởng rằng mình đứng trước một sĩ quan cao cấp.

– “Thưa ông quan sáu (nguyên tác : mon général) ông nói, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông”

– “Mày dám nói là trao quyền hả ?, vị sĩ quan này dùng danh từ “mày” (nguyên tác :tutoyant le Grand Minh) xẵng giọng cãi lại- Mày chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mày không có quyền nào để giao cho tao hết. Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng trên tay. Tao xác nhận với mày tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá và ủy viên chánh trị. Và kể từ bây giờ tao cấm mày không được ngồi xuống !”

Mặt tướng Minh co dúm lại. Sự hung bạo của những lời nói, giọng nói đầy khinh bỉ đanh đá của vị sĩ quan chợt làm cho ông Minh hiểu rõ là ông không gặp được những người của CPLTCHMN, nhưng là những người Bắc Kỳ (nguyên tác :Tonkinois). Mặc dù họ treo cờ Việt Cộng trên xe, nhưng không phải là những binh sĩ người Miền Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống. Mà đang đứng trước mặt ông là những chiếc xe tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc Việt thuộc lữ đoàn M. 26 ! chỉ toàn là người Bắc (nguyên tác :Tonkinois) mà ông không bao giờ ưa và họ đã đối đãi với ông không như bạn hay đồng bào, mà như một kẻ thất trận !

Tướng Minh cố gắng tự kềm chế và nói tiếp bằng một giọng mà ông muốn dịu dàng hơn:

– ” Chúng tôi đã có làm sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua…

Vị trung tá Bắc Việt ngăn ông lại và xẳng giọng:

– “Mày và những đứa khác, tụi bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ cái bếp tư sản của mày lại đi. Chúng tao sẽ ăn cơm dã chiến: một nắm cơm nắm và một hộp thịt kho mặn”
Tất cả các tổng trưởng hiện diện đều bị nhốt trong một gian phòng, sau khi đã được khám xét không khoan nhượng. Bây giờ thì Dinh Độc Lập đầy ấp nhà báo ngoại quốc. Họ tràn tới đầu các chiếc T.54.

Tướng Minh bị những tên “bộ đội” bao quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ quan cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi dưới hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh và máy quay phim của báo chí. Những người Cộng Sản đưa ông đến đài phát thanh để ông phải lên tiếng kêu gọi lần chót với các binh sĩ còn đang tiếp tục chiến đấu. Vì chiến trận vẫn còn tiếp diễn gần như khắp nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn, chung quanh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền tin Phú Lâm,…

Vào hồi 13 giờ, tướng Minh được đưa trở về Dinh Tổng Thống và bị nhốt trong một văn phòng ở dưới tầng hầm.

Thế là nhiệm vụ của ông coi như đã hoàn tất. Một nhiệm vụ đặc biệt rất là ngắn ngủi. Không đầy 48 tiếng đồng hồ, giữa giờ nắm chánh quyền và giờ bị cách chức…

***

Trên đại lộ từ vườn bách thảo đến Dinh Độc Lập, có nhiều chiếc tăng khác đi tới, dính đầy bụi bậm bùn sình hòa lẫn với cơn mưa lắc rắc và trên xe còn nguyên cành lá nghi trang. Tất cả các pháo tháp đều mở toang ra. Phía sau các khẩu liên thanh nặng với ổ đạn tròn, thấy có một anh lính chiến xa đội nón cối bằng da đen đang ghì chặt bàn tay vào cò súng. Binh sĩ ngồi hai bên khẩu đại bác lòng dài, hai tay nắm chặt khẩu súng tự động của họ. Theo sau các chiến xa là bộ binh cơ giới, đứng chật nít trên các xe vận tải Molotova của Nga. Phía sau các xe bộ binh là các dàn súng cao xạ, đi hàng ba, cũng được cơ giới hóa và trang bị mỗi xe 4 khẩu liên thanh ghép.

Rất là cẩn thận và thật chậm rãi, nhiều toán bộ binh Cộng Sản đi bộ vào đường Pasteur. Có một tràng súng nổ khoảng ngang Tòa Án. Rồi có tiếng lựu đạn nổ, tiếng súng máy từng hồi tiếp theo. Các “bộ đội” đi vào đường Tự Do (Catinat), con đường nổi tiếng là xa hoa của người dân Sài Gòn. Một chiếc xe Jeep chở đầy “lính du kích” với quân phục tạp nham, chạy một vòng chung quanh kỳ đài chiến sĩ Miền Nam và chạy lại trụ sở Quốc Hội. Cửa của trụ sở đang được đóng kín. Có một người mặc quần xanh áo sơ mi ka-ki đã phai màu chân không, leo qua rào gỡ lá quốc kỳ Miền Nam Việt Nam xuống và treo vào đó lá cờ của CPLTCHMN.

Chung quanh Quốc Hội và đường Tự Do vắng tanh, không có một bóng người. Các tiệm buôn đều đóng kín cửa kể cả cửa sổ cũng sập xuống. Không có một bó hoa hay những tiếng vỗ tay hoan nghinh chào đón những người “giải phóng”

Xa xa, các súng đại liên vẫn còn tiếp tục nổ ròn, thỉnh thoảng lại bị ngắt khoảng bằng những tiếng nổ ngắn nhưng nặng nề. Các binh sĩ Dù đang còn hăng say chống giữ lối vào phi trường Tân Sơn Nhất. Sáu chiến xa T.54 và hơn một chục chiếc Molotova đang bốc cháy trên các đường bay. Cuộc chiến còn đang tiếp diễn tại nghĩa trang lớn của quân đội giữa những hàng thập tự giá trắng tinh dọc theo các mộ, và có những quả đại pháo làm bật tung các hòm lên.
Các xe tăng Cộng Sản đầu tiên vào Sài Gòn từ hướng Đông theo con lộ cũ hồi thời Pháp, và theo xa lộ Biên Hòa từ thời Mỹ.

Các cánh quân tiến vào từ Bến Cát và Tây Ninh theo hướng Bắc xuống, chỉ đến được trung tâm thành phố vào lúc 17 giờ chiều. Họ đến trễ vì bị đụng nặng từ chiều ngày hôm qua ở vùng Hóc Môn, nơi có trung tâm huấn luyện Nhảy Dù do Lữ đoàn 4 Dù trấn giữ, tập trung dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, một sĩ quan to con đen sạm đã từ chối không chịu tuân theo lệnh ngưng bắn. Các cánh quân này của Bắc Việt bị thiệt hại rất nặng và sau đó còn phải giao chiến ác liệt ở hai điểm trong đường phố: một ở trước Bộ chỉ huy Cảnh Sát Lưu Thông, nơi đó hơn một trăm Cảnh Sát dã chiến chống giữ gần một tiếng đồng hồ trước khi bị chiến xa Cộng Sản đè bẹp; và một nơi khác ở ngay ngã tư đường Chasseloup và đường Verdun, ở đây chỉ có vỏn vẹn 4 anh lính Dù với súng liên thanh và súng không giật đã quyết chiến trong hơn 50 phút, bắn cháy nhiều quân xa Cộng Sản, sau đó vì hết đạn 4 vị anh hùng mũ đỏ này cùng nhau ra khoảng trống giữa đường, cùng nắm vai nhau thành một vòng tròn và cho nổ một xâu mấy quả lựu đạn để cùng nhau tự sát.

Lữ đoàn 4 Nhảy Dù, đã đánh nhau với Cộng Sản chung quanh Tân Sơn Nhất, ngay trong Bộ Tham Mưu, ở đó họ dùng súng không giật bắn cháy 3 chiến xa Cộng Sản và tối đến họ rút về trong trật tự bằng con đường cũ kỹ của đồn điền cao su để về Chợ Lớn. Họ không hề để lại phía sau một người chết hay bị thương nào cũng như một quân trang quân dụng nào.

Đến chiều tối, 400 binh sĩ mũ đỏ, rút về từ Hóc Môn và từ phi trường, đã tập họp chung quanh Đại Tá Vinh, còn tiếp tục chiến đấu ở khu chợ và các nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn. Và lúc 22 giiờ đại tá Vinh cho lệnh họ phân tán thành từ toán nhỏ, và lợi dụng đêm tối để đi về đồng bằng sông Cửu Long. Riêng vị đại tá Dù, một người đã từng “nhảy” ở chiến trận không biết bao nhiêu lần, già dặn, đã từng được đào tạo ở Trung tâm Nhảy Dù Pau của Pháp trong thập niên 50, không bao giờ chịu đầu hàng. Ông đã tự cho nổ một phát vào đầu bằng chính khẩu súng phóng lựu của ông !

***

Thứ Năm, ngày 1 tháng Năm, 1975

Ngày hôm sau, 1 tháng 5, dân chúng Sài Gòn ngơ ngác và nhốn nháo, quá ngạc nhiên tại sao mình vẫn còn sống, đã điện thoại với nhau để cùng biết tin tức của nhau.

Trước tiên trong buổi sáng, có nhiều nhóm nhỏ, rồi lần lần đông hơn, họ đi ra khỏi nhà để khám phá những trung đoàn binh sĩ với quân phục xanh lá cây đã vây hãm thành phố của mình đêm qua. Mấy anh binh sĩ với bộ mặt ngờ ngệch, gầy đến hai gò má nhô cao, mặc quân phục rộng thùng thình bằng vải bố thô, cổ quàng khăn và chân mang dép râu, một loại dép làm bằng vỏ xe cũ, mới thoạt nhìn trông như những anh nhà quê vụng về mới vào thành phố lớn lần đầu tiên. Có nhiều anh chưa tới 16 tuổi.

Ở bãi cỏ rộng lớn rợp bóng mát trước Dinh Tổng Thống người ta thấy đầy những xe tăng, xe chạy xích, và những chú “bộ đội” đang ngồi quanh dưới các chiến cụ đáng sợ của họ. Và giữa những bãi cỏ gần nhà thờ Chánh Tòa, họ đang nấu cơm bằng củi, coi như họ đang cắm trại trong rừng vậy. Có nhiều người đang giặt quần áo. Phần đông họ đang soát lại vũ khí cá nhơn, tháo ra lau chùi cẩn thận như những anh thợ đồng hồ. Các binh sĩ thì xài súng A.K. 47 hay súng tiểu liên Tiệp Khắc ngắn mà tốc độ tác xạ nhanh, bá xếp có móc. Sĩ quan thì xài súng lục của Liên Xô, có tên là súng lục Ma Ca Rốp (Makarov) và loại súng lục Stechkin lớn hơn, vỏ bằng cây có thể ráp lại thành bá súng để đưa lên vai nhắm bắn một mục tiêu xa chừng 120 thước được.
Người dân Sài Gòn cẩn thận bước lại gần các chiến xa “Molotova” và bắt chuyện với các anh “bộ đội”. Họ tò mò hỏi

– ” Các anh từ đâu vô đây vậy ?

Các câu trả lời lúc nào cũng giống nhau, với một giọng phát âm hơi chói tai:

– “Từ ngoài Bắc…

Và ngay sau đó mới là tên của thành phố hay các tỉnh như Hà Nội, Nam Định, hay Ninh Bình v.v…

Không còn chút nghi ngờ nào nữa, tất cả những anh lính chánh quy vào Sài Gòn là những người Bắc (nguyên tác Tonkinois). Miền Nam không phải được giải phóng, mà là bị chiếm !
Không thấy có một anh nào thuộc cái CPLTCHMN.

Một “Ban Quân Quản” đang nắm quyền hành chánh tại thành phố Sài Gòn, mà người chỉ huy là tướng Trần Văn Trà, 57 tuổi, người tuy gầy nhưng rất mạnh khỏe, hàm rộng, đôi mắt sắc bén mang kính gọng sừng, tóc đen và hớt ngắn. Tướng Trà là người ở Miền Trung, một người đấu tranh cách mạng già dặn, đảng viên đảng Cộng Sản Đông Dương, bị tù năm 1939, vượt ngục năm 1944. Từ năm 1946 đến 1951 ông là người đứng ra phối hợp hoạt động của 4 vùng quân sự Việt Minh ở Miền Nam để chống lại lực lượng viễn chinh Pháp. Từ sau Hiệp Định Genève, ông tập kết ra Hà Nội và trở thành Tổng Tham Mưu Phó “Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt” và sau đó là Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương ở Miền Nam. Ông cũng còn là Ủy viên dự khuyết cùa Chánh trị Bộ Cộng Sản ở Hà Nội. Vào năm 1968, ông đã tổ chức cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, và năm 1972, chỉ huy trận tấn công vào An Lộc. Từ sau thời kỳ đó ông đứng vào hàng thứ ba trong hệ thống quân ủy của Miền Bắc, sau tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Văn Tiến Dũng. Vào đến Sài Gòn vào đầu buổi trưa, ông đến ngay Dinh Độc Lập. Ông cho tổ chức ngay buổi lễ chánh thức “bàn giao quyền hành”, xử dụng đội ngũ quay phim của Cộng Sản trong công tác thu hình để tuyên truyền, và ra lệnh thả tướng Minh và các tổng trưởng của ông này ra hết.

Đến 4 giờ 30 chiều, tướng Minh rời khỏi phòng giam ở tầng dưới. Ông bước lên bao lơn chánh của Dinh Tổng Thống lúc nào cũng có lính canh chừng hộ tống bên cạnh, đi dọc theo hành lang có trải thảm đỏ để vào căn phòng nhỏ của các tùy viên. Một sĩ quan Bắc Việt đến nói với ông :
– “Ông hãy ở đây đợi lệnh của chánh quyền cách mạng ”

Các nhà báo “xã hội chủ nghĩa” bước vào phòng. Người phóng viên của nhật báo “Quân đội Giải Phóng” đến trước mặt tướng Minh và hỏi ông :

– ” Ông nghĩ thế nào về những biến cố mà ông vừa trải qua “?

Tướng Minh giữ im lặng trong một vài giây…. sau đó mới trả lời, không quên dùng toàn những danh từ mà Cộng Sản thường hay xử dụng trong tuyên truyền:

– ” Chúng tôi đã ý thức được sức mạnh của chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời và của Quân đội Giải Phóng. Các đơn vị Thiết Giáp của Giải Phóng Quân thật là hùng mạnh. Quân đội Sài Gòn không cón lực lượng để chống trả nữa. Chỉ còn một quyết định đúng nhất là đầu hàng không điều kiện mà thôi. “

Và ông còn nói tiếp

– ” Thật vậy, chúng tôi tin tưởng các ông, nếu không thì chúng tôi không bao giờ đem cả gia đình chúng tôi đến đây để chờ các ông tới. Các ông đã đi đến chiến thắng một cách nhanh chóng. Chúng tôi rất là có phước, thật sự rất là có phước. Chúng tôi và gia đình chúng tôi không hề hấn gì. Thật là cả một niềm an ủi và một niềm vui.”

Ông Nguyễn Văn Huyền, người lãnh tụ giáo dân, quá mệt mỏi, được phép vào nằm nghỉ trong phòng. Để trả lời cho các nhà báo muốn biết “ý kiến của ông về đường lối chánh trị của chánh phủ cách mạng”, ông đã trả lời nước đôi với một giọng nhẫn nhục và dè dặt :

– “Chúng tôi không chấp nhận các “người di tản”. Là người Việt Nam thì họ phải ở lại sống trên đất nước quê hương của mình chớ?”

Ông Vũ Văn Mẫu, vị cựu Thủ Tướng thì tươi cười, nhảy nhót và bày tỏ một niềm vui nhiệt thành ra mặt:

– ” Các anh đánh hay lắm, đánh rất là hay !” ông hướng về các anh cán bộ Bắc Việt đứng lẫn trong các nhà báo. Tôi rất bằng lòng là đã đuổi hết người Mỹ đi. Bây giờ thì chỉ có chúng ta với nhau mà thôi”.

Ông nhắc lại lịch sử của cái “đầu trọc” của ông, “vào lúc đó là một dấu hiệu để phản đối sự bầu cử Tổng Thống gian lận và độc diễn của ông Thiệu”, và ông thích thú nói thêm :

– “Từ hôm nay là tôi sẽ để tóc lại được rồi!”

Sau đó ông còn nói về nơi chôn nhao cắt rún của ông lá quận Thường Tín của ông ở phía Nam Hà Nội nữa.

Ông Nguyễn Văn Hảo, cựu Phó Thủ tướng và Tổng trưởng Kinh Tế đưa tay lên và nói lớn

– ” Thật là đáng phục là các anh đã đánh bại được Hoa Kỳ, chúng tôi hy vọng là tất cả tài nguyên cửa đất nước sẽ được dùng để xây dựng đất nước chúng ta.”

Ông Lý Qúy Chung, cựu Tổng trưởng Thông Tin, nhắc đi nhắc lại nhiều lần ;

– “Chỉ có những binh sĩ và những người chỉ huy của quân đội cách mạng mới thật sự là những người chiến thắng. Sự đóng góp của chúng tôi thật là quá nhỏ nhoi.”

Và sau vài phút suy nghĩ ông lại nói thêm :

– ” Chúng tôi biết rất rõ tình hình. Chúng tôi tin tưởng ở dường lối chánh trị của cách mạng. Cuộc chiến thắng vĩ đại này thuộc về toàn dân Việt Nam. Từ đây về sau chúng tôi không còn một chút bận tâm lo nghĩ gì nữa. “

Nhìn qua cửa sổ thấy đám đông dân chúng tò mò đang tập trung đứng nhìn cánh cửa rào của Dinh Độc Lập bị xe tăng T.54 cán sập, ông ta phân chứng với các nhà báo:

– ” Các ông xem kìa, dân chúng đang chạy lại để chào mầng chiến thắng của các anh chiến sĩ giải phóng đó. Chưa từng thấy cái cảnh này ở đây bao giờ. Lịch sử của nước Việt Nam đã bước vào một kỷ nguyên mới “

Vào lúc 5 giờ chiều: trong đại sảnh của Dinh Tổng Thống đã diễn ra cuộc gặp gỡ chánh thức giữa những người đại diện của Ban Quân Quản Sài Gòn – Gia Định và “16 nhân vật trách nhiệm của chế độ cũ” ở Miền Nam. Thứ tự ngôi thứ được áp dụng triệt để nghiêm túc. Những đại diện của Ban Quân Quản và những vị chỉ huy đơn vị của Quân đội Nhân Dân Bắc Việt (11 tướng tá) được xếp ngồi ở hàng ghế danh dự, các ghế dựa có bọc lụa đỏ. Trước mặt họ là tướng Minh và những thành viên khác của “cơ quan hành chánh cũ” hai tay phải úp xuống đầu gối của mình.

Một đại diện của Ban Quân Quản thông báo cho họ là chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời đã quyết định cho phép họ được tự do trở về nhà. Ông bày tỏ hy vọng là tùy theo khả năng của mỗi người họ sẽ “đóng góp” vào công tác xây dựng đất nước.”

Các vị tổng trưởng và tướng Minh “cảm động” vỗ tay.

Tướng Minh sau dấu hiệu gật đầu của tướng Trà, đứng dậy và bước tới micro và tuyên bố với một giọng run run :

– ” Tôi xin thành thật gởi tới CPLTCHMN và lực lượng thuộc Quân đội Nhân Dân Giải Phóng những lời chúc mừng nồng nhiệt về chiến thắng hoàn toàn và quyết định vừa qua.

Ở vào tuổi 60, tôi rất là hạnh phúc được trở về với đời sống của một công dân thường của một nước Việt Nam thật sự tự do và độc lập.” (1)

Cả chương trình và diễn tiến của buổi lễ này đã được dàn dựng chi ly từ Hà Nội và được các chuyên viên đưa từ Hà Nội vào để quay thành phim từ đầu cho đến cuối. Cuốn phim này được trình chiếu trong tất cả các rạp hát trên toàn quốc Việt Nam và ở những nước “xã hội chủ nghĩa anh em”

Trong những ngày kế tiếp, các binh sĩ chánh quy Bắc Việt thuộc các sư đoàn đã đánh vào Sài Gòn được phép đi dạo thành phố. Thủ đô Miền Nam Việt Nam và mặt tiền của thành phố với các tiệm nữ trang, hàng sơn mài, hàng sành sứ và đồ cổ, cả tiệm cà phê với hai bên vách toàn kiếng, với các chợ đầy ấp mọi loại thực phẩm, thức ăn… đã làm cho các chú “bộ đội” chóa cả mắt mũi và quá đỗi ngạc nhiên. Tất cả các binh sĩ này đều đã in trí rằng mình phải “giải phóng” một thành phố đói nghèo đang bị áp bức bóc lột, nhưng họ phát giác ra đây là một thành phố lớn ở Miền Nam, giàu có, linh hoạt, hạnh phúc, chỉ bị ảnh hưởng một ít thôi về chiến tranh. Các anh “bộ đội” trẻ đi phép này đi dạo từng cặp hai người một, bàng hoàng choáng váng vì sự lưu thông ở đây, dán mắt khắp các tủ kính đầy ngạc nhiên như những anh chàng nhà quê cục mịch. Các bác “phó nhòm” chụp hình lấy liền bằng máy Polaroid trên đường phố làm họ càng sửng sốt hơn đến câm lặng không nói được một lời nào. Họ đi lẫn vào các đám đông dân chúng, để thử cố gắng bắt chuyện với họ, cố mỉm cười để tỏ ra là người có lễ độ.

Yên chí với tính trẻ con dễ dãi của các “anh” người Bắc, người dân bé nhỏ và không có chánh phủ của thành phố lớn này hội nhập rất mau với những người chủ mới. Lực lượng chiếm đóng bị đưa vào tròng ngay: trộm và đổi chác vật dụng, từ hộp thực phẩm khẩu phần qua những bao đường, đến những chuyện hút xăng ra từ các chiến xa hay các xe vận tải, buôn đủ mọi thứ: tất cả các anh “bộ đội” đi phép đã nhanh chóng không còn đồng nào trong túi, miễn là có được chiếc đồng hồ bằng nhựa không chạy được, đôi kính chống nắng của Mỹ, chiếc máy thu thanh bán dẫn vừa mới đánh cắp đâu đó. Người ta còn bắt họ hút thuốc cần sa mà họ vẫn không biết…

Những chú khác thì bị sắc đẹp của mấy cô gái ăn sương mê hoặc, bị cám dỗ đưa vào các phòng ngủ qua đường để rồi vài ngày sau lũ lượt kéo nhau vào khám bệnh hoa liễu.

Các xe mô tô của Nhật thì quá thành công. Các chú “bộ đội” đèo nhau từng hai người, ba người, có khi đến bốn người chạy bất kể, nổ máy liên hồi, báng vào các lề đường, đôi khi tông vào cột đèn hay tuông vào bồn nước lớn ở đại lộ Charner.

Người dân Sài Gòn dứt khoát nghĩ rằng các chú “bộ đội” này quả thật quá vụng về dễ bị “quay” lắm.

Nhưng trò chơi “láu lỉnh” này không đứng mãi lâu được.Có nhiều xe phóng thanh bắt đầu chạy khắp nơi trong thành phố cảnh cáo rằng trò “lừa bịp” các “giải phóng quân” là bất lương…. và hành động bất lương đó sẽ bị “nghiêm trị”

Biện pháp ngăn chận đầu tiên nhắm vào các “chủ trương quyến rũ, hủ hóa và mua bán đổi chác”, Ban Quân Quản loan báo là “các nhà thổ, các tiệm hút, các tiệm nhảy, bài bạc, kể cả mọi tàn tích của xã hội suy đồi của Mỹ.Ngụy. bị cấm hẳn từ đây”.

Cứ mỗi 5 ngày là binh sĩ trú phòng sẽ được thay đổi. Không còn thấy xăng lẻ bán ở lề đường nữa. Xe Honda cũng vậy. Lượng xăng cạn dần và không còn được tiếp tế cho nữa, nên các trạm xăng tuần tự đóng cửa. Xe đạp bắt đầu thay thế xe mô tô. Trên tường treo đầy các tấm bảng ghi rõ là sẽ nghiêm trị thật nặng những ai còn tàng trữ vũ khí, đạn dược và máy truyền tin.

Ngày 4 tháng 5, có lệnh cho dân chúng Sài Gòn phải làm công tác vệ sinh và treo cờ trong thành phố để cho thành phố của mình “trở nên sạch sẽ, tinh khiết, vui vẻ và cách mạng.” Tất cả mọi người đều phải ra quét dọn trước nhà mình. Có những người “tình nguyện” thì đi hốt hàng đống rác hôi thối còn nằm trên lề đường hay trong các cống rãnh từ bao nhiêu ngày nay. Các bà thì lo may cờ “giải phóng”. Dân chúng ở các khu nghèo là những người ít vội vàng trong việc treo “cờ cách mạng”: cờ bán quá mắc, từ 1500 đến 1800 đồng một lá (bằng tiền công 3 ngày làm việc)

Ngày 6 tháng 5, “nhân dân” đập nát tượng đài chiến sĩ Việt Nam trước Quốc Hội : đó là 2 anh chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến đang trong tư thế xung phong súng chĩa tới trước mặt. Tượng đài sập xuống gây nên một tiếng vang lớn.

Ngày 7 tháng 5, tức là một tuần lễ sau ngày thành phố đổi chủ, Ban Quân Quản mới ra mắt lần đầu tiên với dân chúng ở tại Dinh Độc Lập. Từ chiều hôm qua, người dân Sài Gòn được mời đến đứng ở bãi cỏ trước Dinh, ở đó họ sẽ vỗ tay hoan nghênh những người lãnh đạo mới của mình. Không biết vì không có thiện ý hay vì trời xấu (mưa suốt đêm qua) mà sáng nay không có bao nhiêu người đến dự. Những người lạc quan thì ước tính sẽ có khoản từ 20 đến 25 ngàn người. Và còn hơn thế nữa vì một phần lớn cử tọa phải được tính là các anh “bộ đội” mặc quân phục. Đối với một thành phố có 4 triệu dân thì con số ước tính đó không có là bao. Đối với một thành phố được “giải phóng khỏi 30 năm bị áp bức bóc lột” thì con số đó gần như không có nghĩa gì hết. Trên bao lơn tướng Trà chánh thức đọc một bài diễn văn đầu tiên. Đám đông giương các biễu ngữ và vẫy các lá cờ nhỏ. có quân nhạc và có tiếng vỗ tay…

Nhưng thật quá rõ ràng là không thấy có niềm vui nào ở đây hết. Các ủy viên chánh trị cố sức nhấn mạnh từng khẩu hiệu qua ống loa cầm tay của họ, nhưng không thấy được nồng nhiệt những tiếng hô theo. Nhìn chung, người ta thấy rõ là khán giả Miền Nam còn chưa có khả năng trả bài thuộc lòng đối với những khẩu hiệu quá mới mẻ.

Ngày hôm sau, 8 tháng 5, tất cả 54 rạp chiếu bóng ở Sài Gòn cùng phải chiếu một cuốn phim duy nhất :”Trận chiến Điện Biên Phủ”.

Qua hình ảnh cũ từ hơn 21 năm, khán giả Việt Nam thấy hằng ngàn binh sĩ Pháp thất trận đang đi ra khỏi hầm trú ẩn, hai tay đưa lên trời. Một chút lịch sử được nhắc lại không đủ khả năng làm vẫn đục tâm hồn thanh thản của các nhà ngoại giao Pháp đang mài miệt bênh vực cho đường lối chánh trị vĩ đại của họ là “tình hữu nghị giữa Ba Lê và Hà Nội”. Nhưng nó gây khó chịu sâu đậm cho những người công dân Pháp hiện còn đang bị kẹt lại ở Sài Gòn.

Các nhà báo ngoại quốc được mời đến dự buổi họp báo đầu tiên của Ban Quân Quản. Và cũng là một cuộc họp báo cuối cùng ! Bài nói chuyện của tướng Trần văn Trà được một thông dịch viên dịch ra tiếng Anh và ông đã trình bày quá dài dòng, chán ngắt về công tác vãn hồi trật tự và an ninh, về sự biết ơn đối với các “quốc gia xã hội chủ nghĩa anh em” đã đóng góp vào chiến thắng. Mạc Tư Khoa được nghe nhắc đến nhiều lần, còn Bắc Kinh thì chỉ nghe nói phớt qua.

Các nhà báo trong tuần qua đã cố tìm, nhưng vẫn không hy vọng không gặp được một người đại diện nào của CPLTCHMN. Họ đã lên tiếng hỏi tướng Trà về “sự vắng mặt không thể giải thích được của chánh phủ Lâm Thời này”.Tướng Trà cười trừ, trả lời xoay quanh để thoát khỏi ngỏ bí :

– ” CPLTCHMN đang ở trong Miền Nam Việt Nam nhưng tôi không muốn nói với các anh là họ ở đâu.”.

Thật là quá lạ lùng cho cái chánh phủ Lâm Thời này !, không thấy mà cũng không thể tìm thấy, như thế là tính cách bí mật vẫn tiếp tục một cách lạ lùng khi mà chiến tranh đã chánh thức chấm dứt rồi !

Đã từ lâu rồi, chúng tôi không còn tin theo những lời hứa hẹn mà Hà Nội đã từng lớn tiếng tuyên truyền. Bộ mặt thật của “một Miền Nam trung lập được giải phóng khỏi sự kềm chế của ngoại bang”…. hôm nay mới được thấy rõ. Chúng tôi cũng biết là xã hội chủ nghĩa không thể áp dụng ngay được ở đây… Miền Nam là Miền Nam… Chúng tôi luôn nghĩ tới tính cách cá biệt của Miền Nam. Trước hết phải thành lập tại Sài Gòn một chánh phủ đoàn kết quốc gia để hòa giải tất cả mọi công dân chung quanh một chương trình tối thiểu nào đó. Sự thống nhất hai Miền rồi cũng sẽ tới sau này…. nhưng phải dưới hình thức một “Liên Bang”. Những ai đã từng gắn bó quá ngây thơ trong trắng vào một sự hòa giải quốc gia tự nhiên giữa những người anh em Miền Bắc và Miền Nam với nhau… bây giờ mới cay đắng biết rõ đó chỉ là một ảo tưởng.. Còn những ai hy vọng có thể nói chuyện với “phía bên kia” thì bây giờ đây họ còn đang đi tìm những người đối thoại với họ.

Vào những ngày cuối cùng trước khi mất Miền Nam Việt Nam, các quan sát viên quốc tế đều ghi nhận là có một “khoảng trống chánh trị ” ở Sài Gòn.

Ngày hôm nay thì Sài Gòn không còn là một “khoảng trống chánh trị” nữa mà là một “bãi sa mạc chánh trị” nơi đó những “con ma” của CPLTCHMN được chờ đợi như một ảo tưởng. Thật vậy, cái CPLTCHMN đã từng bị tàn sát trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân (1968) chỉ là một con chim mồi không hơn không kém, cũng giống như cái gọi là “lực lượng thứ ba Việt Nam không Cộng Sản”… tất cả đều không ai nắm bắt được hết, và cũng không thể đại diện cho ai hết, nhưng chánh sách ngoại giao Pháp đã quá khờ dại dựa trên đó để đặt niềm hy vọng bảo vệ quyền lợi của nước Pháp. Không còn nghi ngờ gì nữa, quyền hành thật sự đang ở trong tay của Quân đội Nhân Dân Bắc Việt. Và tướng Trần Văn Trà người “chủ” mới của Sài Gòn cũng chỉ là một công cụ của quyền hành đó mà thôi.

Vào ngày thứ năm 15 tháng 5, một cuộc diễn binh rầm rộ đã nói lên sức mạnh quân sự của những kẻ thắng trận. Dẫn đầu, đi sau một con rồng đỏ đang uốn khúc tượng trưng cho niềm vui và hạnh phúc, là các em nữ sinh rất ngoan với quần đen áo dài trắng, rồi đến các phái đoàn dân chúng mang biểu ngữ nhăng nhít đầy khẩu hiệu. Sau đó đến các trung đoàn thép của Bắc Việt đi thành một khối :các “bộ đội đi hàng mười, có bước đi như ngỗng”, súng mang choàng qua cổ, mặt lạnh lùng. Kế tiếp là các chiến xa đi thành hình vuông, đồ sộ, ồn ào, các xe ra đa, các thiết giáp xa và hàng trăm khẩu pháo binh cơ giới hóa, và những giàn hỏa tiễn. Tất cả pháo binh Liên Xô ghê gớm đó lẽ ra đã bắn 70.000 quả đạn (3000 cho mỗi khu) và 6000 quả rốc-kết để nghiền nát thành phố, nếu thành phố này không đầu hàng.

Đó là một cuộc trình diễn vĩ đại của chiến xa T.54, của hỏa tiển S.A.M. 6 và S.A.M. 7… những chiếc “Kalachnikov”, những chiếc “Molotova” và những cỗ pháo 130 ly kinh hoàng. Các phi cơ Mig 19 và 21 gầm rú trên bầu trời. Nhưng điều phải thấy trên hết và được thấy trước nhất phải là : chiến thắng của những người Bắc Việt (nguyên tác: Tonkinois). Ở giữa rừng người đang liên tiếp đi tới như những làn sóng lớn… họa hoằn chịu khó lắm người ta mới nhận thấy được một vài xe vận tải chở đám “du kích quân” của “MTGPMN” và một xe Jeep chở nữ binh mặc đồ đen và đội nón “tai bèo” nhỏ.

Các hàng ghế danh dự trên khán đài được dành cho phái đoàn 12 “anh lớn” dẫn đầu là 3 nhà lãnh đạo trong Chánh Trị Bộ Cộng Sản : ông Tôn Đức Thắng, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ông Lê Đức Thọ, và tướng Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng quân đội Bắc Việt.
Chủ Tịch Tôn đức Thắng hôm nay phải là người có một niềm vui thật lớn. Ông gốc người Miền Nam, sanh ở Long Xuyên, 85 tuổi, từng là một người nổi loạn ở Hắc Hải, một người thợ điện cũ của hãng Renault, nay là một lão trượng mệt mỏi và gần như điếc, được huân chương Lénine, là một người đã có một quá khứ đấu tranh cách mạng hơn nửa thế kỷ. Vào năm 1927, chính ông là người đã thành công trong việc đánh cướp đầu tiên cho đảng Cộng Sản Đông Dương trên đường sông khi ông cầm đầu một toán đeo mặt nạ dùng súng lục chận cướp chiếc tàu đò Mỹ Tho. Ông bị bắt và bị kết án tử hình năm 1929, sau đó được ân xá giảm án xuống còn 16 năm tù giam ở Côn Đảo trước khi vượt ngục năm 1945 để tiếp tục cuộc đấu tranh,
Ông Lê Đức Thọ, một thương thuyết gia bền bỉ của Hiệp Định Ba Lê và lý thuyết gia của đảng Cộng Sản Việt Nam, là một nhân vật được biết nhiều ở Tây phương.

Tướng Văn Tiến Dũng, người chiến thắng trong cuộc tổng tấn công khắp Miền Nam, là người chỉ huy của tất cả lực lượng vũ trang Bắc Việt từ sau khi tướng Võ nguyên Giáp bị lu mờ (2). Người béo lùn, cương nghị và bí mật, tướng Dũng là một người Bắc Việt chính cống, gốc ở tỉnh Nam Định giàu có. Là một người từng tham gia hết mọi chiến trận, cựu quân ủy trung ương, một người Cộng Sản trung kiên và một chủ chiến không chối cãi được.. ông là một trong những nhân vật lãnh đạo chủ chốt của chế độ Hà Nội.

Ông không quá kiêu ngạo và với một trình độ văn hóa kém hẳn ông Võ Nguyên Giáp, con người tự học bền bĩ này đã chuẩn bị hành động có tính cách quyết định số phận của Miền Nam. Ông là người đã thành lập một sư đoàn đặc công để thi hành một trọng trách là làm tan rã hệ thống tiếp vận của địch quân, và là người đã biết xử dụng hợp đồng binh chủng giữa chiến xa và pháo binh của mình một cách toàn hảo.

Sự có mặt của ba nhân vật này ở Sài Gòn đã mang lại cho buổi lễ “giải phóng” này một biểu tượng rất có ý nghĩa : “ánh sáng này đã đến từ Hà Nội”. Dù muốn dù không thì tương lai của quốc gia Việt Nam này cũng đã bị cột chặt vào một sự thật rồi : nó sẽ là một quốc gia Cộng Sản, cách mạng và không thể chia cắt được. Về điểm này không còn một chút nghi ngờ gì nữa, theo lời phát biểu sau cùng của ông Lê Duẫn, Tổng bí thư đảng Cộng Sản Bắc Việt, khi nói tới Việt Nam thì ông đã coi như một quốc gia thống nhất rồi. Ông nói : “nước Việt Nam tốt đẹp đã trở nên toàn vẹn từ Lạng Sơn đến Cà Mau”

***

Sự mềm dẻo tạm bợ của những người “chủ mới” ở Miền Nam chỉ là một trạm dừng chân trên con đường phải đưa người dân Miền Nam đi những bước đầu của cuộc cách mạng. Chỉ là một sự tạm nghỉ chân có tính cách chiến thuật vì có một nhu cầu phải đặt lại các cơ cấu cải tạo và ghép vào một số cán bộ cần thiết cho dân chúng đang còn cứng đầu khó dạy, quen theo lối sống dễ dãi và khó thuyết phục, khó phục tùng bằng biện pháp quân sự.

Thời gian vui chơi đã qua rồi. Các cán bộ chánh trị của Miền Bắc đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị. Cứng rắn, dẻo dai và năng nổ họ đặt dân chúng Sài Gòn vào một mảng lưới, rồi càng ngày càng siết chặt lại. Sài Gòn không còn được gọi là Sài Gòn nữa, mà là “thành-phố-Hồ-chí-Minh” để kỷ niệm người cha đẻ của cách mạng Việt Nam.

Đã hết rồi thời điểm của “một nụ cười và một bàn tay thân thiện”. Bây giờ đã đến thời điểm của sự “đe dọa” và của những “bước đi mới”. Gọng kềm đột nhiên khép chặt lại, trước hết là trong những khu vòng đai ở Gia Định, Tân Định, Gò vấp… nơi mà các “ủy ban nhân dân” đã được thàh lập xong, và tiếp theo đó lần lượt vào trong thành phố.

Từng khu, từng đường, từng ngỏ hẻm, từng nhà một… tất cả đều được thanh lọc. Kiểm tra từng người, ai cũng được gọi lên, được hỏi về cá nhân mình, về gia đình mình, về những người chung quanh mình, và được trưng tập vào một lớp học tập chánh trị…. cũng được gọi là công tác làm sạch đường phố hay là “dọn cho sạch rác rến”

Tất cả trường từ tiểu học trung học cho đến đại học đều phải đóng cửa. Tất cả những tổ chức và sinh hoạt văn hóa “phản động, đồi trụy và dơ bẩn của đế quốc và của tay sai Thiệu” đều triệt để bị nghiêm cấm.. Nói trắng ra là tiêu hủy hết mọi phim ảnh, đĩa nhạc ngoại quốc, tất cả những tác phẩm văn hóa thế giới như của Balzac, Dostoiievski, Faulkner, Camus, Gogol đều bị đốt hết lẫn lộn với các tạp chí tình dục loại Play Boy, kể cả các “cuộc phiêu lưu của Tarzan”.
Các giáo sư, thầy cô giáo, sinh viên học sinh mỗi ngày phải đến họp từ 9 giờ đến 1 giờ trưa để tập đồng ca những bài hát cách mạng, tập vỗ tay cho ăn nhịp hay tập “đọc” tập “hô” những khẩu hiệu.

Nhiều đoàn người mệnh danh là trưởng giả, là tư bản, là trí thức, là cựu công chức đã biết “ăn năn hối cải” bắt đầu đi riễu trên các đường phố với những tấm bảng đeo trước ngực với nội dung đại loại như “Tôi đã phản bội cách mạng”, “tôi có bạn người Mỹ”, “tôi đã cộng tác với kẻ thù” v.v…

Hết khu này đến khu khác, nhiều toán người nhỏ thó mặc quân phục xanh lá cây trèo lên bao lơn, hay các cột điện để chăng dây và treo loa, để cho dân chúng nghe ra rả những bản nhạc quân hành ầm ĩ suốt ngày…

Trên tường đâu cũng treo đầy hình to lớn của một ông già có chòm râu dưới cằm: hình của “chủ tịch Hồ Chí Minh”. Nguyện vọng duy nhất của ông là tất cả nhân dân Việt Nam phải tôn thờ ông. Tất cả những sự tuyên truyền đều tập trung vào ông này, vào cuộc đời của ông, vào những tác phẩm của ông, vào những bài thơ của ông mà ai cũng phải học nằm lòng. Ông vừa là một thánh nhân, một vị tiên tri vừa là một vị thần hộ mạng của cựu thủ đô Miền Nam lúc này đã mang tên của ông. “Di chúc” của ông là một sự chỉ dẫn hoàn hảo, một giáo lý mà tất cả mọi người “Việt Nam thật sự” phải theo..

Nhịp nhàng với hành động tâm lý chiến của các “cán bộ” (ủy viên chánh trị), ảnh hưởng của mấy chú “bộ đội” thuộc quân đội nhân dân Bắc Việt mỗi ngày một nặng nề thêm lên, và càng ngày càng thấy rõ bộ mặt của một quân đội chiếm đóng.

Ban ngày thì các đội tuần tra khoảng 20 chú “bộ đội”, với nét mặt hùng dũng, căng thẳng, đi cách nhau chừng 5 thước, tay ghì vào cò súng, đi rảo khắp thành phố, canh chừng các ngã tư, hoặc thiết lập các rào cản.

Ban đêm thì cả một trung đội đi khắp nơi trên đường phố lúc nào cũng vắng ngắt, vừa đi vừa lắc cắc khua cò súng AK.47 của họ. Thường thì họ phục kích sau các cây trồng dọc đường và bắn lên nhiều tràng súng dài vào các bóng đen thoáng qua, lặng lẽ.

Thế nhưng mặc dầu lớn tiếng hăm dọa, với những áp-phích, những phim ảnh phải xem, những buổi học tập cải tạo tập thể… người dân Sài Gòn vẫn cứng rắn và tham gia các buổi “sinh hoạt cách mạng” một cách lặng lẽ, hờ hững.

Cả ba buổi họp lớn đầu tiên trong tháng 5 (ngày 1, ngày 7 và ngày 15 tháng 5) chỉ qui tụ khoản vài chục ngàn người, không hơn được.

Ngày 15 tháng 5, “ngày lễ chiến thắng”, trong khi các sư đoàn Bắc Việt rầm rộ diễn hành, các toán cán bộ cổ vũ đặt ở các ngả tư đường không thành công được trong nhiệm vụ hô hào dân chúng vỗ tay hoan nghênh quân đội chiến thắng Miền Bắc. Chẳng những thế mà còn có rất nhiều khán giả Miền Nam khóc sướt mướt nữa.

Chế độ cũ đã phát hàng chục ngàn súng cho dân vệ trẻ trong các khu gia cư. Thủ đô lại có gần trăm ngàn cảnh sát được trang bị súng M.16, súng lục 32 và lựu đạn. Phía Bắc Việt đã tự thú nhận là mặc dầu đã treo nhiều giải thưởng cao cho những sự tố giác, nhưng chỉ thu hồi được một số rất ít ỏi vũ khí này.

Nhiều người dân Sài Gòn còn đi xa hơn nữa là họ từ chối không chịu đầu hàng… Một số tướng lãnh đã tự tử như: Tướng Phú, cựu tư lệnh Vùng Cao Nguyên Trung Phần, đã uống nguyên một ống thuốc nivaquine và chết tại bệnh viện Grall; như Tướng Nguyễn Vỹ, cựu Tư Lệnh sư đoàn 5 bộ binh, Tướng Nguyễn Khoa Nam và Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó Vùng đồng bằng sông Cửu Long; Tướng Nguyễn Văn Hai, Tư lệnh sư đoàn 7 bộ binh…. Nhiều sĩ quan khác, các nhân vật và các chánh trị gia đã tự kết liễu đời mình bằng thuốc độc hay bằng cách tự bắn vào đầu. Trong số những người này có ông Trần Chánh Thành, cựu Tổng trưởng Thông Tin, một trong những người đối lập hàng đầu với Tổng Thống Thiệu; tất cả thành viên trong một gia đình công chức cao cấp (sáu người) và cả 3 người giúp việc trong gia đình. Một cựu hạ sĩ quan Dù tự tử ngay giữa chợ bằng cách tháo chốt một trái lựu đạn và nằm lên trên và la lớn lên :“Chúng bây không bao giờ bắt sống được tao đâu..đồ bọn cướp đểu giả !”

Trái lựu đạn nổ tan xác anh thành nhiều mảnh, trừ chiếc mũ bê rê đỏ của anh, nhưng không một ai dám nhặt lấy…

Một tuần lễ sau khi tượng đài “chiến sĩ VNCH” bị hạ bệ, có một vị cựu binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến của Miền Nam tẩm xăng tự thiêu như những nhà sư trước kia đã làm để phản đối “chế độ thối nát”. Ông ta cháy như ngọn đuốc trong nửa giờ, trước hàng trăm dân chúng Sài Gòn đứng sững sờ nhìn ngọn lửa trên bụng anh làm cháy đen cả hai cánh tay anh. Một giờ sau, đài phát thanh Hà Nội cố làm nhẹ biến cố này bằng một bản tin được loan đi, nói rằng: “người tuyệt vọng này cầm trên tay một tấm giấy trên đó ông viết “tôi đói lắm” ! (3)

Ngày hôm sau phát ngôn viên của Ban Quân Quản lại đưa ra một lời giải thích thứ hai :

– “đó là một Phật tử chống đối chế độ Thiệu. Anh ta để lại một bức thư nói rằng: cuối cùng đất nước tôi đã được giải phóng khỏi ách độc tài, nhiệm vụ tôi đã hoàn tất và tôi chỉ còn có chết mà thôi.”

Cả hai luận cứ mâu thuẫn này không dối gạt được người nào hết. Người dân Sài Gòn chứng kiến tận mắt cái chết của anh Thủy Quân Lục Chiến có thể sẽ không nói được tại sao anh ta tự tử. Nhưng họ biết rõ nơi anh chết: đó là trên đống xi-măng nát vụn của tượng đài hai anh lính Thủy Quân Lục Chiến tượng trưng cho lòng can đảm của người lính chiến VNCH.

Tất cả những người chết để khỏi phải kéo lê kiếp sống nô lệ như thế rất xứng đáng được kính trọng….

Các nhà báo đôi khi đưa ra những nhận xét đơn sơ không muốn nói nhiều hay chỉ muốn mua lòng độc giả bằng một câu nói bâng quơ bóng bẩy.

Một trong những bạn đó, một người cũng nổi tiếng lắm, được trui rèn trong tài nghệ và cũng có khá nhiều độc giả trên khắp thế giới, đã đưa ra một câu quá bất công và quá tàn nhẫn khi viết về cái chết của tướng Phú :

– “Tướng Phú, Tư Lệnh Vùng Cao Nguyên đã từng là một người lính rất tốt ở Diện Biên Phủ, đã không còn tốt nữa khi ông ta nhận bổng lộc của ông Thiệu như những người khác”.

Nhà báo này không có quyền chửi bới, mạt sát hay lên án một người đã chết, nhất là khi anh chưa biết người đó là ai và dĩ nhiên chưa bao giiờ thấy được hành động của người ta trên trận địa. Những ông được xem như là “chúa tể” của Dù ở Điện Biên Phủ, tôi muốn nói như Langlais, Bigeard, Bizard, Touret và Botella, can đảm tột bực và không bao giờ biết xúc động,, họ rất quý mến và đánh giá cao ông trung úy nhỏ con tên Phú này mà họ coi như là một sĩ quan rất có giá trị trong quân đội Việt Nam. Tướng Phú là bạn của tôi (tác giả). Tôi đã biết ông ta từ lúc 23 tuổi. Lúc nào ông ta cũng đánh trận và đánh giỏi… trên khắp nước Việt Nam. Trong vùng thối nát như Cao Lãnh, khi ông là Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, cũng như khi ở Lào ông đã chiếm lại Tchépone và trong 2 ngày đã đánh tan một trung đoàn thiện chiến thuộc sư đoàn 312 Bắc Việt chuyên chiến trận ở miền núi. Ở phía Tây thành phố Huế, năm 1972, ông đã giữ vững vùng Bastogne với sư đoàn đầu tiên của ông và làm thất bại sư đoàn 308 được mệnh danh là sư đoàn sắt của quân đội Bắc Việt. Con người ông tướng Phú chỉ còn có một lá phổi, thường hay khạc ra máu và mặc dầu bị các bác sĩ cấm bay 10 năm nay nhưng ông vẫn tiếp tục lên trực thăng mỗi ngày, bay lên mặt trận và đáp xuống tiền tuyến. Tôi thường đi theo ông ta, thường ăn chung và ngủ chung một lều với ông ta. Tôi cũng biết bà tướng Phú, một người nông dân chất phác và 9 người con của ông. Tướng Phú nghèo nhưng được binh sĩ của ông kính trọng. Ông không biết buôn lậu và coi rẻ tiền bạc. Ông chỉ ở ngoài mặt trận, không bao giờ nghĩ đến chánh trị và cũng ít lui tới Dinh Tổng Thống.. Một buổi chiều nọ ở Huế, ông đã buồn bã tâm sự với tôi: “Ở Điện Biên Phủ, thiếu tá Botella mà tôi thương mến như cha tôi vậy, đã có nói là tôi sẽ được tuyên dương với “Bắc Đẩu Bội Tinh” nhưng tôi chưa bao giờ nhận được nó. Tôi đã được tuyên dương 27 lần với tất cả huy chương cao quý nhất của Việt Nam và của Hoa Kỳ.
Nhưng tấm huy chương “Đỏ” đó mới là huy chương đẹp nhất thế giới!”

Một buổi sáng nào đó năm 1954, tướng Phú là người sĩ quan Việt Nam cuối cùng đã bắt đoàn quân hát bài quốc ca Marseillaise của Pháp trên một trận tuyến ở Đông Dương khi ông dẫn quân xung phong lên chiếm vị trí “Élianne I” ở Điện Biên Phủ. Hai mươi mốt năm sau, mất hết quyền chỉ huy lại bị vu khống và tuyệt vọng, ông đến tìm cái chết trong một bệnh viện của người Pháp, trước các bác sĩ quân y người Pháp, dưới bóng của lá cờ tam tài Pháp…. Để được biết chắc chắn rằng các người bạn cuối cùng, các người bạn chiến đấu của ông khi về Pháp phải được biết rõ là ông ta không hề phản bội lại hai chữ Danh Dự mà họ đã cùng nhau thề thốt trên những ngọn đồi đẫm máu ở Điện Biên Phủ.

Thật là kỳ lạ và bi đát thay cho số phận của các tướng lãnh nói trên và của những chánh trị gia Miền Nam hay Cam Bốt được kết hợp với nhau không phân biệt trong chiến dịch bôi nhọ và vu khống, được phổ biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới từ bao nhiêu năm qua. Nhất là báo chí Mỹ không ngớt nhắc đi nhắc lại là Phnom Penh và Sài Gòn “đầy rẫy tham nhũng”. Đặc biệt tôi nghĩ tới ông Long Boret, Thủ Tướng Cam Bốt và hoàng thân Sirik Matak, nhân vật thứ hai ở Cam Bốt. Lẽ ra họ đã đi được trên một trực thăng Mỹ với ông Đại Sứ Hoa Kỳ khi ông này ra đi với một lương tâm thanh thỏa của một công chức cao cấp đã thi hành xong khế ước, còn bình tĩnh ôm theo trong tay lá quốc kỳ Mỹ được xếp cẩn thận, y như trong một kịch bản vậy. Nhưng hai người này lại không thèm đi, họ thích ở lại đất nước họ và có chết thì chết trên mảnh đất quê hương của họ, giữa đồng bào của họ còn hơn là đi sống lưu vong trong một đất nước mênh mông xa lạ đã phản bội họ. Họ không phải là những người độc nhất đã chọn “ở lại”, vì sau khi cân nhắc kỹ lưỡng rồi họ mới ngả hẳn về cái chết để chứng minh phẩm cách và giá trị của niềm tin của mình.

Còn nhiều người nữa, rất nhiều người nữa cả ở Phnom Penh và ở Sài Gòn. Người ta còn tiếp tục nói về những người này bằng cách gọi họ là “bọn tham nhũng”, mà vào một thời kỳ khác, khi mà Tây Phương bị những nguyên tắc vĩ đại của lịch sử La Mã chi phối, thì người ta phải gọi họ là những “vị anh hùng”!

***

Hơn thế nữa, ở Sài Gòn đâu phải chỉ có những vụ tự tử.

Từ ngày 30-4 đến tuần lễ thứ ba của tháng 5, hơn 60 binh sĩ Bắc Việt đã bị ám sát ngay ngoài đường phố. Một tử thi của một đại tá bộ binh Bắc Việt mình đầy vết dao được khám phá ra ở trong hẻm rạp chiếu bóng Eden, trước mặt khách sạn Continental. Ba sĩ quan Bắc Việt khác đã bị hạ sát “rất lặng lẽ” gần sở Ba Son.. Chánh quyền xác nhận can phạm là “du đảng” và “kẻ trộm”. Để làm gương họ đem ra xử bắn công khai một số “can phạm” trước mặt gia đình họ và hàng ngàn khán giả.

Ngày 24 tháng 5, lúc 7 giờ sáng, 80 người ngoại quốc rời Miền Nam Việt Nam trên một chiếc phi cơ 4 máy, Illouchine 18 sơn xanh trắng của Liên Xô. Đó là những phóng viên nhiếp ảnh, những nhà báo từ khắp nơi trên thế giới đã đến Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi thủ đô bị Bắc Việt chiếm cứ. Trong số này có gần 50 nhà báo Pháp và một tướng lãnh Pháp đã về hưu bị trục xuất khỏi Việt Nam vì lý do “hai bàn tay của ông đã dính đầy máu của nhân dân Việt Nam”!(4)
Trước khi được đi, các nhà báo này đã bị quá nhiều phiền nhiễu về hành chánh mới được tờ chiếu khán xuất cảnh, sau đó phải nằm chờ đợi được ghi tên vào một chuyến bay kéo dài ngày này qua ngày khác…Trước khi lên phi cơ, tất cả đều phải qua một cuộc khám xét, một cuộc khám xét thật tỉ mỉ, thật lâu và rất là lạnh lùng. Các anh “bộ đội” nhờ một nữ tiếp viên hàng không quân sự làm thông dịch viên, đã bóc hết hành lý của họ. Có nhiều xấp thơ và phim ảnh bị tịch thu. Sau đó họ được đưa đến Vạn Tượng (Lào) và phải trả 120 đô la bằng tiền Mỹ hẳn hòi (gấp đôi giá bình thường) và được một chú “bộ đội” đội nón cối và các phi công Việt Nam đeo súng lục hộ tống.

Xuyên qua cửa kính, các nhà báo nhìn Tân Sơn Nhất lần cuối. Hình ảnh sau cùng mà họ cố mang theo từ Việt Nam là cảnh tượng của một phi trường bị tàn phá: nhà kho sập, phi cơ nằm phơi bụng, chiến xa bị cháy đen…Trong số những anh gan lì và đầy tình huynh đệ đi về Pháp chuyến này, vắng mặt một anh bạn hạng nặng: đó là anh Michel Laurent, bị một tràng liên thinh tự động bắn hạ trong trận chiến ở Hố Nai.

Anh là một nhà báo cuối cùng chết ở Đông Dương.. Chúng tôi vẫn còn hy vọng đến giây phút cuối cùng là anh sẽ còn sống để trở về. Nhưng bây giờ thì hết mong rồi. Chúng tôi không còn thấy bóng dáng mảnh khảnh, trẻ trung mãi của anh nữa, cũng như gương mặt thiên thần với mớ tóc lòa xòa và một điếu xì gà cắn chặt ở môi. Anh công tử có vẻ uể oải nhưng không lo lắng gì cả này thuộc nòi nhà nghề sáng giá.Có cả thảy 52 nhà báo đã chết ở Việt Nam từ năm 1945.

26 anh khác đã coi như mất tích ở Cam Bốt. Phần đông là các nhiếp ảnh viên, những tinh hoa trong nghề.. Họ không tường thuật về chiến tranh, mà họ chuyển chiến trận thành hình ảnh, gay cấn, tàn bạo và lâm ly thống thiết. Những hình ảnh này các nhiếp ảnh viên thường thu nhặt trong tư thế đứng, giữa những người sắp chết mà họ thường chứng kiến được cử chỉ và cái nhìn lần cuối cùng của họ. Cho tới khi Thần Chết tức giận vì bị người ta thu hình quá gần, nên đã bắt họ chết luôn vì đã đến lượt của họ rồi…. Và đùng một cái những người còn sống sót mới khám phá ra là luôn luôn những anh bị tử thương y như rằng là những người rất giỏi trong nghề. Người đầu tiên mà tôi thấy chết vào ngày 28 tháng chạp năm 1946 là một anh người Bỉ ốm yếu mà tôi quá xấu hổ vì không nhớ được tên, làm việc cho một thông tấn xã Hoa Kỳ. Anh đến từ Nam Dương, một quốc gia chán chê vì chiến trận, nhưng những trận đánh trong đường phố tuy lẻ tẻ nhưng hung dữ đến dã man trong thành phố Hà Nội đã kích thích anh, như một cuộc đi săn kích thích con chó săn còn tơ vậy. Anh đội một nón sắt quá rộng, đeo choàng chiếc máy ảnh Rolleiflex và một cây súng lục Webley to tướng ở ngang lưng.

Anh ta rất là can đảm, can đảm hết nói ! Anh ta chạy trên các mái nhà để đi tìm những anh chàng bắn sẻ. Một anh Việt Minh bắn tỉa phục kích đâu đó đã cho anh một phát vào giữa mặt và anh té lộn nhào rớt xuống đất từ trên cao 10 thước..

Sau đó thì có anh chàng Kowal mà chúng tôi gọi là “siêu thiên thần”, một anh lực sĩ tóc vàng hoe, một con người yếu bóng vía và khắc khổ với một máy thu hình cộm lên đầy lịch sử hào hùng.. Ba mươi tám tháng đi toàn những trận ác liệt gần hết miền Thượng Du Bắc Việt… rồi một tràng liên thanh ngắn một buổi sáng nào đó của tháng 2 năm 1952 đã kết liễu đời anh. Lúc đó anh mới vừa 27 tuổi. Tôi cũng biết anh Péraud, to con, mập mạp, vai rộng, người rất mạnh khỏe, đã từng thoát khỏi trại tù Đức quốc xã, đã từng chứng kiến những trận đánh xáp lá cà ở Na Sản và Điện Biên Phủ… đã bị xem là mất tích trong chiến khu Cộng Sản sau một cố gắng vượt ngục và không bao giờ được gập lại nữa. Anh Martinoff, bị đạp phải một trái mìn… Anh Bob Capa lúc nào cũng có một điếu thuốc tàn trên miệng, là một trong những người nhiếp ảnh viên nổi tiếng và đắt giá Nhất trên thế giới, già dặn trrong gần 20 chiến dịch mà bị chết như một người mới bước vào nghề ngày 25 tháng 5 năm 1954 trên một con đê nhỏ ngoài ruộng, chỉ cách đồn Đội Tân vài cây số, ở Đồng Bằng Bắc Việt.

Còn nhiều người khác, rất nhiều người khác nữa…: như các anh Burrows, Huet, Shimimoto, Flynn, Arpin… và cuối cùng là anh Michel Laurent, mình đầy đạn trong một làng công giáo di cư không đầy ba ngày trước khi Sài Gòn bị thất thủ.

Từ anh nhà báo nhỏ con người Bỉ đội nón sắt quá rộng bị bắn chết ở thủ đô Hà Nội đến anh Michel Laurent bị giết vì quá gan dạ gần một nhà thờ có treo cờ của Tòa Thánh Vatican, nơi mà các thanh niên tự vệ kháng cự đến viên đạn cuối cùng…. coi như cuộc chiến ở Đông Dương đã qua rồi…..

Khi đã trở về đến nước Pháp, các anh nhà báo bị kẹt lại gần ba tuần lễ ở Sài Gòn, cựu thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, đã viết lại và phổ biến tất cả những gì mà họ đã thấy và đã nghe. Bộ máy của chế độ Hà Nội đã được áp đặt. Cảnh khốn cùng của dân chúng Sài Gòn. Có các cô gái đã đề nghị trao hết gia tài sự nghiệp để chỉ được cưới và cùng đi ra ngoại quốc. Trẻ em thì van xin cho được làm con nuôi, dù là giả định. Lại còn dịch tự tử nữa. Rồi có tin đồn là có nhiều sự nổi dây ở các tỉnh, hay thành lập “chiến khu” ở Miền Nam…

Khi tất cả các nhà báo đã bị đưa đi hết rồi….thì một cái lồng sắt chụp ngay xuống Miền Nam Việt Nam. Muốn có được tin tức, người ta không còn có cách nào khác hơn là phải nghe những bản tin chánh thức được loan đi sau khi người ta đã kiểm duyệt cẩn thận. Phải đợi cho có người đi du lịch trong thời gian sắp tới.. Rồi phối kiểm lại tin tức. Rồi phỏng vấn liên tục những người ngoại quốc, những linh mục hay một vài công chức Pháp khi họ hồi hương. Hay những người Hoa Kiều theo đường giây buôn lậu hay theo các tàu đánh cá đến được Thái Lan..(họ phải trả trên 30 lượng vàng để được đưa đi )

Từ từ các tin tức đó giúp hé mở được bức màn tre đang bao chặt nước Việt Nam, và nhờ vào những chứng cớ và những chi tiết sống, người ta mới có thể thiết lập lại được cả một mảng biến cố đã xảy ra trên đất nước này.

Đầu tháng 5, các sĩ quan, Cảnh Sát, công chức, thành viên trong các đảng phái chánh trị, các kỹ thuật gia, nhân viên trong nghiệp đoàn của Miền Nam… đều nhận được lệnh phải tự kiểm kê. Người ta ấn định cho họ một thời hạn, từng loại một phải đi trình diện với chánh quyền. Phần đông các sĩ quan và Cảnh Sát khi đến trình diện không bị điều tra hỏi han gì hết như họ đã nghĩ. Mà người ta chỉ ghi tên tuổi rồi họ được tự do về nhà. Một thống kê đầu tiên vào cuối tháng 5 cho thấy là khoản 25 trên 100 cán bộ của quân đội và của Cảnh Sát là có làm thủ tục khai báo. Một buổi sáng sớm nào đó, vì chánh quyền đã nắm được địa chỉ và căn cước của từng người nên số người này bị bắt hết, cho lên xe vận tải và đưa đi đên một nơi nào không biết. Nhiều bản thông cáo được dán khắp nơi “ra lệnh cho “tất cả các anh phản động” chưa trình diện phải đến trình diện ngay “nếu không sẽ bị nghiêm trị”. Đồng thời lại có nhiều áp-phích khác cảnh cáo tất cả dân chúng trong thành phố “không được chứa chấp người nào trong nhà mà không khai báo cho công an biết”

Các giáo sư, các thầy cô giáo, các hiệu trưởng và viện trưởng của tất cả các trường trung tiểu học và đại học ở Sài Gòn, tất cả đều bị gọi đến “làm việc” với các ủy viên “đại biểu đại học”, ăn mặc như các “bộ đội”, quân phục xanh lá cây, mang dép râu và đội nón cối. Các ông đại biểu này lạnh lùng thông báo với họ là:

– “Chương trình và chu kỳ học vấn sẽ được thay đổi chiếu theo nhu cầu thật sự của đất nước.

Kỷ luật sẽ được áp dụng triệt để. Nhưng tất cả các sách giáo khoa cũ đều bị loại. Sẽ có những sách khác đang in sẽ được tàu chở đến từ Hà Nội. Ít nhất cũng phải từ 3 đên 4 tháng nữa mới có đủ số lượng sách cần thiết trong kho. Và tất cả trường đều phải đóng cửa. Về đại học, Luật Khoa và Văn Khoa sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Vì hai khoa này không có ích lợi gì cho xã hội hết, chỉ đào tạo những người “mơ mộng” và những “ký sinh trùng”. Thay vào đó sẽ có một trường thông dịch, dạy bốn ngoại ngữ : Nga, Tàu, Anh và Đức ngữ. Tiếng Pháp sẽ không bao giờ được dùng tới nữa nên không cần phải có thêm người biết tiếng Pháp. Các ông giáo sư thuộc Văn khoa và Luật khoa phải tự chuyển ngành trong kỷ luật xây dựng thì hơn.”

Tất cả các giáo chức đều phải trút bỏ hết “quần áo trưởng giã”, không phải thắt cà vạt, không phải mặc áo vét nữa, và cũng không được mang giầy “kiểu cọ” nữa (nguyên tác : “fantaisie” trong dấu kép) Sẽ có nhiều giáo sư từ Hà Nội đến để điều khiển các lớp về chuyển hướng giáo dục và lớp cải tạo..

Đầu tháng 6, các sĩ quan cao cấp “dù đã về hưu”, các công chức cao cấp và các chánh trị gia, các dân biểu, nghị sĩ,, các tổng bộ trưởng đều được gọi đi học một khóa “học tập cải tạo”. Thời gian học tập là 10 ngày. Khi đi phải mang theo “chăn màn, áo ấm, áo mưa, một chiếc chiếu, 3 ram giấy và viết để ghi chú và phải đem theo 15.000 đồng để đóng tiền ăn.”. Trong suốt thời gian học tập cải tạo, không ai được phép về nhà, hoặc liên lạc với gia đình. Đối với các công chức hàng thấp, các hạ sĩ quan và binh sĩ, chương trình học tập cải tạo được dạy trong 3 ngày. Công chức sau đó được trở về nhiệm sở cũ, các quân nhân sau khi học tập thì được phát cho một giấy chứng nhận cho phép họ đi tìm việc làm, và được đặt dưới quyền kiểm soát của các trưởng khóm đã được thành lập trong mỗi khu.. Một bản báo cáo sau đó được chuyển cho trưởng “công an khu vực”, nơi người binh sĩ được kiểm kê. Về sau này, anh trưởng công an đó sẽ phát cho người quân nhân đó một giấy “phục hồi quyền công dân” nếu xét thấy người đó có hạnh kiểm tốt. Trong hiện tại thì tất cả cựu quân nhân đều được coi như “kẻ có tội” vì “các cây súng của Mỹ mà các anh đã có trong tay, không phải tự nhiên mà nó đến tay các anh.” Đó là lời nói của các ủy viên chánh trị phụ trách lớp hoc tập cải tạo đã nói với họ như vậy. Trong khi chờ đợi được phục hồi quyền công dân thì các cựu quân nhân phải chịu đói meo, vì tờ giấy cho phép đi tìm việc làm không giúp ích gì được cho họ cả. Vì trên thực tế không một người nào được quyền thuê mướn người chưa có quyền công dân.

Sau đợt các chánh trị gia và các quân nhân thì đến lượt các thợ thuyền và các chú cai thợ. Lớp học tập cải tạo cho các chuyên viên ở nhà máy điện được mở ra ở Dalat vào tháng 6, đã xảy ra nhiều vụ rắc rối và nhiều phản đối. Bị bắt buộc phải mang theo 15.000 đồng (ba phần tư số lương trong tháng của họ), sống xa vợ xa con, họ đã phản đối tập thể để yêu cầu chánh phủ phải bảo đảm đời sống của gia đình họ vì thiếu thốn và không có ai lo. Họ đe dọa là sẽ không làm việc trở lại nếu chánh phủ từ chối yêu sách này. Vì chánh quyền cần phải có sự làm việc của họ nên đã chấp thuận một phụ cấp cho gia đình họ.

Lúc mãn khóa học tập cải tạo, các ủy viên chánh trị đã cố xác nhận với họ là “thời gian học tập cải tạo được kéo dài trong 6 tuần lể mỗi năm”. Trong suốt thời gian học tập không thấy có một lời nào ám chỉ đến cái CPLTCHMN. Chỉ có hai đề tài duy nhất được khai triển:

– Nước Việt Nam từ đây sẽ là một quốc gia duy nhất, độc lập và xã hội chủ nghĩa, gắn liền với di chúc của Bác Hồ (nguyên tác Description: ohmy.gif ncle Hô) từ cửa Trung Quốc (nguyên tác :porte de Chine) ở Lạng Sơn đến mũi Cà Mau.

– “ngụy quyền bù nhìn” – có nghĩa là những kiểu suy luận, những lối sống thừa hưởng tử chế độ cũ và của đế quốc Mỹ- là một “căn bệnh” mà đất nước phải loại bỏ. Phương thuốc duy nhất được coi là hữu hiệu là cải tạo.

Lần lần bộ máy nặng nề và tỉ mỉ để nghiền nát các bộ não đã được đặt xong.. và đã chạy đều..

vì nó đã chứng minh được ở Miền Bắc rồi, ở đó nó đã được điều hành từ hơn 20 năm qua.. Công tác đóng khung dân chúng được tiến hành rất có phương pháp.

– Giai đoạn thứ nhất: áp dụng kỹ thuật công an cảnh sát mềm dẻo nhưng quyết liệt. Mỗi công dân phải điền hai văn bản in sẵn. Một số câu hỏi chánh thức: lý lịch, trình độ học vấn, nơi cư trú trong những năm chiến tranh, việc làm. Một số câu hỏi riêng tư liên quan đến tất cả những người từ 18 đến 70 tuổi, đòi hỏi phải kê khai “tên của những người bạn tốt nhất của mình, hay tên của những người mà mình chịu ảnh hưởng”; Và những tên, địa chỉ của “những mối giao lưu tình cảm cũ”. Công tác kiểm kê tất cả dân chúng ở Sài Gòn được tiến hành từng khóm một, từ khóm này sang khóm khác… Khi đã kiểm kê xong, người nào muốn thay đổi địa chỉ thì phải xin phép cơ quan chánh quyền khu vực mình đang ở và phải có sự chấp thuận của cơ quan chánh quyền nơi mình muốn tới ở. Mỗi người xin như vậy phải có 2 nhân chứng chịu trách nhiệm về lời khai không gian dối.

– Giai đoạn thứ hai: kỹ thuật gia nhập vào tập thể và đề nghị một lý thuyết mới. Nghi lễ thật chu đáo đúng mức.

*Một Đức Chúa nhân từ : bác Hồ;
*Một lý thuyết: Mácxít;
*Các linh mục đọc thánh kinh: các ủy viên chánh trị;
*Thánh ca: các bài hát cách mạng ;
*Các lời cầu nguyện :các khẩu hiệu ;
*Các đám rước lễ: các cuộc diễn hành, các cờ hiệu và biểu ngữ, thợ thuyền, sinh viên, các “bà nội trợ và trẻ con” ;
*Các cuộc “xưng tội”: công khai.

Hình của Hồ chí Minh được treo dán khắp mọi nơi, trên tường, trong các nhà máy, trong thành lính và cho tới các phòng khách của các cộng đồng tôn giáo. Có lệnh cho tất cả dân chúng phải treo trước nhà lá cờ đỏ sao vàng của Cộng Hòa Miền Bắc Việt Nam (nguyên tác : Républic du Nord Việt Nam) bên cạnh lá cờ của CPLTCHMN. Vấn đề thi hành cũng phải lâu. Mua một lá cờ thứ hai đối với nhiều người là một sự tốn kém không nhỏ. Những người nghèo phải cắt xén vải và làm những lá cờ nhỏ hơn. Chánh quyền coi đó là một ác ý. Tức thời có những chỉ dẫn đã phổ biến về cách treo “cho đúng” hai “lá cờ anh em” với kích thước phải bằng nhau.

Các sinh viên rảnh rang từ khi nhà trường bị đóng cửa, đã được thành lập thành “tiểu đoàn” và tham gia vào công tác làm sạch sẽ thành phố.. Các học trò thì tham gia vào sinh hoạt cách mạng ở khu vực với những em từ 8 tuổi. Các “liên đoàn thanh niên giải phóng” đón nhận gái trai từ 10 tới 15 tuổi.

Mỗi ngày tờ nhật báo chánh thức “Sài Gòn Giải Phóng” đưa ra những công tác của vài đại hội, của các văn sĩ, của các nhà văn tiểu luận hay nghệ sĩ “giải phóng” và đăng những kiến nghị của họ: những lời khen tán tụng cách mạng, những bài hát nhớ ơn bác Hồ và Đảng Lao Động đã dẫn dắt nhân dân đến chiến thắng. “…

Phải chăng những người Cộng Sản Bắc Việt thật sự hy vọng rằng bằng cách áp dụng những phương thức mà họ đã dùng ở Hà Nội vào năm 1954 thì họ có thể tẩy não được dân chúng ở Miền Nam? Đầu tiên nhìn vào, thì hình như khó tin được.

Hà Nội là một thành phố được ngăn ra từng khu vực thợ thuyền, công chức, và các công nhân tiểu công nghệ.. Đồng bằng sông Hồng thì rất hẹp và có quá nhiều dân. Dân quê Miền Bắc còn dùng những chiếc cày tay cổ lỗ mà họ đẩy được. Chiến tranh chống Pháp đã đẩy họ lên rừng hay vào những làng mạc thu hẹp trong lũy tre xanh. Chiến tranh với người Mỹ lại đưa họ thụt lùi lại trong thời quá khứ bằng những cuộc dội bom dày đặc, bắt họ phải sống trong hang hoặc sống chui xuống đất trốn ở dưới hầm. Cầu đường bị phá, nhà ga, nhà máy, phi trường đâu đâu cũng ăn bom làm cho dân chúng gần như trở về thời kỳ đồ đá. Họ đã quen sống cách ly hẳn với thế giới bên ngoài, không có một tờ báo nào gọi là đối lập, không xa hoa không có yếu tố nào để mà biết so sánh, sống đoàn kết với nhau vì cảnh bất hạnh. họ không thể tranh cãi dễ dàng với sự tuyên truyền nhồi nhét quá sơ đẳng và tập thể của các cán bộ..

Trong khi Sài Gòn là một thành phố của thương gia, của các chủ tiệm chủ quán, của những nhà trí thức và những chuyên viên. Đồng bằng sông Cửu Long rộng mênh mông, giàu có, mầu mỡ, mở cửa hằng mấy thế kỷ nay ra biển cả, với hàng hải, với thương thuyền, với ngoại quốc. Làng mạc ở đây trải rộng ra dưới những hàng dừa, hàng cọ, và dọc theo sông rạch đầy phù sa phì nhiêu, và là nơi dự trữ dồi dào và vô tận cho nghề đánh cá. Cuộc chiến tranh chống Pháp đã bảo vệ cho Miền Nam. Cuộc chiến chống Mỹ dù có một số điều quá mức, nhưng đã hiện đại hóa Miền Nam với một số trang thiết bị đến dư thừa. Trong suốt thời gian 20 năm, mặc dầu có mất ít nhiều trật tự, có chiến trận, có những chuyện ám sát, kinh tế khủng khoảng thường xuyên, và nhờ những chuyện đó mà dân chúng Miền Nam đã có lối sống của người Tây Phương hoàn toàn. Họ khám phá ra được máy móc, mô tô, xe hơi, phi cơ, trực thăng, điện thoại…. máy tính, trăn-zi-to và truyền hình; máy cày đã thay thế chiếc cày tay, xe vận tải, thuyền máy đã thay thế chiếc tam bản. Họ biết thưởng thức phim ảnh và các sách ngoại quốc, thích nhạc jazz, và biết xài các vật dụng mới lạ, tối tân. Bất cứ anh phu xe xích lô nào cũng đọc 2 tờ báo hằng ngày…

Như vậy thì làm sao tưởng tượng được là dân chúng Miền Nam có thể buông xuôi chịu bước theo hướng đi nhỏ hẹp duy nhất và một chiều mà Miền Bắc cố tình muốn áp đặt cho họ? Hà Nội muốn thống nhất đất nước và đưa nước Việt Nam vào con đường Cộng Sản dưới bàn tay sắt máu của họ. Hà Nội có 3 yếu tố trong tay: sức mạnh, một ý chí chánh trị không lay chuyển, và một lý thuyết mạnh. Nhưng những trở ngại cũng không phải ít. Đưa ra một phương thức để mang ra thực hành, như thế cũng chưa đủ. Xác nhận một sự thật để biến nó trở thành một chuyện hiển nhiên, như thế cũng chưa đủ. Đề nghị thống nhất hai Miền của Hà Nội là một sự thống nhất trái với thiên nhiên đe dọa gây xáo trộn đời sống của người dân. Miền Bắc và Miền Nam có thể là 2 Miền anh em, nhưng đó là anh em thù địch. Họ đã từng đánh nhau trong suốt 300 năm trước khi người Pháp đặt chân lên Đông Dương. Cuộc giết chóc trong 30 năm vừa qua chỉ có làm tăng thêm sự rạn nứt trong quá khứ. Mỗi bên đều có ít nhất cả triệu người bị giết và gần 2 triệu bị tàn phế. Hàng trăm ngàn trẻ mất cha…mất mẹ. Hằng triệu triệu người tản cư bị vứt ra ngoài đường. Nhiều thành phố bị tàn phá đến điêu tàn, nhiều làng mạc bị đốt cháy….
Vĩ tuyến 17 chỉ là một gạch ngang trên bản đồ năm 1954, được các thương thuyết gia hấp tấp gạch lên một cách vội vàng vì muốn chấm dứt cho xong..Một đường phi quân sự trừu tượng và hão huyền.. Hai chục năm chiến trận khốc liệt đã biến nó thành một giới tuyến đầy máu.

Hòa giải cách nào đây? để cho có được sự kết hợp giữa hai Miền, giữa hai loại xã hội với hai trình độ khác nhau, hai nền kinh tế khác nhau, hai tâm tính và tâm trạng khác nhau? Giữa một Miền Bắc với lý thuyết Cộng Sản khắc khổ và quá cứng đơ vì nguyên tắc, với một Miền Nam quá tự do như vô chánh phủ, hoài nghi và thích hưởng thụ?

Giữa một bên thì đang tự kiêu vì là kẻ chiến thắng, và một bên thì đang nhục nhã vì là kẻ chiến bại và mất nước ? Các nhà phân tách đã đơn giản hóa những bài toán này thành một sơ đồ và nói rằng những người Bắc Việt với đầu óc cứng rắn và với kỷ luật sắt của họ, sẽ đạp nhẹp Miền Nam.

Tôi không tin ở sơ đồ. Con người không phải là những con số để người ta đưa vào phương trình. Miền Nam không phải nguyên một khối và hay cố chấp. Họ có niềm tin của họ và những tín ngưỡng riêng của họ. Họ không để mất đi một cách dễ dàng đâu. Các Phật Tử, các Tín đồ Công Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo, và Cao Đài Giáo đều một lòng gắn bó với các chùa chiền, với các nhà thờ và với các thánh thất của họ. Miền Bắc có thể đi tới đích mà họ muốn, nhưng còn phải mất nhiều thời gian… và thời gian đôi khi rất thuận lợi cho kẻ chiến bại….

Pierre Darcourt – Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa

***

Chú Thích:


(1) Chỉ vài tuần lễ sau đó, tướng Minh được bí mật chuyển ra Hà Nội bằng phi cơ. Ở đó ông được các nhân vật lãnh đạo Cộng Sản trong Chánh Trị Bộ thẩm vấn trong suốt 10 ngày về ” tiến trình mưu toan với thực dân Pháp để cướp chánh quyền chống lại quyền lợi của cách mạng “. Khi được đưa trở lại Sài Gòn tướng Minh bị “quản chế tại gia”, mỗi ngày có một cán bộ của đảng Cộng Sản đến nhà để “cải tạo” ông”
(2) tướng Võ nguyên Giáp bị mắc một chứng bịnh nan y (không chữa được) và phải nằm ở một bệnh viện bên Mạc tư Khoa một thời gian dài.
(3) )(lời bàn của dịch giả: mảnh giấy này không cháy mà vẫn còn nằm trong tay người tự thiêu để cho Ban Quân Quản lấy được thì đó là cả một “phép lạ” của xã hội chủ nghĩa !)
(4) đó là đại tướng Vanuxem.




  Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162355 · Replies: 0 · Views: 2,222

NamQuoc
Posted on: Mar 24 2019, 09:48 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Tại sao TT Trump nói Google đang trợ giúp quân đội Trung Quốc?


Mới đây, tổng thống Mỹ Donald Trump cáo buộc công ty công nghệ Google đang làm một điều tệ hại là “trợ giúp quân đội Trung Quốc chứ không phải quân đội Mỹ”. Google đã nhanh chóng bác bỏ cáo buộc này và giới truyền thông cũng mô tả sự việc như một phát ngôn vụng về vô căn cứ nữa của ông tổng thống suốt ngày trên Twitter.
Donald-Trump

Trên thực tế, việc ông Trump nói Google đang giúp quân đội Trung Quốc có thực sự hoang đường hay không?

Tướng Hải quân Joseph Dunford, một tướng cấp cao của Hoa Kỳ, Chủ tịch Hội đồng Tham Mưu, cũng có nhận định tương tự tổng thống về mối quan hệ giữa Google và Trung Quốc:

“Những gì Google đang làm ở Trung Quốc gián tiếp tạo lợi ích cho quân đội Trung Quốc”, tướng Dunford nói trong một buổi điều trần tại Ủy ban Lực lượng Vũ trang Thượng viện.

“Chúng tôi theo dõi với quan ngại to lớn khi hoạt động của các đối tác công nghiệp tại Trung Quốc biết rằng có lợi ích gián tiếp đó”, ông nói. “Nói thẳng ra, từ ‘gián tiếp’ có thể không hoàn toàn mô tả được nó thực sự là gì, nó đúng hơn là một lợi ích trực tiếp cho quân đội Trung Quốc.”

Google từng có một khẩu hiệu nổi tiếng: “Đừng trở thành kẻ xấu” (Don’t be evil). Nhưng năm ngoái công ty này đã âm thầm bỏ khẩu hiệu này ra khỏi Bộ quy tắc ứng xử của mình mà không thông báo. Vài tháng sau, nhân viên của Google đã rò rỉ ra kế hoạch công ty này chuẩn bị tung ra ứng dụng tìm kiếm tự kiểm duyệt theo yêu cầu của chính phủ tại thị trường Trung Quốc mang tên Chuồn Chuồn. Việc này đã khiến nhân viên của Google biểu tình phản đối mạnh mẽ và Google tuyên bố họ sẽ không tung ra ứng dụng này mà chỉ phát triển nó để nghiên cứu. Nỗ lực mấp mé trở lại thị trường đông dân nhất thế giới của Google đã vấp phải sự phản đối dữ dội từ chính các nhân viên cấp cao của họ và truyền thông. Tuy nhiên, khi sự lên án này đến từ ông Trump như thường lệ, tổng thống Mỹ lại là người bị chỉ trích chứ không phải Google.

“Google đang trợ giúp Trung Quốc và quân đội của họ, chứ không phải là Hoa Kỳ. Thật tệ! Tin tốt là họ đã giúp Hillary Clinton Xảo quyệt chứ không phải Trump … và xem kết quả thế nào?” ông Trump viết trên Twitter.

Gizmodo, một trang tin tức công nghệ bình luận: “Khả năng cao nhất là tổng thống nghe loáng thoáng được cái gì đó về Google và Trung Quốc … nhưng không tìm hiểu cụ thể trước khi sử dụng nó như một cơ hội để tung ra một lời buộc tội ngông cuồng nữa chống lại Google”.

Hoạt động của Google tại Trung Quốc?

Phát ngôn viên của Google cũng nhanh chóng phản bác lại bằng email gửi tới các hãng truyền thông, tuy không phủ định hoàn toàn mối quan hệ với quân đội Trung Quốc.

“Chúng tôi không làm việc với quân đội Trung Quốc. Chúng tôi đang làm việc với chính phủ Mỹ, bao gồm cả Bộ Quốc phòng, ở rất nhiều mặt, gồm có an ninh mạng, tuyển dụng và y tế”, phát ngôn viên Google viết trên một email hôm 17/3.

Trong khi đó, Tướng Hải quân Joseph Dunford, một tướng cấp cao của Hoa Kỳ, Chủ tịch Hội đồng Tham Mưu, tỏ ra đồng ý với Tổng thống trong buổi điều trần trước Thượng viện rằng Google đang gián tiếp giúp đỡ quân đội Trung Quốc.

“Những gì Google đang làm ở Trung Quốc gián tiếp tạo lợi ích cho quân đội Trung Quốc”, tướng Dunford nói. “Chúng tôi theo dõi với quan ngại to lớn khi hoạt động của các đối tác công nghiệp tại Trung Quốc biết rằng có lợi ích gián tiếp đó”, ông nói. “Nói thẳng ra, từ ‘gián tiếp’ có thể không hoàn toàn mô tả được nó thực sự là gì, nó đúng hơn là một lợi ích trực tiếp cho quân đội Trung Quốc.”

Mong muốn trở lại thị trường Trung Quốc không phải là bí mật đối với lãnh đạo Google. Hồi tháng 12/2017, CEO của Google Sundar Pichai đã tham dự Hội nghị Internet Toàn cầu tại Trung Quốc, sự kiện do chính phủ Trung Quốc tài trợ. Ông Pichai khẳng định rằng Google đang trợ giúp các công ty Trung Quốc và nên được cho phép quay trở lại không gian mạng quốc gia này. Việc Google trợ giúp các công ty Trung Quốc tức là Google nhiều khả năng cũng đang tiếp trợ giúp quân đội Trung Quốc (PLA) thuộc sự điều khiển của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
2 trường hợp Google đang gián tiếp giúp quân đội Trung Quốc

Đầu tiên, Google đã đầu tư hơn 550 triệu USD vào tập đoàn thương mại điện tử JD.com của Trung Quốc, tập đoàn sở hữu JD Logistics. Năm 2017, quân đội Trung Quốc PLA đã ký một hợp đồng lớn để hợp tác với 5 công ty phi quân sự của Trung Quốc, trong đó có JD Logistics với mục tiêu nâng cấp “sự hợp nhất ngành logistics giữa quân đội và dân sự”. Sự hợp tác này có thể bao gồm việc sử dụng drone và phần mềm logistics của JD để vận chuyển hàng hóa cho quân đội. Truyền thông nhà nước Trung Quốc tung hô sự hợp tác giữa PLA và JD là hình mẫu sáng tạo của sự kết hợp “quân-dân sự”.

Do Google sở hữu nửa tỷ đô la tài sản của JD.com vốn sở hữu JD Logistics, người ta dễ dàng liên tưởng đến việc Google đang hợp tác với PLA, nhất là Google có thế mạnh về bản đồ và công nghệ drone. CEO của JD, Liu Qiangdong, là Đảng viên chính thức và thường xuyên được báo đảng ca ngợi. Ngoài ra “hợp tác quân-dân sự” cũng là một chiến lược trọng yếu của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, tức ra các công ty tư nhân Trung Quốc phải có nghĩa vụ trợ giúp quân đội nước này. Tóm lại Google đang hợp tác với một công ty Trung Quốc vốn có quan hệ chặt chẽ với ĐCS Trung Quốc và đang trợ giúp quân đội Trung Quốc.

Thứ hai, cuối năm 2017, Google mở một trung tâm thí nghiệm về trí thông minh nhân tạo (AI) tại Trung Quốc với tuyên bố “khoa học không có biên giới”. Cựu Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ Bob Work nhận định: “Bất cứ điều gì đang diễn ra trong trung tâm AI đó của Google sẽ được sử dụng bởi quân đội Trung Quốc.” Ông Work đặt câu hỏi: “Google đang giúp quân đội Trung Quốc, tại sao không phải là quân đội Mỹ?”

Tại sao Google lại lập trung tâm nghiên cứu ở Trung Quốc? Một lý do có thể là vì họ có thể tiếp cận được nguồn dữ liệu khổng lồ ở đó và không chịu ràng buộc bởi hàng đống luật lệ bảo vệ quyền riêng tư như tại Châu Âu và Mỹ. Google cũng đang tuyển dụng lượng lớn nhân viên bản địa. Tính đến tháng 8/2018, Google đã có 700 nhân viên tại Trung Quốc. Theo luật của Trung Quốc, các công ty ở nước này, bao gồm cả các hãng nước ngoài phải thiết lập một tổ chức Đảng. Chưa rõ Google có ngoại lệ hay không.

Nhà nghiên cứu Matthew Robertson viết trong bài tựa “Sự nguy hiểm của việc hợp tác AI với Trung Quốc” đăng tháng 10/2018, “ngoài việc đáp ứng nhu cầu nghiên cứu của chính Google, trung tâm AI của Google tại Trung Quốc không nghi ngờ gì sẽ thúc đẩy tham vọng và các nhân tài AI của Trung Quốc”. Quân đội Trung Quốc chắc chắn sẽ cần các nhân tài này để phục vụ nhu cầu về AI trong vũ khí mà họ nhanh chóng phát triển. Vì vậy, các nghiên cứu về AI của Google tại Trung Quốc có thể không trực tiếp trợ giúp quân đội Trung Quốc, công nghệ AI mà Google phát triển tại Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ được quân đội Trung Quốc sử dụng. Thậm chí nếu Google không trực tiếp chia sẻ công nghệ này với quân đội Trung Quốc, đối tác Trung Quốc của họ sẽ làm như vậy do bị yêu cầu bởi luật.

Trọng Đức
  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #162281 · Replies: 0 · Views: 258

NamQuoc
Posted on: Mar 23 2019, 04:11 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173




  Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #162279 · Replies: 1 · Views: 431

NamQuoc
Posted on: Mar 23 2019, 04:06 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173




  Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #162278 · Replies: 1 · Views: 431

NamQuoc
Posted on: Mar 4 2019, 11:57 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Tik Tok là phần mềm gián điệp của Trung Quốc?


Nền tảng chia sẻ video ngắn Tik Tok của Trung Quốc đang thu hút được rất nhiều người dùng, theo tuyên bố của công ty công ty ByteDancep (chủ sở hữu phần mềm này), mỗi tháng số người dùng tích cực trên toàn thế giới đạt 500 triệu người. Tuy nhiên, gần đây, có trung tâm nghiên cứu tại Mỹ chỉ ra, Tik Tok tiềm ẩn rủi ro về bảo mật, là một trong những công cụ thu thập tình báo của chính quyền Trung Quốc.

Theo số liệu thống kê của Tik Tok, đến cuối năm 2018, Tik Tok đã có mặt tại 150 quốc gia và khu vực trên thế giới, cung cấp dịch vụ với 75 loại ngôn ngữ, số người dùng tích cực hàng tháng lên đến 500 triệu người.

Một công ty nghiên cứu thị trường chỉ ra, đến tháng 10/2018, Tik Tok đã vượt qua Instagram của Facebook và vượt qua cả Youtube; trên chợ ứng dụng Google Play, lượt tải về của Tik Tok đứng thứ 6, còn cao hơn so với thứ hạng của Netflix và Amazon.

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế quốc tế Peterson (Peterson Institute for International Economics) mới đây đã công bố một báo cáo nghiên cứu cho rằng, Tik Tok được thanh niên các nước yêu thích, sẽ tạo thành ẩn hoạn về an ninh trên toàn cầu. Bởi vì Tik Tok sẽ thu thập dữ liệu người dùng, và sẽ gửi những thông tin này về trụ sở chính ở Trung Quốc, sau đó chính phủ sẽ dùng để tạo ra phần mềm giám sát dễ dàng nhận biết khuôn mặt của người nước ngoài, hoặc từ những dữ liệu được phần mềm thu thập có thể lấy ra được thông tin tình báo quân sự phương Tây.

Báo cáo lấy ví dụ chỉ ra, không ít quân nhân trẻ tuổi của Mỹ đều sẽ dùng Tik Tok để đăng những video ngắn của mình, trong đó có nhiều địa điểm quay video đều là ở trong khu vực quân sự.

Do đó, báo cáo nhắc nhở, nếu phần mềm này được sử dụng trên diện rộng, “có thể sẽ tạo thành vấn đề giống như Huawei”.

Về thông tin này, mặc dù tờ “Hoàn cầu Thời báo” (Global Times) của Trung Quốc đã đăng bài viết phản bác mạnh mẽ, chỉ trích cộng đồng phương Tây là “bá quyền dư luận”. Tuy nhiên, tờ Apple Daily đưa tin, nhà nghiên cứu bảo mật máy tính Cheuk Tung Lai thuộc Tổ chức Nghiên cứu Bảo mật thông tin Valkyrie- X (Valkyrie- X Security Research Group) tại Hồng Kông cho rằng, Tik Tok là ứng dụng của Trung Quốc, mặc dù có nhiều máy chủ ở các nước khác, nhưng cuối cùng dữ liệu đều sẽ đồng bộ về Trung Quốc.

Trên thực tế, mặc dù phần mềm Tik Tok được yêu thích ở nước ngoài, nhưng đồng thời cũng khiến cho chính phủ nhiều nước chú ý.

Tại Indonesia, tháng 7/2018, chính phủ đã từng cấm tải Tik Tok. Chính phủ Indonesia giải thích rằng, video trên ứng dụng này liên quan đến nội dung khiêu dâm và phỉ báng thần linh; tại Indonesia cũng từng xảy ra vụ việc một thanh niên trên đường phố dùng phần mềm Tik Tok để quay video gây nguy hiểm cho người khác. Cảnh sát Indonesia cho biết, “dùng Tik Tok có thể ảnh hưởng đến người khác.”

Tại Pháp, tháng 11/2018, cảnh sát từng cảnh báo phụ huynh của các thanh thiếu niên, Tik Tok tiềm ẩn nguy hiểm, khiến cho con cái của họ dễ dàng trở thành mục tiêu của những kẻ phạm tội xâm hại tình dục, có phụ huynh sau khi nghe được cảnh báo của cảnh sát, cũng đã gỡ bỏ ứng dụng này ra khỏi điện thoại.

Rất nhiều phần mềm của Trung Quốc đều có rủi ro về bảo mật.
phần mềm gián điệp

Có 42 ứng dụng trên điện thoại thông minh của Trung Quốc được cảnh báo có nguy cơ về bảo mật. Trong ảnh là 36 ứng dụng điển hình

Đầu năm nay, Tờ Wall Street Journal tại Mỹ tiết lộ, một ứng dụng dự báo thời tiết miễn phí có tên Weather Forecast——World Weather Accurate Radar do công ty TCL tại Thâm Quyến Trung Quốc phát triển đang thu thập dữ liệu người dùng toàn cầu. Mặc dù TCL phủ nhận hành vi “thu thập quá đà” dữ liệu người dùng, nhưng những hồ sơ trong quá khứ cho thấy, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Tập đoàn TCL là Lý Đông Sinh có quan hệ mật thiết với quan chức của Trung Quốc.

Bên cạnh đó, cuối năm 2017, Cục điều tra phân tích Ấn Độ phụ trách thu thập tình báo nước ngoài của chính phủ Ấn Độ và Nhóm nghiên cứu công nghệ quốc gia thuộc Văn phòng cố vấn an ninh quốc gia của thủ tướng Ấn Độ đã đưa ra một bản báo cáo chỉ ra, 42 ứng dụng của Trung Quốc có nguy cơ về bảo mật.

Huệ Anh
  Forum: KIẾN THỨC TIN HỌC · Post Preview: #162235 · Replies: 1 · Views: 1,875

NamQuoc
Posted on: Mar 4 2019, 11:55 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Ứng dụng Tik Tok bị Mỹ phạt 5,7 triệu USD vì thu thập thông tin trẻ em


Theo thông tin từ Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ, nền tảng chia sẻ âm thanh hình ảnh TikTok của Trung Quốc sẽ phải nộp phạt khoản tiền phạt lên đến 5,7 triệu Đô la Mỹ do thu thập trái phép dữ liệu riêng tư của trẻ em. Đây cũng là mức phạt kỷ lục đối với hành vi xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em tại Mỹ.

Theo hãng tin Reuters, Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ (Federal Trade Commission) cho biết, khoản tiền phạt 5,7 triệu USD mà Tik Tok phải nộp lần này đã phá vỡ kỷ lục mức phạt cao nhất về xâm phạm thông tin riêng tư của trẻ em theo Đạo luật bảo vệ trẻ em trực tuyến.

Ứng dụng Tik Tok được phát triển bởi công ty ByteDane của Trung Quốc, ứng dụng này hiện có khoảng 500 triệu người đung trên toàn cầu, giá trị thị trường của ứng dụng này lên đến hơn 15 tỉ USD; năm 2017, Tik Tok mua lại Musical.ly và mở rộng tại thị trường Mỹ, hiện nay, tại Mỹ có khoảng 65 triệu người dùng ứng dụng này.

Chủ tịch Ủy ban Thương mại Liên bang Joe Simons cho biết: “Nhà vận hành của Musical.ly (hiện là Tik Tok) biết nhiều trẻ em sử dụng ứng dụng điện thoại di động này, nhưng trước khi họ thu thập tên tuổi, địa chỉ thư điện tử và các dữ liệu khác của trẻ dưới 13 tuổi, họ không được sự đồng ý của các phụ huynh.”

Ông Joe Simons nói thêm, “Mức phạt kỷ lục này cũng là lời nhắc nhở đối với dịch vụ trực tuyến và các trang web dành cho trẻ em: Chúng tôi rất coi trọng việc chấp hành luật bảo vệ thông tin riêng tư của trẻ em khi trực tuyến, chúng tôi sẽ không khoan nhượng đối với các doanh nghiệp coi thường pháp luật”.

Ủy ban Thương mại Liên bang cũng chỉ ra, ứng dụng Tik Tok này yêu cầu người dùng cung cấp địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, tên người dùng, họ tên, giới thiệu ngắn về bản thân và ảnh cá nhân, nhưng dù biết có rất nhiều người dùng ứng dụng này chưa đủ 13 tuổi, họ cũng không chiểu theo quy định là có được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ mới có thể thu thập dữ liệu.

Tính đến tháng 10 năm ngoái (2018), Tik Tok có lượng người dùng vượt qua Instagram (thuộc Facebook) và Youtube; trên chợ ứng dụng Google Play, Tik Tok đứng thứ 6 trong bảng xếp hạng số lượt tải về nhiều nhất, cao hơn cả ứng dụng Netflix và Amazon.

Trong một báo cáo được công bố hồi tháng 1/2019 của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế quốc tế Peterson (Peterson Institute for International Economics) chỉ ra, Tik Tok được thanh niên các nước yêu thích, sẽ tạo thành ẩn hoạn về an ninh trên toàn cầu. Bởi vì Tik Tok sẽ thu thập dữ liệu người dùng, và sẽ gửi những thông tin này về trụ sở chính ở Trung Quốc, sau đó chính phủ sẽ dùng để tạo ra phần mềm giám sát dễ dàng nhận biết khuôn mặt của người nước ngoài, hoặc từ những dữ liệu được phần mềm thu thập có thể lấy ra được thông tin tình báo quân sự phương Tây.

Báo cáo lấy ví dụ chỉ ra, không ít quân nhân trẻ tuổi của Mỹ đều sẽ dùng Tik Tok để đăng những video ngắn của mình, trong đó có nhiều địa điểm quay video đều là ở trong khu vực quân sự.

Tại Indonesia, tháng 7/2018, chính phủ đã từng cấm tải Tik Tok. Chính phủ Indonesia giải thích rằng, video trên ứng dụng này liên quan đến nội dung khiêu dâm và phỉ báng thần linh; tại Indonesia cũng từng xảy ra vụ việc một thanh niên trên đường phố dùng phần mềm Tik Tok để quay video gây nguy hiểm cho người khác. Cảnh sát Indonesia cho biết, “dùng Tik Tok có thể ảnh hưởng đến người khác.”

Tại Pháp, tháng 11/2018, cảnh sát từng cảnh báo phụ huynh của các thanh thiếu niên, Tik Tok tiềm ẩn nguy hiểm, khiến cho con cái của họ dễ dàng trở thành mục tiêu của những kẻ phạm tội xâm hại tình dục, có phụ huynh sau khi nghe được cảnh báo của cảnh sát, cũng đã gỡ bỏ ứng dụng này ra khỏi điện thoại.

Reuters
  Forum: KIẾN THỨC TIN HỌC · Post Preview: #162234 · Replies: 1 · Views: 1,875

NamQuoc
Posted on: Mar 4 2019, 11:49 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Đại học Minnesota tại Mỹ dừng hợp tác với Huawei


Năm ngoái Mỹ bắt đầu cảnh báo đồng minh về rủi ro khi sử dụng sản phẩm của Huawei, đồng thời khuyên ngăn các nước dồng minh không sử dụng thiết bị của công ty này. Giới học thuật tại Mỹ cũng bắt đầu cân nhắc tới việc từ chối hợp tác với Huawei cũng như từ chối nhận đầu tư và quyên tặng từ Huawei. Gần đây nhất, một cơ sở giáo dục bậc cao tại Mỹ là Trường Đại học Minnesota (University of Minnesota) cũng đã tạm dừng hợp tác với Huawei.
huawei

Ngày 28/2, tờ Minnesota Daily thuộc Đại học Minnesota đưa tin, Phó Hiệu trưởng phụ trách về nghiên cứu khoa học của trường là ông Chris Cramer đã nói trong một bản ghi nhớ gửi đến Viện trưởng các học viện hôm 14/2 rằng, phía nhà trường sẽ không tiếp tục nhận viện trợ từ Huawei, không tiếp tục ký hợp đồng nghiên cứu với Huawei, không tiếp tục chuẩn bị triển khai bất cứ trao đổi thông tin nào với Huawei.

Huawei đã bị Bộ Tư pháp Mỹ truy tố vì liên quan đến các hành vi đánh cắp bí mật thương mại, vi phạm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran và lừa đảo tổ chức tài chính và nhiều cáo buộc khác.

Bản ghi nhớ chỉ ra, với những lo ngại được nêu ra trong các bản cáo trạng này, Đại học Minnesota tin rằng việc đình chỉ hoạt động qua lại với Huawei là điều đúng đắn.

Lệnh cấm sẽ tiếp tục đến khi vấn đề an ninh kinh tế quốc gia được giải quyết

Ông Joseph Konstan, Phó Viện trưởng Học viện Công trình và Khoa học thuộc Đại học Minnesota chia sẻ, đối với Đại học Minnesota mà nói, việc tạm dừng mối quan hệ với Huawei là một bước tiến khác thường và vô cùng nghiêm túc. Nhưng xét theo tình hình hiện nay, điều này là có ý nghĩa.

“Tôi cho rằng, dựa vào những truy tố mà công ty này đang đối mặt và trong trường hợp bất thường này, làm như thế là công bằng”, ông nói.

Ông còn nói thêm, Huawei đã tài trợ cho nghiên cứu của trường thông qua Quỹ Đại học Minnesota. Do chỉ lệnh tạm dừng này, nên dự án CSE vốn được Huawei cung cấp tài chính sẽ không tiếp tục nhận tài trợ từ Huawei trong tương lai nữa.

“Họ (Huawei) bày tỏ sự quan tâm tới công nghệ internet và các công nghệ tiến tiến”, ông nói.

Bản ghi nhớ nói, lệnh cấm của Đại học Minnesota sẽ kéo dài đến khi “vấn đề an ninh kinh tế quốc gia được giải quyết”.

Nhiều trường đại học dừng hợp tác với Huawei

Chính phủ Liên bang Mỹ không khuyến khích công ty Mỹ hợp tác với Huawei hoặc mua thiết bị của công ty này, đồng thời cảnh báo công nghệ của Huawei có thể bị Trung Quốc dùng cho hoạt động gián điệp.

Tháng 6 năm ngoái, Hạ viện Mỹ đã gửi thư đến Bộ trưởng Bộ Giáo dục Betsy DeVos, cảnh báo nếu các trường đại học hợp tác với Huawei, thì có thể tạo thành mối đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc gia. Bức thư này cho biết, việc Huawei có mối quan hệ hợp tác với các đại học tại Mỹ là một mô hình chủ yếu trong chiến lược lấy về công nghệ từ nước ngoài của chính quyền Trung Quốc, đồng thời cũng kêu gọi Bộ Giáo dục Mỹ tiến hành điều tra mối quan hệ giữa Huawei và các cơ sở giáo dục bậc cao tại Mỹ.

Đại học Minnesota không phải là cơ cấu học thuật đầu tiên giữ khoảng cách với Huawei. Hơn 10 trường đại học khác tại Mỹ cũng đã chọn lập trường tương tự. Theo Hãng tin Reuters, Đại học Wisconsin-Madison đang thẩm tra việc liệu nhà cung cấp của trường có tuân thủ Đạo luật Ủy quyền quốc phòng (NDAA) hay không. NDAA đã được ký thành luật vào tháng 8 năm ngoái, đạo luật này cấm đơn vị nhận tài trợ từ chính quyền liên bang sử dụng thiết bị của Huawei.

Đại học Oxford và Đại học California phân hiệu tại Berkeley đều tuyên bố chấm dứt hợp tác nghiên cứu mới với công ty Huawei. Gần đây, một ngôi trường nổi tiếng thế giới là Đại học Stanford cũng tiết lộ, đã ngừng hợp tác nghiên cứu mới với Huawei cũng như ngừng nhận các khoản quyên tặng.

Đại học California phân hiệu tại Berkeley đã dỡ bỏ hệ thống hội nghị video của Huawei đang sử dụng trong trường. Đại học California phân hiệu tại Irvine cũng loại bỏ 5 thiết bị video và âm thanh do doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất.

Huệ Anh
  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #162232 · Replies: 0 · Views: 367

NamQuoc
Posted on: Mar 2 2019, 05:27 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



Tổng thống Trump: Tương lai không thuộc về những người tin vào CNXH


Tổng thống Trump: Tương lai không thuộc về những người tin vào CNXH

Xuân Thành •Chủ nhật, 03/03/2019 • 1.9k lượt xem

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm 2/3 đã có bài phát biểu hơn 2 giờ tại Đại hội Hành động Chính trị Bảo thủ 2019 (CPAC). Ông Trump một lần nữa chỉ trích đảng Dân chủ đang tả hóa mạnh mẽ, đồng thời nhấn mạnh đến tất cả các nghị trình ‘Nước Mỹ trên hết’ của mình.

Trước hàng nghìn chính trị gia bảo thủ có mặt tại Đại hội CPAC 2019, ông Trump khẳng định: “Tương lai không thuộc về những người tin vào chủ nghĩa xã hội. Tương lai thuộc về những người tin vào tự do. Tôi đã nói điều này trước đây và tôi sẽ nhắc lại: Nước Mỹ sẽ không bao giờ là một nước xã hội chủ nghĩa.”

Như bài phát biểu một ngày trước cũng tại CPAC 2019 của Phó Tổng thống Mike Pence, Tổng thống Trump chỉ trích đảng Dân chủ đang thúc đẩy chủ nghĩa xã hội tại Mỹ.

“Những nhà lập pháp đảng Dân chủ bây giờ đang bám cứng vào chủ nghĩa xã hội, họ muốn thay thế quyền cá nhân bằng sự thống trị của chính phủ. Chủ nghĩa xã hội không phải vì môi trường. Nó không phải vì công bằng. Nó không phải vì đức hạnh. Chủ nghĩa xã hội chỉ vì một điều duy nhất được gọi là quyền lực cho giai cấp thống trị.”

Tổng thống Mỹ đã chỉ ra điểm bất cập của Thỏa thuận Mới Xanh (Green New Deal) mà đảng Dân chủ đã giới thiệu ra công chúng gần đây.

Ông Trump nói: “Không có máy bay, không có năng lượng khi gió ngừng thổi, đó là sự kết thúc nguồn điện của bạn. Nó sẽ ép phá hủy hoặc cải tạo lại hầu như mọi cấu trúc tại Mỹ. Có lẽ không có gì cực đoan hơn kế hoạch của đảng Dân chủ nhằm tiếp quản năng lượng của nước Mỹ.”

Ông Trump nói rằng ông khuyến khích đảng Dân chủ bám cứng vào kế hoạch này, ám chỉ rằng điều đó sẽ giúp ông dễ dàng chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020.

“Đây là một kẻ giết người… Tôi muốn họ nắm lấy kế hoạch này… Tôi chỉ muốn là [ứng viên] Cộng hòa chạy đua với họ,” ông Trump nói.

Trong bài phát biểu của mình, ông Trump cũng đề cập tới hầu hết các chủ đề trong nghị trình ‘Nước Mỹ trên hết’ của mình, bảo vệ lập trường của ông về bức tường biên giới, chính sách nhập cư, vấn đề hạt nhân Bắc Hàn…

Ông Trump cũng nhấn mạnh đến nền kinh tế Mỹ đang bùng nổ, số lượng thất nghiệp thấp, sự hồi sinh trong sản xuất, quân sự mạnh hơn và củng cố các giá trị truyền thống.

“Chúng tôi đang khôi phục những di sản vô giá của đất nước chúng ta,” ông Trump nói.

Tổng thống Mỹ giải thích ông sử dụng hệ thống thuế làm đòn bẩy để đảm bảo có được các thỏa thuận thương mại tốt hơn và để bảo vệ những lợi ích của Mỹ với mục tiêu chung là có đi có lại và giảm thuế hoàn toàn.

“Với sự giúp đỡ của quý vị, chúng ta đang đảo ngược hàng nhiều thập kỷ ngớ ngẩn và lừa dối… do những kẻ thống trị thất bại thực hiện, làm giàu cho nước ngoài bằng chi phí của chúng ta. Nước Mỹ đang chiến thắng trở lại, nước Mỹ đang được tôn trọng trở lại và thế giới biết điều đó,” ông Trump nói.

Ông Trump cũng nói về cuộc khủng hoảng tại biên giới phía nam, bảo vệ tuyên bố khẩn cấp quốc gia mà ông đã ban bố để chuyển hướng dòng tiền nhằm xây dựng khoảng 234 dặm hàng rào biên giới Mỹ – Mexico.

Tổng thống Mỹ nhấn mạnh: “Sự hỗn loạn vô luật pháp ở biên giới phía nam của chúng ta cung cấp một dòng tiền béo bở cho một số tổ chức tội phạm nguy hiểm nhất hành tinh này. Các tập đoàn tội phạm giết người liên tục vi phạm biên giới của chúng ta. Chúng ta đang bị xâm lược. Chúng ta đang bị xâm lược bởi ma túy, con người, tội phạm và chúng ta phải chấm dứt điều đó.”

Ông Trump nói về việc đặt dấu chấm hết cho nhập cư theo chuỗi, cấp thị thực theo hình thức quay số ngẫu nhiên, hiện tượng trẻ em mỏ neo (sinh ở Mỹ để có quốc tịch Mỹ) và các thành phố trú ẩn.

“Chúng ta cần một chính sách nhập cư mà mọi người đến đây sẽ yêu đất nước chúng ta và yêu đồng bào của chúng ta. Và điều này bao gồm đóng cửa các thành phố trú ẩn,” ông Trump nói.

Tổng thống Trump cũng lên án đảng Dân chủ ủng hộ phá thai vào giai đoạn cuối của thai kỳ và thậm chí cho phép phá thai không giới hạn tuổi thai.

Ông Trump cũng bảo vệ lập trường của ông về Bắc Hàn. “Tôi vừa trở về từ Việt Nam, nơi tôi đã có các cuộc gặp rất hiệu quả với ông Kim Jong-un. Tôi đã phải rời đi. Bởi vì đôi khi bạn phải rời đi. Thỏa thuận này không phải là thỏa thuận mà tôi có thể chấp nhận được.”

Xuân Thành


  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #162230 · Replies: 0 · Views: 323

NamQuoc
Posted on: Feb 20 2019, 05:22 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173




  Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #162207 · Replies: 1 · Views: 433

NamQuoc
Posted on: Feb 20 2019, 05:13 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 5,513
Joined: 22-September 09
Member No.: 5,173



  Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #162206 · Replies: 1 · Views: 433

165 Pages V   1 2 3 > » 

New Posts  New Replies
No New Posts  No New Replies
Hot topic  Hot Topic (New)
No new  Hot Topic (No New)
Poll  Poll (New)
No new votes  Poll (No New)
Closed  Locked Topic
Moved  Moved Topic
 

Lo-Fi Version Time is now: 28th March 2024 - 05:35 AM