Bàn về thơ Đường luật - Sưu Tầm |
Bàn về thơ Đường luật - Sưu Tầm |
Apr 20 2009, 03:16 PM
Post
#1
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
Bàn về thơ Đường luật
Thơ Đường luật (Luật thi) Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng: “Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của luật thi như sau: a. Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết. b. Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo. c. Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm. Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối. Về đối ngẫu, Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là: Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối. Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là: 1. Chính danh đối, như càn khôn đối với nhật nguyệt. 2. Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao. 3. Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách. 4. Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu. 5. Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng. 6. Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì. (theo sách Thi uyển loại cách) Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoặc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một. Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc sáu câu toàn đối, hoặc tám câu toàn đối. Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên. Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau: các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết). -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:17 PM
Post
#2
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
Thơ Đường Luật "Thể thơ Đường luật, về hình thức, các nhà thi học đều công nhận là toàn hảo. Nhưng nó chỉ thích hợp với những tình cảm đã được tiết chế, với những tâm hồn trầm tĩnh, với những người nặng về đời sống nội tâm. Nó không còn thích hợp với người hiện đại, bởi lòng luôn bị ngoại cảnh chi phối, rất ít khi được yên tĩnh, ung dung, nhịp lòng và nhịp thơ không thể hài hòa với nhau được thỏa đáng". Thơ có nhiều thể, thể nào cũng có ưu điểm, khuyết điểm hoặc nhược điểm. Chúng ta chọn thể thơ Đường luật là vì thể thơ này thích hợp với tâm hồn của chúng ta. Thể thơ này đã bị các nhà Thơ Mới đả kích dữ dội ngót mười năm từ 1932 đến 1941. Bị công kích, đả đảo ngay khi thể thơ mới ra đời, đã bị một số danh gia, như Lý Thái Bạch, Hàn Sơn ... chỉ trích nặng lời, chớ chẳng đợi đến các thi nhân sanh sau hàng ngàn năm. Bị đả kích mà vẫn tồn tại bởi có những ưu điểm. Trừ những kẻ thiên kiến, những người không độ lượng, không ai phủ nhận, không ai nỡ hủy diệt, trái lại còn rũ lòng ấp ủ nâng niu. -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:18 PM
Post
#3
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
Phép dụng tự
Thơ Đường thường dùng thực tự ít dùng hư tự. Các nhà thi học đời sau thường nhận xét rằng: "Thơ mà dùng hư tự không hay". Đó là lời của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên. Người đồng thời cùng họ Triệu là Phạm Phanh nói thêm: "Thơ dùng nhiều thực tự thì mạnh, dùng nhiều hư tự thì yếu". Tạ Trăn cũng nói: "Dùng nhiều thực tự thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hư tự thì ý phồn mà lời yếu". Xét kỹ thì Cổ Thi thường dùng hư tự, Luật Thi thường dùng thực tự. Đường nhân hay dùng thực tự, Tống nhân hay dùng hư tự. Nói là chuyên dùng, ưa dùng ... là chuyên dùng nhiều, ưa dùng nhiều tự loại này hơn tự loại kia đó thôi. Hư tự dùng để đẩy đưa lời thơ, để gắn nối chữ này với chữ nọ. Dùng nhiều thực tự quá câu thơ thành nặng nề. Dùng nhiều hư tự quá câu thơ trở nên lỏng lẻo bên lời, cạn cợt bên ý. Phải sử dụng sao cho thích ứng, cho cân xứng. Như thế mới là diệu thủ. Trong làng thơ Quốc âm, bà Huyện Thanh Quan hay dùng thực tự, bà Hồ Xuân Hương hay dùng hư tự. Tôn Thọ Tường thường dùng thực tự, Trần Tế Xương thường dùng hư tự. Dùng nhiều thực tự thì thơ cô đọng chững chàng. Dùng hư tự vừa phải thì thơ nhẹ nhàng bay bướm. Xin dẫn chứng: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương (Bà Huyện Thanh Quan) Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn (Tôn Thọ Tường) Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu Lòng nương tiếng địch bến vi lô (Tú Xương) Sóng lớp phế hưng coi đã rộn Chuông hồi kim cổ lắng càng mau (Bà Huyện Thanh Quan) Nghi ngút tro tàn nền đạo nghĩa Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh (Tôn Thọ Tường) Thà không trời đất không chi cả Còn có non sông có lẽ nào (Phan Sào Nam) Chiếc bá buồn vì phận mỏng mênh Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng Nửa mạn phong ba luống bập bềnh Cầm lái mặc ai lăm đổ bến Giang chèo thây khách rắp xuôi ghềnh Ấy ai thăm ván căm lòng vậy Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh (Hồ Xuân Hương) Đó là những câu dùng hư tự nhiều mà hay, nhất là câu thơ của Phan Sào Nam thật là hy hữu. Dùng hư tự mà không khéo thì câu thơ thành non nớt, không truyền được cảm, mặc dù trong thơ có nhiều tình: Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa Gang tấc xem bằng mấy dặm xa Một kiếp đã đành rằng để vậy Chín trùng có thấu đến chăng là Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy Tan mặt buồn tênh cái nhện sa Ví biết thân này chi khó bấy Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà Đó là một bài thơ được truyền tụng nhan đề CUNG OÁN. Trong sách "Phép làm thơ" của Diên Hương chép là của Ôn Như Hầu. Theo Quách Tấn nhận xét thì không phải, vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất già dặn, chải chuốt. Thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc đã nổi danh là điêu luyện đến mức, và những câu sau đây, chỉ vài câu còn truyền tụng thôi, cũng đủ chứng minh rằng những câu thơ quá dễ dãi trên đây không phải là di sản của Ôn Như Hầu: Cõi thế lênh đênh thuyền hạo kiếp Lẽ trời lồng lộng võng huyền cơ (Cảm tác - Ôn Như Hầu) Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm Bâng khuâng chuyện những mấy trăm năm (Nghe ếch kêu - Ôn Như Hầu) Lời thơ tự nhiên, lưu loát chớ không quê vụng như bài CUNG OÁN trên. Bài CUNG OÁN có nhiều chữ dư, tức là những chữ không cần thiết, chỉ đem vào cho đủ vế mà thôi. Chúng ta nên tránh. Chẳng những tránh dùng chữ thừa, mà còn tránh dùng một chữ đến 2 hoặc 3 lần, trừ khi cố ý nhấn mạnh, cố ý làm nổi bật một tứ thơ. Lỗi bị trùng chữ rất thường xảy ra. Đến các bậc lão luyện vẫn nhiều khi vấp phải. Như Tố Như trong bài Vọng Phu Thạch. Nhưng vì bài thơ có giá trị của viên ngọc liên thành, cho nên những vết nhỏ kia có thể bỏ qua. Tuy nhiên nếu viên ngọc toàn mỹ thì càng quý bội phần. Tản Đà thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi. Tiên sinh có bài THEO VOI ĂN BÃ MÍA cũng bị phạm lỗi này. Chúng ta không phải như Tố Như, Tản Đà nên đừng bắt chước. Huống nữa đã là lỗi thì dù là của bậc đại gia văn chương đi nữa cũng không nên lấy đó làm gương. Tránh những chữ vô dụng, tránh những chữ trùng điệp. Lại còn phải tránh: 1. Điệp thanh. 2. Điệp âm. 3. Điệp vận. -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:19 PM
Post
#4
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
Trong bài Phép dụng tự có đề cập đến việc bài thơ phải tránh:
1. Điệp thanh 2. Điệp âm 3. Điệp vận Hôm nay xin được tiếp tục bàn về ba điểm trên. Trong phạm vi bài này chỉ bàn về Thơ Thất Ngôn Luật Thi mà thôi (Thơ Ngũ Ngôn Luật Thi sẽ bàn vào một dịp khác). 1. Điệp thanh: Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trong các câu luật trắc vần bằng. Hai chữ ấy đều bình thanh thì thượng đoản hạ trường, hoặc ngược lại (thượng trường hạ đoản), chớ đừng dùng cả hai hoặc đều đoản hay đều trường. Thí dụ 1 (cả hai đều cùng đoản bình thanh): Thành Loa vừa thấy xây vua Thục Ải Lạng quanh coi đuổi giặc Ngô (Nguyễn Đỉnh Ngọc) Câu thơ không có tiếng ngân, hơi thơ đọc xong là đứt không đủ sức đi vào lòng người đọc người nghe. Tuy vậy vẫn còn đỡ hơn chữ thứ 4 và chữ thứ 7 đều cùng trường. Thí dụ 2 (cả hai đều cùng trường bình thanh): Nõn nà sắc nước nhờ ơn nước Ngào ngạt hương trời ngát dặm trời (Lê Thánh Tôn) Câu thơ quặp ở giữa lưng như bụi chuối bị gió thổi gãy, âm hưởng nghe chìm lỉm như tiếng trống bị đùn da. Lỗi này nên tránh. Thượng đoản hạ trường hoặc thượng trường hạ đoản thay đổi nhau thì câu thơ mới hài hảo. Tuy nhiên nếu chữ thứ 4 có một trường bình thanh đứng kề thì câu thơ lại đọc nghe êm tai. Thí dụ: Thay mười tám triệu người ăn nói Mở bốn ngàn năm mặt nước non (Trần Tế Xương) Mấy hàng tóc bạc từng dâu bể Một tấm lòng son giải núi sông (Đặng Xuân Bảng) Nói tóm lại trong một câu Thất Ngôn thì có hoặc 4 tiếng bằng 3 tiếng trắc, hoặc 4 tiếng trắc 3 tiếng bằng thì những tiếng bằng trắc ấy phải có thanh độ khác nhau, câu thơ mới giàu âm nhạc. Trong mỗi câu ít nhất là phải có 1 tiếng trường bình thì nghe mới êm. Nhưng chớ nên dùng nhiều trường bình quá. Nhiều trường bình làm cho câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Trong một câu Thất Ngôn có 4 tiếng bằng thì dùng 2 tiếng trường bình là vừa. Nếu một câu có 3 tiếng bằng mà dùng trường bình cả 3, hoặc 4 tiếng bằng mà dùng đến 3 trường bình thì câu thơ nghe không được du dương trầm bổng, mặc dù không phạm lỗi gì cả. Thí dụ: Trời làm đá nát lại vàng sôi Thiên hạ trông mưa đứng lại ngồi Ngày trước biết gì ăn với ngủ Bây giờ lo cả nước cùng nôi Trâu mừng ruộng nẻ cày không được Cá sợ ao khô vượt cả rồi Tình cảnh nhà ai nông nổi ấy Quạt mo phe phẩy một mình tôi (Trần Tế Xương) Chúng ta nhận thấy câu đầu có 3 trường bình thanh trên 4, âm thanh nghe không được hài mỹ bằng những câu mà thanh độ điều hoà là các câu dưới. -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:20 PM
Post
#5
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
2. Điệp âm:
Điệp thanh thì bằng vào thanh độ và chú trọng hai bình thanh là đoản bình và trường bình. Về điệp âm thì lưu ý đến những tiếng cùng một âm căn, như ban bàn bán bản bãn bạn, thanh thành thánh thảnh thãnh thạnh ... những chữ mà một hay nhiều mẫu tự đứng trước hoặc đứng sau giống nhau, như ba bốn bữa, mây man mác, núi nặng nề ... bối rối mối, mây vây cây v.v... Những chữ đồng âm mà để gần nhau, nhất là ba hoặc bốn chữ cùng một lượt, thì nghe như nói cà lăm, nói lắp bắp, rất chướng tai (cacophonie). Thí dụ: Thượng toạ thiền trung sư sự sứ Đình tiền túy tửu phụ phù phu Đường về xóm cũ mây man mác Nhớ đến người xưa nặng nỗi niềm Gặp mặt cô nàng tôi bối rối May nhờ lúc ấy tối rồi thôi Chúng ta cùng đọc và nhận xét bài thơ sau đây: Vô Đề Tiếng gà bên gối tẻ tè te Bóng ác trông ra loé loẽ loè Non mấy trùng cao chon chót vót Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe Chim tình bậu bạn kìa kia kĩa Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhe Danh lợi không màng ti tí tị Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe Nguyễn Thượng Hiền -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:21 PM
Post
#6
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
3. Điệp vận:
Tương tự như điệp thanh. Điệp vận ở chữ thứ 4 và chữ thứ 7. Nhất là ở những câu luật trắc vần bằng. Thí dụ: Người hỡi Nghiêm Lăng có biết chăng Lòng ta ý gã mấy ai bằng Thôi thôi dại sớm thời khôn sớm Nhắn kẻ chưa què chớ vội khoe Hai đứa chung dòng nước Cửu Long Thương nhau chẳng gặp nát tan lòng Bẽ bàng lối cũ hoa chào gió Thổn thức canh trường nhạn khóc sương Quyên rầu rĩ tiếng chùng dây sắt Nhạn lẻ loi đường thẹn bóng gương Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo Đường đi thiên thẹo quán cheo leo Khi dang thẳng cánh bù khi cúi Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Xiếu mai chi dám tình trăng gió Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh Thơ Thất Ngôn chẳng những tránh điệp vận ở những câu có vần, mà phải tránh cả ở những câu không vần nữa. Và chẳng những phải tránh ở chữ thứ 4 thứ 7, mà còn phải tránh cả ở những chữ thứ 2 và thứ 6 nữa. Thí dụ: Tình quê ấp ủ mùi hương cũ Tin bạn mơ màng bóng nhạn xa Nghĩ mình vốn cũng đa tình lắm Mà dạ người thương chẳng tỏ tường Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Điệp vận ở chữ thứ 4 và thứ 7 gọi là Đại Vận. Điệp vận ở chữ thứ 2 và thứ 6 gọi là Tiểu Vận. Cả hai đều là bệnh của thơ. Những điểm này sẽ được nói thêm trong phần Thi Bệnh sắp tới. -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:22 PM
Post
#7
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
Trong phần trước nói về Phép dụng tự, và bàn về làm thơ nên tránh những điệp thanh, điệp âm, điệp vận v.v... tức là tránh những bệnh của thơ. Thi bệnh không phải chỉ có bấy nhiêu, mà còn hàng chục bệnh khác nữa. Sau đây là phần trích bàn về: THI BỆNH Từ đời Tấn trở về trước, làng thơ không nói đến thi bệnh mặc dù bệnh đã có từ xưa. Đến đời Lục Triều (221-581) sang đời Tùy (581-621), các thi nhân gây ra phong trào nghiên cứu thanh vận, Thẩm Ước đề xướng thuyết Tứ Thanh, Bát Bệnh, được phần đông tao khách hưởng ứng, đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn. Ngũ Ngôn ở đây là Ngũ Ngôn cổ thể. Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Luật Thi đến đời Đường, nghĩa là gần nửa thế kỷ sau mới sản xuất. Cho nên tám bệnh của Thẩm Ước đưa ra không đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Đường Luật được. Mà chúng ta giảng cứu đây là giảng cứu về Luật Thi. Tuy vậy tưởng chúng ta cũng nên biết qua để làm giàu thêm cho cái vốn học vấn. Trước hết chúng ta nên biết rằng tám bệnh kia không phải Thẩm Ước đặt ra. Chính cũng như những bệnh dịch hạch dịch tả, bệnh phong bệnh lao ... ở ngoài đời. Những thi bệnh đã có trong thơ từ khi mới có thơ và thơ càng phát triển, thi bệnh càng sanh thêm nhiều. Thẩm Ước chỉ có công phát hiện và đặt cho mỗi bệnh cái tên. Để cho khách tri âm dễ nhận thấy bệnh, họ Thẩm mới giải rõ bệnh lý, mới tả rõ bệnh trạng, mới thuyết rõ bệnh căn. Nhận thấy được bệnh rồi thì tránh bệnh hoặc trị bệnh không đến nỗi khó khăn. Sau khi Thi luật được điển chế thì phần nhiều bệnh của Thơ Ngũ Ngôn không còn chỗ để xâm nhập. Song những bệnh này bị diệt trừ thì những bệnh khác lại sanh sản. Bởi hễ đời còn người, người dẫu đã văn minh tiến bộ đến đâu, vẫn còn bệnh; thì thơ còn chữ, dù chữ đã tinh luyện đến đâu, cũng vẫn còn bệnh như đời. Cho nên khách làng thơ Đường luật vẫn dùng những bệnh danh của Thẩm Ước để gọi những bệnh mới sanh trong thơ Cận Thể và tương tợ với những bệnh trong thơ Cổ Thể. Danh tuy đồng nhưng bệnh căn và bệnh trạng đều khác. Để bớt rườm rà, ở đây chỉ nói về những bệnh trong Thất Ngôn Luật Thi. Tám bệnh danh thường gặp của Thất Ngôn Luật Thi là: 1. Bệnh Bình Đầu 2. Bệnh Thượng Vỹ 3. Bệnh Phong Yêu 4. Bệnh Hạc Tất 5. Bệnh Bàng Nữu 6. Bệnh Chánh Nữu 7. Bệnh Đại Vận 8. Bệnh Tiểu Vận Hôm nay chúng ta cùng nghiên cứu về thi bệnh thứ nhất, đó là bệnh 1. BÌNH ĐẦU: Bệnh này nằm ở 2 hoặc 3 chữ đầu của 2 liên đứng kề nhau, tức là 2 hay 3 chữ đầu của 4 câu: 4 câu trước hoặc 4 câu giữa hoặc 4 câu sau trong bài bát cú. Hai hay 3 chữ đầu của 4 câu đứng liền nhau không được cùng một tự loại. Nếu cùng một tự loại thì đầu 4 câu trông bằng nhau như để thước mà xắn, nên gọi là Bình Đầu. Bệnh bình đầu ở Ngũ Ngôn có thể do trùng thanh độ mà có. Bệnh bình đầu ở Thất Ngôn Luật Thi do đồng tự loại mà ra. Cổ thể (thơ cổ phong) thì chỉ 2 câu liền nhau đã gây ra thi bệnh. Cận thể (thơ Đường luật) phải 4 câu liền nhau mới có thể sinh ra bệnh. Bệnh căn và bệnh trạng hai bên khác nhau là thế. Các bệnh khác đại để cũng vậy. Xin cử một vài thí dụ về bệnh Bình Đầu: 1. HOA SEN Nắng sưởi ao xanh nắng ửng hường Bèo lây cốt cách súng lây hương Sắc ngời Ngân hán thô màu gấm Bóng dợn Thiềm cung thẹn dáng gương Ơn nước nặng mang tình uỷ ký Lòng tơ riêng vướng nợ văn chương Non xưa sực nhớ hồi ly biệt Tiếng hạc canh dài mộng vấn vương Liên Tâm 2. LĂNG MAI XUÂN THƯỞNG Lưng ngựa ba đông dặm chiến trường Hoành sơn đá chất nghĩa Cần Vương Làu làu bóng rạng gương Hoàng Nguyễn Vọi vọi nền cao tiết Vũ Trương Ôm ấp hùng tâm bia chuốt ngọc Giữ gìn trung cốt đất sanh hương Trăng lên ba biểu chờ tin hạc Một nén tinh thành gió bốn phương Tú Xương 3. CUNG OÁN (1) Trước ốc huỳnh hôn đứng vẩn vơ Thêm ngao ngán cảnh chạnh lòng thơ Hài hoa bước khẽ chiều tha thiết Mắt phụng trông chừng luống ngẩn ngơ Trướng bạc những khi hơi bích lọt Nhà vàng bao thuở thoả ân thừa Âm thầm luống chịu mình u bế Đừng trách đời Đường hạn chẳng mưa Khuyết danh 4. CUNG OÁN (2) Hay cợt người chi một chữ tình Thôi đừng dở rối lại buồn tênh Giọng rầu rĩ dế càng đưa tiếng Mặt ủ ê hoa khéo đạm hình Gió phảng phất chiều kề trước giại Nguyệt mờ mệt vẻ hé bên mành Đến Dương bao nả hơi xuân bén Đành để riêng ai chịu bất bình Khuyết danh Hai bài Cung Oán này là 2 bài thơ cổ khuyết danh (không biết tác giả). Trong sách "Phép làm thơ", Diên Hương ghi là của Ôn Như Hầu. Tuy nhiên nhiều người nghi ngờ là không phải của Ôn Như Hầu vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất lão luyện, còn văn chương 2 bài Cung Oán này (cũng như những bài Cung Oán khác) có phần kém thôi xao. Hai bài này được trích dẫn ra đây chỉ để trình bày về Thi Bệnh mà thôi. Hoàng Thứ Lang không có nhiều thì giờ sao lục, sưu tập những bài thơ theo từng loại thi bệnh của nhiều tác giả để cùng các bạn phân tích cho thêm phần phong phú. Tuy nhiên, nếu có thể được thì Hoàng Thứ Lang sẽ làm từ từ để có dịp hầu chuyện cùng các bạn. -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:26 PM
Post
#8
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
THI PHÁP: PHÂN TÍCH THƠ CỦA CÁC DANH GIA THI SĨ
Topic nầy chỉ đơn cử mỗi tác giả 1-2 bài thơ điển hình, gặp đâu trích đó. Không thể trưng dẫn hết được, vì quá nhiều. Và cũng không thể lượt qua hết các tác giả. 1. NGUYỄN KHUYẾN VỊNH MÙA HÈ Biếng trông trời hạ nước non xa Ý khí ngày thường nghĩ đã trơ Cá vượt khóm rau lên mặt nước Bướm len lá trúc lượn rèm thưa Thơ Đào cửa miệng đưa câu rượu Xóm Liễu quanh khe chịu tiếng khờ Nhân hứng cũng vừa toan cất chén Sấm đông rầm rập gió nồm đưa Nguyễn Khuyến Phân tích: Chúng ta nhận thấy bài thơ này bị thất đối ở cả 2 cặp trạng và luận. Nặng nhất là thất đối ở những chữ cuối câu. Thơ Nguyễn Khuyến (tiếp theo) HỎI THĂM QUAN TUẦN BỊ MẤT CƯỚP Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông Nó lại lôi ông đến giữa đồng Lấy của đánh người quân tệ nhỉ Xương gà da cóc có đau không Bây giờ mới thấy trầy da trán Ngày trước đi đâu mất mảy lông Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa Kẻo mang tiếng dại với phường ngông Nguyễn Khuyến Chúng ta nhận thấy bài này bị phạm lỗi đại vận và không chỉnh đối về phân tích tự loại. Thơ Nguyễn Khuyến (tiếp theo) CẢM HỨNG Ngày trước cũng lên lạy cửa trời Lâu nay vắng vẻ bặt tăm hơi Nước non man mác về đâu tá Bè bạn lơ thơ sót mấy người Đời loạn đi về như hạc độc Tuổi già hình bóng tựa mây côi Đã hay nhờ được hao mòn lắm Một thí lòng son chửa rõ mười Nguyễn Khuyến Bài thơ này cũng vậy, bị thất đối. Cụ Nguyễn Khuyến là một đại danh gia thi sĩ cho nên nhiều người đời sau không dám chê vì nghĩ rằng cụ học rộng hiểu nhiều nên làm thì phải đúng, mà đúng thì phải theo. Chúng ta phải khách quan mà nhận xét, không thể hùa theo như vậy. Cũng như nếu chúng ta viết sử thì không thể nói Trần Thiêm Bình, Lê Chiêu Thống là yêu nước được. -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:29 PM
Post
#9
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
2. HỒ XUÂN HƯƠNG
ĐÁNH ĐU Tám cột khen ai khéo khéo trồng Người thì lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phất phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song Chơi xuân ai biết xuân chăng tá Cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không Hồ xuân Hương Phân tích: Chúng ta nhận thấy bài thơ này bị phạm lỗi Đại Vận. -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:30 PM
Post
#10
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
Thơ Hồ Xuân Hương (tiếp theo) ĐÈO BA DỘI Một đèo một đèo lại một đèo Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo Cửa son đỏ loét tùm hum nóc Hòn đá xanh rì lún phún rêu Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo Hiền nhân quân tử ai là chẳng Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo Hồ xuân Hương Bài thơ này bị thất niêm, nhưng người đời sau không dám nói lên sự thật mà nói thác ra rằng đó là bài thơ phá cách. Đã là luật thì không có phá. Chỉ có làm sai mà không kiểm lại trước khi lưu hành. Sách dạy: dù cho đó là danh gia thi sĩ, nhưng chúng ta không thể lấy cái sai của họ mà làm gương bắt chước theo. Cũng như chúng ta không thể bẻ cong ngòi bút mà viết sách nói trái đất hình vuông ! -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:30 PM
Post
#11
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
Thơ Hồ Xuân Hương (tiếp theo)
CẢNH THU Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ Xanh um cổ thụ tròn xoe tán Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ Bầu dốc giang sơn say chấp rượu Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ Ơ hay cảnh cũng ưa người nhỉ Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ Hồ xuân Hương Thơ của Bà Hồ Xuân Hương có nhiều bài bị lỗi điệp ngữ, ngoại trừ những bài cố ý dùng kỹ thuật điệp ngữ pháp. -------------------- Mmm |
|
|
Apr 20 2009, 03:31 PM
Post
#12
|
|
Bảo vệ Tổ Quốc Group: Trang Chủ Posts: 11,665 Joined: 7-April 08 Member No.: 6 Country |
Thơ Bà Huyện Thanh Quan 3. BÀ HUYỆN THANH QUAN QUA ĐÈO NGANG Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân ngoảnh lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta Bà Huyện Thanh Quan Bài thơ này bị lỗi Tiểu Vận. Bà Huyện Thanh Quan được tiếng là người rất nghiêm khắc về luật thơ, nhất là chữ thứ 5 của mỗi câu. Nhưng Bà lại không tránh được chỗ này, chữ ta (chữ thứ 5 câu 8) sai luật làm thất niêm với chữ bóng, chữ thứ 5 câu 1 (vì trắc và bằng không niêm với nhau được - theo phép niêm thì câu 1 niêm với câu 8). Sách dạy: dù cho đó là danh gia thi sĩ nhưng chúng ta không thể lấy cái sai của họ để làm gương mà bắt chước theo. Cũng như chúng ta không thể nói trái đất hình vuông !!! -------------------- Mmm |
|
|
Lo-Fi Version | Time is now: 18th November 2024 - 06:16 PM |