Welcome Guest ( Log In | Register )

Profile
Personal Photo
Options
Options
Personal Statement
sactoc doesn't have a personal statement currently.
Personal Info
sactoc
Bảo vệ tổ quốc
Age Unknown
Gender Not Set
Location Unknown
Birthday Unknown
Interests
No Information
Other Information
Country: Afghanistan
Statistics
Joined: 23-October 09
Profile Views: 714*
Last Seen: 11th February 2012 - 11:01 AM
Local Time: May 27 2024, 07:12 PM
82 posts (0 per day)
Contact Information
AIM No Information
Yahoo No Information
ICQ No Information
MSN No Information
* Profile views updated each hour

sactoc

Members

***


Topics
Posts
Recent wiki edits
ibProBattle
Arcade
Blog
Shared Photos
Comments
Friends
My Content
5 Jan 2011





“LỬA TRẦN VĂN BÁ” VẪN TIẾP TỤC CHÁY!


Trong cuộc chiến Việt Nam vừa qua, một trong những tờ báo mà người Việt Quốc Gia miền Nam hết sức căm ghét là tờ l’Express của Pháp. Trong cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân miền Nam chống lại cuộc xâm lăng của Cộng sản miền Bắc, tờ báo này đã gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại cho phía những người Quốc Gia. Tờ báo này qua tay bỉnh bút thiên tả nặng ký Oliver Todd đã ra rả tung hô Hồ Chí Minh, đã bỏ công lặn lội vào các vùng do Cộng sản kiểm soát ở miền Nam và ca tụng, thần thánh hóa những cán binh Cộng Sản như những anh hùng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau tháng Tư năm 1975, sự thật đã làm Oliver Todd mở mắt. Tháng 6-1978, tuần báo l’Epress đã đăng một bài mang tựa đề “Le Goulag Indochinois” (tạm dịch Đông Dương: Quần đảo Ngục Tù). Đây là một bài viết chứng minh sự phản tỉnh hoàn toàn của Oliver Todd.

Trong bài viết, ký giả phản tỉnh Oliver Todd đã nhắc tới một lời phát biểu của văn hào Nga lưu vong Solzhenitsyn. Trong cơn hấp hối của miền Nam, đoán trước sự chiến thắng của Cộng sản và những gì họ sẽ làm trong tương lai ở Việt Nam, ngày 11 tháng Tư năm 1975, văn hào người Nga này đã gửi đến thế giới một thông điệp vắn tắt: “Toàn thể nước Việt Nam sẽ trở thành một trại tập trung.” Lời tiên đoán này đã trở thành sự thật.

Tiếp theo đó, Oliver Todd còn viết nhiều bài vạch trần những mặt trái của xã hội Cộng sản mà bấy lâu nay được che lấp bởi hào quang và huyền thoại. Một trong những tác phẩm của Todd là quyển “Cruel Avril 1975: La Chute de Saigon” (tạm dịch Tháng Tư Đen 1975: Sự sụp đổ của Sàigòn) để tưởng niệm và tôn vinh một người Việt Nam mà ông đã có dịp gặp gỡ: Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Paris Trần Văn Bá.

Có lẽ mọi người còn nhớ, Trần Văn Bá là con của cố Dân biểu Trần Văn Văn, du học tại Pháp từ trước 1975 và giữ chức Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris. Trong những ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp lúc ấy là Nguyễn Duy Quang đang chuẩn bị bàn giao Đại sứ quán VNCH tại Paris cho đại diện Ngoại giao của Cộng sản và không thiêu hủy các hồ sơ mật. Chính Trần Văn Bá đã cùng các sinh viên trong Tổng hội Sinh viên Việt Nam trèo lên tầng lầu chứa các hồ sơ và tiêu hủy các hồ sơ đó.

Ai đã từng theo dõi cuộc đấu tranh chống Cộng của người Việt tại Pháp trong giai đoạn 1975-1980 chắc hẳn không ai mà không biết Trần Văn Bá, một trong những người lãnh đạo chủ chốt.

Cùng với các ông Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh (đồng Chủ tịch Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam), Trần Văn Bá trở thành một trong những bộ óc lãnh đạo của tổ chức kháng chiến này.

Ngày 6 tháng 6 năm 1980, sau 5 năm chuẩn bị và trăn trở suy nghĩ, chán ngán các trò tranh đấu chống Cộng bằng những cuộc thảo luận tại những phòng khách sang trọng ở các thành phố, thủ đô Pháp, Mỹ, Trần Văn Bá bay sang Thái Lan. Dưới bí danh C.4 trong tổ chức, anh đã góp phần tuyển mộ, tổ chức, huấn luyện cho các chiến sĩ kháng chiến, chuẩn bị xâm nhập quốc nội.

Kỷ niệm hai năm ngày rời Paris, từ vùng hoạt động, anh gửi ra ngoài một lá thư, có đoạn viết:

“Tôi vẫn mạnh khoẻ. Thật là gay go và cực khổ. Nhưng tôi cảm thấy được sự liên đới mật thiết giữa tôi với quê hương nghèo khổ, bất hạnh và đói khát. Công cuộc giải phóng đất nước, chủ yếu sẽ là công trình của những người kháng chiến quốc nội, chứ không phải của các chính trị gia lưu vong.” (do tác giả bài này in đậm).

Trong những ngày anh còn ở Thái Lan, ông Trần Văn Tòng, anh ruột của anh (sau này là Chủ tịch Ủy ban Quốc tế Trần Văn Bá, trụ sở ở Paris) đã đến thăm và đã được anh tâm sự: “Quả thật là em đang làm cái chuyện đội đá vá trời.”

Và rồi, từ giã C.1 (bí danh của ông Lê Quốc Túy) anh cùng C.2 (bí danh của ông Mai Văn Hạnh) và một số chiến hữu khác mang vũ khí, đạn dược, phương tiện liên lạc xâm nhập quốc nội.

Sa cơ, anh và ông Mai Văn Hạnh cùng một số chiến hữu cùng xâm nhập và một số chiến hữu cơ sở quốc nội bị Cộng sản bắt.

Bạo quyền Hà Nội đã mở một phiên tòa hát bội, được quảng cao rùm beng ngày 19-12-1984 tại Nhà hát Thành phố Sàigòn để xử anh cùng 21 chiến hữu khác trong tổ chức.

Phiên tòa này, thực chất chỉ là một cuộc trình diễn hình thức và đọc lên các phán quyết đã được định trước: 5 án tử hình dành cho các ông Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, giáo sư Hồ Thái Bạch, Huỳnh Vĩnh Sanh và Lê Quốc Quân (em của ông Lê Quốc Túy).

Trước phiên tòa, Trần Văn Bá đã giữ trọn vẹn khí phách của một chiến sĩ Quốc Gia can trường. Mặc dù theo luật, các tử tội có thể xin ân xá, nhưng anh đã thẳng thừng từ chối.

Trong số những người từ bên ngoài xâm nhập Việt Nam để hoạt động, có hai người lãnh án tử hình là Trần Văn Bá và Mai Văn Hạnh. Ba người còn lại thuộc cơ sở quốc nội. Trong những người này, chỉ có ông Mai Văn Hạnh là thoát khỏi mũi súng của đội hành quyết. Là công dân Pháp, ông được chính phủ Pháp tích cực can thiệp và đã được thả về Pháp sau nhiều năm tù. Trần Văn Bá và các chiến hữu khác đã lần lượt đền nợ nước trong năm 1985.

Trong phiên tòa, một cán bộ cao cấp của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, đóng vai trò công tố viên, đã lồng lộn quy kết cho Trần Văn Bá và các chiến hữu của anh những tội danh nặng nề nhất. Đồng thời cũng lên án các “thế lực phản động quốc tế, bọn bành trướng Bắc Kinh, quân phiệt Thái Lan” đã tiếp tay hỗ trợ cho Mặt Trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam. Đặc biệt Hà Nội đã tố cáo đích danh Tình báo Lục quân Thái Lan do Tướng Yongchaiut, Tham mưu trưởng Lục quân Thái Lan vào lúc đó chỉ huy đã tận tình giúp đỡ tổ chức này. Youngchaiut sau này trở thành Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Thái Lan và đã qua thăm Việt Nam.

Anh Trần Văn Bá đã chết. Hai mươi sáu năm đã trôi qua. Oliver Todd đã đặt câu hỏi:

“Cũng như những người kháng chiến vô danh khác, Trần Văn Bá là người của lý tưởng hay thực tế, can đảm hay mạo hiểm? Anh là một anh hùng gương mẫu hay là một kẻ tuẫn đạo vô ích? Cuộc đấu tranh mà anh Bá theo đuổi là một cái gì đó mơ hồ, tuyệt vọng hay một thách đố xứng đáng để chúng ta kính phục, thông cảm và ủng hộ?”

Đối với người Việt Nam chúng ta, có lẽ không cần thiết phải đặt ra một câu hỏi như vậy. Rõ ràng anh Trần Văn Bá là một người tranh đấu vừa lý tưởng vừa thực tế, can trường và dám mạo hiểm. Anh là một anh hùng gương mẫu và là một kẻ tuẫn đạo, và con đường anh đã theo đuổi, cuộc đấu tranh của anh là một thách đố hết sức xứng đáng để chúng ta kính phục và hết lòng biết ơn.

*

Mười lăm năm sau, vào ngày Quốc hận 30 tháng Tư năm 2000, tại Paris, một phụ nữ Việt Nam đã quyết định dùng thân xác của mình để đốt lên ngọn lửa Trần Văn Bá. Trong những lời trăn trối để lại của người phụ nữ này, có đoạn như sau:

“…Thế hệ cha anh của chúng ta đã dần dà yếu đuối, kiệt sức sau bao cảnh khốn cùng, đầy thương tích quá khứ. Vậy thì thế hệ chúng ta còn lại đây, không còn chờ đợi gì nữa, không thể trông cậy vào ai, nhất là không thể trông đợi vào quốc tế. Quốc tế vì quyền lợi của họ, họ đã mặc nhiên trên sự thống khổ của dân tộc ta, họ đã bị cái hỏa mù “Đổi mới”, cái lớp sơn che đậy sự mục rữa của một chế độ ung thối. Chúng ta phải có nhiệm vụ tẩy rửa cái lớp sơn đó ra, vạch trần nó trước công luận quốc tế… 25 năm qua, cũng ngày tháng tang thương này, biết bao xương máu của đồng bào và chiến sĩ đã đổ xuống, trước cảnh oan khuất, trước cảnh Việt Nam thân yêu bị bức tử bao nhiêu người đã liệt oanh tử tiết; dân tộc ta không thiếu anh hùng, không thiếu người dám nằm xuống cho quê hương, mà chúng ta chỉ thiếu lòng tin tưởng ở nhau 25 năm nay, cũng có biết bao nhiêu kẻ âm thầm hy sinh; nơi thủ đô Paris mà chúng ta đang đứng hôm nay, cũng có dấu chân của anh hùng Trần Văn Bá, có những anh em vừa thoát khỏi nhà tù Cộng sản. Hỡi anh chị em, chúng ta hãy đốt lên ngọn lửa Trần Văn Bá trong mỗi con người chúng ta…”

Người phụ nữ quyết định dùng thân xác của mình để đốt lên ngọn lửa, tự nguyện làm ngọn đuốc với lòng căm phẫn để lên án chế độ Cộng sản phi nhân, nhằm mục đích nối tiếp ngọn lửa Trần Văn Bá có tên Nguyễn Thị Ngọc Hạnh.

Ước vọng dùng thân xác của chính mình để đốt lên ngọn lửa Trần Văn Bá của chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã không thành. Nhưng không ai đem thành bại mà luận anh hùng! Không ai có thể chối cãi là ngọn lửa Trần Văn Bá sau 15 năm âm ỉ giờ lại bùng cháy mãnh liệt sau hành động phi thường của chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh.

Sau 15 năm âm ỉ, ngọn lửa Trần Văn Bá đã và đang bùng cháy mãnh liệt từ hải ngoại đến quốc nội.

*

-Ngày thứ Năm 31-8-2000, lúc 19 giờ 45, cũng chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã dùng xăng đốt lá cờ đỏ, sao vàng và tấn công sứ quán CSVN tại Luân Đôn, Anh Quốc.

-Ngày thứ Sáu 1-9-2000, lúc 11 giờ 15 phút, “lão tướng” Trần Hồng đã tới trước sứ quán Cộng sản tại Pháp để tuyên án khai tử chế độ Cộng sản Việt Nam bằng một hành động có tính cách tượng trưng, nhưng quyết liệt khi dùng súng bắn vào quốc huy của CSVN gắn trước mặt tiền sứ quán Hà Nội.

Không đầy 24 tiếng đồng hồ sau, pháp đình Paris đã đem vụ “lão tướng” ra xét xử. Ký giả Dominique Simonot của tờ Libération ngày 4-9-2000 trong mục “Sổ tay Tòa án” đã viết như sau:

“… Một người đàn ông nhỏ bé đứng dậy, đó là ông Trần, sanh năm 1930 tại Việt Nam. Một người (quốc tịch) Pháp làm trong ngành hàng hải thương thuyền đã về hưu. Ông Trần đã bị bắt trước sứ quán Việt Nam. Sau khi đốt một lá cờ CSVN, và với khẩu súng bắn hỏa pháo, ông ta đã bắn vào cái quốc huy gắn trên mặt tiền sứ quán. “Ông là một thuyền nhân và ông luôn luôn bày tỏ thái độ oán ghét của ông đối với chính phủ (CS) Việt Nam.” Bà chánh án đọc lớn: “Cách đây 4 năm ông Trần đã lái một chiếc xe ủi đất xông vào sứ quán.” Tại ghế bị can, ông Trần đã trả lời trước tòa: “Tôi là một người Quốc Gia, tỵ nạn tại đây và tôi có một mối thù sâu đậm với cộng sản. Hàng triệu đồng bào tôi đã phải chạy trốn, và hàng ngàn người đã chết trên biển để vinh danh cho Tự do” ông nói lớn không ngừng. “Tòa đã hiểu, bà Chánh án ngắt lời, ông không tin là có những phương tiện khác ngoài việc phải phạm tội?” Ông Trần trả lời: “Mọi phương tiện đều tốt, việc này nhắc lại cuộc kháng chiến chống Đức Quốc Xã tại Pháp, những kháng chiến quân này đã không tuân theo luật của ông Pétain. Với tôi cũng vậy.” (Bản dịch của Từ Ngọc Lê).

-Ngày 15-9-2000, vào lúc 10 giờ 30 sáng, phái đoàn Ủy ban Phát huy Chính nghĩa Dân tộc với sự tham gia của lão tướng Trần Hồng đã có mặt tại Luân Đôn tham dự buổi xét xử chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh tại tòa án hình sự West London Magistrates Court. Vì luật sư được cảnh sát Anh đề cử đã không can thiệp tốt cho chị Ngọc Hạnh, cốt đưa chị Ngọc Hạnh vào tội danh hình sự nên phiên tòa ngày 15-9 tòa chỉ giải quyết việc thay luật sư bào chữa cho chị Ngọc Hạnh. Tưởng cũng biết, trong buổi khảo cung trước khi đưa ra phiên xử ngày 15-9, chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã tuyên bố:

“Tôi không tranh đấu cho cá nhân tôi, mà tôi tranh đấu cho cả dân tộc tôi.”

Theo bản tin được báo chí phổ biến thì “Cuối cùng tòa quyết định không cho bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh được tại ngoại hầu tra. Trong vòng từ 4 đến 6 tuần, hồ sơ điều tra của cảnh sát mới chuyển đến tòa và do đó mới biết ngày xử.” Cũng theo bản tin thì, “Khi bà Ngọc Hạnh đưa về nơi giam giữ, đã quay lại nói thật lớn: “Tòa xử ép tôi, tôi sẽ chết để anh em đứng lên!” Một cảnh não nùng, người đàn bà nhỏ bé bị những người cảnh sát to lớn lôi kéo.”

Từ nhà tù Anh Quốc, chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh cũng đã gửi huyết thư đến đồng bào hải ngoại tố cáo nhà cầm quyền Anh Quốc đang âm mưu bóp nghẹt tiếng nói đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền của những người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng sản mà chị là nạn nhân.

-Năm 2001, chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đến Hoa Kỳ, tìm cách vào khách sạn Mariott là nơi Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ Tướng VC (lúc đó) và phái đoàn họp báo, lên tiếng tố cáo chế độ Cộng sản không có Tự do, Dân chủ và Nhân quyền. Chị bị chính quyền Hoa Kỳ bắt giữ và đưa ra tòa xử 5 năm tù giam về tội âm mưu khủng bố. Chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã từ chối lời đề nghị nhận tội để được giảm án với mục đích tố cáo tội ác của chế độ CSVN tại tòa án Hoa Kỳ.

Ngày 07 tháng 09 năm 2006, chị Ngọc Hạnh “đặt chân xuống phi trường Charles de Gaule, trở về với khung trời tự do sau khi mãn án 5 năm lao tù cộng thêm gần 6 tháng tù ở nhà tù Sở Di Trú Hoa Kỳ (United Sates Immigration Department)” (trích “Thế Lực Đen” tự truyện Nguyễn Thị Ngọc Hạnh” đã xuất bản khắp hải ngoại).

Dù yêu thương hay thù ghét, không ai có thể phủ nhận “anh thư” Nguyễn Thị Ngọc Hạnh là những người đã đem cả mạng sống của mình để đấu tranh cho tự do, dân chủ cho một nước Việt Nam tự do, không cộng sản.

Cũng như anh hùng Trần Văn Bá, chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh xứng đáng là biểu tượng tiếp nối cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền!

Lửa Trần Văn Bá đã tiếp tục rực sáng ở trong nước với các cuộc tranh đấu bền bỉ của Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Linh mục Nguyễn Văn Lý, các Hội Thánh Tin Lành, Phật Giáo Hòa Hảo và những nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ khác ở trong nước.

*

Bài viết này xin được coi như một nén hương tưởng niệm kính gửi đến hương hồn liệt sĩ Trần Văn Bá – người mà cách đây 26 năm đã từ bỏ ánh đèn sân khấu Paris, cùng các đồng chí về nước tranh đấu để mưu tìm một cuộc sống tự do, dân chủ nhân quyền cho toàn dân Việt Nam. Và anh đã bị bạo quyền VC xử tử vào ngày 8 tháng 1 năm 1985.

Cái chết của anh sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường để chúng ta tiếp tục cuộc tranh đấu giành lại tự do, dân chủ và nhân quyền cho 87 triệu người dân trong nước.

NGUYỄN THIẾU NHẪN
5 Jan 2011



NẦY THANH NIÊN ƠI!

Nầy thanh niên ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi.
Ðồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.



“Nầy Thanh Niên ơi! Ðứng lên đáp lời Sông Núi. Ðồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống…”. Hơn 60 năm trước, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã sáng tác bản nhạc này với những lời tha thiết, giọng nhạc hùng hồn để kêu gọi sinh viên Việt Nam đứng lên đấu tranh cho một Việt Nam Ðộc Lập, thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã lợi dụng tinh thần bài hát này mà xách động sinh viên, thanh niên, học sinh cũng như các tầng lớp người trẻ đứng lên, cả Lưu Hữu Phước cũng đứng lên theo để “kháng chiến chống Pháp giành độc lập”. Nhưng khi Pháp phải đầu hàng trong trận Ðiện Biên Phủ, Hồ Chí Minh đã xác định “Nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”. Ðây là lời tuyên bố của Hồ Chí Minh, được in trong cuốn “Lịch sử Ðảng Cộng Sản Ðông Dương”, trang 29 do nhà xuất bản sách giáo khoa Mác Lênin, Hà Nội, năm 1979, tức là lời tuyên bố này là sự thật. Nói cách khác, Cộng Sản chính thức xác nhận Hồ Chí Minh đã lợi dụng máu xương của thanh niên Việt Nam để “làm việc” cho Cộng Sản Quốc Tế. Cũng vì phục vụ cho quyền lợi của Quốc Tế Cộng Sản mà trong suốt thời gian gọi là “kháng chiến chống Pháp”, Việt Minh, tiền thân của Việt Cộng đã bày trò “Chính Phủ Liên Hiệp” để rồi thủ tiêu các đảng phái Quốc gia chống Pháp không Cộng Sản. Cũng vì phục vụ Cộng Sản, Hồ Chí Minh đã hỗn láo khi viếng đền Ðức Trần Hưng Ðạo:

“Bác đưa dân tộc qua nô lệ,

Tôi dẫn Năm Châu đến Ðại Ðồng”.

Hồ Chí Minh không phải là người Việt Nam, hay là một người Việt Nam đã bị nhồi sọ, biến thành kẻ phản bội tổ quốc Việt Nam.

Hồ Chí Minh là người Cộng Sản. Nguyên việc lợi dụng xương máu của dân tộc để phục vụ Nga, Tàu đã là kẻ phản bội quốc gia dân tộc. Các bạn sinh viên học sinh trong nước các thế hệ qua đã phải học “lịch sử đảng Cộng Sản”, và chắc chắn các bạn cũng biết chủ nghĩa Cộng Sản là ảo tưởng, là tai họa cho nhân loại, nhưng vì phải học để lên lớp, để có bằng cấp, để có địa vị v.v… nên dù biết bản chất Cộng Sản là như vậy, vẫn hùa theo bọn chúng vì quyền lợi cá nhân mình. Khi cá nhân tôi trong một cuộc phỏng vấn đã hỏi ông Hoàng Minh Chính nghĩ gì về vụ Hồ Chí Minh chỉ thị Phạm Văn Ðồng gởi thư cho Chu Ân Lai ngày 14.9.1958 đồng ý dâng cho Trung Cộng một số lớn diện tích lãnh hải chúng ta trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Ông ta xác nhận: “Hồ Chí Minh có tội phản quốc vì lúc đó, Hồ Chí Minh là Chủ Tịch Nước kiêm Tổng Bí Thư Ðảng”. Ông Hoàng Minh Chính cũng cho biết là phần lớn đảng viên Cộng Sản đều biết hành động đó là “phản quốc” nhưng “vì tôi là đảng viên Cộng Sản nên không thể phản đối”. Ông Hoàng Minh Chính và các đảng viên cao cấp Cộng Sản cũng đã đặt Ðảng của họ trên Tổ Quốc. Hơn nữa, vì là “đảng viên Cộng Sản” cũng có nghĩa là vì quyền lợi vật chất mà nhắm mắt, bịt tai trước những hành động bán nước buôn dân của Cộng Sản.

Cái đau đớn nhất cho dân tộc là vì Hồ Chí Minh vâng lời Mao Trạch Ðông, thực hiện Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Ðất giết hơn 200 ngàn người Việt vô tội, chỉ vì họ có một vài mẫu ruộng, có khi chỉ 5 sào ta, nhưng phải bị giết cho đủ chỉ tiêu! Sự kiện đau đớn này càng chứng minh Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản phản bội nước Việt Nam. Những sự kiện này, các tầng lớp dân chúng miền Bắc, qua các thế hệ biết rõ ràng, những gì xảy ra sau năm 1975 cho Ðất Nước, người trong nước được mục kích hằng ngày.

Nhưng, có lẽ có bạn trẻ sẽ cho rằng đó là quá khứ. Ðiều đó cũng đúng, vậy thì chúng ta thử xét hiện tại Ðảng Cộng Sản có là người Việt Nam hay vẫn là người Cộng Sản? Vẫn chủ trương buôn dân bán nước? Hay còn tệ hơn buôn dân bán nước là sáp nhập Việt Nam vào lãnh thổ Trung Cộng?

Như trên đã nói, các bạn trẻ, sinh viên học sinh biết rất rõ những gì xảy ra cho dân tộc, tuy nhiên, để “nói có sách, mách có chứng”, tôi xin đang cử một số lời phát biểu của 22 nhà “trí thức” trong nước để mọi người thêm mạnh tin Cộng Sản hành động y như họ không phải là người Việt Nam trong hiện tại. Tất cả những gì mà 22 nhà trí thức này phát biểu chắc chắn là đúng sự thật, đúng lý luận, tiếc rằng Trung Ương Ðảng cũng như Bộ Chính Trị không cho phổ biến và chắc chắn họ cũng sẽ không nghe những ý kiến xây dựng này.

Hiện tình đất nước và những gì đảng Cộng Sản đã và đang làm có thể chia làm 2 phần, một là đối với dân tộc, hai là đối với Trung Cộng.

Ðối với dân tộc: VC xem dân tộc như là một thực thể sở hữu của họ, vì thế họ khai thác thân xác phụ nữ tối đa, lớp thì “lấy chồng Ðài Loan, Ðại Hàn”, lớp thì bán ra hải ngoại làm điếm, lớp thì khai thác phụ nữ để tổ chức mãi dâm hầu khắp đất nước. Của cải của dân cũng là của đảng viên VC qua các vụ dân oan, chiếm nhà thờ và chùa chiền v.v… Thậm chí, các em nữ sinh cũng là “vật sở hữu của đảng viên Việt Cộng”. như chuyện đã xảy ra ở Hà Giang mà ai cũng biết. Còn rất nhiều bằng chứng, rất nhiều sự kiện rất đau lòng. Trong lúc các bạn trẻ phải học ngày, học đêm, phải nhồi nhét những điều sai trái nhưng phải học để trúng tuyển thì đảng viên Cộng Sản không học cũng có bằng: bằng tại chức, bằng giả! Tóm lại là Việt Cộng coi đất nước và dân tộc là vật sở hữu của họ, cho thuê đất, bán đất, lấy đất của dân bán cho tư bản ngoại quốc v.v… Các nhà trí thức, là những kẻ đã từng có quyền lực, điều hành việc nước, và cũng là cựu đảng viên hay còn là đảng viên cũng nhận định chính xác: “Những khái niệm lớn của loài người là dân chủ, là nhà nước pháp quyền, là xã hội dân sự” (TS Trần Ðình Thiên). Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh: “Tất cả các nội dung mà liên quan đến cái việc phát huy quyền dân chủ của người dân thì đều đã không thực hiện. Và cái điều này chắc chắn không phải là sự tình cờ”. Và ông Ðào Công Tiến kết luận: “…cái hiện hữu siêu quyền lực đó đang làm phá vỡ dân quyền, phá vỡ dân chủ xã hội”. “Siêu quyền lực” đây là đảng Cộng Sản.

Có thể nói bất cứ từ điển nào, thể chế chính trị nào trên thế giới cũng xác định quyền sở hữu có 2 yếu tố, một là quyền xử dụng, hai là quyền quyết định. Ðảng Cộng Sản định nghĩa về đất nước: “Dân làm chủ, nhà nước quản lý và Ðảng lãnh đạo”. Cộng Sản xác nhận dân chỉ làm chủ không không, làm chủ bù nhìn.

Ðối với Trung Cộng: ngoài việc Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng dâng biển cho Trung Cộng ngày trước. Hôm nay, Việt Cộng để cho Trung Cộng hoành hành trên biển Ðông, mặc sức đàn áp, cướp bóc và tiêu diệt ngư dân, trên lãnh thổ thì coi như Trung Cộng đang thực sự là chủ. Chúng ta hãy xem “những nhà trí thức” trong nước phát biểu:

-Ông Nguyễn Trung, cựu thành viên Ban Nghiên Cứu của Thủ tướng Phạm Văn Ðồng phát biểu trong cuộc hội thảo: “90% những công trình kinh tế mới bây giờ là Trung Quốc trúng và đấu thầu, chứ không qua đầu tư”… không thể bỏ qua được vì đây là vấn đè an ninh, ván đề sống còn của quốc gia”.

-Bà Dương Thu Hương, nguyên Phó Thống Ðốc Ngân Hàng Nhà Nước: “Láng giềng chúng ta sang đây xây dựng làng xã thành phố rồi, mà nó không mang tên China Town đâu, chưa mang tên mà nó sẽ mang tên”…”công nhân Trung Quốc sang lại lấy vợ Việt Nam cắm đất đây luôn, sát ngay Hà Nội luôn”.

Tiếc thay, những nhà trí thức nêu trên đều là những người đã nắm quyền lực và họ chỉ “phát biểu ý kiến” sau khi đã hết quyền lực. Và họ tự tố cáo họ như Giáo Sư Trần Phương phát biểu: “… Và chúng ta tự lừa dối chúng ta và tự lừa dối người khác. Tôi nghĩ là cái tệ hại đó phải chấm dứt, phải sửa. Nhưng mà ai sửa? Những người cầm quyền bây giờ họ chẳng có thì giờ nghĩ đến chuyện đó đâu, họ cứ miễn là một nhiệm kỳ này họ cứ ngồi đấy, còn nhiệm kỳ sau thì họ về hưu rồi…”. “Họ” – đảng viên Cộng Sản – không “ngồi đấy” đâu, họ lo vơ vét, họ không có thì giờ nghĩ đến việc dân việc nước, hay họ chỉ nghĩ phương thế để bán đất nước làm giàu cho họ.

Ðiều đáng trách các nhà trí thức, cựu “siêu quyền lực” này khi họ kết luận là họ chỉ muốn “lịch sử” biết rằng: “giới trí thức nước này cũng không ngu đến mức nó tự lừa dối nó đâu”. Họ không hy vọng gì Ðại Hội Ðảng VC sẽ nghe họ. Ðó là ảo tưởng. Ðể rồi họ tự mãn rằng họ đã nói ra ý kiến khi được hỏi là họ “đã tự an ủi mình là mình không phí thì giờ”.

Một khi đã biết 90% dự án đều bị Tàu lấy, một khi biết Trung Cộng đang thiết lập làng xã của chúng trên quê hương mình, một khi đã biết vấn đề Trung Cộng không thể bỏ qua được vì liên quan đến an ninh, vấn đề sống còn của quốc gia, mà họ chỉ nói suông, hay nói cho sướng miệng, nói để người khác, nhất là lịch sử biết họ không phải ngu, thất bại chỉ vì những người đương quyền không nghe họ. Là trí thức, là những người đã từng lãnh đạo, một khi thấy thế nguy cho dân tộc, họ phải tìm cách cứu dân cứu nước, chứ sao lại chỉ “góp ý” mà không cần biết có được VC nghe hay không?

Một vấn đề sinh tử của đất nước mà họ đã nêu ra những chứng cớ, những sự kiện và họ cũng đã biết những sự kiện đó đưa Ðất Nước đến chỗ diệt vong mà họ – những nhà trí thức – chỉ nói để mà nói thì chẳng đem lại lợi ích nào cho Ðất Nước. “Quốc gia hưng, vong, thất phu hữu trách”, họ là trí thức, là sĩ phu họ phải làm gì chứ?

Giới trí thức, đúng ra là giới “cựu siêu quyền lực” đã nêu ra những nguy hiểm, tai hại do những việc làm của đương kim “siêu quyền lực” tức là Việt Cộng có thể Việt Nam sẽ bị sát nhập vào nước Tàu mà họ không có hành động cụ thể giúp dân, giúp nước, thì bổn phận đó ai gánh vác đây?

Thanh niên, sinh viên, học sinh Việt Nam! Các thành phần này phải gánh vác, phải đáp lời sông núi, đứng lên lãnh trách nhiệm. Trách nhiệm gì? Họ phải lật đổ chế độ Cộng Sản hiện hữu trên đất nước Việt Nam. Giới “trí thức nêu trên” cũng xác định rằng nếu hy vọng “góp ý” mà Việt Cộng nghe là ảo tưởng. Nói cách khác họ cũng biết chỉ có “thay thế chứ không thể sửa đổi” như lời Boris Yeltsin đã nói. Các bạn trẻ phải đảm trách phần vụ “thay thế” này. “Ðường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Thanh niên Ba Lan, Tiệp Khắc, Liên Sô đã làm và đã thành công! Thanh Niên Việt Nam không thua sút thanh niên các nước này, tại sao không thể làm? Tại sao còn do dự?

Trước khi đất nước bị đảng viên Cộng Sản giúp Trung Cộng sát nhập vào nước Tàu, các bạn thanh niên hãy gấp rút đứng lên làm cuộc cách mạng bất bạo động, cuộc cách mạng xanh. Thanh niên thành phố Huế đã “Khai trương Mùa Hội Lớn của Dân tộc Việt Nam”, đã bắt đầu một cuộc biểu tình, thanh niên tất cả các thành phố, các tỉnh cần đồng loạt đứng lên. Ðiều kiện tiên quyết là phải quyết tâm đứng lên HÀNH ÐỘNG. Quân Ðội không thể đông hơn dân. Cảnh Sát không thể nhiều hơn dân. Kinh nghiệm cho thấy khi lòng dân đã quyết thì bạo lực phải lùi bước. Quân đội, cảnh sát Cộng Sản tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi v.v… đã bất can thiệp, có nơi còn về hùa với dân chúng. Bộ Ðội, công an cũng là người Việt Nam, một trăm tên không đến nỗi cả trăm đều lòng dạ quỷ ma, súc vật? Trung Cộng phải nhờ đến một sư đoàn “con hoang” mới đàn áp được Thiên An Môn. Bộ Ðội hiện nay tại Việt nam chưa có loại “con hoang khát máu” này.

Giới trí thức đã nhận định đúng. Giới thanh niên hãy gấp rút hành động. Việt Cộng đã hoảng sợ trước mấy ngàn giáo dân Hà Nội “cầu nguyện”. Nay hơn 80 triệu dân phải là lực lượng làm cho Việt Cộng đầu hàng.

Nầy thanh niên ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi. Ðồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.

Lê Văn Ấn
5 Jan 2011





Vợ và con người liệt sĩ Trường Sa

“Mùa biển động đầu năm 2008, chị Đỗ Thị Hà lại một lần nữa đến cầu cảng Cam Ranh (Khánh Hòa) đứng vẫy tay đưa tiễn những người lính đảo ra với Trường Sa. Hai mươi năm trước, chị từng đến đây tiễn đưa chồng mình ra trận.

Trung úy Đinh Ngọc Doanh và cô con gái Mỹ Lệ trước lúc hi sinh

Cả một thời xuân sắc sống đời góa phụ nên khi có ai đó gợi lại chuyện cũ là nước mắt chị chảy tràn. “Bố con bé ngập ngừng ngỏ lời yêu tôi trong một chiều mưa” – giọng chị bồi hồi như đang sống lại thời con gái. Chị bảo rằng trong đời chưa từng thấy nụ cười nào rạng rỡ hơn nụ cười trên gương mặt rám nắng của chàng lính thủy trong đám cưới kiểu nhà binh.

Đêm tân hôn, trong căn nhà chỉ đủ kê chiếc giường hạnh phúc, đôi vợ chồng trẻ thì thầm bao dự tính tương lai. Rồi một buổi chiều anh nhận lệnh hành quân ra đảo và không bao giờ trở lại. “Tôi chỉ được duy nhất một lần tiễn chồng ra đảo” – người góa phụ sụt sùi.

Chồng chị, trung úy Đinh Ngọc Doanh, là người con của đất cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), hi sinh tại đảo Gạc Ma (huyện đảo Trường Sa) trong “sự kiện 14-3-1988″ khi vừa bước sang tuổi 24. Đêm mưa đầu tiên sống đời góa phụ, người vợ trẻ ngồi bó gối ngắm con gái chưa tròn tuổi vô tư mỉm cười trong giấc mơ mà tay áo ướt đầm nước mắt. Càng lớn cô bé càng hỏi nhiều về ba khiến lòng chị thêm quặn thắt. Gọi là gần hai năm chung sống nhưng anh chồng trẻ bận bịu chuyện nhà binh xa nhà suốt nên những ngày vợ chồng sum vầy hạnh phúc có được là bao.

Hồi ấy, tưởng tượng hoài nhưng cô bé Mỹ Lệ vẫn không hình dung nổi một người cha phải như thế nào nên cuối cùng đành chấp nhận “chắc là cũng dí dỏm, hiền lành và thương mình như mấy chú bộ đội vẫn đến thăm nhà”.

Rồi Mỹ Lệ lớn lên. Có những buổi chiều tan trường thấy bạn bè hớn hở được ba đón về, cô trò nhỏ vội quay mặt chẳng dám nhìn lâu sợ không cầm được nước mắt. Cô giáo ra đề văn tả người cha, Mỹ Lệ thiếu cha nên len lén sang “nhờ vả” hình ảnh người cha của bạn. Một lần vô tình đến nhà bạn đúng bữa cơm chiều, thấy cả nhà quây quần hạnh phúc ấm cúng, cô bé chạy về ôm mẹ khóc nức nở. Không ít lần người mẹ trẻ bắt gặp con gái đứng lặng rất lâu trước di ảnh cha, hai giọt nước mắt lăn dài trên má.

Nhà thiếu người đàn ông trụ cột, cuộc sống lại khó khăn nên người vợ trẻ không thể cứ mãi ngồi khóc chồng. Không có nghề nên chị hết đi gánh muối, bóc vỏ hạt sen rồi chuyển sang phụ hồ. Sức vóc phụ nữ trong cuộc mưu sinh quá đỗi nhọc nhằn. Thiệt bụng thì cũng lắm lúc chị chạnh lòng nghĩ tới bản thân… Vậy sao không đi bước nữa? Người góa phụ giọng buồn buồn: “Làm sao tôi quên được những tháng ngày hạnh phúc ngắn ngủi ngày xưa, hơn nữa lỡ ra có chuyện gì sẽ làm khổ thân con bé”.

Hai mươi năm kể từ ngày người cha ra đảo không về, Mỹ Lệ giờ đã là cô SV năm cuối khoa kinh tế ĐH Quốc gia TP.HCM. Hành trang bạn mang theo mình không chỉ là tinh thần quả cảm của người cha mà còn là những ký ức khó quên của một thời niên thiếu. Đó là hình ảnh người mẹ thân cò gánh đôi thúng nặng lên đụn muối cao cao. Đó là những đêm mưa hai mẹ con nháo nhào tìm chậu hứng nước mưa nhà dột. Đó là giọt nước mắt lặng lẽ nóng hổi của mẹ giữa đêm đông giá lạnh.

Cô gái trẻ cho biết từ lâu rồi sức khỏe mẹ đã sa sút nhưng không dám điều trị tới nơi tới chốn chỉ vì muốn dành dụm tiền lo cho con gái ăn học nên người. Mẹ của Lệ cả đời chỉ lo nuôi con khôn lớn mà quên cả bản thân mình. Cho nên Mỹ Lệ tự nhủ phải nỗ lực nhiều để mẹ vui sống khi mai kia người mẹ bước sang tuổi xế chiều”.

Câu chuyện thương tâm ở trên với tựa đề “vợ và con của người lính liệt sĩ Trường Sa” của nhà báo Thái Bình đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 16/1/2008 cũng khiến cho Đức Phật Di Lạc và Mẹ Maria đọc xong ôm mặt khóc rưng rức. Vậy mà đám dân làng Ba Đình Hà Nội mắt vẫn ráo hoảnh đã đành, nhưng hơn 80 triệu người dân Việt vẫn dửng dưng được sao??? Những người Viêt Nam chân chính đâu hết rồi? Có còn một ai không nhỉ? Không một ai lên tiếng sao !!!???

Tôi không biết trong những bài diễn văn đọc lê thê trong ngày thành lập Quân Đội Nhân Dân hay Ngày Thương Binh Liệt Sĩ, người ta có những giòng chữ nào nhắc đến những ngưòi vợ liệt sĩ phải đi “gánh muối bán để nuôi con ăn học” và có bệnh nhưng không có tiền “điều trị tới nơi tới chốn” như chị Đỗ thị Hà không nhỉ? Chắc là KHÔNG. Đất nước ta còn nghèo tới mức độ những gia đình thương binh liệt sĩ không có được một trợ cấp hàng tháng cho đủ sống sao? Tôi nghĩ chắc là KHÔNG. Họ có thể trả lương hàng chục ngàn đô la Mỹ mỗi tháng cho ông thầy ngoại dạy đá bóng mà!. Họ còn có thể bỏ ra hàng chục triệu đô la hàng năm chỉ cho chuyện thờ phượng “ma xó” mà! Họ còn tự hào cho nhà văn NXN biết là họ có cả một quỹ đen “rất dồi dào” chỉ để chi tiêu vào việc cho những người chống đối chế độ “đi tàu suốt” mà!. Những thằng đầy tớ dân ở làng Ba Đình, thằng nào cũng có trương mục ở ngoại quốc cỡ vài trăm triệu đến cả tỷ đô la mà? Đó, thấy chưa, Việt Nam đâu có nghèo? Vậy thì tại sao? “Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!?”.

Thì đây, Phó Đại Sứ Mỹ, Aloisi vừa rồi đã cho biết tham nhũng tràn ngập ở chính phủ CSVN, “Toàn bộ lãnh đạo CSVN đều dính vào các dây tham nhũng hệ thống. Cũng có vài người muốn giải quyết, nhưng họ không biết làm sao bởi vì tất cả họ đều là đồng lõa.” (Aloisi also discussed the corruption pervading the Vietnamese government. “The entire leadership is involved in this systematic corruption,” he said. “There are some people who want to deal with it, but they don’t know how because they’re all complicit.” (Vietnam Human Right Discussion in Hanoi 2/16/2008). (Khi người Mỹ đã công khai tuyên bố như vậy tức là họ đã nắm những bằng chứng “không thể chối cãi được” ở trong tay. Thế nào cũng có một ngày đẹp trời người Mỹ (vì một lý do nào đó) sẽ phong tỏa những tài sản ăn cắp này như họ đã từng làm với những tên độc tài tham nhũng ở Chi Lê, ở Phillipines, ở Indonesia và Miến Điện).

Ôi những người lính đã ngã gục khi từ chiến hào xung phong lên để tiến chiếm các cứ điểm ở Điện biên Phủ. Ôi những người lính mà xương cốt còn rải rác nằm đâu đó dọc trên đường mòn Hồ Chí Minh cho huyền thoại gian dối “Giải phóng miền Nam”. Ôi những người lính đã ngã gục trên ngọn núi Lão Sơn để bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc mà xác các anh bị quân thù Trung Cộng dùng hóa chất đốt thành tro bụi. Ôi những người lính mà thân xác đáy nước chìm sâu để bảo vệ Trường Sa. Đã hai chục năm các anh nằm lại với Trường Sa, đến bây giờ không thể dấu được nữa, người ta mới dám nhắc đến các anh một cách dè dặt. Tôi có hàm hồ không khi nói như vậy. Nhưng chưa một bài báo nào, người ta dám công khai điểm mặt chỉ tên kẻ thù của các anh, của dân tộc chúng mình, kẻ đã bắt ông cha mình “đi lên rừng tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai” là bọn Hán tộc, bọn Trung Quốc, Trung Cộng, bọn Tàu khựa. Người ta chỉ dám dùng một đại danh từ rất mơ hồ là “kẻ địch”. Nghĩ mà tủi hổ với vong linh của những tiền nhân bất hủ: với Bà Trưng, Bà Triệu, với Ngô Quyền, với Lý Thường Kiệt, với Trần Hưng Đạo, với Nguyễn Trãi, với Lê Lợi, với Lê Lai, với Nguyễn Huệ.

Là một người duy tâm, tôi tin rằng, bây giờ ở một “thế giới” không bị bưng bít thông tin, không bị các báo (đời) của đảng huyễn hoặc, các anh đã biết, đã thấy con trai của Phan văn Khải (“con đỡ đầu” của Nguyễn cao Kỳ), con gái rượu của Nguyễn tấn Dũng ăn chơi ra sao ở Mỹ. Rồi còn đám con ông cháu cha (như cậu Nam, câu Phương, cậu Quang, cậu Tuấn Anh, cậu Vịnh, cậu Diễn, cậu Bình, cậu Thành) của các lãnh tụ CS gộc khác, chúng sống xa hoa, phung phí, đàng điếm ở trong nước cũng như ngoài nước ra sao, các anh chắc rõ, đã thấy hết!!?. Tôi làm sao kể hết. Còn con cái các anh thì …“PHẢI NỖ LỰC NHIỀU!”

Tối nay đọc bài báo trên, tôi phẫn nộ, tôi mất ngủ, tôi khóc rưng rức, khóc nức nở, khóc thê thảm, khóc sướt mướt, vì xót thương các anh, xót thương cho nỗi cơ cực vô vàn của vợ con các anh, tôi ngồi đây viết chơi mấy dòng vô duyên này bên ly rượu, để rồi thế nào cũng có kẻ mỉa mai tôi “tuổi đời sống đã được bao năm, đã làm được gì, đã cống hiến được gì, hay chỉ học đòi thói chê bai”!!! Buồn thế đấy!

.Những suy nghĩ vụn vặt của

Lỗ Rốn,
5 Jan 2011





Vợ và con người liệt sĩ Trường Sa

“Mùa biển động đầu năm 2008, chị Đỗ Thị Hà lại một lần nữa đến cầu cảng Cam Ranh (Khánh Hòa) đứng vẫy tay đưa tiễn những người lính đảo ra với Trường Sa. Hai mươi năm trước, chị từng đến đây tiễn đưa chồng mình ra trận.

Trung úy Đinh Ngọc Doanh và cô con gái Mỹ Lệ trước lúc hi sinh

Cả một thời xuân sắc sống đời góa phụ nên khi có ai đó gợi lại chuyện cũ là nước mắt chị chảy tràn. “Bố con bé ngập ngừng ngỏ lời yêu tôi trong một chiều mưa” – giọng chị bồi hồi như đang sống lại thời con gái. Chị bảo rằng trong đời chưa từng thấy nụ cười nào rạng rỡ hơn nụ cười trên gương mặt rám nắng của chàng lính thủy trong đám cưới kiểu nhà binh.

Đêm tân hôn, trong căn nhà chỉ đủ kê chiếc giường hạnh phúc, đôi vợ chồng trẻ thì thầm bao dự tính tương lai. Rồi một buổi chiều anh nhận lệnh hành quân ra đảo và không bao giờ trở lại. “Tôi chỉ được duy nhất một lần tiễn chồng ra đảo” – người góa phụ sụt sùi.

Chồng chị, trung úy Đinh Ngọc Doanh, là người con của đất cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), hi sinh tại đảo Gạc Ma (huyện đảo Trường Sa) trong “sự kiện 14-3-1988″ khi vừa bước sang tuổi 24. Đêm mưa đầu tiên sống đời góa phụ, người vợ trẻ ngồi bó gối ngắm con gái chưa tròn tuổi vô tư mỉm cười trong giấc mơ mà tay áo ướt đầm nước mắt. Càng lớn cô bé càng hỏi nhiều về ba khiến lòng chị thêm quặn thắt. Gọi là gần hai năm chung sống nhưng anh chồng trẻ bận bịu chuyện nhà binh xa nhà suốt nên những ngày vợ chồng sum vầy hạnh phúc có được là bao.

Hồi ấy, tưởng tượng hoài nhưng cô bé Mỹ Lệ vẫn không hình dung nổi một người cha phải như thế nào nên cuối cùng đành chấp nhận “chắc là cũng dí dỏm, hiền lành và thương mình như mấy chú bộ đội vẫn đến thăm nhà”.

Rồi Mỹ Lệ lớn lên. Có những buổi chiều tan trường thấy bạn bè hớn hở được ba đón về, cô trò nhỏ vội quay mặt chẳng dám nhìn lâu sợ không cầm được nước mắt. Cô giáo ra đề văn tả người cha, Mỹ Lệ thiếu cha nên len lén sang “nhờ vả” hình ảnh người cha của bạn. Một lần vô tình đến nhà bạn đúng bữa cơm chiều, thấy cả nhà quây quần hạnh phúc ấm cúng, cô bé chạy về ôm mẹ khóc nức nở. Không ít lần người mẹ trẻ bắt gặp con gái đứng lặng rất lâu trước di ảnh cha, hai giọt nước mắt lăn dài trên má.

Nhà thiếu người đàn ông trụ cột, cuộc sống lại khó khăn nên người vợ trẻ không thể cứ mãi ngồi khóc chồng. Không có nghề nên chị hết đi gánh muối, bóc vỏ hạt sen rồi chuyển sang phụ hồ. Sức vóc phụ nữ trong cuộc mưu sinh quá đỗi nhọc nhằn. Thiệt bụng thì cũng lắm lúc chị chạnh lòng nghĩ tới bản thân… Vậy sao không đi bước nữa? Người góa phụ giọng buồn buồn: “Làm sao tôi quên được những tháng ngày hạnh phúc ngắn ngủi ngày xưa, hơn nữa lỡ ra có chuyện gì sẽ làm khổ thân con bé”.

Hai mươi năm kể từ ngày người cha ra đảo không về, Mỹ Lệ giờ đã là cô SV năm cuối khoa kinh tế ĐH Quốc gia TP.HCM. Hành trang bạn mang theo mình không chỉ là tinh thần quả cảm của người cha mà còn là những ký ức khó quên của một thời niên thiếu. Đó là hình ảnh người mẹ thân cò gánh đôi thúng nặng lên đụn muối cao cao. Đó là những đêm mưa hai mẹ con nháo nhào tìm chậu hứng nước mưa nhà dột. Đó là giọt nước mắt lặng lẽ nóng hổi của mẹ giữa đêm đông giá lạnh.

Cô gái trẻ cho biết từ lâu rồi sức khỏe mẹ đã sa sút nhưng không dám điều trị tới nơi tới chốn chỉ vì muốn dành dụm tiền lo cho con gái ăn học nên người. Mẹ của Lệ cả đời chỉ lo nuôi con khôn lớn mà quên cả bản thân mình. Cho nên Mỹ Lệ tự nhủ phải nỗ lực nhiều để mẹ vui sống khi mai kia người mẹ bước sang tuổi xế chiều”.

Câu chuyện thương tâm ở trên với tựa đề “vợ và con của người lính liệt sĩ Trường Sa” của nhà báo Thái Bình đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 16/1/2008 cũng khiến cho Đức Phật Di Lạc và Mẹ Maria đọc xong ôm mặt khóc rưng rức. Vậy mà đám dân làng Ba Đình Hà Nội mắt vẫn ráo hoảnh đã đành, nhưng hơn 80 triệu người dân Việt vẫn dửng dưng được sao??? Những người Viêt Nam chân chính đâu hết rồi? Có còn một ai không nhỉ? Không một ai lên tiếng sao !!!???

Tôi không biết trong những bài diễn văn đọc lê thê trong ngày thành lập Quân Đội Nhân Dân hay Ngày Thương Binh Liệt Sĩ, người ta có những giòng chữ nào nhắc đến những ngưòi vợ liệt sĩ phải đi “gánh muối bán để nuôi con ăn học” và có bệnh nhưng không có tiền “điều trị tới nơi tới chốn” như chị Đỗ thị Hà không nhỉ? Chắc là KHÔNG. Đất nước ta còn nghèo tới mức độ những gia đình thương binh liệt sĩ không có được một trợ cấp hàng tháng cho đủ sống sao? Tôi nghĩ chắc là KHÔNG. Họ có thể trả lương hàng chục ngàn đô la Mỹ mỗi tháng cho ông thầy ngoại dạy đá bóng mà!. Họ còn có thể bỏ ra hàng chục triệu đô la hàng năm chỉ cho chuyện thờ phượng “ma xó” mà! Họ còn tự hào cho nhà văn NXN biết là họ có cả một quỹ đen “rất dồi dào” chỉ để chi tiêu vào việc cho những người chống đối chế độ “đi tàu suốt” mà!. Những thằng đầy tớ dân ở làng Ba Đình, thằng nào cũng có trương mục ở ngoại quốc cỡ vài trăm triệu đến cả tỷ đô la mà? Đó, thấy chưa, Việt Nam đâu có nghèo? Vậy thì tại sao? “Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!?”.

Thì đây, Phó Đại Sứ Mỹ, Aloisi vừa rồi đã cho biết tham nhũng tràn ngập ở chính phủ CSVN, “Toàn bộ lãnh đạo CSVN đều dính vào các dây tham nhũng hệ thống. Cũng có vài người muốn giải quyết, nhưng họ không biết làm sao bởi vì tất cả họ đều là đồng lõa.” (Aloisi also discussed the corruption pervading the Vietnamese government. “The entire leadership is involved in this systematic corruption,” he said. “There are some people who want to deal with it, but they don’t know how because they’re all complicit.” (Vietnam Human Right Discussion in Hanoi 2/16/2008). (Khi người Mỹ đã công khai tuyên bố như vậy tức là họ đã nắm những bằng chứng “không thể chối cãi được” ở trong tay. Thế nào cũng có một ngày đẹp trời người Mỹ (vì một lý do nào đó) sẽ phong tỏa những tài sản ăn cắp này như họ đã từng làm với những tên độc tài tham nhũng ở Chi Lê, ở Phillipines, ở Indonesia và Miến Điện).

Ôi những người lính đã ngã gục khi từ chiến hào xung phong lên để tiến chiếm các cứ điểm ở Điện biên Phủ. Ôi những người lính mà xương cốt còn rải rác nằm đâu đó dọc trên đường mòn Hồ Chí Minh cho huyền thoại gian dối “Giải phóng miền Nam”. Ôi những người lính đã ngã gục trên ngọn núi Lão Sơn để bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc mà xác các anh bị quân thù Trung Cộng dùng hóa chất đốt thành tro bụi. Ôi những người lính mà thân xác đáy nước chìm sâu để bảo vệ Trường Sa. Đã hai chục năm các anh nằm lại với Trường Sa, đến bây giờ không thể dấu được nữa, người ta mới dám nhắc đến các anh một cách dè dặt. Tôi có hàm hồ không khi nói như vậy. Nhưng chưa một bài báo nào, người ta dám công khai điểm mặt chỉ tên kẻ thù của các anh, của dân tộc chúng mình, kẻ đã bắt ông cha mình “đi lên rừng tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai” là bọn Hán tộc, bọn Trung Quốc, Trung Cộng, bọn Tàu khựa. Người ta chỉ dám dùng một đại danh từ rất mơ hồ là “kẻ địch”. Nghĩ mà tủi hổ với vong linh của những tiền nhân bất hủ: với Bà Trưng, Bà Triệu, với Ngô Quyền, với Lý Thường Kiệt, với Trần Hưng Đạo, với Nguyễn Trãi, với Lê Lợi, với Lê Lai, với Nguyễn Huệ.

Là một người duy tâm, tôi tin rằng, bây giờ ở một “thế giới” không bị bưng bít thông tin, không bị các báo (đời) của đảng huyễn hoặc, các anh đã biết, đã thấy con trai của Phan văn Khải (“con đỡ đầu” của Nguyễn cao Kỳ), con gái rượu của Nguyễn tấn Dũng ăn chơi ra sao ở Mỹ. Rồi còn đám con ông cháu cha (như cậu Nam, câu Phương, cậu Quang, cậu Tuấn Anh, cậu Vịnh, cậu Diễn, cậu Bình, cậu Thành) của các lãnh tụ CS gộc khác, chúng sống xa hoa, phung phí, đàng điếm ở trong nước cũng như ngoài nước ra sao, các anh chắc rõ, đã thấy hết!!?. Tôi làm sao kể hết. Còn con cái các anh thì …“PHẢI NỖ LỰC NHIỀU!”

Tối nay đọc bài báo trên, tôi phẫn nộ, tôi mất ngủ, tôi khóc rưng rức, khóc nức nở, khóc thê thảm, khóc sướt mướt, vì xót thương các anh, xót thương cho nỗi cơ cực vô vàn của vợ con các anh, tôi ngồi đây viết chơi mấy dòng vô duyên này bên ly rượu, để rồi thế nào cũng có kẻ mỉa mai tôi “tuổi đời sống đã được bao năm, đã làm được gì, đã cống hiến được gì, hay chỉ học đòi thói chê bai”!!! Buồn thế đấy!

.Những suy nghĩ vụn vặt của

Lỗ Rốn,
5 Jan 2011
Kính thưa các bạn trong và ngoài nước Việt thân yêu, Sắc tộc đọc qua bài viết dưới đây nói về thân phận, lý tưởng của người lính bảo vệ hải đảo biên cương đã bị lợi dụng, lừa phỉnh bởi 15 cán bộ trung ương đảng. Lời giác ngộ yêu nước dóng lên từ trái tim rỉ máu thương cho đồng đội hy sinh oan uổng, Sắc Tộc không khỏi rơi nước mắt, thương cho những người trai thi hành nghĩa vụ trước và sau 1975, đã bị thế lực dối trá, dùng thân xác chiến sĩ để che đậy âm mưu bán nước bởi hồ chí minh và tên phạm văn đồng khát máu.

Sắc Tộc.




TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH TRƯỜNG SA


Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn

(Chinh phụ ngâm)

Người lính mân mê cánh tay mình, mỗi lần trái gió trở trời là từ bả vai trở xuống đến cánh tay trái của anh tê buốt không cử động được. Đã hơn hai mươi năm trôi qua từ ngày oan nghiệt đó, vậy mà anh không thể nào quên được Trường Sa, không thể nào quên được đôi mắt trợn trừng của Phương, người đồng đội lãnh trọn băng đạn tiểu liên vào ngực trong khi tay vẫn còn giữ chặt cán cờ trên đảo Gạc Ma. Những oan hồn của các đồng đội anh chắc hẳn vẫn còn bơ vơ lang thang ngoài biển cả, chưa được siêu linh tịnh độ. Do đó, hầu như hằng đêm trong những giấc ngủ chập chờn vì bị những cơn đau hành hạ, anh vẫn thấy rõ ràng những xác thân họ chập chờn trên sóng nước, khóc than uất hận. Thằng Tư nhập ngũ cùng khóa với anh và cũng thuộc công binh đại đội 9, tiểu đoàn 887, trung đoàn 883, công binh hải quân, bị một viên xuyên qua trán sáng ngày 14/3/1988, khi từ tàu bơi vào bờ theo lệnh của chỉ huy cụm đảo, cứ rên rĩ chì chiết lên bên tai anh:

-“Địt mẹ, anh hùng cái buồi ông. Liệt sĩ cái mả mẹ chúng nó. Đã đành sống hùng chết vinh, bỏ mạng sa trường. Nhưng cậu có đồng ý với tớ không, đéo được cho phép bắn viên đạn nào, chết mới nhục chớ lị?”

Thằng Thanh, người miền Nam đi nghĩa vụ, là lính thuỷ “bị” trên chiếc HQ604 tiếp lời:

-“Bảo vệ biển đảo của tổ quốc. Nghe thối! Đù mẹ chúng nó. Có thấy con cháu thằng lãnh đạo nào ở đây đâu, toàn là con cái của “nhân dân” nghèo thôi. Tiền chúng nó tọng đầy họng rồi. Chúng mua súng ống đạn duợc, tàu bè, toàn là đồ phế thải của bọn Nga. Đánh đấm thế chó nào được với tụi Tầu. Chết như vầy thì đầu thai thế đéo nào được hả trời!!!

Giọng nói bùi ngùi của Lữ đoàn phó Trần đức Thông đoàn 146 ra vẻ trách cứ:

-Các cậu cứ ưa phát biểu linh tinh. Vẫn biết là “tiên hạ thủ vi cường”, binh thư đã dậy thế, nhưng tình hình lúc đó là lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân đưa xuống chỉ thị rất rõ “các đồng chí không được manh động, phải hết sức giữ bình tĩnh, không được nổ súng trong bất cứ tình huống nào mà làm mất lòng người đồng chí tốt, anh em tốt. Chúng ta muốn tránh đổ máu, muốn thương thuyết bằng ngoại giao”. Còn chiến thắng đâu cần nhờ vũ khí tối tân mà do ở lòng dũng cảm, bác Hồ đã dậy thế mà lị.

-Mẹ kiếp! giờ này mà ông còn bênh cho chúng nó nữa. Giọng của thuyền trưởng chiếc 604 Vũ phi Trừ chất chứa đầy phẫn nộ.

-Chúng nó chỉ ngồi trong phòng máy lạnh, lâu lâu lại kéo mấy con văn công vào bàn kế hoạch tác chiến “trên giuờng”, đéo biết cái củ thìu biu gì cả về tình hình chiến trường. Khi bọn Tầu đã cho quân và xuồng đổ bộ lên đảo, tôi điện về xin lệnh khai hỏa thì chúng đéo nghe. Nếu không thì đâu đến nỗi, mình có chết thì tụi Tầu chúng nó cũng ôm đầu máu. Nay thì ông rõ, mình mất 3 chiến hạm và 64 đồng chí còn chúng nó không mất một sợi lông dái nào. Đéo mẹ, đánh đấm như thế à!!!

Một giọng nói khác, đặc sệt xứ Nghệ lè nhè:

-Tớ thì thấy đau nhất là mới lớn lên vào ngay bộ đội. Mới quen được con bồ chưa kịp “hưởng mùi đời” thì đã ra đảo, rồi “lần đầu cũng là một đi không trở lại”. Bây giờ để lại em cho thằng khác nó “đè”. “Đồ nghề” từ nhỏ cho tới khi chết chỉ toàn dùng để đi đái. Thiệt là phí của giời. Kiếp sau, thằng này xin phép Diêm Vương đếch đầu thai làm đàn ông con trai nữa.

-Địt mẹ, bộ đội anh hùng, chỉ huy đúng đắn. Bảo vệ biển đảo, thi đua lập chiến công mà đếch được đánh một trận để đời, mà chết như rạ như vầy đây. Hu, hu, hu. Một giọng khác còn rất trẻ tấm tức khóc.

-Đảo của mình mà nó chiếm ngang xương mới tức chớ. Lẽ ra ngay khi nó xâm phạm hải phận của mình là mình phải ra tay rồi. Mà nó đã xua quân chiếm của mình hàng chục bãi đá cả tháng trước. Việc quân như cứu lửa, binh pháp rành rành ra thế, đằng này các bố ấy cứ chờ với đợi “xin ý kiến chỉ đạo của bộ chính trị”. Cho đến khi nó đã tràn ngập đảo rồi, giựt cờ chủ quyền của mình xuống mà mình vẫn không được nổ súng, chỉ giằng giựt lá cờ với nó như trẻ con chơi trận giả. Rồi cho tới khi nó nổ súng thì mình chỉ có ngã ngửa chết mà thôi. Thiệt là không thể nào hiểu nổi! Nhưng thôi các bạn ơi, số phận chúng mình đã như vậy than khóc cũng vô ích. Tớ chỉ thương vợ con tớ vì tớ mà khổ. Mang danh vợ liệt sĩ Trường Sa mà phải đi bán muối nuôi con ăn học đấy. Hôm về thăm nhà thấy cảnh của hai mẹ con nó thương quá mà chẳng làm gì đuợc!

Người lính nhận ra ngay chất giọng Ninh Bình của trung úy Đinh ngọc Doanh, người sĩ quan rất điềm đạm trên chiếc 505. Doanh tiếp:

-Các đồng chí biết không, những thằng Tầu thâm độc này còn cho thày phong thủy, thày bùa của chúng nó trấn yểm chung quanh các đảo chúng chiếm được để hồn anh em mình không thể vào đảo phá tụi nó đấy. Trời cao đất dày đâu mà để cho lũ khốn nạn tàn ác này nó tác oai tác quái mãi. Rất cần thiết phải có một trận đại hồng thủy để tiêu diệt loài cẩu Hán tàn ác này ông trời ạ!

Những cơn mơ như thế đã ám ảnh người lính trong hơn hai mươi năm nay. Anh vẫn nhớ như in những ngày mới nhập ngũ và được điều ra đóng ở Trường Sa. Thời gian đóng quân ở đây phần lớn anh được phân công cùng đồng đội đóng quân trên những đảo chìm. Hàng ngày anh và đồng đội phải đối mặt với nắng, với gió, với sóng biển và nỗi cô đơn giữa trời nước mênh mông. Những nhu cầu hàng ngày khó khăn và thiếu thốn vô cùng. Các anh từng tiểu đội phải sống trên những chiếc “boom” dập dềnh trên sóng nước hết ngày này sang ngày khác với khẩu phần lương thực rất khiêm tốn. Nước ngọt thì cực kỳ khan hiếm. Để tăng khẩu phần ăn, hàng ngày các anh phải câu thêm cá và luộc chúng bằng nước biển. Mùa biển lặng thì hai ba tháng trời còn có tàu từ đất liền ra tiếp tế, còn mùa biển động thì hầu như mọi liên lạc đều bị cắt đứt với đất liền. Niềm vui của những người lính đảo là những lá thơ nhà từ đất liền gởi ra hay những lá thơ qua mục kết bạn trên báo. Đang là tuổi xung mãn của tuổi trẻ, các anh cũng có những yêu đương thầm kín và nhiều khi là những đòi hỏi mãnh liệt của xác thịt. Cho tới bây giờ ngồi suy nghĩ lại anh vẫn chẳng hiểu nổi điều gì đã giúp anh và đồng đội vượt qua những ngày gian khổ đó nếu không phải là tình yêu đất nước vô vụ lợi của tuổi trẻ.

Ngày 14 tháng 3 năm 1988, ngày định mệnh của đời anh. Trong những ngày trước đó ở các cụm đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao, những chiến hạm của bọn Trung Quốc đã lởn vởn sau khi vào những tháng 1/88, 2//88 chúng đã xua quân chiếm của Việt Nam hàng loạt các bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa. Vậy mà không hiểu vì sao lệnh từ trên đưa xuống là không được nổ súng vào bọn chúng. Cho đến khi chúng dùng xuồng đổ bộ vào đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao, giật cờ và nghêng ngang ra lệnh cho quân ta phải rút toàn bộ và giao đảo lại cho chúng. Khi quân ta không chịu rời đảo, chúng dùng chiến hạm từ xa bắn pháo 100mm xối xả vào ba tàu 604, 605 và HQ505 của Việt Nam thì lúc đó quân ta đã mất hết thế thượng phong, chỉ có thể dùng súng AK, RPD, B40 và B41 bắn trả yếu ớt.

Kết thúc trận chiến là 3 tàu chiến của VN bị bắn chìm, 64 chiến sĩ hy sinh và bị đánh đuổi khỏi đảo.

*
Hơn hai mươi năm đã trôi qua vậy mà câu chuyện đau thương như vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Khi quân Trung Cộng đổ quân xuống đảo Gạc Ma, bộ đội từ trong đảo vẫn không được lệnh nổ súng, cho đến khi chúng bắn chết chiến sĩ Trần văn Phương người giữ cờ thì anh đã xông lên giằng lại lá cờ tử tay giặc. Thằng sĩ quan Tầu, mặt mũi non choẹt nhưng đanh ác rút khẩu K54 nhắm ngay trán anh định bóp cò. Thấy nguy, anh vận dụng toàn lực dùng cánh tay trái đánh văng cây súng trên tay hắn. Những thằng lính Tầu đứng ngoài liền nhào tới liên tiếp đâm anh nhiều lát lưỡi lê vào vai , bụng và nổ súng vào anh, đạn đã đi xuyên qua bả vai làm anh mất đà té nhào xuống nước.

Sau gần 4 năm trời được chuyển hết từ bệnh viện này tới bệnh viện khác, anh được xuất viện với tình trạng thương tật trên 70%. Anh hầu như chẳng còn làm được chuyện gì vì hầu như cánh tay trái đã bất khiển dụng. Sức khỏe của anh còn lại quá ít và có thể phải nhập viện bất cứ lúc nào. Anh đã được nhà nước tuyên dương danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”, anh được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng nhất, 3 bằng khen và giấy khen, anh được gia nhập Đảng CS. Một thời gian sau anh xin được vào làm bảo vệ cho một xí nghiệp may mặc nhưng rồi phải bỏ vì sức khỏe quá yếu. Nhưng niềm đau thể xác đối với anh đâu bằng nỗi đau khổ gặm nhấm trong tâm hồn.

Ở bất cứ nơi đâu và bao giờ cũng thế người lính chiến đấu ngoài mặt trận để bảo vệ tổ quốc luôn hướng về hậu phương như một điểm tựa tinh thần cho mình hăng say chiến đấu. Nhưng ở quê hương anh, người lính chiến vô cùng cô đơn và sự hy sinh của họ luôn bị lãng quên và chỉ được dùng để đánh bóng cho chế độ khi cần. Ở quê hương mình, anh nhận thấy một sự thật phũ phàng là quân đội không dùng để bảo vệ quê hương, mà nó như một công cụ dùng để bảo vệ cho chế độ CS, cho lãnh tụ CS. Hầu hết các tướng tá hèn mạt trong cái gọi là quân đội “nhân dân” hiện nay, vì quyền lợi cá nhân, vì địa vị bẩn thỉu, đã cam đành bán mình cho chế độ, cho lãnh tụ, để bán xương máu của những người lính chiến ngoài mặt trận. Hàng chục ngàn người lính chiến đã gục xuống để bảo vệ biên giới phía bắc những năm 1984-1991. Và những người đồng đội của anh thân xác đáy nước chìm sâu ở Trường Sa đều bị dấu nhẹm. Khi chiến trận xảy ra không một cơ quan truyền thông nào của nhà nước đưa tin! Tại sao, tại sao và tại sao, đất nước mình bị ngoại xâm mà người dân không được biết? Có phải chăng đất nước này là của riêng của các đảng viên chóp bu CS trong bộ chính trị mà họ có quyền đem cắt xén, buôn bán thậm thụt với ngoại bang? Gần đây khi những cuộc chiến bị bưng bít này bị chính quân thù phanh phui, thì người dân trong nước mới biết. Thử hỏi cho tới bây giờ khi viết về những trận hải chiến Trường Sa 1988 mà các cơ quan báo chí nhà nước vẫn chỉ dám dùng những từ chung chung như “kẻ địch” hay “tàu ngoại quốc” để ám chỉ bọn Hán tộc thì quả đất nước này đã đến hồi mạt vận. Rồi những cảnh bắt bớ, đàn áp những sinh viên biểu tình chống kẻ thù cướp HSTS. Rồi những cảnh bắt bớ những người đánh cá có thân nhân bị quân Tầu xả súng bắn chết ngoài biển đông muốn biểu tình ôn hòa chống rước đuốc thế vận hội đã giúp anh mở mắt và hiểu rõ bản chất tôi đòi, bán nước mị dân, của chế độ CSVN.

Ôi những tấc đất, hải đảo xa xôi của quê hương do ông cha gửi lại đều ký thác bằng máu, mồ hôi và nước mắt. Thì bổn phận của tuổi trẻ Việt Nam là phải chiến đấu, phải hy sinh để giữ lấy cho dù có phải trả bằng sinh mạng của mình. Chẳng phải cả ngàn năm bắc thuộc tổ tiên chúng ta đã chịu bao thống khổ, hy sinh, cay đắng, chấp nhận mất mát và kiên nhẫn chiến đấu cho sự tồn tại vĩnh cửu của Việt Nam đến ngày nay chăng? Đó cũng chính là nguyên nhân của những chiến thắng vang dội Bạch Đằng Giang, Chi Lăng, Đống Đa, Rạch Gầm đánh tan quân xâm lược để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Như những người tuổi trẻ khác anh muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho đất nước. Anh và những đồng đội của anh đã là những người cầm súng bảo vệ quê hương, dân tộc. Dứt khoát anh không cầm súng chiến đấu để bảo vệ cho chế độ hay cho lãnh tụ, hay cho chủ nghĩa nào cả. Trong những ngày cuối của cuộc đời này anh chỉ có một ước vọng cuối cùng anh cần phải làm trước khi nhắm mắt là phải xuôi Nam tìm gặp cho được Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ để nhờ Người làm một chay đàn cầu siêu ở ngay quân cảng Cam Ranh cho những đồng đội của anh đã hy sinh bảo vệ Trường Sa, cũng như anh linh của những chiến sĩ VNCH khi xưa đã bỏ mình để bảo vệ Hoàng Sa. Đến ngày đó, anh sẽ đốt hết những huân chương, bằng khen, giấy khen, danh hiệu giả tạo thành tro rồi thả hết xuống biển như là đã tụng ngàn bài kinh siêu độ muộn màng của anh đến với đồng đội đã nằm lại với Trường Sa.

Lỗ Rốn,
Last Visitors


9 Nov 2010 - 8:31

Comments
Other users have left no comments for sactoc.

Friends
There are no friends to display.
Lo-Fi Version Time is now: 27th May 2024 - 04:12 AM