Printable Version of Topic

Click here to view this topic in its original format

PLEIKU PHỐ NÚI FORUMS _ BỘ SƯU TẬP HÌNH ẢNH PLEIKU PHỐ NÚI _ PLEIKU( Gia Lai )

Posted by: delta Apr 17 2008, 10:05 AM

Pleiku ( Gia Lai )



Gia Lai là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Nguyên Việt Nam. Trước đây là một phần của tỉnh Gia Lai-Kon Tum.


Vị trí địa lý
Với diện tích 15.494,9 km², tỉnh Gia Lai trải dài từ 15°58'20" đến 14°36'36" vĩ Bắc, từ 107°27'23" đến 108°94'40" kinh Đông. Phía bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, phía tây giáp Campuchia với 90 km đường biên giới quốc gia, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.


Khí hậu
Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, một năm có hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vùng Tây Trường Sơn có lượng mưa trung bình từ 2.200 đến 2.500 mm, vùng Đông Trường Sơn từ 1.200 đến 1.750 mm. Nhiệt độ trung bình năm là 22-25ºC.


Sông ngòi

Gia Lai là nơi đầu nguồn nguồn của nhiều con sông đổ về vùng duyên hải miền Trung Việt Nam và về phía Campuchia như sông Ba, sông Sê San và nhiều con suối lớn nhỏ.


Tài nguyên

Khoáng sản
Các loại khoáng sản có trên địa bàn tỉnh này là crom, niken, coban, thiếc, asen, boxit-laterit, vàng, vonframit, molipdenit, caxiterrit v.v.


Động vật
Trong địa bàn tỉnh Gia Lai có một số loài thú sinh sống như voi, nai, bò, hoẵng, thỏ rừng, lợn rừng, trăn, rắn, cọp, các loài chim như gà rừng, chim cu đất, gà gô, khướu, công, trĩ sao, gà lôi hồng tía, gà lôi vằn, các loài cá như lúi, phá, sóc, trạch, lăng, chép. Các loại gia cầm, gia súc như trâu, bò, lợn, gà, vịt, ngựa, thỏ v.v.


Thực vật
thực vật ở đây cũng không khá phong phú lắm, nhiều nhất là tiêu, cây chè, cây điều, cây lúa, v.v... và một số cây hoa màu nhưng với số lượng không nhiều. . cây thông, cây tùng, cà phê, cao su, với số lượng nhiều.


Hành chính

Tỉnh Gia Lai bao gồm 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 13 huyện:

Thành phố Pleiku
Thị xã An Khê
Thị xã Ayun Pa, tên cũ là Cheo Reo
Huyện Chư Păh, huyện lỵ là Phú Hoà
Huyện Chư Prông
Huyện Chư Sê
Huyện Đắk Đoa
Huyện Đắk Pơ
Huyện Đức Cơ, huyện lỵ là Chư Ty
Huyện Ia Grai
Huyện Ia Pa
Huyện KBang
Huyện Kông Chro
Huyện Krông Pa, huyện lỵ là Phú Túc
Huyện Mang Yang
Huyện Phú Thiện

Lịch sử
Vùng Tây Nguyên ngày xưa đa số la những người dân tộc thiểu số sinh sống. Và họ sống với nhau trong những làng mạc mà cha ông họ đã gây dựng nên. Trong một ngày nọ người trưỡng làng cảm thấy trong người của mình có vẻ không ổn nên đã cho gọi 2 người con trai vào và tổ chức một cuộc thi săn bắt để chọn ra một người kế vị. Và cuộc thi đã diễn ra nhưng phần thắng đã thuộc về người em. Người anh buồn bã bỏ sang một vùng đất khác để sinh sống. Còn lại người em đã lập ra một làng tên là "plei ku". ( Ở đây nếu dịch sang nghĩa từ thì Plei: là một cái làng Ku: người em. Pleiku : làng của người em (nhớ về chiến thắng của người em). Và cái tên Pleiku được gắn liền với dia danh nay suốt bao năm tháng qua.

Dân số
Dân số tỉnh Gia Lai gần 1,1 triệu người (năm 2004) bao gồm nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, người Kinh chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân tộc Gia-rai (33,5%), Ba Na (13,7%), Giẻ-triêng, Xơ-đăng, Cơ-ho, Thái, Mường ...

STT Tên đơn vị hành chính Diện tích
(km²) Dân số trung bình
(năm 2003) Dân số
(ngày 31/12/2003)

01 Thành phố Pleiku 260,59 184.397 186.763
02 Thị xã An Khê 199,12 63.014 63.663
03 Thị xã Ayun Pa 287,05 99.616 35.058
04 Huyện Chư Păh 981,30 62.379 62.751
05 Huyện Chư Prông 1.687,50 75.363 76.455
06 Huyện Chư Sê 1.350,98 124.288 126.070
07 Huyện Đắk Đoa 980,41 85.072 86.169
08 Huyện Đắk Pơ 499,61 35.160 35.522
09 Huyện Đức Cơ 717,20 43.595 44.609
10 Huyện Ia Grai 1.122,38 74.620 75.593
11 Huyện Ia Pa 870,10 43.551 44.162
12 Huyện KBang 1.845,23 56.671 57.397
13 Huyện Kông Chro 1.441,88 34.478 35.074
14 Huyện Krông Pa 1.623,63 61.576 62.280
15 Huyện Mang Yang 1.126,07 43.125 43.855
16 Huyện Phú Thiện 501,91 0 64.558
Tổng cộng 15.495,70 1.086.905 1.099.979

Tham khảo [2]

Cơ sở hạ tầng

Bản đồ giao thông đường bộ tỉnh Gia Lai
Đường bộ
Quốc lộ 14 nối Gia Lai với Kon Tum, Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng về phía Bắc và Đắk Lắk, Đắk Nông, các tỉnh vùng Đông Nam Bộ về phía Nam. Quốc lộ 19 nối với cảng Quy Nhơn,Bình Định dài 180Km về phía Đông và các tỉnh Đông Bắc Campuchia về hướng Tây. Quốc lộ 25 nối với Phú Yên. Ngoài ra, đường Hồ Chí Minh cũng đi qua địa bàn tỉnh Gia Lai. Các quốc lộ 14, 25 nối Gia Lai với các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung rất thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa đến cảng để xuất khẩu và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.

Hiện nay, tất cả các tuyến đường xuống các trung tâm huyện đã được trải nhựa hầu hết các trung tâm xã đã có đường ôtô đến.


[sửa] Đường hàng không
Sân bay Pleiku (còn gọi là sân bay Cù Hanh) là một sân bay tương đối nhỏ,có từ thời Pháp.Sân bay Pleiku đang hoạt động, mỗi tuần có 7 chuyến từ thành phố Hồ Chí Minh đi Pleiku - Đà Nẵng - Hà Nội và ngược lại.


Thủy điện
Với địa hình cao và nhiều sông suối, Gia Lai là một trong những nơi tập trung khá nhiều các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ:

Thủy điện Yaly
Thủy điện An Khê
Thủy điện Ayun Hạ
Thủy điện Sê San 1
Thủy điện Sê San 2
Thủy điện Sê San 3
Thủy điện Sê San 4

Kinh tế

Công nghiệp
Trên cơ sở nguồn tài nguyên nông lâm nghiệp và khoáng sản, mở ra triển vọng phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến nông lâm sản với quy mô vừa và lớn.

Trong sản xuất vật liệu xây dựng, trước hết với nguồn đá vôi tại chỗ có thể phát triển sản xuất xi măng phục vụ cho một phần nhu cầu các tỉnh phía Bắc Tây Nguyên và các tỉnh Đông Bắc Campuchia. Hiện có hai nhà máy sản xuất xi măng với công suất 14 vạn tấn/năm. Với nguồn đá granit sẵn có, phong phú về màu sắc có thể chế biến ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xuất khẩu.

Trong chế biến nông lâm sản, với trữ lượng gỗ lớn trong tỉnh và khả năng nhập khẩu gỗ từ các nước Đông Nam Á đảm bảo ổn định nguyên liệu cho sản xuất chế biến các mặt hàng gỗ lâu dài, chế biến song mây, sản xuất bột giấy. Từ mủ cao su có thể chế biến các sản phẩm cao su dân dụng và công nghiệp chất lượng cao; Chế biến cà phê xuất khẩu, chế biến đường, chế biến dầu thực vật, chế biến sắn, chế biến hoa quả và súc sản đóng hộp.

Ngoài ra còn có thể phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng khi đã xác định được địa bàn và trữ lượng cho phép.

Lâm nghiệp

Nông nghiệp

Do đặc trưng là đất đỏ bazal (vì Biển Hồ là miệng của một núi lửa tạm ngừng hoạt động), ở thành phố PleiKu và các huyện vùng cao của Gia Lai có thể canh tác các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, điều... Riêng huyện Đăk Pơ và thị xã An Khê thì thích hợp cho việc trồng cây ngắn ngày, do chịu ảnh hưởng khí hậu của vùng giáp ranh (Bình Định). Huyện Đăk Pơ là vựa rau của cả vùng Tây Nguyên, hàng ngày cung cấp trên 100 tấn rau cho các khu vực ở miền Trung và Tây Nguyên.

Du lịch
Xuất phát từ điều kiện địa lý, là vùng núi cao có nhiều cảnh quan tự nhiên cũng như nhân tạo, Gia Lai có tiềm năng du lịch rất phong phú. Đó là những khu rừng nguyên sinh với hệ thống động thực vật phong phú, nhiều ghềnh thác, suối, hồ như Biển Hồ là một thắng cảnh nổi tiếng. Biển Hồ được xem như là một đôi mắt của thành phố núi Pleiku.

Nhiều núi đồi như Cổng Trời MangYang, đỉnh Hàm Rồng. Cảnh quang nhân tạo có các rừng cao su, đồi chè, cà phê bạt ngàn. Kết hợp vời các tuyến đường rừng, có cácc tuyến dã ngoại bằng thuyền trên sông, cưỡi voi xuyên rừng, trekking...

Bên cạnh sự hấp dẫn của thiên nhiên hùng vĩ, ở Gia Lai còn có nền văn hóa lâu đời đầm đà bản sắc núi rừng của đồng bào các dân tộc, chủ yếu là Jarai và banah thể hiện qua kiến trúc nhà Rông, nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền thống, qua y phục và nhạc cụ...

Thêm vào đó, Gia Lai có bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng hào hùng được thể hiện đậm nét qua các di tích lịch sử văn hóa như khu Tây Sơn thượng đạo, di tích căn cứ địa của anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ; Đó là quê hương của anh hùng Núp, các địa danh Pleime, Che reo, là răng đã đi vào lịch sử.

Ai đã đến Gia Lai chắc đã từng biết đến những con dốc cao và dài, với con đường mờ trong sương vào những sáng mùa đông, đã từng đi vào bài hát "Thành phố sương mù". Những điểm du lich trong thành phố không nhiều, ngoài khu vui chơi giải trí là hồ Đức An, sân vận động và rạp chiếu phim, và rất nhiều quán cà phê. Có rất nhiều thác quanh thành phố như: thác Dakthoa, thác Phú Cường, thác Lồ Ô, thác Chín tầng, ... bài hát,: thành phố sương mù. thành phố sương mù, đêm về nhớ thêm...


Văn hóa - Xã hội

Âm nhạc
Có các nhạc cụ đặc trưng của các dân tộc thiểu số:

Cồng chiêng
Đàn đá
Đàn K'ni
K'lông pút
Đàn Goong
T'rưng
Alal

Ẩm thực
Rượu cần
cafe

Điêu khắc
Tượng nhà mồ

Lễ hội
Lễ hội Đâm Trâu
Lễ ăn cơm mới
dù ai ăn đâu làm đâu. nhớ ngày lẽ hội dâm trâu thì về.


Sân khấu

Đoàn Nghệ thuật Đam San: nghiên cứu, sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn và biểu diễn...
Các dân tộc thiểu số có tín ngưỡng vạn vật hữu linh, đời sống văn hóa của họ gắn liền với các lễ hội, ở đó họ trình diễn các loại nhạc cụ, các điện múa (xoang) diễn ngâm trường ca (kể khan). Gia Lai nói riêng và Tây Nguyên nói chung có các trường ca nổi tiếng như trường ca Đăm San, Xinh Nhã, Hơmon...

Thể dục thể thao
Gia Lai có Câu lạc bộ bóng đá Hoàng Anh Gia Lai hiện đang tham dự và đã hai lần vô địch giải bóng đá chuyên nghiệp V-League của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam.

Liên kết ngoài

UBND tỉnh Gia Lai
Gia Lai
Gia Lai - tiềm năng & triển vọng đầu tư
Âm nhạc Tây nguyên đương đại
Thông tin thêm về Gia Lai và Tây Nguyên
Dân ca Banar
Văn hoá Tây Nguyên

Posted by: delta Apr 17 2008, 10:15 AM

Pleiku



Pleiku (cũng còn viết Plei Cu, Plây Cu, Plây Ku hay Plei Ku), là thành phố, tỉnh lỵ của tỉnh Gia Lai ở vùng Tây Nguyên,


Vị trí địa lý
Thành phố Pleiku là đô thị phía bắc Tây Nguyên, nằm trên trục giao thông giữa quốc lộ 14, quốc lộ 19 nối thông suốt cả nước, gần ngã ba Đông Dương, nằm trên cung đường Hồ Chí Minh, và trong vùng tam giác tăng trưởng các tỉnh lân cận, cũng như các quốc gia láng giềng như Campuchia, Lào. Tổng diện tích tự nhiên là 26.166,36 ha, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của tỉnh Gia Lai.

Pleiku nằm trên độ cao trung bình 300m -500 m; ngã ba quốc lộ 14 và quốc lộ 19 có độ cao 785 m

Dân số, dân tộc
Dân số 188.223 người, bao gồm 28 dân tộc đang sinh sống; người Kinh chiếm đa số (87,5%), còn lại là các dân tộc khác, chủ yếu là các dân tộc Gia Rai và Ba Na (12,5%). Số người trong độ tuổi lao động khoảng 76.262 người chiếm 38% dân số.

Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhanh, đến năm 2004 đạt 1,14%. Kết quả trên đã góp phần tích cực cho công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.

Năm 1971 dân số thị xã là 34.867 người.

Phân chia hành chính
Thành phố có 11 phường (trong đó có phường Thắng Lợi là phường mới được thành lập vào cuối năm 2006 - được tách ra từ một phần địa giới hành chính của xã Chư Á), 9 xã, trong đó : đất nội thành là 5.368,61 ha với dân số khoảng 134 ngàn người (10 phường). Hệ thống giao thông, lưới điện quốc gia, thông tin liên lạc đã thông suốt từ thành phố đến 19 xã, phường.

Các phường bao gồm Diên Hồng, Ia Kring, Hội Thương, Hoa Lư, Tây Sơn, Thống Nhất, Hội Phú, Yên Đỗ, Yên Thế, Trà Bá, Thắng Lợi và các xã bao gồm Biển Hồ, Chư H'Drông, An Phú, Trà Đa, Gào, Diên Phú, Tân Sơn, Ia Kênh, Chư Á.

Kinh tế
Thành phố có ưu thế về thổ nhưỡng, thời tiết thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp : Cao su, cà phê, hồ tiêu, cây lâm sản đa dạng.

Các tiềm năng về du lịch từ các công trình thủy điện, thủy lợi, cảnh quan thiên nhiên do đặc thù địa hình Tây Nguyên mang lại như : du lịch sinh thái, cảnh quan, lịch sử.v.v.

Ưu thế về đất đai rộng, chưa được khai thác nhiều, có khả năng thu hút đầu tư nhanh khi có chính sách phù hợp.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 14,65% (giai đoạn 1999 - 2004), cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng ngày càng tăng trong cơ cấu chung của GDP. Thu nhập bình quân đầu người đạt 662 USD/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 550 hộ chiếm 1,45% (cuối năm 2003 là : 1,78%), theo qui định của Bộ lao động thương binh và xã hội với tiêu chí đạt được như trên thì địa bàn thành phố cơ bản thoát nghèo.

Khu công nghiệp Trà Đa đang tiếp tục thu hút đầu tư của các doanh nghiệp (trên 30 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, đến nay đã có 13 doanh nghiệp đi vào hoạt động, 5 doanh nghiệp đang xây dựng cơ bản), khu Công nghiệp Nam Hàm Rồng, khu công nghiệp Bắc Biển Hồ điện đã có nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đồng thời tỉnh đang quy hoạch phát triển cụm du lịch tham quan các cảnh quan đẹp của núi rừng Tây Nguyên : thác Phú Cường, thác Ba, thác Bầu Cạn, thủy điện Yaly, nhà lao Pleiku, Biển Hồ nước, công viên Đồng xanh, Diên Hồng, công viên văn hóa các dân tộc thiểu số…

Thành phố Pleiku đã được Bộ Xây dựng phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2020. Đang tổ chức kêu gọi các nhà đầu tư thi công các khu quy hoạch đã được phê duyệt : Khu dân cư Lê Thánh Tôn, Nguyễn Chí Thanh, Diên Phú, IaSoi; cụm CN-TTCN, khu đô thị mới Hoa Lư - Phù Đổng (Công ty FBS đang đầu tư xây dựng), suối Hội Phú (Tổng Công ty than đang đầu tư), và các khu dân cư mới theo quy hoạch, các khách sạn cao tầng.v.v.


Cơ sở hạ tầng
Cấp nước sinh hoạt: tỷ lệ dân số được dùng nước sạch là 86%, cấp 128 lít nước/người/ngày.

Điện chiếu sáng: mạng lưới điện quốc gia đã kéo đến 20/20 xã, phường, thôn, làng. Hơn 99,21% số hộ dân được sử dụng lưới điện quốc gia.

Vệ sinh môi trường: được chú trọng đầu tư đồng bộ với sự phát triển hạ tầng đô thị, đến cuối năm 2004 thành phố sẽ quản lý, chăm sóc trên 6.000 cây xanh đường phố.

Hệ thống thông tin liên lạc: được mở rộng đầu tư nâng cấp, đến nay đã phủ sóng thông tin toàn bộ 20/20 xã, phường, thôn, làng, bản. Tính đến cuối năm 2003 số máy điện thoại lắp đặt bình quân đạt 16 máy/100 dân (dự kiến cuối năm 2004 đạt 19 máy/100 . Sân bay Cù Hanh đang được đầu tư nâng cấp để tiếp đón máy bay hạng nặng (A320).

Công sở, nhà dân đã được đầu tư nâng cấp khang trang, hiện đại, đến nay có hơn 80% nhà kiên cố và bán kiên cố. Khu vực nội thành phần lớn là nhà kiên cố, cao tầng; Trung tâm thương mại đã được đầu tư làm mới và hệ thống các chợ khu vực đi vào hoạt động ổn định.

Qua 5 năm xây dựng và phát triển đô thị, tổng mức đầu tư toàn xã hội trong 5 năm (1999 - 2004) trên địa bàn thành phố đạt hơn 1.245 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách Thành phố đầu tư hơn 110 tỷ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, kết quả đạt khả quan như : đầu tư trên 64 tỷ đồng xây dựng mới, cải tạo nâng cấp 65 trường học (350 phòng học); đầu tư trên 24 tỷ đồng xây dựng 225 đường hẻm với tổng chiều dài 112 km đường giao thông nông thôn (đường láng nhựa và bê tông xi măng); cải tạo nâng cấp và xây dựng mới 72 phòng họp tổ dân phố thôn, làng…


Giao thông

Hiện có 734,257 km đường bộ, bao gồm : 19,25 km đường bê tông ximăng; 85 km đường bê tông nhựa; 216,1 km đường láng nhựa; 32 km đường cấp phối và 381,9 km đường đất.

Sân bay Cù Hanh cách trung tâm thành phố khỏang 5 km đang được đầu tư nâng cấp để tiếp nhận các máy bay lớn (A320).

Posted by: M&N May 2 2008, 10:15 AM

Ông Sáu Người Pleiku Lặng Lẽ Chăm Sóc Những Hài Nhi


Tiễn đưa một hài nhi, ông Sáu lại ngồi tư lự . Ảnh: Thanh Niên.


“Con không có lời ru/Đưa con vào cuộc đời/…/Xin thắp lên cho con một ngọn nến”. Câu thơ ngấn đầy nước mắt được khắc ở bàn thờ chung của gần 10.000 ngôi mộ, phần nhiều là vô danh ở khu nghĩa trang đồng nhi, thành phố Pleiku (Gia Lai). Ở nơi ấy, có một người đàn ông tự nguyện chăm sóc các phần mộ.

7h tối giữa tháng 12. Trời đổ mưa tầm tã. Cái rét của mùa mưa cao nguyên lại về. Ở nghĩa trang thành phố Pleiku, có người đàn ông lặng lẽ làm một việc mà ông không hề mong bao giờ: khâm liệm cho một hài nhi bị bỏ rơi. Lúc chiều tối, ông nhận được tin dữ có một hài nhi bị gói trong bì, vứt ở lùm cây cạnh nghĩa trang. Vội vàng bỏ bữa cơm chiều, ông đội mưa đi mua các thứ cần thiết và lên đường. Nhanh tay lần giở lớp nylon được bọc khá kỹ, kéo nốt mấy tấm giấy mỏng... Một bé gái đã thành hình, khoảng 6-7 tháng tuổi.

Ông lấy chai rượu chuẩn bị sẵn, rửa ráy cẩn thận hài nhi, đưa vào một tiểu sành, đào đất làm thêm ngôi mộ nhỏ vô danh. Xong việc, ông khum người tránh những cơn gió thông thốc, đốt lên mấy nén nhang trước ngôi mộ mới. Nhìn lại một lần nữa xem mình có sơ suất gì không trước khi quay về. Đã quá 10h đêm.

Suốt 4-5 năm nay, người ta vẫn thấy ông lui tới nghĩa trang, lúi húi nhổ cỏ dại, thắp nhang cho những ngôi mộ hài nhi vô danh. Đôi lúc ông còn dẫn vợ theo, khâm liệm cho hài nhi bị bỏ rơi. Ông không muốn nói tên. Mọi người hay làm công việc lau mộ thuê ở đây vẫn thường gọi ông bằng cái tên thân mật: ông Sáu.

Vốn là dân xây dựng, ông Sáu hết làm nhà nước lại ra riêng, có hàng chục phương tiện chuyên dụng phục vụ cho việc làm nghề. Bỗng nhiên, ông bỏ tất cả, về sống trong một căn nhà khiêm tốn ở thành phố Pleiku. Tiền dành hết cho việc nghĩa. Cái duyên tiền định đưa đẩy ông đến với công việc này là vào năm 2002, khi có một hài nhi bị bỏ rơi ở chợ mới (nay là Trung tâm thương mại thành phố Pleiku).

Hài nhi được bọc kỹ trong giấy báo, nylon và để trên một sạp hàng cả ngày. Khi thu dọn đồ, bà chủ sạp thấy cái bọc bỏ đó, nhưng không ai nhận. Bà tò mò mở ra xem và xỉu ngay trên sạp hàng. Hài nhi được bà con tiểu thương đóng góp tiền mua nhang đèn, tiểu sành đem lên nghĩa trang. Biết chuyện đó, ông quyết định tìm lên nghĩa trang, lo hậu sự cho các bé. Đôi lúc túng thiếu, không đủ tiền mua tiểu sành, các vật dụng cần thiết, ông bán luôn chiếc xe máy thường đi. "Đợi có tiền sắm lại sau", ông giải thích.

Mấy năm trời làm việc nghĩa, ông tự tay chôn cả nghìn hài nhi bị bỏ rơi. Cứ có người báo hài nhi bị bỏ rơi, ông lại có mặt, làm cái việc mà ông không muốn lặp lại bao giờ: giải quyết hậu quả cho những mối tình lầm lỡ. Ông Sáu nói: "Buồn lắm! Có lần tôi an táng cho cháu trai lớn tháng bị bỏ rơi. Mọi người đi qua thấy vậy tưởng bé đang còn sống và bảo sao lại để bé bên đường thế này mà không đưa mẹ nó cho bú mớm? Lúc đó, nước mắt tôi tự nhiên cứ trào ra giàn giụa".

Cây xương rồng day dứt


Vẫn có những cô bé như thế này lui tới nghĩa trang đồng nhi. Ảnh: Thanh Niên.
Nghĩa trang đồng nhi có từ năm 1990, nằm trong phần đất của nghĩa trang thành phố Pleiku. Một số tín đồ Công giáo, Phật giáo đã lập một trang thờ. Những ngôi mộ hài nhi vô danh từ đó có người chăm sóc, không còn cô quạnh, lạnh lẽo như trước.

Tại khu nghĩa trang này, số mộ phần lên tới gần 10.000. Con số mộ vô danh đang có dấu hiệu gia tăng. Như lời ông Sáu thì có ngày, ông phải làm lễ "tiễn đưa" 10 cháu. Có cô cậu đang độ tuổi học trò, mặt búng ra sữa đã để lại những hậu quả tai hại, tự mình đánh mất khát vọng sống của mỗi sinh linh, và tự tước bỏ quyền làm cha, làm mẹ của chính mình - một thiên chức cao quý.

Có những cô bé, cậu bé tới đây, đặt vội vài nén nhang trên một khu mộ vô danh nào đó, sụt sùi khóc rồi vội vã ra về. Có cô gái còn rất trẻ vào đây khóc cả tháng trước sinh linh mà mình phá bỏ. Mới đây, có hai cô lén lút đem đến một thi hài bé nhỏ, treo trên cây rồi vùng chạy. Ông Sáu lại lặng lẽ khâm liệm.

Hai cây xương rồng trồng ở trước trang thờ hiện hữu chi chít những chứng tích buồn, những dòng chữ khắc đầy trên lá như: "Cầu chúc cho bố mẹ chấp nhận tình yêu của mình"; "Chúc Q. có được tình yêu mới"; "Mẹ nhớ con"... Và còn nhiều những tờ giấy ghi nội dung tương tự bị mưa nắng làm phai mờ vết mực. Trong số này, chỉ có 1/10 là được gia đình quan tâm, xây mộ chu đáo. Còn lại, các ngôi mộ hài nhi bị bỏ rơi, được những tấm lòng nhân hậu chôn cất và nhang khói.

Ông Sáu nói: "Những trường hợp đó làm cho mình thấy day dứt. Cõi đời vô thường. Có những khi giật mình mới thấy mình sai. Mình muốn làm thêm một việc nghĩa cho đời. Năm nay gần 60 tuổi rồi, chẳng còn bao xa. Chỉ thương tụi nhỏ, mới chút tuổi đã...".

Posted by: M&N May 3 2008, 08:28 AM

Thưa các bạn, bài nầy không phải do thành viên sáng tác ... Nhưng trang web thuộc về Pleiku ... nên M&N tạm post vào Forum nầy ... có lẽ không đúng đề tài của Forum ... nhưng để vinh danh và cảm kích tấm lòng từ thiện của ông Sáu love1.gif

Posted by: M&N May 30 2008, 04:00 PM


Biển Hồ Plây-cu



Nếu hồ Lak đã đem lại cho Daklak một nét duyên dáng đáng yêu, hồ Than Thở quyến rủ mọi người bằng vẻ đẹp thơ mộng, và bằng một câu chuyện tình đau thương, thì Biển hồ Plây-cu là một viên ngọc bích nằm giữa lòng Trường Sơn mênh mông, hùng vĩ.

Biển hồ Plây Ku còn gọi là hồ T'rưng hay hồ Ea Nueng. Từ thị xã Plây Ku, theo QL 14 đi về hướng KonTum, độ 7 km, rẽ sang tay phải theo con đường mòn dẫn đến Biển Hồ. Trước mặt các bạn là bể nước phẳng lì, bàng bạc, lóng lánh dưới ánh mặt trời. Xung quanh hồ có thể nói là cả một vườn hoa. Nhiều nhất là hoa ê ban màu sữa, chấm phá lung linh giữa khoảng không gian xanh biếc. Hoa mua sắc tim tím. Hoa ngải màu vàng vàng. Hoa súng màu phơn phớt trắng hồng ... Thôi thì đủ màu đủ sắc.

Hồ T'rưng còn là nơi ẩn náu của nhiều loại chim như chim sin sít lông tím, mỏ hồng, sớm chiều kêu vang, tiếng kêu lanh lảnh như tiếng kèn đồng. Chim bói cá có bộ lông sặc sỡ, màu xanh biếc lẫn với màu xanh da cam. Chim cuốc đen trùi trụi hoặc màu lốm đốm hoa mơ. Các con kơ vông, kơ túc thấp thoáng nấp trong các cụm hoa sen, hoa súng trên mặt hồ. Những chú le le, vịt trời lặn hụp trong những bãi lau bồng bềnh giữa mặt hồ gợn sóng. Trên trời xanh, chim đ'rao, chim trắc-la nhởn nhơ bay lượn.

Biển Hồ còn là cả một vựa cá ở Tây Nguyên, gồm đủ các loại cá nước ngọt như cá trắm, cá chép, cá trôi, cá đá, cá niềng ... bơi lội nhởn nhơ. Những ngày có mưa lớn, hàng trăm con thác đổ vào đây nước dâng lên lai láng.

Mơ lúc chiều tà, ánh hoàng hôn trải ra khắp không gian mênh mông một màu tím sậm của núi rừng. Những đêm trăng thanh gió mát cảnh hồ nước trông có vẻ đẹp lạ lùng và huyền ảo. Dãy núi chung quanh màu lam in trên nền trời bàng bạc, mặt hồ óng ánh như gương, gió nhè nhẹ trôi, tâm hồn các bạn không khỏi lâng lâng ...


Nguyễn Nhân Thống
(Qui Nhơn)

Posted by: M&N May 30 2008, 04:02 PM

Biển hồ Tơ Nưng nằm ở xã Biển Hồ, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Đặc điểm: Biển hồ Tơ Nưng nguyên là một miệng núi lửa ngừng hoạt động đã hàng trăm triệu năm. Hồ có hình bầu dục, diện tích 230ha.

Con đường dẫn xuống hồ đẹp như tranh, hai bên là những rặng thông xanh ngắt. Cuối con đường, leo lên các bậc tam cấp bằng đá, du khách sẽ đặt chân vào ngôi nhà lồng rất thơ mộng được xây trên một đồi cao ăn ra lòng hồ. Nước hồ quanh năm đầy ắp, xanh trong có thể nhìn rõ từng đàn cá bơi lội dưới nước. Hồ có độ sâu từ 20 đến 40m. Ðây là vựa cá, hàng năm cung cấp cho Pleiku hàng trăm tấn cá. Những chiếc thuyền độc mộc lướt trên mặt hồ thật êm ả.

Phong cảnh xung quanh hồ thật ngoạn mục, từ những cây cối và các loài hoa khoe sắc ven hồ, ong bướm dập dìu tiếng hót của các loài chim lảnh lót mỗi buổi sớm mai. Kế đó là những cánh rừng bạt ngàn, những ngọn đồi uốn lượn trập trùng... Những chiếc thuyền độc mộc lướt trên mặt nước.

Giữa mùa nắng nóng oi nồng mà ở đây rất dễ chịu: không khí trong lành và mát rượi. Đứng trước hồ nước mênh mông không khỏi nhớ đến câu thơ “Ngọn gió nóng qua sông thành ngọn gió mát”. Quả thực, biển hồ đã hấp thụ những cơn gió nóng nực để đem đến cho vùng đất cao nguyên bao la những cơn gió mát lành. Đây không chỉ là nguồn cung cấp nước sinh hoạt, nước cho cây trồng và vật nuôi cho một vùng rộng lớn mà còn cung cấp cho dân trong vùng hàng trăm tấn cá, tôm…mỗi năm. Nguồn lợi tự nhiên mà biển hồ mang lại vô cùng to lớn và quan trọng, nhất là đối với vùng cao nguyên ở độ cao gần ngàn mét so với mặt biển và hiếm nước. biển hồ với nhiều góc độ nổi lên như một viên ngọc bích giữa mênh mông đất đỏ Tây Nguyên.

Biển hồ gần quốc lộ 14 và quốc lộ 19 nên rất thuận tiện cho khách đến tham quan. Đứng bên hồ, du khách có thể phóng tầm mắt để nhìn bao quát cả một vùng: đây là những quả đồi đất đỏ badan, những đồi chè, những đồi cà phê trĩu quả. Kia là thành phố Pleiku - phố núi cao, phố núi đầy sương. Xa xa là những cánh rừng bạt ngàn, những ngọn đồi uốn lượn trập trùng. Du khách còn gặp ở đây những ngôi nhà rông cao vút.

Trong vòng bán kính 6km về hướng nam là núi Hàm Rồng. Hàm Rồng là dương, dương từ khí núi, hiên ngang như tấm bình phong chắn gió. Ngược lại, biển hồ cũng là miệng một núi lửa nhưng khác là âm sâu xuống lòng đất. Các nhà khảo cổ học đã thám sát, thăm dò và khai mở trang sử từ lòng đất này cho chúng ta biểt về văn hóa biển hồ - nền văn hóa đặc sắc thời tiền sử…

Biển hồ Tơ Nưng được ví như hạt ngọc của Pleiku, của cả Tây Nguyên và là một điểm du lịch quan trọng của tỉnh.


Posted by: tuyettinh Jul 21 2008, 06:01 AM

Huyền thoại về Biển Hồ phố núi Pleiku



Những du khách đến Gia Lai và ghé thăm Biển Hồ Pleiku bên phố núi thơ mộng, ai cũng đều khen ngợi thắng cảnh có một không hai trên cao nguyên Gia Lai. Cảnh đẹp của Biển Hồ mà thiên nhiên ban tặng ở đây có lẽ ai cũng dễ dàng nhận thấy, nhưng xung quanh thắng cảnh hữu tình ấy còn có nhiều câu chuyện khá thú vị mà không phải ai cũng biết đến.

Tên gọi Biển Hồ, hay hồ Tơ Nưng, Ia Nueng nằm ở phía Bắc Gia Lai, cách trung tâm thành phố Pleiku khoảng 7km, thuộc xã Biển Hồ, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. Biển Hồ có hình bầu dục, diện tích khoảng 230ha, xung quanh núi bao bọc và rừng thông xanh mát quanh năm.

Theo truyện cổ dân gian của dân tộc Jơ Rai kể về sự tích Ia Nueng (Biển Hồ) khi xưa là bến nước uống chung của làng người Jơ Rai. Nước ở bến Ia Nueng rất xanh trong, soi rõ mặt người. Một hôm, trên đường đi đến bến Ia Nueng để lấy nước, có hai người dân trong làng là Yă Pôm và Yă Chao phát hiện một con heo trắng rất đẹp. Yă Chao đã bắt con lợn trắng xinh đẹp kia về nuôi ở nhà mình. Hằng ngày, Yă Chao chăm sóc cho lợn trắng đủ thức ăn ngon nhưng chú lợn con không ăn gì cả. Một lần Yă Chao mang những chiếc bầu đi lấy nước ở Ia Nueng về dính những hạt cát trắng thì bỗng nhiên chú lợn con đã liếm hết những hạt cát một cách ngon lành. Sửng sốt trước hiện tượng lạ, sau này Yă Chao cứ đi lấy cát trắng về cho chú lợn ăn và lớn nhanh như thổi. Sau 3 lần trăng tròn, chú lợn trắng lớn bằng con trâu to và khiến cả dân làng ngạc nhiên.

Khi ấy dân làng làm nhà rông mới và sai người trong làng đi tìm một con lợn thật to để cúng Yàng và làm lễ ăn mừng. Sau khi sai người đi tìm kiếm khắp nơi nhưng không lấy đâu ra con lợn to như già làng mong muốn nên trở về nhà Yă Chao xin bắt con lợn trắng này để làm thịt. Yă Chao kiên quyết từ chối, dù có đổi bao nhiêu tài sản của dân làng cũng không chịu. Nhưng cuối cùng dân làng đã quyết cử 2 người to khỏe đến bắt cho bằng được con lợn trắng về làm thịt cúng Yàng và chia đều thịt cho các gia đình trong làng để ăn mừng. Riêng Yă Chao không nhận thịt và thề rằng: "Nếu tôi ăn thịt này thì đất sẽ động, Ia Nueng sẽ sụp lở". Nhưng đứa cháu của Yă Chao thấy thịt ngon đòi ăn và khóc cả ngày đêm nên bà không cầm được lòng mà phải cho đứa cháu ăn thịt lợn trắng. Bỗng chốc, trời đất, núi rừng rung chuyển, nhà cửa ngả nghiêng, vùi lấp cả dân làng. Hai bà cháu Yă Chao chạy nhưng không kịp nên bị nước nhấn chìm biến thành tượng đá dưới đáy hồ...

Ngoài ra, còn có chuyện kể rằng, hồ mang tên Tơ Nưng là tên một làng cổ trong huyền thoại. Chuyện kể về ngôi làng xưa to và đẹp lắm. Dân làng sống yên vui, hòa thuận lâu đời thì bỗng một hôm, ngọn núi lửa ập tới vùi lấp làng. Những người may mắn còn sống sót đã khóc thương cho làng mình, khóc cho người thân không ngớt, khiến nước mắt chảy thành suối, các suối đổ về thành hồ. Hồ mang tên Tơ Nưng là một kỷ niệm chung của làng cổ đó...

Về Biển Hồ ở Pleiku còn có nhiều huyền thoại khác như chuyện kể rằng hồ sâu không đáy và thông ra tận biển Đông. Từ đó có câu chuyện ví von về những người làm gỗ ở Gia Lai, họ chỉ cần thả những lóng gỗ xuống Biển Hồ, một đêm xuống cảng biển Quy Nhơn, Bình Định là có thể lấy gỗ đem bán...

Thực tế, Biển Hồ (hồ Tơ Nưng; Ia Nueng) nguyên là một miệng núi lửa đã ngừng hoạt động từ hàng trăm triệu năm qua. Sự rộng lớn mênh mông của hồ nước này tựa như biển khơi nên người dân địa phương đặt tên là Biển Hồ. Dẫu thiên nhiên khắc nghiệt, nắng hạn đến đâu nhưng từ trước đến giờ nước Biển Hồ này vẫn chưa bao giờ cạn. Biển Hồ là nơi cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho hàng chục ngàn người dân TP Pleiku. Đây còn là nơi có nhiều tôm cá, phong cảnh xung quanh hồ rất xinh đẹp, mát mẻ quanh năm và là nơi hẹn hò thú vị của nhiều đôi nam nữ yêu đương. Có những bạn tình sau lần đến với Biển Hồ Pleiku đã rất thích thú và viết nên những cảm nhận trên Blogcủa mình: "...Giữa mùa nắng nóng oi nồng mà ở đây rất dễ chịu, không khí trong lành và mát rượi. Đứng trước hồ nước mênh mông, ngắm cảnh rừng thông trữ tình mà lòng càng đầy ắp tình yêu lãng mạn...".

Nhiều người còn ví Biển Hồ như viên ngọc bích giữa mênh mông đất đỏ Tây Nguyên, là "đôi mắt" của phố núi Pleiku. Gần đây, tỉnh Gia Lai cho phép một doanh nghiệp ngoài tỉnh đầu tư thực hiện dự án "Lâm viên Biển Hồ" hàng trăm tỷ đồng với nhiều loại hình dịch vụ du lịch khác nhau nhưng phải bảo đảm tính bền vững về môi trường sinh thái ở đây. Dự án đến nay chưa triển khai nên chưa thể nói gì thêm, tuy nhiên vẻ đẹp tự nhiên của Biển Hồ trên phố núi Pleiku đã được xếp hạng là thắng cảnh đặc biệt và độc đáo

Ngọc Như

Posted by: M&N Aug 2 2008, 10:38 AM



Posted by: M&N Aug 2 2008, 10:41 AM



Posted by: M&N Aug 2 2008, 10:48 AM



Posted by: M&N Aug 2 2008, 10:52 AM



Posted by: M&N Aug 2 2008, 11:05 AM


Minh Đức Họp Mặt 2007



Posted by: M&N Aug 2 2008, 12:39 PM


Minh Đức Họp Mặt








Posted by: M&N Aug 6 2008, 10:33 AM


Lòng heo nướng nghệ Pleiku



Có những món mà muốn ăn được thì phải chế biến khá tỉ mẩn, nhưng bù lại những người chưa ăn bao giờ, chỉ nhìn thấy thôi cũng cầm lòng không đặng. Lòng heo nướng nghệ ở Pleiku là một ví dụ.

Lòng heo mua về, rứt bớt mỡ dính bên ngoài, rửa sạch xong thì pha độ nửa thau nước với hai thìa canh muối, một quả chanh bỏ lòng vào ngâm độ 30 phút. Tiếp đến bỏ vào nồi nước trong luộc sơ. Vớt ra cắt thành từng khúc độ 3cm. Sả, tỏi củ: lột vỏ, đập dập băm nhỏ, củ nghệ giã nhỏ chắt lất nước; tiêu xay nhỏ, thêm chút bột nêm, tất cả đem trộn ướp với lòng độ 10 phút cho thấm. Than hoa quạt đỏ rồi thì cứ gắp bỏ lên vỉ nướng đến khi thấy mỡ ứa lủi sủi bên ngoài, miếng lòng vàng rộm và tỏa mùi thơm của các gia vị quyện với mùi mỡ là được.

Lên Pleiku, vào tiết trời mát mẻ dễ chịu. Sau một buổi bồi dưỡng văn hóa xứ sở của chàng Đam San ở công viên Đồng Xanh, ghé vào cái quán nhỏ bên đường cách đó không xa, hai bên là những vạt rau xanh nõn, quán có cây trứng cá nên gọi là quán Trứng Cá. Nếu không biết, ăn các món khác đã no lắm rồi nhưng thấy bàn bên bưng ra một đĩa vàng vàng, một cái bếp lò đặt cạnh, cứ vừa quạt vừa gắp, một lúc mùi thơm bốc lên, đảm bảo không thể nào đừng được.

Cúc Phương


Posted by: M&N Oct 26 2008, 01:09 PM


Buổi Sáng Pleiku Và Những Điều Cảm Nhận

Hoang Vắng


với những người bận rộn buổi sáng của họ bắt đầu bằng: hối hả chạy xe đi làm, tranh thủ làm ly cafe nếu là nam giới, hoặc ăn sáng và đến công sở bắt đầu bằng những công việc ngập đầu theo xu hướng xã hội công nghiệp, đôi lúc chúng ta đâu có thời gian cảm nhận cuộc sống như thế nào??

nhưng với pleiku phố núi này thì đôi lúc dù bận rộn cỡ nào bạn cũng không thể không cảm nhận những đặc trưng riêng của thiên nhiên ban tặng cho phố núi này như: cái lạnh của miền núi, sương mờ nhân ảnh núp bóng dứoi ánh mặt trời, ly cafe buổi sáng như thói quen của riêng tôi...

ở pleiku này nếu bạn muốn có một cảm giác lãng mạn và hứng thú của một ngày mới thì rất dể cảm nhận nó: buổi sáng khi đi làm hay đi học bạn mặc thêm áo ấm và cả bao tay vì thời tiết hơi lạnh, khi ra đường cảm giác bạn càng thú vị hơn khi sương bao phủ mờ dưới ánh nắng tất cả những cảm giác đó bạn ngồi bên một quán cóc ven đường trên là bóng cây làm một ly cafe sáng vừa có vị thơm ngon đậm đà, vừa lâng lâng ngây ngất say say với thiên nhiên và mùi vị cafe và nhâm nhi cảm nhận một ngày mới

với tôi một buổi sáng như thế thì đó là cả một ngày hứng thú và mang nhiều cảm giác sáng tạo.....

nếu bạn là người mới đến pleiku công tác, du lịch hay cái gì khác đừng quên thưởng thức cảm giác thiên nhiên và cảm nhận của riêng bạn nhé.

Posted by: M&N Oct 26 2008, 01:16 PM


Pleiku, Đóa Quỳ Vàng Và Những Hồn Thi Sĩ

Nguyễn Mạnh Trinh


Pleiku, một thành phố nhỏ heo hút ở cao nguyên, nhờ thơ và nhạc, đã thành một nơi chốn đầy thơ mộng. Thành phố ấy, có những tương phản kỳ lạ. Chiến tranh đã làm phố núi ấy có một bộ mặt, khi thì lãng mạn thơ mộng với những tà áo dài nữ sinh đi học buổi sớm mai nhưng cũng có lúc đầy nhục dục xác thịt. Con đường từ phố đến camp Holloway đầy những quán rượu và những cô gái phấn son lòe loẹt. Và, thành phố cũng đầy những sắc lính. Những người từ mặt trận trở về, đốt tiền mua vội một đêm vui rồi sáng mai trở lại miền gió cát. Những người lính đồn trú ở đây, ráng làm quen với cuộc sống ở vùng nắng bụi mưa sình, trong một giây phút nào, cũng nao nao vì những tà áo trắng buổi sáng trong sương mù Pleiku, tìm thấy một chút thơ mộng trong đời để làm kỷ niệm. Pleiku, những cuộc tình có thực đầy dông bão của những người lính và những cô gái giang hồ. Nhưng Pleiku cũng có những êm ái thánh thiện của tình học trò áo trắng và người lính dạn dầy trong khói lửa. Pleiku có con đường đầy quán rượu cho lính G.I. viễn chinh nhưng cũng có con đường có hai hàng cây cao vút rợp bóng lá và những tà áo học trò tung bay theo nắng.

Người làm thơ, có lúc cũng cảm khái vì cái không gian, thời gian của thành phố ấy. Mưa cũng là cái mưa đặc biệt, mỗi mỗi hạt mưa như chứa đựng cả những nỗi niềm của tất cả những địa phương xa lạ thu góp về. Nắng cũng là cái nắng không phải của một nơi chốn nào khác, nó mang đến cái hanh hao khó chịu nhưng cũng trong màu nắng ấy lấp lánh những tình cảm thầm thì khó tả. Lạnh cũng chẳng phải là cái lạnh lẽo bình thường mà hình như cỏ cây, đường phố, núi non,... ở đây cũng se mình và chia sẻ chung vui buồn với con người. Trong giây phút hiếm có trong đời, cảm xúc đã làm ngôn ngữ tăng thêm lôi cuốn và tạo nhiều ấn tượng. Nguyễn Bắc Sơn, một chứng nhân của cuộc chiến, làm thơ như một cách thế sống, đã coi công việc viết như một phần của đời người. Sống ở Plei ku và viết những bài thơ để gửi Pleiku. Thơ ông, có chút cảm khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có những xúc động bềnh bồng của tâm tư lãng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ, phảng phất vóc dáng một chàng cuồng sĩ...

Ðọc bài thơ “Hoa Quì Vàng Lạnh Pleiku,” tự nhiên tôi như người trở về thời gian ấy, không gian ấy. Trở về những ngày tuổi trẻ, của những giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc đùa chơi. Cái lạnh, chưa hẳn là lạnh lẽo mùa đông, mà còn chứa đựng một chút nồng ấm nào đó của mùa hạ. Lạnh ở bên ngoài nhưng rần rần nóng hổi ở tim óc bên trong. Sương mù ban đêm trên đỉnh cao nhìn về phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như sóng theo tầm nhìn vời vợi...


“Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó... ”

Tôi cũng đã sống ở Pleiku gần ba năm. Thời gian ấy trong hơn tổng số bẩy năm ở lính của tôi chắc là đáng kể và đầy chật những điều đáng nhớ. Ngày đầu tiên khi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong óc của Kim Tuấn, Du Tử Lê, Vũ Hữu Ðịnh, Nguyễn Bắc Sơn,... Thơ tự nhiên thành một phần của một ngày, một tháng, một năm,... của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực. Nặng tê...

Ðọc bài thơ dài của Nguyễn Bắc Sơn tôi chỉ thấy có hai câu nói về mầu hoa quì vàng. Thế mà cái mầu sắc hoa man dã ấy chỉ một nét thoáng qua nhưng lại gợi nhiều dư âm. Màu vàng, có khi là màu vàng lạnh, nhưng có khi là màu nóng chói chang của nắng.


“Phố núi kia ơi, một đời phố lạnh.
Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao.”


Hoa quì vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống như hoa cúc, tôi đã nhìn thấy miên man màu vàng khi trên phi cơ nhìn xuống. Màu vàng, mênh mang trên những ngọn đồi loang lổ màu xám của đá và màu đỏ của đất. Hoa quì, lẻ loi một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt ngàn dưới cánh phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng khó quên cho cảm xúc. Ơi hoa quì, màu vàng không phải kiêu sa như màu hoàng cúc của áo tôn nữ mà có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dã, của thiên nhiên. Hèn chi, cũng có nhiều nhà thơ vấn vương với hoa quì vàng, như Nguyễn Xuân Thiệp, như Kim Tuấn,...

Người thơ kể chuyện của mình, một câu chuyện có lẽ rất quen tai của những người lính thú. Cũng đi xuống, đi lên, cũng loay hoay bồn chồn như những chàng gà trống...


“Ðời lang bạt của một người lính thú
Sáng hôm qua tôi là người thiếp ngủ
Ði một mình lên xuống phố mù sương
Phố núi kia ơi, phố có con đường
Lên xuống dốc tìm không ra bạn hữu
Không có bạn tôi làm sao uống rượu
Tôi làm sao sống nổi một ngày đây
Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy
Nhìn gã lính không khác gì gã lính...”

Không có bạn tôi làm sao uống rượu. Tôi làm sao sống nổi một ngày đây. Nghe như một câu nói thường ngày, không có chất thơ mà sao nghe tràn đầy thi tứ. Chắc lúc ấy, sự cảm khái của người thơ đã lên cao độ, và, nỗi lạnh lùng thiên cổ như bám vào da vào thịt. Có nỗi nhớ mong, có niềm tiếc nuối. Người em, bây giờ lưu lạc ở đâu?

“...Tôi vận rủi làm một người lãng đãng
Ngó mông hoài khuất bóng của người em
Sáng hôm nay đời sống thật bình yên
Sao phố lại đuổi đi người yểu điệu
Vườn đá tảng bàn chân em huyền diệu
In gót hồng lên lớp bụi đời tôi
Là từ khi tôi hạnh phúc rong chơi
Và quên lãng con thú mù phẫn nộ
Ôi phố núi đêm nay là cổ mộ

Một hàng đèn sáng lạnh cõi bi hoang...”
Bài thơ thứ hai tôi đọc để nhớ Pleiku là của Nguyễn Xuân Thiệp, bài “Pleiku, tháng Ba 1974.” Ba mươi năm trôi qua, nhưng ngày tháng đó vẫn còn sinh động. Thơ, không ghi chép lại nhật ký ngày tháng mà sao đầy dấu viết của một quãng đời. Ngày ấy, lửa cháy đỏ. Ngày ấy, người thi sĩ kể chuyện một mình. Ðâu cần ai hiểu, chỉ để nỗi niềm loang vào sương đêm thành nỗi nhớ mịt mùng.

“Cầm bút viết, tháng Ba rực cháy
Hàng dầu cao trong bình minh
Cơn sốt của trái chín và cánh đồng
Trận gió hung trưa ngày ấy
Cầm bút viết, đồi hoa quỳ vàng
Tháng Ba xuống khu rừng
Bóng quạ rung những nhánh cây màu tàn lửa tiếng thét hư không. Chiều rượt qua ngàn...”

Những hình ảnh đan vào nhau với những liên tưởng tiếp nối. Ảnh tượng có khi như không liên quan nhau, chỉ là những nét phác sơ lược nhưng lại làm nổi bật được một không gian đầy biến động. Ðồi hoa quỳ vàng, khu rừng, bóng quạ, nhánh cây màu tàn lửa, tất cả như chìm đắm trong nỗi bàng hoàng của thế thời. Cơn bão lửa dậy lên từ hoang vu:


“Tháng Ba, chân trời chớp tía
Những chuyến xe lên đường, cơn mưa chợt đến
Rào qua mái nhà, bàng hoàng mưa ngưng bặt
Ðêm. Những căn nhà gỗ sáng đèn.
Tháng Ba. Trên đồi vông nở.
Tôi trở về thị trấn tháng Ba
Những sợi dây trời cắt đau trí nhớ
Cườm tay em nhỏ máu hè xưa...”

Xa rồi những ngày thơ mộng. Gần lắm rồi những nỗi kinh hoàng. Cái linh cảm của một cuộc địa chấn là cái linh cảm chung của những người như những con chuột đang cuống cuồng trong rọ. Thị trấn sẽ thành biển lửa, nay mai. Sẽ đầy những cuộc chia ly đầy nước mắt. Thảm họa sụp xuống, như cơn hồng thủy đến.


“...Vò nát chiếc khăn và đừng khóc chiều nay. Chớp bể mưa nguồn chia tay nhau. Sương phụ

người đi râu bám bụi đường tháng Ba. Em. Những căn nhà gỗ ánh đèn khuya. vệt máu hè xưa, đừng tiếc chiếc khăn tay ngày ấy sẽ bay trong lửa hoàng hôn tháng Ba. Cơn giông rền mặt đất.”

Ðọc xong hai bài thơ, tôi như người hụt hơi. Ðời sống, như một hơi khói nhẹ, loãng bay vào hư không.Tự nhiên, thấy lòng mình chùng xuống những kỷ niệm. Những bài thơ. Thuở đã xa. Ngày còn trẻ. Và hoa quì vàng, cái màu vàng loang sắc nắng của buổi nào, bây giờ có còn vương trên núi đồi không? Cái sắc màu hỏa hoàng trong những buổi chiều nhạt nắng ấy sao nhức nhối ký ức. Thị trấn ấy, như câu thơ Vũ Hữu Ðịnh:


“ Phố núi cao phố núi trời gần
Phố xá không xa nên phố tình thân
Ði dăm phút đã về chốn cũ
Một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa Ðông
Nên mắt em ướt và tóc em ướt
Da em mềm như mây chiều trong...”


Có khi em Pleiku chỉ là tưởng tượng. Thi sĩ đã làm thành một nhân dáng nữ tuyệt vời để tô điểm cho phố núi ấm áp hơn trong cái lạnh se se Tây Nguyên. Thơ như tháp cánh vút lên, để những hàng cây dầu hai bên con đường học trò vươn lên mầu lá xanh hiền. Thành phố có em, là thành phố mà tình yêu đã làm một thứ trang sức cho đời lính thú biên trấn xa xôi. May mà còn có niềm vui.

Thơ về Pleiku thì nhiều, nhiều lắm. Kim Tuấn, Diên Nghị, Du Tử Lê, Võ Ý, Lê Bá Ðịnh, Lâm Hảo Dũng,... đã trãi lòng mình lên thành những rung động thật với nơi chốn mà mình đã qua hoặc gắn bó. Pleiku, nhắc đến nó để nhớ lại một thời lửa đạn. Và, nếu có người sưu tập thành một tuyển tập có chủ đề về nơi chốn ấy, chắc sẽ có một quyển sách cả ngàn trang mới mong đầy đủ hết thơ văn của những người hoài vương vấn với mưa sình, nắng bụi cao nguyên...


Nguyễn Mạnh Trinh

Posted by: M&N Oct 26 2008, 01:23 PM


Pleiku phố núi ơi! Pleiku thân yêu của tôi.

Tomato


Nắng sớm chiếu thẳng vào nhà cùng tí gió se se lạnh làm cho mọi thứ như bừng tỉnh dịu dàng và dễ chịu ghê! có rất nhiều cảm xúc xen lẫn nhau khó giải thích! nó làm mình nhớ hương vị ngày tết ở Pleiku, nó làm mình nhớ ngôi nhà mà mấy mẹ con bao năm gắn bó, ngôi nhà ấy sáng nào cũng đón anh bình minh chiếu qua khung cửa kính sáng rực, ấm áp xua đi cái sương lạnh phố núi sau một đêm dài. Mình không nghĩ rằng ở phố biển cũng có lúc thời tiết giống như thế, nắng vàng và se lạnh.

Khoác chiếc áo len mỏng ra phố, đi dọc bờ sông Hàn để nhìn ngắm, xúyt xoa, hít hà cho thỏa nỗi nhớ nhung rồi lại đòi hỏi, giá mà có thêm một ai đi bên cạnh mình nhỉ? cái tâm hồn lãng mạn, nhạy cảm của mình lại trỗi dậy, nhiều khi nó phiền phức lắm nhưng dù sao nó cũng là con người của mình.

Nơi mình sinh ra người ta vẫn hay gọi là rừng thiêng nước độc, ấy vậy mà dòng nước nơi ấy,không khí thông xanh trong lành nơi ấy , tất cả những gì nơi ấy đều nuôi dưỡng tâm hồn con người đầy lãng mạn, đầy tình người, có quá không khi mình cho là như vậy nhỉ? nhưng nó là sự thật, ở nơi ấy dân bản địa là các dân tộc thiểu số, còn người kinh thì 100% là dân từ nơi khác đến sinh sống, gieo trồng, làm ăn buôn bán rồi gắn bó lâu dài, sinh con đẻ cháu, thế hệ như mình thì đúng là sinh ra ở đó nhưng gốc gác thì vẫn là ở nơi khác đến. Cũng vì hòan cảnh xa quê hương như nhau nên người kinh sông gắn bó với nhau hơn, và văn hóa , tập quán, ẩm thực cũng thực sự phong phú. trên đất ấy bạn muốn ăn tô phở bắc do người bắc nấu ! Có ngay , có ngay, hủ tiếu miền nam? có ngay có ngay. Mì quãng , bánh bèo của miền trung! có ngay có ngay! mà món nào cũng là dân của miền ấy nấu, nên chắc chắc không khác hương vị gốc là mấy đâu nhé! ngược lại bạn muốn ăn thịt rừng như thỏ, heo , nai , rắn, nhím, chồn,.. chính hiệu thì đúng là phải đến đất này thì mới thưởng thức được.

Vào những ngày tết, nắng tràn khắp phố, treo lơ lửng trên những ngọn thông xanh rì rào gió. vì ít họ hàng nên người kinh mình đều tập trung lên nghĩa trang thăm những người đã khuất, nó thành cái thông lệ không thể thiếu của mọi nhà! sau đó mọi người mới đi thăm hỏi bạn bè, hàng xóm, rồi lũ trẻ con tập trung đánh bài, chơi các trò chơi dân gian. Dù bây giờ mình không ở nơi đất ấy, nhưng trong lòng mình những ngày tháng ấy không thể nào phai mờ được!,,, cái phận sống xa quê hương mới thấy quê hương ăn sâu trong tâm hồn, trong đôi mắt chờ đợi một ngày về....

Posted by: M&N Oct 26 2008, 01:39 PM


Đáng Yêu Như Pleiku

Sưu Tầm

Được nghe nhiều và từng một lần đến Pleiku trong đêm, tôi vẫn cảm nhận được niềm vui sướng và nôn nao muốn đặt chân lên phố núi một lần nữa.

Nằm giữa Tây Nguyên bao la, Pleiku như một bông hoa Pơlang, mang trên mình tất cả vẻ đẹp của núi rừng.

Chiếc xe lao đi vun vút. Cảnh vật hai bên đường cứ chạy lùi ra sau, thau vào tầm mắt của mọi người là những cảnh vật mới. Dường như cái lạnh khiến mọi người trở nên ấp áp, hồng hào và dễ thương hơn trong những chiếc áo khoác, nón len và bao aty. Cái lạnh của đêm không làm du khách ngại ngùng mà còn khiến Pleiku hấp dẫn hơn như một nàng công chúa giá băng huyền bí.

Đường vào thành phố Pleiku là một con dốc dài, nâng thành phố lên cao hơn. Vì phố núi cao nên trời đành thấp lại. Và chính vì vậy, phố núi giàu có biết bao khi sở hữu một bầu trời đêm đầy sao. Sao thật gần và lung linh như những viên ngọc được gắn trên màn nhung đen. Cái ánh sáng trong trẻo, dịu dàng làm mê đắm những người có chút hồn lãng mạn. Giơ tay lên là cảm thấy như chạm được vào ngôi sao mình thích. Ngẩng mặt lên là có thể đếm, tìm những chòm sao chiếu mạng của người thân… Chút giây phút làm nhà thiên văn học cũng mang đến sự thú vị về một đêm yên bình mà vùng đồng bằng không sao có được.

Dạo một vòng quanh chợ đêm Pleiku. Giống chợ đêm Đà lạt (chợ Âm Phủ), người dân Pleiku cũng đặt cho nó cái tên khá ghê rợn là “chợ ma”. ‘Chợ ma” chuyên bán rau cải. các mối lái, cửu vạn, người mua kẻ bán tấp nập. Những cuộc mưu sinh đúng nghĩa đang diễn ra trong đêm. Ở đây có tất cả hỉ-nộ-ái-ố của cuộc đời, nhưng điều đặc biệt nhất là trên những gương mặt đẫm mồ hôi ấy đều ánh lên niềm vui hạnh phúc. Hạnh phúc còn có việc để làm và một ngày mai tươi sáng đang đến.

Trời về khuya, cái lạnh càng tê tái, thưởng thức một ly cà phê nóng là điều hợp lý. Ly cà phê sóng sánh. Đưa chiếc ly lên ngang mặt, nhắm mắt lại và hít đầy một hơi hương cà phê đang bốc lên ngào ngạt. Nhấp từng ngụm nhỏ để cảm nhận được hương vị đất trời phố núi. Những món ăn hương vị cay nồng, bốc khói nghi ngút đã hấp dẫn du khách trong cái lạnh tê lòng.

Trời hừng đông, hoa dã quỳ bắt đầu hiện diện, vàng rực hai bên đường. Tưởng như vầng hào quang không hư ảo mà hiện thực, rõ ràng. Đẹp nhất có lẽ là những vườn cà phê bạt ngàn đang nở hoa trắng toát, ngợp cả một vùng rộng lớn, kéo tầm mắt ra xa, xa hơn nữa.

Bầu trời vừa toả nắng, vừa nghịch những vốc sương la đà, vừa như cận kề, quấn quýt với phố núi. Phố xá, con người ở đây đều mang một phong cách nhẹ nhàng. Dù toát lên vè hiện đại của khu thành thị, nhưng Pleiku vẫn phảng phất những nét duyên e ấp của cô gái miền cao. Pleiku vẫn cứ dịu dàng, cứ đằm thắm, cứ đung đưa ngọn gió, nụ hoa mà làm say lòng du khách. Kiến trúc những ngôi nhà ở phố núi gần giống nhau: nho nhỏ, nhiều mái nhọn và đều nằm giữa cây xanh, hoa kiểng. Mỗi ngôi nhà giống như một tổ ấm giữa rừng xanh. Khi đứng giữa phố núi, ngắm nhìn và hít thở bầu không khí quyện mùi sương, một cảm giác rất lạ len nhẹ vào tâm hồn bạn, như thể vừa gặp lại người quen và bất ngờ với những gì người ấy mang đến.

Sau tất cả những cảm xúc, ấn tượng khó quên thì khi rời Pleiku thì bạn vẫn được phố núi “chiêu đãi” món tráng miệng thật dễ thương. Không khí lạnh tràn vào xe, mang theo những làn mây mỏng nhưng cũng đủ làm những người đến đây phải rùng mình. Chiếc xe như bồng bềnh trong mây. Mây thấp lắm, cảnh vật cứ mờ mờ ảo ảo. Đứng trên mặt đất nhưng du khách vẫn cảm giác như mình đang trên lưng chừng trời. Một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực thẳm hun hút, không thể ước lượng độ cao vì du khách bị chìm trong những đụn mây trắng đầy bí ẩn. Và chắc chắn một điều khi sống với Pleiku đêm, sẽ không ai quên được nó. Nếu đã đến sẽ không muốn về, và khi về thì sẽ háo hức quay trở lại. Có lẽ đây là sự huyền diệu của phố núi đêm. Ra về, du khách hẳn sẽ còn nhớ mãi câu hát: Phố núi cao, phố núi mờ sương… May mà có em, đời còn dễ thương!

Posted by: M&N Oct 26 2008, 03:28 PM


Phố Núi Mờ Sương



Sưu Tầm

Không chỉ có Đà Lạt được mệnh danh là “thành phố sương mù”, Pleiku cũng nổi tiếng với những con dốc dài mờ sương, với khí trời se se lành lạnh đủ khiến khách lạ thấy lòng bâng khuâng...

“Còn chút gì để nhớ”

Gia Lai rộng lớn hút hồn khách lạ ngay từ cái nhìn đầu tiên với những con đường đất đỏ ngoằn ngoèo rực lên trong ráng chiều, hòa mình cùng ánh tà dương. Những vườn cà phê bên đường trĩu bông trắng muốt, hương hoa nồng nàn đến ngất ngây. Lại thêm những đồi chè xanh ngát và rừng thông tíu tít reo vui trong gió. Vào đến thành phố Pleiku, du khách lại bắt gặp một vẻ đẹp khác. Phố núi với những con đường nhấp nhô uốn lượn theo triền dốc, những ngôi nhà hiện đại đan xen với những căn nhà cổ. Nếu đi ngang một ngôi trường vào giờ tan học, khách lạ sẽ phải ngẩn ngơ trước những cô “em Pleiku má đỏ môi hồng” ríu ra ríu rít. Không hiểu nắng gió Tây Nguyên tôi luyện thế nào mà các cô gái Gia Lai đẹp đến thế! Làn da trắng ửng hồng trong gió lạnh, mái tóc đen mượt xõa dài và dáng dong dỏng cao. Pleiku không còn chật chội đến mức “đi dăm phút đã về chốn cũ” như trong lời thơ Vũ Hữu Định, nhưng dường như “đời” vẫn “dễ thương” hơn nhờ cái đẹp “như mây chiều trong” của các cô gái phố núi. Buổi tối, thú vị nhất là “ngồi đồng” trong những quán cà phê sân vườn trên đường Wừu, nghe tiếng nhạc Trịnh Công Sơn dìu dặt lãng đãng trong màn sương mù, lặng ngắm phố xá lên đèn lấp lánh mà nhìn thấy một Pleiku đang phát triển từng ngày.

Thăm thú Pleiku

Nếu muốn đi xa hơn về phía ngoại thành Pleiku, khách du lịch sẽ được người dân bản xứ giới thiệu một cách tự hào về Biển Hồ Tơ Nưng – nguyên là một miệng núi lửa đã ngưng hoạt động cách đây hàng triệu năm. Mảnh đất giàu truyền thuyết Tây Nguyên đã kể về Biển Hồ như một hồ nước mắt của dân làng khóc thương cho người thân bị chôn vùi bởi tro bụi khủng khiếp của núi lửa.

Biển Hồ khá rộng, nước trong xanh leo lẻo và hầu như không có sóng. Đây là nơi cung cấp nguồn nước chính cho cả thành phố Pleiku và cũng là “ngư trường” chính cho thành phố cao nguyên này. Đứng trên tháp cao của Biển Hồ, bạn sẽ thấy tâm hồn khoáng đạt hơn khi nhìn ngắm những cánh rừng bạt ngàn, những ngọn đồi uốnlượn trập trùng và những chiếc thuyền nhỏ bé nhẹ nhàng lướt trong không gian bao la của mặt hồ buổi sớm mai. Chẳng thế mà Biển Hồ được ví như đôi mắt, như hạt ngọc của Pleiku nói riêng và Tây Nguyên nói chung.

Sau Biển Hồ, khách du lịch cũng thường được khuyên ghé thăm khu du lịch Đồng Xanh, bởi nơi đây đang lưu giữ cây cổ thụ hóa thạch lớn nhất có đến hàng triệu năm tuổi. Nếu không tận mắt chứng kiến lớp vỏ cây mộc mạc xù xì đồng thời sờ tay vào mặt gỗ mát lạnh, bạn hẳn sẽ cho rằng đây chỉ là huyền thoại. Thế nhưng, từ ngoài vào đến trong, thân cây có từng sớ gỗ với màu sắc và chi tiết không khác gì gỗ mộc thông thường, chỉ khác ở chỗ nặng và lạnh đúng với tính chất của đá. Khi ra về, nhiều du khách còn mua những miếng gỗ hóa thạch vỡ ra từ thân cây lớn. Không hiểu với đà khai thác du lịch này sẽ còn bao nhiêu du khách được hưởng niềm vui sở hữu một miếng đá huyền thoại?

Độc đáo ẩm thực

Đến Pleiku, bạn không thể không tìm cách thưởng thức rượu cần và phở khô. Trước hết là rượu cần. Thứ rượu uống vào ngòn ngọt này dường như chỉ khiến bạn lâng lâng bay bổng, như thắp một ngọn lửa vừa đủ lan tỏa và giữ ấm cho cơ thể trong hơi lạnh của phố núi, ấy thế mà say! Cái say cũng đến rất sẽ sàng khi vừa tàn tiệc, đủ để ru bạn vào giấc nồng dịu nhẹ.

Thực ra, rượu cần ở Pleiku thường được gọi phổ biến bằng cái tên rượu ghè. Rượu làm trong những ghè xưa bằng đất nung sẽ ngon hơn cả. Gọi là rượu nhưng đầu tiên, trong ghè chỉ là một hỗn hợp gạo nếp và men khô trộn với trấu, có phủ một lớp lá chuối hoặc cây rừng. Khi uống, người ta mới thêm nước lạnh vào, để khoảng nửa giờ đồng hồ cho rượu “thôi” ra và cắm cần (ống hút) vào uống dần dần, khi hết có thể thêm nước hai, nước ba. Có nơi, trước khi uống, người ta còn vắt thêm một quả cam sành cho rượu thêm ngọt và dịu nhẹ

Nhưng nhắc đến Gia Lai mà quên phở khô là một thiếu sót lớn. Người Gia Lai xem món phở này như một phần không thể thiếu trong nét văn hóa ẩm thực nơi đây. Bánh phở nhỏ và tròn sợi hơn so với phở thông thường. Mỗi tô phở là một vắt bánh phở trụng mềm, phía trên là thịt nạc heo băm nhuyễn và hành phi. Bên cạnh luôn có một tô nước dùng trong vắt với thịt gà, thịt bò non hoặc bê đã chần qua nước lèo, thêm vài cọng hành lá điểm xuyết màu xanh. Rau ăn chung với phở khô gồm xà lách, cần tây và rau quế. Những gia vị không thể thiếu trên bàn ăn là tương xay và sa tế. Người sành ăn sẽ trộn đều tương với bánh phở, thêm ít sa tế để có vị thơm cay. Gắp một miếng phở hơi ngọt vị tương và nồng vị sa tế, ăn kèm miếng rau sẽ thấy sự độc đáo của món phở khô, cuối cùng húp thêm miếng nước dùng để cảm nhận vị ngọt của miếng thịt non mềm cùng vị thanh tao của nước lèo, quả không uổng một chuyến đi tận phố núi để thưởng thức cho được món phở danh bất hư truyền. Phố núi đã làm thổn thức tim bao người nghệ sĩ. Nhạc sĩ Nguyễn Cường cũng đã từng thốt lên trong một ca khúc của mình: “Em đẹp quá Pleiku ơi…”. Thế nhưng Pleiku không chỉ có phố núi. Đi sâu vào các buôn làng, khách đồng bằng sẽ còn bắt gặp những nét đẹp hoang sơ của nền văn hóa Tây Nguyên giàu bản sắc…


Posted by: M&N Nov 21 2008, 10:28 AM




Còn Chút Gì Để Nhớ Để Thương


Thái Tú Hạp


Có những bài thơ, những nhạc phẩm, gợi nên những lưu luyến nhớ nhung đến những thành phố thân yêu trên quê hương, mà nay đã nghìn trùng cách biệt. Những “Đêm Tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước, “Sầu Cố Đô” của Duy Khánh, “Ai Lên Xứ Hoa Đào” của Hoàng Nguyên, “Nha Trang Ngày Về” của Phạm Duy, “Sài Gòn” của Y Vân “Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội” của Phạm Đình Chương... Và “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” đến Pleiku Cao Nguyên bụi mờ, thơ của Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc. Cũng từ nhạc phẩm này, Sĩ Phú đã yêu thích lấy tên cho CD mới nhất của anh, “Còn Chút Gì Để Nhớ”. Trong đêm họp mặt lần cuối với Sĩ Phú, anh chị em văn nghệ sĩ đã quây quần bên anh với những nụ cười, ánh mắt và những lời nói chân thành chia xẻ đã làm cho Sĩ Phú vô cùng cảm động và anh đã cố gắng hát lại một đoạn trong bài hát mà anh yêu thích từ nhiều năm qua... “Còn Một Chút Gì Để Nhớ”... và anh cũng kêu gọi mọi người nên giữ gìn sức khỏe và hãy yêu thương nhau... Vài ngày sau đó chúng tôi thật bàng hoàng xúc động khi nghe tin Việt Dzũng - Minh Phượng thông báo tin buồn là ca sĩ Sĩ Phú đã vĩnh biệt cõi trần vào lúc 0 giờ 55 phút sáng Thứ Tư ngày 19 tháng 7 năm 2000 tại bệnh viện UCI, thành phố quận Cam, California. Sĩ Phú có giọng hát trầm ấm tuyền cảm, trữ tình qua những nhạc phẩm tiền chiến. Nhà thơ Du Tử Lê đã viết về Sĩ Phú: “Nếu ta có thể hình dung mỗi tiếng hát tự thân là một nhan sắc, thì, sớm, muộn gì, nắng, mưa cũng mang đến cho ta một, hay nhiều phó bản. Với sức sống ngồn ngộn bình minh của những lên đường rói tươi, và, với kỹ thuật, đôi khi phó bản đã làm mờ, lu, thậm chí, đẩy lùi chính bản vào quên lãng. Nhưng, tiếng hát Sĩ Phú, trong cảm nhận của tôi, không chỉ là một nhan sắc có lấy cho nó một thời, rực rỡ, mà hàng hàng riêng lẻ. Hơn ba mươi năm kể từ ngày tiếng hát Sĩ Phú chợt cất lên, như một viễn du bốc đồng hạnh phúc và, khổ đau cùng lúc, đã trôi qua. Hơn ba mươi năm, tôi nghĩ, đủ cho nhận, biết, nắng mưa dường như bất lực, hay lú lẫn chối bỏ thói quen hăm hở tạo, sinh phó bản. Cũng có thể, tự căn bản, nắng mưa đã bẵng quên tạo sẵn mẫu mã, trước khi giữ vào tiếng hát Sĩ Phú, một nhan sắc... Nên tiếng hát kia, nhan sắc nọ, sẽ mãi còn, như một tình yêu đời đời đi tìm trái tim thất lạc, của chính nó...”. Và Bích Huyền - Uyển Diễm đã nhận định “...Tiếng hát ấy, mỗi lần nghe là mỗi lần bồi hồi, vì nó chứa đầy ấp những kỷ niệm và thấp thoáng những mảnh đời của chính mình, một không gian đầy thơ nhạc của thuở áo trắng sân trường, một bến sông vắng hay một lần đưa tiễn trên sân ga. Tiếng hát ấy, cũng có những đau thương, tan tác, của chính đời ta, nhưng cũng chính tiếng hát ấy đã dịu dàng gói ghém những mất mát đó lại, để cuối cùng cũng là kỷ niệm. Đó là tiếng hát Sĩ Phú, rất nồng nàn, lãng mạn và chan chứa thương yêu...”

Sĩ Phú là Cựu Thiếu Tá Không Quân QL.VNCH. Đã từng thụ huấn về phi công tại Hoa Kỳ trong thời gian từ 1963 đến 1965. Từ năm 1968, khán thính giả tân nhạc Việt Nam đã biết đến tên tuổi Sĩ Phú, khi anh xuất hiện trong chương trình văn nghệ đặc biệt do Đài Truyền Hình VNCH thực hiện nhân dịp kỷ niệm Ngày Thành Lập Quân Chủng Không Quân. (Theo tài liệu V.H.A.) Và từ đó Sĩ Phú trở nên một giọng ca nam được yêu thích qua những nhạc phẩm tiền chiến. Tại hải ngoại, Sĩ Phú thỉnh thoảng có tham gia vào sinh hoạt văn học nghệ thuật, nhưng vì biến cố đau buồn, đứa con gái duy nhất của anh bất ngờ ra đi, nên từ năm 1983, theo ca sĩ Kim Anh cho biết, Sĩ Phú không còn tha thiết đến chuyện ca hát nữa. Đến năm 1995, do sự thúc đẩy của một vài thân hữu trong gia đình văn nghệ tại Nam California, nên Sĩ Phú mới trở lại sân khấu, và cũng nhờ sự tiếp tay nồng nhiệt của anh em nên Sĩ Phú mới quyết định thực hiện cuốn CD cuối cùng với tựa đề “Còn Chút Gì Để Nhớ”.

“Còn Một Chút Gì Để Nhớ” là tên một bài thơ của Vũ Hữu Định, viết về thành phố Pleiku, khi anh ghé đến thăm người em gái nhỏ dễ thương vào năm 1970. Bài thơ mang nội dung như sau:

Phố núi cao phố núi đầy sương

Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn

Anh khách lạ đi lên đi xuống

May mà có em đời còn dễ thương

Phố núi cao phố núi trời gần

Phố xá không xa nên phố tình thân

Đi dăm phút đã về chốn cũ

Một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng

Em Pleiku má đỏ môi hồng

Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông

Nên mắt em ướt và tóc em ướt

Da em mềm như mây chiều trong

Xin cám ơn thành phố có em

Xin cám ơn một mái tóc mềm

Mai xa lắc bên đồn biên giới

Còn một chút gì để nhớ để quên.

(Còn Một Chút Gì Để Nhớ)



Vũ Hữu Định sinh năm Nhâm Ngọ, 1942, tại Huế, nhưng định cư tại Đà Nẵng lâu năm và thường xuyên tham gia trong nhóm sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật Quảng Đà. Trước 1975, với những tên tuổi Luân Hoán, Hà Nguyên Thạch, Trần Quang Lộc, Hoàng Lộc, Thành Tôn, Đinh Hoàng Sa...anh làm thơ rất nhiều, có thơ đăng trên các tạp chí Văn Học xuất bản tại Sài Gòn. Nhưng đợi đến khi Phạm Duy phổ nhạc bài thơ “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” và qua tiếng hát vượt thời gian của Thái Thanh, mới thực sự chắp đôi cánh tuyệt vời cho ý thơ anh bay bổng, và chính tôi cũng yêu thích bài thơ của anh từ đó. Anh đã có công đưa thành phố núi cao đầy sương và bụi mù đó vào trong trái tim của mọi người... “Phố núi cao, phố núi trời gần. Phố xá không xa nên phố tình thân...” Tôi đã có dịp đến thăm một nhà thơ ở Pleiku, và tôi đã yêu phố núi cao đó qua lời thơ của Vũ Hữu Định. Thành phố có cái nắng hiu hắt thật buồn “...Anh khách lạ đi lên đi xuống. May mà có em đời còn dễ thương...”. Nếu không có em, lữ khách sẽ cảm thấy buồn vô tận, chính vì thế mà tôi phải vội vã rời Pleiku trước khi mặt trời khuất sau dãy núi xa thẳm. Trước khi giã từ Đà Nẵng, tôi có gặp lại nhà thơ Vũ Hữu Định thêm một lần ở Café Chợ Cây Me. Anh vẫn thế, nghĩa là vẫn vô sản hơn những người vô sản sau những ngày giông bão tới.

Khi chúng tôi đến định cư ở Hoa Kỳ, được tin nhà thơ Luân Hoán cho biết, Vũ Hữu Định đã chết vì say rượu té từ căn gác xuống đất tại nhà một người bạn bên bờ sông Đà Nẵng vào một đêm trăng tháng Giêng tuyệt đẹp năm Tân Dậu 1981.

Thời gian như giòng sông cuồn cuộn trôi qua, những nhà nghệ sĩ tài hoa như Phạm Đình Chương, Lê Uyên Phương, Trầm Tử Thiêng, Hùng Cường, Văn Phụng, giờ chắc đã thong dong nơi miền Vĩnh Cửu, đã hết vướng bận những khổ lụy nơi trần thế. Bây giờ đến lượt Sĩ Phú đã ra đi, nhưng dư âm của giọng hát trầm ấm “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” cho chúng ta gợi nhớ đến một buổi chiều trên phố núi đầy sương có chàng thi sĩ Vũ Hữu Định lang thang u hoài viết nên bài thơ để đời. Có biết hay chăng nơi phố núi Pleiku ngàn trùng thương nhớ đó, người đẹp năm xưa như một tiền kiếp đợi chờ, cả người thơ và nhà nghệ sĩ không gian có tiếng hát như ru em vào cõi mộng mơ miên viễn, bây giờ xa vắng hết chỉ còn rơi lại nỗi sầu muôn thuở như ánh nắng vàng bên triền núi thiên thu.



Posted by: M@N Nov 22 2008, 03:18 PM


Pleiku - Đà Lạt

Phạm Lương



Còn khoảng hơn tháng là Tết lại về, nhiều nhà khá giả trong thành phố đã chuẩn bị sơn nhà, dọn dẹp trước sau, chuẩn bị những chậu kiểng, tiả cành, bón thêm phân cho mấy cây bông Thược Dược. Mấy chậu Cúc bắt đầu trổ nụ nho nhỏ. Nhà nào cũng có vài chậu. Chăm sóc cây kiểng cũng có nhiều thú. Mỗi buổi sáng, những cụ già tay cầm tách trà nóng, tay khẩy nhẹ vào cành bông, ngắt chiếc lá chưa kịp vàng, như sợ lây sang những lá khác. Dân chúng đếm từng ngày, mong tới tết. Những tiệm buôn, chuẩn bị mua thêm hàng. Xe đi Qui Nhơn tăng thêm chuyến, xe từ Sài Gòn chạy thẳng lên Plei Ku. Không khí nhộn nhịp, mọi người quên hẳn tin tức từ giới Quân Sự, chiến trận có thể xảy ra ngay trong thành phố. Họ nghe quen những tin này, chẳng ai thèm để ý. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, lúc nào cũng thấy lính, đủ mọi Binh Chủng, nhiều nhất vẫn là Biệt Động Quân. Họ nhìn bảng xanh, đỏ, tím, biết ngay là tiểu đoàn nào. Bảng Xanh, 22, bảng đỏ,11, bảng tím 23. Thiết Giáp, Lữ Đoàn 2, cũng là cơ hữu.


Thật sự, ba tiểu đoàn bđq thay phiên hành quân vòng đai hơn hai tháng, hết Hàm Rồng, Thanh An, An Khê, lại Quốc Lộ 14, 19, Mang Giang. Tin tức Việt Cộng điều quân khắp nơi, từ Tân Cảnh, Dakto, An lão, Ban mê Thuột, Đèo Mang Giang, xuống tận Qui Nhơn, dọc theo hướng Bắc, Phù Củ, Bồng Sơn ,Tam Quan, mật khu An Lão, chạy thẳng lên Kontum. Họp hành quân, nghe phòng Hai thuyết trình trận điạ, phòng Ba, kế hoạch hành quân, nếu Việt Cộng tấn công vào Pleiku. Chủ lực chống đỡ Pleiku vẫn là BĐQ và Thiết Giáp và các tiểu đoàn Điạ phương Quân. Plei Ku luôn có Sư Đoàn Hai Không Quân, nằm ngay cạnh Quân Đoàn, và phi trường, nhiều phi cơ chiến đấu lên xuống dễ dàng. Nếu cần, phi trường Holloway cuả Mỹ sẵn sàng lâm chiến. Xa hơn nữa, Nha Trang, hơn nưả giờ bay, với nhiều phi cơ chiến đấu cuả Quân Lực VNCH. Tất cả chỉ chờ lệnh Quân Đoàn, tổng hành dinh ngay tại Pleiku.Tất cả những đường tiến sát vào thành phố đều có xe M113 án ngữ.

Càng gần Tết, tiểu đoàn tôi càng về gần thành phố. Chỉ còn vài ngày nưã là Tết. Tiểu đoàn 11, ứng chiến Plei Ku. Thật ra chỉ đại đội 4, do Lạn, cùng khoá tôi làm Đại Đội Trưởng, ứng chiến Tiểu Khu, nằm ngay trong phố, phòng thủ kho đạn. Ba đại đội, và đại đội chỉ huy ở Biển Hồ, ứng chiến tại chỗ. Hai đơn vị đạn, năm ngày ăn, khi có lệnh, tâp họp trong vòng nưả giờ là di chuyển. Tiểu đoàn có sẵn đoàn quân xa cùng ứng chiến. Không khí tuy khẩn trương nhưng đám Sĩ Quan trẻ tụi tôi cũng đi tứ tán. Nếu có tin gì, tiểu đoàn thể nào cũng cho xe chở về Biển Hồ, đón xe ngay tại bến xe lam, gần nhà thờ Pleiku.

Hơn ba năm tham chiến, đi cũng nhiều nơi, nhưng khi Tết về, tôi thâý nhớ nhà. Nhớ ngày còn đi học, nhớ khi còn nhỏ, tôi luôn đi quanh hàng xóm, kiếm tiền lì xì. Má tôi mua cho con heo đựng tiền. Tôi muốn mua cái mũ nồi, mấy năm chưa mua được. Tiền bỏ heo chưa được nửa ngày lại moi ra cho vào đám bầu, cua , tôm , cá. Có lẽ vì vậy, khi vào lính, tôi chọn BĐQ. Quanh năm suốt tháng, chiếc mũ nồi ước mơ thuở nhỏ ở trên đầu. Giờ này, hằng năm, ba tôi gói bánh chưng. Ba tôi gói rất vuông và đẹp, sau đó, luộc bánh. Cái thú canh nồi bánh chưng, ba tôi luôn để tôi coi bánh ban ngày. Về đêm, ba tôi canh lửa, châm nước, lưả đều, bánh mới dền. Tôi thích nhất chiếc bánh nậm, chiếc bánh gói cuối cùng, khi thịt nhiều, khi đậu nhiều, khi thì gạo chiếm hết nưả. Lúc nào bánh nậm cũng ngon, vì cả năm mới ăn lại bánh chưng Tết.

Tiểu đoàn ở Biển Hồ, gia đình binh sĩ nhộn nhịp đón Xuân. Mấy khi vợ chồng, con cái đoàn tụ cạnh nồi bánh chưng, xoong thịt gà kho, hũ dưa hành, củ kiệu, vài lít rượu ngon, con có bộ quần áo mới. Tất cả chỉ chờ Giao Thưà, và Tết đến.

Tôi lái xe jeep, ra phố, uống cà phê, chơi Billard, mua tờ báo, rồi về. Làm ban ba tiểu đoàn, tối đến tôi ngủ tại hậu cứ. Thiếu Tá Huân, nhà tại phố nên cũng tới lui. Phần canh gác, thường vụ tiểu đoàn sắp xếp. Từ hậu cứ đi hơn sáu trăm thước là tới khu gia binh. Mọi người đều vui, chờ Xuân mới.
***

Khoảng 10 giờ sáng ngày 30, năm Mậu Thân, vưà ra khỏi quán cà phê, Tôi tính lái một vòng coi chợ Tết rồi về Biển Hồ. Tay cầm chiếc chià khoá, tôi chợt khựng lại. Một cô gái tóc ngang vai, áo sơ mi màu, chễm chệ ngồi trên xe, chiếc xe của tôi không thể lầm được. Nhưng một thoáng thôi, tôi nhận ra Phượng. Cô ta đang soi chiếc gương chiếu hậu, lấy tay sửa lọn tóc, cũng vừa nhận ra tôi. Tôi làm bộ hỏi:
- Sao em dám ngồi lên xe, không sợ lộn xe ư.

Phượng cười :
- Làm sao lộn đuợc, số 117989, xe của anh chứ của ai nữa. Mà có nhầm xe, em cười trừ là xong ngay.
- Em đi đâu giờ này, anh tưởng em về Saigon ăn tết rồì chứ!
- Em ở lại ăn tết với anh. Phượng cười thật tươi.
- Em có nói lộn không, nói lại đi.
- Thật mà, em tìm anh hai ba buổi rồi. Em vòng mấy quán cà phê anh hay tới, không gặp. Thấy ai mang bảng đỏ, em đều hỏi, họ nói giỡn, anh về Dalat cưới vợ rồi. Họ nghĩ em và anh chắc thân nhau lắm.
- Thân quá đi chứ. Tôi tỉnh bơ .
- Không dám đâu. Cách đây một bữa, thấy xe anh, em ghé vào tiệm bánh. Tiệm đông, phải chờ. Khi ra khỏi tiệm, anh đi mất tiêu, tức muốn chết. Hôm nay, em chờ bằng cách này chắc ăn nhất. Bây giờ anh đi đâu? Phượng hỏi.
- Anh tính lái một vòng rồi về hậu cứ. Giao thưà ở tại trại.
- Anh chở giùm em lên chợ mới một chút, rồi em nói chuyện này cho nghe.

Tôi và Phượng quen nhau gần môt năm. Tôi nhớ, một lần lái xe lên Phượng Hoàng, thấy Phượng vừa đi vưà nhìn như muốn tìm xe quá giang. Tay Phượng xách một giỏ thật nặng, tay trái còn lủng lẳng chiếc thau nhôm, thấy tôi, Phượng gọi to: "anh Lương, cho em đi nhờ một chút". Một thoáng ngạc nhiên, tôi dừng xe. Phượng biết tôi muốn hỏi làm sao Phượng biết tên tôi, liến thoắng một hơi:
- "Em thấy anh nhiều lần ở Phượng Hoàng. Em nhớ nhất, đêm 19 tháng 6, anh ngồi một bàn BĐQ. Có con Kim, thêm hai cô ở ngoài, có vẻ nữ sinh, thật đẹp. Em ngạc nhiên nhất vì một cô, giọng Bắc, lên ca bài "Bây giờ tháng mấy", để riêng tặng anh Lương và các anh BĐQ. Cô ta ca thật hay. Bữa đó, em đang ngồi bàn danh dự với Đại Tá Tự."
- "Ông ta lại biết anh", tôi nói, "Đại Tá Tự là anh rể của bạn anh tên Trần Dân Chủ "(Chủ sau này bị bắt làm tù binh, hay tử trận, tôi không gặp, khi trở lại Pleiku năm 1974).
- Em tò mò, hỏi anh Tự, "anh chỉ anh Lương cho em". Anh Tự vưà chỉ vưà nói: "thằng Trung úy, đồ rằn đang ngồi nghe cô bé ca đó". Em hỏi anh biết cô đó tên gì không, anh chịu. Đêm đó , em hỏi Kim, Kim nói hình như tên Mậu. "Mày thấy nó đẹp không, đẹp, ăn nói có duyên và vui nữa."

Tôi dừng xe ngay sát cổng Phượng Hoàng. Phượng cám ơn rồi xuống xe, nhưng chợt khựng lại, hỏi tôi:
- Anh có bận không, em muốn mời anh đi uống Cà Phê.

Tôi vui vẻ gật đầu.
- Vậy anh chờ em chút, em cất mấy thứ này.

Tôi dặn với, 5 phút thôi nghe, anh không chờ lâu đâu. Thật đúng 5 phút, Phượng chạy ra, một chiếc áo sơ mi mới, cổ áo may thật khéo, chiếc quần Jean ka ki trắng vưà vặn. Phượng thật xinh. Phượng lên xe,
- Anh làm em không kịp thở, anh không gallant chút nào, nhưng em thích vậy, đàn ông phải có cá tính chứ.
_ Thôi để nhận lỗi, anh mời em cà phê vậy - Tôi cười.
- Không , chỉ nhờ anh chở tới quán nào anh thích là được.
- Vây mình đi quán Văn trên chợ mới nghe.

Vừa lái, vừa hỏi,
- Quê em ở đâu?
- Em ở Sài Gòn. Đường Trần Quí Cáp, hướng đường xe lửa hay rạp Nam Quang, anh rành vậy.
- Anh ở đó mà. Em thử hỏi chỗ nào , anh trả lời cho.
- Thật nghe, anh biết quán cơm tấm gần chợ Đũi không?
- Gần xe chè và xe nước mía, chợ Đũi trên đường Lê văn Duyệt chứ. Tôi vặn lại,

Phượng cười thật to. Tới quán Văn, tôi và Phượng chọn chiếc bàn nhỏ, ngay góc nhà.
- Anh uống gì? Cà phê sữa nóng. Còn em, cho em ly chanh Rhum, em uống Rhum Deoda nghe.
- Em làm lâu chưa? Tôi hỏi Phượng.
- Được 4 tháng rồi, sao anh không biết.
- Trời làm sao anh biết được. Mà biết làm gì chứ.
- Nói vậy thôi, em thấy anh mấy lần rồi. Một lần anh nhẩy với con Thanh. Một lần anh nhẩy với cô nào đẹp lắm, không phải bọn em.

Tôi biết Mậu, nhưng làm bộ nói,
- Nhẩy với Thanh thì có. Đâu có ai nưã mà đẹp.
- Anh nói dối, Nhưng thôi, không phải chuyện em.

Ly cà phê và ly chanh rhum mang ra. Phượng khuấy ly cà phê của tôi, vưà hỏi,
- Sao anh đi lính dữ vậy?
- Lính nào hiền. Tôi làm bộ ngơ ngác.
- Lính bộ binh hiền, lính bđq dữ. Anh hiền hay dữ, ai biết. Phượng đanh đá trả lời.

Câu chuyện cứ dần dà thêm chi tiết. Phương kể,
- Em học Hưng Đạo, thi tú tài rớt, gặp con bạn ở Pleiku về, rủ lên đây. Em mới tập thêm, con bạn em dậy. Em không thích công việc này lắm, chừng vài năm, em về Saigon lại. Em nói dối má em, đứng bán tiệm cho gia đinh ngườì quen.

Phượng có vẻ tin tôi nên nhiều khi không dấu diếm.
- Anh biết không, nếu đông khách, hàng tuần cũng khá lắm. Em để dành, mở trương mục tiết kiệm, em không xài nhiều đâu.

Tôi biết nhiều về mấy vũ nữ. Nhiều cô xài không đếm, tới khi Phượng Hoàng cấm quân là đói dài dài. Trung úy Quảng, quản lý Phượng Hoàng là bạn tôi, nên tôi ra vào hội quán thường xuyên. Các cô ở ngay sau toà nhà lớn, tôi biết mặt và quen gần hết. Tổng cộng hơn 10 cô, đa số đều trẻ, trang lưá tôi. Có chị Hà lớn , làm tài pán, biết tôi khi mới ra trường. Phượng hỏi tôi có bồ chưa.
- Anh có hỏi em có bồ đâu mà em hỏi anh. Tôi trả lời.
- Tại anh không hỏi.
-Vậy em có bồ chưa?
-Có rồi. Hai người, chủ tiệm vàng, và một ông lính.
- Lính gì?
- Bđq.

Tôi biết Phượng nói gì, nhưng tảng lờ im lặng.
- Anh có đi nhẩy nhiều không?
- Tiền đâu mà đi nhiều.
- Em thích câu trả lời cuả anh, nhiêù ông trả lời loanh quanh. Anh cứ tới sớm, em ra ngồi nói chuyện với anh, khi nào em có khách thì anh về. Anh biết không, nhiều bữa em ngôì cả giờ. Em có ông thương gia khá lắm, nhiều khi ngồi có hai giờ, ông ta trả em luôn 15 ticket. Buồn cười ghê anh, ông ta cứ đòi em làm bé. Ông ta cho tiền tháng, và mua nhà cho em nưã.
- Em trả lời ông ta ra sao?
- Em nói làm lớn thôi, không làm nhỏ ai hết. Ông rủ em đi ăn, em luôn rủ thêm mấy con bạn, ông ta rầu lắm. Nhưng không dám nói.
- Em có quyền ghê hé.
- Bây giờ thì có, nhưng không biết được bao lâu.
- Em thích có uy với ông ấy không?
- Em thích tiền của ông ấy, em thích có uy với anh.

Phượng trả lời tỉnh bơ.
- Em thất vọng rồi, đâu dễ có uy với anh đâu em.
- Anh cứ chờ xem. Thôi, em phải về, nhớ nghe, khi nào rảnh, ghé em ngay nghe.
- Anh không hưá.
- Xí. Mai mốt đừng năn nỉ nghe. Phượng nói.
- Không bao giờ. Tôi trả lời.

Tình cảm của tôi và Phượng cứ như vậy, không gần, không xa. Tôi coi Phượng như cô em. Còn Phượng cứ lưng chừng, luôn chia xẻ tin tức, đủ mọi truyện riêng tư với tôi.

Mỗi lần ghé Phượng Hoàng, Phượng luôn tìm cách ngồi bàn với tôi dù có khách. Có bữa Phượng thấy tôi trong phòng nhảy, Phượng đang ngồi với hai ba ông khách, Phượng chạy tới tôi, dúi tay tôi mấy trăm,
- Anh qua phòng ăn gì đi. Khoảng 11 giờ, anh chở em đi ăn bún nhà xác nghe (quán bún gần bệnh viện dân y).

Tôi không lấy tiền. Phượng nói,
- Ông khách bưã em nói với anh vưà cho em đó. Anh cứ tiêu đi, hết cũng được.

Phượng vụt chạy. Tiền rớt xuống sàn, tôi đành phải lượm đút túi. Tôi không phải dạng thích xài tiền đàn bà đưa, và suốt cả đời tôi, cho tới giờ không thay đổi (có vợ tôi làm chứng). Cũng vì phải chờ để trả tiền Phượng, tôi bực lắm. Phượng tuy ngồi với khách, nhưng cứ ngó về phía tôi, chỉ ngón tay ra phía nhà ăn, ý nói tôi đi ăn đi. Cuối cùng, tôi qua nhà hàng bên cạnh, kêu ly cà phê, bực dọc ngồi chờ. Đang ngồi quay lưng về phòng nhảy, hai bàn tay chợt bịt mắt tôi,
- Em biết anh chờ em mà.
- Thôi cô ơi, lần đầu và lần cuối đấy. Tuy bực nhưng đành phải cười.
- Lần cuối của hôm nay. Mình đi ăn bún nghe. Phượng thông minh trả lớì.

Phượng vụt chạy. Phượng thay chiếc Jean và mặc Pull. Tôi và Phượng ra chỗ đậu xe. Xe dừng gần quán bún, quán này nhiều người thích. Cô phụ quán, người Huế, xinh xắn. Cô còn đi học, chỉ phụ bà cụ buổi chiều tối. Phượng liến thoắng kêu, hai tô. Hai tô bún trông thật ngon miệng, thêm diã rau thơm. Phượng vưà ăn vưà hít hà,
- Cay ghê, để em gắp ớt riêng ra cho anh. Thấy anh ăn bún sao tội nghiệp quá, cay mới ngon.

Ăn xong, trả tiền, tính lái xe đưa Phượng về, Phượng năn nỉ,
- Anh chở em một vòng tới ngã ba Thiết Giáp rồi về.

Tôi đành phải chạy một vòng trước khi trả Phượng về Hội Quán. Vưà lái xe vưà nói đủ chuyện.
- Xong đây anh về đâu?
- Về Biển Hồ chứ về đâu nưã.
- Trời, em tưởng anh còn đi nưã chứ.
- Khuya rồi, anh về ngủ, em ngủ ngon nghe.
- Mình ngồi trên xe nói chuyện cũng được. Phượng nói.
- Thôi cô ơi, vào nhà đi.
- Anh đi cho em thấy rồi em mới vào. Phượng bước xuống xe.

Tôi lái thật nhanh về hướng Biển Hồ. Đại khái, tôi và Phượng thân, nhưng rất chừng mực. Trong giới Ca ve, kiếm một người còn ngây thơ , học trò như vậy rất khó. Đa số, chỉ tính tới tiền. Phượng đủ yếu tố để thành công, đẹp, nhảy khá, ăn nói có duyên. Phượng bắt đầu,
- Anh nghĩ gì mà thẫn thờ vậy. Tối nay anh đưa em đi Chùa, cúng Giao Thừa nghe. Anh đưa sớm, sau Giao Thừa, anh về nhà em, xông nhà. Rồi em cúng, hai đứa mình ăn tết. Ngày mồng ba, em mới lên Phượng Hoàng. Em ở nhà, tối đón em. Như vâỵ là em và anh có 3 ngày, tha hồ ăn tết.

Tôi im lặng, thường thì tôi và Mậu hay đi chùa đêm giao thưà. Hôm nay Phượng hỏi, không biết trả lời ra sao. Cũng hơn 10 ngày, tôi và Mậu không gặp nhau, chỉ nhận được thư tay. Mậu gởi cho một sĩ quan Mậu biết quen tôi. Phượng rất tâm lý,
- Anh sợ cô nữ sinh hoa khôi của anh phải không. Phượng đưa tay cho tôi đòi nghéo tay.
- Anh phải ứng chiến mà.
- Thì anh chạy tới lui, không có gì, lại về nhà em. Em thì nấu thức ăn. Em mua đủ thứ rồi, có cả gà nấu đông, chân giò nấu măng, bánh chưng chứ không phải bánh tét đâu. Em chuẩn bị từ lâu, hôm nay mới gặp anh.

Tôi buồn cười, ai bầy em nấu món Bắc đấy.
-Con Kim. Anh rành Con Kim quá mà. Nó thấy em đi với anh. Nó nói anh dễ thương. Nó coi anh như anh nó.
- Anh biết Kim lâu lắm rồi. Tôi ậm ự.

Xe tới chợ mới. Phượng nói,
- Anh có muốn vào chợ với em không? Anh chờ, phải nửa giờ đó nha, đừng bỏ em lại nghe. Anh muốn mua thêm gì không, em mua cho anh mấy tờ báo Xuân rồi, mua Cà Phê, đủ cả.

Tôi ngồi chờ. Chợ 30, tấp nập, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là xuân mới - Xuân 1968, Mậu Thân. Phượng từ trong chợ ra, xách một giỏ đầy, khá nặng. Tôi xuống xe, lững thững đi về phía Phượng, hứng chiếc giỏ trên tay Phượng. Phượng cười vui, đi với anh hồi hộp thấy mồ, chỉ sợ đi bộ về không à. Em mua gì nhiều thế, mỗi thứ một chút mà nặng ghê.

Tôi liếc thấy hộp mứt gừng.
-Em thích gừng hả?
-Mua cho anh đấy.
- Sao em biết anh thích gừng.
- Bí mật, anh cũng lạ, ớt thì không ăn mà thích gừng.
- Bây giờ, anh bỏ em ở nhà. Anh về hậu cứ, coi xem có gì thay đổi không. Nếu không có gì khác, khoảng 10 giờ tối, anh đón em. Tôi lái xe về nhà Phượng, dặn Phượng,
- Đúng giờ đó nha. Em mặc áo dài, em mới may hai cái, đẹp lắm. Phượng hớn hở.

Tới nhà Phượng, xuống dốc ngay gần Quân Cụ, phụ Phượng mang giỏ vào, tiện tay mang luôn thùng gỗ , đựng đạn súng cối, lúc nào cũng có sẵn hai bộ đồ, kem bót đánh răng.
***
Tôi chạy thẳng về Biển Hồ, hỏi sĩ quan trực, tiểu đoàn - vẫn ứng chiến, trực gác, không có lệnh mới. Loanh quanh tới 5 giờ chiều, tôi lái xe ra Plei Ku. Chạy ngang Diệp Kính, gặp Lạn, ĐĐT ĐĐ4 lái ngược chiều, hai đưá dừng xe. Tôi hỏi Lạn,
- Đại Đội mày đóng chỗ nào?
- Đóng ngay gần chùa, và trường Thiếu Sinh Quân.
- Tao mới ra đây. Tính loanh quanh, tối đưa em Phượng đi chùa, cúng Giao Thưà. Mày có chỗ ăn tết chưa, nếu không thì về nhà Phượng ăn tết cho vui. Tôi trả lời.

Mỗi lần gặp mày, mày gọi một tên mới. Tao chẳng biết ai vào ai. Còn em Mậu ra sao rồi? Lạn cười.
- Thì vẫn như vậy.
- Tao có chai rượu, mày có nhà nào uống không. Tết nhớ nhà, hai đứa uống, nói chuyện cho vui. Lạn chỉ chai Martel, hỏi tôi.

Tôi nghĩ, bây giờ mới hơn 5 giờ, uống tới 7 giờ cũng đươc. Dư thời giờ đón Phượng. Tôi vui vẻ,
- Tao có chìa khóa nhà thằng Đệ. Chủ phòng tắm hơi đó. Mấy bữa, gặp tao, nó mừng quá, giao chià khóa cho tao, dặn dò: "Mày đi đâu thì đi, thỉnh thoảng ghé nhà tao coi giùm, tao đi tới mồng mười mới ra." Gạo, đường, cà phê, thịt hộp, đủ cả, nếu mày ngủ lại càng tốt.

Tôi với Lạn, lái xe tới nhà thằng Đệ. Tôi mở cửa. Lạn có sẵn đồ nhắm. hai đưá cởi áo lính, mặc may ô cho thoải mái. Trước khi uống, tôi hỏi Lạn,
- Ai coi đại đội cho mày,
- Thằng Lũy, tao dặn nó rồi.

Vừa uống, vưà nói chuyện, quên cả thời giờ. Hai đứa ít khi uống, nên hết chai là say. Lạn nằm trên nền xi măng ngủ. Còn tôi, nguyên cả giầy, leo lên chiếc giuờng, ngủ say sưa. Cuộc đời, sau này suy nghĩ lại, tôi vẫn tin, mỗi cuộc đời, mỗi phút, mỗi giây đều có số, đều đã được sắp sẵn. Bữa uống rượu hôm nay ngoài dự tính, nhưng hâụ quả thật khôn lường.

Lạn gọi tôi, Lương, pháo gì, giống súng nổ quá, pháo gì nổ, có tiếng gió rít, có tiếng pháo binh, có tiếng M16 và đại liên nưã. Tôi chưa hoàn toàn tỉnh, hỏi Lạn, mấy giờ rồi, hỏi gì nưã, hơn mười hai giờ khuya rồi, nghe hơn mườì hai giờ. Tôi tỉnh hẳn, chết, sao mày không kêu tao, giờ này thì còn đón ai nưã. Tao cũng mới tỉnh khi tiếng đạn réo trên đầu -

Tôi vừa nghe tiếng nổ, vừa nghĩ tớí Phượng, tự trách mình, nếu đừng uống rượu thì đâu tới nỗi này. Lạn nói,
- Đúng là súng nổ rồi, không còn lầm lẫn gì nưã, tao phải đi về đại đội, không về, có gì thì chết.
- Bây giờ, biết ngoài đường ra sao mà mày đi. Lỡ ra, không Việt Cộng, thì cũng bị đơn vị khác bắn chết. Tôi nói,

Tôi lắng nghe tiếng súng để định hướng. Pháo binh mình bắn về hướng Thanh An, Hàm Rồng.
- Quân mày ở hướng Thiết giáp và chùa, chắc không đến nỗi nào. Tao dặn thằng Lũy kỹ lắm, có gì cứ cầm chừng chờ tao, mà giờ này chắc không đơn vị nào di chuyển đâu, trừ thiêt giáp. Tao có mật khẩu đèn xe, và bán tiểu đội ngay đường xuống chùa, tụi nó sẽ chặn mọi xe khi súng nổ, trang bị M 72, và M 79 nhiều bằng cả trung đội. Lan tiếp.

Cuối cùng, Lạn cương quyết,
- Tao lái xe chạy thí mạng, chết thì cũng chịu.

Tôi biết không thể cản được. Tôi nói:
- Cũng may, hướng xe mày không qua Dinh ông Tướng, giờ này đoạn đó kéo kẽm gai hết rồi. Thôi mày đi cẩn thận, sáng liên lạc tao. Nếu gọi được tiểu đoàn, nói với Đại úy Dếnh, tao ở ngoài phố, sáng sẽ tìm về đơn vị. Tao ở đây, mai tìm tiểu đoàn vậy.

Lạn choàng vội chiếc áo, lấy cây súng Colt, mở cưả chạy ra xe, cưả mở. Cả hai đưá thấy hoả châu, sáng rực bâù trời, tiếng xe rít trên đường. Tôi thầm cầu nguyện Lạn về tới chỗ đóng quân an toàn.

Còn mình tôi, đóng cửa, đầu rối mù. Cũng may chỗ tôi đang nằm, gần Dinh Tướng Tư lệnh, tương đối an toàn. Tôi cầu mong Lạn về tới đơn vị, nghĩ vơ vẩn, chắc Phượng giận tôi lắm, nhưng giờ này,cô bé biết rồi, cô ta biết tôi phải theo tiểu đoàn, chắc không bao giờ Phượng ngờ, giờ này, tôi ở đây, chỉ cách nhà Phượng 7 phút xe. Hướng nhà Phượng, chó sủa liên hồi, tiếng chó như rền vang, hướng Quân Cụ, xóm lò heo, và hướng suối cạn, dưới chân nhà Phượng. Nằm trên giường, nguyên cả giầy, tắt đèn, chỉ mong trời sáng. Nghĩ tới đơn vị, không biết Việt Cộng tấn công hướng nào, không biết tiểu đoàn có gom đủ lính để đi hành quân không. Kinh nghiệm nhiều lần, khi có súng nổ, lính sẽ về tiểu đoàn. Số sĩ quan độc thân, ngủ tại đơn vị hơn 2/3, trừ trường hợp như tôi hôm nay.

Tôi cứ vơ vẩn nghĩ. Nếu không uống rượu, đi với Phượng cũng hơn 12 giờ, rồi còn ăn uống như Phượng nói, về tới đơn vị cũng phải hơn một giờ khuya. Tôi nhúm bếp, nấu chút nước sôi, pha miếng trà, ly cà phê sưã, ngồi dưạ trên chiếc salon, vưà uống, vừa nghe tiếng đạn rít trên đầu. Tôi suy tính, đi hướng nào để về tiểu đoàn. Trong đầu tôi, như đang vẽ bản đồ hành quân. Hơn 4 giờ sáng rồi, thỉnh thoảng có tiếng xe GMC chạy. Nhìn ra cưả, trời còn tối quá, khoảng hơn 5 giờ mới đi được. Tôi nhắm mắt, nằm im lặng. Nhìn quanh nhà, không biết thằng Đệ để chiếc Radio ở chỗ nào, muốn nghe tin tức, đành chịu. Tôi thiếp đi khoảng nửa giờ, giật mình khi tiếng súng nhỏ nổ, hướng Bưu Điện, 5 giờ 45. Rưả mặt, và tắm, nước lành lạnh, tôi tỉnh hẳn. Đeo cây súng colt, giây ba chạc, bước ra cửa. Bây giờ mới thấm thiá, lính không đơn vị, không đồng đội, không truyền tin, như người đi lạc.

Tôi nhìn chiếc xe Jeep, bánh trước xẹp, không buồn để ý, taị sao. Tôi đi theo sát cửa nhà, từng nhà, từng nhà, đa số đóng cửa. Một vài nhà, cửa mở, không người. Không khí chiến tranh thật sự đã vào thành phố. Đi vài nhà, laị dừng để quan sát. Quãng đường ngắn, đi mất hơn 20 phút, rẽ phải, ngược phiá dinh Tướng và Phượng Hoàng. Nhắm thẳng rạp Diệp Kính. Tôi thầm cám ơn trời, không có gì, phố xá vắng tanh, các đơn vị vẫn án binh bất động. Cứ đi từng nhà, tôi không sợ bị bạn bắn lầm, sợ Viêt Cộng núp đâu đó, thì không còn chỗ đỡ. Tới bến xe Lam, thường. Lính mọi đơn vị hay chờ tại đây để đón xe đi Quân Đoàn, Quân Y Viện, Phi trường, và C2, LLĐB.

Tôi đi hơn 200 thước thì nhìn thấy đoàn xe GMC chở BĐQ, lính bảng đỏ, tiểu đoàn tôi, thật mừng. Thiếu tá Huân, dừng chiếc xe Jeep:
- Lên xe đi ông tướng. Tôi tưởng cậu đào ngũ rồi chứ.

Tôi cười, ngượng ngùng. Chợt hỏi truyền tin,
- Có nghe Alpha 4 gọi không mày.
- Có, Alpha 4 nói với Đại úy Dếnh, là alpha sẽ về tiểu đoàn khi trời sáng.

Nghe tin Lạn, tôi yên tâm, giờ này đánh đấm cỡ nào cũng không ngán. Đoàn xe vừa tới ngã ba Diệp Kính, một chiếc Jeep ngược chiều, dừng khi thấy xe thiếu tá Huân và tôi. Tôi và thiếu tá Huân xuống xe, xe quân đoàn chở một Trung Tá, một Thiêú Tá, một Đaị úy và một truyền tin. Trung tá quân đoàn bắt tay Thiếu Tá Huân và tôi, nói sơ tình hình và giao một phóng đồ. Ông ta nói:
- Quân thiếu tá sẽ đổ ngay đây, đi dọc theo Dinh thiếu tướng, ngang dinh gần Phượng Hoàng, bắt đầu khai triển đột hình, đánh ngược xuống khu Hoàng Diệu, Khu Quân Cụ, lò heo, nhưng không vượt qua suối cạn. Khu đó tôi giao cho bộ binh và thiết giáp.

Ông Đại úy giao tôi phong bì đặc lệnh truyền tin, còn nguyên dấu nổi màu đỏ, hàng chữ tối mât màu đen. Ông Trung tá hỏi,
- Thiếu tá và trung úy có gì hỏi không?

Thiếu tá Huân trả lời không. Ông Đaị uý nói với tôi,
- Truyền tin theo đặc lệnh mới từ giờ này, cho tới khi có lệnh mới.

Xe quân đoàn vưà chạy, thiếu tá Huân cho lệnh xuống xe. Rải quân, an ninh, mời ĐĐT họp. Các đại đội trưởng tới ngồi gần thiếu tá Huân, ngồi ngay bên hè trường tiểu học:
- Đđ 3, 2 đi đầu, bộ chỉ huy tiểu đoàn, đại đội chỉ huy, đại đội 1, sau cùng. Nhắc các Alpha, áp dụng tam tam, chiếm, lục soát từng nhà, tránh đi ào ào qua. Tụi VC laị ở đằng sau đánh tới, Thanh toán đâu, giữ tới đó. Chúng ta đi theo hướng Phượng Hoàng, khi nào thấy nhà nghỉ Chính Phủ trên đồi, báo cáo. Tôi sẽ cho lệnh rẽ trái. Chiến trận có thể xảy ra khi chúng ta tới bến xe chợ mới, khu quán cơm Ba Cò. Thiếu úy Thông phát bản đồ, thiếu úy Huấn đổi đặc lệnh truyền tin mới, thử máy. Nhớ, coi chừng bắn lầm dân chúng. Giới hạn tối đa khi bắn M 79, cối 60. Có ai không hình dung ra địa thế không? Các ông họp trung đội trưởng. Sau 15 phút, hành quân bắt đầu.

Khi ngồi chờ, tôi chợt nhớ tới Phượng. Không biết Phượng có an toàn không? Tin tức tôi có, Việt Cộng từ phiá Hàm Rồng, theo đồn điền trà, ém quân, tối tiến vào thành phố, theo thung lũng và suối cạn phiá lò heo để chiếm mấy cơ sở dọc theo tuyến từ đồi pháo binh, xuống tới ty Bưu Điện. Như vậy, đêm qua, tôi cách không xa hướng hành quân của VC. Tôi thầm nghĩ, nếu đêm qua, tôi đi với Phượng, có lẽ kẹt trong gọng kềm của VC, vì chắc chắn VC sẽ chiếm toàn khu suối dưới chân đồi, gần nhà Phượng. Một mình Phượng ở căn nhà nhỏ dù sao đỡ hơn có tôi.

Đại Đội 3 và 2 báo cáo xuất phát. Đội hình đi thật thưa. Đường phố vắng tanh, nhiều nhà thấy bóng dáng BDQ, rất mừng. Một vài cánh cửa hé mở, vài khuôn mặt tươi cười chào chúng tôi. Mấy quán cà phê dọc theo rạp Diệp Kính, đối diện nhà thờ thường ngày đã mở cửa, giờ này còn đóng. Cổng nhà thờ trang hoàng thật đẹp đón xuân, không một bóng ngườì. Một vài chiếc GMC chạy thật nhanh về hướng Thiết Giáp. Tiếng súng nhỏ nổ nhiều. Tôi tỉnh táo, không như đêm qua. Niềm tự tin trở lại, tôi buồn buồn nhìn khu phố. Khu này là trung tâm sinh hoạt của Pleiku. Ngang qua tiệm chè Diệp Kính, cửa đóng, tôi nhớ tới Mậu. Không biết khu Phan Đình Phùng nơi Mậu ở có sao không? Hai năm vừa qua, tôi đón Mậu đi chùa, năm nay, lại khác.

Tôi và Mậu vẫn thân, rất thân. Nhưng đôi khi như hôm qua, Phượng làm tôi quên Mậu. Nhiều khi tôi cũng không hiểu mình muốn gì. Tôi ít lệ thuộc trong tình cảm lắm. Mậu hay trách tôi như vậy.
- Em thấy anh khó hiểu quá, như có ai mới vậy.
- Tại em nghĩ vơ vẩn chứ anh có gì khác đâu. Dại gì xa em thì còn kiếm ra ai hơn nữa. Tôi cười.

Được cái Mậu rất dễ tha thứ, bao giờ Mậu cũng vui vẻ liền. Thường thì sau mỗi lần như vậy, tôi và Mậu đi nhẩ. Mấy cô Phượng Hoàng quen tôi hay nói đùa, cho cả hai người nghe,
- Anh Lương quên tụi em rồi nghe.
- Sao không nghe anh trả lời. Ghé tai tôi, Mậu cười.
- Trả lời sao?
- Trả lời là chưa quên ai hết.

Trong mấy cô, có Kim, bắc kỳ, rất bạo, cố tình nắm tay tôi kéo lại
- Người yêu anh Lương đẹp quá, hèn nào.

Mậu không bao giờ giận hờn khi có đông người, Mậu nói vui theo,
- Em chỉ mượn của mấy chị thôi.
- Thôi tha anh đó. Cả bọn cùng cười,
- Anh Lương, bữa chị này mặc đồ rằn, anh phải cho em một bộ đó. Thanh gọi.

Tôi và Mậu vào phòng nhảy. Tôi nhẩy không hay. Mậu khá hơn tôi một chút. Hai đứa lại thích nhẩy. Tôi luôn coi nhẩy là môn giải trí dễ thương và lịch sự nhất. Tất nhiên, không kể những người, coi nhẩy như một phương tiện khác.

Đại đội 2 và 3 đã tới ngã ba Ba Cò, bến xe cũ. Nhà vẫn đóng cửa, quán cơm, càphê, trạm xe đi liên tỉnh không bóng người. Thiếu Tá Huân dặn dò,
- Cậu rành khu này, nhớ nhắc tụi nó cẩn thận, đánh trong thành phố khác hẳn, không ào ạt, không súng lớn.

Tôi thấy thấp thoáng từng toán nhỏ bđq tiến theo đường, biến mất sau mấy căn nhà mái tôn. Tiểu đoàn cũng phải tự phòng thủ, theo từng toán nhỏ. Thiếu tá Huân, tôi và 3 máy C25, thêm mấy lính theo để bảo vệ. Tôi đề nghị,
- Mình dừng cạnh chổ bán vé xe để theo dõi các đơn vị.

Đại úy Dếnh, đang chỉ huy Bộ chỉ huy, tổ chức phòng thủ. Hơn một giờ, hai đại đội vẫn lục soát từng nhà, bung rộng hướng lục soát. Vùng này nhà san sát, nhưng càng ra xa, nhà thưa thớt, cho tới khi chỉ thấy đồi thấp, không có cây lớn. Thiếu tá Huân nói nhỏ:
- Chắc tụi nó xâm nhập chưa nhiều vì ngoài vòng đai thành phố có thiết vận xa M113, mà đường xâm nhập thì trống trải . Có lẽ đêm nay, tụi nó sẽ tăng cường thêm.

Tiếng súng AK réo trên đầu, tiếng súng Carbine BDQ trả lại dòn dã (BDQ chỉ trang bị M16 khoảng tháng 5, 1968, Mậu Thân 2). ĐĐ2 và 3 báo loáng thoáng thấy bóng VC tại những vị trí gần nhà, nhưng cũng gần đường. Có lẽ VC chấp nhận đánh ngoài thành phố hơn là nằm cạnh nhà, vì bọn nó sợ lạc đồng đội. Thiếu tá Huân cho tôi làm việc với máy ĐĐ nhiều hơn với máy Liên Đoàn và Quân Đoàn. Dân chúng khi thấy chúng tôi lục soát và giữ từng cụm nhà, bắt đầu chạy ngược lại với chúng tôi. Họ mừng rỡ vì sợ nằm trong vòng kiểm soát của VC. Thấy một người khoảng trung niên chạy với vợ và đứa con gái, tôi kêu anh ta, cho ngồi xuống góc mấy bức tường để hỏi tình hình. Tôi hỏi,
- Anh thấy nhiều VC không? Bọn nó mặc đồ gì? Tụi nó có vào nhà không?
- Em thấy ít. Ka ki xám, nhiều đứa đồ đen. Buổi tối, khi mới tới, vào nhà lục soát, nhưng mờ sáng ra ngoài. Anh ta lễ phép
- Nó mang nhiều đạn không? Có súng lớn không?
- Không nhiều. AK và súng trường, lựu đạn cán gỗ nữa (lựu đạn chầy).

Tiếng súng trao đổi, nhiều hơn. Tiếng alpha 3 gọi tôi:
- Alpha 12 hả, một súng trường bá đỏ và một tên VC mặc aó đỏ. Nó đang ngó giớn dác, lính tôi cho một băng, gần lắm 12 ơi.

Tôi nói vớí thiếu tá Huân,
- ĐĐ 3 thu một súng, bắn chết một em.

Tiếng lựu đạn nổ, tiếp theo một tràng súng, máy báo cáo,
- Một em tính chém vè ra ngoài lãnh nguyên một băng.

Tôi nhắc hai alpha, đỊa thế sẽ cao và thưa nhà khi họ tiến về hướng đồi pháo binh và truờng Trung Học, nhưng càng đông nhà khi đi theo hướng về thành phố. Tôi chợt nhớ khi mới quen Mậu, đi hành quân về, tôi hay lái xe theo hướng trước mặt để lên trường trung học. Thiếu tá Huân nói,
- Tụi nó không thể di chuyển đi đâu được vì ra ngoài, toàn đồng trống. Nói với mấy alpha, coi chừng về chiều và xẩm tối, chắc chắn nó phải đánh mạnh để chờ tụi ngoài vào thêm.

Đánh trong thành phố rất khó khăn, vì dân chúng, tiếp tục chạy ngược để tránh hai lằn đạn. Tiếng súng càng ngày càng nhiều. Hai bên thật sự tiếp chiến, tiếng súng nổ nhiều. Khi đđ 2 xuống thung lũng, có cả tiếng M79. Ngườì truyền tin đưa ống liên hợp cho tôi.
- Alpha 2 gọi. Báo cáo cho 54, lượm 3 AK, hai em VC áo đỏ.
- Mình có sao không?
- Một áo vàng nhẹ.

Tôi chuyển lời cho thiếu tá Huân. Khoảng ba giờ chiều, sau hơn 4 giờ lục soát và tiến quân, đoàn đã tịch thu được 7 súng, một colt. Tụi tôi 3 bị thương, đánh thành phố thường kết quả không nhiều vì địa thế rất khó, lính tránh làm hư hại nhà cửa hay bắn lầm dân. Nhìn địa thế thành phố, tôi nói với thiếu tá Huân,
- Mình còn xa khu lò heo và khu ĐĐ Quân Cụ lắm, Cứ đà này, phải chiều mai, mới tới trung tâm Bưu Điện, ngã ba Hoàng Diệu và Dinh Thiếu Tuớng.

Gần chiều, lệnh cho các đại đội phòng thủ, dựa vào địa thế để canh gác, tuy không thành tuyến tròn nhưng theo từng cụm nhỏ. Tiểu đoàn nằm trong vòng đai của bốn đại đội, không đào hố, dựa vào nhà cửa, các bức tường, và cây lớn để đóng quân. Qua máy Quân Đoàn, tôi biết Thiết Giáp trúng mánh, buổỉ chiều khoảng 3 giờ, máy bay L19 thấy VC núp duới đồn điền trà hướng Hàm Rồng, báo cho Thiết Giáp. Các Thiết Vận Xa, cứ vậy mà xả, 30 và 50. Lính sư đoàn 23 tùng thiết cứ theo lượm súng, và đếm xác. Tịch thu hơn 70 súng, đếm hơn 40 xác. Tụi tôi cũng nhờ vậy mà không đụng nhiều, VC không thể đưa quân thêm vào thành phố. Địa thế của PleiKu rất khó xâm nhập, ra khỏi thành phố, toàn đồi thấp, không cây lớn, tầm mắt nhìn rất xa. Chỉ cần một Chi Đoàn M113 với bộ binh tùng thiết là có thể bảo vệ vòng đai thành phố.

Suốt cả ngày, quên luôn hôm nay là mồng một tết, đa số dân chúng di tản lên tới các nơi không có tiếng súng. Tôi nằm ngay cạnh một gốc cây lớn với hai máy truyền tin và người lính bảo vệ. Thiếu Tá Huân, Đại úy Dếnh, nằm cách vài thước. Lính rất lanh, họ tản vào mấy nhà, nấu nhờ cơm, xẩm tối là có cơm nóng, thức ăn nhiều vì mang theo khi dời Biển Hồ. Thành phố không điện, nằm trong bóng đêm, tôi nghĩ đủ thứ. Đài phát thanh nói VC tấn công hầu hết các tỉnh. Sau bản tin là nhạc hành quân rộn ràng. Dalạt và Lâm Đồng cũng bị tấn công. Tôi lo lắng, không biết nhà tôi có sao không? Dòng suy nghĩ lan man. Chỉ cách hơn một cây số, hướng chợ mới, đường Phan Đình Phùng, nhà Mậu, không nghe tiếng súng. Hơn hai cây số, hướng về đại đội Quân cụ, Lò Heo, nhà Phượng, nằm gần suối cạn, rất đông dân, cả ngày nghe đủ loại súng lớn nhỏ. Không biết Phượng có chạy ra khỏi chưa? Tôi quấn chiếc poncho Line, gối đầu trên chiếc ba lô, không ngủ. Buổi tối, không khí im lặng, nhiều khi nghe hàng loạt đạn Carbine lẫn tiếng AK, chó sủa nhiều hướng đồi pháo binh. Tôi thiếp được hơn một giờ, tiếng máy truyền tin sè sè, liên lạc đầu giờ. Tôi nghe hai truyền tin hỏi tin tức nhau, cười khúc khích.
Sáng ngày mồng hai, mở đầu bằng hàng loạt AK và carbine, tiếng súng liên tục. Đại đội hai báo, VC tấn công mạnh, nhưng không vượt qua được con đường ranh, và dãy nhà bên kia đường. Tôi kêu máy gần lại chỗ thiếu tá Huân để dễ nhận lệnh. Trời sáng hẳn, các đơn vị lại bắt đầu lục soát, tiểu đoàn cho lệnh lục soát về hướng trung tâm thành phố. Hai đại đội tiến nhanh. Tiểu đoàn và hai đại đội còn lại thế chỗ. VC thất bại vì không đưa thêm quân vào thành phố được vì bị thiết giáp làm thịt từ ngoài. Đơn vị chúng tôi trở nên nhẹ nhàng, đụng nhẹ, chỉ từ từ tiêu diệt tụi VC vào từ đêm 30 thôi.

Cả hơn nửa thành phố, dân chúng đã trở về, tuy nhiên họ chỉ ở trong nhà. Nhiều người mang bánh, mứt cho lính. Tới hai giờ chiều, đại đội một, ba, đã tiến tới Bưu Điện, và làm chủ khu lò heo, lục soát khu suối cạn. Tại đây đại đội một đụng khá nặng với VC, súng nổ hơn nửa giờ. Đếm được 9 xác, bắt được hai tên bị thương, giao cho phòng Hai Quân Đoàn chở đi.

Thiếu tá Huân, tôi cùng mấy truyền tin và bộ chỉ huy đứng sát ty Bưu Điện và mấy toà nhà lớn, vừa quan sát vừa điều động hai ĐĐ bung rộng ra, nằm tại chỗ. Thỉnh thoảng từ trong dãy nhà sát ĐĐ Quân Vận, một vài VC bỏ nơi ẩn trốn, chạy vụt xuống chân đồi, hàng loạt súng bắn theo. Cứ thế mà cũng được 4 em, lấy 4 súng.

Nhìn dãy nhà san sát, tôi chợt buồn cười, chỉ cách khoảng 500 thước, khuất một ngã ba, là trở về nhà thằng bạn. Tôi và Lạn uống rượu đêm 30. Lính tới đâu, dân theo tới đó. Họ chạy loanh quanh, chỗ nào không nghe tiếng súng, hoặc có bóng dáng BĐQ, là họ chạy tớ. Nhiều người núp ngay bên hè những tiệm buôn lớn, coi đánh nhau. Từ phía Phượng Hoàng và dinh Tướng Tư lệnh, một nhóm 6, 7 người đi về hướng chúng tôi. Tôi chợt chăm chú vào một cô gái, aó sơ mi tay dài, chiếc quần tây xám, mang chiếc giỏ, và một chiếc sắc trên vai, theo toán người về hướng tôi và hai máy truyền tin. Cô ta dừng lại, rồi bất chợt chạy thật nhanh, vừa kêu tên tôi. Phượng.

Tôi nhận ra Phượng, ra dấu cho Phượng tới sát thềm ty Bưu điện, cạnh thiếu tá Huân. Phượng mừng khi biết chắc là tôi. Phượng vừa thở, vừa chùi nước mắt.
- Trời ơi, từ qua tới nay, em cứ nghĩ tới anh. Không biết anh có sao không?
- Em chào Thiếu tá rồi mình đứng nói chuyện. Tôi chỉ Thiêú tá Huân.
- Em để xắc xuống đây nghe. Phượng cúi đầu chào.

Thiếu tá Huân rất dễ tính, ông kêu hai máy tới cạnh ông. Mấy người lính tò mò, nhìn Phượng. Phượng ngồi ngay trên hè xi măng, vừa nói,
- Giờ này, mới chắc anh còn sống. Đêm 30, em chờ anh tới 9 giờ không thấy, em giận anh quá trời. Định bụng nếu anh tới em cũng không đi nữa. Em nấu thức ăn, trái cây, sắp trên bàn thờ, quần áo ủi sẵn, sợ anh về, chờ lại nhăn. Anh biết không, cũng may anh không về. Khoảng 10:30 tối, em tức anh, ngủ không được, chắc anh đưa cô bạn anh đi, quên cả em, chợt tiếng đập cửa nhà bên cạnh, chưa kịp phân biệt tiếng gì, thì tới cánh cửa nhà. Em sợ điếng hồn, giờ này ai kêu cửa làm gì. Thêm một nhát dộng ngay cánh cửa, em lật đật kéo then. Trời đất, 3 thằng VC, mang súng vào nhà, còn hai thằng ở ngoài. Vừa vào là lục khắp nhà. Một tên bắt em ngồi ngay cạnh giường, nó xoi cả gầm giường, cả nhà tắm. Chợt thấy bộ đồ rằn treo trong cánh tủ, tụi nó xúm lại hỏi,
- Chồng mày đâu?
- Em không có chồng. Em run lập cập,
- Mày nói dối. Ai mặc đồ này? Nó ở đâu?
- Anh của em. Dạ em không biết. Nghe anh ấy nói, đi đánh giặc rồi.
- Mày ăn nói kiểu đó, ông đánh gẫy răng đấy. Ai là giặc? Một thằng nắm tóc em,
- Em im lặng, cầu trời anh đừng về nhà em. Cả xóm nhà nào cũng nghe gõ cửa, lẫn trong tiếng súng. Khoảng hơn nửa giờ, ba tên đó hỏi em đủ thứ. Em trả lời cho qua. Chợt một tên ở ngoài vào nói nhỏ. Cả 3 tên đi ra, sau khi cấm em không được ra ngoài.
- Em đóng cửa, thắp nhang trên bàn thờ rồi lên giường nằm. Em nhớ anh, giờ này anh làm gì, ở đâu? Thật may mắn, nếu không, nó bắt anh hay bắn anh rồi.

Tôi im lặng nghe Phượng, khuôn mặt mệt mỏi, nhưng dáng dấp rất cân đối, hèn nào Phượng được rất nhiều khách kêu ngồi bàn. Phượng thấy tôi chăm chú nhìn,
- Tóc em chải không kỹ phải không?
- Đâu có, em lúc nào cũng xinh xắn.
- Thôi cám ơn, để dành cho cô nữ sinh của anh đi. Sao không thấy lính đâu hết anh. Phượng nhìn chung quanh,
- Đông lắm nhưng rải khắp nơi.
- Giờ này duới nhà em, lính cũng đông lắm. Đụng cũng nặng phía suối cạn.
- Bây giờ em đi đâu?
- Nếu không kẹt mấy cái giỏ này, em theo tiểu đoàn làm lính luôn. Em không biết đi đâu. Nếu không gặp anh, em đi theo cô gái mới quen, ngủ nhờ nhà bà con cô ta vài ngày. Cô ta bằng lòng rồi, và cho địa chỉ rồi. Phượng chợt hỏi,
- Anh ăn gì? Ai nấu ăn cho anh. Em vào nhà kia, nấu nhờ cơm nghe? Em nài gạo và thức ăn, rồi trả tiền chắc họ cũng bằng lòng.

Từ lúc Phượng tới, chỉ có tiếng súng xa xa thôi. Thiếu tá Huân cho lệnh thu hẹp vòng đai, chuẩn bị phòng thủ đêm. Tôi để Phượng ngồi tạm chỗ cũ, đi tới mấy căn phố gần, đề nghị, tiểu đoàn phòng thủ tại đó, tránh tầm nhìn từ bên kia phố. TIểu đội bảo vệ tới trước, chia ra lục soát kỹ, rồi làm thành vòng đai. Hai người lính chuyên theo tôi cũng đã có chỗ ngủ đêm cho 3 người, gần thiếu tá Huân, Đại úy Dếnh, truyền tin, ban hai. Tôi chỉ hướng cho cây đại liên, dặn thường vụ canh gác, đổi mật khẩu ban đêm, rồi kêu Phượng tới.
- Anh có chìa khóa nhà thằng bạn thân. Đêm qua anh uống rượu sau khi chia tay em, định khoảng 8 giờ tối xuống đón em. Nhưng anh và thằng bạn say, ngủ quên, nên lỗi hẹn, mà còn sống. Em thấy số anh cao chứ không chết rồi.

Phượng ôm chầm lấy tôi, quên cả mấy người lính và thiếu tá Huân bên cạnh. Thiếu tá Huân thì biết tôi rồi. Nhiều khi cuối tháng, không có tiền, tôi tới nhà ông, bao giờ cũng vậy, ông kêu chị Huân, em, Lương nó tới thăm em kià. Chị vui vẻ hỏi, em muốn bao nhiêu? Chị cho em mượn 1000 thôi. Sao ít vậy? Thôi vậy đủ rồi. Chị Huân có hai em gái cùng ở chung nhà. Chị luôn nói vui, sau này, ai mà lấy cậu, chắc đói quanh năm. Lấy vợ thì khác chứ chị. Chị cười.

Mà thật vậy, từ khi lấy vợ, cuộc đời tôi thay đổi hẳn. Sau này, lần cuối cùng tôi gặp thiếu tá Huân khi anh làm Quận Trưởng tại Qui Nhơn. (Viết tới đây, tôi nhớ bài đăng trên BĐQ khi anh Huân chết năm vưà rồi. Tất nhiên, nếu không phải là thiếu tá Huân, tôi không thể nào nói chuyện với Phượng khi tiếng súng còn nổ, ngay trên chiến trường).
- Nhà bạn anh cách đây chưa quá 400 thước, ngay ngã ba, em vừa đi ngang. Em thấy chiếc xe jeep của anh, bánh xẹp lép nằm ngay con hẻm. Em theo con hẻm, nhà thứ tư bên trái, số 7. Em cứ vào ở đó, gạo, mắm, đường, cà phê, sữa hộp, nước máy, nhà tắm đầy đủ. Ở bao lâu cũng được. Hai vợ chồng nó nói ngày 10 sẽ ra, nhưng kiểu này thì không biết bao giờ mới ra lại. Anh dặn hờ, nếu anh phải đi xa bất ngờ, nó ra, em nói tên anh, nó sẽ để em ở bao lâu cũng được.

Phượng ngây thơ, em xin Thiếu tá ở đây được không? Ở chỗ nào. Anh ngủ dưới gốc cây kia kìa, càng vui, giống cắm trại hướng đạo quá..
- Thôi cô ơi, đừng tưởng tượng, Thiếu tá cho nói chuyện như vậy là quá rồi. Tôi chợt hỏi, em có tiền không? Phượng nói nhỏ, chỉ túi xách, em có nhiều lắm, xài vài tháng không hết, anh cần tiền không?
- Không, tụi anh có tiếp tế rồi, mà cũng sắp lãnh lương. Thôi, trời sắp tối rồi, em đi đi. Khi nào yên ổn, rảnh, anh sẽ tới. Nếu em đi xa, để chià khóa trong hộp thư, anh sẽ lấy. Nhớ viết vài chữ, cho anh biết.
- Anh phải hứa, em mới đi. Khi nào rảnh phải ghé em.
- Thời gian nào cho người đẹp của anh. À quên, nhưng anh phải công bằng. Cứ đi đi. Tôi cười, nói đùa.

Phượng tới lễ phép chào Thiếu tá Huân. Thiếu tá Huân hỏi.
- Bây giờ cô đi đâu?
- Cháu đi tới nhà bạn anh Lương. cháu có chià khoá rồi, chúc Thiếu tá và các anh lính luôn bình an. Phượng bịn rịn, nhìn tôi.
- Để anh cho lính mang giùm giỏ cho em. Tôi cười khuyến khích.
- Chú mang giùm cô này hai chiếc giỏ, tới ngã ba đằng trước kia. Đưa cô ta vào nhà, rồi trở lại. Toi nôi vớì Hoành. Hoành vui vẻ gật đầu.
- Em đi nghe anh. Mai, anh còn ở đây không? Em mang cơm tới cho anh và Thiếu tá ăn luôn. Phượng kêu khẽ.
- Em cứ lo cho em đi. Ngày mai, làm sao biết anh sẽ ở đâu?

Tiểu đoàn sau đêm đó, di chuyển về sân vận động. Hai ngày sau, gắn huy chương, nhận lênh ra phi trường Holloway để đi hành quân vùng khác. Tôi chỉ gặp Phượng vài lần, mỗi lần chừng một giờ. Phượng ở nhà bạn tôi. Khi tới thăm, tôi chở theo hai thùng cơm sấy, một thùng thịt và cá hộp, chục hộp sữa và mấy ký đường. Tôi ngạc nhiên, Phượng, Kim, Thanh, ba cô làm ở Phượng Hoàng cùng ở chung. Phượng ríu rít,
- Kim ơi! Anh Lương tới, mang nhiều đồ ăn cho mình nữa.

Kim đang nấu cơm, Thanh và Phượng lau nhà. Kim mừng:
- Anh ăn cơm với tụi em luôn. Hôm qua, con Phượng ra phố, gặp hai đứa em, rủ về ở chung. Nó nói nhà bạn anh. Tụi em nói chuyện về anh cả ngày. Tính ngày mai, mang quà bánh đi tìm tiểu đoàn anh.

Phượng nhìn tôi, cảm động, cứ xớ rớ. Tôi biết nếu không có hai cô bạn, Phượng sẽ không cho tôi đi, ngồi nói chuyện cả giờ. Giòng đời đẩy đưa, tôi phải theo tiểu đoàn. Hơn nửa tháng sau, tôi nhận thư Phượng khi đang hành quân Dalat. Thư dài. Thư như gói trọn cả chuỗi ngày Phượng và tôi biết nhau, gần và xa, đậm đà nhưng luôn cách trở.
_________________


Posted by: M@N Nov 30 2008, 02:11 PM


Người Về Từ Cõi Chết

NGÔ TRÚC KHÁNH


Ngô Trúc Khánh sinh tại Chợ Lầu, Hòa Ða, Bình Thuận. Cựu học sinh Trung Học Phan Bội Châu, Phan Thiết 1958-1965. Trước khi vào lính, là công chức Bộ Thông Tin-Chiêu Hồi (Sài Gòn). Tốt nghiệp Khóa 7/1968 tại Trường Bộ Binh Thủ Ðức.

- Từ 1969 tới 1971, Ðại Ðội Phó/ÐÐ 238 ÐPQ thuộc Chi Khu Hòa Ða(Bình Thuận).

- 1972 Biệt phái ngoại ngạch Cảnh Sát Quốc Gia : Trung Uý Trưởng Cuộc Hòa An và Lại An (Thiện Giáo-BT).

- 1973 Trưởng Cuộc Cảnh Sát, Thị Xã Hậu Bổn (Phú Bổn) ố Sĩ quan Hành Chánh , Phụ Tá Biện Lý Tòa Hòa Giải Pleiku.

- 1974 tới tháng 2/1975 : Phụ Tá Trưởng phòng Hành Quân/BCH/CSQG/Phú Bổn.

Ngày 10-3-1975 thủ phủ của cao nguyên Trung Phần là thành phố Ban Mê Thuộc thất thủ. Pleiku tổng hành dinh của Bộ Tư Lệnh Quân Khu /Quân Ðoàn II Chiến Thuật coi như bị cô lập và vây hảm vì hai quốc lộ chính 14 và 19 đã bị cộng sản Băc Việt cắt đứt và bịt kín nhiều đoạn. Mặc dù ở đây có rất nhiều đơn vi chiến đấu thiện chiến nhất là Biệt Ðộng Quân nhưng giờ chót cũng được lệnh di tản chiến thuật về duyên hải, nói là để bảo tồn lực lượng cố thủ các tỉnh còn lại của quân đoàn.

Ngày 17-3-1975, bắt đầu cuộc triệt thoái của Quân Ðoàn II tại Pleiku, chặng đầu tới Phú Bổn tình hình tốt đẹp, mọi liên lạc, từ đoàn xe về Nha Trang, qua hệ thống siêu tầng số, liên tục và rõ ràng. Liên Ðoàn 6 Công Binh và những Ðơn Vị BÐQ mở đường, nhiều Liên Ðoàn BÐQ khác + Lử Ðoàn 2 Thiết Giáp đoạn hậu. Cảnh tượng xô bồ chưa từng có khi đoàn xe bắt đầu chuyển bánh . Nguyên do là hầu như ai kể cả cây cột đèn ở đây cũng đều muốn chạy khỏi vùng đất chết sắp xãy ra. Vì vậy nên mọi kế hoạch của cuộc hành quân di tản gần như đảo lộn với sự có mặt của hàng vạn đồng bào chạy loạn bằng đủ thứ phương tiện từ xe gắn máy, xe thồ, xe ngựa, xe kéo tới xe ô tô các loại. Cứ thế dân theo lính nối đuôi nhau không làm sao mà đếm nổi số lượng kéo dài hằng hằng cây số.

Hởi ôi chiến tranh là chết chóc đau khổ thế nhưng cộng sản VN vì chủ nghĩa đế quốc và lợi lộc nên lúc nào cũng gây ra chiến tranh. Ðồng bào vô tội qua thời gian của cuộc chiến quá sợ cộng sản phi nhân bạo tàn nên biết đi là chết nhưng vẫn cứ chạy theo QLVNCH để xa lánh quỷ dử Việt Cộng. Những trang lịch sử cận đại của nước nhà ngày nay đã ghi rõ ràng từng đoạn đường thảm tuyệt của người dân chiến nạn từ Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 và tàn khốc dã man có một không hai, đó là cuộc thảm sát của cộng sản Bắc Việt nhắm vào dân thường trên liên tỉnh lộ 7. Ðó là mồ chôn nhiền chục ngàn xác đồng bào và trẻ thơ vô tội, xóa sổ cả một đoàn quân cùng chiến cụ của cao nguyên lừng danh, từng làm cho giặc xiêu hồn bạt vía, kéo theo sự sụp đổ của đất nước vào cuối tháng 4-1975.

Lúc 18 giờ 15 ‘ cùng ngày, đoàn xe tới Phú Bổn, ban đêm lính Thượng nổi loạn, đốt nhà, cướp của, đồng lúc VC pháo kích dồn dập vào Thị Xã Cheo Reo, khiến cho thành phố nhỏ bé của miền núi, như đắm chìm trong biển lửa và hổn loạn. Vì vậy mọi đơn vị của Tiểu Khu, cũng tự động di tản theo Quân Ðoàn. Phòng Hành Chánh của Cảnh Sát Phú Bổn lúc đó, gồm ba sĩ quan (1 Ðại Úy + 2 Trung Úy ) với gia đình tôi (vợ + ba con nhỏ), tổng cộng 7 người, chất trên 1 xe Jeep. Riêng tôi đi bằng chiếc xe Honda Dame, chạy trước dẫn đường về được Chi Khu Phú Túc, sau hai ngày đêm may mắn, thoát khỏi đạn pháo của Cộng Sản và các nút chặn của Thượng Cộng

Thượng Fulro, trên Tỉnh Lộ 7.

Lúc này, một số du kích VC đã dùng súng cối, pháo vào đoàn xe với mục đích làm trì trệ cuộc di chuyển, chờ quân chính qui của Sư Ðoàn 320, từ Ban Me Thuột, kéo tới với nhiều đại bác 122 ly của SD23BB bỏ lại. Bấy giờ , Tư lệnh QÐ2 là Tướng Phạm Văn Phú, đang bay trên C-47, ra lệnh cho Tướng Trần văn Cẩm, điều động LÐ7BÐQ và Lữ Ðoàn 2 Thiêt Giáp, phối hợp bảo vệ đoàn xe. Các đơn vị trưởng có trách nhiệm trong cuộc di tản trên, ngoài Tướng Phú (Tư Lệnh), Tướng Cẩm (Tư Lệnh Phó), còn có Ðại Tá Lý (TMT/QÐ2), Tướng Tất (CHT/BDQ/V2), Ðại Tá Ðồng (CHT/TG) và Các Liên Ðoàn Trưởng BÐQ. Rút sau cùng là LÐ4 và 25 BÐQ, vì kẹt ở Thanh An (Pleiku).

Trong lúc mọi việc tưởng đâu tốt đẹp, thì xui xẻo lại tơi, khi Không Quân bỏ bom lầm, làm cháy 2 Thiết Vận Xa M113, khiến một số Binh sĩ TG và BDQ thương vong. Chết chóc, khổ đau.. bắt đầu từ giây phút đó.

Hổn loạn bắt đầu từ 15 giờ ngày 18-3-1975. Theo nhận xét chung của mọi người, nếu người chỉ huy lúc đó là Cố Ðại Tướng Ðổ Cao Trí, tướng Trương Quang Ân hay Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn. thì họ sẽ nhảy ngay vào Mặt Trận, để trực tiếp chỉ huy , nên chăc chắn sẽ không có cảnh ‘ mạnh ai náy làm, coi mệnh lệnh của thượng cấp, kể cả chỉ thị của TT Thiệu, Bộ TTM/QLVNCH như cỏ rác ‘.Nhưng tướng Phú đã không bao giờ làm vậy thay vì bay trực thăng xuống thẳng Phú Bổn, để trực tiếp chỉ huy đoàn quân di tản, lúc đó như rắn không đầu vì chẳng ai phục ai, mà chỉ ngồi chờ tại Bộ Tư Lệnh QÐ2 ở Nha Trang, để chực đón phái đoàn cao cấp từ Sài Gòn của Thủ tướng Khiêm tới ban lệnh miệng. Trong khi đó tin tức dồn dập từ mặt trận báo về, Trung Ðoàn 9/SÐ968 của Cộng Sản Bắc Việt + nhiều Tiểu đoàn Du kích Thượng Cộng, đã lập xong một phòng tuyến dài trên tỉnh lộ, để chờ chận đánh đoàn xe, trong đó có rất nhiều đồng bào tháp tùng chạy loạn lánh nạn.

Lúc 1 giờ 15 sáng ngày 19-3-1975, Tướng Tất báo cáo từ dưới đất về Nha Trang : Quận Phú Túc bị pháo nặng và tràn ngập nhưng LÐ7 BÐQ và Thiết Giáp đã tới giải vây. Trận chiến thật ác liệt, cuối cùng LÐ7 BÐQ cũng đã tái chiếm lại được quận, mặc dù chung quanh VC vẫn còn bám trụ, đóng chốt, pháo kích pha nátÔ đoàn xe. Cùng lúc, hai Tiểu đoàn K9, K13 của VC Phú Yên, đã đóng chốt từ Hiếu Xương lên tới quận Sơn Hòa. Tuy đoạn đường này, chỉ dài 25 cây số nhưng lại là đoạn đường máu lệ, chẳng khác nào chốn quỷ môn quan, đã tàn sát không biết bao nhiêu mạng lính và dân, trong đoàn người di tản phải vượt qua, trước khi tới được Tuy Hòa.

Tại Phú Túc, tôi và các bạn đi chung với vợ con trên chiếc xe Jeep, đã bị thất lạc, trong chốn loạn quân, cho tơi ngày thứ 4 (21-3), mới gặp lại bên bờ này sông Ba. Từ đó, mọi người chia tay vì chiếc xe Jeep phải bỏ lại. Riêng gia đình tôi, còn phải chịu thêm 8 ngày nữa, trong địa ngục trần gian, để vượt qua đoạn đường tử thần này, dưới đất có hàng trăm ngàn quả mìn gài sẳn, của cả VC và Ðại Hàn từ bao năm trước. Còn trên đầu thì đầy trời Rocket và bom lửa của Không Quân + hàng trăm chốt của giặc, luôn nả đạn pháo vào đoàn người, bất kể quân, dân, người lớn hay trẻ con, khi chạy ngang tầm súng.

Ðoàn xe ứ đọng kéo dài và ngừng hẳn vì giòng sông Ba chắn ngang trước mặt. Ðâu đâu cũng vang dậy tiếng khóc của đồng bào di tản từ trẻ sơ sinh thiếu sửa cho tới những nạn nhân đang quằn quại vì bom đạn và sự cướp bóc diễn ra. Tội nghiệp nhất là các đơn vị QLVNCH vừa phải mở đường, chiến đấu và thêm trọng trách đùm bọc đồng bào đang cùng với lính trong cơn chiến nạn.

Ai cướp của dân, ai giết dân để mà cướp của thì ngày lịchsử cũng đã ghi lại rõ ràng qua miệng đời của chính những nhân chứng còn sống sót. Tuy vậy lịch sử cũng không thể nào bỏ sót công trạng thật là vĩ đại của những người lính Công Binh Chiến Ðấu của QLVNCH. Không có họ can đãm đầu đội bom dạn, mệt nhọc hy sinh tánh mạng , hiên ngang trầm mình dưới giòng nước lủ sông Ba để hoàn thành cho được một cây cầu nổi bằng vỹ sắt nối hai bờ sông, giúp đoàn xe tiếp tục về Tuy Hòa, tránh một cuộc thảm sát khi bộ đội Bắc Việt đang trên đường truy đuổi sắp bắt kịp.

Hởi ôi đời là vậy đó vì ngày trước hay bây giờ vẫn còn một số người đâu có bao giờ nghĩ tới sự hy sinh vô bờ bến của những người lính VNCH. Họ chiến đấu vì ai mà phải hy sinh xác thân nơi sa trường, lại phải chịu đói khát cực khổ như đơn vị Công Binh đang thi hành nhiệm vụ tại Sông Ba. Toán này lo đón nhận những chiếc vỷ được thả xuống từ trực thăng trong khi toán khác tiếp ngay để ráp lại thành một chiếc cầu dã chiến. Phía dưới nước chảy thật xiết, mặc kệ hai chiếc xe ủi vẫn liên tục làm việc ủi đất và đá lấp kín một khoảng sông và thả vỷ sắt trên đó.

Có một cảnh tượng mà tới bây giờ chắc những người có mặt bên bờ sông Ba sẽ không bao giờ quên được. Ðó là chuyện đàn bò gần 200 con của đồng bào quận Cũng Sơn được dẫn theo với chủ tị nạn. Nhưng khi chúng vừa lội qua tới bờ bên kia thì bị đơn vị Việt Cộng đang chốt sã súng đủ loại kể cả lựu đạn giết không chừa một con. Tội nghiệp thịt xương của những con vật vô tội văng tứ phía còn nước sông thì nhuộm đỏ máu bò. Một vài con may mắn dù bị thương vẫn cố lết lên bờ và lũi vào rừng núi biệt dạng.

Cảnh tượng trên làm cho mọi người thêm khiếp đãm, thêm vào đó là sự chen lấn leo bừa lên trực thăng gây nên cảnh chết tan xương nát thịt khiến cho ai nhìn thấy cũng phải đau lòng.

Suốt thời gian này, ai cũng vậy chẳng riêng gì gia đình tôi, đói thì lượm đọt rau và củ sắn dại trong rừng để an, còn khát thì uống nước vũng bùn, lợn cợn đầy máu, mỡ của xác người. Riêng đạn bom, mìn bẩy thì đành giao cho số mệnh . Cuối cùng nhờ Trời Phật và Tổ Tiên hộ trì, Tôi cùng Vợ và ba con nhỏ, sau 12 ngày đêm đói khát, lặn lội trong địa ngục bom đạn máu lửa, cũng về được Tuy Hòa ngày 25-3-1975 rồi Khánh Hòa.

Tại Nha Trang, Ðài truyền hình liên tiếp tường thuật lại cuộc di tản của QÐ2 trên Liên Tỉnh Lộ 7, mở đầu là Những Thiết Vận Xa M113 của Lử Ðoàn 2 Thiết Giáp, kế tới là hình ảnh của một sĩ quan trẻ tuổi, râu tóc dựng ngược, mặt mày hốc hác, quần áo rách nát tả tơi, chỉ còn nguyên vẹn 1 đôi giầy lính, tấm bản đồ hành quân và khảu P.38 ngắn nòng. Dân chúng tại Nha Trang đã túa ra hai bên đường, để đón mừng, tiếp tế cho đoàn người về từ cỏi chết, mà người dẫn đầu, chính là Trung Úy Ngô Trúc Khánh, chỉ có chiếc xe Honda Dame, đã mang được vợ và ba con về từ địa ngục có thật.

Sau ngày CSQT cưởng chiếm được toàn Miền Nam VN, như hằng triệu quân công cán cảnh của VNCH, Trung Uý Khánh lần lượt trải qua nhiều địa ngục trần gian, từ Kà Tót, Tổng Trại 8 Sông Mao, Lương Sơn, Tà Dôn, Long Hoa tới trại A.30 Tuy Hòa, Tổng cộng hơn 7 năm tù khổ sai. Ðược tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ ngày 26-4-1992, qua diện HO 11, cùng vợ với 2 con. Cuối cùng ngày 28-3-2006, sau 14 năm chờ đợi, đứa con trai lớn mới tới Mỹ để đoàn tụ cả gia đình. Ðời trai kiếp lính thời loạn là vậy đó, bi thảm, cùng tận.. thế nhưng tới nay có được mấy người cảm thông thương tiếc ?

Tóm lại cuộc di tản của QD2 coi như hoàn toàn thất bại, không phải vì người lính không chịu chiến đấu hay không đủ vũ khí đạn dược, để chống chọi với kẻ thù, mà do một hệ thống chỉ huy tồi tệ, từ Bộ TTM/QLVNCH cho tới BTL/QÐ2, toàn những kẻ sợ chết, ganh tị, vô kỷ luật, chỉ biết chia phe kết đảng, mới đưa đến cái thảm họa mất nước vào tay đảng CSQT, đẩy dân lính vào con đường chết. Cũng may trong đoàn di tản, còn có được những Liên Ðoàn BÐQ thiện chiến, Các đơn vị Thiết Giáp, Công Binh, những đơn vị Lôi Hổ, Biệt Kích.. chịu hy sinh, nên mới đem được hơn 2000 xe đủ loại và mấy chục ngàn người từ các tỉnh Cao nguyên Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn về được Phú Yên.

Kết quả 70% chiến xa M48,41 bị hũy diệt, 100% Pháo binh tan hàng. Có hơn mấy chục ngàn đồng bào, đa số là trẻ thơ, đàn bà bị thảm sát, 20.000 chiến sĩ thuộc QD2, gồm BÐQ, Lử Ðoàn 2 Thiết Kỹ, Liên Ðoàn 6 Công Binh Chiến Ðấu. Pháo Binh, Lực lương Thám Sát, Biệt Kích, Lôi Hổ.. tán mạng.. Ðau đớn như vậy, thế nhưng suốt 13 ngày đoàn quân di tản, cho tới lúc số sống sót về được Tuy Hòa, Nha Trang. Trong lúc đó, các tướng lãnh Cao Văn Viên (TTMT), Lê Nguyên Khang và Ðồng văn Khuyên được coi là ba tướng lãnh có quyền uy cao nhất lúc đó, cũng không hề rời Sài Gòn, đi máy bay ra Tuy Hòa hay Nha Trang.. thăm viếng, ủy lạo các nạn nhân mới từ địa ngục về. Ðó là sự thật của lịch sử.

Trong nổi buôn ly xứ dường như trong tôi luôn ‘ Còn Một Chút Gì Ðể Nhớ ‘ như nhà thơ Vũ Hữu Ðịnh đã nhớ về Pleiku thời binh lửa năm nào :

‘ phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trới thấp thật buồn
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương .’


California tháng 8-2008

NGÔ TRÚC KHÁNH

Posted by: M@N Dec 11 2008, 01:50 PM




Cao Nguyên: Sương Mù hay Khói Súng


Ngày 15 tháng giêng năm 1972, tại bãi đáp trực thăng Ba Gi cách thị xã Qui Nhơn 12 cây số về hướng Tây Bắc, Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II, Trung Tướng Ngô Dzu trả lời cuộc phỏng vấn của báo chí trong và ngoài nước một cách khẳng định là Cộng quân sẽ đánh lớn tại Quân Khu II. Tướng Ngô Dzu cũng cho biết, hiện nay Trung Đoàn 21 thuộc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của Bắc Việt đang thiết lập các căn cứ trong vùng thung lũng An Lão, nằm về phía Bắc của Qui Nhơn. Và cũng theo tin tình báo mới đây thì Bộ Chỉ Huy Quân Khu 5 của Cộng quân được ghi nhận đã xuất hiện trong quận Hoài An, tỉnh Bình Định, làm cho tình hình của vùng này trở nên nghiêm trọng.

Trung Tướng Ngô Dzu còn cho biết thêm, quân số của Cộng quân xâm nhập vào Quân Khu II đã lên đến 60 ngàn người, ông cũng tiên đoán chừng một tháng nữa, địch quân sẽ di chuyển các cơ sở đến vùng Tam Biên, sẽ dùng chiến thuật "công đồn đả viện" để đánh Cao Nguyên và biến Kontum thành một Điện Biên Phủ. Một cố vấn dân sự cao cấp Mỹ của Quân Khu II, ông John Paul Vann tin rằng Cộng quân sẵn sàng hy sinh 10 ngàn quân để chiếm cho được vùng Cao Nguyên. Cuộc chiến sẽ trải rộng từ thành phố Kontum đến Pleiku và Bình Định. Ông cũng tiên đoán là chiến xa của Cộng quân sẽ tấn công vào Benhet và Tân Cảnh đầu tiên.

Cùng lúc với Tướng Trần Nam Trung của Bắc Việt đọc nhật lệnh kêu gọi Cộng quân đánh lớn, đánh mạnh khắp nơi, thì báo Washington Star của Mỹ, số ra ngày 10 tháng 4 năm 1972 loan tin sư đoàn cuối cùng của Bắc Việt đã lên đường tiến vào miền Nam để tăng cường cho 120 ngàn Cộng quân đang rải dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Những tin tức chiến sự như vậy là một hứa hẹn những tháng ngày đầy máu và nước mắt cho cuộc sống đang yên vui bình lặng của người dân miền Nam.

Rồi những gì mọi người chờ đợi cũng sẽ đến. Mùa xuân đến và mùa xuân đã qua. Khi những tia nắng của một sớm mai hè vừa đủ ấm để ửng hồng đôi má của người con gái Cao Nguyên thì tiếng súng bắt đầu nổ. Theo tài liệu bắt được trong mình của một Chuẩn Úy Việt Cộng tên Khổng Thanh Hiền thì lệnh tấn công tại mặt trận Tam Biên được ấn định vào ngày 13 tháng 3 năm 1972. Đó cũng là ngày mà lực lượng Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đụng độ ác liệt với các đơn vị của Sư Đoàn Thép 320 Cộng quân chung quanh Căn Cứ Hỏa Lực 5. Sư Đoàn Thép là sư đoàn đã từng chiến thắng tại Điện Biên Phủ trước đây và hiện là một trong những đơn vị nòng cốt của Bắc Việt. Lần ra quân này, chỉ sau 3 ngày đụng trận với một vài đơn vị của Lữ Đoàn 2 Dù, Sư Đoàn Thép đã phải để lại nhiều tổn thất. Một trong những xác Cộng quân bỏ lại chiến trường, có xác của Chuẩn Úy Khổng Thanh Hiền thuộc Tiểu Đoàn Phòng Không của Trung Đoàn 64, Sư Đoàn 320. Những tài liệu tịch thu được trên mình của sĩ quan này là do Tướng Phạm Ngọc Mậu ký ngày 20 tháng 10 năm 1971. Các nguồn tin tình báo của Quân Khu II cho rằng Tướng Phạm Ngọc Mậu đã thay thế Tướng Hoàng Minh Thảo, chỉ huy mặt trận Cao Nguyên Trung Phần mà Hà Nội gọi là Mặt Trận B3.

Đúng như sự dự đoán của những giới chức thẩm quyền của Quân Khu II, Tân Cảnh là nơi đầu tiên mà chiến trận bùng nổ. Cuộc chiến diễn ra khốc liệt không thua gì cuộc chiến tại vùng Trị Thiên, chỉ khác nhau về mặt địa thế: một bên là đồng bằng, một bên là rừng núi, và điều này ảnh hưởng phần nào đến sự yểm trợ của chiến xa và không lực.

Vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 23 tháng 4 năm 1972, Công Trường 2 Cộng quân được yểm trợ bởi nhiều chiến xa T-54 đã ào ạt tấn công vào căn cứ hỏa lực Tân Cảnh, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh do Đại Tá Lê Đức Đạt làm tư lệnh, và đây cũng là bản doanh của Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Thông làm Trung Đoàn Trưởng. Thoạt tiên Cộng quân dội xuống Tân Cảnh cả ngàn quả đạn đại bác 82 ly và hỏa tiễn 122 lỵ Trận mưa pháo kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ.

Lúc 22 giờ 30 phút cùng ngày, Trung Tâm Hành Quân của căn cứ Tân Cảnh bị hư hại hoàn toàn vì một hỏa tiễn điều khiển chống chiến xa của Cộng quân chui ngay vào cửa hầm. Hầu hết những người trong Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và trong Ban Chỉ Huy của Trung Tá Thông đều bị thương. Chỉ có Đại Tá Đạt và Trung Tá Thông là thoát nạn vì đã rời hầm chỉ huy trước đó để đi đôn đốc binh sĩ của mình. Trung Tâm Hành Quân phải dời qua một hầm kế bên.

Đến 23 giờ, cánh quân tiền phương của Cộng quân được phát hiện cách quận Dakto chừng một cây số về hướng Tây với sự yểm trợ của 3 xe tăng T-54. Lập tức phi cơ AC-130 cất cánh từ phi trường Nha Trang bay đến oanh kích và bắn cháy ngay 3 chiến xa này khi còn cách Dakto chừng 500 mét, nhưng không ngăn được bước tiến của toán tiền phương địch. Đúng nửa đêm, Cộng quân ào ạt tấn công tiền đồn Tân Cảnh.

Sau khi đạo quân tiền phương với quân số chừng một trung đoàn tấn công vào Tân Cảnh, một trung đoàn Cộng quân thứ hai xuất hiện cách Tân Cảnh 3 cây số về hướng Tây Bắc, kéo ra Quốc Lộ 14 và cắt đoạn đường Dakto-Tân Cảnh ra làm bốn đoạn, khiến cho sự liên lạc giữa hai nơi chỉ còn qua máy vô tuyến mà thôị

Ngay sau khi phát giác sự xuất hiện của cánh quân thứ hai này, mặc dầu thời tiết được loan báo là xấu, các toán A-1 Skyraider thuộc Phi Đoàn 530 của Không Đoàn 72 Chiến Thuật và các khu trục A-37 của Không Đoàn 62 Chiến Thuật biệt phái cho Pleiku đã nhất loạt cất cánh từ phi trường Cù Hanh để bay lên oanh kích cánh quân này.

Khoảng 2 giờ 30 sáng, vừa pháo kích vừa xung phong, hai trung đoàn Cộng quân cố gắng tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, nhưng gặp phải sự kháng cự quá ư mãnh liệt của các chiến sĩ Trung Đoàn 42, nên trận chiến kéo dài cho đến lúc trời sáng, Tân Cảnh vẫn còn đứng vững. Trời vừa sáng thì thời tiết trở thành bất lợi cho những người đang tử thủ trong Tân Cảnh. Sương mù xuống thấp làm cho Không Quân bị bó tay, không thể yểm trợ được.

Vào lúc 7 giờ sáng ngày 24 tháng 3, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II hoàn toàn mất liên lạc vô tuyến với căn cứ hỏa lực Tân Cảnh. Cả Bộ Tham Mưu của Tướng Ngô Dzu như ngồi trên lửa. Không ai dám mở lời tiên đoán số phận của Tân Cảnh như thế nào. Đích thân Tướng Dzu gọi cho các đơn vị yểm trợ như Không Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh... để hỏi, không ai biết số phận của Tân Cảnh bây giờ ra sao.

Cho đến 10 giờ sáng, một sĩ quan Truyền Tin la lên, "Liên lạc được rồi." Tướng Dzu chụp lấy máy hỏi dồn. Đại Tá Đạt báo cáo đã đẩy lui được địch quân. Mọi người trong Trung Tâm Hành Quân đều thở phào và nét mặt người nào cũng lộ vẻ phấn khởi. Cũng vào lúc này, thời tiết đã trở nên quang đãng hơn, các phi cơ chiến đấu của Không Đoàn 72 Chiến Thuật bắt đầu cất cánh và mấy chiếc trực thăng tiếp tế đạn dược đã lọt được màn lưới lửa phòng không của địch, đáp an toàn xuống căn cứ Tân Cảnh.

Mặc dù vẫn còn đứng vững trước đợt tấn công thứ nhất, nhưng với sự tăng cường thêm một sư đoàn thứ hai của địch quân từ căn cứ hậu cần 609 nằm bên kia biên giới (ở bên Lào) tiến qua, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã cho căn cứ Tân Cảnh và một số các căn cứ hỏa lực khác dọc theo dòng sông Poko ở phía Tây Quốc Lộ 14 di tản chiến thuật, rút về lập một phòng tuyến mới ở ngang căn cứ Bravo, cách Kontum 20 cây số về phía Bắc.

Cùng với kế hoạch di tản chiến thuật một số các căn cứ hỏa lực ở mạn Bắc thành phố Kontum, Tướng Ngô Dzu đã thành lập một ủy ban có tên là Ủy Ban Di Tản Đồng Bào Kontum và Pleiku. Ủy ban này do Đại Tá Hồ Hồng Nam, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị của Quân Đoàn II làm chủ tịch. Phương tiện di tản sẽ bằng máy bay C-130 của Hoa Kỳ và C-123 của Việt Nam Cộng Hoà. Một nguồn tin cho biết bệnh tim của Tướng Ngô Dzu bị tái phát, nhưng ông bất chấp, dồn nỗ lực vào hai việc là di tản đồng bào ra khỏi vùng lửa đạn và tái chiếm các căn cứ mà quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã di tản chiến thuật trong những ngày vừa qua.

Người dân của hai thành phố Pleiku và Kontum đã sống trong lo sợ phập phồng từ những ngày trước Tết Nguyên Đán vì những tin tức chiến sự ngày càng nặng nề. Cơn ác mộng đó cứ chập chờn trong mọi sinh hoạt của người dân Tây Nguyên cho đến hôm nay, chiến trận đã thực sự bùng nổ.

Tôi đến Pleiku trong những ngày thành phố này đang di tản. Thành phố có lệnh giới nghiêm lúc 7 giờ tối, nhưng mới 5 giờ chiều trên các đường phố đã không thấy bóng dáng một người dân. Chỉ có những chiếc xe nhà binh chạy hết tốc lực. Những người ngồi trên xe, ai cũng mặc áo giáp, đội nón sắt cẩn thận. Trong thành phố, nhà nào cũng làm hầm nấp pháo kích. Đa số đều làm hầm nổi. Gia đình của các quân nhân, công chức được lệnh di tản khỏi Pleiku để cho người chiến sĩ rảnh tay chiến đấu. Các công chức chuẩn bị nhận súng khi có lệnh.

Vẻ kinh hoàng hiện trên nét mặt mọi người. Nỗi lo âu chồng chất bởi nhiều vấn đề. Di tản: đến đâu, ăn đâu, ở đâu?. Nhà cửa, tài sản để lại, ai trông coỉ Lâu mau mới về? Bà vợ của một giáo sư buồn rầu tâm sự với tôi:

- Tôi bụng mang dạ chửa. Cả tuần lễ nay tôi lo quá, chẳng ăn uống gì được. Nhà nào cũng làm hầm, nhưng ăn thua gì cô. Chồng tôi nhất định ở lại đây. Tôi và các cháu tính về Saigon, nhưng giá máy bay đắt quá, cả gia đình phải mấy chục ngàn tiền vé, tiền đâu mà đi!

Giá vé máy bay Pleiku-Sài Gòn ngày thường là 3,800 đồng. Nhưng lúc này giá chợ đen khoảng 10 ngàn một vé. Nếu muốn mua giá chính thức thì phải chờ hơn nửa tháng. Súng đạn đã nổ sát một bên rồi, có ai kiên nhẫn chờ hơn nửa tháng nữa mới rời thành phố?

Một khu chợ trời thành hình dọc theo đường Hoàng Diệụ Đồ đạc bán rất nhiều và rất rẻ. Người bán nhiều hơn người mua. Những nhu yếu phẩm như gạo, nước mắm, dầu hôi... giá tăng lên vùn vụt. Những người nghèo dành dụm được ít vàng phải đem bán để lấy tiền di chuyển. Vàng xuống giá rất nhanh. Các tiệm vàng đều bán ra mà không mua vào. Vàng y giá 20 ngàn đồng một lượng, trong khi gạo 20 ngàn một tạ. Ai cũng cố bán ti vi, tủ lạnh, radio... để bọc tiền mà chạy. Nhưng ai dám bỏ tiền ra mua mấy thứ đó lúc nàỵ Có người treo bảng bán cả nhà, bán thật rẻ mà đã 3 tuần nay không có một người nào hỏi đến.

Lệnh di tản được ban ra. Dân Kontum di tản về Pleiku. Các trường học ở Pleiku được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Trong khi đó, gia đình quân nhân, công chức ở Pleiku lại di tản đi nơi khác. Tôi nêu lên sự thắc mắc này, một giới chức thẩm quyền ở Pleiku giải thích: dân Kontum tạm thời di tản về đây để chờ lập cầu không vận chuyển đi các nơi khác như Nha Trang, Saigon...

Hôm qua, ngày 27 tháng 4, quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiếp tế từ Qui Nhơn lên Pleiku 400 tấn gạo. Người dân Pleiku mỗi ngày tiêu thụ 30 ngàn tấn. Tỉnh Pleiku chưa có kế hoạch nào về việc phân phối số gạo nói trên. Cho tới hôm nay, kho gạo an toàn của Pleiku chưa hề đụng tới. Kho gạo này có thể nuôi toàn thể dân Pleiku trong vòng một tháng. Gạo và những nhu yếu phẩm khác vẫn tăng giá vùn vụt. Mua được một ký gạo là một chuyện rất khó khăn, vì trong hoàn cảnh này, có tiền chưa chắc đã mua được. Tất cả tiệm ăn trong thành phố đều đóng cửa. Khoảng 50 phóng viên Việt Nam và ngoại quốc đang có mặt ở đây phải ăn hủ tiếu hoặc phở thay cơm và bánh mì. Những gia đình giàu có vội vàng ra đị Những người khác lần lượt tiếp nối. Và thành phố Pleiku ngày càng hoang vắng.

Sau khi bắt lại liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, suốt ngày hôm đó tại căn cứ Tân Cảnh, các chiến sĩ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh đã anh dũng đẩy lui nhiều đợt xung phong mãnh liệt của Cộng quân có quân số đông gấp ba lần và được yểm trợ bởi 60 chiến xa T-54 cùng với một trung đoàn pháo. Cuộc chiến đấu hào hùng này đã kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ không ngừng một giây phút. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II theo dõi những diễn tiến tại Tân Cảnh cho đến 19 giờ 45 phút ngày 24 tháng 4 thì một lần nữa mất liên lạc với căn cứ này. Và theo tin của một số binh sĩ và đồng bào vừa thoát khỏi quận Dakto thì Cộng quân đã tràn vào căn cứ Tân Cảnh vào lúc tối ngày 24.

Trong lúc đó, tại quận Dakto, Trung Tá Lò Văn Bảo chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân vẫn tiếp tục kháng cự với Cộng quân, mặc dù đã có lệnh di tản chiến thuật khỏi nơi này. Trung Tá Bảo gốc người Thái vùng Bắc Việt, ông gọi máy vô tuyến về Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nói rằng ông sẽ quyết chiến với địch quân, chết chứ không lùi bước. Rồi sau đó cũng như Đại Tá Đạt, người ta không biết số phận của Trung Tá Bảo như thế nào vì mọi liên lạc đều bị gián đoạn.

Chờ hai ngày ở phi trường Pleiku dưới trời nắng cháy và cát bụi, đến ngày thứ ba tôi mới được theo máy bay quan sát lên Kontum. Máy bay bay giữa những cụm mây trắng, bên dưới là núi rừng trùng trùng điệp điệp. Pleiku cách Kontum chừng 45 cây số đường bộ.

Sau khi Tân Cảnh và Dakto di tản chiến thuật, thành phố Kontum ngày càng chịu áp lực nặng nề của Cộng quân. Con đường duy nhất nối liền Kontum và Pleiku đã bị cắt đứt. Phi trường Kontum bị pháo kích vào mỗi ngàỵ Phương tiện còn lại duy nhất là máy bay quân sự. Hôm trước đến Phòng Báo Chí của Quân Đoàn để xin phương tiện, gặp mấy người từ Kontum về, một anh nói với tôi:

- Cô nên mặc áo giáp, đội nón sắt vì trên Kontum Việt Cộng pháo kích dữ lắm, pháo như mưa. Xuống máy bay là phải chạy tìm chỗ nấp liền. Nên kiếm cái ba lô để mang theo thức ăn. Các tiệm ăn trên Kontum đều đóng cửa hết.

Tôi nghĩ chết sống có số. Với tôi, nhiều khi mang áo giáp, đội nón sắt rồi nặng quá chạy không nổi thì cũng chết. Ngày đầu chờ máy bay, tôi còn mang theo bánh mì và một bộ quần áo. Nhưng chờ đợi mãi, đến ngày thứ ba, khi leo lên máy bay, tôi chỉ mang cái máy ảnh, ít thuốc cần thiết và băng cá nhân. Người nữ phóng viên chiến trường không cần mang son phấn nên hành trang cũng nhẹ bớt phần nào. Có những đoạn máy bay bay thật thấp. Tiếng người phi công nói qua ống nghe:

- Cô nhìn xuống mặt đường, có mấy chiếc xe đò bị Việt Cộng giựt mìn còn xác nằm bên đường đó.

Con đường ngoằn ngoèo bên dưới thật vắng, không có bóng một chiếc xe nào đang di chuyển. Thỉnh thoảng thấy một vài chiếc xe hàng bị lật. Trước đây vài ngày, nghe nói có nhiều xe hàng liều mạng chở người tị nạn từ Kontum về Pleiku, giữa đường bị Việt Cộng giựt mìn hoặc từ trên núi bắn B-40 xuống. Máy bay bay ngang một làng nào đó. Khắp làng không thấy bóng dáng một người dân. Tôi hỏi người phi công:

- Sao không thấy một người dân nào cả? Đây cách Kontum chừng bao nhiêu cây số và đang ở về hướng nào?

Người phi công chấm một dấu đỏ trên bản đồ ghi dấu vị trí hiện tại của máy bay và đưa tấm bản đồ về phía tôi:

- Dân đã được di tản rồi. Cô không nhìn thấy những hố bom B-52 dưới kia sao? Còn cách Kontum 20 cây số về hướng Nam.

Hai người xạ thủ đại liên nói đùa với tôi:

- Nếu thấy Việt Cộng, tụi tôi nhường súng cho cô bắn.

Tôi nhìn xuống bên dưới, có 3 chiếc xe mang cờ Công giáo, chiếc đi giữa chở một cái hòm, hình như là một đám tang. Về sau tôi được biết người chết là một thanh niên, một trong những người đang ngồi ở phi trường đợi máy bay để rời Kontum, rồi bị pháo kích mà chết. Hôm đến Phòng Báo Chí của Quân Đoàn II, gặp Đại Úy Vượng, ông khuyên:

- Cô lên Kontum thì nên chuẩn bị sẵn cho một cuộc chạy bộ. Hãy mang giày nào cho dễ chạy. Trên đó không có xe cho cô di chuyển. Có mượn được xe cũng không có xăng. Xuống phi trường, cô phải chạy bộ vào thành phố, chỉ chừng 3 cây số thôi. Tại Kontum, bây giờ, một giọt xăng quý như một giọt máu.

Vậy là tối hôm đó tôi tìm mua một đôi giày ba ta để chuẩn bị cho một cuộc chạy bộ từ phi trường vào thành phố. Nhưng rồi cũng may, trực thăng hạ cánh cách tòa hành chánh tỉnh chừng một cây số. Thế là tôi chỉ đi bộ vào phố chứ khỏi chạy bộ. Lúc đó Việt Cộng đang pháo vào phi trường. Những đoàn người trên đường ra phi trường phải dừng lạị Một người trong nhóm đó thở dài:

- Trời ơi, Việt Cộng pháo vào phi trường mãi. Không biết bà con của mình đợi ở đó có sao không!

Tôi đến đây nhằm ngày Chủ Nhật, chỉ có con đường ra phi trường là còn có người di chuyển. Hằng ngàn người, đa số là vợ con của quân nhân và công chức tụ tập trước MACV để xin máy bay di chuyển. Phải có giấy của Đại Tá Tỉnh Trưởng ký trước, rồi đến xin giấy của Đại Tá Mỹ ở MACV. Bao giờ cầm được giấy lên máy bay mới biết chắc mình được đi. Giấy được đi phải là giấy ưu tiên một. Đối với máy bay Mỹ, mọi người giữ được kỷ luật như vậy, còn với máy bay Việt Nam, dân cứ ào lên, ào lên. Không có cách gì để giữ cho được trật tự.

Cách đây vài hôm ở phi trường Cù Hanh, hơn 10 ngàn người tràn lên một chiếc máy baỵ An Ninh, Quân Cảnh không thể nào ngăn cản được. Một ông Trung Tá rút súng bắn dọa một phát, viên đạn vô tình lại trúng vào cánh máy bay sao đó mà máy bay không cất cánh được. Và người ta lại kiên nhẫn ăn, ngủ ngay tại phi trường để chờ. Tội nhất là những đứa bé sơ sanh, phải dầm mưa dãi nắng và chịu đói khát, đau ốm đã bao nhiêu lâu rồi. Vấn đề tiếp tế cho Kontum ngày càng trở nên khó khăn, tất cả chỉ còn trông chờ vào các trực thăng Chinook. Những nhu yếu phẩm cần thiết làm sao có đủ cho đồng bào tị nạn chạy về từ Dakto, Tân Cảnh.

Tôi đến toà hành chánh tỉnh Kontum vào lúc 10 giờ sáng. Quân nhân, công chức tụ họp từ từng dưới lên cả trên lầu. Họ chia ra từng nhóm, người nào cũng nói về chuyện di tản. Họ đến đây để xin giấy di chuyển cho gia đình. Tôi đang đứng ở cầu thang hỏi thăm mấy người ở đây thì Đại Tá Nguyễn Bá Thìn, Tỉnh Trưởng Kontum đi ra, thấy tôi ông chào hỏi và nói:

- Bây giờ tôi đi thăm các trại tạm cư, cô có đi không? Cô nên viết để kêu gọi giúp đở cho hoàn cảnh này.

Tôi lên xe của Trung Tá Đổ, Tiểu Khu Phó, hướng về các trại tạm cư. Trường học và các cô nhi viện được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Chúng tôi ghé lại một trường học. Trên sân trường, người Thượng nằm, ngồi dưới các gốc cây, họ vừa chạy về từ Dakto, Tân Cảnh. Nét mặt người nào cũng có vẻ ngơ ngác trông thật tội nghiệp. Trong khi Đại Tá Thìn hỏi thăm những cán bộ Bình Định Nông Thôn về vấn đề phân phát gạo cho đồng bào tị nạn, thì tôi đi chụp hình và tìm những người Thượng biết nói tiếng Việt để hỏi thăm. Mấy người này đến từ làng Konkring. Tôi nghe tiếng Đại Tá Thìn hỏi:

- Ty Y Tế có rắc thuốc không?

Gần 10 năm làm báo, đây là lần đầu tiên tôi thấy một ông Đại Tá Tỉnh Trưởng đi kiểm soát nhà cầu của một trại tị nạn. Vấn đề giữ được vệ sinh ở trại này thật là khó khăn. Cán bộ thì ít, người tị nạn thì đông. Tất cả nhân lực đang dồn vào chiến trận, vào việc di tản dân Kontum đi nơi khác và tiếp cư dân nơi khác về Kontum. Mỗi người được lãnh 500 gram gạo một ngày, nhưng không dám ăn hết, để dành lại một ít phòng hờ ngày mai không được phát gạo nữa. Thời chiến chinh, ai mà biết được những gì sẽ đến trong ngày mai.

Vào lúc 16 giờ ngày 29 tháng 4, một phi cơ quan sát trong lúc bay trên không phận Dakto, bỗng nhiên thấy ánh sáng của một tấm kiếng từ dưới đất chiếu lên. Phi công liền xuống thấp để quan sát thì thấy một đám đông đang tụ họp quanh khu chợ. Dakto và ra dấu hiệu cấp cứu. Khi phi cơ xuống thấp hơn nữa, thấy đám đông đó là khoảng 200 binh sĩ của ta. Những người này đang làm dấu hiệu cho phi cơ đáp xuống. Phi công định đáp xuống một bãi trống phía Tây của chợ, nhưng địch biết được ý định đó nên bắn lên máy bay như mưa và đồng thời mở đợt tấn công vào đám binh sĩ của ta đang bị vây.

Được tin báo của máy bay quan sát, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tin rằng nhóm 200 binh sĩ đang bị vây khổn ở chợ Dakto gồm có Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và binh sĩ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh trên đường di tản khỏi căn cứ Tân Cảnh. Vì vậy, cuộc giải vây cho nhóm 200 người đang cầm cự với địch đã được thực hiện với ưu tiên một.

Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đưa được Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh cùng với 200 binh sĩ từ chợ Dakto về căn cứ của Quân Đoàn. Cùng đi với Đại Tá Đạt, có Trung Tá Nghiêm Kế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 22 Công Binh Chiến Đấu, một đơn vị yểm trợ của Sư Đoàn 22.

Ký nhi viện Vincent cũng là một trong những trại tạm cự Chúng tôi đến thăm vào buổi trưa, các dì phước đều mặc áo màu xanh, lúp màu xanh và đang làm việc rất bận rộn. Có mấy dì phước ngồi ghi tên những người mới đến vào danh sách. Người tị nạn ở đây đa số là người Thượng từ các buôn ở mạn Bắc của Kontum chạy về. Tôi ngồi xuống bên cạnh một dì phước rất trẻ, nói được tiếng Barna. Sinh hoạt chung với họ rồi nói được tiếng của họ. Ký nhi viện này ở bên cạnh trường trung học Quenot của cha Trường. Trường học thật khang trang đẹp đẽ. Những cây phượng trong sân nở hoa đỏ rực. Xác hoa phượng phủ đầy các lối đi.

Đại Tá Thìn hỏi các dì phước:

- Vấn đề vệ sinh ở đây làm cho các sơ vất vả lắm phải không?

Một dì phước trả lời:

- Người Thượng họ tắm cả ngày, tắm nhiều hơn mình nữa, nhưng họ không có quần áo để thay. Có một bộ đồ là họ mặc cho đến khi rách, chứ không giặt giũ gì cả. Mà muốn giặt cũng không có đồ để thaỵ

Tôi hỏi dì phước:

- Thưa sơ, trại này hiện có bao nhiêu người?

- Đã tiếp nhận hai ngày nay là 950 ngườị Số người mới đến còn đang lập danh sách.

Một dì phước quay lại hỏi tôi:

- Cô có nghe tin gì về Konkring không? Có mấy sơ ở Konkring cũng thuộc về Vincent de Paul, ở đây chúng tôi không được tin tức gì hết, chắc bị Việt Cộng bắt giữ lại hết rồi.

Các dì phước ở đây nhắc đến những người ở Konkring một cách quan tâm và thương mến. Buổi loạn ly bom đạn đâu có tránh ai, Việt Cộng đâu có chừa ai.

Rời trại tạm cư ở ký nhi viện Vincent, chúng tôi đến thăm một trại tạm cư khác tại một trường trung học. Chúng tôi đến lúc đồng bào đang ăn cơm. Thức ăn thật đơn giản: rau luộc và một món mặn. Vợ chồng, con cái ngồi bẹp xuống nền của lớp học. Họ ăn một cách ngon lành, nhưng trên mặt vẫn còn những nét sợ hãi vì đoạn đường họ đã vượt qua và những hiểm nguy họ đã gặp.

Tôi hỏi một người đàn bà ngồi gần cửa:

- Chị chạy mấy ngày mới tới đây?

Người đàn bà đặt chén cơm xuống, nhìn tôi rồi trả lời:

- Đi 4 ngày trong rừng, mới ló đầu ra là gặp ngay Việt Cộng. Chạy đến chảy máu chân cũng không hay. Về tới đây mới biết mình còn sống.

Một ông cụ ngồi nhìn chén cơm mà không ăn, nước mắt rưng rưng:

- Mấy đứa con tôi thất lạc hết rồi. Không biết chúng còn sống hay đã chết. Ngày nào tôi cũng đi tìm chúng nó. Có ai thấy chỉ dùm tôi.

Tỉnh Kontum có khoảng 50 ngàn dân, gồm 30 ngàn người ở thành phố và 20 ngàn người rải rác các quận chung quanh. Người Thượng ở trong những làng mạc xa xôi hẻo lánh. Trong khi dân Kontum di tản về Pleiku hoặc Saigon, dân ở các làng, các quận lại đổ về Kontum tị nạn. Những gia đình giàu có đã đi hết rồi, bây giờ còn lại đa số là gia đình của quân nhân và công chức. Phía bên Mỹ thông báo rằng, đến ngày 1 tháng 5, họ không cấp phương tiện để di tản đồng bào nữa.

Ngày 29 tháng 4, một vị thượng tọa dẫn 5 ngàn tín đồ đi bộ từ Kontum về Pleikụ Đoàn người ngày đi đêm nghỉ, cuối cùng cũng về tới Biển Hồ. Nhà cầm quyền Kontum lo lắng rất nhiều về việc di tản, nhưng không đủ phương tiện. Tướng Ngô Dzu cũng rất khổ tâm về việc nàỵ Một ngày chỉ có 4 chiếc Chinook tiếp tế. Sự tiếp tế nhỏ giọt nên cũng đến ngày thành phố Kontum không có điện vì thiếu dầu, một số dân trong các làng đói vì thiếu gạo. Bây giờ Kontum đã bị cô lập, cuộc sống của những người còn lại ở đây chỉ mong vào sự tiếp tế của máy bay mỗi ngày.

Thành phố Kontum chỉ mới hoang vắng, nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Nguyên vẹn với nét đẹp của một thành phố miền Cao Nguyên. Dòng sông Dabla vẫn lặng lờ uốn khúc quanh co, và trên bờ, màu hoa phượng vĩ vẫn rực rỡ trong khói lửa chiến tranh đang bao trùm thành phố.

Buổi sáng tôi ra phi trường để gửi bài về toà soạn thì chợt bắt gặp một tà áo xanh, màu áo xanh đồng phục của những nữ tiếp viên hàng không Air Việt Nam. Người con gái có đôi mắt to và đen, nét mặt buồn như muốn khóc. Nàng có vẻ lạc lõng giữa một rừng người đang chờ di tản ở phi trường và hình như đang tìm kiếm một người nào đó. Khi đi ngang qua chỗ Đại Úy Hoà và tôi đang đứng nói chuyện với nhau, người con gái dừng lại ấp úng hỏi vị sĩ quan:

- Thưa Đại Úy, Đại Úy có thể cho tôi biết trong số thương binh mà Đại Úy đã di tản về các bệnh viện có Thiếu Úy Nguyễn... không?

Đại Úy Hoà, Quân Y, nhìn người con gái một lát rồi chậm rãi trả lời:

- Tôi làm sao nhớ hết được. Nếu cô cho tôi thêm số quân, đơn vị của người đó, tôi sẽ tìm dùm cho cô. Chừng nào cô mới có chuyến bay trở lại đây?

Người nữ tiếp viên có vẻ mừng rỡ:

- Thiếu Úy Nguyễn..., thuộc Trung Đoàn 42, tôi không nhớ số quân của anh ấy. Sau khi Tân Cảnh di tản, tôi không được tin tức gì của anh ấy nữa. Tôi tình nguyện bay đường Saigon-Kontum mỗi ngày hai chuyến, sáng và chiều, để lên đây mong kiếm được tin tức của anh. Nhưng mỗi lần máy bay hạ cánh có một tiếng đồng hồ, nên tôi chỉ luẩn quẩn hỏi thăm ở trong phi trường này mà thôi.

Đại Úy Hoà hứa với người nữ tiếp viên hàng không:

- Tôi sẽ hỏi phòng hành quân dùm cô. Đồng thời tôi sẽ dò xem danh sách của thương binh. Trưa nay, lúc máy bay của cô đáp xuống, tôi sẽ ra đây trả lời cho cộ Hiện nay, những người sống sót của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 và Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 42 đóng ở Tân Cảnh đã về đây hết, tôi cũng sẽ hỏi thăm dùm cô.

Sau khi người nữ tiếp viên trở lại máy bay về Saigon. Đại Úy Hoà làm đúng lời hứa, đã đi nhiều nơi để dò thăm tin tức. Nhưng tên của người sĩ quan này không có trong danh sách những thương binh, cũng không có mặt trong số những người về từ Tân Cảnh. Vậy chỉ còn một là thất lạc trong rừng, hai là bị lọt vào tay địch, ba là đã chết mất xác. Tôi thấy Đại Úy Hòa có vẻ ái ngại khi đến giờ phải ra phi trường gặp lại người nữ tiếp viên hồi sáng. Các phi trường Kontum và Pleiku bị pháo mỗi ngày, nhưng nàng vẫn tình nguyện bay lên đây ngày hai chuyến, với hy vọng có chút tin tức hay được gặp lại người yêu.

Buổi trưa tôi từ chối không đi cùng Đại Úy Hoà ra phi trường. Tôi sợ phải nhìn thấy những giọt nước mắt và nét tuyệt vọng trên khuôn mặt hiền lành của người con gái đó. Tôi sợ một câu trả lời từ miệng mình thốt ra là một sự thật phũ phàng dập tắt hết mọi niềm hy vọng. Tình yêu của người con gái đó quá đẹp và quá hiếm trong những ngày ly loạn như hôm nay.

Kiều Mỹ Duyên

Posted by: M@N Dec 24 2008, 11:39 AM


Tử lộ 7 Pleiku-Qui Nhơn

Anh đi rồi Tây Nguyên lên tiếng gọi
Đừng về Xuôi hãy ngược về Cao
Quốc lộ 7 bao oan hồn uổng tử
Vẫn hằng đêm nghe gió hú kêu gào

Anh đi rồi đến bao giờ trở lại
Trời Tây Nguyên lặng đứng ngóng trông anh
Nắng vẫn đỏ từng ngày qua tháng hạ
Rừng hoang vu mong đợi khúc quân hành...

Trần Ngọc Nguyên Vũ

(để gởi đến những người của một thời ly loạn đã từng gắn bó đời mình với vùng trời Tây Nguyên mịt mù khói lửa)

Posted by: M@N Dec 24 2008, 11:40 AM




Đêm Thấy Ta là Thác Đổ


M Pleiku lớn lên sau thời loạn, nhưng không phải thế mà bình yên tìm đến. Sau cơn mưa trời lại không sáng mà tối như mực. M Pleiku bắt đầu lớn lên trong khủng hoảng tinh thần lẫ kinh tế...
M Pleiku bắt đầu thấy cái khổ thật sự, nhưng không phải chỉ một mình em trải qua, mà là toàn quốc lâm vào "Nạn hồng thủy".
Thưở bé, M chỉ biết đến trường, và cuối tuần về thăm bố mẹ. Có lần, M nhớ khi về thăm nhà, tình cờ thấy trước nhà có một chiếc xe quân đội. Đứng trong phòng ăn, nhìn qua song cửa, M thấy trong nhà mình có một ông Th/tá. Không biết ông là ai? Nhưng nhìn ông trong bộ quần áo bay, trông rất oai và phong nhã. M thầm nghĩ, chắc ông ta phải nhiều đào lắm???
Thời gian trôi qua, M trưởng thành và trở thành cô giáo, đi dạy học. Đời sống rất chật vật, nhưng vì mến chức nghiệp cô giáo, cái chức nghiệp được nhiều người yêu mến, qúy trọng (nhất là đàn ông), nên M vẫn chấp nhận cái chức nghiệp nầy và đời đống khó khăn thiếu thốn ấy.
nơi M dạy học, ở trong một vùng kinh tế mới, cách Pleiku về hướng Nam khoảng gần 10 cây số (gần tiền đồn 32). Không biết người Th/tá năm xưa còn nhớ không?...Vả lại người thường bay ở trên trời nên có khi nào lặn lội đến những nơi M vừa kể.

M pleiku có một căn phòng rất dễ thương, làm toàn bằng đất sét, mái lợp bằng cỏ tranh, tuy vậy, rất nhiều khách du lịch ở kinh tế mới đến thăm!.
Trong nhà trang trí đơn giản nên ai cũng thích. Điều M muốn nói là, căn nhà của M ở ngay bên cạnh một cái thác nước, trong một buông của người Thương. mỗi sáng sớm, khoảng 5 hoặc 6 giờ sáng, khi thức dậy, M nghe tiếng nước của dòng thác nầy đổ ầm ầm dữ dội, để rồi sau đó những tiếng ầm ầm nầy, chìm vào trong nhiều tiếng ồn ào cuộc sống thường nhựt của cư dân chung quanh. Để về đêm, tiếng thác đổ lại ầm ầm, dữ dội trong thinh lặng đêm tối. Nhất là vào mùa mưa, những cơn mưa dai dẳng không dứt, ầm ầm gào thét dữ dội hơn, như tiếng oán hờn, trách móc của cuộc đời, của Tâ Nguyên, hay của thinh không ở lại, M không hiểu được.

Cho đến tận bây giờ, nơi tây Nguyên xa vắng ấy chắc chắn vẫn còn dòng thác kia, vẫn còn tiếng ầm ầm nước đổ oán hờn, trách móc mà M từng nghe, từng sống với và thương nhớ nó trong bây giờ, lúc này.
Đây là kỷ niệm của M.

M Pleiku

(Người viết không để tên thật, địa chỉ hay tung tích gì. Bài viết ngắn, nhưng khiến người đọc, nhất là trong chúng ta đã một thời hiện diện ở vùng đất mà người viết mô tả, cõi lòng chúng ta bồi hồi ray rức, vết thương tự qúa khứ chợt thức giấc, gây cảm giác nhức nhối, đau buốt...Chúng ta hãy đọc để chia xẻ cùng người viết những suy tư chưa tìm ra lời giải đáp. BĐ118)

Posted by: M@N Dec 24 2008, 01:32 PM




Tình Bạn Và Đời Lính

Trần Thế Phong


Thành phố Pleiku, thành phố Cao nguyên nắng bụi mưa bùn. Thành phố như thơ Võ Hữu Định: Đi giam phút trở về chốn cũ...Ở đây mỗi chiều quanh năm mùa đông...Thành phố như thơ Kim Tuấn: Buổi chieèu ở Pleiku những cây thông già đứng leen cũng bụi mù...Buổi chiêøu ở Pleiku không có mặt trời, chỉ có mưa bay trê đầu ngọn núi...Ra trường truyền tin Vũng-Tàu, tôi quyết định chọn đơn vị ở thành phố Pleiku, để xa tít mù xa, để quên em và cho em quên tôi, nhưng muốn quên , lại càng nhớ, muốn xa, lại càng gần. Thành phố buồn bã đó đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm đẹp trong đời quân ngũ và gặp những mất mát đau thương...

Thành phố đó tôi gặp lại Trần Văn Toàn, Lê Văn Minh và Đoàn Thạnh, ba thằng bạn thân thương từ thời thơ ấu thời học sinh, sinh viên và đời lính chiến.

Trần Văn Toàn: Trung úy Không Quân, Phi Đoàn 530 Khu Trục. Tôi học chung với Toàn lớp đệ nhị và đệ nhất. Toàn đẹp trai, hát hay, ăn nói duyên dáng, gốc người Huế, sinh và lớn lên ở Đà Nẵng, mỗi tối thứ bảy, Toàn thường đến ty thông tin Đà Nẵng hát với biệt hiệu là Duy Hải. Nhiều em rất đẹp mê Toàn với giọng ca truyền cảm. Năm đệ nhất là năm cuối ở Đà Nẵng, tôi và Toàn thường đèo nhau trên chiếc gobel đi phá làng phá xóm. Đậu tú tài 2 Toàn ra Huế học Luật, tôi vào Saigon học Văn khoa, biệt tăm nhau trong mấy năm, không ngờ gặp nhau trên thành phố heo hút này, một thằng sĩ quan Không Quân, một thằng sĩ quan Truyền Tin

Lê Văn Vinh, trung úy Phi Đoàn 229 trực thăng quê ở Quảng Ngãi, không đẹp trai lắm nhưng ăn nói có duyên, chơi đàn guitar và ngâm thơ rất hay. Biết nhau trong những năm ở Đại học Văn-khoa, nhưng thân nhau trong đoàn thanh niên chí nguyện Việt Nam. Đoàn thanh niên chí nguyện Việt Nam qui tụ nhiều thanh niên lãng tử, nhưng có lý tưởng. Bốn mươi lăm ngày học tập ở sân vận động Cộng Hòa đã cho tôi một thời gian đẹp và dạy tôi rất nhiều nghề. Những đêm sinh hoạt cộn đồng, Vinh phổ nhạc những bài thơ của Nguyễn Tịnh Đông và tập cho anh em hát. Tôi làm thơ, Vinh ngâm cho anh em nghe. Vinh có một chuyện tình buồn khi còn học trung học Quảng Ngãi. Vinh có kể cho tôi nghe một lần. Sau thời gian huýan luyện; mỗi đứa đi công tác mỗi nơi, không gặp nhau và không ngờ gặp lại nhau trên thành phố này. Đoàn Thạnh: Thiếu úy Phi đoàn 235 Trực thăng; cao gầy, nước da đen, lầm lỳ, ít nói, hay cười. Thạnh và tôi cùng quê, Tam Kỳ, Quảng Nam nghèo khổ, cha mẹ Thạnh, cha mẹ tôi cũng là bạn nhau, người nhà quê chân chất, thật thà. Cố gắng tảo tần, nuôi con ăn học và mong con lớn lên có một nghề vững vàng. Không theo nghề nông vất vả nhọc nhằn. Tuổi thơ tôi và Thạnh gắn liền với nhau. Thạnh học sau tôi hai lớp, cùng chung một mái trường tiểu học, trung học. Những ngày hè cùng tắm trên một dòng suối, cùng chơi đá banh trên sân ga và chiều chiều nhín những con tàu qua lại. Ước mơ lớn lên được theo tàu đi một chuyến thật xa. Những ngày Tết, cỡi xe đạp chạy quanh làng thăm bạn bè và khoe áo mới, những đêm trăng quê nhà ngồi trên chiếc chõng tre trước sân nhà tôi, nghe mẹ tôi kể chuyện đời xưa...Thạnh và tôi cùng chung một lý tưởng và sinh hoạt một đoàn. Thạnh chơi với bạn rất chân thật. Năm tôi ra Đà Nẵng học, nghỉ hè thường gặp nhau, đi chơi với nhau, nhưng khi vào Sài gòn, thì không gặp Thạnh, và cũng không ngờ lại gặp nhau ở thành phố buồn hiu này!

Làm sao biết được chữ ngờ, thời cắp sách đến trường, ai cũng mơ ước tìm một nghề mình thích như bác sĩ, kỹ sư, dạy học hay luật sư...và có vợ đẹp con thơ; ai có ngờ vào lính đâu. Bốn thằng chun đầu vào lính, lại gặp nhau trên thành phố cao nguyên nắng bụi mưa bùn...Gặp lại tôi, ba thằng bạn trở nên thân nhau hơn.

Những ngày cuối tuần, tôi lái xe jeep từ Câu Lạc Bộ Sĩ Quan Quân Đoàn 2 ra Phi trường Cù Hanh đón ba thằng đi cùng khắp thành phố Pleiku. Những đêm khuya khoắt ngồi uống rưỡu ở Phượng Hoàng. Những sáng Chủ Nhật lang thang ở Biển Ho ngắm người đẹp. Những trưa thứ bảy ăn thịt vịt ở Thanh An; thịt vịt Thanh An (khu dinh điền của Tổng Thống Diệm thời trước) ngon hết chỗ chê. Khoảng ba, bốn chục con vịt cồ mập ú nhốt trong một cái vý khoanh tròn; khách vào chọn một hay hai con mình thích, chỉ cho chủ quán, khoảng 5 phút sau có đỉa tiết canh lai rai với rượu thuốc, hoặc bia 33 và tiếp tục là vịt rô-ti, vịt luộc, cuối cùng là cháo lòng vịt. Ba người, một con vịt mấy chai bia là quên đường về. Tuần nào ba thằng cũng kéo nhau đi ăn vịt Thanh An và trở về phố uống cà phê. Ở Pleiku có nhiều tiệm cà phê đẹp hữu tình: Thiên Lý, Văn, Hoàng Lan. Nhưng tiệm cà phê Dinh Điền là nổi tiếng rất ngon; ai đến Pleiku mà không uống cà phê Dinh Điền là chưa biết Pleiku. Từ sáng sớm đến khuya đều đông khách. Có những người lính tiền đồn xa xôi về thị xã công tác, cũng phải tranh thủ ghé vào Dinh Điền uống một ly cà phê, trở lại tiền đồn mới an lòng, có khi đông khách hết chỗ ngồi, ngồi trên một cái nón sắt, súng kê lên đùi uống một ngụm cà phê, hút một hơi thuốc Captai, thấy tâm hồn sảng khoái yêu đời...

Thành phố Pleiku là thành phố của lính; buổi sáng rất tĩnh lặng, buổi chiều toàn là lính. Chợ trời bán đồ Mỹ ngay trên đường Hoàng Diệu và quanh khu Diệp Kính; buổi chiều những rạp ciné hát nhạc inh ỏi. Chiều chiều, buồn buồn để xe trước nhà thờ, bốn thằng đi lang thang quanh khu Diệp Kính ngắm những cô nữ sinh má đỏ, môi hồng tan trường về trên đường Hoàng Diệu. Nhiều lúc nghĩ cũng buồn cười, ba thằng Không Quân mặc đồ bay, một thằng lính ngành mặc đồ treilli đi lang thang ngoài phố; đi để cho mọi người ngắm, lính này cũng đẹp trai lắ chớ bộ...

Mỗi lần bắt gặp một cô gái nào đẹp: Tìm đến nhà làm quen, bốn thằng trổ tài tán tỉnh, cuối cùng Toàn là kẻ chiến thắng. Vinh có lúc hạng nhì, tôi và Thạnh hạng chót! Có một lần tôi nhớ hoài. gần tiệm thịt vịt Thanh An có một tiệm cà phê vườn rất đẹp, chủ quán người Bắc di cư lên đây lập nghiệp, có hai người con gái rất dễ thương học đệ tam và đệ nhị Pleiku. Cuối tuần nghỉ học, thường ra coi quán. Cô chị tên Oanh, cô em tên Thục. Mỗi lần ăn thịt vịt xong, bốn thằng vào quán ‘’Không Tên ‘’ uống cà phê ngắm người đẹp, ngắm riết rồi trồng cây si, lần này Thạnh và tôi bàn nhau phải chiến thắng. Oanh của tôi và Thục của Thạnh. Vẻ bên ngoài ăn nói thì thua Toàn và Vinh, nên tôi và Thạnh đi chiến thuật bỏ nhỏ. Tôi tán Thục cho Thạnh, Thạnh tán Oanh cho tôi, và nói Toàn, Vinh đã có bồ ở Sài gòn sắp cưới. Khùng mới lấy những thằng đàn ông sắp cưới vợ; dù có đẹp trai. Thế là tôi và Thạnh chiến thắng...Đêm văn nghệ cuối năm ở trường Trung Học Pleiku; tôi và Thạnh nhật được hai thiệp mời của Oanh và Thục. Đêm đó hai đứa ngồi uống rượu đợi. Tôi và Thạnh trở về trong niềm vui yêu đời.

Cứ tưởng thời gian êm đềm trôi qua, bốn thằng làm hết bổn phận, của người sĩ quan QLViệt NamCH; tâm nguyện công tác trên thành phố cao nguyên một thời gian rồi xin đổi về Sài gòn lập gia đình. Sống một cuộc sống êm ả hơn.

Có ngờ đâu năm 1972, chiến trận lại bộc phát mạnh. Cộng Sản tăng cường xâm lấn miền Nam, đánh chiếm Quảng Trị và vùng cao nguyên. Tại vùng 2 Chiến Thuật, Việt Cộng đánh mạnh vào Thị xã Kontum; chiếm Tân Cảnh. Thị xã Pleiku thiết quân luật. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2, và các đơn vị chung quanh, Tiểu khu Pleiku, cấm quân 100%. Tướng Toàn thay Tướng Ngô Du – tái chiếm Tân Cảnh giải tỏa Kontum. Các gia đình sĩ quan, binh sĩ và dân sự ở thành phố đều di tản khỏi thành phố Pleiku – Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, thành phố Pleiku như thành phố chết. Yên lặng như chờ đợi bước chân tử thần...

Tôi, suốt ngày đêm trực ở đơn vị. Toàn bay khu trục suốt ngày lên xuống Kontum oanh tạc. Vinh và Thạnh bay trực thăng chở quân tiếp viện Tân Cảnh, Kontum, Dakto, Pleime. Mổi lần trở về đều gọi điện thoại cho tôi trong những tiếng thở dài. Co lần Toàn báo cho tôi mừng, trong một phi vụ oanh tạc xe chở quân của Việt Cọng bị súng phòng không bắn lên, may Toàn bay ra khỏi làn đạn thoát chết. Một tối, tôi vào thăm thì thấy khuôn mặt ba thằng đều hốc hác, bơ phờ và lo lắng. Riêng Thạnh có vẻ đăm chiêu, suy tư nhiều hơn. Ngồi uống cà phê lặng lẽ, không như những lần trước tươi cười, đùa giỡn vô tư...Trong giây phút yên lặng đó, lòng tôi thương ba thằng bạn thân vô cùng. Dù sao với tôi, lính ngành truyền tin, cũng an toàn hơn. Còn Toàn, Vinh và Thạnh ngày đêm đối diện với súng đạn, đối diện với cái chết; Trời kêu ai nấy dạ. Tôi cầu mong ơn trên phù hộ cho bốn thằng, khi tàn cuộc chiến vẫn còn ở bên nhau mãi mãi...

Bỗng dưng Thạnh cười thật lớn, vỗ vai tôi và nói: ‘’Cuộc chiến càng khốc liệt, rồi có ngày cũng tàn, nhưng ngày tàn đó không biết bốn thằng bạn mình có còn lại đủ không? Nếu mình có hy sinh, bạn nào còn lại nhớ đưa xác mình về quê để an nghỉ với ông bà. Đối với VC không đàm không điếc gì cả, phải đánh tới cùng mới chiến thắng.’’ Nói xong Thạnh lại cười lớn; đứng dậy ôm vai tôi, bắt tay tôi, bắt tay Toàn và Vinh, xin phép về phòng nghỉ để mai bay sớm tiếp viện quân cho Tân Cảnh. Thạnh đi rồi ba thằng còn lại cũng chia tay, tôi lái xe về đơn vị lòng buồn vời vợi...

Tôi đang ngồi làm việc nghe điện thoại reo. Cầm điện thoại nghe, giọng Toàn bên kia đầu dây ngập ngừng báo tin: Thạnh đã chết trong chuyến bay sáng nay tại Tân Cảnh. Máy bay của Thạnh bị bắn rơi; phi hành đoàn chạy thoát, Thạnh chạy sau cùng bị một loạt AK của VC bắn phía sau lưng. Xác Thạnh được toán phi hành đoàn của Mỹ lấy được đem về quàn tại Quân Y Viện Pleiku. Tôi chạy ra xe như xác không hồn sang QYV Pleiku. Thạnh nằm đó như ngủ. Thân hình bị cháy xám. Tôi vuốt mặt Thạnh, không nói nên một lời, nước mắt chảy dài trên hai má. Bạn bè Thạnh đứng xung quanh, Toàn, Vinh đều khóc và nhìn Thạnh trong niềm uất nghẹn...

Ngày hôm sau phi đoàn cho một chiếc trực thăng bay về quê Tam Kỳ, rước cha mẹ Thạnh lên nhận xác con. Tôi nhìn cha mẹ Thạnh già nua, ốm yếu quê mùa, nhận xác Thạnh trong chiếc hòm kẽm. Ông bà không còn nước mắt để khóc cho con, quờ quạng như xác không hồn. Chiếc máy bay đưa xác Thạnh, và cha mẹ Thạnh cùng với toán lính hộ tống tiễn đưa, cất cánh bay lên, bỏ lại ba thằng bạn thân thương đứng nhìn theo, và khóc rống như trẻ con. Chiếc máy bay đã khuất trên bầu trời, ba thằng trở về phòng Toàn, đêm hôm đó không ngủ, ngồi kể lại những kỷ niệm với Thạnh, và khóc suốt đêm...

Thạnh ơi bây giờ bạn đã trở về quê theo lời bạn mong ước, gần cha mẹ ông bà, bên dòng suối mát; bên sân ga, chiều chiều nhìn những con tàu chạy ngang qua, hụ còi inh ỏi...

Thạnh đã mất rồi, còn lại tôi, Toàn và Vinh buồn bã lặng lẽ. Và theo lời Thạnh nói, cuộc chiến bộc phát dữ dội rồi sẽ tàn. Tân Cảnh được tái chiếm, Kontum được giải tỏa. VC được đánh bật ra khỏi lãnh thổ Quân Đoàn 2. Thành phố Pleiku trở lại yên bình...Và ba thằng tôi tiếp tục làm tròn bổn phận của người Sĩ Quan QLViệt NamCH cho đến năm 1975...

Thạnh ơi đã 28 năm rồi, bạn bỏ đi về quê, chắc bạn nhìn thấy nổi trôi của đất nước; điêu linh của dân tộc mình và không biết đến bao giờ tìm lại được những thời hoa mộng của tuổi trẻ, của đời lính gian truân, nhưng đầy vàng son.

Và bây giờ tôi đang sống lưu vong trên đất người, Toàn và Vinh bây giờ không biết đang ở đâu? Dã mùa xuân năm 2000 rồi, tôi chưa gặp lại các bạn, nếu các bạn đọc được những dòng chữ này, mong các bạn tìm gặp nhau để cùng thắp một nén nhang, tưởng nhớ Đoàn Thạnh-người bạn thân thương ngày cũ.

Trần Thế Phong

Posted by: M&N Jan 16 2009, 10:26 AM



Niềm vui chợt tắt!

(Để nhớ về Phi-Hổ Trịnh Đức-Tự, một hiệp-sỹ không-gian của vùng trời hỏa- tuyến ngày nào…)

Trần Ngọc Nguyên Vũ

*****
…Vào một buổi trưa Chủ-Nhật, trời PleiKu thật buồn. Từng tảng mây mù từ trên đỉnh núi chậm-chạp trôi về rơi rụng phủ kín sân bay…Những người lính chiến của Không-Đoàn 72 Biên-Trấn tụ-tập nhau tại câu-lạc-bộ của không-đoàn, ngồi uống cà-phê, kể truyện tiếu-lâm, truyện tình phố núi và truyện đời bay bổng…trong lúc chờ thời tiết khá hơn để cất cánh lao mình vào chiến trận. Trên bầu trời mịt mờ sương khói, trong một phi-vụ huấn-luyện không-hành ĐàNẵng-SàiGòn-ĐàNẵng, trên đường về, Tự làm IFR xuyên mây, đáp phi-trưòng Cù-Hanh ghé thăm tôi. Bạn thân mỗi lần gặp nhau lòng như mở hội. Tôi rủ Tự và người co-pilot của anh ra ngoài căn-cứ thưởng-thức món chả chìa độc-đáo của cái thành phố quanh năm gió núi mưa rừng này. Tôi vỗ vai người phi-công trẻ nói đùa:

- Lát nữa cậu chỉ được phép uống nước lạnh để còn đưa “ông thầy” về Đà-Nẵng đó nghe.

Người phi-công trẻ cười, cất giọng hào-sảng nói:

- Hì…Hì…Thiếu-Tá đừng lo, em là thợ…thợ bay phi-cụ mà. Hồi nãy đáp, phi-cơ đang chạy trên phi-đạo, ông thầy em giật mình tỉnh giấc, cứ tưởng em còn đang cho phi-cơ xuyên mây…Nhưng thôi…Thiếu Tá cho em khất lần tới đi, chứ chả chìa, giềng mẻ mắm tôm mà đi với nước lạnh thì…sợ người ta chê không-quân mình cù lần chăng.

Tôi vỗ vai người sỹ-quan trẻ, nhìn Tự nói:

- Dân Không-Quân miền Hỏa-Tuyến các cậu gáy nghe cũng không tệ lắm.

Cả ba chúng tôi cùng cười. Bỗng nhiên tôi khựng lại, và chợt nhớ ra là Tự có người yêu là cô giáo đang dậy học ở PleiKu. Anh thiếu-úy trẻ hình như cũng đọc được ý nghĩ của “ông thầy” mình; anh nhìn tôi nheo mắt nói:

- Em có thằng bạn cùng khóa ở PĐ-530, Thiếu-Tá cho em qúa–giang tới thăm nó thì đẹp qúa.

Tôi nhìn người phi-công trẻ lém-lỉnh, cười rồi quay qua nói với Tự:

- Thôi, cậu giao ông thiếu-úy này cho mình rồi đến thăm nàng. Trời này mà bất chợt ghé thăm người tình, để nhìn “mắt em ướt, và tóc em ướt” để thấy “môi em mềm như mây…” thì thật là tuyệt-vời.

Rồi tôi dúi chiếc chìa khóa xe jeep vào tay anh nói:

- Tụi này đợi cậu tại quán ăn nơi cuối phố, từ đây về Đà-Nẵng không đầy một tiếng theo đường chim bay. Cậu còn nhiều thời giờ chán…Nhưng đừng quên ghé đón anh em đó nghe.

…Đó là lần cuối cùng tôi gặp Tự. Một thời gian sau, cũng vào một buổi trưa, tôi nhận được điện-thoại từ một người bạn ngoài Đà-Nẵng báo tin Tự đã hy-sinh trong một phi-vụ hành-quân, đơn-vị đang xúc tiến việc lấy xác người phi-công tuẫn quốc. Tôi lặng người đi một lúc như không muốn tin đó là sự thật…Tôi mới gặp Tự đây mà…Rồi thì cả một vùng kỷ-niệm nhạt-nhòa trong dĩ-vãng bỗng hiện ra trước mắt tôi như đang coi một cuốn phim đời…Tôi nghĩ đến gia-đình và thân nhân của Tự. Rồi tôi nghĩ đến Phượng, người yêu của Tự, không biết nàng sẽ như thế nào khi nhận được tin dữ này…Tôi cũng nghĩ đến những cuộc tình của một thời chinh-chiến; không có gì để bảo đảm cho một tương-lai đầy bất trắc cho những người trai hàng ngày vẫn lạnh lùng leo lên chiếc quan tài bay, lao vào vùng trời lửa đạn, bỏ lại một ngày cho đời mình, một ngày cho những quằn-quại đau thương của dân-tộc và một ngày cho những đôi mắt vời-vợi chờ trông nơi chốn chân mây ở tận cuối trời…

…Còn nhớ ngày nào, vào khoảng mùa Hè năm 1962, chúng tôi gồm mấy đứa, Tự, Nguyễn Phúc-Hưng, Sĩ-Phú, Đào-Văn-Năng, và tôi cùng nộp đơn vào Không-Quân. Vì số người tình-nguyện qúa đông nên phòng tuyển-mộ đã chia chúng tôi ra thành 2 toán. Toàn đầu, trong đó có Sĩ-Phú được gởi ra Nha-Trang và trở thành khóa 62C. Tôi và Hưng vì thiếu cân nên phải đợi tái khám và bị dồn xuống toán sau, ra Nha-Trang ngày mồng 2 tháng Giêng năm 1963 trở thành khóa 63A cùng với Nguyễn Hoàng-Dự, Mai Tiến-Đạt, Tứ, Ngô Đức-Cửu, Thặng... Còn Tự và Năng bị trục-trặc về mắt, tai, mũi, họng nên chúng tôi phải tạm chia tay…Mấy tháng sau, Hưng, Nghiêm Ngọc-Ẩn và tôi cùng một số SVSQ nữa được gọi về Bộ-Tư-Lệnh KQ làm thủ tục du học. Trong thời gian đang thụ-huấn tại NAS Pensacola, FL thì tôi được tin Tự đã hội đủ điều kiện sức khỏe để nhập Không-Quân. Riêng về phần Năng thì đành bỏ mộng đi mây về gió để trở về làm bạn với vùng xình lầy, đồng ruộng, và núi rừng trùng điệp trong Binh-Chủng Biệt-Động-Quân…Cũng kể từ đó tôi không có cơ-hội gặp lại Tự và Năng cho đến khi mãn khóa về nước, phục vụ ở Biệt- Đoàn 83, rồi đi biệt phái Đà-Nẵng thời kỳ biến-động miền Trung mới gặp lại Tự ở Phi-Đoàn Phi-Hổ 516. Riêng về Năng thì vì không cùng quân-binh-chủng nên chỉ biết anh đang sải vó ngựa hồng, miệt mài theo khói lửa…

Là một đại cao-thủ của VoViNam, cùng nhóm với Đào Văn-Năng (Biệt-Động-Quân), Nguyễn V Tựu (Biệt Kích Dù)…Cũng như Năng và Tựu, Tự có vóc dáng và phong-độ hào-sảng của một đại-hiệp trên chốn giang-hồ trừ gian giệt bạo. Tuy là con nhà võ nhưng lại mang một tâm hồn nghệ-sỹ, Tự rất thích thơ văn. Những bài thơ mang tính cách lãng-mạn của thời chiến như “Tha La xóm đạo” của Vũ Anh Khanh, “Mầu tím hoa xim” của Hữu-Loan, và “Làng tôi” của Yên-Thao, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng-Cầm, hoặc Hồ-Trường của Dương B. Trạc, hay “Bài ca Phạm Thái” của Nguyễn Đình-Toàn…Tự đều thuộc lòng. Hồi còn ở ngoài dân sự, mỗi lần gặp nhau là thế nào cũng có một đêm văn-nghệ bỏ túi cùng các bạn như Hà-Linh-Bảo, Phạm Văn-Hiến, Hồ Hải-Trân và Hoàng Hương-Trang họp mặt để đàn hát, ngâm thơ và thổi sáo,…

Khi Biệt-Đoàn 83 giải tán, tôi được thuyên chuyển ra Đà-Nẵng, cùng ở 516 với Tự, lúc này thì anh em mới thực sự gắn bó như xưa. Chỉ còn thiếu Năng. Còn nhớ hồi ở Đà-Nẵng, một buổi sáng mùa Xuân năm Mậu-Thân, tôi cùng Nguyễn-Du thi-hành phi-vụ tuần-thám võ-trang “Đà-Nẵng Quảng-Ngãi Đà-Nẵng”. Chúng tôi cất cánh sớm hơn giờ dự trù, hy-vọng về đáp sớm để còn bay một phi-vụ không-hành về Sài-Gòn chúc Tết Ông Bà Bố Mẹ. Khi vừa lên cao độ bình-phi thì phát hiện một đoàn người từ hướng núi tiến ra bờ sông Hàn, và như đang định bơi qua sông để vào Đà-Nẵng. Mới đầu chúng tôi tưởng là dân chúng đi trẩy hội Tết, nên bay xuống thật thấp để làm một cái “low pass” chúc Tết mừng Xuân. Nhưng vừa xuống thấp khoảng 100 thưóc thì ở dưới bắn lên tới tấp. Chúng tôi hoảng hồn phóng vút lên lấy cao độ, rồi báo cáo về Panama là có một đoàn quân Cộng-Sản chừng một Trung-Đoàn đang định vượt sông Hàn để vào Đà-Nẵng. Panama không dám quyết định, yêu cầu chúng tôi làm vòng chờ trên cao độ đợi xin lệnh quân-đoàn I. Đoàn người ở dưới biết là đã bị lộ nên ào hết xuống sông để qua bờ bên kia. Nguyễn Du tính nóng như lửa, hối thúc tôi phải hành động ngay, vì nếu để đám quân này qua được bờ sông thì chúng sẽ lẩn vào nhà dân chúng và tình thế sẽ trở nên rất nguy-hiểm. Hai chiếc khu-trục A1 cùng song hành nhào xuống thật thấp, oanh-kích trực xạ vào đoàn quân Cộng-Sản…Từng chùm hỏa tiễn từ hai chiếc khu-trục cơ phóng vụt ra, cầy tan mặt đất…Xác người vỡ nát, thịt xương bắn tung lên. Những viên đại-bác 20ly công phá xuyên thủng những tấm bia thịt đang ngụp lặn giữa dòng sông…Xác nổi lềnh bềnh như xác quân Mãn-Thanh, mặt nước đỏ ngầu như nước sông Hồng mùa Xuân năm Kỷ-Dậu...Chỉ trong khoảng thời-gian chưa đầy 15 phút, hai chiếc khu-trục A1 đã trút hết hoả-tiễn và đại-bác 20ly, tiêu diệt hơn một nửa số người trong đoàn quân xung-kích của địch. Đám người còn lại vứt bỏ vũ khí quay đầu chạy ngược vào phía núi…Lúc đó thì Panama mới liên-lạc cho biết lệnh Quân-Đoàn là phải ngăn chặn đoàn quân này bằng mọi giá. Chúng tôi cho Panama biết là phi-vụ đã hoàn tất. Trên trời cũng vừa có Thiên-Phong 11 do Dị và Thiếu-Uý Chín của PĐ 110 trên vùng tiếp-tục công việc theo dõi, và một phi-tuần Phi-Hổ của Đoàn-Toại và Tự cũng vừa lên kịp để thay thế cho chúng tôi về đáp…Khi về đến phi-đoàn chúng tôi thấy toàn bộ chỉ-huy của KĐ41 cùng Phi-Đoàn-Trưởng, Truởng Phòng Hành-Quân và các nhân-viên phi-hành của PĐ516 đều có mặt đầy đủ. Tiếng chuông điện thoại reo tới tấp, và trên bảng phi-lệnh chi chit những phi-vụ chờ cất cánh. Lệnh cấm trại 100% được ban hành, lúc bấy giờ chúng tôi mới biết là Việt-Cộng tổng công-kích toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Mùa Xuân Mậu-Thân năm ấy, trong một hoàn cảnh rất tình cờ mà Nguyễn Du và tôi đã cứu được thành phố Đà-Nẵng thoát khỏi thảm họa do đám người cuồng tín gây nên như ở Huế hay các thành phố khác…

Sau lần đó, chúng tôi kết với nhau thành một “băng ăn nhậu” gồm có Du, Hoàng, Tự, tôi và Đoàn-Toại…Sau những phi-vụ hành-quân hàng ngày, chúng tôi thường ra phố nhậu nhẹt ở quán thịt bò Ba-Quy trong một con hẻm ở đường Độc-Lập. Thành-phố Đà-Nẵng thời bấy giờ thường xuyên ở trong tình-trạng “giới nghiêm”, nhưng đối với những người lính Biệt-Động-Quân, Nhẩy Dù, lính Hải-Quân, lính Biệt-Hải, Thủy-Quân-Lục- Chiến…và với những cái tên mà mới đọc lên đã thấy ngất ngây như say men rượu như: Bảo, Ban của Hải-Quân; Hoàng-Phổ, Quách-Thưởng, Đức ghiền, Nguyên, Ngộ, Thanh mặt xanh, Ngoạn của Biệt-Động-Quân; Hùng, Vũ của Biệt-Hải; Liêu bến tầu, Nho Saxaphone ngoài dân sự… thì lại là giờ ra đường làm việc của họ, nên quán nhậu cứ sau 12 giờ đêm mới vui…cái vui của những “Anh-Hùng tứ xứ”; chỉ một lần gặp gỡ qua chén rượu giang-hồ mà tình bạn, tình đồng-ngũ như đã thiên-thu bất diệt…

Những người bạn ngoài quân-chủng rất thích kết-giao với dân KQ. Một phần vì cái vẻ hòa-hùng qua những chiếc áo bay mầu đen, mầu cam, mầu xám…thêm những thứ phụ-tùng lỉnh kỉnh như khăn quàng mầu tím, dao găm, xúng ngắn P-38 đeo xệ bên hông, đạn flares…đã biến những con người thư-sinh mảnh-khảnh kia thành những trang “hiệp-khách phò nguy cứu khổ”, và nếu cần thì cũng có thể quá giang những người bạn KQ trên chiếc AD5 trong một phi-vụ liên-lạc không-hành nào đó để về Sài-Gòn như Đại-Úy Nguyễn Đình-Bảo của Nhẩy Dù hồi Tết Mậu-Thân. Nhưng phần chính là những người lính chai lỳ này đã được chứng kiến tận mắt những hình ảnh bi-hùng của người anh em KQ nơi chiến địa. Hình ảnh những chiếc phi-cơ vận-tải, quan-sát gẫy cánh, chao đảo trên không như một con đại bàng bị trúng tên rồi gục xuống bìa rừng, những chiếc trực-thăng nổ tung như một qủa cầu lửa của những hợp-đoàn lầm-lỳ bay vào trận địa, những chiếc khu-trục lao mình cắm đầu xuống mặt đât, rồi cháy bùng lên như một ngọn hỏa-diệm-sơn trong cơn phẫn nộ chuyển mình, những cánh dù bung ra như một đóa hoa hồng lửng-lơ giữa vòm trời lửa đạn…Để rồi khi trở về thành-phố, nhìn những dáng dấp thư-sinh trong chiếc áo bay, gồ-ghề mà thanh-thoát…tình tri-kỷ, tình đồng-đội tự nhiên đến với họ. Nhưng nhiều khi cũng có những đụng chạm nẩy lửa, đánh nhau vỡ đầu, sứt trán rồi mới nhận anh em, và trong những trường hợp đó thì Tự là người luôn luôn mang lại chiến thắng cho “phe ta” và lòng cảm phục của phe “địch”. Mỗi khi ra khỏi căn cứ, cũng như Đoàn-Toại, Tự rất ít khi mặc áo bay, và nếu có thì cũng rất giản-dị. Chỉ một chiếc áo bay, không dao, không súng, cùng những thứ lỉnh-kỉnh như những anh em khác. Củng vì những nét đặc-thù này mà trông Tự nổi bật trong đám đông, chẳng khác nào như một bạch-diện thư-sinh trên tay chỉ có một chiếc quạt cũng đủ làm khiếp đảm giang-hồ hắc bạch…

…Những hình ảnh của ngày xưa đó cứ lần lượt hiện về trong trí tôi như những đám mây đen từ đỉnh Trường-Sơn cuồn-cuộn trôi về phủ kín cả bầu trời phố núi…Nhìn đồng hồ, thấy sắp đền giờ tan học. Tôi lái xe ra trường Trung-Học Pleime để đón Phượng. Tôi đậu xe dưới một gốc phượng-vỹ gần cổng trường, nhìn những tà áo dài phất-phới như cánh bướm của các cô nữ sinh, những tiếng cười cùng giọng nói liến-thoắng, ríu rít như chim hót mà thấy lòng mình như chùng xuống. Tuổi trẻ thật là vô-tư yêu đời, không thấy được những hiểm-nguy đang rình rập cuộc sống…Lẫn lộn trong đám học sinh đổ ào ra như đàn chim vỡ tổ, Phượng đi cùng một người bạn ra phía cổng trường. Thấy tôi Phượng mừng rỡ chạy đến reo lên:

- Anh! Lâu qúa sao không thấy anh ghé Phượng chắc là anh bận lắm hả. Anh Tự mới gởi thư cho em nói tuần tới anh ấy sẽ ghé PleiKu cho em qúa giang A37 về Sài Gòn đó. Thế nào cũng lại phiền anh ra chở vào phi-trường.

Tôi cười buồn chưa kịp nói gì thì Phượng đã liến-thoắng nói:

- Anh thật là có số ăn. Ngày mai tụi em được nghỉ nên em mời chị bạn về nhà ăn cơm tối. Nếu anh không chê thì xin mời anh lại dùng cơm luôn thể với tụi em.

Rồi với giọng tinh nghịch Phượng nói tiếp

- À…em xin giới thiệu với anh đây là chị Tường-Vy, cô giáo mới từ Huế đổi lên đây để được gần người yêu. Người yêu của Tường-Vy là Trung-Úy phi-công Trực-Thăng, chút nữa gặp thế nào anh cũng nhận ra người quen. Anh ấy nói là có biết anh.

Tường-Vy cúi đầu chào tôi, cặp má hơi hồng lên cùng với vẻ e thẹn cố-hũu của những cô gái Huế khi gặp người lạ. Tôi cúi đầu chào lại và kín đáo quan sát người bạn của Phượng. Cũng như Phượng, Tường-Vy có một khuôn mặt đẹp tuyệt vời, đặc biệt với cặp mắt sâu buồn vời-vợi như chứa đựng cả một bầu trời thu trong đó…Tôi mời hai người lên xe. Trên đường về nhà Phượng, nàng nhờ tôi cho nàng ghé qua chợ mua thêm ít đồ gia-vị cần thiết. Phượng vẫn vô tình cười nói luôn miệng kể chuyện nàng và Tự cho Tường-Vy nghe. Nhìn hai người, tôi bỗng thấy xót xa cho kiếp hồng-nhan của một thời ly-loạn…Định-mệnh thật qúa khắt-khe, đã đưa đường dẫn lối cho Thục-nữ giai-nhân gặp gỡ khách anh-hùng, sao còn nỡ dang tay bẻ gẫy cuộc tình…Trong lúc ngồi ngoài xe đợi Phượng và Tường-Vy vào chợ, tôi quyết định sẽ báo tin Tự đã hy-sinh cho Phượng biết vào một dịp khác. Bây giờ đây…tôi không dám làm tắt niềm vui của Phượng và Tường-Vy cho dù nó rất ngắn ngủi.

Trần Ngọc Nguyên Vũ

(Một thời ly-loạn)

Posted by: M&N Jan 30 2009, 04:43 PM




Rươu Cần Tây Nguyên


Rượu cần là cách gọi của người Kinh căn cứ vào cách uống của loại rượu này – đó là rượu ủ men, không qua chưng cất, ủ trong vò sành và hút bằng cần trúc. Rượu Cần là loại rượu uống phổ biến nhất của các cư dân bản địa Tây Nguyên. Làm rượu cần và uống rượu cần đã trở thành phong tục có nguồn gốc lâu đời, thành nét văn hóa trong đời sống của họ. Với đồng bào Tây Nguyên, bất cứ nhà nào cũng có ché để ủ rượu, thậm chí nhiều gia đình có hàng dãy ché chạy sát vách nhà dài. Trong các dịp cúng thần hoặc trong các lễ tang, lễ cưới, lễ rước hồn lúa, lễ chúc sức khoẻ, lễ cầu mùa… đều phải có rượu, tất cả nam, nữ, già, trẻ đều uống. Để có một ché rượu ngon, người làm rượu phải thực hiện một quy trình các thao tác khá công phu.

Rượu cần là một thứ rượu thường làm bằng củ sắn hoặc gạo tẻ, khi có lễ đặc biệt quan trọng thì dùng gạo nếp. Phương pháp làm rượu đơn giản, gạo nấu thành cơm rồi trộn với trấu, dàn mỏng rồi phơi. Men rượu được người dân tộc chế từ vỏ cây Hiam lấy trong rừng trộn với bột ớt, bột gừng, bột gạo trộn với nước và vắt thành từng bánh nhỏ, phơi thật khô, sau đó để từ 10 – 15 ngày giã nhỏ rắc lên trên nia cơm, sau đó trộn thêm một lần trấu nữa rồi đổ vào ché trấu ủ từ 1 đến 2 ngày, lấy lá chuối khô ủ kín. Sau một tháng đem ra dùng, khi uống lót lá chuối tươi ở trên, đổ nước lá đầy ché, dùng cần cắm xuyên qua các tầng lá xuống đấy ché, uống cạn đến đâu lại chế thêm nước lã đến đấy. Rượu cần được uống trong các bữa ăn, một bữa rượu cần bản thân nó được coi là một bữa tiệc, một ngày hội. Để chuẩn bị cho các lễ lớn người ta phải ủ rượu trước hàng tháng trời. Trước đây người ÊĐê thường dùng các loại ché Tuk, ché Tang màu da lươn là những loại ché quý dùng trong dịp lễ lớn. Hiện nay họ chỉ dùng các loại ché thường như ché ba. Còn người M’nông thì dùng các loại ché mà họ gọi là Yang Bung, R’ Lungman…. Người ta chỉ cần nhìn chiếc ché là có thể đoán được lễ này có quan trọng?

Khác với các dân tộc khác, người Êđê và M’nông chỉ dùng một chiếc cần duy nhất để uống. Thứ tự uống cũng khác, khi thầy cúng cúng xong, mọi người vít cần uống rượu theo thứ tự nữ uống trước, nam uống sau: Chủ nhà, thầy cúng, anh hoặc em bà chủ nhà, người già,… nếu có khách quý thì chủ nhà uống xong cầm cần mời khách. Đều hết sức đặc biệt là cần rượu duy nhất đó không bao giờ rời khỏi bàn tay con người, ai đó mà thả cần rượu ra khỏi tay là thất lễ với chủ nhà. Tại sao sau khi chúng ta uống phải lấy tay bịt đầu cần rồi truyền cho người khác? Có 2 cách giải thích:
Cách 1: Nếu chúng ta uống như thế thì nước miếng của chúng ta không nhiễu xuống ché rượu.
Cách 2: Người dân tộc sợ bùa vì mọi người nơi đây tin bùa ngãi nên nếu chúng ta uống không bịt cần lại thì họ cho rằng chúng bỏ bùa vào ché rượu.

Người Êđê có câu: đàn ông uống như cột nhà, đàn bà uống như cột bếp, nghĩa là đàn ông thông thường phải uống 4 ly giống như 4 cây cột của ngôi nhà và đàn bà uống 3 ly giống như 3 cái kiềng bếp.
Trong giao tiếp, đồng bào Tây Nguyên rất hiếu khách, sẵn sàng mời bạn uống rượu cần. Đối với đồng bào Tây Nguyên khi uống rượu cần mang tính cộng đồng cao và rất sâu sắc đối với họ. Điều đáng chú ý là khi uống rượu cần bao giờ cũng có những qui định theo phong tục. Những người có uy tín nhất là chủ nhà hoặc chủ lễ uống trước. Điều này vừa có tính chất tôn trọng, song cũng có ý nghĩa thông báo với mọi người đây là ché rượu tốt, hoàn toàn vô hại. Sau đó, người chủ nhà hay chủ lễ mời khách uống rồi mới tới lượt các thành viên trong cộng đồng. Tùy vào điều kiện gia đình của người tổ chức, cuộc rượu, có thể họ mời khách uống 1 ché, 3 ché, 5 ché, 9 ché, rất ít cuộc rượu mà có số ché chẵn. Đây là một đặc trưng trong phong tục uống rượu cần của người Tây Nguyên.

Với các cư dân Tây Nguyên nói chung và DakLak nói riêng, mỗi năm có một mùa ăn chơi thường diễn ra sau mùa thu hoạch từ tháng một đến tháng ba. Đây là thời gian giao thời giữa 2 chu kỳ nông nghiệp, là thời gian rũ bỏ nhọc nhằn trong một năm, tạ ơn và cầu xin các thần linh phù hộ cho mùa lúa mới đầy may mắn. Đây chính là mùa của lễ hội, “mùa ăn năm, uống tháng” của đồng bào. Mời bạn đến với các buôn làng Tây Nguyên để say trong men rượu cần và hòa nhịp cùng những lời ca, điệu múa mang hương sắc của núi rừng Tây Nguyên.

cutikhoe

Posted by: M&N Feb 22 2009, 02:15 PM



Chén rượu tiễn!


(Để tưởng nhớ về Lê Ngọc Độ, một trong “Ngũ-Thập Tam Thái-Dương chi-bảo” của vùng trời Tây-Nguyên ngày nào…)

“Rót cho nghiêng dải giang-hà”
“Cho nghe vang vọng trong ta một thờì…”


Trần Ngọc Nguyên Vũ

*****
Rời khỏi phòng hành-quân của phi-đoàn để ra phi-cơ, Đại-Úy Hai vỗ vai Thiếu-Uý Độ nói đùa:
- Bữa nay là ngày ông Táo về trời, cẩn thận nghe chú mày, đừng để tao phải tiễn mày theo ông Táo đó.
Độ nhe răng cười:

- Hì…hì…bom đạn vô tình, hơi đâu mà lo chuyện đời lính trận. Nhưng tui là dân miền Tây, nếu phải tiễn tui, ông nhớ đi một cặp ‘Đậu Nành” Cần-Thơ cho ấm lòng người chiến-sỹ đó nghe…
Cả hai ông phi-công khu-trục của phi-đoàn 530 Thái-Dương cùng cất tiếng cười vang rồi leo lên hai chiếc AD6 trang bị đầy bom đạn…

Hai chiếc phi-cơ nổ máy, lầm lỳ di-chuyển vào đậu song song trên phi-đạo. Hai ra hiệu cho Độ rồi nhả chân thắng và từ từ đẩy tay ga lên vị thế cất cánh. Chiếc phi-cơ lao mình về phía trước. Một luồng gió giật nổi lên như muốn bứng chiếc phi-cơ ra lề cỏ. Hai kềm cứng chân đạp để giữ thăng bằng, rồi gọi số hai:
- Thái-Dương 32 coi chừng gió giật mạnh bên cánh phải.
- Thái-Dương 32 hiểu

Chiếc AD6 của Độ chưa kịp nhấc bánh đáp đã vặn mình qua bên trái, đập mạnh trên lề cỏ, cầy lên một đường thẳng khoảng 50 thước rồi quay ngang trên mặt phi-đạo và bùng cháy. Có mấy trái bom văng ra khỏi phi-cơ, lăn trên mặt nhựa của sân bay. Những trái còn lại dính hai bên cánh, chập chờn ẩn hiện sau đám lửa, và cột khói phủ quanh chiếc khu-trục cơ bị nạn như đang chờ lệnh khai hỏa của tử-thần. Hai nghe trên tần-số ground của đài kiểm-soát PleiKu dồn-dập vang lên qua nón bay:

- Thái-Dương 32, phi cơ đang bốc cháy, bạn thoát ra ngay đi. Coi chừng bom có thể phát nổ.
Hai thấy toàn thân mình lạnh cứng như một tảng băng, anh cho phi cơ quẹo gắt với 90 độ nghiêng. Chiếc khu-trục cơ vặn mình rít lên trong không khí, kéo theo hai lằn khói trắng dài hai bên cánh như con thần long đang cuốn nước. Hai cho phi cơ bay ngược chiều phi-đạo ở cao độ 50 feet. Anh thấy Độ nằm vắt ngang bên hông phòng lái, thân hình chìm trong ngọn lửa ngùn-ngụt bốc lên, như đang chống trả với thần chết, để vượt qua khỏi quãng tử-lộ ngắn ngủi của đời người. Không biết là Độ có nghe được tiếng mình qua tần số hay không nhưng anh vẫn gọi như hét lên: “Độ ráng lên đi, coi chừng bom phát nổ!”. Không có tiếng Độ trả lời, anh kéo vút phi cơ lên cao rồi vòng lại một lần nữa. Đoàn xe cứu hỏa, xe cứu thương và toán “tháo gỡ chất nổ” (EOD) đang từ bên kia sân bay phóng qua. Từ trên cao độ, Hai thấy những chiếc vòi rồng đang phun chất bột foam trắng xoá như tuyết phủ trùm lên ngọn lửa và những trái bom nằm lăn lóc xung quanh. Hai liên-lạc với đài kiểm-soát:

- Đài kiểm-soát PleiKu! Xin bạn cho biết tình-trạng của Thái-Dương 32.
- PleiKu đài nhận rõ. Xin báo cho Thái-Dương 31 biết là số hai đã được đưa ra khỏi phi-cơ và đang trên đường tới bệnh xá.
- Thái-Dương 31 hiểu, cám ơn bạn.
Hai rời tần số của đài kiểm-soát, cho phi-cơ lên cao độ, bay một vòng trên sân bay rồi chuyển hướng tới mục-tiêu…Anh mở tần-số liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- Bắc-Đẩu đây Thái-Dương 31 gọi. Hiện tại tôi đang ở hướng Đông Nam của mục-tiêu, cao độ 5,000 bộ. Tôi lên vùng trễ vì số 2 bất ngờ bị nạn trên phi-đạo.
Giọng nói trầm ấm của người phi-công quan-sát chuyền qua nón bay như rót vào tai Hai những lời vỗ-về an-ủi:
- Bắc-Đẩu nhận Thái-Dương rõ. Chúng tôi đang ở hướng 9 giờ của bạn đó, cao độ 2,000 bộ. Xin bạn cứ yên tâm, Bắc-Đẩu đã được Peacock cho biết tình-trạng của Thái-Dương 32, và đã điều động thêm 2 phi-tuần A37 từ Phan-Rang lên thay thế. Xin bạn cho biết trang bị

Hai cảm động trước mối chân tình của những người bạn Quan-Sát. Anh bấm máy trả lời:
- Cám ơn Bắc-Đẩu. Tôi còn đủ sáu trái Napalm 500 cân, và 800 viên đại bác 20ly.
- Bắc-Đẩu nhận rõ. Tôi sẽ cho bạn một trái cam ngay ổ con chuồn chuồn. Bạn có thể salvo làm một pass.
- Thái-Dương nghe bạn 5/5.
Chiếc O1 nghiêng cánh chúi xuống bắn trái khói rồi vút lên cao. Một cột khói mầu cam cuồn cuộn bốc lên giữa đám rừng cây xanh ngắt. Tiếng người phi-công quan-sát lại vang lên:

- Thái-Dương đây Bắc-Đẩu! Mục tiêu ở ngay trái khói là một đoàn xe Molotova của địch được nguỵ-trang, đang ẩn dưới lùm cây, trông có vẻ như một đoàn xe tiếp tế đạn dược...Coi chừng có phòng không 37ly và SA7.
Hai bấm máy trả lời rồi làm một vòng roll quay tròn phi-cơ lao xuống mục tiêu. Anh bấm nút khai hỏa bốn khẩu đại bác hai bên cánh để bắn phủ đầu, và cho phi-cơ xuống một cao độ sát với đầu ngọn cây, vừa để tránh tầm nhìn của địch vừa lấy thêm tốc độ để thả bom lửa. Thấp-thoáng từ những lùm cây bên dưới vút lên những tia đạn đan chéo bên cánh phi cơ. Hai thấy miệng mình đắng chát, mồ hôi trán rịn ra, anh mím môi bấm nút thả từng trái một xuống mục tiêu. Một cuộn lửa trải dài như tấm lụa hồng bung ra phủ trùm lên đầu cây ngọn cỏ...Thả xong 6 trái napalm, Hai kéo mũi phi-cơ thẳng đứng làm một nửa “vòng số tám”, quay ngược đầu chúi xuống bắn thêm một tràng đại bác 20ly nữa rồi phóng lên cao độ làm vòng chờ để lấy kết qủa. Tiếng người phi-công quan-sát hét lên qua ống nghe trong nón bay:

- Tuyệt cú mèo! Thái-Dương 31 đánh qúa đẹp. Xin báo cho bạn biết là có nhiều tiếng nổ phụ. Thái-Dương 31 đã đánh trúng đoàn xe tiếp tế đạn dược của địch rồi đó.
Hai cười bấm máy trả lời người bạn quan-sát:
- Cám ơn bạn qúa khen. Chỉ là chuyện nhỏ thôi. Thái-Dương 31 đã thả hết bom, đạn, bây giờ tôi rời vùng. Cẩn thận nghe Bắc-Đẩu.
Nói xong Hai lắc cánh, lấy hướng về phía Bắc-Đẩu, làm một vòng roll 360 độ để chào người bạn quan-sát ở lại nơi chiến trường, rồi kéo mũi phi-cơ vút lên, lao mình mất hút sau những cụm mây xám trong vòm trời cao rộng…Có tiếng người phi-công quan-sát gọi với theo:
- Phải “Hiệp-Sỹ say Hai còi” đó không.
Hai bấm máy cười trên tần-số:

- Ha…ha…ha…Hai còi đây. Hẹn gặp lại bạn đêm nay tại câu-lạc-bộ không-đoàn.
Rời tần-số FM, Hai chuyển qua UHF để liên-lạc với Peacock. Anh được đài kiểm-báo của quân-khu 2 cho biết là phi-trường PleiKu hiện còn đang đóng cửa để toán EOD tháo gỡ ngòi nổ của những trái bom còn dính trên phi-cơ, và chuyển lệnh của phòng hành-quân-chiến-cuộc không-đoàn 72 chiến-thuật yêu cầu Thái-Dương 31 về đáp Phù-Cát. Nhận lệnh từ Peacock, Hai kiểm soát lại đồng hồ nhiên-liệu trên bảng phi-kế thấy còn đủ xăng để bay thêm khoảng 2 tiếng nữa, anh cho phi-cơ lên khỏi trần mây, và bình-phi ở 11,500 bộ rồi lấy hướng đi Phù-Cát. Nhìn bầu trời đầy mây phủ trắng xóa cả một mảnh không-gian, anh thấy lòng mình chùng xuống khi nghĩ đến Độ, người phi-công trẻ mới về phi-đoàn, như một con phượng-hoàng vừa rời tổ, chưa đủ thời giờ để mài nanh giũa vuốt, đã phải xoải cánh cô đơn bay vào vùng trời đầy dông bão…Anh cho phi-cơ xuyên mây, rồi mở tần-số liên-lạc với Phù-Cát xin đáp…
Hai cho phi-cơ vào ụ đậu theo sự hướng dẫn của người cơ trưởng rồi tắt máy, leo ra khỏi phòng lái. Một chiếc pickup chạy tới, người trung-sỹ mở cửa xe bước ra tươi cười hỏi Hai:

- Hôm nay là ngày ông Táo về trời, Đại-Uý xuống đây có một mình.
Hai bắt tay người Trung-sỹ rồi đáp:
- Đi hai chiếc nhưng số hai làm “crashed” trên phi-đạo, phi-trường đóng cửa, nên phải bay xuống đây.
- Tôi vừa đổi ca trực nên không biết. Xin lỗi Đại-Uý.
Hai cười vỗ vai người trung-sỹ rồi quăng bộ giây nịt dù lưng và nón đựng mũ bay vào thùng xe nói:
- Ồ không có gì, trong những phi-vụ hành-quân, tai nạn xẩy ra là chuyện thường.
Vào đến phòng hành-quân-chiến-cuộc của căn-cứ Phù-Cát, hai mượn điện-thoại “Hot Line” để gọi về PleiKu hỏi thăm tình trạng của Độ thì được biết là Độ bị phỏng nặng nên đã được đưa về bệnh-viện dã-chiến của Hoa-kỳ ở Long-Bình để chữa trị. Hai gác máy, gương mật đăm-chiêu, ngả người nhìn lên trần nhà, và để thoát ra một tiếng thở dài...Trong cuộc đời chinh-chiến, nhiều lần vào sanh ra tử, nhưng chưa lần nào anh thấy cô-đơn và trống vắng như lần này. Một sự trống vắng pha trộn lẫn với sự hối-hận là đã bỏ lại người bạn đồng hành đang quằn-quại trong cơn đau đớn của thể xác… Anh cảm thấy mình như thiếu trách-nhiệm đối với Độ. Đáng lẽ anh không nên để cho Độ cất cánh trong lúc gió ngang giật mạnh như vậy. Hai lắc đầu xua đuổi những ý nghĩ tiếp nối…
Tiếng người sỹ-quan trực đưa Hai trở về với thực tại:

- Đại-úy đáp giờ này chắc là chưa dùng cơm chiều, tôi vừa xuống ca trực, để tôi chở đại-úy tới khu gia-binh trong căn-cứ, mình làm vai chai cho ấm bụng. Bữa nay ngày cúng ông Táo, chắc là có nhiều món ăn đặc biệt.
Hai cười cám ơn người sỹ-quan trẻ hào-phóng. Anh móc túi coi còn bao nhiêu tiền. Bỗng anh khựng lại khi biết mình chỉ còn chưa tới hai trăm, không đủ để chi một bữa ăn tối cho một người. Anh nói:
- Cám ơn thiếu-úy, tối nay tôi ngủ nhờ nơi phòng trực ở đây được rồi, nếu tiện, nhờ thiếy-úy mua dùm một ổ bánh mì.
Ông thiếu-úy như hiểu ý Hai, tươi cười nói:

- Đại-úy đừng ngại, thằng Độ là bạn cùng khóa rất thân với tôi, hồi nãy nghe báo cáo trên máy tôi cũng có ý chờ đại-úy xuống. Đêm nay đại-úy cho tôi thay nó đứng ra đãi khách nghe.
Ông trung-úy vừa đổi phiên trực cũng phụ họa the
- Đại-úy đừng bận tâm, thằng này là con ông chủ trại bưởi Biên-Hòa, đẹp trai con nhà giầu và chơi với bạn bè rất có tình nghĩa. Nó biết đại-úy cùng phi-đoàn với thằng Độ, nó sẽ không để cho đại-úy ở đây một mình đâu.
Hai cảm-động và thấy lòng mình như ấm lại sau lời nói chân-thành của ngưòi sỹ-quan trẻ; mặc dù chưa hề quen biết, nhưng mới chỉ qua một lần đầu gặp gỡ, mà đã thấy đâu đây phảng-phất những nét giao-tình. Thứ tình bằng-hữu, tri-kỷ của những người trai thời loạn…

…Buổi chiều cuối năm. Bầu trời Tây-Nguyên mịt mù sương khói. Những đám mây đen từ đỉnh núi đang kéo về như báo hiệu một cơn dông sắp đổ tới. Phi-hành-đoàn của chiếc C130 đã lấy xong hành-khách từ hậu trạm tiếp-liên, và đang cho phi-cơ di chuyển để rời phi-đạo. Nơi đầu sân bay 09, chuyến bay cuối cùng trong ngày của hãng Hàng-Không Việt Nam cũng vừa bốc khỏi mặt đất, trả lại cái vắng lặng cố hữu cho vùng núi rừng biên-trấn. Nhìn đồng hồ thấy đã 6 giờ chiều. Phi-vụ túc trực bao vùng cuối cùng cũng vừa được hủy bỏ vì thời tiết xấu. Hai gấp tấm bản đồ hành-quân rồi quay qua nói với “Mai râu”:

- Hôm qua bọn thằng “Tuấn Bocassa” và thằng “Xuân tóc đỏ” bên trực-thăng được ông chủ đồn-điền trà tặng con heo rừng. Tụi nó hẹn tối nay đốt lửa đón giao-thừa, nếu Thiếu-Tá không có hẹn với ai thì ghé chung vui với tụi này luôn thể. Hồi trưa ông “Bá chủ” ghé phi-đoàn cho hai chai rượu đậu nành để anh em ăn Tết.
Mai cười rung rinh hàm râu giang-hồ nói:
- Tao có hẹn với bọn thằng Phong, thằng Chánh, thằng Hậu, thằng Quán bên Biệt-Động-Quân và mấy thằng Lôi-Hổ ở KonTum tối nay ngoài quán Diễm…
Mai chưa kịp nói hết câu thì có tiếng điện-thoại reo, anh ngừng lại với tay nhấc điện-thoại:
- Thiếu-tá Mai phi-Đoàn 530 tôi nghe. Xin lỗi ai đầu giây.
Hai nhìn Mai nói đùa:
- Giờ này mà điều-động cất cánh là tui làm “abort take off” đó nghe…
Hai bỗng khựng lại khi thấy gương mặt Mai bất chợt thay đổi. Mai gác máy, rồi nhìn Hai, giọng nói như lạc đi:
- Thằng Độ đi rồi…

Hai lặng người cảm thấy như có một luồng lãnh khí chạy luồn từ chân lên đầu, anh để rơi tấm bản đồ, hướng tia mắt lạc thần nhìn lên bảng phi-lệnh như để tìm kiếm một tên tuổi thân quen…Mai đặt tay lên vai Hai, bóp nhẹ để biểu lộ một sự cảm-thông với tâm-tình u-uẩn của người bạn trẻ rồi nói:
- Thôi mình đi về cư-xá. Tối nay tụi mình sẽ họp nhau đốt lửa đón giao-thừa và để tiễn thằng Độ…
Hai không nói gì, lẳng-lặng theo Mai ra xe.

…Chung quanh đống củi đang cháy, ánh lửa bập-bùng chiếu hắt lên từng khuôn mặt rắn rỏi của những người lính chiến Không-Quân của Không Đoàn 72 chiến-thuật. Vầng trán phong sương của mỗi người hằn lên những vết nhăn buồn…Hai cầm chai rượu đậu nành rót cho từng người rồi cất giọng hào-sảng nói:
- Đ.M…Ngày xưa khi lớn lên vừa lúc biết say cuộc tình, đã phải gĩa từ người yêu để vào say cuộc chiến…Bây giờ cuộc tình đã vỗ cánh bay xa, và trong cuộc chiến bạn bè cũng lần lượt bỏ ta đi, trong ta…chỉ còn lại có cuộc rượu đời để tiễn những thằng ra đi, và say với những thằng còn lại…
Nói rồi anh giơ cao ly rượu hướng về phía phi-đoàn trưởng “Mười Lung”, “Hiệp cò”, “Thặng Fulro”, “Mai râu”, “Sơn Đ…”, “Liêu say”, Trung, Long, Xuân, Phúc, Lộc, Cơ, Xanh, Kỳ, Thành, Chỉnh… cùng các bạn khác nói:
- Dzô thiếu-tá, tụi bay… Ly này uống cho thằng em vừa nhập cuộc, chưa kịp thi thố tài năng, đã gĩa từ cuộc chiến. OK! Dzô…

Nói xong anh ngửa cổ uống cạn rồi rót đầy ly khác tưới lên đống lửa nói:
- Ly này để tiễn người hiệp-sỹ đã qua sông không bao giờ trở lại…
Ngọn lửa bùng lên như cánh tay tráng-sỹ giơ cao, nâng ly cùng chiến-hữu, uống cạn chén rượu ân tình…Văng vẳng từ xa ngoài phố thị, vọng lên tiếng pháo giao-thừa mừng mùa Xuân mới nơi vùng trời biên-trấn…

Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Một thời ly-loạn!)

Posted by: M&N Jun 15 2009, 06:23 PM


1. Biển Hồ (Hồ Tơ Nuêng)




Sưu Tầm

Nằm cách trung tâm TP. Pleiku 6km về hướng Bắc. Biển Hồ, trước đây nguyên là một miệng núi lửa đã ngưng hoạt động cách đây hàng triệu năm, với diện tích khu vực 460 ha, trong đó diện tích mặt nước khoảng 250 ha và có độ sâu trung bình 15-18m. Dân trong vùng gọi Hồ là Biển và thế là có tên Biển Hồ.

Hồ mang tên Tơ Nuêng - tên một làng cổ trong huyền thoại. Chuyển kể rằng: Làng Tơ Nuêng xưa to và đẹp lắm, dân bản sống yên vui hòa thuận, bổng một hôm núi lửa ập tới lấp làng Tơ Nuêng, những người sống sót khóc thương làng minh và người thân mãi không nguôi, nước mắt chảy thành suối đổ về làng mà thành Hồ. Hồ giữ lại tên Tơ Nuêng, một kỷ niệm chung của bản làng,... ngày 16/11/1988, thắng cảnh thiên nhiên Biển Hồ : Di tích danh thắng.

Biển Hồ ngoài tác dụng trữ nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt cho dân cư Tp. Pleiku, nó còn tạo ra một vùng sinh thái rộng lớn. Đặc biệt là các di chỉ khảo cổ học được phát hiện tại Biển Hồ đã đem lại một bộ sưu tập hiện vật phong phú, là bằng chứng chứng minh lịch sử lâu đời của mảnh đất Gia Lai tươi đẹp và huyền bí...

Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, các chuyên gia địa lý, các nhà khảo cổ học thì nếu được đầu tư đúng mức Biển Hồ sẽ trở thành khu du lịch tổng hợp lý tưởng, bởi đây là một trong những tài nguyên du lịch có giá trị của khu vực Bắc Tây Nguyên.

2. Di tích lịch sử - văn hoá Tây Sơn Thượng Đạo

Cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại do anh em họ Nguyễn lãnh đạo bùng nổ năm 1771. Vùng núi rừng An Khê của Gia Lai trở thành căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa. Chính từ căn cứ Tây Sơn Thượng đạo ở An Khê, đại quân của cuộc khởi nghĩa đã tràn xuống đồng bằng cùng nhân dân cả nước làm nên chiến thắng Đống Đa lẫy lừng, quét sạch 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, giành lại độc lập cho tổ quốc. Đây là một trong những mốc son chói lọi nhất trong lịch sử truyền thống đấu tranh yêu nước của nhân dân các dân tộc Gia Lai.

An Khê Đình (Đình ngoài)

Các anh em nhà Tây Sơn mà tiêu biểu là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã lập được mối quan hệ anh em giữa người Kinh và người Thượng, tập hợp được các dân tộc Bắc Tây Nguyên ở vùng Tây Sơn Thượng đạo như người Bahnar, Jrai vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Ngày 14-6-1991 quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo đã được Bộ VH-TT cấp bằng Di tích lịch sử văn hóa, quần thể gồm 6 di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của người Anh hùng áo vải Quang trung - Nguyễn Huệ: An Khê Đình, Gò Chợ, hòn đá Ông Bình, hòa đá Ông Nhạc, Vườn mít - Cánh đồng Cô Hầu, kho tiền - nền nhà ông Nhạc.

3. Di tích lịch sử văn hoá nhà lao Pleiku

Di tích ở trung tâm Tp Pleiku, cách Bưu điện tỉnh Gia Lai khoảng 300m về phía Nam có thể đến Di tích bằng các loại phương tiện xe ôtô, môtô hoặc đi bộ.

.Ngày 12-12-1994, Bộ VH-TT đã ra Quyết định số 321/QĐ-BT công nhận Di tích lịch sử: Nhà lao Pleiku, thuộc phường Diên Hồng, Tp. Pleiku.

4. Di tích lịch sử văn hoá làng kháng chiến Stor

Cách thành phố Pleiku khoảng 70km về hướng Đông, làng Stơr (thuộc xã Nam, huyện Kbang) là nơi anh hùng Núp được sinh ra và lớn lên, tại đây anh Núp đã phát động và lãnh đạo bà con dân làng đứng lên đánh Pháp, mô hình "làng kháng chiến" từ chiến trường Gia Lai ra đời. Làng Stơr và Anh hùng Núp đã thực sự trở thành biểu tượng của "Đất nước đứng lên" mà tiếng vang còn vọng đến tận Tây Bán cầu.

5. Hệ thống các thác nước trên địa bàn tỉnh Gia Lai

Tiêu biểu cho hệ thống các thác nước còn đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Gia Lai gồm có: Thác Phú Cường, thác Công Chúa, thác Ya Ma - Yang Yung, thác la Nhí, thác Lệ Kim...


Thác Phú Cường

Thác Phú Cường:

Thác thuộc xã Dun huyện Chư Sê, cách TP Pleiku 45km về phía Tây Nam, thác có độ cao cột nước khoảng 45m, đã từ lâu thác Phú Cường được nhiều người biết đến bởi vẻ đẹp tự nhiên, thảm thực vật xanh tốt, nằm trên dòng chảy suối Ia Peet đổ ra sông Ayun về hạ nguồn xuống hồ Ayun Hạ. Khu vực thác Phú Cường đang được ngành du lịch lập quy hoạch chi tiết cho phát triển du lịch.

Thác Công Chúa:

Thác thuộc xã la Mơ Nông huyện Chư Pah, cách TP Pleiku 50km về phía Tây Bắc, đây là một thác nước tự nhiên tuy không cao, nhưng địa hình rất đẹp. Thác nước được dàn trải bởi nhiều tầng đá thấp theo chiều xuôi xuống, với những bậc lên xuống dễ dàng, nước chảy không dữ dội mà êm đềm. Với vẻ đẹp lãng mạng của mình, thác Công Chúa đúng như tên gọi của nó như một nàng Công Chúa giữa chốn rừng xanh.

Thác Ya Ma - Yang Yung

Thác Ya Ma - Yang Yung:

Cách thị trấn Kông Chro 3km, cách TP Pleiku 120 km về phía Đông, đây là hai thác nước được tạo bởi khúc gấp của sông Ba đoạn ngang qua thị trấn Kông Chro. Thác Ya Ma (còn gọi là thác nhỏ) dòng chảy êm dịu, trên nền những bậc đá nối tiếp nhau, đi bộ dọc theo chiều dòng chảy của sông khoảng 3 km ta gặp một thác nước khác có cột nước cao hơn, như được nứt ra từ giữa dòng sông, tạo thành hai vách đá dựng đứng hai bên, đó là thác Yan Yung (còn gọi là thác lớn).

Thác la Nhí:

Thác Ia Nhí thuộc xã Nhơn Hòa huyện Chư Sê, cách TP Pleiku 70km về phía Nam, được tạo bởi suối la Lốp, tuy không có độ cao bằng thác Phú Cường, song bề mặt của thác rộng, dòng chảy không dữ dội mà êm dịu. Đây là điểm du lịch sinh thái dã ngoại hấp dẫn, Công ty Dịch vụ - Du lịch tỉnh đã chọn khu vực thác la Nhí để mở tour du lịch cưỡi voi dã ngoại trong rừng và nghỉ ngơi picnic tại thác.

Thác Lệ Kim:

Thuộc địa bàn xã la Tô, là một thắng cảnh đẹp của huyện la Grai, cách trung tâm huyện khoảng cách 15 km, cách Tp Pleiku 35km về phía tây, được tạo thành từ suối Ia Pech, chảy vào sông Pô kô nằm ngay bên trục lộ 664 la Grai đi Đức Cơ, với cột nước cao gần 30m dội xuống một hồ nước rộng, đứng phía dưới nhìn lên, hơi nước bay ta có cảm tưởng như những làn sương mù bao phủ.

Thác chín tầng:

Thuộc địa bàn xã Ia Sao, huyện Ia Grai, đây là dòng thác rất đặt biệt, cột thác được phân cấp 9 tầng, dòng nước chảy mạnh, phong cảnh hai bên bờ rất đẹp. Khách địa phương trong thành phố, đặc biệt là thanh niên thường tổ chức picnic tại thác. Đây là một trong những điểm có nhiều lợi thế cho đầu tư phát triển du lịch.

6. Thuỷ điện Ialy

Công trình thủy điện Ia Ly được xây dựng trên sông Sê San, một con sông lớn Tây Nguyên. Đây là công trình trọng điểm quốc gia, lớn thứ hai sau thủy điện Hòa Bình, với công suất 720MW và sản lượng điện trung bình 3,7 tỷ Kwh

Quá trình xây dựng và vận hành Nhà máy Thuỷ điện Ia Ly có ảnh hưởng lớn đối với đời sống KT - VH - XH... đối với Tây Nguyên nói chung và tỉnh Gia Lai nói riêng, đã tạo cho hàng chục nghìn lao động của địa phương, góp phần nâng cao dân trí của đồng bào trong vùng.

Đường hầm vào Nhà máy
Thuỷ điện Ia Ly

Tổng công suất có thể khai thác của toàn bộ sông Sê San ước khoảng 1.500 MW, trong đó Ia Ly chiếm gần một nửa. Trên và dưới thủy điện Ia Ly dự kiến xây dựng thêm 4 nhà máy thủy điện khác: Sê San 3, Sê San 4, Plei Krông và Thượng Kon Tum. Sê San 3 và Sê San 4 là những nhà máy nằm phía hạ lưu của thủy điện Ia Ly.

Thác Ia Ly nổi tiếng ngày xưa nay được thay bằng cảnh đẹp đập dâng, đập tràn xả lũ và một hồ nước rộng lớn trong xanh nằm giữa núi rừng Tây Nguyên, với diện tích bề mặt hồ rộng 64,5km2 và dung tích 1,03 tỉ m3 (ứng với mức nước dâng bình thường 515m). Nơi đây sẽ là một điểm du lịch tuyệt vời về cảnh quan và môi trường, đồng thời còn là nơi cung cấp các loài thủy sản nước ngọt cho Tây Nguyên.

7. Hồ Ayun hạ

Hồ Ayun Hạ là hồ nước nhân tạo, hình thành khi dòng sông Ayun được chặn lại vào đầu năm 1994, để khởi công xây dựng công trình thuỷ lợi Ayun Hạ, đập chính và cửa cấp nước của hồ nằm trên địa bàn xã Chưa A Thai - huyện Ayun Pa, cách Tp. Pleiku 70km về phía Tây. Vùng ngập chính của hồ thuộc địa phận xã HBông huyện Chư Sê.

Đến nay công trình đã hoàn thành, làm sống lại 13.500 ha đất canh tác, phần nhiều từ 1 vụ biến thành 2 vụ lúa, có dịp đi thăm suốt dọc kênh nằm giữa những cánh đồng bát ngát lúa 2 vụ ken đầy xanh tốt mà ở đó nhiều đời nay đồng bào các dân tộc chỉ trồng cấy 1 vụ nhờ mùa mưa hàng năm, mới thấy được công trình có ý nghĩa to lớn như thế nào đối với người dân nơi đây, công trình thuỷ lợi Ayun Hạ hoàn thành đã đem lại hiệu quả cao ổn định đời sống no đủ cho đồng bào các dân tộc, hạn chế nhiều sự chặt cây, phá rừng.

Du thuyền trên hồ Ayun Hạ

Hồ Ayun Hạ ngoài tác dụng cung cấp nước tưới cho 13.500 ha lúa nước, còn là hồ cung cấp nguồn thuỷ năng lớn ở khu vực, nhày máy thuỷ điện Ayun Hạ đã được xây dựng vừa chính thức hòa điện vào lưới điện quốc gia (đầu năm 2001), với 2 tổ máy đi vào hoạt động có công suất 3.000kwh.

Với bề mặt thoáng của hồ rộng 37km2, dung tích 253 triệu m3 nước (ứng với mực nước dâng bình thường), hồ Ayun Hạ còn là nơi cung cấp nguồn thuỷ sản lớn cho khu vực Ayun Hạ và TP Pleiku. Ngoài ra, mặt hồ còn là nơi tổ chức các hoạt động thể thao dưới nước, tổ chức các đội tàu, thuyền phục vụ khách du lịch tham quan, dã ngoại ngắm cảnh ven hồ.

8. Khu vui chơi giải trí công viên Diên Hồng

Công viên Diên Hồng được xây dựng vào năm 1994, nằm ở phía Tây - Nam trung tâm TP Pleiku, cách trụ sở UBND tỉnh Gia Lai 1,5 km, cách TT thương mại Pleiku 1km.

Với diện tích 12,3 ha, trong đó diện tích mặt thoáng của hồ nước gần 2 ha, mặc dù lưu lượng nhỏ, song nước trong hồ về mùa mưa cũng như mùa khô vẫn luôn đầy.

Công viên được quy hoạch gồm các khu vực:

- Khu vui chơi giải trí;

- Khu vườn hoa, cây cảnh, chuồng thú;

- Khu chòi nghỉ và lữ quán ven hồ;

- Hệ thống các kiôt; khu vực lòng hồ...

9. Công viên Lý Tự Trọng

Công viên Lý Tự Trọng được xem là công viên trung tâm, nằm giữa ngay trung tâm Tp Pleiku, với diện tích 6 ha, được triển khai đầu tư xây dựng từ năm 1998, song vì nguồn vốn hạn hẹp, nên việc đầu tư còn thiếu đồng bộ, một số hạng mục như: Khu vực tổ chức các sân chơi, bể bơi... cho thiếu nhi chưa thực hiện được.

Mặc dù vậy, những năm qua Công viên Lý Tự trọng đã có nhiều cố gắng trong việc tạo lập một không khí trong lành cho môi trường văn hóa của thành phố, thông qua việc tổ các đợt hội chợ, triển lãm, các chương trình vui xuân... đã thu hút khá đông khách đến với công viên.

Đặc biệt, hồ bơi trong công viên đã thực sự lôi cuốn và hấp dẫn lớp trẻ, bởi đây là hồ bơi được thiết kế theo tiêu chuẩn quốc gia, có cầu nhảy và dải phân cách, giúp tuổi trẻ đến với môn thể thao bơi lội.

10. Công viên Đồng Xanh

Một công trình văn hóa du lịch của Công ty Điện ảnh - Văn hóa Tổng hợp Gia Lai, cách trung tâm TP Pleiku 10 km về phía Đông, nằm trên quốc lộ 19 từ TP Pleiku đi Quy Nhơn. Diện tích 8 ha với các công trình:

- Kiến trúc mang bản sắc dân tộc Tây Nguyên: Nhà rông, nhà dài, nhà mồ, tượng mồ, đàn T'rưng nước...

- Nhà hàng đặc sản truyền thống dân tộc: Cơm lam, rượu cần...

- Sinh hoạt thể thao: Công viên nước, du thuyền...

- Sinh hoạt văn hóa: Tham dự các lễ hội dân tộc Tây Nguyên.

- Tham quan: Hồ sen, hòn non bộ, vườn thú, rừng thiên tuế, vườn bách thảo...


Tượng Diông Công viên Đồng Xanh

Hồ mang bản sắc Tây nguyên Công viên nước

11. Cổng trời Mang Yang Người dân Gia Lai vẫn quen với tên gọi khá huyền thoại "Đèo Mang Yang" là Cổng trời (Mang tiếng Jrai có nghĩa là cổng-cửa, Yang tức là trời). Quảng đường đèo không dài nhưng độ dốc đứng tạo cho ta có cảm giác như lên với trời xanh, có lẽ vì đặc điểm này mà nó rất thích hợp với tên gọi đó.

Nếu ai từng lên Phố núi Pleiku theo quốc lộ 19 và lại vào 2 mùa mưa nắng đặc trưng của cao nguyên này chắc hẳn sẽ không ngỡ ngàng trước hai vẻ đẹp rất riêng, rất nên thơ của phong cảnh nơi đây. Nếu bạn đến vào mùa nắng sẽ như lạc vào rừng cúc quỳ vàng rực rỡ dọc theo đoạn đường lên đến đỉnh trời, và nếu là mùa mưa bạn càng không khỏi ngỡ ngàng trước làn sóng nhấp nhô của cỏ tranh đuổi nhau trên sườn núi. Cảnh quan của Đèo Cổng trời vừa hùng vĩ vừa nên thơ đã để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng du khách.

12. Đồi thông Đắc Pơ

Đăk Pơ được thiên nhiên ưu đãi một khu rừng thông tự nhiên và một thảo nguyên cỏ tranh cạnh bên đã tạo nên một vị trí hấp dẫn cho đầu tư một khu du lịch tại đây, vùng đất này thường được gọi là "Đồi thông Đăk Pơ". Là một rừng thông tự nhiên hơn 40 năm tuổi, có mật độ khoảng 500 đến 600 cây/ha, đường kính cây khoảng 40 cm trở lên, cá biệt có một số cây có đường kính từ 1 m trở lên. Đồi thông nằm ở độ cao trung bình 1.150 m so với mực nước biển, có hệ thống suối chạy qua và nhiều thác nước lớn nhỏ tạo nên một quanh cảnh tươi đẹp. Khí hậu ôn đới nhiệt độ từ 15-200C.
Chính sách phát triển kinh tế xã hội của huyện Đăk Pơ đã nhấn mạnh vị trí của Đồi thông này có tầm quan trọng trong sự phát triển du lịch chung của tỉnh

13. Đến với miền hoang dã

Gia Lai với trên 830.000 ha đất lâm nghiệp có khá nhiều gỗ và động vất quí hiếm. Huyện nào cũng còn rừng nguyên sơ rộng và nhiều gỗ quí. Rừng Kon Cha Răng và Kon Ka Kinh là loại rừng thường xanh nhiệt đới ẩm, nhiều tầng, nhiều lớp. Tầng cây chính có thân cao to và thẳng, ở độ cao 20-25m những chạc cây mới bắt đầu xuất hiện. Tầng dưới rừng chằng chịt những dây leo, luôn ẩm ướt.


Posted by: M&N Jun 15 2009, 06:32 PM


Cảm xúc mưa



Nhok_KenZ


“…NHÌN MƯA NÀY TA NHỚ MƯA XƯA…”

Những cơn mưa đầu mùa tháng ba đổ xuống như xua tan cái nắng “cháy da đổ lửa” Mưa trong tôi là một cái gì đó hoài niệm xa xăm về thành phố đất đỏ tôi yêu-Pleiku.Tuổi thơ tôi lớn lên ở nhiều nơi,cuộc sống ở những nơi tôi đến ,tôi ở đều để lại những cảm xúc rất riêng về miền đất đó và một trong số đó có Pleiku.Pleiku có một thứ mà không thể tìm ở một nơi nào khác-đó là Mưa.Mưa Pleiku không có cái vẻ bình thường ở Ayunpa,không lẫn vị mặn của nước biển như ở Tuy Hoà,không ướt át mãnh liệt như ở Buôn Ma Thuột cũng không có cái "bất chợt"của Sài Gòn mà nó thân thương đến lạ kì.Mưa Pleiku là một cái gì đó có thể cho tôi cảm giác bình yên, xua tan mọi mệt nhọc của cuộc sống một cậu bé phố huyện lên tỉnh học.Nhiều lần đi học về trú mưa dưới gốc cây Không Tên già bên góc đường Trần Phú,lạnh lắm ,lạnh đến run người ấy chứ nhưng tôi thấy vui vì được cây Không Tên che chở -cây to như tấm lòng người Pleiku dành cho tôi vậy,yêu lắm.Mưa Pleiku là mưa trên những con dốc dài , đất đỏ đua nhau quện vào chân người đi.Bên trong cửa sổ nhìn ra mà thấy thương lạ kì.Mưa Pleiku còn gắn trong tôi những buổi chiều lãng mạn bên “em”; mưa che lối, ướt mặt hai đứa đi học về.Ngày ấy “em” tinh khôi và hồn nhiên lắm,nét trẻ con, nhí nhảnh hiện rõ lên đôi mắt và nụ cười của “em” chứ không u sầu và buồn bã như bây giờ-khi tôi “làm vỡ” trái tim “em” một-lần- nữa.Tôi không biết tự khi nào “em” đã yêu tôi-bối rối quá làm sao đây?Tình bạn mà chúng tôi dựng xây thật đẹp ,tôi không muốn làm “em” buồn cũng chẳng muốn đánh mất những kỉ niệm xưa và hơn đó là không muốn phụ lại những tình cảm ngọt nào “em” dành cho tôi khi xưa.Thật lòng xin lỗi “em”.Xin “em” đừng gọi tôi là “anh” nữa nhé!Hãy cứ tự nhiên như lúc xưa đi “em”, sống bên tôi “em” chẳng được hạnh phúc đâu!Xin “em” đừng khóc,tôi biết tôi đã phụ tình em rồi nhưng “em” hãy hiểu cho tôi bởi vì tôi không xứng đáng với em và tôi…đã có người trọn trao giấc mơ(dù cho cô ấy từ chối tôi một năm trước rồi).Bạn bè nói “em” và tôi sẽ không bao giờ được ở bên nhau lâu, đúng vậy xa nhau cả trăm cây số ,mấy năm rồi chỉ vài cú điện thoại ,hơn chục lá thư thôi nhưng tôi biết “em” vẫn còn yêu tôi nhiều ,khi tôi vui vẻ,say sưa nơi này,mấy ai biết được ngoài kia “em”lặng lẽ nhìn qua khung cửa sổ nhớ về tôi.

Có lẽ định mệnh đã gắn tôi vào cùng với mưa Pleiku.Buổi chiều hôm ấy-cái buổi chiều tôi đặt chân lên Phố Núi,mưa rào rạt ướt người tôi,mưa như thấm quyện vào nỗi lo lắng của tôi :rồi đây tôi sẽ ra sao,xoay xở thế nào khi chỉ còn mình tôi trên đất khách quê người.Rồi mưa của buổi chiều cuối cùng ,tôi phải trở về Ayunpa thôi!Chia tay bạn bè sao mà quyến luyến quá,làn gió khẽ nhẹ đưa tán lá cây Không Tên già như muốn nói với tôi điều gì, ở đến 2 năm mà tôi chẳng biết tên của cái cây ấy là gì chỉ biết tự bao giờ nó mang cái Không Tên của tôi đặt cho;ngày chia tay,nước mắt khẽ hoen trên đôi mắt “em”,giọt buồn thoáng lên mi mắt của “em”.Bước lên xe ,trời đổ cơn mưa ào ạt,phải chăng mưa muốn tiễn tôi đi?,phải chăng mưa muốn xoa dịu sự luyến tiếc của tôi?...

Quán cà phê buổi chiều mưa tháng ba,vang lên một câu hát quen thuộc đánh thức kí ức xưa về trong tôi,lời của bài hát cũng là lời tôi gửi đến Pleiku:”…Mùa mưa lại về trên nỗi nhớ.Mưa buồn như muôn thưở,mưa buồn muôn thưở, và em muôn thưở.Tình yêu tôi Pleiku mộng mơ…”.
Nhok _KenZ

Posted by: M&N Jun 16 2009, 11:47 AM

Địa chỉ ăn uống ....

Sưu Tầm

1.Phở : phở 2 tô hay còn gọi là phở khô có thể nói là đặc điểm nổi bật ở Pk . Tô phở khô được dọn lên, ngoài chén nước dùng, các loại rau, còn một gia vị không thể thiếu là tương xay và sa tế. Tương có vị vừa mặn nhưng vẫn có chút ngòn ngọt của đậu được lên men . Rau ăn chung với phở khô là xà lách, cần và rau quế.
Phở Tàu Lý -Trần Phú, phở Ngọc Linh – Sư Vạn Hạnh , phở Hồng – Nguyễn Văn Trỗi, phở Ngọc Sơn – Hùng Vương

2. Khu ăn uống đập Đức An (đường Thống Nhất)
- Đặc sản: gỏi, ốc um, trứng vịt lộn, nem chua, bánh ướt, chè các loại,... nhưng món được teen ưa thích nhất là món gỏi gan bò. Món này hơi cay một chút nhưng ăn thêm vài li chè là hết ý.
Ăn xong còn có thể qua hồ dạo chơi ngắm cảnh còn gì thú vị hơn
- Thời gian: từ chiều đến tối.

3. Khu ăn uống đường Hùng Vương (đối diện bưu điện TP)
- Đặc sản: cơm cháy chiên giòn, cút, gà nướng, ốc um, trứng vịt lộn,... Trong đó, cơm cháy chiên nóng giòn, phết mỡ hành và nước mắm là hấp dẫn nhất.
- Thời gian: từ 17g trở đi.

4. Bánh xèo Bà Tám (05 Trần Bình Trọng)
- Địa điểm teen đến ăn đông nhất là quán bánh xèo bà Tám: bánh xèo bò ,bánh xèo trứng ,...cuốn với rau sống, bánh tráng. Bánh xèo ngon cũng nhờ nước mắm được pha chế ngon cực kì luôn!
Ăn bánh xèo xong, mời bạn “lê” người qua quán chè sát bên để tráng miệng nữa nhé!
Nhắn nhỏ nè: bạn có thể đợi hơi lâu vì quán rất đông khách
- Thời gian : từ 6g sáng đến trưa.

5. Bánh mì
- Được “truyền tụng” là nơi bán bánh mì ngon nhất Gia Lai, bánh mì bà Mỹ (89B Đinh Tiên Hoàng) có nhân rất ngon, pa-tê có mùi vị rất đặc trưng không thể lẫn với nơi khác được.
- Thời gian : từ chiều đến tối.
- Bánh mì Loan Phú (41 Sư Vạn Hạnh) cũng có mùi vị rất riêng, nhân lạ miệng. Ngoài bánh mì ổ, còn có phở bò kho, mì xíu mại, sữa đậu, ...
-Thời gian: từ 6g sáng đến trưa.
- bánh mì Tam Ba với rất nhiều loại bánh mì khác nhau,bánh mì ngọt,mặn và bánh mì thịt với nhiều loại hương vị …

6. Lụi (122 Cao Bá Quát)
Quán lụi được teen Gia Lai “yêu thích” nhất là quán lụi Bà Sáu, ngoài món chính là lụi (500đ/xiên), còn có thịt nướng (1000đ/xiên), bánh cuốn (3000đ/cuốn)...đặc biệt, nước tương me dùng chấm lụi rất ngon! Vừa ăn vừa nướng, ăn bao nhiêu nướng bấy nhiêu nhé!
- Thời gian: từ chiều đến tối.

7. Bún cua
- Là món bún được nhiều teen Gia Lai mê mẩn. Nổi tiếng về bún cua phải kể đến Khu chợ nhỏ, hẻm Lê Lợi và Số 87 Phan Đình Phùng, mỗi nơi có một hương vị khác nhau.
Giá chỉ 3000đ/tô, bạn có thể ăn kèm với chả cây, nem chua; ngoài ra còn có nhiều loại giải khát, sinh tố, nước mía,... tha hồ lựa chọn.
- Thời gian : từ chiều đến tối.

8. Chè, giải khát
-Khu giải khát đường Hai Bà Trưng (nằm đối diện bên phải siêu thị Vinatex) có nhiều loại sinh tố, cocktail, kem, xôi mặn... Không gian ở đây rộng rãi, thoáng mát, bán vào buổi tối
- Chè bà Dũng (05 Nguyễn Thái Học, đối diện trường tiểu học Cù Chính Lan) có tất tần tật các loại chè, từ chè nóng cho tới chè đá, các loại cocktail... Chỉ có 3000đ-5000đ/món.
- Chè Thái (17 Võ Thị Sáu, đối diện Nhà Sách Thanh Niên đi lên) tập hợp rất nhiều loại sinh tố lạ miệng, si rô nhiều mùi vị, chè Thái, kem, trái cây... Khám phá hết mùi vị các thức uống nơi đây cũng thích lắm chứ! Giá cả từ 5000đ trở đi.
- Thời gian: qui tụ khách đông nhất là từ chiều đến tối.
- kem : Thanh Long – Hoàng Văn Thụ , lên hồ Diên Hồng kem cũng ngon
- yaout : ở Nguyễn Du hoặc Cù Chính Lan ,trên Cù Chính Lan bạn còn có thể thưởng thức 1 rừng các loại bimbim…thích lắm nha
- chè ở dọc wừu hoặc gần trường Hùng Vương : với các loại chè,gỏi,xoài,me ngâm,bắp xào sẽ tha hồ cho bạn thưởng thức

9. Bánh canh : có 2 loại là bánh canh gạo và bánh canh mì .Bánh canh mì sợi dai dai, được nấu với giò heo , chả, riêu …
1 số quán như : bánh canh Nhớ - Phan Đình Phùng , bánh canh Nguyễn Đình Chiểu , bánh canh bà Bảy – Cù Chính Lan …bánh canh Nguyễn Trường Tộ
- Thời gian từ chiều tới tối
Ngòai ra bạn còn có thể thưởng thức món bánh canh chả cực ngon ở chợ trên đường Nguyễn Thái Học vào buổi sáng hoặc ở cổng sau trường Nguyễn Huệ đường Sư Vạn Hạnh vào buổi chiều …

10.Bánh bèo : nếu thích những món bánh theo kiểu này bạn có thể thưởng thức ở 1 quán nằm trên hướng lên trường Cao đẳng sư phạm , với bánh bèo,bánh bột lọc,bánh nậm … chủ quán là người Huế nên làm những món này cực ngon ..

Ngòai ra bạn cũng có thể thưởng thức những món này ở đường Nguyễn Đình Chiểu ..

Còn 1 số món nữa như :
- bún thịt nướng ở Phan Đình Phùng hoặc ở Cù Chính Lan ..hoặc trên A1
- cơm gà : Mỹ Tâm – Nguyễn Văn Trỗi , Hải Nam – Hai Bà Trưng
- trà sữa : quán này rất hợp cho teen ở đường Hai Bà Trưng đối diện Vinatex
- ăn sáng buffet ở khách sạn Tre Xanh
- mì quảng ở Nguyễn Đình Chiểu
- bún riêu quán Chi – Phan Đình Phùng

đến với Pk là bạn đã đến với 1 cái thiên đường những quán cà phê , hầu như dọc đường nào cũng có những quán cà phê , vì là xứ cà phê mà ….
- Hạ Vàng , Cà Phê Đen ở đường Lê Qúy Đôn , Email với thủy tạ ngay hồ Diên Hồng
- Cà phê ở khách sạn Hoàng Anh Gia Lai : bạn có thể ngắm nhìn cả thành phố Pk về đêm , sẽ rất đặc biệt đấy … đ/c 01 Phù Đổng
- Hoàng Nhật , New Wonder, Lucky ở đường Nguyễn Du
- Hình Như Là, An An, Đùng Đình , cà phê Nhạc Trịnh , Dáng Xưa ở đường Wừu …
- Biển hồ Xanh ….
Địa điểm uống cafe nữa đó là ngay cổng Biển Hồ , không gian cực thoáng buổi tối gió se se lạnh thú vị ( đặc biệt là đi cùng ai đó để cảm nhận cái ấm áp

Posted by: M&N Jun 16 2009, 03:32 PM




Pleiku - Gia Lai và núi lửa


Núi lửa, thật là một thảm họa kinh hoàng, nhưng cũng thật kỳ diệu, diệu kỳ hơn cả đất trời, cây cỏ. Cả nỗi kinh hoàng và sự kỳ diệu đều sẵn mang trong nó những gì lãng mạn nhất. Không hiểu sao tôi lại quyết tâm đi làm cái việc còn mênh mông hơn cả tuổi thơ nằm trong nong chè của mẹ rồi tròn mắt đếm sao trên trời như thế. Tôi đi tìm miệng núi lửa, tìm dòng dung nham cũ của núi lửa, tìm những dấu tích thú vị và thuyết phục của những ngọn núi lửa trên đất Việt Nam. Không ngờ núi lửa đã hiện ra. Pleiku - Gia Lai được mệnh danh là thành phố nằm trên bờ miệng của 15 ngọn núi lửa.

Theo cuốn Thiên nhiên Việt Nam của Cố giáo sư Địa lý Lê Bá Thảo (NXB Khoa học và kỹ thuật, năm 1977) thì tại cao nguyên Kontum, Pleiku thuộc thành phố Pleiku-Gia Lai ngày nay "người ta có thể quan sát thấy nhiều di tích núi lửa ở 12km nam Pleiku: ngọn Chư Hơ Đrông ngày nay đã tắt ngấm nhưng vẫn còn giữ được dạng đỉnh hình nón cụt, những hồ miệng núi lửa tròn vành vạnh và những trũng hình hơi tròn mà người Gia Lai gọi là "Đô nau" ". Đỉnh núi lửa khổng lồ nhất Tây Nguyên kể trên chính là đỉnh Hàm Rồng nằm cách thành phố Pleiku 13km. Đỉnh Hàm Rồng có hình chóp nón cụt ngọn vàng rực toàn hoa cúc quỳ, món quà của những dòng dung nham ba-zan núi lửa.

Đỉnh núi hõm xuống với cái miệng núi loe tròn như miệng chén, nhưng vì không có một điểm cao hơn để quan sát (trên cao nguyên này, hầu như Hàm Rồng là đỉnh cao nhất), nên bạn chỉ có thể quan sát được những góc núi hình chữ U - con đường mà dung nham núi lửa đã trổ lối để chảy ra thành những cánh đồng ba-zan mênh mông tươi tốt. Đứng trên đỉnh Hàm Rồng, phóng tầm mắt bao quát thành phố Pleiku, bạn có thể thấy rất rõ những vòng chảy vân vi cao thấp, uốn lượn của dòng dung nham ấy.

Bạn có tin được rằng, khi núi lửa hoạt động, cả vùng cao nguyên Pleiku hiện nay sẽ sôi xình xịch như nồi cháo sệt, trong lúc cả khối cao nguyên hùng vĩ đang đông đặc lại thành đất ba-zan thì chợt có vài bọt khí từ lòng đất trồi lên, nổ vang rền. Các bọt khí nổ ra tạo thành vô số những hố tròn xoe như lòng một cái đĩa, các hố tròn ấy tồn tại một cách lạ lùng đến tận ngày nay. Bọt khí nằm ở làng Ốp - trong thành phố Pleiku - tròn tới hơn bất cứ hình tròn nào trong tự nhiên, tròn tới mức khó tin.

Điều thú vị nữa là nếu Hàm Rồng là cái miệng "dương" nhô cái dáng hình phễu của mình lên mặt đất thì Biển Hồ - đôi mắt Pleiku - lại là cái miệng "âm" của một núi lửa khác. Thế giới cũng có quá nhiều cái miệng núi lửa "âm" biến thành hồ nước trong vắt như thế này. Biển Hồ cách thành phố Pleiku 14km, cũng tròn một cách không tin được.

Trong quá trình đi tìm núi lửa ở Cao nguyên, chúng tôi nhận thấy một điều: câu chuyện về núi lửa đã đi vào tới tâm thức của các dân tộc cộng đồng Tây Nguyên như hiện nay vừ là một bằng chứng về sự hiện diện khó có thể phủ nhận của núi lửa Việt Nam, vừa cho thấy rằng không phải đợi đến lúc các nhà khoa học viết về núi lửa thì núi lửa mới hiện ra như giấc mơ lạ trước mắt các cộng đồng người sinh sống quanh các miệng núi lửa.

Đất Ba-zan màu mỡ bao giờ cũng chảy ra từ các miệng núi lửa, nếu có thể, bạn hãy lên Hàm Rồng, nhìn hoa cúc quỳ vàng mê mãi như nhắc nhở bạn rằng bạn đang cưỡi lên lưng một ngọn núi lửa kỳ vỹ từng phun lửa đỏ rực trên đất trời Tây Nguyên, như thế và như thế...

(Đỗ Doãn Hoàng - CAND)

Posted by: M&N Jun 16 2009, 04:01 PM

Gia Lai - Nhà tù Pleiku

Vị trí: Nhà tù Pleiku thuộc phường Diên Hồng, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Đặc điểm: Nhà tù Pleiku là nơi giam giữ tù chính trị dưới thời Pháp, Mỹ (trước 1975), nhiều hình thức tra tấn hiện đại và dã man được áp dụng tại Nhà lao này.

Di tích ở trung tâm Tp Pleiku, cách Bưu điện tỉnh Gia Lai khoảng 300m về phía nam, có thể đến Di tích bằng các loại phương tiện xe ôtô, môtô hoặc đi bộ.

Năm 1925, người Pháp cho xây cất Nhà lao Pleiku để giam giữ tù thường phạm, chủ yếu là người dân tộc. Đến năm 1940 phong trào đấu tranh cách mạng của đồng bào các dân tộc phát triển mạnh mẽ, lúc bấy giờ thực dân Pháp đã dùng nơi này để giam giữ những người yêu nước. Tháng 6/1948 chi bộ Nhà lao Pleiku được thành lập.


Posted by: M&N Jun 22 2009, 07:15 PM


Pleiku - năm tháng chưa xa



Sưu Tầm


Nếu không có gì thay đổi, tháng 4 tới đây, Pleiku sẽ tưng bừng các hoạt động kỉ niệm. Vào ngày đó, sẽ có xe hoa, có ca múa nhạc, có tập san thơ văn và nhiều thứ khác nữa. Tất cả đều chụm vào một ý tưởng định sẵn: Sự phát triển không ngừng của đô thị này trong mấy chục năm qua và, đó là điều không phải bàn cãi. Quả đúng như vậy, bởi Pleiku ngay từ khi mới chính thức được thành lập, cách đây gần 80 năm trước, đã dần là nơi tụ hợp của cư dân đến từ nhiều vùng miền trong cả nước. Từ chỗ lèo tèo vài dãy nhà tranh, cọp vẫn về hằng đêm, từ chỗ nắng bụi, mưa bùn, Pleiku nay đã khang trang, xứng đáng là đô thị loại 2 với ít nhiều vẻ duyên dáng đặc trưng.

Sự đổi thay dễ nhìn thấy nhất ở thành phố này chính là những con đường, góc phố. Sẽ có một triển lãm ảnh Pleiku xưa và nay nhân dịp này? Hay tin, tôi háo hức hỏi lại người có trách nhiệm và câu trả lời là một sự im lặng đến nao lòng. Im lặng là phải, bởi ý tưởng thì quá hay nhưng tư liệu thì vô cùng khan hiếm và thời gian cũng gấp gáp vô cùng. Sau 1975, rất nhiều tư liệu, trong đó có những hình ảnh liên quan đến Pleiku xưa đã được thiêu hủy vì nhiều lí do khác nhau. Sự thực thì vẫn có một vài công dân của thành phố hiện nay “liều mạng” giữ lại những thứ một thời từng được coi là “phản động”, “quốc cấm”. Số người (chôn tư liệu xuống đất hay bỏ vào thùng đạn quẳng xuống giếng) ấy không nhiều và cái họ còn giữ được cũng hạn chế. Bởi đơn giản là vì người ta chỉ giữ lại cho mình những thứ không thể bỏ đi được mà thôi. Những năm sau đó, kinh tế khó khăn là một trong những lí do khiến việc mưu sinh lấn át nhiều nhu cầu về văn hóa tinh thần của người Pleiku. Và rồi khi đời sống dễ chịu dần lên, sự sửa sang nhà cửa, sắm sanh đồ đạc mới đã trở thành nguyên nhân chính để người dân kiên quyết hơn trong việc không cần đắn đo, nuối tiếc trước những gì thuộc về quá khứ, lại thường hay ẩm mốc, xấu xí... Thế là cái gì đến, phải đến.

Trong những ngày qua, tôi đã theo chân vài người làm công tác sưu tầm văn hóa ở địa phương, đến một số nhà quen tìm hỏi những tư liệu về thành phố của mình. Không có hoặc có đấy nhưng những hình ảnh, giấy tờ ấy không thể dùng cho cái triển lãm kia được, là một sự thật. Tiếc và buồn song biết làm sao, khi mà chúng ta đã quá chậm chân. Pleiku là thành phố trẻ nhưng đô thị này cũng đã sắp tròn tuổi 80. Không phim ảnh, không sách báo về Pleiku xưa, làm sao lớp lớp công dân nơi đây có thể hiểu về nơi mình từng được sinh ra, lớn lên, neo đậu, gắn bó,…? Cả một mảng tri thức mang tính địa phương học cần thiết bị thiếu hụt, khó có khả năng bồi bổ. Quả là chẳng thể vui, bởi tình trạng hiện nay của vấn đề có thể sẽ làm người ta chạnh lòng khi buộc phải nghĩ về công tác lưu trữ của chúng ta trong suốt những năm qua. Mà thực ra thì, Pleiku chỉ là một ví dụ, nhiều nơi trong tỉnh cũng đã và đang ở trong tình trạng “thừa hiện đại, thiếu truyền thống” như vậy.

Chưa tìm thấy Pleiku trong các hình ảnh cũ, dù vẫn nuôi hi vọng nhưng tôi đành phải quay lại với những vật chứng một thời của đô thị thân yêu, còn sót lại đến ngày hôm nay.
Nguyễn Quang Tuệ

Thiết nghĩ nếu như bây giờ có thêm nhìu tư liệu về TP chúng ta thì tốt biết mấy !Một bài toán khó của những người làm công tác văn hóa lịch sử tỉnh nhà! !

Những j thuộc về thành phố trong quá khứ có quá ít !Mình nghĩ người GL yêu GL như vậy chắc cũng muốn tìm hỉu về nó !Bạn nào có tài liệu nào về Tp Pleiku trước kia có thể chia sẽ với mình :

Posted by: M&N Jul 5 2009, 11:09 AM


Một thoáng cà phê pleiku...


Nổi hứng, tôi làm một cái điều tra thống kê nho nhỏ về số người uống cà phê của Phố Núi. Kết quả khá bất ngờ với 92% nam giới từ 18 đến 80 tuổi thường xuyên hoăc không thường xuyên uống loại thức uống này, Phía các bà , các cô cũng có tới 56% kể cả thể loại Bạc xỉu ( sữa với một chút ca phê). Nếu kết quả trên phạm vi cả nước mà được như thế này thì có khi cà phê đã trở thành quốc ẩm rồi.

Từ xa xưa, Pleiku vì thế luôn luôn là một thành phố của quán cà phê, số lượng và sự đa dạng còn hơn cả xứ Buồn muôn Thưở, nơi mà ông Trung Nguyên có ý tưởng xây dựng thành “Thiên Đường Cà Phê” của Việt Nam.

Trở về những năm 60, 70 của thế kỷ trước, Pleiku được mệnh danh là thành phố Lính, mà lính thì chẳng ông nào không uống cà phê. Muốn uống một ly buổi sáng, chỉ cần bước chân ra ngõ với vỉa hè , góc phố đâu đâu cũng có. Cần một ly chất đắng với nhạc, không gian thích hợp để nghiền ngẫm sự đời, hoặc để nỗi buồn gặm nhấm tâm can thì cũng chẳng thiếu chỗ. Lúc ấy, mấy quán được ưa chuông nhất phải kể đến Văn, chuyên trị nhạc Trịnh Công Sơn và tiếng hát Khánh Ly, Phong phú hơn về nhạc là Trang, Kim Liên, Phong Lan......, Hoàng Lan thì dành cho cac ông sĩ quan đa tình với cô chủ quán tên Lan có mái tóc dài rất đẹp ở góc đường Phó đức Chính. Văn nghệ sĩ có nơi chốn riêng với Tay Trái ở đường Lê Lai bây giờ, với những đêm thơ nhạc cuối tuần. Năm 1972, người Sài Gòn ra mở cà phê Tâm Giao ở cạnh hội quán Phượng Hoàng với phong cách sang trọng, ghế cao, bàn trải khăn trắng muốt cùng hoa tươi với đối tượng phục vụ là các quan chức , sĩ quan cao cấp thời ấy. Ngày đó, chất lượng ly cà phê là cực kỳ quan trọng để thu hút khách.



Nhưng cái tên Dinh Điền mới thực sự khó quên đối với dân ghiền cà phê Pleiku bởi hương vị của ly cà phê ở đây. Quán rất bình dân, nếu không nói là lụp xụp, nhưng sáng nào khách đến chậm thì chẳng có một chỗ ngồi, riết thành một phong cách uống mà chỉ có ở Dinh Điền: gọi một ly, chẳng cần ngồi, đứng đâu đó, trộn từng ngụm cà phê với khói của hai điếu Ruby queen, Capstan hoặc Pall Mall là xong cơn ghiền buổi sáng. Chẳng thế, thiện hạ còn đồn ầm rằng sái thuốc phiện là một thành phần pha chế của Dinh Điền.

Sau 1975, Dân ghiện Caphe gặp cảnh gian nan vì khẩu hiệu “tất cả cho xuất khẩu”, Bất đầu một thời kỳ “Cà Phê uống lén”, Tuy không gay gắt như ở Ban Mê, nhưng Phố núi Pleiku đành phải đánh mất những gì đã có. Cần ghi nhận sự dũng cảm của ông Giáp (caphe Kim Liên), ông Giác (caphe Thu Hà), kiên trì và chấp nhận “buôn lậu” để có caphe phục vụ thượng đế, mà cái quán Kim Liên ấy giờ nằm trên đường Tăng Bạt Hổ có thể xem như kỳ cựu nhất ở đây rồi, Theo tôi, quán này đã có non nửa thế kỷ theo nghề.

Thời mở cửa, Cà phê Pleiku như vũ bão mà tiến lên không ngừng. Người giàu lên khoảnh khắc, kẻ thất bại ê chề cũng chỉ từ ly cà phê nhỏ.

Bây giờ, Dân uống cà phê Pleiku tha hồ mà chọn lựa cho mình một chỗ với cơ man nào là quán. Ngoài Hoàng Nhật, Hoàng Hà, Trăng Thu,Tennis, Thủy Trúc, Trúc Anh, Tân Cao Nguyên, Uyên, Trâm…. rồi phố núi cũng hình thành cả một con đường cà phê nằm dài con dốc võng trong khu Đức An, nào Nhạc Trịnh, Đùng Đình, Hình Như Là, Dáng Xưa, Souvenir...

Chỉ tiếc rằng đã quá nhiều về số lượng, nhưng tôi chẳng tìm thấy một điểm nhấn nào ấn tượng cỡ Văn hoặc Dinh Điền ngày trước.

Cái cách uống cà phê của người Pleiku bây giờ khá đơn giản, có lẽ một ly cà phê sáng chỉ là một thói quen khó bỏ. Trước đây ít ai uống cà phê đá, bây giờ đã có nhiều biến tấu. Giới trẻ chọn quán với tiêu chí khung cảnh và nhạc là chính, khách không đặt nặng chất lượng cà phê cho lắm! Cà phê Pleiku bây giờ quá nhiều về số, quá phong phú, đa dạng nhưng chưa thể đủ chất nghệ thuật để trở thành CAPHE ĐẠO.
(theo NGUYỄN SƠN)

Bài viết trên có nhắc đến cafe Dinh Điền, theo đánh giá là quán cafe ngon nhất và đặc trưng nhất của phố núi từ khi lập tỉnh lỵ đến nay.

Dinh điền nghĩa nôm na là vùng kinh tế mới với những chính sách di dân khai hoang có từ thời Pháp thuộc. Những năm 1962-1963 thì Gia Lai đã có nhiều khu dinh điền bao quanh thị xã Pleiku : dinh điền Lệ Cần, Lệ Trung, Phú Nhơn, Lệ Minh, Pleime 1, Pleime 2... Thời bấy giờ, những người kinh đi khai phá vùng kinh tế mới được cấp đất, cấp nhà, 3 tháng gạo, giống cây trồng... và họ tự canh tác trên mảnh đất mình được cấp với sự hỗ trợ kinh phí tối đa từ nhà nước. Loại cây chủ yếu được trồng thời ấy là cây đay. Người ta ngâm cay đay trong nước xong bóc vỏ bện thành sợi làm bao bố, có giá trị xuất khẩu cao.

Cafe Dinh Điền do một người gốc Hoa mở ra, quán nằm trong khuôn viên nhà tập thể lái xe khu dinh điền nên có tên là Dinh Điền. Cafe Dinh Điền không còn hoạt động từ trước khi Pleiku được giải phóng (17/03/1975). Địa điểm quán nằm trên đường Hai Bà Trưng, nay là Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội, đối diện với Văn phòng bảo hiểm Bảo Việt. Quán nằm gần Tỉnh Ủy bây giờ (trước đây là khu Biệt Điện), trên đường Quang Trung gần đó là Hội quán Phượng Hoàng (chỉ dùng cho sỹ quan chế độ cũ vui chơi) nay là nhà Bảo Tàng.

Bất cứ ai có thói quen uống cafe ở Pleiku trước năm 1975 đều biết đến cafe Dinh Điền, một quán cà phê lụp xụp, dăm ba cái bàn ọp ẹp, vợ chủ quán chẳng có vẻ cuốn hút gì cả với thân hình phốp pháp nhưng đều công nhận cafe ở đây ngon lắm, như là tẩm thuốc phiện ??
Quán rất đông khách, và thường hết chỗ ngồi, ai đến trễ thích thì đứng, thích thì chạy ra sau nhà tìm ghế hoặc ngồi đâu cũng được.

Nhiều người lớn tuổi khi nhớ về Pleiku thì ít nhiều đều nhớ đến cafe Dinh Điền, như là niềm đam mê một thời của họ :

Trích:
Trích:
Cà Phê Dinh Điền

Này cô chủ , cho thêm vài chiếc ghế
bọn tôi ngồi đây dưới cội thông già
cái cội thông nhắc bao điều kỷ niệm
sau hơn ba-mươi-năm thay lá đổi da

như bạn và ta,đã bao lần thay nơi trú ngụ
vẫn cứ nhớ về những đỉnh núi xa
qua Chư Pao ,đến đồi Đức Mẹ
đứng từ Hàm Rồng thấy đỉnh Pleime
những dấu chân ta trên đường khô nức nẻ
còn đọng hồng giọt máu anh em

uống đi chứ - ngậm ngùi chi quá khứ
giọt cà phê nào cũng đắng ,nhưng ngon
như những tháng năm qua - rất buồn,mà đẹp
vẫn nhiệt nồng trong nỗi xót xa
từ lúc bước vào cuộc hành trình cay nghiệt
ta đã đi , chân chạm thương đau
tim đã vỡ với bao lần ly biệt...

uống hết đi,mùi cà phê đã nhạt
đêm đang vào , sương xuống lạnh vai
hãy cất giữ những buồn vui thuở ấy
làm của hồi môn cho con cháu chúng mình

Thôi tạm biệt nhé - cô chủ nhỏ
"em Pleiku má đỏ môi hồng ".

Ngọc Dung
Trích:
BUỒN CHIA TAY PHỐ NÚI

Sớm mai qua phố núi
Vịn sương mù mà đi
Trưa giăng theo gió bụi
Chiều mưa bạt lối về

Sân trường nữ Pleime
Trắng tinh ngàn cánh bướm
Nắng vui theo bướm lượn
Quanh mây bụi vô tình

Hoa học trò nguyên trinh
Mà sao ươm bụi đỏ
Hay bụi gây niềm nhớ
Quấn quít bàn chân quen ?

Thèm hoài ly chanh Rhum
Quán Nhớ đêm giá buốt
Ngấn môi em thấm ướt
Bên thành ly thơm nồng

Say cà phê Dinh Điền
Say men chiều phố nhỏ
Ký ức đầy bụi đỏ
Tình xanh ngắt Biển Hồ

Ơi! phố núi ngày xưa
Em có còn ngóng đợi ?
Người đã đi xa mãi
Mang theo hồn Pleiku !

TRẦN KIÊU BẠC .

ngoài sự thu hút khách từ mọi tầng lớp của cafe Dinh Điền (1 quán cafe cóc không hơn không kém) thì Pleiku trước giải phóng có những quán cafe chuyên phục vụ nhạc, phục vụ tầng lớp tri thức, sỹ quan chế độ cũ, dân nghệ sỹ ... Trong những quán cafe được giới thiệu có 2 quán có tiếng là Văn và Hoàng Lan.

Văn là quán cafe lịch sự, lãng mạn, chuyên phục vụ nhạc Trịnh với tiếng hát Khánh Ly. Đây là địa điểm ưa thích của các bạn học sinh, họ đến đây bay bổng ước mơ cùng nhau bên dòng đời cafe và nhạc. Văn nằm trên đường Lê Hồng Phong (xưa là Phan Than Giản, đường này trước đây đâm thẳng ra Lê Lai, sau này thì bị bít lại tại Hoàng Văn Thụ) phía trên chung cư Hoàng Anh Gia Lai bây giờ (qua khỏi Bưu điện thành phố). "Bộ gõ" của quán được trang bị khá "gấu" với đầu băng cối Akai, receive Sansui, loa Pioneer nên âm thanh cho ra rất mượt mà, mộc mạc, trung thực, đầy nhạc tính . Hiện nay ai sở hữu hệ thống như trên là dân chơi audio có máu rồi.

Quán cafe Hoàng Lan thì như bài viết giới thiệu, nó lôi cuốn giới sỹ quan chế độ cũ và tri thức thời bấy giờ nhờ sự cuốn hút của chủ quán tên Lan. Bên cạnh đó thì phong cách của quán này cũng hơi đặc biệt là chuyên phục vụ nhạc của ca sỹ Lệ Thu. Bài viết có đề cập đến địa điểm quán Hoàng Lan trên đường Phó Đức Chính (nay là Nguyễn Văn Trỗi). Nhưng theo tài liệu của SRR thì Hoàng Lan nằm trên đường Tăng Bạt Hổ, gần ngã ba Tăng Bạt Hổ - Hoàng Văn Thụ (khi xưa là Võ Tánh), đi từ phía nhà văn hoá thanh thiếu niên (trước là Nhà thờ quân đội) về Cao Thắng, qua trụ sở Công an phường Yên Đỗ, cách khoảng 3 căn nhà (lúc trước là căn nhà nhỏ, cũ kỹ, nhưng giờ không biết sao vì SRR mỗi khi về Pleiku cũng ít để ý).

Ngoài ra không thể không nhắc đến cafe Kim Liên, một quán cafe lâu đời nhất tại Pleiku cho đến thời điểm này (nhãn hiệu Thu Hà là rất lâu sau khi Pleiku được giải phóng mới xuất hiện, trong khi thương hiệu Đông Hưng đã có từ trước giải phóng về chế biến cafe bột). Tuy nhiên địa điểm lâu nay trên đường Tăng Bạt Hổ (gần nhà văn hoá thanh thiếu niên) là sau này chứ trước năm 1975 thì cafe Kim Liên nằm trên đường Hùng Vương (xưa là Hoàng Diệu ), đối diện khách sạn Yaly, nằm phía trên Khách sạn Việt Trường. Cafe Kim Liên ngoài phong cách trữ tình, lãng mạn thì còn được biết đến như quán cafe "tình" với những phòng ngăn nhỏ.



Có một Pleiku để nhớ
Lần này trở lại Pleiku, cảm nhận của tôi về một “xứ sở mù sương” đã dần dần khác hẳn. Cái thị xã vốn trầm tĩnh ngày xưa, nay được thổi vào một luồng sinh khí mới. Tấp nập hơn. Đông vui hơn. Thương trường phát triển mạnh mẽ. Khách trong nước, ngoài nước đến du lịch, tham quan cũng nhiều. Dáng dấp của một thành phố tương lai đang hình thành qua việc mở rộng cơ sở hạ tầng, đường giao thông, nhà ở, trường học.v.v…. Duy chỉ có một đặc trưng của phố núi bao năm vẫn giữ được, vẫn làm cho khách thập phương không thể nào quên, đó là hương vị cà phê đậm đà, nguyên thủy.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, các quán cà phê ở Pleiku như “ nấm mọc sau mưa” có lẽ đây là một dịch vụ nhàn hạ và trên hết, phát huy được thế mạnh của vùng đất đỏ Bazan. Café Pleiku vốn nổi tiếng không thua gì café Ban Mê Thuột.


Nhiều người từng nói với tôi, đến Gia Lai mà không đến tiệm Café Thu Hà ở 09 Nguyễn Thái Học. Thị xã Pleiku, coi như chưa thưởng thức được đầy đủ hương vị của đặc sản vùng cao. Nếu bạn đến Thu Hà vào khoảng 6 – 7 giờ sáng, có thể không có ghế ngồi – dù Thu Hà đã mở rộng hơn so với trước đây 3 – 4 lần. Thanh niên thì thích không khí nhạc hoà quyện với từng giọt café đặc sánh từ từ chảy xuống ly. Lứa tuổi trung niên hoặc lớn hơn lại thích cái êm đềm, thanh lịch cộng với sự nồng đượm, thơm ngát của café, và cho dù bạn là người khó tính, một khi bạn đến quán này, bạn cũng sẽ nhận ra sự ấm cúng, dễ chịu. Một vị khách nửa đùa nửa thật nói với tôi rằng, anh xa Pleiku, lúc trở về việc đầu tiên là ghé vào Thu Hà để nhấp nháp một ly café rồi mới về nhà. Cái “duyên” của Thu Hà không chỉ ở cách giữ khách mà còn là giữ cái chân chất của vị café khiến người ta không quên được. Điều đặc biệt hơn, Thu Hà là quán duy nhất ở vùng cao này vừa trồng vừa chế biến, bán café, tạo thành một vòng khép kín.

Anh Ngô Tấn Giác, chủ nhân Thu Hà cho biết, gia đình anh có 15 ha vườn, trong đó có 11 ha café đã thu hoạch, năm rồi thu hồi được hơn 20 tấn café nhãn và anh chị cũng làm nghề bán café được 15 năm. Qủa là một bề dày kinh nghiệm. Café chế biến của Thu Hà có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Bản thân anh Giác đã từng học ở đại học sư phạm, đại học luật (trước năm 1975), về làm vườn hơn 10 năm nay, từng được Tổng bí thư Đỗ Mười ngợi khen là “ một nông dân rất có kiến thức khoa học”.

Chia tay Pleiku, tạm biệt cái hương vị café nồng nàn, quyến rũ ở Thu Hà, tôi càng thấm thiá hơn câu nói của chủ nhân. “Bán café không phải là nghề khó, quan trọng là giữ được uy tín cho mình, cho đến đời con cái mình. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh mà”.

Chuyện trà dư tửu hậu
Cái se lạnh ở phố thị Sài Gòn làm nhớ đến mù sương phố núi và cốc càphê trong đêm lạnh. Bạn đã nhấm nháp ly cà-phê Tùng nổi tiếng ở ĐàLạt dạo nào? Giờ đây mời bạn đến thử cà-phê Thu Hà ở Pleiku và trò chuyện với ông chủ quán – Một nhà doanh nghiệp đi lên từ lòng kiên nhẫn pha với tính phiêu lưu và sự ….. nghiền cà-phê.

Ly cà-phê ngon ở phố núi

Đến Pleiku nhiều lần, lần nào tôi cũng được bạn bè mời đi uống cà-phê ở quán Thu Hà nằm trên đường Nguyễn Thái Học, với lời giới thiệu đây là quán cà-phê ngon nhất Pleiku. Phin cà-phê buổi tối thật chặt, dăm phút sau mới nhỏ xuống giọt đen đầu tiên. Uống cà-phê ở đây giống như “cà-phê đạo”, nếu nôn nóng thì không sao đạt đến cái ngon của cà-phê. Có phải vì thế mà quán luôn đông khách?

Gặp chủ quán, anh Ngô Tấn Giác với vẻ phong sương của một người nông dân, anh cười :” Tôi vừa mới đi thăm vườn về”. Câu chuyện của chúng tôi bắt đầu với ly cà-phê có hương vị rất riêng trong cái lạnh dịu dàng của phố núi. Qua 10 năm tạo dựng cơ nghiệp với cà-phê cho khách và với nghề trồng cà-phê, giờ đây anh đã trở thành tỷ phú vớ 15 ha cà-phê, chủ nhân một cơ sở sản xuất cà-phê bột và một quán cà-phê nổi tiếng: Thu Hà. Cuộc phiêu lưu của Giác cho đến năm 44 tuổi này cũng đầy gian truân. Sinh ra tại Mũi Né – Phan Thiết – Sau khi tốt nghiệp sư phạm, Giác đi dạy một thời gian và do duyên số đưa đẩy, Giác đã lập gia đình với chị Nam, người Pleiku và quyết định lập nghiệp tại đây vào năm 1981. Lúc ấy, gia đình anh rất khổ, có lúc phải đi vay 50.000 đồng để mua than ra chợ bán. Là dân nghiền cà-phê, nhiều lúc rảnh rỗi, ngồi niếm cà-phê vỉa hè, anh chợt có ý nghĩ: “ Tại sao mình không mở một quán cà-phê ngon?” Hơn nữa, trước giải phóng, gia đình vợ anh đã từng mở một quán cà-phê khá nổi tiếng ở đây một thời. Hai vợ chồng Giác quyết định dựng cơ nghiệp từ cái nền cũ Thu Hà năm xưa.

Trải qua nhiều năm, giờ đây anh đã mua thêm ngôi nhà bên cạnh, xây dựng lại và thiết kế quán Thu Hà trở nên xinh đẹp. Sự thành công của cà-phê Thu Hà có lẽ bởi vợ chồng anh là dân chuyên trồng cà-phê. Lúc đầu chỉ có 6 sào (1 sào: 1000m2). Sau đó lần lần mua thêm và đến hôm nay đã có 15 ha cà-phê ở Chư Á. Trong khi bao nhiêu chủ vườn cà-phê lo ngại vì giá cà-phê hạ thấp, thì vườn cà-phê của anh Giác hoàn toàn không bị ảnh hưởng. Lý do: Tất cả cà-phê trồng được, anh đều đưa vào chế biến thành cà-phê bột và cung cấp cho các đại lý cũng như cho chính quán cà-phê của mình. Trả lời câu hỏi về bí quyết chinh phục khách hàng của mình, anh Giác cho biết: “ Quan niệm của tôi rất đơn giản : Cà phê phải nguyên chất, không độn. Nguyên chất không đủ, mà cà phê dùng chế biến phải vừa chín trên cây, hái xuống. Cà phê còn non hoặc chín quá khi chế biến điều không ngon”.

Còn kỹ thuật pha chế? Anh chỉ cười, vì đây là bí mật nghề nghiệp. Vậy đó, trên giữa hàng trăm quán cà-phê ở Pleiku, chàng trai Mũi Né đã đến, mở quán cà-phê, trồng cà-phê và giàu lên bởi lòng kiên nhẫn và bí quyết riêng của mình. Thu Hà cũng là quán cà-phê không bán rượu, khách còn có thể yên tâm khi lỡ quên một đồ vật nào đó trong quán. Còn nưã, cà-phê Thu Hà ngon, nhưng giá bán lại không cao.

Sự tồn tại và phát triển của hãng cà phê Thu Hà được có như ngày hôm nay là nhờ tính trung thực, uy tín, chất lượng và giá cả hợp lý của sản phẩm. Đã một lần thưởng thức cà phê Thu Hà, chắc không một ai quên được ấn tượng, hương vị ngọt đắng của ly cà phê trong không khí se lạnh, êm đềm của phố núi, thấy lòng ấm lại, quyện lẫn nỗi nhớ man mác của núi rừng.


Để đạt được chất lượng theo khẩu vị của từng dân tộc, phải có một sự hiểu biết nhất định nào đó. Như người Việt không thích dùng cà phê có vị chua nhưng vị đắng ngọt ngào. Người Tây Phương thích dùng cà phê tinh khiết, thuần tuý, nhẹ nhàng không đậm đặc.

Trước năm 1975, ai đã từng ở Pleiku chắc không thể nào quên được cà phê Dinh Điền, một ấn tượng của một đời người về phố núi. Hãng cà phê Thu Hà tiếp nối của “một cà phê Dinh Điền“. Tuy đã ra đời từ lâu nhưng mấy ai được biết hương vị ngọt ngào của ly cà phê Thu Hà, không ồn ào, không phô trương, nhưng sâu lắng. Đó cũng là một nét đặc trưng của cà phê Dinh Điền trước 75, cũng là cà phê Thu Hà từ 1975 đến nay.

Thực phẩm là một trong những yếu tố đem đến sự sảng khoái và bồi dưỡng thể chất. Biết rằng thương trường là chiến trường nhưng người sản xuất thực phẩm phải biết trân trọng sản phẩm mình làm ra. Không vì lợi nhuận quên đi cái tâm của người sản xuất. Từ quan niệm đó, dù bất cứ hoàn cảnh nào, cà phê Thu Hà bao giờ cũng nguyên chất 100%, không dùng các hàng nông sản khác để làm mất đi hương vị ngọt đắng của cà phê, không dùng các chất phụ gia gây tác hại đến sức khoẻ của người tiêu dùng. Nhất là giữa lúc giao thời, giá cả hàng nông sản chưa ổn định, giữ được cái tâm của người sản xuất là một điều không dễ.

Tìm cho mình một hướng đi để phù hợp với cuộc sống nhất là trong những năm cơ chế còn ràng buộc, cuộc sống gia đình rất cơ hàn, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lấy đâu ra vốn liếng để đầu tư và phát triển.

Hình thành từ một quán cà phê có tên Thu Hà từ năm 1971 nhưng kinh doanh chỉ gói ghém trong phạm vi gia đình từ công đoạn chế biến đến tiêu dùng.

Sau gần 30 năm , hoạt động thưong hiệu cà phê Thu Hà đã có một chỗ đứng trên thị trường Việt Nam, Việt kiều Mỹ, Uc, Pháp, Nhật, Hoà Lan, Đức, Na Uy, Nga, Anh, Canada về thăm quê hương, đã tìm mọi cách để có cà phê Thu Hà làm quà khi trở lại xứ người. Với chất lượng và uy tín, cà phê Thu Hà đã để lại trong lòng người tiêu dùng một ấn tượng tốt đẹp, một tình cảm trong một Đại gia đình.

Cảm nhận hưong vị cà phê ngọt đắng với không khí se lạnh của núi rừng, cái tình cảm của Ông Chủ quán với Khách : chân chất, mộc mạc, bình dị.


Trích:
tổng hợp các quán cà phê ở pleiku

-Wừu : Tích tắc, Đùn5 Đình, Dáng xưa, Souvenir, Cao nguyên, Hình như là..., Nhạc Trịnh. Hoàng gia. Trâm, HươngGiang.
-Trong hồ Đức An : Hồ Thuỷ tạ, Hạ vàng ( Đang đc sữa chữa), Email. Vương Cát trà.
-Quyết Tiến : Cát đằng,l noname^^!
-Hai Bà Trưng : Cà Phê tem, Bè bạn, Hoa Hướng Dương
-Tăng Bạc Hổ : quán Kim Liên, Phiên Phương, Không gian, Cỏ tranh, Forget me not.
-CMT8 : quán Thiên trúc, quán Huyền thoại
-Ngã 3 Hoa Lư (đối diện cây xăng) Trung Nguyên
-Quang Trung : quán Tennis, Tân Tây nguyên
- Hẽm Hoàng Hoa Thám : Dòng Sê San
- Biển hồ : Biển hồ xanh
-quán Suối reo ( Gần Việt Ken) Đường nào quên mất ùi^^!
-Nguyễn Văn Trỗi :quán khánh Linh,quán Hồng Hà
-Khu trường Cao đẳng : quán Dương Cầm thu ( Nhắc lại là có nhạc sóng dzô chém dzữ áh )
-Phan Đình Phùng : quán Tây nguyên quán ( Là Ai Cập cũ ), Nhân Văn trà
-Hùng Vương : quán Thiên Nga
- Lê Lai : quán Ana
- Trần Khánh Dư : quán Rock
-Lê Hồng Phong : Trà Cung Đình, Trà Mi, quán 38( Gỉai trí cờ tướng^^!)
-Nguyễn Du : New Wonder, Lucky, Hoàng Nhật.

Posted by: M&N Jul 17 2009, 04:09 PM


1929- Năm Ra Đời Của Pleiku


Pleiku vùng đất mầu mỡ với diện tích hơn 8,000 cây số vuông. Đây là vùng rừng rậm hoang vu của người dân miền Thượng sắc tộc Chereik. Trước kia Pleiku là một phần đất của tình Kontum nhưng đến ngày 12 tháng 12 năm 1929 thì tách rời để thành một tỉnh mới mang tên Pleiku.

Plei có ngĩa là Làng. Ku có nghĩa là đuôi. Pleiku là một thị trấn của cuối làng. Và đến ngày 30 tháng 4 năm 1949, các tù trưởng ở Pleiku đã cùng với các tù trưởng của các tù trưởng khác ở vùng cao nguyên trung phần làm lễ tuyên thệ trung thành với vua Bảo Đại. Đến tháng 4 năm 1950 thì nhà vua ban hành đạo dụ số VI đặt Pleiku và các tỉnh cao nguyên trực thuộc quyền điều khiển của nhà vua và vùng nầy trở thành hoàng triều cương thổ, tách khỏi quyền cai trị của người Pháp kể từ ngày 25 tháng 7 năm 1950. Đến năm 1959, đất Pleiku bị cắt bớt cho hai tỉnh Phú Yên và Bình Định. Đến năm 1962, quận Cheo-Reo lại bị sáp nhập vào tỉnh Phú- Bổn, nhưng sau nầy DacLac nhượng bớt đất để Pleiku vẫn giữ nguyên diện tích hơn 8,000 cây số vuông cho đến ngày nay. Từ năm 1955, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Pleiku là khu dinh điền với khu ruộng nương mở mang trên các khu đồi trọc, có nơi cấy được hai mùa như vùng Lệ Trung có đập ngăn nước.

Về phương diện quân sự, Pleiku còn là một vị trí chiến lược nơi đặt Tổng Hành Dinh của Quân Đoàn II mà vị Tướng Tư Lịnh cuối cùng là Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã anh dũng tuẫn tiết khi mất miền Nam.

Tỉnh lộ số 7 chạy từ Pleiku xuyên qua Phú Bổn về đến Phú Yên, con đường huyết mạch đã bỏ hoang từ lâu, cuối cùng con đường nầy đã đưa quân dân cán chính triệt thoái khỏi vùng hỏa tuyến Pleiku.

Pleiku vùng đất đỏ với vô vàn kỷ niệm để nhớ để thương!

Posted by: M&N Jul 17 2009, 04:14 PM


Tìm hiểu về Lễ Bỏ mả (Lễ Bơ thi)


Lễ Bỏ mả gồm 3 bước sau: Lễ dựng lại nhà mồ


Lễ Bỏ mả hàng năm khi mừa mưa vừa chấm dứt (từ tháng 11 đến hết tháng 4 dương lịch), khi mùa màng đã thu hoạch xong. Cả người Bahnar và Jrai đều có một từ chung để gọi Lễ Bỏ mả là Bơ thi. Lễ Bỏ mả là lễ hội lớn nhất, dài ngày và đông vui nhất của cư dân bản địa Gia Lai, từ 3 đến 6 ngày.

Theo quan niệm của cư dân bản địa Gia Lai, người sống đều có hồn, khi chết hồn biến thành ma. Hàng ngày, người thân của người chết phải đem cơm nước đến nhà mồ, quét dọn nhà mồ. Chỉ sau khi làm Lễ Bỏ mả người chết mới đi về thế giới tổ tiên, chấm dứt mọi ràng buộc giữa người sống với người chết.

Lễ Bỏ mả thường diễn ra vào buổi chiều, bắt đầu một cuộc trình diễn lớn quanh nhà mồ. Sau khi già làng làm lễ cúng xong, thân nhân của người quá cố vào nhà mồ khóc than lần cuối với người đã chết. Tiếng cồng chiêng, tiếng trống nổi lên, đoàn rước gồm những người đánh khiên và đánh trống, người đánh cồng chiêng, người đeo mặt nạ, người trình diễn những con rối, phụ nữ thì múa, họ đi vòng quanh nhà mồ biểu diễn những động tác của mình theo tiếng nhạc. Trang phục những người tham gia đều rất trang nghiêm và sặc sỡ.

Sau khi làm lễ giải phóng người sống không còn một ràng buộc gì với người chết. Họ có thể đi lấy vợ, lấy chồng, có thể dự những cuộc vui của dân làng. Đến đây Lễ Bỏ mả cũng chấm dứt, ngôi nhà mồ củng bị bỏ luôn.

Posted by: M&N Jul 17 2009, 04:26 PM

Một một số nhạc cụ đặc trưng Tây Nguyên !


Đàn T’rưng làm bằng nứa, những ống nứa.


Kho tàng nhạc khí của đồng bào Bahnar, Jrai hết sức phong phú, chế tạo bằng nhiều chất liệu khác nhau. Từ các loại nhạc khí cổ sơ có chất liệu thiên nhiên như đá, tre, nứa, vỏ bầu, dây rừng, gỗ, lá cây… đến các loại nhạc khí pha trộn giữa chất liệu thiên nhiên với kim loại đồng, sắt… và cuối cùng là loại nhạc khí được chế tác hoàn toàn kim loại đó là cồng chiêng, lục lạc, chập chõa.



Nổi tiếng và được bạn bè quốc tế biết đến là đàn T’rưng và cồng chiêng. Đàn T’rưng làm bằng nứa, những ống nứa được lựa chọn sắp xếp theo hàng âm…chỉ đơn giản như thế nhưng giai điệu của đàn T’rưng lại réo rắc, trong trẻo đến nỗi khiến người ta như đang lạc vào suối rừng bao la. Bên cạnh đó cồng chiêng là loại nhạc khí không kém phần hấp dẫn, âm vang lúc trầm hùng lúc tha thiết, theo mỗi ngữ cảnh của lễ hội đã thu hút sự quan tâm của du khách.

Nhạc khí của người bản địa Gia Lai còn cả một kho tàng như Goong teng teng, goong tốc lốc, tôi alao, đàn mõ, đàn khinh khung, trống cái, trống vừa, trống nhỏ, kèn lá, kèn kêu thú, kèn t’nốt, sáo alai, sáo chul, đinh dek, goong rel…

Tất cả các loại nhạc khí này được tồn tại và được cải tiến luôn gắn với cuộc sống lao động chính vì vậy nó đã ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm của các dân tộc.










Posted by: M&N Aug 3 2009, 11:16 AM


Làng Đê K’Tu



Vị trí: Thuộc xã Kong Dong, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.
Đặc điểm: Làng Đê K'Tu có chừng 100 hộ với gần 500 khẩu đồng bào dân tộc Ba Na, định canh định cư ở đây từ lâu.

Làng Đê K'Tu không những có màu xanh của ruộng lúa, nương ngô, đường làng sạch đẹp mà còn có những nét đẹp văn hóa truyền thống bản làng được gìn giữ và phát huy. Vào cổng làng, chúng ta gặp ngay nhà rông cao sừng sững, uy nghi, thể hiện ý chí, sức mạnh phi thường của cộng đồng văn hóa người Ba Na và được coi là đẹp nhất ở Gia Lai. Làng còn lưu giữ được 2 bộ cồng chiêng, mỗi bộ có 18 chiếc, vang dền âm thanh núi rừng trong các ngày hội. Các loại đàn dân tộc như Tơ rưng, Goong... được cất giữ tại nhà rông để lưu truyền cho các thế hệ sau.

Posted by: M&N Aug 3 2009, 11:30 AM


Pleiku sẵn sàng đón ngày hội lớn




Vào tháng 11 năm nay, Festival Cồng chiêng Quốc tế Gia Lai lần thứ nhất sẽ được tổ chức tại phố núi Pleiku xinh đẹp của chúng ta. Đây là một dịp để giới thiệu với bạn bè trong nước và thế giới biết về Gia Lai giàu bản sắc văn hóa dân tộc, giàu tiềm năng thế mạnh và giàu lòng mến khách.

Dự kiến Festival Cồng chiêng Quốc tế lần này sẽ có các hoạt động chính: Trình diễn các sinh hoạt văn hóa đặc sắc và độc đáo của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; triển lãm ảnh về Không gian văn hóa cồng chiêng; Hội thảo khoa học bảo tồn và phát huy giá trị của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Tham dự Festival, ngoài 11 đoàn cồng chiêng của 11 dân tộc là chủ nhân lâu đời của vùng đất Tây Nguyên như: Bahnar, Jrai, Êđê, Mạ, Cơ Ho, Chu Ru, Xơ Đăng, Giẻ-Triêng, Brâu, Rơ Măm, Mnông còn có các đoàn cồng chiêng của các dân tộc thiểu số khác ở nước ta như: Mường, Thái, Chăm, Khơ Me, Hrê, Cơ Tu, Tà Ôi, Cor, Raglai… và đại diện cho các nước có cồng chiêng trong khu vực và thế giới. Cùng với những hoạt động trong khuôn khổ Festival tại phố núi Pleiku, đến với Festival Cồng chiêng Quốc tế lần này, du khách có thể tìm hiểu về lịch sử, văn hóa Gia Lai thông qua các hoạt động mang đậm giá trị văn hóa dân tộc như phục dựng các lễ hội đón năm mới, lễ hội Pơthi độc đáo của người Bahnar, Jrai và đến với các danh lam thắng cảnh có tiếng trong vùng như hồ Tơ Nưng, thủy điện Ia Ly hùng vĩ…

Ông Nguyễn Hồng Hà- Chủ tịch thành phố Pleiku cho biết: Đây là dịp để thành phố Pleiku thể hiện sự mến khách và quảng bá thương hiệu của mình trên toàn thế giới biết. Chuẩn bị cho sự kiện trọng đại này, ngay từ bây giờ thành phố sẽ triển khai các mặt công tác sau:

Về an ninh trật tự và an toàn xã hội: Tổ chức lại lực lượng ở cơ sở: Kiện toàn ban, tổ bảo vệ đường phố, tổ dân phòng, tăng cường tuần tra kiểm soát, trực đêm ở các địa bàn dân cư; tuyên truyền nhân dân làm tốt công tác tự phòng ngừa và phòng ngừa xã hội; công an liên tục mở các đợt truy xét và lập các chuyên án triển khai mạnh mẽ; có phương án bảo vệ an toàn cho du khách và các đoàn đến tham gia Festival Cồng chiêng và các sự kiện khác tại thành phố.

Về chỉnh trang đô thị: Thành phố đã xác định mục tiêu đẩy mạnh công tác quản lý, chỉnh trang đô thị, phục vụ tốt đón nhận đô thị loại II, kỷ niệm các ngày lễ lớn của thành phố và phục vụ cho Festival Cồng chiêng. Tập trung vào các nội dung: Điện chiếu sáng và trang trí, lát vỉa hè một số tuyến đường, thu gom rác, dọn vệ sinh. Ngoài ra, kêu gọi các doanh nghiệp tài trợ xây dựng cột đồng hồ tại ngã tư Lê Lai - Trần Phú; biểu tượng cột đá tại ngã ba Diệp Kính; cổng chào vào thành phố ở ngã tư Biển Hồ, Hàm Rồng và một số bảng điện tử tuyên truyền quảng cáo.

Thành phố cần hoàn chỉnh Công viên Lý Tự Trọng, Quảng trường 17-3, hệ thống điện trang trí đô thị, thảm nhựa một số tuyến đường trong tỉnh như đường Hùng Vương, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, khu vực Công viên Diên Hồng, Plei Ốp. Trang trí khu vực Biển Hồ: Nhà ngắm cảnh, công trình vệ sinh, 5 km đường quanh cổng vào, bãi đỗ xe. Trang trí khu vực đỉnh Hàm Rồng: Đường lên, bãi đỗ xe ngắm cảnh… Khu vực Công viên văn hóa Đồng Xanh…

Hương Trà

Posted by: M&N Aug 3 2009, 11:35 AM


Đồi thông Đak Pơ




Đak Pơ được thiên nhiên ưu đãi một khu rừng thông tự nhiên và thảo nguyên cỏ tranh cạnh bên đã tạo nên một vị trí thật hấp dẫn cho đầu tư khu du lịch tại đây, vùng đất này thường được gọi là “Đồi thông Đak Pơ”.

Là một rừng thông tự nhiên có hơn 40 năm tuổi, có mật độ khoảng 500 đến 600cây/ha, đường kính cây khoảng 40m trở lên, cá biệt có một số cây đường kính từ 1m đến 1,5m. Đồi thông nằm ở độ cao trung bình 1.150m so với mặt nước biển, có hệ thống suối chảy qua và nhiều thác nước lớn nhỏ tạo nên quang cảnh tươi đẹp. Khí hậu ôn đới nhiệt độ từ 15- 20oC.

Chính sách phát triển kinh tế- xã hội của huyện Đak Pơ đã nhấn mạnh vị trí của đồi thông này có tầm quan trọng trong sự phát triển du lịch chung của tỉnh.

Báo Gia Lai

Posted by: M&N Aug 3 2009, 12:05 PM


Kiến trúc nhà rông



Nhà rông được xây dựng rất lớn, bề thế, được trang trí đẹp là nơi gặp gỡ bàn bạc của các đại diện gia đình (là đàn ông) với già làng để giải quyết những công việc liên quan đến mọi thành viên trong buôn làng, là nơi tổ chức các lễ (lễ đâm trâu, lễ sửa nguồn nước, lễ bỏ mả, lễ chiến thắng…).

Nhà rông được làm bằng những thứ gỗ tốt, nhất là các cột chân chôn lâu năm dưới đất không bị ải mục như gỗ trắc, gụ, mật, giổi xanh… Ngoài ra còn dùng các loại tre, lồ ô, song, mây, nứa, cỏ tranh… Nhà rông là một công trình kiến trúc khá đồ sộ so với nhà ở của đồng bào Tây Nguyên. Tuy nhiên mỗi địa phương, mỗi dân tộc có kiểu nhà rông riêng, phong cách kiến trúc, trang trí hoa văn cũng có sự khác biệt. Chẳng hạn đối với nhà rông của người Bahnar, dù bộ nóc rất cao nhưng chiều ngang của nhà tương đối rộng, góc của mái tam giác đầu hồi lớn nên làm giảm thế vươn lên của nó. Còn đối với nhà rông người Jrai có chiều hướng thu chiều dài lại nâng chiều cao lên, với qui cách đó làm cho nhà rông người Jrai thêm bề thế, hoành tráng hơn.



Để tìm hiểu cặn kẽ từng nét riêng biệt đặc sắc của kiến trúc nhà rông cũng như nghệ thuật trang trí hoa văn, du khách chỉ có thể tham quan thực tế mới hiểu hết được giá trị.

Báo Gia Lai

Posted by: M&N Aug 3 2009, 12:17 PM


Lan cao nguyên về đồng bằng




Chỉ trong vòng 10 năm, những giò lan rừng tuyệt đẹp “Made in Pleiku” từ nhà vườn Nguyên Long- đã làm mê hoặc những tay sành lan bậc nhất đất Hà thành, Sài thành. Những giò lan rừng thương phẩm ngày nay của Nguyên Long được khởi đầu từ thú chơi tao nhã của một tay lãng tử trót “say” lan ngày nào.

Trên những triền đồi mênh mông đầy nắng gió, bụi mù của xã vùng ven Diên Phú- TP. Pleiku, trang trại lan Nguyên Long nằm khuất sau bạt ngàn cà phê xanh thắm. “Hữu xạ tự nhiên hương” không bảng hiệu phô trương màu mè, không panô vẽ đường chỉ dẫn nhưng người trót đam mê vẻ đẹp thanh tao, thuần khiết của những đoá lan rừng vẫn biết đường… mà tìm đến với Nguyên Long. Bước vào khu nhà kính rộng gần 4.000 m2 với cơ mang hàng ngang, dãy dọc kệ và chậu hoa được bố trí, sắp xếp cực kỳ khoa học, bài bản đã khiến cho khách thăm vườn như lạc vào chốn kỳ hoa dị thảo, bị mê đắm trong sắc màu và mùi hương của hoa thoang thoảng. Trên 10.000 chậu lan nội, 7.000 bụi hồng môn, vài ngàn giò lan ngoại là những con số dễ nhớ nhất đối với anh Long, còn các loại: Đỗ quyên, thu hải đường, môncara, tiểu quỳnh, nhật quỳnh, trạng nguyên, thiên điểu, mai cảnh… đầy vườn không thể nào nhớ xuể. Không chỉ mê lan, hễ thị trường xuất hiện giống cây cảnh nào mới lạ thì nhà vườn Nguyên Long cũng là nơi tiên phong trồng thử, và đặc biệt có những loại cây như “thần kỳ”, “tầm xuân”, “thiên điểu” chỉ duy có nhà vườn của anh cung cấp cho thị trường Gia Lai.




Khởi nghiệp vào nghề chỉ với lưng vốn kiến thức về lan và nỗi đam mê cháy bỏng với dáng vẻ yêu kiều, rực rỡ của “vũ nữ”, “hồ điệp”, “cát lan”… đã khiến một kẻ ngoại đạo, tay ngang như anh Nguyễn Văn Long sau 10 năm lăn lộn, trải nghiệm với nghề đã nhanh chóng đứng vào hàng “đại gia hoa lan” phố núi. Những nhánh lan rừng tả tơi, xác xơ sau chặng đường dài tưởng không còn sinh khí, qua bàn tay biến hoá xảo diệu của ông chủ vườn đã thăng hoa, mang trên mình một đẳng cấp mới. Để đạt được trình độ tay nghề điêu luyện như hôm nay, trang trại Nguyên Long luôn sáng đèn thâu đêm, ông chủ vườn cần mẫn nâng niu từng mầm xanh cây giống, mày mò nghiên cứu, chế tác tạo dáng cho từng giò lan thành phẩm- “mà phải chính tay mình làm nên thì mới ưng ý”.



“Kinh nghiệm đôi khi phải đổi bằng sự thất bại của chính mình”, đó là điều anh Nguyễn Văn Long nghiền ngẫm, đúc kết sau ngần ấy năm gắn bó với hoa lan. Khi mới vào nghề, vốn ít, quy mô nhà vườn nhỏ lẻ đã khiến anh Long bao phen vất vả, điêu đứng: “Sau một trận mưa, sáng ra đã không còn nhà vườn, nhà kính gì cả. Mưa to gió lớn đã cuốn phăng tất cả, mình lúc ấy ít vốn nên làm nhà vườn không được kiên cố, quy mô như giờ. Còn cây chết, cây bệnh hàng loạt là chuyện thường, nhiều khi lỗ trắng tay”. Với trang trại hoa lan tư nhân quy mô, anh Long đầu tư vào đó không chỉ tiền bạc, tâm trí và còn cả niềm đam mê cháy bỏng. Từng bậc thang, kệ gióng đều do chính tay anh xây dựng, thiết kế; kỹ tính với khu vườn đến nỗi anh tự mình thao tác, chăm chút tạo kiểu, tạo dáng cho từng giò lan, chậu cảnh. Thế nên, mỗi thương phẩm lan “Made in Nguyên Long” khi xuất ra đều được bạn hàng, khách chơi tín nhiệm, yêu quý.



Nghề chơi cũng lắm công phu, với một người tay ngang như Nguyễn Văn Long khi khởi sự vất vả bao nhiêu thì bây giờ, với thương hiệu đã được bạn hàng trong và ngoài tỉnh ghi nhận, bí quyết thành công tưởng như đơn giản mà không dễ thực hiện chút nào. “Phải luôn giữ chữ tín trên từng sản phẩm mình tạo ra”- anh Long tiết lộ, ngay từ khâu chọn giống, chăm sóc, thành phẩm đều phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật để khi xuất hàng mỗi sản phẩm phải đạt yêu cầu về phẩm chất, màu sắc, kiểu dáng; chăm chút từ khâu đơn giản nhất là chọn chậu, sao cho bền, đẹp và hợp với từng dáng hoa. Một khi đã tạo được chữ tín thì chuyện hoa Nguyên Long luôn “cháy hàng” rất đỗi bình thường, chỉ riêng thị trường hoa Tết Mậu Tý 2009 vừa qua, Nguyên Long đủ sức cung ứng hàng từ trước, trong và sau Tết với lượng hàng xuất đều đều mỗi ngày trị giá vài chục triệu đồng, mang lại niềm tự hào, hạnh phúc cho chính chủ nhân của nó.

BaoGiaLa

Posted by: M&N Aug 4 2009, 09:42 AM


Nhà mồ- Tượng nhà mồ



Lên Tây Nguyên đến các làng của người Bahnar, Jrai, đến những khu nghĩa địa chúng ta như lạc vào cả rừng tượng gỗ, có những ngôi mộ mới thì tượng vẫn còn nguyên vẹn nhưng có những ngôi mộ cũ thì tượng nhà mồ đã bị bỏ ngổn ngang và biến thành rừng. Đó là hình ảnh nhà mồ của người dân bản địa Gia Lai.

Nhà mồ được dựng lên cho người chết, để hàng ngày người thân của người chết đem cơm nước đến và quét dọn nhà mồ như khi còn sống. Tượng nhà mồ chỉ xuất hiện khi họ tổ chức lễ bỏ mả cho người chết, tại lễ bỏ mả người ta khắc tượng, cột tượng trang trí xung quanh nhà mồ. Tượng nhà mồ là hình ảnh hiện thực trong cuộc sống của người dân tộc thiểu số mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy: Tượng người đánh trống, mẹ bồng con, người lấy nước…
Sau khi lễ bỏ mả kết thúc, nhà mồ và tượng nhà mồ cũng bỏ luôn theo sự tàn phá của thiên nhiên.

Posted by: M&N Aug 4 2009, 09:48 AM


Di tích lịch sử - văn hóa Tây Sơn Thượng đạo


Quang Trung - Nguyễn Huệ.


Vị trí: Di tích lịch sử - văn hóa Tây Sơn Thượng đạo thuộc vùng rừng núi An Khê, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai.
Đặc điểm: Quần thể Tây Sơn Thượng đạo gồm 6 di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của người Anh hùng áo vải

Cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại do anh em họ Nguyễn lãnh đạo bùng nổ năm 1771. Vùng núi rừng An Khê của Gia Lai trở thành căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa. Chính từ căn cứ Tây Sơn Thượng đạo ở An Khê, đại quân của cuộc khởi nghĩa đã tràn xuống đồng bằng cùng nhân dân cả nước làm nên chiến thắng Đống Đa lẫy lừng, quét sạch 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, giành lại độc lập cho tổ quốc. Đây là một trong những mốc son chói lọi nhất trong lịch sử truyền thống đấu tranh yêu nước của nhân dân các dân tộc Gia Lai.
Các anh em nhà Tây Sơn mà tiêu biểu là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã lập được mối quan hệ anh em giữa người Kinh và người Thượng, tập hợp được các dân tộc Bắc Tây Nguyên ở vùng Tây Sơn Thượng đạo như người Ba Na, Gia Rai vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Ngày 14/6/1991, quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo đã được Bộ Văn hóa – Thông tin cấp bằng di tích lịch sử văn hóa, quần thể gồm 6 di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của người Anh hùng áo vải Quang trung - Nguyễn Huệ: An Khê Đình, Gò Chợ, hòn đá Ông Bình, hòa đá Ông Nhạc, Vườn mít - Cánh đồng Cộ Hầu, kho tiền - nền nhà ông Nhạc.

Posted by: M&N Aug 4 2009, 09:51 AM


Thủy điện Yaly



Vị trí: Công trình thủy điện Yaly nằm trên sông Sê San, thuộc địa phận tỉnh Gia Lai.
Đặc điểm: Đây là công trình trọng điểm quốc gia lớn thứ 2 sau thủy điện Hòa Bình.

Thác Yaly nổi tiếng ngày xưa, nay được thay bằng cảnh đẹp của đập dâng, đập tràn xả lũ và một hồ nước rộng lớn trong xanh nằm giữa núi rừng Tây Nguyên.
Với diện tích bề mặt hồ rộng 64,5km² và dung tích 1,03 tỷ m³ (ứng với mực nước dâng bình thường 515m) công trình thủy điện Ialy đã được xây dựng tại đây. Thủy điện Yaly với công suất lắp đặt 720Mw và sản lượng điện trung bình năm 3,7 tỷ kwh. Quá trình xây dựng và vận hành nhà máy thủy điện Yaly đã ảnh hưởng to lớn đến đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội… của Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng. Đặc biệt nguồn điện đã đem lại ánh sáng cho bao buôn làng góp phần nâng cao dân trí cho đồng bào trong vùng.

Trong tương lai, trên và dưới thủy điện Yaly dự kiến sẽ xây dựng thêm 4 nhà máy thủy điện khác: Sê San 3, Sê San 4, Plei Krông và Thượng Kon Tum. Sê San 3 và Sê San 4 là những nhà máy nằm phía hạ lưu của thủy điện Yaly.
Ngày nay thác Yaly vẫn là điểm du lịch thú vị. Đến đây, du khách có dịp thăm nhà máy thủy điện, ghé bản làng dân tộc Gia Rai, đi thuyền ngược dòng sông Sê San ngắm cảnh núi và thưởng ngoạn không khí rừng núi Tây Nguyên.

Posted by: M&N Aug 4 2009, 09:56 AM


Hồ Ayun Hạ



Vị trí: Hồ Ayun Hạ nằm trên địa bàn xã Chư A Thai, huyện Ayun Pa và xã H Bông, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
Đặc điểm: Với bề mặt thoáng của hồ, rộng 37km², dung tích 253 triệu m³ nước (ứng với mực nước dâng bình thường), hồ Ayun Hạ còn là nơi cung cấp nguồn thuỷ sản lớn cho khu vực Ayun Hạ và TP Pleiku. Ngoài ra, mặt hồ còn là nơi tổ chức các hoạt động thể thao dưới nước, tổ chức các đội tàu, thuyền phục vụ khách du lịch tham quan, dã ngoại ngắm cảnh ven hồ.

Hồ Ayun Hạ là hồ nước nhân tạo, hình thành khi dòng sông Ayun được chặn lại vào đầu năm 1994, để khởi công xây dựng công trình thuỷ lợi Ayun Hạ, đập chính và cửa cấp nước của hồ nằm trên địa bàn xã Chư A Thai - huyện Ayun Pa, cách Tp. Pleiku 70km về phía tây. Vùng ngập chính của hồ thuộc địa phận xã H Bông huyện Chư Sê.



Đến nay công trình đã hoàn thành, làm sống lại 13.500ha đất canh tác, phần nhiều từ 1 vụ biến thành 2 vụ lúa, có dịp đi thăm suốt dọc kênh đầy nằm giữa những cánh đồng bát ngát lúa 2 vụ ken đầy xanh tốt mà ở đó nhiều đời nay đồng bào các dân tộc chỉ trồng cấy 1 vụ nhờ mùa mưa hàng năm, mới thấy được công trình có ý nghĩa to lớn như thế nào đối với người dân nơi đây, công trình thuỷ lợi Ayun Hạ hoàn thành đã đem lại hiệu quả cao, ổn định đời sống no đủ cho đồng bào các dân tộc, hạn chế nhiều sự chặt cây, phá rừng.
Hồ Ayun Hạ ngoài tác dụng cung cấp nước tưới cho 13.500ha lúa nước, còn là hồ cung cấp nguồn thuỷ năng lớn ở khu vực, nhà máy thuỷ điện Ayun Hạ đã được xây dựng và đã chính thức hòa điện vào lưới điện quốc gia (đầu năm 2001), với 2 tổ máy đi vào hoạt động có công suất 3.000kwh.

Posted by: M&N Aug 4 2009, 10:01 AM


Thác Xung Khoeng



Vị trí: Thác Xung Khoeng thuộc địa phận xã Ia Me, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
Đặc điểm: Thác Xung Khoeng là nơi nghỉ ngơi thú vị, ở đây du khách vừa được ngắm vẻ hùng tráng của thiên nhiên, vừa hít thở không khí trong lành khiến cho tâm hồn thư thái, tĩnh lặng.

Mặt thác lớn, trải rộng và tương đối bằng phẳng. Hai bên bờ, cây cối mọc um tùm. Phía sau thác là nền trời xanh thẳm cao lồng lộng. Nước đổ xuống uốn cong theo triền đá mềm mại, đập vào các tảng đá nổi lên trên mặt nước tung bọt trắng xoá. Nước chảy len lỏi trong các khe đá, trên thảm cỏ xanh làm thành một vùng hồ nước trong vắt, sát với các vách đá xung quanh.

Ngồi trên các tảng đá rêu phong phủ kín, ngửng nhìn lên cao, da trời xanh ngắt lồng lộng, gió thổi mát rượi, không gian tràn đầy hơi nước mơn man làn da, mắt nhìn dòng chảy và tai nghe tiếng trầm hùng đều đặn của nước xô vào vách đá. Âm thanh tưởng như không bao giờ dứt, như tiếng chuông, tiếng cồng, tiếng trống ở các bản làng đang vào ngày hội.

Từ xa đã nghe thấy tiếng ầm ì, nước đổ từ trên cao xuống như một dải lụa trắng. Mặt thác lớn, trải rộng và tương đối bằng phẳng. Hai bên bờ, cây cối mọc um tùm. Phía sau thác là nền trời xanh thẳm cao lồng lộng. Nước đổ xuống uốn cong theo triền đá mềm mại, đập vào các tảng đá nổi lên trên mặt nước tung bọt trắng xoá. Nước chảy len lỏi trong các khe đá, trên thảm cỏ xanh làm thành một vùng hồ nước trong vắt, sát với các vách đá xung quanh.

Nước chảy len lỏi trong các khe đá, trên thảm cỏ xanh mướt rồi làm thành một vùng nước mênh mông sát với các vách đá bao bọc xung quanh. Ngồi trên các tảng đá rêu phong phủ kín, ngửng nhìn lên cao, da trời xanh ngắt lồng lộng, gió thổi mát rượi, không gian tràn đầy hơi nước mơn man làn da, mắt nhìn dòng chảy và tai nghe tiếng trầm hùng đều đặn của nước xô vào vách đá. Âm thanh tưởng như không bao giờ dứt, như tiếng chuông, tiếng cồng, tiếng trống ở các bản làng đang vào ngày hội.

Thác Xung Khoeng là nơi nghỉ ngơi thú vị, ở đây chúng ta vừa được ngắm vẻ hùng tráng của thiên nhiên, vừa hít thở không khí trong lành khiến cho tâm hồn thư thái, tĩnh lặng. Nếu muốn tìm cảm giác mạnh và ham hiểu biết, có thể tổ chức một buổi leo núi. Núi Chư Hơ Rông cách thị xã Pleiku khoảng 10 km về phía Đông Nam. Ngọn núi khá cao, có thể tới 1600m, và có cả nguồn gốc từ ngọn núi lửa đã tắt từ lâu. Do đó núi tuy cao nhưng dáng mềm mại, thoai thoải vì thế có người đã ví trái núi như “Bộ ngực kiều diễm của một cô gái trẻ”.

Quanh chân núi, đất đai phì nhiêu, cây trồng xen với cây rừng rậm rạp. Các nhà khảo cổ và dân tộc học gần đây đã khai quật được nhiều di chỉ khảo cổ của các thời kỳ đồ đá, đồ gốm...Đường lên núi tuy dốc thấp, nhưng quanh co, uốn khúc. Đất mềm để lộ các tảng đá lớn. Đôi chỗ vách đá lộ ra một khe suối nhỏ, nước chảy lặng lẽ hay một con thác dốc, nước len lỏi qua các hố sâu. Cây cỏ trên đường đi thật đa dạng. Các mảng cây lá rộng thường xanh, mọc xen với các loài cây rụng lá theo mùa, làm cho cảnh trí luôn thay đổi trên mỗi bước đi. Núi Chư Hơ Rông đang là địa điểm thu hút đông đảo khách du lịch đến tham quan

Thanh Hải

Posted by: M&N Aug 15 2009, 01:28 PM

Đèo An Khê



Không chỉ là địa chỉ du lịch hấp dẫn của hai tỉnh Gia Lai và Bình Ðịnh, đến đèo An Khê, du khách sẽ được mắt thấy, tai nghe biết bao câu chuyện kể về nhà Tây Sơn, về Tây Sơn thượng đạo, về đất Cửu An, Tú Thủy, núi Hoàng Ðế, đồng Cô Hầu, về anh hùng Ngô Mây ôm bom giết giặc Pháp tại đường đèo...

Ðèo An Khê nằm trên quốc lộ 19 nối liền hai tỉnh Bình Ðịnh và Gia Lai, cao 740 m, dài 10 km. Ngày xưa, đèo này gọi đèo Mang (không phải đèo Mang Yang nằm giữa An Khê và Pleiku), theo tiếng Ba Na có nghĩa là cửa, ngõ.

Thời nhà Nguyễn gọi là đèo Vĩnh Viễn, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Ðịnh. Tên đèo An Khê xuất hiện khi người Pháp xây dựng quốc lộ 19, mở rộng đèo như ngày nay.

Ðèo An Khê ngày trước là con đường núi quanh co, khúc khuỷu, có nhiều hang hóc, vách đá chắn ngang hiểm trở. Thời ấy, người Kinh và người Ba Na giao thương, trao đổi phẩm vật thường dùng đèo Vạn Tuế qua ngã Vĩnh Thạnh và Cửu An, cách đó chừng 10 km về phía bắc.

Tuy được mở rộng sau này, nhưng đèo An Khê vẫn còn những cái "ngoẹo" khá nguy hiểm như ngoẹo Cây Khế, ngoẹo Ðồng Tiến, ngoẹo Hang Dơi... Mỗi cái "ngoẹo" trên đây đều gắn liền với nhiều giai thoại lịch sử cũng như những tai nạn xe cộ thảm khốc sau này.

Thật vậy, suốt đường đèo An Khê, mỗi bờ suối, mỗi đồi gò, mỗi vách đá là cả một trang sử sống qua thời kỳ khởi nghĩa Tây Sơn



Núi Ông Bình cao 840 m, rậm rạp và bề thế, vừa hiểm vừa hùng, là đài quan sát tự nhiên có thể kiểm soát cả đèo An Khê, vùng thung lũng An Khê (Tây Sơn thượng đạo) và vùng lưu vực thượng nguồn sông Côn (Tây Sơn hạ đạo). Quốc lộ 19 quanh co, bao lấy chân núi Ông Bình, nếu đứng từ ngoẹo Cây Khế trông xuống chẳng khác nào con trăn núi khổng lồ quấn lấy chân non.

Theo ký ức của nhân dân địa phương, núi Ông Bình là nơi Nguyễn Huệ đóng quân (ông Bình là tên chữ của Nguyễn Huệ lúc còn ở quê nhà). Sườn núi phía đông bắc có nhiều hang động. Lớn nhất là hang Tối Trời và hang Cọp. Hang Tối Trời ngày cũng như đêm, tối đen như mực. Ði vào hang phải dùng đuốc để soi sáng lối đi. Còn hang Cọp thì to lớn và rộng thênh thang, có thể lưu trú hàng trăm chiến binh cùng một lúc.

Chính vì vậy, Nguyễn Huệ đã dùng hang động ở đây làm nơi trú quân và là nơi xuất phát đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Cũng theo các bô lão địa phương, thì thời Cần Vương nguyên soái Mai Xuân Thưởng thất trận ở Bàu Sấu (huyện An Nhơn), cũng lui về tạm ẩn ở núi Ông Bình một thời gian để chờ cơ hội.

Núi Ông Nhạc còn gọi là Ông Nhược nằm ở tây nam đèo An Khê, cao chừng 600 m, đối diện với núi Ông Bình, bề thế chẳng kém. Nơi đây cũng là nơi trú quân của Nguyễn Nhạc và là điểm xuất quân xuống đồng bằng dựng cờ khởi nghiệp của nhà Tây Sơn. Hiện nay, ở hai ngọn núi này còn lưu lại di tích gò Kho và bờ lũy Ông Nhạc.

Ở gần đỉnh đèo, liền với núi Ông Bình bây giờ là xóm Ké, xã Song An, huyện Ðác Pơ (An Khê cũ) là nơi mà ngày xưa gọi là kho "Binh lương đồ trận", là nơi tập kết quân lương để khởi nghĩa. Sau này gọi là gò Kho, còn gọi là gò Quán, bởi về sau, đây còn là nơi trao đổi hàng hóa, phẩm vật giữa miền xuôi và miền núi.



Xa hơn về phía đông nam là lũy Ông Nhạc, nay vẫn còn dấu tích. Bờ lũy xây bằng đất, có nơi cao đến 10 m, nối liền hai sườn núi Ông Nhạc và Ông Bình xuyên qua đèo An Khê. Do chiến tranh, bom đạn cày phá nên lũy Ông Nhạc đã bị san bằng nhiều đoạn.

Lũy Ông Nhạc, theo các nhà khoa học và quân sự, có thể được xem như tuyến phòng ngự phía đông của Tây Sơn thượng đạo nhằm ngăn chặn bước tiến quân của Chúa Nguyễn lúc bấy giờ.

Ngày nay, đèo An Khê cũng là địa chỉ du lịch hấp dẫn của hai tỉnh Gia Lai và Bình Ðịnh. Ðến tận nơi, du khách sẽ được mắt thấy, tai nghe biết bao câu chuyện kể về nhà Tây Sơn, về Tây Sơn thượng đạo, về đất Cửu An, Tú Thủy, núi Hoàng Ðế, đồng Cô Hầu, về anh hùng Ngô Mây ôm bom giết giặc Pháp tại đường đèo...

Ðến thăm đèo An Khê, du khách đã đặt chân lên đất Tây Sơn thượng đạo và Tây Sơn hạ đạo của thời khởi nghĩa Tây Sơn.

Posted by: M&N Aug 20 2009, 12:33 PM


Ngôi nhà cổ mang dấu tích lịch sử ở An Khê



Ngôi nhà cổ cụ bùi Meo. Ảnh: Nhất Hạnh


Cụ Bùi Meo- tức thầy giáo Lên hiện là chủ nhân ngôi nhà cổ nhất ở An Khê (thuộc phường An Phú, thị xã An Khê). Có lẽ khu đất cao ráo này là một trong những nơi quần cư đầu tiên của người Kinh vừa đặt chân lên đèo Măng (cửa mở An Khê). Dân ở đâu thì thần ở đó. Và đình miếu An Lũy cũng phôi thai từ ấy. Vóc dáng ngôi nhà tôn nghiêm do nghệ nhân miền hạ đạo dày công đẽo khắc chạm trổ tinh vi: Gia nguyên chày cối đặt trên trính ba lá uốn cong, kèo tam đoạn đầu lân, tạ xoi sen bạo chỉ xổ. Cái khó nhất của tay nghề được truyền tụng “Khuôn lồng miệng ba, bàn khoa chỉ mồng” đều thể hiện ở đây với nét tài hoa và sinh động (thời giặc dồn dân ra phố, chúng tháo hai bộ bàn khoa chở về xuôi, phải thay vào hai gian phên dại).

Ông Bùi Meo vừa lên ba, cha mất sớm, mẹ tái giá theo chồng. Tuổi thơ nếm mùi khổ ải đủ đường. May nhờ bá phụ Bùi Vinh đưa cháu về nuôi dưỡng trong tình nghĩa ruột rà, được cho ăn học đàng hoàng. Cụ Bùi Meo tâm sự: “Khi tôi về với bác, ngôi nhà đã có từ xưa. Trước năm 1975, các nhà báo ở Sài Gòn về tìm hiểu và viết bài nghiên cứu đăng lên báo năm 1974; lúc ấy ngôi nhà đã có tuổi thọ 215 năm. Nếu quả vậy thì ngôi nhà xây dựng năm 1759”.

Hai người chị- con chú bác (con ông Bùi Vinh) với ông Bùi Meo là: Bùi Thị Nghiêm và Bùi Thị Mùi cũng từng sinh ra và lớn lên từ ngôi nhà cổ này.

Chị Bùi Thị Nghiêm là vợ của Đại tá Võ Văn Dật. Theo sách “Tìm hiểu nhận vật Bình Định” của Nguyễn Phu, Nguyễn Thiều: “Võ Văn Dật quê Thạch Bàn, Cát Sơn, Phù Cát là cháu ngoại cụ thủ khoa cử nhân Lê Đức Dĩnh. Ở tuổi vị thành niên, ông Dật đã theo chân đàn anh đi tìm đồng chí. Để biết tường tận hang ổ quân thù, tổ chức đưa ông đi lính Pháp. Có bằng tiểu học nên được bổ ngay chức đội trưởng khố xanh đóng tại An Khê. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Dật đứng vào hàng ngũ bộ đội Cụ Hồ, sớm kết nạp vào Đảng Đông Dương, từng giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 120 trên mặt trận Tây Nguyên- Bình Định. Năm 1955 tập kết ra Bắc. Thống nhất đất nước, ông về hưu ở Quy Nhơn với quân hàm Đại tá. Năm 1995, ông lâm chung. Thọ 81 tuổi.”

Năm 1954, chị Nghiêm đã tiễn chồng và hai cô con gái lên đường tập kết. Trên 10 năm chị sống vò võ giữa nanh vuốt quân thù. Chị từng ban hội tề bắt quản thúc, quản chế nhiều lần, được ông Bùi Meo làm giấy bảo lãnh. Chị mất năm 2005, thọ 86 tuổi.

Chị Bùi Thị Mùi là vợ của Đỗ Trạc. Trong “Lịch sử Đảng bộ huyện An Khê” có đoạn: “Đồng chí Đỗ Trạc- người Bí thư chi bộ đầu tiên, người có công gây dựng phong trào cách mạng địa phương bị chúng bắt từ tháng 1-1947 trong chuyến đi công tác cơ sở. Biết đồng chí là cán bộ lãnh đạo quan trọng ở địa phương, thực dân Pháp và bọn tay sai đã dùng mọi thủ đoạn từ mua chuộc dụ dỗ đến cực hình tra tấn hòng khuất phục người chiến sĩ cộng sản. Bất lực trước tấm gương kiên trung bất khuất của Đỗ Trạc, sáng ngày 7-3-1947 chúng xử bắn đồng chí cùng một số chiến sĩ cách mạng tại sân bóng An Khê”.

Chị Mùi vừa sinh gặp lúc giặc lùng sục, phải võng mẹ con chạy đến trại ông Hồ Nghĩa cạnh lỗ sa lánh nạn, vì dầm mưa gió chị sản hậu chết năm 1945 vừa tròn 19 tuổi. Anh Đỗ Trạc ở Quảng Ngãi kịp về nhìn mặt vợ lần cuối. Hiện nay, Đỗ Thị Thương (con gái đồng chí Đỗ Trạc) đang sống ở thành phố Pleiku.
Có thể coi ngôi nhà cổ ấy là chứng nhân lịch sử và đã cưu mang bồi đắp cho những thành viên sống và làm việc từ thai nghén đến đỉnh cao của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở địa phương An Khê.

Quốc Thành

Posted by: M&N Aug 24 2009, 11:46 AM


Đèo Mang Yang



Người dân Gia Lai vẫn quen gọi với cái tên “Đèo cổng trời”, quãng đường đèo không dài nhưng độ dốc đứng tạo cho ta cảm giác như lên với trời xanh, có lẽ vì đặc điểm này mà nó thích hợp với tên gọi đó



Nếu ai từng lên phố núi Pleiku theo quốc lộ 19 và lại vào 2 mùa mưa-nắng rất đặc trưng của Cao nguyên này chắc hẳn sẽ không ngỡ ngàng trước 2 vẻ đẹp rất riêng, rất nên thơ của phong cảnh nơi đây. Nếu bạn đến vào mùa nắng sẽ như lạc vào rừng cúc quỳ vàng rực rỡ dọc theo đoạn đường lên đến đỉnh trời, và nếu là mùa mưa bạn càng không khõi ngỡ ngàng trước làn sóng nhấp nhô của cỏ tranh đuổi nhau trên sườn núi. Cảnh quan của





Posted by: M&N Aug 26 2009, 02:01 PM

Pleiku, những điều trông thấy...


Ông Huỳnh Ngọc Châu và bữa cơm chiều bên hè phố. Ảnh: Lam Nguyên


Những câu chuyện hè phố

Pleiku, đâu đó vẫn có những phận người âm thầm trong cuộc mưu sinh, thậm chí sinh hoạt trên hè phố. Những hình ảnh vừa làm xao động lòng người, vừa gây nhức nhối giữa lòng phố thị!

Câu chuyện thứ nhất

Tôi ghé “nhà” ông hai lần trong một buổi sáng, nhưng “cửa” khóa im ỉm bằng một ổ khóa chắc chắn. Nơi tạm cư này, với ông, có thể gọi là “nhà” bởi nó giúp ông che mưa che nắng, có một chỗ ngả lưng sau một ngày nhọc mệt, nhưng với người khác thì không khác gì một ngăn tủ chứa đồ. Nó đóng bằng ván ép, chỉ cao có chừng... 1 mét, nhưng được cái dài cũng gần 1,8 mét, cửa kéo. Vì thế, chưa bao giờ ông được thoải mái đứng vươn vai trước cửa nhà đúng kiểu một chủ nhân thực thụ mà chỉ có thể lom khom ngồi, khi thì hút điếu thuốc, khi ngắm phố phường; đêm xuống thì tự xoay xở, co duỗi trong cái không gian khiêm tốn vừa in một chỗ nằm. “Căn nhà” đặc biệt này nằm ngay góc ngã tư Hai Bà Trưng- Hoàng Văn Thụ, bên hông Nhà Thiếu nhi tỉnh.

Ngồi xổm xuống lề đường ăn bữa cơm chiều mua tạm đâu đó, ông tiếp chuyện vị khách bất đắc dĩ là tôi với thái độ khá vui vẻ, cởi mở, chừng như lâu lắm rồi ông mới có “khách” đến nhà. Ông nói tên ông là Huỳnh Ngọc Châu, năm nay trên 70 tuổi, không con cái, phiêu bạt mãi từ xứ Quảng vào đây, còn Quảng Nam hay Quảng Ngãi thì ông không cho biết cụ thể mà chỉ nói là “xa lắm”. Ban ngày ông đi nhặt ve chai bán lấy tiền sống qua ngày, đêm về ngủ tại đây. “Căn nhà” do một ni sư tình cờ thấy ông già cả, phải ngủ bên lề đường nên đóng tặng. Nếu không chú ý thì người qua đường cũng chỉ cho rằng đó là một thùng đựng đồ nghề linh tinh của mấy anh thợ sửa xe dọc đường. Mùa mưa, trên nóc “nhà” phủ mấy tấm bạt để chống dột. Ông mở “cửa” nhà bảo chẳng có gì, chỉ có một chiếc chiếu, cái gối nhỏ và tấm chăn cũ kỹ cùng một ít quần áo. “Vậy thì khóa cửa làm gì?”- tôi hỏi. Ông liền trợn mắt: “Chu cha, không khóa thì bữa sau tui không còn cái quần để mặc đó!”. Thì ra mấy tên giang hồ vặt cũng không tha cho mớ “tài sản” bé mọn này nên ông mới phải sắm ổ khóa.

Hẳn người ta sẽ tự hỏi: Còn những nhu cầu tối thiểu khác của con người thì sao? “Thì vô trong nhà Thiếu nhi này nè”- ông chỉ tay. Và đó là cách một con người tồn tại, ngay ngã tư sầm uất ấy, suốt mấy năm nay. Ông kể rằng số ông còn may, có lần ông đi nhặt ve chai ở cầu Hội Phú, bị ngã đập đầu xuống đường bất tỉnh, “may nhờ có mấy anh xe ôm tốt bụng chở vô bệnh viện cấp cứu nên bây giờ tui mới còn ngồi đây nói chuyện với cô nè!”. Những đêm mưa rơi lộp bộp trên “mái nhà”, chẳng hiểu ông lão già nua có thấy nhớ quê và thèm một nơi nương tựa đúng nghĩa?

Câu chuyện thứ... n+1

Sỡ dĩ gọi là “câu chuyện thứ n+1” bởi đây là câu chuyện dường như không có hồi kết. Nó là chuyện lâu nay đã vậy, và sẽ cứ vậy nếu không có một giải pháp rốt ráo. Đó là chuyện ăn xin trên hè phố.


Đội quân cái bang đông đảo tại siêu thị bánh Tam Ba.


Bắt đầu là chuyện một cô bé tí xíu, khoảng chừng 5-6 tuổi, bù xù long rong trên đường phố để xin ăn. Người ta sẽ thấy thương cho một đứa trẻ bươn bả quá sớm với cuộc đời thay vì được chơi, được học, rồi người ta sẽ móc ví ra và đặt vào tay em một chút lòng hảo tâm. Tối, gặp lại cô bé trong một quán nước, chúng tôi bèn tò mò hỏi cháu tên gì, nhà ở đâu. Cô bé nhìn chúng tôi chăm chăm không trả lời, rối lấm lét nhìn về phía con đường nhập nhoạng trước mặt. Bé vừa đi khỏi, cũng vì tò mò, chúng tôi lặng lẽ theo sau xem hành trình của nó ra sao. Tưởng nó chỉ đi một mình, không ngờ luôn có một thanh niên đi trước và giữ một khoảng cách nhất định với con bé, có vẻ như cả hai không liên quan gì đến nhau. Đến đoạn vắng người, bất chợt gã trai vận “hắc phục” bằng jeans và pull, tóc nhuộm vàng hoe dưới vành mũ lưỡi trai sùm sụp quay lại hất hàm ra lệnh một câu cụt ngủn: “Đi!”, vẻ như không hài lòng khi thấy có người vừa hỏi chuyện con bé. Thêm một đoạn nữa, con bé móc tiền ra đưa cho tên chăn dắt. Sau đó, nó cứ lon ton tưởng chừng hết sức vô tư nhưng luôn giữ một khoảng cách “xa lạ” với gã trai đi trước, cả hai lần lượt đi từ đường Hai Bà Trưng qua Trần Phú, xuống Hùng Vương, trên đường đi đều lê la ghé những quán ăn hoặc quán cóc dọc đường.

Thì ra có cả một đường dây ăn xin với những tên chăn dắt chuyên nghiệp- chuyện chỉ có ở các thành phố lớn. Hẳn là đội quân “cái bang trẻ con” đều được chăn dắt theo kiểu từ xa này. Tại những địa điểm đông đúc, nhất là nơi quán xá, mua bán tấp nập, không bao giờ thiếu đội quân này. Chúng ngây thơ và tinh ranh, kiểu thường thấy ở trẻ em đường phố. Có lần, tại siêu thị bánh Tam Ba, khi chúng tôi giơ máy ảnh lên định bấm một kiểu thì có đứa trong đội quân tí hon đang đeo đẽo xin tiền khách bỗng nhanh tay chỉ và kêu lên: “A, nhà báo kìa!” và cả nhóm nhanh như chớp giải tán ngay tắp lự. Dường như chúng đã được rèn cho phản xạ này để lẩn đi những lúc cần thiết. Những tuổi thơ trong sáng đã bị đánh cắp, phục vụ cho việc xin ăn đã trở thành “công nghệ”, phục vụ cho những kẻ ngồi nhà dài lưng kiếm tiền nhờ vào sự thương cảm của xã hội đối với trẻ thơ. Người ta không khỏi nghi ngại và sẽ tự hỏi, lần sau, nếu gặp lại những đứa trẻ như thế, liệu có nên móc ví ra và đặt vào tay chúng một chút lòng hảo tâm nữa chăng?
Một vài câu chuyện nêu trên có lẽ là những điều mà một đô thị đẹp, văn minh (và nhân ái) cần để mắt, để tâm.


Lam Nguyên

Posted by: M&N Aug 26 2009, 02:18 PM


Pleiku, những điều trông thấy...


Ngã ba Hoa Lư. Ảnh: Thanh Phong


Bài 1: Trước mắt có...gai

Thành phố thường được nhiều người gọi yêu là “phố núi” này vừa làm lễ đón nhận quyết định công nhận đô thị loại hai . Với bề dày tám thập kỷ xây dựng, đặc biệt là trong một thập niên qua, Pleiku đã có nhiều đổi thay, phố núi bây giờ mang dáng dấp một đô thị hiện đại, từ cơ sở hạ tầng đến các dịch vụ phục vụ đời sống đều có bước phát triển…Thế nhưng phía sau nét hào nhoáng ấy vẫn còn một vài điều đáng quan tâm.

Đậm nhạt kiến trúc đô thị

Có một kiến trúc sư khi đứng trên tầng thượng khách sạn Hoàng Anh Gia Lai ngắm cảnh đã nhận xét rằng, kiến trúc của thành phố Pleiku cứ như “ai ném một rổ đất”, chỗ dồn cục, chỗ lưa thưa, chỗ thấp, chỗ cao v.v…Trong khi đó cũng trên vùng đất Tây Nguyên này từ trăm năm trước người Pháp đã qui hoạch thành phố Đà Lạt với một nét riêng. Hơn 1500 ngôi biệt thự đều xây dựng theo lối kiến trúc miền Bắc nước Pháp, nhà cao không quá ba tầng và vườn hoa bao quanh biệt thự. Khu vực bên này hồ Xuân Hương là Khách sạn Palace- điểm nhấn của thành phố. Trải qua nhiều năm, qua nhiều cấp chính quyền nhưng tất cả đều tuân thủ theo qui hoạch từ trước, nhờ vậy đến nay thành phố này tuy đông dân hơn, nhiều nhà hơn xưa song vẫn giữ nguyên dáng vẻ của mình. Còn Pleiku với không gian vườn và hàng chục quả đồi bát úp nằm giữa lòng thành phố lẽ ra trong quá trình phát triển phải được giữ nguyên trạng song khi thi công xây dựng nhà ở, người ta đã phá đi những nét đáng yêu ấy bằng cách đào đất cho bằng phẳng, bạt đồi cho thấp xuống...


Một mái nhà đường Nguyễn Du.


Đã vậy những năm gần đây do đời sống kinh tế phát triển nên người Pleiku đua nhau xây nhà mới, nhiều ngôi nhà kiến trúc vừa tây vừa ta, lại vừa pha trộn kiểu Ả rập, chóp nhọn, nóc hình khối vuông đủ cả, chưa kể những ngôi nhà…lép cũng đã xuất hiện ở một vài trục đường chính. Bên cạnh đó, đặc thù của Pleiku cũng như Tây Nguyên có hai mùa mưa nắng trong năm, mưa kéo dài đến 5-6 tháng đất mọc rong, mọc rêu, mùa khô nắng đến cháy da nhưng hầu như nhà nào cũng lắp kính và làm hành lang bên trong (nhất là các công sở) như cố tình đưa mặt ra cho mưa tạt, cho nắng táp. Do vậy mùa nắng thì bị hiệu ứng nhà kính, nóng đổ mồ hôi, mưa thì ẩm mốc. Lại có nhà đính hẳn cả hai mặt tường hông bằng những tấm tôn chống thấm nước mưa như phải mang một tấm áo giáp kỳ quặc. Rồi cao ốc, khách sạn 18-20 tầng, tòa nhà tháp đôi… không biết định vị nơi nào là điểm nhấn, là trung tâm kiến trúc của thành phố…Hơn chục năm trước, khu nhà lồng Trung tâm Thương mại Pleiku như là một điểm nhấn của khu vực Tây Nam thành phố bởi nóc cao, cách điệu mái nhà rông, bây giờ thì nó khiêm tốn nấp sau những mái nhà trên 4 trục đường bao quanh.
Chưa hết, ngoại ô Pleiku có nhiều làng đồng bào dân tộc ít người như Roh, Kép, Nhao v.v…với những ngôi nhà sàn, nhà rông mái cao vút tạo thành một nét riêng phố núi. Nhưng bây giờ đi dọc quốc lộ 19, 14, đố ai có thể nhìn thấy được làng nào, tất cả đã bị những nhà cao tầng dọc hai bên đường che kín.

Lôi thôi cơ sở hạ tầng


Bể bơi trong Công viên Lý Tự Trọng.


Bể bơi trong Công viên Lý Tự Trọng. Ảnh: Thanh Phong
Công viên Lý Tự Trọng tọa lạc ngay trung tâm thành phố với một vị trí đắc địa, bởi bên kia đường là Quảng trường 17/3, công viên lại tiếp giáp với nhiều công trình văn hóa lịch sử như Bảo tàng tổng hợp, Bảo tàng Hồ Chí Minh, chùa Hộ quốc. Mười năm trước, đã có lúc công viên là tâm điểm của dư luận phố núi, đặc biệt là về vấn đề chất lượng kỹ thuật, về công tác giải tỏa, đền bù. Rồi thì sau đó mọi việc cũng được chính quyền địa phương và các ngành chức năng giải quyết ổn thỏa. Công viên có bể bơi rộng lớn, dãy ki-ốt và được trồng nhiều cây xanh. Song thực tế hiện nay công trình này không phát huy tác dụng, thậm chí còn làm ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị. Màu vôi quét tường qua thời gian trở nên xám xịt. Bể bơi đã bị bong bề mặt, trơ cả đáy, gạch lát nền thềm bể cũng bị bong ra, cỏ mọc, người ta còn phơi cả củi và quần áo tại đây. Các phòng tắm, phòng thay quần áo trở thành nhà kho. Trong khuôn viên bể bơi cũng là nơi tận dụng để tập kết các xe chở rác. Dãy ki-ốt cũng là những nhà kho, là quán bán hàng. Công viên nhưng lại có hàng rào bê tông và cọc sắt che chắn. Trời chiều, không gian nơi đây âm u, không ai dám vào ngồi nghỉ trên ghế đá dưới những gốc si rậm rạp?

Mười năm, một công trình văn hóa trị giá hàng chục tỷ đồng vào thời điểm đó giờ đã ra nông nổi nầy!


Phía trước Công viên Lý Tự Trọng. Ảnh: Thanh Phong


Bên cạnh công viên là công trình Bảo tàng tổng hợp tỉnh vừa hoàn thành thi công. Khu đất trống trước bảo tàng đang được một số người dân tận dụng để bày tủ thuốc lá, bán chim cảnh và đổ cả rác; xe tải, xe taxi cũng vào đậu đỗ tại đây. Cách đó khoảng 100 mét là Rạp chiếu bóng Hoa Lư trước kia liên hoàn với các cơ quan: Sở Văn hóa- Thông tin, Sở Công nghiệp, Thư viện tỉnh, Sở Thể dục- Thể thao. Sau khi khu vực này được giải tỏa để xây dựng quảng trường, chỉ còn lại rạp chiếu bóng như “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Phía trước là dãy dài giải phân cách (cứng) cùng vòng xuyến lớn trên đường Phạm Văn Đồng và ngã ba Hoa Lư. Trước tết nguyên đán, người ta mang những chậu hoa lắp vào, sau tết lại mang đi, mấy tháng nay giải phân cách và vòng xuyến trơ đất đỏ, có người đem đổ cành cây mục, đổ cả xà bần vào như bãi rác công cộng! Công ty công trình đô thị Pleiku đã chở đất đến đổ tại vòng xuyến nhưng san chưa hết, đến sáng ngày 25-5-2009 đống đất còn cao như ngọn núi nhỏ.


Trong khuôn viên bể bơi.


Trở lại với chuyện công viên ở thành phố Pleiku mới thấy công viên không ra…công viên. Vì sao ư? Mang tiếng là công viên nhưng thiếu không gian cây xanh và những công trình phụ trợ. Có một công viên Diên Hồng thì ở bên kia đồi, cảnh quan nhếch nhác, chuồng thú hôi hám và các bãi cỏ trở thành nơi cho dân nhậu chiều chiều vào…nhậu. Công viên Đồng Xanh lại “trấn” tận xã An Phú cách xa trung tâm thành phố. Còn công viên Lý Tự Trọng thì như đã nêu.

Lẽ ra dọc theo các trục đường phố, nên qui hoạch các tiểu hoa viên để phục vụ cho du khách và người đi bộ nghỉ chân, các tiểu hoa viên này có hoa, cỏ, vòi phun nước và tượng đài.

Bên dưới thi thoảng lại bị đào bới, cắt đường, đào đường, còn bên trên luôn bùng nhùng những dây, những trụ dày đặc trên các trục đường. Khổ cho những trụ điện quá tải, đã bị hàng núi dây điện treo lại còn bị nào cáp, nào dây điện thoại quấn thêm. Ngay ngã ba Hoa Lư, ngã ba Hùng Vương- Trần Hưng Đạo, các trụ điện khổng lồ cứ thản nhiên khoe dáng vóc của mình cùng những mạng nhện trên mình chúng.


Dải phân cách cứng ngã ba Hoa Lư.


Nêu qua vài chuyện như trên, có thể các bạn sẽ cho rằng đó là do thời kỳ quá độ của sự phát triển đô thị chăng? Xin thưa, tốc độ phát triển đô thị ở Việt Nam cũng như ở Gia Lai là rất nhanh nhưng không ai chấp nhận những tồn đọng lưu cữu như vậy về xây dựng, về giá trị kiến trúc thẩm mỹ của một thành phố. Do đó cần có những điều chỉnh, khắc phục để mang lại sự phối hợp hài hòa, mỹ quan cho thành phố Pleiku trong tương lai gần, khẳng định vai trò là một đô thị trung tâm của khu vực tam giác phát triển Việt Nam- Lào- Campuchia.

Thanh Phong

Posted by: M&N Aug 26 2009, 02:30 PM


Pleiku, những điều trông thấy...


Một điểm tập kết rác trên đường Phạm Văn Đồng.


Văn minh phố núi

Đã qua lâu rồi cái thời bao cấp, mọi người ăn cốt no, mặc cốt kín. Bây giờ người ta không phải ăn ngon mà ăn sao vừa đủ dinh dưỡng và bảo đảm sức khỏe; chuyện mặc cũng vậy, mặc đẹp và lịch sự, hợp thời trang. Rõ ràng thời nào có kiểu của thời đó. Chuyện văn minh đô thị cũng vậy, đô thị càng hiện đại thì càng đòi hỏi cư dân đô thị đó cũng phải có cách ứng xử sao cho đúng tầm. Vậy mà thảng hoặc trong cuộc sống chúng ta vẫn còn gặp những trường hợp đáng để suy ngẫm…

Rác từ nhà ra ngõ

Phần đông người dân phố núi Pleiku bây giờ đã quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi. Nhà nào cũng có ti vi, tủ lạnh, bếp ga, máy điều hòa, xe máy, nhiều nhà còn sắm cả ô tô v.v…Sáng sáng xe cộ đậu kín trước các quán phở, quán bún bò ở đường Nguyễn Văn Trỗi, Cù Chính Lan, Hùng Vương, Trần Phú, Phan Đình Phùng…Tô phở từ chục ngàn lên mười hai, mười lăm, rồi lên tới mười bảy, thậm chí có quán bán đến hai chục, hai mươi lăm nghìn đồng mà thực khách vẫn đông nghìn nghịt. Quán đông nhưng thật tình nếu ai kỹ tính một chút chưa chắc ăn đã thấy ngon bởi chỉ cần nhìn xuống nền nhà là sẽ không muốn ăn vì bên dưới đầy những giấy lau…Có lần tôi đã thử gợi ý cho một chị chủ quán phở ở đường Hùng Vương (đối diện nhà sách Thanh niên) rằng chị nên đặt những chiếc giỏ nhựa bên cạnh bàn ăn để khách bỏ giấy lau vào đó cho hợp vệ sinh. Chị đã nghe lời làm vậy nhưng chỉ sau một ngày thì đâu lại hoàn đấy. Chị lắc đầu: Chẳng ai chịu bỏ giấy vào giỏ cả, thậm chí có người bĩu môi: Ôi dào, hơi đâu! Nhiều người còn hất cả giỏ đi nơi khác.


Giỏ rác bên Lào.


Tưởng tượng cả một nền quán điểm tâm dày đặc giấy lau (khổ nỗi là loại giấy lau ở các quán phở đều là loại giấy rẻ tiền, một mặt hơi láng một mặt nhám, xỉn màu), rồi một vài thực khách cứ đánh tanh tách trong miệng cái tăm xỉa răng, người viết bất giác rùng mình. Không tin các bạn cứ thử đến các quán phở, quán bún bò, bún riêu, mì Quảng ở các con phố đã nêu trên thì biết!

Trong quán xá đã vậy, ngoài đường phố cũng chẳng hơn, đặc biệt là vào buổi chiều. Hầu như trước nhà nào cũng có một vài bao ni lông đựng rác đợi xe đến lấy. Bao to, bao nhỏ đủ cả. Mà nào có gọn gàng gì, rác trong bao cứ thòi ra. Thỉnh thoảng một vài người nhặt rác còn đến lôi ra xem có gì nhặt nhạnh được không. Rồi cứ cách bốn năm trăm mét lại gặp một đống rác lớn do các công nhân vệ sinh chuyển từ xe đẩy đến để chờ xe ô tô chuyên dụng hốt vào buổi tối. Nhắc đến chuyện này tôi lại liên tưởng đến các thùng đựng rác đặc biệt của người dân Lào, ở thủ đô Viêng Chăn hay các đô thị lớn như Savan, Pak se chúng ta đều có thể thấy nó trước mỗi ngôi nhà.

Nó được làm từ những chiếc lốp xe ô tô cũ, đính cúc chắc chắn và có nắp, nhìn như những chiếc nồi khá đẹp lại vệ sinh và điều quan trọng là nó tận dụng được những phế liệu mà nếu xử lý thì phải tốn nhiều tiền và gây ô nhiễm môi trường.

Ở những nơi công cộng, tụ tập đông người như quảng trường 17/3 cứ vào chập tối là đầy bao bì ni lông, giấy vụn, mảnh báo…Người ta đến đây để đi bộ, tập thể dục hoặc dạo mát nhưng chẳng hiểu sao lại xả rác nhiều như vậy. Đó là chưa kể công viên Diên Hồng, người viết bài nầy đã mục sở thị rác rải đầy thảm cỏ, rải cả trên lối đi. Song hành với rác là nước thải cũng gây phiền hà không kém. Nhiều nhà cứ tạt nước ra trước đường. Các tiệm rửa xe thì khỏi nói, nước xà phòng, nước pha dầu nhớt cũng cứ cho chảy vào rãnh, lềnh bềnh những bọt, những lớp váng màng màng…

Cũng xin được nói thêm là tham gia vào chuyện làm bẩn thành phố còn có các xe tải, xe công nông làm vương vãi đá, cát, nhất là đất đỏ, bùn dính bánh xe trên các con đường gần khu vực trung tâm thành phố.

Ứng xử của người phố

Có dịp vào sân vận động xem thi đấu bóng đá mới thấy sợ chỗ đông người. Khán đài chật chội là vậy nhưng dày đặc khói thuốc lá. Người ngồi trước hút, bên hông hút, người ngồi sau cũng hút. Không kể đang theo dõi trận đấu hay đang giải lao, lúc nào xung quanh ta cũng đầy khói thuốc. Đã vậy có vị còn phà khói thẳng vào người đối diện cho ra vẻ ta đây… sành điệu. Anh mà phản đối ư? Lập tức sẽ bị những cái trừng mắt hay chí ít cũng tiếng xì xuỵt, cự nự lại. Thôi thì nhỏ nhẹ nhắc khéo, nào là hút ít thôi, có phụ nữ ngồi bên, nếu không muốn sinh chuyện rắc rối?

Một biểu hiện quen thuộc về sự trì trệ của nhiều thành phố đó là đội quân bán hàng rong đổ về khá đông và Pleiku cũng không ngoại lệ, thậm chí có phần hơn. Bạn chỉ cần ngồi ở một quán cà phê nào đó trong khoảng thời gian chừng mười phút, sẽ có ít nhất bốn năm lần bạn phải trả lời những người bán vé số dạo, người đánh giày mời chào và cả người ăn xin. Thảnh thơi cũng chẳng sao, còn nếu bạn đang mượn ly cà phê để suy nghĩ về một việc gì đó thì đúng là bị làm phiền. Làm thinh hoặc lắc đầu thì có vẻ khiếm nhã nếu người bán vé số là bậc cao niên, còn nếu trả lời sẽ bị mệt mỏi đấy bởi không chỉ một lần. Được biết hiện nay chính quyền một số thành phố như Đà Nẵng, Đà Lạt đã triển khai triệt để công tác làm sạch môi trường xã hội nên ở các thành phố này không còn người bán vé số dạo, đánh giày và người ăn xin, ở Pleiku thì đến bao giờ thực hiện được?


Đoạn đường Hoàng Văn Thụ. Ảnh: Thanh Phong


Một người bạn của tôi từ nước ngoài về thăm Pleiku đã ngán ngẩm lắc đầu: Đường phố Pleiku không có vỉa hè! Tự ái tôi cãi: Vỉa hè Pleiku thuộc loại vỉa hè rộng nhất nước chứ sao không có? Anh ta cười, nói thêm: Thì anh cứ đi xem, làm gì có vỉa hè? Ngẫm nghĩ tôi thấy nhận xét của anh đúng thật. Cả hàng trăm mét vỉa hè ở phố Hoàng Văn Thụ, đoạn từ cổng Trung tâm Thương mại đến giáp đường Hai Bà Trưng đều bị lấn chiếm, đặc biệt là các cửa hàng xe đạp bày hẳn hàng ra tận mép đường. Người đi bộ đến đoạn này đều phải đi xuống lòng đường. Buổi sáng còn ách tắc hơn do “dư âm” chợ đêm vẫn còn. Ở các đoạn phố khác tình trạng cũng tương tự: Các hộ kinh doanh tận dụng mặt bằng trước nhà ngang nhiên bày hàng ra bán, cứ như chỗ vỉa hè ấy là của riêng mình! Tình trạng này tồn tại đã lâu nhưng có lẽ do không ai nhắc nhở, xử lý nên cứ “vũ như cẩn”. Phải chi nếu ngày nào cũng có lực lượng chức năng tuần hành, kiểm tra, xử phạt thì làm gì phố không ra phố như vậy?

Đang bước vào những ngày hè, quảng trường 17/3 lại chuẩn bị gồng mình đón hàng ngàn lượt người vào đây mỗi ngày, nhất là các thiếu niên vào thả diều buổi chiều. Những bước chạy vội vã sẽ cày lật cỏ xanh lên và cả những chiếc chân chống xe máy nữa cũng sẽ hành hạ lớp cỏ non mọc chưa kịp tốt ở quảng trường. Dẫu biết có ngăn cấm cũng không được, bởi làm gì còn nơi nào cho các em tận hưởng thú vui ngày hè nhưng nếu như chúng ta tổ chức tốt nơi thả diều, đồng thời nhắc nhở các vị phụ huynh thường xuyên lưu ý con em mình tích cực bảo vệ cây xanh, sân cỏ, không xả rác… thì chắc chắn quảng trường sẽ không như những gì chúng ta từng chứng kiến?


Quảng trường 17/3. Ảnh: Thanh Phong


Còn nhiều chuyện nữa, bởi nói về thành phố Pleiku không chỉ chừng ấy chuyện, những gì tôi đã nêu chỉ như một vài lát cắt nhỏ cắt ngang cuộc sống đời thường. Tảng băng trôi có phần nổi, phần chìm, phần bạn thấy chưa phải là tổng thể song nếu không có phần chìm thì phần kia sao nổi được? Mong rằng những mảnh vụn chắp nối lại qua phóng sự này sẽ giúp chúng ta yêu quí hơn phố núi 80 năm tuổi để có những điều chỉnh sao cho “đời còn dễ thương…” như chính bản thân thành phố Pleiku vậy!

Thanh Phong

Posted by: M&N Aug 27 2009, 10:33 AM

Pleiku... lang thang ký!


Cà phê vỉa hè.


Với tôi, vỉa hè ở Pleiku như một xã hội thu nhỏ. Ở đó, góp mặt đủ các cảnh đời, đủ cách kiếm tiền. Đến đó, có thể ta sẽ gặp những cảnh chướng tai gai mắt nhưng có đôi khi lại xúc động đến nao lòng.

Muôn mặt đời thường

Vỉa hè đường Hùng Vương một buổi sáng tôi và anh bạn đang ngồi uống cà phê thì: “Đánh giày đi chú ơi!”. Quay qua, tôi nhận ra một cậu bé trạc 13, 14 tuổi. Tôi lắc đầu. “Vậy chú mua đĩa CD nhé! MC Hoàng Thùy Linh kiêm diễn viên truyền hình- 16 phút nóng bỏng đây!”. Thấy tôi lại lắc đầu, cậu bé lôi từ trong túi áo khoác 3 đĩa CD không hộp, không nhãn mác tiếp tục chèo kéo. Hỏi chuyện, chúng tôi biết em tên là Thành, nhà ở phường Tây Sơn. Nhà nghèo, nguồn sống chủ yếu dựa vào việc bán hàng rong trên phố, từ ví da, kính mát, móc chìa khóa đến keo diệt chuột của bố, nên chỉ mới học hết lớp 3 thì Thành phải bỏ học, đi bán vé số dạo phụ giúp gia đình. Bây giờ lớn rồi nên Thành chuyển sang nghề đánh giày.

...Chúng tôi ngang qua đường Lê Lợi, chợt nhớ trên đoạn đường này có một quán “bún đuổi” khá ngon. Gọi là “bún đuổi” là bởi chủ quán kinh doanh ngay trên vỉa hè. Sáng nào cũng vậy, cả một đoạn hè phố chừng 100 m2 luôn kín chỗ. Xe máy, xe taxi đậu cả dãy dài lan cả sang phía vỉa hè bên kia đường. Vì lấn chiếm vỉa hè nên chủ quán vừa bán hàng vừa phải canh chừng sự xuất hiện của xe chở đội bảo vệ trật tự của phường. Khi xe tới thì hàng ghế được nhanh chóng dẹp lại, khi xe vừa đi qua chừng vài chục mét rồi quẹo vào đoạn phố khác thì lại lục đục, bàn ghế được bê ra và khách lại xì xụp. Hỏi chuyện, bà chủ quán cho biết: Chỉ những ngày lễ, ngày kỷ niệm sự kiện nào đó hay tháng an toàn giao thông thì họ mới đuổi. Còn thì cứ bán vô tư.

Câu nói của bà chủ quán ai ngờ lại mang tính khái quát cao. Pleiku có tới hàng chục ngàn mét vuông vỉa hè đang bị chiếm đoạt công nhiên như vậy. Người đi bộ cứ việc tràn xuống lòng đường mà đi, làm cho đường đã chật càng chật thêm. Mà không chỉ có “bún đuổi”, còn có hàng trăm thứ hàng “đuổi” khác như bánh mì, quần áo, rau dưa… cứ bày ra hè phố bán tưng bừng.

Đó là chuyện ban ngày. Đêm xuống, vỉa hè Pleiku lại khoác trên mình một chiếc áo khác. Đường Trần Phú thì vỉa hè dùng để xe máy còn lòng đường dành đỗ xe ô tô. Phố Hai Bà Trưng đoạn chạy qua Trung tâm Thương mại Pleiku, chẳng biết từ bao giờ đã trở thành “ phố giải khát”. Ban đầu chỉ vài ba chủ nhà mở bán, sau thấy đông khách nhiều người tìm đến lấn chiếm mặt bằng để kinh doanh. Mặc dù thành phố đã có quy định về tuyến phố văn minh thương mại, nhưng dường như việc thực hiện vẫn còn dở dang lắm.

Khoảng lặng... dễ thương

Tuy thế cũng phải thừa nhận rằng: Từ vỉa hè có thể nhận ra những nét đáng yêu, đáng trân trọng của phố núi Pleiku. Một hè phố trải mượt màu tím hoa bằng lăng trước ráng chiều trên đường Đinh Tiên Hoàng. Một khoảng không gian nồng nàn hương hoa sữa giữa đêm khuya trên đường Tăng Bạt Hổ. Một chén chè sen, chè chuối vàng sánh ngọt thơm, săn sắt của xứ Huế không thể nào quên trên vỉa hè đường Nguyễn Thái Học. Hoàng hôn xuống, những hàng quán ăn đêm lại mang đến cho nhịp sống hè phố một sắc thái mới. Những xe phở chen chúc thực khách trên vỉa hè đường Hùng Vương đối diện Trung tâm Bưu điện. Rồi hàng hột vịt lộn, chân gà nướng tẩm bơ, bánh mì xíu mại… kéo dài cả một khúc đường Trần Phú sang cả Nguyễn Thiện Thuật không bao giờ thiếu tiếng ồn nhưng ngon, rẻ và thân tình.


Đánh giày trên hè phố. Ảnh: Hoàng Hải


Như một sự ngẫu nhiên, cùng với các món ăn hè phố, những quán cà phê cóc vỉa hè trên đường phố Pleiku cũng khiến ta khó có thể quên. Có lẽ trong các loại hình quán cóc, cà phê cóc có sức sống mãnh liệt hơn cả. Không biển hiệu, không hệ thống âm thanh, không có những nhân viên phục vụ xinh đẹp… chỉ với những bộ bàn ghế giản đơn nhưng cà phê vỉa hè không bao giờ ít khách. Điều gì lôi cuốn họ đến những quán cóc này? Có người cho rằng nó vừa ngon mà lại hợp với túi tiền vì giá rất bình dân. Nhưng cũng không ít người lại xem đó như một thú vui. Ngồi quán vỉa hè có thể ngắm nhìn dòng người qua lại, tiếp nhận được những thông tin mới lạ, nóng hổi. Người ta cũng có thể cảm nhận được hơi thở của cuộc sống, của thời đại. Những dòng người hối hả đến công sở, lại có những con người đang vất vả, bươn chải mưu sinh trên hè phố, đã làm nên bức tranh nhiều mặt của nhịp sống đô thị...

Vỉa hè, bỏ qua những gì chướng tai gai mắt, thì từ đây luôn để lại cho ta những dấu ấn khó quên, giúp ta có thể nhận ra hạnh phúc và đau khổ, khát vọng và tuyệt vọng, sự cần mẫn và lười biếng và còn nhiều, nhiều hơn thế nữa...

Hoàng Hải

Posted by: M&N Sep 10 2009, 11:18 AM


Đường vui


Nguyễn Quang Tuệ

Nắng đã đổi sang màu mật ong đại ngàn. Hoa pơlang đong đưa như gọi mời những cơn gió hoang mang hơi nóng trở về, để lửa đỏ bắt đầu cháy hết mình trên những ngọn cây cao. Bây giờ, các buôn làng Jrai, Bahnar đang vào mùa lễ hội.


Hoa pơlang. Ảnh: N.Q.T


Nắng đã đổi sang màu mật ong đại ngàn. Hoa pơlang đong đưa như gọi mời những cơn gió hoang mang hơi nóng trở về, để lửa đỏ bắt đầu cháy hết mình trên những ngọn cây cao. Bây giờ, các buôn làng Jrai, Bahnar đang vào mùa lễ hội.


Rượu trong mùa lễ hội. Ảnh: N.Q.T


Nhà ở cho người, chuồng trại cho gia súc được sửa sang trở lại; bến nước và nhà rông càng được coi sóc kĩ hơn vào giai đoạn này. Tiếng chày giã gạo, tiếng cối giã củ làm rượu pơng pang pơng pang vang vọng, trộn cùng tiếng dao, nhịp rìu chặt cây, đẽo cột, dựng tượng. Hàng trăm người hoan hỉ vây quanh những dãy rượu ghè dài; hàng trăm người cùng đu mình giữa trời xanh bát ngát, để dựng nên ngôi nhà rông mới.


Làm nhà rông mới. Ảnh: N.Q.T


Tôi đi miên man dọc những con đường vui mùa lễ hội, bắt gặp vô vàn những ánh nhìn hả hê và rất nhiều những nụ cười tươi tắn. Không lạ mắt và vui sướng sao được khi có khách xa đến nhà, cụ già tám mươi tuổi ở vùng sâu, nhanh nhẹn nhấc điện thoại viễn thông gọi con về tiếp đón. Không mừng sao được khi sự đổi mới của buôn làng đã thấy rõ qua từng năm…


Đá bóng ở làng. Ảnh: N.Q.T



Điện thoại vùng sâu. Ảnh: N.Q.T



Những chủ nhân tương lai. Ảnh: N.Q.T


Dĩ nhiên là đằng sau sự ngất ngây men say ấy, tôi cũng kịp nhận ra rằng cuộc sống ở các buôn làng chưa phải đầy đủ, vẹn toàn. Vẫn còn những mái nhà tranh sạm nắng sương vất vả sớm hôm. Vẫn còn nhiều nơi, các bạn trẻ thiếu chỗ vui chơi, phải đá bóng trên những sân đất lầm bụi hoặc lầy lội... Nhưng, tôi tin vào ngày mai, khi các cô bé thấy khách lạ, vội vàng nép vào nhau, trong veo đôi mắt ngước nhìn hôm nay, sẽ được học hành đến nơi đến chốn, sẽ trưởng thành, trở về chung tay xây đắp buôn làng của mình.

Nguyễn Quang Tuệ

Posted by: caoduy Nov 4 2009, 09:39 AM


Cao Nguyên Sương Mù Hay Khói Súng



# Tác giả: Kiều Mỹ Duyên


Ngày 15 tháng giêng năm 1972, tại bãi đáp trực thăng Ba Gi cách thị xã Qui Nhơn 12 cây số về hướng Tây Bắc, Tư Lệnh Quân Đoàn 2/Quân Khu 2, Trung Tướng Ngô Dzu trả lời cuộc phỏng vấn của báo chí trong và ngoài nước một cách khẳng định là Cộng quân sẽ đánh lớn tại Quân Khu 2. Tướng Ngô Dzu cũng cho biết, hiện nay Trung Đoàn 21 thuộc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của Bắc Việt đang thiết lập các căn cứ trong vùng thung lũng An Lão, nằm về phía Bắc của Qui Nhơn. Và cũng theo tin tình báo mới đây thì Bộ Chỉ Huy Quân Khu 5 của Cộng quân được ghi nhận đã xuất hiện trong quận Hoài An, tỉnh Bình Định, làm cho tình hình của vùng này trở nên nghiêm trọng.

Trung Tướng Ngô Dzu còn cho biết thêm, quân số của Cộng quân xâm nhập vào Quân Khu 2 đã lên đến 60 ngàn người, ông cũng tiên đoán chừng một tháng nữa, địch quân sẽ di chuyển các cơ sở đến vùng Tam Biên, sẽ dùng chiến thuật “công đồn đả viện” để đánh Cao Nguyên và biến Kontum thành một Điện Biên Phủ. Một cố vấn dân sự cao cấp Mỹ của Quân Khu 2, ông John Paul Vann tin rằng Cộng quân sẵn sàng hy sinh 10 ngàn quân để chiếm cho được vùng Cao Nguyên. Cuộc chiến sẽ trải rộng từ thành phố Kontum đến Pleiku và Bình Định. Ông cũng tiên đoán là chiến xa của Cộng quân sẽ tấn công vào Benhet và Tân Cảnh đầu tiên.

Cùng lúc với Tướng Trần Nam Trung của Bắc Việt đọc nhật lệnh kêu gọi Cộng quân đánh lớn, đánh mạnh khắp nơi, thì báo Washington Star của Mỹ, số ra ngày 10 tháng 4 năm 1972 loan tin sư đoàn cuối cùng của Bắc Việt đã lên đường tiến vào miền Nam để tăng cường cho 120 ngàn Cộng quân đang rải dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Những tin tức chiến sự như vậy là một hứa hẹn những tháng ngày đầy máu và nước mắt cho cuộc sống đang yên vui bình lặng của người dân miền Nam.

Rồi những gì mọi người chờ đợi cũng sẽ đến. Mùa xuân đến và mùa xuân đã qua. Khi những tia nắng của một sớm mai hè vừa đủ ấm để ửng hồng đôi má của người con gái Cao Nguyên thì tiếng súng bắt đầu nổ. Theo tài liệu bắt được trong mình của một Chuẩn Úy Việt Cộng tên Khổng Thanh Hiền thì lệnh tấn công tại mặt trận Tam Biên được ấn định vào ngày 13 tháng 3 năm 1972. Đó cũng là ngày mà lực lượng Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đụng độ ác liệt với các đơn vị của Sư Đoàn Thép 320 Cộng quân chung quanh Căn Cứ Hỏa Lực 5.

Sư Đoàn Thép là sư đoàn đã từng chiến thắng tại Điện Biên Phủ trước đây và hiện là một trong những đơn vị nòng cốt của Bắc Việt. Lần ra quân này, chỉ sau 3 ngày đụng trận với một vài đơn vị của Lữ Đoàn 2 Dù, Sư Đoàn Thép đã phải để lại nhiều tổn thất.

Một trong những xác Cộng quân bỏ lại chiến trường, có xác của Chuẩn Úy Khổng Thanh Hiền thuộc Tiểu Đoàn Phòng Không của Trung Đoàn 64, Sư Đoàn 320. Những tài liệu tịch thu được trên mình của sĩ quan này là do Tướng Phạm Ngọc Mậu ký ngày 20 tháng 10 năm 1971. Các nguồn tin tình báo của Quân Khu 2 cho rằng Tướng Phạm Ngọc Mậu đã thay thế Tướng Hoàng Minh Thảo, chỉ huy mặt trận Cao Nguyên Trung Phần mà Hà Nội gọi là Mặt Trận B3.

Đúng như sự dự đoán của những giới chức thẩm quyền của Quân Khu 2, Tân Cảnh là nơi đầu tiên mà chiến trận bùng nổ. Cuộc chiến diễn ra khốc liệt không thua gì cuộc chiến tại vùng Trị Thiên, chỉ khác nhau về mặt địa thế: một bên là đồng bằng, một bên là rừng núi, và điều này ảnh hưởng phần nào đến sự yểm trợ của chiến xa và không lực.

Vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 23 tháng 4 năm 1972, Công Trường 2 Cộng quân được yểm trợ bởi nhiều chiến xa T-54 đã ào ạt tấn công vào căn cứ hỏa lực Tân Cảnh, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh do Đại Tá Lê Đức Đạt làm tư lệnh, và đây cũng là bản doanh của Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Thông làm Trung Đoàn Trưởng. Thoạt tiên Cộng quân dội xuống Tân Cảnh cả ngàn quả đạn đại bác 82 ly và hỏa tiễn 122 lỵ Trận mưa pháo kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ.

Lúc 22 giờ 30 phút cùng ngày, Trung Tâm Hành Quân của căn cứ Tân Cảnh bị hư hại hoàn toàn vì một hỏa tiễn điều khiển chống chiến xa của Cộng quân chui ngay vào cửa hầm. Hầu hết những người trong Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và trong Ban Chỉ Huy của Trung Tá Thông đều bị thương. Chỉ có Đại Tá Đạt và Trung Tá Thông là thoát nạn vì đã rời hầm chỉ huy trước đó để đi đôn đốc binh sĩ của mình. Trung Tâm Hành Quân phải dời qua một hầm kế bên.

Đến 23 giờ, cánh quân tiền phương của Cộng quân được phát hiện cách quận Dakto chừng một cây số về hướng Tây với sự yểm trợ của 3 xe tăng T-54. Lập tức phi cơ AC-130 cất cánh từ phi trường Nha Trang bay đến oanh kích và bắn cháy ngay 3 chiến xa này khi còn cách Dakto chừng 500 mét, nhưng không ngăn được bước tiến của toán tiền phương địch. Đúng nửa đêm, Cộng quân ào ạt tấn công tiền đồn Tân Cảnh.

Sau khi đạo quân tiền phương với quân số chừng một trung đoàn tấn công vào Tân Cảnh, một trung đoàn Cộng quân thứ hai xuất hiện cách Tân Cảnh 3 cây số về hướng Tây Bắc, kéo ra Quốc Lộ 14 và cắt đoạn đường Dakto-Tân Cảnh ra làm bốn đoạn, khiến cho sự liên lạc giữa hai nơi chỉ còn qua máy vô tuyến mà thôị
Hình chụp trên Quốc Lộ 19 trước khi vào thị xã Pleiku. (HÌNH ẢNH: Don Armstrong)


Ngay sau khi phát giác sự xuất hiện của cánh quân thứ hai này, mặc dầu thời tiết được loan báo là xấu, các toán A-1 Skyraider thuộc Phi Đoàn 530 của Không Đoàn 72 Chiến Thuật và các khu trục A-37 của Không Đoàn 62 Chiến Thuật biệt phái cho Pleiku đã nhất loạt cất cánh từ phi trường Cù Hanh để bay lên oanh kích cánh quân này.

Khoảng 2 giờ 30 sáng, vừa pháo kích vừa xung phong, hai trung đoàn Cộng quân cố gắng tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, nhưng gặp phải sự kháng cự quá ư mãnh liệt của các chiến sĩ Trung Đoàn 42, nên trận chiến kéo dài cho đến lúc trời sáng, Tân Cảnh vẫn còn đứng vững. Trời vừa sáng thì thời tiết trở thành bất lợi cho những người đang tử thủ trong Tân Cảnh. Sương mù xuống thấp làm cho Không Quân bị bó tay, không thể yểm trợ được.

Vào lúc 7 giờ sáng ngày 24 tháng 3, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 hoàn toàn mất liên lạc vô tuyến với căn cứ hỏa lực Tân Cảnh. Cả Bộ Tham Mưu của Tướng Ngô Dzu như ngồi trên lửa. Không ai dám mở lời tiên đoán số phận của Tân Cảnh như thế nào. Đích thân Tướng Dzu gọi cho các đơn vị yểm trợ như Không Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh… để hỏi, không ai biết số phận của Tân Cảnh bây giờ ra sao.

Cho đến 10 giờ sáng, một sĩ quan Truyền Tin la lên, “Liên lạc được rồi.” Tướng Dzu chụp lấy máy hỏi dồn. Đại Tá Đạt báo cáo đã đẩy lui được địch quân. Mọi người trong Trung Tâm Hành Quân đều thở phào và nét mặt người nào cũng lộ vẻ phấn khởi. Cũng vào lúc này, thời tiết đã trở nên quang đãng hơn, các phi cơ chiến đấu của Không Đoàn 72 Chiến Thuật bắt đầu cất cánh và mấy chiếc trực thăng tiếp tế đạn dược đã lọt được màn lưới lửa phòng không của địch, đáp an toàn xuống căn cứ Tân Cảnh.

Mặc dù vẫn còn đứng vững trước đợt tấn công thứ nhất, nhưng với sự tăng cường thêm một sư đoàn thứ hai của địch quân từ căn cứ hậu cần 609 nằm bên kia biên giới (ở bên Lào) tiến qua, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đã cho căn cứ Tân Cảnh và một số các căn cứ hỏa lực khác dọc theo dòng sông Poko ở phía Tây Quốc Lộ 14 di tản chiến thuật, rút về lập một phòng tuyến mới ở ngang căn cứ Bravo, cách Kontum 20 cây số về phía Bắc.

Cùng với kế hoạch di tản chiến thuật một số các căn cứ hỏa lực ở mạn Bắc thành phố Kontum, Tướng Ngô Dzu đã thành lập một ủy ban có tên là Ủy Ban Di Tản Đồng Bào Kontum và Pleiku. Ủy ban này do Đại Tá Hồ Hồng Nam, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị của Quân Đoàn 2 làm chủ tịch. Phương tiện di tản sẽ bằng máy bay C-130 của Hoa Kỳ và C-123 của Việt Nam Cộng Hoà.

Một nguồn tin cho biết bệnh tim của Tướng Ngô Dzu bị tái phát, nhưng ông bất chấp, dồn nỗ lực vào hai việc là di tản đồng bào ra khỏi vùng lửa đạn và tái chiếm các căn cứ mà quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã di tản chiến thuật trong những ngày vừa qua.

Người dân của hai thành phố Pleiku và Kontum đã sống trong lo sợ phập phồng từ những ngày trước Tết Nguyên Đán vì những tin tức chiến sự ngày càng nặng nề. Cơn ác mộng đó cứ chập chờn trong mọi sinh hoạt của người dân Tây Nguyên cho đến hôm nay, chiến trận đã thực sự bùng nổ.

Tôi đến Pleiku trong những ngày thành phố này đang di tản. Thành phố có lệnh giới nghiêm lúc 7 giờ tối, nhưng mới 5 giờ chiều trên các đường phố đã không thấy bóng dáng một người dân. Chỉ có những chiếc xe nhà binh chạy hết tốc lực. Những người ngồi trên xe, ai cũng mặc áo giáp, đội nón sắt cẩn thận. Trong thành phố, nhà nào cũng làm hầm nấp pháo kích. Đa số đều làm hầm nổi. Gia đình của các quân nhân, công chức được lệnh di tản khỏi Pleiku để cho người chiến sĩ rảnh tay chiến đấu. Các công chức chuẩn bị nhận súng khi có lệnh.

Vẻ kinh hoàng hiện trên nét mặt mọi ngườị Nỗi lo âu chồng chất bởi nhiều vấn đề. Di tản: đến đâu, ăn đâu, ở đâủ Nhà cửa, tài sản để lại, ai trông coỉ Lâu mau mới về? Bà vợ của một giáo sư buồn rầu tâm sự với tôi:

- Tôi bụng mang dạ chửa. Cả tuần lễ nay tôi lo quá, chẳng ăn uống gì được. Nhà nào cũng làm hầm, nhưng ăn thua gì cô. Chồng tôi nhất định ở lại đây. Tôi và các cháu tính về Saigon, nhưng giá máy bay đắt quá, cả gia đình phải mấy chục ngàn tiền vé, tiền đâu mà đi!

Giá vé máy bay Pleiku-Sài Gòn ngày thường là 3,800 đồng. Nhưng lúc này giá chợ đen khoảng 10 ngàn một vé. Nếu muốn mua giá chính thức thì phải chờ hơn nửa tháng. Súng đạn đã nổ sát một bên rồi, có ai kiên nhẫn chờ hơn nửa tháng nữa mới rời thành phố?

Một khu chợ trời thành hình dọc theo đường Hoàng Diệụ Đồ đạc bán rất nhiều và rất rẻ. Người bán nhiều hơn người mua. Những nhu yếu phẩm như gạo, nước mắm, dầu hôi… giá tăng lên vùn vụt. Những người nghèo dành dụm được ít vàng phải đem bán để lấy tiền di chuyển. Vàng xuống giá rất nhanh. Các tiệm vàng đều bán ra mà không mua vào. Vàng y giá 20 ngàn đồng một lượng, trong khi gạo 20 ngàn một tạ. Ai cũng cố bán ti vi, tủ lạnh, radio để bọc tiền mà chạy. Nhưng ai dám bỏ tiền ra mua mấy thứ đó lúc nàỵ Có người treo bảng bán cả nhà, bán thật rẻ mà đã 3 tuần nay không có một người nào hỏi đến.

Lệnh di tản được ban ra. Dân Kontum di tản về Pleiku. Các trường học ở Pleiku được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Trong khi đó, gia đình quân nhân, công chức ở Pleiku lại di tản đi nơi khác. Tôi nêu lên sự thắc mắc này, một giới chức thẩm quyền ở Pleiku giải thích: dân Kontum tạm thời di tản về đây để chờ lập cầu không
vận chuyển đi các nơi khác như Nha Trang, Saigon.

Hôm qua, ngày 27 tháng 4, quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiếp tế từ Qui Nhơn lên Pleiku 400 tấn gạo. Người dân Pleiku mỗi ngày tiêu thụ 30 ngàn tấn. Tỉnh Pleiku chưa có kế hoạch nào về việc phân phối số gạo nói trên. Cho tới hôm nay, kho gạo an toàn của Pleiku chưa hề đụng tới. Kho gạo này có thể nuôi toàn thể dân Pleiku trong vòng một tháng.

Gạo và những nhu yếu phẩm khác vẫn tăng giá vùn vụt. Mua được một ký gạo là một chuyện rất khó khăn, vì trong hoàn cảnh này, có tiền chưa chắc đã mua được. Tất cả tiệm ăn trong thành phố đều đóng cửa. Khoảng 50 phóng viên Việt Nam và ngoại quốc đang có mặt ở đây phải ăn hủ tiếu hoặc phở thay cơm và bánh mì. Những gia đình giàu có vội vàng ra đị Những người khác lần lượt tiếp nối. Và thành phố Pleiku ngày càng hoang vắng.

Sau khi bắt lại liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2, suốt ngày hôm đó tại căn cứ Tân Cảnh, các chiến sĩ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh đã anh dũng đẩy lui nhiều đợt xung phong mãnh liệt của Cộng quân có quân số đông gấp ba lần và được yểm trợ bởi 60 chiến xa T-54 cùng với một trung đoàn pháo.

Cuộc chiến đấu hào hùng này đã kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ không ngừng một giây phút. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 theo dõi những diễn tiến tại Tân Cảnh cho đến 19 giờ 45 phút ngày 24 tháng 4 thì một lần nữa mất liên lạc với căn cứ này. Và theo tin của một số binh sĩ và đồng bào vừa thoát khỏi quận Dakto thì Cộng quân đã tràn vào căn cứ Tân Cảnh vào lúc tối ngày 24.

Trong lúc đó, tại quận Dakto, Trung Tá Lò Văn Bảo chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân vẫn tiếp tục kháng cự với Cộng quân, mặc dù đã có lệnh di tản chiến thuật khỏi nơi này. Trung Tá Bảo gốc người Thái vùng Bắc Việt, ông gọi máy vô tuyến về Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nói rằng ông sẽ quyết chiến với địch quân, chết chứ không lùi bước. Rồi sau đó cũng như Đại Tá Đạt, người ta không biết số phận của Trung Tá Bảo như thế nào vì mọi liên lạc đều bị gián đoạn.

Chờ hai ngày ở phi trường Pleiku dưới trời nắng cháy và cát bụi, đến ngày thứ ba tôi mới được theo máy bay quan sát lên Kontum. Máy bay bay giữa những cụm mây trắng, bên dưới là núi rừng trùng trùng điệp điệp. Pleiku cách Kontum chừng 45 cây số đường bộ.

Sau khi Tân Cảnh và Dakto di tản chiến thuật, thành phố Kontum ngày càng chịu áp lực nặng nề của Cộng quân. Con đường duy nhất nối liền Kontum và Pleiku đã bị cắt đứt. Phi trường Kontum bị pháo kích vào mỗi ngàỵ Phương tiện còn lại duy nhất là máy bay quân sự. Hôm trước đến Phòng Báo Chí của Quân Đoàn để xin phương tiện, gặp mấy người từ Kontum về, một anh nói với tôi:

- Cô nên mặc áo giáp, đội nón sắt vì trên Kontum Việt Cộng pháo kích dữ lắm, pháo như mưa. Xuống máy bay là phải chạy tìm chỗ nấp liền. Nên kiếm cái ba lô để mang theo thức ăn. Các tiệm ăn trên Kontum đều đóng cửa hết.

Tôi nghĩ chết sống có số. Với tôi, nhiều khi mang áo giáp, đội nón sắt rồi nặng quá chạy không nổi thì cũng chết. Ngày đầu chờ máy bay, tôi còn mang theo bánh mì và một bộ quần áo. Nhưng chờ đợi mãi, đến ngày thứ ba, khi leo lên máy bay, tôi chỉ mang cái máy ảnh, ít thuốc cần thiết và băng cá nhân. Người nữ phóng viên chiến trường không cần mang son phấn nên hành trang cũng nhẹ bớt phần nào. Có những đoạn máy bay bay thật thấp. Tiếng người phi công nói qua ống nghe:

- Cô nhìn xuống mặt đường, có mấy chiếc xe đò bị Việt Cộng giựt mìn còn xác nằm bên đường đó.

Con đường ngoằn ngoèo bên dưới thật vắng, không có bóng một chiếc xe nào đang di chuyển. Thỉnh thoảng thấy một vài chiếc xe hàng bị lật. Trước đây vài ngày, nghe nói có nhiều xe hàng liều mạng chở người tị nạn từ Kontum về Pleiku, giữa đường bị Việt Cộng giựt mìn hoặc từ trên núi bắn B-40 xuống. Máy bay bay ngang một làng nào đó. Khắp làng không thấy bóng dáng một người dân. Tôi hỏi người phi công:

- Sao không thấy một người dân nào cả? Đây cách Kontum chừng bao nhiêu cây số và đang ở về hướng nào?

Người phi công chấm một dấu đỏ trên bản đồ ghi dấu vị trí hiện tại của máy bay và đưa tấm bản đồ về phía tôi:

- Dân đã được di tản rồi. Cô không nhìn thấy những hố bom B-52 dưới kia sao? Còn cách Kontum 20 cây số về hướng Nam.

Hai người xạ thủ đại liên nói đùa với tôi:

- Nếu thấy Việt Cộng, tụi tôi nhường súng cho cô bắn.

Tôi nhìn xuống bên dưới, có 3 chiếc xe mang cờ Công giáo, chiếc đi giữa chở một cái hòm, hình như là một đám tang. Về sau tôi được biết người chết là một thanh niên, một trong những người đang ngồi ở phi trường đợi máy bay để rời Kontum, rồi bị pháo kích mà chết. Hôm đến Phòng Báo Chí của Quân Đoàn 2, gặp Đại Úy Vượng, ông khuyên:

- Cô lên Kontum thì nên chuẩn bị sẵn cho một cuộc chạy bộ. Hãy mang giày nào cho dễ chạy. Trên đó không có xe cho cô di chuyển. Có mượn được xe cũng không có xăng. Xuống phi trường, cô phải chạy bộ vào thành phố, chỉ chừng 3 cây số thôi. Tại Kontum, bây giờ, một giọt xăng quý như một giọt máu.

Vậy là tối hôm đó tôi tìm mua một đôi giày ba ta để chuẩn bị cho một cuộc chạy bộ từ phi trường vào thành phố. Nhưng rồi cũng may, trực thăng hạ cánh cách tòa hành chánh tỉnh chừng một cây số. Thế là tôi chỉ đi bộ vào phố chứ khỏi chạy bộ. Lúc đó Việt Cộng đang pháo vào phi trường. Những đoàn người trên đường ra phi trường phải dừng lạị Một người trong nhóm đó thở dài:

- Trời ơi, Việt Cộng pháo vào phi trường mãi. Không biết bà con của mình đợi ở đó có sao không!

Tôi đến đây nhằm ngày Chủ Nhật, chỉ có con đường ra phi trường là còn có người di chuyển. Hằng ngàn người, đa số là vợ con của quân nhân và công chức tụ tập trước MACV để xin máy bay di chuyển. Phải có giấy của Đại Tá Tỉnh Trưởng ký trước, rồi đến xin giấy của Đại Tá Mỹ ở MACV. Bao giờ cầm được giấy lên máy bay mới biết chắc mình được đi. Giấy được đi phải là giấy ưu tiên một. Đối với máy bay Mỹ, mọi người giữ được kỷ luật như vậy, còn với máy bay Việt Nam, dân cứ ào lên, ào lên. Không có cách gì để giữ cho được trật tự.

Cách đây vài hôm ở phi trường Cù Hanh, hơn 10 ngàn người tràn lên một chiếc máy bay. An Ninh, Quân Cảnh không thể nào ngăn cản được. Một ông trung tá rút súng bắn dọa một phát, viên đạn vô tình lại trúng vào cánh máy bay sao đó mà máy bay không cất cánh được. Và người ta lại kiên nhẫn ăn, ngủ ngay tại phi trường để chờ.

Tội nhất là những đứa bé sơ sanh, phải dầm mưa dãi nắng và chịu đói khát, đau ốm đã bao nhiêu lâu rồi. Vấn đề tiếp tế cho Kontum ngày càng trở nên khó khăn, tất cả chỉ còn trông chờ vào các trực thăng Chinook. Những nhu yếu phẩm cần thiết làm sao có đủ cho đồng bào tị nạn chạy về từ Dakto, Tân Cảnh.

Tôi đến toà hành chánh tỉnh Kontum vào lúc 10 giờ sáng. Quân nhân, công chức tụ họp từ từng dưới lên cả trên lầu. Họ chia ra từng nhóm, người nào cũng nói về chuyện di tản. Họ đến đây để xin giấy di chuyển cho gia đình. Tôi đang đứng ở cầu thang hỏi thăm mấy người ở đây thì Đại Tá Nguyễn Bá Thìn, Tỉnh Trưởng Kontum đi ra, thấy tôi ông chào hỏi và nói:

- Bây giờ tôi đi thăm các trại tạm cư, cô có đi không? Cô nên viết để kêu gọi giúp đở cho hoàn cảnh này.

Tôi lên xe của Trung Tá Đổ, Tiểu Khu Phó, hướng về các trại tạm cư. Trường học và các cô nhi viện được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Chúng tôi ghé lại một trường học. Trên sân trường, người Thượng nằm, ngồi dưới các gốc cây, họ vừa chạy về từ Dakto, Tân Cảnh. Nét mặt người nào cũng có vẻ ngơ ngác trông thật tội nghiệp. Trong khi Đại Tá Thìn hỏi thăm những cán bộ Bình Định Nông Thôn về vấn đề phân phát gạo cho đồng bào tị nạn, thì tôi đi chụp hình và tìm những người thượng biết nói tiếng Việt để hỏi thăm. Mấy người này đến từ làng Konkring.

Tôi nghe tiếng Đại Tá Thìn hỏi:

- Ty Y Tế có rắc thuốc không?

Gần 10 năm làm báo, đây là lần đầu tiên tôi thấy một ông Đại Tá Tỉnh Trưởng đi kiểm soát nhà cầu của một trại tị nạn. Vấn đề giữ được vệ sinh ở trại này thật là khó khăn. Cán bộ thì ít, người tị nạn thì đông. Tất cả nhân lực đang dồn vào chiến trận, vào việc di tản dân Kontum đi nơi khác và tiếp cư dân nơi khác về Kontum. Mỗi người được lãnh 500 gram gạo một ngày, nhưng không dám ăn hết, để dành lại một ít phòng hờ ngày mai không được phát gạo nữa. Thời chiến chinh, ai mà biết được những gì sẽ đến trong ngày mai.

Vào lúc 16 giờ ngày 29 tháng 4, một phi cơ quan sát trong lúc bay trên không phận Dakto, bỗng nhiên thấy ánh sáng của một tấm kiếng từ dưới đất chiếu lên. Phi công liền xuống thấp để quan sát thì thấy một đám đông đang tụ họp quanh khu chợ. Dakto và ra dấu hiệu cấp cứu. Khi phi cơ xuống thấp hơn nữa, thấy đám đông đó là khoảng 200 binh sĩ của ta. Những người này đang làm dấu hiệu cho phi cơ đáp xuống. Phi công định đáp xuống một bãi trống phía Tây của chợ, nhưng địch biết được ý định đó nên bắn lên máy bay như mưa và đồng thời mở đợt tấn công vào đám binh sĩ của ta đang bị vây.



Được tin báo của máy bay quan sát, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 tin rằng nhóm 200 binh sĩ đang bị vây khổn ở chợ Dakto gồm có Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và binh sĩ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh trên đường di tản khỏi căn cứ Tân Cảnh. Vì vậy, cuộc giải vây cho nhóm 200 người đang cầm cự với địch đã được thực hiện với ưu tiên một.

Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đưa được Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh cùng với 200 binh sĩ từ chợ Dakto về căn cứ của Quân Đoàn. Cùng đi với Đại Tá Đạt, có Trung Tá Nghiêm Kế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 22 Công Binh Chiến Đấu, một đơn vị yểm trợ của Sư Đoàn 22.

Ký nhi viện Vincent cũng là một trong những trại tạm cự Chúng tôi đến thăm vào buổi trưa, các dì phước đều mặc áo màu xanh, lúp màu xanh và đang làm việc rất bận rộn. Có mấy dì phước ngồi ghi tên những người mới đến vào danh sách. Người tị nạn ở đây đa số là người Thượng từ các buôn ở mạn Bắc của Kontum chạy về. Tôi ngồi xuống bên cạnh một dì phước rất trẻ, nói được tiếng Barna. Sinh hoạt chung với họ rồi nói được tiếng của họ. Ký nhi viện này ở bên cạnh trường trung học Quenot của cha Trường. Trường học thật khang trang đẹp đẽ. Những cây phượng trong sân nở hoa đỏ rực. Xác hoa phượng phủ đầy các lối đi.

Đại Tá Thìn hỏi các dì phước:

- Vấn đề vệ sinh ở đây làm cho các sơ vất vả lắm phải không?

Một dì phước trả lời:

- Người Thượng họ tắm cả ngày, tắm nhiều hơn mình nữa, nhưng họ không có quần áo để thay. Có một bộ đồ là họ mặc cho đến khi rách, chứ không giặt giũ gì cả. Mà muốn giặt cũng không có đồ để thaỵ

Tôi hỏi dì phước:

- Thưa sơ, trại này hiện có bao nhiêu người?

- Đã tiếp nhận hai ngày nay là 950 ngườị Số người mới đến còn đang lập danh sách.

Một dì phước quay lại hỏi tôi:

- Cô có nghe tin gì về Konkring không? Có mấy sơ ở Konkring cũng thuộc về Vincent de Paul, ở đây chúng tôi không được tin tức gì hết, chắc bị Việt Cộng bắt giữ lại hết rồi.

Các dì phước ở đây nhắc đến những người ở Konkring một cách quan tâm và thương mến. Buổi loạn ly bom đạn đâu có tránh ai, Việt Cộng đâu có chừa ai.
Kho nhiên liệu bốc cháy trong căn cứ quân sự tại Pleiku (HÌNH ẢNH: Don Armstrong)

Rời trại tạm cư ở ký nhi viện Vincent, chúng tôi đến thăm một trại tạm cư khác tại một trường trung học. Chúng tôi đến lúc đồng bào đang ăn cơm. Thức ăn thật đơn giản: rau luộc và một món mặn. Vợ chồng, con cái ngồi bẹp xuống nền của lớp học. Họ ăn một cách ngon lành, nhưng trên mặt vẫn còn những nét sợ hãi vì đoạn đường họ đã vượt qua và những hiểm nguy họ đã gặp.

Tôi hỏi một người đàn bà ngồi gần cửa:

- Chị chạy mấy ngày mới tới đây?

Người đàn bà đặt chén cơm xuống, nhìn tôi rồi trả lời:

- Đi 4 ngày trong rừng, mới ló đầu ra là gặp ngay Việt Cộng. Chạy đến chảy máu chân cũng không hay. Về tới đây mới biết mình còn sống.

Một ông cụ ngồi nhìn chén cơm mà không ăn, nước mắt rưng rưng:

- Mấy đứa con tôi thất lạc hết rồi. Không biết chúng còn sống hay đã chết. Ngày nào tôi cũng đi tìm chúng nó. Có ai thấy chỉ dùm tôi.

Tỉnh Kontum có khoảng 50 ngàn dân, gồm 30 ngàn người ở thành phố và 20 ngàn người rải rác các quận chung quanh. Người Thượng ở trong những làng mạc xa xôi hẻo lánh. Trong khi dân Kontum di tản về Pleiku hoặc Saigon, dân ở các làng, các quận lại đổ về Kontum tị nạn. Những gia đình giàu có đã đi hết rồi, bây giờ còn lại đa số là gia đình của quân nhân và công chức. Phía bên Mỹ thông báo rằng, đến ngày 1 tháng 5, họ không cấp phương tiện để di tản đồng bào nữa.

Ngày 29 tháng 4, một vị thượng tọa dẫn 5 ngàn tín đồ đi bộ từ Kontum về Pleikụ Đoàn người ngày đi đêm nghỉ, cuối cùng cũng về tới Biển Hồ. Nhà cầm quyền Kontum lo lắng rất nhiều về việc di tản, nhưng không đủ phương tiện. Tướng Ngô Dzu cũng rất khổ tâm về việc nàỵ Một ngày chỉ có 4 chiếc Chinook tiếp tế. Sự tiếp tế nhỏ giọt nên cũng đến ngày thành phố Kontum không có điện vì thiếu dầu, một số dân trong các làng đói vì thiếu gạo. Bây giờ Kontum đã bị cô lập, cuộc sống của những người còn lại ở đây chỉ mong vào sự tiếp tế của máy bay mỗi ngày.

Thành phố Kontum chỉ mới hoang vắng, nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Nguyên vẹn với nét đẹp của một thành phố miền Cao Nguyên. Dòng sông Dabla vẫn lặng lờ uốn khúc quanh co, và trên bờ, màu hoa phượng vĩ vẫn rực rỡ trong khói lửa chiến tranh đang bao trùm thành phố.

Buổi sáng tôi ra phi trường để gửi bài về toà soạn thì chợt bắt gặp một tà áo xanh, màu áo xanh đồng phục của những nữ tiếp viên hàng không Air Việt Nam. Người con gái có đôi mắt to và đen, nét mặt buồn như muốn khóc. Nàng có vẻ lạc lõng giữa một rừng người đang chờ di tản ở phi trường và hình như đang tìm kiếm
một người nào đó. Khi đi ngang qua chỗ Đại Úy Hoà và tôi đang đứng nói chuyện với nhau, người con gái dừng lại ấp úng hỏi vị sĩ quan:

- Thưa Đại Úy, Đại Úy có thể cho tôi biết trong số thương binh mà Đại Úy đã di tản về các bệnh viện có Thiếu Úy Nguyễn… không?

Đại Úy Hoà, Quân Y, nhìn người con gái một lát rồi chậm rãi trả lời:

- Tôi làm sao nhớ hết được. Nếu cô cho tôi thêm số quân, đơn vị của người đó, tôi sẽ tìm dùm cho cô. Chừng nào cô mới có chuyến bay trở lại đây?

Người nữ tiếp viên có vẻ mừng rỡ:

- Thiếu Úy Nguyễn thuộc Trung Đoàn 42, tôi không nhớ số quân của anh ấy. Sau khi Tân Cảnh di tản, tôi không được tin tức gì của anh ấy nữa. Tôi tình nguyện bay đường Saigon-Kontum mỗi ngày hai chuyến, sáng và chiều, để lên đây mong kiếm được tin tức của anh. Nhưng mỗi lần máy bay hạ cánh có một tiếng đồng hồ,
nên tôi chỉ luẩn quẩn hỏi thăm ở trong phi trường này mà thôi.

Đại Úy Hoà hứa với người nữ tiếp viên hàng không:

- Tôi sẽ hỏi phòng hành quân dùm cô. Đồng thời tôi sẽ dò xem danh sách của thương binh. Trưa nay, lúc máy bay của cô đáp xuống, tôi sẽ ra đây trả lời cho cộ Hiện nay, những người sống sót của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 và Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 42 đóng ở Tân Cảnh đã về đây hết, tôi cũng sẽ hỏi thăm dùm cô.

Sau khi người nữ tiếp viên trở lại máy bay về Saigon. Đại Úy Hoà làm đúng lời hứa, đã đi nhiều nơi để dò thăm tin tức. Nhưng tên của người sĩ quan này không có trong danh sách những thương binh, cũng không có mặt trong số những người về từ Tân Cảnh. Vậy chỉ còn một là thất lạc trong rừng, hai là bị lọt vào tay địch,
ba là đã chết mất xác. Tôi thấy Đại Úy Hòa có vẻ ái ngại khi đến giờ phải ra phi trường gặp lại người nữ tiếp viên hồi sáng. Các phi trường Kontum và Pleiku bị pháo mỗi ngày, nhưng nàng vẫn tình nguyện bay lên đây ngày hai chuyến, với hy vọng có chút tin tức hay được gặp lại người yêu.

Buổi trưa tôi từ chối không đi cùng Đại Úy Hoà ra phi trường. Tôi sợ phải nhìn thấy những giọt nước mắt và nét tuyệt vọng trên khuôn mặt hiền lành của người con gái đó. Tôi sợ một câu trả lời từ miệng mình thốt ra là một sự thật phũ phàng dập tắt hết mọi niềm hy vọng. Tình yêu của người con gái đó quá đẹp và quá hiếm trong những ngày ly loạn như hôm nay.

Kiều Mỹ Duyên

Posted by: caoduy Nov 7 2009, 05:01 PM


Trận Chiến Đức Cơ



# Tác giả: Tôn Thất Soạn


Vào đầu năm 1965, lo ngại trước việc Hoa Kỳ đổ quân vào miền Nam Việt Nam và oanh tạc miền Bắc, và để đối phó với tình hình mới, Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) đã đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở miền Nam hầu phân tán các lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Mở đầu trọng điểm là các trận đánh ở Đồng Xoài ở tỉnh Phước Long. Tiếp theo là chiến dịch Ba Gia ở tỉnh Quảng Ngãi. Xa hơn về phía Bắc, họ cắt đứt các trục lộ chính ở Nam Tây-Nguyên và cuối cùng là bao vây tấn công trại Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) Đức Cơ trong tỉnh Pleiku.

TRẠI LỰC LƯỢNG ÐẶC BIỆT ÐỨC CƠ

Ðược thiết lập trên một sườn đồi, trại Lực Lượng Ðặc Biệt này có tiết diện hình tam giác và nằm kế cận một phi đạo dã chiến với rừng rậm bao bọc cả ba phía. Đức Cơ nằm trong tỉnh Pleiku, cách biên giới Việt-Miên khoảng 13 cây số về hướng Tây và cách thành phố Pleiku 55 cây số về hướng Đông-Bắc. Từ đây, các toán tuần tiễu của Việt Nam Cộng Hòa có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo và ngăn chặn sự xâm nhập của quân Bắc Việt từ phía Cam Bốt, đồng thời bảo vệ khúc đường cuối cùng của Quốc Lộ 19.

Lực lượng đồn trú tại Đức Cơ gồm một đơn vị Lực Lượng Ðặc Biệt Việt Nam với trại trưởng là Trung Úy Trần Tự Lập. Trung Úy Lập là sĩ quan thuộc Khóa 17 Võ Bị Đà Lạt. Về phía Hoa Kỳ, vị sĩ quan trưởng toán A-215 là Đại Úy R. B. Johnson. Trong trại có khoảng 400 binh sĩ Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ). Đa số là người Thượng cùng một số người Nùng.

Sau đây là những biến cố đã xảy ra quanh vùng Ðức Cơ:

# Ngày 31 tháng 5/1965, Tiểu Đoàn 952 Việt Cộng tấn công và chiếm quận lỵ Lệ Thanh nằm cách Đức Cơ 8 km về hướng Đông-Bắc.

# Ngày 30 tháng 6/1965, Trung Đoàn 32 CSBV được lệnh bao vây trại Đức Cơ với mục đích lôi cuốn và tiêu diệt viện binh trên Quốc Lộ 19. Do vị thế bất lợi vì nằm ngoài tầm yểm trợ pháo binh, trại này đã bị hỏa lực pháo binh Bắc Việt khống chế ngay từ đầu.

# Ngày 4 tháng 8/1965 lúc 8 giờ sáng, Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc (Tư Lệnh Quân Khu 2 VNCH) cho trực thăng vận Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù do Trung Tá Ngô Xuân Nghị làm Chiến Đoàn Trưởng vào Đức Cơ để giải tỏa áp lực địch. Chiến Đoàn 2 gồm Tiểu Đoàn (TÐ) 3 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trương Kế Hưng và Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù do Thiếu Tá Đào Văn Hùng làm Tiểu Đoàn Trưởng. Cuộc đổ quân trực thăng vận xuống phi đạo dã chiến trước trại Đức Cơ hoàn tất lúc 16 giờ cùng ngày. Tình hình yên tĩnh trong đêm.

# Ngày 5 tháng 8/1965, Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù bắt đầu mở cuộc hành quân tảo thanh về phía Bắc trại Ðức Cơ. Đến 15 giờ, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù bắt đầu chạm địch tại phía Nam đồi Chu Kram. Sau đó, các khu trục cơ Skyraider của Không Quân Việt Nam (KQVN) xuất hiện để oanh tạc và bắn phá các vùng tập trung quân của địch. Các trực thăng võ trang Hoa Kỳ cũng bay đến để yểm trợ Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù. Thiếu Tá Trương Kế Hưng bị thương nặng. Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù cũng bị chạm địch. Trong lúc yểm trợ tiếp cận, trực thăng võ trang Mỹ đã bắn lầm vào đội hình của Đại Đội (ÐÐ) 83 Nhảy Dù đang bố trí tại bìa rừng, khiến Trung Úy Lâm Đôn (đại đội trưởng) bị thương nặng cùng với một số binh sĩ khác. Trung Úy Bùi Quyền, sĩ quan thuộc Khóa 16 Võ Bị Ðà Lạt, từ Đại Ðội 81 được tạm thời đưa sang chỉ huy Đại Ðội 83.

# Ngày 6 tháng 8/1965 lúc 2 giờ sáng, bộ đội Bắc Việt tấn công trại Đức Cơ tại hai hướng Tây và Tây-Nam. Pháo binh địch bắn xối xả vào trại. Từ bên ngoài trại, địch quân chĩa mũi dùi vào tuyến phòng thủ của Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù tại hướng Tây-Nam. Phi cơ C-47 từ Pleiku bay đến thả hỏa châu soi sáng trận địa. Càng gần sáng, cuộc chạm súng thưa dần. Nhưng cường độ pháo kích của quân Bắc Việt càng gia tăng. Đạn súng cối nổ gần như liên tục vào khu vực trại Đức Cơ, phi đạo và vào vị trí của hai tiểu đoàn Nhảy Dù. Dưới hỏa lực phòng không quá mạnh, các phi cơ vận tải phải bay thật cao để tránh đạn, nên phần lớn dù tiếp tế đã bay lạc ra ngoài nên thực phẩm và đạn dược ngày càng kham hiếm. Trại Ðức Cơ hầu như đã trở thành địa ngục dưới các cơn pháo dữ dội của quân Cộng Sản.

# Ngày 9 tháng 8/1965 từ 7 giờ sáng, dưới sự yểm trợ hỏa lực mãnh liệt của các oanh tạc cơ Việt-Mỹ, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù do Thiếu Tá Hồ Trung Hậu chỉ huy đã được trực thăng vận xuống đầu phi đạo. Ðơn vị này tiến chiếm các vị trí trong khu vực nằm về phía Bắc trại. Sau đó họ liên lạc được với hai Tiểu Đoàn 3 và 8 Nhảy Dù.

HÀNH QUÂN DÂN THẮNG 7

Cùng ngày 9 tháng 8/1965, một lực lượng đặc nhiệm gồm hai chiến đoàn được thành lập để mở cuộc hành quân Dân Thắng 7 nhằm khai thông Quốc Lộ 19 và tiếp tế cho trại LLĐB Đức Cơ. Cuộc hành quân này do Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn, Tư Lệnh Biệt Khu 24 (vùng đất thuộc hai tỉnh Kontum và Pleiku) trực tiếp chỉ huy.

Chiến đoàn Thiết Giáp do Trung Tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy gồm có:

1. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 3 Thiết Giáp
2. Chi Ðoàn 1/5 Chiến Xa do Đại Úy Trần Văn Thoàn làm chi đoàn trưởng
3. Chi đoàn 2/6 Thiết Quân Vận do Đại Úy Dư Ngọc Thanh làm chi đoàn trưởng
4. Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân (BĐQ) do Đại Úy Nguyễn Văn Sách làm tiểu đoàn trưởng
5. Một pháo đội đại bác 105 ly
6. Một rung đội Công Binh Chiến Đấu
7. Một chi đội Thiết Giáp M-8
8. Các thành phần Vận Tải và Tiếp Vận

Chiến Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) do Trung Tá Nguyễn Thành Yên chỉ huy gồm có:

1. Bộ chỉ huy Chiến Đoàn A-TQLC với Thiếu Tá Cổ Tấn Tinh Châu làm tham mưu trưởng và các ban Tham Mưu Chiến Đoàn.
2. Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 2 TQLC gồm Thiếu Tá Hoàng Tích Thông (tiểu đoàn trưởng), Đại Úy Nguyễn Văn Hay (tiểu đoàn phó và kiêm nhiệm đại đội trưởng Đại Ðội 2), Đại Úy Phạm Nhã (đại đội trưởng Ðại Ðội 1), Đại Úy Nguyễn Văn Hay (đại đội trưởng Ðại Ðội 2), Đại Úy Nguyễn Năng Bảo (đại đội trưởng Ðại Ðội 3), Trung Úy Nguyễn Xuân Phúc (đại đội trưởng Ðại Ðội 4)

Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 5 TQLC gồm có:

1. Tiểu Đoàn Trưởng: Thiếu Tá Dương Hạnh Phước (tiểu đoàn trưởng)
2. Đại Úy Nguyễn Kim Phương (tiểu đoàn phó)
3. Đại Úy Nguyễn Văn Nho (trưởng ban 3, không phải Thiếu Tá Nguyễn Văn Nho của TĐ4)
4. Trung Úy Võ Trí Huệ (đại đội trưởng Ðại Ðội 1)
5. Thiếu Úy Nguyễn Văn Phán (đại đội trưởng Ðại Ðội 2)
6. Trung Úy Nguyễn Đình Thủy (đại đội trưởng Ðại Ðội 3)
7. Trung Úy Nguyễn Kim Đễ (đại đội trưởng Ðại Ðội 4)
8. Pháo đội 75 ly sơn-pháo TQLC với Đại Úy Đoàn Trọng Cảo làm pháo đội trưởng.

CHIẾN ÐOÀN A-TQLC VÀ CUỘC CHUYỂN QUÂN

Trong thời gian này, Chiến Ðoàn A-TQLCđang được tăng phái hành quân cho Biệt Khu 24, hoạt động ở Kontum. Thỉnh thoảng họ được về nghỉ quân ngắn ngày ở một doanh trại hậu cứ của một trung đoàn Bộ Binh thuộc Sư Đoàn 22 gần thành phố Kontum. Để chuẩn bị cho cuộc hành quân tiếp ứng và khai thông Quốc Lộ 19 đi vào Đức Cơ. Ngày 6 tháng 8, toàn bộ Chiến Ðoàn A-TQLCđược không vận bằng vận tải cơ C-130 từ phi trường Kontum đổ xuống phi trường Cù Hanh ở Pleiku. Sau đó được quân xa chuyển vận đến nơi đóng quân qua đêm tại một làng Thượng ở phía Bắc Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 để dưỡng quân và túc trực ứng chiến trực thăng vận.
Hình chụp một vận-tải cơ C-7 Caribou chuẩn bị nhận hàng hóa trên phi đạo Ðức Cơ. Cả phi đạo lẫn trại lực lượng đặc biệt đều tọa lạc bên cạnh Quốc Lộ 19, nhưng phi đạo nằm về phía bắc gần ngôi làng Plei Girao Kop, trong khi đó căn cứ phòng thủ nằm về phía nam quốc lộ (HÌNH ẢNH: John Stymerski)


Ngày 7 tháng 8/1965, Chiến Ðoàn A-TQLC được di chuyển bằng quân xa về ngược lại thành phố, rồi rẽ vào Quốc Lộ 19 nối dài, và đóng quân túc trực tại đồn điền trà Catecka. Nơi đây có một phi trường nhỏ, dành cho loại phi cơ quan sát L-19, sẽ được dùng làm bãi đáp trực thăng vận cho cuộc hành quân.

Trại LLĐB Đức Cơ đã bị bao vây từ hơn một tuần qua và hoàn toàn bị cô lập. Phi cơ suốt ngày đêm oanh tạc sát hàng rào phòng thủ. Các tiểu đoàn của Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù cũng bị chận đánh và chia cắt. Tình hình chiến trường không sáng sủa hơn chút nào.

Ngày 8 tháng 8/1965, Ðại Ðội 3/2 của Đại Úy Nguyễn Năng Bảo nhận lãnh một nhiệm vụ mạo hiểm là trực thăng vận đổ xuống một bãi đất trống cách Đức Cơ một cây số về hướng Tây-Bắc. Mục đích là thăm dò phản ứng của quân Bắc Việt và bắt liên lạc với đơn vị bạn đang phân tán trong vùng hành quân. Đến trưa Ðại Ðội 3 đã sắp xếp đội hình, lên trực thăng xong và chờ trực thăng cất cánh đúng giờ. Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn đi xe Jeep ra tận bãi bốc ở đầu phi đạo để căn dặn các chỉ thị quan trọng lần chót và chúc Đại Úy Bảo hoàn thành nhiệm vụ nguy hiểm giao phó.

Tuy nhiên, vì thời tiết vùng Cao Nguyên thay đổi đột ngột, phi hành đoàn KQVN cho biết là sẽ có một trận cuồng phong ập đến trong vùng Đức Cơ, nên cuộc trực thăng vận đươc hủy bỏ. Qua ngày hôm sau, Ðại Ðội 3/2 được đưa trả về nhập chung với Tiểu Ðoàn 2 để kịp vượt tuyến xuất phát ở ngay “cầu cạn” gần ngã ba Lê Thanh trong ngày N, tức là ngày khở hành 9 tháng 8/1965.

Yếu tố thời tiết và những diễn biến về các hoạt động của địch quân đã khiến cho Bộ Chỉ Huy Hành Quân phải chấp nhận chiến trường do Bắc Việt chọn lựa và đương đầu với chiến thuật công đồn đả viện của họ. Để phù hợp với địa thế dọc Quốc Lộ 19, Chiến Đoàn Thiết Giáp phối hợp cùng Biệt Ðộng Quân mở đường tiến trước. Chiến Đoàn TQLC đi cách sau khoảng 3 cây số, để làm lực lượng tiếp ứng khi Chìến Đoàn Thiết Giáp và Biệt Ðộng Quân bị địch phục kích, đồng thời lục soát rộng hai bên đường trên trục tiến quân.

Cuộc hành quân của Chiến Đoàn Thiết Giáp và Biệt Ðộng Quân trong ngày 9 tháng 8/1965 được khởi hành với các đơn vị sau đây:

1. Chi Ðoàn 1/5 Chiến Xa (trừ 1 chi đội di chuyển đoạn hậu) và một Đại Đội BĐQ tùng thiết
2. Chi đoàn thiết quân vận gồm các thiết vận xa M-113
3. Tiểu Đoàn 21 BĐQ (trừ một đại đội tùng thiết cho chi đoàn chiến Xa đi đầu) và một chi đội chiến xa
4. Công Binh, Pháo Binh, và Quân Vận
5. Chi đội thiết giáp M-8

Trên đường vào Đức Cơ, rải rác có các xóm làng định cư, quy tụ đồng bào miền Bắc di cư tỵ nạn Cộng Sản cũng như đồng bào từ các tỉnh Nam Ngãi, Bình Phú đến lập nghiệp. Dân chúng, kể cả một vị linh mục địa phương cho biết về tin tức của các đơn vị cộng sản ẩn nấpp, phục kích về phía Đức Cơ. Để đề phòng chiến thuật công đồn đả viện, Chi Đoàn 1/5 Chiến Xa đi đầu di chuyển theo lối chân vạc. Mỗi chi đội luân phiên tiến chiếm các điểm trọng yếu trên địa thế và trong tầm yểm trợ trực tiếp của đại bác 75 ly trên các chiến xa để chi đội kế tiếp tiến dần về phía trước.

Khoảng 14 giờ, chi đội đầu tiên vừa đến ngã ba đi vào quận lỵ Lệ Thanh thì bị khoảng một tiểu đoàn Bắc Việt thuộc Trung Ðoàn 32 khai hỏa phục kích. Hai Chiến xa đi đầu bị trúng đạn chống chiến xa. Ðại đội Biệt Ðộng Quân tùng-thiết bị tê liệt và thiệt hại nặng. Hai chiến xa trong phân đội chỉ huy tác xạ đạn chống “biển người” vào hai bên quốc lộ để đề phòng bộ đội Bắc Việt xung phong. Một trong hai phi cơ F-100 bay đến yểm trợ đã bị phòng không địch bắn hạ. Phi công nhảy dù ra và được cứu thoát.

Chỉ trong một thời gian ngắn, cuộc phục kích bị đánh tan. Trong khi đang lục soát thu dọn chiến trường thì phía Bắc Việt đã tấn công vào đoàn xe thuộc thành phần yểm trợ và tiếp vận đi đàng sau. Vị sĩ quan chi đoàn trưởng Chi Đoàn 1/5 Chiến Xa đã bị thương trong khi điều động các chiến xa đến tiếp ứng. Cuộc chạm súng thưa dần vì thời gian gần tối.

CÁC DIỄN TIẾN CỦA CHIẾN ÐOÀN A-TQLC TRONG NGÀY 9 THÁNG 8/1965

Là lực lượng tiếp ứng, Chiến Ðoàn A-TQLC nhận được lệnh vượt qua mặt Chiến Đoàn Thiết Giáp và Biệt Ðộng Quân để tiếp tục tiến quân và giải tỏa áp lực phía trước mặt. Vì địa thế hiểm trở, bên phải là thung lũng, bên trái là một đường đỉnh khó di chuyển. Chỉ có một trục lộ hẹp để tiến vào Đức Cơ, nên Chiến Ðoàn A-TQLCdàn quân theo thứ tự sau đây: 1) Tiểu Đoàn 2/TQLC dàn quân theo đội hình. 2) Ðại Ðội 4 phối hợp với Chi đoàn Chiến xa đi đầu. 3) Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 2 và Ðại Ðội 1 đi tiếp sau. Cánh quân B gồm Ðại Ðội 2 và Ðại Ðội 3 đi cánh trái theo sườn đỉnh.

Xế chiều, khi Tiểu Ðoàn 2 TQLC vượt qua một đoạn đường lên dốc, thì bị phía Bắc Việt tấn công vào bên hông của tiểu đoàn. Chi đội chiến xa đi đầu dồn hết tốc lực tiến lên sườn đồi, khai hỏa mọi hỏa lực trên chiến xa phối hợp với các lính TQLC theo đợt xung phong. Cuối cùng đã chiếm được vị trí súng của đối phương. Lúc đó họ đã bị thiệt hại một số, phần còn lại rút lui về thung lũng hướng Ia Drang.

DIỄN TIẾN TRONG CUỘC HÀNH QUÂN CỦA TIỂU ÐOÀN 5 TQLC

Tiểu Đoàn 5/TQLC dàn quân theo đội hình sau đây:

1. Ðại Ðội 2 đi đầu, nối tiếp theo Tiểu Ðoàn 2
2. Ðại Ðội 3 đi kế tiếp
3. Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 5, Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn A, pháo đội 75 ly sơn-pháo TQLC và đơn vị Công Binh Cơ Giới.
4. Ðại Ðội 1 đi sau cùng
5. Ðại Ðội 4 cùng vị sĩ quan tiểu đoàn phó tiến quân dọc theo đường đỉnh để bảo vệ sườn trái cho trục tiến quân của tiểu đoàn.

Khi cánh quân đi đầu của Ðại Ðội 4/2 bị địch phục kích, thì các bộ đội Bắc Việt cũng cũng đồng loạt tấn công vào đoàn quân đi chót của Tiểu Ðoàn 5 TQLC. Từ bên bờ đỉnh bên trái, Ðại Ðội 4 nhìn xuống thấy những cán binh Việt Cộng đang thi hành chiến thuật “tiền pháo hậu xung.” Trung Úy Nguyễn Kim Đễ báo cáo tình hình cho vị sĩ quan tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 5. Sau khi đề nghị và được chấp thuận. Ðại Ðội 4 đã dàn hàng ngang từ trên cao tràn xuống tấn công tiêu diệt địch từ phía sau lưng.

Tiểu Ðoàn 5 TQLC tịch thu được nhiều vũ khí trong đó có cả đại liên 50 ly và đại bác SKZ 57 ly không giật. Phía Bắc Việt bị thiệt hại nhiều, số còn sống sót rút vào thung lũng sâu. Ðại Ðội 2 của Thiếu Úy Nguyễn Văn Phán nhận được lệnh Tiểu Đoàn di chuyển sâu về bìa rừng phía trái trục lộ tiến quân đánh bọc lên để bảo vệ Pháo Binh đang bị địch quấy phá. Sau đó là chiến trận mở màn với đủ loại tiếng súng thi nhau nổ. Hai phản lực cơ F-100 bay vút trên đầu, âm thanh xé nát không khí thành những tiếng rít kéo dài. Những trái bom trút xuống mục tiêu là ngọn đồi phía trước. Lửa và khói cuồn cuộn dâng lên. Trên bầu trời, phi cơ quan sát L-19 đang lượn những vòng tròn nhỏ.

Men theo những bụi cỏ gai và lau sậy, Thiếu Úy Quảng dẫn Trung Đội 22 xung phong lên ngọn đồi. Ẩn núp trong đám cây cối rậm rạp trên đồi, địch sử dụng trung liên và súng AK-47 bắn xối xả. Tiếng súng AK nghe sắc sảo và uy hiếp lạ lùng. Quảng, Thượng Sĩ Kiên, Hạ Sĩ Thọ mang máy truyền tin đều bị tử thương. Ôi, biết bao là nỗi đau đớn và phi lý của chiến tranh mà những người lính cùa hai phía tham dự. Quảng chết đi, để lại đứa con trai đầu lòng trong bụng mẹ, mà đã được Quảng đặt tên trước là Hàn Giang.

CHIẾN ÐOÀN A-TQLC TRONG ÐÊM 9 RẠNG NGÀY 10 THÁNG 8/1965

Sau khi địch đã đoạn chiến trong buổi xế chiều. Các đơn vị hành quân được lệnh bố trí quân tại chỗ qua đêm. Lúc 1 giờ sáng ngày 10 tháng 8/1965, các đơn vị Bắc Việt trở lại tấn công vào vị trí đóng quân của Tiểu Ðoàn 2 TQLC có chi đội thiết quân vận cùng bố trí kế cận với Ðại Ðội 4/2. Mục đích của họ là mở đường máu giải vây cho một đơn vị Bắc Việt bị kẹt lại và đang ẩn nấp dưới thung lũng trong lúc chạm súng với Thủy Quân Lục Chiến chiều hôm trước. Pháo Bắc Việt bắt đầu rơi xuống và họ tấn công vào vị trí của Tiểu Ðoàn 2 TQLC, nhưng đã bị các binh sĩ thuộc tiểu đoàn này chận lại dễ dàng. Tuy nhiên chiến thuật tiền pháo hậu xung cùng với việc phối hợp tổ chức phòng thủ không rõ ràng giữa Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp khiến Thủy Quân Lục Chiến bị một số thiệt hại do Thiết Giáp bắn lầm.

Sau khi tiếng súng đã ngưng, kiểm điểm thiệt hại của Thủy Quân Lục Chiến là 31 người tử thương, trong đó có Thiếu Úy Nguyễn Đình Khôi, Thiếu Úy Huỳnh Sinh, Trung Sĩ Nhất Niệm, Trung Sĩ Châu Sênh, Trung Sĩ Tuân, Hạ Sĩ Lê Chít cùng 27 binh sĩ khác bị thương. Đa số thuộc Ðại Ðội 4/2, trong đó có Thiếu Úy Lý Văn Đàm bị thương nặng được tản thương bằng trực thăng vào sáng sớm về Quân Y Viện Pleiku.

TIẾN VÀO ÐỨC CƠ

Tám giờ sáng ngày 10 tháng 8/1965, trực thăng đến tiếp tế và tản thương cho các đơn vị. Phi cơ vận tải C-47 đến thả dù nhiên liệu và đạn dược cho Thiết Giáp. Một hố lớn đã được Công Binh và Thiết Giáp đào để chôn tập thể những bộ đội Cộng Sản chết còn bỏ lại trận địa. Nhiều vết máu sau đó đã được tìm thấy gần một dòng suối trên đường tiến quân vào Đức Cơ. Chứng tỏ phía Cộng Sản đã di chuyển nhiều thương binh trên đường rút lui.

Chiến Đoàn A-TQLC tiến trước vào Đức Cơ, theo sau là Chiến Đoàn Thiết Giáp và Biệt Ðộng Quân. Tiểu Ðoàn 2 TQLC là đơn vị đầu tiên đến phi đạo Đức Cơ lúc 11 giờ sáng. Trại đã trống vắng một phần nào. Đa số lực lượng trú phòng và dân sự chiến đấu đã phân tán ra rừng chờ đơn vị bạn đến tăng viện. Chiến Ðoàn A-TQLC tổ chức lục soát và phòng thủ chung quanh trại, bắt đầu tìm cách liên lạc với các đơn vị bạn trong vùng hành quân. Các lực lượng dân sự chiến đấu lần lượt trở về trại nhận bàn giao phòng thủ Đức Cơ từ Thủy Quân Lục Chiến.

Ngày 11 tháng 8/1965, các đơn vị bắt đầu tổ chức các cuộc hành quân giải tỏa áp lực địch chung quanh Đức Cơ. Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù hành quân tảo thanh khu vực làng Thăng Đức, phía Tây trại Đức Cơ đến tận biên giới Việt-Miên. Chiến Đoàn A-TQLC phụ trách khu vực phía Nam. Chiến Đoàn Thiết Giáp và Biệt Ðộng Quân hoạt động chung quanh trại và khu vực phía Bắc.

Cuộc hành quân Dân Thắng 7 chính thức chấm dứt vào ngày 15 tháng 8/1965. Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc (tư lệnh Quân Khu 2) đáp trực thăng xuống trại Đức Cơ, khen ngợi thành quả của các đơn vị tham dự hành quân và gắn huy chương tượng trưng cho một số quân nhân hữu công.

Các lực lược lượng hành quân bắt đầu rút ra theo Quốc Lộ 19, di chuyển bộ ra ngã ba Lệ Thanh và được quân xa đưa về nghỉ quân ở Pleiku. Lữ Đoàn 173 Dù Mỹ chịu trách nhiệm bảo vệ lộ trình khi các đơn vị lui binh. Ngày 17 tháng 8/1965, Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù được không-vận xuống Nha Trang để chuẩn bị tham gia cuộc hành quân khai thông Quốc Lộ 21 từ Nha Trang đi Ban-Mê-Thuột. Chiến Đoàn A-TQLC được trả lại Kontum để tiếp tục tăng phái hành quân cho Biệt Khu 24.

KẾT QUẢ

Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù có khoảng 20 quân nhân thiệt mạng tại Đức Cơ. Trong cuộc đụng độ giữa quân Nhảy Dù và Bắc Việt, có 158 cán binh Cộng Sản bỏ xác tại trận và 100 cán binh khác chết vì phi cơ oanh kích. Chiến Đoàn A-TQLC có 31 quân nhân tử trận và 27 bị thương.. Phía bên Hoa Kỳ, toán Lực Lượng Ðặc Biệt A-215 dưới quyền chỉ huy của Đại Úy R.B Johnson đã bị thiệt hại nặng.

Kết quả cuộc hành quân Dân Thắng 7 do BTL/QK2 tổng kết như sau: Bắc Việt có 566 cán binh tử trận và 26 tù binh, vũ khí bị tịch thu gồm có 12 vũ khí cộng đồng và 94 vũ khí cá nhân. Ngoài ra, có 2 đại liên 50 và 2 khẩu súng cối 81 ly bị phá hủy.

Mũ Xanh Tôn Thất Soạn
9 tháng 8/2004

Posted by: caoduy Nov 8 2009, 09:04 PM



Trận Tử Chiến Của Tiểu Đoàn 82 BĐQ Tại Pleime




# Tác giả: Vương Hồng Anh


Trại biên phòng Pleime cách Pleiku khoảng 50 km về hướng tây-nam, được thành lập từ tháng 10 năm 1963. Từ khi thành lập cho đến cuối năm 1974, căn cứ này đã nhiều lần bị Bắc Việt tập trung lực lượng tấn công để cố chiếm căn cứ trọng yếu này nhưng đều bị đẩy lui. Một số trận giao tranh đã đi vào chiến sử như trận đánh vào tháng 10 năm 1965. Theo tài liệu của đặc san Mũ Nâu và tài liệu của Trung Tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ, trận chiến này được ghi nhận như sau.

Ngày 19 tháng 10/1965, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B-3 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) đã điều động hai trung đoàn 32 và 33 chủ lực tấn công vào căn cứ Pleime. Trung Đoàn 33 CSBV là lực lượng tấn công chính, Trung Đoàn 32 là lực lượng phụ trợ có nhiệm vụ chận đánh lực lượng tăng viện của liên quân Việt-Mỹ. Với chiến thuật tiền pháo hậu xung thường áp dụng trong các trận tấn công cường tập, Bắc Việt đã mở trận hỏa công pháo dữ dội vào căn cứ.

Ngay sau khi trận chiến xảy ra, lực lượng tăng viện Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được khẩn cấp gọi đến tiếp cứu, nhưng bị Trung Đoàn 32 CSBV phục kích. Giao tranh diễn ra ác liệt, đến ngày 23 tháng 10/1965, lực lượng tăng viện VNCH chọc thủng vòng vây của Bắc Việt và tiến vào tiếp cứu quân trú phòng trong căn cứ. Trung Đoàn 33 CSBV bị đánh bật sau một tuần liên tiếp tấn công.

Đầu tháng 11 năm 1965, một chiến đoàn Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa phối hợp với Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ tung cuộc hành quân tảo thanh các đơn vị của Trung Đoàn 32, 33 và 66 CSBV còn nguyên vẹn quanh khu vực gần trại Pleime, trong thung lũng Ia-Drang, khu vực dãy núi Chu Pong. Sau hai tuần liên tục truy kích, lực lượng Việt-Mỹ đã loại khỏi vòng chiến 465 cán binh Cộng Sản, bắt sống 15 tù binh và tịch thu 70 vũ khí đủ loại.

TIỂU ĐOÀN 82 BIỆT ĐỘNG QUÂN BIÊN PHÒNG VÀ TRẬN CHIẾN NĂM 1974

Tháng 10/1970, theo kế hoạch chung của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH và Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam, trại Pleime được chuyển giao cho Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân (BĐQ) Biên Phòng được thành lập với quân số của biệt kích quân cải tuyển sang Biệt Động Quân. Sau đó, tiểu đoàn được bổ sung một số sĩ quan chỉ huy, hạ sĩ quan và binh sĩ do Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân thuộc Quân Khu 2 điều hành.
Hình chụp tại trại lực lượng đặc biệt Pleime với các binh sĩ Dân Sự Chiến Đấu VNCH trong trận giao tranh vào tháng 10 năm 1965. (HÌNH ẢNH: Kyoichi Sawada)

Tháng 4 năm 1974, sau khi đã tung quân lấn chiếm và kiểm soát khu vực gần căn cứ Đức Cơ, Sư Đoàn 320B CSBV khởi động cuộc tấn công quy mô vào căn cứ Pleime. Họ điều động Trung Đoàn 48, Trung Đoàn 64, một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn pháo phòng không để chuẩn bị cuộc tấn công. Trước tình hình đó, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đã khẩn cấp điều động hai trung đoàn của Sư Đoàn 22 Bộ Binh (BB) tăng viện cho mặt trận Pleime, trong đó Trung Đoàn 42 được tăng cường cho Căn Cứ Hỏa Lực 711 và khu vực kế cận.

Cùng với sự tăng viện của 2 trung đoàn Bộ Binh, Không Quân VNCH tại cao nguyên đã tiến hành nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của các đơn vị Bắc Việt. Sự can thiệp nhanh chóng của lực lượng VNCH đã ngăn chận và vô hiệu hóa kế hoạch đánh chiếm Pleime của Bắc Việt. Đến tháng 5/1974, lực lượng VNCH đã làm chủ khu vực quanh căn cứ này.

Sau khi tình hình quanh Pleime tạm lắng dịu, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 cho Sư Đoàn 22 BB rút hai trung đoàn về lại tỉnh Bình Định, do đó Bắc Việt đã tận dụng cơ hội mở cuộc tấn công vào Pleime. Lực lượng trú phòng vào thời gian này gồm có 4 đại đội tác chiến của Tiểu Đoàn 82 BĐQ và một đại đội của Tiểu Đoàn 81 BĐQ tăng phái. Các đại đội Biệt Động Quân khai triển lực lượng tổ chức phòng thủ các tuyến trung tâm căn cứ và hai tiền đồn Chu Ho và Đồi 509.

Trong khi hoạt động bên ngoài căn cứ, Đại Đội 2/81 đã bị Bắc Việt tấn công bất thần, đại đội này đã chống trả dũng mãnh nhưng trước một lực lượng địch đông gấp 5, cuối cùng đại đội phải rút vào Căn Cứ với 22 chiến binh vào được bên trong trước khi Bắc Việt bao vây và phong tỏa các thông lộ ra vào căn cứ.

Trong trận tấn công vào căn cứ Pleime lần này, quân Bắc Việt đã sử dụng 4 tiểu đoàn thuộc hai trung đoàn 9 và 48 CSBV, tăng cường Trung Đoàn 26 biệt lập của Mặt Trận B-3. Sau đó Bắc Việt lại tung vào trận chiến Trung Đoàn 64 CSBV để mở các trận tấn công biển người vào căn cứ này. Họ sử dụng đủ các loại pháo 130 ly, 120 ly, và súng cối 82 ly pháo kích. Trong khi đó, tiểu đoàn pháo phòng không của Bắc Việt cũng bố trí 12 vị trí đặt đại liên phòng không 12.7-ly để bắn trực thăng tiếp tế và tải thương, cũng như để chống trả các đợt không tập của Không quân VNCH.

Sau 6 ngày đêm tử chiến, tiền đồn Chu Ho thất thủ. Năm ngày sau đó, 10 tháng 8/1974, đến lượt tiền cứ Đồi 509 bị Bắc Việt tràn ngập. Các chiến binh sống sót tại hai căn cứ nói trên đã vượt thoát vào rừng và tự mưu sinh thoát hiểm trong hoàn cảnh vô cùng bi tráng: hết đạn, không có thức ăn và nước uống trong những ngày tử chiến với Bắc Việt.

Sau khi đã đánh chiếm 2 tiền cứ Chu Hô và Đồi 509, Bắc Việt đã tập trung lực lượng tấn công vào khu trung tâm căn cứ Pleime. Tiểu Đoàn 82 BĐQ đã bị bao vây trong một tháng, không nhận được tiếp tế lương thực, thuốc men và đạn dược. Chiến đấu trong một tình thế nguy kịch, thế nhưng cả tiểu đoàn đã giữ vững được tuyến phòng ngự.

Đến ngày 2 tháng 9/1974, Quân đoàn 2 điều động lực lượng tăng viện gồm Bộ Binh, Biệt Động Quân và Thiết Giáp trong nỗ lực tiếp cứu căn cứ Pleime. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 320 Bắc Việt bắt đầu bị đánh bật sau 20 lần tấn công bất thành vào căn cứ. Riêng Tiểu Đoàn 82 BĐQ sau khi nhận được tiếp tế và tái tổ chức đơn vị và tổ chức phản công tái chiếm 2 tiền đồn Chu Ho và Đồi 509.

LƯỢC TRÌNH VỀ 12 TIỂU ĐOÀN BIỆT ĐỘNG QUÂN BIÊN PHÒNG

Trước năm 1970 tại Vùng 2 Chiến Thuật (từ tháng 8/1970 đã được đổi thành Quân Khu 2) có 15 trại biên phòng do các tiểu đoàn Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ) thuộc Lực Lượng Đặc Biệt phòng thủ. Đến tháng 5/1970, như đã trình bày, theo kế hoạch của liên quân Việt-Mỹ, Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ được lệnh thực hiện đợt cải tuyển cho các trại biên phòng. Binh đoàn này được lệnh chấm dứt các hoạt động biệt kích trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời chuyển các đơn vị Dân Sự Chiến Đấu sang binh chủng Biệt Động Quân để thành lập các tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên phòng.

Theo quy trình và phương thức hoán chuyển, trong vòng 90 ngày kể từ có quyết định cải tuyển, các trại Dân Sự Chiến Đấu được tổ chức theo cơ cấu tiểu đoàn Biệt Động Quân gồm 3 đại đội chiến đấu, 1 đại đội chỉ huy và Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn.

Ngày 31 tháng 8/1970, trong đợt chuyển-giao đầu tiên, một số trại Dân Sự Chiến Đấu gần biên giới được biến cải danh xưng như sau:

# Trại Polei Kleng (Căn Cứ A-241), tỉnh Kontum, chuyển thành Tiểu Đoàn 62 BĐQ Biên Phòng với quân số 403 người.

# Trại Plei Mrong (Căn Cứ A-113), tỉnh Pleiku, chuyển thành Tiểu Đoàn 63 BĐQ Biên Phòng với quân số 443 chiến binh.

# Trại Tieu Atar (Căn Cứ A-231), tỉnh Darlac, chuyển thành Tiểu Đoàn 71 BĐQ Biên Phòng với quân số 414 chiến binh.

# Trại Trang Phúc (Căn Cứ A-223), tỉnh Darlac, chuyển thành Tiểu Đoàn 72 BDQ Biên Phòng với quân số 399 chiến binh.

# Trại Plei Djereng (Căn Cứ A-251), tỉnh Pleiku, chuyển thành Tiểu Đoàn 80 BĐQ Biên Phòng với quân số 479 chiến binh.

# Trại Đức Cơ (Căn Cứ A-253), tỉnh Pleiku, chuyển thành Tiểu Đoàn 81 BĐQ Biên phòng với quân số 457 chiến binh.

# Trại Pleime (Căn Cứ A-255), tỉnh Pleiku, chuyển thành Tiểu Đoàn 82 BĐQ Biên Phòng với quân số 464 chiến binh.

# Trại Bu Prang (Căn Cứ A-236), tỉnh Quảng Đức, chuyển thành Tiểu Đoàn 89 BĐQ Biên Phòng với quân số 377 chiến binh.

# Trại Dak Pek (Căn Cứ A-242), tỉnh Kontum, chuyển thành Tiểu Đoàn 88 BĐQ Biên Phòng với quân số 298.

# Trại Dak Seang (Căn Cứ A-245), tỉnh Kontum, chuyển thành Tiểu Đoàn 90 BĐQ Biên Phòng với quân số 431 chiến binh.

Ngày 31 tháng 12/1970, trong đợt chuyển giao thứ hai, một số trại đã được biến cải danh xưng như sau:

# Trại Ben Het (Căn Cứ A-244), tỉnh Kontum, chuyển thành Tiểu Đoàn 95 BĐQ Biên Phòng với quân số 430 chiến binh.

# Trại Đức Lập (Căn Cứ A-239), tỉnh Quảng Đức, chuyển thành Tiểu Đoàn 96 BĐQ Biên Phòng với quân số 400 người.

Có 3 trại đóng cửa và chấm dứt hoạt động: Trại Kontum (Căn Cứ B-24) đóng cửa ngày 30 tháng 11/1970. Trại Ban Mê Thuột (Căn Cứ B-23), đóng cửa ngày 15 tháng 12/1970. Và trại Pleiku (Company B), đóng cửa ngày 15 tháng 1/1971.

Vương Hồng Anh

HẾT

Posted by: caoduy Nov 19 2009, 09:01 AM



Những Bí Mật Trong Trận Ban Mê Thuột




# Tác giả: Lữ Giang


Trong thời gian bị giam giữ trong các trại cải tạo của Cộng Sản, chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với hàng trăm người có trách nhiệm hay liên quan đến những biến cố đưa đến sự sụp đổ toàn bộ miền Nam Việt Nam, trong đó trận Ban Mê Thuột là trận quan trọng nhất. Vì được gặp nhiều người cùng một lúc nên chúng tôi đã có dịp kiểm chứng những điều mà mỗi người đã kể.

Đối với những người mà chúng tôi không ở cùng chung trại, sau khi về Saigon hay qua Mỹ, chúng tôi đã tìm cách để tiếp xúc và hỏi thêm, như trường hợp của Đại Tá Nguyễn Văn Đồng, Tư Lệnh Thiết Ðoàn 2 thuộc Quân Khu 2. Ông chỉ huy đoàn quân tháo lui trên Liên Tỉnh Lộ 7B và đã bị bắt gần Củng Sơn (tỉnh Phú Yên).

Chúng tôi cũng đã có dịp tham khảo nhiều sách báo của các tác giả miền Nam Việt Nam, của người Mỹ cũng như của quân đội Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) viết liên quan đến biến cố 30 tháng 4/1975. So sánh những tài liệu thu thập được, chúng tôi đã khám phá ra nhiều sự kiện lịch sử cần được viết lại cho chính xác hơn.

Khi mới đến Hoa Kỳ vào năm 1990, chúng tôi đã viết ngay một bài nói về những bí ẩn đằng sau sự thất thủ Ban Mê Thuột, bài này đã gây ngạc nhiên và xúc động cho nhiều ngườị Nay những người liên hệ đến trận Ban Mê Thuột đã đến Hoa Kỳ. Có những người đã đồng ý viết ra những biến cố mà họ đã tham dự hay chứng kiến như Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn 2, Trung Tá Ngô Văn Xuân, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 44 thuộc Sư Ðoàn 23 Bộ Binh (BB). Nhưng đa số đã thú nhận rằng họ phải bỏ bớt đi vì sợ đụng chạm.

Có người chỉ kể lại chứ không chịu viết và cũng có người khi kể lại đã yêu cầu đừng nêu tên họ ra khi viết, cũng vì sợ đụng chạm. Sau khi tổng kết, chúng tôi xin ghi lại những bí ẩn liên quan đến sự thất thủ Ban Mê Thuột. Sự thật có nhiều điều khác xa với những gì tướng Văn Tiến Dũng đã viết trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân hay ký giả Phạm Huấn đã viết trong cuốn Tướng Phú và Những Trận Đánh Từ Điện Biên Phủ 1954 Đến Ban Mê Thuột 1975.

Biến cố 30 tháng 4/1975 đã gây ra những ấn tượng kinh hoàng và đau xót trong lòng người Việt trong cũng như ngoài nước. Biến cố đó đã đưa cả dân tộc vào những ngày bi thảm nhất và để lại một vết thương đau đớn trong lịch sử. Mặc dầu đã 21 năm qua, ấn tượng đau xót và tủi nhục đó vẫn chưa phai mờ đi được.

Ngày 10 tháng 3 năm 1975, khoảng 2 giờ sáng các đơn vị Bắc Việt bắt đầu tấn công vào thành phố. Họ xử dụng xe tăng và trọng pháo đủ loại và tiến về từ mọi phía. Trung Đoàn 174 Bắc Việt theo Quốc Lộ 14 từ hướng Đức Lập tiến vào, sau đó Trung Đoàn 149 đánh từ phía Nam lên, Trung Đoàn 95B từ ngã Buôn Hô đánh xuống, còn Trung Đoàn 148 từ hướng Bản Đôn tấn công vào.

Ðêm 10 tháng 3, các lực lượng phòng thủ chống trả mãnh liệt. Bảy giờ sáng ngày hôm sau, quân Bắc Việt tấn công vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 BB, nhưng bên trong còn cầm cự được. Mười giờ sáng, một oanh-tạc cơ A-37 đến trợ chiến đã nhầm lẫn thả bom trúng vào hầm chỉ huy của bộ tư lệnh sư đoàn làm hệ thống truyền tin bị hư hại, không còn liên lạc được với các đơn vị chung quanh. Ðại Tá Vũ Thế Quang và Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật phải rời Bộ Tư Lệnh để di chuyển qua căn cứ B.50, nhưng bị bắn dữ quá phải tạt vào rừng cao su và sau đó bị địch quân bắt.

Mọi người dều công nhận rằng sự thất thủ Ban Mê Thuột là biến cố khởi đầu đưa đến sự sụp đổ toàn bộ miền Nam Việt Nam. Tại sao Ban Mê Thuột đã bị thất thủ một cách mau chóng như vậy? Phải chăng đây là một cuộc tấn công quá bất ngờ của Bắc Việt khiến quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) không trở tay kịp? Phải chăng Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã thua đòn cân não của Hà Nội? Phải chăng khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa quá yếu kém, không đương đầu nổi với lực lượng của Bắc Việt? Rất nhiều câu hỏi như thế đã được nhiều người đặt ra. Chúng tôi xin tuần tự trình bày từng chi tiết về diễn biến của trận Ban Mê Thuột để trả lời những câu hỏi đó.

PHỐI TRÍ CỦA QUÂN LỰC VNCH VÀ Bắc Việt

Ban Mê Thuột là một tỉnh nằm ở Cao nguyên Trung phần. Vùng cao nguyên này có bốn tỉnh bao gồm Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột và Quảng Đức. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú phụ trách Quân Ðoàn 2 đã phối trí quân để phòng thủ Cao nguyên như sau:

Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân (BĐQ) bảo vệ Kontum vì sợ Bắc quân sẽ mở một cuộc tấn công như “Mùa Hè Ðỏ Lửa” năm 1972. Ba (3) tỉnh còn lại được giao cho Sư Ðoàn 23 BB bảo vệ. Sư đoàn này được phối trí như sau: Trung Đoàn 44 và 45 phòng thủ Pleiku. Trung Đoàn 45 đóng ở căn cứ Gầm Ga, phía bắc quận Thuần Mẫn, gần đèo Tử Sĩ, dọc theo Quốc Lộ 14 giữa Ban Mê Thuột và Pleiku. Trung Ðoàn 53 giữ Ban Mê Thuột và Quảng Đức. Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 đóng tại Ban Mê Thuột, còn Bộ Tư Lệnh Hành Quân đóng tại căn cứ Hàm Rồng ở Pleiku. Về sau, Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường cho Quân Ðoàn 2 thêm ba liên đoàn 4, 6 và 7 BĐQ.
Hình chụp gần hàng rào trong vòng đai căn cứ tại Ban Mê Thuột. (HÌNH ẢNH: sưu tầm)

Bắc Việt có Sư Ðoàn 320 đóng ở Kontum, Sư Ðoàn F.10 hoạt động ở Pleiku, Sư Ðoàn 986 trú quân tại vùng Tam Biên và Trung Ðoàn 25 (biệt lập), một trung đoàn khá thiện chiến, luôn quấy phá ở 2 tỉnh Ban Mê Thuột và Quảng Đức.

Ban Mê Thuột là nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 BB. Nơi đây toàn rừng cao su, không có chướng ngại thiên nhiên để giúp phòng thủ như ở Kontum hay Pleiku nên rất dễ bị tấn công. Lực lượng phòng thủ ở đây lại khá yếu. Nghĩa Quân (NQ) và Địa Phương Quân (ÐPQ) phần lớn là người Thượng, không được trang bị đầy đủ. Hầu hết trông chờ vào Trung Ðoàn 53, nhưng trung đoàn này phải bao một vùng lãnh thổ quá lớn gồm 2 tỉnh nên khó bảo vệ nổi. Do đó, không ai ngạc nhiên khi thấy Bắc Việt chọn Ban Mê Thuột để tấn công. Mặt khác, nếu chiếm được Ban Mê Thuột, họ sẽ khai thông được con đường Đông Trường Sơn từ Pleiku tới Phước Long qua Quận Đức Lập của Ban Mê Thuột.

BẮC VIỆT ĐIỀU QUÂN

Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 của Quân Đoàn 2 kể lại rằng nhờ hệ thống truyền tin điện tử, Quân Đoàn 2 VNCH đã mở được hầu hết các khóa mật mã của Bắc Việt đánh đi. Nhờ vậy, Quân Đoàn 2 đã khám phá ra Bắc Việt chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ tháng 12 năm 1974. Để đánh Ban Mê Thuột, lúc đầu Bắc Việt huy động 4 sư đoàn: Sư Đoàn Sao Vàng ở Bình Định, Sư Đoàn F.10 ở Pleiku, Sư Đoàn 320 ở Kontum, và Sư Đoàn 986 đang đóng ở vùng Tam Biên. Ngoài ra, Bắc Việt còn xử dụng thêm Trung Đoàn 25 biệt lập.

Trước hết, Bắc Việt ra lệnh cho Sư Đoàn 986 đang đóng ở vùng Tam Biên kéo về phía tây Quận Thanh An ở phía tây Pleiku để thay cho Sư Đoàn F.10 tiến về phía tây-nam Ban Mê Thuột. Đại Úy Trác Ngọc Anh, sĩ quan không-báo của Quân Đoàn 2, đã nói với chúng tôi rằng vào cuối tháng 1 năm 1975, khi máy bay L-19 chở anh đang bay thám thính trên con đường từ vùng Tam Biên về Thanh An thì anh phát hiện ra một đoàn quân xa độ 100 chiếc đang chạy từ Tam Biên theo hướng Nam về phía Pleiku.

Một lúc sau khi nghe báo cáo, cơ quan quân báo của Hoa Kỳ đã nói vào máy cho biết đích danh đó là các xe chuyển quân của Sư Đoàn 968 của Bắc Việt. Quân Đoàn 2 đã xin Bộ Tổng Tham Mưu huy động các phi cơ A-37 của Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 6 Không Quân (KQ) đến oanh kích. Cuộc oanh kích kéo dài từ 9 giờ sáng đến quá trưa, nhưng vẫn còn thấy một số xe đang chạy. Bộ Tổng Tham Mưu phải điều động thêm Sư Đoàn 1 KQ ở Đà Nẵng vào trợ chiến.

Cuộc oanh kích kéo dài đến 4 giờ chiều thì chấm dứt. Một máy bay C-47 của Bộ Tổng Tham Mưu đến chụp hình và thấy khói bay ngụt trời, nhiều tiếng nổ từ dưới đất phát ra, vô số xe bị bắn cháy nằm rải rác trên đường. Sau chiến công này Trung Úy Trác Ngọc Anh được vinh thăng Đại Úy.

Bị thiệt hại nặng trong vụ oanh kích đó, Sư Đoàn 968 không còn khả năng chiến đấu như lúc đầu nữa. Bộ Chỉ Huy Tây Nguyên điện về Hà Nội cầu cứu. Hà Nội ra lệnh rút gấp Sư Đoàn 316 đang đóng ở vùng biên giới Lào-Việt ở phía Tây Nghệ Tĩnh, đưa vào Cao Nguyên Trung Phần thay thế cho Sư Đoàn 968.

Sư Đoàn 316 là một sư đoàn cơ động nhẹ, chỉ có 2 trung đoàn, nên khi đi qua Thừa Thiên đã được tăng cường thêm một trung đoàn của một sư đoàn Bắc Việt đóng phía Tây đèo An Khê. Sư đoàn này cắt Quốc Lộ 19 nối liền Bình Định và Pleiku để chận đường tiếp viện của Sư Đoàn 2 Bộ Binh VNCH và làm nghi binh.

Sư Đoàn F.10 từ Pleiku tiến về phía Tây Ban Mê Thuột, bao vây Quận Đức Lập, cắt Quốc Lộ 14 nối liền Ban Mê Thuột với Đức Lập. Sư Đoàn 320 từ Kontum di chuyển về phía Bắc Ban Mê Thuột, đóng cách Quốc Lộ 14 về phía Tây 5km để chận Quốc Lộ 14 từ Pleiku đến Ban Mê Thuột. Một tiểu đoàn của sư đoàn này đã băng qua Quốc Lộ 14, khúc cầu 210 và tiến về phía Đông, đóng chốt trên đường nối liền tỉnh Phú Bổn với quận Thuần Mẫn ở phía Đông Bắc Ban Mê Thuột.

Trung Đoàn 25 Bắc Việt tiến về phía Đông Ban Mê Thuột, chận Quốc Lộ 21 nối liền tỉnh Khánh Hòa với Ban Mê Thuột, khúc đèo Chư Cúc, giữa Quận Khánh Dương của Khánh Hòa và Quận Phước An của Ban Mê Thuột. Tàn quân của Sư Đoàn 986 (khoảng hơn 1 trung đoàn) tiến về phía Tây Pleiku, có nhiệm vụ gây rối để cầm chân hai trung đoàn của Sư Đoàn 23 BB lại mặt trận Pleiku.

Sư Đoàn 316 mới từ Bắc vào sẽ làm mũi nhọn đánh vào thành phố Ban Mê Thuột để thăm dò. Sợ Sư Đoàn 316 thiếu kinh nghiệm, không nắm vững địa hình địa vật, không hoàn thành nhiệm vụ, Hà Nội chỉ thị cho một tiểu đoàn của Trung Đoàn 95B hướng dẫn sư doàn này.

Riêng về Sư Đoàn 2 Sao Vàng, Phòng 2 của Quân Đoàn 2 VNCH không tìm thấy dấu vết ở đâu. Sau này, khi đọc cuốn Sư Đoàn 3 Sao Vàng của Việt Cộng, chúng tôi mới khám phá ra Sư Đoàn 2 Sao Vàng đã bị tiêu diệt trong trận Kontum năm 1972, số còn lại đã tăng cường cho Sư Đoàn 3 Sao Vàng ở Bình Định.

Qua các khóa mật mã mở được, Quân Đoàn 2 VNCH cũng biết đích xác ngày giờ tướng Văn Tiến Dũng sẽ từ Bắc vào Nam theo đường mòn HCM, xuống đường Đông Trường Sơn để vào Ban Mê Thuột. Ngày Văn Tiến Dũng đi qua phía Tây Kontum, Quân Đoàn 2 đã cho thả một đại đội trinh sát xuống quãng đường này để phục kích Văn Tiến Dũng nhưng không gặp vì đường Đông Trường Sơn ở khúc đó có quá nhiều nhánh, không biết đoàn xe đi đường nào. Tóm lại, mọi ý đồ, cách điều quân và phối trí quân của địch đều được Quân Đoàn 2 đệ trình lên Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh của quân đoàn.

CÁC TIN TÌNH BÁO DỒN DẬP

Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 45 thuộc Sư Đoàn 23 BB cho biết một tiểu đoàn của Trung Đoàn 45 đang hành quân trên Quốc Lộ 14 gần quận Thuần Mẫn thì một cán binh Bắc Việt ra xin đầu thú. Anh ta khai tên là Sinh, một sĩ quan truyền tin, có nhiệm vụ bắt đường dây điện thoại ngang qua Quốc Lộ 14 nối liền Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 32 Bắc Việt ở tây quốc lộ này với một đơn vị đang đóng ở quận Thuần Mẫn.

Khi điều tra thì khám phá ra anh ta chỉ là một thượng sĩ chứ không phải sĩ quan. Vì giữ nhiệm vụ truyền tin, anh ta biết khá nhiều về kế hoạch hành quân của Sư Đoàn 320 và các đơn vị phối hợp. Anh cho biết Sư Đoàn 320 đang đóng ở phía Bắc Quận Buôn Hô, cách Quốc Lộ 14 về phía Tây và đang chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột. Khi tin này được báo về Quân Đoàn 2, tướng Phú ra lệnh cho Trung Đoàn 45 cho một tiểu đoàn hành quân lục soát 2 bên Quốc Lộ 14, từ Ban Mê Thuột đến Pleiku để phát hiện địch.

Trung Tá Quang nói ông đã cho lục soát nhưng không thấy gì. Sau này ông tiết lộ rằng tiểu đoàn đó chỉ lục soát mỗi bên Quốc Lộ 14 khoảng 1 km, trong khi Sư Đoàn 320 đóng xa quốc lộ đến 5 km nên không thể phát hiện địch. Cán binh Sinh đồng ý hướng dẫn trực thăng đến trên vùng Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 320 đang đóng. Đại Tá Quang nói rằng theo sự chỉ dẫn của Sinh ông đã nhìn thấy phía dưới các cơ sở chứng minh có địch đang đóng quân tại đó và đã báo cáo cho tướng Phú biết.

Mặc dầu có tin Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 320 đã chuyển từ Kontum về phía Bắc Ban Mê Thuột, nhưng cơ quan truyền tin của Quân Đoàn 2 cho biết vẫn nhận được các tín hiệu truyền tin của sư đoàn này phát xuất từ một căn cứ ở Kontum. Căn cứ vào báo cáo này, tướng Phú cho rằng Sư Đoàn 320 vẫn còn tại Kontum và những lời khai của Sinh chỉ là một kế nghi binh của địch để đánh Pleiku. Về sau mới biết rằng Sư Đoàn 320 cho tiếp tục phát các tín hiệu truyền tin ở Kontum là để đánh lạc hướng. Trong thực tế, sư đoàn này đã chuyển về phía Bắc Ban Mê Thuột.

Đầu tháng 2/1975, Phòng 2 của Quân Đoàn 2 khám phá ra một thông báo của Bắc Việt về cuộc họp ngày 1 tháng 2/1975 của các tư lệnh Sư Đoàn 320, F.10 và 986 tại vùng phía Tây Đức Cơ để khai triển Chiến Dịch 275. Thông báo này do một người ký tên là Tuấn. Đây là một trong những bí danh của Văn Tiến Dũng.

Một nữ du kích hồi chánh ở Ban Mê Thuột cho biết Trung Đoàn 25 Bắc Việt đã được lệnh ăn Tết trước để chuyển quân về vùng Khánh Dương ở phía Đông Ban Mê Thuột và một số đơn vị thuộc Sư Đoàn F.10 đã có mặt xung quanh quận Đức Lập, phía Tây Nam Ban Mê Thuột. Các thợ rừng báo cáo họ thấy nhiều đơn vị Cộng Sản ở phía Tây Pleiku chuyển xuống Ban Mê Thuột, v.v… Những tin tức này cho thấy Bắc Việt đang chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột.

TỔNG THỐNG THIỆU ĐÓN TẾT Ở PLEIKU

Khi ở trại cải-tạo Lam Sơn, Thanh Hóa, Đại Tá Trịnh Tiếu có cho chúng tôi biết vào ngày mồng 2 Tết, Tổng Thống Thiệu đến Pleiku. Tại phòng Hành quân của Không Quân ở phi trường Cù Hanh, Đại Tá Tiếu đã trình bày cho Tổng Thống Thiệu kế hoạch đánh Ban Mê Thuột của Bắc Việt. Tổng Thống chỉ thị tướng Phú đưa 2 trung đoàn của Sư Đoàn 23 BB về lại Ban Mê Thuột, nhưng sau đó Tướng Phú không thi hành vì cho rằng địch sẽ đánh Pleiku.

Khi Đại Tá Trịnh Tiếu đến Mỹ, chúng tôi yêu cầu ông viết lại chuyện này thì trong bài Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và Quân Đoàn 2 đăng trên báo Saigon Nhỏ, ông viết rằng trước Tết 5 ngày, khi Tổng Thống Thiệu lên Quân Đoàn 2 ủy lạo chiến sĩ, chính Đại Tá Tiếu đã đích thân trình bày cho tổng thống kế hoạch nói trên của Bắc quân.

Sau khi thăm hỏi nhiều người liên hệ khác, chúng tôi thấy lời tường thuật của Trung Tá Ngô Văn Xuân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44 là đúng hơn cả. Trung Tá Xuân cho biết vào Tết Ất Mão năm 1975, Trung Đoàn 44 BB đang đóng ở Căn Cứ 801, cách tỉnh Pleiku khoảng 20km về hướng Tây Bắc, đã được Quân Đoàn 2 chỉ định tiếp đón Tổng Thống Thiệu đến ăn Tết.

Đúng 12 giờ trưa ngày mồng một Tết (11 tháng 2/1975), tổng thống từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đến Trung Tâm Hành Quân của Trung Đoàn 44 bằng trực thăng cùng với các Tướng Trần Văn Trung, Lê Nguyên Khang và Phạm Văn Phú. Tại đây, Trung Tá Điều Ngọc Chuy, Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 23 đã trình bày về tình hình chung của các khu vực trách nhiệm đang do Sư Đoàn 23 trấn giữ, đặc biệt nhấn mạnh đến chi tiết về cung từ của một cán binh Cộng Sản thuộc Sư Đoàn 320 ra đầu thú cho biết rõ các chi tiết địch đang chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột.

Tổng Thống Thiệu có vẽ đăm chiêu rồi quay lại hỏi tướng Phú thì tướng Phú nhận định rằng có thể Bắc Việt đưa ra một kế trá hàng nhằm đánh lạc hướng chú ý của phía Việt Nam Cộng Hòa. Theo tướng Phú, Pleiku là điểm, Ban Mê Thuột chỉ là diện, bởi vì Pleiku có cơ sở đầu não là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Nếu tiêu diệt được cứ điểm này thì Bắc Việt sẽ dễ dàng làm chủ được toàn bộ khu vực cao nguyên và tỏa xuống khu vực duyên hải.

Tổng Thống Thiệu suy nghĩ trong giây lát, rồi ra lệnh cho Tướng Phú đưa toàn bộ Sư Đoàn 23 về Ban Mê Thuột. Tổng thống nói địa thế Pleiku là khu vực trống trải, bao gồm nhiều đồi thấp và trọc, có tầm quan sát rộng, địch không bao giờ dám đương đầu trên khoảng trống như vậy. Tổng thống hứa sẽ cho thêm một liên đoàn Biệt Động Quân để làm một lực lượng trừ bị. Tướng Phú tuân lệnh.

Sau khi nghe thuyết trình, Tổng Thống Thiệu không đi Kontum như đã dự định mà đến Ban Mê Thuột và Quảng Đức để thăm và ủy lạo các chiến sĩ.

BẤT TUÂN THƯỢNG LỆNH

Đại Tá Trịnh Tiếu cho biết ngày 15 tháng 2/1975, tướng Phú đã mở một cuộc họp tại Quân Đoàn 2 để kiểm điểm tình hình trong Quân Khu 2, có lãnh sự Mỹ ở Nha Trang lên tham dự. Đại Tá Trịnh Tiếu đã trình bày thêm các tài liệu cho biết Bắc quân sẽ đánh Ban Mê Thuột, nhưng tướng Phú cứ chần chờ, không chịu ra lệnh chuyển quân.

Trung Tá Ngô Văn Xuân cho biết ngày 17 tháng 2/1975, Tướng Phú mới triệu tập phiên họp để đặt kế hoạch chuyển quân về Ban Mê Thuột. Theo kế hoạch này, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 sẽ di chuyển bằng đường bộ, khi qua khu đèo Tử Sĩ, Trung Đoàn 45 sẽ đi theo tháp tùng. Trung Đoàn 44 đợi một Liên đoàn Biệt động quân đến thay thế trong vòng 3 ngày và sẽ đi sau.

Trong bài viết Tướng Phạm Văn Phú và Quân Đoàn 2, Đại Tá Trịnh Tiếu ghi rằng ngày 1 tháng 3/1975, tướng Phú mới ra lệnh chuyển quân, sau khi hỏi lại nhiều người, chúng tôi được biết ngày chuyển quân là ngày 17 tháng 2/1975 như Trung tá Ngô Văn Xuân ghi lại là đúng. Tám giờ sáng ngày 18 tháng 2/1975, đoàn quân tập trung tại căn cứ Hàm Rồng để khởi hành, nhưng đến 11 giờ Tướng Phú ra lệnh hủy bỏ việc chuyển quân. Ông nói địch sẽ đánh Pleiku và địch chuyển quân quanh Ban Mê Thuột là đẻ nghi binh mà thôi. Lệnh của tướng Phú đã làm cả Quân Đoàn 2 ngạc nhiên.

NHỮNG NGÀY QUÂN BẮC VIỆT CHUẨN BỊ TẤN CÔNG

Ngày 1 tháng 3/1975, Sư Đoàn 3 Sao Vàng chận đèo Mang Yang trên Quốc Lộ 19 nối liền Pleiku với Qui Nhơn và gây áp lực mạnh ở phía Đông Pleiku. Điều này càng làm cho tướng Phú tin hơn nữa rằng địch sẽ đánh Pleiku. Tướng Phú xin thêm viện binh để giữ mặt này. Liên Đoàn 44 Biệt động quân được gởi đến tăng viện Pleiku. Tướng Phú liền ra lệnh Thiết Đoàn 2 do Đại tá Ngyễn Văn Đồng chỉ huy phối hợp với liên đoàn Biệt Động Quân này để trấn giữ phía Đông Pleiku.

Năm 1989, khi gặp Đại Tá Đồng ở Saigon, ông cho chúng tôi biết mặt trận này khá nặng, vì Bắc quân rất đông, ẩn nắp trong các hóc núi pháo kích ra dữ dội, nên mặc dù có lệnh phá chốt, Thiết Đoàn 2 cũng không yểm trợ cho Liên Đoàn 4 BĐQ thực hiện việc phá chốt. Đại Tá Nguyễn Văn Đồng cũng kể lại từng chi tiết việc ông chỉ huy đoàn quân tháo lui trên Liên Tỉnh Lộ 7B và sau đó ông bị bắt gần Củng Sơn. Cũng trong ngày 1 tháng 3/1975, Sư Đoàn 968 tấn công chiếm 2 đồn ở phía tây Thanh An và áp sát vào Quận Thanh An. Điều này càng làm cho Tướng Phú tin địch sẽ đánh Pleiku.

Ngày 2 tháng 3/1975, Chi Trưởng CIA ở Quân Khu 2 tại Nha Trang đã lên Ban Mê Thuột báo cho Đại Tá Nguyễn Trọng Luật phải đề phòng. Đại Tá Luật thông báo cho Quân Đoàn 2 thì ở đây cho biết đã nhận được công điện của CIA vào buổi sáng. Tướng Phú liền ra lệnh cho Trung Đoàn 53 rút một tiểu đoàn đang hành quân tại Quảng Đức về phòng thủ Ban Mê Thuột và đưa một liên đoàn Biệt động quân từ Kontum đến thaỵ Cũng trong ngaỳ này, tình báo của phía Cảnh Sát báo cáo phát hiện một đơn vị Bắc Việt lảng vãng ở rừng cao su phía đông Ban Mê Thuột, gần Quốc Lộ 21.

Ngày 4 tháng 3/1975, Sư Đoàn 3 Sao Vàng cắt đứt Quốc Lộ 19 từ Qui Nhơn đến Pleiku, ở khúc Bình Khê và Suối Đôi. Hai Trung Đoàn 41 và 42 của Sư Đoàn 22 BB được lệnh khai thông nhưng không tiến lên nổi. Ngày 5 tháng 3/1975, Trung Đoàn 25 của Bắc Việt án ngữ chốt quốc lộ 21 ở đèo Chu Cúc ở giữa Khánh Dương và Quận Phước An, phía đông Ban Mê Thuột. Một đoàn xe quân sự của quân đội VNCH di chuyển qua đèo Chu Cúc đã bị Bắc Việt phục kích và bắn cháy, nhiều binh sĩ bị bắt.

Trưa 5 tháng 3/1975, Sư Đoàn 320 CSBV cho một tiểu đoàn chận đánh một đoàn quân xa của Trung Đoàn 45 gồm 14 chiếc di chuyển trên Quốc Lộ 14, khúc phía bắc quận Thuần Mẫn. Đoàn xe này có kéo theo một khẩu đại bác 105-ly. Từ Tết đến hôm đó, việc di chuyển trên Quốc Lộ 14 từ Ban Mê Thuột đến Pleiku vẫn an toàn và hàng ngày có từ 60-80 xe quân sự lưu thông trên khoảng đường này. Được tin này, tướng Phú ra lệnh cho Trung Đoàn 53 đưa một tiểu đoàn hành quân lục soát hai bên Quốc Lộ 14 để tìm các dấu vết của Sư Đoàn 320 Bắc Việt, nhưng không phát hiện được gì.

Ngày 7 tháng 3/1975, Bắc Việt chiếm cứ điểm Chư Xê phía bắc Buôn Hô và cắt đứt Quốc Lộ 14, rồi sau đó pháo kích vào Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 2 tại phi trường Cù Hanh ở Pleiku và mở những trận đánh lớn ở Bình Định để cầm chân Sư Đoàn 22 BB và đánh lạc hướng. Tướng Phú đã lấy máy bay đi quan sát mặt trận Bình Định.

Đại Tá Phùng Văn Quang có kể lại khi tin tình báo về việc địch tập trung xung quanh Ban Mê Thuột ngày càng dồn dập, tướng Phú đã gọi ông vào và nói:

- Anh quen thuộc địa hình Ban Mê Thuột, anh bay về đó xem tình hình ra sao.

Đại Tá Phùng Văn Quang đã bay một vòng và phát hiện rất nhiều dấu vết xe tăng Bắc Việt đã chạy qua khu vực Buôn Hô, cách Ban Mê Thuột khoảng 30 km. Ông cho trực thăng đáp xuông thì quân báo của địa phương cho biết các thợ rừng và dân chúng thông báo rằng họ thấy rất nhiều bộ đội Việt Cộng đi qua vùng này.

Ngày 8 tháng 3/1975, Sư Đoàn 320 Bắc Việt đánh chiếm quận Thuần Mẫn. Tại đây chỉ có một tiểu đoàn Địa Phương Quân trấn đóng nên họ không cầm cự được lâu và đã thất thủ. Quốc Lộ 14 bị cắt thêm ở khúc quận Thuần Mẫn. Đêm 8 tháng 3/1975, Sư Đoàn F.10 bắt đầu tấn công Quận Đức Lập. Căn cứ Núi lửa và căn cứ 23 bảo vệ Đức Lập bị tràn ngập.

Khoảng 8 giờ sáng ngày 9 tháng 3/1975, tướng Phú và Bộ Tham mưu Quân Đoàn 2 đã bay về Ban Mê Thuột họp với Chuẩn Tướng Lê Trung Tường (tư lệnh Sư Đoàn 23 BB), Đại Tá Võ Thế Quang (tư lệnh phó sư đoàn), Đại Tá Nguyễn Trọng Luật (tỉnh trưởng Ban Mê Thuột), Đại Tá Phạm Văn Nghìn (tỉnh trưởng Quảng Đức), và Trung Tá Võ Ân (trung đoàn trưởng Trung Đoàn 53). Sau khi thấy tình hình một tiểu đoàn của Trung Đoàn 45 đang chiến đấu với Sư Đoàn F.10 Bắc Việt, tướng Phú cho rằng tình hình Đức Lập không thể cứu vãn được nên không tăng viện thêm.

Điều đáng ngạc nhiên là cho đến giờ phút đó, khi mọi tin tức quân báo và tình hình thực tế xác định dịch chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột, tướng Phú vẫn cho rằng địch sẽ đánh Pleiku. Ông lập lại nhận định của ông là Bắc Việt chỉ bao vây Ban Mê Thuột để làm kế nghi binh rồi bất thần tấn công vào Pleiku. Nhưng do sự thúc đẩy của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, tướng Phú chỉ thị cho Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng của Quân đoàn xin Bộ Tổng Tham Mưu cho trực thăng chuyển Liên Đoàn 21 BĐQ (đang đóng tại Kontum) thả xuống Buôn Hô, cách thành phố Ban Mê Thuột 30 km về phía Bắc, đề phòng khi Bắc quân tấn công vào Ban Mê Thuột, có thể tiến về cứu viện. Cuộc chuyên quân khởi sự từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều thì chấm dứt.

Thấy tình thế nguy ngập, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật đã lấy một chiếc máy bay cho vợ con ông và vợ con của một vài viên chức cao cấp trong tỉnh di tản về Saigon. Các giới chức trách nhiệm phòng thủ Ban Mê Thuột đều biết trong vòng vài ngày tới địch sẽ tấn công Ban Mê Thuột, nhưng họ không làm gì được, vì tướng Phú không chịu thay đổi ý kiến.

Lúc 11 giờ trưa, tướng Phú đến thăm Tiểu Khu Ban Mê Thuột và chỉ thị cho Đại Tá Vũ Thế Quang và Đại Tá Nguyễn Trọng Luật phối trí quân phòng thủ các vị trí quan trọng và các kho tiếp liệu. Năm giờ chiều ông bay về Pleiku.

Mặc dù đã có chỉ thị của tướng Phú, Đại Tá Vũ Thế Quang không biết lấy đâu ra quân để phòng thủ. Trong thị xã và vòng đai thành phố lúc đó chỉ còn 2 tiểu đoàn của Trung Đoàn 45, một giữ ở ngã ba Dak Sak và một đóng ở căn cứ B.50 ở gần phi trường Phụng Dực, cùng với hai chi đội thiết giáp và một đại đội pháo binh. Số còn lại là hai tiểu đoàn Địa Phương Quân và Nghĩa Quân phân tán mỏng để bảo vệ các kho trong thành phố. Cảnh Sát Dã Chiến được phân chia bố trí ở các cao ốc. Tướng Phú hứa sẽ cho thêm một chi đoàn thiết giáp và cho phép rút 2 tiểu đoàn Địa Phương Quân ở Bản Đôn về bảo vệ thị xã.

Tối 9 tháng 3/1975, quận Đức Lập thất thủ. Sư Đoàn F.10 làm chủ tình hình về phía tây nam Ban Mê Thuột và đang tiến về thành phố. Vòng vây Ban Mê Thuột bắt đầu xiết chặt.

CUỘC TẤN CÔNG MỞ MÀN

Khoảng 2 giờ sáng ngày 10 tháng 3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào thành phố. Họ xử dụng xe tăng và trọng pháo đủ loại và tiến về từ mọi phía. Trung Đoàn 174 Bắc Việt theo Quốc Lộ 14 từ hướng Đức Lập tiến vào trước tiên, sau đó Trung Đoàn 149 đánh từ phía Nam lên, Trung Đoàn 95B từ ngả Buôn Hô đánh xuống, còn Trung Đoàn 148 từ lối Bản Đôn vào.

Đại Tá Phùng Văn Quang kể lại rằng khi nghe tin địch tấn công vào Ban Mê Thuột, ông đã điện đàm với tướng Phú để xin chỉ thị. Ông cho biết các binh sĩ của ông rất nóng lòng, muốn được di giải cứu Ban Mê Thuột, vì vợ con họ đang ở tại dó. Nhưng Tướng Phú đã trả lời với ông rằng nếu đem quân đi cứu Ban Mê Thuột, Bắc Việt sẽ tấn công Pleiku.

Khi tiến công vào thành phố, Bắc quân nhắm vào hậu cứ Sư Đoàn 23, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, kho đạn Mai Hắc Đế và căn cứ B.50. Đến 8 giờ sáng, họ dùng chiến xa T-54 đánh chiếm kho đạn Mai Hắc Đế của Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận. Đại Tá Quang chỉ thị Đại Tá Luật điều động hai đại đội và 4 thiết vận xa M-113 ra chốt ở Ngã Sáu để chận địch. Các oanh tạc cơ được phái đến yểm trợ.

Lúc 11 giờ Bắc quân tấn công Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Đại Tá Luật trao quyền lại cho sĩ quan tiểu khu phó và di chuyển qua Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23. Lúc 3 giờ chiều, Đại Tá Quang không còn liên lạc được với tiểu khu. Khoảng 5 giờ, Đại Tá Quang bắt liên lạc được với Liên Đoàn 21 BĐQ đang ở phía Buôn Hô tiến vào thành phố. Ông liền ra lệnh cho Trung Tá Lê Quý Dậu cho Tiểu Đoàn 72 chiếm lại tiểu khu và Tiểu Đoàn 96 yểm trợ lấy lại kho đạn Mai Hắc Đế.

Suốt đêm mồng 10 tháng 3, Địa Phương Quân, Nghĩa quân và Cảnh Sát Dã Chiến quần thảo với bộ đội Bắc Việt trong thành phố để tranh từng tấc đất. Phía Bắc Việt không nắm vững địa hình nên không tiến nhanh được. Bảy giờ sáng ngày 11 tháng 3/1975, Bắc Việt tấn công vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB, nhưng lực lượng phòng thủ vẫn còn cầm cự được.

Đến 10 giờ, một phi đội A-37 trợ chiến đã thả bom lạc, trúng một góc hầm Bộ Tư Lệnh, hệ thống truyề tin bị hỏng, không còn liên lạc được với các đơn vị chung quanh nữa. Cả Đại tá Quang lẫn Đại Tá Luật bỏ Bộ Tư Lệnh, di chuyển qua sau lưng chùa Khải Hoàn để chạy qua căn cứ B.50, nhưng bị bắn dữ quá, phải tạt vào rừng cao su và bị bắt sau đó.

Chỉ có căn cứ B.50 ở gần phi trường Phụng Dực là cầm cự được lâu nhất. Đây là một căn cứ có chu vi trên 1 km, trước đây là một trại Lực Lượng Đặc Biệt của Mỹ nên công sự được xây cất rất kiên cố, có tất cả 11 hầm đủ sức chịu đựng được đạn 130-ly, xung quanh có xếp bao cát cao làm thành những ụ chiến đấu cá nhân. Ở xa xa là một vòng đai hàng rào kẽm gai nhiều lớp bao bọc.

Căn cứ này được dùng làm hậu cứ của Trung Đoàn 53. Nhờ các công sự vững chắc, Trung Tá Võ Ân chỉ có một tiểu đoàn mà đã chống trả rất anh dũng các đợt tấn công bằng xe tăng và đại pháo của địch. Cuộc cầm cự kéo dài đến ngày 18 tháng 3/1975 thì phải mở đường máu chạy về hướng Lạc Thiện, sau khi có lệnh rút khỏi Cao nguyên. Tướng Phú và Bộ Tham mưu đã lên máy bay đi tìm và bắt được liên lạc, nhưng số tàn quân ở cạnh Trung Tá Ân lúc đó chỉ còn 20 binh sĩ mà thôi.

Mãi đến sáng ngày 12 tháng 3/1975, khi Tổng Thống Thiệu trực tiếp ra lệnh cho Tướng Phú phải đem 2 trung đoàn của Sư Đoàn 23 về giải cứu Ban Mê Thuột, tướng Phú mới tuân lệnh hành quân.

VIỆT NHÀ TRƯỚC, VIỆT NƯỚC SAU

Khi quân Bắc Việt khởi đầu tấn công Ban Mê Thuột, Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 liền điện đàm mgay với Chuẩn Tướng Lê Trung Tường để xin viện binh. Tướng Tường trả lời rằng không thể có viện binh vì tướng Phú còn tập trung quân để đối phó tại Pleiku. Tướng Phú chỉ ra lệnh cho Liên Đoàn 21 BĐQ do Trung Tá Lê Quý Dậu chỉ huy từ Buôn Hô tiến vào thành phố thôi.

Liên Đoàn 21 đã vào được thành phố và lập được một số chiến công. Nhưng khi cuộc giao chiến đang tiếp tục thì đùng một cái, Chuẩn Tướng Lê Trung Tường ra lệnh cho Trung Tá Dậu điều động Liên Đoàn 21 phối hợp với Địa Phương Quân còn lại rút về vây quanh sân bay L.19 trong thành phố để ông phái trực thăng đến đón 21 người trong gia đình của ông đang kẹt tại sân bay này.
Quốc Lộ 19, trên đường đi Pleiku. (HÌNH ẢNH: sưu tầm)



Mặc dù có sự yểm trợ của cả Địa Phương Quân lẫn Liên Đoàn 21 BĐQ, trực thăng của tướng Tường phái đến cũng không đáp xuống được vì quân Bắc Việt pháo kích dữ quá. Cuối cùng tướng Tường đã ra lệnh lấy một thiết vận xa M-113 chở toàn bộ gia đình của ông tới Trung Tâm Huấn Luyện cách thị xã 3 km để trực thăng đến đón. Khi trực thăng bốc được gia đình Chuẩn Tướng Lê Trung Tường đi rồi thì Bắc quân đã chiếm gần như toàn bộ thành phố Ban Mê Thuột.

Liên Đoàn 21 tiến về sân bay Phụng Dực để phối hợp tác chiến với một tiểu đoàn của Trung Đoàn 45 ở căn cứ B.50 thì bị chận đánh phải lui ra khỏi vòng đai thành phố và bị vây ở Đạt Lý. Đại Tá Trịnh Tiếu nói rằng tướng Phú biết những chuyện tướng Lê Trung Tường đã làm nói trên, nhưng ông nói ông thông cảm với tướng Tường, giống như trường hợp của ông tại Huế trong trận chiến Tết Mậu Thân.

KẾ HOẠCH TÁI CHIẾM BAN MÊ THUỘT

Ngày 12 tháng 3/1975, sau khi có lệnh trực tiếp của Tổng Thống Thiệu là tái chiếm lại Ban Mê Thuột, một cuộc họp đã được tổ chức tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn để hoạch định kế hoạch tái chiếm. Theo kế hoạch này, Trung Đoàn 45 BB được bốc ngay trong ngày 12 tháng 3/1975 từ đèo Tử Sĩ đổ xuống Phước An, phía Đông Ban Mê Thuột. Trung đoàn này sẽ lần theo Quốc Lộ 21 tiến về Ban Mê Thuột cho đến khi chạm địch thì ngưng lại và chờ lệnh. Liên Đoàn 7 BĐQ sẽ được chuyển từ Saigon ra thay Trung Đoàn 44 ở căn cứ 801.

Sau khi bàn giao, Trung Đoàn 44 di chuyển đến căn cứ Hàm Rồng đợi máy bay đến bốc thả xuống Phước An tiếp theo. Việc chuyển quân của Trung Đoàn 45 không có gì trở ngại, nhưng Đại Tá Phùng Văn Quang nói với chúng tôi rằng khi từ Phước An tiến về Ban Mê Thuột thì một số binh sĩ của ông đã bỏ ngũ đi tìm gia đình của họ ở Ban Mê Thuột.

Ngày 13 tháng 3/1975, 50 chiếc trực thăng đủ loại đã đến đưa Trung Đoàn 44 tới Phước An, nhưng chỉ mới di chuyển được Tiểu Đoàn 3, Đại Đội Trinh Sát và Bộ Chỉ Huy của trung đoàn thì có lệnh ngưng lại. Tiểu Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 2 bị bỏ lại ở Hàm Rồng. Lực lượng của 2 Trung Đoàn 44 và 45 khi tiến về thành phố thì bị chận lại ở vòng đai thành phố. Ở phía sau, Trung Đoàn 25 Bắc Việt từ Chư Cúc đánh lên chi khu Phước An, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Sư Đoàn 23.

Ngày 14 tháng 3/1975, trong chuyến bay từ Khánh Dương đến Phước An, máy bay của tướng Lê Trung Tường bị bắn, ông chỉ bị xây xát đôi chút, nhưng ông lấy cớ này xin từ chức tư lệnh Sư Đoàn 23. Ngày 15 tháng 3/1975, tướng Phú cử Đại Tá Lê Hữu Đức đến thay thế.

Ngày 16 tháng 3/1975, lực lượng còn lại của Sư Đoàn 23 BB được lệnh tập trung về Phước An và được trực thăng bốc về Nha Trang vì đã có lệnh của Tổng Thống Thiệu rút khỏi Cao Nguyên.

Một số sĩ quan cao cấp trong Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 kể lại rằng trong suốt thời gian chưa bốc được gia đình ra khỏi Ban Mê Thuột, Chuẩn Tướng Lê Trung Tường không màng gì tới các đơn vị thuộc quyền cũng như tình hình mặt trận. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 23 giống như rắn không đầu, không biết phải làm gì nữa. Mãi cho đến khi mang được gia đình tới nơi bình yên, tướng Tường mới lo việc hành quân.

Trước khi kết thúc bài Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và Quân Đoàn 2, Đại Tá Trịnh Tiếu có nhận xét về Tướng Phú như sau:

“Thiếu Tướng Nguyễn Tăn Toàn đã thành công tại Quân Đoàn 2 [trong trận chiến mùa hè năm 1972] vì biết nghe lời khuyên của Đại Tướng Cao Văn Viên, khôn khéo hợp tác chặt chẽ với John Paul Vann trong kế hoạch bảo vệ Kontum. Tướng Phạm Văn Phú làm tư lệnh Quân Đoàn 2 không có cố vấn Hoa Kỳ nữa. Ông chỉ làm việc với vài người thân tín của ông. Ông không tin tưởng vào Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đoàn. Ông không thi hành lệnh Tổng Thống Thiệu đưa Sư Đoàn 23 về giữ Ban Mê Thuột. Đến khi Ban Mê Thuột bị mất, ông rơi vào “mê hồn trận.” Sau đó, ông lại thi hành một cách mù quáng lệnh bỏ Kontum, Pleiku và đưa đoàn quân vào tử lộ một cách đau thương. Hàng chục ngàn quân đã bỏ xác một cách oan uổng trên Liên Tỉnh Lộ 7B.”

Lữ Giang

HẾT

Posted by: caoduy Nov 22 2009, 04:58 PM



Triệt Thoái Cao Nguyên: Cuộc Lui Binh Phá Sản




# Tác giả: Trọng Đạt


Một ngày trước khi tướng Phú tuyên bố Ban Mê Thuột thất thủ, hôm 12 tháng 3 năm 1975 Hạ Viện Hoa Kỳ biểu quyết cắt 300 triệu mỹ kim quân viện bổ túc cho Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) do Tổng Thống Ford đệ trình Quốc Hội. Đại sữ Mỹ Martin cũng thông báo cho Tổng Thống Thiệu biết quân viện năm tới từ tháng 6 sẽ không được chuẩn chi, như thế quân đội VNCH chỉ còn đủ đạn dược để đánh trận trong vòng ba hoặc bốn tháng.

Tại Pleiku Liên Đoàn 4 Biệt Động Quân (BĐQ) chưa thể giải tỏa được Quốc Lộ 19. Sư Đoàn 22 gần Qui nhơn chiến đấu dữ dội với Sư Đoàn 3 Sao Vàng của Bắc Việt. Phi trường Cù Hanh bị pháo kích vớ thiệt hại là 3 phi cơ A-37 bị phá hủy. Sư Đoàn 10 Bắc Việt chiếm Ban Mê Thuột và đang tiến về tuyến Phước An. Tại đây lực lượng phòng thủ của Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn 700 người và 4 khẩu đại bác 105-ly.

Ngày 11 tháng 3 năm 1975, Tổng Thống Thiệu họp hội đồng tướng lãnh gồm các tướng Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, và Đặng Văn Quang để trình bày kế hoạch tái phối trí lực lượng. Với tình hình vũ khí đạn dược như hiện nay, Việt Nam Cộng Hòa không thể nào giữ vững cả bốn quân khu, mà chỉ có đủ lực lượng để giữ Quân Khu 3, Quân Khu 4, và một phần duyên hải thuộc Quân Khu 2. Tại Quân Khu 1 sẽ chỉ giữ Huế và Đà Nẵng, và sẽ rút bỏ cao nguyên về giữ đồng bằng. Bỏ những vùng xương xẩu để về giữ những vùng mầu mỡ. hội đồng tướng lãnh đồng ý, không ai phản đối.

Đã choáng váng vì bị mất Ban Mê Thuột, nay lại tá hỏa tam tinh vì đồng minh bỏ rơi, Tổng Thống Thiệu mất tinh thần, đưa ra kế hoạch táo bạo liều lĩnh vô cùng tai hại trong một phiên họp tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3. Trong phiên họp này có Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang (phụ tá an ninh) và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (tư lệnh Quân Đoàn 2). Sau phiên họp tướng Phú kể lại cho Phạm Huấn, và người ký giả chiến trường này đã ghi lại trong quyển Cuộc Trịêt Thoái cao nguyên 1975 như sau.

Ông Thiệu cho biết Quốc Hội Mỹ cắt giảm quân viện khiến Việt Nam Cộng Hòa thiếu thốn đạn dược tiếp liệu. Mỹ hủy bỏ cam kết yểm trợ bằng không lực khi Bắc Việt vi phạm Hiệp định Paris. Lãnh thổ phòng thủ quá rộng lớn, quân đội thiếu thốn đạn dược, tiếp liệu, lực lượng Bắc Việt năm nay lại quá mạnh. Ông cho biết Tướng Phú phải đem hết chủ lực quân, chiến xa, pháo binh của quân đoàn về phòng thủ vùng duyên hải, nghĩa là rút bỏ Pleiku, Kontum..

Sau khi nghe thế tướng Phú bèn xin cho toàn bộ quân đoàn ở lại chiến đấu vì ông đã thoáng nhìn thấy sự sụp đổ miền Nam sẽ diễn ra do kế hoạch tái phối trí của ông Thiệu.

- Thưa Tổng thống, cho tôi được tử thủ Pleiku, giữ cao nguyên.

Tướng Thiệu hỏi:

- Tử thủ? Với quân số, đạn dược hiện có, liệu anh chiến đấu được bao nhiêu ngày với Cộng Sản?

- Thưa Tổng thống từ 40 đến 60 ngày.

- Rồi sao nữa?

Tướng Phú khựng lại, đưa mắt nhìn tướng Viên cầu cứu, nhưng tướng Viên quay đi chỗ khác. Tướng Phú đáp:

- Tôi sẽ chiến đấu đến cùng, cho đến khi không còn được tiếp tế súng đạn, lương thực nữa.

Và tướng Phú vẫn liều lĩnh nói với giọng hơi lớn:

- Thưa tTổng thống, thưa quí vị tướng lãnh, nếu rút khỏi cao nguyên năm nay, thì một cuộc tấn công khác của Cộng Sản, có thể vào năm tới, sẽ làm mất duyên hải và mất nước. Tôi và các chiến sĩ của tôi có chết ở cao nguyên bây giờ cũng không khác gì chết ở Sài Gòn trong năm tới.”

Thiệu bác bỏ ý kiến Phú, ông nói đây là kế hoạch chung của hội đồng tướng lãnh mà ông đã bàn thảo.

- Tôi ra lệnh cho anh mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay về phòng thủ vùng duyên hải, và tổ chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Lệnh này, từ cấp tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết.

- Thưa tổng thống…

- Có nghĩa là các lực lượng Địa Phương Quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chánh thuộc ba tỉnh Pleiku, Kontum, và Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với tỉnh trưởng, quận trưởng như thường lệ. Quyết định mang tất cả chủ lực quân chiến xa, pháo binh, máy bay của Quân Đoàn 2 khỏi Pleiku, Kontum. Tôi đã thảo luận với các tướng lãnh. Đây cũng là một quyết định chung của hội đồng tướng lãnh, như quyết định hôm qua cho tướng Trưởng ngoài Quân Đoàn 1.
Căn cứ quân sự và phi trường tại Tuy Hòa. (HÌNH ẢNH: Vaughn Banting)

Phòng họp im phăng phắc, không có một phản ứng, chống đối nào. Bỗng tướng Phú hỏi ôngThiệu một câu gần như lạc đề:

- Thưa Tổng Thống, nếu chủ lực quân, thiết giáp, pháo binh rút đi làm sao Địa Phương Quân chống đỡ nổi khi Cộng Sản đánh? Hơn 100 ngàn dân thuộc hai tỉnh Pleiku và Kontum và gia đình anh em binh sĩ sẽ ra sao?

- Thì cho Cộng Sản số dân đó! Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được vùng dân cư đông đúc, mầu mỡ, hơn là bị kẹt quá nhiều quân trên Vùng cao nguyên.”

Kế hoạch đã được coi như hợp thức hoá và lệnh triệt thoái được ban hành, các tướng lãnh không ai phản đối. Kế đó họ bàn việc lựa chọn đường rút quân. Tướng Viên cho biết Quốc Lộ 21 không thể xử dụng được vì đường 14 giữa Pleiku và Ban Mê Thuột đã bị cắt. Quân đội miền Bắc hiện có ba hoặc bốn sư đoàn chính qui tại chiến trường Ban Mê Thuột, cho nên không thể xử dụng đường 21 về Nha Trang.

Nếu di chuyển bằng đường 19 nối liền Pleiku và Qui Nhơn cũng sẽ khó thành công vì đèo An Khê đã bị cắt ở hai phía đông-tây. Các đơn vị Bắc Việt đóng chốt nhiều nơi. Trước đây Pháp đã từng bị Việt Minh phục kích đánh tan tác trên đoạn đường đèo này. Ngoài đường số 7B không còn đường nào khác. Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7B, kế hoạch được chấp thuận. Ông Thiệu dặn tướng Phú phải giữ bí mật, không được cho các tỉnh trưởng biết, chỉ có quân chủ lực của quân đoàn rút đi, lực lượng địa phương sẽ phải ở lại chiến đấu. Như vậy về cơ bản kế hoạch chỉ là sự lừa dối lẫn nhau, một kế hoạch bất nhân, tàn nhẫn.

Chiều 14 tháng 3 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn triệu tập các sĩ quan cao cấp để thông báo lệnh rút bỏ cao nguyên. Tuy nhiên không có giấy tờ lệnh hành quân cấp quân đoàn, cuộc hành quân tổ chức vội vã không được chặt chẽ.

Tướng Phú ra lệnh cho Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh rút từ đèo Mang Yang về tăng phái cho Liên Đoàn 23 BĐQ và Công Binh để sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên Liên Tỉnh Lộ 7B. Dưới thời ông Diệm, Cheo Reo được tách ra khỏi Pleiku để thành lập tỉnh Phú Bổn, dân số có 95 ngàn người với 70% là đồng bào Thượng.

Liên Tỉnh Lộ 7B từ ngã ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hòa trước đây là một con đường trải đá, có ba cầu chánh là Phú Thiện (50 mét), Le Bac (600 mét) và Cà Lúi (40 mét). Đoạn cuối trên Liên Tỉnh Lộ 7B trong địa phận Tuy Hòa, ở quận Củng Sơn, không an toàn cho sự lưu thông.

Ngày 16 tháng 3 năm 1975, đoàn xe bắt đầu rời thị xã Pleiku. Tướng Phú và Bộ Tư Lệnh lên trực thăng bay về Nha Trang, bỏ lại Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc mọi việc. Đoàn quân di tản được chia ra thành bốn phần, mỗi phần có 250 xe. Theo tướng Hoàng Lạc ghi lại trong quyển Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới thì tổng cộng có 1,200 xe cộ di chuyển. Theo Phạm Huấn viết thì có tất cả 4,000 quân xa đủ loại.

Ngày 16 tháng 3, đoàn quân xa di chuyển êm xuôi. Nhưng đến ngày thứ hai, 17 tháng 3, thì dân chúng ùa theo nên cuộc di tản trở nên hỗn loạn và phức tạp. Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh tại Phú Bổn và lập phòng tuyến tại Hậu Bổn.

Các biến cố dồn dập sau đó đều vượt khả năng điều hành của giới chức thẩm quyền. Quân nhân tại Phú Bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng đều hoảng hốt gia nhập cuộc di tản. Ngày 18 tháng 3, Liên Đoàn 7 BĐQ đang cùng với Thiết Giáp tấn công các chốt Bắc Việt thì bỗng nhiên xui xẻo bị Không Quân oanh tạc lầm, làm cho nhiều binh sĩ bị thương vong. Lúc đó pháo binh Bắc Việt bắn vào phi trường gây kinh hoàng cho đoàn người di tản. Tối đến họ lại pháo kích vào thị xã làm cho nhiều thường dân vô tội bị chết oan uổng.

Ngày 16 tháng 3 năm 1975, Sư Đoàn 320 Bắc Việt được lệnh cấp tốc phải đuổi theo đánh phá đoàn xe triệt thoái. Đến ngày 18 tháng 3, đại đơn vị Cộng Sản đánh vào Phú Bổn rồi sau đó tiếp tục tấn công xuống Củng Sơn. Họ lấy được nhiều đạc bác và xe tăng của quân đội VNCH để tiếp tục mở cuộc truy kích.

Nhận được báo cáo về tình hình nguy khốn, tướng Phú ra lệnh bỏ Hậu Bổn để rút về Tuy Hoà. Cuộc chạm súng tại Hậu Bổn kéo dài tới sáng hôm sau thì đoàn quân di chuyển được 20 km. Lúc đó các đơn vị Bắc Việt đã tràn vào quận Phú Túc. Liên Đoàn 7 BĐQ lại tạo nỗ lực chiếm lại quận Phú Túc. Sau khi ra khỏi Phú Túc, nhiều binh sĩ tan hàng, các sĩ quan cũng không giữ được trật tự 100%. Trong cuộc lui binh thê thảm này có rất nhiều lính chết, dân chết, chẳng khác nào một địa ngục trần gian, một hành lang máu dài hàng trăm cây số.

Công Binh lập hai cầu nổi tại Le bac và Đồng Cam. Đoàn xe di chuyển đến sông Ba thì bị cát lún, phải mất ba ngày để trực thăng chở vĩ sắt lót đường. Lúc đó chỉ có một chiếc xe bị kẹt giữa cầu nổi mà khiến cả đoàn quân tắc nghẽn. Tuy nhiên, dẫu gặp nhiều khó khăn nhưng đoàn xe đầu tiên cũng về được tới Tuy Hòa.

Các đơn vị Cộng Sản từ Thuần Mẫn đổ xuống tiếp tục thiết lập các chốt cản đường. Một tiểu đoàn Địa Phương Quân và một tiểu đoàn Biệt Động Quân được giao nhiệm vụ nhổ chốt. Ngày 22 tháng 3, hai tiểu đoàn Biệt Động Quân ở lại đoạn hậu đã đánh tan một trung đoàn Bắc Việt, gây thiệt hại nặng cho đối phương nên họ phải rút lui.

Lúc đó, các lực lượng Bắc Việt từng tham chiến trong trận Ban Mê Thuột được lệnh di chuyển gấp theo Tỉnh Lộ 287 để đổ xuống Liên Tỉnh Lộ 7B. Tướng Cẩm báo cáo với tướng Phú. Tướng Phú ra lệnh tan hàng. Tướng Cẩm sau đó cùng bộ tham mưu bay trực thăng về Tuy Hòa. Những người còn lại rút về hướng đông.

Ở phía tây, xe tăng Bắc Việt đang tiến tới, hướng bắc là Pleiku, hướng nam cũng có các đơn vị Bắc Việt đóng chống. ai len lỏi theo sông Ba thì về được Tuy Hòa. Trong ngày 26 tháng 3, Tiểu Đoàn 34 BĐQ đã thanh toán các chốt sau cùng tại xã Mỹ Thạnh Tòng. Trong số 1,200 xe lúc bắt đầu khởi hành từ Pleiku thì bây giờ đến Tuy Hòa chỉ còn lại 300 chiếc mà thôi.

Cuộc lui binh của các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tại Quân Đoàn 2 được xem như một cuộc lui binh thảm nhất trong suốt cuộc chiến. Liên Tỉnh Lộ 7B từ đó về sau được mệnh danh là “hành lang máu.” Đó là một con đường dài 300 km với những nước mắt, máu xương, và thịt người tung toé trong 9 ngày đêm.

Trọng Ðạt

Posted by: caoduy Nov 24 2009, 04:44 PM


Vài Biến Cố Ðằng Sau Mặt Trận Tây Nguyên



#Tác Giả : Ngô Văn Xuân


Để tìm hiểu thêm biến cố Ban Mê Thuột, một biến cố dưa dến mất toàn bộ miền Nam Việt Nam, chúng tôi đã cố gắng phỏng vấn nhiều nhân vật liên hệ trực tiếp việc chỉ huy mặt trận này. Hôm nay chúng tôi xin dăng lời tường thuật của Trung Tá Ngô Văn Xuân, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 44 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh (BB), người được lệnh đưa Trung Ðoàn 44 về giải cứu Ban Mê Thuột sau khi thị xã này bị Việt Cộng xâm chiếm.

Trung Tá Ngô Văn Xuân xuất thân khóa 17 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt đã từng giữ các chức vụ sau đây: Ðại đội trưởng Ðại Ðội Tinh Sát thuộc Trung Ðoàn 11 của Sư Ðoàn 7 Bộ Binh, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 2 thuộc Trung Ðoàn 44 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, trưởng phòng hành quân của Sư Ðoàn 23 và cuối cùng là trung đoàn trưởng của Trung Ðoàn 44.

Trong chiến đấu, ông đã ba lần bị thương và sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, ông bị đi cải tạo 13 năm. Trung Tá Xuân dến Hoa Kỳ theo danh sách Hạ vào tháng 4 năm 1992 và hiện dang cư ngụ tại vùng Bắc Cali. Theo lời yêu cầu của chúng tôi, ông đã ghi lại một số biến cố mà ông biết liên quan đến mặt trận Ban Mê Thuột vào năm 1975. Chúng tôi hy vọng rằng bài này sẽ góp phần hữu ích vào việc tìm hiểu lý do đưa dến sự thất thủ Ban Mê Thuột.

Mới đó mà cũng hơn 20 năm trôi qua. Những nắm xương tàn của hàng vạn sinh linh giờ đây cũng đã trở thành cát bụi. Những suối máu của họ cũng đã kiệt khô, tô thêm màu mỡ cho mảnh dất quê hương. Những người đã một thời theo vận thời cuộc, nhảy ra nắm chính quyền hay xưng hùng xưng bá, thực hiện những mưu đồ chính trị, khuynh loát… giờ đây cũng đã lần lượt nằm xuống. Cái khoảnh khắc huy hoàng của họ mà đôi khi họ cứ tưởng như sẽ miên viễn trường tồn, thực chất chỉ là một dốm lửa rơm trong kiếp nhan sinh dằng dặc. Trong lịch sử dân tộc ta, có lẽ không có giai đoạn nào xót xa, dau tủi cho bằng những diễn biến trong ngót nửa thế kỷ vừa qua.

Cuộc chiến tranh chống thực dân giành độc lập vừa kết thúc thì lập tức một cuộc chiến khác lại nổ ra. Dưới cặp mắt của các chính trị gia hay các nhà sử học, cuộc chiến thứ hai này được gán cho nhiều cái tên khác nhau, nào là chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh nổi dậy, chiến tranh chống xâm lăng, chiến tranh tự vệ, chiến tranh ý thức hệ. Nhưng trong ký ức những người bình thường, hình ảnh chết chóc đau thương của những người nằm xuống đều gây xúc cảm nơi những người liên hệ xa gần như thân nhân ruột thịt, bà con, bạn hữu, làng xóm… hay nới rộng ra, nơi đồng bào của chính họ.

Đã có lúc những người Cộng Sản Việt Nam xưng tụng cuộc chiến ấy như một thành tích lẫy lừng nhất trong lịch sử. Thậm chí còn đem những thành tích dó ra so sánh với cả những chiến công khác của cha ông như chiến công diệt Minh, trừ Nguyên trong lịch sử. Rất may, cơn sốt nhiệt cuồng rồ dại ấy chẳng kéo dài được bao lâu. Thời gian đã chỉ cho họ những bài học khôn ngoan hơn. Giờ dây, một số người thức tỉnh dần dần nhận ra, hoặc đã nhận ra từ lâu giờ đây mới dám nói, tính chất vô nghĩa của những thành tích đó.

Về phía những người Quốc Gia, một số hồi ký, ký sự cũng gợi lại những kỷ niệm của một thời binh lửa ngút trời trên quê hương. Cuộc chiến ấy đã được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, trực tiếp có, gián tiếp có, xa có, gần có, thực có, giả có… Hy vọng rằng phương thuốc thời gian sẽ chữa lành cho cả dân tộc ta vết thương dau, nhức nhối đã kéo dài trong tâm thức của mọi con dân Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua.

Bài viết này của một chứng nhân trong cuộc chiến tàn khốc vừa qua, chỉ nhằm ghi lại đôi điều mắt thấy tai nghe dể làm sáng tỏ thêm một số bí ẩn của lịch sử. Cảm hứng gợi ra cho bài viết này bắt nguồn từ khi đọc những hồi ký là hai cuốn sách Đại Thắng Mùa Xuân của Văn Tiến Dũng và cuốn Tướng Phạm Văn Phú và Những Trận Ðánh từ Điện Biên Phủ 1954 đến Ban Mê Thuột 1975 của Phạm Huấn, trong dó có rất nhiều diều cần được hiệu đính hay nói thêm.

THỰC TRẠNG SAU HIỆP ÐỊNH NGƯNG CHIẾN

Mặt trận Cao nguyên chưa bao giờ ngưng tiếng súng kể từ ngày Hiệp Ðịnh Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 và có hiệu lực ngày 28 tháng 2/1973. Người viết bài này, lúc dó là Trưởng Phòng Hành Quân Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Sự khác biệt , nếu có, trước và sau ngày chấm dứt cuộc chiến là chỗ này: Trước hiệp định, tên của các cuộc hành quân là Biên Trấn 1, 2, 3, v.v. Sau khi đình chiến các tên này được đổi thành Hòa Bình 1, 2, 3, v.v.

Mức độ ác liệt của chiến tranh có giảm di đôi chút, nhưng sự thương vong thì chẳng ngày nào không có. Đối diện với tuyến phòng thủ của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là những cán binh Cộng Sản. Lúc đầu họ còn di chuyển lén lút, về sau bớt lén lút dần, thậm chí có khi họ còn nói với qua xin 1, 2 điếu thuốc hay xin cho nghe một bản nhạc vàng! Những đơn vị địch khác không nằm trên tuyến thì luôn tìm mọi các xâm nhập như đóng chốt trên các trục giao thông, lấn chiếm các khu vực hẻo lánh. Còn các đơn vị trừ bị của Việt Nam Cộng Hòa thì lo phá chốt, tái chiếm các vùng bị địch xâm nhập.

Cuộc chiến tranh nửa nạc nửa mỡ này thực sự trở nên khó chịu hơn, khi sự ràng buộc bởi Hiệp Ðịnh ngày càng trở nên rõ ràng. Ở tiền tuyến, đạn được và tiếp liệu bị cắt giảm không thương tiếc. Những tính toán theo kiểu con buôn được dem ra áp dụng. Mỗi loại vũ khí đều có “cấp khoản.” Số đạn được phép xử dụng trước biến đổi hàng tháng, sau xuống hàng tuần.
Phi trường Phục Dực, nơi đóng quân của Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 53 Bộ Binh tại Ban Mê Thuột.
(HÌNH ẢNH: Mike Loughran)

Ví dụ mỗi khẩu pháo 105 ly của tiểu đoàn Pháo Binh sau Hiệp Ðịnh Paris chỉ có quyền áp dụng cho cả hai phía Quốc Cộng, đặc biệt “bắn” 8 quả đạn một ngày. Ðến giai dọan trước khi các trận Ðánh Cao Nguyên thì giảm xuống còn 3 quả một ngày. Dần dần đến đạn súng nhỏ, xăng, dầu.

Nhìn về hậu phương, những bất ổn về chính trị xảy ra hàng ngày. Những cuộc biểu tình của hàng chục đoàn thể, phong trào đòi đủ thứ quyền. Trong bối cảnh như vậy, chẳng cần phải là một chính trị gia có trình độ cao siêu gì, cũng có thể nhìn ra một hậu quả chẳng mấy tốt dẹp cho một tương lai gần.

Tôi còn nhớ tháng 10/1973, một phái đoàn của Tòa Đại Sứ Mỹ đến thăm Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 tại Ban Mê Thuột. Sau khi nghe thuyết trình về địch tình, về tình hình tiếp liệu của đơn vị, viên đại tá trưởng phái đoàn đã nhắn nhủ, “Quí vị sẽ phải đối dầu với Việt Cộng trong một tình hình khó khăn hơn về tiếp liệu trong tương lai. Những viện trợ về tiếp liệu sẽ ngày càng giảm nhiều hơn, và vì vậy, chúng tôi yêu cầu quí vị nên nghiên cứu những phương thức điều hành thích hợp để đối phó khi cần, kể cả những lúc chúng tôi không thể chuyên chở sang cho quí vị đúng thời hạn.” Những đề nghị của Sư Ðoàn chỉ tóm gọn trong vấn đề tiếp liệu, và viên trưởng phái đoàn cũng chỉ ghi nhận trong tinh thần…rất ngoại giao.

Kể từ năm 1972 trở di, mùa hè nào trên Cao nguyên cũng đều là “mùa hè đỏ lửa” cả. Các cuộc hành quân, đánh phá được ngụy trang dưới những hình thức hay tên gọi khác nhau cho phù hợp với tình hình chính trị mới. Những người lính chiến của Quân Lực VNCH thực sự chưa có một ngày nào hít thở không khí hòa bình do các nhà chính trị đã ký kết với nhau sau hơn bốn năm bàn thảo, cãi cọ bàn vuông bàn tròn.

TỔNG THỐNG THIỆU ĂN TẾT Ở CAO NGUYÊN

Tháng 7/1974, tôi rời Phòng 3 Sư Ðoàn ra dảm nhiệm chức vụ Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 44 Bộ Binh, thay thế Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ. Như thường lệ, hàng năm mỗi độ xuân về, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại đi thăm một số đơn vị dang tác chiến và dùng cơm với các đơn vị này. Tết Ất Mão năm ấy, đơn vị của tôi được Quân Ðoàn chỉ định là đơn vị đón tiếp tổng thống. Trung đoàn của tôi có trách nhiệm phòng thủ trên tuyến vòng đai, các tỉnh lỵ Pleiku khoảng 20 km hướng Tây Bắc. Bộ Chỉ Huy đóng tại căn cứ 801.

Hai tiểu đoàn tác chiến án ngữ trên phòng tuyến, một tiểu đoàn trừ bị cùng với một chi đoàn chiến xa M-48 tại căn cứ. Các biện pháp an toàn tối-đa đã được hoạch định để tránh các sự rủi ro, nguy hiểm cho bữa cơm đầu năm của đơn vị có tổng thống tới tham dự. Bởi đây là một căn cứ hành quân đã chiến, không có hầm hố kiên cố mà lại luôn nằm trong tầm pháo các loại của địch, nên các tin tức liên quan tới bữa cơm được giữ kín cho tới lúc quan khách đến.

Đúng 12 giờ trưa, sau khi rời Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2, chiếc trực thăng chở quan khách đáp tại căn cứ của chúng tôi. Tướng Lê Trung Tường, Tư Lệnh Sư Ðoàn 23, và tôi ra đón. Thành phần phái đoàn gồm Tổng Thống Thiệu, các vị sĩ quan cấp tướng: Trung, Khang, Phú, các tùy viên và cận vệ. Tôi đưa các vị quan khách vào phòng họp hành quân của trung đoàn. Mở đầu là phần thuyết trình của Trung Tá Điều Ngọc Chuy, Trưởng Phòng 2 Sư Ðoàn 23 về tình hình chung của các khu vực có trách nhiệm đang do sư đoàn trấn giữ.

Đặc biệt trong cuộc thuyết trình này, Trung Tá Chuy có nhấn mạnh dến chi tiết về cung từ của một tù binh Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) thuộc Sư Ðoàn 320 do Trung Ðoàn 45 Bộ Binh bắt được. Tù binh này nguyên là một hạ sĩ quan truyền tin, tên là Sính, khi ra đầu thú đã khai là sĩ quan.

Thực sự quân hàm của anh ta chỉ là thượng sĩ. Có điều đặc biệt là với chức vụ truyền tin, anh ta biết khá nhiều về các kế hoạch hành quân của đơn vị anh và một số đơn vị phối hợp. Anh ta quả quyết là Mặt Trận B3 của Cộng Sản Bắc Việt sẽ tấn công thị xã Ban Mê Thuột. Kế hoạch hành quân bao gồm 4 sư đoàn Bắc Việt mà anh ta biết chắc đó là các Sư Ðoàn F10 và Sư Ðoàn 968 chính thống thuộc Mặt trận B3, Sư Ðoàn 320 và một sư đoàn khác từ Lào kéo sang không biết rõ phiên hiệu (sau này mới biết dó là Sư Ðoàn 316).

Ngoài ra, cùng tham gia trận chiến còn có một trung đoàn chiến xa, hai trung đoàn pháo binh, một trung đoàn đặc công. Thậm chí đến cả kế hoạch tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột, anh cũng phác họa ra khá chính xác, từ hướng tấn công đến các mục tiêu ưu tiên phải tấn chiếm, v.v.

Đến phần thuyết trình của tôi, tôi cũng nêu bật sự kiện điều quân hiện đang diễn ra giữa hai Sư Ðoàn 320 và Công Trường 9 Cộng Sản từ chiến trường Phước Long kéo lên. Tôi còn nhớ rất rõ nét đăm chiêu của Tổng Thống Thiệu và những chỉ thị của ông. Ông quay lại hỏi ý kiến Tướng Phú thì Tướng Phú nhận định rằng có thể Việt Cộng đưa ra một kế trá hàng nhằm đánh lạc hướng chú ý của ta.

Theo ông, Pleiku là điểm, Ban Mê Thuột chỉ là diện, bởi vì Pleiku có cơ sở đầu não là Bô Tư Lệnh Quân Ðoàn 2. Nếu địch tiêu diệt được cứ điểm này họ sẽ dễ dàng làm chủ được toàn bộ khu vực cao nguyên hoặc tỏa xuống khu vực duyên hải, nối liền với hai vùng biên giới, để tạo cho việc tiếp liệu dễ dàng từ miền Bắc. Tổng Thống Thiệu suy nghĩ trong giây lát, rồi ra lệnh cho Tướng Phú lúc đó đứng kế bên:

- Anh Phú cho toàn bộ Sư Ðoàn 23 trở về Ban Mê Thuột, tăng cường cho anh Tường một chi đoàn chiến xa M-48. Dù sao, địa thế Pleiku cũng là khu vực trống trải, bao gồm nhiều đồi thấp và trọc, có tầm quan sát rộng, bây giờ lại là mùa khô, anh có thể sử dụng tối đã phi pháo và chiến xa để đánh chiến xa và bộ binh địch, nếu họ dám đưa quân ra đương đầu với anh trên khoảng trống. Ngoài ra, tôi sẽ tăng cường cho anh thêm một liên đoàn Biệt Ðộng Quân dể làm lực lượng trừ bị.

Tướng Phú trả lời:

- Vâng, tôi sẽ thi hành theo kế hoạch của tổng thống chỉ thị.

Sau đó Tổng Thống Thiệu quay qua Tướng Lê Trung Tường và nói:

- Khi anh trở về Ban Mê Thuột, phải tổ chức ngay lại hệ thống phòng thủ vòng đai thị xã và lập kế hoạch chống xe tăng địch. Ngoài ra, anh cũng phải tổ chức các cuộc hành quân vùng sát biên giới thuộc quận Đức Lập. Để tránh các rắc rối về ngoại giao với Cam Bốt, chỉ nên tung các toán hoạt động viễn thám qua vùng biên giới mà thôi. Nếu phát hiện địch thì dùng phi pháo mà tiêu diệt.

Sau phần thuyết trình, tôi hướng dẫn phái đoàn lên tham dự bữa cơm thân mật được tổ chức ngoài trời, gồm khoảng gần 100 binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan thuộc hai đơn vị Tiểu Ðoàn 3/44 và Chi Ðoàn 2 chiến xa M-48. Trong bữa cơm, tổng thống có phàn nàn về các cuộc biểu tình đánh phá của các đoàn thể chính trị hiện dang diễn ra hàng ngày tại Saigon. Ông đặc biệt nhấn mạnh đến phong trào tố tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh đang làm suy giảm uy tín của các cấp lãnh dạo đất nước.

Tôi còn nhớ ông nói ông ao ước giá mà có được những vị linh mục chống Cộng cương quyết kiểu như cha sở khu Hải Yến và một vị cha sở nào dó ở Tây Ninh mà tôi quên tên, thì đỡ biết mấy. Sau bữa cơm, tông thống đi thăm một vòng chu vi phòng thủ, nói chuyện thân mật với các binh sĩ trong các hầm hố cá nhân. Phái đoàn lên trực thăng rời khỏi khu vực trách nhiệm của chúng tôi vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày. Hôm đó là ngày mồng một Tết Âm Lịch, nhằm ngày 1 tháng 2/1975.

CHUẨN BỊ TRỞ VỀ

Khi chiếc trực thăng chở tổng thống đi rồi, Tướng Tường, tư lệnh Sư Ðoàn còn ở lại họp cùng Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 44 để chuẩn bị kế hoạch thay quân và rút quân khỏi khu vực trách nhiệm của trung đoàn. Tưởng cũng nên nhắc lại việc phối trí lực lượng của Sư Ðoàn 23 lúc đó như sau:
# Bộ Tư lệnh Sư Ðoàn 23 Hành quân đóng ở Hàm Rồng.
# Trung Ðoàn 44 đóng tại căn cứ 801, phía tây-bắc cách Pleiku 20 km.
# Trung Ðoàn 45 hành quân khu vực đèo Tử Sĩ nằm giữa Buôn Hô và Hàm Rồng, dọc theo hai bên Quốc Lộ 14.
# Trung Ðoàn 53 có một tiểu đoàn dang hành quân vùng Đức Lập, trong vùng tiếp giáp giữa tỉnh Quảng Đức và tỉnh Darlac. Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn này và 2 tiểu đoàn còn lại đóng tại phi trường Phụng Dực, Ban Mê Thuột, là lực lượng trừ bị của sư đoàn.

Tin trở về lại Ban Mê Thuột thực ra không gây nên những phấn khởi lớn đối với các quân nhân thuộc Trung Ðoàn 44, bởi vì đã số binh sĩ của trung đoàn có gia đình và thân nhân ở Phan Thiết. Những tin này chắc chắn là nỗi vui mừng lớn cho Trung Ðoàn 45, một đơn vị thường trú từ ngày thành lập ở Ban Mê Thuột.
Các binh sĩ VNCH đang tu bổ hệ thống giao thông hào ở mặt trận trung phần cao nguyên.
(HÌNH ẢNH: Carl Mydans)



Những cuộc hành quân liên tục trong suốt thời gian từ năm 1972 đến hôm dó trên lãnh thổ các tỉnh Pleiku, Phú Bổn và Kontum đã làm cho nỗi nhớ nhà của các binh sĩ trung đoàn này thêm khắc khoải, nhất là vào thời gian này, khi cái hương vị Tết vẫn còn thoang thoảng bay.

Nhưng mãi tới ngày 17 tháng 2/75, tôi mới có lệnh về họp tại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn để nhận chi tiết kế hoạch di chuyển. Theo kế hoạch này, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn sẽ đi bằng xe từ Hàm Rồng, khi ngang qua đèo Tử Sĩ, Trung Ðoàn 45 sẽ tháp tùng theo. Trung đoàn của tôi sẽ được một Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân thay thế. Theo ước tính, liên đoàn này sẽ đến khoảng 3 ngày sau. Sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm, trung đoàn của tôi cũng sẽ tiếp tục trở về Ban Mê Thuột cùng với một chi đoàn chiến xa M-48 của Thiết Ðoàn 20.

Cuộc họp hành quân kéo dài không lâu. Khi rời phòng họp, tôi chợt nhìn thấy những sự tất bật, rộn ràng của mọi người trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh. Thấy những khuôn mặt rực rỡ niềm vui về cuộc trở về sắp tới, những câu nói đùa giỡn, những nụ cười. Tôi cũng cảm thấy lòng mình rộn ràng. Gia đình tôi với vợ và 4 cháu cũng đang ở Ban Mê Thuột. Hơn một năm rồi, tôi có ghé về thăm nhà đôi lần, mỗi lần không quá một tiếng đồng hồ. Kể từ 6 giờ sáng ngày 18 tháng 2/1975, đơn vị tôi được đặt trở lại hệ thống chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2. Cũng từ lúc ấy, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 tháo gỡ hệ thống truyền tin.

Tám giờ sáng ngày 18, đoàn xe vận chuyển đã có măt đầy đủ tại doanh trại Hàm Rồng. Công việc chất hàng khá gọn lẹ. Đến 10 giờ sáng, qua hệ thống truyền tin vô tuyến, tôi được biết đoàn xe đã sẵn sàng di chuyển.

Tướng Tường lên trực thăng chỉ huy, bay vào trung đoàn của tôi dể dặn dò các chi tiết cuối cùng trước khi lên đường, lúc dó là 10 giờ 15. Chúng tôi đang ngồi họp tại Trung Tâm Hành Quân của trung đoàn thì có điện thoại của Tướng Phú yêu cầu Tướng Tường trở về gặp ông gấp tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2. Tôi đưa Tướng Tường ra trực thăng giã từ.

Mười một giờ, đoàn xe vẫn không nhúc nhích. Ðến 11 giờ 15, Trung Tâm Hành Quân của Quân Ðoàn ra lệnh Trung Ðoàn 44 trở về hệ thống chỉ huy trực tiếp của Sư Ðoàn 23. Tôi quay điện thoại gặp Thiếu Tá Phạm Văn Cẩm, Trưởng Phòng 3 Sư Ðoàn. Tiếng Cẩm càu nhàu, “Lệnh di chuyển hủy bỏ rồi, niên trưởng ơi! Ai trở về nhà nấy, làm ăn như thường lệ.” Bất giác tôi buông một câu chửi thề và tự hỏi: Thế là thế nào?

Mười hai giờ trưa, Tướng Tường gọi điện thoại cho tôi biết, Tướng Phú giữ nguyên lập luận của mình, cho rằng Pleiku là điểm, Ban Mê Thuột chỉ là diện. Sự tái phối trí lực lượng do vậy là không cần thiết.

Nói cho ngay, mỗi vị tư lệnh có những phán đoán riêng tư của mình. Khi có được những dữ kiện tình báo chính xác, vị chỉ huy có thể đề ra những đối pháp khẳng định không do dự. Ở đây, những tin tức thu lượm được giá trị không cao bao nhiêu, nếu như không muốn nói là còn cần phải kiểm tra và phối kiểm từ nhiều nguồn khác nhau, nên vấn đề xây dựng các quyết định lại càng khó khăn hơn.

Lại nữa, Tướng Phú mới tới nhậm chức chưa bao lâu, thời gian chưa đủ để ông có thể cảm nhận tình hình một cách sắc bén hơn. Nếu cho tôi quyền nhận xét, tôi thấy Tướng Toàn có nhiều quyền biến hơn. Về phương diện thuần túy quân sự, Tướng Toàn đảm lược, cơ mưu và có những quyết định táo bạo hơn. Tôi vẫn tin là nếu Tướng Toàn còn ở lại chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, những chỉ thị của Tổng Thống Thiệu sẽ được thực thi một cách đúng đắn.

Dĩ nhiên trận đánh Ban Mê Thuột sẽ vẫn xảy ra, nhưng trận Ban Mê Thuột không phải là trận dánh bất ngờ như Tướng Hoàng Minh Thảo đã tưởng tượng, những hoảng loạn sẽ không xảy ra, và biết đâu, kế hoạch rút quân tự sát theo liên tỉnh lộ 7 sẽ không còn cần thiết nữa?

MỘT CHUYẾN ÐI TUYỆT VỌNG

Bốn giờ sáng ngày 10 tháng 3/1975 trận đánh Ban Mê Thuột mở màn. Thiếu Tá Cẩm điện thoại cho tôi biết ngay sau dó. Không bao lâu, mọi đường dây liên lạc với Ban Mê Thuột không còn. Nửa đêm về sáng, trên Cao Nguyên thời tiết thường se lạnh, sương trắng bao phủ đầy trời. Tôi ngồi trong hầm chỉ huy, chăm chú nhìn các chi tiết địch tình ghi trên bản đồ. Chú em cận vệ bưng ra một ly cà phê. Ban Mê Thuột sẽ mất, tôi tự nghĩ như thế. Điều suy nghĩ này bắt nguồn từ những dữ kiện tôi có được sau hơn một năm làm trưởng phòng 3 Sư Ðoàn 23, mà tỉnh Darlac nằm trong lãnh thổ kiểm soát và hành quân của sư đoàn.

Những đơn vị Địa Phương Quân hầu như đa số là người Thượng, khả năng tác chiến rất kém vì thiếu huấn luyện. Họ được trang bị thô sơ và có ý thức kỷ luật quân đội rất kém. Về địa thế, Ban Mê Thuột khác hẳn Kontum. Ban Mê Thuột không có những chướng ngại thiên nhiên để dựa vào, hạn chế bớt khả năng xâm nhập của chiến xa hoặc bộ binh địch. Ngoài ra, với hàng trăm đồn điền cà phê tươi tốt, địch có che dấu, ngụy trang cho cả quân đoàn của họ một cách an toàn. Rõ ràng nơi dây là nơi lý tưởng cho các cuộc tiến quân áp sát của địch.

Với một lãnh thổ rộng hơn tỉnh Kontum rất nhiều, lại do các đồn bót của Địa Phương Quân nằm rải rác trấn giữ, quân số thực tế của các đơn vị này luôn thấp hơn nhiều so với tên trên số lương. Ban Mê Thuột trở thành một căn cứ không còn vòng đai phòng thủ theo đúng nghĩa quân sự. Thành ra, việc thất thủ Ban Mê Thuột không phải là điều đáng hãnh diện như những lời tự khoe khoang của các tướng lãnh Việt Cộng qua các hồi ký của họ.

Sự chờ đợi bao giờ cũng làm thời gian trôi chậm lại. Mãi gần 7 giờ sáng mặt trời mới thật sự xua tan được mây mù. Tôi gọi điện thoại cho Thiếu Tá Cẩm để tìm hiểu thêm tình hình. Chẳng có gì khả quan hơn. Cẩm nói với tôi phải chờ thời tiết khá hơn rồi sẽ cùng Tướng Lê Trung Tường bay lên quan sát tình hình. Gần 9 giờ sáng, chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Tường mới cất cánh được. Hình như tôi đã uống tới ly cà phê thứ 3 hay thứ 4 gì đó.

Suốt ngày hôm dó, trực thăng chỉ huy của Tướng Tường bay trên vùng trời Ban Mê Thuột. Mãi tới 7 giờ tối tôi mới nói chuyện được với Thiếu Tá Cẩm qua điện thoại. Tiếng Cẩm xúc động, “Ban Mê Thuột bị tràn ngập rồi, không còn liên lạc được gì với Đại Tá Quang, tư lệnh phó nữa. Tướng Tường đang ở Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, họp bàn về lệnh lập kế hoạch giải tỏa.”

Ngay trong thời điểm ấy, tôi không tin là có thể làm gì hơn cho kế hoạch này. Nguyên tắc quân sự cơ bản: “Phòng thủ 1 chống 3, tấn công 3 chọi 1.” Vậy cứ cho là đang có 2 sư đoàn địch chiếm cứ trận địa, làm sao kiếm ra tối thiểu 5 sư đoàn để tái chiếm? Ưu thế hỏa lực không còn, các đơn vị tổng trừ bị hầu như bị cầm chân gần hết tại chiến trường hỏa tuyến, lực lượng nào dể tiếp cứu đây?

Sáng ngày 11, tôi được trực thăng đón ra Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn họp hành quân. Kế hoạch hành quân do Thiếu Tá Cẩm, Trưởng Phòng 3 Sư Ðoàn trình bày gồm hai giai đoạn: Thứ nhất, ngày 12, Trung Ðoàn 45 được trực thăng bốc đi từ đèo Tử Sĩ, đổ xuống Quận Phước An, di chuyển về thị xã từ hướng Ðông, đến chạm tuyến chờ lệnh. Thứ nhì, buổi sáng cùng ngày, Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân được không vận từ Saigon sẽ đến thay thế Trung Ðoàn 44 ra tập trung tại căn cứ Hàm Rồng và sẵn sàng di chuyển về Ban Mê Thuột bằng trực thăng. Sáng ngày 13, Trung Ðoàn 44 sẽ được không vận xuống Phước An, lần theo Quốc Lộ 21, song song với Trung Ðoàn 45, tiến vào thị xã.

Họp hành xong, tôi trở về ngay căn cứ 801 để chờ đơn vị bạn. Mai tới gần 3 giờ chiều, đoàn xe chở Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân mới tới nơi. Người bước vào căn cứ đầu tiên là Đại Tá Nguyễn Kim Tây. Cuộc bàn giao vị trí cũng kéo dài tới gần 5 giờ chiều mới hoàn tất. Trung Ðoàn 44 lên xe trực chỉ hướng Hà Rồng.

Trung Ðoàn 44 sẵn sàng tại bãi đáp lúc 7 giờ sáng ngày 13 tháng 3/1975. Số lượng trực thăng dự trù dể di chuyển toàn bộ trung đoàn gồm khoảng 50 chiếc đủ loại, trong đó có 8 chiếc Chinook, 30 chiếc Huey và phần còn lại là trực thăng vũ trang. Kế hoạch dự trù di chuyển làm 2 đợt. Đợt đầu gồm Tiểu Ðoàn 3/44 của Đại Úy Trần Hữu Lưu, Đại Ðội 44 Trinh Sát của Đại Úy Mạnh, và Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 44. Quân số tổng cộng khoảng gần 600 người. Đợt thứ nhì gồm hai Tiểu Ðoàn 1/44 của Thiếu Tá Nguyễn Xuân Hoè và Tiểu Ðoàn 2/44 của Đại Úy Nguyễn Văn Pho, Bộ Chỉ Huy nhẹ do Trung Tá Vũ Mạnh Cường, Trung Ðoàn phó chỉ huy.

Chuyến không vận đầu tiên cất cánh lúc 9 giờ, đáp xuống khu vực rừng trống trước cửa Chi Khu Phước An lúc 10 giờ 15. Tôi vào găp Tướng Lê Trung Tường tại Bộ Chỉ Huy Khu nhận lệnh. Tôi ra lệnh cho Đại úy Lưu đưa tiểu đoàn đi theo hướng Bắc của Quốc Lộ 21 tiến lên ngang tuyến của Trung Ðoàn 45 thì dừng lại chờ đợi. Đại Ðội 44 Trinh Sát được giữ lại để bảo vệ Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn. Đoàn trực thăng cất cánh trở lại Hàm Rồng để chở tiếp đợt còn lại.

Đến 2 giờ chiều, vẫn không có tin tức gì của đợt không vận thứ hai. Tôi trở vào Chi khu, nơi Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn đang tạm dặt tại dây, để hỏi tin tức. Trung Tâm Hành Quân của Sư Ðoàn cũng chẳng biết gì hơn. Bốn giờ chiều, Trung Tâm Hành Quân của sư đoàn cho biết cuộc không vận bị hủy bỏ, số trực thăng ấy đã được sử dụng để chuyên chở các nhân viên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn trở về Nha Trang. Hai tiểu đoàn của tôi sẽ nhận lệnh trực tiếp của Quân Ðoàn.

Sau này tôi mới được biết hai tiểu đoàn còn lại của tôi đã đi theo đoàn quân triệt thoái theo Liên Tỉnh Lộ 7 và bị tan rã hoàn toàn. Trung Tá Trung Ðoàn phó Vũ Mạnh Cường bị bắt làm tù binh, sau này bị đem về nhốt và chết cháy trong conex tại trại giam Hàm Tân. Đại Úy Pho, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2/44, đã tự sát trước khi bị bắt.

Ngày 14 tháng 3/1975, chúng tôi kiểm điểm lại và thấy như sau: Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân sau khi vào được thị xã Ban Mê Thuột, tiến đến khu vực phi trường L19 trong thị xã, đã bị dánh bật ra ngoài vòng đai, hiện đang bị vây hãm tại Đạt Lu. Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 45 và Tiểu Ðoàn 3/44 đang bị cầm chân ngoài vòng đai thị xã. Lực lượng pháo binh yểm trợ trực tiếp (và duy nhất) là trung đội pháo binh diện địa đang đặt tại Chi khu Phước An chỉ có 2 khẩu đại bác 105 ly. Lực lượng không quân yểm trợ, đánh phá các căn cứ tập trung của địch, trong và ngoài vòng đai thị xã đang bị khốn đốn vì hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay SA-7 của quân Bắc Việt, lần dầu tiên được sử dụng rộng rãi trên chiến trường Tây Nguyên.

Buổi sáng ngày 14 tháng 3/1975, trong chuyến bay từ Khánh Dương lên Phước An, trực thăng của Tướng Lê Trung Tường bị trúng đạn phòng không 12.7 ly của Cộng Sản. Tướng Tường và viên phi công bị thương nhẹ, phải vào bệnh viện Nha Trang điều trị.

Sáng ngày 15 tháng 3/1975, Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 45 và tôi, được tin sư đoàn có vị tư lệnh mới, đó là Đại Tá Lê Hữu Đức. Cùng ngày, Đại Tá Đức ra lệnh hai chúng tôi cho đơn vị di chuyển lui về hướng đồi Chư Cúc lập tuyến phòng thủ tại đây. Năm giờ chiều cùng ngày, trong khi chờ đợi trực thăng của vị tân tư lệnh đáp xuống đỉnh đồi Chư Cúc dể họp thì đoàn chiến xa Bắc Việt tràn tới dưới chân đồi.

Tiếng Đại Úy Mạnh, Đại Ðội Trưởng Đại Ðội 44 Trinh Sát, reo lên trong máy, “Báo cáo Bá Hòa, chúng tôi đã thiêu sống một con cua.” Những tiếng súng nỗ ròn ra cách xa hướng chân đồi non cây số, quện trong khói đen và trắng của chiếc thiết giáp địch bốc cháy thực sự không còn gây cho tôi một ấn tượng hứng khởi nào nữa. Tiếng Đại Tá tân tư lệnh nói trong máy cho biết không thể đáp xuống được và yêu cầu Đại Tá Quang cùng tôi phối hợp phòng thủ chờ lệnh. Tôi còn nhớ hình như Đại Tá Quang có buông một tiếng chửi thề và leo lên xe Jeep chạy nhanh xuống chân đồi trở về đơn vị.
Hình chụp từ trên cao nhìn xuống Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 của Việt Nam Cộng Hòa tại Pleiku [1]. (HÌNH ẢNH: Mike Loughran)



Tôi và Đại Úy Phan Công Minh, sĩ quan hành quân của trung đoàn, lặng lẽ đi bộ theo sau. Vừa ra khỏi khúc quanh trên đỉnh đồi, chúng tôi nghe tiếng xích sắt của xe thiết giáp địch xình xịt bên tai. Cả hai anh em không có chọn lựa nào khác là chui qua vòng rào kẽm gai giăng quanh căn cứ, trượt theo sườn giốc xuống chân đồi, nơi có cắm đầy những tấm bảng gỗ ngổn ngang, trên có hàng chữ: “Khu tử địa, cấm vào.”

Dưới chân dồi là môt lạch nước nhỏ, hai bên có trồng chuối. Tôi và Minh ngồi im lặng dưới tầu lá chuối, ngâm chân vào giòng nước lạnh. Trong suốt 15 năm quân ngũ, chưa bao giờ tôi thấy tuyệt vọng như thế, kể cả khi còn là môt Đại Úy Tiểu Ðoàn Phó Tiểu Ðoàn 2/11 ở Sư Ðoàn 7, khi bị vây hãm 3 ngày 2 đêm ở khu vực bến xe Mỹ Tho, đơn vị chỉ gồm hơn 50 người, trong đó có tới hơn phân nửa là chết và bị thương, đạn dược cạn kiệt và đói khát. Lúc dó, tôi vẫn thấy địch sẽ thất bại và chúng tôi sẽ được giải cứu. Bây giờ đây thì không. Tôi không nhìn thấy một cơ may nào để có thể giải cứu Ban Mê Thuột. Ngày 16 tháng 3/75 tôi và Minh tìm lại được đơn vị, được trực thăng bốc về Khánh Dương.

MỘT VÀI CẢM NGHĨ VỀ KẾ HOẠCH TÁI CHIẾM

Tôi được lệnh đưa đơn vị trở về Vũng Tàu qua điện thoại từ Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu. Khi đơn vị gom lại được tại Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, Vũng Tàu, tổn thất nhân mạng hầu như không bao nhiêu, nhưng số binh sĩ bỏ ngũ thì khá nhiều. Phần lớn số binh sĩ này là người sinh trưởng tại các tỉnh duyên hải, thành ra lợi dụng trong lúc di chuyển bằng đủ mọi thứ phương tiện, họ đã đi theo đoàn người di tản để trở về gia đình. Cuộc chiến tranh nhập nhằng đã vắt kiệt sức chịu đựng của người lính chiến Việt Nam.

Kể từ ngày Việt Cộng rêu rao cái gọi là chiến dịch Đồng Khởi năm 1960 tại Bến Tre cho dến năm 1975, trong 15 năm ấy những ngươi lính Việt Nam có giờ phút nào được hưởng giây phút tạm gọi là thanh bình? Cuộc chiến không có hậu phương, ngay cả trong thời gian nghỉ phép ngắn ngủi, họ cũng vẫn có thể bị bắt cóc trên các chuyến xe để trở về nhà, hoặc trúng mìn trên đường di chuyển từ tiền phương trở về hậu cứ lấy giấy phép, và sau cùng, họ cũng vẫn có thể trúng đạn pháo kích khi đang ngủ trên giường cùng vợ con! Cái chết như là điều gì rất thường trực, lúc nào cũng có thể xuất hiện và mang họ đi, thậm chí mang luôn cả thân nhân ruột thịt của chính họ.

Trong khi ngoài chiến trường xương rơi, máu đổ thì nhìn về phía sau lưng, những trò chính trị nhố nhăng cùng một số chính khách hoạt đầu, tứ thời sống bằng cái miệng hò hét hoan hô đả đảo, bôi nhọ, tranh chấp nhau, những luận điệu phản chiến vô trách nhiệm. Rồi bà nọ ông kia mua quan bán chức, sống phè phỡn trên nỗi thống khổ và sự hy sinh vô bờ bến của những người cầm súng.

Giờ đây, trên radio, trên báo chí, trên những tin tức tác động tâm lý của địch, họ đã thấy gì? Họ thấy sự đổ vỡ của các mặt giới tuyến, thấy sự rút chạy (mà phát ngôn viên quân sự đặt cho nó một cái tên mới là “di tản chiến thuật”) tán loạn từ khắp mọi nơi. Trong tình thế như vậy mà đòi hỏi nơi binh sĩ một tinh thần vì nước quên mình, có lẽ chỉ những cấp chỉ huy có đầu óc hài hước cỡ Charlot mới dám làm.

Những ngày trong lao tù Cộng Sản, tôi có dịp gặp hầu hết những cấp chỉ huy có liên hệ ít nhiều tới chiến trường Tây Nguyên năm 1975, như Đại Tá Vũ Thế Quang (Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 23 Bộ Binh), Đại Tá Phùng Văn Quang (Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 45), Đại Tá Võ Ân (Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 53), Trung Tá Lê Quí Dậu (Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân), Đại Úy Xuân (Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Darlac). Qua các câu chuyện trao dổi, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai tin tưởng vào một cơ quan có thể tái chiếm Ban Mê Thuột với những kế hoạch đã được đưa ra thi hành vào lúc ấy.

Ngô Văn Xuân

HẾT

» [1] NGUYÊN LẬP GHI CHÚ: Một đọc giả cho biết đây có thể là Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 của Quân Lực VNCH tại Pleiku. Quý vị nào biết rõ, hay nhận dạng được hai building trong tấm hình trên, xin vui lòng cho biết.

Posted by: Tulip Dec 22 2009, 08:40 PM






Dân tộc Gia Lai

Tên gọi khác
Giơ-rai, Chơ rai, Tơ Buăn, Hơbau, Hdrung, Chor

Nhóm ngôn ngữ
Malayô - Pôlinêxia

Dân số
240.000 người.

Cư trú
Cư trú tập trung ở tỉnh Gia Lai, một bộ phận ở tỉnh Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đắc Lắc.

Đặc điểm kinh tế
Người Gia Rai sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt nương rẫy, lúa tẻ là cây lương thực chính. Công cụ canh tác của người Gia Rai giản đơn, chủ yếu là con dao chặt cây, phát rừng, cái cuốc xới đất và cây gậy chọc lỗ khi tra hạt giống. Chăn nuôi trâu, bò, lợn, chó, gà phát triển. Xưa kia, người Gia Rai có đàn ngựa khá đông. Người Gia Rai còn nuôi cả voi. Đàn ông thạo đan lát các loại gùi, giỏ, đàn bà giỏi dệt khố váy, mền đắp, vải may áo cho gia đình. Săn bắn, hái lượm, đánh cá là những hoạt động kinh tế phụ khác có ý nghĩa đáng kể đối với đời sống của họ xưa và nay.

Tổ chức cộng đồng
Người Gia Rai sống thành từng làng (plơi hay bôn). Trong làng ông trưởng làng cùng các bô lão có uy tín lớn và giữ vai trò điều hành mọi sinh hoạt tập thể, ai nấy đều nghe và làm theo. Mỗi làng có nhà rông cao vút.

Hôn nhân gia đình
Dân tộc Gia Rai theo truyền thống mẫu hệ, phụ nữ tự do lựa chọn người yêu và chủ động việc hôn nhân. Sau lễ cưới, chàng trai về ở nhà vợ, không được thừa kế tài sản. Trái lại, con gái lấy chồng lần lượt tách khỏi cha mẹ ra ở riêng, được phân chia một phần tài sản. Con cái đều theo họ mẹ. Ngoài xã hội, đàn ông đóng vai trò quan trọng hơn, nhưng trong nhà phụ nữ có ưu thế hơn. Ngày xưa, có tục những người cùng dòng họ (theo phía mẹ), khi chết chôn chung một hố, nay tục này đã giảm.

Văn hóa
Nói đến dân tộc Gia Rai phải kể đến những trường ca, truyện cổ nổi tiếng như "Đăm Di đi săn", "Xinh Nhã"... Dân tộc Gia Rai cũng độc đáo trong nghệ thuật chơi chiêng, cồng, cạnh đó là đàn Trưng, đàn Tưng-nưng, đàm Krông-pút. Những nhạc cụ truyền thống này gắn liền với đời sống tinh thần của đồng bào. Người Gia Rai hầu như hát múa từ tuổi nhi đồng cho đến khi già yếu, không còn đủ sức nữa, mới chịu đứng ngoài những cuộc nhảy múa nhân dịp lễ hội tổ chức trong làng hay trong gia đình.

Nhà cửa
Có nơi ở nhà dài, có nơi làm nhà nhỏ, nhưng đều chung tập quán ở nhà sàn, đều theo truyền thống mở cửa chính nhìn về hướng Bắc

Trang phục
Có nét riêng trong phong cách tạo hình và trang trí. Mặc dù hoa văn trang trí cụ thể các nhóm khác nhau nhưng có thông số chung của tộc người.

+ Trang phục nam
Thường nhật, nam đội khăn, theo lối quấn nhiều vòng trên đầu rồi buông sang một bên tai, hoặc quấn gọn ghẽ như khăn xếp của người Kinh. Khăn màu chàm. Nhìn chung nam giới Gia Rai đóng khố. Khố này thường ngắn hơn khố ngày hội, là loại vải trắng có kẻ sọc. Ngày lễ họ mang khố màu chàm (dài 410 cm x 29 cm), khố loại này được trang trí hoa văn màu trắng, đỏ thành các đường viền ở mép khố, đặc biệt hai đầu với các tua trên nền chàm. Có nhóm ở trần, có nhóm mang áo (loại cộc tay và loại dài tay màu chàm, khoét cổ chui đầu). Loại ngắn tay thường có đường viền chỉ màu trắng bên sườn. Loại dài tay giống phong cách áo dài nam Ê-đê hay Mnông.

+ Trang phục nữ
Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy hoặc quấn gọn trên đỉnh đầu. Aáo là loại áo ngắn, chui đầu, phổ biến là kiểu chui đầu cổ "hình thuyền", riêng nhóm Gia Rai Mthur lại có kiểu cổ thấp hình chữ V và các loại cổ phổ biến. Trên nền chàm áo được trang trí các sọc hoa văn theo bố cục ngang thân áo ở cổ, vai, ống tay, giữa ngực, gấu áo và hai cổ tay áo. Đó là các sọc màu đỏ xen trắng và vàng trên nền chàm hoặc màu xanh nhạt diệp và màu chàm. Váy là loại váy hở quấn vào thân (kích thước trên dưới 140 cm x 100 cm). Phong cách trang trí trên váy cũng thiên về lối bố cục ngang với các đường sọc màu (như áo là chính). Có nhóm ở Plây-cu với nguyên tắc trên nhưng được mở rộng thành các mảng hoa văn ở giữa thân váy, nửa thân dưới áo và hai ống tay. Trang sức có vòng cổ, vòng tay.

Posted by: caoduy Jan 12 2010, 08:32 PM




Pleiku - Đà Lạt


Còn khoảng hơn tháng là Tết lại về, nhiều nhà khá giả trong thành phố đã chuẩn bị sơn nhà, dọn dẹp trước sau, chuẩn bị những chậu kiểng, tiả cành, bón thêm phân cho mấy cây bông Thược Dược. Mấy chậu Cúc bắt đầu trổ nụ nho nhỏ. Nhà nào cũng có vài chậu. Chăm sóc cây kiểng cũng có nhiều thú. Mỗi buổi sáng, những cụ già tay cầm tách trà nóng, tay khẩy nhẹ vào cành bông, ngắt chiếc lá chưa kịp vàng, như sợ lây sang những lá khác. Dân chúng đếm từng ngày, mong tới tết. Những tiệm buôn, chuẩn bị mua thêm hàng. Xe đi Qui Nhơn tăng thêm chuyến, xe từ Sài Gòn chạy thẳng lên Plei Ku. Không khí nhộn nhịp, mọi người quên hẳn tin tức từ giới Quân Sự, chiến trận có thể xảy ra ngay trong thành phố. Họ nghe quen những tin này, chẳng ai thèm để ý. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, lúc nào cũng thấy lính, đủ mọi Binh Chủng, nhiều nhất vẫn là Biệt Động Quân. Họ nhìn bảng xanh, đỏ, tím, biết ngay là tiểu đoàn nào. Bảng Xanh, 22, bảng đỏ,11, bảng tím 23. Thiết Giáp, Lữ Đoàn 2, cũng là cơ hữu.

Thật sự, ba tiểu đoàn bđq thay phiên hành quân vòng đai hơn hai tháng, hết Hàm Rồng, Thanh An, An Khê, lại Quốc Lộ 14, 19, Mang Giang. Tin tức Việt Cộng điều quân khắp nơi, từ Tân Cảnh, Dakto, An lão, Ban mê Thuột, Đèo Mang Giang, xuống tận Qui Nhơn, dọc theo hướng Bắc, Phù Củ, Bồng Sơn ,Tam Quan, mật khu An Lão, chạy thẳng lên Kontum. Họp hành quân, nghe phòng Hai thuyết trình trận điạ, phòng Ba, kế hoạch hành quân, nếu Việt Cộng tấn công vào Pleiku. Chủ lực chống đỡ Pleiku vẫn là BĐQ và Thiết Giáp và các tiểu đoàn Điạ phương Quân. Plei Ku luôn có Sư Đoàn Hai Không Quân, nằm ngay cạnh Quân Đoàn, và phi trường, nhiều phi cơ chiến đấu lên xuống dễ dàng. Nếu cần, phi trường Holloway cuả Mỹ sẵn sàng lâm chiến. Xa hơn nữa, Nha Trang, hơn nưả giờ bay, với nhiều phi cơ chiến đấu cuả Quân Lực VNCH. Tất cả chỉ chờ lệnh Quân Đoàn, tổng hành dinh ngay tại Pleiku.Tất cả những đường tiến sát vào thành phố đều có xe M113 án ngữ.

Càng gần Tết, tiểu đoàn tôi càng về gần thành phố. Chỉ còn vài ngày nưã là Tết. Tiểu đoàn 11, ứng chiến Plei Ku. Thật ra chỉ đại đội 4, do Lạn, cùng khoá tôi làm Đại Đội Trưởng, ứng chiến Tiểu Khu, nằm ngay trong phố, phòng thủ kho đạn. Ba đại đội, và đại đội chỉ huy ở Biển Hồ, ứng chiến tại chỗ. Hai đơn vị đạn, năm ngày ăn, khi có lệnh, tâp họp trong vòng nưả giờ là di chuyển. Tiểu đoàn có sẵn đoàn quân xa cùng ứng chiến. Không khí tuy khẩn trương nhưng đám Sĩ Quan trẻ tụi tôi cũng đi tứ tán. Nếu có tin gì, tiểu đoàn thể nào cũng cho xe chở về Biển Hồ, đón xe ngay tại bến xe lam, gần nhà thờ Pleiku.



Hơn ba năm tham chiến, đi cũng nhiều nơi, nhưng khi Tết về, tôi thâý nhớ nhà. Nhớ ngày còn đi học, nhớ khi còn nhỏ, tôi luôn đi quanh hàng xóm, kiếm tiền lì xì. Má tôi mua cho con heo đựng tiền. Tôi muốn mua cái mũ nồi, mấy năm chưa mua được. Tiền bỏ heo chưa được nửa ngày lại moi ra cho vào đám bầu, cua , tôm , cá. Có lẽ vì vậy, khi vào lính, tôi chọn BĐQ. Quanh năm suốt tháng, chiếc mũ nồi ước mơ thuở nhỏ ở trên đầu. Giờ này, hằng năm, ba tôi gói bánh chưng. Ba tôi gói rất vuông và đẹp, sau đó, luộc bánh. Cái thú canh nồi bánh chưng, ba tôi luôn để tôi coi bánh ban ngày. Về đêm, ba tôi canh lửa, châm nước, lưả đều, bánh mới dền. Tôi thích nhất chiếc bánh nậm, chiếc bánh gói cuối cùng, khi thịt nhiều, khi đậu nhiều, khi thì gạo chiếm hết nưả. Lúc nào bánh nậm cũng ngon, vì cả năm mới ăn lại bánh chưng Tết.

Tiểu đoàn ở Biển Hồ, gia đình binh sĩ nhộn nhịp đón Xuân. Mấy khi vợ chồng, con cái đoàn tụ cạnh nồi bánh chưng, xoong thịt gà kho, hũ dưa hành, củ kiệu, vài lít rượu ngon, con có bộ quần áo mới. Tất cả chỉ chờ Giao Thưà, và Tết đến.

Tôi lái xe jeep, ra phố, uống cà phê, chơi Billard, mua tờ báo, rồi về. Làm ban ba tiểu đoàn, tối đến tôi ngủ tại hậu cứ. Thiếu Tá Huân, nhà tại phố nên cũng tới lui. Phần canh gác, thường vụ tiểu đoàn sắp xếp. Từ hậu cứ đi hơn sáu trăm thước là tới khu gia binh. Mọi người đều vui, chờ Xuân mới.
***
Khoảng 10 giờ sáng ngày 30, năm Mậu Thân, vưà ra khỏi quán cà phê, Tôi tính lái một vòng coi chợ Tết rồi về Biển Hồ. Tay cầm chiếc chià khoá, tôi chợt khựng lại. Một cô gái tóc ngang vai, áo sơ mi màu, chễm chệ ngồi trên xe, chiếc xe của tôi không thể lầm được. Nhưng một thoáng thôi, tôi nhận ra Phượng. Cô ta đang soi chiếc gương chiếu hậu, lấy tay sửa lọn tóc, cũng vừa nhận ra tôi. Tôi làm bộ hỏi:
- Sao em dám ngồi lên xe, không sợ lộn xe ư.

Phượng cười :
- Làm sao lộn đuợc, số 117989, xe của anh chứ của ai nữa. Mà có nhầm xe, em cười trừ là xong ngay.
- Em đi đâu giờ này, anh tưởng em về Saigon ăn tết rồì chứ!
- Em ở lại ăn tết với anh. Phượng cười thật tươi.
- Em có nói lộn không, nói lại đi.
- Thật mà, em tìm anh hai ba buổi rồi. Em vòng mấy quán cà phê anh hay tới, không gặp. Thấy ai mang bảng đỏ, em đều hỏi, họ nói giỡn, anh về Dalat cưới vợ rồi. Họ nghĩ em và anh chắc thân nhau lắm.
- Thân quá đi chứ. Tôi tỉnh bơ .
- Không dám đâu. Cách đây một bữa, thấy xe anh, em ghé vào tiệm bánh. Tiệm đông, phải chờ. Khi ra khỏi tiệm, anh đi mất tiêu, tức muốn chết. Hôm nay, em chờ bằng cách này chắc ăn nhất. Bây giờ anh đi đâu? Phượng hỏi.
- Anh tính lái một vòng rồi về hậu cứ. Giao thưà ở tại trại.
- Anh chở giùm em lên chợ mới một chút, rồi em nói chuyện này cho nghe.

Tôi và Phượng quen nhau gần môt năm. Tôi nhớ, một lần lái xe lên Phượng Hoàng, thấy Phượng vừa đi vưà nhìn như muốn tìm xe quá giang. Tay Phượng xách một giỏ thật nặng, tay trái còn lủng lẳng chiếc thau nhôm, thấy tôi, Phượng gọi to: "anh Lương, cho em đi nhờ một chút". Một thoáng ngạc nhiên, tôi dừng xe. Phượng biết tôi muốn hỏi làm sao Phượng biết tên tôi, liến thoắng một hơi:
- "Em thấy anh nhiều lần ở Phượng Hoàng. Em nhớ nhất, đêm 19 tháng 6, anh ngồi một bàn BĐQ. Có con Kim, thêm hai cô ở ngoài, có vẻ nữ sinh, thật đẹp. Em ngạc nhiên nhất vì một cô, giọng Bắc, lên ca bài "Bây giờ tháng mấy", để riêng tặng anh Lương và các anh BĐQ. Cô ta ca thật hay. Bữa đó, em đang ngồi bàn danh dự với Đại Tá Tự."
- "Ông ta lại biết anh", tôi nói, "Đại Tá Tự là anh rể của bạn anh tên Trần Dân Chủ "(Chủ sau này bị bắt làm tù binh, hay tử trận, tôi không gặp, khi trở lại Pleiku năm 1974).
- Em tò mò, hỏi anh Tự, "anh chỉ anh Lương cho em". Anh Tự vưà chỉ vưà nói: "thằng Trung úy, đồ rằn đang ngồi nghe cô bé ca đó". Em hỏi anh biết cô đó tên gì không, anh chịu. Đêm đó , em hỏi Kim, Kim nói hình như tên Mậu. "Mày thấy nó đẹp không, đẹp, ăn nói có duyên và vui nữa."

Tôi dừng xe ngay sát cổng Phượng Hoàng. Phượng cám ơn rồi xuống xe, nhưng chợt khựng lại, hỏi tôi:
- Anh có bận không, em muốn mời anh đi uống Cà Phê.

Tôi vui vẻ gật đầu.
- Vậy anh chờ em chút, em cất mấy thứ này.

Tôi dặn với, 5 phút thôi nghe, anh không chờ lâu đâu. Thật đúng 5 phút, Phượng chạy ra, một chiếc áo sơ mi mới, cổ áo may thật khéo, chiếc quần Jean ka ki trắng vưà vặn. Phượng thật xinh. Phượng lên xe,
- Anh làm em không kịp thở, anh không gallant chút nào, nhưng em thích vậy, đàn ông phải có cá tính chứ.
_ Thôi để nhận lỗi, anh mời em cà phê vậy - Tôi cười.
- Không , chỉ nhờ anh chở tới quán nào anh thích là được.
- Vây mình đi quán Văn trên chợ mới nghe.

Vừa lái, vừa hỏi,
- Quê em ở đâu?
- Em ở Sài Gòn. Đường Trần Quí Cáp, hướng đường xe lửa hay rạp Nam Quang, anh rành vậy.
- Anh ở đó mà. Em thử hỏi chỗ nào , anh trả lời cho.
- Thật nghe, anh biết quán cơm tấm gần chợ Đũi không?
- Gần xe chè và xe nước mía, chợ Đũi trên đường Lê văn Duyệt chứ. Tôi vặn lại,

Phượng cười thật to. Tới quán Văn, tôi và Phượng chọn chiếc bàn nhỏ, ngay góc nhà.
- Anh uống gì? Cà phê sữa nóng. Còn em, cho em ly chanh Rhum, em uống Rhum Deoda nghe.
- Em làm lâu chưa? Tôi hỏi Phượng.
- Được 4 tháng rồi, sao anh không biết.
- Trời làm sao anh biết được. Mà biết làm gì chứ.
- Nói vậy thôi, em thấy anh mấy lần rồi. Một lần anh nhẩy với con Thanh. Một lần anh nhẩy với cô nào đẹp lắm, không phải bọn em.

Tôi biết Mậu, nhưng làm bộ nói,
- Nhẩy với Thanh thì có. Đâu có ai nưã mà đẹp.
- Anh nói dối, Nhưng thôi, không phải chuyện em.

Ly cà phê và ly chanh rhum mang ra. Phượng khuấy ly cà phê của tôi, vưà hỏi,
- Sao anh đi lính dữ vậy?
- Lính nào hiền. Tôi làm bộ ngơ ngác.
- Lính bộ binh hiền, lính bđq dữ. Anh hiền hay dữ, ai biết. Phượng đanh đá trả lời.

Câu chuyện cứ dần dà thêm chi tiết. Phương kể,
- Em học Hưng Đạo, thi tú tài rớt, gặp con bạn ở Pleiku về, rủ lên đây. Em mới tập thêm, con bạn em dậy. Em không thích công việc này lắm, chừng vài năm, em về Saigon lại. Em nói dối má em, đứng bán tiệm cho gia đinh ngườì quen.

Phượng có vẻ tin tôi nên nhiều khi không dấu diếm.
- Anh biết không, nếu đông khách, hàng tuần cũng khá lắm. Em để dành, mở trương mục tiết kiệm, em không xài nhiều đâu.

Tôi biết nhiều về mấy vũ nữ. Nhiều cô xài không đếm, tới khi Phượng Hoàng cấm quân là đói dài dài. Trung úy Quảng, quản lý Phượng Hoàng là bạn tôi, nên tôi ra vào hội quán thường xuyên. Các cô ở ngay sau toà nhà lớn, tôi biết mặt và quen gần hết. Tổng cộng hơn 10 cô, đa số đều trẻ, trang lưá tôi. Có chị Hà lớn , làm tài pán, biết tôi khi mới ra trường. Phượng hỏi tôi có bồ chưa.
- Anh có hỏi em có bồ đâu mà em hỏi anh. Tôi trả lời.
- Tại anh không hỏi.
-Vậy em có bồ chưa?
-Có rồi. Hai người, chủ tiệm vàng, và một ông lính.
- Lính gì?
- Bđq.

Tôi biết Phượng nói gì, nhưng tảng lờ im lặng.
- Anh có đi nhẩy nhiều không?
- Tiền đâu mà đi nhiều.
- Em thích câu trả lời cuả anh, nhiêù ông trả lời loanh quanh. Anh cứ tới sớm, em ra ngồi nói chuyện với anh, khi nào em có khách thì anh về. Anh biết không, nhiều bữa em ngôì cả giờ. Em có ông thương gia khá lắm, nhiều khi ngồi có hai giờ, ông ta trả em luôn 15 ticket. Buồn cười ghê anh, ông ta cứ đòi em làm bé. Ông ta cho tiền tháng, và mua nhà cho em nưã.
- Em trả lời ông ta ra sao?
- Em nói làm lớn thôi, không làm nhỏ ai hết. Ông rủ em đi ăn, em luôn rủ thêm mấy con bạn, ông ta rầu lắm. Nhưng không dám nói.
- Em có quyền ghê hé.
- Bây giờ thì có, nhưng không biết được bao lâu.
- Em thích có uy với ông ấy không?
- Em thích tiền của ông ấy, em thích có uy với anh.

Phượng trả lời tỉnh bơ.
- Em thất vọng rồi, đâu dễ có uy với anh đâu em.
- Anh cứ chờ xem. Thôi, em phải về, nhớ nghe, khi nào rảnh, ghé em ngay nghe.
- Anh không hưá.
- Xí. Mai mốt đừng năn nỉ nghe. Phượng nói.
- Không bao giờ. Tôi trả lời.

Tình cảm của tôi và Phượng cứ như vậy, không gần, không xa. Tôi coi Phượng như cô em. Còn Phượng cứ lưng chừng, luôn chia xẻ tin tức, đủ mọi truyện riêng tư với tôi.

Mỗi lần ghé Phượng Hoàng, Phượng luôn tìm cách ngồi bàn với tôi dù có khách. Có bữa Phượng thấy tôi trong phòng nhảy, Phượng đang ngồi với hai ba ông khách, Phượng chạy tới tôi, dúi tay tôi mấy trăm,
- Anh qua phòng ăn gì đi. Khoảng 11 giờ, anh chở em đi ăn bún nhà xác nghe (quán bún gần bệnh viện dân y).

Tôi không lấy tiền. Phượng nói,
- Ông khách bưã em nói với anh vưà cho em đó. Anh cứ tiêu đi, hết cũng được.

Phượng vụt chạy. Tiền rớt xuống sàn, tôi đành phải lượm đút túi. Tôi không phải dạng thích xài tiền đàn bà đưa, và suốt cả đời tôi, cho tới giờ không thay đổi (có vợ tôi làm chứng). Cũng vì phải chờ để trả tiền Phượng, tôi bực lắm. Phượng tuy ngồi với khách, nhưng cứ ngó về phía tôi, chỉ ngón tay ra phía nhà ăn, ý nói tôi đi ăn đi. Cuối cùng, tôi qua nhà hàng bên cạnh, kêu ly cà phê, bực dọc ngồi chờ. Đang ngồi quay lưng về phòng nhảy, hai bàn tay chợt bịt mắt tôi,
- Em biết anh chờ em mà.
- Thôi cô ơi, lần đầu và lần cuối đấy. Tuy bực nhưng đành phải cười.
- Lần cuối của hôm nay. Mình đi ăn bún nghe. Phượng thông minh trả lớì.

Phượng vụt chạy. Phượng thay chiếc Jean và mặc Pull. Tôi và Phượng ra chỗ đậu xe. Xe dừng gần quán bún, quán này nhiều người thích. Cô phụ quán, người Huế, xinh xắn. Cô còn đi học, chỉ phụ bà cụ buổi chiều tối. Phượng liến thoắng kêu, hai tô. Hai tô bún trông thật ngon miệng, thêm diã rau thơm. Phượng vưà ăn vưà hít hà,
- Cay ghê, để em gắp ớt riêng ra cho anh. Thấy anh ăn bún sao tội nghiệp quá, cay mới ngon.

Ăn xong, trả tiền, tính lái xe đưa Phượng về, Phượng năn nỉ,
- Anh chở em một vòng tới ngã ba Thiết Giáp rồi về.

Tôi đành phải chạy một vòng trước khi trả Phượng về Hội Quán. Vưà lái xe vưà nói đủ chuyện.
- Xong đây anh về đâu?
- Về Biển Hồ chứ về đâu nưã.
- Trời, em tưởng anh còn đi nưã chứ.
- Khuya rồi, anh về ngủ, em ngủ ngon nghe.
- Mình ngồi trên xe nói chuyện cũng được. Phượng nói.
- Thôi cô ơi, vào nhà đi.
- Anh đi cho em thấy rồi em mới vào. Phượng bước xuống xe.

Tôi lái thật nhanh về hướng Biển Hồ. Đại khái, tôi và Phượng thân, nhưng rất chừng mực. Trong giới Ca ve, kiếm một người còn ngây thơ , học trò như vậy rất khó. Đa số, chỉ tính tới tiền. Phượng đủ yếu tố để thành công, đẹp, nhảy khá, ăn nói có duyên. Phượng bắt đầu,
- Anh nghĩ gì mà thẫn thờ vậy. Tối nay anh đưa em đi Chùa, cúng Giao Thừa nghe. Anh đưa sớm, sau Giao Thừa, anh về nhà em, xông nhà. Rồi em cúng, hai đứa mình ăn tết. Ngày mồng ba, em mới lên Phượng Hoàng. Em ở nhà, tối đón em. Như vâỵ là em và anh có 3 ngày, tha hồ ăn tết.

Tôi im lặng, thường thì tôi và Mậu hay đi chùa đêm giao thưà. Hôm nay Phượng hỏi, không biết trả lời ra sao. Cũng hơn 10 ngày, tôi và Mậu không gặp nhau, chỉ nhận được thư tay. Mậu gởi cho một sĩ quan Mậu biết quen tôi. Phượng rất tâm lý,
- Anh sợ cô nữ sinh hoa khôi của anh phải không. Phượng đưa tay cho tôi đòi nghéo tay.
- Anh phải ứng chiến mà.
- Thì anh chạy tới lui, không có gì, lại về nhà em. Em thì nấu thức ăn. Em mua đủ thứ rồi, có cả gà nấu đông, chân giò nấu măng, bánh chưng chứ không phải bánh tét đâu. Em chuẩn bị từ lâu, hôm nay mới gặp anh.

Tôi buồn cười, ai bầy em nấu món Bắc đấy.
-Con Kim. Anh rành Con Kim quá mà. Nó thấy em đi với anh. Nó nói anh dễ thương. Nó coi anh như anh nó.
- Anh biết Kim lâu lắm rồi. Tôi ậm ự.

Xe tới chợ mới. Phượng nói,
- Anh có muốn vào chợ với em không? Anh chờ, phải nửa giờ đó nha, đừng bỏ em lại nghe. Anh muốn mua thêm gì không, em mua cho anh mấy tờ báo Xuân rồi, mua Cà Phê, đủ cả.

Tôi ngồi chờ. Chợ 30, tấp nập, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là xuân mới - Xuân 1968, Mậu Thân. Phượng từ trong chợ ra, xách một giỏ đầy, khá nặng. Tôi xuống xe, lững thững đi về phía Phượng, hứng chiếc giỏ trên tay Phượng. Phượng cười vui, đi với anh hồi hộp thấy mồ, chỉ sợ đi bộ về không à. Em mua gì nhiều thế, mỗi thứ một chút mà nặng ghê.

Tôi liếc thấy hộp mứt gừng.
-Em thích gừng hả?
-Mua cho anh đấy.
- Sao em biết anh thích gừng.
- Bí mật, anh cũng lạ, ớt thì không ăn mà thích gừng.
- Bây giờ, anh bỏ em ở nhà. Anh về hậu cứ, coi xem có gì thay đổi không. Nếu không có gì khác, khoảng 10 giờ tối, anh đón em. Tôi lái xe về nhà Phượng, dặn Phượng,
- Đúng giờ đó nha. Em mặc áo dài, em mới may hai cái, đẹp lắm. Phượng hớn hở.

Tới nhà Phượng, xuống dốc ngay gần Quân Cụ, phụ Phượng mang giỏ vào, tiện tay mang luôn thùng gỗ , đựng đạn súng cối, lúc nào cũng có sẵn hai bộ đồ, kem bót đánh răng.
***
Tại Khe Sanh Tôi chạy thẳng về Biển Hồ, hỏi sĩ quan trực, tiểu đoàn - vẫn ứng chiến, trực gác, không có lệnh mới. Loanh quanh tới 5 giờ chiều, tôi lái xe ra Plei Ku. Chạy ngang Diệp Kính, gặp Lạn, ĐĐT ĐĐ4 lái ngược chiều, hai đưá dừng xe. Tôi hỏi Lạn,
- Đại Đội mày đóng chỗ nào?
- Đóng ngay gần chùa, và trường Thiếu Sinh Quân.
- Tao mới ra đây. Tính loanh quanh, tối đưa em Phượng đi chùa, cúng Giao Thưà. Mày có chỗ ăn tết chưa, nếu không thì về nhà Phượng ăn tết cho vui. Tôi trả lời.

Mỗi lần gặp mày, mày gọi một tên mới. Tao chẳng biết ai vào ai. Còn em Mậu ra sao rồi? Lạn cười.
- Thì vẫn như vậy.
- Tao có chai rượu, mày có nhà nào uống không. Tết nhớ nhà, hai đứa uống, nói chuyện cho vui. Lạn chỉ chai Martel, hỏi tôi.

Tôi nghĩ, bây giờ mới hơn 5 giờ, uống tới 7 giờ cũng đươc. Dư thời giờ đón Phượng. Tôi vui vẻ,
- Tao có chìa khóa nhà thằng Đệ. Chủ phòng tắm hơi đó. Mấy bữa, gặp tao, nó mừng quá, giao chià khóa cho tao, dặn dò: "Mày đi đâu thì đi, thỉnh thoảng ghé nhà tao coi giùm, tao đi tới mồng mười mới ra." Gạo, đường, cà phê, thịt hộp, đủ cả, nếu mày ngủ lại càng tốt.

Tôi với Lạn, lái xe tới nhà thằng Đệ. Tôi mở cửa. Lạn có sẵn đồ nhắm. hai đưá cởi áo lính, mặc may ô cho thoải mái. Trước khi uống, tôi hỏi Lạn,
- Ai coi đại đội cho mày,
- Thằng Lũy, tao dặn nó rồi.

Vừa uống, vưà nói chuyện, quên cả thời giờ. Hai đứa ít khi uống, nên hết chai là say. Lạn nằm trên nền xi măng ngủ. Còn tôi, nguyên cả giầy, leo lên chiếc giuờng, ngủ say sưa. Cuộc đời, sau này suy nghĩ lại, tôi vẫn tin, mỗi cuộc đời, mỗi phút, mỗi giây đều có số, đều đã được sắp sẵn. Bữa uống rượu hôm nay ngoài dự tính, nhưng hâụ quả thật khôn lường.

Lạn gọi tôi, Lương, pháo gì, giống súng nổ quá, pháo gì nổ, có tiếng gió rít, có tiếng pháo binh, có tiếng M16 và đại liên nưã. Tôi chưa hoàn toàn tỉnh, hỏi Lạn, mấy giờ rồi, hỏi gì nưã, hơn mười hai giờ khuya rồi, nghe hơn mườì hai giờ. Tôi tỉnh hẳn, chết, sao mày không kêu tao, giờ này thì còn đón ai nưã. Tao cũng mới tỉnh khi tiếng đạn réo trên đầu -

Tôi vừa nghe tiếng nổ, vừa nghĩ tớí Phượng, tự trách mình, nếu đừng uống rượu thì đâu tới nỗi này. Lạn nói,
- Đúng là súng nổ rồi, không còn lầm lẫn gì nưã, tao phải đi về đại đội, không về, có gì thì chết.
- Bây giờ, biết ngoài đường ra sao mà mày đi. Lỡ ra, không Việt Cộng, thì cũng bị đơn vị khác bắn chết. Tôi nói,

Tôi lắng nghe tiếng súng để định hướng. Pháo binh mình bắn về hướng Thanh An, Hàm Rồng.
- Quân mày ở hướng Thiết giáp và chùa, chắc không đến nỗi nào. Tao dặn thằng Lũy kỹ lắm, có gì cứ cầm chừng chờ tao, mà giờ này chắc không đơn vị nào di chuyển đâu, trừ thiêt giáp. Tao có mật khẩu đèn xe, và bán tiểu đội ngay đường xuống chùa, tụi nó sẽ chặn mọi xe khi súng nổ, trang bị M 72, và M 79 nhiều bằng cả trung đội. Lan tiếp.

Cuối cùng, Lạn cương quyết,
- Tao lái xe chạy thí mạng, chết thì cũng chịu.

Tôi biết không thể cản được. Tôi nói:
- Cũng may, hướng xe mày không qua Dinh ông Tướng, giờ này đoạn đó kéo kẽm gai hết rồi. Thôi mày đi cẩn thận, sáng liên lạc tao. Nếu gọi được tiểu đoàn, nói với Đại úy Dếnh, tao ở ngoài phố, sáng sẽ tìm về đơn vị. Tao ở đây, mai tìm tiểu đoàn vậy.

Lạn choàng vội chiếc áo, lấy cây súng Colt, mở cưả chạy ra xe, cưả mở. Cả hai đưá thấy hoả châu, sáng rực bâù trời, tiếng xe rít trên đường. Tôi thầm cầu nguyện Lạn về tới chỗ đóng quân an toàn.

Còn mình tôi, đóng cửa, đầu rối mù. Cũng may chỗ tôi đang nằm, gần Dinh Tướng Tư lệnh, tương đối an toàn. Tôi cầu mong Lạn về tới đơn vị, nghĩ vơ vẩn, chắc Phượng giận tôi lắm, nhưng giờ này,cô bé biết rồi, cô ta biết tôi phải theo tiểu đoàn, chắc không bao giờ Phượng ngờ, giờ này, tôi ở đây, chỉ cách nhà Phượng 7 phút xe. Hướng nhà Phượng, chó sủa liên hồi, tiếng chó như rền vang, hướng Quân Cụ, xóm lò heo, và hướng suối cạn, dưới chân nhà Phượng. Nằm trên giường, nguyên cả giầy, tắt đèn, chỉ mong trời sáng. Nghĩ tới đơn vị, không biết Việt Cộng tấn công hướng nào, không biết tiểu đoàn có gom đủ lính để đi hành quân không. Kinh nghiệm nhiều lần, khi có súng nổ, lính sẽ về tiểu đoàn. Số sĩ quan độc thân, ngủ tại đơn vị hơn 2/3, trừ trường hợp như tôi hôm nay.

Tôi cứ vơ vẩn nghĩ. Nếu không uống rượu, đi với Phượng cũng hơn 12 giờ, rồi còn ăn uống như Phượng nói, về tới đơn vị cũng phải hơn một giờ khuya. Tôi nhúm bếp, nấu chút nước sôi, pha miếng trà, ly cà phê sưã, ngồi dưạ trên chiếc salon, vưà uống, vừa nghe tiếng đạn rít trên đầu. Tôi suy tính, đi hướng nào để về tiểu đoàn. Trong đầu tôi, như đang vẽ bản đồ hành quân. Hơn 4 giờ sáng rồi, thỉnh thoảng có tiếng xe GMC chạy. Nhìn ra cưả, trời còn tối quá, khoảng hơn 5 giờ mới đi được. Tôi nhắm mắt, nằm im lặng. Nhìn quanh nhà, không biết thằng Đệ để chiếc Radio ở chỗ nào, muốn nghe tin tức, đành chịu. Tôi thiếp đi khoảng nửa giờ, giật mình khi tiếng súng nhỏ nổ, hướng Bưu Điện, 5 giờ 45. Rưả mặt, và tắm, nước lành lạnh, tôi tỉnh hẳn. Đeo cây súng colt, giây ba chạc, bước ra cửa. Bây giờ mới thấm thiá, lính không đơn vị, không đồng đội, không truyền tin, như người đi lạc.

Tôi nhìn chiếc xe Jeep, bánh trước xẹp, không buồn để ý, taị sao. Tôi đi theo sát cửa nhà, từng nhà, từng nhà, đa số đóng cửa. Một vài nhà, cửa mở, không người. Không khí chiến tranh thật sự đã vào thành phố. Đi vài nhà, laị dừng để quan sát. Quãng đường ngắn, đi mất hơn 20 phút, rẽ phải, ngược phiá dinh Tướng và Phượng Hoàng. Nhắm thẳng rạp Diệp Kính. Tôi thầm cám ơn trời, không có gì, phố xá vắng tanh, các đơn vị vẫn án binh bất động. Cứ đi từng nhà, tôi không sợ bị bạn bắn lầm, sợ Viêt Cộng núp đâu đó, thì không còn chỗ đỡ. Tới bến xe Lam, thường. Lính mọi đơn vị hay chờ tại đây để đón xe đi Quân Đoàn, Quân Y Viện, Phi trường, và C2, LLĐB.

Tôi đi hơn 200 thước thì nhìn thấy đoàn xe GMC chở BĐQ, lính bảng đỏ, tiểu đoàn tôi, thật mừng. Thiếu tá Huân, dừng chiếc xe Jeep:
- Lên xe đi ông tướng. Tôi tưởng cậu đào ngũ rồi chứ.

Tôi cười, ngượng ngùng. Chợt hỏi truyền tin,
- Có nghe Alpha 4 gọi không mày.
- Có, Alpha 4 nói với Đại úy Dếnh, là alpha sẽ về tiểu đoàn khi trời sáng.

Nghe tin Lạn, tôi yên tâm, giờ này đánh đấm cỡ nào cũng không ngán. Đoàn xe vừa tới ngã ba Diệp Kính, một chiếc Jeep ngược chiều, dừng khi thấy xe thiếu tá Huân và tôi. Tôi và thiếu tá Huân xuống xe, xe quân đoàn chở một Trung Tá, một Thiêú Tá, một Đaị úy và một truyền tin. Trung tá quân đoàn bắt tay Thiếu Tá Huân và tôi, nói sơ tình hình và giao một phóng đồ. Ông ta nói:
- Quân thiếu tá sẽ đổ ngay đây, đi dọc theo Dinh thiếu tướng, ngang dinh gần Phượng Hoàng, bắt đầu khai triển đột hình, đánh ngược xuống khu Hoàng Diệu, Khu Quân Cụ, lò heo, nhưng không vượt qua suối cạn. Khu đó tôi giao cho bộ binh và thiết giáp.

Ông Đại úy giao tôi phong bì đặc lệnh truyền tin, còn nguyên dấu nổi màu đỏ, hàng chữ tối mât màu đen. Ông Trung tá hỏi,
- Thiếu tá và trung úy có gì hỏi không?

Thiếu tá Huân trả lời không. Ông Đaị uý nói với tôi,
- Truyền tin theo đặc lệnh mới từ giờ này, cho tới khi có lệnh mới.

Xe quân đoàn vưà chạy, thiếu tá Huân cho lệnh xuống xe. Rải quân, an ninh, mời ĐĐT họp. Các đại đội trưởng tới ngồi gần thiếu tá Huân, ngồi ngay bên hè trường tiểu học:
BĐQ tại Hạ Lào - Đđ 3, 2 đi đầu, bộ chỉ huy tiểu đoàn, đại đội chỉ huy, đại đội 1, sau cùng. Nhắc các Alpha, áp dụng tam tam, chiếm, lục soát từng nhà, tránh đi ào ào qua. Tụi VC laị ở đằng sau đánh tới, Thanh toán đâu, giữ tới đó. Chúng ta đi theo hướng Phượng Hoàng, khi nào thấy nhà nghỉ Chính Phủ trên đồi, báo cáo. Tôi sẽ cho lệnh rẽ trái. Chiến trận có thể xảy ra khi chúng ta tới bến xe chợ mới, khu quán cơm Ba Cò. Thiếu úy Thông phát bản đồ, thiếu úy Huấn đổi đặc lệnh truyền tin mới, thử máy. Nhớ, coi chừng bắn lầm dân chúng. Giới hạn tối đa khi bắn M 79, cối 60. Có ai không hình dung ra địa thế không? Các ông họp trung đội trưởng. Sau 15 phút, hành quân bắt đầu.

Khi ngồi chờ, tôi chợt nhớ tới Phượng. Không biết Phượng có an toàn không? Tin tức tôi có, Việt Cộng từ phiá Hàm Rồng, theo đồn điền trà, ém quân, tối tiến vào thành phố, theo thung lũng và suối cạn phiá lò heo để chiếm mấy cơ sở dọc theo tuyến từ đồi pháo binh, xuống tới ty Bưu Điện. Như vậy, đêm qua, tôi cách không xa hướng hành quân của VC. Tôi thầm nghĩ, nếu đêm qua, tôi đi với Phượng, có lẽ kẹt trong gọng kềm của VC, vì chắc chắn VC sẽ chiếm toàn khu suối dưới chân đồi, gần nhà Phượng. Một mình Phượng ở căn nhà nhỏ dù sao đỡ hơn có tôi.

Đại Đội 3 và 2 báo cáo xuất phát. Đội hình đi thật thưa. Đường phố vắng tanh, nhiều nhà thấy bóng dáng BDQ, rất mừng. Một vài cánh cửa hé mở, vài khuôn mặt tươi cười chào chúng tôi. Mấy quán cà phê dọc theo rạp Diệp Kính, đối diện nhà thờ thường ngày đã mở cửa, giờ này còn đóng. Cổng nhà thờ trang hoàng thật đẹp đón xuân, không một bóng ngườì. Một vài chiếc GMC chạy thật nhanh về hướng Thiết Giáp. Tiếng súng nhỏ nổ nhiều. Tôi tỉnh táo, không như đêm qua. Niềm tự tin trở lại, tôi buồn buồn nhìn khu phố. Khu này là trung tâm sinh hoạt của Pleiku. Ngang qua tiệm chè Diệp Kính, cửa đóng, tôi nhớ tới Mậu. Không biết khu Phan Đình Phùng nơi Mậu ở có sao không? Hai năm vừa qua, tôi đón Mậu đi chùa, năm nay, lại khác.

Tôi và Mậu vẫn thân, rất thân. Nhưng đôi khi như hôm qua, Phượng làm tôi quên Mậu. Nhiều khi tôi cũng không hiểu mình muốn gì. Tôi ít lệ thuộc trong tình cảm lắm. Mậu hay trách tôi như vậy.
- Em thấy anh khó hiểu quá, như có ai mới vậy.
- Tại em nghĩ vơ vẩn chứ anh có gì khác đâu. Dại gì xa em thì còn kiếm ra ai hơn nữa. Tôi cười.

Được cái Mậu rất dễ tha thứ, bao giờ Mậu cũng vui vẻ liền. Thường thì sau mỗi lần như vậy, tôi và Mậu đi nhẩ. Mấy cô Phượng Hoàng quen tôi hay nói đùa, cho cả hai người nghe,
- Anh Lương quên tụi em rồi nghe.
- Sao không nghe anh trả lời. Ghé tai tôi, Mậu cười.
- Trả lời sao?
- Trả lời là chưa quên ai hết.

Trong mấy cô, có Kim, bắc kỳ, rất bạo, cố tình nắm tay tôi kéo lại
- Người yêu anh Lương đẹp quá, hèn nào.

Mậu không bao giờ giận hờn khi có đông người, Mậu nói vui theo,
- Em chỉ mượn của mấy chị thôi.
- Thôi tha anh đó. Cả bọn cùng cười,
- Anh Lương, bữa chị này mặc đồ rằn, anh phải cho em một bộ đó. Thanh gọi.

Tôi và Mậu vào phòng nhảy. Tôi nhẩy không hay. Mậu khá hơn tôi một chút. Hai đứa lại thích nhẩy. Tôi luôn coi nhẩy là môn giải trí dễ thương và lịch sự nhất. Tất nhiên, không kể những người, coi nhẩy như một phương tiện khác.

Đại đội 2 và 3 đã tới ngã ba Ba Cò, bến xe cũ. Nhà vẫn đóng cửa, quán cơm, càphê, trạm xe đi liên tỉnh không bóng người. Thiếu Tá Huân dặn dò,
- Cậu rành khu này, nhớ nhắc tụi nó cẩn thận, đánh trong thành phố khác hẳn, không ào ạt, không súng lớn.

Tôi thấy thấp thoáng từng toán nhỏ bđq tiến theo đường, biến mất sau mấy căn nhà mái tôn. Tiểu đoàn cũng phải tự phòng thủ, theo từng toán nhỏ. Thiếu tá Huân, tôi và 3 máy C25, thêm mấy lính theo để bảo vệ. Tôi đề nghị,
- Mình dừng cạnh chổ bán vé xe để theo dõi các đơn vị.

Đại úy Dếnh, đang chỉ huy Bộ chỉ huy, tổ chức phòng thủ. Hơn một giờ, hai đại đội vẫn lục soát từng nhà, bung rộng hướng lục soát. Vùng này nhà san sát, nhưng càng ra xa, nhà thưa thớt, cho tới khi chỉ thấy đồi thấp, không có cây lớn. Thiếu tá Huân nói nhỏ:
- Chắc tụi nó xâm nhập chưa nhiều vì ngoài vòng đai thành phố có thiết vận xa M113, mà đường xâm nhập thì trống trải . Có lẽ đêm nay, tụi nó sẽ tăng cường thêm.

Tiếng súng AK réo trên đầu, tiếng súng Carbine BDQ trả lại dòn dã (BDQ chỉ trang bị M16 khoảng tháng 5, 1968, Mậu Thân 2). ĐĐ2 và 3 báo loáng thoáng thấy bóng VC tại những vị trí gần nhà, nhưng cũng gần đường. Có lẽ VC chấp nhận đánh ngoài thành phố hơn là nằm cạnh nhà, vì bọn nó sợ lạc đồng đội. Thiếu tá Huân cho tôi làm việc với máy ĐĐ nhiều hơn với máy Liên Đoàn và Quân Đoàn. Dân chúng khi thấy chúng tôi lục soát và giữ từng cụm nhà, bắt đầu chạy ngược lại với chúng tôi. Họ mừng rỡ vì sợ nằm trong vòng kiểm soát của VC. Thấy một người khoảng trung niên chạy với vợ và đứa con gái, tôi kêu anh ta, cho ngồi xuống góc mấy bức tường để hỏi tình hình. Tôi hỏi,
- Anh thấy nhiều VC không? Bọn nó mặc đồ gì? Tụi nó có vào nhà không?
- Em thấy ít. Ka ki xám, nhiều đứa đồ đen. Buổi tối, khi mới tới, vào nhà lục soát, nhưng mờ sáng ra ngoài. Anh ta lễ phép
- Nó mang nhiều đạn không? Có súng lớn không?
- Không nhiều. AK và súng trường, lựu đạn cán gỗ nữa (lựu đạn chầy).

Tiếng súng trao đổi, nhiều hơn. Tiếng alpha 3 gọi tôi:
- Alpha 12 hả, một súng trường bá đỏ và một tên VC mặc aó đỏ. Nó đang ngó giớn dác, lính tôi cho một băng, gần lắm 12 ơi.

Tôi nói vớí thiếu tá Huân,
- ĐĐ 3 thu một súng, bắn chết một em.

Tiếng lựu đạn nổ, tiếp theo một tràng súng, máy báo cáo,
- Một em tính chém vè ra ngoài lãnh nguyên một băng.

Tôi nhắc hai alpha, đỊa thế sẽ cao và thưa nhà khi họ tiến về hướng đồi pháo binh và truờng Trung Học, nhưng càng đông nhà khi đi theo hướng về thành phố. Tôi chợt nhớ khi mới quen Mậu, đi hành quân về, tôi hay lái xe theo hướng trước mặt để lên trường trung học. Thiếu tá Huân nói,
- Tụi nó không thể di chuyển đi đâu được vì ra ngoài, toàn đồng trống. Nói với mấy alpha, coi chừng về chiều và xẩm tối, chắc chắn nó phải đánh mạnh để chờ tụi ngoài vào thêm.

Đánh trong thành phố rất khó khăn, vì dân chúng, tiếp tục chạy ngược để tránh hai lằn đạn. Tiếng súng càng ngày càng nhiều. Hai bên thật sự tiếp chiến, tiếng súng nổ nhiều. Khi đđ 2 xuống thung lũng, có cả tiếng M79. Ngườì truyền tin đưa ống liên hợp cho tôi.
- Alpha 2 gọi. Báo cáo cho 54, lượm 3 AK, hai em VC áo đỏ.
- Mình có sao không?
- Một áo vàng nhẹ.

Tôi chuyển lời cho thiếu tá Huân. Khoảng ba giờ chiều, sau hơn 4 giờ lục soát và tiến quân, đoàn đã tịch thu được 7 súng, một colt. Tụi tôi 3 bị thương, đánh thành phố thường kết quả không nhiều vì địa thế rất khó, lính tránh làm hư hại nhà cửa hay bắn lầm dân. Nhìn địa thế thành phố, tôi nói với thiếu tá Huân,
- Mình còn xa khu lò heo và khu ĐĐ Quân Cụ lắm, Cứ đà này, phải chiều mai, mới tới trung tâm Bưu Điện, ngã ba Hoàng Diệu và Dinh Thiếu Tuớng.

Gần chiều, lệnh cho các đại đội phòng thủ, dựa vào địa thế để canh gác, tuy không thành tuyến tròn nhưng theo từng cụm nhỏ. Tiểu đoàn nằm trong vòng đai của bốn đại đội, không đào hố, dựa vào nhà cửa, các bức tường, và cây lớn để đóng quân. Qua máy Quân Đoàn, tôi biết Thiết Giáp trúng mánh, buổỉ chiều khoảng 3 giờ, máy bay L19 thấy VC núp duới đồn điền trà hướng Hàm Rồng, báo cho Thiết Giáp. Các Thiết Vận Xa, cứ vậy mà xả, 30 và 50. Lính sư đoàn 23 tùng thiết cứ theo lượm súng, và đếm xác. Tịch thu hơn 70 súng, đếm hơn 40 xác. Tụi tôi cũng nhờ vậy mà không đụng nhiều, VC không thể đưa quân thêm vào thành phố. Địa thế của PleiKu rất khó xâm nhập, ra khỏi thành phố, toàn đồi thấp, không cây lớn, tầm mắt nhìn rất xa. Chỉ cần một Chi Đoàn M113 với bộ binh tùng thiết là có thể bảo vệ vòng đai thành phố.

Suốt cả ngày, quên luôn hôm nay là mồng một tết, đa số dân chúng di tản lên tới các nơi không có tiếng súng. Tôi nằm ngay cạnh một gốc cây lớn với hai máy truyền tin và người lính bảo vệ. Thiếu Tá Huân, Đại úy Dếnh, nằm cách vài thước. Lính rất lanh, họ tản vào mấy nhà, nấu nhờ cơm, xẩm tối là có cơm nóng, thức ăn nhiều vì mang theo khi dời Biển Hồ. Thành phố không điện, nằm trong bóng đêm, tôi nghĩ đủ thứ. Đài phát thanh nói VC tấn công hầu hết các tỉnh. Sau bản tin là nhạc hành quân rộn ràng. Dalạt và Lâm Đồng cũng bị tấn công. Tôi lo lắng, không biết nhà tôi có sao không? Dòng suy nghĩ lan man. Chỉ cách hơn một cây số, hướng chợ mới, đường Phan Đình Phùng, nhà Mậu, không nghe tiếng súng. Hơn hai cây số, hướng về đại đội Quân cụ, Lò Heo, nhà Phượng, nằm gần suối cạn, rất đông dân, cả ngày nghe đủ loại súng lớn nhỏ. Không biết Phượng có chạy ra khỏi chưa? Tôi quấn chiếc poncho Line, gối đầu trên chiếc ba lô, không ngủ. Buổi tối, không khí im lặng, nhiều khi nghe hàng loạt đạn Carbine lẫn tiếng AK, chó sủa nhiều hướng đồi pháo binh. Tôi thiếp được hơn một giờ, tiếng máy truyền tin sè sè, liên lạc đầu giờ. Tôi nghe hai truyền tin hỏi tin tức nhau, cười khúc khích.
Liên Lạc Vô Tuyến Sáng ngày mồng hai, mở đầu bằng hàng loạt AK và carbine, tiếng súng liên tục. Đại đội hai báo, VC tấn công mạnh, nhưng không vượt qua được con đường ranh, và dãy nhà bên kia đường. Tôi kêu máy gần lại chỗ thiếu tá Huân để dễ nhận lệnh. Trời sáng hẳn, các đơn vị lại bắt đầu lục soát, tiểu đoàn cho lệnh lục soát về hướng trung tâm thành phố. Hai đại đội tiến nhanh. Tiểu đoàn và hai đại đội còn lại thế chỗ. VC thất bại vì không đưa thêm quân vào thành phố được vì bị thiết giáp làm thịt từ ngoài. Đơn vị chúng tôi trở nên nhẹ nhàng, đụng nhẹ, chỉ từ từ tiêu diệt tụi VC vào từ đêm 30 thôi.

Cả hơn nửa thành phố, dân chúng đã trở về, tuy nhiên họ chỉ ở trong nhà. Nhiều người mang bánh, mứt cho lính. Tới hai giờ chiều, đại đội một, ba, đã tiến tới Bưu Điện, và làm chủ khu lò heo, lục soát khu suối cạn. Tại đây đại đội một đụng khá nặng với VC, súng nổ hơn nửa giờ. Đếm được 9 xác, bắt được hai tên bị thương, giao cho phòng Hai Quân Đoàn chở đi.

Thiếu tá Huân, tôi cùng mấy truyền tin và bộ chỉ huy đứng sát ty Bưu Điện và mấy toà nhà lớn, vừa quan sát vừa điều động hai ĐĐ bung rộng ra, nằm tại chỗ. Thỉnh thoảng từ trong dãy nhà sát ĐĐ Quân Vận, một vài VC bỏ nơi ẩn trốn, chạy vụt xuống chân đồi, hàng loạt súng bắn theo. Cứ thế mà cũng được 4 em, lấy 4 súng.

Nhìn dãy nhà san sát, tôi chợt buồn cười, chỉ cách khoảng 500 thước, khuất một ngã ba, là trở về nhà thằng bạn. Tôi và Lạn uống rượu đêm 30. Lính tới đâu, dân theo tới đó. Họ chạy loanh quanh, chỗ nào không nghe tiếng súng, hoặc có bóng dáng BĐQ, là họ chạy tớ. Nhiều người núp ngay bên hè những tiệm buôn lớn, coi đánh nhau. Từ phía Phượng Hoàng và dinh Tướng Tư lệnh, một nhóm 6, 7 người đi về hướng chúng tôi. Tôi chợt chăm chú vào một cô gái, aó sơ mi tay dài, chiếc quần tây xám, mang chiếc giỏ, và một chiếc sắc trên vai, theo toán người về hướng tôi và hai máy truyền tin. Cô ta dừng lại, rồi bất chợt chạy thật nhanh, vừa kêu tên tôi. Phượng.

Tôi nhận ra Phượng, ra dấu cho Phượng tới sát thềm ty Bưu điện, cạnh thiếu tá Huân. Phượng mừng khi biết chắc là tôi. Phượng vừa thở, vừa chùi nước mắt.
- Trời ơi, từ qua tới nay, em cứ nghĩ tới anh. Không biết anh có sao không?
- Em chào Thiếu tá rồi mình đứng nói chuyện. Tôi chỉ Thiêú tá Huân.
- Em để xắc xuống đây nghe. Phượng cúi đầu chào.

Thiếu tá Huân rất dễ tính, ông kêu hai máy tới cạnh ông. Mấy người lính tò mò, nhìn Phượng. Phượng ngồi ngay trên hè xi măng, vừa nói,
- Giờ này, mới chắc anh còn sống. Đêm 30, em chờ anh tới 9 giờ không thấy, em giận anh quá trời. Định bụng nếu anh tới em cũng không đi nữa. Em nấu thức ăn, trái cây, sắp trên bàn thờ, quần áo ủi sẵn, sợ anh về, chờ lại nhăn. Anh biết không, cũng may anh không về. Khoảng 10:30 tối, em tức anh, ngủ không được, chắc anh đưa cô bạn anh đi, quên cả em, chợt tiếng đập cửa nhà bên cạnh, chưa kịp phân biệt tiếng gì, thì tới cánh cửa nhà. Em sợ điếng hồn, giờ này ai kêu cửa làm gì. Thêm một nhát dộng ngay cánh cửa, em lật đật kéo then. Trời đất, 3 thằng VC, mang súng vào nhà, còn hai thằng ở ngoài. Vừa vào là lục khắp nhà. Một tên bắt em ngồi ngay cạnh giường, nó xoi cả gầm giường, cả nhà tắm. Chợt thấy bộ đồ rằn treo trong cánh tủ, tụi nó xúm lại hỏi,
- Chồng mày đâu?
- Em không có chồng. Em run lập cập,
- Mày nói dối. Ai mặc đồ này? Nó ở đâu?
- Anh của em. Dạ em không biết. Nghe anh ấy nói, đi đánh giặc rồi.
- Mày ăn nói kiểu đó, ông đánh gẫy răng đấy. Ai là giặc? Một thằng nắm tóc em,
- Em im lặng, cầu trời anh đừng về nhà em. Cả xóm nhà nào cũng nghe gõ cửa, lẫn trong tiếng súng. Khoảng hơn nửa giờ, ba tên đó hỏi em đủ thứ. Em trả lời cho qua. Chợt một tên ở ngoài vào nói nhỏ. Cả 3 tên đi ra, sau khi cấm em không được ra ngoài.
- Em đóng cửa, thắp nhang trên bàn thờ rồi lên giường nằm. Em nhớ anh, giờ này anh làm gì, ở đâu? Thật may mắn, nếu không, nó bắt anh hay bắn anh rồi.

Tôi im lặng nghe Phượng, khuôn mặt mệt mỏi, nhưng dáng dấp rất cân đối, hèn nào Phượng được rất nhiều khách kêu ngồi bàn. Phượng thấy tôi chăm chú nhìn,
- Tóc em chải không kỹ phải không?
- Đâu có, em lúc nào cũng xinh xắn.
- Thôi cám ơn, để dành cho cô nữ sinh của anh đi. Sao không thấy lính đâu hết anh. Phượng nhìn chung quanh,
- Đông lắm nhưng rải khắp nơi.
- Giờ này duới nhà em, lính cũng đông lắm. Đụng cũng nặng phía suối cạn.
- Bây giờ em đi đâu?
- Nếu không kẹt mấy cái giỏ này, em theo tiểu đoàn làm lính luôn. Em không biết đi đâu. Nếu không gặp anh, em đi theo cô gái mới quen, ngủ nhờ nhà bà con cô ta vài ngày. Cô ta bằng lòng rồi, và cho địa chỉ rồi. Phượng chợt hỏi,
- Anh ăn gì? Ai nấu ăn cho anh. Em vào nhà kia, nấu nhờ cơm nghe? Em nài gạo và thức ăn, rồi trả tiền chắc họ cũng bằng lòng.

Từ lúc Phượng tới, chỉ có tiếng súng xa xa thôi. Thiếu tá Huân cho lệnh thu hẹp vòng đai, chuẩn bị phòng thủ đêm. Tôi để Phượng ngồi tạm chỗ cũ, đi tới mấy căn phố gần, đề nghị, tiểu đoàn phòng thủ tại đó, tránh tầm nhìn từ bên kia phố. TIểu đội bảo vệ tới trước, chia ra lục soát kỹ, rồi làm thành vòng đai. Hai người lính chuyên theo tôi cũng đã có chỗ ngủ đêm cho 3 người, gần thiếu tá Huân, Đại úy Dếnh, truyền tin, ban hai. Tôi chỉ hướng cho cây đại liên, dặn thường vụ canh gác, đổi mật khẩu ban đêm, rồi kêu Phượng tới.
- Anh có chìa khóa nhà thằng bạn thân. Đêm qua anh uống rượu sau khi chia tay em, định khoảng 8 giờ tối xuống đón em. Nhưng anh và thằng bạn say, ngủ quên, nên lỗi hẹn, mà còn sống. Em thấy số anh cao chứ không chết rồi.

Phượng ôm chầm lấy tôi, quên cả mấy người lính và thiếu tá Huân bên cạnh. Thiếu tá Huân thì biết tôi rồi. Nhiều khi cuối tháng, không có tiền, tôi tới nhà ông, bao giờ cũng vậy, ông kêu chị Huân, em, Lương nó tới thăm em kià. Chị vui vẻ hỏi, em muốn bao nhiêu? Chị cho em mượn 1000 thôi. Sao ít vậy? Thôi vậy đủ rồi. Chị Huân có hai em gái cùng ở chung nhà. Chị luôn nói vui, sau này, ai mà lấy cậu, chắc đói quanh năm. Lấy vợ thì khác chứ chị. Chị cười.

Mà thật vậy, từ khi lấy vợ, cuộc đời tôi thay đổi hẳn. Sau này, lần cuối cùng tôi gặp thiếu tá Huân khi anh làm Quận Trưởng tại Qui Nhơn. (Viết tới đây, tôi nhớ bài đăng trên BĐQ khi anh Huân chết năm vưà rồi. Tất nhiên, nếu không phải là thiếu tá Huân, tôi không thể nào nói chuyện với Phượng khi tiếng súng còn nổ, ngay trên chiến trường).
- Nhà bạn anh cách đây chưa quá 400 thước, ngay ngã ba, em vừa đi ngang. Em thấy chiếc xe jeep của anh, bánh xẹp lép nằm ngay con hẻm. Em theo con hẻm, nhà thứ tư bên trái, số 7. Em cứ vào ở đó, gạo, mắm, đường, cà phê, sữa hộp, nước máy, nhà tắm đầy đủ. Ở bao lâu cũng được. Hai vợ chồng nó nói ngày 10 sẽ ra, nhưng kiểu này thì không biết bao giờ mới ra lại. Anh dặn hờ, nếu anh phải đi xa bất ngờ, nó ra, em nói tên anh, nó sẽ để em ở bao lâu cũng được.

Phượng ngây thơ, em xin Thiếu tá ở đây được không? Ở chỗ nào. Anh ngủ dưới gốc cây kia kìa, càng vui, giống cắm trại hướng đạo quá..
- Thôi cô ơi, đừng tưởng tượng, Thiếu tá cho nói chuyện như vậy là quá rồi. Tôi chợt hỏi, em có tiền không? Phượng nói nhỏ, chỉ túi xách, em có nhiều lắm, xài vài tháng không hết, anh cần tiền không?
- Không, tụi anh có tiếp tế rồi, mà cũng sắp lãnh lương. Thôi, trời sắp tối rồi, em đi đi. Khi nào yên ổn, rảnh, anh sẽ tới. Nếu em đi xa, để chià khóa trong hộp thư, anh sẽ lấy. Nhớ viết vài chữ, cho anh biết.
- Anh phải hứa, em mới đi. Khi nào rảnh phải ghé em.
- Thời gian nào cho người đẹp của anh. À quên, nhưng anh phải công bằng. Cứ đi đi. Tôi cười, nói đùa.

Phượng tới lễ phép chào Thiếu tá Huân. Thiếu tá Huân hỏi.
- Bây giờ cô đi đâu?
- Cháu đi tới nhà bạn anh Lương. cháu có chià khoá rồi, chúc Thiếu tá và các anh lính luôn bình an. Phượng bịn rịn, nhìn tôi.
- Để anh cho lính mang giùm giỏ cho em. Tôi cười khuyến khích.
- Chú mang giùm cô này hai chiếc giỏ, tới ngã ba đằng trước kia. Đưa cô ta vào nhà, rồi trở lại. Toi nôi vớì Hoành. Hoành vui vẻ gật đầu.
- Em đi nghe anh. Mai, anh còn ở đây không? Em mang cơm tới cho anh và Thiếu tá ăn luôn. Phượng kêu khẽ.
- Em cứ lo cho em đi. Ngày mai, làm sao biết anh sẽ ở đâu?

Tiểu đoàn sau đêm đó, di chuyển về sân vận động. Hai ngày sau, gắn huy chương, nhận lênh ra phi trường Holloway để đi hành quân vùng khác. Tôi chỉ gặp Phượng vài lần, mỗi lần chừng một giờ. Phượng ở nhà bạn tôi. Khi tới thăm, tôi chở theo hai thùng cơm sấy, một thùng thịt và cá hộp, chục hộp sữa và mấy ký đường. Tôi ngạc nhiên, Phượng, Kim, Thanh, ba cô làm ở Phượng Hoàng cùng ở chung. Phượng ríu rít,
- Kim ơi! Anh Lương tới, mang nhiều đồ ăn cho mình nữa.

Kim đang nấu cơm, Thanh và Phượng lau nhà. Kim mừng:
- Anh ăn cơm với tụi em luôn. Hôm qua, con Phượng ra phố, gặp hai đứa em, rủ về ở chung. Nó nói nhà bạn anh. Tụi em nói chuyện về anh cả ngày. Tính ngày mai, mang quà bánh đi tìm tiểu đoàn anh.

Phượng nhìn tôi, cảm động, cứ xớ rớ. Tôi biết nếu không có hai cô bạn, Phượng sẽ không cho tôi đi, ngồi nói chuyện cả giờ. Giòng đời đẩy đưa, tôi phải theo tiểu đoàn. Hơn nửa tháng sau, tôi nhận thư Phượng khi đang hành quân Dalat. Thư dài. Thư như gói trọn cả chuỗi ngày Phượng và tôi biết nhau, gần và xa, đậm đà nhưng luôn cách trở.

Posted by: caoduy Jan 12 2010, 08:43 PM




Màu - Pleiku


Tôi trình diện TĐ 21 BĐQ ở Biển Hồ, Pleiku. Thời gian vừa đủ để làm quen mặt lính trong trung đội thì Tiểu đoàn hành quân Lâm Đồng, sau đó Phan Thiết. Dù đã được huấn luyện và chuẩn bị tinh thần rất kỹ ngay từ ngày đầu tiên bước chân vào cổng trường Võ Bị Đà Lạt, tôi cũng không khỏi bỡ ngỡ với lối sống thật khác biệt và hành quân liên tục như những ngày này. Một hai đêm trước đây, tụi tôi còn ở Lâm Đồng, ngay trên quốc lộ 20, gần sông Đại Ngã, hôm nay đã ở Phan Thiết. Hành quân ở vùng này rất khó chịu vì oi bức. Tiểu đoàn tôi đi khắp vùng Ma Lâm, Thiện Giáo, Khu Tam Giác Sắt và mật khu Lê Hồng Phong. Thời tiết nóng, nhưng cũng nhiều khi ngang qua những vùng lúa xanh mướt, mãng cầu nổi tiếng, mía lau ngọt thơm và đặc biệt đào lộn hột, màu hồng thật dễ thương, nhưng ăn vô thì khan cổ, khó chịu.

Mỗi lần hành quân khoảng 10 ngày, về thành phố vài ngày - Những ngày không hành quân tôi thường tới quán càphê gần phi trường. Cô chủ còn độ tuổi học sinh, mặt dễ thương, giọng Nam ngọt ngào. Mỗi lần vào quán, tôi thường ngồi bàn gần cửa. Cô thường ngồi nói chuyện với tôi, nhất là những khi quán vắng khách. Cô dành cho tôi tình cảm hơi khác với những khách hàng hay lui tới như tôi - Ly cà phê sữa, hơi nhiều sữa, không thuốc lá, bình trà mới thật nóng, cái ly nhỏ lau khô cẩn thận. Không biết tại sao, các bản nhạc cô chọn thường rất hợp với tôi. Tôi nói với cô tôi thích nhiều cà phê, ít sữa, nhưng bao giờ cô cũng làm ngược lại. Cô nói: em thấy Thiếu úy cần nhiều sữa hơn thì phải - Đại khái những câu chuyện vô thưởng vô phạt nhưng cũng vui vui. Nhiều khi phải nhắc mấy lần, cô mới miễn cưỡng đứng lên tiếp người khách mới vào. Tôi đùa :
- Cô bé đừng mang họa cho tôi đấy, tôi còn yêu đời lắm. Đừng làm cho người ta tưởng lầm, có ngày tôi ăn lựu đạn.
- Sao anh cứ gọi là cô bé hoài, em lớn rồi! Cô bé nhăn mặt.
- Vậy thôi gọi tên được chưa?

Cô ta ngúc ngoắc lọn tóc óng mượt gật đầu. Từ đó tôi gọi Kim mỗi khi tôi tới quán. Tôi thích thú vì có chỗ ghé sau mỗi lần hành quân, thỉnh thoảng còn có vài trái mãng cầu thật to, chín cây. Kim nói :
- Anh mang về, mãng cầu nhà em đấy!
- Khi nào anh ghé thăm nhà em được không? Tôi hỏi Kim.
- Lúc nào cũng được. Kim cười vui vẻ.

Hôm ấy về đơn vị, Tiểu đoàn nhận lệnh chuẩn bị ra phi trường ngay ban đêm, về Pleiku. Vậy là tôi rời Phan Thiết trong âm thầm, không kịp chào từ giã Kim. Thôi nhé! Giã biệt
- Em có nhớ, lần anh thấy em nhìn anh với ánh mắt thật khác thường, anh đã nói: Đừng bao giờ dại dột yêu lính tác chiến, nhất là lính BĐQ.
- Anh đi bất ngờ như anh tới. Cuộc đời lính tác chiến nay đây, mai đó. Thoảng qua như làn gió, tình cảm trao nhau chưa kịp đậm đà
- Thôi! Chúc em luôn vui, yêu đời, nếu có dịp nào, anh sẽ ghé thăm em.
-/-
Về Pleiku, ngày hôm sau, kiểm tra trực gác xong, mượn chiếc xe Jeep của Trung úy Châu ĐĐT, ra thăm thành phố. Gần ba tháng rồi, mang tiếng ở Pleiku mà chưa bao giờ ra khỏi Biển Hồ. Tôi lái một vòng gần khắp thành phố, cuối cùng dừng xe bên lề đường ngay trung tâm, mua tờ báo, vừa ngồi ngắm thiên hạ, vừa đọc báo. Buổi chiều, thành phố nhiều người qua lại. Loáng thoáng đủ loại xe, một vài cặp tình nhân thong thả đi bộ trên vỉa hè. Một người lính BĐQ, tay dắt bé gái, lững thững theo sau cô vợ trẻ, thấy vui vui và hạnh phúc. Bên kia đường một anh Pilot, hông lủng lẳng khẩu Rulo, bên cạnh một người đẹp. Thành phố Lính, đúng như mọi người gọi, chỉ thấy lính và lính. Ngồi trên xe, dưới bóng một tàng cây lớn, nhìn bao quát nhiều con đường, những căn phố nằm san sát trên đường Hoàng Diệu, chạy thẳng tới tận ngã ba Thiết Giáp, về Quy Nhơn. Trước mặt tôi, con đường rẽ phải xuống Chùa, rẽ trái lên ngã ba Diệp Kính và dốc Phượng Hoàng. Đang lơ đãng tận hưởng khoảnh khắc thanh bình, an nhàn, tôi bỗng chăm chú nhìn hai cô gái, áo dài trắng, vừa cười giỡn, vừa liến thoắng nói chuyện. Hai nét mặt chợt nghiêm khi thấy tôi đang nhìn. Chờ hai người đi sát gần, tôi mỉm cười, chào cầu tài. Hai cô cau mặt nhìn nhau như thầm hỏi: không biết ông Thiếu úy BĐQ chào ai.

Tôi cảm thấy mình vô duyên, có quen biết gì đâu mà chào. Nếu không phải vì nụ cười vừa kiêu ngạo, vừa khuyến khích trên khuôn mặt đẹp, cặp mắt to, chắc không bao giờ tôi đủ can đảm theo chân cô bé vào buổi chiều nóng khô, không chút gió, buổi chiều cuối hè. Những cây Phượng thật cao dọc theo đường phố chỉ còn hoa rải rác, họa hoằn lắm mới có một cành hoa rơi nhẹ xuống mặt đường. Dù chỉ nhìn thoáng qua thôi, tôi cũng nhận ra cô gái có mái tóc thề vừa chấm bờ vai, khuôn mặt thoang thoảng nụ cười nghịch ngợm, kiêu sa. Có một cái gì thật cuốn hút và gần gũi. Hai cô gái vẫn tiếp tục đi và tôi vẫn nghe vang tiếng cười. Tôi nhủ thầm: Gớm chuyện gì mà vui thế - Hai cô coi khách qua đường như không có, bản tính cố hữu của những cô gái đẹp và biết mình đẹp. Cô gái, vâng, chính cô gái tôi thầm chọn ngoái đầu nhìn lại như tìm kiếm người nào. Cô thấy tôi vẫn ngồi trên xe, cô cười thật nhanh và quay lại tiếp tục đi - Tôi thẫn thờ, nụ cười như mời gọi làm tôi khó xử. Hai tà áo dài sắp sửa rẽ sang trái lên dốc Diệp Kính, tôi vẫn cứ nhìn theo. Làm gì bây giờ, đi bộ theo sau thì kỳ lắm - Cuối cùng, như không cưỡng nổi, tôi nổ máy và chiếc xe như bị nam châm cuốn, cứ rề rề theo sau hai tà áo trắng. Ý tưởng được quen và nói chuyện với hai cô gái làm tôi phấn chấn hẳn lên.
Cô gái quay mặt lại, một thoáng ngạc nhiên khi thấy chiếc xe đã gần sau lưng. Cặp mắt ánh nét vui, nụ cười ngạo nghễ như thầm nói: "Tôi biết thế nào ông cũng phải theo tôi"- Có lẽ cũng đã nhiều người trước tôi như vậy. Chỉ còn vài bước nữa là tôi chạy ngang hai cô. Cô gái nói nhỏ với người bạn, rồi cả hai bước vội vã băng ngang sân nhà thờ, mất hút. Tôi muốn bỏ xe đi theo, nhưng e ngại. Đối với những người như hai cô này, sinh ra để làm khó những anh chàng si tình, phải lui một bước vậy. Đừng dại dột làm chiếc bóng, sẽ chẳng bao giờ gần được chiếc hình đâu. Tôi dừng lại tiệm tạp hóa, mua một gói kẹo, định bụng đem về cho người lính giúp nấu ăn, giờ này chắc cậu ta cũng đang chờ tôi về ăn cơm.

Tiểu đoàn khi không hành quân, ở hậu cứ, những người có gia đình ra trại gia binh, còn những người độc thân nằm trong trại. Tôi, hai người truyền tin, người lính ô đô, đều độc thân nên tụi tôi ăn cơm chung, nói chuyện gẫu như một gia đình nho nhỏ. Đêm đó, tôi nằm trên võng cứ vẩn vơ nghĩ về cô gái, nhất là nụ cười và đôi môi đỏ của cô .... tôi thiêm thiếp chìm vào giấc ngủ, tai còn mơ màng nghe tiếng ai đó ca:
Em đến thăm anh một chiều mưa, mưa dầm dề đường trơn ướt tiêu điều - Em đến thăm anh người em gái .... tà áo hương nồng.... mắt duyên trìu mến, sưởi ấm lòng anh .......

Sáng hôm sau, đang nhâm nhi ly và phê với mấy thằng bạn cùng khóa, cùng về Tiểu đoàn một lần, đang nói chuyện về những ngày dạo phố, đánh billard tại Hồng Ngọc, ăn chè ở đường Minh Mạng ĐàLạt, truyền tin mời đi họp - Thôi tan hàng Tự Thắng.

Tiểu đoàn nhận lệnh hành quân 10 ngày. Tôi tập họp trung đội, ban lệnh chuẩn bị, một ngày cơm nóng, ba ngày cơm sấy, hai đơn vị đạn. Xe tới, đi mở đường đèo An Khê, chạy ngang qua dốc Diệp Kính, trước khi rẽ theo quốc lộ 19 - Tôi cứ nhìn hai bên đường, biết đâu chẳng thấy tà áo trắng, làm gì có - Trở về thực tế, tôi chăm chú nhìn vào bản đồ, hết giờ mơ mộng. Đường đi An Khê không xa lắm, xuống xe chuẩn bị đóng quân đêm. Ngày hôm sau giữ đường. Hành quân mở và giữ đường rất nhàm chán, nhưng nếu lơ là thì bị phục kích ngay. Tôi luôn luôn cho lục soát kỹ hai bên đường, vào sâu trong rừng ít nhất 100 thước. Nhiều đơn vị ỷ y, tới là rải quân, tụi VC sẽ điều động từ xa tấn công, rất nguy hiểm. Vào buổi sáng, sau nhiều ngày mở đường, VC biết quy luật, lại càng phải cẩn thận. Tôi dặn dò binh sĩ lục soát kỹ, canh gác kỹ - Khi hành quân tôi rất cẩn thận, lúc súng nổ hăng máu thì liều lĩnh, nhưng khi về hậu cứ thì hơi khó kiếm. Không hành quân, tôi nhất định phải ra phố: cà phê, billard, nếu có tiền thì vào phòng nhảy, nếu không thì kiếm đào mang theo, chỉ phải mua hai chai nước thôi, tính tôi ham vui nên luôn luôn thích không khí vũ trường.

Buổi chiều ngày thứ mười, mặt trời sắp ngả sau mấy cây thật lớn, có lệnh sẵn sàng, khi có xe tới thì lên xe. Tôi ban lệnh miệng cho trung đội, khi người lính cuối cùng lên xe, đoàn xe hướng về Pleiku. Tôi rất vui, gọi máy cho Trung úy Châu: Ngày mai Trung úy cho tôi mượn xe nghe! Trung úy Châu cười dễ dãi - Ông ta có vợ con, những ngày không hành quân, chỉ loanh quanh ở nhà, mọi công việc ở hậu cứ đã có tôi, bù lại, ông luôn giao xe cho tôi - Ông cũng tâm lý lắm, hết tiền thì có năn nỉ tôi cũng không ra khỏi trại.

Trưa hôm sau, cũng vẫn bổn cũ soạn lại, đang nằm tòn teng trên võng, đọc mấy tờ báo, nghe radio thì tài xế đem xe tới:
-Trung úy Châu nói Thiếu úy cứ lái xe đi, tới tối cũng được, xăng đổ đầy rồi. Thiếu úy có cần tôi theo xe không? Anh ta còn hỏi.
- Thôi, anh ở nhà đi. Ngày mai nhớ ghé mang xe trả Trung úy.

Lái một vòng thật lớn tại Pleiku, xuống ngã ba Thiết Giáp, lên khu Chợ Mới, chạy lên đồi Pháo Binh, ngang qua trường trung học. Mùa hè, trường đóng cửa, cuối cùng trở lại đường Hoàng Diệu. Đậu xe, đi bộ dọc theo phố, chẳng biết bắt đầu từ đoạn nào, phố vắng người. Ngang mấy tiệm tạp hóa, tiệm may, tiệm phở và chè Diệp Kính, tôi nhìn vào quán, chiếc bàn gần cửa có bóng ai ngồi quay mặt vào trong, chiếc áo dài trắng hơi lạ, hai cánh tay gần vai có khuyết và luồn giây màu đỏ. Tà áo trắng làm tôi chăm chú, sao giống cô bé tôi gặp bữa nào vậy. Trở lại một lần nữa, khi biết chắc chính cô bé đã làm tôi mơ mộng suốt ngày đang ngồi một mình, tôi bước vào quán, đi thẳng tới bàn cô, đột ngột hỏi :
- Xin lỗi cô, tôi có thể ngồi chỗ này không?

Ánh mắt cô nhìn sang các bàn trống bên cạnh như thầm nói: "Sao ông rắc rối vậy? Bàn trống thiếu gì sao không ngồi!" Cô trả lời:
- Tôi không phải là chủ, thiếu úy hỏi chị kia kià.

Nói rồi cô chỉ ngay người ngồi ở quầy tính tiền. Tôi tảng lờ như không nghe, kéo ghế ngồi đối diện. Cô bé nhìn lên trần nhà, cố dấu nụ cười. Chắc cô ngạc nhiên, tôi hơi lỳ lợm. Tôi hỏi tiếp:
- Cô kêu gì chưa, tôi mời cô ly chè được không?

Cô gái không dấu nụ cười ngạc nhiên, chắc cô thầm nghĩ: "Sao lại có người tự nhiên như vậy nhỉ! Không quen, không biết mà lại làm ra vẻ thân thiết ". Cô trả lời chậm rải:
- Cám ơn, tôi kêu rồi. Tôi chờ anh tôi thôi!

Tôi hơi thất vọng nhưng định bụng nếu anh cô tới thì cứ như người xa lạ (tất nhiên là xa lạ). Hai ly chè lạnh mang ra, nhìn hai ly chè cùng loại, tôi nói:
- Cô cũng thích chè Sâm bổ lượng? Vậy là mình giống nhau nhỉ!

Chờ thật lâu không thấy ai tới. Tôi nhìn cô bé, thấy cô vẫn ngồi thản nhiên ăn từng miếng nhỏ. Nhìn thái độ của tôi, cô ta như đọc được ý nghĩ, nên mỉm cười nói:
- Tôi không muốn ông ngồi chung bàn nên nói vậy thôi chứ có chờ ai đâu!

Nghe vậy, tôi như được tăng thêm hy vọng nên mạnh bạo lên tiếng:
- Tôi lại thích được ngồi cùng bàn và được quen với cô nữa! -
- Quen tôi? Cô bé cười, hỏi gặng lại.

Tôi mừng vì cô ta bắt đầu trả lời. Chỉ cần trả lời là được, có nhiều hy vọng tiến tới ....
Chỉ sợ mấy cô lạnh lùng. Tôi gợi chuyện tiếp:
- Xin lỗi cô tên gì cho tôi biết để dễ gọi!

Không trả lời, có lẽ đây là câu hỏi ... khó - Mới gặp nhau đây, làm gì đã cho biết tên được - Tuy không trả lời nhưng cô cũng không vội vã, cô vẫn thư thả ăn từng miếng nhỏ. Chiếc muỗng chạm nhẹ vào thành ly tạo nên những tiếng lanh canh nghe êm tai. Tôi nhận ra cô gái không muốn ăn nhanh, cố kéo dài thời gian - Tiếc rằng câu chuyện của tôi và cô bị ngắt quãng, nên tôi cũng chỉ biết ngồi nhìn cô ta mà thôi. Cuối cùng hai ly đá lạnh mang ra, cô cầm chiếc ví nhỏ lên. Thấy vậy tôi nhanh hơn đi trước tới quầy trả tiền. Khi cô bé đưa tiền cho người chủ, chị ta thảng thốt:
- Chết, chị xin lỗi. Chị tưởng em đi chung với Thiếu úy đây nên nhận tiền lỡ rồi! Hay để chị trả lại nghe!
- Thôi ! lần sau cô trả cũng được. Tôi cười.

Cô bé miễn cưỡng cám ơn rồi ra khỏi quán.

Tôi ra trước, nán lại chờ để cùng đi với cô. Nhưng cô bé khôn ngoan đã rẽ ngay vào hàng vải. Tôi lững thững một mình, thấy tiêng tiếc một dịp làm quen đang thuận tiện, nhưng tôi tự an ủi: Thôi ! Vậy cũng đủ rồi, còn có dịp khác nữa mà! Tôi về Biển Hồ mà lòng phơi phới. Một ngày của đời lính độc thân, nếu không có hành quân và nếu không có một bóng hồng để tâm sự thì đúng là dài lê thê.

Chiều đến, có lệnh họp hành quân. Tiểu đoàn hành quân Kon Tum, chỉ hai chữ Kon Tum thôi cũng đã hứa hẹn hành quân dài ngày và nguy hiểm. Đoàn xe theo quốc lộ 14 đi Kon Tum, bốn mươi cây số, nhưng phải mất hơn hai giờ xe, vì lý do an ninh. Lệnh tiếp tục đi Tri Đạo, Tân Cảnh. Đêm đó đóng quân tại một trường học bỏ hoang, sáng hôm sau vào rừng, đi ngược lên phía Bắc. Đi đã mấy ngày, rừng rậm, cây lớn. Khoảng ba giờ chiều đã phải dừng quân, đóng quân sớm để đào hố phòng thủ cũng như bố trí các toán tiền đồn, canh gác.

Ngày kế tiếp, trung đội tôi đi đầu đội hình, tôi đi thứ năm, sau tôi là hai truyền tin và bảo vệ sát theo - Khoảng xế trưa, vượt một khoảng tranh lớn, kế tiếp một trảng tranh nhỏ, vừa vào cánh rừng thì thấy lố nhố Việt cộng, quần áo xám tro, chính quy Bắc việt - Tôi vừa la: "phục kích", thì hàng loạt đạn quét về phía đội hình. Tụi tôi dạt sang một bên, cố tìm những cây để che đạn. Hai người truyền tin theo chân tôi, kèm theo ba người lính kế tiếp nữa - Đạn bắn như mưa. Tôi thật sự hoảng hốt, cầm ống liên hợp máy báo cáo. Mấy trung đội phía sau cũng ào hàng ngang lên. Một loạt đạn quét ngang mặt đất, tôi trúng đạn. Cạnh đó hai người lính nữa cũng trúng đạn. Tôi bị ngã nằm xuống nhưng vẫn cố đưa tay ngoắc mấy người lính kế cận, ra dấu hiệu bắn tối đa và chuyển qua hàng ngang - Đạn đủ loại nổ dòn, trên trời, chiếc L.19 nhào qua lại rồi rời khoảng trời cho pháo binh yểm trợ. Tiếng pháo binh bắt đầu nổ, Súng đôi bên vẫn tiếp tục nổ, tiếng máy truyền tin trao đổi, trung đội tôi vẫn nằm tại chỗ nhả đạn liên hồi, quyết không để cho VC xung phong. Hơn nửa giờ sau, tiếng súng bắt đầu thưa dần. Y tá chuyển tôi và những người bị thương ra gần trảng tranh chờ tản thương - Mấy thằng bạn biết tôi bị thương gọi máy hỏi thăm tới tấp - Vết thương trúng chân trái, chiếc giày MAP đã được cởi ra để bên cạnh, chỉ còn một chiếc. Tiếng máy bay trực thăng tới gần, chúng tôi sáu người được cõng chạy ra hai chiếc máy bay. Cả súng đạn, cả ba lô và chiếc giày bị lủng ngang mắt cá đều được đưa theo tôi.

Trực thăng đưa tôi về bệnh viện Hai Dã Chiến. Vết thương trúng chân không đến nỗi tệ, được bó bột tới đầu gối. Còn năm người lính trung đội tôi thì hai người bị nặng, ba người khác nhẹ ...

Nằm bệnh viện, ngày nào cũng có quà ủy lạo, kem đánh răng, sữa hộp, kẹo bánh, giấy viết thư, khăn mặt v...v.. Tôi chia bớt cho mấy người cũ, ít ủy lạo hơn. Tôi chợt nghĩ đến người đẹp Pleiku, giờ này mà gặp mặt thì vui biết mấy. Tôi ao ước được gặp lại khuôn mặt trái xoan, nụ cười xinh và mái tóc của cô nữ sinh. Tôi nhớ giọng Bắc ngọt ngào, cách trả lời thông minh của cô bé. Nằm bệnh viện Hai Dã Chiến mười ngày, có lệnh chuyển về Pleiku - Tôi chia phần quà còn lại cho mọi người, quần áo, ba lô, đôi giày lủng theo tôi nằm ngay ngắn dười chân băng ca, gia tài tôi chỉ có vậy - Máy bay tới, tôi bắt đầu từ giã mọi người. Ai cũng chúc tôi mau lành, gặp lại gia đình v...v... Tình chiến hữu làm tôi cảm động. Trực thăng đáp xuống ngay Quân Y Viện Pleiku. Tôi được đưa về Ngoại Thương Hai. Trung sĩ Sơn, y tá trực đưa tôi về phòng bệnh dành cho sĩ quan, vừa đi vừa nói với tôi:
- Thiếu úy nằm một mình. Tháng trước bốn giường đầy hết. Ngày mai bác sĩ sẽ khám vết thương. Nếu cần gì Thiếu úy cứ mở cửa phòng gọi tôi.

Tôi nhìn quanh. Phòng có bốn giường, sạch sẽ. Tôi lựa nằm giường gần cửa sổ. Chỉ một chút xíu sau, đợt khách đầu tiên tới thăm tôi. Họ là những người bị thương trước, có người đã nằm ở đây cả năm, đủ loại thương tật. Họ cởi mở, vui vẻ làm tôi cũng vui lây. Tình lính thật chân thành và nồng nhiệt. Một người lên tiếng:
- Thiếu úy muốn mua gì kêu tụi em. Tụi em xuống Câu Lạc Bộ hay ra Pleiku mua cho!

Nằm bệnh viện Pleiku được bốn ngày, tôi đã quen quen, nên thường đẩy xe lăn ra phòng Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ đánh cờ, uống cà phê, tán dóc. Bác sĩ nói vết thương của tôi phải bốn tháng mới lành hẳn - Bốn tháng! Biết làm gì cho hết! Chiều nay thứ bảy, đang ngồi trên xe lăn xem chơi Domino, Trung sĩ Sơn gọi:
- Thiếu úy về phòng đi. Phái đoàn học sinh ủy lạo tới!

Tôi lăn xe về phòng. Chưa tới cửa phòng thì từ ngoài hành lang, một toán học sinh ùa vào, nói cười vui vẻ. Hình như họ đã quen với không khí bệnh viện và đã vào thăm nhiều lần. Một cậu học sinh đi đầu, tới người thứ hai, tôi nhận ra cô bé. Cùng lúc đó, cô bé cũng nhận ra tôi, dù màu áo xanh bệnh viện làm hơi lạ đi - Cô đứng lại, trố mắt, thảng thốt kêu lên:
- Ô! Anh. À Thiếu úy làm sao vậy? Thiếu úy bị thương hả?

Cô bé vừa nói vừa nhìn vào chiếc chân bó bột, hai hàng nước mắt tự nhiên chảy trên gò má. Nhìn dòng nước mắt của cô, tôi thật cảm động và sung sướng. Qua phút sửng sốt ban đầu, cô bé đã lấy lại bình tĩnh, cô nói:
- Để em đẩy xe anh vào phòng nhá! Anh nằm phòng sĩ quan hả!

Hai tay cô đẩy chiếc xe thành thạo, trở về phòng của tôi, theo hướng ngược chiều với toán học sinh đang mang đầy quà bánh bước vào. Cả toán ai cũng nhìn tôi với cô bé, tôi chợt nghe có tiếng gọi nhìn lên:
- Màu! Ai vậy?

Tôi nhận ra cô bạn của Màu, cô cũng chợt nhận ra tôi. Một chút sững sờ, cô im lặng cúi đầu chào và hỏi nhỏ:
- Thiếu úy bị thương hả? Thiếu úy có đau lắm không?

Tôi ngỏ lời cám ơn cô và tiếp:
- Mấy ngày đầu cũng đau lắm, nhưng bây giờ thì hết rồi.

Quay sang Màu, thấy nước mắt còn đọng trên mi mắt, cô ta nói:
- Ồ! Sao Màu lại khóc? Đáng lẽ phải cười chứ vì anh ấy vẫn được bình an mà!

Quay sang tôi cô ta nói:
- Thiếu úy biết không, ngày nào Màu cũng kể cho em nghe Màu gặp Thiếu úy trong quán chè. Màu nói chưa bao giờ gặp ai kỳ như Thiếu úy. Tôi hỏi:
- Thế dễ thương hay dễ ghét?
- Màu nói "Dễ thương". Cô ta trả lời thật mau.
- Thôi Trâm ơi! Mày im lặng cho tao nhờ chút đi! Nói xong Màu quay chiếc xe lăn, với tay mở cửa kéo tôi vào phòng.
- Anh nằm một mình hả?

Tôi gật đầu, bước ra khỏi xe lăn. Màu đưa tay đỡ tôi. Tôi lò cò về giường. Tôi nói với Màu:
- Em chịu khó ngồi đây chút nhé! Phòng không có ghế. Màu ghé ngồi lên cạnh giường, đưa mắt tò mò nhìn quanh phòng. Có lẽ thấy tôi nằm một mình một phòng nên hỏi:
- Anh ngủ ở đây có ....sợ không?
- Sợ gì? Tôi hỏi lại.

Màu im lặng, mắt liếc đọc bảng định bệnh của tôi treo ở đầu giường rồi hỏi:
- Anh bị thương ở Kon Tum hả? Gia đình có ai thăm chưa? Anh có muốn gửi thư cho .... vợ anh không? Anh viết vài dòng chiều em mang gởi cho. Hay anh muốn em đánh điện tín cho mau!

Nghe Màu hỏi, tôi biết Màu cũng tò mò, muốn hỏi khéo về đời tư của tôi. Tôi lại không muốn để Màu biết dễ dàng như bản lý lịch của một Thiếu úy ra trường Võ Bị, trăm phần trăm độc thân, tôi trả lời dứt khoát:
- Anh không muốn ba má anh lo lắng. Má anh sẽ đôn đáo đi thăm. Anh độc thân thì biết gửi thư cho ai bây giờ. Em muốn nhận thư anh không?
- Lần nào em thăm các anh thương bệnh binh em cũng nghe câu: "Anh còn độc thân". Ai nghe cũng thảm não hết. Em không nhận thư anh đâu! Màu vênh váo trả lời.

Câu chuyện cứ tiếp tục. Màu hỏi tôi. Tôi kể từng đoạn một, đời học sinh, đời sinh viên ở Sài Gòn, đời sinh viên Võ Bị. Màu nghe, thỉnh thoảng cũng hé cho tôi biết chút xíu về gia đình Màu. Màu có hai em, gái kế và chót là em trai. Đầu năm học tới, Màu bắt đầu vào Đệ Nhị. Tôi hỏi Màu chọn gì, Toán hay Vạn Vật? Màu nói:
- Em chẳng biết chọn gì. Em dốt Toán, lại lười nữa. Anh chọn cho em đi!
- Đẹp như em thì học gì chẳng được! Tôi nói.
- Anh nói dễ thương ghê đi ! Lần đầu tiên nghe người khen em đẹp đấy ! Màu cười dễ dãi.
- Lần đầu tiên anh khen một người đẹp đấy ! Tôi đáp lại.
- Em không tin!

Câu chuyện dẫn tới Đà Lạt. Màu hỏi tôi:
- Đà Lạt đẹp lắm phải không anh? Mấy cô Đà Lạt đẹp nổi tiếng ghê lắm. Em có ông chú, bạn thư tín với một cô ở Đà Lạt. Cô gửi hình, thấy mà mê luôn. Em thích phong cảnh Đà Lạt nữa. Có mấy thác nước. Nghe nói hồ Than Thở, vườn Bích Câu, thác Prenn mơ mộng lắm phải không anh. Thế nào em cũng phải lên Đà Lạt mới được! Tôi nói nhỏ:
- Người ta nói đừng bao giờ lên Đà Lạt một mình. Thành phố của những cặp tình nhân, những đôi vợ chồng mới cưới hưởng tuần trăng mật. Em đi Đà Lạt một mình buồn lắm... Hay em chờ anh được nghỉ phép, anh làm hướng đạo cho em.
- Thôi đi! Em với anh đâu đã quen. Anh khôn quá đi. À quên! Anh có nhiều bạn gái không?
- Ngay cả một người cũng không có. Tôi trả lời chắc nịch:
- Ai tin. Mấy ông sĩ quan Đà Lạt nhiều cô thích lắm.

Tôi chuyển hướng câu chuyện:
- Gái Pleiku đẹp ghê đi!
- Anh nịnh đầm lắm, em bất ngờ luôn đó. Pleiku chắc ....không thích anh đâu .... Màu tiếp luôn giọng đùa cợt:

Câu chuyện chợt ngừng khi cánh cửa phòng bật mở. Toán học sinh, có cả cô bạn của Màu ùa vào. Cô bạn đưa hai gói quà cho Màu nói:
- Màu! Tặng chiến sĩ của lòng em đi!
- Mày đưa đi ! Màu chanh chua.

Một giọng con trai nói lớn:
- Màu phải hát nữa. Thiếu úy biết không, Màu ca hay nhất trường đấy.

Màu nhăn nhó, cuối cùng cầm hai gói quà đến trước mặt tôi nhỏ nhẹ:
- Thay mặt học sinh trường Trung học Pleiku, em và các bạn chúc anh mau lành bệnh và sớm về gặp người yêu.

Tôi thắc mắc :
- Sao lại hai gói? Có gì lạ không?
- Thiếu úy đặc biệt mà. Cô bạn Màu liến thoắng.

Tôi cầm hai gói quà, nhìn Màu, nói đùa, nhưng thật chậm để mọi người cùng nghe:
- Tôi nhận quà, nhận lời chúc đầu, trả lại em lời chúc thứ hai.
- Tại sao? Tại sao? Mọi người cùng nhao nhao lên hỏi.
- Tại tôi chưa có người yêu mà! Tôi vui vui.
- Thiếu úy sẽ có. Ai đó nói tiếp.
- Thiếu úy có duyên lắm đấy. Chưa bao giờ Màu ngồi với ai được nửa giờ. Trâm, bạn Màu thêm vào.

Cả toán lại rời phòng và dặn Màu :
- Tụi tôi đi thăm Ngoại thương Một và Nội Thương Một rồi trở lại. Màu cứ ở đây nghe!

Câu chuyện giữa tôi và Màu càng lâu càng vui. Màu bớt e ngại và nói chuyện một cách rất vui vẻ, thông minh và hóm hỉnh. Chợt Màu nhìn xuống ngón tay áp út của tôi đang đeo chiếc nhẫn Đà Lạt nhận hột màu đỏ. Tôi làm bộ lấy tay che. Màu càng tò mò, Màu năn nỉ:
- Nhẫn đẹp ghê. Anh cho em xem đi.
- Không được. Lần tới em đến thăm, anh cho xem và kể cả tiểu sử chiếc nhẫn nữa. Tôi ỡm ờ, bí mật.
- Hay ghê hé! Tiểu sử có dài không anh?
- Dài lắm!

Gần hai giờ đồng hồ trôi qua. Sợ Màu khát nước, tôi nhờ Màu:
- Em ra phòng ngoài, tới giường số 5, mượn cho anh bình nước và ly.

Màu nhanh nhẹn đi, chút xíu sau mang vào hai ly nước. Màu hỏi ngay:
- Lính cùng đơn vị anh hả? Lần tới em không làm dùm anh nữa đâu. Họ ghép em với anh, như em là người yêu anh vậy.

Nghe thế, tôi nói thật nhỏ:
- Họ nói đúng đấy!
- Anh nói lại đi!!! Màu kêu.

Tôi không bao giờ có dịp nói lại. Vì kể từ ngày hôm đó, tôi và Màu yêu nhau.

Bỗng có tiếng Trâm kêu ngoài cửa phòng:
- Màu ơi về thôi! Xe chỉ còn thiếu mình mày.

Màu đứng dậy thảng thốt:
- Chết, em phải về. Anh nhớ giữ gìn sức khoẻ nha! Em sẽ trở lại thăm anh.
- Mai nhé! Tôi hăm hở.
- Không được đâu!
- Thế bao giờ?

Màu không trả lời. Tôi nhờ Màu đưa cặp nạng. Màu biết ý cản tôi:
- Thôi! Anh ngồi đây đi. Em ra một mình cũng được.

Tôi nhất định không chịu. Cuối cùng chiều ý tôi, Màu dịu dàng đi bên cạnh. Cả toán học sinh trên xe vỗ tay khi thấy tôi và Màu xuất hiện. Màu vừa đi vừa châm chọc:
- Sao anh không giống lính chút nào vậy? Lính gì mà trắng trẻo. Môi lại đỏ như con gái. Anh biết không, bữa gặp anh ở quán chè, em về nói với Trâm, ông Thiếu úy đó sao thấy "sữa" quá.

Chợt như nhớ ra, Màu hỏi:
- Anh cần gì không để em mua vào?
- Đừng mang gì cả. Em thấy đó, giường của anh đầy quà bánh, để chỗ nào nữa! Sợ Màu buồn, tôi cắt nghĩa thêm.
- Anh không hút thuốc phải không ? Anh thật đặc biệt. Em thấy ai cũng hút thuốc, nhất là mấy anh lính.
- Màu thích anh hút thuốc hay không?
- Ơ kià! Sao anh lại hỏi em? Làm như em có quyền lắm đấy.
- Em có quyền ngay từ khi lần đầu tiên anh gặp em dưới phố.
- Anh nịnh ghê. Nếu vậy thì em không muốn anh hút thuốc, được không?
- Được chứ! Em về, mỗi ngày viết một lá thư. Cuối tuần thăm, mang vào cho anh.
- Em không viết thư đâu. Viết thư dở lắm, sợ anh liệng đi không kịp. Hơn nữa, vài bữa khi tin anh bị thương tới tai mọi người, anh thiếu gì thư đọc.
- Một ngày rất gần thôi, em sẽ thấy em lầm. Chẳng ai thăm anh cả, chỉ mình em thăm thôi. Đến khi đó em lại cấm: "không ai được thăm anh đâu nhé!"
- Lần tới anh phải cho em xem chiếc nhẫn của anh và kể tiểu sử như anh hứa. Anh nợ em đấy. Màu im lặng suy nghĩ, cuối cùng nhắc tôi.
- Anh hứa, nếu em muốn. Chiếc nhẫn sẽ vào tay em.
- Không, em sợ lắm.

Tay vịn vào chiếc thang lên xe. Mắt nhìn tôi, em nói vừa đủ mình tôi nghe:
- Thôi em về. Anh vào đi.

Trong ánh mắt thật đẹp của Màu, tôi đã đọc được tất cả những gì nàng muốn nói ra.

Chiếc GMC từ từ lăn bánh. Cả toán học sinh vẫy tay chào. Tôi đứng nhìn theo. Hai cô bạn ngồi cạnh ghé tai nói gì với Màu. Chỉ thấy Màu đấm thùm thụp trên lưng hai người.

Tôi vẫn đứng cho tới khi chiếc xe khuất sau hàng dương ngoài cổng bệnh viện, mới tập tễnh đôi nạng đi vào. Trời về chiều, ánh nắng vàng chiếu nhè nhẹ vào mặt tôi, vui vui và ấm áp ....

Posted by: caoduy Feb 10 2010, 06:47 PM




Tử chiến trong nghĩa địa


Người sống cũng sống không yên. Người chết cũng chết không yên. Và thành phố Kontum cũng sẽ thành nghĩa địa nếu chúng tôi thua trận. Trận tử chiến trong nghĩa địa gần như quyết định số phận thành phố sương mù này.

Tân Cảnh, bản doanh của Sư Đoàn 22 đã thất thủ. Gió hú trên đỉnh cây, sương sa trên đỉnh núi, Tân cảnh phủ một mầu tang. Anh em đau lòng trước những mất máu của quân bạn. Hàng ngày, Chi Đoàn mở đường lên Võ Định để tiếp ứng những cánh quân còn lại của Sư Đoàn 22 và Lữ Đoàn Dù. Trung tá Dù Nguyễn Đình Bảo vắng mặt Anh không trở lại. Anh vĩnh viễn nằm lại Charlie cùng với xác thân anh em Dù Tiểu đoàn 11...

Đoạn đường trách nhiệm ngày càng rút lại, hôm nay tới Ngô Trang, ngày mai tới Ngã Ba Vườn Thơm. Bắc quân bám theo bước lùi của quân ta để tiến dần về Kontum. Uy hiếp và chiếm Kontum không còn là ý đồ, mà là mục tiêu quyết định của Bắc quân. Kontum căng ra từng buồng phổi. Kontum căng ra từng hơi thở. Trận thư hùng đẫm máu đang thành hình trong từng bước di quân, cả Nam quân lẫn Bắc quân. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Cái giá bảo vệ Kontum đã quyết định trong đầu tư lệnh Sư Đoàn 23 Lý Tòng Bá và những người chiến binh dưới quyền đủ mọi binh chủng.

Vị trí các cánh chuyển quân của địch đã buộc đội hình phòng thủ của Chi Đoàn phải thích ứng theo. Lúc đầu, Chi Đoàn đóng chốt tại mặt Tây Bắc thành Dak Pha, rồi chuyển qua khu nhà đổ nát cũ của cố vấn Mỹ, nơi đã bị phá huỷ trong trận Mậu Thân, và cuối cùng, các vết xích sắt lại lăn qua doanh trại cũ của Chi Đội Cơ Giới V.100 của Tiểu Khu, nằm về phía Bắc của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, bên cạnh nghĩa trang, sát con lộ dẫn đi Tân Cảnh. Đến vị trí được chỉ định sau cùng này, khi mấy đứa con đã về đầy đủ, tôi bốc máy:

- Gia đình Tài Lực cần họp mặt Cần gặp Alpha và Bravo! Nghe rõ!
- Alpha rõ 5!
- Bravo rõ 5!

Trong buổi họp khẩn của bộ tham mưu Chi Đoàn, cánh Alpha gồm 6 chiến xa án ngữ mặt Bắc và kiểm soát con lộ từ Tân Cảnh về Kontum. Cánh Bravo gồm 10 chiến xa giữ mặt phía Tây, ẩn nấp trong các căn nhà đổ nát. Chiến xa nằm chìm sâu dưới các ụ đất do xe ủi đất ủi với một bờ thành bảo vệ xe. Các cấu trúc này lẫn lộn trong các vách nhà đổ nát nên vị trí các chiến xa được dấu kín, khó mà bị địch phát giác từ xa. Ngoài những ụ ngầm, doanh trại của Chi Đội V. 100 còn có những ụ lộ thiên bao bọc bằng những thùng phuy đầy cát với 2 lớp bao cát xếp bên ngoài tương đối khá an toàn cho chiến xa.

Khi tất cả chiến xa đã nằm trong vị trí chuẩn bị và sẳn sàng chiến đấu sau lệnh của Sư Đoàn ban ra sáng ngày 14/4/1972, tôi và các sĩ quan thay nhau thăm từng ụ chiến xa, coi lại nhiên liệu, đạn dược, viếng từng xa đoàn. Tin tức cho biết Bắc quân đang tiến gần về Kontum. Ngày đêm, tinh thần mọi người căng thẳng, chờ đợi một trận đánh kinh hồn, không thắng là khắp vị trí tác chiến sẽ thành tử địa, không thắng thì Kontum sẽ tan tành vào tay địch, không có đường lui. Tôi nhìn sau vào các nẻo đường mà địch có thể tấn kích ban ngày, tôi nhìn như xé màn đêm các vị trí khả nghi mà địch có thể tập kích ban đêm, ngày hay đêm gì thì tất cả gia đình Thiết Kỵ và Sư Đoàn 23 cũng phải một là giữ cho được Kontum, hai là phục hận Tân Cảnh, cho Charlie, cho quân bạn.

Đêm lạnh và yên lặng Gần sáng, khi cây xanh còn mơ ngủ, bỗng chim muông thức giấc xạt xào và giật mình vỗ cánh hoảng hốt bay ở hướng phòng thủ của Trung Đoàn 44 Bộ Bịnh Trận chiến bắt đầu. Bắc quân tiến dần vào vị trí tấn công với sự yểm trợ của chiến xa T54. Lệnh báo động tác chiến ban ra. Các máy âm thoại mở thường trực để nhận lệnh:

- Bravo sẵn sàng khai hoả tối đa và chính xác khi địch xuất hiện trong tầm hiệu quả!
- Bravo nhận rõ 5!
- Alpha cho con cái cải cách qua khu trại cưa, sau những đống gỗ!
- Alpha nhận rõ 5!

Những đứa con đã dàn đội hình theo chỉ thi. Sau lưng chúng tôi là tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 45BB, phía ngoài khu nghĩa địa, gần bờ suối, đối diện sườn đồi trước mặt Từng phân đội một, từng xa đội một, mìn chiếu sáng và claymore được gài 2,3 lớp ở những vị trí chỉ định và hoả lực quân phòng thủ sẽ đổ lửa vào các mục tiêu.

Theo dõi máy, thì ra Trung Đoàn 44BB bị tấn công trước, vô cùng dữ dội tại Vườn Thơm. Tuyến phòng thủ này là một con lộ đất chạy dài từ Quốc Lộ 14 từ Kontum đi Tân Cảnh thọc xuống tới tỉnh lộ đi Polei Kleng. Một cánh quân khác của địch chuyển quân theo Quốc Lộ 14 tiến xuống khu đất phía Tây Bắc thuôc vị trí phòng thủ của Chi Đoàn. Tôi nhận được báo cáo nóng hổi của chiến xa nằm ngoài cùng cánh Alpha:

- Trình thẩm quyền, có tiếng động cơ xe di chuyển. Địch đã qua khỏi cống nước dưới con dốc và đang ép dần về hướng Nam đối diện Bravo!

Đêm Cao Nguyên sương mù, mưa lất phất, mắt thường khó phát giác mục tiêu trong khỏang xa 100 đến 200 thước. Bắc quân đã di chuyển nương theo màn đêm và màn sương mưa. Những hạt sương, những hạt mưa, những cơn gió núi sắt se ướp vào da thịt người chiến binh, phủ ướt đầu súng lạnh và vách sắt chiến xa lạnh lùng, mắt đăm đăm hướng súng về phía địch. Người lính đã phải vận dụng cả mắt, tai, mũi để nhận ra bóng địch, để nghe âm thanh di chuyển của chiến xa địch, để ngửi mùi xăng dịch hầu có thể biết trước địch và khai hoả trước địch.

Đầu tôi căng cứng khi tiếng máy của T54 càng lúc càng rõ dần vào khu vực trách nhiệm Tôi bỗng nổi giận: "Tụi mày tưởng có T54 là tụi mày ngon! Rồi ai ngon cho biết!" Tay tôi run run chụp ống liên hợp:

- 1,2,3! Đây Tài Lực! Bắn chính xác khi tank địch cách 200 mét, đạn xuyên phá siêu tốc C124. Tất cả nhận rõ.

- Nhận rõ! Alpha!

Tôi xoay nhìn về hướng cánh Bravo khi bất chợt hàng loạt mìn chiếu sáng vọt lên và nhận ra là bộ binh địch đang hàng hàng tiến vào khoảng giữa trường học và khu nhà đổ nát. Tiếng Trung uý Chinh, Chi đội trưởng Chi Đội 2 hét lớn trong máy:
- 1 và 2! Bắn!

Không gian đang như nghẹt thở theo từng vết xích lăn của T54 bỗng rùng mình trong biển lửa, trong một thứ âm thanh kinh người phủ chụp về hướng địch quân. Mười khẩu đại bác 76 ly 2, mười khẩu đại liên 12 ly 7 và 10 khẩu đại liên 7 ly 62 sau lệnh "Bắn!" của Chinh đã cùng lúc khạc đạn. Những tia lửa đạn đan chéo nhau chụp phủ lên đầu đich. Tiền binh địch bị lưới lửa quét giạt lui lại với vô số thân người gục ngã tại chỗ. Thành phần còn sống vội vã rút lui và núp sau các gò mối, cùng lúc các T54 địch tiến lên theo đội hình hàng dọc, đại bác trong vị thế bắn cầu vong.

Bên cánh Bravo, đại bác nổ liên tục Chợt hai tiếng nổ lớn cùng lúc với hai cột lửa phụt lên cao về hướng địch, tôi nghe Thiếu uý Đức hét trong máy:

- Trúng rồi! Hai con cua nướng T54! Mấy con khác còn chạy lòng vòng!

Chiến xa địch sau một phút hỗn loạn, nhận ra khu vực chiến xa chúng ta, chúng lấy lại đội hình tấn công và chuyển hướng bọc ra sau lưng vị trí của Chi Đoạn Đại liên 12 ly 8 và đại bác 100 ly của T54 ào ạt bắn vào hướng phòng thủ của Chi Đoàn 1/8. Hoả lực phản kích của địch cũng dữ dội không kém, không gian như muốn vỡ ra từng mảnh. Chỉ mới là những phút giây đọ sức đầu tiên, Bắc quân đâu bỏ cuộc dễ dàng. Trong lúc chiến xa địch ép ra Quốc Lộ 14 để tiến sâu vào thành phố thì bộ binh địch lợi dụng trời mưa bò sát vào gần vị trí chiến xa ta để xử dụng B40 và B41 trong lúc đạn vẫn nổ vang trời. Khi những thân người hối hả bò lết tiến dần vào vị trí giăng mắc đầy mìn claymore, chạm giây căng, mìn claymore nổ nơi nào thì đại bác chống biển người C120 nổ chụp vào nơi đó. Cánh Bravo đã bẻ gẫy âm mưu "thí một mạng, đổi lấy một chiến xa địch" .

Địa bàn cánh Alpha gồm một Phân Đội chỉ huy và một Chi Đội 3, tất cả được lệnh im lặng chờ đich. Các nòng súng vẫn còn ướt lạnh và câm nín. Gió vẫn vô tình thổi những hạt mưa bay, mây thấp lững lờ trôi, đội hình bộ binh tùng thiết địch chuyển dịch thận trọng và câm nin. Có lẽ họ có một chút an tâm khi không đụng sức chống trả trên đường tiến quân, họ không ngờ họ bắt đầu lọt dần vào vòng đai hoả lực của vùng trách nhiệm Alpha. Tôi cầm sẳn ống liên hợp trên tay tự lúc nào. Tôi chờ cái phút giây phải đến. Tôi bóp ống liên hợp:

- 3! Bắn!

Sáu khẩu đại bác gần như khai hoả cùng một lúc, các khẩu đại bác nổ quyện vào nhau thành một thứ âm thanh kinh khiếp, kỳ dị chụp lửa lưới vào mục tiêu. Chiến xa địch dẫn đầu trúng đạn, hai cột lửa màu cam phụt lên cao, các chiến xa còn lại và quân bộ chiến tùng thiết bị tấn công bất ngờ phải tháo lui và chạy tán loạn, đội hình bị vợ Bắc quân lui về bên kia bờ suối và khuất mất trong rừng cây.

Trời sáng dần. Những vệt nắng xuyên mây, chọc thủng màn sương mỏng đang tan dần trên chiến địa khi tiếng súng hai bên bỗng ngưng tiếng như 44 BB khi Bắc quân rút lui sau một đêm quần thảo mà không chọc thủng phòng tuyến nghỉ xả hơi sau hiệp thử lửa ban đầu. Tiếng súng cũng im tiếng trên vùng trách nhiệm của Trung Đoàn địch Khi đang sửa soạn kiểm soát lại vị trí và sắp xếp đạn được cho các khẩu đại liên và đại bác, Chi Đoàn bỗng nhận được chỉ thị của "mặt trời":

- Gia đình Tài Lực dzu lu cải cách khỏi vị trí, tăng cường cho 44, củng cố lại hệ thống phòng thủ! Nghe rõ

- Tài Lực nghe rõ 5!

Thế là Chi Đoàn di chuyển. Đại Đội 44 Trinh Sát cho mấy đứa con xuống tận đầu dốc để hướng dẫn chiến xa vào vị trí đơn vị bạn, cùng lúc Trung Đoàn 53BB nhận nhiệm vụ lục soát khu vực giao tranh đêm hôm qua. Dưới sự hướng dẫn của Bộ Binh, chiến xa rời vị trí, vượt cống nước dưới chân dốc, ép trái tiến vào khu Vườn Thơm. Thiếu tá Ngô Minh Xuân, Trung đoàn phó Trung Đoàn 44 cho biết tình hình địch và bạn Yêu cầu của ông là Chi Đoàn mở rộng đội hình để yễm trợ cho cả 3 Tiểu Đoàn tu sửa lại hệ thống hầm hố phòng thủ.

Tất cả chiến xa chuyển vị trí ra phía sau những giao thông hào của Bộ Binh được nguỵ trang và bảo vệ bằng lưới chống B40. Đây là loại lưới théo đan vào nhau, có thể căng rộng, thu hẹp, cuôn tròn lại dễ dạng Khi đạn B40 hay B41 đụng vào lưới, ổ mắt cáo của lưới mở ra, thân đạn vừa lọt vào thì mắt lưới thu hẹp lại giữ chặc cánh đuôi đạn để đạn không phóng được vào mục tiêu. Lưới được căng bằng 4 cọc sắt dài 3m2, đóng sâu xuống đất khoảng 0m80. Sự có mặt của chiến xa trên các vị trí của 44 chỉ là tạm thời. Buổi chiều, trước khi trời tối, sau khi 44 hoàn tất xong việc tu bổ các vị trí phòng thủ, tiếp tế và tản thương. Chi Đoàn rút về lại các vị trí hoạch định Khi xích sắt chiến xa lăn xích qua các đơn vị Bộ Binh, chúng tôi vẫy tay chào nhau, và sự dựa lưng thân thiết đó đã giữ phòng tuyến của chúng tôi vững hơn.

Chiến trường yên tĩnh không được bao lâu, vết thương của trận giao tranh ban đầu còn đau nhức, địch thay đổi chiến thuật bằng pháo., pháo dồn dập, pháo khắp các vị trí trong thành phố, pháo vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoạn Kontum tê liệt sau 2 ngày mưa pháo.


Đêm 17 rạng 18 tháng 4/1972, lợi dụng trời tối và sương mù, địch tấn công tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 45BB nằm về phía Nam con suối, cặp theo nghĩa địa thành phó về phía Bắc trại cưa. Bắc quân tập trung hoả lực trực xạ từ bên sườn đồi đối diện, đại bác 75 ly không giật của địch phá huỷ vị trí súng cộng đồng, hầm hố của lực lượng phòng thủ, Bộ Binh rút lui vào sau nghĩa địa sau nhiều giờ giao tranh với số thương vong cao. Vì đây là kháng tuyến chính bảo vệ thành phố nên việc vỡ phòng tuyến này làm Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn lo âu. Đại tá Lý Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Đoàn, lên máy khiển trách Trung tá Phùng Văn Quang, Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 45BB.

Đến hừng sáng, tiếng súng giao tranh giữa địch và bạn tại khu nghĩa địa vẫn còn dữ dội như hồi đệm Súng nổ mọi hướng. Tôi ngồi trong xe chỉ huy theo dõi sát tình hình giao tranh các nơi qua hệ thống truyền tin "không - lục". Gương mặt người hạ sĩ quan hiệu thính viên cũng căng thẳng như thượng cấp, bỗng anh trao nhanh ống liên hợp cho tôi:

- Trình Alpha! Tiếp chuyện cùng Quốc Bảo!
- Trình Quốc Bảo! Tài Lực nghe!
- Lệnh cho toàn bộ gia đình Tài Lực bằng mọi giá phải đẩy lui địch khỏi khu vực nghĩa địa, chiếm lại vị trí phòng thủ của Trung Đoàn 45!

Lệnh Quốc Bảo ban ra như thép. Tôi nhận lệnh và trả lời như cái máy:

- Trình Quốc Bảo. Nhận rõ!

Địa hình và tình hình thực tế quả là gay go. Sau khi 2 Tiểu đoàn Bộ Binh của Trung đoàn 45 bỏ vị trí lui về khu nghĩa địa, Bắc quân tràn ngập khu vực và bố phòng các vị trí Bộ Binh bỏ lại. Từ vị trí nơi các gò mả đến các hệ thống hầm hố bị địch chiếm là một khoảng trống 200 mét xa, Bộ Binh không có chỗ ẩn nấp khi tiến quân, không dễ dàng tái chiếm các vị trí đã mất trước hoả lực địch tác xạ từ các vị trí hầm hố và từ sườn đồi bên kia bờ suối. Làm sao phá thế phòng ngự của địch trước cái lệnh như đinh đóng của Quốc Bảo. Tôi suy nghĩ chớp nhoáng và gọi hai sĩ quan Chi Đội Trưởng cùng bò lên tuyến đầu để quan sát địa thế, ước lượng mục tiêu. Chúng tôi núp và bàn bạc công chuyện sau gò mả xây, nơi đặt Bộ Chỉ Huy TD3/45, sau đó bò về vị trí Chi Đoàn đêu quyết định kế hoạch tấn công.

Tôi phóng ống dòm vào trận địa mà gia đình chúng tôi sắp phải lao vào. Đó là khu nghĩa địa với nhiều mồ mả, có cái xây khá cao nên không thể dàn hàng ngang tấn công chớp nhoáng được. Tiến quân, chiến xa phải chạy chậm, len lách nên trở thành mục tiêu cho 75 ly không giật của địch từ bên kia bờ suối bắn trực xạ qua. Sau khi bàn thảo và liên lạc pháo yểm, gia đình Tài Lực xông vào trận ngay tức khắc. Chi Đội 2 và 3 lách mình len giữa các gò mả từ từ tiến lên, vừa qua khỏi khu nghĩa địa, không có thời giờ chấn chỉnh đội hình, tất cả chiến xa gầm lên, lao ngay vào tuyến địch, đạn bắn như mưa. Chi Đội 1 phóng chiến xa sát cạnh sườn trái chận chiến xa địch đánh ngang hông, cùng lúc, sĩ quan tiền sát pháo binh lập hoả tập, pháo binh rót TỌT ào ạt vào lưng đồi trước mặt để khoá họng mấy khẩu 75 ly không giật của địch, đồng thời không cho địch tiếp ứng. Trận đánh diễn ra như trong xi nê. Cùng với chiến xa chỉ huy, 2 Chi Đội đầu chỉa 10 nòng đại bác trực xạ vào khu vực giao thông hào cùng lúc, đại liên 50 trải dài khắp kháng tuyến địch, pháo binh TỌT tới tấp vào quả đồi trước mặt. Một trận thư hùng tuyệt đẹp.

Nhưng khi vết xích của 10 chiến xa vừa lăn tới khu đất trống thì pháo binh bỗng ngưng bắn, ngay lập tức, từ bên kia quả đồi, địch tập trung súng chống chiến xa bắn xối xả vào hai Chi Đội đang tiến quân, vài chiến xa bị trúng đạn bất ngờ nên khựng lại. Tình thế vô cùng nguy cấp. Tiền sát pháo binh hét inh ỏi trong máy:

- Tiếp tục TỌT gấp! Tại sao giữa chừng lại ngưng cho tụi nó ăn phở. Bao nhiêu phở cho hết vào! Tô lớn tô nhỏ gì cũng đổ hết vào đầu tụi nó ngay bây giờ! Gấp! Nghe rõ!
Trong lúc các chiến xa khựng lại, từ giao thông hào, địch hàng loạt nhô lên, đứng thẳng người phóng B40, B41 tới tấp vào đội hình ChiĐoạn. Trước tình thế nguy cấp sinh tử này, để tiếp hơi với Tiền Sát Pháo Binh, để cứu Chi Đoàn, anh em và cứu cá nhân mình, tôi chụp máy tiếp lời tiền sát pháo binh:

- Trình Quốc Bảo! Xin tối đa pháo binh gấp!

Và liền sau đó, tôi điều động một Chi Đội trừ bị phóng lên tác xạ tối đa vào vị trí súng chống chiến xa bên kia bờ suối. Pháo binh tiếp tục nổ lại, tất cả Chi Đoàn cùng với hoả tập pháo binh phóng tới, tập trung hoả lực vào kháng tuyến địch. Ngay lúc đó, qua hệ thống chỉ huy của Chi Đoàn, tiếng Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn Lý Tòng Bá thét lớn như thể ông đang đứng giữa đoàn chiến xa lâm trận:

- Tràn lên! Cán lên đầu tụi nó, đừng cho nó ngóc đầu dậy! Quốc Bảo luôn luôn ở cạnh các em!

Lệnh vừa ban ra, sau lưng như có một sức đẩy vạn năng, tức tốc tôi ra lệnh 6 chiến xa còn lại dàn hàng ngang lao vào tuyến địch, vừa chạy vừa tác xạ. Còn cách mục tiêu 50 mét, thêm một chiến xa trúng đạn, 5 chiếc còn lại tiếp tục ủi thẳng vào các hầm hố của địch. Ta và địch cận chiến lẫn lộn nhau, một trận chiến đẫm máu, tàn bạo chưa từng có giữa 5 chiến xa và 2 tiểu đoàn Bắc quân, đại bác, đại liên, lựu đạn nổ tứ phía, không gian, thời gian quyện vào nhau biến mất trong khói lửa. Bên trái tôi, chiến xa của Trung sĩ nhất Báo quay ngang, hạ nòng đại bác xuống giao thông hào vừa chạy vừa bắn, xe chỉ huy bám sát yểm trợ và tăng cường hoả lực cho xe đầu. Khi pháo binh bao trùm ngọn đồi bên kia suối bằng đạn nổ chụp thì Chi Đội trừ bị cũng chuyển hướng tấn công. Bất chợt, từ một vị trí bên trái giao thông hào, một khẩu đại liên địch bắn thẳng vào xe chỉ huy. Tôi nghe một tiếng "chát" trên đầu, chiếc nón sắt quay ngang 1/4 vòng, chẳng cần biết chuyện gì xẩy ra cho cái nón sắt, tôi xoay người đẩy nguyên một thùng đại liên 50 vào vị trí đại liên địch, tiếp theo là một quả lựu đạn. Một tiếng nổ lớn, một đám khói mù, thây người tung lên, tiếng súng địch tắt.

Mấy phút sau đó, bộ binh của SD23 tiến lện Trận đánh cận chiến diễn ra ác liệt giữa ban ngày giữa bộ binh địch và bộ binh SD23. Họ đã xử dụng tuyệt vời lưỡi lê và lựu đạn, đánh giạt quân thù ra khỏi vị trí, đánh dìm quân thù xuống các hố chôn. Đến gần trưa, chiến xa và bộ binh đã quét sạch kháng tuyến địch.

Xác địch bỏ lại ngổn ngang, số còn sống bỏ xác đồng đội lại chiến trường và đào thoạt Được chiến xa yễm trợ, một tiểu đoàn Bộ Binh vượt qua bên kia suối, chiếm giữ đỉnh đồi trước mặt.

Khi tình hình đã lắng dịu, quân ta làm chủ trận địa, tôi bước ra khỏi pháo tháp vươn vai, đảo mắt nhìn cảnh chiến trường đổ nát. Mùi khói súng còn vương trong gió, nhưng chính nó lại làm tôi lâng lâng khi biết địch đã bị đánh văng khỏi trân địa, duy chỉ có cái nón sắt trên đầu còn nặng. Tôi giở cái cái nón sắt, để xuống thành chiến xa và bỗng trố mắt nhìn. Cái nón sắt dễ thương này bị thủng một lỗ, và nhờ nó quay tròn một phần tư vòng khi chạm đạn, đạn đạo lệch hướng nên đạn đại liên địch chỉ hôn lên trán tôi một đường dài ran rát đỏ au. Hú hồn. Tôi đã thoát chết trong một kẽ tóc, đường tơ. Cái nón sắt vẫn còn trên đầu tôi, nó không thể là "cái nón sắt bên bờ lau sậy này" của một chiến binh vô danh chết trận trong một bài hát muộn phiền thê lương nào đó mà tôi không nhớ tên. Dù thắng trận và hoàn thành lệnh của Quốc Bảo, tim tôi cũng chùng xuống xót xa trước sự tổn thất khá cao của gia đình Tài Lực:

- 6 chiến xa bị hư hại nặng.
-18 anh em hy sinh, trong đó có 3 sĩ quan.
- 30 bị thương, trong đó có 4 sĩ quan.

Tiễn anh em bị thương lên máy bay trực thăng, vĩnh biệt những anh em đã chết, tôi lặng yên trên pháo tháp. Nhìn lại trận địa, cuộc ác chiến từ đêm qua đến xế chiều hôm nay, nó như một cơ mơ, một cơn ác mộng. Đại tá Tư Lênh Sư Đoàn liên lạc:

- Quốc Bảo gởi lời khen tới tất cả các em! Các em đánh tuyệt đẹp!

Tôi cám ơn thượng cấp. Tôi cám ơn sự có mặt thường xuyên của Quốc Bảo trên hệ thống truyền tin suốt thời gian anh em quần thảo với Bắc quân, và sự quan tâm, gần gũi đó của thượng cấp là một trong những yếu tố quan trọng đóng góp vào chiến thắng của Chi Đoàn.

Nhìn khắp lượt mấy đứa con bị thương trong gia đình. Tài Lực, nghĩ đến những trận đánh kế tiếp, tôi cho lệnh chuyển những chiến xa bị hư hỏng, trúng đạn bất khiển dụng, kéo về vị trí Chi Đội V.100 để toán Quân Cụ Cấp 2 và phân đội sửa chữa của Chi Đoàn phục hồi khả năng hoạt động của các chiến xa.

Ngọn đồi trước mắt tôi, quân bạn đã cắm cờ và trấn giữ, nhưng các cánh quân của địch vẫn còn dày đặc núi rừng Cao Nguyên. Tôi vẫn còn nguyên giữa vùng lửa đạn trong những ngày sắp tới. Cơn mưa đi qua, cơn gió thổi qua, nhưng cuộc chiến đấu này vẫn còn trong mịt mờ lửa khói. Vài loạt súng xa vang vọng khắp núi đồi.

Posted by: caoduy Feb 19 2010, 09:43 AM





Những Người Lính Cũ


Đọc Để Thương Để Nhớ ..

Tất cả tên của những người lính VNCH và ba câu chuyện trong bài đều là tên thật, chuyện thật.

Trong bài thơ "Dưới chân đồi Chu Pao" của nhà thơ Lâm Hảo Dũng, viết về trận đánh trên Quốc Lộ 14 dẫn vào Kontum trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, có hai câu:


"Chu Pao ai oán hờn trong gió

Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường"

Chỉ hai câu thơ này thôi cũng đủ nói lên sự tổn thất to lớn của những người lính cũ thi hành sứ mạng bảo quốc an dân.

Những người lính cũ? Họ là ai?

Họ là Lưu Trọng Kiệt, Lê Hằng Minh, Nguyễn Đình Bảo, Lương Quế Vượng, Mã Thành Cương, Lê Văn Khoắng, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Viết Cần, Hoàng Ưng, Cao Hoàng Tuấn, Nguyễn Bá Tòng, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Mạnh Dũng, Dương Hữu Trí, Mai Gia Thược... đã nằm xuống trên những chiến trường miền Nam hay trong các trại tù cải tạo điểm đầy trên quê hương sau ngày tàn cuộc chiến. Họ là những người lính cho nổ lựu đạn tự sát, người sĩ quan Cảnh Sát đã tuẩn tiết dưới chân tượng Thủy Quân Lục Chiến, là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai... Họ là Nguyễn Hữu Luyện, Lê Tuấn Ngô, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Tấn Sang, Huỳnh Văn Của, Trần Văn Nam, Nguyễn Văn Cầu... ngày nay đã xa cố quốc nhưng lòng vẫn luôn nhớ về các đồng đội ngày xưa. Họ chỉ là một con số rất nhỏ, trong số bao nhiêu người lính Việt Nam Cộng Hòa, đã từng hy sinh trọn thời thanh niên chiến đấu để bảo vệ tự do, để cho người dân miền Nam được hưởng 21 năm tự do ngắn ngủi.

Bao nhiêu người lính VNCH đã nằm xuống để đổi lấy từng hơi thở tự do cho người dân. Họ và đồng đội đã hứng chịu bao gian nan khốn khổ cho hậu phương được những ngày bình yên. Mưa gió tầm tã miền tuyến lửa Đông Hà, nắng cháy rát mặt nơi Cao Nguyên, đất sình đen vùng Đồng Tháp dính nặng đôi giày sô không làm cho người lính sờn lòng. Họ vẫn luôn giữ vững tay súng bảo vệ từng phần đất tự do. Họ là những người lính Không Quân, Hải Quân. Họ là những người lính mũ đỏ, mũ xanh, mũ nâu... Họ là những người lính "bùn lầy còn pha sắc áo xanh" của Sư Đoàn 1, Sư Đoàn 5, Sư Đoàn 18, Sư Đoàn 21, Sư Đoàn 22, Sư Đoàn 25... Họ là những người lính Thiết Giáp, Pháo Binh, Truyền Tin, Quân Cảnh, Biệt Kích, Nha Kỹ Thuật, Biệt Đội Người Nhái, Công Binh, Nữ Quân Nhân, Quân Y... Họ là những người lính dân quê của Địa Phương Quân, Nghĩa Quân. Còn nhiều nữa, họ còn là những thương phế binh Nguyễn Văn Nhạn, Bùi Văn Bon... với tấm thân tàn phế, vẫn còn lê lết chuỗi ngày tàn trong một tương lai đầy ảm đạm.


Tướng Douglas MacArthur đã nói: "Old soldiers never die, they just fade away." Nhưng riêng với chúng ta, người lính Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ bị phai nhạt và không thể bị phai nhạt. Vì họ là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em, là bạn bè, là người láng giềng cùng xóm. Họ chính là chúng ta.

Vì vậy Nhớ Người Lính Cũ là điều chúng ta đã làm và phải làm hằng ngày, không phải chỉ qua một vài bài viết. Số báo nhỏ nhoi này chỉ là một nhắc nhở đến mọi người về nguồn cội của chúng ta, những người đang chịu ơn các vị anh hùng đó.

*****


Người sĩ quan Quân Lực VNCH đó là một người lính dân quê, từng là Tiểu đoàn trưởng của một tiểu đoàn xuất sắc nhất của Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Trong một trận đánh vào đầu năm 1968 ông bị trúng thương nặng nhưng vẫn cố gắng chỉ huy binh sĩ cho đến khi tàn trận. Vết thương thập tử nhất sanh trên ngực buộc ông phải nằm trong phòng Hồi Sinh gần một tuần lễ. Sau một thời gian dưỡng thương ông được đưa trở lại nắm đơn vị cũ. Vết thương vẫn không bao giờ hoàn toàn lành lặn, thỉnh thoảng vẫn rỉ máu, và nhiều lần ông phải dùng thuốc cầm máu. Ông đã có thể từ chối thượng lệnh nhưng tinh thần trách nhiệm của người lính VNCH với đồng đội đã buộc ông chấp nhận không một lời kêu ca. Một thời gian sau ông được thăng cấp và chuyển đi nhận nhiệm vụ mới. Ngày ông rời đơn vị, trong buổi lễ bàn giao, nhiều người lính đã rơi nước mắt từ giã vị chỉ huy cũ. Ông là lính tác chiến trọn đời binh nghiệp nhưng ông phải hứng chịu nhiều bất công, và ông đã cắn răng không than van chỉ vì "còn nhiều người lính khổ hơn mình."


Được giải ngũ vào đầu năm 1975, một người mà trọn đời binh nghiệp là lính tác chiến, tưởng đã có thể sống một đời yên ổn bên gia đình sau bao năm chinh chiến thì biến cố 30/4/1975 ập đến. Ông được mời di tản nhưng chỉ có chổ cho một mình ông và ông đã từ chối vì không thể bỏ lại vợ con.


Sau khi trình diện học tập cải tạo ông bị đưa ra miền Bắc như nhiều sĩ quan khác của Quân Lực VNCH. Trước khi đưa mọi người lên xe lửa ra Bắc, bọn người thắng trận đã ra lệnh tịch thu tất cả những gì họ xem là có thể giúp tù cải tạo trong việc đào thoát, trốn trại. Thuốc men của ông mang theo để dùng cho vết thương cũ bị tịch thu dù đã có lý do chánh đáng.


Trong trại tại vùng Hoàng Liên Sơn, người tù cải tạo phải chịu những hành hạ lao lực. Mỗi ngày người tù phải kéo gổ từ dưới sông về trại trong những ngày rét buốc. Sức khoẻ của ông ngày càng suy yếu vì lao lực quá độ. Một ngày kia ông vấp ngã, bị thân cây đè và vết thương cũ vỡ ra. Ông xin ban quản giáo trại cho lại số thuốc men đã bị tịch thu. Họ từ chối. Sau nhiều lần nài nỉ của ông và các bạn cùng trại, ông được phát cho vài viên APC (một loại aspirin của quân đội cũ). Vài ngày sau ông chết đi. Thi hài ông được bó bằng tấm chăn vãi dù đã theo ông suốt cuộc đời chinh chiến và đem chôn ở một ngọn đồi gần trại.


Một điều tàn nhẫn cuối cùng, gia đình của ông không được thông báo về cái chết của ông, và giấy báo tử được Trưởng trại ký 18 tháng sau ngày ông mất. Mười sáu năm sau ngày ông mất, di cốt của ông đã được gia đình đem về an táng tại quê nhà.

*****


Người lính già kể câu chuyện này thuộc một gia đình nông dân ở gần Phụng Hiệp. Thời trai trẻ, chỉ được học hành ít ỏi nhưng ông vui sống đời cày cấy bên thửa ruộng, con trâu như bao nhiêu người dân miền Nam chất phác khác. Lệnh Tổng động viên được ban ra, ông và người anh lớn sang Vĩnh Long đăng lính Nghĩa Quân, phục vụ dưới quyền của một người anh họ đang là Thiếu tá Quận trưởng của một quận tại đây.


Hai anh em ông tham gia vào mọi cuộc hành quân tuần tiểu, công tác bình định trong quận và được tiếng là gan dạ, dũng cảm. Trong một trận Việt Cộng tấn công vào quận lỵ, hai người đã đẫy lui nhiều cuộc xung phong và bảo vệ cho người anh họ Quận trưởng khi địch chen vào được phòng tuyến quận đường.

Chiến tranh chấm dứt hai anh em trở về làng cũ. Dù chỉ là những người lính thường, không chức tước nhưng tại quê hương cả hai đều bị trả thù tàn khốc. Con cái bị cấm đến trường học, vợ bị cấm buôn bán tại chợ. Gia đình túng quẩn chỉ còn trông cậy vào mấy công ruộng nhà. Nhưng đám người chiến thắng vẫn không để yên cho họ. Hai người bị kêu trình diện mỗi đêm tại trụ sở công an.

"Tụi nó không làm gì mình hết, chỉ bắt mình ngồi đó độ mươi, mười lăm phút hay một vài tiếng đồng hồ rồi cho về. Vừa đến nhà nằm xuống, chưa kịp ngủ thì nó lại xuống gọi lên. Có đêm tụi nó làm như vậy vài lần. Ngày lễ của tụi nó thì mình phải lên ngồi cả ngày ở đó. Riết rồi không còn sức lực làm lụng gì được. Bị hành hà quá đến nỗi chú nói: "Mấy ông có muốn bắn muốn giết tụi tui thì cứ làm chớ đày đọa làm chi như vầy". Nhưng tụi nó cũng không tha. Ruộng vườn cứ bán dần mà sống. Buồn quá, nhìn vợ con nheo nhóc mà không làm gì được chú chỉ còn biết mượn rượu giải sầu đến khi vướng phải bệnh ghiền lúc nào cũng không biết. Thấy anh em chú thân tàn ma dại, không làm gì được nữa tụi nó mới chịu tha."

"Cuộc đời của thằng lính thua trận như vậy đó con ơi!" Người lính già nấc lên, nước mắt chảy ra, nói với người cháu trong một cơn tỉnh ngắn. Mắt đứa cháu cũng cay xè, ươn ướt.

*****


Có một gia đình, cả hai vợ chồng đều là sĩ quan Quân Lực VNCH. Sau ngày 30/4/1975 cả hai người đều phải đi học tập cải tạo như bao nhiêu người lính khác của quân đội bại trận. Người chổng trình diện đi trước, người vợ chờ đi sau. Trong khi chờ đợi chị xin những người chiến thắng cho được ở lại để chăm sóc ba đứa con còn nhỏ vì không có người gởi gấm. Thật ra vào thời điểm lúc đó cũng chưa chắc đã người dám nhận. Lời khẩn cầu bị bác bỏ ngay, không được chấp nhận. Cũng vì "Với chánh sách khoan hồng của cách mạng chị chỉ đi học tập vài ngày rồi về thì có gì mà lo." Cả bốn mẹ con phải nhập trại vào Thành Ông Năm ở Hóc Môn.

Trại này được chia làm hai phía: bên dành cho những người lính VNCH nam, bên dành cho các nữ quân nhân VNCH, ngăn cách nhau bằng một hàng rào kẽm gai. Khẩu phần ăn dù đã ít ỏi nhưng chỉ được phát cho người mẹ vì các con không phải là thành viên chánh thức của trại. Biết được hoàn cảnh thương tâm đó, nhiều người bên trại nam đã cố gắng ném các vắt cơm nhỏ qua để nuôi các cháu nhỏ. Về sau được tin là người mẹ qua đời vì lao lực, và các cháu cũng không biết trôi giạt về đâu. Người cha vẫn biệt vô âm tín.

Người kể chuyện này là một trong những người đã từng ném vắt cơm tình nghĩa nuôi các cháu.


Bé Dương

Posted by: caoduy Apr 2 2010, 07:46 AM





Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7


cựu đại tá Phạm Bá Hoa
Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7
Ngày 17 Tháng 3 Năm 1975
(và những hệ lụy sau đó)

Dẫn chuyện.

Sau khi tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7/1/1975, thủ phủ Ban Mê Thuột và tỉnh Darlac thất thủ ngày 11/3/1975, tình hình chiến sự Quân Đoàn II/Quân Khu II trở nên sôi động. Xin nhớ là Thỏa Hiệp Ngưng Bắn đã ký tại Paris ngày 27/1/1975 và hạ tuần tháng 3/1975 là có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính trị cũng sôi động không kém tình hình quân sự.
Lúc bấy giờ các vị lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đi liên quan đến những phản ứng sau đó, là:

- Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng).
- Thủ Tướng: Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng).
- Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên.
- Tham Mưu Trưởng B Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không có mặt từ lúc đầu cuc rút quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng.
- Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
- Chỉ Huy Trưởng B Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương.
- Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý.
Lúc bấy giờ tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.

Vào chuyện.


Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nôi dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ Loan không biết gì hơn.

Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:

- Đại Tá Hoa tôi nghe -

- Có ai ngồi gần anh không? -

- Dạ không, thưa Đại Tướng -

Đó là Đại Tướng Cao Văn Viên. Ông tiếp:

- Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành -

- Vâng, tôi rõ thưa Đại Tướng -

- Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? -

- Thông thường thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng -

- Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vì đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy nhiêu, còn sử dụng vào công tác gì thì tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày maị Anh rõ chưả -

- Thưa Đại Tướng, tôi rõ -

- Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thì tùy anh-

- Vâng. Tôi thi hành, thưa Đại Tướng -

Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không suy đoán được là chuyện gì sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản thì tại sao không để quân dụng lại mà thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà không đánh nhau là thế nàỏ Thật không hiểu nỗi!

Tổ chức mt quân đi, phải có hai yếu tố chính, là "con người và quân dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những gì trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận.

Ấy vậy mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa !

Trong quân đi, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôị Điển hình là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cng sản sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng B Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:

- Theo kế hoạch hành quân như đã trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại".

Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng phải vất vả, nhưng vất vả mà được biết đến vẫn vui lòng hơn.

Trước khi lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi:

- Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh-

- Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết -

Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Mãi Dịch (đồn trú ở Sài Gòn), và trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là giỏi tướng số tử vi và chữ ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở PleiKu trở về, Trung úy Thiêm nói với tôi:

- Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu -

- Anh có nói gì với Thiếu Tướng Phú không?-


- Dạ không. Vì sợ ổng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gì giải được, thà không nói vẫn hơn -

- Nghî như anh cũng phải -

(Năm 1990, tôi được biết Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm định cư tại Australia ) Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, "Thiếu Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II vì rắn thích hợp với núi rừng".

Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên PleiKu liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:

- Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không ? Vì chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm -

- Anh cứ đưa lên đây cho tôi, còn sử dụng vào công tác gì thì không thể nói được đâu- Lời của Đại Tá Lý.

- Đành vậỵ Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nàỏ Và chuyển vận từ đâu tới đâủ

- Anh có bao nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng mai (16/3/1975). Không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàigòn -

- Vậy thì như thế nàỵ Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không? -

- Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe -

- Xong. Mình thỏa thuận như vậy nhé -

Tôi trình Đại Tá Loan là vẫn không biết được gì thêm ở Quân Đoàn IỊ Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/B Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết l điều gì. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng như vậy thì các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất là mt tuần vì phải tu bổ lạị B Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều đng phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lý, nghĩa là 2 chiếc C130 cất cánh lên Pleiku thì 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn Nhất.

Sáng ngày 16/3/1975, B Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi:

- Trình Đại Tá, trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗị Chẳng biết là chuyện gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá đó -

- Anh chuyển đến Trưởng phi cơ, hãy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân Đoàn xem tình hình ra sao đã -

Gọi Quân Đoàn II và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý:

- Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu anh muốn họ đáp xuống thì anh phải giải toả sân bay giùm đi vì nếu chậm quá thì họ sẽ về lại Sài Gòn đó. Mà chuyện gì xảy ra vậy Anh? -

- Tại vì người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường băng như vậỵ Để tôi cho Quân Cảnh giải toả, anh bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi -

- Thì phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không giải toả nỗị Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở PleiKu, chở mt số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe -

Tôi lại nhờ B Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vì đông nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi một hình ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được.

Hóa ra là B Tư Lệnh Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi trình ngay cho Đại Tá Loan vì ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản rồị Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi vì cng sản đã chiếm thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào B Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng là điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm ...

Vì sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei Ku thì điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm muộn:

- Đại Tá Hoa tôi nghe -

- B Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xã Plei Ku hôm nay không có mt bóng sinh vật nào cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ -

- Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy thì tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh -

Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (Trưởng Phòng 3/B Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về tình hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách nào khác vì Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị coi như là những sî quan không đáng tin cậy thì phải, ít nhất cũng là không được tin cậy trong cuc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành và quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim!

Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đi, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh, đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở PleiKu cả. Đại Tá Bửu Khương (ở Qui nhơn) cũng không có tin tức gì khá hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn còn kẹt trên PleiKu vì quốc l 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cng sản chiếm giữ nhiều chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp Vận chúng tôị Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho quân cộng sản tiến vào, và bất thình lình quật lại tấn công chúng ngay trong thành phố.

Còn về giả thuyết rút bỏ Cao Nguyên thì nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng gì chúng tôị Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch thật sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lãnh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đi hơn 1.000.000 người!

Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, vì chúng tôi không có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Phòng 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng vậỵ

Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:

- Đại Tá Hoa tôi nghe -

- Khương đây anh Hoa- Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng B Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.

- Anh có tin gì về anh em mình trên Plei Ku chưả -

- Liên Đoàn 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Hòạ Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reọ Phần thì đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175 cơ động lật xuống hố, phần thì các đơn vị cộng sản tấn công nhiều mặt, đã gây tổn thất nặng cho cả quân đi lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản ứng của Quân Đoàn.


Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! -

- Được rồị Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hoà, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy Hòa thì cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và ký nhận là đủ. Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thì cấp thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không? -

- Được anh. Để tôi lo -

- Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức gì về đoàn quân này thì anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương-

Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân phòng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Kụ

Tôi sang văn phòng Đại Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:

- Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trình vấn đề gấp với Đại Tướng -

- Anh chờ tôi một chút -

- Tôi đâỵ Anh có chuyện gì vậỷ -

- Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây -

- Có việc gì vậỷ -

- Vài phút cách đây, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng B Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang bị sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết mà tôi và Đại Tá Khương đã nói với nhau).

- Anh có chắc là đúng như vậy không? -

- Từ chổ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào thì tôi không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác, thưa Đại Tướng -

- Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe -

- Vâng -

Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao tình hình đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ điện thoại tôi:

- Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên đường số 7 hả? -

- Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đã liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên PleiKu và bị kẹt trên đó, nay thì cùng trong đoàn quân sa lầy mà vừa rồi tôi đã trình Đại Tướng -

- Có. Đại Tướng mới gọi anh đâỵ Cưng cứ biết vậy thôi nghe -

Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn PleiKu vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vì cuối năm 1955 -lúc bấy giờ tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đi Trưởng thuc Tiểu Đoàn Khinh Quân 510- toàn b Tiểu Đoàn chúng tôi cùng với Tiểu Đoàn Khinh Quân 507 và 527, di chuyển từ Vỉnh Long lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 B Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn Khinh Chiến 12. B Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại PleiKụ Các Tiểu Đoàn được cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu Đoàn 3/35. Vì các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với PleiKu bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngã ba quốc l 14 với liên tỉnh l 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch vào đến Cheo Reo còn sử dụng được, là vì trong chiến tranh giữa thực dân Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu bổ vì nó là "con đường huyết mạch" của cứ điểm.

Còn đoạn từ Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đi Pháp không sử dụng nên không tu bổ gì cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo Reo, thì xác những chiếc thiết giáp của Pháp còn ngổn ngang tại đó, còn chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thì tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nàọ Thuở ấy "rất là hoà bình", nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần thận trọng một chút thì xe jeep vẫn bò qua chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi là "bò" chớ không thể gọi là chạy được vì mặt đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không còn gì để gọi là con đường nữạ

Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn 10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói là quá liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói riêng.

Chiều tối hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trình diện Tổng Thống với Đại Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng), chắc là sẽ có tin tức rõ ràng hơn.

Và đây là những tin tức đó:

"Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm vụ thực hiện cuc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng (có lẽ vì bảo mật tối đa mà Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi không được cho biết gì cả). Thiếu Tướng Phú trình kế hoạch là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản.

Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, và Chuẩn Tướng Tất sẽ là Chỉ Huy Trưởng cuc hành quân lui binh nàỵ Lời đề nghị được Tổng Thống chấp thuận tại chổ".

Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/Quân Đoàn IỊ

Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ còn nhân viên trực hoạt đng. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phòng (ông ngồi ở văn phòng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, trên tòa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ) đã được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn xe không phải theo một hình dài mà là một hình gần như tròn, vì khi phần đi đầu bị kẹt thì những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng tìm được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng thì càng không lối thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đã tạo nên dáng như vậỵ Ghi chú bên cạnh những khoanh tròn bằng ngòi bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đã bị thiêu hủỵ Nếu như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy, thì chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ đng và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng M48". Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và xe tăng của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân đội chúng tạ

Những bài học chiến thuật trong trường Võ Bị cũng như trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị "đưa lưng" về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt lại là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiền tuyến.

Nguy hiểm là vậỵ Nguyên tắc căn bản của bài học "lui binh" là phải có mt lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữạ

Với cục hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hòa lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữạ Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đị Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật, ..v..v..

Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 B Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay quân cộng sản mt cách nhẹ nhàng. Tôi nói "bỗng dưng", vì rút bỏ Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17/3, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu của Truyền Tin tại B Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậỵ Điều này có thể là lúc đó quân cộng sản mới tiến đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng sản chưa chiếm nhưng vì máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, thì rõ ràng là quân cng sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm B Tư Lệnh Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa PleiKu về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh!

Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đã từng xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi còn là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đi Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có tiếng là cấp chỉ huy can đãm, không lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngã như thế nàọ Nay, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lãnh đạo chỉ huy của ông không? Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gì đó giới hạn? Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã tự tử ngay sau ngày 30/4/1975. Tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn) vào ngày 2/5/1975 và chào tiễn biệt ông vào cõi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương của đất nước, dân tộc!

Năm 1960, trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự của Quân Đi Viễn Chinh Pháp), tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định rằng: "Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung thì người dó sẽ nắm phần chiến thắng". Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đi đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng?

Ngược dòng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn giữ, đã thất thủ làm rúng động toàn bộ quân viển chinh Pháp tại Đông Dương và rúng đng cả nước Pháp. Và hiển nhiên là sự thất trận này đã đưa nước Pháp đến tình trạng mất toàn bộ Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Làọ Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản, làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Hòạ Và liệu sự thất bại này có phải là nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù gì đi nữa thì sự thể đã là như vậy rồi!

Tình trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh của các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 B Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Đng Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị , Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Cam Ranh.

Trước ngày cuối tháng 3/1975, thì từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" vì không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn nào, phòng thủ chống lại quân cng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3 B Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi là rút lui, còn lại là rút đi trước khi quân cng sản đến!

Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi khu trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu Ị Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "chống đảo chánh" từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính vì hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậỵ Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành ni, nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 B Binh đồn trú, đã bị chúng chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn nàỵ

Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong thành ni Huế rất cam go với tổn thất đáng kể, Chuẩn Tướng Trưởng đã chứng tỏ quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đã kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền ông hãy vì danh dự và trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đã thúc đẩy cuc phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính.

‘Mùa Hè Đỏ Lửa’ năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đã thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh chủng rất lì với chiến trận.

Nhưng sự thể đã diễn ra như vậy, ắt phải có điều gì đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cùng điều ấy mà thôị

Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn tôị Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.

Dưới đây là lời thuật của cựu Đại Tá Trí về những ngày cuối tháng 3/1975, trong lúc anh và b chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, Đà Nẳng: ‘’Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư Đoàn 3 B Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ vài giờ chống trả là Sư Đoàn rút lui, tạo khoảng trống bên sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến). Thiêu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đã rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiềụ Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vì tình hình rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gì cả. Lúc này bên cạnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân có ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng, ông ta có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ và chốc chốc ông ta nói vị trí của ông với ai ở đâu đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rõ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lãnh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng Trưởng.

‘’Khoảng nửa đêm 28 rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống bãi đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Vào b chỉ huy, sau khi Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và được biết đã rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông:

- Bây giờ thì các anh hãy tự thoát, còn tôi, tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến- ‘’Trung Tướng Trưởng vừa nói xong thì gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngaỵ Khoảng 6 giờ sáng ngày 29/3/1975, sĩ quan vào trình tôi là chiến hạm đang tiến vào để đón các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến trình Trung Tướng Trưởng:

- Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng-

‘’Sau một lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy cùng đi với tôị Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên tàụ Sau khi mọi người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã có mặt trên tàụ

Chiến hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.

‘’Vài tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đã quay trở lại, không rõ là do thời tiết xấu hay vì lý do gì đó, và cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không có vẻ gì có chút tình cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịụ (lời của Phạm Bá Hoa: thuật chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rõ ràng là anh đang xúc động!)

Sau phút im lặng vì xúc đng, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật tiếp:

‘’Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp lòng nhaụ Mãi đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm với B Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thì nhận được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệụ Theo đó thì Tổng Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về Sài Gòn ngaỵ Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn ngay thì tại sao Tổng Thống hay B Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi bằng tàủ Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài Gòn. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II một đại đơn vị hầu như đã tan rã sau cuc hành quân lui binh thảm bại, ông từ Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài Gòn theo lệnh Tổng Thống. Và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đã theo chiến hạm về Sài Gòn’’.

Đến đây là hết lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là các vị Tư Lệnh tại Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I, đã nhận được lời khuyên ‘bảo toàn lực lượng’ như Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã nhận của ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Không chừng chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời khuyên’ của ông Tổng Lãnh Sự nữa chăng! Vì rõ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải chăng với ‘lời khuyên’ đó đã dẫn đến các vị có quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoáỉ Điều này tôi không rõ, nhưng có điều quí vị đều rõ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng vào tay quân cộng sản quá dễ như khi vào B Tư Lệnh Quân Đoàn II ở PleiKu vậy!

Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi, nhưng vì cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên tôi mãi nóí chuyện với ông, để rồi cuối cùng không còn thì giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

Bây giờ xin mời quí vị quay nhìn vào số lượng đồng bào chạy loạn được các loại tàu chở từ Huế và Đà Nẳng xuôi Nam và đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vào vịnh Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ Xã Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xã Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000 phần cơm và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bàọ Trung Tướng Đồng Văn Khuyên bảo tôi lo giúp B Xã Hị Tôi điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này:

- Hoa đây Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được- Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vì chúng tôi thân nhau từ lâụ

- Việc gì mà coi bộ quan trọng vậy anh?

- Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy vào tạm trú, bên B Xã Hi nhờ quân đi nấu cơm , vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bàọ Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo thì B Xã Hi cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp được không?

- Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào thì tụi tôi nấủ

- Ngay hôm naỵ để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đi nhận giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp.

- Được. Tôi cho nấu ngaỵ Khi xong, tôi cho anh haỵ

- Xin cám ơn Anh -

- Cái gì mà anh cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách nhiệm của mình chớ anh -
Thế là từ hôm ấy, cơm vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ tiếp tế cho đồng bào tạm trú tại đó. Nhưng rồi tình hình ngày càng xấu thêm . . . . ./.

*****
Houston, cuối Đông 2003-2004
Bài viết này trích từ quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ ấn hành năm 1994, 1995, 1998, và tôi đang chuẩn bị để nhà xuất bản ấn hành lần 4 vào mùa hè 2004 này, sau khi bổ túc do những điều mà cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết thêm.

Posted by: caoduy Apr 24 2010, 07:18 AM





Không gian kỷ niệm


Huỳnh Quốc Phú còn một số bài, như:

Chuyện Người Phi Công

(Kể lại sau 33 năm không còn bay bổng)

Lời nói đầu:

Tôi không phải là một người lính bại trận. Những cấp chỉ huy và lãnh đạo của tôi đã làm cho tôi thành một kẻ chiến bại. Tôi rất yêu, tuy nhiên không cảm thấy thích thú khi kể về đời lính của mình, ngay cả kể với vợ con. Kể thế nào đây khi chồng của em mang tiếng là bỏ chạy. Ba của các con “on the losing side”. Tôi không cam tâm. 7 năm lính, 33 năm tỵ nạn, cứ tưởng rằng những hình ảnh đời lính đã chìm trong quyên lãng, nhưng không, nó vẫn nằm đó, ray rứt. Sau cùng, với số vốn văn chương còm cõi vì đã hao mòn sau hơn 30 năm cày 2 jobs và overtime trên mảnh đất quê hương thứ 2 này, tôi quyết định sẽ cởi ra hết những gì chất chứa trong lòng: Tôi không phải là một kẻ chiến bại.

Tháng 4 năm 1974, tôi được lệnh thuyên chuyển từ Cần Thơ ra Pleiku. Tôi là người sinh ra và lớn lên ở miền tây, tuy nhiên ra đi là một điều mừng rỡ, một phần vì thích phiêu lưu vùng đất lạ, một phần là tránh được những ông chỉ huy gìa nua, quan liêu và thích nịnh bợ của đơn vị ở Cần Thơ. Một điều không vui là mình phải bỏ lại những bóng hồng của đất Tây Đô, bỏ lại Liên là người tôi yêu nhất. Liên ơi, anh hẹn sẽ trở về...

Pleiku nằm trên cao nguyên của dãy Trường Sơn. Xứ của lính. Đi đâu cũng thấy lính. Những người lính từ những miền đất khác nhau đều có mặt ở đây cũng như tôi. Tôi cảm thấy mình hội nhập vào vùng đất mới một cách dễ dàng. Ra đến đây là đến tận cùng rồi, đâu còn phải sợ đổi ra chỗ nào xa xôi hơn nữa, ai cũng nghĩ vậy. “Em Pleiku má đỏ môi hồng, ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông”. Bài hát này tôi đã nghe đến cả triệu lần, từ nhà, đến quán cà phê, đến đài phát thanh.v.v... Nghe đến phát ngấy, mà vẫn phải nghe. Tuy nhiên “Đi dăm bước, trở về chốn cũ” điều đó rất đúng và không thể có từ ngữ nào diễn tả hay hơn được vì thành phố Pleiku tương đối nhỏ. Dĩ nhiên, chuyện đầu tiên của những người lính xa nhà là mình phải đi xem thử em gái Pleiku có má đỏ môi hồng, đúng như những lời ca tụng trong bài hát hay không...

Đơn vị mới của tôi là Phi Đoàn Trực Thăng Chiến Thuật 229 đóng tại phi trường Cù Hanh. Danh hiệu của phi đoàn là Lạc Long. Một vài thằng trong đơn vị dí dỏm diễn nghĩa rằng Lạc Long là con rồng đi lạc. Vài thằng khác lại cho rằng Lạc Long là con rồng ăn đậu phọng thì mới đúng. Tôi thấy cả hai lối diễn nghĩa đều hay nên cũng dí dỏm cho rằng, vì con rồng ăn đậu phọng, phê quá, nên đi lạc!

Phi vụ đầu tiên của tôi tại vùng đất cao nguyên này là đi quan sát vòng đai phòng thủ của Quân Đoàn 2, trong đó bao gồm khu vực phòng thủ của phi trường Cù Hanh và tiểu khu Pleiku. Đó là một thông lệ để những hoa tiêu vừa mới thuyên chuyển tới từ những vùng chiến thuật khác làm quen với khu vực. Vùng trời Pleiku thật đẹp, địa hình cao nguyên khác hẳn với vùng đồng bằng. Nơi đây có núi, có rừng, có những đám mây vất vưởng trên những sườn đồi. Nói đúng ra đó là một bức tranh phong thủy, so với vùng đồng bằng thì chỉ thấy một mặt đất bằng phẳng với những sông ngòi chằng chịt và những ruộng lúa dài vô tận. Tôi nhớ hoài, Minh người trưởng phi cơ trong phi vụ đó, cũng là người bạn cùng khóa của tôi ở quân trường Thủ Đức, đã hướng dẫn tôi đi xem... Thượng tắm. Đó là những thác nước lộ thiên, nơi mà những người Thượng ở chung quanh Pleiku dùng làm nguồn nước cung cấp cho cả buôn và dùng để tắm. Hắn ta bay thật thấp để cho tôi có thể nhìn thật rõ. Thú thật thì tôi cũng chỉ thấy loáng thoáng một vài người đang tắm, họ thấy phi cơ bay thấp quá thì cứ đứng yên và quay mặt vào vách đá. Tuy nhiên để làm hài lòng Minh, tôi cũng tỏ vẻ thích thú nói là... “Thấy rồi, thấy rồi!”. Hắn ta khoái chí như là đã làm tròn bổn phận của một hướng dẫn viên yêu nghề.

Trận chiến vùng cao nguyên năm 1974 tương đối yên tĩnh. Những trận đụng độ lớn không có xảy ra. Địch ở nơi địch, ta ở nơi ta. Tuy nhiên sau này tôi mới biết đó là thời gian chuẩn bị cho một sự việc trọng đại sắp xảy ra. Những phi vụ đổ những toán Lôi Hổ vào vùng địch để lấy tin tức vẫn diễn ra đều đặn. Những phi vụ này thường làm cho thần kinh rất căng thẳng, tuy nhiên hầu hết là an toàn chạy trở ra. Một trong những phi vụ mà tôi nhớ mãi suốt đời là khi chúng tôi nhận lệnh đổ một toán sáu người lính Lôi Hổ. Địa điểm: vào khoảng mười cây số ở phía đông Tân Cảnh, ngay trung tâm hậu cần của Việt Cộng. Nhiệm vụ của họ là đặt mìn trên con đường tiếp vận của địch từ Tân Cảnh về Ba Tơ và hai mươi phút sau đó, chúng tôi sẽ đón họ lên ở cùng một địa điểm nơi mà họ đã được đổ xuống. Sau khi vị Thiếu Tá chỉ huy biệt đội Lôi Hổ thuyết trình xong, tôi và người phi công đi cùng nhìn nhau, ánh mắt rất căng thẳng. Mặc dù chúng tôi chẳng nói với nhau một lời, tuy nhiên chúng tôi biết rằng đây là một trò chơi đùa với tử thần. Thông thường, để có yếu tố bất ngờ, trực thăng sẽ đón những toán Lôi Hổ này trở về một vài ngày sau đó và ở tại một địa điểm khác. Tuy nhiên trong phi vụ này, hai mươi phút sau, chúng tôi phải trở lại đón họ lên, mà lại ở cùng một địa điểm đã đổ họ xuống. Vì thế, chúng tôi không còn lợi dụng được vào yếu tố bất ngờ nữa, Việt Cộng sẽ chuẩn bị súng ống chờ đợi. Quả nhiên, hai mươi phút sau chúng tôi trở lại, sáu người lính Lôi Hổ vừa chạy về phía phi cơ vừa bắn ngược về phía sau. Việt Cộng bắn ra tới tấp từ những lùm cây, từ những ngôi nhà cất ngụy trang dưới những tàng cây lớn và đồng thời từ một toán truy nã sát phía sau những người lính Lôi Hổ này. Tiếng đạn AK47 nổ chát chúa từ ba hướng nhắm vào chúng tôi. Trên cao, những chiếc trực thăng võ trang yểm trợ cho bãi đáp cũng bị đại liên phòng không của địch bắn theo ráo riết. Sau khi sáu người lính Lôi Hổ lên được phi cơ, chúng tôi cất cánh một cách vội vã về hướng không có Việt Cộng. Sức chịu đựng của động cơ đã được sử dụng tới mức tối đa, hầu giúp mọi người thoát ra ngoài vùng nguy hiểm càng nhanh càng tốt. Trên đường trở ra, hai khẩu đại liên M60 của phi cơ và sáu người lính Lôi Hổ vẫn tiếp tục bắn xối xả vào những lùm cây hai bên, cho đến khi phi cơ hoàn toàn xa tầm súng của Việt Cộng. May mắn là không có ai bị thương hoặc chết, tuy nhiên về đến bãi đáp B-15 ở Kontum, chúng tôi đếm được từ đầu đến đuôi phi cơ tất cả là sáu vết thủng của đạn. Đã nói mà, đạn tránh mình, chứ mình làm sao tránh được đạn.

Sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, tin thành phố Ban Mê Thuột bị mất trong đêm đã làm mọi người bàng hoàng. Hầu hết quân và dân đều không tưởng tượng rằng nó có thể mất vào tay Việt Cộng một cách dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Cuộc chiến vùng cao nguyên bắt đầu bùng nổ từ đây. Tất cả những nỗ lực quân sự của Quân Đoàn 2 đều chú tâm về đó. Một cuộc di chuyển quân vĩ đại và cấp tốc được diễn ra. Hàng trăm chiếc trực thăng, trong đó có cả những đơn vị tăng phái từ những Sư Đoàn Không Quân 1, 3 và 4, đến để di chuyển Trung Đoàn 44 và 45 của Sư Đoàn 23 từ căn cứ Hàm Rồng về giải cứu Ban Mê Thuột. Hàm Rồng là một căn cứ ở phía nam Pleiku khoảng hai mươi cây số. Mặc dù đó là một căn cứ của bộ binh, tuy nhiên rất nhiều nhân viên phi hành trong Không Quân biết đến, bởi vì nơi đóng quân của Sư Đoàn 23 bộ binh này là một ngọn núi nhỏ, mà từ trên cao nhìn xuống, nó giống hệt như một bộ phận kín đáo và đẹp đẽ nhất của người đàn bà, đó là một tuyệt kỹ của thiên nhiên. Đối với những phi cơ cánh quạt, ngọn núi này rất quan trọng, vì đó là điểm xác định vị trí của mình trước khi đáp xuống phi trường Cù Hanh. Cho nên nhiều chàng dí dỏm chỉ ngọn núi đó nói rằng: nếu không thấy ...cái đó (của người đàn bà,) thì không thể nào đáp được...

Mặt trận Ban Mê Thuột rất gay cấn, số quân nhân hai Trung Đoàn 44 và 45 quyết tâm trở về lấy lại Ban Mê Thuột, bởi vì đó là nơi bản doanh của Sư Đoàn 23 của hai Trung Đoàn này trấn đóng. Mọi người nghĩ rằng nếu Việt Cộng chiếm, thì chỉ mất công đánh lấy lại như những lần khác. Tuy nhiên, hai ngày sau, phi trường Cù Hanh tại Pleiku bắt đầu bị địch pháo kích bằng hỏa tiễn 122 ly. Tình hình thật ra cũng chẳng có gì quá khẩn cấp, đánh giặc mà, ai cũng nghĩ rồi sẽ qua đi. Tuy nhiên lệnh Quân Đoàn 2 di tản chiến thuật, Sư Đoàn 6 Không Quân di tản về Nha Trang, tiếp theo đó những tin tức lan truyền tới tấp, lòng quân và dân bắt đầu hỗn loạn. Liên tỉnh lộ 7 nối liền Pleiku, Phú Bổn, Tuy Hòa dọc theo con sông Ba, sẽ là con đường rút quân của Quân Đoàn 2. Liên tỉnh lộ này đã bị bỏ hoang từ nhiều năm. Quân Đoàn 2 sử dụng con đường này với hy vọng là nhờ vào yếu tố bất ngờ, có thể Việt Cộng không truy kích kịp. Tuy nhiên đoạn đường này dài đến ba trăm cây số và đã bị hư hại nhiều theo năm tháng, nhất là những cây cầu bắt ngang sông Ba. Trước đó vài tháng, trong một phi vụ chở Thiếu Tướng Phú tư lệnh Quân Đoàn 2 từ Pleiku về Nha Trang, ông đã ra lệnh cho chúng tôi bay thật thấp dọc theo con đường này để ông quan sát và ông cũng đã quan sát con đường này rất nhiều lần trong những chuyến bay tương tự như vậy trước đó.

Đơn vị của chúng tôi di tản về Nha Trang. Tại đây tôi gặp lại Tùng, người bạn gái vừa mới quen tại Pleiku. Tùng là người Huế, làm y tá cho bệnh viện Pleiku. Nàng có một giọng nói êm ả của một người con gái đất thần kinh. Tội nghiệp thân gái dặm trường, bơ vơ giữa một rừng người di tản.

Tôi đã giúp đưa nàng về Sài Gòn. Sau đó chúng tôi có gặp lại nhau một tuần trước ngày mất nước. Nàng ngỏ lời xin đi theo khi đơn vị của tôi di tản xuống Cần Thơ. Tuy nhiên, vì không duyên số, nên chuyện đó không thành... Bi chừ em ra sao? Má vẫn còn đào? Cho anh gửi về em một chút tình vấn vương kỷ niệm...

Đơn vị của chúng tôi đóng ở Nha Trang vài ngày, thì được lệnh di chuyển xuống Phan Rang vì căn cứ Nha Trang quá chật hẹp. Hàng ngày phi đoàn của chúng tôi vẫn trở lên tiếp viện cho mặt trận Ban Mê Thuột và Tuy Hòa.

Tại mặt trận Ban Mê Thuột, sau khi trực thăng di chuyển hai Trung Đoàn 44 và 45 của Sư Đoàn 23 xuống Phước An để giải cứu Ban Mê Thuột, tuy nhiên không hiểu vì lý do gì mà tất cả những đơn vị chiến đấu đều đi thụt lùi về phía Khánh Dương. Sau này tôi mới biết là ông Thiệu đã ra lệnh rút lui mặc dù quân sĩ sẵn sàng chiến đấu. Trong một phi vụ bốc một toán dân và quân di tản ở trong rừng về, tôi đã chửi thề khi thấy một ông Đại Úy Biệt Động Quân ở trong đó. “Đ.M mấy cha đánh giặc gì mà cứ bỏ chạy?” Không ngờ vị Đại Úy này phản ứng một cách giận dữ: “Đ.M tụi này đang chiếm lại Ban Mê Thuột thì có lệnh rút lui”. Lúc đó tôi mới giật mình và linh cảm có một việc gì trọng đại sắp xảy ra. Cảnh hỗn loạn chết chóc làm hoang mang tất cả mọi người.

Trong một phi vụ khác, sau khi tôi bốc một số người chạy lạc trong rừng về phi trường Khánh Dương, một người đàn bà trong số những người đó không chịu xuống phi cơ. Người xạ thủ của tôi báo cáo là tại vì mình không bốc được con gái của bà ta nên bà ta không chịu xuống. Ông trời ơi! trong tình trạng hỗn loạn như vậy thì làm sao tôi có thể biết được người nào là con bà ấy đây. Thoạt đầu tôi giận dữ, la hét trên intercom, tuy nhiên tôi đã giữ được bình tĩnh vì tôi cảm thấy rằng đó là một sự mất mát lớn lao của một người mẹ. Tôi nói với người xạ thủ là bảo bà ấy xuống đi, mình sẽ đi đón con của bà ta. Tôi bay trở lại vị trí đã bốc người đàn bà trước đó, đón tất cả số người còn lại trở về phi trường Khánh Dương. Tôi nghĩ rằng trong đám người ấy chắc là có cô con gái của người đàn bà đó, cũng như tôi hy vọng là tôi đã làm tròn lời hứa với một người đàn bà, đúng hơn là một người mẹ vĩ đại. Ngoài ra cũng tại phi trường Khánh Dương, tôi đã nghe chuyện một người mẹ khác, tâm trí thất thần vì đã thất lạc sáu đứa con trong cuộc di tản, trong khi trên tay vẫn còn cầm một chai sữa.

Trở lại liên tỉnh lộ 7 từ Phú Bổn về Tuy Hòa, tình trạng hỗn loạn còn tệ hại hơn nhiều. Đoạn đường này đã bị hư hại nhiều nơi, đã làm cuộc di chuyển bị đình trệ. Cuộc hành trình của đoàn người di tản bắt đầu từ Pleiku và chỉ có một đơn vị thiết vận xa về đến Tuy Hòa chín ngày sau đó, phần còn lại của đoàn người vẫn còn kẹt lại. Việt Cộng đã quấy phá dọc đường, nhất là chúng đóng chốt ở trong đồn Đại Hàn cách Tuy Hòa hai mươi cây số, nơi mà trước kia những đơn vị Đại Hàn đã đồn trú. Biệt Động Quân với sự yểm trợ của Không Quân cố gắng đánh bật chúng ra, tuy nhiên sự di chuyển của đoàn người đều bị chậm hẳn lại. Ngày sau cùng, chúng tôi được lệnh của thượng cấp dùng trực thăng đón số người di tản. Với mục đích là đem quân và dân về Tuy Hòa càng nhiều càng tốt, mỗi trưởng phi cơ được toàn quyền hành động và tùy cơ ứng biến theo ý của mình.

Trên con đường di tản này, tôi đã chứng kiến những cảnh chết chóc khốn khổ tận cùng của người dân và người lính. Cướp bóc, đói khát, kiệt sức, kể cả một câu chuyện, một người cha đã bịt miệng đứa con nhỏ của mình cho đến chết chỉ vì sợ đứa bé khóc sẽ bị Việt Cộng khám phá ra chỗ ẩn núp của mình. Cũng trên con đường này, tôi đã khám phá ra rằng tôi là một người có trái tim, tôi đã đi cứu người, tôi cứu người vì tôi xúc động trước cảnh khổ đau của những người khác. Phải nói rằng với bảy năm trong quân ngũ, vào sinh ra tử và với một chiến thương bội tinh, những điều đó chẳng làm cho tôi hãnh diện, bởi vì đó là những việc tôi bị bắt buộc phải làm theo lệnh của thượng cấp. Đôi lúc tôi còn cố tình làm ra vẻ gan lỳ để chứng tỏ với đồng đội là mình không phải là kẻ hèn nhát, mặc dù cũng có những lúc run sợ. Tuy nhiên trong lần cứu những người di tản này, tôi đã tình nguyện làm, tôi cứu người không phải vì đó là một cái lệnh bắt buộc, cũng không phải để chứng tỏ mình là một anh hùng hảo hán, tôi cứu người vì tôi xót xa trước sự đau khổ tận cùng của đồng bào.

Tôi đã cứu người và bất chấp tất cả sự nguy hiểm của chính bản thân mình khi tôi xuống bốc một toán người lạc ở giữa rừng, nơi mà địa thế với những cây cao bao quanh. Tôi đã đem họ ra khỏi khu rừng ấy về đến Tuy Hòa. Tôi đã sử dụng quá độ sức chuyên chở của chiếc phi cơ, điều mà sách vở về kỹ thuật của Mỹ khuyên không nên làm như vậy. Tôi tưởng rằng tôi đã bị rớt xuống giữa rừng cùng với khoảng năm mươi người hành khách già trẻ bé lớn. Tuy nhiên cũng nhờ một sự nhiệm mầu, một ngọn gió đã nâng con tàu của tôi qua khỏi đầu ngọn cây. Bởi vì một vài em nhỏ bị đè bẹp ở dưới đám đông khi mọi người chen chúc nhau lên phi cơ, tôi vội vàng đáp ngay xuống một giòng suối gần đó để sắp xếp lại hành khách. Tôi đã đem những người này về đáp tại dinh ông tỉnh trưởng Phú Yên. Tôi tắt máy, bước xuống phi cơ và đứng nhìn số hành khách rời máy bay hầu như vô tận. Lúc ấy quả thật tôi đã cố tình đáp xuống dinh ông tỉnh trưởng Phú Yên thay vì xuống phi trường Tuy Hòa, với mục đích là để cho ông tỉnh trưởng Phú Yên thấy rõ tình trạng bi thảm của người dân và người lính, đồng thời cũng để nghỉ một lát hầu lấy lại bình tĩnh vì thấy mình vừa thoát chết.

Cũng trong ngày đó, chúng tôi tiếp tục đón những người di tản về Tuy Hòa. Tôi và những đồng đội của tôi trong đơn vị thừa hiểu rằng Việt Cộng đã trà trộn rất nhiều trong đoàn người này, tuy nhiên chúng tôi đã bất chấp những sự nguy hiểm trước mắt, vẫn xuống đón những người di tản về. Một người đàn ông mặc quần áo dân sự, tôi nghĩ đó là một người lính, khi vừa leo lên được phi cơ, anh ta đã vỗ vai và báo cho tôi biết rằng Việt Cộng đang ở dưới đất. Tôi biết nhưng tôi đã không bỏ chạy bởi vì tôi nghĩ rằng, nếu Việt Cộng bắn trong khi chúng tôi đang cứu người thì bọn họ quả thật là thất nhân tâm, tuy nhiên trong lúc cất cánh đã có một vài tiếng súng bắn vói theo. Thật tình mà nói cái anh Việt Cộng bắn vói theo đó cũng còn có lương tâm, bởi vì nếu như hắn cố tình bắn trong khi chiếc phi cơ còn đang ở cách mặt đất không đầy một thước, thì chúng tôi và tất cả những hành khách trên phi cơ đều không thể nào thoát được sự nguy hiểm.

Cũng trong chuyến này, trên đường trở về Tuy Hòa, để được nghỉ tay, tôi giao cần lái lại cho Thành, người hoa tiêu phụ. Tôi có bảo anh ta là xuống đón thêm một ít người nữa ở một vị trí khác cho thật đầy một chuyến. Không ngờ lần này một tên Việt Cộng lẫn lộn trong đám đông, đã bắn thật vào phi cơ làm một bà lão bị thương ở cánh tay và người cơ phi tên Đại của tôi bị thương ở bàn tay. Tôi chụp lấy cần lái từ tay Thành, rút một cuộn băng cứu thương từ trong túi áo mưu sinh đang mặc trên người đưa cho anh ta để cầm máu cho Đại và vội vàng bay thẳng về Tuy Hòa. Trong trường hợp bình thường, tôi đã ở lại bắn chết tên Việt Cộng vô lương tâm này bởi vì tôi đã nhận diện được hắn và lúc đó hắn ta đang ở trên một bãi cát giữa giòng sông. Với hai khẩu đại liên M60 trang bị trên phi cơ thì chắc chắn rằng hắn ta không thể nào thoát chết được. Tuy nhiên tôi rất là tức giận đã không làm được việc đó vì chiếc phi cơ đã chở quá nặng, không còn sức để xoay trở được, hơn nữa bà lão và người cơ phi bị thương cần được đem về Tuy Hòa để cứu cấp.

Trên đường trở về Tuy Hòa, trên tần số vô tuyến, tôi nhận được tin một chiếc trực thăng võ trang của chúng tôi cũng bị trúng đạn. Chiếc trực thăng này đang yểm trợ Biệt Động Quân, nơi mà đơn vị đang cố gắng đánh bật cái chốt của Việt Cộng ở trong đồn Đại Hàn ra. Họ cũng đang vội vã trở về Tuy Hòa vì người xạ thủ của chiếc đó bị trúng đạn rất nặng ở ngực.

Tại bệnh viện Tuy Hòa, lúc đó tôi là một người điên, đồng đội của tôi đã đổ máu, tuy nhiên tôi đã cảm động trước sự tận tình cứu chữa của một vị Trung Úy bác sĩ Quân Y tại đây, nhờ vậy tình trạng thương tích của Đại và người xạ thủ của chiếc trực thăng võ trang tạm thời ổn định, sau đó chúng tôi đã mang cả hai về hậu cứ. Nghe nói vị bác sĩ này cũng có thân nhân trong đoàn người di tản từ Pleiku về. Thành thật cám ơn bác sĩ, lúc hoạn nạn mới biết tình huynh đệ chi binh. Bầu trời Tuy Hòa nắng ấm, tuy nhiên, đối với tôi lúc đó là một địa ngục trần gian trong đó bao gồm những sự chết chóc, máu đổ thịt rơi. Ai đã gây nên cảnh tượng tang thương như thế này?

Chúng tôi đã mang một số lớn những người di tản này về đến Tuy Hòa, tuy nhiên số người thất lạc ở trong rừng cũng như những người không theo kịp đoàn người còn rất đông. Tôi tiếc rằng, sự đóng góp vào việc cứu đoàn người này của chúng tôi vẫn chưa thật sự hoàn tất mặc dù mình đã tận lực. Ngoài ra tình hình chiến sự thay đổi quá nhanh, chúng tôi không thể làm gì hơn được nữa. Lúc ấy tôi chỉ cầu mong rằng, có một đấng thiêng liêng nào đó với một phép lạ nhiệm mầu, để biến hóa cho mọi người trở lại một cuộc sống bình thường như là không có chuyện gì xảy ra...

San José, CA. Jan, 2008.

Lời nói cuối:

Văn chương luộm thuộm,

Chính tả trật lất,

Hiền nội ê đầu vì phải ê...đít (edit)...Cảm tạ nàng...

Lạc Long Huỳnh Quốc Phú

Posted by: caoduy Apr 27 2010, 04:30 PM







Cuộc Di Tản Đầy Máu và Nước Mắt


Đại Tá Trịnh Tiếu

Không phải mãi hai ngày sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau vụ di tản rút quân bỏ miền Trung. Vào buổi tối ngày 17.3.1975, tại bữa cơm đãi một số Viên Chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại nhà ông Thomas Polgar, Trưởng CIA, ở Sài Gòn, Tướng Ðặng Văn Quang Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu, đã lật trang sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu. Rất giống người Nga tiêu diệt đội quân của Nã Phá Luân vào năm 1812 bằng cách bỏ đất để câu giờ hầu chấn chỉnh tổ chức quật ngược thế cờ, Tướng Quang cho rằng quyết định của ông Thiệu đi theo chiến lược đó sẽ đánh bại quân Bắc Việt. Tướng Quang nói ‘’Có thể mùa mưa sẽ giúp chúng tôi như thể Ðại Tướng mùa Đông đã giúp người Nga’’.

Tại Cao Nguyên Trung Phần, dân chúng không chờ giải thích. Họ thấy rõ quá rồi nên tự lo lấy.Khi quân Bắc Việt pháo kích Kontum, con đường dẫn xuống Pleiku tràn ngập dân di tản chạy trốn pháo kích. Trong khi các Ðơn Vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu rời các vị trí ở Pleiku và các phi cơ vận tải bay lên bay xuống phi trường suốt ngày đêm, người dân biết ngay đến lúc chạy theo Quân Ðội.

Vào đêm Chủ Nhật, một đoàn xe vận tải dài thòng âm thầm rời khỏi Pleiku từng cái một đèn sáng choang. Phóng viên Nguyễn Tư nghĩ nó ‘’giống như một đoàn xe đi chơi cuối tuần trở về nhà’’. Phía sau, những tiếng nổ lớn phát ra từ các kho đạn bị phá và bầu trời đen nghịt khói từ các bồn xăng đốt cháy.

Trong khi đoàn xe tiến về hướng Nam tung lên những đám bụi đỏ mờ mịt, từng đoàn người dân đi bộ dài như rắn bò hai bên Ðường Quốc Lộ song song với đoàn quân xa. Một vị Nữ Tu Công Giáo nhớ lại ‘’trẻ thơ và trẻ em được chất lên xe bò và người kéo đi. Mọi người đều hoảng hốt. Người ta cố thuê mướn xe bằng mọi giá’’. Trong ba ngày 16, 17, 18, tháng ba, cuộc di tản di chuyển êm thắm khỏi Pleiku và giữa các đoàn quân xa là hàng trăm dân sự đi theo cuộc di tản. Và cũng từ đó bắt đầu một đoàn công voa di tản đầy máu và nước mắt.

Ði được nửa đường tiến ra Duyên Hải, đoàn xe bị khựng lại để cho Công Binh Quân Ðoàn II cố làm xong chiếc cầu nổi ngang qua sông Ea Pa cách đèo Cheo Reo (Phú bổn) vài cây số. Tướng Phạm Văn Phú tiên liệu hai ngày sẽ sửa xong con Ðường số 7 nhưng mãi ba ngày vẫn chưa sửa xong cây cầu. Ðến chiều tối ngày 18.3, xe cộ và lính tráng đã đi được ba ngày và một đám dân tỵ nạn khổng lồ bị khựng lại dọc theo con đường và dồn cục tạm nghỉ ở chung quanh châu thành Tỉnh Phú Bổn. Cái châu thành nhỏ bé cheo leo này làm sao cung cấp đủ nhu cầu cho đoàn di tản này, nhiều người bỏ nhà ra đi chỉ có bộ đồ trên người.

Vì hoảng sợ, địch đe dọa phía sau, đói khát và có những băng lính không còn Cấp Chỉ Huy nữa sanh đạo tặc, đoàn người đòi cứ tiến đi không cần biết hậu quả ra sao. Trước tình thế hỗn quân hỗn quan này, các giới chức lãnh đạo không thể nào thuyết phục dân chúng và điều động xe cộ vũ khí thành một phòng tuyến phòng thủ. Và y như xảy ra khi quân Ðức bao vây khóa chặt Paris năm 1940, dân châu thành cũng chạy trốn, làm tắc nghẽn mọi con đường, Quân Ðội không thể nào di chuyển để bảo vệ họ trước kẻ địch. Tình hình đe dọa hỗn loạn. Cần phải có những bàn tay tổ chức. Nhưng Tướng Lê Duy Tất vẫn còn ở Pleiku với đoàn hậu vệ Biệt Ðộng Quân, trong khi Ðại Tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn xe, đã phải bỏ xe đi bộ đến Bộ Chỉ Huy ở Cheo Reo.

Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu di chuyển xuống Quốc Lộ số 7, Tướng cộng sản Văn tiến Dũng cũng đã bị đánh lừa theo kế hoạch của Tướng Phú. Trước khi khởi sự chiến dịch 275, Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh sư đoàn 320 về những con Ðường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể nào dùng nó như là lối thoát sau cùng. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Tây Phương nói dân chúng đang bỏ Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập và Hà Nội đánh tín hiệu ngày 16.3 báo cho biết Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã di tản về Nha Trang, Dũng mới bắt đầu nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch quân rút được không.

Ðến 4 giờ chiều cùng ngày, công điện của Hà Nội đến báo, tình báo Bắc Việt báo một đoàn xe dài từ Pleiku tiến về phía Nam xuống Ban Mê Thuột. Tin này làm cho Tướng cộng sản bối rối. Phải chăng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phản công hay là chạy trốn? Tình báo của Dũng cho ông ta câu trả lời ngay sau đó, đúng như tình hình diễn biến ở trên. Ðến lúc này bộ chỉ huy cộng sản mới dở bản đồ ra, chiếu đèn pin và dùng kiếng phóng đại dò tìm địch quân. Kiểm điểm lại, Tướng Dũng và Tướng Kim Tuấn, tư lệnh sư đoàn 320, mới biết bị Tướng Phú lừa ngay trước mắt, Tướng Dũng khiển trách Tướng Kim Tuấn, đồng thời phối trí các đơn vị di chuyển về tụ điểm Quốc Lộ 7 để tiêu diệt đoàn công voa di tản về Tuy Hòa.

Ðoàn xe Quân Dân miền Nam cầu mong sao cho thời gian chậm lại để đi kịp về miền biển không bị cộng sản tấn công. Nhưng không kịp nữa, khi màn đêm buông xuống ngày 18.3 lúc đoàn xe kẹt ở Cheo Reo, quân cộng sản bắt đầu pháo kích vào đám đông dân di tản. Họ hết còn bí mật nữa và kẻ thù ở trong tầm tay. Ðêm ngày 18.3, những đơn vị tiền phong của sư đoàn 302 đụng độ với đoàn xe Quân Ðoàn II ở Cheo Reo. Cùng lúc các đơn vị khác đụng độ với Ðoàn Quân hậu bị Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân ở Thị Trấn Thành An ngã tư Quốc Lộ 14 và Quốc Lộ 7. Ðại Tá Lý đi bộ mãi rồi cũng tới Bộ Chỉ Huy Cheo Reo kịp lúc để giúp điều động Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vào vị trí phòng thủ chống các cuộc xung phong của quân Bắc Việt ở lối vào Thị Trấn phía Tây. Ðồng thời, pháo binh Bắc Việt rót vào. Ðoàn xe cái đầu ở Cheo Reo nhưng cái đuôi vẫn còn ở Pleiku. Việt cộng tha hồ pháo kích. Sáng hôm sau, xác chết và xác bị thương lính tráng và dân nằm la liệt trên Ðường Phố Cheo Reo (Phú Bổn) cùng với hàng trăm xe cộ bị phá hủy hoặc bỏ rơi. Một phi công trực thăng Không Quân Việt Nam báo cá ‘’Khi tôi bay thấp, tôi có thể nhìn thấy hàng trăm xác chết nằm rải rác dọc theo con đường cạnh các xe còn cháy’’.

Mặc dù lực lượng cộng sản đã chiếm được Phi Trường Phú Bổn, Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vẫn còn giữ được lối vào châu thành và cây cầu phía Nam sửa xong. Ðây là một cú cải tử hoàn sinh, Ðại Tá Lý và các Cấp Chỉ Huy của ông có cơ hội ra lệnh cho đoàn xe lên đường trở lại với 2.000 xe nổ máy ầm ầm lăn bánh. Nhưng đoàn xe di chuyển không bao lâu, Tướng Phú cho trực thăng đến đón Ðại Tá Lý ra khỏi Cheo Reo. Thế là đầu không còn ai Chỉ Huy chỉ có Tướng Tất Chỉ Huy ở phía sau. Từ ngày 19 trở đi, Chỉ Huy đầu đoàn công voa là những Ðơn Vị Trưởng cấp Tiểu Ðoàn, Ðại Ðội mạnh ai lấy ra lệnh.

Bất kể hỏa lực của cộng sản, trực thăng của Không Quân Việt Nam bắt đầu đáp xuống bốc những người Lính và dân bị thương dọc theo con đường. Khi những người di tản được trực thăng chở đến Phi Trường Tuy Hòa, họ kể những chuyện khủng khiếp xảy ra cho họ. Ngày 19.3, đầu đoàn xe đã đến Sông Côn chỉ còn cách Tuy Hòa 40 km. Nhưng ở đoạn đuôi nửa đường giữa Cheo Reo và Sông Côn, quân Bắc Việt lại đánh ngang hông đoàn xe, lần này ở khoảng Thị Trấn Phú Túc. Không Quân Việt Nam được gọi đến oanh kích chặn tiến quân của địch nhưng đã nhầm lẫn bỏ bom xuống Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân (Làm tổn thất gần 1 Tiểu Ðoàn). Nhưng Liên Ðoàn này vẫn tiếp tục chiến đấu giữ cho con đường mở.

Ðoàn xe chạy qua Cheo Reo cho đến ngày 21.3 thì quân Bắc Việt chọc thủng các vị trí cố thủ của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, vượt qua chiếm châu thành và cắt đứt con đường. Trong số khoảng 160.000 người của đoàn xe di tản, nhiều người dân bị cô lập với Lính của Ba Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Theo lệnh Tướng Phú, Tướng Tất, vẫn còn ở phía sau đoàn xe, phải bỏ mọi vũ khí và quân trang nặng để chạy khỏi Phú Bổn càng nhanh càng tốt. Hàng ngàn người chạy vào rừng. Lính tráng với vợ con bên cạnh bị rượt bắt và tấn công nhiều lần. Một số ít giơ cờ lên được trực thăng đáp xuống bốc. Nhưng đa số cầm chắc bị đói và bị bắt.

Những người may mắn, các bà mẹ trẻ dính máu, các cụ già và phụ nữ người mặc áo dính bùn, và những người lính gào khóc, chân không, bước xuống trực thăng trước khi các phóng viên bủa ra hỏi thăm tin tức tại phi đạo Tuy Hòa. Các trực thăng bắt đầu chở thực phẩm và nước cho đoàn xe vẫn còn dài thòng di chuyển như con rắn vì đã có nhiều người đói.

Trong khi ở đuôi đoàn xe bị tấn công dữ dội và Tướng Tất cùng các Ðơn Vị còn lại cố chống trả bọc hậu, các Ðơn Vị đầu đoàn xe đã tiến vào ranh giới Tuy Hòa, trên con Sông Ba, cách Thị Trấn 20 cây số. Chiếc cầu nổi mà Tướng Cao Văn Viên hứa cũng đến kịp lúc, nhưng không kịp với lực lượng cộng sản đã đắp mô các ngã đường nằm giữa Sông và Tuy Hòa. Chiếc cầu không thể nào chở xe nổi đến chỗ Bắc nên phải mượn 4 phi cơ C-47 của Quân Ðoàn IV chở từng khúc đến.

Ngày 22.3, đúng một tuần sau khi đoàn xe di tản đầy máu và nước mắt rời Pleiku, chiếc cầu được bắc xong, đầu đoàn xe vội vã vượt qua con sông quá nặng làm chiếc cầu phao lật, người trong xe cộ phải lội sông. Nhưng đến cuối ngày, đoàn xe vẫn tiếp tục vượt qua khi chiếc cầu được sửa lật lại. Ngay cả đến thời thiết cũng tiếp tay cho cộng sản để làm cho đoạn cuối đoàn xe đến Tuy Hòa chưa hết nạn.

Trời nắng đột nhiên trở thành mưa gió lạnh lẽo cho người di tản. Không những thời thiết thay đổi xấu gây ra bệnh tật mà nó còn làm cho phi cơ quân sự không bay lên yểm trợ, chống trả những cuộc tấn công dưới đất của việt cộng. Từ ngày 22.3, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân bị kẹt đánh trong một trận đánh bọc hậu vừa đánh vừa lui trước nỗ lực rượt theo rất rát của quân cộng sản. Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân đã thu góp xe tăng và pháo binh để bảo vệ con đường ở khúc quẹo thung lũng gần cầu nổi. Họ đánh câu giờ để cho người di tản và Lính kịp vượt qua sông.

Ðồng thời, những Ðơn Vị đi đầu đã vượt qua Sông Ba rồi phải phá mô việt cộng để tiến vào Tuy Hòa. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân chỉ còn ít quân sống sót đã gom góp được hơn chục thiết giáp M-113 vừa đánh vừa ủi các mô tiêu diệt các vị trí cộng sản. Ðến ngày 25.3, vị trí cuối cùng của quân Bắc Việt bị tiêu diệt nốt, Biệt Ðộng Quân bắt tay được với Lực Lượng Ðịa Phương Quân ở phía Ðông Tuy Hòa.

Ðoàn xe khập khễnh tiến vào Tuy Hòa như một đoàn xe ma. Xấp xỉ 60.000 người dân đến đích, hai phần ba hay hơn 100.000 người bị bỏ lại dọc đường, chết sống không ai biết. Về phía Quân Ðội, 20.000 quân tiếp vận và yểm trợ, chỉ còn 5.000 người đến nơi. Sáu Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân 7.000 người, chỉ còn 9.00 đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn II ở Nha Trang và đóng chốt bảo vệ Thành Phố. Một vị Tướng ở Bộ Tham Mưu đã buồn bã nói: ‘’70% lực lượng tác chiến của Quân Ðoàn II gồm Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh Chiến Ðấu và các Ðơn Vị Truyền Tin đã bị tan rã từ ngày 10 đến 25.3’’. Vì thế chuyện phản công tái chiếm Ban Mê Thuột không thể giao phó cho Quân Ðoàn II.

Canh bạc Tướng Phú chọn Quốc Lộ 7 có thể đã an toàn nếu các cầu nổi được bắc kịp thời và Tướng Viên đổ lỗi cho vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II. Tướng Viên tin rằng Tướng Phú phải hoãn cuộc di tản ít ngày để cho các Kỹ Sư Công Binh kịp bắc cầu. Tướng Viên cũng tin rằng hoãn lại cho phép điều động sắp xếp kỹ hơn nhất là kiểm soát dân chúng. Theo một vị Tướng Mỹ thông thạo các Sĩ Quan cao cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lỗi lầm không những ở kế hoạch di tản của Tướng Phú mà ở ngay chính Tướng Phú và lỗi lầm đầu tiên và quan trọng nhất là để mất Ban Mê Thuột. Một vị Tư Lệnh Quân Ðoàn cương quyết hơn không cần phải rút quân như vậy. Một Sĩ Quan Tùy Viên Mỹ tuyên bố: ‘’Một vị Tư Lệnh mạnh như Tướng Toàn (Trước đó là Tư Lệnh Quân Ðoàn II) có thể phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, sử dụng toàn bộ Hải, Lục, Không Quân có trong tay đã có thể kềm hãm quân Bắc Việt, cố thủ thêm một năm nữa’’.

Nhưng ngày 25.3.1975,không còn cơ hội đó. Cuộc di tản tự làm cho mình thất bại đau đớn, như lời Tướng Viên mô tả, hoàn tất, gây một cơn ác mộng tâm lý và chính trị to lớn cho ông Thiệu, cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cho dân chúng Việt Nam Cộng Hòa. Một dư luận đồn thổi khắp nước và cả ở những viên chức dân sự và quân sự cao cấp nói rằng: Tổng Thống Thiệu và người Mỹ, trong một thỏa hiệp mật của Hiệp Định Paris, đã cố kết với nhau cho cộng sản chiếm một phần lớn lãnh thổ Nam Việt Nam. Tại sao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu can trường suốt hai mươi năm không thua đột nhiên bị ra lệnh rút khỏi Cao Nguyên, bỏ Pleiku và Kontum không một tiếng súng giao tranh ?

Tinh thần đổ vỡ vì mất bốn Tỉnh trong ba tháng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh nặng và vô ích không tái chiếm nổi Ban Mê Thuột đã làm cho dân chúng Nam Việt Nam hết còn tin tưởng Tổng Thống Thiệu có thể bảo vệ họ. Vậy ai khác có thể làm được? Phe đối lập ông Thiệu vô tổ chức, đứng ngoài chờ thời cơ và người Mỹ tiếp tục làm ngơ. Chỉ có ông Thiệu là người phải tìm ra cách nào để lấy lại tinh thần cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trước khi ông tìm ra hướng đi hợp tình thế thì tin xấu từ Quân Ðoàn I bay về. Cũng lại di tản và cuộc di tản Quân Ðoàn I bi thảm không kém để kết thúc ngày 30.4.1975.

Posted by: VanAnh May 12 2010, 09:42 AM



Tăng Thanh Hà, một trong những kiều nữ của làng giải trí Việt đặt cạnh cái tên Cường Đô la


Chân dung Cường Đô la và sự im lặng bí hiểm


Thật bất ngờ, cái tên Cường đô la lại khiến cư dân mạng "sốt xình xịch" hơn cả những tên tuổi lớn trong làng giải trí như Mr. Đàm, Mai Phương Thúy.

Kết quả từ google khi search cái tên Cường Đô la là 3,130,000 là con số mơ ước của rất nhiều các ngôi sao nổi tiếng ở Việt Nam. Trong đó, đáng ngạc nhiên là ngôi sao đình đám, kiếm tiền thuộc hàng đỉnh, có số fan cũng thuộc hàng đỉnh tại làng nhạc trẻ như Đàm Vĩnh Hưng cũng chỉ có 2,470,000 (với riêng từ khóa "Đàm Vĩnh Hưng") hay như hoa hậu Mai Phương Thúy dăm ba bữa lại lên báo mà kết quả cũng chỉ là 1,140,000..

Sinh ra trong một gia đình quá mạnh về tài chính tại phố núi Pleiku, với Nguyễn Quốc Cường, mọi khoản chi tiêu đều được quy đổi thành USD. Ngay từ năm 11 tuổi, Cường đã được giới trẻ Pleiku gán cho một biệt danh mà ai nghe qua cũng phải nể, đó là “Cường Đô la”. Đây là một trong những cách lý giải về nick name của nhân vật này được cư dân mạng đưa ra.

Trong các diễn đàn, các trang mạng, cư dân mạng bàn tán, tìm hiểu và đồn thổi về Cường Đô la với cả những thông tin về thân thế, nguyên nhân giàu sang, các thú tiêu khiển, sở thích chơi siêu xe, đua tốc độ, và cả danh sách những người đẹp vây quanh…

Một trong những tiêu đề phổ biến được cộng đồng mạng đưa ra khi viết về Cường Đô la là: “Đại thiếu gia chơi xe và người đẹp bậc nhất Việt Nam”, “Dân chơi vô đối, dân chơi khét tiếng”, “Thiên hạ vô đối, gái đẹp đầy mình”, “Đại gia ăn chơi khét tiếng tại Sài Gòn” rồi so sánh bầu Đức và Cường Đô la và những người nghèo nhất Việt Nam, so sánh Cường Đô la với Công tử Bạc Liêu. Thân thế, gia cảnh của Cường Đô la cũng là một trong những chủ đề ưa thích của cư dân mạng và một số blogger "hot".

Về thú chơi xe và các thương hiệu xa xỉ của Cường Đô la, chúng tôi xin trích dẫn một đoạn trong các trang viết về nhân vật này: “Rolls Royce, Ferrari, Lamborghini… những thương hiệu xa xỉ nhất thế giới đều hiện diện trong biệt thự của Cường Đô la… Nói về số lượng xe của Cường Đô la thì đố ai đếm được, chỉ biết rằng đối với dòng xe thể thao ưa thích là Lamborghini và Ferrari thì Cường cũng đã sử dụng cả, trong đó có Lamborghini Gallardo SE, Lamborghini Gallardo, Ferrari 360 Spider, Ferrari F430, Ferrari F430 Spider…”. Thú chơi xe của Cường Đô la cũng được nhắc đến với những chiếc biển đẹp kiểu như tứ quý tám, tứ quý sáu hay những chiếc điện thoại có gắn kim cương gần trăm triệu.

Một thông tin khác cũng được cư dân mạng đặc biệt chú ý về nhân vật đại thiếu gia này là mối quan hệ với các người đẹp. Ngoài "Nhị Hà" theo cách gọi của họ (Hà Hồ và Hà Tăng) với những chứng cứ gần như chắc chắn nhất về tình cảm của đại thiếu gia và người đẹp, còn có những cái tên khác như Thùy Lâm, Minh Hằng…


Một cặp xe Ferrari ("ngựa") được cư dân mạng post lên và đính với tên Cường Đô la.


Thậm chí, có vẻ để tăng thêm sự huyền bí về nhân vật đại thiếu gia giàu có này, thiên hạ còn cho rằng câu chuyện về Cường Đô la là một... “truyền thuyết”!

Một số bài báo chính thống thì chỉ đề cập đến một số sự kiện mà Cường Đô la tham dự, ví dụ như vụ Cường lĩnh ba năm án treo do tội “gây rối công cộng” và “đưa hối lộ” (trong vụ đua xe ô tô gây ồn ào dư luận xảy ra trên đường Điện Biên Phủ hồi tháng 5/2003); hay vụ đậu xe dưới biển cấm và bật nhạc ầm ĩ tháng 7/2004...

Rất nhiều thông tin về Cường Đô la được cư dân mạng bàn tán và các người đẹp cũng nhiều lần nhắc đến đại thiếu gia này với những câu chuyện tình cảm hay những nghi vấn tương tự. Tuy nhiên, có một sự thật là, từ khi được biết đến và trở thành một nhân vật cực "hot" với những thông tin trao đi đổi lại trong cộng đồng mạng đến nay, Cường Đô la không có bất kỳ một phát ngôn nào. Điều này càng làm người ta tò mò hơn về anh. Và câu chuyện về đại thiếu gia trẻ tuổi với cặp kính trắng, khuôn mặt rất hiền lành và hay cười này vẫn là một bí mật chưa thể biết hết.

Posted by: VanAnh May 12 2010, 11:35 AM





Cường đô la – Dân chơi phải như thế nào ?


Cường dollar sinh năm 1982 (Nhâm Tuất), tên thật là Nguyễn Quốc Cường- một tay đua có hạng, một dân chơi đẳng cấp và một công tử luôn có nhiều gái đẹp vây quanh…

Gia cảnh Cường dollar

Với hàng ngàn héc ta rừng đã phải ngã xuống trong những năm 80, bà Nguyễn Thị Như Loan (còn gọi là Loan Méng) – mẹ của Quốc Cường đã tạo nên một cơ ngơi đồ sộ, một gia sản khổng lồ. Thời đó, cùng với ông Đoàn Nguyên Đức (tức bầu Đức nổi tiếng cá độ bóng đá và đại gia bất động sản, cao su sau này), bà Loan là một trong hai chủ buôn gỗ lớn nhất ở tỉnh Gia Lai.

Bà Loan là người sở hữu phần vốn góp khá lớn tại CTCP Quốc Cường Gia Lai, Quốc Cường Đà Nẵng, ĐTXD Thủy điện Quốc Cường, Phát triển nhà Hưng Thịnh… Riêng CTCP Quốc Cường Gia Lai còn có các công ty trực thuộc là XNTD Quốc Cường (100%); CT TNHH DT&PT nhà Quốc Cường (90%) và các dự án liên kết khác như Sài Gòn Xanh (39%, hợp tác với BIDV), The Mansion – Nguyễn Văn Linh (50%, hợp tác với Khang Việt), Giai Việt (50%, hợp tác Hoàng Anh Gia Lai)… Chưa kể các dự án độc lập khác như Khu dân cư P7, Q8, TP. HCM; Khu 6B Nguyễn Tri Phương-Nguyễn Văn Linh; Văn Phòng Nguyễn Thị Minh Khai… Thời hoàng kim (đầu năm 2007), ước tính tài sản theo giá thị trường của bà Loan lên tới khoảng 1-2 tỷ USD do giá cổ phiếu và bất động sản tăng chóng mặt. Trong số nữ “doanh nhân” tài ba và có tài sản lớn nhất Việt Nam không kém cạh gì bà Thái Hương (Ngân hàng Bắc Á), bà Nguyễn Thị Nga (SeAbank), Bà Dương Thị Bạch Diệp (hay còn gọi là Diệp Bạch Dương)… Đến nay, tuy thị trường chứng khoán và bất động sản giảm sút mạnh nhưng tài sản của Bà Loan vẫn còn khá lớn… Một số công ty, bà Loan đã giao quyền điều hành cho “quý tử” của mình.

Trong một gia đình như thế, Quốc Cường đã được cưng chiều hết mực, ngay từ bé đã tỏ ra là một công tử lắm tiền, sẵn sàng ném đô la vô tội vạ cho những cuộc chơi. Với Quốc Cường, mọi khoản chi tiêu đều được cậu quy đổi thành USD, ngay từ năm 11 tuổi, giới trẻ Pleiku đã gán cho Cường 1 cái biệt danh mà ai nghe qua cũng phải “nể”, đó là “Cường dollar”.



Tuy vậy, ở một thành phố nhỏ bé như Pleiku thì muốn được phung phí tiền bạc để mua vui thì quả thật đó là một điều không dễ dàng cho một cậu bé 15 tuổi. Và từ đây, Cường dollar đã bắt đầu rong ruổi những thú vui chết người trên “yên xe” ở lứa tuổi vị thành niên. Được sự nuông chiều của mẹ, 16 tuổi Cường dollar đã sở hữu 1 chiếc mô tô Yamaha đắt tiền. Nhắc đến Cường dollar trong những cuộc đua xe ở Phố núi, A.V, một trong những bạn bè cùng trang lứa Cường dollar, cho biết: “Trong 1 lần đua xe, đối thủ của Cường xin rút lui vì hết tiền, ngay lúc đó Cường móc bóp rút ngay 1 tờ 100USD đưa cho đối thủ mượn không cần trả để cuộc chơi có thể tiếp tục”. Chỉ bằng hành động như vậy, Cường dollar đã thể hiện sự ham mê tốc độ và khả năng “tiền bạc vô bờ bến” của mình.

Vào cấp 3, được gia đình “chạy”, Cường dollar cũng tìm được vị trí trong lớp chuyên Toán, 1 lớp khá giỏi của Trường PTTH chuyên Hùng Vương Gia Lai, tuy nhiên Cường dollar luôn là 1 học sinh kém nhất lớp. Học ở trường tuy không bằng ai nhưng ra đường, Cường dollar vẫn là một tay chơi khó ai theo kịp ở phố núi nhỏ bé.

Dường như mỗi người có một phần số, nhiều khi không thể chống lại được. Đùng một cái, biến cố cuộc đời lái người ta theo một hướng khác. Ngay từ năm 17 tuổi, Cường dollar đã sớm mất cha… Không biết “Nhâm biến vi Vương” như thế nào nhưng sau đó, Cường dollar đã làm “vua phố núi”…



Sinh năm Nhâm Tuất, Cường dollar cũng hay để chó trong xe

Những ngày còn học lớp 12, Cường dollar thường cầm lái 1 chiếc xe Matiz đến trường và về nhà. Dĩ nhiên sẽ có một tài xế thường xuyên ngồi sát bên và kiêm luôn nhiệm vụ đem xe về nhà khi Cường dollar vào lớp, đánh xe đến trường lúc tan học để cậu qúy tử lái về nhà cách đấy chừng 500m.



Sau ba năm Trung học, Cường dollar được gia đình tìm cách đưa sang Mỹ du học. Nhưng với học lực “trung bình”, sức khoẻ kém, cậu ta đã không vượt qua được các cuộc sát hạch. Australia (nơi Cường OZ học tập) đã trở thành lựa chọn cho sự học của Cường dollar. Với việc đi về thường xuyên như “cơm bữa”, Cường dollar đã chuyển hẳn vào Sài Gòn sống.



Du nhập lối sống Tây Phương, được sự chu cấp tuyệt đối của mẹ, cùng với máu mê tốc độ, Quốc Cường đã trở nên một tay chơi có hạng giữa Sài Gòn hoa lệ. Cùng với những chiếc xe hơi đắt tiền, những cuộc vui “trưởng giả”, xa hoa, Quốc Cường đã gieo mình vào nhiều “chuyến đua định mệnh” và đã nhiều lần bị công an giữ xe, bắt giam… nhưng vẫn không hề hấn gì…



Sau mỗi lần như thế này, tên tuổi và đẳng cấp của Cường dollar lại tăng thêm một bậc…

Cường dollar và những chiếu siêu xe

Rolls Royce, Ferrari, Lamborghini… những thương hiệu xa xỉ nhất thế giới đều hiện diện trong biệt thự của Cường dollar… Nói về số lượng xe của Cường dollar thì đố ai đếm được, chỉ biết rằng đối với dòng xe thể thao ưa thích là Lamborghini và Ferrari thì Cường đôla cũng đã sử dụng cả, trong đó có Lamborghini Gallardo SE, Lamborghini Gallardo, Ferrari 360 Spider, Ferrari F430, Ferrari F430 Spider…









Ferrari thể thao và Rolls-Royce Phantom


Posted by: VanAnh May 12 2010, 11:42 AM









Lamborghini và Ferrari



Hàng xóm cũng phải ngó nhìn những chiếu siêu xe của Cường dollar
Trong số các siêu xe của mình, không phải cái nào Cường dollar mới gắn mác “phố núi” của mình. Chính vì vậy khi chiếc Ferrari 430 Spider xuất hiện trên đường phố Sài Gòn ai ai cũng phải trầm trồ ngạc nhiên vì siêu xe mui trần tuyệt đẹp này lại có “hộ khẩu” Gia Lai – xe mang biển 81K 6789. Chiếc xe này mang biển: 6789 vừa là số tiến, vừa có nghĩa là “San bằng tất cả”. Được chúng bạn khen nức lời, từ đây, Cường dollar bắt đầu quan tâm đến biển đẹp và số đẹp…





Chiếc ghế thửa có giá đến 2.600 USD







Đồ chơi “hộp số” kiểu F1 này cũng có giá trị 11.000 USD đấy các bạn à.

Posted by: VanAnh May 12 2010, 11:47 AM



Đố các bạn biết chiếc bạt phủ xe có giá bao nhiêu?
Trong số các siêu xe của mình, nhiều nhất và được sử dụng thường xuyên nhất chính là dòng xe thể thao danh tiếng là Lamborghini (mà dân chơi xe Việt Nam vẫn gọi là “bò”), tiếp đến là Ferrari (“ngựa”)… Mỗi lần lăn bánh trên đường phố Sài Gòn và đi du lịch, ai ai cũng phải ngắm nhìn và trầm trồ…















Tất nhiên, cả lúc đi du lịch nữa chứ…



Bóng xanh chứ không phải bóng hồng…



Tranh thủ lại gần chiếc Ferrari

Posted by: VanAnh May 12 2010, 11:53 AM



Nghía vào xem có gì không?



À, có chữ “Quốc Cường Gia Lai” được khắc trên táp lô(ảnh chụp đầu tháng 08/2008 tại Nha Trang)
Nhiều xe nên Cường dollar cũng thoáng tính… Có lần, Cường dollar còn cho một người bạn mượn chiếc xe Lamborghini đã lỗi mốt để test tốc độ và âm thanh của Lamborghini. Sau khi đã chọn lơ (lái xe) thiện chiến nhất của mình mà anh chàng tài xế này cũng không dám nhấn hết chân ga và thậm chí mụ mẫm cả người khi “rẽ phải” thành “rẽ trái”… thì cũng đủ biết thế nào rồi đấy…
Mặc dù chơi xe đã lâu nhưng 2 năm gần đây, Cường dollar mới quan tâm đến biển đẹp… Tuy nhiên, thời gian qua, Cường dollarr đã dính vào vụ rắc rối chuyện 1 xe 2 biển và 2 biển 1 xe…



Chuyện là thế này… Biển kiểm soát xe ô tô “tứ quý 8″ (81k-8888) từng được Công an Gia Lai cấp cho chiếc xe Bentley Flying (màu xanh) của Cường dollar. Sau đó, Cường dollar đã bán xe Bentley và đem hồ sơ sang tên cho người sở hữu mới (ở TP Hồ Chí Minh).



Đăng ký chiếc RR của Cường “đô-la”




Xe siêu sang song hành cùng điện thoại siêu đắt GoldVish. Chiếc GoldVish Violent Numbers trong hình có vỏ bọc vàng và đính 190 viên kim cương trên bàn phím, giá trong khoảng 50 đến 60 ngàn USD!





So với Nokia Sirocco kèm them Lamborghini trước đó…



… chiếc GoldVish, thương hiệu điện thoại của Thụy Sĩ đẳng cấp hơn rất nhiều. Đúng là điện thoại dành cho các triệu phú (giá từ 24 ngàn USD – 1,3 triệu USD)
Bằng dollar, Cường đã “phù phép” để Phòng CSGT Công an Gia Lai đã chuyển tên, ghi thu hồi biển số nhưng thực tế không thu biển mà cấp lại biển kiểm soát 81K-8888 cũ cho “đại gia” Nguyễn Quốc Cường để gắn lại trên chiếc xe mới tậu được loại Rolls-Royce màu trắng.



Không có gì là không thể: chiếc Rolls Royce mang biển kiểm soát “tứ quý 8″ của chiếc Chiếc Bentley Flying Spur cũ của “công tử phố núi”
Và khi CSGT đường bộ Công an TP Hồ Chí Minh kiểm tra tạm giữ xe ô tô 81K-8888 của Nguyễn Quốc Cường thì vụ việc trên mới bị phanh phui. Trước đó, chiếc Rolls Royce của Cường dollar cũng được giới chơi xe cho rằng đã sử dụ biển giả “tứ quý 6″…

Lắm xe là thế nhưng Cường dollar cũng kén chọn dân chơi xe… Điều này có thể thể hiện rõ việc Cường dollar chẳng thèm ngó ngàng gì đến Đại hội dân chơi xe năm 2007…

Năm nay chắc cũng không ngoại lệ, Cường dollar không thèm tham gia các Đại hội “rẻ rách” này. Thay vào đó, “đại gia” này vừa đánh tiếng với mấy “thiếu gia” khác tụ tập vào cuối năm nhân dịp một số bạn bè của anh về nước.

Posted by: AnAn May 14 2010, 07:18 AM








Cồng chiêng trên phố núi


Bài Cúc Hoa

Đến với lễ hội cồng Đến với lễ hội cồng chiêng tại Gia Lai chiêng tại Gia Lai năm nay mới thấy năm nay mới thấy được sức lan tỏa và được sức lan tỏa và cộng cảm giữa các cộng cảm giữa các nền văn hóa cồng nền văn hóa cồng chiêng, không chỉ chiêng, không chỉ riêng các dân tộc riêng các dân tộc Tây Nguyên mà Tây Nguyên mà còn có nhiều nước còn có nhiều nước Đông Nam Á khác Đông Nam Á khác

Phố núi Pleiku thơ mộng trong những ngày giữa tháng 11 vừa qua đã hân hoan chào đón hàng vạn du khách, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về tham dự Festival Cồng chiêng quốc tế 2009 - một bữa tiệc cồng chiêng tưng bừng, rộn rã và đầy màu sắc.

Tưng bừng khai hội

Lễ khai mạc hoành tráng của Festival Cồng chiêng quốc tế 2009 với chủ đề “Âm vang cồng chiêng và sức sống Tây Nguyên” đã làm thỏa lòng mong mỏi của hàng vạn người. Quảng trường 17/3 của thành phố Pleiku như được khoác lên chiếc áo mới rực rỡ, đầy sức sống nhờ chương trình trình diễn nghệ thuật cồng chiêng dài 70 phút, huy động 3.000 nghệ nhân, diễn viên trong nhiều đại cảnh, tái hiện trọn vẹn khung cảnh, thần thái, sức sống của đất và người Tây Nguyên. Thiên nhiên vừa hoang sơ, vừa hùng vĩ với những dòng suối khi cuồn cuộn tuôn chảy, lúc hiền hòa uốn lượn, rừng xanh bao la, gió ngàn lồng lộng… được các nghệ sĩ thể hiện trong diễn cảnh “Đến với cao nguyên” đầy mời gọi. Mười một dân tộc chủ nhân của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận (Bahnar, Jrai, Ê đê, Mạ, Cơ ho, Chu Ru, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Brâu, Rơ Măm, M‘Nông) cùng nhau thể hiện đại cảnh Hòa tấu sức sống đại ngàn nhằm nói lên sức sống mạnh mẽ và tinh thần đoàn kết của đồng bào Tây Nguyên.

Đến với lễ hội cồng chiêng tại Gia Lai năm nay mới thấy được sức lan tỏa và cộng cảm giữa các nền văn hóa cồng chiêng, không chỉ riêng các dân tộc Tây Nguyên mà còn có nhiều nước Đông Nam Á khác như Lào, Campuchia, Myanmar, Philippines, Indonesia… Dàn cồng chiêng của mỗi nước có những đặc trưng riêng về chất liệu, hình dáng, âm sắc và lối chơi của các nghệ nhân. Nếu như ở các nước, dàn cồng chiêng thường được cố định và người nghệ sĩ ngồi yên trình diễn thì các dân tộc ở Tây Nguyên thường nhảy múa thành vòng tròn khi diễn tấu. Sau những màn trình diễn tập trung trong lễ khai mạc đêm 12/11, du khách có dịp thưởng thức nhiều tiết mục đặc sắc của các đoàn cồng chiêng trong và ngoài nước tại những địa điểm du lịch nổi tiếng của thành phú Pleiku như Khu Du lịch sinh thái Về Nguồn, Quảng trường 17/3, Công viên Đồng Xanh, Diên Hồng… Nhờ đó, mọi người được dịp hiểu thêm về cuộc sống sinh hoạt cộng đồng và thế giới tâm linh của các dân tộc. Tiếng cồng, tiếng chiêng đã gắn liền với vòng đời của mỗi con người, gắn liền với những thời khắc linh thiêng của cộng đồng trong các lễ hội mừng lúa mới, mừng chiến thắng…

Hương vị phố núi - chưa xa đã nhớ

Có lẽ, chưa bao giờ phố núi Pleiku đón một lượng du khách tấp nập như dịp này. Festival Cồng chiêng quốc tế 2009 chỉ diễn ra trong bốn ngày, từ 12 đến 15/11 với nhiều hoạt động khít khao nhưng nhiều người cũng tranh thủ thời gian, thoát ra khỏi không khí lễ hội náo nhiệt để khám phá chút hương vị của phố núi theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Cho một chút tỉnh táo đầu ngày, nhiều người tranh thủ dậy sớm, cùng bạn bè nhâm nhi tách cà phê với hương vị đặc trưng của Tây Nguyên. Phố núi lúc sáu, bảy giờ sáng vẫn còn sương mù lãng đãng phủ khắp các con đường quanh co, nhiều đèo dốc. Cái lạnh se se khiến cảm giác ấm áp bên ly cà phê càng thêm đậm đà. Địa chỉ nổi tiếng nhất mà cả người dân địa phương lẫn du khách thường tìm tới là Cà phê Thu Hà trên đường Nguyễn Thái Học. Mới đặt chân đến quán này, nhiều người không hiểu vì sao một không gian giản dị lại đắt khách đến vậy. Tuy nhiên, phải kiên nhẫn ngồi xuống ghế, đợi trong chốc lát để có được một tách cà phê nho nhỏ, hớp vào một ngụm để cảm nhận hết sự đậm đà khó tả của những giọt đắng Tây Nguyên. Ngoài ra, du khách có thể tìm đến đường Wừu - con đường dốc tập trung nhiều quán cà phê lãng mạn, không gian thoáng mát. Ngoài những giọt cà phê đậm đà, những quán này thu hút du khách bởi lối bài trí thơ mộng, gần gũi với thiên nhiên, thể hiện sự chăm chút tỉ mỉ của chủ nhân, ngay cả trong cách đặt tên. Có những cái tên “không thể nào quên” như Cà phê Đùng Đình, Cà phê Chưa đặt tên…

Với những ai không thích la cà mà muốn có một bữa sáng cho “vững bụng” thì phở khô - đặc sản Gia Lai - là ưu tiên số một. Phở khô là tên gọi của người địa phương, nhưng với nhiều du khách, món ăn này là một sự kết hợp độc đáo giữa hủ tiếu nam vang và… phở bò. Sợi phở khô được làm từ bột gạo, khá mảnh và dai, được trụng sơ rồi trộn với thịt bằm, tỏi, hành phi và tốp mỡ. Tuy nhiên, tô phở sẽ hấp dẫn hơn nếu cho thêm ít tương pha ớt bằm (tương hột giã nhuyễn) để có chút vị mằn mặn và beo béo. Nước dùng đi kèm tuy không trong veo như món phở ở các địa phương khác nhưng có mùi thơm và vị ngọt đậm đà của thịt bò xắt mỏng. Một “thổ địa” tại đây đưa chúng tôi đến quán phở Hồng trên đường Nguyễn Văn Trỗi - nơi tô phở có giá 22 ngàn đồng, thuộc hàng đắt đỏ nhất tại Pleiku. Tuy đắt nhưng quán này lúc nào cũng tấp nập khách ra vào, nếu phải đứng đợi một lúc để “xí bàn” thì cũng là “chuyện thường ngày ở huyện”. Bù lại, được thưởng thức những sợi phở khô hương vị đậm đà, đựng trong những chiếc tô sứ trắng ngần cùng với đĩa giá trụng, rau thơm, ngò gai được nhặt rửa sạch sẽ cũng đủ làm dịu lòng những thực khách khó tính nhất.

Những ngày lễ hội bận rộn, nếu chưa có dịp thưởng thức hết các món ngon của phố núi, hãy đến bất cứ ngôi chợ nào ở Pleiku, du khách sẽ dễ dàng tìm thấy những túi măng khô để mang về nhà chế biến hoặc làm quà. Măng khô Pleiku là một nguyên liệu không thể thiếu khi nấu bún măng hoặc kho với thịt và trứng. Lên Pleiku những ngày gần Tết Nguyên đán, mua về vài túi măng khô, chuẩn bị cho nồi thịt kho tàu cúng ông bà trong ba ngày Tết hoặc biếu bà con, họ hàng cũng đượm nghĩa tình. Các dân tộc ở Tây Nguyên thường nhảy múa thành vòng tròn khi diễn tấu cồng chiêng

Cồng chiêng trước giờ khai hội



[Cập nhật]

11/11/2009

Những âm thanh mê hoặc của cồng chiêng từ đại ngàn Tây Nguyên sẽ ngân vang trong Festival cồng chiêng quốc tế 2009 tại Gia Lai (từ ngày 12-15.11).
Trên nhiều con phố của TP Pleiku từ nhiều tháng nay đã rộn ràng không khí lễ hội. Hệ thống đèn trang trí trị giá hơn 2 tỉ đồng khiến phố núi Pleiku càng huyền ảo khi về đêm. Chính quyền tỉnh Gia Lai đã chi gần 7 tỉ đồng để tu bổ, chỉnh trang đô thị Pleiku.

Dù còn một ngày nữa mới khai hội nhưng hàng ngàn du khách trong và ngoài nước đã có mặt tại Pleiku. Chỉ riêng khách mời và số nghệ nhân thuộc 58 đoàn cồng chiêng của Gia Lai cũng như của các tỉnh, thành trên cả nước đã xấp xỉ 3.000 người. Toàn bộ hơn 3.000 phòng của các cơ sở lưu trú đã được đặt từ hơn hai tháng trước. Nhu cầu đến Gia Lai bằng đường hàng không cũng tăng đột biến. Trước tình hình này, Vietnam Airlines đã quyết định tăng chuyến bay trong dịp lễ hội. Cụ thể, ngoài lịch bay thường xuyên, từ ngày 11, 12 và 15, 16.11, mỗi ngày sẽ có thêm 2 chuyến bay từ Hà Nội - Pleiku, TP.HCM - Pleiku và ngược lại.

Các đoàn khách quốc tế gồm Lào, Philippines, Indonesia, Campuchia, Myanmar - theo thông tin từ ban tổ chức - cũng đang trên đường di chuyển đến phố núi Pleiku. Lễ hội này cũng là dịp để cồng chiêng Tây Nguyên - nơi được nhiều nhà nghiên cứu xem là cái nôi cồng chiêng của nhân loại - cất tiếng với quan khách quốc tế. Lễ khai mạc dự kiến diễn ra vào 20 giờ ngày 12.11. Mọi công tác chuẩn bị đến giờ này đã tương đối chỉn chu. Ông Phan Xuân Vũ, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Gia Lai, Thường trực ban tổ chức cho biết: “Công tác chuẩn bị, hậu cần đã sẵn sàng. 200 tình nguyện viên, trên 350 lái xe và nhân viên phục vụ được tập huấn kỹ càng để đón các đoàn khách”.

Hầu hết các đoàn cồng chiêng trong tỉnh đã có mặt tại Pleiku. Già Ksor Mơn, một thành viên của đội cồng chiêng huyện Ia Pa vui mừng: “Dù nhiều người bị mất mát trong đợt lũ dữ vừa qua nhưng đã bất chấp khó khăn đến đây dự lễ hội. Mình muốn nghe chiêng của các dân tộc khác nên cái chân cứ muốn đi”. Và ngoài trình diễn chiêng, hai loại hình nghệ thuật của người bản địa là chỉnh chiêng, tạc tượng cũng được thể hiện trong festival. Nay Phai, một nghệ nhân chỉnh chiêng nổi tiếng của Gia Lai cũng như toàn Tây Nguyên, cho biết rất háo hức khi đến tham dự lễ hội. Bên cạnh đó, Hội thảo khoa học về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được tổ chức cũng là dịp để các nhà quản lý, nghiên cứu hiến kế nhằm giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa đặc sắc của loại hình nghệ thuật này.

Dịp này, Công ty CP du lịch dịch vụ văn hóa Gia Lai trưng bày chiếc chiêng đồng lớn nhất Việt Nam. Chiêng có đường kính 2,5m, nặng 700 kg do nghệ nhân đúc đồng Dương Ngọc Truyền ở làng Phước Kiều (H.Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) thực hiện. Chiêng đặt tại Công viên văn hóa Đồng Xanh ở xã An Phú, TP Pleiku. Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam đã đồng ý trao giấy xác lập và Cúp lưu niệm kỷ lục chiếc chiêng đồng lớn nhất Việt Nam vào dịp festival này.

Posted by: AnAn May 14 2010, 07:47 AM




Theo chân" các ngọn núi lửa Việt Nam


Sau nhiều chuyến thám sát lẻ tẻ với mong muốn tha thiết về một tour du lịch tìm hiểu miệng núi lửa - các kiến tạo núi lửa tuyệt đẹp ở Việt Nam, vừa qua tôi đã “hướng đạo” cùng đoàn làm phim tài liệu khoa học của VTV2 (Đài truyền hình Việt Nam) thực hiện bộ phim dài tập về các kỳ quan mang tên núi lửa (dự kiến phát trong tháng 10-2009). Xin chia sẻ ghi nhận từ các chuyến đi.
Với tôi, những ngọn núi lửa đang phun trào hoặc tạm ngủ yên luôn lãng mạn và gợi nhiều xúc cảm khám phá. Những miệng núi lửa, dấu tích núi lửa dọc dải đất Việt Nam còn là các ô cửa huyền diệu nhất để hiểu thêm lịch sử hình thành vùng đất mà nghìn đời cha ông ta và muôn đời con cháu tiếp sau đã, đang và sẽ sinh sống.

Các nhà khoa học trong và ngoài nước từ lâu đã chứng minh dọc dài nước Việt Nam, đặc biệt ở khu vực miền Trung và Tây nguyên, núi lửa từng hoạt động dữ dội, trong nhiều đợt, ở nhiều giai đoạn khác nhau. Nhiều tài liệu khoa học chính thống, cả trong tâm thức của đồng bào bản địa, đều có sự hiện diện của cái gọi là núi lửa.

Tuy nhiên, dường như việc nghiên cứu, tìm hiểu, quảng bá các kỳ quan dính dáng đến núi lửa (đang ngủ) ở nước ta vẫn còn là miền đất... bỏ trống. Trong khi những miệng núi lửa ở Tây nguyên đẹp đến bàng hoàng, các thành tạo của dòng dung nham tuôn trào từ thượng cổ đều xứng danh là những thắng cảnh tuyệt mỹ của quốc gia.

Ở Tây nguyên, Pleiku là thành phố nằm bên 15 ngọn núi lửa, có ngọn núi tên là Núi Lửa, có dòng Núi Hoa do nham thạch cháy bỏng tuôn ra giữa đất trời lộng lẫy như hoa, có Biển Hồ đẹp kỳ bí là những miệng núi lửa âm. Đắc Lắc có thác Gia Long đẹp đến nỗi ông Bảo Đại phải đem tên “tổ phụ” mình ra để đặt tên cho con nước ào lên giữa chất ngất các cột bazan núi lửa đã đông kết từ hàng triệu năm trước.

Rồi thắng cảnh quốc gia Ghềnh đá đĩa, vùng badan dạng cột Ba Làng An (Quảng Ngãi), năm miệng núi lửa khổng lồ ngoài đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), các ngọn thác nổi tiếng Dray Soap, Trinh Nữ... tất cả đều là những thành tạo do núi lửa.




Đứng ở mỗi góc trong khu vực Pleiku, ta đều nhìn thấy núi lửa Hàm Rồng có một hình dạng khác nhau. Có khi là hình thang (chóp nón cụt), có khi là hình tròn như phần bụng của lọ lục bình ai đó chôn một nửa dưới lòng đất

Đứng ở mỗi góc trong khu vực Pleiku, ta đều nhìn thấy núi lửa Hàm Rồng có một hình dạng

khác nhau. Có khi là hình thang (chóp nón cụt), có khi là hình tròn như phần bụng của lọ lục

bình ai đó chôn một nửa dưới lòng đất

Ở cửa ngõ quốc lộ chạy từ Buôn Ma Thuột sang Gia Lai, thành phố cao nguyên Pleiku đón chào bạn bằng núi Hàm Rồng với vàng rực hoa cúc quỳ. Từ điểm nhìn đó, bạn sẽ thấy rõ núi Hàm Rồng được tách làm đôi để hõm giữa cho dòng nham thạch phá vỡ miệng phễu tròn chảy ra, hình thành nên các vùng đất badan màu mỡ...

Núi Hàm Rồng (còn gọi là núi Chư Hơ Đông, núi Hòn Rồng) là miệng núi lửa nổi tiếng nhất Tây nguyên bởi nó cao hơn 1.000m so với mực nước biển, là đỉnh cao nhất khu vực Pleiku với cái miệng tròn xoe hình phễu khổng lồ. Bởi nữa: Hàm Rồng mang đầy đủ những đặc tính tiêu biểu của một miệng núi lửa dương (nổi trên mặt đất - để so sánh với các miệng núi lửa âm lõm sâu dưới lòng đất, thường là các lòng hồ, như Biển Hồ chẳng hạn).

Tôi, PGS.TSKH Trịnh Dánh, và đoàn làm phim khoa học của VTV2 (Truyền hình Việt Nam) đã bỏ mấy ngày trời để đi... vòng quanh Hàm Rồng, thưởng thức các điểm ngoạn mục nhất của ngọn núi lửa này. Ông Dánh, nguyên là giám đốc Bảo tàng địa chất Việt Nam, người nổi tiếng với đề tài cấp quốc gia về các công viên địa chất, khu bảo tồn địa chất đặc biệt của Việt Nam (trong đó nhấn mạnh đến các kỳ quan núi lửa), người đã lăn lộn tìm hiểu về địa chất khu vực Tây nguyên từ sau năm 1975.

Leo lên tòa nhà 12 tầng của Hoàng Anh Gia Lai, cao nhất Pleiku, thì Hàm Rồng mờ ảo trong sương khói với cái miệng phễu chảy dung nham chảy dài ra góc phải của ảnh (ảnh trên); nhưng đứng dưới quốc lộ phóng tầm mắt ngước lên thì Hàm Rồng sừng sững, mỗi ngôi nhà chỉ như cọng lá dưới chân nó



Leo lên tòa nhà 12 tầng của Hoàng Anh Gia Lai, cao nhất Pleiku, thì Hàm Rồng mờ ảo

trong sương khói với cái miệng phễu chảy dung nham chảy dài ra góc phải của ảnh (ảnh trên);

nhưng đứng dưới quốc lộ phóng tầm mắt ngước lên thì Hàm Rồng sừng sững, mỗi ngôi nhà

chỉ như cọng lá dưới chân nó

Khi núi lửa hoạt động, nham thạch “bức bối” phá tung bề mặt quả đất ra, hình thành nên cái lỗ rất tròn rồi từ đó phun ra. Với các miệng núi lửa dương, núi nhô lên mặt đất, nhưng lòng núi rỗng, hõm sâu xuống, hình thành nên những miệng phễu phía trong quả núi (miệng núi lửa) đang nhô lên. Miệng phễu hướng thẳng lên trời. Vì thế, ví dụ núi Hàm Rồng trông xa có hình dạng như hình thang, thật ra nó là hình chóp nón cụt mất phần ngọn. Điểm cụt của chóp nón đó chính là miệng phễu khổng lồ để dung nham tuôn ra...


Để hình dung được điều này, chúng ta lại phải vượt 30km về núi Chư Đăng Ya (huyện Chư Pả, tỉnh Gia Lai).

Đứng phía dưới núi Chư Đăng Ya (tiếng địa phương là ngọn núi có nhiều củ gừng mọc tự nhiên), núi rất tròn. Nhưng khi leo nửa ngày lên đến đỉnh, miệng núi sẽ mở ra một thung lũng tương đối lớn, bốn bề vách núi vuốt ngược lên, bạn nằm trong một cái lòng chảo tuyệt đẹp, cây lương thực do bà con xung quanh trồng vàng ươm, xanh ngát.

Nhưng thật ra không hẳn như thế, miệng núi tròn, rỗng trong bụng như cái lòng bát loa, song nó có một đường rãnh để thoát nước. Đó cũng chính là con đường để dung nham tuôn ra từ triệu năm trước, giống như một bát cháo nóng đã bị nghiêng rồi vỡ một góc miệng bát cho cháo chảy ra, hình thành các cánh đồng màu mỡ dưới kia.

Bà con từ dưới Phù Cát, Bình Định lên đây làm ăn, vì đất trong bụng núi lửa cực kỳ màu mỡ, cảm giác một vài trận mưa to nước sẽ tràn lên, lập tức miệng núi lửa Chư Đăng Ya biến thành một cái bát loa chứa nước tròn xoe




Bà con từ dưới Phù Cát, Bình Định lên đây làm ăn, vì đất trong bụng núi lửa cực kỳ

màu mỡ, cảm giác một vài trận mưa to nước sẽ tràn lên, lập tức miệng núi lửa Chư Đăng Ya

biến thành một cái bát loa chứa nước tròn xoe




Trong cái nắng vàng ươm mà chói gắt, chúng tôi leo lên đỉnh Chư Đăng Ya. Ở trên cao, nhìn nơi dòng dung nham thiêu đốt thế gian từng phun ra, rõ ràng là một lòng chảo.

Khỏi phải nói, bạn tôi, đạo diễn Nguyễn Hoàng Lâm, trưởng phòng phim tài liệu khoa học của VTV2 (giữa ảnh), sung sướng tới mức nào khi được tác nghiệp ở một kỳ quan chưa có sách sử (hay bất cứ bài báo, tấm ảnh nào) miêu tả như thế này.

PGS Trịnh Dánh “dẫn chương trình” về núi lửa cho VTV2 ngay trước “cửa thoát” của dòng dung nham, nơi ngọn núi bị xẻ làm hai phần hình tròn phía sau ảnh




PGS Trịnh Dánh “dẫn chương trình” về núi lửa cho VTV2 ngay trước

“cửa thoát” của dòng dung nham, nơi ngọn núi bị xẻ làm hai phần hình tròn phía sau ảnh

Cũng khỏi phải bàn, khó có nơi nào màu mỡ đến thế, khó có nơi nào mà luống khoai luống đỗ của bà con lại dựng lên giữa những thành quách thẳng đứng như thế này. Chú em quay phim từ Hà Nội vào cứ nhảy cẫng lên khi dùng ống kính góc rộng, “ăn” cảnh toàn (bao quát) tất cả cái chảo gang khổng lồ mang tên miệng núi lửa tròn xoe.




Chúng tôi đã đi rất nhiều khu vực núi lửa, không hiểu sao trong lòng núi lửa thường xuyên không có nắng, bóng râm cứ phủ vào đó một sắc màu bí ẩn. Vì thế ruộng rẫy của bà con “lên màu” rất dịu dàng. Ngồi mệt, lại lăn lóc cạnh những quả bom núi lửa tròn vo rất ngộ nghĩnh, cứ như có người khổng lồ nào đó đã nặn những viên bi lớn mà chưa kịp bỏ vào lò nung.

Ở Bảo tàng Địa chất Việt Nam (Hà Nội), PGS Trịnh Dánh và các đồng nghiệp đã sưu tầm được rất nhiều quả bom núi lửa mang về trưng bày. Khi khối dung nham nổ long trời lở đất túa ra không gian, nó bay tít trên chín tầng mây. Chịu một lực xoáy từ trong “tâm chấn” nên xoáy như viên đạn AK bắn ra khỏi nòng. Bây giờ rỡ đất đá ở miệng núi lửa ra, ông Dánh vẫn phát hiện các quả bom nhỏ găm trong khối nham thạch, như hạt lạc hình xoắn nằm trong nong bánh đúc đã triệu năm ròng.




Đặc biệt, văn liệu của người Pháp xưa kia, cũng như chuyên gia địa chất Việt Nam gần đây, đều cho biết núi lửa Hàm Rồng là miệng dương, còn Biển Hồ là miệng âm của bốn ngọn núi lửa. Nếu nhấc núi Hàm Rồng đặt vào biển Hồ thì nó vừa... khít (?). Ở Việt Nam chưa có hồ tự nhiên nào mà lại tròn đến thế.

Bức ảnh này chứa đựng chân lý của Biển Hồ “tròn”, chúng tôi có được sau khi đi gõ cửa một số nhà cao tầng trong khu vực để leo lên... ngắm cảnh, chụp ảnh nhờ.

Bức ảnh này chứa đựng chân lý của Biển Hồ “tròn”, chúng tôi có

được sau khi đi gõ cửa một số nhà cao tầng trong

khu vực để leo lên... ngắm cảnh, chụp ảnh nhờ.
Trong chiến tranh, nhiều máy bay đã vĩnh viễn nằm dưới bụng nước Biển Hồ, nước không bao giờ cạn, không bao giờ đầy, các thành vách xung quanh Biển Hồ rất tròn, rất cong đều, giống hệt cái “thành bát” của một “bát nước” (Biển Hồ) mà chúng ta mới chỉ “chan canh” lưng lưng...

Trong chiến tranh, nhiều máy bay đã vĩnh viễn nằm dưới bụng nước Biển Hồ,

nước không bao giờ cạn, không bao giờ đầy, các thành vách xung quanh Biển Hồ rất tròn,

rất cong đều, giống hệt cái “thành bát” của một “bát nước” (Biển Hồ)

mà chúng ta mới chỉ “chan canh” lưng lưng...




Rất tiếc ở khu vực không có điểm cao để chụp được những miệng núi lửa tròn xoe của Biển Hồ một cách “xúc cảm” hơn, nhưng đúng là nó rất tròn.

Ông Dánh tin nếu tát nước đi, Biển Hồ sẽ tròn bốn bề như “lòng chảo” Chư Đăng Ya, chỉ có điều cái miệng âm của nó sẽ là hun hút vô tận vào tít trong lòng đất (với các miệng dương, vì nhô lên mặt đất, nên trong quá trình phun trào nó đã gãy thành hình chóp nón cụt).

Posted by: caoduy Jun 7 2010, 06:59 AM





Bay dở như


Tôi xin đưa các Bác trở lại vùng trời Pleiku trên con tàu UH-1 của năm 1971 xa xưa lắm rồi mà chúng ta vẫn tưởng rằng mình dã quên.

Như thế tôi đã là Hoa Tiêu chánh mới được có mấy tháng đếm chưa hết một bàn tay, cái lon Trung-úy thì hơi bạc một chút, với bạn bè tôi “đùa” là Hoa tiêu chánh “nhậm chức”, bắt chước các bậc “đàn anh” tôi tự cho mình được hưởng một chút “quan liêu quân phiệt” sáng ra coi “phi lệnh” rồi tôi nhâm nhi “cà phê cà pháo” nơi quán Thượng sĩ Giao cứ để mặc cho “Côpi lốt” đi “check” tàu với cơ phi xạ thủ để nếu có gì “Côpi lốt” sẽ báo cáo cho mình biết hoặc chính họ “kiện cáo” với ngoài phi đạo, nhưng sáng nay nhìn lên bảng “phi lệnh” tôi trực bay chiếc “Medivac” Pelican 31, thấy “Côpi lốt” là Thiếu úy Huyên “xà lỏn”, ông này với tôi cùng khóa bay huấn luyện bên Mỹ, rồi cùng về Pleiku, nhưng không hiểu vì lý do gì vắng mặt một thời gian mới về bay lại., ở trường bay tôi không hề được biết đến cái tên “xà lỏn” là “AET” là Thiếu sinh quân tiếng Tây gọi là “ Enfant de Troupe”, rất nhiều người “AET” kỵ cái tên “xà lỏn” nhưng ông Huyên này lại rất thích được gọi cái “nick name” đó, khi về dến Pleiku thì ông thuộc vào loại “COCC”, bởi đến ông Tư lệnh vùng lúc đó cũng là “AET”, ông Huyên “xà lỏn” mà không phải vắng mặt một thời gian thì bấy giờ ông không là huấn luyện viên thì ít nhất cũng là “trưởng phi cơ”. Khi thấy tên ông này trực bay với mình tôi phải “giả bộ” chăm chỉ cùng đi ra check tàu. Được làm hoa tiêu chánh có mà dễ đâu, phải làm vừa lòng xếp này xếp kia đủ cả ra đấy.


Bây giờ trời Pleiku dang chuyển sang Thu nắng không còn trắng sát mà đã ngả vàng đỏ lúc xế chiều và bầu trời hay bị sương mù khô “haze”, cả ngày ngồi không vì không khí khá thanh bình của năm 71, “giặc” như chờ đợi một cái gì đó chưa “ bùng nổ” chưa “hot” gì hết, năm giờ chiều Hành Quân Chiến Cuộc điều động Pelican 31 cất cánh đi Dakpek tản thương. Tôi ra vào chốn này nhiều lần rồi bịt mắt lại bay cũng tới, tôi để cho ông “Côpi lốt” bay cất cánh báo cáo “Peacock” lên Kontum rồi theo đường bộ ngang Võ Dịnh, Cầu Diên Bình, Tân Cảnh gần đến BenHet rồi rẽ phải một chút vẫn theo con đường nằm giữa hai vách núi cao đi vào Dak-pek, tôi bắt đầu giữ control để Côpi lốt ngồi nghỉ xả hơi, cái tiền đồn này nằm sâu trong hẻm núi, chung quanh núi cao chót vót, nơi mà “ khỉ ăn đá gà ăn muối” lúc lên hay xuống đáp đều phải làm “ high over head” tức là xoáy trôn ốc. Vào “final approach” có trái khói màu hướng dẫn mặc dù ngay trên phi đạo dành cho L-19 hay C-7 đáp, một số đông người Thượng tụm lại đứng chờ dể xin đi ké về thành thị, số thương binh đưa lên tàu có người nằm trên cáng nhưng đa số đi bộ ra leo lên tàu, ông Trưởng trại ghé tai nói cho tôi biết tình trạng bãi đáp thật an toàn, số thương binh đụng trận cách trại cả chục cây số, rồi chúc tôi thượng lộ bình an. Tôi nhấc tầu lên cất cánh rồi làm “xoáy trôn ốc” lấy cao độ, dự định khi nào bay ra khỏi hẻm núi sẽ để ông Huyên “xà lỏn” bay về Pleiku, trời đã lờ mờ tối, càng lên cao tôi lại càng thấy bầu trời “lờ mờ trắng đục” hơn, dầy đặc hơn, nhìn xuống dưới thì thấy rõ con đường lộ bên dưới, nhưng trước mặt và chung quanh chỉ là màu trắng đục, tôi không lấy thêm cao độ nữa theo đường bên dưới bay ra, theo bản đồ trong đầu tôi thì tôi phải thấy Ben Het bên phải và phải nhìn thấy Tân Cảnh trước mặt, nhưng bay hoài không thấy Tân Cảnh ở đâu, chỉ thấy bên dưới những lằn khói nằm rạp sát đất từ những đống cây cỏ người ta đốt để làm rẫy, khi tôi chưa định hướng được thì tôi không giao “control” cho Huyên “xà lỏn”, tôi gọi “Peacock” báo cáo mình trên đường về và họ trả lời “nhận 5/5”.


Tôi trải cái bản đồ khu vực hiện ra trong đầu để phán đoán đường bay từ nãy giờ, lý do tại sao tôi chưa thấy Tân Cảnh, bởi Tân Cảnh là cái “check point” dẫn đường tôi bay, bởi cứ theo dọc Tân Cảnh, Diên Bình, Võ Dịnh thì tôi bay trên đồng bằng hai bên là dãy núi cao, bây giờ bên dưới thì những núi là núi, như thế không thể giảm cao độ, cứ thế là lên và lên, chui vào mây rồi ra khỏi mây bên ngoài trời đã tối nhưng vẫn thấy một màu trắng vẫn đục ở chung quanh, tôi bị “vertigo” có lúc cánh quạt kêu khằng khặc vì mất “airspeed”, bật đèn “landing light” sáng chóa những ngọn cây mà có lẽ càng “skid” cọ quẹt vào, ngày trước lúc còn ở Nhảy Dù tôi có tham dự trận Dakto, đổ quân bằng trực thăng Mỹ, được tiếp tế bằng H-34 Việt Nam trận này Mỹ bị thiệt hại nhiều lắm, bây giờ mình tưởng đang bay trên vùng có những thằng lính Mỹ ngoắc tay gọi bên dưới.

- Come on, come on down here.

Thôi thế thì cứ leo lên làm sao lên khỏi cái màu trắng chung quanh, tôi thấy lạnh và ái ngại cho những thương binh ở phía sau, chắc họ còn lạnh hơn mình bởi họ bị thương nhưng biết làm sao được. Khi mà tôi còn đang “treo lồng đèn”, thì giờ này mọi người đang cơm nước êm ấm ở nhà với vợ con hoặc đang di lang thang ngoài Diệp Kính. Chưa đến hồi tuyệt vọng, tôi “turn on IFF” rồi gọi Peacock:

- Peacock đây Pelican 31.

- Peacock nghe Pelican 31.

Pelican 31 phi vụ tản thương trên đường trở về từ Dak Pek phía Bắc của Tân Cảnh hiện bị mất phương hướng vì thời tiết, trên tàu có thương binh cần được chở về Pleiku. Tôi đã mở IFF xin bạn xem trên Radar của bạn có thấy tôi không?

- Pelican 31 cho biết bạn đang bay về hướng nào trên phi cụ

- Tôi đang bay về hướng………

- OK bạn cứ tiêp tục bay về hướng đó

- Peacock thấy tôi trên radar của bạn chưa?

- Tôi chưa thấy bạn, bây giờ bạn đổi hướng…. Rồi tiếp tục bay hướng đó cho đến khi nào tôi bảo đổi.

- Bây giờ bạn đổi hướng…..rồi tiếp tục bay hướng đó.

- Pelican 31 tôi đã thấy bạn rồi bây giờ bạn đổi về hướng 90 rồi giữ hướng 90 cho đến khi nào bạn thấy tôi

Tôi đã yêu cầu bạn làm một cái tam giác để xác định chắc chắn là bạn, trên màn ảnh radar của tôi có cả hàng ngàn vì sao, cũng may tôi đã tìm ra vì sao của bạn; khoảng khắc sau đó tôi thấy mấy ánh đèn leo lắt xa xa trước mặt, tôi lên tiếng hỏi:

- Peacock tôi đã thấy có mấy ánh đèn của bạn ở xa rồi

- Ánh đèn đó hướng 11 giờ của bạn phải không?, đó chưa là tôi đâu, đó là đồn Plei-Jareng, từ đó bạn còn đủ xăng bay về Pleiku không?

- Tôi còn 300lbs xăng đủ sức về tới.

- Pelican 31 thế là chắc ăn rồi, tôi cho bạn biết bạn đã bay lạc qua biên giới tới ba chục cây số, may là chưa có chiếc MIG của Miên bay lên nghênh cản. Thôi chúc bạn may mắn.

- Bỗng một tiếng nói đầy gang đầy thép trên tần số:

- Pelican 31 trưởng phi cơ là ai vậy?

- Trung Úy Hùng phi đoàn 229.

- Bay tới Trung Úy rồi mà còn “bay dở như…….”

Giọng nói nghe đầy quyền thế không thể là của một ông Thượng sĩ hay Thiếu úy, Trung úy. Vốn đã né ông “xà lỏn” rồi , lỡ lại là một ông “COCC” nữa thì sao. Tôi câm luôn không gây sự

Tôi để quí vị điền vào chỗ……. Chữ nghĩa gì mà các Bác nghĩ đến


Mùa Hè 07

Hùng Chùa

Posted by: caoduy Jun 11 2010, 08:24 AM





Liên Đồn Biệt Động QuânTử Chiến Với Cộng quân ở Vùng Đèo Chu Pao


Chu Pao, ngọn đèo chiến lược ở Cao nguyên:

Là một ngọn núi có đỉnh cao 1059 mét, cách Pleiku khoảng 17 km về phía Bắc, đỉnh núi là pháo đài quan sát để bảo vệ đoạn Pleiku-Kontum trên quốc lộ 14, Chu Pao là một vị trí chiến lược mà Cộng quân đã nhiều lần tung quân cố chiếm giữ bằng mọi giá. Do địa thế quá hiểm trở có lợi cho địch quân trong thế thủ, nên mỗi lần vùng đèo này bị lọt vào tay Cộng quân, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã điều động lực lượng hùng hậu để tái chiếm. Từng trung đoàn, liên đoàn bộ chiến có chiếm xa yểm trợ, với các phi tuần oanh kích liên tục và cả B 52 dội bom, trận chiến kéo dài nhiều ngày, Cộng quân mới bị đánh bật ra khỏi vùng đèo.



Do tầm quan trọng về chiến lược của vùng đèo này, nên trong cuộc chiến mùa Hè 1972, Chu Pao trở thành một trong những mục tiêu trọng điểm của Cộng quân tại Cao nguyên. Như đã trình bày trong bài viết giới thiệu trận chiến giữa Sư đoàn 22 Bộ binh và Cộng quân tại mặt trận Dakto-Tân Cảnh, ngày 23 tháng 4/1972, Cộng quân đã tung quân tấn công cường tập vào bộ chỉ huy hành quân Sư đoàn 22 Bộ binh. Ngày 24 tháng 4/1972, sau khi các cứ điểm trọng yếu tại Dakto và Tân Cảnh thất thủ, đối phương đã tung quân gây áp lực quanh thị xã Kontum. Ngày 28 tháng 4/1972, trung đoàn 95CSBV đã đánh chiếm một khoảng đường ngắn trên Quốc lộ 14 nối liền Pleiku-Kontum và tổ chức các cụm chốt cố thủ trên vùng đèo Chu Pao. Khi Cộng quân chiếm đèo thì cũng vào lúc Sư đoàn 23 Bộ binh vừa hoàn tất cuộc chuyển quân từ Ban Mê Thuột theo Quốc lộ 14 về phòng thủ Kontum, do đó không xảy ra giao tranh trên lộ trình di quân.

Lực lượng đặc nhiệm Biệt động quân kịch chiến với CQ quanh Kontum và Chu Pao:

Việc trung đoàn 95 CSBV CSBV lập các chốt chận tại vùng đèo Chu Pao đã khống chế trục lộ giao thông huyết mạch này, đồng thời cô lập thị xã Kontum với các tỉnh phía Nam vùng Cao nguyên. Trong khi đó, ở phía Bắc thị xã Kontum, sau khi lữ đoàn 2 Nhảy Dù được lệnh rời khu vực Võ Định để tăng cường cho Quân đoàn 1, ngày 20 tháng 4/1972, liên đoàn 6 Biệt động quân đã được điều động từ chiến trường Trị Thiên vào thay thế để phòng thủ khu vực này. (Liên đoàn 6 BĐQ thống thuộc bộ chỉ huy Biệt động quân Quân đoàn 3, vào thượng tuần tháng 4/1972, đã cùng với liên đoàn 3 BĐQ tăng phái cho mặt trận Quảng Trị).

Theo kế hoạch, các tiểu đoàn của liên đoàn 6 BĐQ đã bố trí quân trên các dốc đứng án ngữ Quốc lộ 14 về hướng Nam căn cứ Võ Định. Do bị áp lực nặng của địch, ngày 27 tháng 4/1972, bộ chỉ huy liên đoàn được trực thăng vận lui về hướng Đông Nam 12 km, căn cứ Đồi Chiến Lược, hướng Bắc Kontum. (Trong liên lạc Không-Lục với các phi cơ của Không quân Hoa Kỳ, căn cứ này còn có danh hiệu là căn cứ hỏa lực November). Ngày 1 tháng 5/1972, một đơn vị của liên đoàn 6 BĐQ bị địch tấn công cường tập. Để bảo toàn quân số, tiểu đoàn này được liên đoàn trưởng cho lệnh triệt thoái. Như thế, tuyến phòng thủ của lực lượng VNCH đã lui lại vài km, chỉ cách thị xã Kontum 13 km về hướng Tây Bắc.

Sau khi Cộng quân bị thất bại trong 2 đợt tấn công vào thị xã Kontum (đợt 1: 14/5/1972, đợt 2: 20/5/1972), Quân đoàn 2 quyết định tung quân dể giải tỏa áp lực tái khu vực nhằm tái lập giao thông trên Quốc lộ 14 và vòng đai tỉnh ly Kontum. Để thực hiện kế hoạch này, một lực lượng đặc nhiệm đã được thành lập gồm 2 liên đoàn Biệt động quân được tăng cường Thiết giáp và Công binh chiến đấu, do đại tá Nguyễn Văn Đương, chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2 tổng chỉ huy.
Cũng cần ghi nhận rằng liên đoàn 2 BĐQ được thành lập từ 1967 sau cải danh thành liên đoàn 23 BĐQ, gồm các tiểu đoàn: 11, 22, và 23 BĐQ. Còn liên đoàn 6 BĐQ được thành lập từ 1969 với các tiểu đoàn 34, 35, 51 BĐQ. Tất cả 6 tiểu đoàn của 2 liên đoàn nói trên là những đơn vị kỳ cựu của binh chủng Mũ Nâu, đã có mặt trên chiến trường từ thời kỳ 1963-1964.
Trong 10 ngày cuối của tháng 5/1972, lực lượng đặc nhiệm đã nỗ lực tung các cuộc tấn công quyết liệt để triệt hạ các cụm chốt của đối quanh đèo chiến lược này. Tuy nhiên, do đối phương đã xây dựng được một hệ thống cụm điểm kháng cự liên hoàn rất kiên cố trên các dốc đá hướng Nam núi Chu Pao, và các cụm chốt cố thủ hai bên Quốc lộ 14, nên các đơn vị Biệt động quân đã gặp rất nhiều khó khăn trong tấn công, dù được sử yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Pháo binh và Không quân chiến thuật, cùng B 52 và sử dụng cả chùm địa lôi CBU-55.
Từ các vị trí cố thủ, Cộng quân đã chống trả quyết liệt để cố chận cuộc tiến quân của lực lượng đặc nhiệm. Phối hợp với hỏa lực hung bạo của các trận địa pháo do các tiểu đoàn pháo CQ mở ra với hàng loạt đợt hỏa tập, các cụm chốt cản của Cộng quân dọc hai bên đường đã gây tổn thất cho các đơn vị Biệt động quân và tiếp tục cản trở sự lưu thông tiếp vận từ Pleiku về Kontum.
Cuối tháng 5/1972, sau khi Cộng quân bị đánh bật khỏi thị xã Kontum trong trận tấn công đợt 3 (ngày 28/5/1972), Quân đoàn 2 gia tăng nỗ lực giải tỏa áp lực Cộng quân tại đèo Chu Pao. Cùng lúc đó, địch quân cũng tăng cường lực lượng để cố bám giữ ngọn đèo này. Thế trận giằng co giữa Biệt động quân và Cộng quân. Giữa tháng 6/1972, bộ chỉ huy Biệt động quân điều động liên đoàn 22 Biệt động quân nhập trận. Liên đoàn này nhận khu vực do đơn vị bạn bàn giao.
Theo kế hoạch của bộ chỉ huy Biệt động quân Quân khu 2, tiểu đoàn 62 thuộc liên đoàn 22 Biệt động quân và tiểu đoàn 71 BĐQ là những nỗ lực chính để triệt hạ các chốt cố thủ của Cộng quân quanh đỉnh Chu Pao. Cùng lúc đó, 4 tiểu đoàn Biệt động quân tiếp tục hành quân giải tỏa áp lực Cộng quân ở vòng đai ngoại vi đèo Chu Pao. Trong cuộc tấn công tái chiếm vùng đèo Chu Pao, từng đại đội Biệt động quân được giao nhiệm vụ làm sạch từng cụm chốt liên hoàn của Công quân. Từ đội hình đại đội tấn công, mỗi trung đội của từng đại đội Biệt động quân lại là một mũi tấn công vào từng chốt địch quân. Sau các đợt pháo yểm trợ dập vào các vị trí trọng điểm của địch- được ghi nhận là có đặt súng cối 82 ly, từng toán Biệt động quân cầm lựu đạn bò sát đến các hầm và đánh từng hầm một. Các hầm ở Chu Pao, Cộng quân đều đào theo kiểu hầm Triều Tiên. Bom và đạn đại bác có đánh trúng ngay trên hầm thì mới có kết quả. Với lối đánh bằng lựu đạn, cuối cùng lực lượng Biệt động quân đã đánh bật Cộng quân ra khỏi vùng đèo Chu Pao.

* Chiến binh Biệt động quân nói về trận Chu Pao:

Sau khi hai tiểu đoàn 71 và 62 Biệt động quân đã “dứt điểm” khu vực trung tâm đèo Chu Pao, giao thông trên trục lộ 14 được tái lập. Cuối tháng 6/1972, một số phóng viên báo chí đã đến thăm các đơn vị Biệt động quân thuộc lực lượng đặc nhiệm. Khi được hỏi về về trận địa Chu Pao, đại tá Nguyễn Văn Đương, chỉ huy Biệt động quân Quân khu 2 chỉ một vết mẻ trên phía đá lớn gần đó và nói:
- Bom B 52 mà chỉ làm trầy xơ xịa hòn đá như vậy thì mong gì dùng bom trục địch quân ra khỏi hầm được.
Tại ban chỉ huy tiểu đoàn 71 BĐQ, thiếu tá Đồng Văn Khoa, tiểu đoàn trưởng đã nhắc lại những hình ảnh hãi hùng của những trận cận chiến:
- Chúng tôi thanh toán từng mục tiêu bằng lựu đạn, đánh từng hầm một, không còn cách nào khác để làm im tiếng tiếng súng của đám xạ thủ đã bị xiềng chân vào hầm.
Một hạ sĩ quan của tiểu đoàn 71 đứng gần thiếu tá Khoa kể lại trận đánh:
- Chiếm được hầm rồi, còn phải kéo súng lấy được xuống núi. Muốn vậy, buộc phải chặt chân cái xác chết để tháo súng ra. Nhưng địch quân bố trí hầm theo hình chữ V, tử thần hẹn gặp chúng tôi ở khắp bốn phía.
Một phóng viên nhìn lên đỉnh Chu Pao, Chu Thoi đã ngán ngẩm:
- Leo được lên đó và leo dưới hỏa lực của địch quân thật không phải là chuyện đi dạo.
Đại úy Lê Thanh Phong, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 62 Biệt động quân gật đầu xác nhận:
- Cam go lắm anh ạ. Nhưng cũng may lúc này có sương mù buổi sáng. Sương mù dày dặc đến mức cách nhau khoảng 10 thước là không nhìn thấy gì nữa rồi. Cũng nhờ sương mù mà chúng tôi bò lên đánh được những vị trí súng của địch.

Vương Hồng Anh

Posted by: caoduy Jun 11 2010, 08:25 AM





Trận DAK PEK với Tiểu Đoàn 88 BĐQ Biên Phòng


Căn cứ Dak Pek là một tiền đồn biên phòng nằm gần biên giới Lào Việt, giáp với quận Ba Tơ tỉnh Quảng Ngãi và cách thị trấn Kontum 80 cây số về hướng tây bắc. Lược Lượng Ðặc Biệt (LLÐB) Hoa Kỳ xây căn cứ này vào tháng 4 năm 1962 nhằm mục đích ngăn chận, phá hoại đường xâm nhập từ bắc vào nam của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV). Đến ngày 30 tháng 11 năm 1970, Hoa Kỳ chuyển giao căn cứ này lại cho Việt Nam Cộng Hòa và được Tiểu Ðoàn 88 Biệt Ðộng Quân (BÐQ) Biên Phòng trấn giữ.

Sau khi nhận căn cứ, Tiểu Ðoàn 88 được giao phó thêm nhiệm vụ huấn luyện cho các tân sĩ quan về kỹ thuật trinh sát, viễn thám, trước khi bổ sung cho các đơn vị Biệt Ðộng Quân đang hành quân trên bốn quân khu và Cam Bốt. Trong trận chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972, các đơn vị Bắc Việt tấn công căn cứ Dak Pek nhưng thất bại, một phần vì các binh sĩ Biệt Ðộng Quân chống trả dữ dội, một phần vì vị trí chiến lược của trại có nhiều đồi núi, phân tán, nên tránh được hỏa lực pháo binh của đối phương. Thất bại trong việc đánh chiếm Dak Pek, phía Bắc Việt cho quân đi vòng xuống phía nam đánh chiếm Tân Cảnh và bao vây thành phố Kontum.

Trong năm 1973 chỉ có những cuộc chạm súng nhỏ không đáng kể. Các đơn vị Cộng Sản vẫn không chiếm được Dak Pek mặc dầu các tiền đồn khác như Ben Het, Dak Seang và quận Ba Tơ đã lần lượt rơi vào tay họ. Cuối năm 1973, Tiểu Ðoàn 88 BÐQ kết hợp với Tiểu Ðoàn 95 (từng đóng tại Bến Hết), Tiểu Ðoàn 62 (từng đóng tại Polei Kleng) để trở thành Liên Ðoàn 22 BĐQ. Liên đoàn với hai tiểu đoàn lưu động thường xuyên hành quân trên vùng cao nguyên Kontum, Pleiku,Phú Yên. Còn Tiểu Ðoàn 88 vẫn đóng quân giữ căn cứ Dak Pek. Lúc này căn cứ Dak pek đã bị cô lập hoàn toàn, mọi việc liên lạc với bên ngoài, tải thương, tiếp tế đều bằng trực thăng, ngoài ra tiểu đoàn không còn được sự yểm trợ của pháo binh bạn vì nằm quá xa, sâu trong vùng địch chiếm đóng.

Hình chụp tại căn cứ Dak Pek vào khoảng năm 1968-69 với các binh sĩ Dân Sự Chiến Ðấu VNCH. Căn cứ này được Hoa Kỳ xây vào năm 1962, về sau chuyển giao lại cho Tiểu Ðoàn 88 Biệt Ðộng Quân VNCH vào cuối năm 1970. Trong chiến dịch tổng tấn công mùa hè năm 1972, Bắc Việt đã thất bại trong kế hoạch đánh chiếm Dak Pek. Nhưng hai năm sau với một chiến dịch bao vây triền miên và pháo kích lâu dài, Bắc Việt đã gây tổn thất nặng nề cho đơn vị Biệt Ðộng Quân phòng thủ. Ngày 16 tháng 5/1974, căn cứ Dak Pek thất thủ. Tiểu Ðoàn 88 BÐQ tuy đã chiến đấu cực kỳ dũng mãnh, nhưng kết cuộc cũng tan rã và coi như bị thiệt hại gần 100% quân số.

Vào cuối tháng 3 năm 1974, trong khi hai Tiểu Ðoàn 62 và 95 quần thảo với các đơn vị Bắc Việt thuộc Sư Ðoàn 320 và Trung Ðoàn 95B trong vùng Kon Sơ Lu, đông bắc Kontum thì nhận được công điện khẩn của Tiểu Ðoàn 88 gửi về. Thiếu Tá Di (tiểu đoàn trưởng) và sĩ quan tham mưu báo cáo cho biết các toán viễn thám của tiểu đoàn phát hiện sự gia tăng hoạt động của địch. Nào là xe vận tải Molotova, công binh, dân công làm đường, v.v...
"Địch quân đang chuẩn bị tấn công căn cứ chúng tôi. Stop. Yêu cầu bộ chỉ huy khẩn gửi gấp lương thực, đạn dược, mìn claymore, súng phóng hỏa tiễn M-72, thuốc men. Stop." Đó là những lời cầu cứu của các quân nhân thuộc Tiểu Ðoàn 88 BĐQ. Các công điện gửi về liên tục tại trung tâm hành quân liên đoàn. Mọi người đều lo lắng cho số phận của căn cứ Dak Pek, yêu cầu Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân tại Quân Khu 2 yểm trợ cho Tiểu Ðoàn 88. Trong khi đó Liên Ðoàn 22 nhận lệnh di chuyển đến vùng hành quân mới tại Plei Lang Ba thuộc tỉnh Pleiku.

Trong một cuộc chạm súng gần căn cứ vào ngày 27 tháng 4 năm 1974, các binh sĩ Biệt Ðộng Quân tịch thu một tài liệu cho biết Bắc Việt đang chuẩn bị cho một trận đánh dứt điểm căn cứ Dak Pek. Đầu tháng 5 toán viễn thám BĐQ khám phá một hầm chứa 60 viên đạn pháo binh 105 ly (tịch thu được của Việt Nam Cộng Hòa trong chiến trận mùa hè đỏ lửa). Tuy nhiên, một điều mà BĐQ không biết đến là Trung Ðoàn 29 (thuộc Sư Ðoàn 324B) CSBV đã được di chuyển bằng xe vận tải Molotova từ thung lũng A Shau tỉnh Thừa Thiên về vùng tam biên.

Việc xử dụng Trung Ðoàn 29 chứng tỏ khả năng di động của Bắc Việt đã được phát triển cùng với hệ thống đường xá và phòng không. Trách nhiệm dứt điểm căn cứ Dak Pek được trao cho Trung Ðoàn 29. Trung đoàn này đã bí mật di chuyển 75 dặm và đạt dưới quyền điều động của Mặt Trận B3.

Vị sĩ quan tiểu đoàn trưởng của Tiểu Ðoàn 88 BĐQ có giữ một bức mật thư, chỉ mở ra khi trường hợp căn cứ Dak Pek bị tràn ngập. Ông ta sẽ hướng dẫn các binh sĩ sống sót băng rừng vượt núi chạy về Mang Buk, một tiền đồn cách Dak Pek vào khoảng 60 cây số về hướng đông nam. Nhưng có lẽ Thiếu Tá Di không có dịp mở bức mật thư đó ra để thi hành.
Bắt đầu từ ngày 10 tháng 5/1974, các trung đội BĐQ có nhiệm vụ lục soát bên ngoài căn cứ đã bắt đầu chạm súng lẻ tẻ với các đơn vị tiền phương của địch. Hai ngày sau quân Bắc Việt khởi đầu trận pháo kích lên vị trí phòng thủ của Tiểu Ðoàn 88 bằng đủ loại đạn, hỏa tiễn, và súng cối. Sau đó Trung Ðoàn 29 bắt đầu tấn công các tiền đồn nhỏ bên ngoài.




Ở trong căn cứ, các binh sĩ Biệt Ðộng Quân chống trả mãnh liệt, đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch. Trận đánh kéo dài bốn ngày, thiếu hỏa lực yểm trợ của pháo binh bạn, tuyến phòng thủ của Tiểu Ðoàn 88 thu nhỏ dần, tuy nhiên các binh sĩ vẫn không buông súng.
Đến sáng ngày 16, sau khi tập trung đạn pháo binh bắn vào các vị trí còn lại của Biệt Ðộng Quân, các cánh quân thuộc Trung Ðoàn 29 CSBV có chiến xa T-54 yểm trợ đã siết chặt vòng vây, tiến vào căn cứ. Tất cả lô cốt, công sự phòng thủ trong căn cứ Dak Pek đều bị sập dưới trận mưa pháo của địch. Lúc đó Thiếu Tá Di vẫn còn liên lạc với các phi cơ yểm trợ. Trong trận này Không Quân đã bay hơn 70 phi vụ yểm trợ cho Tiểu Ðoàn 88 BĐQ. Nhưng vì thời tiết xấu và hỏa lực phòng không của Bắc Việt quá mạnh mẽ nên các phi vụ oanh kích đã kém nhiều hiệu quả. Đến trưa, tiếng nói của Thiếu Tá Di trên máy vô tuyến PRC-25 đã im lặng dưới hỏa lực của địch. Quân CSBV đã bắn vào căn cứ hơn 7,000 đạn pháo binh và hỏa tiễn trong vòng 12 tiếng đồng hồ trước khi Tiểu Ðoàn 88 BÐQ và căn cứ Dak Pek thất thủ.

Sau trận đánh căn cứ Dak Pek tháng 5/1974, báo cáo tổn thất về Tiểu Ðoàn 88 BÐQ là 100%. Tiểu đoàn này đã bị cô lập hơn một năm, tất cả các vùng xung quanh như Tân Cảnh, Dakto đã mất vào tay quân Bắc Việt. Tuy đã có kế hoạch cho Tiểu Ðoàn 88 rút về tiền đồn Măng Buk, nhưng Măng Buk lại cách Dak Pek đến 60 km thì đâu thể nào các quân nhân Tiểu Ðoàn 88 có thể tìm đường đến đó khi căn cứ Dak Pek thất thủ.

Vũ Đình Hiếu
17/06/1995
Theo tài liệu:
- Francis J. Kelly, The Green Berets, Brasseýs (US), Inc. New York, 1991.
- Col. William Ẹ Le Gro, Vietnam from Cease fire to Capitulation, Washington, D.C. 1981
Kỷ niệm ngày Quân-Lực 19-06-1995

Posted by: caoduy Jun 11 2010, 08:26 AM





Căn Cứ Pleime, Trận Tử Chiến Của T.đoàn 82 BĐQ Biên Phòng



*Tiền cứ Pleime: những trận đánh đã đi vào chiến sử


Trại biên phòng Pleime cách Pleiku khoảng 50 km về hướng Tây Nam, được thành lập từ tháng 10/1963. Từ khi thành lập cho đến cuối năm 1974, căn cứ này đã nhiều lần bị CQ tập trung lực lượng tấn công để cố chiếm căn cứ trọng yếu này nhưng đều bị đẩy lùi, một số trận giao tranh đã đi vào chiến sử như trận đánh vào tháng 10/1965. Theo tài liệu của đặc san Mũ Nâu và tài liệu của trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, trận chiến này được ghi nhận như sau:

Ngày 19 tháng 10/1965, bộ Tư lệnh B 3 CSBV (chỉ huy lực lượng Cộng quân tại Cao nguyên) đã điều động 2 trung đoàn 32 và 33 chủ lực tấn công vào tiền cứ Pleime. Trung đoàn 33 CSBV là lực lượng tấn công chính, trung đoàn 32 CSBV là lực lượng phụ trợ có nhiệm vụ chận đánh lực lượng tăng viện của liên quân Việt-Mỹ. Với chiến thuật tiền pháo hậu xung thường áp dụng trong các trận tấn công cường tập, Cộng quân đã mở trận hỏa công pháo dữ dội vào căn cứ. Ngay sau khi trận chiến xảy ra, lực lượng tăng viện VNCH được điều khẩn để tiếp cứu nhưng đã bị trung đoàn 32 CSBV phục kích. Giao tranh diễn ra ác liệt, đến ngày 23 tháng 10/1965, lực lượng tăng viện VNCH đã chọc thủng vòng vây của CQ và tiến vào tiếp cứu quân trú phòng trong căn cứ, trung đoàn 33 CSBV bị đánh bật sau 1 tuần liên tiếp tấn công nhưng thất bại.

Đầu tháng 11/1965, một chiến đoàn Nhảy Dù VNCH phối hợp với Sư đoàn 1 Không kỵ Hoa Kỳ tung cuộc hành quân tảo thanh các đơn vị của trung đoàn 32, 33 và trung đoàn 66 CSBV còn nguyên vẹn quanh khu vực gần trại Pleime, trong thung lũng Ia Drang, khu vực cụm núi Chu Prong. Sau hai tuần liên tục truy kích, lực lượng Việt-Mỹ đã loại khỏi vòng chiến 465 CSBV, bắt sống 15 tù binh và tịch thu 70 vũ khí đủ loại.

* Tiểu đoàn 82 Biệt động quân Biên phòng và trận chiến 1974:

Tháng 10/1970, theo kế hoạch chung của bộ Tổng tham mưu QL/VNCH và bộ Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại VN, trại Pleime được chuyển giao cho tiểu đoàn 82 Biệt động quân Biên phòng được thành lập với quân số của Biệt kích quân cải tuyển sang Biệt động quân, ngay sau đó, tiểu đoàn được bổ sung một số sĩ quan chỉ huy, hạ sĩ quan và binh sĩ do bộ chỉ huy Biệt động quân Quân khu 2 điều phối.




Tháng 4/1974, sau khi đã tung quân lấn chiếm và kiểm soát khu vực gần căn cứ Đức Cơ, sư đoàn 320B CSBV khởi động cuộc tấn công quy mô vào căn cứ Pleime. Địch quân đã điều động trung đoàn 48, trung đoàn 64, 1 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn pháo phòng không hiệp đồng chuẩn bị cuộc tấn công. Trước tình hình đó, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã khẩn cấp điều động 2 trung đoàn của Sư đoàn 22 BB tăng viện cho mặt trận Pleime, trong đó trung đoàn 42 được tăng cường cho căn cứ hỏa lực 711 và khu vực kế cận. Cùng với sự tăng viện của 2 trung đoàn Bộ binh, Không quân VNCH tại Cao nguyên đã tiến hành nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của các đơn vị CQ. Sự can thiệp nhanh chóng của lực lượng VNCH đã ngăn chận và vô hiệu hóa kế hoạch đánh chiếm Pleime của CQ. Đến tháng 5/1974, lực lượng VNCH đã làm chủ khu vực quanh căn cứ này.
Sau khi tình hình quanh Pleime tạm lắng dịu, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã cho lệnh Sư đoàn 22 BB rút 2 trung đoàn về lại tỉnh Bình Định, do đó Cộng quân đã tận dụng cơ hội mở cuộc tấn công vào Pleime. Lực lượng trú phòng vào thời gian này gồm có 4 đại đội tác chiến của tiểu đoàn 82 Biệt động quân và 1 đại đội của tiểu đoàn 81 Biệt động quân tăng phái. Các đại đội Biệt động quân khai triển lực lượng tổ chức phòng thủ cụm tuyến trung tâm căn cứ và hai tiền đồn Chu Ho và đồi 509. Trong khi hoạt động bên ngoài căn cứ, đại đội 2/81 đã bị CQ tấn kích bất thần, đại đội này đã chống trả dũng mãnh nhưng trước một lực lượng địch đông gấp 5, cuối cùng đại đội phải rút vào căn cứ với 22 chiến binh vào được bên trong trước khi Cộng quân bao vây và phong tỏa các thông lộ ra vào căn cứ.

Trong trận tấn công vào căn cứ Pleime lần này, Cộng quân đã sử dụng 4 tiểu đoàn thuộc 2 trung đoàn 9 và 48 CSBV, tăng cường trung đoàn 26 biệt lập của B3. Sau đó CQ lại tung vào trận chiến trung đoàn 64 CSBV để mở các trận tấn công biển người vào căn cứ này. Địch đã sử dụng đủ các loại pháo 130 ly, 120 ly, và súng cối 82 ly pháo kích liên, trong khi đó, tiểu đoàn pháo phòng không của đối phương cũng đã bố trí 12 vị trí đặt súng 12.7 phòng không để bắn trực thăng tiếp tế và tải thương cũng như chống trả các đợt không tập của Không quân VNCH. Sau 6 ngày đêm tử chiến, tiền đồn Chu Ho đã thất thủ, 5 ngày sau đó, 10 tháng 8/1974, đến lượt tiền cứ đồi 509 bị Cộng quân tràn ngập. Các chiến binh sống sót tại hai tiền cứ nói trên đã vượt thoát vào rừng và tự mưu sinh thoát hiểm trong hoàn cảnh vô cùng bi tráng: hết đạn, không có thức ăn và nước uống trong những ngày tử chiến với CQ.

Sau khi đã đánh chiếm 2 tiền cứ Chu Hô và đồi 509, Cộng quân đã tập trung lực lượng tấn công vào khu trung tâm căn cứ Pleime. Tiểu đoàn 82 CQ đã bị bao vây trong 1 tháng, không nhận được tiếp tế lương thực, thuốc men và đạn dược. Chiến đấu trong một tình thế nguy kịch, thế nhưng cả tiểu đoàn đã giữ vững được tuyến phòng ngự. Đến ngày 2 tháng 9/1974, Quân đoàn 2 đã điều động lực lượng tăng viện gồm Bộ binh, Biệt động quân và Thiết giáp nỗ lực tiếp cứu tiền cứ Pleime. Các đơn vị sư đoàn 320 CSBV bắt đầu bị đánh bật sau 20 lần tấn công bất thành vào căn cứ. Riêng tiểu đoàn 82 BĐQ sau khi nhận được tiếp tế và tái tổ chức đơn vị và tổ chức phản công tái chiếm 2 tiền đồn Chu Ho và đồi 509.




* Lược trình về 12 tiểu đoàn Biệt động quân biên phòng:

Trước năm 1970 tại Vùng 2 Chiến thuật (từ tháng 8/1970 đổi thành Quân khu 2) có 15 trại biên phòng do các tiểu đoàn Dân sự Chiến đấu thuộc Lực lượng Đặc biệt trách nhiệm phòng ngự. Đến tháng 5/1970, như đã trình bày, theo kế hoạch của liên quân Việt-Mỹ, liên đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ được lệnh thực hiện đợt cải tuyển cho các trại biên phòng. Binh đoàn này được lệnh chấm dứt các hoạt động biệt kích trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời chuyển các đơn vị Dân sự chiến đấu sang binh chủng Biệt động quân VNCH để thành lập các tiểu đoàn Biệt động quân Biên phòng.

Theo quy trình và phương thức hoán chuyển, trong vòng 90 ngày kể từ có quyết định cải tuyển, các trại Dân sự Chiến đấu được tổ chức theo cơ cấu tiểu đoàn Biệt động quân gồm 3 đại đội chiến đấu, 1 dại đội chỉ huy và ban chỉ huy Tiểu đoàn.
Cải tuyển đợt 1 vào ngày 31/8/1970:
- Trại Polei Kleng (A-241), tỉnh Kontum chuyển thành tiểu đoàn 62 BĐQ Biên phòng với quân số 403 người.
- Trại Plei Mrong (A-113), tỉnh Pleiku, chuyển thành tiểu đoàn 63 BĐQ Biên phòng với quân số 443 chiến binh.
- Trại Tieu Atar (A 231), tỉnh Darlac, chuyển thành tiểu đoàn 71 BĐQ Biên phòng với quân số 414 chiến binh.
- Trại Trang Phúc (A-223), tỉnh Darlac, chuyển thành tiểu đoàn 72 BDQ Biên phòng với quân số 399 chiến binh.
-Trại Plei Djereng (A-251), tỉnh Pleiku, chuyển thành tiểu đoàn 80 BĐQ Biên phòng với quân số 479 chiến binh.
- Trại Đức Cơ ( A-253), tỉnh Pleiku, chuyển thành tiểu đoàn 81 BĐQ Biên phòng với quân số 457 chiến binh.
- Trại Plei Me (A-255), tỉnh Pleiku, chuyển thành tiểu đoàn 82 BĐQ Biên phòng với quân số 464 chiến binh.
- Trại Bu Prang (A-236), tỉnh Quảng Đức, chuyển thành tiểu đoàn 89 BĐQ Biên phòng với quân số 377 chiến binh.
- Trại Dak Pek (A-242), tỉnh Kontum, chuyển thành tiểu đoàn 88 BĐQ Biên phòng với quân số 298.
- Trại Dak Seang (A-245), tỉnh Kontum, chuyển thành tiểu đoàn 90 BĐQ Biên phòng với quân số 431 chiến binh.
Cải tuyển đợt 2 vào ngày 31/12/1970:
- Trại Ben Het (A-244), tỉnh Kontum, chuyển thành tiểu đoàn 95 BĐQ Biên phòng với quân số 430 chiến binh.
- Trại Đức Lập ( A-239), tỉnh Quảng Đức, chuyển thành tiểu đoàn 96 BĐQ Biên phòng với quân số 400.
3 trại đóng cửa, chấm dứt hoạt động:
- Trại Kontum (B-24) đóng cửa ngày 30 tháng 11/1970; trại Ban Mê Thuột ( B-23), đóng cửa ngày 15 tháng 12/1970; trại Pleiku (Company B), đóng cửa ngày 15 tháng 1/1971.


Vương Hồng Anh

Posted by: caoduy Jun 11 2010, 08:27 AM





Tiểu Đoàn 62 BIỆT-ĐỘNG-QUÂN Căn cứ Lệ Khánh


Polei-Kleng là tên một ngọn đồi cách thị trấn Kontum 22 cây số theo đường chim bay về hướng tây-bắc. Vào tháng ba năm 1966, Lực-Lượng Đặc-Biệt Hoa-Kỳ thiết lập trại Dân-Sự Chiến Đấu trên đỉnh đồi, đặt tên là trại Polei-Kleng (ám số A-241), tiếng Việt là Lệ-Khánh. Nhiệm-vụ của trại là ngăn chặn sự bành trướng và áp-lực của địch vào thành phố Kontum. Đến ngày 31 tháng tám năm 1970, trại được bàn giao cho Biệt-Động-Quân Việt Nam và trở thành tiểu-đoàn 62 BĐQ Biên-Phòng.

Trong trận chiến mùa hè đỏ lửa vào tháng ba năm 1972, trước sức tấn công của địch, vùng Tân Cảnh, Dakto rồi Charlie lần lượt thất thủ. Trại Lệ-Khánh là tiền đồn cuối cùng ngăn chặn hướng tiến quân của địch vào thành phố Kontum, do đó bằng mọi giá, quân cộng sản Bắc Việt phải san bằng căn cứ này.

Trong vòng một tuần lễ, cộng quân pháo kích vào trại hàng ngàn đạn súng cối 82 và hỏa tiễn 122 lỵ Đến ngày 7 tháng 5, địch gia tăng mức độ pháo kích từ sau tám giờ tối cho đến nửa đêm rồi sau đó ào-ạt xung phong tấn công vào hướng đông của căn cứ. Các chiến sĩ Biệt-Động-Quân giữ vững phòng tuyến, đẩy lui nhiều đợt xung phong của địch. Đến sáu giờ sáng, cộng quân phải tạm ngưng tấn công để chỉnh đốn lại hàng ngũ, sau khi để lại trên 300 xác rải rác xung quanh tuyến phòng thủ trại Lệ-Khánh.

Một tiếng đồng hồ sau, địch bắt đầu đợt tấn công mới bằng trận điạ pháo vào căn cứ, sau đó 20 chiến xa T-54 dẫn đầu cho bộ binh theo sau. Mặc dù đã chiến đấu liên tục từ nửa đêm rất mệt mỏi, các binh sĩ Biệt-Động-Quân đã chuẩn bị cho đợt tấn công mới với các súng phóng hỏa tiễn M-72. Kết quả năm chiến xa T-54 bị hạ và nhờ pháo binh bạn yểm trợ hữu hiệu nên quân cộng sản xâm lược phải tạm thời rút lui. Theo tài liệu tịch thu được của địch, cộng quân đã chọn căn cứ Lệ-Khánh để đánh chiếm làm quà kỷ niệm mừng chiến thắng Điện Biên Phủ.

Đến ngày thứ 20 của trận chiến, các binh sĩ tiểu đoàn 62 BĐQ sống dưới giao thông hào để tránh những trận mưa pháo của quân cộng sản. Lúc này trên đỉnh đồi Polei-Kleng và khu vực xung quanh không còn vẻ đẹp thơ mộng của miền cao nguyên n"ạ Căn cứ Lệ Khánh tan nát vì đạn pháo binh của địch, kho đạn bị cháy, trung-tâm hành quân bị xập. Đại Tá Nguyễn văn Đương, chỉ huy trưởng BĐQ / QK2 lo lắng cho số phận TĐ62.
- Các anh còn chịu được không?

Thiếu tá Bửu Chuyển, tiểu-đoàn trưởng trả lời.
- Chúng tôi vẫn chiến đấu...!

Thực sự, tình hình lúc này đang nguy khốn, TĐ 62 BĐQ và căn cứ Lệ Khánh có thể bị địch tràn ngập không biết vào lúc nào. Các phi tuần phản lực của Hoa Kỳ được gọi đến yểm trợ cho trực thăng vào đem các cố vấn Hoa Kỳ ra khỏi trại đến một nơi an toàn, để lại các binh sĩ BĐQ và một số đàn bà, trẻ con, vợ con binh sĩ gốc người Thượng.

TĐ 62 vẫn tiếp tục kháng cự, những người bị thương nhẹ được băng bó xong trở lại phòng tuyến chiến đấu. Vợ con binh sĩ cũng được phát súng, phụ giúp việc canh phòng, tải đạn, tải thương v/v... Ban đêm hỏa châu soi sáng bầu trời Lệ Khánh, bên dưới tan hoang, nồng nặc mùi tử khí, xác chết cộng quân rải rác khắp nơi đã trương sình lên, mùi hôi thối trộn thêm mùi thuốc súng làm cho khung cảnh thêm phần khiếp đảm, như cõi âm-tỵ

Từ ngày thứ 20 trở về sau, tình hình coi bộ hết thuốc chữa, bộ tư lệnh QĐ2 cho căn cứ Lệ Khánh được toàn quyền xử trí tùy theo trường hợp. Liên lạc với bên ngoài cũng trở nên khó khăn, các loại ăng-ten dù căng lên đều bị bắn trúng bằng súng đại bác không dật 57, 75 ly từ các cao điểm xung quanh căn cứ mà cộng quân đã chiếm. Đến ngày thứ 25, thiếu tá Bửu Chuyển tiểu đoàn trưởng và đại úy Phan Thái Bình tiểu đoàn phó bàn luận với nhau và quyết định rút mặc dù biết chắc ra là sẽ đụng nặng.

Tiểu đoàn được lệnh chuẩn bị, kể cả gia đình binh sĩ, hành trang gọn, nhẹ và súng đạn. Đúng bốn giờ sáng, xen lẫn vào tiếng đạn pháo kích của giặc, các binh sĩ Biệt-Động-Quân dùng bộc phá (bangalo) phá hủy lớp hàng rào phòng thủ phía lô-cốt số 13 và bắt đầu rút đi trong màn đêm. Thiếu úy Kchong, người thượng, dẫn đại đội 1 mở đường máu ra trước, rồi đến thiếu tá Chuyển cùng bộ chỉ huy tiểu đoàn theo sau, cánh này đi về hướng đông. Đại úy Bình dẫn một cánh khác đem theo gia đình binh sĩ đi về hướng bắc, sự tách rời ra này để tránh tổn thất trường hợp bị địch phát hiện trong khi di tản.

Trong khi đó, phi cơ quan sát L19 đang bay trên bầu trời Lệ Khánh vẫn liên lạc với các cánh quân ở dưới.

- Nam Bình (tên ngụy trang của đại úy Bình), anh ở đâu rồi?
- Tôi vừa ra khỏi trại...
- Tăng tụi nó đã vào trại, đông như kiến!
- Cho bom dập xuống!
- Nhận rõ! Chờ xem.

Các phi tuần phản lực được gọi đến dội bom xuống đám cộng quân và chiến xa T-54 đang reo hò ở phiá dưới tưởng rằng đã dứt điểm tiểu đoàn 62 BĐQ. Căn cứ Lệ Khánh lần này thực sự chìm trong biển lửa... Bỗng dưng, cánh quân Biệt-Động-Quân mất liên lạc với phi cơ quan sát L19, nhìn lên chiếc máy bay đã trúng đạn phòng không đang cháy, và một chiếc dù bung ra trên không gian.

Họ mới đi được chừng năm cây số, vì còn đem theo đàn bà, trẻ con nên di chuyển rất chậm. Địch quân đang đuổi theo phiá sau, tất cả phải ráng lên, còn chừng hai cây số nữa mới đến bờ sông Pơ-Kô (Dak Poko). Qua được bên kia sông là thoát, quân bạn và các cấp chỉ huy đang chờ sẵn. Có tiếng súng nổ ở phiá cánh của thiếu tá Chuyển, đại úy Bình nói vào máy truyền tin PRC-25.
- Anh đụng nặng không?
- Tôi bị tụi nó vây rồi!
- Cần tôi đến tiếp không?
- Không! Dẫn anh em đi gấp đi!

Đó là những lời cuối cùng mà hai ông trưởng và phó trao đổi với nhau... Bây giờ đến phiên cánh của đại úy Bình bị đuổi kịp, dường như đâu cũng chạm địch. Đoàn người vẫn phải tiếp tục di chuyển để tìm lối thoát trong cái chết. Đại úy Bình ra lệnh, vừa chiến đấu vừa lui dần về phiá bờ sông Pơ-Kô... người chết phải bỏ lại, lo cho người sống nhất là nh"ng người đàn bà và trẻ con.

Ra tới bờ sông Pơ-Kô, nhằm mùa khô nước chỉ ngang đến ngực. Đại úy Bình và một số Biệt-Động-Quân còn sống sót dừng lại để ngăn cản địch cho đàn bà, trẻ con và các quân nhân bị thương lội qua trước. Quân cộng sản bắn đạn súng cối 61 ly vào đám đàn bà trẻ con vô tội đang tìm cách vượt sông, vô số người chết, dòng sông Pơ-Kô dậy sóng, máu nhuộm đỏ một khúc sông... Bên bờ sông, một người đàn bà Thượng đai đứa con trước ngực, trúng đạn nằm chết, đứa bé vẫn còn ngậm vú mẹ. Trước cảnh thương tâm đó, đại úy Bình ra lệnh cho một người lính tháo dây đai, lấy đứa bé ra khỏi người mẹ rồi đem qua sông trước.

Qua được bên kia sông, đại úy Bình được đại tá Đương, chỉ huy trưởng BĐQ vùng II, ôm chầm lấy khen ngợi, hỏi thăm. Cánh quân của đại úy Bình lúc bắt đầu rút có 360 người gồm cả đàn bà, trẻ con, qua được sông còn lại 97 người, phần chết, bị bắt và một số thất lạc trong rừng. Sau đó đàn bà, trẻ con và thương binh được đưa về Kontum. Đại úy Bình và một số Biệt-Động-Quân xin ở lại để chờ đón các quân nhân thất lạc đang tìm đường thoát.

Mặc dầu pháo địch vẫn bắn qua, các Biệt-Động-Quân vẫn cương quyết nằm lại dọc theo bờ sông đón các chiến hữu thất lạc. Đã ba ngày qua, không có tin gì thêm... chán nản, thất vọng, màn đêm xuống, một làn sương lạnh từ mặt sông dâng lên... bỗng có tiếng lội dưới nước, một, hai, ba, tất cả bốn bóng đen hiện ra đang đi lên từ phiá bờ sông. Tất cả mọi người nín thở, súng đạn sẵn sàng rồi hỏi nhỏ.

- Ai?
- Biệt-Động-Quân.

Tất cả mọi người rời chỗ nấp chạy lại ôm chầm lấy bốn người mới qua sông, quân phục vẫn còn ướt. Bốn quân nhân này thuộc cánh quân đi theo thiếu tá Chuyển, họ cho biết là Thiếu tá Chuyển bị thương, bị bắt dẫn đi, ông không chịu nên bị giết tại chỗ.

Câu chuyện về tiểu đoàn 62 Biệt-Động-Quân và căn cứ Lệ-Khánh đến đây chấm dứt. Đại úy Phan Thái Bình, sau năm 1975 đi cải tạo ngoài bắc 11 năm, ông cùng gia đình đến định cư tại Los Angeles vào tháng mười năm 1993, đem theo được một tấm hình kỷ niệm chụp khỏang tháng sáu năm 1972, ngày được gắn lon đặc cách tại bộ tư lệnh quân đoàn II. Tấm hình đã phai mờ vì phải chôn dấu.

Vũ-Đình-Hiếu
Dallas, ngày 06 tháng năm, 1995
Theo sách: Chinh Chiến Điêu Linh, Tác giả Kiều-Mỹ-Duyên, phát hành năm 1994.

Posted by: caoduy Jul 13 2010, 06:42 AM





Bốn ngày đỏ lửa


Cường độ cuộc chiến gia tăng, con cháu Bác Hồ vượt sông, vượt núi, vào Nam với lý tưởng duy nhất là giải phóng đồng bào đang bị đô hộ bởi ngoại bang. Bộ đội miền Bắc đã không quản ngại gian nan, đói khổ và bệnh hoạn để thực hiện hoài bão của mình. Thực ra, họ đã chẳng giải phóng được gì ngòai tạo những chồng chất đau thương trên da thịt người da vàng. Các anh đã bị tập đòan bệnh hoạn ru ngủ, thần thánh hóa với những ảo vọng ngông cuồng. Bác Hồ hoạt đầu chính trị hơn ba mươi năm lãnh đạo miền Bắc, di sản để lại là những dấu vết bom đạn cầy xé tan hoang trên da thịt mảnh đất Việt Nam.

Ngày N...Cộng Sản bôn tập tất cả các vùng chiến thuật, riêng tại vùng II, họ chọn Dakto làm tuyến thử lửa, họ chuẩn bị mở mặt trận có kích thước, quyết tử cùng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Phi đoàn Thần Tượng 215 nhập cuộc, 9 chiếc trực thăng cất cánh trục chỉ Pleiku. Trời hôm nay trong xanh, gió nhẹ, hợp đoàn bình phi ở bốn ngàn bộ, phía trước những ngọn đồi chập chùng như sóng biển trải dài trên thớ thịt của mảnh đất. Gần tới Cheo Reo con sông uốn khúc chảy quanh các sườn đồi long lanh như bức tranh thủy mạc.

Còn 15 phút nữa tới Pleiku, xa xa ngọn núi ngộ nghĩnh đơn độc trong tầm mắt. Thấy được ngọn độc sơn này là thấy được thành phố. Trên bản đồ hành quân ghi chú tên và độ cao của nó, tên thật là Hàm Rồng (Miệng Rồng), nhưng anh em phi hành thì gọi với tục danh "núi Lìn". Hàm Rồng hay núi Lình cũng vậy, có rất nhiều huyền thoại.
Tuy nhiên phải nói ngọn núi này là cứu tinh của nhiều phi hành đoàn mỗi khi thời tiết xấu .
Hợp đoàn sẽ đáp tại phi trường Cù Hanh, lấy thêm nhiên liệu và lính hành quân.

8 giờ 45 sáng, 9 chiếc cối xay lại nối đuôi cất cánh trực chỉ hướng Bắc. Hại mươi phút sau tỉnh đầu của giới tuyến trong tầm mắt, tôi trao máy bay cho Vĩnh Gấu, người phi công phụ, dựa lưng vào ghế, đầu óc mông lung. Lần đầu tiên trên vùng đất lạ, tôi vẫn chưa định được vị trí rõ rệt trên bản đồ. Đầu óc làm việc liên tục. Trưởng phi cơ mới toanh của đơn vị bay vị trí số 3 trên đường Bắc tiến. Nhiệm vụ cũng đơn giản, chuyển tiểu đoàn Dù lên cao điểm chiến thuật thay thế cho đơn vị bộ binh. Sở dĩ có dự thay đổi vì ông Tướng vùng II sợ mất cao điểm 5 và 6, áp lực địch sẽ đè nặng lên tỉnh Kontum. Lần đầu tiên một đơn vị tác chiến di động, được giao trọng trách trấn ải...với một kích thước giới hạn và thụ động chắc chắn họ sẽ gặp thật nhiều nghiệt ngã. Nhưng biết làm sao hơn, trong đời lính mấy ai tránh được cảnh mình không muốn. Sức mạnh quân đội là kỷ luật, muốn tuân theo kỷ luật thì phải thi hành lệnh, mặc dù lệnh đó sai hoặc quái gở.

Phi trường Dakto hiện ra , cũ kỹ, mộc mạc, không đài không lưu, hợp đoàn nối đuôi mhau đáp bên lề phi đạo. Máy vừa tắt chưa kịp nguội đã được lệnh đổ quân.
Hai đại đội đầu lần lượt được đem lên vùng thì mặt trời cũng ngả về Tây, bụng hơi cào vì từ sáng tới giờ chưa có chút gì ngoài ly cà phê đen. Lệnh cho hợp đoàn tắt máy, nghỉ ăn trưa. Bịch gạo sấy, nước được đổ vào từ từ nở ra, lon thịt hộp vừa khui để trên sàn tàu cho đỡ bụi.
Ùng! Ùng! Khói bốc ở đàu phi đạo, con cháu già Hồ đang pháo kích phá hoại kế hoạch hành quân. Tôi nhẩy lên phòng lái. Vĩnh đã vào vị trí, anh em cơ phi, xạ thủ đầy đủ. Tầu được thi nhau nổ máy. Đầu đàn đã cất cánh, tôi nhấc vội máy bay khi RPM chưa được 6000 vừa cất cánh vừa vặn tay ga.
-Lead! Số 3 gọi.
-Nghe số 3.
- Bây giờ đi đâu ?
-Hướng Kontum.
Trong lúc bay lòng vòng tôi không định được vị trí mình đang bay. Vặn qua intercom tôi hỏi Vĩnh:
-Bạn bay vùng này lần nào chưa ?
-Chưa Thiếu úy!
Tôi lầu bầu:
-Mình là hai thằng mù dò đường .
Vĩnh cười để lộ hàm răng to tổ bố trên khuôn mặt thực thà hiếm có:
-Thiếu úy! Mình cứ bám theo lead là chắc ăn.

Đâu còn đường nào khác hơn. Sau đó tầu chỉ huy cho lệnh hợp đoàn qua tầu số giải tỏa. Chỉ thị mỗi chiếc cách nhau một phút, quẹo trái, xuống thật thấp qua khu làng Thượng rồi vào đáp vị trí cũ. Sau vài phát pháo hù, địch ngưng bắn.
Dọc theo phi đạo lính Dù đã xếp hàng thứ tự chuẩn bị lên tầu. Tầu chỉ huy tên gọi là Charlie đã lên vùng. Tôi chỉ tay bảo Vĩnh :
-Trời hôm nay hơi nóng nên Charlie đang lên cao cho có gió. Anh gật gù cười.
Tiếp theo hai Mãnh Hổ lên vùng. Ở đây xin phép được mở ngoặc để nói sơ qua về phi đoàn 215. Đây là một trong những đơn vị kỳ cựu trực thăng. Danh xưng Thần Tượng có nghĩa Voi Thần. Đơn vị chia ra làm 3 toán, hai toán bay đổ quân và một toán trực thăng võ trang đi bảo vệ với hai danh xưng khác nhau. Mãnh Sư hay Mãnh Hổ. Hôm nay Sư ở nhà, Hổ ra khỏi chuồng kiếm ăn.
-Lead đây Charlie! Mỗi tầu cách nhau 2 phút hướng vào 90 độ, thả xong quay 180 độ quẹo phải đi ra.
-OK Charlie. Lead lên tiếng!
-Hợp đoàn nghe rõ, cách nhau 2 phút.
Lead cất cánh. Chờ khoảng hơn một phút số hai cất cánh. Chờ đúng 2 phút số ba cất cánh. Đang lấy dần cao độ. Trên tần số lead đang ra vùng. Số 2 chuẩn bị vào. Số 2 ra vùng.
-Hai đây Charlie! Hai đây Charlie! Bạn đi đâu vậy ?
Không có tiếng trả lời. Số hai vẫn lấy dần cao độ bay thẳng ra...Charlie giận và xì nẹc số 2. Tôi bấm máy liên lạc.
-Charlie- số...3
-Nghe số 3...
-Số 3 vào vùng.
-Hổ đây Charlie.
-Nghe...
-Cover cho thằng 3.
Tiếng súng minigun pha lẫn đại liên trên tầu thi nhau nổ rộn rã, tôi cố đẩy cho con tầu bay lẹ hơn, những nó muốn khựng lại như bà gia đang leo dốc. Tiếng người cơ phi la hoảng:
-Tầu bị trúng đạn Thiếu úy.
Tôi không trả lời...gọi máy:
-Charlie- số 3 gọi.
-Nói đi số 3.
-Dưới bắn rát quá, tầu bị trúng đạn.
-Số 3 có sao không ?
-Chưa có dấu hiệu.

Người lính Dù cuối vừa ra khỏi tầu, tôi đạp pedal phải lấy cao độ ra vùng. Tôi rùng mình ớn lạnh bởi mồ hôi pha lẫn gió trời.




Sáng nay, chúng chưa biết chúng tôi làm gì nên hai đại đội được đưa lên xuông xẻ, bây giờ chúng đã đoán ra phần nào nên ồ ạt bắn phủ đầu. Hợp đoàn được lệnh tắt máy kiểm tầu. Bộ chỉ huy Dù xin trực thăng Mỹ tăng viện. Anh em Thần Tượng thở phào nhẹ nhõm.
Khi đoàn trực thăng Mỹ cất cánh, thì tôi cũng vừa kiểm soát xong, ngòai vài lỗ dọc phần đuôi. Tàu có thể bay về được.

Nhóm phi hành đang tụm ba, tụm năm kháo chuyện bãi quá nóng, thì hợp đoàn Mỹ quay về đáp, với đầy đủ lính Dù, hỏa lực địch quá mạnh, họ từ chối phi vụ, bay thẳng một lèo về Pleiku. Viết tới đây tôi sực nhớ đến ông Kỳ, khi còn làm Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương. Ông đến nói chuyện với các học sinh và sinh viên biểu tình. Trong lúc bầu nhiệt huyết đang lên ông đòi đá đít một Thượng nghị sĩ Mỹ đã giám chê quân đôi VNCH đánh giặc nhút nhát. Nhiều người đã phê bình sự hồ đồ của ông. Nhưng riêng tôi "ông quả có khí phách kẻ làm tướng".

Đại tá Lịch quay sang chúng tôi:
-Chỉ còn các anh thôi. Cố gắng cho đàn con tôi lên đủ.
Đại úy Đức, lead hợp đoàn lại gần tôi:
-Tầu có sao không?
-Vài lổ Đại úy.
-Tầu còn khả dụng ?
-Bay được.
Anh hấp háy đôi mắt:
-Tao chịu mày đó Q.
Rồi đi sang tầu khác.

Voi Thần lại tiếp tục lên đường, từng chiếc thay phiên vào, ra cho tới người lính cuối cùng bất chấp áp lực của địch. Chúng tôi đã thể hiện đúng tinh thần huynh đệ chi binh. Trên đường về Pleiku tôi nghe tiếng Đại tá Lịch sảng khoái trên tần số khen tặng hoa tiêu VN...
Chuồn chuồn nối đuôi nhau xuôi Nam trở về Pleiku, lấy thêm nhiên liệu, một ngày gian nguy và căng thẳng.
-Peacock! Peacock! Đây Thần Tượng.
Peacock nghe Thần Tượng.
-Chúng tôi 9 chiếc trực thăng cất cánh từ Pleiku về Nha Trang, bạn cho biết tác xạ pháo binh quanh vùng ?
-Thần Tượng! Đây Peacock.
-Nghe bạn- Nói đi.
-Lệnh Tư lệnh quân đoàn II, các bạn sẽ ở lại Pleiku đêm nay, Liên đoàn 72 Chiến thuật sẽ lo cho các bạn chổ ngủ. Nghe rõ trả lời.
-Thần Tượng nghe 5/5.
Tầu chỉ huy quay ngược vào bãi đậu, chúng tôi nối theo đuôi. Quay sang Vĩnh tôi hỏi:
-Tối nay có mục gì không ?
-Không biết. Chắc chắn phải ra phố kiếm gì ăn.
-Tôi cũng vậy, nhưng phải ghé tụi bạn lâu quá chưa gặp.

Pleiku, một thành phố đang lên, phố xá nhộn nhịp khác thường. Quả thực vậy, nơi nào có quân Mỹ trú đóng là bộ mặt hoàn tòan thay đổi. Bên cạnh sự sầm uất có pha lẫn sự băng hoại.
Lâu lắm hôm nay mơi gặp lại lũ bạn, chuyện nổ như pháo. Lang thang đầu đường cuối phố, chúng tôi ghé xóm chị em ta. Tôi ngần ngừ, làm sao có cái hứng lãng du nơi tỉnh lẻ này. Tôi thoái thác viện cớ chưa được tắm, cát bụi Dakto con bán đầy, hơn thế nữa, mặc đồ bay mà ghé động hoa vàng chẳng ra một thể thống gì cả.

Tôi lên mặt:
-Các cậu quan cách gì chả có tác phong.
Một thằng trong nhóm hét lên:
-Ấy chết! Ấy chết! Đụng chọc giận cậu. Cậu phải thông cảm cho chúng em, ở đây tỉnh lẻ, ăn chơi giải muộn đời. Đời lính sống nay chết mai, tính cho xong kẻo làm ma không biết đàn bà khó mà siêu thoát.
Tôi cười:
-Mày đã khá hơn nhiều, tao phải khen cho thành phố này, chỉ vài tháng mày đã lột xác. Tôi hỏi xỏ lá:
-Vậy chú đi chơi bời cuối tuần có xưng tội không ?
Nó cười hì hì:
-Mình đi lén mà.
Cả bọn ôm bụng cười. Tôi đề nghị:
-Chúng mình ghé quán cà phê uống cho bớt lạnh.
Nó nhìn tôi xỏ lại:
-Cậu mặc đồ bay vào uống cà phê , trông chả giống ai.
-Không lẽ tao cởi truồng, có độc một bộ, ông tướng bắt ở lại, ông tướng chưa cho quần thay, mấy chú khó tính quá. Vậy chúng mình về.

Ba, bốn chiếc Honda nói đuôi nhau trở về căn cứ, về đêm Pleiku lành lạnh thấm vào da thịt như gió bấc ở miền Bắc. Tô ép mình sau lưng thằng bạn để tránh phần nào cơn gió. Cũng may thằng bạn cùng phòng, với lại hôm nay đi phép tôi sẽ ngủ lại với nó. Càng về khuya chúng tôi càng nhiều mục để nói. Chúng hỏi tôi:
-Buồn ngủ chưa?
-Chưa!
-Nhớ em hở ?
-Em nào ?
-Em nào ở Nha Trang ấy!
-Ờ, nhớ lắm, em đang chờ, có lẽ giờ này em đang nằm lây lất.
Tụi nó hau háu nhìn tôi:
-Em tên gì?
-Kim Dung!
-Tên nghe cũng được. Quen lâu chưa?
-Ra Nha Trang gặp lại. Tối ngày em quanh quẩn bên tao, nhiều khi thức trắng đêm cùng em tâm sự.
-Tình nhỉ?
Nó nằm xuống cười điểu cáng:
-Mai con không dắt mấy bô đi ăn sáng là bỏ mẹ, ông về Sàigon bỏ bom là tiêu đời.
-Đành phải chịu, sống chung với Kim Dung kể từ ngày ra tới giờ tao đã quên em.
-Thật không ông ?
-Rất thật.
Giấc ngủ đi vào lúc nào chúng tôi không biết. 6 giờ sáng nó gọi tôi dậy đi ăn sáng. Quán phở trong khu gia binh, cố nuốt lót lòng.

Sáng nay phi đoàn 229 tăng cường máy bay, khác với hôm qua, hôm nay đi bay lòng tự tin hơn, tôi đã làm quen với địa hình, địa vật. Tôi để Vĩnh bay suốt lộ trình Tân Cảnh, lúc đó tôi mới đủ thì giờ để ngắm nhìn đồi núi cao nguyên, ở đây không núi là rừng, cây cao, đất mầu mỡ, người dân thỉêu số lập thành những làng xã trên những mảnh đất bằng phẳng, cuộc sống thật bình yên, những phụ nữ ngực để trần đi đi lại lại, trong thật lạ mắt. Còn đàn ông đóng một chiếc khố vải đủ để che kín cây gậy trời ban. Mải mê với phong cảnh thiên nhiên giữa người và vạn vật quên cả phi vụ đầy gian nguy đang rình rập. Vĩnh nhắc sắp đến Dakto, 9 chiếc nối đuôi đáp vị trí cũ.

Hôm nay chúng tôi sẽ tiếp tế lương thực và đạn dược cho đơn vị ngày hôm qua. Chuyến đầu vào ra xuông xẻ, nhưng bắt đầu chuyến thứ hai thì Bắc quân bắt đầu pháo bãi đáp. Khu trục được gọi lên. Bom lửa được thả cháy rực ở quanh cứ điểm. Anh em chúng tôi lại êm ả vào ra vài chuyến. Sau đó chúng lại pháo. Lúc đầu chúng tôi còn hoảng hốt, sau quen dần. Đạn vừa nổ xong là cong đuôi vào đáp, đạp lẹ đồ tiếp tế rồi cong đuôi bay ra.
Ngày thứ hai thêm 5 chiếc bị đạn, bất khả dụng.

Cường độ giao tranh ngày thêm khốc liệt hơn. Đơn vị Dù bị pháo không nghỉ. Địch quân đã làm chủ chiến trường ngay từ phút đầu. Tại ngọn đồi 5 và 6 một lần nữa lính Dù đã thể hiện lòng can đảm và kinh nghiệm chiến trường. Mặc dù ở thế thủ, nhưng họ đủ khả năng đập tan nhũng hoài bão Bắc quân.
Sang tới ngày thứ ba, thì bộ đồ bay mùi hôi đã bốc, báo chí và radio thi nhau tường thuật về trận chiến. Tôi đang vào bãi đáp thì Mãnh Hổ một bị trúng đạn, khói phun ra cuồn cuộn. Hổ hai đang bám sát theo sau. Hổ một phải đáp ép buộc trong trảng lớn ở hướng Bắc, tầu lead đã xuống đón phi hành đoàn. Hổ hai được lệnh phá hủy con tầu.




Phi vụ phải gián đoạn vì thiếu trực thăng võ trang yểm trợ.

Sáng tới ngày thứ tư mặt trận yên tĩnh trở lại. Cộng quân quá thiệt hại nặng nề, phần do Không quân oanh kích, phần do lính Dù phản công. Có lẽ địch đang bổ xung quân số để tái mở mặt trận. Mọi thương binh Dù cũng được chúng tôi di tản và cứ điểm được tăng viện chờ Bắc quân xung trận.

Hôm nay phi đoàn tăng phái. Chúng tôi được trở về Nha Trang nghỉ bồi dưỡng. Xa Nha thành có 4 ngày, tôi có cảm tưởng đã lâu. Tầu sắp sửa đáp. Ngoài kia biển mênh mông, xanh biếc hàng dừa cao lay động trước gió. Tôi cảm thấy lòng yên tĩnh lạ thường. Tôi đã xa vùng lửa đạn.

Sáng mai! Tôi sẽ ra biển thật sớm, ngồi chờ Thái Dương ló dạng, ngồi thật yên để nghe biển rì rào tâm sự. Trong sự tĩnh lặng tôi sẽ thấy giá trị của sự sống và nổi chết. Cũng trong tĩnh lặng đó, tôi cầu xin Thượng Đế hãy giúp dân tộc tôi thoát khỏi cuộc chiến phi nhân đang trải dài trên khắp quê hương.


Chân Không

Posted by: caoduy Aug 11 2010, 06:38 AM





Đêm hỗn mang



Tôi đến Komtum, khi nắng chiều bắt đầu ửng sắc vàng mài mại, trời mang mang nét buồn. Cái… “buồn muôn thửơ” kiếp làm người, của vùng đất cao nguyên chưa chịu đi vào dĩ vãng một thời xót xa đã qua; và vẫn tồn tại trong lòng người ở nơi vùng cao địa đầu đất nước.

Thác vẫn đỗ và con sông vẫn chảy ngược như bao đời.

Komtum với tôi là tuổi thơ mộng mị, với những đàn voi, với những “thằng Nài” ngất ngưỡng trên những thớt voi, những hàng cây cao su thẳng tắp, đồng đều; những cây càfê ra hoa trắng nỏn mượt mà cuối năm, những cọc tiêu nằm sát những cây cao su cao ngất, với đất đỏ dính đặt kẹo dưới đế dép, một thời…

Ôi Komtum, Buôn Mê! Địa đầu chiến tuyến miền cao?

Các sử gia ghi chép: Mậu Thân- Huế chết sáu ngàn người! Buôn Mê, 1975 chết bao nhiêu người? Điều này chưa lý giải, vì đó là kết cục của chiến tranh ly tán chưa được xác nhận! Có lẽ nhiều hơn gấp nhiều lần??? Hay ít hơn?

Nhã Ca viết: “Giải khăn xô cho Huế”, nhưng chưa ai viết… Giải khăn xô cho Buôn Mê!

Một điều đáng buồn!

Chuyến bay từ California, rồi đến Sài Gòn, sau đó tôi bao nguyên xe đi Pleiku, thăm lại quê cũ, đã ngốn biết bao thời gian.

Vừa về đến nhà, tôi bảo thằng cháu:

“Chở Bác đến Tân Cảnh”.

“Ơ kìa! Bác nghỉ ngơi chứ, mai hẳn đi”.

“Cứ chở Bác đến đấy, rồi về. Mặc Bác!”

Mấy đứa em tôi khuyên, vì nơi vùng địa đầu cao nguyên này trời nhanh bủa chụp bóng tối, hẳn mai hãy đi. Tôi quơ tay bảo thằng cháu, chở tôi đi. Cả nhà buồn, nhưng cũng đồng ý, vì họ biết tôi muốn gì sau ba mươi lăm năm, ngày này -ngày buồn nhất trong đời của tôi- để trở lại quê hương.

Thằng cháu chở đi, bỏ tôi dưới đường, trước chân đỉnh núi 960, bịn rịn chia tay, hẹn ngày mai trở lại.

Tôi đeo ba-lô, trở lại con đường cũ quen thuộc, với cái vai còm cỏi trên sáu mươi năm cuộc đời. Cuộc đời là đây! Cuộc đời của một thời tuổi trẻ chinh chiến. Sống cho quê hương, chết cho quê hương! Dường như, quá khứ không bao giờ tha thứ, cho những con người sống vì một lý tưởng. Dù rằng lý tưởng ấy đúng hay sai trong cái nhìn khía cạnh cuộc đời, mà họ phải sống và được sinh ra nơi ấy. Ông Thiên chỉ là bịa đặt, để con người sống tử tế hơn, không chém giết nhau, hảm hại nhau, trong muôn trùng vây hảm ý nghĩa kiếp làm người: Tôi muốn sống!

Vậy sao trong khía cạnh nhìn cuộc sống về phía trước, sự hoài bão thành người hoàn thiện, tôi chỉ nhìn về quá khứ?

Quá khứ làm đau dứt tâm can! Quá khứ ngàn năm Bắc thuộc, quá khứ trăm năm bị đô hộ bởi phương Tây, và quá khứ người đồng chủng giết nhau bằng súng đạn phương Tây!

Tôi đi đến chân núi 960, nhìn quanh quẩn, thấy dưới chân mình là tấm ảnh của Anh, được lát kỹ trên một lớp gương trắng sáng, cùng những thức ăn, hoa quả do ai đó cúng kiến hóa vàng, với bó nhang to và những chân nhang cắm đầy rẫy xung quanh, đã cháy hết từ lâu nhưng mùi hương vẫn còn đọng trong không gian tê tái.

Lâu lắm rồi! Từ ba mươi tám năm về trước.

“Anh Năm!”

Tôi quỳ xuống, run tay sờ bức ảnh Anh, lấy tay áo miết trên mặt gương vốn đã sạch bóng. Vài cánh bướm bay chập chờn, tôi xua tay đuổi. Ở tuổi trên sáu mươi, nước mắt còn nhỏ lệ cũng làm tôi ngạc nhiên. Tôi đã khóc ba mươi lăm năm. Đã cạn lệ và lòng. Tù tội, tha hương, gia đình tan nát… còn gì đau khổ hơn?

Đỉnh núi cao không quá ngàn thước, buông xuống thung lũng, với dòng chảy cuồn cuộn sông Pôkơ và đường 14, chính là bải đáp của cứ điểm Charlie của tiểu đoàn 11 Nhẩy Dù.

Trên, mây trôi là là, ẩm thấp sương mù mỗi khi chiều xuống âm u đất trời, đó là cao độ 1500 thước của hai đỉnh núi Kngok Toim, Kngok Im Derong của vùng Tây nguyên trung phần.



Anh Năm ra lệnh tôi trong máy:

“Đại úy cho mấy đứa con cắt lẽ ra, chia từng nhóm mà đánh chúng nó.

“Em cắt rồi Anh Năm”.

“Cắt rồi mà sao chúng nó cứ pháo hoài?”

“Bộ Tư lệnh tiền phương, không tin chúng nó có pháo tối tân như vậy!”

Anh Năm vô Bunker một lát, thò đầu ra:

“Đù mẹ! Nó ở trên cao độ hơn mình nên pháo xuống. Phân tán mỏng ra nhanh! Đại úy là dân địa phương này, biết tỏ đường đi, nên rẽ đường mà phục chúng.”

Anh Năm lại thụt vô Bunker. Tôi thốc lính rãi dài ra, cố thoát hàng loạt đạn pháo rải xuống như mưa bùn.

Mà thực, bọn chúng được tiếp vận khí tài càng lúc càng nhiều. Pháo trên cao trút xuống mãi miết và dưới đỉnh 960, bọn chúng hầm hè bắt loa hô khẩu hiệu xung phong. Tôi bò, hai cùi chỏ đi như hai chân, hai chân lại thế đôi tay mà trườn, tay nâng súng ngang vai, cứ thế tôi bò gần đến Bunker Anh, thì nghe một tiếng nổ như vỡ tan không khí.

Thiếu úy M. la lên:

“Trời ơi! Anh Năm bị nguyên trái rồi.”

M. trườn lên, định nhào tới bunker, tôi kéo M. xuống, nhưng hắn giựt tay tôi ra. Chạy hơn chục bước, M. bị một loạt đạn cày từ dưới đất lên tới lưng. Thiếu úy M. ngã xuống, cái nón sắt lăn long lốc xuống trảng sâu bên dưới.

Thượng sĩ Quí nằm sau tôi thấy vậy, bật dậy. Tôi nắm tay ông, nói:

“Ông lên không được đâu!”

“Chẳng lẽ mình để Thiếu úy và anh Năm nằm lại nơi đây?”

Dứt lời ông thượng sỹ nhào lên. Khi ông vừa tới bên cái xác thiếu úy M., cũng một loạt đạn cày như vãi trấu trên thân thể ông. Xác ông nằm úp trên thân thể M.

Đêm lại buông xuống, cho ngày mai ngầy ngụa những thứ vũ khí giết người! Sự lập lại: Ngày và Đêm.

Đội kèn “âm binh” ở lưng chừng lũng thổi lên từng nhịp thôi thúc điên khùng. Những cái nón cối ló lên vành miệng đỉnh 960, như những hòn đá tảng, hằng hà, lớp lớp. Một biển người!

Trên cao, hai khu trục cơ ào xuống, rãi một loạt bom trên đầu những cái nón cối. Tiếng rên la, kêu thét hãi hùng, lẫn tiếng kèn thôi thúc như ma mị. Những cái nón cối, bây giờ biết đứng, chạy và la hét, đồng loạt xông lên.

Chúng tôi vừa ném lựu đạn, ở tầm gần sát thương nhất, vừa kéo đám lính còn lại mười mấy mạng, lùi xuống con dốc lài lài, bắt đầu rút để bảo toàn tính mạng con cái.

“Anh Năm! Em xin lỗi. Không lấy được xác Anh, suốt cuộc đời này, em …”. Tôi khóc.

2.

Ngày này, tháng này, chiều nào tôi cũng ra đứng trên mỏm 960 nhìn xuống lũng sâu. Đứng mà nhìn! Nhìn đứa con gái tôi, cúng vái tôi, rồi ngồi khóc một mình. Đứa con gái mà tôi yêu thương, khi tôi mất nó vừa gần bảy tuổi. Tôi cũng nhìn những người lạ hoắt, đến thắp dưới chân mộ tôi, mà ngạc nhiên rằng: sao họ lại cúng vái tôi, khi không một thân thích ruột rà?

Tôi biết, con gái tôi yếu đuối, cũng như những người đến cúng vái tôi, ngại leo lên một cao độ 960 mét, đỉnh cao của núi. Tôi muốn vươn tay ôm tất cả, nhưng tôi ngại họ sợ… một Bóng Ma!

Nhưng hôm nay, một linh tính báo cho tôi biết một điềm lành sẽ đến, sau khi đứa con gái tôi ra về. Chốc chốc, tôi đi ra đầu mỏm, nhìn xuống lũng nhiều lần và thấy đứa em thân thiết ngày nào đã về như mong đợi ba mươi tám năm!

Thằng thư sinh mặt trắng, đẹp trai nhất tiểu đoàn, khi trình diện tôi là một anh chàng sĩ quan vừa mới ra trường! Mấy ông sĩ quan cứ nói thế.

Người thanh tao, trán dựng đứng, là loại lỳ! Anh theo tôi nhiều năm, và tôi biết khả năng anh.

Vì thế, tôi không lạ khi anh trở về nơi chốn tôi nằm lại viên miễn.

Đốt điếu thuốc, tôi trãi những tấm “boncho” dưới lớp đất đá lạnh lẻo, quơ mớ củi khô làm mồi cho lửa, ngồi chờ.

Nhìn những tàn lửa vụt bay trên không gian mù sương đặc quánh như sửa, tôi nhớ đến Mẹ! Tôi có hai bà Mẹ! Hai bà đều sinh ra tôi dưới bầu trời khắc nghiệt này! Một Mẹ cho tôi bú mớm bằng những dòng sửa ngọt ngào hương vị lẫn đớn đau. Một hương vị để sống, để thành Người hoàn thiện và một hương vị cũng để sống và tàn hại nhân sinh! Bà mẹ thứ hai to tát hơn! Bà là gia tộc mẫu hệ nhuần nhuyễn! Tôi gọi bà nhuần nhuyễn, vì bởi, tôi thấy và biết bọn đàn ông, chỉ là kẻ thừa hành những dục vọng, ăn xài cho chính mình vì những thói đời cay nghiệt: chiến tranh, tư tưởng, và nhiều thứ để họ hưởng lạc an nhàn.

Vừa hút xong mấy điếu thuốc, tôi thấy An bước lên mép đỉnh 960.

“Anh chờ chú đã lâu!”

An bỏ ba-lô, hai tay nắm vai tôi:

“Em không ngờ, anh chờ em lâu đến thế!”

“Người chờ Ma, chứ làm sao Ma chờ Người!”

“Làm sao em chờ được?”

“Trong mộng mị những giấc mơ!”

“Cái anh này! Đến đã chết, mà không thể không đùa được!”

“Gặp tao, mày không sợ à?” – Tôi thân thiện.

“Sao vậy anh Năm?”

“Tao là Ma!”

“Em cũng là Ma!”

“Nói nghe nghịch nhĩ!”

“Anh Năm cứ tưởng, sống ở ngoại quốc, ai cũng hài lòng chính bản thân mình à?”

“Thì tao nghe đài báo, tụi nón cối năm nào, chúng nó bảo: Bọn ăn bơ thừa sửa cặn. Tao cứ tưởng y chang, vì nằm đây quá lâu!”

“Thằng “mặt trắng” mà Anh thích thú, đâu đến như vậy, anh Năm!”

“Thôi bỏ qua đi. Nói tao nghe, hồi tụi mày rút xuống lũng, rồi sao?”

“Băng rừng, lội suối cả tuần mới thoát vì chúng đeo riết quá, anh Năm!”

Mấy cành củi khô nổ lép bép, rồi phựt lên như một đóm sáng, hơi sương lóng lánh, mờ ảo, tạo nên một cầu vòng nhỏ trong đêm.

An lùi lại, phản xạ tự nhiên, kéo những tấm “boncho” đầy hơi sương, ụp xuống tàn lửa.

“An ơi! Sao mày làm vậy? Anh em chúng ta đó!”

“Trời ơi! Em quên ông Thầy. Cứ thấy lửa là lòng dạ em nó xốn sang. Cả quê hương này bị vây chụp từ lửa! Lửa từ Quảng Trị, lửa từ Huế, lửa từ Bình Long, lửa từ An Lộc, lửa từ Khe Sanh, lửa từ A Lưới, A Sao, lửa từ Komtum, lửa từ Sài Gòn và từ khắp mọi nơi trên cái đất nước nghiệt ngã thù hận này!”

An ôm mặt khóc như một đứa trẻ.

“Qua rồi một thời trai trẻ. Bình tỉnh chú An!”

An rũ rũ mấy tấm “boncho” trải ngay ngắn, cúi xuống vái ba lậy:

“Anh đáng chết. Mấy em bỏ quá cho! Anh quên, còn lại bao nhiêu anh em trên đỉnh đồi 960 này!”
“Thôi quên đi An ơi!”

“Anh Năm, cho em hỏi?”

“Ừa!”

“Hồi đó, ở cao độ lưng chừng này, mình thua là cái chắc, tại sao họ điều về một nơi mà họ biết là thua, mà vẫn đưa đến?”

“Ở đây, tao tự bắt cái đĩa định vị vệ tinh từ lâu, xem kênh truyền hình Mỹ, thấy phim “Hamburger Hill” đến phải mũi lòng, cho cái dân tộc giầu có, mà tâm địa xấu xa như loài cóc nhái. Hát đồng dao ban ngày, ban đêm hòa giải cùng lũ bành trướng đất đai phương Bắc ác độc.”

“Một thằng giàu vậy, mà hết thuốc chữa, anh Năm?”

“Đã từ lâu! Nếu không, tao không nằm ở cái đỉnh điểm 960 chết tiệt này, để được vinh danh: Anh không chết đâu Anh!”

“Lịch sử, phải là đau thương, đẫm máu, mới gọi là lịch sử! Không đau thương, đẫm máu, sao làm nên trang lịch sử? Anh Năm, phải có Nguyễn Đình Bảo là làm nên lịch sử?”

“Ơ! Thằng mắc dịch. Mày nói đó nghen An!”

“Hồi đó, anh thích ăn xôi nén với thịt gà kẹp lạp xưởng.”

“Nhớ dai dữ!”

“Anh kể mà! Vợ anh…”

Tôi đạp An ngã ngửa:

“Đừng nói vợ, con với tao. Thèm lắm… cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.”

Tôi đi đến đỉnh dốc, bốc con cu đái xuống đỉnh 960 chó chết này! Đỉnh dốc cao, dòng chảy của sông, lớn hơn lòng người? Sông cuồn cuộn chảy. Chảy vào đất đá, phù sa! Hoặc chảy vào đâu?

Chiến tranh chấm dứt, sông chảy vào lòng người!

“Một con cu, có thể thăm dò sự bần tiện, sung sướng, thỏa mãn đến kinh khiếp não lòng nhân sinh! Còn đâu là ý chí quật khởi?”

“Anh Năm! Nghe nặng nề quá. Nắm xôi, em gói gắm từ Sài Gòn cho Anh đây.”

Tôi chụp gói xôi Sài Gòn thân thương ba mươi tám năm chưa về, nhai ngấu nghiến. Như nhai kỷ niệm, nhai vợ con, nhai một thời sung túc, nhai cả quê hương bên bờ vực thẳm hiện thời. Tôi nói:

“Của cúng cho Ma, nó khác của đem đến tận tay cho Ma!”

“Anh Năm, mỗi thời mỗi khác!”

“Con gái tôi, cũng biết ý mẹ nó, hằng năm ngày này, nó đều cúng tôi những nắm xôi nén chặt, vo tròn. Ba năm đầu, vợ tôi nén những nắm xôi còn ngon lắm, như ngày xưa. Năm thứ tư, cũng là nắm xôi vo tròn, nhưng trộn nhiều hạt tròn vo, không thịt, cứng ngắt. Tôi tức giận ném những nắm xôi, nói: Thứ này chỉ có Khỉ nó mới ăn! Đây là thành quả của cách mạnh thành công!?”

Ăn hết những nắm xôi, tôi nói:

“Uống trà nhé?”

“Anh có trà, ở đâu vậy?”

“Khối! Có thằng này, chuyên gia về trà mà lị! À, mà chú có nhớ thằng Bắc?”

“Bắc nào?”

Tôi bắt loa tay:

“Bắc ơi!”

3.
Đang nướng mấy củ khoai mì ăn cầm hơi, tôi nghe tiếng gọi của lão Bảo.

“Mẹ kiếp! Đồi trọc 960 này trơ nắng, trơ sương tê tái. Cái đất này chỉ có khoai mì, khoai lang là mọc được, còn cứt gì mà ăn! Lão Bảo có thân nhân, bạn bè tứ xứ nhớ thương mà cúng vái, cũng có ăn thịt thà chút đỉnh! Chớ bọn tôi từ miền Bắc vào đây chết, ai biết mồ mả ở đâu mà cúng kiến.”

Tôi đánh Mỹ cứu nước từ lúc còn mặc quần xà lỏn, rồi đi B.

Mười bảy tuổi, tôi đôn lên đủ tuổi, trích huyết viết đơn tình nguyện ăn thề, để đi vào miền Nam, nơi đang bị gò xiết bởi Đế quốc Mỹ, Thiệu, Kỳ bán nước buôn dân.

Trước hôm ra đi, tôi muốn cảm nhận: Đàn ông là thế nào, khi sung sướng tột đỉnh bản chất làm người, khi vào vùng chết!?

Ra Khâm Thiên thử thời vận thì tôi sợ!

Mười bảy tuổi, thiếu ăn trăm bề, tôi như một đứa con nít.

“Trái chuối” của tôi cũng nhỏ lắm. Trong mộng mị, tôi tự lột “trái chuối” của mình và thấy đau xót xa. Sợi chỉ bị xé, vài giọt nước mắt rỉ xuống, đậm đặc màu sương sửa!

Lão Bảo, khi thân quen cùng nằm trên đỉnh 960, hỏi tôi:

“Chơi gái Hà Nội chưa?”

“Thoải mái, như… cà-rem phơi đầy đường!”

“Biết Ba vành không?”

“Ba Lẻ Bẩy Sư Đoàn, chứ Ba Vành gì ông”?

“Ba vành là ba tiến công thời ấy nhé! Huế một vành, Tây nguyên lại một vành, Miền Tây lại một vành!”
“Mà lại thua!”

“Thôi ông ơi! Vậy mà nói thoải mái…! Ba vành của bà Hồ Xuân Hương ấy.”


Tôi chống cây gậy tự tạo, kẹp ngang nách khật khưởng đi ra, cầm theo mấy củ khoai. Chỗ lão Bảo nằm, không cách xa chỗ tôi là mấy. Tôi vừa ngồi xuống, lão Bảo hỏi tôi:

“Ông Bắc còn nhớ ông An? Ổng từ Mỹ mới về.”

Tôi nhìn người đàn ông thấy quen quen, nhưng không nhớ nổi. Tôi lắc đầu.

An chợt reo lên:

“A. Tôi nhớ ra rồi! Đây là ông Thượng úy Bắc, thương binh, bị lựu đạn của tôi mất một cái “chân giò” được ông thiếu tá bác sĩ cứu thoát. Ủa, ông cũng nằm lại đây?”

Tôi nhìn An cám cảnh:

“Lúc mấy ông băng bó tôi xong, bỏ tôi nằm gần cái bunker ông trung tá Bảo này nè, tôi nằm mê man bất tỉnh. Lúc tỉnh dậy, biết mình đã là Ma. Mẹ kiếp! Đồng đội tôi, nó giết tôi chứ nào ai khác. Chúng nó từ đỉnh 1500 cứ dội pháo liên tục xuống, bất kể đồng chí, đồng đội chúng đang ở lưng chừng đỉnh 960 leo lên xung phong theo tiếng kèn như ma mị dìu dắt. Không một quân đội khốn nạn nào như quân đội nhân dân Việt Nam! Chúng coi mạng sống đồng đội như con kiến, củ khoai. Không như phía các ông. Thằng Việt cộng thương binh là tôi, xâm lăng miền Nam các ông, mà các ông vẫn nhân đạo băng bó vết thương tôi, ủy lạo tôi, thì điều tôi thấy phi lí nhất là mình đã đâm đầu vào cuộc chiến khốn nạn nhồi da, xáo thịt này.”

Bảo đùa:

“Giờ ông mới biết?”

Tôi cười buồn:

“Khi biết, thì phải trả cái giá làm thằng Ma xó vất vưỡng núi rừng Tây nguyên, thân nhân không ai biết, mà cúng kiến ăn cho no đủ như ông Bảo này! Một cuộc chiến ngu xuẩn. Khi thống nhất đất nước, mình mới nhìn ra, mình đi chết cho những thằng buôn dân, bán nước của hệ thống Đỏ khốn nạn từ đẩu đâu. ”

Tôi lấy cái ca sắt nhà binh Mỹ đeo trên vai, đổ bi đông nước vào và vùi nó vào ngọn lửa đang nung chảy đỏ rực trên quê hương khốn khổ này, nhón vào đó một nhúm trà trên đất Bắc luôn mang theo bên mình, từ ngày lìa bỏ quê hương, làm Ma đất người.

Bảo buồn buồn nói:

“Chúng ta đã chiến đấu cho dân tộc này, với cái nhìn từ hai phía của những công dân yêu nước. Dù đúng dù sai, tất cả cũng đã muộn màng. Bọn chúng đang cày nát Tây nguyên và bán đất nước này cho ngoại bang phương Bắc. Vòng quay lịch sử Lê Chiêu Thống đang quay lại trên cái đất nước này. Một con đàn bà đã viết (đại khái): Đất nước Việt này là con, là cháu của Rợ phương Bắc! Lịch sử đã và đang sắp làm điều đó!”


Lửa vẫn cháy. Vẫn cháy muôn đời trên cái đất khốn khổ ngàn năm văn hiến.

Lửa vẫn cháy.

Đêm vẫn hỗn mang đời đời.

***

Chiêu ngụm trà, chúng tôi -những người con của Tổ quốc- ghi lại quá khứ hỗn mang.

Canada, 07-01/05/2010
Vũ Đình Kh.

Posted by: caoduy Aug 11 2010, 07:10 AM




Chuyện nhớ trong đời



-Viết để nhớ những ngày trên lộ 7B…
( Con đường di tản quá dài, đầu đã tới sông Ba khúc đưôi còn tại Pleiku, tôi may mắn đi trong khoảng đường tương đối ít gian nguy…)


Đầu năm 75, trung đoàn 45 thuộc sư đoàn 23 bộ binh được lệnh rời Hàm Rồng về lại Ban Mê Thuộc. Đại đội 201 CTCT đang tăng phái cho trung đoàn đóng tại Hội Quán Tây Nguyên cũng được lệnh lên đường tăng phái cho bộ chỉ huy Biệt Động Quân vùng 2 đang trú đóng tại B15, thuộc tỉnh Kontum, đơn vị tăng phái được chỉ định đóng quân tại kho gạo của tỉnh… Thế là anh em từ giã Hàm Rồng, từ giã các buôn làng thân quen vẫn thường ngày đến làm công tác dân sự vụ tâm lý chiến như làng La Sơn, Plei ô Ngo…tại Kon Tum đơn vị vẫn công tác như thường lệ đến các buôn làng thuộc quận Đắc Tô mới, làng Pa-ra-đi…để khám bệnh phát thuốc, hớt tóc … cho dân làng . Sáng đầu năm âm lịch cả đại đội tăng phái đều có mặt tại sân cờ bộ chỉ huy BĐQ để tham dự lễ thượng kỳ đầu năm. Đại Tá Tất chỉ huy trưởng đến tận hàng quân bắt tay từng sĩ quan tăng phái…

Ngày 13-3-75, Anh Cải, đại đội trưởng lên bộ chỉ huy họp về cho biết là bộ chỉ huy BĐQ đã rời Kon Tum… Thế là anh em trong đơn vị tự động thu xếp gọn ghẻ chờ lệnh về Pheiku.. Tôi ngồi ghế trưởng xa trên chiếc Dodge có tất cả 13 người, xe lăn bánh lúc 13 giờ ngày 13-3-75…tôi cũng thấy hồi họp vì con số 13 nầy, đoàn xe gồm 5 chiếc, 4 dodge, một jeep chậm chậm rời kho gạo hướng về cầu Đakpla…. Mấy chiếc loa phóng thanh của ty dân vận chiều hồi liên tục đọc đi đọc lại thông cáo của Đại Tá Hùng, tỉnh trưởng Kontum… Nội dung thông cáo là kể từ giờ phút nầy cấm tất cả các quân nhân ra khỏi tỉnh…

KonTum vẫn rất yên lặng, không nghe một tiếng súng nổ, là đơn vị tăng phái nên quân cảnh gác cầu, chốt đường ra tỉnh không xét hỏi…. Con đường KonTum- Pleiku tuy xuyên núi nhưng tráng nhựa rất phẳng phiu… tuy nhiên khi xe gần tới Chư Pao anh em cũng cảm thấy hồi họp, ghìm tay súng sẳn sàng trong tư thế phản phục kích…Bởi ‘Một chiếc khăn tang một tấc đường” ( Quên tác giả) là đây. Rồi đoàn xe cũng bình an về tới hậu cứ đóng trong quân đoàn 2.

Pleiku lúc nầy thường xuyên bị pháo kích, phi trường Cù Hanh ăn đạn liên tục… Đêm 17 tháng 3 đặc công đánh vào quân đoàn nhưng chẳng gây thiệt hại gì đáng kể vì vị trí quân đoàn trên cao, lực lượng phòng thủ tinh nhuệ có M48 yễm trợ, thà đánh nhau ngoài mặt trận còn thấy dễ chịu hơn là ngồi chờ pháo…Đơn vị về đây chỉ tạm thời trực ứng chiến chờ lệnh. Là đơn vị CTCT trừ bị cho quân đoàn II, chúng tôi thường phải rày đây mai đó tăng phái cho các lực lượng trừ bị, hay các sư đoàn, tiểu khu thuộc quân đoàn 2, trung đội di chuyển bằng một chiếc xe dodge có cửa, kéo theo một cái rờ mọt. Trên xe chất chứa đủ vật dụng sinh họat thường ngày…nồi niêu soon chảo, gạo, mắm, muối, dầu lửa, bếp dầu…, nên việc ra đi trong cuộc di tản nầy trung đội chúng tôi không lấy gì làm bở ngở, không phải chịu cảnh thiếu ăn thiếu uống như nhiều đơn vị khác. Tôi nhớ hoài buổi sáng hôm ấy khi hay tin quân đoàn đã rút đi nhiều đơn vị… Ông Tiểu đoàn trưởng xuất thân khóa 14 VB, ra phi trường về Sài Gòn còn không quên phone về đơn vị ra lệnh cho Tiểu Đoàn Phó trông coi việc ứng chiến của đơn vị vì ông đang… bận họp ở quân đoàn, mạng sống ai không quý, ông tiếc mạng của ông mà bỏ cả đàn em bơ vơ, về Sài Gòn ấm cúng bên vợ con..quân mà thiếu cấp chỉ huy..??Ông tiểu đoàn phó mới từ Sài Gòn đổi ra chưa tới 3 tháng nên rất khó thích ứng với tình hình, bởi không dám quyết định vì cứ ngỡ xếp đi họp ở quân đoàn. Lúc bấy giờ quân đoàn chỉ còn lại tiểu đoàn 20 CTCT, cạnh bên là Truyền tin, thiết giáp… còn lại các ban phòng đều vắng lặng như tờ. Bởi không có lệnh nên đêm đó quân nhân các cấp trong doanh trại tiểu đoàn đều ra sân nằm cạnh giao thông hào dù không có lệnh, có lẽ vì sợ ngủ trong phòng sẽ ngủ quên khi đơn vị di chuyển bất thình lình, nằm ngoài sân, nhìn trăng sao với giấc ngủ chập chờn trong lo sợ…một đêm yên lành trôi qua… Sau khi hội ý với một số sĩ quan, Tiểu đoàn phó ra lệnh phá kho lương thực, nhờ vậy mà anh em có thêm được một số khẩu phần lương khô lọai C của Mỹ, không tiên liệu được đoạn đường sẽ đi qua nên bỏ lại gạo rất nhiều… Đoàn xe của tiểu đoàn( Gồm bộ chỉ huy, đại đội hành chánh và đại đội 201) trên mười chiếc, xe jeep tiểu đoàn phó dẫn đầu, đến xe các ban và nhóm xe đại đội 201 bọc hậu, cũng nón sắt, súng đạn cầm tay, đoàn xe chầm chậm tiến ra cổng…Điếm canh vẫn còn lính gác. Sáng hôm đó trời có chút sương, chút gió nhẹ lành lạnh trong cảnh trống vắng của quân đoàn,mấy chiếc M48 vẫn yên vị nơi cổng chính , binh sĩ gác cổng vẫn giữ đúng tư thế, nhưng cảnh vật hình như mất vẽ sinh động, tạo cho anh em một không khí khá căng thẳng. Vẫn không biết đi về đâu, đi ngả nào,xe ngang qua trường Trung Học Pleime, phía sau là trại gia bình của tiểu đoàn, tôi ở trọ trong nhà của trung sĩ Hiếu nằm trong trại gia binh nầy, xe chầm chậm ngang qua mà không dám ngừng lại vào nhà lấy thêm hành trang, vì sợ trể lạc đơn vị, đoàn xe tạm dừng trên con đường có dinh ông tướng… Anh em xuống xe đứng trên lề, dưới tàn những cây thông già cỗi, nhìn trên đường người qua lại tấp nập vội vàng dù trời còn lờ mờ tối…Tôi nhìn thấy một anh trung sĩ BĐQ tay cầm chai rượu Martin đi về hướng tôi, anh nhìn tôi cười cười:

- Trung úy uống 1 nắp cho ấm lòng, rượu nầy lấy ở nhà ông tướng…

Tôi cầm chai rót uống liền 2 nắp rượu đầy… thấy ấm lòng .Tuy có hơi lo lắng, vậy là ông tướng đã đi rồi. Tôi cũng mới từ tiểu đòan 50 CTCT thuyên chuyển ra đây gần 4 tháng nên cũng không rõ là dinh của ông tướng nào, có lẽ là dinh của Tư lệnh vùng. Xe cộ vẫn tiếp tục xuôi hướng Hàm Rồng, xe quân đội ngoài quân nhân còn có thêm gia đình binh sĩ, thùng rương chất đầy ắp.

Trời sáng tỏ, anh em trong đơn vị hầu hết đều chưa ăn sáng, tôi thấy một vài anh em lấy phần gạo sấy ngâm nước. Đại Úy Thiện( khóa 18 TĐ, (đã có nghị định thăng cấp thiếu tá nhưng chưa làm lễ gắn lon tân thăng) nhìn thấy một đoàn xe jeep quân cảnh chạy ngang, ông ra hiệu cho anh em lên xe nối đuôi đoàn xe quân cảnh, ngang qua rạp hát Diệp Kính quẹo trái về hướng Hàm Rồng. Với 2 bông mai trên ve áo, tôi không biết một chút gì về lộ trình sẽ đi, chiếc trước chạy, chiếc sau chạy theo, tạo thành một đoàn xe rồng rắn không biết dài tới bao nhiêu cây số, khi bắt đầu nhìn thấy núi Hàm Rồng, tôi thấy đoàn xe rẽ mặt leo lên bờ lề, chạy băng đồng hình như đang chạy dưới chân một ngọn đồi thấp, bên đường có vài chiếc xe quân đội chết máy nằm rải rác, xe bắt đầu vào con lộ đá có dấu vết tráng nhựa loang lỡ, nhưng tương đối dễ chạy hơn lúc băng đồng. Tài xế chiếc dodge là hạ sĩ Đặng Giác, cũng trạc tuổi tôi, sức vóc khỏe mạnh có gia đình nhà cửa ở KonTum, rất vững vàng ôm tay lái, tới thung lủng Hồng, một tấm bảng gắn trên hai trụ có khắc rõ chữ Valey Rose, một vài chiếc GMC bị lật, xác binh sĩ chết nằm rải rác khoảng trên 10 người… Đòan xe vẫn chạy với tốc độ chậm, bụi cát mịt trời, tuyệt không nghe tiếng súng, rải rác nhà dân bên đường, người lớn trẻ em ra sân nhìn đoàn xe chạy, mấy em trong xe tôi gốc miền Nam cười vui như những lần được về phép, Trung sĩ Bùi Ngọc Mỹ thằng em vẫn ăn cơm chung với tôi, với tay chuyển cho tôi một bịt cơm sấy với lon thịt ba lát khui sẳn, tôi không thấy đói nhưng vẫn phải ráng ăn, bởi tôi linh cảm con đường đi sẽ còn nhiều bất trắc lắm…Lòng tôi cũng có chút vui khi được về Nam nhưng cũng ngổn ngang trăm mối, tại sao cả quân đoàn phải bỏ đi trong lúc chưa thấy bóng dáng một tên lính sinh Bắc tử Nam nào, tại sao ra đi mà không có lệnh lạc gì cả, lộ trình để đi cũng hoàn toàn không biết, rồi tin chiến sự từ đài V.O.A, BBC, áp lực Cộng quân nặng nề trên nhiều mặt trận, Đài Quân Đội, đài Sài Gòn vẫn phát thanh những bản tình ca, vẫn ngọt ngào tình em hậu phương với người trai tiền tuyến… Đầu óc tôi rối mù… Thôi thì, mệnh số do trời..Bài học Hán văn thầy Bùi Cận dạy tôi học năm đệ ngũ tôi vẫn còn nhớ….Nhất trác, nhất ẩm, giai do tiền định… hơi đâu mà lo…Với máy C25 bên cạnh tôi mở máy liên tục liên lạc với các bạn cùng chung đơn vị: Thái tăng An, Như ,Chấn,Nguyễn Hữu Cải …

Đến Phú Bổn, trời xế chiều, xe cộ tràn lan, đoàn xe đơn vị tôi dừng sát bên lề đường, tất cả xuống xe ngơ ngác nhìn chung quanh. Đã thấy hầu hết các sắc lính tại quân đoàn… Người ta dừng, mình dừng lại chẳng lệnh lạc gì cả, trời chiều xuống dần, dù cuối tháng ba nhưng sương trời và gió tạo một cảm giác lành lạnh… Tôi thấy có một toán quân nhân , có máy truyền tin đi bộ quanh các con đường… Thì ra là toán lính địa phương, Trung Tá Lò văn Bảo, tình trưởng và một số sĩ quan, tôi còn nhớ Trung tá Bảo dáng cao ráo, to con, gương mặt hiền từ chậm rải nói với anh em di tản:

-Các anh em yên tâm tìm chỗ ngủ , tôi đã cho hai đại đội địa phương quân giữ an ninh…

Tôi nghe lệnh mà trong lòng thấy không an, quân đoàn tự dưng bỏ chạy …hai đại đội mà nhầm nhò gì… thôi thì ai sao mình vậy …giày dép còn có số mà…

Tôi cùng họa sĩ Thái Tăng An ( Mỹ Thuật Huế) Bạn cùng khóa, khoát thêm áo jacket, hút thuốc vặt nhìn thiên hạ. Anh Nguyễn Hữu Cải ( Đại đội trưởng, chết trong tù CS) họp anh em sĩ quan bên vệ đường, anh có được 1 mẫu bản đồ tiện tay xé được trong phòng tiểu đoàn trưởng trước lúc ra đi, Anh chỉ sơ qua về lộ trình sẽ đi…theo như dự đoán của anh… Tôi chẳng buồn quan tâm. Người ta đi đâu mình theo đó, súng bắn trúng ai người đó chết hơi đâu mà lo cho mệt…. Trời tối hẳn, anh em đã cơm nước xong xuôi, Trung đội Chính Huấn của Trung úy Như ( khóa 1/69) bắt đầu làm việc, chạy chung đơn vị có vợ chồng ca sĩ Xuân An của sư đoàn 23 tháp tùng theo. Anh em xếp thành vòng tròn, sẵn khẩu phần C với cà phê thuốc lá Mỹ…Tiếng đàn dạo lên, Xuân An cất giọng, đây là giọng ca xuất sắc nhất của quân đoàn 2 lúc bấy giờ…. Giọng ca ngọt ngào, lời ca phù họp với bối cảnh đã thu hút khá đông anh em đơn vị bạn đến nghe… Thái Tăng An và tôi nằm trên bờ đê cỏ:

- Ê chạy giặc mà giống đi picnic quá mậy.

Tôi cười đồng ý. Nằm nhìn sao trời, hút thuốc Lucky, uống cà phê nóng nghe nhạc sống … còn thua ai nữa. Người xe tuy đông, tuy ô họp mà đêm yên lặng lắm… Gịong ca của Anh Xuân An cao vút réo rắt lòng người…”Bỏ làng ra đi mang theo tiếng nói con tim…”… Tuyệt nhiên không nghe một tiếng súng, thỉnh thoảng trên bầu trời có lóe sáng lên, một vài trái hỏa châu hình như từ chi khu bắn lên, các cô bé chính huấn của đại đội như Mỹ Chi, Phương Hòa…cũng lần lượt góp tiếng hát ngọt ngào, trời đầy sương, ngập ngụa không khí núi rừng, những giọng ca ngân vang xa thu hút khán giả càng lúc càng đông, Tan buổi nhạc bất đắc dĩ, giấc ngủ chập chờn đến với mọi người, ngày mai rồi sẽ tới đâu???

Trời chưa sáng mà mọi người cùng thức dậy, nước rửa mặt rất khó tìm, một số quân nhân thuộc một vài ngành tự động tháo bỏ phù hiệu như CSQG, ANQĐ, QC…, tiếng máy xe bắt đầu nổ, âm thanh thật ồn ào, khói xe bay mù mịt, một số xe từ từ lăn bánh về hướng quận Phú Túc, tiểu đoàn tôi cũng bắt đầu lên đường, còn giữ được đội hình lúc đi, nhiều chiếc xe jeep của đơn vị bạn bị bỏ lại vì bị bề kết nước, bởi đoàn xe chạy, ngừng bất thường, thắng không kịp là ủi đít .Nắng dần lên, sương tan và trời bắt đầu nóng, khói xe và âm thanh động cơ, tiếng gọi nhau trong ánh nắng chói chang làm cho con người rất dễ mệt, Nhưng trong bước đường sinh tử mọi người đều cố gắng. Cho tới quá trưa đoàn xe tràn ngập quận Phú Túc, hàng ngũ rối loạn không còn thấy lối đi . Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Trong đoàn quân chẳng có một sĩ quan nào biết được lộ trình cuộc di tản nầy, tôi thấy có vài sĩ quan mang cấp trung tá, dân theo lính cũng rất đông hầu như là nửa dân nửa lính, thương cho dân bám theo lính mà lính nào có được lệnh lạc gì đâu. Một chiếc trực thăng đáp xuống một khoảng đất trống nhỏ vào lúc giữa trưa. Tôi đứng cách xa trực thăng nhưng cũng nghe được tiếng anh em bàn tán

- Tướng Cẩm tới thị sát có mang theo hai hạ sĩ quan quân cảnh với mục đích giải tỏa lộ trình bị nghẻn. Tướng Cẩm hỏi xem ai là người có cấp bậc cao nhất ở đây.Tôi thấy có một vị trung tá lên tiếng. Tôi không nghe rõ được lời đối đáp nhưng cũng được thuật lại đại ý

- Anh Trung Tá mà không chỉ huy được đoàn quân nầy

- Tôi không có khả năng, Thiếu tướng xuống chỉ huy đi.

Trực thăng mang tướng Cẩm bay đi, với rất nhiều cặp mắt ngơ ngác nhìn theo. Tội nghiệp hai anh quân cảnh xé vội phù hiệu rồi lẫn vào trong đám loạn quân….

Rồi đoàn xe cũng bắt đầu di chuyển, đoàn xe quá dài nên người ở khúc nào chỉ biết chuyện ở khúc đó. Tiểu đoàn tôi có lẽ đi vào khúc giữa. Đường bắt đầu xấu dần. xe chạy với tốc độ thật chậm, chiếc nầy ủi đít chiếc kia là sự thường. Một vài xe chết máy vì hết xăng, rất nhiều xe jeep chết máy bị đẩy vào bìa rừng… Số lượng người mất xe càng đông, xe nào còn trống có người quen thì được cho lên, đa số ôm súng mang ba lô đi lếch thếch lẫn lộn với đám dân, giữa cái nắng tháng ba của vùng cao nguyên, hành trang và nắng gió làm cho người mau mệt, khi đã mệt rất dễ sinh quạu quọ. Xe qua những đám rừng thưa, lửa than đốt rừng còn cháy đỏ, Biệt Động Quân biên phòng trong tư thế tác chiến đứng thành hàng hai bên đường bảo vệ cho đoàn quân di tản. Tôi nhìn thấy nhiều em binh sĩ Biệt Động Quân còn quá trẻ, súng cầm tay với lưởi lê tuốt trần hướng mắt nhìn về hướng rừng, quên đi sinh mệnh của mình để giữ an toàn cho đoàn người di tản. Tôi đi chưa biết rồi sẽ tới đâu, riêng các em còn đứng đó không biết đến bao giờ, sự sống còn của anh em lấy gì bảo đãm, lòng tôi rất cảm kích trước những con người biết tuân thủ kỷ luật quân đội. Cũng tại quận nầy, Anh Cải ra lệnh xe nào giữ hồn nấy cố gắng về tới nơi an toàn. Tôi ngơ ngác, nơi nào là nơi an toàn đây.??

Một vài người hiểu rõ lối đi cho biết đoàn di tản đang tiến lần tới quận lỵ Củng Sơn thuộc tỉnh Tuy Hòa, người đi bộ vẫn bước nhanh hơn xe đang chạy, trung sĩ Mỹ chỉ tôi

- Ông xem kìa, Ông thiếu tá đang ăn trái bầu sống…

Tôi nhìn theo tay chỉ của Mỹ, mắt tôi nhìn thấy một quân nhân không rõ binh chủng vì người đang mặc áo khoác, tay cầm trái bầu loại bầu có eo cổ giống như trong hình vẽ bầu cua cá cọp, ông bẻ ra từng miếng cạp ăn ngon lành. Đa số người di tản đến ngày thứ ba đã bắt đầu hết lương thực, vì cuộc di tản xãy ra quá vội vàng không ai kịp chuẩn bị, riêng đơn vị tôi vì thường xuyên đi công tác dân sự vụ nên lúc nào trên xe cũng tạm đầy đủ gạo thóc mắm muối…, Nắng bắt đầu ngã chiều mà đoàn xe vẫn đi chưa tới đâu, tôi mở tầng số máy C25,tôi rà đai bất cứ tầng số nào, có lúc liên lạc được với dân con gà( Sư đoàn 23) còn ở Phú Túc, có lúc liên lạc được với toán đã tới phi trường Củng Sơn, xe vẫn chậm rì lăn bánh, toán công binh chiến đấu của quân đoàn vẫn cưa cây, mở đường, mấy chú lính trong toán nấu nước ngâm gạo sấy, tôi ngồi trên nóc xe chân thòng trên nắp đầu xe, vừa ăn cơm gạo sấy với thịt ba lát với chút muối tiêu vừa nhìn trời đang bảng lảng hoàng hôn, chút hơi lạnh của núi rừng phần nào xoa bớt cơn mệt mỏi, trời tối nhanh, muỗi rừng được dịp tunh hoành chit cắn, tiếng ồn ào dịu dần theo với bóng đêm tràn về… Xe tôi cũng vào tới phi trường Củng Sơn. Phi trường khá rộng, phi đạo lót vĩ sắt, tôi chỉ chỗ cho tài xế lái vào một khoảng đất trống, đầu xe hướng về cổng phi trường, khoát lên người chiếc áo jacket, quấn lên cổ chiếc khăn, kéo mủ lưởi trai sụp xuống, tôi vẫn còn thấy lạnh, muỗi bớt cắn vì phần thịt da ít lộ ra ngoài, sương xuống mịt mờ chẳng mấy chốc mà người tôi đã thấy ướt nước, Tôi nằm trên đầu xe tay kẹp cây M16 sát người, thằng Mỹ đệ tử nằm kế bên cũng khư khư ôm cây AR15, trong thùng xe là đàn bà con nít ngủ ngồi, chú tài xế và anh toán phó trong cabin xe, còn lại rải rác trải poncho nằm cạnh xe. Sương nhiều quá không nhìn thấy sao trời, tôi nằm dù thật mệt mỏi nhưng dễ gì dỗ giấc ngủ, bây giờ mới hết tháng giêng âm lịch, mà tháng giêng là tháng ăn chơi, hiện tại tôi cũng ăn và đi lang thang, không chơi là gì…Tôi nhớ Sài Gòn vô cùng, tôi nhớ giảng đường 2, giảng đường 4, tôi nhớ mấy cây phượng bên hông trường, tôi nhớ tới mấy nhỏ bạn thân từ năm nhiệm ý,tôi trở lại giảng đường sau gần 4 tuổi lính, nhỏ Ngọc, nhò Sang, Thơ, Hoàng Cúc,Dung Bải Xàu, Ngọc Hà Gò Vấp, nhỏ mắt nâu , con nhỏ mà khi đi chung có dịp gặp người quen tôi vẫn thường giới thiệu là vị hôn thê, mới hôm Noel, tôi về phép kẹt phi vụ ở lại Sài Gòn cả tháng trời, Tôi ngoan ngoản như con mèo con trở lại lớp Việt Hán, lớp văn Minh Việt Nam, chăm chỉ hơn cả sinh viên thuần túy, tạm quên đi Phước Long đã vào tay Cộng Sản… Thanh An đang ăn đạn pháo tơi bời… Con bé đêm nay ngồi học bài không biết có nhớ đến tôi không, bé có hay biết gì về quân đoàn đang tháo chạy mà sĩ quan cấp úy như anh không biết một chút gì về lý do di tản cũng như lộ trình di tản…Bên tai tôi tiếng ngái đều đều của thằng Mỹ…, tôi nhớ.tôi chỡ bé vào quán biên thùy, dĩa tôm càng nướng, rau sống bánh hỏi, 33 khui rót vào ly nước vàng sóng sánh, tôi lột vỏ tôm gắp bỏ vào chén em không quên sớt tương xay vào một dĩa nhỏ…Tôi thiếp đi lúc nào không biết…

- Dậy Trung úy có xe chạy rồi. Tiếng hạ sĩ Giác tài xế …

Thì ra tôi chưa tròn được giấc mơ tại Phi trường Củng Sơn. Tôi bật dậy gon gàng, khóa an toản súng, móc túi lấy thuốc châm lửa

- Thủng thằng chờ xe đi kha khá rồi mình hãy chạy theo. Anh em lo ăn sáng cho chắc bụng, mấy ngày nay yên tình còn hôm nay chưa biết ra sao, nghe nói rời Củng Sơn là bắt đầu rời cao nguyên về đồng bằng, mình sẽ di chuyển đến Sông Ba rồi vào Tuy Hòa.

Tôi nói sơ về lộ trình rồi tạm làm vệ sinh buổi sáng bằng chút nước trong bi don, rất nhiều chú lính cũng như dân làm chuyện đệ tứ khoái ngay bên đít xe…cũng may ăn ít và không có rau rát nên đa số đều bị bón nếu không thì mùi xú uế chịu sao cho thấu…

Đoạn đường bắt đầu rời quận Củng Sơn thật là gay go, vì có nhiều suối và công binh phải phá rừng mới có lối cho xe chạy, có con dốc 45 độ khoảng 30 thước, cuối dốc phải quẹo thẳng góc không thì xuống suối, thình thoảng một vài trái đạn 60 ly rớt ven rừng, có lẽ đề lô giặc chưa điều chỉnh kịp tọa độ…Tin giây thép lạc dừa cho biết là sư đoàn Thép và Sao Vàng ngỡ quân đoàn rút về Quy Nhơn nên đã dàn quân phục kích trên quốc lộ 20, nay biết hướng di tản đã bắt đầu đuổi theo…Theo thì theo vì có muốn chạy mau cũng không thực hiện được.Cũng tin cho biết là sở kỷ thuật vùng 2 hợp với công binh chiến đấu mở đường dưới sự chỉ huy tổng quát của chuẩn tướng Tất tư lệnh Biệt Động Quân vùng 2 vừa tân thăng…Cả giờ chưa di chuyển được trăm thước, cát bụi theo gió bám đầy người …”Nếu chẳng quen nhau lung, đố nhìn ra được”, tôi mỉm cười khi nhìn thấy mặt đầy bụi của anh em mà nhớ thơ của Phan Khôi. Trời tối mịt xe tôi vẫn chưa thấy được bờ sông Ba… Xe tạm dừng trong ánh sáng le lói của từng bếp củi tạm nấu cơm bên đường, thực đơn của toán vẫn u như kỳ, gao sấy thịt ba lát muối tiêu….Trời lạnh, cơm nguội lạnh nuốt muốn ngay cổ….Đọan đường còn dài còn lắm gian nan, phải cố ăn mới có sức mà đi, bìa rừng có vài con suối có nước nên việc “nước’ tạm thời thong thả, rửa mặt rửa soon nồi thoải mái, tôi với Thái tăng An rủ nhau ra suối tắm, khoảng suối nhỏ nhưng nước trong uốn khúc bên gốc cây cổ thụ, cũng có khá đông người đang tắm… đang kỳ cọ tai bỗng nghe tiếng cười nho nhỏ…âm thanh con gái… thì ra bên kia thân cây có 3,4 cô bé có lẽ là học sinh Trường Trung Học Pleime đang tắm, dưới ánh trăng tôi nhìn thấy rõ đường nét thiên nhiên qua áo vải ướt bó sát lấy người. Tuổi trẻ ai mà thấy cảnh nầy mà không say đắm nhìn…!!

- Ê An, về Sài Gòn mày phải vẽ lại cảnh nầy nha An…Tao đặt tên tranh là “Thiếu nữ tắm trăng”.

Về lại chỗ nằm,mở đài BBC, phóng viên của đài tường thuật cảnh di tản y hệt như những gì mắt tôi đã thấy, tai tôi đã nghe, tôi có cảm tưởng cha nội phóng viên nầy đang đứng lãng vãng gần tồi, tôi còn nhớ một câu trong bài bình luận: cả quân đoàn di tản trong tình trạng bi đát tuyệt vọng như vậy mà Sài Gòn hình như không muốn biết tới….Từ những bản tin nầy anh em trong đoàn di tản tinh thần có xuống vì không còn niềm tin ở Sài Gòn tìm cách mở đường tiếp viện… Thôi thì thân ai nấy lo. Hầu hết các đơn vị đều phân tán không còn hệ thống chỉ huy nữa… Đơn vị tôi đã được lệnh tan hàng từ Phú Túc, toán nào tự lo cho toán đó, thực ra sống chết do trời, không có Đà lạt, Thủ Đức hay Đồng Đế gì cả …Có Tề Thiên Đại Thánh xuất hiện chưa chắc đã chỉ huy nỗi đoàn quân nầy…Dưới mắt tôi anh em quân nhân vẫn còn giữ được tác phong kỷ luật dù đang ở trong một thế cờ hết sức bi thảm.

Tôi nhìn Trung Tá chỉ huy trưởng trường thiếu sinh quân vùng 2 đang dẫn đoàn quân nhi đồng di tản, đồng phục nghiêm chình di chuyển theo hàng dọc, các em với nét mặt thật bình thản, vững vàng bước trên lộ trình đầy chông gai…. Không biết các em đã đi bộ như thế từ bao giờ….Vị Trung tá quân phục còn tươm tất, thắc lưng mang súng colt, tay cầm gậy bước đi thoăn thoắt dù tuổi cũng đã khá cao…Lòng tôi hết sức ngưỡng mộ, tôi chỉ cho mấy em trong toán tôi nhìn, hành trang của các em TSQ trông nhẹ nhàng, chỉ một ba lô trên lưng cũng không lấy gì nặng lắm, vũ khí thì em có em không…Các em không nói cũng không cười. Đoàn xe ùn tắc trên khoảng nầy mất mấy ngày, cứ mỗi lần bị pháo, đoàn xe lại rối lọan lên, mạnh xe nào nấy lũi vô rừng, cơm nước đang nấu dỡ dang ngã đổ tùm lum, trẻ con lạc cha mẹ khóc vang rân, tôi và thằng Mỹ ẵm từng em bỏ lên xe chờ yên pháo tìm cha mẹ chúng trả lại, bây giờ tiểu đoàn chỉ còn xe tôi lạc trong đoàn xe bạn, những xe chung đơn vị sau nhiều lần bị pháo đã thất tán…Ban ngày trời nắng, tôi với thằng Mỹ cầm súng vào trú nắng trong rừng, hoa bằng lăng trổ tím rất đẹp mắt, tụ năm tụ ba trên bờ suối nhiều thiếu nữ rất trẻ da rám nắng như mới từ biển Vũng Tàu về.

Một hôm tôi và Mỹ đang lang thang trong rừng, tôi nhìn thấy hai quân nhân đang gối đầu trên rễ cây ngủ say sưa, lại gần mới biết là Thái tăng An, và nhà thơ Kim Tuấn, với bản nhạc nỗi tiếng “Từng bước chân âm thầm”, tôi dùng mũi giày lay An dậy

- Ê, sao lại ngủ bờ ngủ bụi vậy...

Thằng An ngáp dài…:

- Đói cả ngày nay mà lười quá ngủ cho đã có chết cũng no con mắt.

Thằng Mỹ nhìn 2 ông lười, nó chạy về xe lấy cơm sấy. Hai ông lười ăn xong tỉnh táo xin thuốc hút. Tôi cười cười nhìn Kim Tuấn:

- Chạy giặc phải chạy cho lẹ chứ …Từng bước từng bước thầm hoài thì làm sao tới bến được.

Rồi đoàn xe lết từng tấc cũng tới dược bờ sông Ba. Buổi sáng đầu tiên trên bờ sông Ba, sương mù dày đặc, mọi người lùm xùm trong áo jacket, có người khoát thêm poncho, có người chơi luôn cái mềm cho đủ ấm, ngồi chùm nhum trên từng xe hút thuốc…mắt mơ màng phần mệt mỏi phần lo lắng, muỗi cắn, sương lạnh, vắt đeo….Đường còn xa mà trước mặt sông lớn chắn ngang , ơi Sài Gòn, Sài Gòn đẹp lắm Sài Gòn ơi, con đường Cường Để, dốc cầu chữ Y, ngả tư Bình Hòa…liệu tôi có còn thấy lại hay không …?!

Bài học chiến thuật của trường bộ binh Thủ Đức, bài cuối cùng tôi còn nhớ rất rõ: Lui Binh Cấp Tiểu Đoàn, thực tế tôi chưa từng tham dự cuộc lui binh cấp tiểu đoàn nào mà nay lại nằm trong trận lui binh tới cấp quân đoàn, sĩ quan cấp úy như tôi đành chịu phó mặc mạng sống do trời…

Mặt trời lên, sương tan, cảnh vật trông rõ, công binh phát quang khoảng trống canh bờ sông, bên trái là cánh rừng thưa, qua bên kia bờ sông đi thêm trên cây số rừng thưa là tới đập Đồng Cam, đi dọc theo con lộ 7B nầy một bên là đập nước, tới một cánh đồng, xa phía trong là rừng, bên trái là triền đất kéo dài khoảng cây số tới rừng và những ngọn đồi, ngày xưa Đại Hàn xây nhiểu lô cốt trên những ngọn đồi nầy, con lộ nầy bỏ hoang từ ngày Mỹ rút, Một anh trung sĩ thuộc chi khu Củng Sơn nói sơ cho tôi biết về lộ trình phía trước…

Tôi lần mò tầng số trên máy C25, gặp một số anh em sư đoàn 23 còn ở Phú Bổn, còn đoạn đầu tôi không biết đã tới đâu, nước sông chỗ sâu nhất tới rún, Thiết giáp vòng dây kéo từng chiếc quân xa, mất khoảng 10 phút mới qua tới bên kia bờ , chuyền xe được kéo phải chi trả ít nhất là 10.000$, giá trung bình thường là 20 ngàn, mười xe qua tới bờ chết máy hơn phân nửa, xe được kéo phải nổ máy đều, nếu máy tắt là nước vào ống bô kể như bỏ xe….

Nơi khúc sông kéo xe là khúc cạn nhất, Công binh sẽ bắt cây cầu dã chiến tại đây, xe tôi đậu cách xa khúc sông nầy khoảng một cây số, cứ thế mà lết dần từng mét một, có đi tắm giặt cũng phải trực người ngồi ôm vô lăng, chứ xe trước nhít tới mà mình dậm chân thì xe sau sẽ hất xe mình ra khỏi hàng

Dưới lòng sông Ba có rất nhiều cồn cát nổi cao lên khỏi mặt nước, cồn tròn khoảng 10 mét vuông, trời càng trưa càng gay gắt nắng, mọi người xuống sông giỡn nước, nước sông Ba trong thấy đáy, mát vô cùng, tầm nghịch xong lên cồn ngồi, đàn bà con gái lúc đầu còn e thẹn, sau vài ngày rồi cũng dạn dĩ ra, cũng tầm nghịch bơi giỡn dưới sông, thỉnh thoảng một vài trái đạn 60 ly rót xuống, một điều hết sức may mắn là xe chen chút sát bờ mà đạn cứ rớt ùm xuống sông, Tôi nhìn thấy nhiều lần trái đạn rớt chui ngay cồn chui xuống sâu mới nổ hất tung những người ngồi trên cồn tung lên rớt xuống nước lũm chũm, hết hồn chút đỉnh chứ chẳng sao cả, mấy trái đầu còn sợ, pháo riết rồi quen, cứ an ủi bằng câu trời kêu ai nấy dạ, ba bốn ngày đầu tôi thấy ông trời vẫn chưa kêu ai…!

Triệu chứng kiết lỵ đã thấy xãy ra cho nhiều người lớn tuổi vì đoàn người quá đông mà phóng uế bừa bải, nước sông dù vẫn lặng lờ chảy nhưng đã bị ô nhiễm nhiều rồi, với lại khó nấu nướng món gì trọn vẹn vì giặc pháo thường xuyên mà mỗi lần pháo là đoàn xe rối lọan, càn bừa chạy tránh đạn. Tôi đã thấy trên nhiều xe lô bồi nhiều người đàn ông tụt luôn quần ngồi chờ tháo dạ.. sau 3 ngày bệnh lỵ xuất hiện tôi thấy bụng tôi ngầm đau… rồi trong phân có lẫn máu. Mấy chú lính hết tình chăm sóc cho tôi, cố gằng rang gạo nấu lấy nước cho tôi uống, với một vài chén nước gạo rang mà tôi đi ngòai khoảng trên 20 lần trong ngày, tôi đã gầy mà bây giờ bị bệnh như vầy, mắt sâu má hóp, nhìn qua mặt nước dáng hình tôi trông thật thảm, đau như cắt ruột sao lại là đệ tứ khoái được đây??… Tôi thấy trong mình tôi rã rời, ngồi không muốn vững, miệng đắng mà lạt nhách…Tôi nghĩ dại… có lẽ bên bờ sông Ba nầy tôi không còn dịp gặp lại người thân nữa. Buổi sáng quá đói và mất ngủ tôi thều thào gọi thằng Mỹ đến, tần mần tháo dây thẻ bài, tay móc bóp trao cho nó. Thằng Mỹ nhìn tôi có vẽ ngạc nhiên - -Nếu mày về được tới Sài Gòn, mang những vật nầy trao cho gia đình tao, nói rõ cho nhà tao biết về cái chết của tao. Thằng Mỹ mắt đỏ hoe:

- Vài bữa là hết ông đừng có lo…Ông nằm nghỉ để tôi bắt lửa nấu cho ông chén cháo.Không biết nhờ ân sủng nào mà trong tình trang suy sụp thể lực như vậy mà bệnh lỵ của tôi lại thuyên giãm và mấy ngày sau là tôi bình phục dù trong người rất yếu, dù chẳng có uống một viên thuốc nào

Thuốc hút bắt đầu khan hiếm, một gói thuốc capstan giá thường là 400$ nay 2.000$ một gói mà tìm đỏ con mắt không ra, phần rỗi rảnh nên buồn miệng cứ hút luôn, xe lô bồi cạnh tôi có lẽ nhìn mặt tôi thấy có cảm tình sao đo.., một cô xẩm độ tuổi đôi mươi vứt qua cho tôi 1 cây thuốc bastos xanh, Tôi cám ơn rối rít, móc tiền ra trả nhưng người thiếu nữ gốc Hoa nầy khoát tay không nhận, còn nở một nụ cười thật tươi, một chút tình quân dân, tình em hậu phương…!

Cứ thêm một ngày thì lượng xe và người càng tăng dần…. Nhít qua nhít lại rồi đoàn xe cũng vào được đội hình hàng tám…Nhìn thấy cảnh chết máy của các xe kéo qua sông, với lại tiền không có nhiều nên đa số đành sắp hàng chờ cầu phao.Si Núc, lọai trực thăng vận tải bắt đầu chỡ vĩ sắt đáp cạnh bờ sông, dân lính ùng ùng tranh nhau lên phi cơ dù phi hành đòan hết sức ngăn cản… Tình trạng nầy lặp đi lăp lại sau mỗi lần phi cơ đáp xuống, người ta tranh nhau lên quá tải, phi công sợ nặng nên cất cánh trước khi đóng bửng, một vài người lính đeo theo càng trực thăng, tôi cũng thấy nhiều lần phi cơ bắt đầu bình phi, bửng sau từ từ khép lại …có vài người sẩy tay rơi xuống trông như chim…Tôi nghe thuật lại rớt như vậy mà không có ai chết chỉ bị sứt tai gãy gọng thôi…Cảnh trông thật kinh hồn hơn trên màn ảnh ci nê, những cảnh thực mà trong đời người khó có dịp trông thấy lại …

- Gạo thóc vẫn là việc nan giải, nhiều bà Sơ đi tìm mua gạo để có cơm cho các em nhỏ, tôi lại trích phần gạo chia sớt với các em. Có một vài chị tới ngày sinh nở… mấy người thân chạy táo tác tìm người đở đẻ, poncho quay tạm che gió… rồi tiếng hài nhi khóc chào đời… chìm lẫn trong tiếng súng đạn ầm vang. Phía bên kia bờ sông tiếng súng vẫn râm rang, phía sau hướng Củng Sơn cũng vang rền tiếng súng…Tình thế …kẹt cứng… lưỡng đầu thọ VC

Những ngày tôi lê lếch trên bờ sông Ba là những ngày đầu tháng hai âm lịch, Đêm mùng 6 tôi nghe đài BBC tả cảnh Sài Gòn, Bà Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đang chủ tọa lễ Hai Bà Trưng, người bình luận :… Sài Gòn hầu như không cần biết đến đoàn quân rã ngũ đang đi trên tử lộ cố tìm ngõ sống về Nam, người bình luận còn nói thêm…. Hầu hết các quân nhân đều tỏ ra bất mãn với vị tổng tư lệnh Nguyễn văn Thiệu họ thề sẽ về tới Sài Gòn tìm hỏi tội ông ta tại sao đã bỏ rơi bao nhiêu sinh mạng đã phục vụ dưới quyền ông.

Trong một vài buổi sáng có những chiếc trực thăng bay thấp trên đầu đoàn quân di tản. trên trực thăng rải xuống nhiều lọai thực phẩm: Cơm vắt đựng trong túi ny lon nhỏ, sữa họp, bánh mì ổ, mì gói, gạo sấy… với những tờ truyền đơn bươm bướm có in hàng chữ: Con đường các bạn đi còn dài, còn nhiều chông gai, chúc các bạn may mắn( tôi nhớ đại ý như vậy) ở dưới có in hàng chữ Cơ Quan Công Giáo Bác Ái, Nhìn cảnh thực phẩm rơi xuống, lòng tôi bi hài trộn lẫn, Người ta dành nhau, những vắt cơm rơi trúng đầu không nói chi, họp sữa , tôi nhìn thấy nhiều lần rất may mắn là rơi trúng vai, người lính nhăn mặt biểu lộ cảm giác đau rồi cười khum xuống nhặt họp sữa. Tôi cũng thấy có nhiều chiếc trực thăng đáp xuống phía cách xa đoàn xe, họ thả vài người lính xuống rồi cất cánh, những người lính không quân nầy đi len lõi vào đoàn xe ra giá kiếm khách, hình như giá tối thiểu cũng phải 10.ngàn đồng( bằng ½ tháng lương chuần úy ). Những người lính nầy kiếm khoảng 10 người rồi cùng đến tọa dộ đã định sẵn, Cũng không thiếu những người thừa dịp ăn theo…Trong bất cứ tình huống nào, con người vẫn nghĩ ra cách làm tiền, dù cho đồng tiền đó có vương mùi máu… Những người còn ở lại đều có ý bất mãn trước tình huynh đệ chi binh… tuy thế mà rất nhiều lần tôi không hề thấy một xạ thủ nào canh bắn trực thăng dù việc làm nầy rất dễ dàng , bắn vô tội vạ, Đồng lương lính quá thiếu thốn chăng? Thiếu thốn thì ai lại không thiếu, sao lại nỡ để mất đi tình huynh đệ. Trước cảnh tình quá bi đát nầy, hơn 10 ngày không có cách gì qua sông, mà giặc phía sau đã gần kề, phía trước chưa mở xong đường máu, tôi nêu ý kiến với anh em trong toán

-Trong hoàn cảnh nầy, tôi không ép anh em theo tôi, anh em cứ tự nhiên canh chừng trực thăng đáp xuống đu theo về trước, Tôi quay qua Mỹ:

- Mỹ, mày ba lô gọn nhẹ đi đi, về ghé nhà tao, nói tao sẽ về sau..

Thằng Mỹ sau mấy lần canh me cùng 2 chú lính đi thoát được… lại thêm mấy chú lính cùng tiểu đoàn chạy lạc gặp tôi xin tá túc, có thêm đông càng tốt. Một phụ nữ trạc 25 tuổi tay bế em bé khoảng 10 tháng tuổi, tay dắt 2 con thơ, từ 3 và 5 tuổi đến trước mặt tôi mếu máo xin được đi nhờ xe… Trên xe đa số là đàn bà con nít, vợ con anh em trong toán, thiếu phụ còn cho biết chồng là Trung úy Thiết Giáp bị thất lạc… Tôi ngần ngừ nhìn mấy mẹ con rồi quyết định cho lên ngồi trên cabin xe… Tôi nhìn thấy thái độ bất mãn của mấy chị em ngồi phía sau xe…, họ ganh tỵ với người lạ sao lại được ưu đãi. Tôi làm lơ như không thấy…. Giúp được cho ai điều gì trong khả năng thì cứ giúp. Tôi không nhớ rõ bao nhiêu ngày nhưng chắc hẵn là không dưới 10 ngày thì cầu phao mới làm xong, giữa cầu hình như là 2 vĩ sắt bắt trên trái nổi vì khi xe chay ngang qua, vĩ sắt chìm xuống mặt nước khoảng 2 tấc.Mỗi lần sang sông chỉ một chiếc xe… Pháo địch tăng nhiều, phía đập Đồng Cam tiếng súng vẫn ầm vang, nhiều trái đạn chỉ cách cầu khoảng 10 mét, lòng sông đầy cát nên khi đạn nổ chỉ có nước và cát văng xa… Có mấy lần tôi chỉ đứng cách trái pháo chừng 5, 6 mét, cát văng lên mặt, tay rát rạt, anh em thảo luận rồi đồng ý lần lượt mỗi hàng xe một chiếc qua cầu, Trong hàng cử một quân nhân có dáng “Ngầu” cầm súng trước trước đầu hàng xe, tám người canh cho xe qua cầu, khi xe của người gác nầy qua cầu thì toán lại cử người khác, cho tới 4 giờ chiều thì tôi được hàng xe đề nghị gác hàng xe với lý do trong hàng toàn lính trẻ, tôi có lon lá dễ ăn nói hơn. Đám đệ tử sửa lại nón sắt cho tôi, một cây AR15 với 2 băng đạn, Trung sĩ Khâm còn màu mè gắn lên dây ba chạc tôi 2 trái mini lựu đạn, Khâm cũng không quên bẻ bâu áo cho lộ 2 bông mai ra ngoài… Nó cười cười :Trông Ông cũng ngầu lắm……Nhịp độ pháo của giặc tăng dần, Délô của tụi nó trong hàng quân nên độ chính xác ngày càng thấy rõ, lòng tôi thấy hồi họp lắm vì xe tôi đã tiến dần lên, thứ 10, rồi thứ9…hạ sĩ Đặng Giác, nón sắt áo giáp, bên cửa xe treo lủnh lẳng cây M16 với 2 băng đạn, miệng ngậm điếu thuốc, tôi đi trước đầu xe hướng dẫn xe qua cầu, nước sông đã bắt đầu lớn, bấy giờ là 5giờ 20 chiều, trời lành lạnh và hoàng hôn đã đến, 2 bánh xe trước chạm vào vĩ sắt, nước ngập gần nửa bánh xe…

Ầm ầm, hai trái đạn nổ cách trung tâm cầu khoảng 5 mét, cát bay mù mịt, tôi mở mắt nhìn qua làn bụi … Nhờ ơn trên không sao …Đề lô đang điều chỉnh gần chính xác cây cầu rồi… Tôi nhìn lên bờ thấy Chấn( khóa 3/68, cùng đơn vị)hàng xe xếp cách tôi khoảng 5 chiếc, đang đứng nhìn tôi hướng dẫn xe, xe lên dốc lên bờ….Tôi khoác vội nước sông rửa mặt, và tự nhiên thấy tối sầm lại, tôi vội ngồi xuống, thằng Khâm nhảy xuống xe xốc nách tôi lên xe… Có lẽ vì ăn uống thất thường,vì sau cơn đau kiết lỵ, vì mất ngủ và vì quá căng thẳng tôi bị suy nhược?

Trời chiều xuống thật nhanh, đường rừng cũng tương đối bằng phẳng, rất nhiều xe tấp vào những gốc cây tạm nghỉ chờ sáng. Xe tôi cũng tìm một vị trí tương đối có nhiều xe chung quanh, tạm dừng chân. Trung sĩ Khâm trong toán chính huấn bắt được một con bọ chắc là của ai sút chuồng, vợ chồng Khâm bận rộn lo nấu nướng, một bao củ hành tây sấy khô , thực phẩm của Mỹ, tôi cũng không hiểu Khâm tìm nó ở đâu, với con dao Khâm khéo léo lột da con bọ, Khâm nhìn tôi cười mỉm:

-Lọai nầy phải làm khô chứ không rửa nước, tôi sẽ xào mặn nó với hành tây, ớt khô và muối.

Trời tối thật nhanh, muổi bắt đầu tấn công dữ dội. Vợ Khâm, cô ca sĩ chính huấn cũng vừa xong nồi cơm, mấy gia đình chung xe cũng đã nấu xong cơm, bên ánh đèn pin, ánh sáng đủ tỏ soi chập chờn mặt mọi người… Mười mấy ngày nay mới được ăn cơm ngồi đàng hoàng, với cơm nóng đúng nghĩa.

Đêm trong rừng lành lạnh, sau một đoạn đường ăn uống thất thường, bệnh họan húp cháo mấy ngày, hôm nay được ăn cơm nóng với thịt bọ xào củ hành, tôi ăn thấy ngon miệng làm sao, làm 4 chén mà miệng còn muốn ăn nữa… Tôi nhớ tới những bữa giổ, ngày tết, tiệc cưới nhà hàng, những tiệc nhậu ở Thanh Hải, Lưởng Nghi, Biên Thùy… Chưa có bữa ăn nào mà tôi cảm thấy ngon như hôm nay.

Đêm nay trăng mười bốn lên sớm… Ánh trăng muôn thuở vẫn ngời sáng tuy có bị chút sương mù, tôi nhìn chung quanh, xe của các bạn đồng hành cũng đều cơm nước xong , mọi người đang chuẩn bị sửa soạn cho chỗ nằm, tôi nằm trong cabin với tài xế để tiện việc luân chuyển lái xe, vì một người ôm vô lăng suốt ngày rất khó chu toàn…Tôi mồi điếu thuốc, nhả từng ngụm khói… Sài Gòn bây giờ ra sao? Tại sao Sài Gòn không có kế họach khả dĩ an toàn cho đoàn quân di tản, hiện tại đài phát thanh Sài Gòn cũng như đài quân đội không có lấy một câu bình luận về việc rút bỏ quân đoàn.Cô bé mắt nâu chắc là lo cho tôi lắm, mẹ tôi và ba tôi có lẽ suốt ngày cầu nguyện cho tôi,người chị thứ năm của tôi đang ở Hàm Rồng, chồng chị phục vụ trong Sư đoàn 23, trung đoàn rời Hàm Rồng lên Ban Mê Thuộc, không biết bây giờ chị tôi và 2 cháu nhỏ ra sau… tàn điếu thuốc, mắt tôi nặng, giấc ngủ tôi biết sẽ đến rất dễ dàng… Tôi đâu có biết sau giấc ngủ nầy, ngày mai tôi và các bạn đồng hành sẽ phải đi trên con đường đầy máu và nước mắt… Gian nan rồi cũng qua, chỉ còn lại là ký ức, vui, buồn, thương, hận… đâu dễ gì trong một sớm chiều mà nhạt phai …

Tôi ngồi đây, viết lại những dòng chữ nầy, trong ký ức, hình ảnh năm xưa hiện rõ trước mắt, cuộc chiến nào mà không tàn khốc, tiếc cho quân đội miền Nam không thiếu anh hùng, không thiếu lòng can đãm….Nhưng cơ trời vận nuớc… Nguyện cầu anh linh quân dân cán chính bỏ mình trên lộ 7 sớm siêu thoát

Viết tại Kỳ Đà Động Tháng 12-2005
THỦY LAN VY

Posted by: Nguyễn Văn Nhất Aug 16 2010, 07:24 AM

Hay, quá hay
không biết khi các bậc bô lão sống trong 2 GĐ không còn thì ai sẽ cho thế hệ sau biết những bước ngoặt lịch sử để ... ngày nay...

Posted by: caoduy Aug 29 2010, 06:45 PM





Thung Lũng Iadrang


Hollywood đã dựng lại một trận đánh nổi tiếng giữa lực lượng của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ (1st Cavalry Division) và lực lượng chính qui Bắc Việt năm 1965 tại thung lũng Ia Drang, Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, qua phim "We Were Soldiers", dựa trên cuốn hồi ký chiến trường của Cựu Trung Tướng Harold G. Moore và phóng viên chiến trường Joseph L. Galloway, cuốn "We Were Soldiers Once ... and Young". Có điều đáng tiếc là người làm phim đã không thực hiện được cảnh trí thật sự của vùng Cao Nguyên Trung Phần, bãi chiến trường xưa. Khán giả nào đã từng biết ít nhiều về cùng cao nguyên đó hẳn dễ thấy cảnh trí một nơi nào khác - có thể là Thái Lan, Phi Luật Tân v.v. - đã được lồng vào phim; vài cựu chiến binh Mỹ cũng đã có cùng nhận xét đó. Kẻ viết bài này đã từng có cơ duyên "gặp gở" núi rừng đó xin sơ lược đôi điều về "chốn xưa".


Thung Lũng Tử Thần nổi tiếng cả nước Mỹ


Năm 1965, lúc tình hình chiến sự sôi động tại Cao Nguyên Trung Phần, thì tôi đang vất vả với những tháng ngày hành quân tại Khe Sanh, Lao Bảo, vùng biên giới của tỉnh Quảng Trị với vùng Tchépone của Lào. Thời gian đó tôi nghe tin trại Lực Lượng Đặc Biệt Đức Cơ bị quân chính qui Bắc Việt vây hãm hai tháng trời (từ tháng 8 đến tháng 10), rồi đến phiên một trại Lực Lượng Đặc Biệt khác, trại Plei Me phía nam Đức Cơ, bị một lực lượng đông đảo quân Bắc Việt tấn công năm ngày liên tiếp vào cuối tháng 10, tức cuối mùa mưa Cao Nguyên. Lực lượng giải vây cho Plei Me, một cuộc hành quân cấp trung đoàn phối hợp bộ binh và thiết giáp của QLVNCH, với yểm trợ của phi pháo đã lọt vào trận địa phục kích của địch dài 4 cây số trên tỉnh lộ 5, phía nam tỉnh lỵ Plei Ku. Nhưng lực lượng hành quân đã phản kích hiệu quả, bẻ gãy kế hoạch đả viện của đối phương.


Tưởng mọi sự của chiến trường Cao Nguyên như vậy đã được "dàn xếp" ổn thỏa, và đối phương sẽ chờ mùa mưa năm sau mới giao đấu lại! Nhưng không phải thế. Tôi lại nghe tin các đơn vị của sư đoàn 1 Không Kỵ Mỹ trong chiến dịch lùng tìm "tàn quân" Bắc Việt đang rút về hướng tây của trại lực Lượng Đặc Biệt Plei Me đã chạm địch nặng tại thung lũng Ia Drang, và báo chí Mỹ đã mô tả cường độ giao tranh là đẫm máu nhất từ đầu cuộc chiến tời giờ. Lúc bấy giờ tôi chỉ biết đại khái như thế, và địa danh "Ia Drang" lọt vào tai mình một cách mơ hồ, lạ lẫm như nghe nói đến một vùng đất xa xôi nào mà mình chẳng hề nghĩ sẽ có ngày đặt chân đến. Còn đối với đa số người Việt có lẽ thung lũng Ia Drang lại còn xa lạ hơn nữa, một cái tên chưa hề nghe bao giờ. Nhưng oái oăm thay, dường như cả nước Mỹ trong những ngày cuối thu năm 1965 ấy đều nghe nói đến "Ia Drang", bởi vì đó là thời sự nóng bỏng nhất hồi đó, và một số con em họ đã bỏ mình ở đó..

Mặc dù khuôn khổ bài này là trình bày đôi điều về thung lũng Ia Drang, không phải về trận đánh tại nơi ấy, nhưng thiết nghĩ cũng cần đề cập ngắn gọn đôi giòng về chiến trận tại Ia Drang để người đọc có thể thấy vì sao thung lũng được mệnh danh là Thung Lũng Tử Thần. Vào ngày 14-11-1965 một tiểu đoàn 450 người, do Trung Tá Harold G. Moore chỉ huy, đã đổ bộ bằng trực thăng xuống một mảng rừng trống với ngụy danh là bãi đáp X-Ray (landing zone X-Ray) trong thung lũng Ia Drang, dưới chân núi Chu Pong về phía tây nam thị xã Plei Ku khoảng sáu mươi cây số. Lập tức khoảng hai nghìn quân chính qui Bắc Việt đã bao vây đánh tiểu đoàn Mỹ. Lực lượng Mỹ nhờ hỏa lực của pháo binh, không quân, và nhờ tinh thần chiến đấu, sau ba ngày đêm chống trả với nhiều đợt xung phong biển người của đối phương đã đẩy lui địch. Cả hai bên đều tổn thất nặng. Cuốn phim "We Were Soldiers" trong đó tài tử Mel Gibson đóng vai người hùng Harold G. Moore đã dựng lại cảnh chiến trường này. Ba ngày sau, cách xa bãi chiến trường X-Ray khoảng 6 cây số, tại một khoảnh rừng trống với ngụy danh bãi đáp Albany (landing zone Albany) cũng trong thung lũng Ia Drang, một tiểu đoàn khác của Mỹ bị đối phương "đánh không còn một manh giáp". X-Ray và Albany là hai trận đánh tàn bạo nhất trong chiến tranh Việt Nam đã cho thung lũng Ia Drang cái tên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp tự nhiên của nó: Thung Lũng Tử Thần (Valley of Death).

Thung Lũng Hoàng Hôn

Vào tháng Ba năm 1966 tôi rời vùng núi rừng Khe Sanh, A Shau, A Lưới của Vùng I Chiến Thuật, trôi nổi theo nhịp đời quân ngũ từ duyên hải Nha Trang, Cam Ranh, đến Dak To, Dak Sang của vùng Kon Tum. Rồi định mệnh đưa đẩy, khoảng đầu năm 1967 tôi được điều động đến Plei Me với cương vị trưởng trại Lực Lượng Đặc Biệt này. Hơn một năm trước tôi đã nghe nói đến Plei Me, tôi đã nghe nói đến thung lũng Ia Drang phía tây nó. Và bây giờ tôi sắp đặt chân lên vùng đất huyền thoại này. Vừa đến thành phố Plei Ku tôi đã "choáng ngợp" vì hai chữ "Plei Me" và "Ia Drang". Một trường học ở đây mang tên "Trường Trung Học Plei Me", doanh trại bộ tư lệnh Quân Đoàn II mang tên "Thành Plei Me", chiếc máy bay C-47 của vị tư lệnh Quân Đoàn II mang chữ "Plei Me" đỏ chói bên hông, và một bệnh viện ở Plei Ku mang tên "Dân Y Viện Ia Drang". Nếu tôi nhớ không lầm, người ta bảo đây là sáng kiến độc đáo của Trung Tướng Vĩnh Lộc, vị tư lệnh Quân Đoàn II lúc bấy giờ. Chắc vị tướng xuất thân từ binh chủng thiết giáp kia đã hãnh diện biết bao vì hai chiến trường Plei Me và Ia Drang xảy ra trong thời gian ông cầm vận mạng Quân Đoàn II!

Ngay ngày đầu tiên đến Plei Me tôi đã đi một vòng quanh tuyến phòng thủ trại để có một cái nhìn khái quát địa thế - một hành động hầu như đã trở thành bản tính thứ hai của mình sau bao năm tháng ở các đơn vị tác chiến. Và cái biển rừng cây mênh mông phía tây trại đã đập vào mắt tôi. Đã vẹt gót giày ở những khu rừng già miền Trung, ở vùng tam biên Kontum, tầm nhìn chỉ quen với lũng sâu tiếp nối đỉnh cao, tôi chưa từng thấy một cánh rừng phẳng lì đến chân trời như thế. Thực ra, xa tít tắp trong sương khói tôi vẫn thấy dãy núi Chu Pong mờ ảo ở chân trời, nhưng đó là rặng núi cao độc nhất chế ngự cả một biển rừng cây thấp mênh mông phía tây trại Plei Me chạy đến tận biên giới Việt-Miên, và phía nam đến tận miệt bắc Ban Mê Thuột. Nhưng phải mấy ngày sau đó tôi mới khám phá ra rằng đặc điểm của bình nguyên bao la phía tây Plei Me không phải là biển lá rừng mênh mông mà là ánh hoàng hôn trên đó. Tôi đứng ngắm ánh chiều tà lộng lẫy về phía tây trại lần đầu tiên một chiều nọ và nghĩ chưa có nơi nào đẹp hơn. Nếu là một biển nước mênh mông thì cảnh sắc hoàng hôn sẽ đơn điệu, nhàm chán, tầm thường. Ánh mặt trời đỏ rực rọi trên mặt phẳng lá xanh chập chùng trải đến mút tầm nhìn, với những áng mây muôn màu ở chân trời, với sương khói lung linh như mưa bụi ngũ sắc rơi trên những ngọn núi xa xa thật khó tả bằng lời. Vả chăng tôi cũng đã cố gắng vẽ lại bức tranh ấy cách đây bảy năm - năm 1996 - trong truyện ngắn "Hoàng Hôn Trên Thung Lũng Ia Drang", và bây giờ chả lẽ lại lặp lại điệp khúc ấy. Với lại, viết về thung lũng Ia Drang hôm nay, tôi chỉ muốn làm một bài ký sự ngắn, xoay quanh sự kiện nhiều hơn. Một điều thú vị là chả riêng gì tôi bị mê hoặc vì vẻ đẹp của thiên nhiên kia, mà viên sĩ quan trưởng toán cố vấn Mỹ, Đại Úy Scott, cũng đã từng say sưa ngắm nhìn hoàng hôn phía tây trại. Mỗi lần nhìn cảnh đẹp ấy ông ta đều thốt lên "sunset on Ia Drang Valley", một sự việc đã khiến cả toán Mỹ làm đề tài hài hước mỗi hoàng hôn vắng mặt ông. Đại để, một anh lính bưng ly rượu hoặc lon bia đến bên cửa sổ nhìn ra thung lũng tắm nắng chiều và lặp lại câu nói, "sunset on Ia Drang Valley" để cả nhóm cười ầm lên.

Vị Trí Địa Dư của Thung Lũng Ia Drang

Dãi đất về phía tây nam tỉnh lỵ Plei Ku là rừng thấp, chằng chịt suối, trải hằng mấy chục cây số đến tận biên giới Việt-Miên, và đến tỉnh Ban Mê Thuột kế cận. Trong toàn vùng chỉ có rặng núi Chu Pong là chi tiết địa hình nổi bật, tuy cao độ khoảng dưới một nghìn thước. Đó là một dãy núi chạy từ đông sang tây dài khoảng hai mươi lăm cây số, mà phần nằm trong đất Miên chiếm khoảng bảy cây số. Chiều nam bắc của dãy núi đo khoảng hai mươi cây số. Chu Pong là một tập hợp những hang động, những vách núi, những vực sâu, những thác nước, những thung lũng - một căn cứ địa rất tốt. Trong hai cuộc chiến tranh đã qua - chiến tranh Đông Dương 1945-1954, và chiến tranh Việt Nam 1965-1975 - Hà Nội đã dùng núi Chu Pong để trú quân và chứa kho tàng cho các chiến dịch ở Cao Nguyên Trung Phần. Dọc theo sườn phía bắc của dãy Chu Pong - từ chân núi đổ về mạn bắc - là một thung lũng khá rộng. Con sông Ia Drang, phát nguyên từ vùng gần đồn điền trà Catecka phía nam thị xã Plei Ku, cắt đôi thung lũng đó, lượn khúc qua thác ghềnh, chảy về tây, đổ vào đất Miên. Trải dài dọc đôi bờ con sông ở đoạn gần chân núi Chu Pong là thung lũng Ia Drang. Thung lũng này nằm về hướng nam-tây-nam tỉnh lỵ Plei Ku, và ở cách xa độ sáu mươi cây số. Đối với vị trí trại Lực Lượng Đặc Biệt Plei Me, nó nằm ở hướng chính tây, và cách xa khoảng trên hai mươi cây số. Như vậy, để chính xác hơn, cái biển rừng cây mênh mông phía tây cứ điểm Plei Me gồm nhiều thung lũng họp lại, và xa tít trong sương khói ở chân trời với dãy núi Chu Pong xanh lơ làm nền mới chính là thung lũng Ia Drang. Nhưng người ta quen gọi cái biển lá rừng trùng điệp phía tây trại là Thung Lũng Ia Drang, vì dòng Ia Drang là con suối quan trong trong vùng.


Vẻ Đẹp của Thiên Nhiên Ia Drang

Tôi "đến" với thung lũng Ia Drang trong một chuyến bay không thám (visual reconaissance). Chiếc L 19 chỉ có hai người, tôi và anh chàng phi công Mỹ. Cất cánh từ phi trường Plei Me, chúng tôi hướng về phía biên giới Việt-Miên, lướt trên một bề mặt rừng xanh thẫm khi thì bằng phẳng, khi thì lượn sóng, điểm xuyết bằng những con suối bạt lấp lánh, bằng những mảng rừng trống. Nhưng tuyệt nhiên không có một bóng người, hay một túp lều. Trong thời chiến bộ mặt rừng núi càng thêm hoang vu và bí hiểm!

Vùng mục tiêu quan sát là một đoạn của thung lũng Ia Drang mà tọa độ đã được xác định trên bản đồ. Phi cơ bay dọc theo con sông Ia Drang một đoạn rồi đánh nhiều vòng trên thung lũng tràn ngập ánh nắng, và bay trên các đỉnh núi lân cận. Thảo mộc hai bên bờ sông phần lớn là loại lau lách cao trên một thước, và vài nơi chỉ toàn một thảm cỏ xanh. Thỉnh thoảng những cây cổ thụ mọc ven sông nghiêng cành đến tận mé nước. Nhìn tổng quát, khung cảnh thật thanh thoát. Vẳng bên tai tôi qua cái headset giọng anh phi công khen phong cảnh đẹp. Tôi nhớ đại khái anh nói rằng đất nước này đẹp thật. Tôi nhớ lúc bấy giờ mình đã liên tưởng đến khúc nhạc "Suối Mơ" của Văn Cao:


Suối mơ, bên rừng thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng



Nhân nhắc đến lời của anh phi công Mỹ, tôi muốn trích lời của hai người nữa, hai đồng bào của anh phi công kia, khi họ nói về thung lũng Ia Drang. Người thứ nhất là vị sĩ quan đã dự trận đánh ở Thung Lũng Ia Drang năm 1965, kể lại trong cuốn hồi ký chiến trường của Tướng Harold G Moore và Joseph L. Galloway. Cựu Đại Úy John Herren kể lại cảm nhận lúc ngồi trên trực thăng để ra trận: "Việt Nam đẹp thật, thậm chí trong chiến tranh, với rừng xanh, đồi rậm, với suối nguồn hoang dã chằng chịt". (Vietnam, even in war, was scenic, with the green jungle, heavy forested mountains, and wild-looking rivers crisscrossing the terrain). Người thứ hai chính là Cựu Trung Tướng Harold G. Moore, tác giả của thiên hồi ký chiến trường "We Were Soldiers Once ... and Young" vừa nêu trên. Tướng Moore, qua mấy dòng thư riêng cho kẻ viết bài này, cho biết ông đã trở lại thăm chiến trường xưa, thung lũng Ia Drang, hai lần, vào năm 1993 và 1997. Ông mô tả: "Hoa dại bây giờ phủ đầy thung lũng của những cái chết tức tưởi ngày xưa. Vùng Ia Drang từ phía tây Plei Me không có người ở, ngoại trừ một số ít người Thượng đang được di dân về hướng đông, gần Plei Ku. Vùng núi rừng Ia Drang/Chu Pong bây giờ được gọi là 'rừng oan hồn', vẫn bí hiểm và đẹp". (Wild flowers now grow in those places of violent death. The Ia Drang from Plei Me west is uninhabited except for a few Montagnards who are/have been driven out to the east near Plei Ku. The Ia Drang/Chu Pong area is now known as "The forest of Screaming Souls" and remains mysterious and beautiful). Không biết nhóm chữ "Forest of Screaming Souls" do chính tướng Moore nghĩ ra để dịch ý tưởng của người Việt hay do một thông dịch viên/hướng dẫn viên du lịch người Việt dùng để thuyết trình với du khách, nhưng dù sao thì hiển nhiên thung lũng Ia Drang đã đi vào lịch sử chiến tranh của nhân loại, lưu danh thiên cổ một trận chiến, và một nét đẹp của thiên nhiên. Có lẽ điều sau mới trường tồn hơn ...

Posted by: caoduy Aug 29 2010, 06:46 PM



Posted by: caoduy Aug 29 2010, 06:48 PM



Posted by: caoduy Aug 29 2010, 06:49 PM



Posted by: caoduy Aug 29 2010, 06:50 PM



Posted by: caoduy Aug 29 2010, 06:53 PM



Posted by: Tiểu yêu Nov 17 2010, 02:18 PM




Pleiku là thành phố của lính , lại mang nhiều nét thơ mộng nhất trong đời những
người lính xa nhà


Những đóa thơ cho phố núi Pleiku

Pleiku, nhắc đến nó để nhớ lại một thời lửa đạn. Và, nếu có người sưu tập thành một tuyển tập có chủ đề về nơi chốn ấy, chắc sẽ có một quyển sách cả ngàn trang mới mong đầy đủ hết thơ văn của những người hoài vương vấn với mưa sình nắng bụi cao nguyên.

Mấy ngày hôm nay, buổi sáng nào cũng mù mịt sương. Mùa Thu ở đây như gợi lại một nỗi niềm nào. Lái xe trên đường, trong cái mù mịt của đất trời thấy mình như sống lại một thuở nào, ở không gian thời gian nào tuy thật xa nhưng trong giây phút hiện tại lại thật gần gũi. Cái tâm trạng bềnh bồng, của tiềm thức chơi vơi trong buổi sáng hôm nay như dẫn từng bước chân trở về, thuở xa xưa, ngày vừa trên hai mươi tuổi.

Lớn lên ở Sài Gòn, cả một thơ ấu nghịch phá, cả một khung trời mơ mộng. Những ngã tư, những con hẻm, những cổng trường, những mầu hoa Mùa Hạ, những xao xác lạnh cuối năm, tất cả đã thành kỷ niệm. Của một thành phố mà tưởng như chứa cả một phần đời sống của mình. Rồi tuổi đôi mươi, rời khỏi ghế giảng đường vào lính. Thì một thành phố, tuy heo hút sơn cùng thủy tận, nhưng lại chan chứa những kỷ niệm của những chàng lính trẻ, ngông nghênh vào đời tưởng như nắm cả vũ trụ trong tay. Sống ở đó, để thấy nhớ sài Gòn. Nhưng khi đổi về Biên Hòa gần Sài Gòn thì lại nhớ lại thời gian đã qua. Không nuối tiếc nhưng đầy bâng khuâng, và cái không gian se lạnh, cái đêm khuya mưa dầm, cái buổi sáng mù mịt, tất cả trộn lẫn để thành một phong vị khó tả.

Năm tôi lên phố vừa qua cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng. Chưa có kinh nghiệm trường đời nên thường phản ứng trước những chướng tai gai mắt và theo suy nghĩ của nhiều vị chỉ huy, tôi là một đứa ba gai cần phải hành hạ để cho vào khuôn phép. Ở đâu cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa lệ thủy và khi ở đây lập không đoàn thì cũng là một trong những người khai sơn phá thạch của đơn vị.

Thời gian ở thành phố biên trấn này chỉ hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm. Có những lúc, cơm sấy đồ hộp ngày này qua tháng khác mà vẫn vui. Lãnh lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối nào cũng lang thang ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở đây, biết bao nhiêu đứa bạn, buổi sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau thân xác đã thành sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây, có sáng mù sương, thấy đời mệt mỏi như chiếc xe dodge già nua ì ạch leo đầu dốc. Dù rằng tôi lúc ấy chỉ vừa hơn hai mươi tuổi.

Ngày lên Pleiku, có một bài thơ tôi đã làm như tiên đoán được cái không gian của biên tái, của những câu thơ như Lương Châu Từ của Vương Han thời Thịnh Ðường xa xưa. Pleiku có khác nào Lương Châu, cũng là quan ải để trấn giữ biên cương. Ngày xưa thì ngăn giặc Hồ, giặc Mông. Ngày nay, thì canh chừng ba biên giới, với những trận đánh ác liệt mùa khô hàng năm tiếp diễn… Bài thơ ấy, làm vào một đêm trước khi sáng mai lên trực thăng vào phố núi.

“Ừ mai tao lên Pleiku

Ðêm căm hơi đá ngày mù núi xanh

Uống say quên mộng quẩn quanh

Về nơi gió cát cũng đành cuộc chơi

Ừ mai cánh vỗ ngang trời

Ngóng thiên thu một cõi đời tịnh yên

Máu xương mãi chuyện ưu phiền

Còn đâu tiếng gọi cho em miệt mài

Ừ mai súng khoác lên vai

Ngẩn ngơ phố núi những ngày đao binh

Chắc đâu rượu uống một mình

Trong thân phiêu bạc nhục vinh nửa vời

Ừ mai thương bóng trăng trôi

Chim quên vẫy mỏi cuối trời chiến tranh

Uống đi mai hát quân hành

Nghe trong hơi bốc long lanh mắt người…”

Tuổi trẻ, ngây thơ và bốc đồng. Tưởng rằng, mình như một hiệp sĩ thời xưa đi vào nơi gió cát. Thơ cũng nghênh ngang kiểu “túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tuổi trẻ, ơi những giấc mơ của ngày chân không chấm đất cật chẳng đến giời. Có phải là giấc mơ chung của những người lính trẻ chúng tôi.

Pleiku, một thành phố nhỏ heo hút ở cao nguyên, nhờ thơ và nhạc, đã thành một nơi chốn đầy thơ mộng. Thành phố ấy, có những tương phản kỳ lạ. Chiến tranh đã làm phố núi ấy có một bộ mặt, khi thì lãng mạn thơ mộng với những tà áo dài nữ sinh đi học buổi sớm mai nhưng cũng có lúc đầy nhục dục xác thịt. Con đường từ phố đến camp Holloway đầy những quán rượu và những cô gái phấn son lòe loẹt. Và, thành phố cũng đầy những sắc lính. Những người từ mặt trận trở về, đốt tiền mua vội một đêm vui rồi sáng mai trở lại miền gió cát. Những người lính đồn trú ở đây, ráng làm quen với cuộc sống ở vùng nắng bụi mưa sình, trong một giây phút nào, cũng nao nao vì những tà áo trắng buổi sáng trong sương mù Pleiku, tìm thấy một chút thơ mộng trong đời để làm kỷ niệm Pleiku, những cuộc tình có thực đầy dông bão của những người lính và những cô gái giang hồ. Nhưng Pleiku cũng có những êm ái thánh thiện của tình học trò áo trắng và người lính dạn dầy trong khói lửa. Pleiku có con đường đầy quán rượu cho lính G.I. viễn chinh nhưng cũng có con đường có hai hàng cây cao vút rợp bóng lá và những tà áo học trò tung bay theo nắng.

Người làm thơ, có lúc cũng cảm khái vì cái không gian, thời gian của thành phố ấy. Mưa cũng là cái mưa đặc biệt, mỗi mỗi hạt mưa như chứa đựng cả những nỗi niềm của tất cả những địa phương xa lạ thu góp về. Nắng cũng là cái nắng không phải của một nơi chốn nào khác, nó mang đến cái hanh hao khó chịu nhưng cũng trong màu nắng ấy lấp lánh những tình cảm thầm thì khó tả. Lạnh cũng chẳng phải là cái lạnh lẽo bình thường mà hình như cỏ cây, đường phố, núi non, ở đây cũng se mình và chia sẻ chung vui buồn với con người. Trong giây phút hiếm có trong đời, cảm xúc đã làm ngôn ngữ tăng thêm lôi cuốn và tạo nhiều ấn tượng. Nguyễn Bắc Sơn, một chứng nhân của cuộc chiến, làm thơ như một cách thế sống, đã coi công việc viết như một phần của đời người. Sống ở Plei ku và viết những bài thơ để gửi Plei ku. Thơ ông, có chút cảm khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có những xúc động bềnh bồng của tâm tư lãng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ, phảng phất vóc dáng một chàng cuồng sĩ.

Ðọc bài thơ “Hoa Quì Vàng Lạnh Pleiku”, tự nhiên tôi như người trở về thời gian ấy, không gian ấy. Trở về những ngày tuổi trẻ, của những giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc đùa chơi. Cái lạnh, chưa hẳn là lạnh lẽo Mùa Ðông, mà còn chứa đựng một chút nồng ấm nào đó của Mùa Hạ. Lạnh ở bên ngoài nhưng rần rần nóng hồi ở tim óc bên trong. Sương mù ban đêm trên đỉnh cao nhìn về phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như sóng theo tầm nhìn vời vợi.

“Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn

Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm

Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm

Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ

Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ

Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa

Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa

Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó”.

Tôi cũng đã sống ở Pleiku gần ba năm. Thời gian ấy trong hơn tổng số bẩy năm ở lính của tôi chắc là đáng kể và đầy chật những điều đáng nhớ. Ngày đầu tiên khi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong óc của Kim Tuấn, Du Tử Lê, Vũ Hữu Ðịnh, Nguyễn Bắc Sơn. Thơ tự nhiên thành một phần của một ngày, một tháng, một năm, của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực. Nặng tê.

Ðọc bài thơ dài của Nguyễn Bắc Sơn tôi chỉ thấy có hai câu nói về mầu hoa quì vàng. Thế mà cái mầu sắc hoa man dã ấy chỉ một nét thoáng qua nhưng lại gợi nhiều dư âm. Mầu vàng, có khi là mầu vàng lạnh, nhưng có khi là mầu nóng chói chang của nắng.

“Phố núi kia ơi, một đời phố lạnh.

Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao.”


Hoa quì vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống như hoa cúc, tôi đã nhìn thấy miên man mầu vàng khi trên phi cơ nhìn xuống. Mầu vàng, mênh mang trên những ngọn dồi loang lổ mầu xám của đá và mầu đỏ của đất. Hoa quì, lẻ loi một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt ngàn dưới cánh phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng khó quên cho cảm xúc. Ơi hoa quì, mầu vàng không phải kiêu sa như mầu hoàng cúc của áo tôn nữ mà có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dã, của thiên nhiên. Hèn chi, cũng có nhiều nhà thơ vấn vương với hoa quì vàng, như Nguyễn Xuân Thiệp, như Kim Tuấn.

Người thơ kể chuyện của mình, một câu chuyện có lẽ rất quen tai của những người lính thú. Cũng đi xuống, đi lên, cũng loay hoay bồn chồn như những chàng gà trống…

“Ðời lang bạt của một người lính thú

Sáng hôm qua tôi là người thiếp ngủ

Ði một mình lên xuống phố mù sương

Phố núi kia ơi, phố có con đường

Lên xuống dốc tìm không ra bạn hữu

Không có bạn tôi làm sao uống rượu

Tôi làm sao sống nổi một ngày đây

Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy

Nhìn gã lính không khác gì gã lính”.


Không có bạn tôi làm sao uống rượu. Tôi làm sao sống nổi một ngày đây. Nghe như một câu nói thường ngày, không có chất thơ mà sao nghe tràn đầy thi tứ. Chắc lúc ấy, sự cảm khái của người thơ đã lên cao độ, và, nỗi lạnh lùng thiên cổ như bám vào da vào thịt. Có nỗi nhớ mong, có niềm tiếc nuối. Người em, bây giờ lưu lạc ở đâu?

“…Tôi vận rủi làm một người lãng đãng

Ngó mông hoài khuất bóng của người em

Sáng hôm nay đời sống thật bình yên

Sao phố lại đuổi đi người yểu điệu

Vườn đá tảng bàn chân em huyền diệu

In gót hồng lên lớp bụi đời tôi

Là từ khi tôi hạnh phúc rong chơi

Và quên lãng con thú mù phẫn nộ

Ôi phố núi đêm nay là cổ mộ

Một hàng đèn sáng lạnh cõi bi hoang”.

Bài thơ thứ hai tôi đọc để nhớ Pleiku là của Nguyễn Xuân Thiệp, bài “Pleiku, Tháng Ba 1974”. Ba mươi năm trôi qua, nhưng ngày tháng đó vẫn còn sinh động. Thơ, không ghi chép lại nhật ký ngày tháng mà sao đầy dấu viết của một quãng đời. Ngày ấy, lửa cháy đỏ. Ngày ấy.

Người thi sĩ kể chuyện một mình. Ðâu cần ai hiểu, chỉ để nỗi niềm loang vào sương đêm thành nỗi nhớ mịt mùng.

“Cầm bút viết, Tháng Ba rực cháy

Hàng dầu cao trong bình minh

Cơn sốt của trái chín và cánh đồng

Trận gió hung trưa ngày ấy

Cầm bút viết, đồi hoa quỳ vàng

Tháng Ba xuống khu rừng. Bóng quạ

Rung những nhánh cây màu tàn lửa

Tiếng thét hư không

Chiều rượt qua ngàn”

Những hình ảnh đan vào nhau với những liên tưởng tiếp nối. Ảnh tượng có khi như không liên quan nhau, chỉ là những nét phác sơ lược nhưng lại làm nổi bật được một không gian đầy biến động. Ðồi hoa quỳ vàng, khu rừng, bóng quạ, nhánh cây màu tàn lửa, tất cả như chìm đắm trong nỗi bàng hoàng của thế thời. Cơn bão lửa dậy lên từ hoang vu:

“Tháng Ba, chân trời chớp tía

Những chuyến xe lên đường, cơn mưa chợt đến

Rào qua mái nhà, bàng hoàng. mưa ngưng bặt

Ðêm. Những căn nhà gỗ sáng đèn.

Tháng Ba. Trên đồi vông nở

Tôi trở về thị trấn Tháng Ba

Những sợi dây tr
ời cắt đau trí nhớ

Cườm tay em nhỏ máu hè xưa”.

Xa rồi những ngày thơ mộng. Gần lắm rồi những nỗi kinh hoàng. Cái linh cảm của một cuộc địa chấn là cái linh cảm chung của những người như những con chuột đang cuống cuồng trong rọ. Thị trấn sẽ thành biển lửa, nay mai. Sẽ đầy những cuộc chia ly đầy nước mát. Thảm họa sụp xuống, như cơn hồng thủy đến.

“…Vò nát chiếc khăn. và đừng khóc

Chiều nay. Chớp bể mưa nguồn

Chia tay nhau. Sương phụ

Người đi râu bám bụi đường

Tháng Ba. Em. Những căn nhà gỗ

Ánh đèn khuya. Vệt máu hè xưa

Ðừng tiếc chiếc khăn tay ngày ấy

Sẽ bay trong lửa hoàng hôn

Tháng Ba. Cơn giông rền mặt đất.”


Ðọc xong hai bài thơ, tôi như người hụt hơi. Ðời sống, như một hơi khói nhẹ, loãng bay vào hư không. Tự nhiên, thấy lòng mình chùng xuống những kỷ niệm. Những bài thơ. Thuở đã xa. Ngày còn trẻ. Và hoa quì vàng, cái màu vàng loang sắc nắng của buổi nào, bây giờ có còn vương trên núi đồi không? Cái sắc màu hỏa hoàng trong những buổi chiều nhạt nắng ấy sao nhức nhối ký ức. Thị trấn ấy, như câu thơ Vũ Hữu Ðịnh:

“Phố núi cao phố núi trời gần

Phố xá không xa nên phố tình thân

Ði dăm phút đã về chốn cũ

Một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng

Em Pleiku má đỏ môi hồng

Ở đây buổi chiều quanh năm Mùa Ðông

Nên mắt em ướt và tóc em ướt

Da em mềm như mây chiều trong”.


Có khi em Pleiku chỉ là tưởng tượng. Thi sĩ đã làm thành một nhân dáng nữ tuyệt vời để tô điểm cho phố núi ấm áp hơn trong cái lạnh se se Tây Nguyên. Thơ như tháp cánh vút lên, để những hàng cây dầu hai bên con đường học trò vươn lên mầu lá xanh hiền. Thành phố có em, là thành phố mà tình yêu đã làm một thứ trang sức cho đời lính thú biên trấn xa xôi. May mà còn có niềm vui.

Thơ về Pleiku thì nhiều, nhiều lắm. Kim Tuấn, Diên Nghị, Du Tử Lê, Võ Ý, Lê Bá Ðịnh, Lâm Hảo Dũng… đã trải lòng mình lên thành những rung động thật với nơi chốn mà mình đã qua hoặc gắn bó. Pleiku, nhắc đến nó để nhớ lại một thời lửa đạn. Và, nếu có người sưu tập thành một tuyển tập có chủ đề về nơi chốn ấy, chắc sẽ có một quyển sách cả ngàn trang mới mong đầy đủ hết thơ văn của những người hoài vương vấn với mưa sình nắng bụi cao nguyên.

Posted by: VanAnh Dec 28 2010, 09:05 AM




Giám mục bờ sông


LTCG (27.12.2010) – Kontum – Những ngày vừa qua, tôi đọc tin tức về Giáo phận Kontum rất nhiều, cách đặc biệt bị ấn tượng bởi hai bài viết về Giám mục Kon Tum “Giám mục nhặt rác” và “Giám mục bụi bờ”, tôi rất thán phục về con người của Ngài. Và với sự thán phục Vị Chủ chăn Giáo phận, được biết Ngài sẽ đi dâng lễ Giáng Sinh ở các nơi Ngài đã đề cập trong Thư Mục Vụ Giáng Sinh 2010, tôi dò hỏi vài người bạn và được biết Ngài cũng mời gọi những ai muốn tham gia chuyến đi này thì đi dự lễ với Ngài. Tôi xin đăng ký đi theo một người bạn.



Tới ngày đi, đoàn chúng tôi cùng Đức Giám mục trên 3 chiếc ôtô 7 chỗ đi thăm chính quyền trước, sau đó mới dâng lễ như lịch trình. Thánh lễ tại các điểm này thật hoang dã và ấm cúng, 4 điểm đến dâng lễ thì có 1 điểm không được sự đồng ý của chính quyền, nên chỉ còn lại 3 điểm. Tuy không trọn vẹn, nhưng niềm vui mừng lễ Giáng Sinh năm nay thật thú vị và nhiều kỷ niệm. Thú vị là được đi cùng Giám Mục đến vùng sâu vùng xa dự lễ, được ngủ ngoài trời giá lạnh của mùa Noel.

Khởi đầu là thánh lễ lúc 7 giờ tối đêm 24.12 tại xã An Trung, huyện Kon Chro.




Sau thánh lễ chúng tôi ghé thăm nhà “các dì” và dùng cơm ở đó. Để việc kiểm tra “hộ khẩu, tạm trú” khỏi bị khó dễ, chúng tôi quyết định chọn phương án “lánh nạn” kiếm nơi tá túc qua đêm. Cách tốt nhất là ngủ trên xe là thượng sách. Thế là 2 xe chúng tôi trở ra kiếm nơi để ngủ qua đêm, xe Giám mục thì nằm tại nhà “các Dì” cách xã Yang Trung 3 km và xã An Trung 9 km. Hai xe đi vòng các con đường trong thị trấn, có bóng công an theo dõi và bám riết 2 xe chúng tôi, cuối cùng 1 xe đa rẽ hướng khác, xe công an đã bám theo xe đó, còn xe chúng tôi đã cắt đuôi được bóng công an tấp về mé của một bờ sông để tìm nơi ngủ luôn trên xe. Vì sự an toàn của Giám Mục, nên chúng tôi phải sử dụng nhiều phương án, cuối cùng ý Chúa nhiệm mầu. Xe đã tách khỏi bóng công an là xe chúng tôi, có bốn người, người nằm ngủ cuối xe là Giám Mục. Chúng tôi hộ tống Ngài, nên rất lo cho sự an toàn của Ngài, phải canh để Ngài ngủ, lỡ “bọn xấu” xịt thuốc mê để bắt thì làm sao đây. Vì thế 3 chúng tôi nớm nớp lo sợ, cùng thay nhau canh để Ngài ngủ, mai có sức mà làm tiếp mấy lễ.



Nửa đêm, trong khi Giám mục đang ngủ trên xe bên cạnh bờ sông thì có tiếng khóc thất thanh từ giữa dòng sông vọng lên, tôi và bạn tôi tìm cách xem chuyện gì ở đó. Hai người cầm đèn pin mờ như đi bắt cá trong đêm khuya tìm đến nơi có tiếng khóc, một người ở lại để canh Giám mục ngủ. Tìm mãi mới có một lối nhỏ những tảng đá gập gềnh dẫn đến chỗ có tiếng khóc, một tảng đá lớn nằm giữa con sông. Đến gần, chúng tôi thấy một cô bé khoảng 15-16 tuổi, khóc sướt mướt, càng hỏi sự việc, cô bé càng khóc. Nhưng gặng hỏi mãi, cô bé mới cho chúng tôi biết là cô bé đang học lớp 10, do bị điểm kém, nên bị mẹ mắng, buồn quá nên muốn tự vẩn. Đã mấy đêm liền cô bé đã ra đây, nhưng chưa thực hiện được cuộc tự tử. Cô bé nói : “Có thể đây là đêm cuối cùng trên cõi đời này của cháu!” Rồi cô bé khóc tiếp. Tôi thuyết phục mãi, nhưng xem ra cháu cũng không nguôi ngoai. Cuối cùng, với lòng tin, tôi bạo hỏi: “Cháu có biết đêm nay là đêm gì không?” Cháu bảo không biết. Và tôi nói : “Đêm nay là đêm mà Chúa Trời giáng trần, Chúa làm người vì nhân trần, vì tội lỗi chúng ta, Chúa đến để cứu loài người, trong đó có chú và cháu”. Và tôi cho cô bé biết là tôi ở trên thành phố Pleiku, nhưng đến đây với Đức Cha để dâng lễ cho bà con ở đây. Khi nghe đến từ Đức Cha, mắt cháu bé sáng lên, cháu gặng hỏi, thật hả chú. Và cháu bảo cháu cũng là người có đạo từ Miền Bắc vào, nhưng gia đình đã bỏ đạo từ lâu rồi, vì đâu có nơi để đi lễ? Và như Chúa thúc đẩy, cô bé thét lên, Cháu tội lỗi quá, Cháu muốn gặp Đức Cha để xưng tội. Hai chúng tôi chỉ về phía bờ, nơi có xe đậu, cháu vội vã đi thật nhanh, nhưng không may bị trật chân ngã xuống bờ đá bị đá chém toác chân, máu chảy đầm đìa. Chúng tôi cố gắng cấp cứu cho cháu, nhưng không thể cầm máu, nên sơ cứu vội rồi đưa cháu đến trung tâm y tế huyện. Đức Giám Mục tỉnh thức khi chúng tôi đưa cháu đến xe ôtô, và Ngài cùng đưa cháu đi cấp cứu giữa đêm khuya khoảng 2 giờ sáng. Trên xe Đức Giám mục đã giải tội cho Cháu. Máu ra nhiều quá cháu bé đã ngất đi. Sau khi đến bệnh viện, Cháu được một bác sĩ Công Giáo làm việc tại đây cầm máu và may lại chỗ thịt bị toác. Sau đó cháu tỉnh và cháu rất hạnh phúc vì có Giám Mục bên cạnh, được hoà giải với Chúa ngay trong đêm Chúa Giáng Sinh. Sáng hôm sau, Bố Mẹ cháu cũng rất xúc động khi biết con mình ở trong bệnh viện, được cứu thoát tai nạn hiểm nghèo và nhất là được cứu thoát tinh thần hoảng loạn của cô bé và cô bé đã tìm lại được bình an.

Tôi nghĩ mãi, ý Chúa nhiệm mầu, nếu không có cuộc “chạy trốn” của Giám Mục và Giám mục phải ngủ bờ sông, thì một linh hồn đã hư mất. Và tôi lại nghĩ biết bao con người đang sống trong bóng tối, của sự dữ muốn đi tìm hạnh phúc sống cho ra người vẫn còn đây đó rất nhiều đây đó mà Chúa chưa đến với họ.



Phải nói rằng đêm Giáng Sinh 2010 là đêm đáng nhớ, Đêm Hồng phúc cho nhân loại mà cách cụ thể là cô bé này và gia đình cô bé này. Càng ngẫm nghĩ, càng thấy nhân loại cần ơn cứu độ thế nào? Chúa vẫn thực thi những điều trọng đại cho nhân loại và cho mỗi người cụ thể nơi mỗi người.

Quay lại việc đánh lừa xe Giám Mục ở lại, công an kiểm tra không thấy Giám Mục thì lục soát nhà “các Dì”, 3 em học sinh trung học dân tộc cùng đi với Đức Cha chưa làm Chứng Minh Nhân Dân đã bị trục xuất ra khỏi nhà, các em rất lo sợ, nhưng rồi mấy gia đình Công Giáo xa đó được điều động xe máy đến chở các em đi ngủ tạm trong đêm khuya. Nhưng các em vẫn không ngủ được. Sợ suốt đêm.

Hình ảnh Đức Giám Mục Micae Hoàng Đức oanh, ngài là vị Giám mục mà đã đi ngủ bờ sông, để được đến dâng lễ với con chiên của mình ở vùng sâu xa. Và tôi nghĩ 25 Giám mục trên Nước Việt Nam này chắc đêm Giáng Sinh làm ở Nhà Thờ Chính Toà hay một nhà thờ lớn nào đó. Chỉ có Giám mục Kon Tum làm lễ ở mái hiên nhà giáo dân và ngủ bờ sông như thế. Thật đáng nể phục…

Và càng nghĩ về những người tháp tùng Đức Cha bị trục xuất giữa đêm khuya Noel 24.12.2010, và Giám Mục ngủ bờ sông. Tôi càng thấm thía mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh giữa đồng vắng, không “ai tiếp đón người nhà của mình” để Giám Mục và đoàn tháp tùng của Ngài ngủ giữa trời khuya lạnh giá.

Và rồi, vì mệt tôi thiếp đi một lúc trong tấm chăn ngủ trên xe, sáng dậy sờ tay trên mặt tấm chăn đắp, có một lớp sương mỏng đọng trên đó… Tạ ơn Chúa, cho con cảm nhận được cái rét đêm đông của Con Chúa Giáng trần.

Sáng hôm sau Giám mục đi dâng lễ ở Yang Trung, huyện Kon Cro, cách bờ sông ngủ qua đêm hơn 10 km. Sau thánh lễ Ngài ghè thăm một vài nhà giáo dân, trong đó có nhà của cháu Bé hôm qua bị “tai nạn”, gia đình cô bé rất vui mừng.

Tại Sơn Lang, như chương trình là 10 giờ sẽ có thánh lễ, nhưng chính quyền không cho tập trung gần 40 gia đình để dâng lễ, vị cán bộ xã nói: “Giám mục có quyền làm lễ, nhưng mỗi nhà 1 lễ, mỗi lễ không quá 1 tiếng đồng hồ”. Giám mục đã không đến dâng lễ với điều kiện này.

Chiều đến Ngài vượt qua hơn 200 km để dâng lễ ở ia Lâu, huyện Chư Prông, với 6 xe ôtô hộ tống. Rất nhiều công an chìm nổi theo dõi, ghi số xe và bố ráp, nhưng sau đó không có chuyện gì khó dễ.

Tạ ơn Chúa! Một Mùa Giáng Sinh bình an trong tâm hồn, nhưng thể xác luôn lo sợ trong một xã hội “quá nhiều sự dữ”.

Nguyễn Kỳ Vọng

Posted by: VanAnh Dec 28 2010, 09:16 AM




Giám mục bụi bờ


LTCG (23.12.2010) - Tôi đến Tây Nguyên trong những ngày lạnh giá mùa đông. Tin tức đưa về từ miền Bắc có nơi xuống còn 0,8 độ. Phố núi mùa đông nên chắc chắn rằng “ở đây buổi chiều, quanh năm mùa đông”. Nghe anh em bảo, bây giờ phố núi không còn quanh năm mùa đông nữa, vì rừng bị tàn phá và những mảng bê tông to lớn đang sừng sững mọc lên ở khắp nơi, rồi thiên nhiên ở đây sẽ bị bức tử như Đà Lạt thôi. Tôi chậm rãi cố gắng thưởng thức sự ngọt ngào của thiên nhiên trước giờ giãy chết.

Trước khi làm một cuộc hành trình lên phố núi, tôi đã đọc bài “Vị Giám Mục nhặt rác” của tác giả Kỹ sư vườn, hình ảnh về Đức Cha Micae in đậm rõ trong tâm trí tôi. Chẳng phải khi đọc bài viết này mà tôi có sự cảm phục ngài, nhưng hơn ba năm về trước, khi tôi có dịp đến Kontum, gặp ngài ở Tòa Giám Mục, sau những câu chuyện vui vẻ râm ran hết sức đơn giản và gần gũi, tôi chào ngài để theo anh em đi thăm Đức Cơ. Ngài tiễn chúng tôi ra cửa với lời nhắn “Các cậu đi trước đi, tớ còn một chút việc, tớ sẽ đến sau”.

Chúng tôi tới Đức Cơ, thăm ngôi nhà thờ dáng dấp căn nhà của anh em dân tộc, bằng những vật liệu gỗ phên tre nứa từ địa phương, anh em tôi đã dựng nên một nơi thờ phượng đặc thù tính dân tộc J’rai. Quỳ trong ngôi nhà thờ độc đáo này, tôi cảm nhận tình thương của Chúa thât đặc biệt dành cho những kẻ nghèo, những kẻ bị bỏ rơi, tôi kính trọng đức tin đơn sơ nhưng rất trong sáng và mãnh liệt của anh em dân tộc, Chúa thật tuyệt vời, Chúa có những cách thế để bù đắp những bất công do con người gây ra.

Rời nhà thờ Đức Cơ, anh em “dụ” tôi qua biên giới vào rừng sâu hơn để thăm các làng dân tộc, thăm những tâm hồn, những con người được Chúa thương đặc biệt, Chúa dành riêng cho Chúa và cho những ai từ bỏ tất cả vì Tin Mừng. Thật đặc biệt và thật thú vị với những cảm giác lạ lùng khi đứng bên những nhà thừa sai rất bình thường vì là anh em mình, nhưng cũng rất cao cả, rất huyền nhiệm vì họ đang đứng giữa rừng sâu, giữa những con người trong sự tuyệt đối bí mật của rừng, Chúa dành riêng cho họ, Chúa dành làm phần thưởng cho họ, không một luật lệ nào, không một sự kiểm soát nào, không một thứ thói đời nào đến được với họ trừ Tin Mừng.

Vượt trở lại biên giới về Việt Nam, anh em dẫn tôi về khu chợ gần biên giới, trời đã quá trưa và mệt mỏi, món dê núi được anh em giới thiệu như là đặc sản của vùng biên giới này, lạnh và đói nên chúng tôi rất vui vẻ vô tư thưởng thức. Sau cơm trưa, chúng tôi trở lại nhà thờ Đức Cơ, khi xe vào sân trong, bất ngờ chúng tôi thấy Đức Cha đang ngồi ngoài hiên, trò chuyện với những người bà con dân tộc. Ngạc nhiên và bối rối, tôi hỏi Đức Cha đến khi nào, ngài nói đến lâu rồi, không biết chúng tôi đi đâu nên ngài ngồi chờ. Tôi hỏi ngài ăn gì chưa, ngài nói ăn rồi, chúng tôi hỏi ăn cái gì và ở đâu, ngài nói ngài vào lục trong bếp, thấy có khoai và cơm, ngài đã lấy và ăn! Ăn xong ra ngoài hiên nhà thờ ngủ một giấc, tỉnh dậy khi thấy bà con dân tộc đi qua, ngồi lên trò chuyện với họ. Tôi không thể tin đây là sự thật, tôi không thể tin rằng một vị Giám Mục quyền cao chức trọng lại sinh hoạt như thế, anh em tôi bảo, ngài vẫn vậy! Vẫn vậy nghĩa là vẫn rất bình dân như vậy, vẫn xông xáo và gần gũi con cái như vậy, vẫn giản đơn và chan hòa như vậy. Khi ấy tôi không dám dùng một danh xưng nào để gán cho ngài, nhưng hôm nay, có một ông kỹ sư vườn nào đó đã dám gọi ngài là “Giám Mục nhặt rác”, xin cho tôi vô phép được gọi ngài là “Giám Mục bụi bờ”.




Lần này đến Tây Nguyên, vẫn như cũ, ngài tiếp chúng tôi trong căn phòng đơn sơ tềnh toàng của ngài. Tòa nhà chung quanh thật đẹp, thấp thoáng trong bóng cây, khuôn viên rộng lớn, nhưng căn phòng của vị Giám Mục thì lại rất giản dị, bộ bàn ghế salon ngay gần bàn làm việc, bước vào phòng trong là cái giường ngủ cũ kỹ tầm thường của ngài, bước qua một gian phòng khác nữa đồ đạc sách vở lộn xộn như nhà kho, cái ngách cuối cùng là nhà vệ sinh. Những điều này biết được vì ngài bảo chúng tôi đi việc cần trước khi cùng chúng tôi rời Tòa Giám Mục. Tôi đã có dịp ghé thăm rất nhiều giáo xứ, miền xuôi cũng như miền ngược, trong kiến trúc, giá trị căn nhà được đánh giá bởi tiêu chuẩn nhà vệ sinh, cũng như khoảng cách từ nơi nghỉ hay làm việc đến nhà vệ sinh, nếu được phèp đánh giá, với cả hai tiêu chuẩn trên, xin có ý kiến rằng nhà vệ sinh của ngài thua xa rất nhiều nhà vệ sinh của nhiều cha xứ. Còn vật dụng, không có gì ngoài một cục xà bông và một vài vật dụng rất bình thường khác. Cái áo không làm nên thầy tu, nhưng nó phản ánh khá rõ nếp sống của con người, chọn lựa của con người. Tôi vẫn đầy ngạc nhiên về sự khó nghèo đơn sơ của một vị Giám Mục.




Sau hành trình thăm viếng một nơi như đã định, ngài hướng dẫn tài xế tiếp tục đi xa hơn để khám phá những con đường mới, vì quá mới nên đôi chỗ tài xế ngại ngần không dám đi tiếp. Ngài thúc giục cứ đi, và bảo đảm rằng nếu xe gặp lầy ngài sẽ xuống xe để đẩy qua chỗ lầy với mọi người, từ đó mở ra cho đoàn chúng tôi những khám phá mới. Con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, mọi người ngỡ tưởng dẫn vào một nhà máy thủy điện nào đó, ai ngờ lại là con lộ dẫn vào một làng người dân tộc Gié. Ánh mắt của ngài sáng rực lên khi nhìn ra một ngôi làng dân tộc nhấp nhô sau rặng cây bên dưới thung lũng, ngài nói luôn miệng về niềm vui khám phá này. Vào làng, bước ra khỏi xe, ngài tiến đến với những bà con dân tộc, tìm cách bắt chuyện bằng các thứ ngôn ngữ mà ngài biết được, may thay có vài người biết nói tiếng Bana, ngài vội vã ghi hình, thăm hỏi đủ thứ, trước khi chia tay ngài không quên nói với họ ngài sẽ trở lại thăm họ lần nữa. Trên xe có một số trái cây, ngài lấy đưa hết cho họ và vui vẻ chụp hình chung. Cứ vậy ngài mê mẩn với những ngôi làng dân tộc quên cả thời gian, trên xe đã có người dám vượt qua sự tế nhị để nhắc ngài rằng đã 2g00 chiều mà chúng ta chưa ăn trưa, ngài đồng ý quay xe đi tìm một quán ăn bên đường để lót dạ. Chiều xứ sở Tây nguyên đã bắt đầu có gió lạnh, cái đói càng làm chúng tôi lạnh hơn, hình như ngài không biết đói.




Qua chuyến hành trình với ngài, và những gì trong quá khứ tôi có thông tin về ngài, tôi nhận ra một giá trị có thật mà ngài theo đuổi, đó là Ơn Cứu Chuộc phải đến với mọi người, gieo vãi Ơn Cứu Chuộc là quyền bất khả xâm phạm của Hội Thánh. Giám Mục cũng như mọi Kitô hữu có trách nhiệm tìm kiếm và chia sẻ Ơn Cứu Chuộc đó cho mọi người, nhất là người nghèo, người đang bị bỏ rơi hơn cả.

Nhiều năm về trước, khi được tin Tòa Thánh tuyển chọn Đức Cha Micae làm Giám Mục Kontum, tôi và một số bạn bè mỉm cười “đánh giá” không cao về con người này, nhìn chung không có gì trổi trang cả, vẫn cái nhìn rất thế gian, tiêu chuẩn bằng cấp, tiêu chuẩn trí thức, tiêu chuẩn bộ dạng,… không có cái nào đủ làm cho dư luận tin cậy. Nhưng những năm sau này, ngài trở thành vị Giám Mục dám lên tiếng về những bất công, nhưng điều quá nhức nhối của xã hội, những cách hành xử coi thường và o ép tôn giáo tại những địa phương mà ngài biết. Nơi ngài lập trường về Giáo Hội rất rõ rệt, một lập trường về tự do tôn giáo, về quyền sống và quyền làm người. Khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường, Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã chia sẻ cho chúng tôi (những sinh viên của ông) về Đức Gioan 23, ông tỏ vẻ hối tiếc và sám hối về những nhận định sai lầm ông đã có về Đức Gioan 23, vị Giáo hoàng mà ông đã có những đánh giá sai lầm khi được tuyển chọn, vị giáo hoàng ấy đã làm nên lịch sử Hội Thánh, đã mở được cánh cửa đón lễ Ngũ Tuần lần thứ hai. Trong tôi cũng cùng một nỗi day dứt ấy, cái cám dỗ đánh giá con người qua bằng cấp, qua bộ dạng, qua những hoạt động quả thật là một cám dỗ khó vượt thoát.

Trong một bài góp ý của linh mục Chân Tín, dcct với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (2010), cha già Chân Tín đã mạnh dạn đề nghị có một vị Giám Mục dấn thân hoàn toàn cho công cuộc truyền giáo, vị Giám Mục này không có Giáo Phận phải chăm lo nhưng ngài có cả một đất nước để loan báo Tin Mừng, có bao nhiêu anh em dân tộc để dấn thân, để ăn bờ ngủ bụi, để yêu thương tìm kiếm, để mang Ơn Cứu Chuộc đến cho mọi người. Đức Cha Micae đã hé lộ cho cha già thấy về một ước mơ như vậy, một ước mơ về mục tử như lòng Chúa mong ước, xin hết lòng bái phục vị mục tử bụi bờ của Thiên Chúa.


Lm. Tùng Dương, dcct.

20/12/2010

Posted by: VanAnh Jun 2 2011, 07:32 AM



Biểu diễn văn nghệ trong lễ hội

Lễ hội con dúi của người Ba Na ở Gia Lai


Với ý nghĩa cầu mong cho cuộc sống của mọi gia đình trong thôn bản được ấm no, hạnh phúc, hàng năm, người Ba Na ở Kon Pne lại tổ chức một lễ hội được gọi là lễ hội con dúi đặc sắc, chỉ riêng có ở xã Kon Pne(huyện Kbang – Gia Lai).

Trước một tháng diễn ra lễ hội, mỗi gia đình phải đi tìm được một con dúi và một ghè rượu cần dùng trong suốt thời gian diễn ra lễ hội. Đây là hai lễ vật bắt buộc trong lễ hội con dúi.

Thời điểm diễn ra lễ hội là khi mùa lúa mới vừa bắt đầu trổ bông. Chủ một gia đình sẽ mang lễ vật đến nhà rông của thôn bản và đặt ở đây để cúng Giàng, cầu mong Giàng phù hộ cho mùa bội thu, các con vật không về nương rẫy phá hoa màu.

Lễ hội chỉ diễn ra trong vòng 2 ngày đêm nhưng phải chuẩn bị đến tận 7 ngày. Mọi thứ đều được trang trí công phu và cẩn thận. Một cây nêu được dựng lên giữa sân nhà rông, con dúi sau khi luộc chín sẽ được cắm vào một cái que từ đuôi lên đến đầu treo lên cây nêu này. Con dúi của gia đình nào thì gia đình đó cắm que đánh dấu để không bị lộn với các con dúi của gia đình khác. Các ghè rượu cần được làm từ men của các loại cây rừng cũng được bày thành từng hàng ngay ngắn giữa sân nhà rông, mỗi ghè rượu cần sẽ được bày xen kẽ với một con dúi. Phía dưới và khu vực xung quanh sẽ trang trí các con vật linh thiêng và vẽ những hình ảnh mang tính chất tín ngưỡng của người Ba Na.


Cây nêu được trôn giữa sân nhà rông


Sau khi trang trí và chuẩn bị xong những lễ vật cần thiết, già làng sẽ tiến hành cúng Giàng theo nghi lễ của người Ba Na. Tất cả mọi người trong bản sẽ tập trung về nhà rông để nghe già làng cúng và cùng cầu nguyện cho mùa màng của gia đình bội thu. Sau nghi lễ cúng của già làng là các tiết mục văn hóa văn nghệ.

“Họ xem con dúi là biểu tượng của sự cần cù và siêng năng nên cả năm sẽ không bị đói. Bản năng của con dúi là khi đi kiếm thức ăn gặp gì nó cũng ăn vào bụng nên lúc nào nó cũng no. Chính vì vậy mà lễ hội con dúi này chỉ diễn ra duy nhất đối với người Ba Na ở xã Kon Pne này thôi”.

“Sau một đêm cúng ở nhà rông, đến trưa ngày hôm sau con dúi sẽ được xẻ thịt để mọi người cùng ngồi bên nhau uống với rượu cần, khi đó mọi người sẽ trao đổi với nhau những kinh nghiệm làm ăn để sản xuất, cải thiện đời sống. Khi uống hết ghè rượu cần này thì tiếp tục mỗi hộ gia đình lại góp thêm một ghè rượu cần nữa để tiếp tục uống cho đến hết ngày hôm sau. Đến buổi tối, mọi người sẽ chuyển về nhà mình tiếp tục làm lễ mong Giàng phù hộ cho mùa màng. Thịt con dúi của mỗi gia đình sẽ được xẻ ra chia phần cho mỗi gia đình trong thôn” – anh Đinh Kre kể lại.

Anh Nhơn – người nhân viên trực đài truyền thanh của xã tâm sự: “Lễ hội con dúi là một lễ hội đặc biệt, chỉ có riêng của người Ba Na ở Kon Pne. Thông qua lễ hội con dúi diễn ra hàng năm, những người dân tộc Ba Nar muốn giáo dục con cháu trong thôn bản phải chăm chỉ làm ăn mới mong có được một cuộc sống no đủ. Không vi phạm pháp luật bằng những thói quen xấu như trộm cắp, ăn chơi sa đọa”.

Posted by: VanAnh Jun 10 2011, 08:25 AM




Rợn người nghĩa địa treo Tây Nguyên


Khắp đại ngàn Tây Nguyên đều thăm thẳm bởi rừng núi âm u, tĩnh mịch, nhưng có lẽ nơi mà khiến người ta rợn người nhất đó chính là khu nghĩa địa treo hay còn gọi là “rừng ma” của làng Vai Trang (xã Đắk Long, Đắk Lei, Kon Tum).

Khắp khu rừng ngổn ngang những quan tài của người chết, cái thì được treo lơ lửng trên cọc gỗ, cái thì gãy gục xuống đất...

Hủ tục ngày xa xưa

Người Dẻ Triêng luôn tin rằng, người chết có một năng lực siêu nhiên và họ có thể làm được bất cứ chuyện gì trên cõi đời này, kể cả việc "bắt" linh hồn của người sống đi theo. Chính vì vậy, người Dẻ Triêng ở làng Vai Trang không chỉ rất sợ hồn ma người đã chết mà còn xem hồn ma đó đang còn "sống" với một khả năng siêu phàm.

Vì lẽ đó nên với người dân làng Vai Trang, mai táng người chết theo hình thức nào đều không quan trọng: "Mình có chôn người chết xuống đất, xây bốn bức tường kín mít thì cái hồn của nó vẫn ở trên thôi. Nó không nằm dưới đất đâu, xây kín nó cũng đi được, chỉ có mình là không đi được thôi. Nó giống như con mối, con mọt trong nhà mình ấy, xây nhà rồi mà nó vẫn đục tường, đục gỗ đi được, con ma cũng vậy", trưởng thôn A B'lã lý giải.

Chính vì quan niệm trên nên người còn sống rất sợ người đã khuất. Sợ đến nỗi nếu trong gia đình không may có người chết, gia chủ lập tức vội vàng kiếm quan tài đặt người chết vào trong, khiêng luôn ra nghĩa địa, đóng cọc treo quan tài lên rồi mới về nhà làm lễ thờ cúng.

Việc mai táng người chết đều do những người thân trong gia đình tự lo liệu. Nếu có bà con hàng xóm tham gia thì cũng chỉ phụ giúp những việc lặt vặt ở nhà. Nếu chồng chết thì vợ nhờ một số người ruột thịt, thân thiết nhất khiêng quan tài không ra nghĩa địa, sau đó người vợ mang thi hài chồng ra bỏ vào quan tài. Ngược lại, vợ chết thì người chồng cũng làm như vậy, cha với con cũng thế.

Một góc "rừng ma" Vai Trang

Người làng Vai Trang có quan niệm chết là sang một thế giới khác, nên vẫn cần con trâu, con bò để cày, vì thế họ gửi trâu, gửi bò cho người chết để họ có cái mà làm ăn sinh sống! Người còn sống còn rất lo lắng cho người chết phải "sống" một cuộc sống nghèo khổ, túng thiếu, không có dụng cụ sinh hoạt và mưu sinh nên họ đã chia rất nhiều của cải cho người người chết mang theo.

Để vừa chu toàn hơn cho người chết vừa giúp bản thân mình được an toàn, tránh bị "con ma" về trù ẻo và tìm cách làm hại, sau khi mai táng người đã khuất ra nghĩa địa xong, gia chủ phải lập tức làm thịt trâu, bò, lợn, gà để cúng người chết.

Dù ông và người dân trong làng chưa từng nhìn thấy "con ma" lần nào nhưng ông A B'lã vẫn giải thích: "Mình phải làm thịt trâu ở nhà cúng để người chết về lấy linh hồn con trâu mang theo, còn mình và dân làng ăn thịt. Nó sống ở bên kia cũng nghèo, mình cho nó cái hồn con trâu, con bò... để nó tạo điều kiện cho mình làm ăn, nó không về hại mình nữa".

Bước qua nỗi sợ hãi

Nghĩa địa treo của làng Vai Trang là một khu rừng chỉ cách làng chừng 600 mét, nhưng không có người nào dám đặt chân đến đó, duy chỉ có ông A B'lã "dám" đến một, hai lần cùng với một số cán bộ.

Khi chúng tôi thuyết phục ông B'lã dẫn ra khu rừng "ma" thì ông nhất quyết không đi vì lo ngại: "Mình sợ lắm, không dám đi đâu. Năm vừa rồi mình đã làm thịt 2 con bò để cúng con ma rồi, mình hết bò rồi không có để cúng nữa. Mình nghèo rồi, năm nay làm ăn vất vả khổ cực không đủ lo cho vợ, cho con, nếu ra đó không có bò cúng cho con ma là nó sẽ bắt mình đi theo nó".

Thế là dù sợ không kém gì ông thôn trưởng, nhưng chúng tôi cũng quyết định xâm nhập vào rừng ma mà không cần người dẫn đường. Vừa bước vào khu rừng, chúng tôi đã nhìn thấy một vài ngôi mộ được xây bằng gạch đá, xi măng nhưng do không được xây kín đáo, khiến những mùi uế khí bốc tỏa ra nôn nao khắp nơi phảng phất trong khu rừng.

Để đi qua được những ngôi mộ này, chúng tôi phải vạch cây, phải luồn và tránh những cây nứa, dây dại mới vào sâu được bên trong. Đó là những ngôi mộ được chôn dưới lòng đất, không có bờ xây, bị lá cây phủ kín chỉ được đánh dấu bằng một chiếc ghè rượu đặt bên cạnh. Chúng tôi nhẹ nhàng bước từng bước qua những tiếng kêu rộp roạp của lá cây rừng để vào trong mà không phải dẫm lên thi hài của người đã khuất.

Đi sâu vào khoảng 20 mét nữa, những chiếc quan tài treo dần dần lộ ra trước mặt chúng tôi. Cái thì nằm lẻ loi, đầu chúc xuống đất vì cọc treo đã mục gãy. Có chỗ thì hai chiếc quan tài đặt song song cạnh nhau. Khắp nơi, cứ cách vài mét lại thấy xuất hiện những chiếc quan tài treo lủng lẳng.

Chúng tôi chỉ kịp nhớ lại lời nói của ông thôn trưởng: "Vợ chồng thì được treo cạnh nhau, vợ bên trái còn chồng bên phải. Cháu chắt sẽ được đặt dưới hòm của ông bà, con cái thì treo xung quanh".

Những chiếc quan tài này được làm bằng gỗ, thiếc hoặc tôn. Người dân ở đây thường lấy vỏ bom bi hoặc thùng xăng gò hàn thành những chiếc quan tài rất đẹp và chắc chắn cho người chết. Xung quanh các cỗ quan tài này treo ngổn ngang nào chăn, màn, chén, bát và đầy đủ những vật dụng sinh hoạt khác của con người, đây chính là phần của cải mà người còn sống chia cho người đã chết.

Ông thôn trưởng cũng cho biết, trước đây để khiêng quan tài đến khu rừng ma này, người khiêng phải chịu rất nhiều khó khăn vì mùi xú uế từ xác người chết bốc ra. Nhiều chiếc quan tài không được che chắn cẩn thận, nắp bật ra ngoài.

Theo các cụ già sống tại làng Vai Trang thì: Tục táng treo ở nơi đây đã có từ bao đời nay rồi, và cũng không ai có thể biết rõ, chỉ biết là tục này đã có từ trước ngày giải phóng.

Tục táng treo thật ra rất phức tạp, tốn kém và mất nhiều thời gian, vì khi chôn treo như vậy, người thân của người chết phải mổ trâu, mổ bò và phải có nhiều rượu ghè cho dân làng đến ăn uống để làm giúp những công việc như: Chuẩn bị hòm, cây để gác và nhiều công việc khác. Vì nếu không làm như vậy thì gia đình có người chết sẽ luôn gặp rắc rối và xui xẻo, làm ăn không ra gì và luôn ốm đau!?

Vài năm trở lại đây, người trong thôn được chính quyền địa phương vận động, họ đã bỏ dần tục táng treo. Tuy nhiên, người đã khuất vẫn được chôn theo phong tục vợ chồng đặt cạnh nhau. Và cho đến hôm nay, trong tiềm thức người làng Vai Trang "người chết vẫn còn "sống" nên dù chôn như thế nào, họ cũng không dám ra lại nghĩa địa”. "Rừng ma" rồi sẽ chỉ còn là tàn tích một thời hủ tục của người dân Dẻ Triêng

Posted by: mviet Sep 1 2011, 06:25 PM





Pleiku Nắng Bụi Mưa Bùn

(Kính tặng những ai, đã một lần đến và sống tại thành phố Pleiku để hồi tưởng về kỷ niệm)
Thời chiến tranh Việt Nam, Pleiku là một địadanh mà hầu như ai cũng biết. Một thành phố, (đúng ra là một khu thị trấn) dân cư thưa thớt, mà đa số là dân người Thượng. Một nơi đèo heo hút gió xa tít tận miền cao. Vậy mà tiếng tăm, và vang bóng một thời.Cuộc chiến đã làm nên tiếng tăm? Hay nói đúng hơn là “người lính” đã làm nên một địa danh nổi tiếng này.Ngày trước, ai đã từng là lính chiến? Ai đã từng là kẻ “bị đày”? Và ai đã từng là dân “tứ chiếng”, là kẻ “giang hồ”? Thì đất địa Pleiku là nơi được mời gọi.

Tôi đến Pleiku vào giữa năm 1969. Không phải là gì gì cả, mà là một sĩ quan mới ra trường. Về đơn vị binh chủng Lực lương Đặc biệt, SQ hoặc HSQ mới ra trường là phải đi tác chiến, thử lửa một thời gian. Ai cũng vậy. Coi như phải chấp nhận thử thách, gian nguy, phải rèn luyện “da ngựa dậm nghìn” cho đáng mặt làm trai.Những ngày đầu mới đến Pleiku thật lạ lẫm, chán chường. Một phố thị chỉ như là một thị trấn nhỏ lại lắm người. Dân địa phương thì ít mà tứ xứ thì nhiều. Những năm trước (từ 1966-67), từ khi có bước chân các “chú Sam” đến là sôi động hẵn. Người ta nói: Mỹ đến đâu là như có “mật” ở đó. Đàn ong, lũ kiến, ruồi nhặng bay theo. Có lẻ cũng không sai, vì từ dạo đó, Pleiku tiếng tăm lừng lẫy.Phố xá nhỏ hẹp. Phố Pleiku chỉ có 5-7 con đường ngang dọc. Đường phố chính là Hoàng Diệu, đi từ đầu đến cuối đường, hút chưa tàn điếu thuốc. Chung quanh thì làng mạc thưa thớt dân cư. Một thị trấn vùng núi, đèo heo hút gió. Vậy mà, những gì ở nơi khác có là Pleiku thời dạo đó vẫn có – có đủ cả. Có quán xá, có bar, có nhà hàng, có vũ trường, có đĩ điếm, có trác tán, ăn chơi… Dân tứ phương đổ về, góp phần cho Pleiku bao thứ hay, thứ dở. Người ta về làm ăn, về tìm việc, sinh nhai, sinh kế kiếm tiền. Về để kiếm sống, và cũng về … để chết.Một bộ tư lệnh quân đoàn nằm đó, và một phi trường lớn cũng ở đó (phi trường Cù Hành). Ngày đêm xe cộ tấp nập tới lui và máy bay lên xuống không ngớt. Từng đoàn quân, từng đơn vị, lính ở đâu cũng lần lượt kéo về, ghé qua, trú đóng. Nhiều thứ lính, nhiều đơn vị, binh chủng, được gọi là “thứ dữ”, thứ “bất trị”, đều có mặt. Nhiều chủng tộc, sắc dân. Không lừng lẫy, tiếng tăm sao được? Người ta hát, qua câu vè ví von: “Pleiku đi dễ khó về, trai đi bỏ mạng, gái về nát thây”. Nghe mà phát ớn.Tuy nhiên, nói vậy, tiếng đồn như vậy, nhưng mà không hẵn là vậy. Thật sự thì Pleiku không dữ dằn, không khắc nghiệt lắm đâu. Mà là một nơi dễ mến, và cũng “thân thiết”.Tôi đã đến đấy gần hai năm và khi ra đi, cảm thấy nhiều lưu luyến. Xin kể:Pleiku có khí hậu giông giống như Đà lạt. Một vùng đất cao nên khí hậu mát quanh năm. Cây cảnh hoa màu, Đà lạt trồng được thứ gì thì Pleiku cũng trồng được thứ đó: bông hoa và rau trái. Ai đã có đến vườn hoa Phú thọ? Một xóm ngoại ô (chỉ cách thị xã vài cây số?) với nhiều vẻ nên thơ, tình tứ, đẹp không ngờ. Hoa rất nhiều và đủ thứ. Hoa khoe săc muôn màu. Ngoài hoa là cây ăn trái. Mít ngon đặc sản vùng này. Tha hồ mua, tha hồ hái trái và tha hồ ăn, cho dầu “kẻo nhựa vân tay”. Mít, hoa chỉ là cái cớ. Nếu vào Phú thọ, khách còn tìm nhiều cái khác nữa: Cùng mấy em đi dạo, tìm “sầu riêng”, “măng cụt”, hái “vú sữa” chín mềm, mân mê “mận hồng đào” da trơn thơm ngát (nghĩa bóng). Mặc sức mà thưởng thức. Thú vị làm sao! Nhưng mà cũng phải cẫn thận, coi chừng. VC cũng thường mò ra và mời đi “du ngoạn”..Đi dạo biển hổ. Phong cảnh đẹp và thơ mộng. Thiên nhiên đã ưu đãi cho vùng đất địa rừng núi Pleiku. Một cái hồ khá là rộng, chu vi hàng mấy cây số (tôi không được rõ diện tích, nhưng thấy là lớn rộng). Nước phẵng lặng xanh trong. Bao quanh từng khoảng cây rừng, sương giăng mờ mịt. Nghe nói biển hồ không có đáy? Nước không bao giờ cạn kiệt. Một đồi đá thấp, nơi vui chơi, hò hẹn rất thơ mộng, rất trữ tình. Có am, có chùa, tượng phật, cây cảnh. Từ trên đỉnh dài xuống mé mặt hồ, từng nơi, từng chổ, hấp dẩn, gọi mời. Đã có biết bao mối tình hẹn hò, thề ước tại đây? Pleiku nắng bụi, mưa bùn? Những ngày mưa dầm rả rít, mưa không dứt, thành phố trở nên ãm đạm. Vậy mà cũng ít ai “an phận” nằm nhà, nằm queo doanh trại để mà nhai gạo sấy, thưởng thức lương khô? Nếu không phải bận công tác, trực hành quân thì cũng “bay” ra phố, vô quán cà phê, quán nhậu. Hay ít nhất cũng tạt vào “lữ quán” Bà Tám (cầu số 3) để giải buồn. Ở đây, các em tươi mát, chí nghĩa, chí tình. Tiền không có cứ “ghi sổ”, lương lãnh trả sau. Bà Tám rất là điệu nghệ.




Nắng bụi? Đúng là như vậy. Bụi đường đất đỏ, màu đỏ gạch, bám vào trên thân thể, trên áo quần, trên nón, trên giày…Dầu anh đi về đâu, nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết: anh về từ “miền đất đỏ bụi mù” Pleiku, phố núi.Dấu giày in phố núi - Bước chân anh lấm bụi hồng - Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng - Lê gót phong trần, anh một thuở dừng chân. Pleiku hầu như con gái khắp tứ xứ, khắp mọi miền. Đủ “kiểu”, đủ “cở”: Từ cô gái Huế nằng nặng giọng nói nghe êm tai đến các nàng “nẩu” (dân Phù cát, Phú Yên, xứ Quảng). Quen nàng, chỉ nghe nàng nói cũng đã thấy vui tai. Dân miền Nam, tôi cứ “hả?” hoài mà không hiểu được nàng nói những gì. Các em Bình Định, Nha trang, Tuy hòa, Sài gòn, miền Tây, và cả dân Bắc (kỳ) cũng không thiếu. Pleiku hầu như qui tụ “bông hoa” khắp mọi miền đất nước.
Đã có nhiều cơ hội, nhờ quen với Tiểu đoàn 20/CTCT. Ban văn nghệ Tiểu đoàn qui tụ khá nhiều ca sĩ – con gái khắp mọi miền – Vài ba tuần lễ, một tháng mở “bale”, mở tiệc rước mời. Rước cả những “em Pleiku” (cở tuổi choai choai 16, 17, 18… ham vui, thích nhảy). Đến để mà tha hồ hát ca, nhãy nhót.



Đơn vị B17/LLĐB, thời thiếu tá Ngô đình Lưu (tay chịu chơi, hào hoa phong nhả) ông cho lập một “vườn tao ngộ”. Trồng hoa kiểng, có ghế đá, xích đu, có bàn ngồi ngắm trăng, uống rượu, tán gẩu nói chuyện phào. Các cô rất thích. Thích vì được chìu chuộng săn đón. Ca hát nhãy nhót cho đã, mời các em ngắm, dạo vườn hoa – hoa muôn sắc, hoa muôn màu – các em rất thích. Thích thì cứ ngắm, cứ chơi. Và… thích nữa… thì cứ ở qua đêm cũng được…Nhờ thế, mà Pleiku dù là xứ “bị đày”, vẫn không thấy buồn, thấy chán. Vừa đi hành quân, lội rừng, đánh giặc, vừa chơi bất cần đời mà cảm thấy cuộc đời… vẫn đáng sống. Chiến tranh dù nghiệt ngã, chết chóc, dù hủy hoại mọi tương lai. Đời lình dù phải sống nay, chết mai, vẫn không sợ. Kẻ này đi, người khác đến, qua bao tháng năm, vẫn cứ chiến đấu, cứ vui chơi. Nếu không vui, nếu không “xả lán” quên đời thì làm sao mà chịu nổi. Cứ chơi, cứ lăn xả, và cứ… quên mình. Pleiku vẫn luôn là nơi yêu đời, vui sống.Không vui chơi ở đơn vị, thì vui chơi ở các tửu đìếm, nhà hàng. Hai cứ đìểm: Hoàng Liêng, Mimosa, là nơi “đóng quân” hàng đêm của lính. Có tiền thì vung vít, ít tiền thì một ly cà phê đá, một gói thuốc cũng đủ cho “nữa đêm về sáng”. Giờ giới nghiêm không là quan trọng. Chưa say, chưa xỉn chưa về. Say quá, gục ngã, nằm đường, có quân cảnh chở đưa về. Cùng lắm là “ký củ”. Cả mạng sống còn chẳng màng, sá gì năm, mười ngày “trọng cấm” lẻ tẻ.Ngang tàng mọi nơi, ăn chơi mọi chổ. Và có lẻ từ tính vung vít bạt mạng, chơi không biết sợ của lính núi rừng mà địch quân phải nể sợ. Sợ những thằng lính liều mạng, liều mình. Liều mà đánh giặc, giữ vững được đất nước quê hương. Sau này, quê hương, đất nước có phải bị mất đi là tại, do ai? Tại những tên (ngồi mát ăn bát vàng) hèn nhát, khiếp nhược. Chắc chắn không phải tại mấy tên lính “ba gai” chẳng bao giờ biết sợ, bất cần đời, coi thường mạng sống…Cà phê Hoàng Lan, những đêm không ngủ được, những lần nhậu xĩn quắc cần câu, ghé Hoàng Lan để thưởng thức hương vị tách cà phê. Đắng bờ môi mà ngọt ngào tình cảm. Mùi hương thoang thoảng. Hương hoa (từng nụ) ngọc lan phảng phất về đêm. Hương hăng hắt của mái tóc thả lững bờ vai của em (bé) Monique H’ Lem, người con gái Thượng lai Tây có dáng dong dỏng cao, mũi thẳng, cặp mắt lắng sâu màu xanh lục, đôi môi mọng, cười rất duyên, và … đẹp đéo chịu được. Tôi đã ghiền và đã mê “Hoàng Lan” hầu như một dạo. Trời xui đất khiến để tôi, dân trai xứ miền Tây (thiếu gì con gái đẹp) lại xúc động, mê say một người con gái Thượng xứ bụi mù. Không biết ai đã từng đến Pleiku, và đã từng “uống” cà phê Hoàng Lan (1970). Xin xẻ chia chút tâm tình này. Trên bốn mươi năm. Bây giờ vẫn nhớ.

Còn nữa! Quán bún về đêm, có một “o” xứ Huế. Giọng nằng nặng, êm ái nhẹ nhàng, quyến rũ làm sao. Em chỉ là người làm công chạy bàn mời khách. Vậy mà đêm nào không ghé, không thưởng thức vị bún bò thơm lừng, ăn ớt vào “cay té lưỡi”, nước mắt tuông tràn, thì về nhà không ngủ được (vì đói). Em bé Huế dễ thương ơi! Bây giờ, em ở đâu? Chắc đã chồng con, đã già đi, da mồi tóc bạc? Nếu em còn sống? Dẫu sao, kỷ niệm một thời nơi xứ nắng bụi mưa bùn, cũng còn “một chút gì để nhớ, để thương”...Pleiku, một phố thị nhỏ mà đi không giáp. Đi hoài vẫn còn chổ để đi. Nếu có được một em bên cạnh đi không biết mõi, không biết chán, và thời khắc cũng như ngưng đọng, ngừng trôi. Các em là dân tứ xứ, và các anh cũng từ mọi nẻo về đây. Bọn anh vì “bị đày” mà đến, còn các em do“tự nguyện” mà về. Về đây đi em? Về để bắt gặp và làm quen (cả làm tình) với những tên lính “bụi” như anh. Chắc cũng không phải em ham tiền, ham cao sang danh vọng, hoặc ham làm kiếp “giang hồ” mà là do định mệnh an bày sắp đặt? Mình không tránh được. Cuộc đời lính, kiếp giang hồ, thân phận giống như nhau? Có các em để đời các anh thêm ý nghĩa (dù không trong sạch, chả thanh cao). Nhưng các em cũng đã góp phần, góp sức cho cuộc chiến, cuộc đời. Dở hay. Hay dở? Cứ mặc! Tầm thường hay thánh thiện? Chẳng màng! Chiều Biển Hồ.Một buổi chiều, sau chuyến hành quân về, chờ vự vụ lệnh (thời gian đó, đi phép bằng SVL), đi Sài gòn. Chúng tôi, hai thằng mượn chiếc xe Jeep của chỉ huy phó để đi một vòng phố xá. Nói là chỉ đi dạo phố, chứ thực sự là đi kiếm chổ nào đó để giải khuây.Trời xế chiều, Pleiku vắng ngắt một số đường. Hai đứa vừa đảo một vòng vẫn chưa có ý định đi đâu. Một chiếc xích lô ngược chiều chạy tới. Trên xe hai nàng con gái đẹp mặc áo dài. Trời, mặc áo dài đi dạo phố giữa xế trưa thì không phải là dân địa phương. Tên chạy xích lô cũng điệu, chạy chầm chậm và ngừng lại trước đầu xe Jeep. Tôi dừng xe, bước tới. Hai người đẹp có ý hỏi tìm địa chỉ nhà. Tôi móc ví trả tiền xe.
-Xin đừng ngại. Hai cô về đâu tôi…, xin phép, chúng tôi có thể đưa hai cô đi.
Tụi tôi chỉ đi chơi, đang rãnh…
Một nàng e dè. Nàng kia bước xuống đưa địa chỉ tìm nhà.
-Chị em em từ Qui nhơn lên tìm nhà đứa bạn. Địa chỉ này…
-Đường Hai Bà Trưng. Cũng không xa mấy! Tụi tôi đưa hai cô đi. Nếu hai cô không ngại.
-Sợ phiền các anh!
-Không sao. Tụi tôi cũng muốn làm việc nghĩa. Vả lại, rất hân hạnh được các cô cho phép.
Thằng bạn nhanh nhẩu tiếp xách cái túi hành trang để vào xe và trịnh trọng mời hai quí nương lên xe yên vị….
Chó ngáp phải ruồi! Buồn ngủ gặp chiếu manh.! Ở đâu mà khiến xui như thế này?
Vừa đi, vừa gợi chuyện. Thì ra hai cô giáo lên Pleiku chơi. Cũng muốn tìm biết đây đó một vài nơi xinh đẹp ở xứ bụi mù. Trời còn sớm. Mời hai nàng cùng đi một vòng Pleiku cho biết, và sau đó là ra viếng cảnh biển hồ.Một buổi chiều quá là mộng, là mơ, làm quên đi bao gian khổ chiến trận mấy ngày qua: leo rừng, lội núi. Và quên cả cái sự vụ lệnh đi phép đang chờ. Tôi, thằng bạn, cùng hai người khách bất chợt thật là vui. Hai nàng cũng thành tâm và quyến rủ. Bờ hồ sương giăng lãng đãng. Mặt hồ lăn tăn một ít cơn sóng gợn buổi chiều hôm. Cảnh vật quá mộng, quá thơ, quá hửu tình. Hai thằng lính hành quân về chưa kịp hớt tóc, chưa kịp diện đồ. Bù xù tóc tai, áo quần nhà binh xốc xếch, vẫn không làm suy giảm những ân tình của hai em gái hậu phương – hai cô giáo miền biển mặn, cát vàng khát khao “tình anh lính chiến”.Thêm một đêm, và gần một ngày (hôm sau) với tình yêu thương nồng thắm. “Hai mươi hai” giờ, quả là ý nghĩa, quả là thú vị cuộc đời.Chúng tôi chia tay, hẹn ngày tái ngộ, đưa hai nàng về địa chỉ hai nàng cần tìm. Lưu luyến chia ly, giã từ, hò hẹn…Tôi về, năn nỉ thiếu tá chỉ huy phó gần đứt lưỡi. Ông chỉ giận dỗi một lúc, rồi mọi việc cũng qua. Lên Ban 1 nhận sự vụ lệnh, bay Sài gòn đi tiếp mấy ngày (phép) còn lại.



Tình người bản thương.
Làng Pleimrong, cách Pleiku khoảng 30km. Là một buôn làng giàu có thịnh vượng nhất vùng. Có một trại lực lượng đặc biệt (do Đ/úy Báu làm trưởng trại). Hầu hết biệt kích quân là người thượng (khoảng một tiểu đoàn (350-400 quân). Mỗi lần đi hành quân vùng Pleimrong là coi như đi dưỡng sức, vì địch (khi đó:1970) chỉ lẻ tẻ đơn vị nhỏ. Một vùng khá an ninh nhờ đ/u Báu thường xuyên tung quân hành quân lục soát.. Một lần, tôi cùng đơn vị (tiểu đoàn) BKQ/ Tiếp ứng về đó hành quân, các đại đội thì đóng bên ngoài. Tôi, SQ phụ tá Toán A174 (chỉ huy TĐ)/BKQ/TƯ - chỉ theo với nhiệm vụ cố vấn - nên tà tà đi nhìều chổ cho biết.
Buồn, không làm gì, đi vào mấy nhà thượng (kiếm những nhà giàu). Sức giàu của một nhà thượng ở đây không thua gì người kinh. Nhà sàn, cây danh mộc, mái ngói. Tài sản có hàng bạc triệu (năm 1970): một đàn bò 5-7 chục con, đàn dê cũng 5-6 chục. Heo lúc nhúc, gà lung tung chạy khắp vườn. Mua một con (gà) lớn nhỏ đều đồng giá. Nếu con nhỏ, sau này cũng lớn vậy thôi, núi rừng nuôi nó (người dân thượng bảo vậy). Vì thế không có chuyện so sánh lớn bé. Có một lần, vào dịp tổng thống Thiệu đến thăm, và ông được dân làng đãi rượu cần. Hai cái “ché” chứa rượu cần dành đãi tổng thống, trị giá 200.000 đồng/cái. Dân làng tổ chức tiếp đón rất rình rang.Nhà giàu, có con gái –thuộc hàng tiểu thơ – không làm gì, thường ở nhà dệt vải. Trông “tiểu thơ” ngồi dệt vải cũng quí phái lắm. Dệt những thứ thổ cẩm (từng miếng vừa vừa dùng làm xà rong, khăn choàng, có thể may áo dài) màu sắc sặc sở rất đẹp. Các nàng cứ lo dệt, dệt trên nhà sàn lót gổ đẹp. “Khách” đến chơi được lịch thiệp chào mời vào nhà. Nói chuyện, các nàng có thể nghe, nói được tiếng kinh (tiếng Việt) nhưng không rành lắm. Như vậy là có thể chọc ghẹo và làm quen. Gặp trai kinh, hầu như mấy nàng cũng thích, tuy hơi e ngại. Ít nói, chỉ hay cưòi. Thân mật, ngồi sát vào nhau, sờ soạn, mó may, không phản đối, có phần như…thích? Ngay cả sờ ngực, sờ vú, hôn hít… Nhưng mà “bắt cái nước” thì tuyệt đối không, trừ khi là chồng nàng. Đó, dễ dãi như vậy đó, mặc tình mà vui chơi, mà thân mật. Sờ ngực khá thú vị, ngực căng cứng, no tròn. Hôn thì mùi hăng hăng như khét nắng. Cũng vì em dễ dãi, em thích. Cũng tại mình ham vui, thích khám phá tìm của lạ. Chứ không ham muốn gì đâu. Gái thượng mà không lai (lai Pháp) thì không thấy gì là đẹp. Xin lỗi nha! Nhưng tiến xa hơn nữa, hoặc sàm sở thì… coi chừng. Có thể bị mét (báo cáo), bị thưa vì có thái độ xấu xa. Tới tai ông tỉnh trưởng Đ/tá Yaba là rắc rối. Đ/tá Yaba rất uy quyền, rất có uy tín, được toàn dân thượng tin yêu. Ông bảo vệ người thượng, rất thẳng thắng với quân đội kinh (nếu có hành vi sai phạm). Còn nhớ, có một lần đi chơi, thăm mấy nữ nhân viên (kinh) ở tòa hành chánh tỉnh, tôi đậu xe nhằm “parking” của ông (tại tòa tỉnh trưởng, vì thiếu chổ đậu) bị ghi số xe, phù hiệu đơn vị, báo về Đ/tá Can (chỉ huy trưởng C2/LLĐB). Tôi bị kêu lên, ông la cho một trận, thiếu điều ký củ.Con gái thượng, con nhà giàu cũng khá là nết na chững chạc - nết na mà vẫn cho sờ mó? - Thấy trai kinh dường như thích (nhất là sĩ quan trẻ tuổi) nhưng dè dặt, cẫn thận. Thích thì thích nhưng khó mà rủ đi chơi riêng lẻ. Không biết có phải khó khăn gia đình? Tuy nhiên, đến chơi, ngồi bên nhau, chọc ghẹo, cha mẹ thấy, chẳng nói gì. Không biết họ bằng lòng hay vì sợ mà không nói?Thú vị nhất là ra rình xem tắm suối. Buổi trưa, không làm gì, tôi cùng một vài đứa rủ ra mé suối lén rình đàn bà con gái thượng tắm. Tắm có hai bến tắm: đàn ông tắm riêng và đàn bà con gái tắm riêng, khoảng cách khá xa. Và phái nữ luôn dành phần phía trên dòng nước chảy. Khi tắm, các ả cứ tự nhiên “thoát y”, lõa lồ thân thể.



Như các nàng tiên. Trửng giởn, liếng thoáng, đùa cợt, té nước, chạy quanh…Cả một đám thân thể trần truồng. mặc sức mà rình xem cho đã mắt. Bất thần đứng dậy. Thấy có người, mẹ con chí chóe la lối, vụt chạy, quơ đồ đạc khăn áo che vào thân, tỏ ra hốt hoảng. Một lần bị như vậy coi như bến tắm phải bỏ đi. Tìm bến khác. Rình xem con gái thượng tắm rất vui, nhưng mà phải kín đáo và cẫn thận. Bị báo cáo, bị thưa là khốn. Ký củ và đổ đi chổ khác như chơi.Người thượng khá chân thật, rất tình người. Ít ranh ma, xảo trá. Trừ khi họ được chung sống nhìều với người kinh. Thời VNCH, dân tộc người thượng được luật pháp bảo vệ, lại có phần được ưu đãi nhiều thứ. Cũng nhằm mục đích lấy lòng để mua chuột, cai trị?Đến với họ, quen thân với người thượng cần nên giữ ý dè chừng. Tránh lợi dụng, tránh ma mảnh, lừa dối, gạt gẫm, hãm hại, nhất là lãnh vực tình cảm yêu thương. Người con gái thượng khi yêu rất thật, cho bằng cả lòng tin. Tuy nhiên, gạt gẫm, dối lừa, chơi qua rồi bỏ. Hậu quả khôn lường (cả vật chất lãn tinh thần). Nghe nói người thượng có biệt tài “thư”. Đối với ai gạt lừa bội phản. Thư một đống đá sỏi, da trâu trong bụng, cho bỏ thói Sở Khanh phản trắc lưu manh. Nghe nói thôi, chưa có dịp thấy.Ché rượu cần Làng Pleikép, cách thị xã Pleiku khoảng 10 km. Một làng được người Mỹ (qua VN giới thiệu yêu cầu) giúp vật liệu xây dựng nhà cửa, mọi thứ tiện nghi cho toàn thể dân làng. Đúng ra, Pleikép chỉ là một ấp.Một bữa, xây cất xong, tổ chức lễ khánh thành, mời “ân nhân” BCH/B17/LLĐB (Mỹ lẫn Việt). Chỉ huy trưởng đi công tác. Đáng lẻ chỉ huy phó đi, thiếu tá Quỳnh (CHP) kêu tôi (là trưởng Ban CTCT) đi thế.Một buổi tiếp đón khá trọng thể, Hai dãy thức ăn bày thẳng tắp chạy dài. Phía trên là bàn dành cho khách quí (VIP). Thức ăn là thịt dê thui nham nhở, còn sống, máu tuơm . Hai ché rượu cần hai bên. Hai chiếc ghế dành cho thượng khách (trung tá cố vấn Mỹ và tôi). Hai dãy người dân hai bên đông đúc. Mọi người vổ tay hoan hô mừng đón, chờ đợi khai mạc. Tr/tá Mỹ chào. Tôi chào. Hai tên đứng hai bên khá trịnh trọng, mỗi người dùng chiếc khăn trắng nắm cần câu (cần uống ruợu), lau, ngậm miệng nút cho ruợu ra. Xong, lau lại và hai tay cung kính đưa sang cố vấn Mỹ và tôi, mỗi người ngồi nút một cần. Phải uống cạn một “can” (theo nghi thức). Cái miệng ché rộng cở gang tay đầy nước tới miệng ché. Một thanh gác ngang, ở giữa là một que dính liền dài khoảng 2,5cm nằm trong nước hướng mủi xuống dưới. Nút (uống) ruợu (từ dưới đáy), nước trên miệng dực xuống, dực đến khi đầu que lên phía trên mặt nước, là một “can”. Dung lượng rượu có thể gần cả lít. Hai hàng người dân phía dưới đứng chờ. Thỉnh thoảng vổ tay tán thưởng. Tôi nâng chiếc cần nút. Từng giọt rượu nồng tuông chảy vào miệng, ngòn ngọt, thơm thơm, cũng dể uống. Tuy nhiên, càng uống, cơ thể nóng bừng. Chất rượu lan khắp cơ thể. Bên kia tên Mỹ cũng cố mà nút. Anh ta ngưng và tôi bên này, chiếc que cũng đã lộ ra trên mặt nước. Cơ thể đã nóng và đầu óc hơi choáng váng. Một tràng pháo tay vang dậy. Và hai tên “hầu cận” lại đổ thêm nước vào, lên đầy miệng ché. Kính mời nhị vị cạn thêm “can” nữa. Trời đất! Như vậy là nghi thức phải uống hai “can”. Bụng tôi đã sắp no phình. Tứ chi gần bủng rủng. Tên Tr/tá cố vấn Mỹ nút, và tôi cũng nút. “Bá quan văn võ” đứng dưới tiếp tục chờ. Cạn thêm ½ can, tôi gần muốn ngã. Đầu óc nóng bừng. Tên Mỹ vừa xong. Còn tôi. Chết bỏ cũng phải ráng cho cạn, dầu rằng uống không muốn nổi nữa. Vì thể diện, vì danh dự, tôi cố nút. Và sau cùng cũng cạn. Vổ tay vang dậy, mọi người xúm vào uống và ăn. Tôi được chuyền đưa cái nĩa với miếng thịt dê tươm máu. Đón nhận và cắn một cái, tôi lợm giọng, muốn ói. Phải ráng mà dằn. Để miếng thịt xuống, tôi ra dấu “người bạn đồng hành” (cố vấn Mỹ) xin kiếu. Tên Mỹ đứng dậy chào giã từ. Tôi cũng chào và từ giã bước ra. Lạng quạng, muốn ngã. Tên tài xế dìu tôi ra xe. Vừa lên xe, chạy ra chưa khỏi cổng là tôi ói. Ói tơi tả, ói dài dài về tới cổng trại. Đầu óc như muốn bể tung, nhức buốc. Ai đưa về phòng tôi cũng không nhớ. Miên mang, dã dượi, suốt một đêm và gần cả một ngày. Chiều đến, tạm tỉnh, thiếu tá Quỳnh chỉ huy phó đến thăm. Động viên khen ngợi:
-Cậu đở chưa? Kể ra cũng không phải mất mặt. Ói trên xe, ói dọc đường không ai biết. Tham dự buổi lễ thành công. Cám ơn cậu. Một lần, cho biết. Tởn tới già. Sau này nghe nói đến rượu cần, tôi phát sợ.Thật sự, rượu cần ngon. Có lẻ rượu đãi khách quí, người thượng họ làm chất liệu ngon, tốt. Lại nước rượu đầu tiên, nguyên chất. Uống ngòn ngọt, thơm thơm, nồng nàng hương vị. Cũng là thứ rượu ngon. Ngon không thua gì rượu đậu nành, rượu nếp than, rượu đế. Cũng là “quốc tửu”. Hân hạnh lắm thay!...Cuộc đời binh ngiệp, trãi bao năm, tôi đã đi, đến khá nhiều nơi, nhiều chổ: đồng bằng, biển cả, núi rừng… qua bao nhiêu miền đất nước, quê hương. Pleiku vẫn là nơi đáng nhớ.Vùng cao nguyên đất đỏ: nắng bụi mưa bùn. Nghe qua, ai cũng ngại, cũng sợ, không muốn đến. Nhưng đã đến rồi, vẫn thấy luyến, thấy thương – Thương đất nước, thương tình người, thương cảnh vật. Trước đây, thời giặc giã chiến tranh là vậy.
Bây giờ không biết sao?
Viết về Pleiku, viết để nhớ về kỷ niệm. Và những ai, đã một lần đến Pleiku, xin cùng nhau chia xẻ chút nỗi niềm.
Tháng tư/11– Ng. Dân.











Pleiku còn mãi...

Pleiku nắng bụi mưa sình,
Nhưng em vẫn đẹp như tình đôi ta.
Cao nguyên vùng đất hiền hòa,
Ra đi thì nhớ về nhà thì thương.
Thương em sương khói chiều buông,
Thương tà áo trắng trinh nguyên tóc thề.
Loanh quanh khu phố một vòng,
Đi dăm ba phút đã vòng thứ hai.
Vậy mà cứ muốn đi hoài,
Để mong tìm lại hình hài trong mơ.
Cô em má đỏ môi hồng,
Quanh năm áo ấm chẳng rời vai em.
Cảm ơn đời đã có em,
Để ta còn nhớ còn thương em hoài...

GoldPig.

Posted by: mviet Sep 1 2011, 06:25 PM




ĐƯỜNG LÊN PLEIKU
Phố núi cao, phố núi đầy sương ...


Về Tây Nguyên một sớm thu ươm nắng
Chuyến lữ hành tôi tìm lại Pleiku
Vẫn núi cao, mây trắng phủ đôi bờ
Ven hồ Lak dạ quì lung linh nắng.
Thung lũng mía, nương trà, trong buôn vắng
Áo thổ cầm thấp thoáng dáng em đi
Bẽn lẽn nhẹ nhàng, cô gái Ê-đê
Trong vũ điệu tiếng cồng ru điệu hát
Ngọn lửa hồng soi long lanh ánh mắt
Chút rượu cần lữ khách ngả men say;
Đêm lạnh Pleiku tôi ở lại đây
Ôn dĩ vãng những ngày xưa năm cũ ...

Nguyễn Hải- Bình Mang Đen, Tây Nguyên – 11/2010




Dầu anh đi về đâu, nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết:
anh về từ “miền đất đỏ bụi mù”

Pleiku, phố núi.

Dấu giày in phố núi -
Bước chân anh lấm bụi hồng -
Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng -
Lê gót phong trần, anh một thuở dừng chân.






PLEIKU CỦA ANH.
( Cảm tác từ bài viết "Pleiku nắng buị mưa bùn" của Nguyễn Dân và những hình ảnh về Pleiku của Hoa Phạm).

Pleiku của anh những ngày nắng bụi,
Trên con đường dài vắng chuyến xe qua,
Đường đất hoang sơ không phố, không nhà,
Chỉ có trời mây, hàng cây rất thấp.
Bụi Pleiku, bụi một màu đỏ gạch,
Anh đi qua thị trấn buồn ngẩn ngơ,
Chiều chơi vơi sương mù mịt biển hồ,
Hồ không đáy? nước không bao giờ cạn.
Anh lính mới, vừa về vùng lửa đạn,
Đóng quân ở đây phố lạ, người dưng,
Thành Pleime heo hút gío xa xăm,
Phi trường Cù Hanh, ai đi ai đến?
Những ngày Pleiku mưa dầm rả rích,
Thị trấn buồn ảm đạm ngủ trong mưa,
Mới hôm qua nắng gío cuốn bụi mờ,
Hôm nay đường phố mưa bùn tội nghiệp.
Anh lính trẻ lang thang trong phố ướt,
Qua mái hiên che, qua vũng nước buồn,
Chiếc xe nhà binh đậu ở ven đường,
Người ta sống giữa chiến tranh và chết chóc.
Pleiku phố nhỏ, những con đường ngắn,
Đầu đường cuối đường không đủ mỏi chân,
Đường Hoàng Diệu anh qua đã bao lần?
Bụi đất đỏ theo anh về quen thuộc.
Bụi theo anh đường hành quân xuôi ngược,
Thôn xóm xác xơ hay những buôn làng,
Cô gái Ê Đê thấp thóang nhà sàn,
Anh mơ một đêm rượu cần chếnh chóang.
Pleiku của anh một thời chinh chiến,
Đi đâu về đâu vẫn nhớ nơi này,
Ai trách Pleiku tẻ nhạt, lưu đầy?
Ai lưu luyến khi chia tay phố núi?
Đầu sóng ngọn gío anh còn ở lại,
Trận địa Pleiku có lúc kinh hoàng,
Vẫn yếu mềm ngơ ngẩn một dáng em,
Sống và chết, Tình yêu và nỗi nhớ.
Bao nhiêu năm, bao mùa rừng thay lá,
Bụi thời gian không che khuất bụi đường,
Vẫn còn trong anh nắng bụi mưa bùn,
Thành phố núi một góc đời trai trẻ.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( April, 2011)



Posted by: NamQuoc Sep 14 2011, 11:17 AM





Phong tục Kontum: Đón người tới, không tiễn người đi



Gia Lai – Cuối thánh lễ đại trào tại Trung tâm truyền giáo Pleichuet, sáng 11.09.2011, Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, giám mục Kontum đã cám ơn sự viếng thăm và mang tình yêu Đức giáo hoàng đến với dân lương giáo Tây Nguyên Kontum của Đức TGM Leopoldo Girelli. Trong lời cám ơn, Đức cha Micae đã nhắc đến phong tục “nắm cơm đi đường” của người Jarai gói cho khách, để nhắc khách mau trở lại.

“Theo tinh thần anh em dân tộc chúng con là chỉ có nghi thức đón Đức Tổng chứ không có nghi thức tiễn Đức Tổng, lý do là bởi Đức Tổng đã trở thành thành phần trong gia đình Kontum chúng con”. Đó là lời tâm sự của Đức cha Micael Giám mục Giáo phận Kontum tại trung tâm truyền giáo Pleichuet do các tu sĩ linh mục DCCT đảm trách, trong giờ chia tay và chấm dứt chuyến viếng thăm mục vụ giáo phận Kontum của Đức TGM Leopoldo Girelli, đại diện Tòa thánh Vatican không thường trú tại Việt Nam.

Trung tâm truyền giáo Pleichuet đã rộn ràng từ ngày hôm trước, các tín hữu đồng bào Jarai ở khắp nơi bồng bế nhau đổ về trung tâm Pleichuet để chờ đón Đức sứ thần. Theo lời tâm sự của những anh em Jarai thì có làng cách xa 40-50km, có người đi xe gắn máy, có người đi bằng xe công nông, lại có những người phải dắt nhau đi bộ từ 2 giờ sáng đến trưa mới tới. “Tuy mệt nhưng vui lắm!” Một cụ già bộc bạch.

Các đội ching chiêng và các điệu múa mang đậm bản sắc dân tộc đã được chuẩn bị cho buổi diễn nguyện chào đón Đức sứ thần. Từ 19:00 ngày 10.09.2011 tại sân nhà thờ Pleichuet đã diễn ra một buổi diễn nguyện thật trang nghiêm. Xung quanh ánh lửa bập bùng, các điệu múa truyền thống được diễn ra theo nhịp ching chiêng, cùng đông đảo người con dân tộc bao quanh người cha hiền. Những điệu múa và nhạc truyền thống ấy đã nói thay lời cho những tấm lòng kính yêu của những người con Jarai gửi gấm đến Đức TGM và qua Đức Tổng gửi đến Đức thánh cha Bênêđictô XVI. Sau buổi diễn nguyện ấy, vì sự thiếu nhiệt tình của chính quyền Gia Lai nên các ngài phải về lại tòa Giám mục Kontum để nghỉ đêm.

Tờ mờ sáng ngày 11.09.2011 tại trung tâm Pleichuet đã chật ních, giáo dân khắp nơi đã tề tựu. Thánh lễ đại trào được cử hành lúc 5 giờ 30 phút tại nhà thờ Pleichuet. Đây cũng là Thánh lễ cuối cùng trong chuyến viếng thăm của Đức Khâm sứ tại Giáo phận Kontum. Trước khi kết thúc Thánh lễ Đức cha Micael đã chia sẻ hết tâm tình và ước vọng của ngài và toàn dân Chúa trong Giáo phận, ngài nói:

“Sự hiện diện của Đức Tổng là một ân huệ. Qua Đức Tổng cho chúng con gửi lời cám ơn đến Đức Thánh cha Bênêđictô XVI, để ngài thấy lòng biết ơn và yêu mến của chúng con, và chúng con hứa luôn luôn trung thành với mẹ Hội thánh cách đặc biệt với Đức Thánh cha. Cách riêng chúng con cám ơn Đức tổng trong suốt những ngày này đã ở với chúng con và đã đến với đoàn chiên ở vùng sâu vùng xa của chúng con.

Thưa Đức Tổng, anh em chúng con hiện diện nơi đây là có những người cách đây 40-50km, họ phải tới đây từ đêm hôm trước bằng xe hoặc đi bộ, và còn nhiều anh em khác nữa ở vùng sâu vùng xa không thể đến được, nhưng họ vẫn hiệp lòng với chúng con trong những ngày qua để hướng tới Đức Tổng và qua Đức Tổng tới Đức Thánh cha. Những nơi Đức Tổng tới chẳng qua là hãy còn bên cạnh đường quốc lộ, còn rất nhiều những nơi khác nữa, vấn đề đi lại rất khó khăn, hằng năm họ chỉ gặp chúng con được một hai lần, có khi chẳng gặp được lần nào cho đến giờ phút này. Những anh em đó trong suốt mấy chục năm qua, mặc dù không linh mục, không tu sĩ nhưng nhờ ơn Chúa những anh em đó vẫn hiên ngang sống niềm tin của mình, và sống xứng đáng là người Kitô hữu trong xã hội mới hôm nay. Đặc biệt thay mặt những anh em đó, giờ đây con xin dâng lên Đức Tổng tâm tình biết ơn, lòng yêu mến Đức Tổng và qua Đức Tổng tới Đức Thánh cha”.

Đức cha Micael đã bầy tỏ lòng yêu quí và khát khao của đoàn chiên Chúa trong giáo phận, đã đến với Đức Tổng và Đức Tổng cũng không có giờ nghỉ ngơi, mặc dù theo chương trình thì hôm nay Chúa nhật là ngày nghỉ ngơi của Đức sứ thần. Đức cha Micael nói tiếp:

“Theo chương trình của Đức Tổng giám mục Huế thì hôm nay là ngày nghỉ ngơi của Đức Tổng, do đó chúng con không dám lạm dụng thêm thời giờ của Đức Tổng. Chúng con xin mượn thời gian cuối Lễ này coi như là nghi lễ cám ơn Đức Tổng và cũng là chấm dứt cuộc hành trình chính thức của Đức tổng viếng thăm giáo phận chúng con.

Theo tinh thần và tập tục của anh chị em dân tộc chúng con là có nghi thức đón chứ không có nghi thức tiễn Đức Tổng, lý do là bởi Đức Tổng đã trở thành thành phần trong gia đình Kontum chúng con. Đức Tổng đã vui vẻ nhận hai chiếc còng này với tấm áo Apanh, hai cái đó là biểu tượng cho Đức Tổng đã nhận giáo phận này làm giáo phận của Đức Tổng, và Đức Tổng đã nhận chúng con là con cái của Đức Tổng. Đức Tổng đã kết ước với chúng con qua việc Đức Tổng đã nhận cái khăn, cái khăn đó là để người mẹ địu con, nâng đỡ con, nuôi dưỡng con và chăm sóc cho con. Cho nên Đức Tổng đã trở thành người cha của chúng con và vì thế Đức Tổng đã gắn bó, có trách nhiệm để cầu nguyện và chăm lo cho chúng con, bởi vậy chúng con không có tiễn Đức Tổng ra khỏi địa phận của chúng con. Vì thế với gói thức ăn tượng trưng mà chúng con dâng cho Đức Tổng để Đức Tổng đi đường, khi nào hết thì xin ĐứcTổng quay trở lại với chúng con.

Giờ đây chúng con cũng xin nói lên điều mà Đức Tổng hằng quan tâm trong chuyến viếng thăm này, về mối quan hệ giữa Giáo hội địa phương và chính quyền địa phương. Con đã thưa với Đức Tổng và giờ đây công khai trước mặt cộng đoàn, cũng như con đã nói với chính quyền Kontum và Gialai nhiều lần. Giữa Giáo hội và chính quyền có những khó khăn nhất định của lịch sử để lại. Nhưng với niềm tin của người Công giáo, chúng con thống nhất mến Chúa yêu người là một. Cho nên chúng con đã, đang và sẽ dùng sự quan hệ, thông cảm, trao đổi, bàn bạc với nhau trong tình nghĩa anh em dân tộc để giải quyết mọi khó khăn. Con đã nói với quí vị chính quyền từ trung ương cho tới địa phương rằng, hãy nhìn vào cuộc sống của anh em linh mục, giám mục cũng như là tu sĩ, giáo dân trong địa phận này, quí vị cũng phải xác nhận rằng chúng tôi những người Công giáo trên vùng Tây nguyên này là những người yêu nước, và có thể nói rằng không chịu thua bất cứ ai cả. Và như thế xin Đức Tổng an tâm, chúng con sẽ giữ mối quan hệ ngày càng tốt đẹp hơn giữa Giáo hội và chính quyền địa phương như chúng con đã làm và đang làm.

Sau cùng chúng con kính chúc Đức Tổng tiếp tục cuộc hành trình được tốt đẹp. Xin Đức Tổng chuyển lên Đức Thánh cha những lời cầu chúc, cám ơn và lòng biết ơn chân thành của chúng con. Chúng con mong rằng Đức Thánh cha sẽ có dịp viếng thăm Việt Nam sớm nhất có thể, và khi thăm Giáo hội Việt Nam thì chúng con cũng hy vọng rằng Đức Thánh cha cũng sẽ lên thăm miền truyền giáo Tây nguyên của chúng con. Chúng con xin hết lòng cám ơn”.

Fx75. VRNs

Tường trình và ghi lại từ Gia Lai

Nguồn: VRNs

Posted by: NamQuoc Sep 16 2011, 11:24 AM



Vườn cà phê Việt Nam. (Hình: báo Tiền Phong)


Trung Quốc lấy mất nhãn hiệu 'cà phê Buôn Ma Thuột'



VIỆT NAM (TH) - Chuyện xảy ra hai năm về trước, giờ đây các viên chức Hiệp Hội Cà Phê và chính quyền tỉnh Ðắc Lắc mới la hoảng “đã bị một công ty Trung Quốc lấy mất thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột.”

“Sẽ kiện để đòi lại,” đó là tuyên bố của ông Chủ Tịch Hiệp Hội Cà Phê-Ca Cao Việt Nam VICOFA Lương Văn Tự, sáng 15 tháng 9, với báo Sài Gòn Tiếp Thị. Ông này cũng cho hay sẽ phối hợp với chính quyền tỉnh Ðắc Lắc đâm đơn kiện một công ty

Trung Quốc chiếm đoạt “chỉ dẫn địa lý” cà phê Buôn Ma Thuột. Ông Tự còn xác định rằng tỉnh Ðắc Lắc đã được Cục Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam cấp riêng “chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột” từ năm 2010.

Ông Tự cũng cho biết sẽ gửi hồ sơ đến sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc để yêu cầu can thiệp.

Theo VNE, giới thương gia xuất cảng cà phê Việt Nam đang “ngồi đứng không yên” trước tin thương hiệu “cà phê Buôn Ma Thuột” đã trở thành nhãn hiệu độc quyền của “Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co. Ltd, “ - một công ty Trung Quốc đã ghi danh bảo hộ độc quyền trong vòng 10 năm tại nước này.

Báo Sài Gòn Tiếp Thị còn tiết lộ tin sự kiện này đã được ông Ðinh Văn Khiết, phó chủ tịch chính quyền tỉnh Ðắc Lắc biết trước cách nay 2 năm tại Sài Gòn. Lúc đó, ông này đã cầm trong tay một tấm danh thiếp của một công ty Trung Quốc có trụ sở tại Quảng Châu và Quảng Ðông mang tên “Buôn Ma Thuột Coffee.”

Cũng cảm thấy bất ngờ, ông Khiết thuật lại sự việc cho một viên chức của Hiệp Hội Cà Phê Buôn Ma Thuột biết. Tuy nhiên, hầu như không ai thèm để ý và để sự việc này đi dần vào quên lãng.

Sự kiện này chỉ trở nên nóng bỏng khi nhiều đơn vị nhao nhao cảnh cáo về việc bảo hộ quyền sở hữu nhãn hiệu thương mại. Theo ông Lê Quang Vinh, giám đốc Phòng Sở Hữu Trí Tuệ của Công ty Bross & Partners, thương hiệu cà phê Việt Nam bị công ty ngoại quốc giành bảo hộ độc quyền là điều hết sức nguy hiểm.



Giấy chứng nhận bảo hộ độc quyền thương hiệu “cà phê Buôn Ma Thuột” của công ty Trung Quốc. (Hình: VNE)

Theo ông, cà phê Việt Nam đặc biệt là cà phê mang thương hiệu Buôn Ma Thuột sẽ bị ngăn chận trên đường xuất cảng và có thể bị kiện vì vi phạm luật độc quyền nhãn hiệu của công ty Trung Quốc nói trên. Ðiều này còn có ý nghĩa là cà phê Buôn Ma Thuột chính gốc sẽ không được xuất cảng sang Trung Quốc. Nguy hiểm hơn, người tiêu thụ trên thế giới không thể phân biệt đâu là cà phê Buôn Ma Thuột thật và đâu là cà phê Buôn Ma Thuột giả ở thị trường.

Trong dịp này, ông Cục Trưởng Cục Sở Hữu Trí Tuệ thuộc Bộ Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam Trần Việt Hùng còn cho biết, trước đây đã có công ty Trung Quốc giành độc quyền nhãn hiệu kẹo dừa Bến Tre. Các thương gia tỉnh Bến Tre khởi kiện và trầy trật lắm mới giành lại thương hiệu chính gốc của “xứ mình.”

Theo VNE, Buôn Ma Thuột là “thánh địa” cà phê Việt Nam với sản lượng hàng năm khoảng 300,000 tấn, chiếm 30% sản lượng cả nước, được xuất cảng đến 60 quốc gia toàn cầu.

Posted by: bkim Apr 23 2011, 06:42 PM




Kiếp Nào Yêu Nhau



Mùa hè 1972, Quang cùng đơn vị lên Pleiku yểm trợ chiến trường Tây Nguyên theo kế hoạch hành quân của quân đoàn. Ban chỉ huy đóng ngay bên cạnh bộ tư lệnh, ngoài giờ làm việc cũng như những lúc không bận công tác khẩn cấp, Quang gần như có mặt thường xuyên ngoài phố, từ các nhà hàng phòng trà đến quán café, bia rượu. Chuyên viên ngành tiếp vận nhưng Quang thường kết thân với tất cả anh em đủ binh chủng đến tăng phái cũng như về dưỡng quân sau thời gian dài hành quân từ vùng tam biên.
Quang yêu Pleiku hơn Đà lạt. Thủ đô lính với những đường dốc bùn lầy đất đỏ, phố xá thô sơ nghèo nàn nhưng thật ấm cúng, thiết tha, sâu đậm và thiêng liêng như tình yêu quê mẹ đối với bất cứ những ai đã một lần ghé qua. Thành phố nhỏ, quanh quẩn chỉ vài con đường ngắn, đi dăm phút đã về chốn cũ, nhưng quyến rũ với những quán ăn, quán bia phòng trà mang hình ảnh lính ồn ào náo nhiệt nhưng thật hiền hòa như tình người địa phương. Cuộc sống bình thản không vội vã, không hoảng sợ, mặc dù các trận đụng độ ác liệt đang sát bên cạnh và pháo địch thường xuyên rót vào khu vực phi trường nằm kế cận trung tâm thành phố. Ở đây người dân xem hình ảnh chiến tranh như một cái gì gần gũi quen thuộc trong đời sống hằng ngày. Họ mở rộng vòng tay chào đón các đoàn quân vội vã đi ngang, đôi lúc dừng lại vài giây lát ăn vội bữa cơm, uống ly café nóng hay chỉ kịp mua gói thuốc rồi tiếp tục lên đường.
Trời về chiều sương mù phủ xuống thành phố một màu trắng nhạt trông trời đất như đang quyện vào nhau, phố xá thưa dần bước chân, sinh hoạt còn lại là những quán ăn náo nhiệt, phòng trà ấm cúng và những quán café trữ tình là nơi tiếp tục mở cửa để sưởi ấm những chiến binh trở về từ mặt trận, tìm quên mệt mỏi, trút bỏ đau thương và xóa tan những hình ảnh chết chóc. Pleiku đất đỏ sương mù không có gì quyến rũ nhưng bất cứ người nào đã rời khỏi nơi đây đều mang theo trong lòng những kỷ niệm sâu đậm, phải chăng là nhờ phố xá không xa nên phố tình thâm hay những nàng thiếu nữ da trắng, má đỏ môi hồng, tóc em uớt và mắt em ướt nên em mềm như mây chiều đông đã trói chặt bước chân người lãng tử. Pleiku, thành phố lính, thành phố của những chàng trai khoác áo chiến binh một khi rời khỏi đây đều vương vấn một mối tình.
Quang cũng không thoát khỏi thường tình của một chàng trai hai mươi lăm tuổi.
Từ khi gặp được hai người bạn, Quang không còn lang thang những ngày cuối tuần, chàng tìm đến với Yên và Phúc, cả hai đang dạy ban văn chương tại trường trung học. Phúc, một thi sĩ nổi tiếng, thường tổ chức những buổi đọc thơ cuối tuần và trong dịp nầy, ánh mắt của một nữ sinh ban văn chương đã hớp hồn chàng ngay trong buổi đầu gặp gỡ. Yên và Phúc cho biết, nàng tên Dung, con của một công chức cao cấp của tỉnh. Dung ngây thơ, trong sáng với mái tóc dài phủ xuống lưng, làn da trắng như tuyết, mắt nâu màu hạt dẻ mở lớn, ngơ ngác như nai, đôi gò má núm đồng tiền lúc nào cũng đỏ ửng và làn môi hồng cười lộ đôi hàm răng trắng… Nàng lãng mạng yêu thơ, thích nhạc, cởi mở, nhưng nàng trong sáng quá. Đã là bạn với Yên và Phúc xem như đứng vào hàng thầy cô hoặc chú bác. Đời binh nghiệp, khoác chiếc áo trận nay đây mai đó, trên lưng vỏn vẹn chiến balô, cuộc sống bấp bênh chưa biết thương tật sống chết bất chợt đến giờ nào, nhiều lần tự vấn lương tâm nhưng Quang không thể tiến tới dù biết Dung có thể ngã vào vòng tay Quang một khi chàng tỏ tình. Chàng đành ôm mối tình câm và hy vọng một ngày nào đó Ngày được lệnh di tản, thu xếp xong công việc Quang vội vã đến đón Dung đi theo đoàn xe đơn vị rời Pleiku chạy xuống Quy Nhơn, nhưng đã trễ, gia đình đã tự túc khởi hành từ lúc sáng sớm. Từ đó Quang mất hẳn liên lạc với Dung, cho đến mùa thu năm 1978 Quang gặp lại nàng trong trại tỵ nạn ở Mã lai. Đến lúc nầy Quang mới biết mặt cha mẹ Dung và người em gái, cả nhà đối xử thật tốt với Quang nhưng đối với nàng hình như đang bị một cái gì ngăn trở. Trao đổi bình thường Dung rất nhiệt tình nhưng khi đề cập đến vấn đề tình cảm thì nàng lẩn tránh và không bao giờ cho biết rõ lý do. Chừng sáu tháng sau, Quang được tòa lãnh sự Mỹ cấp giấy nhập cảnh, lúc đến chào từ giã lần đầu tiên Dung ngã vào người Quang nức nở khóc. Quang vỗ về an ủi và hứa qua đến Mỹ sẽ tìm đủ mọi cách để sống gần nhau. Nhưng Dung chỉ lắc đầu từ chối và không một lời giải thích gì thêm.
Dung không trả lời Quang mặc dù Dung đã nhận được gần hai chục lá thư kể từ lúc Quang đặt chân lên đất Mỹ và sau đó cắt hẳn liên lạc với Quang khi gia đình nàng lên đường định cư tại một nước thứ ba.
*** Sau ba năm vừa làm vừa học, Quang ra trường với mảnh bằng kỹ sư vi tính và ổn định ngay với một chức vụ quan trọng trong công ty phần mềm của người Mỹ. Sau đó một năm Quang kết hôn với Chi, con gái út của một gia đình nổi tiếng giàu có từ trước, đến định cư giữa năm 1975. Chi tốt nghiệp ngành địa ốc và được gia đình giúp vốn để mở một văn phòng lớn tại quận Cam.
Một cặp vợ chồng thật lý tưởng và xứng đôi, Quang đẹp trai, cao lương và được xã hội ưu đãi. Chi điều hành một hoạt động hái ra tiền một cách dễ dàng. Họ có đời sống vật chất thật cao, hai ngôi nhà đáng giá cả triệu, vợ chồng mỗi người một chiếc xe đua, chi tiêu không bao giờ tính toán đến tiền bạc. Hai người kết hôn đã lâu nhưng vẫn chưa có con. Có lần Quang đưa Chi đến một bệnh viện chuyên nghiệp sản khoa, ở đây bác sĩ cho biết họ cần một thời gian theo dõi để biết nguyên nhân từ người vợ hay do người chồng. Nghe qua, hai người đều cho rằng con cái chưa quan trọng trong lúc nầy đối với một cặp vợ chồng trẻ, hơn nữa họ đang cần thời giờ dành cho việc kiếm tiền quá dễ dàng và nhanh chóng. Nhìn bên ngoài đôi vợ chồng sống thật đầm ấm hạnh phúc, nhưng đi sâu vào đời sống riêng tư, cũng như gia đình khác, vẫn có những khúc mắc thầm kín. Chi, con người của thực tế, suốt ngày chỉ có con số, tính toán lúc nào cũng nằm sẵn trong đầu. Quang thì thờ ơ với tiền bạc, thường lái câu chuyện qua thơ văn mỗi khi chuyện trò với vợ. Do đó đối thoại giữa hai người thường đi vào bế tắc. Vì tôn trọng đời sống riêng tư của nhau, sau bữa cơm tối, vợ theo dõi báo chí, thị trường địa ốc, tin tức vật giá trong ngày. Quang một mình đọc sách nghe nhạc, đến chừng mệt mỏi hai người vào phòng thì giấc ngủ giờ đó quyến rũ hơn những vấn đề khác. Hai người đều quên rằng việc ái ân giữa vợ chồng cũng đòi hỏi có sự hòa hợp, hai người phải tạo cơ hội và khuyến khích lẫn nhau để đi đến tận cùng của yêu đương. Không thể một người sẵn sàng trong lúc người kia chưa chuẩn bị.. Những trục trặc nho nhỏ đưa dần đến sự lạnh nhạt hay nhàm chán cuối cùng đi đến quên lãng bổn phận vợ chồng.
Bận công việc, bận xem sách đọc báo, vào giường ngủ không cùng lúc cùng giờ là những lý do đã tách rời đời sống vợ chồng Quang. Từ chỗ không hòa hợp trong nhiều khía cạnh, việc gối chăn từ đó vắng dần nhưng hai người vẫn một mực yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Giữa hai vợ chồng chưa bao giờ lớn tiếng về bất cứ một bất đồng nhỏ nào nhưng những khác biệt trong cuộc sống thường nhật cứ lớn dần trong im lặng.
Cho đến một ngày Quang tâm sự với Chi:
- Em à, cuộc sống chúng mình đầy đủ, tình yêu hai đứa trọn vẹn nhưng anh vẫn thấy có một cái gì càng ngày càng ngăn cách chúng ta.
Chi đáp không suy nghĩ:
- Có lẽ đúng vậy, bên ngoài ai cũng ganh với vợ chồng mình đủ mọi phương diện, nhưng giữa chúng ta có thật sự hạnh phúc hay không? Tình yêu thuần túy chưa hẳn là điều kiện chính để tạo hạnh phúc mà phải có sự hòa hợp trong cuộc sống chung đụng giữa vợ chồng.
- Anh đồng ý với em nên muốn cùng em hôm nay phân tách để chúng ta cùng tìm một lối thoát.
Chi hơi ngạc nhiên:
- Lối thoát gì?
- Anh nói lối thoát có nhiều khía cạnh: Tổ chức lại cuộc sống, cho ra đời một đứa con, bỏ bớt những đam mê suy tư hay công việc cá nhân để dành nhiều thời giờ cho nhau. Nếu những phương cách trên không thể cứu vãn thì trả lại tự do ban đầu cho nhau.
Vài phút suy tư, Chi đặt hỏi lại:
- Nghĩa là nếu các giải pháp trên không đưa đến tiến bộ nào trong đời sống riêng tư chúng ta thì ly dị?
Quang gật đầu:
- Có thể như vậy, để trả lại sự tự do cho nhau còn hơn ràng buộc để gây đau khổ.
- Đồng ý với anh. Bây giờ theo ý anh, tổ chức lại cuộc sống như thế nào? Suốt tuần hai đứa đi làm, về đến nhà chỉ còn lại chút thời giờ lo ăn uống rồi chuẩn bị đi ngủ. Cuối tuần đi chợ mua sắm để chuẩn bị cho tuần tới. Nếp sống Mỹ đã vạch cho chúng ta chương trình làm việc, sinh hoạt, ăn ngủ như chiếc máy không thể thay đổi gì được ngoại trừ trường hợp thất nghiệp hay đã nghỉ hưu.
- Em có nghĩ chúng ta nên có con?
- Em cũng muốn con, nhưng có lẽ chưa phải lúc nầy. Vả lại chưa biết trường hợp của chúng ta thế nào, phải mất một thời gian khám nghiện chữa trị mới biết. Còn phương cách thứ ba?
- Đời sống tinh thần rất quan trọng, không thể gạt qua một bên hoặc từ bỏ hẵn trong cuộc sống phàm tục. Mỗi người cần phải có một chí hướng, một đam mê, dù tốt hay xấu, mới thấy cuộc đời mình có ý nghĩa, từ đó họ sẽ ham sống và hăng say trong công việc. Trong cuộc sống lứa đôi, cũng khó buộc người bạn đời của mình phải dứt bỏ đam mê của họ nhất là những đam mê hữu ích và vô hại.
Chi lơ lửng đặt câu hỏi:
- Nếu vậy, ly dị là giải pháp tốt nhất?
- Có thể như vậy, có nhiều lý do và hình thức ly dị đặc biệt cho mình.
- Lý do?
- Vì hai đứa mình vẫn thương yêu và kính trọng nhau, ly dị để trả lại, có thể tạm thời, tự do cho nhau.
- Sao gọi là tạm thời?
- Anh nghĩ rằng có thể một ngày nào đó, khi chim mỏi cánh hoặc hai đứa đều nhận thấy sự cần thiết của nhau trong đời thì " châu về hiệp phố ".
- Cũng có nghĩa là tình yêu cũng như thể xác con người, cần nghỉ hè để lấy lại thăng bằng hay tân trang vô dầu mở kiểm tra kỹ thuật như cái máy?
Quang cười lớn:
- Gián đoạn công vụ thì đúng hơn.
- Anh nghĩ thế nào cũng được, nhưng tại sao quan niệm như vậy?
- Tình yêu cũng như một món đồ, có thể nhàm chán và bị bỏ quên nhưng một ngày nào đó bắt gặp lại, nó sẽ trở nên mới và quý giá. Con người cũng thế, đã là của riêng và thường xuyên ở sát bên cạnh, đôi khi mình không hoặc chưa biết giá trị thật của người bạn đồng hành. Hai người cần phải cách xa một thời gian và phải va chạm những gì mình hằng mơ tưởng, lúc đó mới thấy được cái đáng yêu và giá trị của những gì mình đã có trong tay mà từ lâu chưa biết hay không biết đến. - Như vậy ý anh muốn tình yêu chúng mình cần phải trải qua một thời gian gián đoạn xem như thời kỳ thử thách mới có thể nhìn thấy giá trị tiềm ẩn bên trong. Em đồng ý, nhưng nếu một trong hai nguời tìm được một nguồn hạnh phúc mới?
Quang cười:
- Thì cầu chúc hạnh phúc cho nhau.
- Còn người kia?
- Không thể trở về bến cũ thì kiếm con đò khác. Đàng nào hai người cũng tạo được hạnh phúc mới, như vậy vấn đề ly dị chính là một giải pháp đẹp cho nhau trước một tình yêu vợ chồng gò bó không lối thoát.
Chi im lặng một lúc rồi trở lại đề nghị của Quang:
- Anh nói hình thức ly dị đặc biệt là thế nào?
- Chắc em công nhận với anh, suốt trong thời gian chung sống giữa chúng ta, tuy có những cách biệt nhưng chưa bao giờ gây gổ về chuyện gia đạo, tiền bạc, cũng như cho đến giờ nầy chưa có một hình bóng người nào trong đời sống tình cảm của anh cũng như của em. Như vậy chúng ta ly dị trong sự hiểu biết và tình yêu thương.
- Nghĩa là?
- Ra tòa ly dị không tranh chấp, không phân chia tài sản và cũng không quy trách nhiệm cho ai. Anh chỉ lấy lại ngôi nhà của anh cho mướn và về đó ở.
- Viện cớ gì để xin ly dị?
- Trục trặc chăn gối. Đây là lý do hữu hiệu và nhanh chóng nhất.
*** Bạn bè đều nhận được lời mời dùng cơm thân mật tại nhà vợ chồng Quang. Không người nào thắc mắc gì vì trong đám bạn bè của Quang cũng như Chi đều có thói quen luân phiên dùng cơm tại nhà nầy hay nhà khác. Nhưng hôm nay, khi tất cả đến đây họ nhận được ba chuyện lạ, số khách mời đông hơn thường lệ trong đó có những người không quen thân lắm, các món ăn đều được nhà hàng mang đến phục dịch và vợ chồng Quang ăn mặc thật chỉnh tề như ngày đại lễ.
Mở đầu câu chuyện Vinh vào đề trước:
- Có gì lạ mà hôm nay ông bà trịnh trọng vậy?
Chi cười bí mật:
- Chút nữa sẽ biết, bây giờ cứ tự nhiên, hôm nay là ngày đại lễ.
Tất cả vào bàn vui vẽ với nhiều món ăn đúng như lời Chi vừa nói. Cuối bữa tiệc, Quang đưa ra một thùng rượu champagne đã ướp lạnh, Chi bưng chiếc bánh ba từng theo sau, Quang kéo Chi vào lòng :
- Hôm các bạn phải uống hết thùng rượu nầy mới được ra khỏi nhà. Ngày vui của hai vợ chồng tôi.
Tất cả vỗ tay chúc mừng. Có nhiều người lên tiếng hỏi:
- Có chuyện gì vui tuyên bố ngay đi !
Chi rót rượu cười tươi:
- Phải qua xong một vòng rượu trước chúng tôi sẽ nói lý do sau.
Xong đợt rượu đầu tiên, Chi đứng dậy, Quang ép sát vào người và vòng tay qua lưng Chi, rồi trịnh trọng:
- Hôm nay là ngày chúng tôi chính thức ly dị với nhau !
Tất cả đều chưng hửng trước câu tuyên bố của vợ chồng Quang. Mọi người để ly rượu xuống, căn phòng rộng lớn với trên hai chục người khách hoàn toàn trở nên im lặng. Bỗng có tiếng trong nhóm khách:
- Đừng đùa, coi chừng xảy ra chuyện thật thì mệt lắm !
Chi tươi cười lặp lại:
- Đã suy nghĩ và bàn tính với nhau từ lâu, hôm nay chúng tôi quyết định mời các bạn đến đây dự lễ ly dị !
Vừa dứt lời Chi cởi chiếc nhẩn cưới trên ngón áp út và trao lại cho Quang, đồng thời lấy trong bóp xách tay tờ phán quyết cho phép ly dị của toàn án. Hai người quay lại ôm nhau hôn môi một cách nồng nàn thắm thiết như nụ hôn lần đầu họ đã trao cho nhau ngày cưới.
Bây giờ thì khách mời ngẩn ngơ và không cách nào hiểu được hai người đang diễn một hoạt cảnh gì. Các bà ngạc nhiên tột độ, miệng há hốc, mắt nhìn không chớp vào hai vợ chồng Quang, trong lúc các ông vỗ tay cổ võ.
Khi hai người buông nhau, Quang cười với khách:
- Đây là nụ hôn chia tay của tình vợ chồng tôi, có thể là vĩnh viễn và cũng có thể là…giai đoạn.
Kha đánh tan bầu không khí đang căng thẳng:
- Tại sao làm vậy? Chúng ta tất cả đều bạn thân, chúng tôi không hiểu, hai người có thể cho một vài giải thích.
Vợ chồng Quang đồng cười:
- Dĩ nhiên, chúng tôi không dấu gì, nhưng để chúng tôi trình bày xong các bạn cứ đóng góp ý kiến. Tôi nhắc lại là đóng góp ý kiến cho vui thôi chứ chúng tôi đã quyết định và chuyện đã rồi không thể quay lại.
Chưa ai có ý kiến gì, Chi trình bày trước:
- Chúng tôi ly dị vì yêu thương nhau thì đúng hơn. Ra tòa không tranh chấp, không phân chia tài sản, vẫn quý mến nhau và có thể một ngày nào đó sẽ quay trở lại sum hợp với nhau.
Từ ngạc nhiên nầy đến thắc mắc khác đã thúc đẩy khách mời tranh nhau nhiều câu hỏi. Quang và Chi không che dấu một điều gì, hai người trình bày những gì đã thảo luận và tính toán với nhau từ trước. Những lời giải thích tuy chưa chấm dứt nhưng đã chia người nghe thành hai nhóm, các ông đa số ủng hộ ngược lại các bà phần đông ra mặt chống đối. Nhưng dù ủng hộ hay chống đối, trong tình cảnh nầy tất cả đều cảm thấy mùi vị champagne quen thuộc bỗng trở nên đắng nghét ở trong cổ họng, họ được mời đến để chứng kiến một đổ vỡ, không biết nên vui hay buồn cho hai người bạn trước một quyết định quá mới và táo bạo.
*** Kể từ ngày ly dị, Quang trở thành người đàn ông độc thân vui tính, quay về ngôi nhà cũ của chàng, cơm nước ngày hai bữa tại các tiệm ăn, tối về đọc sách nghe nhạc đến khuya, nhiều lúc ngủ ngay tại phòng khách hay trong phòng làm việc. Sáng dậy trễ, vừa đủ thời gian làm vệ sinh cá nhân tối thiểu rồi vội vàng lái xe vào sở. Cuối tuần Quang không từ chối bất cứ một cuộc họp mặt nào của bạn bè. Quang muốn tận hưởng lại những giây phút tự do của một người đàn ông độc thân giàu có và đẹp trai. Đã gần năm mươi tuổi nhưng trông Quang vẫn còn thật trẻ, mái tóc màu đen nguyên thủy, thân mình cao lớn khỏe mạnh, việc làm tốt, nhà cao, xe đẹp. Chàng đúng là mẫu người lý tưởng của hai thế hệ đàn bà, nhưng Quang chưa nghĩ đến vấn đề đi thêm một bước.
Chi và Quang vẫn thường gặp nhau, trong quán ăn, các buổi dạ hội, các lần họp mặt tại nhà bạn bè. Họ đối xử với nhau thân tình như hai người bạn, ngồi chung một bàn, nhảy với nhau vài bản nhạc, từ giã ôm nhau hôn như những người bạn thân… Chính lối đối xử với nhau sau nầy chứng tỏ cho bạn bè những gì Quang và Chi đã nói ra trong ngày lễ ly dị.
Đã nhiều lần, bạn bè lợi dụng những bữa cơm thân mật hay những dịp họp mặt để giới thiệu Quang một vài người bạn gái, nhưng Quang đã dứt khoát báo trước rằng chưa phải lúc. Nhưng lần nầy Quang nhận đến dùng cơm tối với một số bạn tại nhà vợ chồng Vinh để gặp Lan, một người đàn bà chưa chồng, đã quá tuổi thanh xuân, rất đẹp, thùy mỵ và trí thức theo lời giới thiệu của bà Vinh. Quang uống rượu vào hạng tồi nhất trong đám bạn, nhưng mỗi khi đã uống thì uống tới lúc say gục ngay tại chỗ. Nhưng chỉ cần một giấc ngủ vài giờ đồng hồ Quang sẽ trở lại tỉnh táo như không có chuyện gì xảy ra.
Bữa cơm tối ngoài gia chủ, Quang và Lan còn bốn cặp khác, không ai lạ ngoài những người bạn quen thuộc từ lâu. Hình như đã có sự sắp xếp ngầm từ truớc, khi Quang đến Lan đã có mặt, tất cả đều ép Quang ngồi cạnh Lan. Đúng như lời bà Vinh, Lan khoảng chừng ngoài ba mươi. Con gái đẹp, thông minh ở tuổi nầy thường bị xếp vào loại cao số. Qua xã giao, Quang phải đánh giá nàng thuộc hạng người có học và con nhà nề nếp, nhưng có lẽ vì một lý do thầm kín nào đó nàng còn độc thân đến giờ nầy. Dù tự cho mình cao giá, nhưng không một người con gái nào dại dột bỏ mất cơ hội để kéo dài tuổi đời của mình thành gái lỡ thì, có lẽ vì lý do nầy Lan nhận lời mau mắn khi bà Vinh đề nghị đến gặp Quang. Quang không muốn đường đột đi vào đời tư của Lan chàng chỉ quanh co chuyện mưa nắng từ đầu cho đến giữa bữa ăn thì nghe Lan than nhức đầu chóng mặt rồi ói mửa ngay tại chỗ. Vợ chồng Kha cho biết nàng bị trúng gió, các bà đưa Lan vào tạm phòng trong đánh gió xức dầu và đề nghị Quang đưa về nhưng chàng ngại và từ chối để nhờ vợ chồng Kha đưa về tiện hơn.
Bữa cơm vừa xong thì Quang đã say mèm, nằm gục xuống bàn. Tất cả không lạ gì chuyện say rượu của Quang, họ vực vào phòng ngủ để chàng ngủ thoải mái đến sáng hôm sau.
*** - Dậy đi anh, uống làm gì quá mức để say không biết trời trăng gì cả.
Nghe giọng nói, Quang vừa tỉnh, biết có ai đang đắp nước đá trên đầu, chàng mở mắt ra, một người con gái đang ngồi bên cạnh mỉm cười:
- Nhận ra em không?
Quang ú ớ:
- Cô là ai?
- Thùy Dung đây, anh nhớ lại xem.
Quang tỉnh hẳn, chàng ngồi dậy nhìn kỹ người con gái bên cạnh, đưa tay cầm lấy tay nàng:
- Thùy Dung, anh nhớ ra rồi. Hồi hôm sao đến trễ vậy.
- Đến thì anh đã say, em vào đây chờ anh tỉnh để đưa về. Đây là nhà anh chị Vinh.
Quang mang giày và cùng Dung mở cửa ra, gặp ngay Vinh đang ở phòng khách:
- Thôi chào, cô Dung đến đưa tôi về nhà. Cám ơn bữa cơm và gởi lời cám ơn chị giùm tôi.
Hai người ra xe, Dung dành tay lái và bảo Quang dựa đầu ra sau nghỉ.
- Em biết đường không? Quang hỏi.
Dung cười:
- Còn rành hơn anh nữa.
- Em từ tiểu ban nào đến mà bảo rành hơn anh?
- Ngay bên cạnh nhưng anh không biết.
- Tại sao không gặp anh?
- Vợ anh kềm bên cạnh ai dám đến !
Dung tự lái xe thật vững và rành đường như người địa phương. Không cần hướng dẫn Dung vẫn về đến nhà bằng đường tắt. Đến nơi Dung cho thẳng xe vào nhà chứa và đi ngay vào phòng khách, tắt hệ thống báo động thông thạo như chính chủ nhà.
Treo chìa khoa lên vách tường, Dung bảo Quang:
- Anh tắm cho khỏe, người hôi mùi rượu em không chịu được.
Quang nghe lời như chiếc máy, tắm xong quay về phòng đã thấy Dung đang ngồi ở phòng khách trên người đang mặc bộ đồ của Quang. Nàng đưa tay gọi:
- Đến đây anh. Đi quá vội chưa mang theo đồ dùng, anh cho mượn tạm bộ đồ ngủ.
Quang không trả lời, ngồi xuống bên cạnh choàng tay qua ôm lấy Dung. Nàng gục đầu vào vai Quang thì thầm:
- Em chờ đợi giây phút nầy đã mấy chục năm.
Quang không còn nghe gì ngoài hơi thở dồn dập của hai người, chàng bồng Dung vào phòng Đã lâu thiếu đàn bà và trong lúc không tự chủ được lòng, Quang đã chiếm đoạt trinh tuyết của một người con gái, mặc dù nàng đã đến và tự nguyện hiến dâng. Nhìn Dung đang ngủ yên, gương mặt trong sáng, đậm nét thơ ngây tuổi học trò, chàng cảm thấy ân hận việc xâm phạm quá vội vã. Quang cúi xuống hôn vào đôi môi đang hé mở:
- Không ngờ em còn con gái, anh xin lỗi và sẽ cưới em làm vợ.
Dung trở mình nhướng mắt nhìn Quang mĩm cười:
- Cám ơn anh, nhưng em không muốn ràng buộc.
- Anh đã ly dị với vợ anh.
- Em biết, nhưng em ao ước được sống với anh một thời gian thì em đã mãn nguyện.
Quang ngạc nhiên:
- Bây giờ đâu còn gì cản trở chúng ta. Tại sao?
- Nhưng em không thể, một ngày nào đó anh sẽ hiểu.
Hai người sống thật hạnh phúc như đôi vợ chồng trẻ mới cưới. Quang đi làm, trưa trở về dùng cơm với Dung, tối hai người đi tiệm. Cuối tuần Quang lấy máy bay lần lượt đưa Dung đi vòng quanh nước Mỹ. Trong dịp lễ tạ ơn, chàng đã lấy những ngày nghỉ trong năm để đưa Dung trở lại Sàigòn rồi cùng nhau lên Pleiku thăm thành phố thân yêu ngày trước. Suốt ngày dạo phố, nghe nhạc phòng trà, ngồi quán café. Ngày cuối họ trở lại thăm căn nhà xưa và ngôi trường cũ. Trước khi lên phi cơ vào Sàigòn, Dung yêu cầu Quang đưa nàng đến thăm lần chót chiếc hồ lớn mà nàng gọi là Hồ than thở mỗi khi nhắc đến những kỷ niệm Pleiku. Dịp nầy Quang đặt câu hỏi:
- Sao em gọi là hồ than thở?
- Vì em thường ra đây một mình để nói chuyện với chính mình.
- Em đã than thở gì?
- Em đã nguyền sẽ yêu anh suốt đời. Cứ mỗi lần như vậy, em ném xuống hồ một viên đá. Hãy nhìn kỹ, anh sẽ thấy ở dưới toàn là đá do em liệng xuống.
- Em có biết hồ nầy sâu không? Người ta thường gọi là hồ không đáy mà.
- Biết, nhưng đá của em liệng xuống đến nay đã ngập đến mặt hồ !
Lời tỏ tình thật văn hoa và tha thiết, Quang sung sướng ôm chặt Dung vào người hôn lên mái tóc và dìu nàng bước lên bờ. Trước khi lên xe, hai người quay lại nhìn mặt hồ lần cuối, bỗng Dung đề nghị:
- Anh hãy ném xuống hồ một viên đá.
- Để làm gì em?
- Viên đá anh ném xuống sẽ nằm yên giữa hồ chung với hàng ngàn hàng hàng vạn viên do em đã ném xuống, có nghĩa là em đã ôm được anh vĩnh viễn trong lòng đúng theo ước nguyện từ ngày mới gặp và yêu anh.
Sau chuyến về từ Pleiku, Dung càng ngày càng tỏ ra buồn bã, không còn những tiếng cười dòn tan mỗi lần trò chuyện. Quang ngày đêm gạn hỏi nhưng Dung chỉ lắc đầu không trả lời. Cho đến một hôm nàng khóc suốt đêm, Quang lo lắng ôm nàng vào lòng mơn trớn vỗ về. Cuối cùng nàng ngồi dậy gục đầu vào vai Quang thổn thức:
- Đã đến lúc em phải xa anh.
Như trúng phải luồng điện Quang giật mình nhìn thẳng vào mắt Dung, hai tay lắc mạnh đôi vai, hỏi tới tấp :
- Tại sao? Tại sao? Anh đã làm gì em buồn?
Tiếng khóc của Dung càng lớn:
- Đã đến lúc em phải ra đi, một ngày nào đó anh sẽ hiễu.
- Không, anh muốn em nói ngay bây giờ.
- Không được anh, em không thể làm gì trong lúc nầy.
- Cho đến lúc nào?
- Khi anh đến thăm em thì anh sẽ hiểu.
Dung đưa ngón tay che miệng Quang:
- Đừng hỏi nhiều, em không có quyền tiết lộ bất cứ gì bây giờ.
- Ai cấm em?
- Bí mật.
Biết không thể đòi hỏi gì hơn một khi Dung đã dứt khoát, Quang thều thào:
- Anh sẽ đưa em về nhà.
- Em cho anh địa chỉ để đến thăm em sau.
Nói dứt câu, nàng đứng dậy lấy trong túi áo Quang cuốn sổ tay và ghi địa chỉ của nàng và dặn:
- Em đi rồi anh hãy mở ra xem sau.
Trước khi trời sáng, Dung quay qua ôm chặt lấy Quang:
- Yêu em lần cuối đi anh. Yêu thật nhiều, thật nồng nàn, thật say đắm để em làm hành trang mang theo. Còn em, em sẽ để lại cho anh một vết sẹo để đời.
Vừa dứt câu Dung hôn vào môi và mắt vào tai vào cổ Quang, cuối cùng ghé răng cắn vào vai Quang hai cái thật mạnh rồi đứng dậy bước nhanh về phía cửa. Quang chưa kịp phản ứng, chỉ kịp ú ớ vài câu và chạy theo ra đến đường nhưng Dung đã đi xa.
*** Quang tỉnh dậy và ngạc nhiên khi thấy mình vẫn còn nằm ở tại nhà Vinh. Chàng ngồi dậy định thần, vươn vai thở một hơi dài và cảm thấy trong người khỏe hẳn. Không tin vào nhản quang của mình khi nhìn thấy đồ vật trong phòng và những gì đã xảy ra, chàng thử bấm mạnh hai đầu ngón tay cái và trỏ vào nhau, cảm thấy đau, chứng tỏ mình đang hoàn toàn tỉnh táo. Bước xuống giường không kịp mang đôi giày, Quang mở cửa bước ra phòng ăn, vợ chồng Vinh đang dùng điểm tâm, hai người vội để ly café xuống reo lên:
- Chào anh Quang, tỉnh dậy đã khỏe hẳn chưa? Ngủ gì gần một tuần nay làm chúng tôi hết hồn.
Bây gờ đến lượt ngạc nhiên:
- Anh chị nói tôi ngủ?
- Vâng, anh ngủ ngon lành một tuần nay.
Quang lắc đầu:
- Không thể được, hoàn toàn không thể?
- Tại sao?
- Sau khi hết say, tôi đã về nhà gần cả năm nay mà !
Hai vợ chồng Vinh trố mắt nhìn Quang:
- Anh đã tỉnh hẳn chưa hay vẫn còn say ngủ?
Quang ngồi xuống cạnh hai vợ chồng:
- Chuyện gì đã xảy ra?
- Chúng tôi phải hỏi anh mới đúng.
Quang lấy ly café của Vinh uống một hơi:
- Tôi đã về nhà tôi ngay đêm hôm đó.
Vợ Vinh lắc đầu, Vinh nhìn Quang thương hại giải thích:
- Anh đã ngủ mê gần một tuần nay, chúng tôi sợ quá nên đã nhờ anh Khoa đến bắt mạch, đo huyết áp cho anh nhiều lần nhưng sức khỏe của anh thật hoàn toàn và ở trong trạng thái bình thường của một người khoẻ mạnh đang ngủ say. Cuối cùng chúng tôi quyết định đưa anh vào bệnh viện, nằm tại đây hai ngày. Sau khi khám tổng quát rồi qua chuyên khoa tâm thần, các bác sĩ xác nhận anh ở trong tình trạng hôn mê nhưng không kiếm được một triệu chứng lạ nào, chỉ cần vào nước biển để giữ thăng bằng điều hòa cơ thể. Cuối cùng chúng tôi đưa anh về lại đây vì cần có người bên cạnh chăm sóc. Khoa đến đây hai lần một ngày để trông chừng anh nhưng vẫ không có chuyện gì xảy ra. Giấc ngủ thật yên lành, mặt mày tươi rói, miệng lâu lâu mỉm cười nhưng đang trò chuyện cùng ai.
Quang vẫn lắc đầu:
- Tôi không tin chuyện xảy ra như vậy.
Vinh đưa tay chỉ tờ lịch treo tường:
- Nhìn kỹ và cố nhớ lại, tối thứ bảy tuần trước, sinh nhật vợ tôi là ngày 9 tháng 4, anh và một số anh em đến đây ăn cơm với chúng tôi, hôm nay là 16 tháng 4, nghĩa là đúng một tuần, làm gì có chuyện một năm.
Vợ Vinh hỏi lại:
- Anh nói anh đã tỉnh lại và về nhà, bây giờ giải thích cho chúng tôi.
Quang vẫn một mực:
- Đồng ý hôm sinh nhật chị Vinh, tôi say thật đến ngã gục xuống bàn chẳng hay biết trời trăng gì cả. Nhưng sau đó, chính cô Dung đến và đưa tôi về nhà.
Vinh trả lời:
- Cô Dung nào, hôm đó chẳng có ai tên Dung. Ngoài những cặp vợ chồng bạn bè anh đều quen biết, chỉ có cô Lan là người chúng tôi muốn giới thiệu với anh. Nhưng cô Lan trúng gió ói mửa, vợ chồng anh Khoa đã đưa cô ta về. Sau đó không còn một người lạ nào trong nhà ngoài những người bạn thân của chúng ta.
- Chuyện xảy ra hoàn toàn trái ngược với anh chị kể.
Vợ Vinh ghé tai chồng nói nhỏ:
- Có thể anh Quang bị ám ảnh một chuyện gì, bây giờ thì nên gởi anh đến một bác sĩ tâm thần.
Quang đáp ngay:
- Tôi thật tỉnh táo và sáng suốt nói chuyện với anh chị, không cần bác sĩ.
- Được anh kể chúng tôi nghe chuyện của anh.
Quang chậm rãi:
- Sau khi gục tại chỗ, tôi vẫn còn nhận định được anh chị và mấy anh em đưa vào phòng, cởi giày, áo ngoài và đặt nằm trên giường sau đó chị thoa dầu gió cho tôi. Chừng nửa tiếng sau thì Dung xuất hiện, nàng xin lỗi đến trễ và xin phép anh chị đưa tôi về nhà. Lúc đầu anh chị ngại, nhưng sau nhiều lần giải thích, anh chị đồng ý để Dung đưa về nhà tôi. Chính nàng lái xe tôi và dìu tôi vào nhà một cách an toàn. Dung đã ở lại với tôi, nối lại mối tình đầu thật trọn vẹn với nhau gần một năm. Sau đó chúng buộc lòng phải chia tay để nàng trở về nhà.
Vợ chồng Vinh không thể tin vào những lời Quang vừa thốt ra, Vợ Vinh vẫn ôn tồn:
- Anh bị một chuyện gì ám ảnh nặng.
Vinh ngăn vợ:
- Khoan kết luận vội vã như vậy, bây giờ xin anh Quang nói rõ thêm về cô Dung được không?
- Được, chuyện đơn giản như thế nầy. Tôi và Dung quen nhau tại Pleiku, nhưng thật sự chưa ai mở lời nói chuyện yêu đương trước. Pleiku mất, chúng tôi mỗi người di tản xuống Quy Nhơn. Ba năm sau kể từ ngày mất nước, tôi vào Sàigòn và vượt biên bằng đường biển. Tình cờ gặp lại nhau trong trại tị nạn Mãlai, lần nầy tôi tỏ tình trước, Dung vẫn vui vẽ nhưng không đáp lại tình yêu của tôi. Sau đó tôi đi Mỹ và mất hẳn liên lạc với Dung cho đến bây giờ không.
Vinh trầm ngâm giây lát:
- Như vậy chẳng có gì quan tâm cũng không phải vấn đề tâm thần. Chỉ là giấc mộng bình thường. Nhưng tôi vẫn thắc mắc, anh ngủ say một giấc dài mặc dù đã nhiều lần đánh thức bằng đủ mọi hình thức, di chuyển vào bệnh viện, trải qua nhiều gian đoạn khám nghiệm mà anh vẫn không hay biết.
- Đối với tôi là một thời gian dài, chúng tôi sống trọn vẹn cho nhau như đôi vợ chồng mới cưới trong căn nhà thân yêu của tôi. Vợ Vinh không tài nào hiểu được những lời Quang vừa trình bày:
- Anh có vết tích nào chứng minh những lời anh nói:
- Có chứ.
Quang rút trong tui quần cuốn sổ tay ra:
- Chính Dung đã tự tay biên địa chỉ của nàng vào đây.
Vừa nói Quang lật trang chữ D ra đưa cho hai vợ chồng xem, ở gần cuối trang giấy, ba giòng chữ đậm nét rõ ràng và bay bướm của một người đàn bà: Nguyễn Thùy Dung,đường Södertälje, Thụy Điển. Vinh nhìn Quang dò xét:
- Thật không hay địa chỉ cô nào trước đây?
Quang sực nhớ ra, hớn hở:
- Còn đây hãy xem. Chính Dung đã cắn vào vai tôi mấy lần, nàng nói để sẹo bắt tôi phải nhớ nàng suốt đời.
Vừa nói Quang vừa mở nút áo chemise xuống, rút cánh tay phải ra ngoài đưa ra trước mặt vợ chồng Vinh. Đúng là những vết răng đều đặn và nhỏ nhắn của một người đàn bà đã cắn vào vai, còn lộ nguyên hình các dấu răng ứ máu bầm. Vợ Vinh bắt đầu mất bình tĩnh, vì Quang đã ngủ say một tuần, vợ chồng bà theo sát một bên làm sao những vết cắn có thể xuất hiện trên thân thể của Quang. Đến chừng bà Vinh phát hiện ra những vết son môi còn dính trên cổ, ngay dưới hai trái tai của Quang, thì hai tay bắt đầu run bà chỉ ngay cho chồng:
- Anh xem nầy.
Vinh đã nhìn tận mắt dấu răng và các vết son còn tươi, chưa xác định được sự việc thì Quang tiếp:
- Nàng khóc suốt đêm qua, hôn và cắn tôi nhiều lần trước khi chia tay.
Quang rút trong túi ra chiếc khăn tay còn ẩm và tiếp tục:
- Nước mắt nàng ướt cả chiếc khăn, anh chị xem đây !
Hai vợ chồng Vinh không còn gì để hỏi thêm, tin chuyện hoang đường thì chưa chắc nhưng nghi ngờ những lời Quang thì không thể được. Chính hai vợ chồng là người ở sát bên cạnh Quang từ ba ngày nay sau khi Quang trở về từ bệnh viện. Chỉ một mình Kha là người đàn ông duy nhất đến chăm sóc. Vết cắn, môi son và nước mắt trong khăn tay là những chứng thật không thể giải thích.
Vinh đặt câu hỏi:
- Anh định đi tìm nàng?
- Vâng, tôi sẽ lấy thêm ngày nghỉ để qua Thụy Điển một tuần lễ.
*** Södertälje là một thành phố nhỏ nằm về phía nam Stockholm chừng hơn một giờ xe hơi. Quang đưa tấm giấy ghi địa chỉ Dung cho người tài xế taxi xong, Quang dựa đầu vào nệm sau nhắm mắt ngủ vì quá mệt sau mười bốn giờ bay. Quang không báo tin trước mục đích dành cho Dung một ngạc nhiên lớn. Đang dật dờ ngủ thì taxi dừng ngay trước một chiếc cổng lớn, Quang vừa bước xuống lại vội mở cửa lên trở lại và hỏi người tài xế:
- Sao ông đưa tôi đến nghĩa trang?
- Thì đúng theo địa chỉ trong giấy.
Người tài xế đưa tờ giấy lại cho Quang, chàng giật mình so lại địa chỉ tại chỗ thì đây đúng là địa chỉ của nghĩa trang thành phố. Thân mình tay chân chàng tự nhiên đồng loạt nổi da gà, nhưng chính tình yêu đã biến đổi sự sợ hải thành một động lực giúp chàng bình tĩnh và can đảm, mạnh dạn tiến vào bên trong tìm mộ Dung, vì nghĩ rằng nàng đã chết và xác thân đang an giấc tại nơi đây.
Người quản lý nghĩa trang đưa Quang qua nhiều lối đi cuối cùng đến trước một ngôi mộ. Bức ảnh in trên bia đá rất rõ nét, hình một người con gái chừng ba mươi tuổi, khuôn mặt trong sáng, mái tóc dài với nụ cười hồn nhiên của tuổi thanh xuân. Bên dưới bức ảnh hai hàng chữ khắc sâu trong bia đá, Cô Nguyễn Thùy Dung, sinh ngày 21 tháng 5 năm 1954 tại Pleiku Việt Nam, tử ngày 19 tháng sáu năm 1982 tại Södertälje Thụy Điển.
Ngồi bất động trước mộ Dung, một người đàn ông dù bản lãnh nhưng Quang không thể cầm được những giọt nước mắt đang chảy dài xuống má. Những hình ảnh ngây thơ trong sáng ngày đầu gặp gở tại Pleiku, kế đến, gương mặt phiền muộn ưu tư trên đất Mã lai cũng như cảnh âu yếm mặn nồng của Dung đã mang lại cho Quang trong ngày tái ngộ tại Mỹ đều lần lượt hiện về trước mắt Quang. Dung vẫn là người con gái ngày xưa, nàng đã giữ nguyên vẹn mối tình đầu và tuyết trinh của thân xác để hiến dâng cho chàng dù âm dương cách biệt. Thân xác nàng nằm đây, nhưng có lẽ hai mươi ba năm qua linh hồn nàng đã dài công tu luyện, mong hoàn tục một thời gian, để được phép trở về dương thế cho trọn tình với Quang. Nhìn gương mặt, nụ cười trên bức hình, Quang nghĩ rằng giờ đây chắc nàng đã toại nguyện.
Quay ra ngoài mua bó hồng thật lớn, trở lại đặt ngay ngắn, cúi xuống hôn trên phần mộ và bức ảnh:
- Anh sẽ trở lại với em.
*** Người quản lý nghĩa trang cho Quang danh tánh và địa chỉ thân nhân của Dung. Nhìn thấy tên của một người đàn ông, Quang khựng lại giây lát, nhưng đã quyết tâm tìm hiểu Dung, chàng nhất quyết đi taxi đến.
Vừa bấm chuông xong, một người đàn bà còn trung niên ra mở cửa e ngại hỏi bằng tiếng Thụy Điển:
- Thưa ông ông kiếm ai?
Quang không hiểu gì, chàng nói ngay tiếng Việt:
- Thưa bà, bà là người Việt nam?
Hai mắt người đàn bà sáng lên, vồn vã hỏi ngay:
- Thưa, ông cần gì? Tôi là người Việt.
- Tôi tên Quang từ xa đến, xin lỗi bà tên Nghĩa?
- Nghĩa là tên chồng tôi.
Quang ấp úng:
- Xin lỗi bà, bà có một thân nhân tên Thùy Dung an táng trong nghĩa địa thành phố Bà Nghĩa nhìn Quang, dè dặt trả lời:
- Đó là chị tôi nhưng liên hệ gì với ông.
Quang mừng ra mặt, một lần nữa chàng lặp lại:
- Tôi tên Quang, quen với Thùy Dung cách đây trên ba chục năm tại Pleiku.
Bà Nghĩa mừng rở reo lên:
- A tôi nhớ ra rồi. Mời ông vào nhà.
Vừa dẫn khách vào vừa nói:
- Tôi tên Trang, em gái của Thùy Dung. Lúc chị tôi còn sống lúc nào cũng nhắc đến ông. Nghe mãi tên nên đã nhập tâm, tôi làm sao quên được nhưng lâu quá thú thực không nhìn ra người.
Vừa ngồi xuống ghế, Quang vội vào đề:
- Xin bà vui lòng cho tôi biết rõ về Dung.
- Dĩ nhiên, tôi sẽ kể rõ cuộc đời của chị tôi vì đây cũng là ý nguyện của người quá cố. Đã từ lâu tôi ao ước gặp ông nhưng chim trời cá biển biết đâu mà tìm. Nay có lẽ duyên số của chị tôi vẫn còn nên đã đẫy đưa ông từ xa đến. Chuyện còn dài, ông ở lại đây với vợ chồng tôi vài bữa. Bây giờ dùng café cho ấm lòng, chồng tôi cũng sắp về đến.
- Cám ơn bà cứ để tôi tự nhiên.
Bà Nghĩa cười:
- Ông là người tình muôn thuở của chị tôi, xem như trong nhà, xin gọi nhau bằng anh em có lẽ thân mật hơn và chắc chắn chị tôi sẽ vui lòng.
- Vâng, nếu ông bà cho phép.
Trang ngồi xuống đối diện với Quang:
- Anh từ đâu đến và tại sao kiếm ra chúng em dễ dàng vậy?
- Chính Thùy Dung cho anh địa chỉ, nhưng địa chỉ của nghĩa trang chứ không phải ở đây.
Đến lượt Trang ngạc nhiên tột độ. Hai mắt mở lớn, miệng ấp úng:
- Không thể, không thể…chị em chết đã hai mươi ba năm. Ngoài vợ chồng và hai đứa con em không còn một ai quen thân với Dung cũng như biết được phần mộ của chị em. Trước khi đến Thụy Điển anh đã liên lạc thăm dò đường sá?
- Không, anh tưởng Thùy Dung còn sống, căn cứ theo địa chỉ đã cho, anh đến Stockholm và dùng taxi đến thành phố nầy.
- Taxi đưa anh đến ngay nghĩa trang?
- Đúng như vậy, anh ngập ngừng vài giây nhưng sau đó anh tin là sự thật.
- Anh cho biết rõ thêm.
- Anh đã gặp Dung, sống hạnh phúc với nhau gần một năm trời tại Mỹ, nhưng bạn bè cho biết thì thời gian khoảng chừng một tuần.
- Em chưa hiểu !
- Trong một cơn ngủ say kéo dài một tuần, Thùy Dung đã về chung sống với anh. Trước khi chia tay nàng đã ghi lại địa chỉ trong cuốn sổ tay của anh.
Trang với giọng run run:
- Anh cho em xem cuốn sổ.
Nhìn vào, sắc mặt Trang biến đổi, Trang đứng dậy lấy tập thơ biên tay đưa cho Quang xem, đúng một tuồng chữ không sai một nét nhỏ nào.
Ông Nghĩa mở cửa bước vào, sau lời giới thiệu, ông mở lời trước:
- Anh đã đến đúng theo ước nguyện của người quá cố. Dung đã trối với vợ chồng em trước khi nhắm mắt.
- Qua đây hoàn toàn do sự hướng dẫn của Thùy Dung, có lẽ còn những bí ẫn nào đó Dung đã nhắn lại với anh?
- Chuyện còn dài, anh phải ở lại đây vài ngày.
Nghĩa dành làm bếp để vợ nói chuyện với Quang. Trao cho Quang cuốn album hình xong Trang bắt đầu vào chuyện kể:
- Chị Thùy Dung đã phải lòng anh trong những lần đầu gặp gỡ tại nhà cô giáo Yến. Hồi đó mặc dù em còn nhỏ nhưng cũng nhận biết anh cũng yêu chị em, nhưng tại sao không chịu tỏ tình và giữ im lặng để chị em phải đau khổ với mối tình câm. Em còn thuộc bốn câu thơ chị thường đọc cho em nghe:
Chỉ cần một tiếng Yêu Ngày xưa em vẫn đợi Tiếc gì anh không nói Để mất nhau suốt đời Uống xong hớp trà, Trang tiếp:
- Rồi quả đất tròn, chị Dung gặp lại anh trong trại tị nạn. Đây là thời gian thuận lợi nhất để hai người kết hợp nhưng chị em đã đau khổ chạy trốn mối tình tha thiết của anh. Sau khi anh lên đường định cư, Chị Dung ốm nặng nằm bất động một chỗ cả tuần lễ. Thế rồi một buổi tối trước khi ngủ, chị Dung cho em xem một tập thơ, trước khi đốt thành tro và rải xuống biển, gồm nhiều bài thơ tình chị viết riêng cho anh và cho mối tình câm của chị.
Quang xin phép hỏi:
- Anh không hiểu chuyện gì xảy ra nhưng trong thời gian còn ở trong trại tị nạn, anh đã nhiều lần tỏ tình và ước ao kết hôn với chị em trước ngày lên đường đến nước thứ ba. Em có biết lý do tại sao chị em vẫn một mực từ chối không?
Trang kể tiếp qua nước mắt:
- Bây giờ em mới có dịp trình bày với anh. Sau khi thi xong phần hai tú tài, chị Dung tự nhiên bị bệnh nhức đầu kinh niên. Cha mẹ em đã chạy chữa khắp nơi nhưng các bác sĩ không kiếm ra bệnh chứng. Cuối cùng phải vào tận Sàigòn nhờ các bác sĩ nước ngoài chữa trị, ở đây khám phá ra chị Dung bị chứng ung thư hệ thần kinh nảo bộ. Dù với các phương tiện tối tân nhưng các bác sĩ phải đành khoanh tay, không thể giải phẫu để lấy cục bứu ra. Họ cho hay việc giải phẫu chưa biết kết quả đi đến đâu nhưng trước mắt, may mắn lắm thì nạn nhân sẽ sống sót nhưng toàn thân bất toại, nếu rủi ro thì không cứu được mạng người. Lúc đầu gia đình dấu kín chuyện nầy nhưng cuối cùng chị Dung cũng biết. Từ đó chị ít trò chuyện và không tiếp xúc với bất cứ ai…Cho đến một ngày gặp lại anh trong trại tị nạn. Điều nầy cũng đủ để giải thích thái độ chị Dung đối với anh trong thời gian nầy. Ba tháng sau ngày anh lên đường qua Mỹ, phái đoàn Thụy Điển đến Mãlai và chỉ nhận người tị nạn thuộc diện nhân đạo, nghĩa là họ chỉ nhận những gia đình có người đang mang trong người chứng bệnh nan y để đưa về Thụy Điển chữa trị. Gia đình em quá mừng, hy vọng cơ hội duy nhất để dành lại mạng sống của chị Dung đang tàn dần theo thời gian. Nhưng số trời đã định, ở đây cho biết ngày ra đi của chị Dung gần kề, họ khuyên gia đình nên làm những gì vui lòng cho người xấu số trong những ngày còn lại. Chị ra đi một cách nhẹ nhàng không đau đớn, trước khi nhắm mắt chị Dung còn tỉnh táo nói nhỏ với vợ chồng em, hãy cố gắng tìm và chuyển lại anh thông điệp cuối cùng của chị: Dung vẫn một đời yêu anh.
Nghĩa muốn tạm ngưng câu chuyện tại đây, xen vào hỏi Quang:
- Xin lỗi, chưa hỏi gì về anh. Gia đình, công việc ra sao?
- Anh đã li dị, không con cái và còn tiếp tục đi làm. Thế còn hai bác?
Trang cho biết:
- Cha mẹ em đã qua đời, hiện giờ chỉ còn vợ chồng em và hai đứa con. Chúng nó đã lớn và có gia đình.
Suy nghĩ một hồi, Quang đề nghị:
- Anh đề nghị hai em việc nầy, xem có tiện không?
- Anh cứ nói.
- Anh muốn xin phép hai em cho anh được đưa hài cốt chị Dung về Mỹ.
Một đề nghị ngoài dự đoán, vợ chồng Nghĩa nhìn nhau không ai lên tiếng trước. Quang giải thích thêm:
- Anh cũng độc thân không còn ai ràng buộc trong cuộc sống cũng như tình cảm. Anh muốn mang đưa Dung về ở gần anh. Mỗi năm hai em có dịp qua thăm như vậy cũng tiện.
Nghĩa nhường lời cho Trang:
- Em nghĩ thế nào?
Trang đáp trong do dự:
- Nằm ở đây có cha có mẹ đường nào cũng ấm cúng hơn.
Quang thuyết phục:
- Dù chưa giao ước cưới hỏi, nhưng ý nguyện của Dung muốn được sống bên anh. Kiếp nầy đã dở dang, âm dương có cách trở nhưng tình yêu không ai có thể ngăn cản một người sống yêu thương một người chết bên kia thế giới. Sự cách biệt thể xác đâu ảnh hưởng đến tình yêu trong tâm hồn. Anh muốn cùng Dung ngày đêm có nhau, như tình cảm của một người chồng trung thành vĩnh viễn với vợ mặc dù nàng đã chết.
Trang yên lặng, một lúc sau nàng đáp:
- Nếu anh đã nặng tình với chị Dung thì em đành nghe theo. Ngày mai chúng ta nghiên cứu việc bốc mộ. Dù hơn hai mươi ba năm, em nghĩ xương cốt vẫn còn nguyên. Vậy anh muốn hỏa thiêu một lần nữa để anh đưa về dễ dàng không?
- Được vậy rất tốt cho việc di chuyển và vấn đề vệ sinh cũng như kiểm soát hải quan.
Trước khi chia tay về phòng, Trang trao cho Quang một hộp giấy:
- Chiếp hộp nầy chị Dung dặn em, một ngày nào tìm được anh thì trao tận tay. Em chưa bao giờ mở ra xem.
- Quang cám ơn đem hộp giấy vào phòng ngủ.
*** Một ngày sau khi trở lại Mỹ, Quang tìm đến một nhà điêu khắc và nắn tượng nổi tiếng tại Los Angeles để đặt làm một pho tượng bán thân bằng thạch cao. Chàng đưa bức ảnh bán thân của Thùy Dung và đề nghị nhà nghệ sĩ cố gắng làm thế nào để khuôn mặt phải có hồn và giống y theo bức ảnh, kích thước đúng với vóc dáng thật của một người con gái Á Châu. Quang còn đề nghị khoét một lỗ ở phần sau lưng pho tượng để có thể đặt vào đó chiếc bình nhỏ đựng tro của người quá cố. Chừng mười ngày sau Quang đem bình đựng tro đến yêu cầu để vào sau lưng và niêm kín pho tượng.
Quang sửa sang phòng làm việc của chàng thành phòng riêng dành cho Dung thật đầy đủ tiện nghi. Pho tượng thạch cao được trang trọng để trên một bệ cao đối diện với bàn làm việc. Phía dưới chân tượng chưng bức ảnh bán thân, tập nhật ký và cuốn băng nhựa do chính Dung tự thu tiếng nói và hai bài hát: Còn một chút gì để nhớ để quên và Kiếp nào có yêu nhau. Hằng ngày sau giờ tan sở về đến nhà, việc trước tiên Quang vào phòng trò chuyện với Dung, nghe lại giọng nói và hai bài hát. Mỗi lần trò chuyện Quang đều thấy Dung hiện về với mình. Mặt pho tượng đổi sắc, sống động như Dung đang gồi trước mặt, hai má ửng hồng, ánh mắt linh động, miệng mĩm cười chia xẻ buồn vui với chàng. Từ đó Quang không còn tha thiết với bạn bè, ít lui tới với ai và từ chối luôn những viếng thăm của khách dù quen hay lạ. Xong công việc ở sở vội quay về nhà và suốt ngày sống âm thầm với nguồn hạnh phúc riêng tư. Cuộc đời của Quang bây giờ chỉ sống với hình bóng mờ ảo của Dung và hai bài hát phát ra từ cuốn băng nhựa.
*** Vào một buổi tối mùa thu, trên đường về chàng ghé qua siêu thị mua chai champagne và ổ bánh để kỷ niệm một năm chung sống với Dung. Nhưng về đến nhà, mở cửa vào chàng không còn nghe tiếng hát quen thuộc đón chàng như thường lệ. Quang chạy ngay vào phòng Dung, nhìn pho tượng, chàng thấy Dung bây giờ chỉ là một khối thạch cao vô tri giác, khuôn mặt không còn sống động, ánh mắt hết long lanh và nụ cười đã cũng tắt hẳn. Chàng với tay lấy cuốn băng nhựa để vào máy, không còn nghe tiếng nói Dung cũng như tiếng hát thường lệ. Lấy cuốn băng nhựa ra, hàng chữ của Dung ghi trên đó vẫn còn, Quang thử lại một lần nữa bằng dàn máy ngoài phòng khách nhưng không còn một âm thanh nào khác, cuốn băng nhựa đã hoàn toàn bị xóa bỏ. Quang quay trở lại phòng Dung, lên tiếng hỏi nhiều lần nhưng chung quanh chàng không một tiếng động.
*** Quang nằm vật ra giường thì điện thoại đổ chuông. Không buồn nhấc máy, vì đã từ lâu, điện thọai đối với chàng chỉ dùng để gọi mỗi khi cần thiết mà thôi, chưa lần nào nhấc máy trả lời kể từ ngày rời Thụy Điển. Nhưng điện thoại vẫn tiếp tục đổ chuông đến hơn năm phút, Quang miễn cưỡng nhấc lên:
- Alô, tôi nghe !
Đầu giây kia tiếng nói quen thuộc của Chi:
- Anh khỏe không, em đây.
Quang trả lời nhát gừng:
- Có gì cứ nói nhanh, anh đang bận.
Giọng Chi nhỏ nhẹ:
- Mời anh dùng cơm tối được không?
- Anh đang có chuyện buồn - Em biết !
Quang định cúp máy, tiếng Chi úp mở ở đầu giây:
- Đi ăn cơm với em thì chuyện gì đâu cũng vào đó.
- Ô hay, chuyện riêng tư của anh, em xen vào làm gì?
- Để giải quyết cho anh !
Quang bực tức:
- Nói đi.
Chuyện dài lắm, anh không muốn đi ăn với em, nhưng muốn nghe em nói bây giờ không?
- Được nhưng vắn tắt trong vài ba câu.
Đường giây kia Chi cười:
- Cô vợ ma bỏ rồi phải không?
Quang nghe đến lạnh xương sống, ngồi bật dậy hai tay run run giữ chặt ống nói, chàng giật mình không hiểu vì sao Chi biết được chuyện vừa xãy ra chưa đầy một tiếng đồng hồ.
Quang lắp bắp:
- Làm làm sao Chi biết?
- Hôm qua cô ta báo mộng cho em.
Quang hỏi dồn:
- Rồi sao nữa nói tiếp đi.
- Đêm qua em không ngủ được, đến gần sáng vừa chập chờn nửa tỉnh nửa mê, em thấy một người đàn bà, một cô gái thì đúng hơn, xưng tên là Thùy Dung đến ngồi ngay đầu giường ngỏ ý muốn nói chuyện với em. Cô cho hay nợ tình của cô ta đối với anh đã chấm dứt và yêu cầu em nối lại tình vợ chồng với anh để cô ta yên lòng ra đi. Chuyện đại khái có thế.
Quang năn nỉ:
- Em có thể cho anh biết rõ thêm?
- Em đã đặt nhiều câu hỏi và được trả lời đầy đủ. Cô ta cho biết yêu anh từ tuổi mười tám nhưng vì một chứng bệnh nan y không thể chung sống với anh và đã qua đời hai mươi ba năm nhưng hồn nàng vẫn theo sát bên anh như hình với bóng. Chuyện ly dị giữa anh và em do chính cô ta xếp đặt, xui khiến để hai đứa mình phải tạm chia tay trong một thời gian. Tiếp đó vì không muốn anh rơi vào tay một người khác, nàng đã phá đám việc giới thiệu cô Lan cho anh tại nhà ông bà Vinh. Dung đã xin lỗi em vì muốn dành anh làm của riêng để yêu và được yêu như lời nguyền. Bây giờ thì thời hạn đã hết cô Dung phải trở về với cát bụi.
- Tại sao Dung yêu cầu em trở lại đời sống vợ chồng với anh?
- Cô ta yêu anh, không muốn anh cô đơn trong lúc tuổi đã hai phần ba đời người. Cô Dung cho em hay, anh là một người chồng hiếm có trên đời, sức khỏe rất tốt không thể sống thiếu đàn bà.
- Chỉ yêu cầu đơn giản vậy thôi?
- Cô Dung hứa sẽ nhồi đắp hạnh phúc cho hai đứa mình, không còn quấy rối tạo ra những xung khắc cách biệt, nhàm chán trong việc sống chung, nhất là hạnh phúc gối chăn như trước kia nữa. Bây giờ anh nghĩ thế nào?
- Cho anh một thời gian.
Chi dứt khoát:
- Không còn chần chờ nữa, em sẽ trở lại sống với anh và chấp nhận sự hiện diện của Dung giữa chúng ta như một vị thần hộ mạng để bảo vệ tình yêu hai đứa mình.

Posted by: AnAn Dec 28 2011, 10:40 AM





Kontum: Đêm Giáng Sinh của một Giám mục miền núi



Gia Lai – Vừa đến nhà thờ Châu Khê vào chiều ngày 24/12/2011, khoảng 17 giờ 10 phút, Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận Kontum vội đến thăm các em thiếu nhi trong Khu Nội Trú Đức Mẹ Vô Nhiễm giáo xứ Châu Khê, là khu nhà nghèo nàn phía sau nhà thờ Châu Khê đã nhiều lần bị chính quyền địa phương yêu cầu dẹp bỏ dù nơi đây là mái ấm cho các em cơ nhỡ, thiếu ánh sáng văn hóa và có nhu cầu tôn giáo.

Gió trời càng lúc càng mạnh hơn với cái khí hậu rét ẩm đầy sương, những cơn gió mạnh cứ thổi hù hù trên triền dốc, Đức Cha vẫn đi băng băng lên dốc cao để đến khu nội trú nam cùng với Cha Giuse Đinh Văn Cao. Đây là ngôi nhà xây dựng dở dang, trống trước hụt sau, vách sau có thể thấy ánh nắng chiếu vào từng mảng lớn. Đức Cha ân cần thăm hỏi và động viên các em thiếu nhi, chúc các em luôn biết “yêu mến và sống theo tinh thần Chúa Giêsu Kitô là mến Chúa yêu người trong tình anh em liên đới vì tất cả chúng ta đều là con cái Chúa, đều từ một Cha sinh ra”.






Rời nhà thờ Châu Khê, đoàn tháp tùng Đức Cha trên đường đến thăm giáo điểm nghèo Yot cách trung tâm Pleiku trên 110km, Đức Cha đã ghé thăm một gia đình Công giáo là đại diện cho 40 gia đình có đạo nơi đây nhưng chưa được phép làm nhà nguyện, thờ Chúa tại ngôi gia này nhưng vẫn bị nhà chức trách địa phương nhiều lần đến hỏi thăm “sức khỏe”.

Con đường từ quốc lộ 19 rẽ vào Buôn Yot càng trở nên hẹp và khó đi, gồ ghề với nhiều dợn sóng đất đỏ, lúc trồi lên lúc sụp xuống, bụi tung mù trời, khốn cho ai là người đi phía sau xe. Đến nơi, việc đầu tiên là Đức Cha nghiêm trang cúi chào Chúa Hài Đồng trong hang đá nhỏ trước cửa nhà. Ngài thăm hỏi gia chủ về việc đất đai, nhà cửa, nơi thờ phượng, cầu nguyện của giáo dân nơi này và Đức Cha vui vẻ chia sẻ với chủ nhà. Con đường đến đây đã khó mà lòng người càng khó hơn. Người ta không muốn chúng ta theo đạo thờ phượng Đức Chúa Trời thì chúng ta càng phải biết khao khát Chúa hơn. Nơi nào càng bó buộc thì ân sủng Thiên Chúa càng triển nở và trở nên dồi dào nơi đó.







Trời càng lúc càng tối, con đường vào Buôn Yot càng khó đi hơn, xe phải chạy thật chậm để có đủ ánh sáng cho các xe trong đoàn ở phía sau. Đón Đức Cha có khoảng trăm em thiếu nhi thánh thể và hơn 600 giáo dân trong vùng đa phần đều trong đồng phục thổ cẩm của người dân tộc. Giáo dân xếp hàng dọc hai bên đường lối dẫn vào nhà nguyện cùng đội cồng chiêng cất tiếng hát vang để mừng Đức Cha đến thăm giáo điểm nghèo và đang gặp khó khăn về tôn giáo này.







Thời tiết càng khắc nghiệt hơn khi nhiệt độ xuống dưới 14o C, cái lạnh như con dao cắt vào thịt, lạnh từ xương lạnh ra làm cho cộng đoàn dân Chúa, đặc biệt là các em thiếu nhi môi tím tái nhưng vẫn cao giọng hát, tiếng vỗ tay đồng nhịp theo lời ca làm ấm lòng cả người mang lời Chúa và chiên Chúa chốn nghèo hèn.







Đồng tế với Đức Cha Micae là cha Giuse Đinh Văn Cao trong Thánh Lễ mừng kính Chúa Giáng Sinh làm người, chịu chết trên thập tự để cứu chuộc loài người bằng tình yêu cao quý. Đức Cha đã chia sẻ lời Chúa với cộng đoàn dân Chúa nơi đây bằng cả tiếng Kinh và tiếng Bahnar: “Chúng ta tiếp cận bất kỳ ai trên chốn trần gian này, chúng ta đều thấy thăm sâu rằng đều đi tìm kiếm một Thiên Chúa mà tôn thờ. Nếu có người chỉ vẽ cho rõ ràng thì họ biết tôn thờ cái vị đó là Thiên Chúa, là Cha của mình, của mọi người. Mà không biết có người chỉ dẫn cho thì họ thờ đủ mọi thứ tôn giáo vái thờ tứ phương là vì người ta cũng đang khao khát đi tìm kiếm mà không có người chỉ vẽ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu xuống thế làm người là nhắc lại cho chúng ta và trao cho chúng ta sứ mạng là đi loan báo Tin mừng cho mọi người, mọi loài thụ tạo….”.

Trước khi chúc lành, Đức Cha mời Cha Cao đọc thư Chúc Giáng Sinh 2011 của Giám mục Giáo phận Kontum cho cộng đoàn dân Chúa nghe để hiểu hơn về những khó khăn hiện nay của Giáo hội, mời gọi mọi người sống theo luật Chúa ‘mến Chúa yêu người’, mời gọi mọi người đồng hành với Giáo hội trên chặng đường gian nan là thập giá chúa trao ban cho nước Việt Nam mình.










Khi Thánh Lễ kết thúc, Đức Cha làm phép bánh và tặng bánh cho các em nhỏ. Ngài ân cần trao tận tay các bé và xoa đầu chúc lành cho từng em một. Buôn Yot giáo điểm nghèo vật chất ở vùng sâu vùng xa ở Mang Yang nhưng lại rất giàu có lòng tôn kính và mến yêu Chúa. Họ tham dự Thánh Lễ trong sự hiệp thông cầu nguyện cách sốt mến, chăm chú lắng nghe từng lời Đức Cha chia sẻ. Nhiều bà mẹ trẻ và cả những ông bố điệu con trên lưng. Đai con bên hông, bên ngoài quấn cả chiếc mền bông để giữ con được ấm, ngủ ngon trong khi tham dự thánh lễ. Người cha, người mẹ mang con bên mình như tập dần cho con biết lắng nghe lời Chúa khi tuổi hãy còn ở sơ sinh như loại thức ăn tinh thần với tất cả lòng cậy trông, phó thác rằng con mình sẽ trở nên những Kitô hữu biết sống đạo và giữ luật Chúa trao ban.

Đức Cha thay áo Lễ trong nhà một giáo dân cạnh nhà nguyện và được chủ nhà thết đãi đoàn của Đức Cha món cháo quê nghèo. Đức Cha khá mệt mỏi và đói vì từ trưa đến hơn 8 giờ tối mà Ngài chưa ăn gì cả ngoài ly trà gừng Cha Đa Minh Trần Thật mời Cha uống lúc thăm các em Nội Trú Đức Mẹ Vô Nhiễm Châu Khê. Khói bốc nghi ngút từ cháo trong tô nhựa, Đức Cha Micae múc từng muỗng ăn cách nhiệt tình và ngon lành không chút e ngại thức ăn của người nghèo. Cả đoàn cùng dùng cháo với Ngài, chủ nhà cứ nhìn mọi người ăn cách say sưa pha niềm hãnh hiện lộ qua nét vui cười, hớn hở. Người nhận đã vui, người cho đi càng vui hơn gấp vạn lần, tình yêu Chúa hiện diện ngay chính trong từng con người và từng con người nơi đây cũng thể hiện rỏ ràng tình yêu như lời Chúa dạy “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em vậy”.

Xe lăn bánh trở lại con đường chính sau chặng đường gian truân, vất vả để tiếp tục đến với nhà thờ Phú Yên H’ra để Đức Cha dâng Lễ mừng Chúa Giáng Sinh và ban ơn lành cho 52 em thiếu nhi Thánh Thể (trong đó có 28 em nữ) xưng tội rước lễ lần đầu.

Trên đường về Phú Yên H’ra, Đức Cha không quên đến chúc Giáng Sinh An Lành và tràn Hồng Ân Chúa trên tất cả anh chị em trong giáo xứ Châu Khê khi biết các em thiếu nhi và ca đoàn nơi này đang Diễn Nguyện Cuộc đời Đức Giêsu.

Tại cổng nhà thờ Châu Khê có khoảng 10 công an và dân phòng đeo băng trật tự chặn tất cả các xe máy và đuổi giáo dân đi hiệp thông Diễn Nguyện không được phép vào nhà thờ. Các anh công an và dân phòng hỏi người vào nhà thờ “đi đâu đây? đi chơi hả? ở đây hết chỗ gửi xe rồi, đi chỗ khác đi” mặc dù giáo dân nói là ‘đi Lễ’ nhưng vẫn bị đẩy ra khỏi lề đường trước cổng nhà thờ. Tự do tôn giáo là đây chăng khi giáo dân là Chiên của Chúa đến nhà Chúa dâng Lễ hay làm gì không xâm phạm luật của nước CHXHCNVN mà vẫn bị các anh công an, dân phòng cản lối, cấm cản? Lễ Giáng Sinh là Đại Lễ mừng kính Chúa trên toàn thế giới, dù vùng bách đạo cũng không được phép ngăn cản tự do tín ngưỡng tôn giáo vào dịp Lễ Tết, Giáng sinh huống hồ chi giáo xứ Châu Khê là nhà thờ chính thức được phép hoạt động tôn giáo tại Mang Yang. Thiết nghĩ, chính quyền Gia Lai nên xem lại cách hành xử vô văn hóa, thiếu đạo đức và thiếu hiểu biết của những người mang danh công an, dân phòng là hàng ngũ của đảng lại làm vấy bẩn bộ mặt của đảng thì không hay lắm.

Tại Phú Yên H’ra thánh Lễ được Đức Cha Micae và Cha chánh xứ Phaolô Nguyễn Văn Công đồng tế tại phần trước của nhà thờ với sự tham dự của khoảng hơn 2.000 người vào lúc 21 giờ 10 phút cũng bằng hai thứ tiếng Bahnar và Kinh.

Các em Thiếu nhi Thánh Thể vừa xong bí tích Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu ngồi các hàng phía trước trong sắc phục Bahnar cùng hiệp thông cầu nguyện cách sốt mến. Cùng Tham dự Thánh Lễ nơi đây, ngoài giáo dân của giáo xứ còn có nhiều người bên lương đến mừng kính Chúa giáng sinh, đặc biệt ca đoàn hôm nay có sự tham dự của bốn sơ Dòng Đa Minh Thánh Tâm với sự có mặt của Mẹ Tổng Quyền Bề Trên Têrêsa Phạm Thị Bạch Tuyết của Dòng.

Khuôn viên trong nhà thờ có sức chứa có hạn nên giáo dân ngồi tràn ra phía ngoài sân khá đông. Có thể đếm được hơn 100 người có con mọn ở tuổi sơ sinh được đai trước ngực và chiếc mền bông hoặc khăn thổ cẩm quấn bên ngoài, có những người trùm cả tấm khăn này lên mẹ lẫn con để trốn cái lạnh miền cao nguyên về khuya càng khủng khiếp. Có nhiều người run cầm cập, hai hàm răng đánh vào nhau, môi khô lạnh tím co ro trong chiếc áo thổ cẩm đơn sơ nhưng vẫn kiên tâm ngồi hiệp thông trong Chúa, không di chuyển hoặc nói chuyện, chia trí lo ra.

Đức Cha chia sẻ lời Chúa như muốn anh em mình luôn nhớ rằng ‘tất cả chúng ta đều là con cái Chúa, là an hem nên phải biết sống trong tình huynh đệ yêu thương nhau. Vì chỉ có tình yêu mới có thể chiến thắng cái ác, chỉ có tình yêu mới chiến thắng sự dữ, chỉ có tình yêu mới có thể làm tất cả mọi người nên một, chỉ có tình yêu chúng ta mới sống đúng là một con người’. Những lời Đức Cha chia sẻ như tấm áo choàng tình thương của Thiên Chúa che phủ tất cả con cái Người khỏi sợ hãi, càng củng cố Đức tin ở mỗi con người, làm cho mỗi người nhận ra cái đích phía trước mà chúng ta phải hướng đến là nước Thiên đàng để có thái độ sống tốt hơn. Đức Cha chúc lành và ban bình an cho tất cả các em Thiếu nhi Thánh Thể vừa xong bí tích Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu, các em được rước cả Mình và Máu Thánh Chúa.

Cha Phaolô Nguyễn Văn Công đọc thư chúc mừng Giáng sinh của Đức Cha Micae cho cộng đoàn nghe. Sau Lễ, Cha Công mời cộng đoàn nán lại nhận thức ăn khuya là bánh mì thịt do nhóm ‘bảo vệ sự sống Sài Gòn và các bạn’ do Cha Giuse Lê Quang Uy DCCT phụ trách gửi tặng. Các em nhỏ được nhận bong bóng nhiều hình khác nhau trong sự yêu thích lạ lùng vì ‘đi Lễ mà có thưởng’.

Dù khá thấm mệt nhưng Đức Cha Micae vẫn chưa được nghỉ ngơi, Ngài theo chân các sơ và Mẹ tổng quyền bề trên dòng cùng hơn hai mươi giáo dân, nhóm BVSS, nhóm Lòng Thương Sót Sài Gòn, Truyền thông GP Kontum và anh em VRNs đến thăm nhà dòng Đa Minh Thánh Tâm mới mở tại H’ra cách giáo xứ vài trăm mét. Đức Cha và mọi người lặn lội trong đêm hôm tăm tối trên con đường đất ngoằn ngoèo, quanh co, khúc khuỷu đến nhà Dòng trong cái lạnh thấu xương, chốc chốc có người cứ hà hơi vào tay để giữ ấm.

Nhà dòng bằng gỗ đơn sơ với nền là gạch ống thưa thớt mà Đức Cha nói nửa đùa nửa thật rằng “nếu rơi tiền xu xuống đây thì chỉ có mất chứ làm sao mà tìm được”. Đức Cha và một nhóm người trèo lên chiếc cầu thang cao nghệu để lên gác, số còn lại đứng dưới nhà cùng hiệp thông đọc kinh, cầu nguyện. Đức Cha đã làm phép nhà, rẩy nước phép khắp nhà từ trên gác xuống đất, từ trong nhà ra ngoài ngõ để “bình an và hồng ân Chúa sẽ ở với ngôi gia này, xin Chúa ban muôn ơn lành trên những người đem tình yêu Chúa đến nơi khổ nghèo, hèn mọn”.

Mẹ Bề trên Tổng quyền thay mặt nhà dòng cảm ơn Đức Cha, có món quà nhỏ thay tấm lòng của nhà dòng dâng kính Đức Cha nhưng Ngài chỉ đặt tay lên quà “xem như tôi đã nhận”.

Hình ảnh một Đức Giám mục mộc mạc, chân chất, đơn sơ nhưng giàu tình yêu Thiên Chúa đã thắp lửa cho đời, thắp sáng cho người, đặc biệt là toàn thể dân Chúa khổ nghèo trên rẻo Tây Nguyên.



Giêra Nguyễn – Nguyễn Quân TT, VRNs

Posted by: caoduy Feb 16 2012, 07:14 AM





Trung Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum



Trung tá Ngô Văn Xuân xuất thân khóa 17 trường Võ Bị Quốc gia Đà Lạt đã từng giữ chức vụ Đại đội trưởng Trinh sát thuộc Trung đoàn 11 Sư đoàn 7 Bộ binh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 44 của Sư đoàn 23 Bộ binh, Trưởng phòng Hành quân Sư đoàn 23 và cuối cùng là Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 44 Sư đoàn 23. Trong chiến đãu, ông đã 3 lần bị thương và sau khi VC chiếm miền Nam, ông đã bị đi cải tạo 13 năm. Ông đến Hoa Kỳ theo danh sách HO vào tháng 4/1992 và hiện đang cư ngụ tại vùng Bắc California.

”Mùa Hè Đỏ Lửa” trên vùng Cao nguyên mới đó mà đã 24 năm. Lửa chiến trường bây giờ đã nguội lạnh. Những chiến sĩ trẻ tuổi nhất của chiến trường lúc ấy, bây giờ cũng đã bước vào tuổi tứ tuần. Những cấp chỉ huy của mặt trận lúc ấy, sau bao thăng trầm dâu biển, giờ đây số còn sống sót cũng chẳng là baọ Đã có nhiều cuốn sách, hồi ký của nhiều tác giả viết về trận đánh mang tính quyết định này. Có người đã nhìn diễn tiến của trận chiến đó từ những góc độ khá cao, thậm chí có khi đã tường thuật 1 cách dửng dưng như 1 khán giả ngồi xem trên khán đài. Nhưng dầu sao, cũng còn nhiều khía cạnh đặc biệt của các trận chiến đó mà những người ngoại cuộc không thể thấy rõ hết được

Đôi khi tôi muốn kể lại diễn biến thực sự của trận đánh mà chính mình tham dự cùng với các chiến hữu của mình, nhưng tôi nghĩ rằng tôi không phải là 1 nhà sử học và cũng không phải là 1 nhà văn, nên cứ ngại ngùng về sự trình bày. Hôm nay, nhìn mọi người đang vui xuân ở quê người, bỗng dưng tôi thấy lòng nao nao khó tả khi nhớ đến các đồng đội chia ngọt xẽ bùi, vào sinh ra tử với mình, trong số đó, phần lớn đã nằm xuống trong lòng đất, một sốcòn lại đang sống cơ cực ở một nơi nào đó trên quê hương, chỉ có một số ít may mắn tìm được đất mới, nhưng cuộc sống chưa có gì là khả quan.

Chẳng mấy chốc, thêm một tháng 5 trên quê ngườị Mùa hè ở nơi đây dịu dàng hơn, không hẳn chỉ do nơi khí hậu tốt lành mà còn bắt nguồn từ việc được hít thở không khí tự do, điều mà các bạn bè, chiến hữu của tôi đã và đang xả thân chiến đấu để tìm cho được. Nhớ tới những chiến hữu đã nằm xuống trên chiến trường Kontum vào những ngày “Mùa Hè Đỏ Lửa” là động lực duy nhất khiến tôi vùng dậy, ngồi viết bài này.
1. DIỄN TIẾN TÌNH HÌNH

Sư đoàn 23 Bộ binh gồm 3 Trung đoàn 44, 45 và 53. Các Trung đoàn này được phối trí trên lãnh thổ khu 23 chiến thuật bao gồm các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Tuyên Đức, Quảng Đức, Lâm Đồng, Phan Thiết, Phan Rang, Khánh Hòạ Do tình hình của từng địa phương, các Trung đoàn được bố trí như sau: Trung đoàn 45, hậu cứ đóng tại Ban Mê Thuột, trách nhiệm hành quân khu vực Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức. Trung đoàn 53, hậu cứ đóng tại Bảo Lộc, trác nhiệm hành quân trên lãnh thổ các tỉnh Lâm Đồng, Truyên Đức. Trung đoàn 44, hậu cứ đóng tại Sông Mao, trách nhiệm khu vực Phan Thiết và Phan Rang. Tuy nhiên, tùy theo tình hình đòi hỏi, trong các chiến dịch lớn phối hợp nhiều đơn vị thì các Trung đoàn này di động phối hợp tác chiến chung với Trung đoàn kia trong cùng một chiến dịch.

Sau vụ Tổng Công Kích Mậu Thân 1968. Những lực lượng đýa phương bao gồm các du kích, chủ lực tỉnh, chủ lực miền và thành phần cơ sở của CS bị tiêu diệt gần hết. Riêng tại lãnh thổ thuộc tỉnh Phan Thiết, trực thuộc Quân khu 7 của Tướng Nguyễn Văn Ngàn của CS, tình hình càng bi đát hơn. Những cố gắng cuối cùng trong cơn hấp hối, với các cuộc tấn công thí mạng vào Sông Mao, và các cuộc phục kích trên quốc lộ 1 trên đoạn Lương Sơn tới chân núi Tà Dôm trong tháng 8, 9 và 10 trong nă 1970 của 2 Tiểu đoàn chủ lực miền 481 và 482 là dấu chấm cuối cùng trong lịch sử thành lập các đơn vị nàỵ Tình hình càng bi thảm hơn khi lực lượng Hoa Kỳ bao gồm Tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn 506 Nhảy dù yểm trợ trực tiếp cho 1 đại đội cơ giới công binh có gần 20 máy ũi cỡ lớn khai quang quốc lộ 1, 1 đoạn dường băng ngang mật khu Lê Hồng Phong. Cũng trong thời gian này, Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, 1 người rất thành công trong chiến dịch bình định phát triển của mình, đã tách được các lực lượng cơ sở của CS và vô hiệu hóa được các cơ sở nàỵ Điều này đã được báo cáo về trung ương và TT Thiệu đã xác minh bằng chính những cuộc di chuyển bằng xe Jeep vào ban đêm trên đoạn đường từ Phan Thiết đi Phan Rang, 1 điều mà chỉ một hai năm trước đó không thể thực hiện được.

Do diễn biến tình hình thuận lợi như thế, Bộ Tư lịnh Quân đoàn 2 đã quyết định điều động 2 Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 44 lên Pleiku làm lực lượng trừ bị cho Quân đoàn.

Tháng 7/1971, Chiến đoàn A/44 được thành lập. Thành phần gồm 2 Tiểu đoàn 1 và 2, BCH nhẹ Trung đoàn do tôi chỉ huỵ Chiến đoàn di chuyển lên căn cứ Hàm Rồng ở Pleiku nhận lệnh rồi sau đó đi An Khê, phối hợp hành quân với Thiết đoàn 3 Thiết giáp. Tháng 11/1971, tình hình chiến trương Cao nguyên sôi động hẳn lên. Những trận đánh đẫm máu đã xảy ra giữa CS với các lực lượng của ta gồm có Sư đoàn 23 Bộ binh, Biệt động quân, Lực lượng đặc biệt, Địa phương quân…ở vùng 3 biên giới, trại Bạch Hổ, các căn cứ 5 và 6… BTL Quân đoàn 2 đã quyết định điều động toàn bộ Trung đoàn 44 còn lại tại Sông Mao trực chỉ Pleiku. Có lẽ cũng cần nhấn mạnh đến 1 điều là lợi dụng tình hình thuận lợi trong năm 1971 đến tháng 9/1971, Trung đoàn 44 đã được xử dụng làm thí diểm cho chương trình “Chân Trời Mới” của Bộ Tổng Tham Mưu, nhằm tái bổ sng và huấn luyện để tạo cho Trung đoàn 1 khả năng tác chiến mới. Điều này đã đạt được kết quả là khi được điều động lên Cao nguyên, Trung đoàn 44 là 1 Trung đoàn có thực lực tương đối mạnh cả về quân số lẫn khả năng tác chiến. Hơn nữa, sự chiến thắng liên tiếp qua các trận đánh trong 2 năm 1970 và 1971 đã tạo ho Trung đoàn 1 tinh thần quyết thắng. Ngoài ra, trong thời gian đồn trú tại An Khê, Trung tá Trần Quang Tiến, Trung đoàn trưởng, đã có dịp để tuyển lựa ra 1 số binh sĩ tinh nhuệ và huấn luyện cho các chiến sĩ này khả năng sử dụng B40 và B41 (1 loại súng chống chiến xa khá hữu hiệu của khối CS).

2. TRUNG ÐOÀN 44 THAM GIA TRẬN ÐÁNH

Cuối tháng 3/1972, Chiến đoàn A/44 di chuyển đi Pleiku, thay thế nhiệm vụ của Trung đoàn 45 đang mở quốc lộ 14, đoạn đường từ Pleiku đi Kontum. Tôi còn nhớ rất rõ cái ngày kinh hoàng này. 5 giờ sáng, binh sĩ các tiểu đoàn 1 và 2 đã được báo thức dể chuẩn bị lên xe sẵn sàng di chuyển. Trung tâm Hành quân của Quân đoàn báo cho biết, căn cứ 42 (1 căn cứ hỏa lực, cách Kontum khoảng 7km về phía Bắc, nằm sát bên quốc lộ 14), hiện vẫn còn đang bị đặc công CS tấn công!

8 giờ sáng, Chiến đoàn di chuyển. 10 giờ 30, đoàn xe đến vị trí. Tiếng báo cáo của Dại úy Đặng Trung Đức, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/44 qua ống liên hợp làm tôi ngạc nhiên :”Báo cáo Bá Hòa (danh hiệu truyền tin của tôi), tình hình trong căn cứ sao thấy kỳ cục quá!”. Tôi ra lịnh cho chú lái xe vượt qua đoàn xe tiến lên phía trước. Vừa đến cửa căn cứ, tôi thấy Đức đứng xớ rớ nói chuyện với 1 sĩ quan thuộc Trung đoàn 45. Mùi khói củ thuốc súng và các vật dụng bằng gỗ đang cháy ngún, mùi khét của thịt người, mùi tanh của máụ..hoà huyện với nhau cho biết có một cuộc chiến vừa mới diễn ra nơi đây. Quan sát chiến trường, tôi nhận ra những xác chết đang nằm ngổn ngang gồm đủ loại, từ binh chủng Nhảy dù, Trung đoàn 45, Địa phương quân, Nghĩa quân, Pháo binh, gia đình binh sĩ…đến xác các đặc công CS. Bất chợt, tôi găp lại Thiếu tá Huỳnh Ngọc Anh, Trung đoàn phó Trung doàn 45, một bạn thân của tôi. Anh ta liền cho tôi biết căn cứ của anh bị đặc công CS tấn công vào lúc 2 giờ đêm qua, mãi tới 5 giờ sáng tiếng súng mới chấm dứt. Cuộc kiểm tra được khởi sự từ 8 giờ dến giờ, số tổn thất vẫn chưa xác định chính xác.

Đến 2 giờ chiều, công việc bàn giao mới xong. Chiến đoàn nhận trách nhiệm mở đường và chịu trách nhiệm an ninh lộ trình cho đoạn quốc lộ 14 từ Pleiku đi Kontum.

Trong gần 1 tuần lễ tại đây, tình hình không có tiến triển nào đáng kể. Dãy đồi đá Chu Pao nằm kề sát bên quốc lộ là một dãy những vách đá dựng. Trung đoàn 95 đặc công CS bố trí thành từng đám nhỏ trong các hang và vách đá trải dài theo quốc lộ hơn 5km, chốt chặt con đường lại. Đơn vị chúng tôi bị cầm chân ở phía Đông quốc lộ 14, không tiến lên được. Những cuộc chạm súng qua lại thường ở cấp độ tiểu đội, giành giựt nhau từng tấc đất, vách đá.

Sáng ngày 12/5/72, Chiến đoàn nhận được lệnh rời bỏ khu vực hành quan di chuyển đi Kontum. Tôi thở ra nhẹ nhõm. Dù chỉ mới có hơn tuần lễ chơi trò đánh du kích giựt chốt này, bứt chốt nọ, tôi cảm thấy hơi chán nản. Chúng tôi chờ đợi những cuộc hành quân mang tính tiến công hơn là những cuộc tranh giành từng vị trí chiến đấu mà tôi đã từng trải qua khi còn là 1 Đại đội trưởng Trinh sát hay Tiểu đoàn trưởng.

4 giờ chiều cùng ngày, tôi trở về Phòng 3 Quân đoàn để nhận kế hoạch di chuyển chi tiết. Tại đây tôi đã gặp Đại tá Lê Quang Bình, Tham mưu trưởng Quân đoàn và được biết đơn vị của tôi sẽ được chở bằng phi cơ C.130 đi Kontum vào đêm nay.

11 giờ, toàn đơn vi có mặt tại phi trường Phượng Hoàng. Tại đây, chúng tôi lại được thông báo thêm 1 tin mới: Phi trường Kontum hiện đang nằm trong tầm pháo của CS, phi cơ sẽ hạ cánh theo ánh đèn hướng dẫn của toán chuyên viên phi trường trên phi đạọ Ngay khi bánh xe ngừng lăn, cửa phi cơ sẽ mở rộng và các binh sĩ sẽ phải chia làm 2 hàng chạy thật nhanh ra khỏi phi cơ và phi đạo để tránh phá! Nhưng cũng lưu ý là không được chạy ra quá phi đạo 50 m vì phía ngoài phi đạo có gài mìn chống chiến xa!

Bộ chỉ huy của Chiến đoàn và tôi đi theo chuyến phi cơ đầu tiên, vì tôi muốn nắm được tình hình cụ thể để có thể có những xử trí thích ứng khi cần.

Chiếc phi cơ Hercules C.130 chở gần 100 người cất cánh lúc 11 giờ 30 đêm ấỵ Trời cao nguyên trong tháng đầu hè đày sao lóng lánh trên bầu trời đen xanh thăm thẳm. Khó ai có thể tin được trong cái im lặng thanh khiết ấy sẽ hứa hẹn những cuộc thư hùng đẫm máu chỉ không đầy 24 tiếng đồng hồ sau.

10 phút sau khi cất cánh, phi trường Kontum đã hiện ra trong những ánh chớp của những máy beacon của toán chuyên viên hướng đạo. Chiếc phi cơ hạ thấp dần và đáp rất gọn xuống phi đạo trong đêm tối, chạy đến cuối đường bay, trở đầu, mở cửa. Chúng tôi phân tán rất nhanh qua 2 bên đường trong im lặng. Phi cơ lại rú mạnh và bốc lên cao hướng về lại phía Pleiku. Tất cả cuộc di chuyển, lên xuống không đầy 15 phút cho mỗi chuyến. Đức theo chuyến bay thứ 2. Tôi yêu cầu Đức ở lại tiếp tục theo dõi cuộc vận chuyển. Lệnh từ BTL Sư đoàn cho biết, sẽ có 1 chiếc xe Jeep ra đón tôi vào trình diện Đại tá Tư lịnh Sư đoàn.

Viên sĩ quan tùy viên đưa tôi vào 1 căn nhà xây kiểu như 1 văn phòng công sở thường, chung quanh có 1 lớp rào kẽm gai sơ sài. Sau đó tôi được hướng dẫn vào gặp vị Tư lịnh, lúc đó là khoảng 1 giờ sáng ngày 13/5/1972.


Đại Tá Lý Tòng Bá (1972)


Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lịnh Sư đoàn, mặc áo thun trắng, quần trận màu xanh. Sau cái bắt tay xã giao, ông kéo tôi ngồi chung trên chiếc giường sắt quân đội được kê giữa phòng. Ông hỏi qua tình hình đơn vị, tinh thần binh sĩ, rồi ông đứng lên, kéo tôi xuống Trung tâm Hành quân nói sơ lược tình hình, diễn biến các kế hoạch của Sư đoàn, sau đó ông giao nhiệm vụ. Tại đây tôi được biết, toàn bộ Trung đoàn 44 sẽ tiếp tục lên trong ngày 13. Nhiệm vụ trước mắt của chúng tôi là bố trí thay thế 1 Liên đoàn Biệt động quân trên tuyến phòng thủ hướng Tây Bắc cách tỉnh Kontum khoảng 5 km.

Tôi trở lại phi trường Kontum, họp hành quân với Đặng Trung Đức, Tiểu đoàn trưởng Tiểu doàn 1/44 và Nguyễn Xuân Phán, Tiểu đoàn trưởng của Tiểu đoàn 2/44. 6 giờ 30 sáng, những tia sáng mặt trời chưa đủ để soi rõ thành phố đang ngái ngủ thì có tiếng nổ “ùynh, oàng, ùynh, oàng…”, 2 trái hỏa tiển 120 ly của CS rót thẳng vào phi trường từ hướng Đông Bắc. Rất may là cả 2 đều nổ gần trạm Tiếp Liên vắng người nên không gây tổn thất. Tôi cho lệnh Đức và Phán kéo quân ra khỏi phi trường, đi bộ dọc theo quốc lộ 14 lên hướng Bắc thi hành nhiệm vụ. Cuộc chuyển quân và phối trí quân cứ tiến hành nhịp nhàng như thế cho đến 5 giờ chiêu thì hoàn tất. Trung tá Tiên cùng Bộ chỉ huy Trung đoàn cũng đã lên đầy đủ cùng 2 Tiểu đoàn 3 và 4.

Trung đoàn 44 dược phối trí như sau :

Ba Tiểu đoàn 1, 2 và 3 trải dài theo hình cánh cung trên tuyến phòng thủ dài gần 4km, phía Tây giáp nhánh sông Dap Kron (?), phía Đông giáp quốc lộ 14. Phía phải quốc lộ là Trung đoàn 45. Lùi về phía sau tuyến phòng thủ khoảng 2km là đòi tròn, BCN Trung đoàn đóng tại đâỵ Tiểu đoàn 4/44 và Đại đội 44 Trinh sát là lực lượng trừ bị.

6 giờ chiều, Trung tá Tiến cùng tôi đi kiểm tra tuyến phòng thủ của các Tiểu đoàn 1, 2 và 3. Tại vị trí BCH cũ của đởn vị Biệt động quân vừa bỏ đi, chúng tôi vừa bước vào hầm hành quân thì cùng lúc pháo binh CS bắn tới. Những khẩu pháo này được đặt ngay tại Eo-Gió, 1 vị trí cách chúng tôi chừng 3km hướng Bắc, trực xạ vào chúng tôị Cuộc bắn phá này kéo dài chừng 20 phút. Những cột ăng-ten bật tung, khói bay mịt mù, trời sập tối. 8 giờ tối hôm ấy, chúng tôi được BTL Sư đoàn cho biết có nhận được điện văn của CS báo cáo đã diệt gọn Chỉ Huy Sở 44!

12 giờ đêm điện thoại reo, Trung tá Hiếu điện đàm cùng Đại tá Tư lịnh Sư đoàn. Đại tá Tư lịnh cho biết đã bắt được mật lịnh tấn công của CS vào 5 giờ sáng hôm sau, yêu cầu Trung đoàn chuẩn bị sẵn sàng đối phó.. Tất cả Trung đoàn được báo thức. Hầm hố cá nhân được lịnh phải tu bổ lại, cũng cố thêm để có thể chịu đựng được các cuộc pháo kích nặng trong chiến thuật tiền pháo hậu xung của địch.

Không khí oi bức của mùa hè Cao nguyên, cái ngột ngạt của sự chờ đợi, cái căng thẳng sẵn có kéo dài nửa tháng naỵ..làm cho chúng tôi càng không ngủ được. Đêm im lặng lạ thường. Cái im lặng chứa chất những mưu toan, thủ đoạn của cả 2 phía. Nằm trên chiếc poncho bên cạnh miệng hầm, tôi ngước nhìn bầu trời đầy saọ Tôi cố tìm trong giải ngân hà hằng hà sa số sao kia một ánh sao sa, để kịp nói lên 1 điều ước: Cuộc chiến hãy mau khởi sự để chấm dứt cuộc chờ đợi khốn nạn này.

3. TRẬN ÐÁNH MỞ MÀN

Những tiếng pháo gầm rú như giận dữ sau 1 thời gian bị bắt buộc chờ đợi. Tiếng điện đàm từ các hệ thống máy truyền tin gọi nhau ơi ớI. Tiếng nói như có vẻ hơi mất bình tĩnh của Đức:”Báo cáo Bá Hòa, địch bắt đàu tấn công chúng tôi”. Tiếng nói lúc nào cũng lạnh lùng bình thản của Phán:”Báo cáo Bá Hòa, có 3 chiếc tăng đang di chuyển về hướng tôi!”. Lúc đó là 5 giờ 20 sáng ngày 14/5/72.

Sau gần 30 phút pháo kích liên tục trên tuyến phòng thủ của các Tiểu đoàn 1, 2 và 3, những loạt đan pháo chuyển xạ về hướng chúng tôi để hổ trợ cho các cuộc xung kích của bộ binh và chiến xa của địch. Cuôc tấn công mang đầy tính chính quy sách vở mà tôi đã được huấn luyện cách đó 12 năm, nhưng mới chỉ được chứng kiến lần đàu.

Chúng tôi xử dụng các hàng rào cản pháo binh hỗ trợ tuyến phòng thủ, các phi cơ quan sát theo hương điều động của địch. Một phi đội trực thăng có trang bị đặc biệt hỏa tiển TOW cũng có mặt tại mặt trận không lâu sau đó.

6 giờ 15, tiếng báo cáo của Đức vang trong máy:”Báo cáo Bá Hòa, chúng tôi rang được 2 con cua rồi!”. Tiếng của Phán:”Báo cho Bá Hòa biết là tôi bắt được 1 con cua sống, 1 con bị rang muối còn 1 con chạy lủi về hướng Bắc, xin Bá Hòa cho Sao Mai (danh hiệu của phi cơ quan sát) nó biết nó thit luôn cho rồi!”. Tôi cũng chẳng chờ đợi lâu, tiếng phi công vui vẻ:”Hồng Ngọc (danh hiệu của Phán) yên chí, tôi thấy nó rồi, tụi nó đang chạy cát bụi mịt mù kia rồi…”. 3 chiếc trực thăng võ trang được gọi đến kịp thời. Những con cua của Trung đoàn 2 Thiết giáp CS sau khi dội ngược trước bức tường thép, cũng chịu chung số phận hẩm hiu như đòng đội.

Đến 10 giờ, tiếng súng lớn thưa thớt dần, tiếng súng nhỏ cũng chỉ còn rời rạc. Trên bầu trờ quang đãng lúc ấy chỉ còn vần vũ 2 phi tuần khu trục phản lực Standby. Báo cáo sơ khởi, trên tuyến phòng thủ của Trung đoàn 44, địch bỏ lại 5 xe tăng T54, 1 bị bắt sống. Khoảng hơn 100 xác đých nằm rải rác trên tuyến kéo dài trên 4km. Bên ta khoảng 50 bị hy sinh và bị thương, trong đó có 2 Đại đội trưởng. Và điều khôi hài là trong 5 chiếc xe tăng bị bắn cháy ấy, có tới 2 chiếc là do súng B40 của các toán diệt tăng của ta. 7 tù binh, trong đó có 2 bị thương, được giao giải ngay về BTL Sư đoàn khai thác. Cuộc hưu chiến bất đắc dĩ kéo dài không lâu, 2 giờ 15, địch phát động cuộc tấn công thứ hai vào phòng tuyến của ta. Súng đạn các loại lại được dịp thi nhau lên tiếng. Máy bay gào thét, nhào lộn lên xuống liên tục trên hậu tuyến địch.. Nỗ lực của địch đã được Trung đoàn 44 đáp ứng xứng đáng. Thêm 3 xe bị bắn cháy trên tyến, 50 xác địch quân để lạị Tiếng súng tạm ngưng vào lúc 5 giờ chiều, rồi lại trở lại vào lúc 7 giờ tối. Trong suốt ngày 14/5/72, CS đã tung ra 3 cuộc tấn công vào phòng tuyến của ta và đều bị đẩy luị Nếu tính chung cả số chiến xa do không quân bắn cháy, chỉ trong ngày hôm ấy, Trung đoàn 2 Thiết giáp của CS mất đi 15 xe.

Màn đêm trùm xuống trận địa màu tang tóc, lẫn trong mùi khói của cỏ khô trên những vạt đất còn ngun thuốc súng, lập loè những tia lửa dang dở của các đám cháy nhỏ nằm rải rác khắp chiến trường. Vẫn có mùi tanh của máu, mùi khét của thịt da ngườị Tất cả quyện lại với nhau, tạo nên cái mà người ta thường gọi là tử khí.

Những cung từ của tù binh khiến cho ta nắm được đội hình tấn công của địch. Trung đoàn 44 đang trực diện với mũi tấn công chính của 2 Trung đoàn 48 và 64 trực thuộc Sư đoàn 320 thép của CSBV. Sư đoàn này là 1 trong 2 Sư đoàn khét tiếng là tinh nhuệ và chủ công của CS. Sư đoàn kia là 308. Từ nhiệm vụ là lực lượng tổng trừ bị của CSBV, 2 sư đoàn này đã được tung vào chiến trường miền Nam dể thay thế các đơn vị đã bị tổn thất nặng nề, mất khả năng tác chiến. Sư đoàn 320 đã xuyên thủg tuyến phòng thủ của Sư đoàn 22 Bộ binh VNCH trên chiến trường Tân Cảnh ở vùng Tam Biên, và cũng đã phải trả một giá khá đắt cho thành quả này của họ. Điều này được giải thích bằng sự tái tổ chức và trang bị, mất khá nhiều thời gian nên tốc độ cuộc tiến quân bị chậm đến gần 1 tháng, kể từ sau khi họ chiếm được Tân Cảnh. Sáng ngày 15/5/72, cũng vẫn màn dạo đầu là loạt pháo dọn đường, sau đó là bộ binh xung phong, 2 Trung đoàn 48 và 64 của Sư đoàn 320 CSBV tiếp tục cuộc xuyên phá tuyệt vọng của họ. Các chiến sĩ thuôc Trung đoàn 44 vẫn bình tĩnh, lạnh lùng quyết liệt chống trả. Đặc biệt trong lần tấn công đầu ngày này, không có sự hỗ trợ của chiến xa nữạ Điều này ch+’ng tỏ lực lượng xung kích bằng thiết giáp của họ đã chịu những tổn thất thực sự nặng nề.

Buổi trưa cùng ngày, 1 mũi tấn công của họ đã chiếm được 1 số vị trí tiếp giáp giữa 2 Tiểu đoàn 1 và 3. Đại tá Trung đoàn trưởng (đã được đặc cách gắn tại mặt trận buổi trưa ngày 14/5/72 do Thiếu tướng Toàn, Tư lịnh Vùng, và cố vấn Paul Vann), đã quyết định tung luôn tiểu đoàn trừ bị 4/44 vào chiếm lại khu vực nàỵ Phải mất gần 4 tiếng đồng hồ, Đại úy Võ Anh Tài, Tiểu đoàn trưởng, mới báo cáo hoàn tất nhiệm vụ. Kể từ lúc đó, lực lượng trừ bị của Trung đoàn chỉ còn lại 1 Đại đội Trinh sát.

8 giờ tối, Đại tá Tư lịnh Sư đoàn điện thoại trực tiếp với Đại tá Tiến, thông báo 1 quyết định táo bạo của ông. Sư đoàn sẽ sử dụng hộp bom trải thảm (Box B52) để tiêu diệt lực lượng địch đang áp sát tuyến phòng thủ của ta để tránh bị tiêu diệt bằng hỏa lực phi pháọ Mỗi Box B52 có diện tích 3 km2, số bom được thả xuống cho mỗi tấm thảm này gồm nhiều loại, từ 100 – 500 pound, đủ sức tiêu diệt hầu hết các sinh vật nằm trong thảm. Dù bom được thả theo sự hướng dẫn của các công cụ điện tử nên bom rơi vào các vị trí khá chính xác, nhưng qui luật an toàn vẫn đòi hỏi đơn vị bạn phải nằm cách thảm bom tối thiểu 500m theo hướng thẳng góc với chiều bay của B52 và 2km với hướng baỵ Trong khi khoảng cách giữa ta và địch lúc đó chỉ vỏn vẹn có 20-30m, thậm chí có những vị trí còn gần hơn thế nũạ Đại tá Tư lịnh Sư đoàn chỉ thị các đơn vị của Trung đoàn phải bí mật rời khỏi vị trí phòng thủ 300m về phía sau, núp theo con suối cạn 2 phút trước khi máy bay B52 đến trải thảm. Lệnh được ban ra qua điện thoại để bảo mật hoàn toàn. 12 giờ 2 phút, vừa kịp nghe tiếng ù ù của máy bay, thì đã có tiếng ục ục của bom rơi! Những tiếng nổ long trời lở đất, kèm theo những chấn động rung chyển mặt đất, mọi ngươi đều cảm thấy tức ngực đến ngộp thở, dù rằng vị trí của chúng tôi lúc đó cách xa thảm bom 2 km!

Quyết định táo bạo này đã mang đến 1 kết quả không ngờ : Biệt đội tình báo kỹ thuật của Sư đoàn nghe lén được những điện khẩn của các đơn vị CS kêu nhau ơi ớị.. Một số chỉ huy sở biệt vô âm tín, trong đó có BCH Trung đoàn 48 đang nằm đối mặt với Tiểu doàn 2/44.

Tình hình trở lại yên tĩnh từ dêm 16-20/5/72.

Tính ra hầu như toàn bộ Trung đoàn 44 đã không ngủ gần 1 tuần lễ liên tiếp, hay nói cho chính xác hơn, không được phép ngủ trong suốt thời gian ấỵ Thêm vào đó là những tổn thất không thể tránh được sau 1 tuân lễ giao tranh. Trung đoàn cần được nghỉ ngơi, BTL Sư đoàn quyết định đưa Trung đoàn 53 ra thay thế., Trung đoàn 44 trở về làm trừ bị cho Sư đoàn. 2 Tiểu đoàn 1 và 2 được đưa ra nghỉ ngơi tại bờ sông Dap La, trong khu dân cư của BCH Trung đoàn, Tiểu đoàn 4 và Đại đội Trinh sát trở về đồn trú tại BTL Biệt khu 24.

So ra sau 1 tuần trằn trọc bên chiến hào, nằm cận kề địch quân, đêm đầu tiên được ngủ trong 1 doanh trại kiên cố khiến cho tôi cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Tôi ngả lưng trên ghế bố trong Trung tâm Hành quân và…lịm đị
4. TRẬN ÐÁNH ÐỢT HAI

Cuộc vui nào cũng qua mau, người ta thường nói như thế. Điều này lại càng đúng cho chúng toi hơn bao giờ. Cuộc dưỡng quân chưa tròn 2 ngày thì chiều 22, Đại tá Trung đoàn trưởng và tôi được qua trình diện Đại tá Tư lịnh Sư đoàn để nhân lịnh mớị Vị Tư lịnh kêu chúng tôi xuống Trung tâm hành quân Sư đoàn. Với vẻ mặt đăm chiêu, ông ôn tồn nói :”Tôi biết Trung đoàn còn rất mệt, các anh đáng lý cần dược xả hơi thêm vài ngày nữa, nhưng tình hình đang có những diễn tiến mớị Sư đdoàn 320 đã kiệt quệ hẳn, không còn khả năng hành quân nữạ Tuy nhiên, chúng ta đã nhận được những tin tức khá chính xác về 1 kế hoạch mới : Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lịnh Mặt trận B3, quyết định tung ra nỗ lực cuối cùng bằng 1 cuộc tấn công mới với Sư đoàn 2 Sao Vàng được điều từ Tam Quang và Bồng Sơn lên, phối hợp với Sư đoàn 968 mới được bổ sung và thành lập bởi các đơn vị chính thống của Mặt trận. Cố vấn John Paul Vann yêu cầu chúng ta mở 1 cuộc phản công bằng tấn công vào sau lưng địch. Tôi đã trình bày cho ông ta biết thực trạng của chúng ta, nhưng ông ấy đã áp lực bằng cách nêu điều kiện chỉ tiếp tục yểm trợ hỏa lực B52 nếu chúng ta tổ chức 1 cuộc hành quân như thế! Rồi ông quay qua phía tôi vỗ vai nói :”Tao biết chú mày không mấy vui về quyết định này, cũng như chính tao vậy! Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Tao tin tưởng ở chú em và hy vọng là chú em sẽ hoàn thành được sứ mạng này”. Đại tá Tiến và tôi nhìn nhau không nóị Đúng hơn là không được phép nói không.

7 giờ sáng ngày 23/5/72, tôi và 2 tiểu đoàn 1 và 2/44 tham gia cuộc hành quân phản công nàỵ Trong các cuộc hành quân quan trọng, tôi vẫn có thói quen sử dụng 2 đơn vị này vì nhiều lý do riêng tự Thứ nhất, cả Đức và Phán đều xuất thân từ khóa 19 Đà Lạt, là khóa đàn em do chính khóa 17 chúng tôi huấn luyện, nên ngoài hệ thống quân giai của Quân đội, giữa chúng tôi còn có tình đồng trường truyền thống. Thứ hai, 2 tiểu đoàn này đều là 2 tiểu đoàn có nhiều thành tích nhất trong Trung đoàn, có tổ chức cán bộ chặt chẽ và tinh thầ chiến đấu khá caọ Sau ít phút thảo luận, tôi, Phán và Đức đã đồng ý với nhau 1 số nguyên tắc :

- Mỗi tiểu đoàn chỉ lựa ra khoảng 150 binh sĩ, sĩ quan và hạ sĩ quan có tinh thần và sức khoẻ tốt.
- Tất cả súng cộng đồng đều bỏ lại hậu cứ.
- Quân trang quân dụng mang tối thiểu, gọn nhẹ, dễ xoay xở.

Chiến đoàn đặc nhiệm của chúng tôi sẽ được trực thăng vận vào sau lưng phòng tuyến địch từ 10-15 km, sau đó sẽ mở cuộc càn quét địch từ hướng Bắc xuống Nam, lấy trục đường 14 làm chuẩn, hướng về phía Kontum. Phi đoàn 263 của Thiếu tá Quang nhận nhiệm vụ hành quân phối hợp với chúng tôị

Khi bước lên máy bay chỉ huy C&C, tôi bàn cùng Quang hướng tiếp cận bãi đáp để đánh lừa địch. Đội hình của đơn vị bay theo trục đông tây, hướng về phía Trung Nghĩa, ra sát ven sông Dab Kron, rồi lên hướng bắc, đổi hướng tây đông, băng qua quốc lộ 14 và đáp xuông các bãi đáp trống trên các ngọn đồị Cuộc đổ quân hoàn tất lúc 9 giờ sáng, không có tổn thất. Tôi chia dơn vi làm 2 mũi, Tiểu đoàn 1 cập theo quốc lộ 14, Tiểu đoàn 2 dọc theo đường đỉnh cách quốc lộ 1 km, tôi đi theo Tiểu đoàn 2.

Ngay khi xuống bãi đáp, chúng tôi đã chạm trán ngay với các toán hậu cần và thông tin liên lạc của địch. Trên đoạn đường khoảng 3 km di chuyển dầu tiên, ít nhất chúng tôi cũng đã tiêu diệt được hơn 1 tiểu đội địch đi lang thang kéo giây điện thoại hoặc gánh cơm tiếp tế..

12 giờ, chúng tôi còn cách thị xã Kontum 10 km. Nhìn về hướng thị xã, khói lửa ngút trời, tiếng pháo nổ dồn dập tưởng chừng như không bao giờ dứt. Trong hệ thống thông tin nội bộ của Sư đoàn, tôi nghe tiếng của các đơn vị báo cáo bị CS pháo kích kêu liên tục. Trong cái huyên náo ồn ào đó, từ khắp hướng, những chiếc phản lực cơ nhào lộn thả bom lên xuống tấp nập không kém. Sau này tôi mới được biết, nội trong ngày 23/5/72, Kontum đã chịu 1 ngày ăn nhiều đạn pháp nhất, gần 2000 quả đạn trải rộng trên 1 diện tích không đầy 10 km2! 1 giờ trưa, tôi nhận được lệnh trực tiếp từ Mặt Trờị Tiếng Đại tá Tư lịnh vang lên trong máy :

- Bá Hòa, đây là Mặt Trời đây, anh nghe tôi rõ không?
- Tôi nghe Mặt Trời 3/5, có gì Mặt Trời nói đị
- Đây là Mặt Trời, tôi lệnh cho anh phải về nhà trước chiều nay để gặp gia đình anh, bằng mọi giá, anh nghe tôi rõ không?
- Tôi nghe rõ.
- Tôi lặp lại là bằng mọi giá, anh nghe rõ không?
- Tôi nghe rõ rồi, bằng mọi giá, phải không, Mặt Trời?

Tôi nói lại cho Đức và Phán cái lệnh quái ác nàỵ Bằng mọi giá, chúng tôi phải đạp lên đầu cái phòng tuyến hung hiểm ủa địch đang nằm đối diện với Trung đoàn 45 để trở vào Kontum, nơi mà cũng chỉ sáng nay thôi, chúng tôi cũng từ vừa trong đó đi ra! Tôi ra lệnh dừng quân, lấy sức, ăn trưạ 2 giờ, chiến đoàn mở cuộc phản kích từ phía sau, leo qua đầu địch trở về thành phố.

Khoảng 6 giờ, toàn đơn vị căng hàng ngang, mở hỏa lực và lao vao tuyến địch đang phòng ngự hướng vào Kontum. Cuộc chạm súng tương đối ngắn ngủị Không như dư liệu, một phần địch quân bị tiêu diệt ngay trên tuyến, một phần bỏ chạy về hướng tây bắc. Đại tá Tư lịnh Sư đoàn ra đón chúng tôi cách tuyến phòng thủ không xa, ngay trên quốc lộ 14. Điều an ủi lớn lao nhất cho tôi, trong cuộc hành quân này, chúng tôi chỉ bị tổn thất 1 sĩ quan và 13 binh sĩ, ngoài ra 5 người khác bị thương chúng tôi đều mang về được. Tôi chia tay Phán và Đức ngay cửa BTL Sư đoàn. Cả hai trở về bên bờ sông Dap La, còn tôi và chú em truyền tin, viên sĩ quan Ban 3, trở lại BCH Trung đoàn 44.
5. TRẬN ÐÁNH ÐỢT BA

Tôi để nguyên giầy vớ, buông mình lên ghế bố nhà binh. Sau khi uống 1 ly nước đá và hút điếu thuốc, đầu óc tôi vẫn còn quay cuồng với những hình ảnh chết chóc vừa mới xảy rạ Hình ảnh của những đồng đội xả thân lao vào giặc, không ngại gian khó và hiểm nguy, không từ chối hy sinh…đã làm cho tôi vừa hãnh diện được là cấp chỉ huy của họ vừa áy náy về hình ảnh những đau thương mà gia đình, vợ con của họ phải gánh chịụ Trong suy tư ấy, tôi quên mất bản thân mình. Tôi cứ tưởng tôi là cấp chỉ huy thì thần chết không có quyền đụng tớị Thực tế, có biết bao nhiêu người nhận lãnh trách nhiệm chỉ huy như tôi đã nằm xuống như các chiến hữu khác. Súng đạn vô tình, tử sinh có số… Tôi thiếp di trong cơn mệt nhoài của thân xác. 5 giờ sáng ngày 24/5/72, tôi choàng thức giấc, tiếng súng đại bác 100 ly gắn trên chiến xa trực xạ nổ ầm đúng ngay trên hầm chỉ huy, xen kẽ giữa tiếng súng nhỏ nổ chát chúa ngay trong tuyến phòng thủ, tiếng la hét om sòm… Tôi nghe Trung úy Mạnh, Đại đội trưỏng Trinh sát 44, thất thanh trên vô tuyến : “Báo cáo Bá Hòa, địch đang tấn công vào chúng tôị..”.

Thế là thế naò nhỉ? Đại đội 44 Trinh sát đang phòng thủ chung quanh căn cứ của BCH Trung đoàn. Sát ngay bờ thành phía Bắc của căn cứ là Bệnh viện 2 Dã chiến, khoảng cách từ hầm chỉ huy ra đến tuyến phòng thủ chỉ khoảng 20m. Thế là thế nào?

Tiếng của Mạnh lại la bải hải trên máy :”Bá Hòa ơi, chúng tôi rang được 1 con cua rồi!”. BTL Sư đoàn quay điện thoại qua hỏi chuyện gì. Đại tá Tiến báo cáo Đại đội Trinh sát 44 vừa bắn hạ được 1 chiến xa CS, ngay bên kia hàng rào Bệnh viện 2 Dã chiến. Ai cũng ngỡ ngàng.

Chiếc chiến xa nã đạn đại bác 100 ly ngay trên nóc hầm chỉ huy của húng tôi nằm cách xa lối vào Trung tâm hành quân chừng 20 m. Đó là 1 chiến xa T.59 của Trung quốc chế tạo, cải tiến từ kiểu T.54 cũ hơn. Các chiến sĩ Trinh sát 44 mở nắp xe, lôi ra 3 xác CS đẫm máụ Trong đó có viên Đại úy tên Vinh, chức vụ Đại đội trưởng cơ giới, trước ngực đeo chiếc túi da đựng bản đồ và 1 lá cờ đỏ sao vàng có thêu hàng chữ “Đơn vị anh hùng”. Đại tá Tiến đã trao chiếc cờ bị xé rách bằng nhiều vết đạn, cây súng ngắn K.59, cùng túi đựng bản đồ cho Đại tá Tư lịnh Sư đoàn, khi ông qua thăm mặt trận tại đâỵ

Trời hửng sáng, trực thăng võ trang được kêu lên quan sát khu vực khuôn viên bệnh viện đã duợc di tản từ lâu trước đó, 3 chiếc thiết giáp khác chui vào nhà ẩn núp bị phát hiện và bị tiêu diệt bằng hỏa tiển TOW ngay sau đó. Đơn vị bô binh của CS tác chiến hợp đồng với chiến xa bị Đại đội trinh sát tiêu diệt gọn, gần 20 xác nằm rải rác trước tuyến phòng thủ. Mặt Bắc kể như tạm yên. Hướng cổng ra vào của BCH Biệt khu 24 quay về hướng Đông, cách 1 bãi cỏ hoang khoảng 50m, bên kia con đường đi vào cổng là khu gia binh, trại Thiết giáp… 1 Tiểu đoàn địch đang bố trí tấn công vào BCH Trung đoàn từ hướng đó. Thì ra địch đã lòn vào hướng Đông, Đông Nam, xuyên qua tuyến phòng thủ của các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân thuộc Tiểu khu Kontum, đánh vào BTL Biệt khu 44 mà chúng đinh ninh là nơi trú phòng của BTL Sư doàn 23!

Sư đoàn gởi tới 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 22 tăng viện và chi đoàn chiến xa để phối hợp tiêu diệt đơn vị này của CS. 2 giờ chiều, 1 phi tuần khu trục được gởi đến để yểm trợ cuộc tiến quân. Trong thế trận cài răng lược, cuộc oanh kích của các phi cơ trở thành 1 trò chơi vô cùng nguy hiểm. Phía Bắc là Trung đoàn 45, phía Đông là các đơn vị Địa phương quân của Tiểu khu, phía Tây là BTL Sư đoàn 23, phía Nam là dơn vị bạn đang tấn công quân địch. Trục tấn công tương đối an toàn cho quân bạn vì chỉ còn 1 hướng duy nhất : trục Đông Tâỵ Các đơn vị bạn được yêu cầu thả trái khói để đánh dấu vị trí. Phi cơ quan sát điều chỉnh cự ly từng thước một! Những trái bom được thả xuống mục tiêu như những nghệ nhân biểu diễn xiếc. Lần điều chỉnh cuối cùng, trái bom 250 cân Anh thả ngay giữa mục tiêu yêu cầu, xác Cộng quân nổ văng lên cao tung toé, giữa tiếng reo hò tán thưởng của quân bạn. Cùng lúc đó, cây đại liên phòng không của địch vừa bố trí xong trên bồn nước khu gia binh bất thần nhả đạn xối xả vào thân phi cơ khi chiếc phi cơ này ngóc đầu lên chuẩn bị trợ về căn cứ. Chiếc phi cơ trúng đạn loạng choạng mất thăng bằng, nghiêng đảo trông thật đáng thương. Về sau nghe kể lại tôi mới biết, nếu anh chỉ nghĩ đế sinh mạng của mình, nhảy dù cấp cứu ra khỏi phi cơ, anh đã an toàn về với gia đình. Nhưng sẽ rơi vào giữa thị xã, chắc chắn sẽ tạo nên những tổn thất cho dân chúng, nên anh đã cố gắng đáp xuống đám rừng khô ở bờ phía Nam sông Dap La với hy vọng đem lại an toàn cho mọi ngườị Anh không ngờ 1 bờ ruộng nhỏ đã làm chiếc phi cơ anh lật ngửa và anh đã tử nạn. Tên anh là Phạm Văn Thặng, Thiếu tá Không quân Phạm Văn Thặng.

Cùng buổi chiều hôm ấy, những đợt chống cự cuối cùng của địch bị bẻ gẫỵ Tù binh, đặc biệt trong cuộc tấn công này có cả 1 số hàng binh và những cán binh miền Bắc, lợi dụng trong lúc súng nổ, đã chạy sang đầu hàng các đơn vị của tạ Các bản thẩm cung sau đó đã xác nhận những tin tức ta thu nhận được là chính xác.
6. ĐỢT TẤN CÔNG CUỐI CÙNG

Thời gian tiếp theo là những cuộc hành quân mở rộng vòng đai phòng thủ của Sư đoàn 23. Các đơn vị từ tuyến phòng thủ của mình tiến lên hướng Bắc, tung ra các cuộc truy quét các tàn binh CS và thu dọn chiến trường.

Đầu tháng 6/1972, Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lịnh Sư đoàn 23, được vinh thăng Chuẩn tướng tại mặt trận. Ngày Quân lực năm 1972 tôi được thăng đặc cách Trung tá tại mặt trận. Cả 4 Tiểu đoàn trưởng, cùng các sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ xuất sắc của Trung doàn đều được thăng đặc cách mỗi người 1 cấp.

Cũng trong tháng này, Đại tá Tiến bị kiệt sức sau chuỗi ngày chỉ huy căng thẳng, đã phải nhập viện trị bịnh. Tôi được Đại tá Tư lịnh sư đoàn chỉ định xử lý thường vụ chức vụ Trung đoàn trưởng 44 và một tháng sau đó thì chính thức đảm nhiệm chức vụ nàỵ Mặt trận trở lại không khí sôi động sau gần 1 tháng tạm yên lặng. Sư đoàn F.10 CS và các đơn vị trực thuộc Mặt trận B3 trở lại lởn vởn trong khu vực Võ Định cách Kontum non 20km về hướng Bắc. Các dàn pháo tầm xa 122 ly và hỏa tiễn của CS đã nã đạn hàng ngày vào thị xã Kontum. Tuyến phòng thủ mới của Sư đoàn được nới rộng tới căn cứ Eo Gió cách thị xã gần 10km. Những tin tức tình báo cao cấp ghi nhận CS đang chuẩn bị cho 1 cuộc tấn công mới vào Kontum. Đây là đợt tổng công kích thứ 3. Sau hai đợt tấn kích 1 và 2, những lực lượng chủ công của địch đã bị loại ra khỏi vòng chiến, đó là Sư đoàn 320 Thép, Trung đoàn 2 Tăng, Trung đoàn 95 Đặc công…, nên CS phải sắp xếp lạị Kế hoạch tác chiến cũng thay đổi, các mũi tấn công chủ yếu đánh từ hướng Nam và Tây Nam vào thị xã. Một số súng cối 122 ly và súng phòng không bố trí ngay trên đỉnh đồi Chipu, nằm về hướng Đông Nam Kontum, cách Kontum khoảng 6 km.

Với cách phối trí của địch, Trung đoàn 45 từ nhiệm vụ tổng trừ bị của Sư đoàn được đưa ra ứng phó chính với mặt trận nàỵ Ở mặt trận phía Bắc, 2 Trung đoàn 44 và 53 đã tỏa ra theo hình nan quạt, tiếp tục các cuộc hành quân truy quét địch và mở rộng vòng đai phòng thủ.

Vì CS không còn mạnh như những trận đầu nên các cuộc tấn công đợt này không ác liệt như thời gian trước, nhưng cũng không kém phần gây cấn và đẫm máụ Các Thiếu tá Đặng Trung Đức, Tiểu đoàn trưởng 1/44, Thiếu tá Võ Anh Tài, Tiểu đoàn trưởng 4/44 lần lượt hy sinh trong tháng 6 và 7/1972. Vào tháng 8, tôi cũng bị thương gãy chân trái trong 1 đợt pháo kích bằng súng cối 122 ly của Trung Cộng.

Tháng 9/1972 chiến sự dịu lắng dần. Những cuộc tấn công vô vọng của CS do Tướng Hoàng Minh Thảo điều khiển đã không đem lại 1 kết quả nào cụ thể. Phải chăng nhu cầu chính trị lúc đó của Lê Đức Thọ tại hội nghị Paris không còn thúc bách để buộc Mặt trận B3 phải tự hủy diệt như thế? Nói đúng hơn, những tổn thất quá lớn sau gần 4 tháng tấn công liên tục đã không cho phép Tướng Thảo hành động tự sát nữạ

Ngày Quốc khánh năm ấy, Trung đoàn 44 được tuyên dương trước Quân đội lần thứ 5, về những chiến công hiển hách và những thành tích xuất sắc mà Trung đoàn đã đạt được trong suốt thời gian tác chiến tại mặt trận Kontum.
7. NHỮNG ƯỚC MONG

Tháng 5 năm nay (1996) là tròn 24 năm sau các trận đánh tại mặt trận Tây nguyên. Những chiến sĩ ưu tú nhất của Trung đoàn 44 đã nằm xuống trên chiến trường nàỵ Xương trắng, máu đào đã đổ xuống, trải ra trên 1 vùng đất vốn nổi tiếng là hiền hòa và thơ mộng của quê hương. Một số khác, chỉ 3 năm sau đó, sống ngắc ngoải, lê lét, hoặc chết vì kiệt sức, vì tra tấn, bịnh tật trong các trại tù khổ sai của CS.

Đã có lúc, tôi suy nghĩ tới những kỷ niệm biết bao kiêu hùng, đáng hãnh diện mà Trung đoàn 44 đã làm được trong “Mùa hè đỏ lửa” trên chiến trường Tây nguyên ấy, rồi sau đó lại cảm nhận 1 nỗi buồn man mác gần như khó nguôi ngơi đi được. Chúng ta đã hy sinh và đã thắng trong nhiều trận, nhưng đã để thua trong cuộc chiến. Chúng ta đã có tội với một nữa phần đất nước, với một nữa phần dân tộc, vì chúng ta không bảo vệ và duy trì được cuộc sống yên lành, ấm no và hạnh phúc cho những người đã chạy thoát khỏi chế độ CS và cuối cùng đã giao họ lại trong tay những kẻ bạo tàn. Nhưng tôi lại nghĩ rằng, những người theo chế độ CS đã có tội lớn hơn chúng ta gấp trăm lần vì họ đã đưa dân tộc vào một cuộc chiến điêu linh kéo dài 30 năm mà cuối cùng đã biến cả đất nước thành 1 nơi không tự do, dân chủ… Cầu cho đất nước được sớm thoát khỏi thảm họa CS để thanh bình, tự do và no ấm đến với mọi người trên quê hương thân yêụ

Trung tá Ngô Văn Xuân
Campbell, 19/2/1996

Posted by: KhoaNam Mar 1 2012, 09:09 AM






Phi Trường Kontum 1972


Mặt trận Kontum 1972


Quân khu 2 chiếm 2 phần 3 diện tích toàn quốc, dân cư thưa thớt khoảng 3 triệu người trong đó 20% là đồng bào Thượng, QK-2 đất đai rộng nhất nhưng dân cư lại thưa thớt nhất, Cao nguyên ít thu hút được đồng bào lên định cư, năm 1972 các đơn vị Mỹ lần lượt rút khỏi cao nguyên. Lực lượng Quân đoàn 2 gồm sư đoàn 22 BB (có 4 trung đoàn 40, 41, 42, 47) Tư Lệnh Ðại Tá Lê Ðức Ðạt, Sư đoàn 23 (có 3 Trung đoàn 44, 45, 53), Tư Lệnh Ðại Tá Lý Tòng Bá và 11 Tiểu đoàn BÐQ biên phòng đóng dọc theo biên giới QK-2, Tư lệnh QK-2 Trung Tướng Ngô Dzu. Mùa thu năm 1971 có tin CSBV sẽ tấn công Cao nguyên vào mùa khô, tình báo VNCH cho biết lực lượng CS gồm Sư đoàn 320, Sư đoàn 2 và F10 được yểm trợ bởi Lữ đoàn 203 xe tăng và nhiều trung đoàn pháo, đây là lần đầu tiên VC xử dụng xe tăng và đại bác tại cao nguyên. Cuối tháng 1-1972 ta phát hiện VC gia tăng hoạt động trong Quân khu, địch đã đem đại bác tầm xa vào vùng Tam biên, pháo đài bay B-52 và phi cơ chiến thuật đã oanh kích tối đa vào các mục tiêu vừa phát hiện.
Quân đoàn 2 bắt đầu tăng cường phòng thủ Kontum và Pleiku. Bộ Tư lệnh tiền phương Sư đoàn 22 được dời từ Bình Ðịnh lên Tân Cảnh -Dakto, Thiết đoàn 19 kỵ binh cũng được tăng cường đến Tân Cảnh, Lữ đoàn 2 Dù được tăng cường cho Quân đoàn 2. Các lực lượng của Quân đoàn 2 chuẩn bị chờ VC. Ðịch tấn công căn cứ hoả lực Nhẩy Dù đầu tháng 4-1972 nhưng bị thảm bại, Cộng quân bị tổn thất nhiều vì không yểm B-52 nhưng vẫn bổ xung, Bắc Cao nguyên căng thẳng chờ trận xung kích của địch chắc chắn sẽ tiếp theo Quảng Trị và Bình Long..

Cuối tuần thứ hai tháng 4 Tân Cảnh và Dakto gần như bị VC bao vây, căn cứ Charlie bị pháo dữ dội sau đó là cuộc tấn công biển người vào căn cứ do Tiểu đoàn 11 Dù trấn đóng. Mặc dù có máy bay yểm trợ dữ dội nhưng vì VC quá đông tiểu đoàn Dù phải rút vào buổi tối, Tiểu đoàn trưởng Trung tá Nguyễn Ðình Bảo tử trận, tuần sau căn cứ Dù Delta cũng bị tràn ngập. Trung đoàn 42, 47 của Sư đoàn 22 BB phải rút từ Tân cảnh về Dakto vì áp lực địch. Bộ chỉ huy Sư đoàn Dù và một Lữ đoàn được đưa về Sài Gòn, Liên đoàn 6 BÐQ và Trung đoàn 53 được đưa lên thay Dù. Trong hai tuần VC pháo Tân Cảnh-Dakto hằng ngàn quả mỗi ngày rất chính xác.

Ngày 23-4 cuộc tấn công bắt đầu, Sư đoàn 2 CSBV cùng 4 Trung đoàn độc lập thuộc mặt trận B3 (Tây Nguyên) cùng với xe tăng, đại bác tấn công Tân Cảnh, tại đấy lực lượng VNCH gồm Trung đoàn 42, hai pháo đội 105 ly và 155 ly, 1 chi đội thiết giáp M-41, M-113, một Ðại đội công binh chiến đấu. CSBV xử dụng hoả tiễn chống chiến xa AT-3 Sagger gây nhiều thiệt hại cho các chiến xa M-41 của ta và phá hủy các công sự phòng thủ, các xe tăng M-41 lần lượt bị bắn cháy, Trung tâm hành quân Sư đoàn cũng bị trúng đạn bốc cháy, lực lượng VNCH phải tháo chạy, hệ thống truyền tin bị thiêu hủy. Cố vấn Mỹ giúp đỡ cho mượn máy móc thành lập Trung tâm hành quân mới.
VC gia tăng pháo kích, với sự yểm trợ của 18 chiến xa, địch tiến về Dakto và Tân Cảnh, lực lượïng phòng thủ chống trả yếu ớt. Sau nhiều ngày bị pháo và thiệt hại nặng, Trung đoàn 42 bảo vệ Bộ tư lệnh bị rối loạn khi xe tăng T-54 tiến vào cổng doanh trại, toán cố vấn thoát vòng vây lên được trực thăng. Ðại tá Tư lệnh Lê Ðức Ðạt, Tư lệnh phó Ðại tá Tôn thất Hùng và vài sĩ quan tham mưu vẫn ở trong bộ chỉ huy, họ cố gắng phá hủy máy móc và hồ sơ rồi nhân lúc trời đổ mưa đã trốn thoát nhưng chỉ có Ðại tá Hùng về được Kontum số còn lại coi như mất tích hết. Tân Cảnh là Trung tâm hành quân của Sư đoàn 22. Trung đoàn 47 VNCH tại Dakto 2 cũng bị tấn công dữ dội, chi đội Thiết giáp tại Ben Hét được lệnh tới cứu nhưng bị lọt ổ phục kích VC, xe tăng bị bắn cháy hết. Bộ chỉ huy Trung đoàn 47 phải rút dần dần. Dakto, Tân Cảnh bị mất, Cộng quân củng cố căn cứ chiếm được, di chuyển 30 khẩu pháo của ta. Sư đoàn 320 CSBV tiếp tục tiến đánh các căn cứ hoả lực còn lại, ngày 25-4 Tướng Ngô Dzu ra lệnh cho hai căn cứ hoả lực 5, 6 di tản.
Mặc dù đã chiếm được các căn cứ phía Bắc, CSBV đã không lợi dụng được thắng lợi này để tấn công vào Kontum mà phải đợi tới 2 tuần sau, nhờ đó Sư đoàn 23 BB sau này đã tổ chức nội bộ, sắp xếp các đơn vị, hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ.. Tại Bình Ðịnh Sư đoàn 3 BV chiếm quận Hoài An, Hoài Nhơn, Tam quan. Tướng Ngô Dzu hối hận đã không tăng cường 2 trung đoàn còn lại cho Ðại tá Ðạt, Tướng Dzu hiện đang lo sợ cho chính bản thân mình tại Pleiku, vì mất tinh thần ông gọi điện thoại luôn luôn cho Tổng thống Thiệu để xin lệnh.


Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Khu 2 (1972)


Bộ TTM và Tổng thống Thiệu coi Tướng Dzu không còn đủ khả năng của một Tư lệnh và đã cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn lên thay ngày 10-5. Sau khi chiếm Tân Cảnh, địch tiến về Komtum và bao vây cô lập thị xã này, trong khi chiến trận bùng nổ nhiều nơi, tăng cường cho Kontum là điều khó khăn. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB di chuyển 160 km từ Ban Mê Thuột đến Kontum để chỉ huy các lực lượng tại đây và tổ chức cuộc phòng thủ thị xã. Quân đoàn 2 đưa 4 tiểu đoàn BÐQ đóng tại Võ Ðịnh nằm ở 20 cây số phía Tây bắc Kontum và dọc theo sông Pô Kơ phía Nam, một tiểu đoàn BÐQ tăng cường trại biên phòng. Trung đoàn 53 (SÐ- 23) phòng thủ thị xã trong khi Liên đoàn 2 và 6 BÐQ nhận nhiệm vụ đánh cầm chân VC trên quốc lộ 14 phía Bắc Kontum. Máy bay chiến thuật cũng như B-52 đã dội bom đánh phá các nơi địch tập trung quân. Ðại Tá Lý Tòng Bá Tư lệnh chiến trường chỉ huy 2 trung đoàn 45, 53 của ông và các liên đoàn Dù, BÐQ… Những đơn vị tăng phái thường giữ liên hệ với các đơn vị gốc nên quyền hạn của ông ít được trải rộng. Tại Võ Ðịnh Lữ đoàn Dù được lệnh đưa ra QK1, Tiểu đoàn BÐQ tại đây bị VC tấn công được lệnh di tản.

Các căn cứ biên phòng của BÐQ bị tấn công dữ dội nhưng vẫn đứng vững nhờ yểm trợ của không quân Mỹ, ngày 6-5 Trung đoàn 64-CSBV có xe tăng và pháo binh yểm trợ ồ ạt tấn công trại Polei Kleng khiến BÐQ phải rút ra ngoài ngày 9-5, trong khi ấy B-52 vẫn yểm trợ gây tổn thất nặng nề cho CSBV, BÐQ đã chống trả rất anh dũng, bắn hạ chiến xa địch và chiếm lại căn cứ này. Khoảng ngày 7-5 Sư đoàn 23 BB đã hoàn tất phòng thủ trong và ngoài thị xã, tạo một chu vi phòng thủ hình cung hướng Bắc và Tây Bắc, ÐPQ phụ trách phía Nam và Ðông Nam. Ðại tá Lý Tòng Bá thân hành thị sát tuyến phòng thủ cùng các sĩ quan tham mưu, kế hoạch yểm trợ hỏa lực và phản pháo đã được thiết kế xong, các đơn vị thực tập sử dụng hoả tiễn chống chiến xa M-72. Ngày 8-5 Tổng Tống Nixon ra lệnh cho không quân Mỹ mở chiến dịch Linebacker để tiêu hủy tiềm năng chiến tranh của CSBV như đánh phá cầu cống tại miền Bắc, máy bay F-4 Phantom xử dụng bom laser bắn cháy các chiến xa CS tại miền Nam.


Thị Xã Kontum (1972)


Cuộc tấn công của CS vào Kontum có thể chia làm 2 giai đoạn: Từ 14-5 đến 17-5 và 18-5 tới 1-7. Sáng ngày 14-5 Cộng quân tấn công Kontum, trong khi ấy tình báo kỹ thuật của Sư đoàn đã giải mã và biết trước trận xung kích. Năm Trung đoàn Cộng quân tiến vào thành phố, từ hướng Tây Bắc 2 trung đoàn 48 và 64 của BV tấn công trung đoàn 44 VNCH, từ Bắc Trung đoàn 28 thuộc Mặt trận B-3 tiến về Nam đánh vị trí phòng thủ Trung đoàn 45 của ta, Trung đoàn 1 CS tấn công Trung đoàn 53 VNCH, tại Bắc và Ðông Bắc, Trung đoàn 141 VC từ Nam đánh lên Bắc vào các phòng tuyến ÐPQ và Tiểu khu Kontum. Cuộc tấn công mở đầu bị bẻ gẫy, các chiến xa dẫn đầu bị bắn cháy.

Trong những ngày kế tiếp Kontum bị pháo kích và tấn công rời rạc, quân trú phòng chống trả nhanh nhẹn, tại Kontum Cộng quân gặp nhiều khó khăn hơn tại Tân cảnh mấy tuần trước. Một tiểu đoàn VC chọc thủng tuyến phòng thủ giữa 2 Trung đoàn của ta và tấn công liên tục, pháo binh VNCH không chận đứng được cuộc tấn công. Tình thế rất nguy ngập có nguy cơ sụp đổ phòng tuyến, lúc này chỉ còn trông cậy vào Máy bay chiến lược B-52. Khoảng một giờ trước cuộc không tập, binh sĩ ta rút lui về phía sau trong khi pháo binh tăng cường phản công. B-52 đã tới dội bão lửa lên các vị trí đóng quân của CSBV, tiếng bom nổ long lở đất trời rung chuyển cả thành phố, trận oanh tạc đã khiến cho hằng mấy trăm VC bỏ xác tại chiến trường. Ðịch có ưu thế về quân số, xe tăng, pháo binh nhưng vẫn thảm bại vì hoả lực không quân, pháo binh VNCH nhất là pháo đài bay B-52, nếu không có B-52 trải thảm Kontum có thể bị nguy ngập. Ðại Tá Bá khi ấy cho rút ngắn chu vi phòng thủ vì hiện đã quá rộng.

Lực lượng Cộng quân tuy thế vẫn còn mạnh, địch thăm dò để tấn công tiếp rồi pháo kích dữ dội khiến cho phi cơ lên xuống khó khăn. CSBV nghiên cứu tìm kẽ hở, tung đặc công vào thành phố. Cuối tuần lễ sau trận tấn công đầu tiên, các nỗ lực của BV đều thất bại. Ngày 20-5 khi Cộng quân chọc thủng tuyến nằm giữa 2 trung đoàn 44 và 53, Ðại Tá Bá đã điều động chi đoàn thiết giáp M-41 vào chiến trường tiêu diệt địch cùng với yểm trợ của không quân VNCH và B-52 của không lực Mỹ đẩy lui VC. Ngày 21-5 từ Pleiku Tướng Toàn đã điều động lực lượng khai thông Quốc lộ 14 từ Bắc tới Kontum, dân chúng được di tản khỏi Kontum về Pleiku, Kontum không xẩy ra hỗn loạn, binh sĩ vẫn vững tinh thần


Di Tản


Ngày 25-5 Cộng quân mở nỗ lực cuối cùng tấn công Kontum, lúc nửa đêm địch pháo dữ dội vào gần phi trường và phía Nam thành phố, hai tiểu đoàn đặc công cùng với các thành phần xâm nhập lọt vào mặt Ðông Nam do ÐPQ trấn giữ. Từ Bắc và Ðông Bắc bộ binh CS và xe tăng tiến vào thành phố. Bộ chỉ huy Sư đoàn và các vị trí pháo binh VNCH bị pháo kích dữ dội. VC chiếm một trường học, một chủng viện Công giáo, Tòa giám mục Kontum, đại bác VC tàn phá thành phố kể cả súng 105, 155 lấy được của ta tại Tân Cảnh, pháo kích địch chính xác làm tê liệt pháo của ta. Ngày 26-5 CSBV tăng gia pháo kích và tấn công Trung đoàn 53 từ phía Bắc, các phi vụ oanh tạc được điều động tối đa để yểm trợ cho Kontum khi “ tình trạng khẩn cấp” được tuyên bố, 8 chiến xa và một tiểu đoàn bộ binh VNCH đẩy lui một cánh quân VC.

Ðịch vẫn bám chặt vị trí nên hai bên vẫn dằng co đến hết ngày, trong khi đó tiếp liệu bắt đầu thiếu hụt, các trực thăng khổng lồ Chinook đã thực hiện tiếp tế tại sân banh và tải thương. Ðến tối trung đoàn 64 BV lại mở cuộc tấn công vào giữa Trung đoàn 53 và 45, những trận oanh tạc của B-52 khiến VC gặp khó khăn về tiếp liệu, Quân đôi VNCH chủ động phản công chiếm lại bệnh viện, trường học, Kontum đã thoát khỏi vòng nguy hiểm. Trong ngày 30-5, các vị trí do CS chiếm đã được lấy lại, Tổng thống Thiệu bay vào thị xã vinh danh tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ và thăng cấp Ðại Tá Lý Tòng Bá lên Chuẩn tướng.


Đại Tá Lý Tòng Bá (1972)


Trưa 31-5 Cộng quân rút lui để lại 3000 xác chết theo lời Tướng Bá, mấy chục chiến xa bị bắn hạ, nỗ lực cuối cùng của Cộng quân bị thảm bại. Theo sự ước lượng của tình báo Mỹ Cộng quân đã bị thiệt hại khoảng từ 20 cho tới 40 ngàn cán binh tại mặt trận Cao nguyên QK-2. Sau này Tướng Bá cho biết CSBV đã bỏ lỡ cơ hội bằng vàng để chiếm Kontum và có thể làm chủ QK-2, khi đã chiếm được các căn cứ phía Bắc như Dakto và Tân Cảnh, họ đã không tiến đánh Kontum ngay mà để hai tuần sau mới tấn công khi mà Sư đoàn 23BB đã bố trí lực lượng phòng thủ trong và ngoài thị xã và cuối đã thảm bại.
Khi BV mở cuộc tấn công Kontum giai đoạn 1 từ 14-5 tới 17-5, tình thế rất nguy ngập phòng tuyến có nguy cơ sụp dổ, pháo binh ta không đủ sức ngăn chận đà tấn công của đối phương chỉ còn trông cậy vào B-52 và rồi các pháo đài bay B-52 đã đến đúng giờ dội bom ồ ạt xuống các vị trí tập trung quân của địch đã cứu vãn được tình thế. Sự chiến đấu kiên cường của quân trú phòng chưa đủ để giữ vũng phòng tuyến mà còn phải trông vào sự yểm trợ của không lực Mỹ.

Mấy năm sau, 1975 Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá người Hùng Kontum nắm giữ Tư Lệnh Sư đoàn 25 BB đóng tại Củ Chi, khi Bộ Tư Lệnh Sư đoàn thất thủ , ông bị CS bắt mấy ngày sau 30-4-1975 và bị cầm tù 13 năm tại miền Bắc, cuối tháng 1 năm 1990 ông được định cư tại Mỹ theo diện HO1.





Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn






Tài liệu tham khảo

Trần Phan Anh: Chiến Trận Mùa Hè 1972.
Nguyễn Ðức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Ðức Phương: Những Trận Ðánh Lịch Sử Trong Chiến tranh Việt Nam 1963-1975, Ðại Nam 2001.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam- 1945-1975) Tiếng Quê Hương 2006.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Ðồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản 2005.
Văn Tiến Dũng: Ðại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản QÐND Hà Nội, tái bản lần thứ tư, 2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1991.
Lâm Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing 1986.
The World Almanac Of The Vietnam War, General Editor: John S. Bowman – A Bison Book 1985.
Stanley Karnov: Vietnam, A History – A Penguin Book 1991.
Marilyn B. young, John J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History In Documents – Oxford University press 2002.
Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Ðầu, Sài Gòn Nhỏ Dallas 28-4-2006.
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Ðỏ, Ai Còn, Ai Mất. Người Việt Dallas 7-10-2005.
Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas 21-6-2005 (Không tác giả).
Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Ðỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006.
Tường Trình Của Một Quân Nhân: W.C.Wesmoreland Người Việt Dallas 14-9-2007.

Tác giả/Nhân vật: Trọng Đạt

Posted by: KhoaNam Mar 15 2012, 11:59 AM





Cây cầu biên giới



Tôi đứng ngay tại Ngã Ba Hàm Rồng. Buổi trưa nắng chang chang. Thỉnh thoảng một cơn gío nổi lên cuốn theo những đám bụi đỏ mù trời. Ngừơi tài xế của hãng du lịch chạy đến bên tôi thắc mắc:
- Anh kiếm cái gì thế ? con đường trước mặt đi về hướng Phú Nhơn mãi đến Banmêthuột, bên trái là ngõ về quận lỵ Phú Thiện và tỉnh Phú Bổn, còn đằng sau là con đường mình mới từ Pleiku ra đây. Anh muốn đi đâu thì cứ cho tôi biết, tôi sẽ đưa anh đến nơi đến chốn.
Tôi thầm nghĩ:
- Dù đã lâu lắm rồi nhưng làm sao quên được. Mình đã chôn vùi một đoạn đời hoa bướm nơi rừng núi này. Quang cảnh vẫn vậy, chỉ có tiêu điều hơn mà thôi. Con đường trải nhựa có nhiều ổ gà hơn xưa, vắng vẻ hơn xưa, hàng quán xơ xác hơn.
Tôi trả lời bâng quơ:
- Tôi đang chụp hình.
- Tôi đâu thấy anh mang máy hình ?
- Ồ, chụp hình trong đầu ấy mà.

Nguời tài xế há hốc mồm ra ngạc nhiên, anh ta nói lẩm bẩm trong miệng nhưng đủ cho tôi nghe rõ:
- Mấy ông nội Việt kiều thật là lẩm cẩm.
Tôi leo lên xe và hối người tài xế chạy về phía quận Phú Nhơn. Chiếc Xe mướn của hãng du lịch tương đối còn mới, lồng lộn lao về phía trước, lúc nghiêng qua trái, lúc lách qua phải để tránh những khúc đường bể chưa được sưả chữa. Mà có lẽ sẽ chẳng bao giờ được sửa chữa nữa. Hàng trăm thứ chuyện quan trọng hơn người ta chẳng thèm để ý tới xá gì một con đường xa xôi hẻo lánh này. Để mặc tài xế đánh vật với chiếc xe và con đường, tôi thả hồn chìm về dĩ vãng ...






Ngày ấy đã xa lắm rồi.

Tôi mới đến vùng này,là một Thiếu Úy trẻ măng vừa đổi về đơn vị mới thành lập. Tiểu Đoàn mới, từ sĩ quan đến binh lính, hầu hết là những thành phần khó sài từ các đơn vị khác gởi về. Dĩ nhiên tôi cũng ở trong thành phần bất hảo đó. Từ miền biển bị đưa lên miền núi và chỉ huy một đám quân gồm đủ mọi thành phần. Tôi còn đang buớc những bước đi chập chững của nghề chỉ huy thì phải tung ra chiến trường. Ngày ấy, cũng trên con lộ này, tôi dẫn hai con Gà Cồ Đại Pháo 105 ly để yểm trợ cuộc hành quân trực thăng vận tái chiếm quận lỵ Phú Nhơn mà Bắc Quân vừa mới tràn ngập đêm hôm trước.
Ngã ba này bình thường chỉ có vài quán cóc lèo tèo để bán đồ ăn thức uống cho xe đò chạy đường Pleiku - Phú Bổn hay Pleiku - Banmêthuot. Hôm đó dân chạy loạn từ Phú Nhơn ra rất đông, từ những làng Thượng, hoặc mấy khu dinh điền và dân làm ăn buôn bán chung quanh quận lỵ. Dân chúng thấy lính đi tái chiếm quận, họ rất mừng rỡ, người hỏi thăm, người cho quà bánh. Đổi lại đám lính tặng lại dân chúng thuốc lá và những đồ hộp Quân Tiếp Vụ. Dân ở quận nhỏ xa xôi cũng nghèo khổ như lính vậy thôi.

Từ sáng sớm, lo đốc thúc tải đạn, sửa soạn xe cộ, đại bác, hàng trăm thứ phải làm cho một cuộc trực thăng vận, cho nên bao tử còn trống rỗng. Phi cơ câu súng đại bác phải xin từ căn cứ Mỹ Ớ Quy Nhơn lên, nên chờ cũng còn lâu. Tôi rủ anh chàng Chuẩn Uý Trung Đội Phó kiêm Đề Lô vào quán bên đường kiếm cái gì lót bụng. Dân quận lỵ bu lại hỏi thăm tình hình, chừng nào có thể về quận được ? Đánh nhau có lâu không ? Toàn những câu hỏi mà chỉ có Trời mới trả lời được.





- Mấy anh ấy đi giải toả quận Phú Nhơn phải không ông chủ.
- Tôi đoán vậy, cô thử hỏi mấy ổng coi.
Tôi quay lại, người vừa hỏi là một thiếu nữ độ đôi mươi, nàng mặc chiếc áo dài trắng học trò đang hỏi thăm người chủ quán, tôi hỏi lại cô gái:
- Sao cô đoán tụi này đi giải toả Phú Nhơn ?
- Em mới từ Tuy Hòa lên Pleiku hôm qua. Sáng nay đáp xe đò vô quận, không ngờ kẹt từ sáng đến giờ.
- Cô cũng ở quận Phú Nhơn sao ?
- Em dạy Ớ trường tiểu học Phú Nhơn, còn nhà em ở Tuy Hòa.
- Cô nên về Pleiku kiếm chỗ ngủ đỡ qua đêm nay.
- Em không có ai quen Ớ Pleiku cả, vả lại em nóng lòng không biết nhà cửa, trường ốc ra sao ?
- Cô có lo lắng thì cũng chẳng làm gì được, tốt hơn hết là kiếm chỗ nào nghỉ đỡ qua đêm nay, chờ giải toả xong mới về được.
- Đám học trò của em chạy ra đây cũng đông lắm, em không thể bỏ chúng được. À này các anh đừng pháo vào trường học nghe.
Tôi vỗ vai Châu Đề Lô vừa cười vừa nói:
- Cái đó cô phải nhờ ông Châu mới được, ổng chỉ đâu là nơi đó thành bình địa.

Châu vội lên tiếng:
- Trường của cô giáo tụi này không dám đụng tới.
Tôi chế diễu Châu:
- Bạn hứa một mình chứ không có tôi can dự trong đó đâu nghe. À nãy giờ mình nói chuyện mà quên giới thiệu. Tôi tên Lập, anh bạn này tên Châu. Thưa qúy danh cô là ...
- Em tên là Quỳnh Hoa, các anh hứa là phải giữ lời đó à nghe !
Tôi chọc ghẹo Quỳnh Hoa:
- Nếu tụi này giữ lời hứa thì Quỳnh Hoa phải đền cái gì mới được chứ ?
Tôi nhìn người con gái nước da trắng hồng, mịn màng như trứng gà bóc, đôi môi đỏ như cánh bích đào, cặp mắt to đen láy trông thật thông minh lanh lẹ, mái tóc thề phủ xoã ngang lưng, nụ cười tươi như hoa với hàm răng đều đặn như những hạt bắp vừa đủ lớn. Nhìn Quỳnh Hoa đứng giữa đám học trò nhà quê lem luốc bẩn thỉu, tôi có cảm tưởng nàng là bà tiên giáng trần, đang cầm cây đũa thần gõ trên đầu đám chúng sinh đầy đau khổ. Nàng rất bạo dạn tuy hơi lo lắng, nhưng không có cái e lệ như những cô gái xứ kinh kỳ. Tôi tự nhủ:
- Bông hoa vương giả này sao lại mọc ở chốn rừng hoang mông quạnh này nhỉ ?
Quỳnh Hoa thấy tôi nhìn cô chăm chú, có vẻ mắc cỡ đôi má càng hồng hào thêm, còn đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Châu vội đề nghị:
- Thôi bữa nào giải toả xong, đãi tụi này một bữa cơm nhà quê được không Qùynh Hoa ?
- Em nấu ăn dở lắm, nhưng em sẽ đãi các anh một chầu bún bò Huế, được không ?
Tôi làm bộ nuốt nước miếng:
- Ôi chao, chưa đánh mùi mà đã thèm nhỏ dãi rồi.

Có tiếng trực thăng từ xa vọng lại. Tôi từ giã Quỳnh Hoa rồi vội vã đốc thúc anh em binh lính để cuộc di chuyển được mau chóng. Bình, anh chàng tài xế xe jeep của tôi chạy lại hỏi:
- Mình cần về hậu cứ lấy thêm gì nữa không Ông Thầy ?
- Chắc đủ rồi, vả lại cũng không còn kịp nữa.
Tôi móc túi đưa cho Bình một ít tiền lẻ và nói:
- Em vào trong quán mua vài gói mì và một hộp trà, tối nay mình ăn mừng chiến thắng.
- Bình cầm tiền, nheo mắt chọc tôi:
- Cái cô hồi nãy coi bộ chịu đèn Ông Thày lắm rồi đó nghe.
Tôi thấy thích thú trong lòng nhưng cũng làm bộ chống chế:
- Con gái đời nay đẩy đưa lắm khó mà lường được.
Trời bắt đầu đổ mưa lâm râm khi trực thăng vừa bốc hai khẩu đại bác. Tôi nhìn bầu trời đen nghịt mà aí ngại cho những giờ phút nguy hiểm gian lao sắp tới bởi vì tôi vừa phải chiến đấu với địch quân vừa phải yểm trợ cho quân bạn ngay từ phút đầu trong thời tiết mưa gío bão bùng này. Những cơn mưa trên miền núi thường dai dẳng và mang theo gío lạnh thấm đến tận xương tủy của những người lính Pháo Thủ, vừa thiếu ăn vừa phải làm việc cực nhọc. Tôi thầm hỏi liệu đêm nay trực thăng có kịp đổ quân để bảo vệ hai con gà cồ của mình không ?

Hai khẩu đại bác cùng với 4 túi đạn 105 li và chiếc xe Jeep được thả xuống một ngọn đồi trọc. Dưới cơn mưa tầm tã, đất đỏ lầy lội, đám pháo thủ thoăn thoắt làm việc: Hì hục đẩy hai khẩu pháo lại gần nhau, khuân vác đạn dược, dựng cây truyền tin, nhắm hướng súng. Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Những trái đạn đầu tiên đã được gởi đi liên tục để dọn bãi đáp cho hai tiểu đoàn Bộ Binh đổ bộ xuống mục tiêu.

Trận tái chiếm quận Phú Nhơn hôm đó đã thành công hoàn toàn nhưng Châu Đề Lô đã bị thương nặng, một mảnh đạn B40 của địch quân đã chọc một lỗ lủng lớn ở bụng của hắn. Tóan Pháo Binh được di chuyển về phía sau quận hành chánh để sãn sàng yểm trợ cho lực lượng bảo vệ quận.
Một buổi sáng, sau khi sửa sang tuyến phòng thủ tạm ổn định, tôi ghé thăm Quỳnh Hoa. Ngôi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Anh em quân nhân trong quận đang gíup tay sửa sang những chỗ bị tàn phá. Tôi đến bên lớp học của Qùynh Hoa, nàng đang say sưa tập hát cho các em nhỏ. Có tiếng một em bé báo động:
- Thưa cô có Ông Lính tới kiếm.
Nàng quay lại, gật đầu chào. Tôi ướm thử xem nàng còn nhận ra tôi không:
- Ông Lính kính chào Cô Giáo, Cô Gíao còn nhớ Ông Lính này không ?
Nàng không thể nhịn cười được lối diễu cợt của tôi, nhưng cũng không chịu thua:
- Ông Lính đi đâu mà lạc vô đây ?
- Ông Lính đi lạc vào Thiên Thai đó ạ, không biết Tiên Nữ có cho Ông Lính xem rừng Đào Tiên không.
- Ông Lính tỉnh lại đi, đây là chốn phàm tục, đâu có nàng Tiên nào đâu.
- Chứ Quỳnh Hoa không phải là Tiên sao?
Nàng nghe tôi khen không khỏi e thẹn:
- Anh Lập làm Qùynh Hoa mắc cỡ quá hà! Người ta xấu như ma mà so sánh với Tiên, anh có mơ ngủ không đấy? Anh Châu có khỏe không anh Lập?
- Châu bị thương nặng đang nằm Ớ quân Y viện Pleiku.
- Trời ơi, có nguy hiểm lắm không anh?
Thấy mặt Qùynh Hoa biến sắc, tôi thấy hơi ganh với bạn mình, nhưng vội trấn an:
- Chắc không đến nỗi nào, nhưng phải nằm nhà thương một thời gian.
- Hôm nào anh có đi thăm anh Châu cho em đi theo với nghe.
Tôi tự nhủ thầm sao nàng dễ xúc cảm như vậy nên hứa đại cho xong chuyện:
- Cuối tuần tôi phải về hậu cứ nhân tiện ghé đón Quỳnh Hoa đi thăm Ông Châu luôn thể, cô có chịu không ?
- Gia đình ảnh đã biết chưa vậy anh Lập ?
- Gia đình ảnh Ớ Pleiku đã được thông báo rồi.
Tôi hỏi thăm qua loa về trường ốc và gia cảnh của nàng rồi vội vã cáo lui, hẹn gặp lại sáng thứ Bảy. Qùynh Hoa hiện Ớ trọ tại nhà bà Hiệu Trưởng, một người bạn cũ của gia đình nàng. Chồng Bà cũng là một cựu quân nhân giải ngũ, có tiệm tạp hóa ngoài chợ.
Sáng thứ Bảy, Tôi cho tập họp Trung Đội, giao doanh trại cho Ông Thượng Sĩ Thường Vụ rồi hối đám quân xa chuẩn bị xe cộ về hậu cứ lãnh lương thực và đạn được. Tôi gọi Bình vào văn phòng rồi dặn:
- Bình à, coi lại xe cộ, xăng dầu đầy đủ, bữa nay mình về hậu cứ đồng thời ghé thăm ông Châu luôn thể. À hôm nay có một người bạn xin qúa giang nữa nghe.
- Ai vậy Ông Thầy ?
- Cô giáo bữa mình gặp ngoài Ngã BA Hàm Rồng đó nhớ không em.
- Ồ, vậy em phải rửa xe cho thật sạch mới được.
- Lính tác chiến mà chú mày làm như lính thành phố không bằng, không sợ tụi hậu cứ nó cười sao ?
- Sức mấy mà tụi nó dám cười Thầy Trò mình.
Tôi ghé lại nhà Quỳnh Hoa, nàng đã chờ sẵn, vẫn chiếc áo dài trắng hôm nào. Nét mặt vui vẻ, nụ cười tươi như hoa trông mới duyên dáng làm sao chứ ! Nàng bước ra cửa đón tôi:
- Chào anh, mời anh vào trong nhà uống miếng nước đã.
- Chào cô Qùynh Hoa, cám ơn cô để khi khác, thôi chúng ta lên đường kẻo trễ.
Đến hậu cứ, tôi nhận tiếp liệu rồi hẹn tất cả tập trung lúc 2 gìơ chiều để trở ra Phú Nhơn. Tôi chở Quỳnh Hoa vào bệnh viện. Châu vẫn còn thiếp trong giấc ngủ mê, khuôn mặt trắng bệch, hơi thở yếu ớt. Tôi có cảm tưởng thần chết đang lảng vảng đâu đây. Bà mẹ của Châu nhìn thấy chúng tôi thì không cầm nổi nước mắt. Bà bắt đầu thút thít khóc. Tôi tự hỏi trong những ngày qua người mẹ đau khổ này đã đổ bao nhiêu nước mắt cho đứa con yêu dấu của mình. Chiến tranh thật tàn nhẫn ! Nó như một con qủy luôn luôn cười cợt trên sự đau khổ của con người. Nó lấy xác chết làm chiến lợi phẩm. Qùynh Hoa nhìn thấy Châu, bỗng hai hàng lệ tuôn trào. Tôi đưa chiếc khăn tay, nàng cầm lấy, che lên mắt và đi vội ra ngoài. Tôi không ngờ nàng qúa thương tâm như vậy đối với một người bạn mới quen. Tôi an uỉ Bà Mẹ của Châu mấy câu rồi vội vã đi tìm Qùynh Hoa. Nhìn nàng đứng dựa chiếc cột ngoài hành lang bệnh viện, đôi vai rung lên từng hồi, có lẽ nàng đã qúa xúc cảm. Tôi chẳng biết làm sao để an ủi nàng. Miệng lưỡi cứng đơ, chân tay thừa thãi, tôi lặng lẽ đến bên nàng, mắt tôi cũng bắt đầu nhòe lệ, tôi ôm lấy đôi vai bé bỏng của nàng. Qùynh Hoa quay mặt lại và úp mặt vào vai tôi khóc nức nở như một đứa con nít. Có lẽ những đau khổ thầm kín lâu nay được dịp tuôn ra đi theo dòng nước mắt. Tôi để mặc nàng khóc cho đã đời. Một vài người đi ngang dòm chúng tôi với đôi mắt dò hỏi rồi bỏ đi. Chuyện khóc lóc có lẽ qúa bình thường ở đây. Nàng khóc một lúc rồi bắt đầu im lặng, chỉ còn những tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi an uỉ nàng:
- Em đừng khóc nữa, anh Châu chắc không đến nỗi nào đâu, Mẹ ảnh nói Bác Sĩ cho hay ảnh đã qua cơn hiểm nghèo rồi chỉ chờ bình phục thôi.
Nàng thì thầm bên tai tôi:
- Em nhớ Ba em hồi đó, cũng nằm ở Bệnh Viện này, trong cơn hấp hối, nên không cầm nổi nước mắt, xin anh tha lỗi cho em.
- Anh xin lỗi em, không ngờ cuộc thăm viếng này đã gợi cho em những đau đớn như vậy.





- Anh đừng nói vậy, anh không có lỗi gì cả, chỉ vì em tủi thân đó thôi.
Khi đã tỉnh trí, nhìn thấy một bên vai áo tôi ướt đẫm nước mắt, có lẽ thấy hơi ngượng ngùng nên đẩy nhẹ tôi ra và lí nhí mấy lời xin lỗi. Tôi vội dìu nàng ra xe và rủ ra ngoài phố kiếm ăn. Tôi dẫn Quỳnh Hoa vào quán như một đôi tình nhân gắn bó bên nhau. Những cặp mắt nhìn soi bói của đám thực khách mà qúa nửa là lính tráng khiến nàng hơi bối rối. Tôi nhìn nàng với đôi mắt nồng nàn, thầm cám ơn Thượng Đế đã cho tôi có dịp làm quen với người con gái dễ thương và thùy mỵ như vậy. Sự hiện diện của nàng trong đời sống khiến tôi thấy những gánh nặng trên vai nhẹ nhàng hơn. Qùynh Hoa là một dòng suối ngọt, một bóng mát, một hy vọng, một nơi yên nghỉ êm đềm cho linh hồn thể xác mệt mỏi của tôi trong cuộc chiến tàn nhẫn đầy máu và nước mắt này. Tôi vẫn cảm thấy rằng sau nét mặt vô tư ngây thơ, Quỳnh Hoa có một sức thu hút kỳ lạ, giống như một vùng đất mới chứa đầy những bí mật quyến rũ đối với những nhà thám hiểm. Đúng vậy, nàng chính là sự thiêng liêng kỳ bí, một vườn Địa Đàng cho riêng tôi. Tôi vẫn chưa hiểu tại sao nàng qúa thương tâm khi thăm Châu trong bệnh viện nên muốn tìm hiểu thêm:
- Qùynh Hoa ở Phú Nhơn lâu chưa ?
- Độ gần một năm thôi, em ra trường sư phạm cấp tốc rồi xin đổi về đấy ngay.

- Sao em không xin dạy ở gần nhà có phải tiện hơn không ?
- Ngày xưa, Ba em làm Quận Trưởng Phú Nhơn. Người đã bỏ cả cuộc đời để xây dựng cái quận đèo heo hút gío này. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dân chúng từ miền ven biển và từ ngòai Bắc di cư lên đây lập nghiệp, đã được chính quyền tận tình giúp đỡ. Nhưng rồi trong một cuộc đi thăm đồn điền của một xã phía Tây Quận Lỵ, Ba em đã lọt vào ổ phục kích và bị sát hại. Em lớn lên, muốn tiếp nối cái hoài bão của Ba em là nâng cao dân trí để họ có thể hiểu được ý nghĩa của sự tự do, dân chủ, công bình và lẽ phải.
Tôi thầm nghĩ những danh từ tự do, dân chủ thật qúa mơ hồ đối với những người lính tác chiến, với đám dân quê nghèo thất học ở đây. Gia đình, vợ con, miếng cơm manh áo, mạng sống có lẽ gần gũi hơn. Tôi thấy vừa kính nể vừa thương hại người con gái mới lớn mang trong lòng một hoài bão qúa lý tưởng, qúa to lớn. Nàng đúng là một Tiên Nữ mà Thượng Đế đã gởi xuống cõi trần đầy khổ đau này.
Sau nhều lần đi thăm Châu, chúng tôi thấy gần gũi nhau hơn. Tôi tìm thấy ở nàng một niềm vui, một ước mơ, một mái ấm gia đình cho tương lai. Vùng đất hoang vu này trở nên tươi mát đáng yêu bởi vì chỗ nào cũng thấy đoá Hoa Quỳnh nở rộn ràng.

Chúng tôi đã yêu nhau, có núi rừng và con sông nhỏ chảy qua quận lỵ làm chứng. Con sông thật hiền hoà và dễ thương như người tôi yêu. Bên bờ sông những hàng cây Phượng Vĩ nở đỏ rực mỗi mùa hè. Mùa mưa nước phù xa đỏ ửng từ trên ngàn chảy cuồn cuộn xuống ngập gần hết cây cầu sắt nhỏ bắc qua sông. Cây cầu nhỏ sơ sài có vài nhịp, bề ngang chỉ đủ cho một chiếc xe đò qua lại. Mùa nắng, nước cạn trơ những bãi cát trắng tinh. Người ta đào cát thành những vũng nước trong, gánh về để uống. Giữa lòng sông nước trong vắt nhìn thấy cát và sỏi tận dưới đáy, nước chảy lững lờ. Mấy chàng Pháo Thủ thường ra tắm sông để được chiêm ngưỡng những nàng thôn nữ cao nguyên ngực no tròn và rất tự nhiên. Tôi yêu núi rừng Cao Nguyên, mỗi buổi sáng thức dậy đứng trên đồi nhìn chung quanh chỉ thấy một màu xanh rì, mênh mông như biển cả. Tôi yêu con sông bé nhỏ, tôi yêu cây cầu sắt cũ kỹ đưa người qua sông, tôi yêu hàng cây Phượng Vĩ học trò, tôi yêu sân trường tiểu học Phú Nhơn, tôi yêu con đường nhựa bé bỏng chạy qua quận lỵ và băng qua núi rừng Cao Nguyên. Tôi yêu và yêu rất nhiều, bởi vì ở đâu cũng thấy hình bóng của nàng. Tôi yêu lắm những buổi chiều hai đứa dẫn nhau ra bờ sông, lang thang dưới những hàng cây xanh um, hoặc ngồi trên thành cầu nhìn dòng nước hững hờ trôi. Nàng ngồi bên tôi, đong đưa hai hàng chân trắng muốt, cười nói vô tư như một Thiên Thần. Trời Đất, Vũ Trụ, Thời Gian như ngừng hẳn, ôi đẹp đẽ và thanh bình đất nước tôi!
Ở đó, bấy giờ, không nghe tiếng súng nổ, không nghe tiếng gầm gừ của máy bay phản lực, không gian hoàn toàn yên tĩnh.
Chúng tôi đã dệt những giấc mộng tương lai đơn sơ và êm đềm.
- Qùynh Hoa ơi, mai này chiến tranh chấm dứt, anh sẽ cất một căn nhà bên bờ sông này, em sẽ tiếp tục dạy học, còn anh sẽ biến vùng đất màu mỡ này thành một đồn điền trù phú, em có chịu không ?

- Anh trồng cho em một vườn trái cây mít , ổi, xoài, đu đủ, mảng cầu nghe anh.
- Ừ, anh sẽ trồng bất cứ cây gì em muốn.
- Anh hứa thương em và chiều chuộng em như ngày xưa Ba yêu thương và chiều chuộng em nghe.
- Anh hứa.
- Anh đừng bỏ em, như Ba đã bỏ em một mình, em sợ lắm.
- Không, anh sẽ không bỏ em một mình.
- Nghe anh nói thơ mộng và sung sướng qúa, cám ơn Trời Phật đã cho em gặp anh. Có lẽ Ba đã run rủi em gặp anh đó. Lập ơi em thương anh lắm, anh biết không?
- Sao em thương anh nhiều dữ vậy ?
- Không biết nữa, có lẽ em thấy anh giống Ba em. Anh chiều chuộng em, anh là người lớn, bao dung, đại lượng, biết nhiều, hiểu nhiều. Anh biết không, hôm em gặp anh đi hành quân, em thấy anh oai hùng qúa, giống như Ba em ngày xưa. Mấy Ông Lính thương anh lắm phải không ?
- Không mấy ông ấy ghét anh lắm.
- Cái mặt xạo, ai mà ghét anh. Anh nhiều đào lắm phải không ? nói cho em nghe đi.
- Có mình em thương anh thôi, thiệt đó.
Tôi ngồi bên nàng, uống từng giọt tình yêu ngọt ngào, nghe trái tìm mình đập từng điệu nhạc run rảy trên lối vào Thiên Đường chỉ có hai đứa chúng tôi. Nàng đã dạy cho tôi biết mơ mộng, thấy đời đáng yêu hơn, những thứ đó tôi đã đánh mất từ khi mới lớn, từ khi bước chân vào quân ngũ, tôi vẫn nghĩ tuổi trẻ của tôi đang đi vào ngõ cụt và chỉ còn những giấc mơ hãi hùng. Đời tôi thật trống rỗng nếu không có nàng. Tôi thấy yêu thương nàng qúa đỗi. Qùynh Hoa vẫn còn vẽ những giấc mơ của nàng nhưng tôi không còn nghe gì cả, chỉ thấy cánh môi hồng mấp máy, hơi thở thơm tho mùi mía lùi phà trên mặt tôi. Bất chợt, tôi ôm và hôn nàng say đắm, người nóng bừng như có dòng điện chạy ào ạt từ tim lên đầu. Nàng đẩy nhẹ tôi ra:
- Coi kìa, người ta cười mình đó.
- Ai mà dám cười mình.
Nàng đánh trống lảng, bâng quơ hỏi tôi:
- Anh ơi, cây cầu này có tên không anh.
- Anh cũng chẳng biết nữa, hay là mình đặt cho nó một cái tên làm kỷ niệm nghe.
- Em cho anh đặt đó.
- Ừ, hay là mình gọi là Cây Cầu Biên Giới nghe em.
- Cái tên nghe cũng hay đấy, nhưng mà nghe có vẻ chia ly qúa. Giống như trong bài “Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu” của Nguyễn Văn Đông vậy.
Tôi phì cười:
- Mới thương nhau mà em đã nghĩ đến chuyện chia ly rồi.
- Nhưng mà em sợ lắm, thời buổi chiến tranh... Lỡ mai này, anh bỏ em ở đây một mình, em buồn lắm đó.
- Không, anh sẽ không bỏ em một mình, anh sẽ xin với Mẹ để cưới em, chúng ta mãi mãi bên nhau.
Nàng reo lên sung sướng như một đứa con nít, mắt sáng ngời những tia hy vọng, rồi ôm lấy tôi. Ôi mùi thơm ngọt ngào, tôi làm bộ đẩy nhẹ nàng ra:
- Coi chừng người ta thấy, họ cười mình đó.
- Ai cười hở mười hàm răng !
Thật không ngờ, nơi rừng rú hoang vu nguy hiểm này ai nghe đến cũng rợn tóc gáy. Bạn bè, người thân, lâu không gặp nhau, hỏi tôi bây giờ Ớ đâu, tôi trả lời ở quận Phú Nhơn tỉnh Cheo Reo, ai cũng lè lưỡi chọc tôi bộ hết đất rồi sao lên miền Thượng ở vậy, tôi chỉ cười khì. Bây giờ tôi đã có lý do để trả lời họ ... Bởi vì tôi mê hoa Qùynh, thế thôi.
- Anh làm gì ngồi thừ ra thế, hãy nói nữa về tương lai của chúng ta cho em nghe đi.
- Anh đang sung sướng qúa nên làm một bài thơ kỷ niệm.
- Ồ, anh biết làm thơ nữa sao? Hãy đọc em nghe đi, em sẽ thưởng cho anh.
- Ừ, anh đọc thơ con cóc, em đừng cười nghe. Em biết thơ con cóc không ? Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra.
Nàng đọc tiếp:
- Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi... với anh !!! Em thích thơ con cóc lắm. Em sẽ làm con cóc như trong chuyện cổ tích gì đó, anh học trò có người vợ cóc xấu xí, đêm đêm hiện nguyên hình là một nàng Tiên săn sóc cho chồng. Ban ngày là một con cóc lẽo đẽo theo chồng.
- Nếu em là một nàng Tiên cóc, anh sẽ bỏ em vào ba lô mang theo khi đi hành quân, anh sẽ tâm sự với em.
- Anh phải đọc thơ cóc cho em nghe. Ơ, nếu vậy mấy Ông Lính sẽ gọi anh là người điên đó.

- Anh điên vì em, thì anh cũng chịu.
Nàng bá cổ tôi nũng nịu:
- Thôi đừng đánh trống lảng, đọc thơ con cóc cho em nghe đi anh.
- Ừ, anh đọc nghe, cấm cười đó, đứa nào cười anh khóa miệng lại cho mà coi.

Chiều về thấp thóang bên sông,
Thấy Qùynh thơm ngát thấy lòng xôn xao.

Nàng cười rũ rượi, hai tay đánh liên hồi vào vai tôi. Một ngày như mọi ngày trôi qua, trong thung lũng tình yêu, bên cây câu biên giới, nỗi chết đã tạm chịu rút lui, để nhường chỗ cho tình yêu hoa bướm ngọt ngào. Tôi lấy con dao găm đeo bên mình khắc câu thơ trên thành cầu sắt để đánh dấu một chặng đường yêu đương…

&

- Anh muốn vào chợ hay đến nhà ai ở quận Phú Nhơn ?
Tiếng người tài xế kéo tôi về thực tại. Giấc mơ thật ngắn ngủi, như cuộc tình của chúng tôi.
- Anh cho tôi lại trường tiểu học.
Quang cảnh vẫn không thay đổi mấy, ngôi trường tiểu học vẫn như xưa. thời gian như ngừng trôi Ớ quận lỵ nhỏ bé này. Phố chợ đìu hiu vẫn còn kia, hàng rào kẽm gai chung quanh doanh trại nơi tôi đóng quân vẫn còn đó, nhưng chẳng ai biết đến một người con gái đẹp như hoa Qùynh đã từng in dấu chân nơi chốn này. Hình ảnh ngày xưa vẫn còn đủ chỉ thiếu một người. Tôi hối người tài xế chạy ra phía cây cầu. Chiếc cầu sắt nhỏ bé đầy dấu kỷ niệm, tôi như trong giấc mơ, Chàng Tú Uyên ngày xưa khi tỉnh giấc không thấy người đẹp trong tranh đâu nữa, chắc cũng ngỡ ngàng như tôi hôm nay thôi. Tôi bước lên cầu, ngồi đúng vào chỗ ngày xưa chúng tôi đã từng có một thời mơ mộng. Tôi ngồi bệt xuống, hai chân đong đưa, mắt nhìn xa xăm trên những ngọn phượng vĩ bên sông, cố tìm chút nắng vàng ngày xưa của một buổi chiều tà. Tìm mãi cũng chẳng thấy đâu, không thấy một dấu tích gì của nàng. Nơi thành cầu này tôi đã hôn những nụ hôn đầu tiên trong đời, vẽ những giấc mơ dầu tiên trong đời và những bài thơ con cóc đầu tiên trong đời tôi. Đúng là cây câu chia ly như nàng đã nói. Bây giờ nàng ở đâu, hay đã bỏ xác trên tỉnh lộ Số Bảy trên đường di tản về Tuy Hoà. Ồ phải rôì, tôi phải tìm lại bài thơ con cóc có lẽ đó là kỷ niệm duy nhất còn lại của tôi với nàng. Tôi dò từng tấc sắt trên thành cầu, bài thơ còn đó nhưng đã dài hơn hai câu:

Chiều về chiều vẫn một mình,
Trách người năm cũ bỏ tình bơ vơ.


Tôi bay về Hoa Kỳ lòng buồn miên man, bao nhiêu háo hức của ngày trở lại Việt Nam đã tiêu tan đâu mất chỉ còn lại sự mệt mỏi và chán chường. Tôi đã đi mọi nơi, để tìm tung tích của Quỳnh Hoa nhưng cũng không có tin tức gì. Ngày ấy nếu tôi không bị kẹt ngoài Huế, chắc chúng tôi đã chết bên nhau hay cùng nhau lênh trên con tàu vượt biên. Thời gian thấm thoát trôi đi, tóc tôi đã bắt đầu điểm bạc. Mỗi lần đi dâu, thấy bóng giáng mái tóc thề và chiếc áo dài trắng lòng tôi lại xôn xao như ngày nào bên chiếc Cầu Biên Giới.

Posted by: caoduy Mar 26 2012, 11:08 AM





Mục sư Nguyễn Công Chính

bị Việt Cộng kết án 11 năm tù giam


Kính thưa quý thân hữu, quý chiến hữu, cùng quý niên trưởng,

Hôm nay, Tòa án tỉnh Gia Lai đưa mục sư Nguyễn Công Chính ra xét xử và tuyên án ông 11 năm tù giam với các tội danh theo điều 87 Bộ Luật hình sự Việt Nam.

Vào lúc 7 giờ sáng ngày 28/04/2011, Mục sư Nguyễn Công Chính đã bị cơ quan Công An tỉnh Gia Lai khởi tố và bắt giam.

Các tội danh mà phía công tố Việt Nam buộc cho mục sư Nguyễn Công Chính gồm gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, tuyên truyền gây thù hằn chia rẽ giữa dân tộc, xâm phạm chủ quyền của các dân tộc, gây chia rẽ giữa người có tôn giáo với người không tôn giáo, giữa tín đồ tôn giáo với chính quyền, và phá hoại chính sách quốc tế đoàn kết quốc tế của Việt Nam.

Phiên tòa không luật sư bào chữa


Ngay sau phiên xử bà Trần Thị Hồng, vợ của mục sư Nguyễn Công Chính, cho biết một số thông tin về phiên xử chồng bà hôm nay mà bà quyết đến tham dự dù không được chính thức thông báo:



“Phiên tòa đã kết thúc với bản án 11 năm tù. Họ không cho một luật sư nào bào chữa. Sau khi tuyên án họ nói bị cáo có quyền kháng án trong vòng 15 ngày. Họ đưa ra những điều mà ông mục sư Chính vi phạm, trong đó có vấn đề thương phế binh. Ông Ms Chính bào chữa đó là những người khó khăn, và là một chức sắc tôn giáo nên phải giúp đỡ; nhưng họ nói ông vi phạm gây xào xáo trong gia đình những thương phế binh. Họ nói ông MS Chính có những cuộc phỏng vấn bên ngoài nói xấu chính quyền, đảng và nhà nước. Có những bài viết đưa lên, xuyên tạc là vi phạm. Ông Ms Chính cũng bình tĩnh trả lời những điều họ buộc.

Phiên tòa đã kết thúc với bản án 11 năm tù. Họ không cho một luật sư nào bào chữa. Sau khi tuyên án họ nói bị cáo có quyền kháng án trong vòng 15 ngày. Họ đưa ra những điều mà ông mục sư Chính vi phạm, trong đó có vấn đề thương phế binh.

bà Trần Thị Hồng



Họ yêu cầu ông thành khẩn nhận tội. Ông nói rằng ông chỉ có tội với Chúa, chứ không hề có tội gì với nhà nước. Gia đình ông bị mất đất đai, ủi sập, mất quyền tự do đi lại nên ông phải đấu tranh; chứ không có gì vi phạm với chính thể, Nhà nước này.”



Xin được nhắc lại ông Nguyễn Công Chính từng là mục sư theo giáo phái Mennonite, nay chuyển sang giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam và giữ chức hội trưởng giáo hội Liên hữu Lutheran Hoa Kỳ- Việt Nam.
Ông bị bắt hồi tháng tư năm ngoái. Từ khi bị bắt đến khi ra tòa, gia đình ông không hề được gặp mặt.

Cơ quan điều tra công an Việt Nam cho rằng từ năm 2004 đến khi bị bắt ông Nguyễn Công Chính soạn thảo nhiều tài liệu và gửi ra cho người khác mà chính quyền Việt Nam cho là phản động. Cơ quan này cũng nói ông đã trả lời phỏng vấn các cơ quan truyền thông nước ngoài mà qua đó xuyên tạc tình hình trong nước cũng như vu khống chính quyền và các lực lượng vũ trang.

Suốt từ năm 2003 cho đến ngày bị bắt giam 28 tháng 4, 2011, Mục Sư Nguyễn Công Chính và gia đình đã sống trong sự khủng bố thường trực của công an.

Hai lần vào tháng 9, 2003 và tháng 1, 2004, nhà nguyện tư gia của Hội Thánh Tin Lành do ông cầm đầu ở thành phố Kontum đã bị công an mang xe cơ giới tới san bằng. Giấy tờ tùy thân, hộ khẩu của gia đình công bị công an lấy hết. Con ông ra đời không làm được giấy khai sanh. Gia đình ông đi thuê nhà ở tạm chỗ nào thì bị công an tới ép chủ nhà đuổi.

Ông đã phải đổi Hội Thánh ít ra ba lần và cuối cùng trước khi bị tống giam là hội trưởng Giáo hội Liên Hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ.

Vào ngày 8 tháng 6, 2009, Mục Sư Chính khi cầm đầu “Giáo hội Liên Hữu Tin Lành Ðấng Christ Các Dân Tộc Việt Nam” liệt kê tóm tắt các khổ nạn của ông và gia đình từ năm 2003 đến thời gian này như sau:

“21 năm không có hộ khẩu, CMND, đã có 298 lần bị công an cưỡng ép thẩm vấn, 19 lần bị công an tra tấn đánh đập, 23 lần đi thuê nhà ở trong nhiều tỉnh, 86 lần bị trục xuất ra khỏi chỗ ở, 2 lần bị chính quyền cưỡng chế ủi sập nhà nguyện và tịch thu tài sản, 4 lần bị mưu sát, 6 lần bị bắt giam, Tài sản vật dụng bị chính quyền CSVN tịch thu không trả lại, Hiện nay gia đình bị chính quyền CSVN cô lập, mất tất cả các quyền tự do của công dân, và đã bị công an mục vụ PA38 đóng chốt canh gác cô lập kiểm tra liên tục sách nhiễu trong nhiều năm...”

Trong một lần trả lời phỏng vấn của đài RFA, ông cho hay ông sống như người lưu vong trên chính quê hương mình.

Nhà ông ở, ngoài chuyện bị canh giữ trước sau rất chặt chẽ suốt ngày đêm, có nhiều lần công an còn ném gạch đá lên nóc nhà, ném phân người vào nhà.

Vì là một tổ chức tôn giáo không chấp nhận gia nhập vào hệ thống tôn giáo quốc doanh, MS Chính đã bị nhà cầm quyền vu cho là “núp dưới vỏ bọc tôn giáo” tương tự như nhiều hệ phái Tin Lành và Phật Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo.

Năm 2009, MS Nguyễn Công Chính được Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam ở Hoa Kỳ trao tặng giải thưởng nhân quyền.

Trả lời phỏng vấn của đài BBC về bản án mới đối với Mục Sư Chính, ông John Sifton, giám đốc về vận động cho Châu Á của tổ chức nhân quyền Human Rights Watch, nói hành động của chính phủ Việt Nam cho thấy Việt Nam “vẫn không tôn trọng tự do tôn giáo.”

“Việc kết án Mục Sư Chính không phải trường hợp cá biệt... Riêng trong năm 2011, ít nhất chín tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên lãnh án tổng cộng tới 85 năm tù vì tội phá hoại đoàn kết dân tộc, trong khi tín đồ các đạo phái khác như Hòa Hảo, Công Giáo và Pháp Luân Công cũng bị xử tù hoặc bị kết án chờ ngày ra tòa.”

Ông John Sifton, nói thêm: “Bản án dành cho Mục Sư Nguyễn Quốc Chính một lần nữa chứng minh rằng chính phủ Việt Nam không hề quan tâm tới tự do tôn giáo.”

Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ mới đây gửi thư cho Bộ Ngoại Giao đề nghị đưa tên nước Việt Nam vào danh sách “Các Nước Cần Quan Tâm Ðặc Biệt” (CPC) vì nước này vẫn đàn áp tự do tôn giáo của người dân rất nghiêm trọng.

Posted by: KhoaNam Mar 28 2012, 09:37 AM





Cảnh sát giao thông: “Cò kè” tiền hối lộ



“Cò kè bớt một thêm hai”. Đó là câu thơ mà Nguyễn Du tả cảnh mua bán trong truyện Kiều. Bối cảnh mua bán là nhà họ Vương túng vẫn phải đem bán nàng Kiều nhưng khi bán lại bị kẻ đi mua là người giàu có cò kè bóp chẹt bớt giá. Từ đó cái từ “cò kè” của Nguyễn Du đi vào dân gian Việt nam, từ dùng để chỉ hành động của những kẻ giàu có nhưng tham lam thường hay bóp chẹt những người ở thế kẹt trong mua bán. Khi Việt Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa, từ này không chỉ được dùng trong các vụ việc mua bán, mà còn được dùng trong… quản lý Nhà nước. Đó là trường hợp mà tôi gặp sáng nay.

Sáng nay, một ngày như mọi ngày, tôi bật mô tơ điện tưới cà phê nhưng chẳng may bị điện chập cháy, tôi vọi vàng mượn tạm cái xe của thằng em để gần bên chạy ra phố Pleiku mua phụ kiện về thay. Đến đoạn cua gần nghĩa địa ranh giới giữa thành phố Pleiku với huyện Ia Grai tôi bị cảnh sát giao thông thổi còi hỏi giấy tờ xe. Vì vội vàng khi đi nên tôi không có mang theo giấy tờ gì cả, khi bị chận hỏi giấy tờ tôi mở nắp cốp xe ra thấy có giấy đăng ký xe mô tô mang tên thằng em để ở bên trong, tôi lấy giấy đó đưa cho công an. Cuối cùng tôi được mời ra xa xa, đến “núp” bên cánh cửa xe ô tô cảnh sát cùng với chỉ một viên cảnh sát để viên cảnh sát này lập biên bản vi phạm giao thông.

Rồi viên cảnh sát này, hắn nói: anh không có bằng lái xe tôi “hốt” xe anh. Tôi nói: thì có giấy tờ xe, anh giữ giấy tờ là bắt phạt tôi được rồi, hốt xe mà làm chi, tôi việc rất cần không có xe đi mà các anh cũng tốn công chở xe tôi về. Viên cảnh sát đồng tình với lời nói tôi nên không cho hốt xe tôi lên xe cảnh sát. Nhưng rồi thấy hắn loay hoay mãi mà biên bản vi phạm vẫn không được viết ra.

Rất ghét chuyện hối lộ, nhưng vì công việc cần phải đi gấp và nhìn ra xung quanh thấy chỉ có một cảnh sát giao thông nên tôi cũng giở trò… hối lộ. Một tờ giấy bạc 50 ngàn Việt nam đồng tôi nhét vội vào túi cảnh sát giao thông. Tôi cứ tưởng thế là được viên cảnh sát này “tha” tội cho tôi đi, nhưng hắn thọc tay vào túi quần, lấy tờ giấy bạc mà tôi nhét vội vào, đưa ra cầm trên tay và nói thế này: “anh mời tôi một ly cà phê chứ mấy”!.

Đúng là hắn có cách “cò kè “đòi thêm tiền hối lộ hay thiệt! Rồi hắn chờ nhưng chẳng thấy tôi đưa thêm đồng tiền nào nữa nên hắn tiếp tục đòi ghi phạt. Lần này hắn nói: "hay là tôi ghi anh cái tội không đội mũ bảo hiểm, tội nhẹ hơn, phạt chỉ 150 ngàn".

Tội không bằng lái xe phạt 200 ngàn, trừ 50 ngàn đưa hối lộ, còn lại phạt 150 ngàn ghi thành tội danh khác là không đội mũ bảo hiểm.

Đã hối lộ thì phải xong việc, chứ sòng phẳng thế, tính toán kỹ thế, và còn tiếp tục bị nộp phạt nữa thì hối lộ mà làm gì. Năm chục ngàn ấy thà nộp vào ngân sách Nhà nước vẫn hơn là nằm trong túi hắn. Nhưng lỡ đưa hắn rồi, lại còn nói là “biếu” hắn nữa, chẳng lẽ của biếu mà đòi lại được sao.

Tôi bèn nghĩ cách giả nghèo mà van xin với hắn. Ban nãy khi tôi mở cốp xe máy ra, hắn có nhìn thấy đồ nghề điện để ở bên trong cóp xe. Cho nên tôi vào vai anh thợ điện mà nói với hắn rằng: "Tôi đi sửa điện cho người ta, có một trăm mấy chục ngàn đồng một ngày công, đưa anh năm chục ngàn đồng rồi, còn gì nữa… tôi còn vợ con tôi nữa…" Nghe tôi nói đến đây, hắn cười khì và đưa trả giấy tờ cho tôi đi.

Năm thế kỷ trước cụ Nguyễn Du dùng từ “cò kè” để mô tả hành động xấu xa của kẻ tham tiền ỷ thế mà bóp chẹt người khác trong mua bán. Cụ có biết đâu đến năm thế kỷ sau, khi đất nước đang thời kỳ văn minh xã hội chủ nghĩa, những quan chức Nhà nước đang dẫn dân chúng Việt Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa, khi nhận tiền hối lộ của dân họ cũng… “cò kè”!


Dân cà phê Gia Lai

Posted by: NamQuoc Mar 31 2012, 10:32 AM





Gia Lai: Hai cấp chính quyền 'xuất binh'

vì…hòn đá



Không hiểu 2 hòn đá đào được trong vườn có giá trị như thế nào mà 2 cấp chính quyền cùng vào cuộc để cưỡng chế thu hồi, khiến cho hàng trăm người dân chứng kiến rất bức xúc. Việc làm của UBND huyện Chư Sê có hợp tình, hợp lý?

“Tài sản quốc gia” nên thu hồi ?

Sáng 29/3, trong lúc hai vợ chồng ông Lê Hùng Dũng (thôn Ia Sa, xã H’bông, huyện Chư Sê, Gia lai) đang ở nhà thì thấy đoàn cán bộ huyện gồm ông Phó chủ tịch thường trực và ông Chánh văn phòng UBND huyện dẫn theo lực lượng công an ập vào nhà yêu cầu lập văn bản thu hồi 2 hòn đá đang để trong sân. Thế nhưng vợ chồng ông Dũng không chấp nhận việc chính quyền thu hồi 2 cục đá nhà mình.



Hòn đá vô tri vô giác này không rõ có giá trị như thế nào.


Trước sự phản đối quyết liệt của vợ chồng ông Dũng, các vị quan huyện phải yêu cầu lực lượng an ninh xã H’bông hỗ trợ, mục đích là cưỡng chế bằng được 2 hòn đá. Ông Chánh văn phòng UBND huyện Bùi Sỹ Nguyên tiến hành lập biên bản với nội dung gia đình ông Dũng đã tàng trữ tài nguyên, khoáng sản không rõ nguồn gốc và cho rằng đây là tài sản quốc gia nên phải thu hồi (?!)

Trước sức ép quá lớn của lực lượng 2 cấp xã, huyện; vợ chồng ông Dũng hoảng sợ nên xuống giọng năn nỉ xin lại một hòn đá để chơi cảnh. Xét thấy vì công sức của vợ chồng ông Dũng bỏ ra khá nhiều mới đào được 2 hòn đá nên các vị quan huyện có vẻ “xuống thang”…thông cảm. Tuy nhiên, biên bản được lập thu hồi 1 hòn đá chỉ có duy nhất một bản, không trích sao bản thứ 2 để gia đình ông giữ làm bằng chứng. Do vậy, ông Dũng đã không đồng ý ký vào biên bản.

Với sự chỉ đạo trực tiếp của ông Phó chủ tịch thường trực UBND huyện, ông Chánh văn phòng lại một lần nữa lập biên bản thu hồi cả 2 hòn đá với nội dung cho rằng hai hòn đá này là loại khoáng sản không rõ nguồn gốc. Tuy nhiên, lần này ông Dũng cương quyết phản đối, không ký vào biên bản.
Ông Bùi Sỹ Nguyên 3 lần lập biên bản thu hồi 2 hòn đá nhưng không thành.
Chỉ khi thấy phóng viên xuất hiện và trước sự phản đối quyết liệt của hàng trăm người dân, việc cưỡng chế, thu hồi 2 hòn đá của 2 cấp chính quyền mới tạm dừng lại, đoàn công tác ra về.



Trao đổi với chúng tôi, ông Dũng cho biết: Gia đình ông có một lô đất với diện tích 7.000m2 tại xã H’bông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2009, trong khi đào ao lấy nước tưới cho cây hồ tiêu, ông Dũng phát hiện 2 khối đá lớn có màu sắc đẹp nên thuê xe kéo về để chơi làm cảnh.

Một số người dân chơi đá cho biết, 2 hòn đá của ông thuộc loại đá casidol – loại đá phong thủy đang được giới chuyên chơi đá săn lùng. Tuy nhiên, vì chất liệu đá còn xấu nên trong suốt 3 năm qua, 2 hòn đá vô tri vô giác của ông Dũng để ngay trong sân nhưng không ai hỏi han, kể cả chính quyền các cấp.

Người dân bức xúc

Trao đổi với chúng tôi, hàng trăm người dân chứng kiến cảnh 2 cấp chính quyền cưỡng chế để thu hồi 2 hòn đá của ông Dũng bức xúc cho rằng: chính quyền làm như vậy là sai nguyên tắc, quan liêu, chèn ép dân quá đáng ?

Ông Dũng - chủ nhân hai viên đá bộc bạch: “2 hòn đá này, tôi tìm được trong vườn của gia đình tôi. Không biết đó là loại đá gì, giá trị bao nhiêu, đơn giản vì tôi thấy có màu sắc đẹp nên thuê xe chở về chơi cảnh chứ có mua bán gì đâu! Vậy mà chính quyền 2 cấp lại đưa lực lượng đến thu hồi là việc làm không đáng, cần phải xem xét lại”!


Ông Lê Hùng Dũng phản đối quyết liệt về việc làm của huyện


Riêng ông Phạm Minh Hùng, Trưởng Công an xã H’bông giải thích về việc tham gia cùng lực lượng của huyện thu hồi 2 hòn đá rằng: “Công an xã làm việc này theo sự chỉ đạo của huyện”.

Là Trưởng công an, ông phải chấp hành theo sự chỉ đạo của Chủ tịch UBND xã. Ông Hùng cũng thừa nhận: “Đá của dân tìm được đã lâu, nên để cho dân sử dụng trưng bày làm cảnh chứ không nên thu. Bởi hiện nay, người dân chơi đá cảnh rất nhiều nên dân tìm được là để cho dân”.

Được biết, vào tối 28/3 các cấp chính quyền của huyện này cũng đã tiến hành thu hồi một hòn đá khác của hộ gia đình chị Trần Thị Sắc (42 tuổi) trú cùng thôn Ia Sa. Theo chị Sắc, khi gia đình chị đào ao lấy nước tưới hồ tiêu ở khu vườn kế bên vườn nhà ông Dũng thì phát hiện hòn đá cũng gần giống 2 hòn đá nói trên.


Ông Phó chủ tịch thường trực huyện Chư Sê (áo xanh đậm bên trái) dẫn quân đi thu hồi 2 cục đá


Vì thấy hòn đá đẹp nên gia đình đã thuê xe chở về và bị chính quyền huyện tịch thu, đưa về trụ sở UBND huyện. Tuy đã chấp hành, nhưng chị Sắc bức xúc cho rằng, khi đào ao gặp đá, nếu không lấy đá lên thì không thể đào được ao. Và khi đưa được viên đá về nhà, chị đã tốn rất nhiều tiền thuê xe đào, chở…nhưng rồi mất cả đá lẫn tiền.

Vài năm trở lại đây, địa bàn tỉnh Gia Lai đang rộ lên phong trào chơi đá cảnh, đá phong thủy. Xã H’bông là địa bàn được có nhiều đá phong thủy nên giới chơi đá thường về đây để tìm mua. Người dân trong vùng cũng thường xuyên đi đào bới, tìm đá đem về bán, thậm chí có những cơ sở chuyên thu gom đá về để chế tác buôn bán… Tuy nhiên việc này vẫn chưa thấy các cấp chính quyền ngăn cấm.

Tuy giá trị của những viên đá này người dân vẫn chưa rõ, nhưng việc thu hồi của các cấp chính quyền cũng cần có những biện pháp hợp tình, hợp lý hơn!

Tiến Thành

Posted by: KhoaNam Apr 6 2012, 06:24 PM





Người Công Giáo Kon Tum cầu nguyện ở nhà tư

vì chính quyền tịch thu nhà thờ của họ



Người Công Giáo Kon Tum cầu nguyện ở nhà tư vì chính quyền tịch thu nhà thờ của họ

Kon Tum (AsiaNews) – Đối với người Công Giáo trong một giáo xứ tọa lạc ở Tây Nguyên Việt Nam, món quà quý giá nhất dịp Lễ Phục Sinh là sẽ được cử hành Thánh Lễ tại nhà thờ của họ. Điều này đã bị từ chối suốt 30 năm qua sau khi chính quyền địa phương tịch thu nơi thờ phượng của họ và không bao giờ trả lại. Bất chấp sự sách nhiễu, các Kitô hữu địa phương đã tiếp tục lớn mạnh trong đức tin của mình, dấn thân vào các công tác mục vụ và xã hội, thực hiện các hoạt động truyền giáo mang lại thành quả là hàng ngàn người trở lại đạo và được rửa tội. Chúa Nhật tới, một nhóm các tân tòng khác cũng sẽ được như thế.

Một thành viên của Giáo xứ Hiếu Đạo cho Hãng tin AsiaNews hay: “Tôi hy vọng rằng trong mùa Phục Sinh này, chính quyền địa phương sẽ trả lại nhà thờ của chúng tôi. Chúng tôi cần nhà thờ để dâng Thánh Lễ và cầu nguyện”. Giáo xứ này thuộc Giáo phận Kon Tum (tỉnh Gia Lai và Kon Tum), Tây Nguyên Việt Nam.

Đức Giám Mục sở tại, Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, lưu ý yêu cầu của ngài bằng cách thúc giục giáo dân ở Kon Tum “tin tưởng vào Thiên Chúa, bất chấp sự mất mát nhà thờ”. Thực vậy, “Chúng tôi tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ trả lại bàn thờ cho chúng tôi”.

Trong suốt Mùa Chay, hơn 30.000 thành viên Giáo Hội đã tham gia vào các cuộc tĩnh tâm, các bí tích và xưng tội do các linh mục giáo phận đảm trách.

Vì cộng đoàn vẫn không có một nhà thờ, nhiều người dân bày tỏ sự liên đới của mình bằng cách chuẩn bị nhà của mình sẵn sàng cho việc đọc Tin Mừng và lần hạt Mân Côi. Như trong quá khứ, Lễ Phục Sinh năm nay sẽ có một số lượng lớn của các tân tòng được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Theo các nguồn tin của giáo phận, khoảng 5.000 người dân địa phương theo đạo Công Giáo kể từ năm 2003.

Mặc dù đói nghèo lan rộng, người Công Giáo ở Kon Tum được tham gia rất nhiều hoạt động xã hội có liên quan, như công tác bác ái, giáo dục trẻ em, chăm sóc cho người bệnh và người già. Các nguồn tài chính cũng được gia tăng để giúp phụ nữ lập nghiệp hoặc tìm việc làm. Tất cả điều này cũng giúp những người ngoài Kitô giáo, kể cả người vô thần và thành viên của các tôn giáo khác.

Tọa lạc ở Tây Nguyên, Giáo Phận Kon Tum có diện tích 25.000 km2. Theo số liệu năm 2003, số người Công Giáo là 261.000 trong số 1,7 triệu cư dân. Đây là khu vực nghèo với nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên, nơi đây thật phong phú trong ơn gọi và trở lại đạo, bằng chứng về sức sống của Giáo hội địa phương.

Lã Thụ Nhân

Posted by: caoduy Apr 9 2012, 07:19 AM





Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh

gởi thư đến Ông chủ tịch nước



Kontum – Ngày 04.04.2012 vừa qua, Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, giám mục Kontum, đã viết thư gởi đến Quý Ông chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội và thủ tướng chính phủ.

Nguyên nhân có bức thư này là do ngày 03.04.2012, Tòa giám mục Kontum nhận được văn thứ số 269/UBND-NC của Ủy ban nhân dân huyện Đăk Hà không cho phép ngài đến dâng lễ Phục Sinh cho nhiều ngàn giáo dân vùng Turia Yôp, xã Đăk Hring. Tại đây ngày 23.02.2012, cha Louis Nguyễn Quang Hoa đã bị đánh trọng thương, sau khi dâng lễ an táng cho một bà cụ người sắc tộc thiểu số trong vùng này.

Đây là một việc làm trái với những gì nhà cầm quyền vẫn cứ rêu rao rằng ở Việt Nam có tự do tôn giáo.

VRNs xin chuyển đến quý vị toàn văn lá thư này.






Posted by: caoduy Apr 9 2012, 08:06 AM





Kontum: Ngang nhiên đặt bảng "kiểm dịch",


CA ngăn cản Đức Giám Mục đi dâng lễ Phục Sinh


Trưởng công an xã Đăk Hring vi phạm tự do tôn giáo

Khoảng 9g30 sáng nay, Chúa Nhật Phục sinh, đại lễ của những người tin vào Chúa Giêsu Kitô, hai Đức Giám mục của giáo phận Kontum là Micae Hoàng Đức Oanh và Phêrô Trần Thanh Chung cùng đi với một số giáo dân vào thăm và dâng lễ tại làng Turia Yôp thuộc xã Đăk Hring, huyện Đăk Hà, Kontum. Tuy nhiên, khi gần đến nơi phái đoàn của hai Giám mục bị chặn lại bởi trưởng công an xã Đăk Hring tên là Phúc. Ông Phúc không cho đoàn vào với lý do đây là khu vực đang kiểm dịch, không ai được vào!

Đây quả là một trò tiểu nhân nhằm tạo cớ ngăn chặn một hoạt động tôn giáo, vì việc làm dối trá này để lộ nhiều điều vô lý. Như vậy, đây là một hành vi vi phạm tự do tôn giáo một cách trắng trợn giữa thanh thiên bạch nhật.

Chúng tôi tự hỏi chính quyền huyện Đăk Hà và xã Đăk Hring có phải là những tổ chức khủng bố trá hình hay không? Tại sao một việc làm vi phạm pháp luật rõ ràng như thế lại được dung túng? Nếu thực sự tồn tại chính quyền ở nơi này thì không thể xảy ra những sự việc như vậy.

Phóng viên VRNs ghi nhận được những hình ảnh sau đây, là bằng chứng tố cáo hành vi vi phạm tự do tôn giáo của công an Phúc, trưởng công an xã Đăk Hring:










Ông Phúc, trưởng công an xã Đăk Hring (đứng giữa hai Đức cha)



Công an xã tự dựng lên bảng “Khu vực kiểm dịch”


Các anh là ai? Làm gì ở đây?





Posted by: caoduy May 3 2012, 06:22 AM





Quyền được... cởi truồng


Có lẽ không ở đâu trên trái đất này thoáng như... Pleiku, có hẳn một quy định hay gì gì đó, yêu cầu người dân không... mặc gì đi ra đường.

Đây là con đường hiện đại nhất ở Pleiku, đường Nguyễn Tất Thành nối từ Ngã sáu Hoa Lư ra ngã ba Phù Đổng. Nó chính là một khúc đường HCM chạy qua thành phố, cờ và các pano treo phấp phới. Trong khi chờ quảng trường hoàn thành thì chiều nào mình cũng quằn quại đi bộ ở đây. Và vì thế mà phát hiện ra là ngay cả đi bộ cũng không phải... mặc gì?


Có cái Pano như thế này:





Cận cảnh phát đọc cho rõ:



Chưa hết, mệnh lệnh này còn được lặp lại ở mặt sau, để bất cứ ai đi từ hướng nào đều có thể thấy và... thực hiện.



Cười xong rồi thì mời thưởng thức hoa nhà tớ để thư giãn nhé, cũng chụp chiều qua, sau khi chụp tấm pano cho phép... cởi truồng kia.

Posted by: caoduy Nov 2 2012, 04:48 PM






Vài điều cần nên biết về trận đánh Pleime-Iadrang



Thời gian .

Chiến dịch Pleime khởi đầu khi các đơn vị thuộc Trung Đoàn 33 BV khai hỏa bắn vào trại Lực Lượng Đặc Biệt Pleime vào lúc 2300 giờ ngày 19 tháng 10 năm 1965 và kết thúc chiều ngày 24 tháng 11 năm 1965 khi các đơn vị của Lữ Đoàn Dù VNCH truy lùng tàn quân Việt Cộng tại thung lũng Iadrang sát biên giới Căm Bốt không còn phát hiện bóng dáng quân lính địch nữa và rút khỏi vùng hành quân. Như vậy là chiến dịch Pleime kéo dài 38 ngày và 38 đêm, hay tính cách khác ra là trên 800 tiếng đồng hồ.

Không gian .


Chiến trường nơi xảy ra các trận đụng độ trong chiến dịch Pleime trải rộng từ quanh tiền đồn Pleime (Pleime cách Pleiku khoàng 40 cây số hướng tây nam) theo trục tuyến đông tây tới quanh vùng Pleithe, sát biên giới Căm Bốt, bắt ngang qua rặng núi Chu Prong và thung lũng Iadrang. Chiều dài từ Pleime đến Pleithe khoảng 35 cây số.


Kế hoạch của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 CSBV .

Cộng Sản Bắc Việt muốn làm chủ vùng Cao Nguyên bằng cách tấn chiếm Pleiku vào cuối năm 1965 hay đầu năm 1966 và giao cho Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 trọng trách thảo kế hoạch. Cuối tháng 8 năm 1965, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 thảo xong kế hoạch với đường nét chính như sau: giai đoạn 1, Trung Đoàn 33 BV tấn công vây hãm trại Pleime để dụ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II xuất phái quân tiếp viện từ Pleiku xuống với hai mục đích, một là đoàn quân một khi xuất trại thì dễ bị tiêu diệt hơn và hai, thành Pleiku bị bỏ ngỏ hay ít ra thì việc bảo vệ thành bị suy yếu đi; giai đoạn 2, Trung Đoàn 32 BV lập ổ phục kích và tiêu diệt đoàn quân tiếp viện; giai đoạn 3, diệt xong quân tiếp viện, Trung Đoàn 32 BV tiếp sức Trung Đoàn 33 BV thanh toán trại Pleime; giai đoạn 4, chiếm cứ xong trại, Trung Đoàn 33 BV và Trung Đoàn 32 BV hiệp lực với Trung Đoàn 66 ra công tấn chiếm thành Pleiku.

Trung Đoàn 32 BV đã có mặt tại vùng Cao Nguyên từ đầu năm 1965, Trung Đoàn 33 BV xuất trại từ Quảng Ninh vào cuối tháng 7 và có mặt tại vùng Cao Nguyên vào cuối tháng 9 năm 1965. Trung Đoàn 66 BV được lệnh lên đường xâm nhập miền Nam vào cuối tháng 8 và dự tính có mặt tại vùng Cao Nguyên vào đầu tháng 11năm 1965.

Kế hoạch do Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 soạn thảo được Bộ Tổng Tham Mưu CSVN phê chuẩn vào đầu tháng 10 năm 1965 và chiến dịch Pleime được dự tính khởi sự vào cuối tháng 11 hay 12 năm 1965. Nhưng rồi sự kiện các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ bắt đầu lũ lượt kéo lên An Khê tăng phái cho Quân Đoàn II vào đầu tháng 10 năm 1965 đã khiến Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 buộc phải phát động chiến dịch Pleime sớm hơn và ra lệnh tấn công trại Pleime ngày 19 tháng 10 năm 1965 mặc dù Trung Đoàn 66 BV chưa tới kịp chiến trường Tây Nguyên.


Kế hoạch phản công của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II VNCH .

Nhờ suy đoán chính xác kế hoạch của phía Việt Cộng, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã phản ứng kịp thời và đúng mức.

Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II phát động cuộc hành quân Dân Thắng 21 để tiếp cứu trại Pleime. Chiến đoàn thiết giáp với sự yểm trợ của phi pháo Mỹ đã chọc thủng ổ phục kích và giải thoát trại Pleime ngày 25 tháng 10 năm 1965, buộc hai Trung Đoàn 32 và 33 BV phải rút lui về hậu cứ tại rặng núi Chu Prong.

Ngay sau khi giải cứu xong trại Pleime, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II phối hợp với Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ huy động cuộc truy kích tàn quân địch tới tận mật khu Chu Prong với hai cuộc hành quân All the Way trong đó các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ làm lực lượng chủ lực và Lữ Đoàn Dù VNCH làm lực lượng trừ bị và hành quân Thần Phong 7 với Lữ Đoàn Dù VNCH làm lực lượng chủ lực và các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ lực lượng trừ bị.

Kết quả của cuộc phản công của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II là toàn thể Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 và tàn quân sống sót của ba Trung Đoàn 32, 33 và 66 BV bị đánh bật qua bên lãnh thổ Căm Bốt.

Các trận đụng độ .


- 21/10/65 - Sau khi được trực thăng vận xuống một vị trí cách trại Pleime 5 cây số hướng đông bắc vào lúc 0930 giờ, trên đường đi bộ tới trại, hai đại đội LLĐB Biệt Cách Dù trạm địch vào lúc 1030 giờ, giết một số không rõ địch quân và tịch thu một bích kích pháo 82 ly, hai đại liên thanh cỡ 50, nhiều súng liên thanh và súng trường.

- 22/10/65 - Hai đại đội Biệt Cách Dù này đụng độ thêm hai lần với địch quân và tịch thu được 4 đại liên và nhiều súng trường trước khi tiến vào trại Pleime.

- 23/10/65 - Vào lúc 1750 giờ, Chiến Đoàn Tiếp Viện lọt vào ổ phục kích trên LTL 5, cách trại Pleime khoảng 20 cây số. Với sự yểm trợ của phi pháo, Chiến Đoàn Tiếp Viện đẩy lui cuộc xung phong của các tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 32 BV. Tiếp sau đó, Chiến Đoàn Tiếp Viện tái phối trí lực lượng đóng trại qua đêm.

- 24/10/65 - Vào lúc 0315 giờ, địch tấn công lại Chiến Đoàn Tiếp Viện, nhưng không chọc thủng được các tuyến phòng thủ. Khi mặt trời ló dạng, Chiến Đoàn Tiếp Viện tung ra các toán tuần tiễu và phát hiện được 125 tử thi Việt Cộng, tịch thu được 75 súng ống cộng đồng và cá nhân và bắt sống được một vài tù binh.

- 25/10/65 - Vào lúc 1300 giờ, Chiến Đoàn Tiếp Viện chuyển bánh tiếp tục tiến tới trại Pleime. Khi tiến được 5 cây số, các thiết vận xa đầu cầu trạm trán với địch. Pháo binh lập tức dập tắt hỏa lực địch. Đến xế chiều Chiến Đoàn Tiếp Viện tiến vào trại Pleime.

- 26/10/65 - Vào lúc 1015 giờ, trong khi Chiến Đoàn Tiếp Viện lục soát quanh trại Pleime thì lọt vào một ổ phục kích của địch. Sau trận đụng độ này, Việt Cộng bỏ lại 140 tử thi, 5 tù binh và trên 20 súng cộng đồng.

- 27/10/65 - Giới thượng cấp quân sự Mỹ chấp thuận đề nghị của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ truy kích tàn quân địch.

- 01/11/65 - Vào lúc 0730 giờ, một toán tiền sát thuộc Lữ Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ phát hiện một tiểu đội Việt Cộng tại 10 cây số hướng tây nam trại Pleime. Lực lượng phản kích hạ sát 20 tên Việt Cộng và bắt sống 10 tên. Một cuộc lục soát tiếp sau đó phát hiện một bệnh xá dã chiến VC trang bị đầy đủ y cụ giải phẩu. Trong khi vận chuyển các chiến cụ, một tiểu đoàn đic̣h tấn kích đơn vị Không Kỵ Mỹ này và cuộc giao tranh đầu tiên giữa Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ và Việt Cộng kéo dài 5 tiếng đồng hồ. Kết quả: giết hại 99 tên, bắt sông 44 tên, tịch thu 40 khẩu súng. Ngoài ra ước tính ít ra 200 tên khác bị chết và bị thương.

- 03/11/65 - Vào lúc 2100 giờ, một đơn vị thuộc Lữ Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ phục kích ngay tại trọng tâm rặng núi Chu Prong-Iadrang Tiểu Đoàn 8 thuộc Trung Đoàn 66 BV vừa mới xâm nhập và sát hại 112 tên đếm được xác với khoảng 200 tên ước tính bị giết hay bị thương và tịch thâu 30 súng ống.

- 06/11/65 - Trong một cuộc đụng độ giữa một đơn vị thuộc Lữ Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ và Tiểu Đoàn 6 thuộc Trung Đoàn 33 BV, địch quân bị chết 77 tên đếm được xác và ước tính khoảng 400 tên khác bị giết và bị thương.

- 14/11/65 - Vào lúc 1200 giờ trưa, Tiểu Đoàn 1/7 thuộc Lữ Đoàn 3 Không Kỵ Mỹ đổ bộ xuống bãi đáp X-Ray truy lùng địch quân tại chân rặng núi Chu Prong và đụng độ với Tiểu Đoàn 9 thuộc Trung Đoàn ̉66 BV. Cuộc giao tranh dữ dằn kéo dài sang ngày 15/11 với phía Mỹ tăng cường thêm quân với Tiểu Đoàn 2/7 và Tiểu Đoàn 2/5. Địch quân tạm gián đoạn cuộc giao tranh vào lúc 1510 giờ.

- 16/11/65 - Địch quân tung ra những đợt xung phong liên tiếp vào lúc 0400 giờ, 0432 giờ, 0500 giờ, và 0627 giờ. Địch quân ngưng chiến vào lúc 0641 giờ.

Cuộc giao tranh tiếp diễn không ngừng trong 48 tiếng từ ngày 14/11 qua ngày 16/11. Việt Cộng hứng chịu 634 chết (đếm được xác), 1215 chết (ước tính), 6 tù binh, 141 súng ống tịch thu, 100 súng ống hủy hoại. Phía Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ Mỹ chịu thiệt hại 79 chết và 125 bị thương.

- 17/11/65 - Trên đường đi tới bãi đáp Albany, Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ Mỹ đụng độ với một tiểu đoàn địch. Địch quân bị chết 403 đếm được xác và ước tính chết thêm 100 tên và bị tịch thâu 112 súng ống.

- 18/11/65 - Địch quân tấn công vị trí pháo binh. Sau khi bị đẩy lui, địch bỏ lại 200 tử thi và 20 súng ống.

Trong khi truy lùng địch tại thung lũng Iadrang sát biên giới Căm Bốt từ ngày 18 đến 24/11/65, Lữ Đoàn Dù VNCH có nhiều trận đụng độ nhỏ với các đơn vị lẻ tẻ địch. Tuy nhiên, Lữ Đoàn Dù VNCH đã phục kích được hai tiểu đoàn đic̣h quân trong hai ngày sau đây:

- 20/11/65 - Tiểu Đoàn 3 Dù dẫn dụ một lực lượng cỡ tiểu đoàn địch lọt vào ổ phục kích do Tiểu Đoàn 6 Dù thiết lập. Trong cuộc đụng độ này, địch bị giết hại khoảng chừng 200 tên.

- 24/11/65 - Vào buổi sáng, một lực lượng cỡ tiểu đoàn địch lọt vào ổ phục kích do Tiểu Đoàn 5 Dù và Tiểu Đoàn 6 Dù thiết lập. Khoàng 65 địch quân bị sát hại và nhiều súng ống bị tịch thâu. Đây là trận đụng độ cuối cùng giữa các lực lượng tham chiến trong chiến dịch Pleime.

Các trận liệt .

- Mặt Trận B3

= Trung Đoàn 32: Tiểu Đoàn 334, Tiểu Đoàn 635, Tiểu Đoàn 966

= Trung Đoàn 33: Tiểu Đoàn 1, Tiểu Đoàn 2, Tiểu Đoàn 3

= Trung Đoàn 66: Tiểu Đoàn 7, Tiểu Đoàn 8, Tiểu Đoàn 9

= Tiểu Đoàn 415 Địa Phương Quân

= 2 Đại Đội Súng Không Giựt 75 ly

= Tiểu Đoàn Súng Phòng Không 14.9 ly

- Quân Đoàn II

= Chiến Đoàn Tiếp Cứu: Thiết Đoàn 3, Tiểu Đoàn 21 BĐQ, Tiểu Đoàn 22 BĐQ, Tiểu Đoàn 1/42 BB, Trung Đội 2/6 Pháo Binh, Trung Đội 105 Công Binh, Task Force Ingram (Tiểu Đoàn 2/12 Cavalry, Tiểu Đoàn 1/19 Cavalry, Pháo Đội B/Tiểu Đoàn 2/17 Pháo binh và đơn vị của Tiểu Đoàn 8 Công Binh), Chiến Đoàn Alpha TQLC

= Lực Lượng Truy Kích: 1st US Air Cavalry Brigade, 3rd US Air Cavalry Brigade (1/7, 2/7, 2/5 Calvary Battalion), Chiến Đoàn 1 Dù (Tiểu Đoàn 3 Dù, Tiểu Đoàn 5 Dù, Tiểu Đoàn 6 Dù), Chiến Đoàn 2 Dù (Tiểu Đoàn 7 Dù, Tiểu Đoàn 8 Dù), Battery C of 2/17th Artillery , 2nd US Air Cavalry Brigade


Thống kê: thiệt hại nhân sự và quân cụ .

Theo Mặt Trận B3 .

Trong bài báo tựa đề "Người Chính Ủy Trong Trận Đầu Thắng Mỹ ở Tây Nguyên" đăng trên Báo Nhân Dân ngày 04-07-2006, Thượng Tướng Đặng Vũ Hiệp, Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận B3, viết

Ðợt 1 chiến dịch thực hành vây điểm diệt viện ta thu được thắng lợi lớn: tiêu diệt chiến đoàn 3 thiết giáp và một tiểu đoàn, một đại đội bộ binh địch, phá hủy, phá hỏng 89 xe quân sự, bắn rơi nhiều máy bay.

(...)

Trận Ia Ðrăng đã kết thúc thắng lợi: khoảng 400 tên của Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 7 và một đại đội của Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 45, Lữ đoàn 3 kỵ binh không vận chỉ còn vài chục tên sống sót chạy về căn cứ.

Sau chiến thắng Plây Me - Ia Ðrăng, do hành quân dài ngày từ miền bắc vào đến nơi là chiến đấu ngay, liên tục và ác liệt, thương vong của ta tương đối cao, mỗi đại đội chỉ còn hơn nửa quân số. Ăn uống kham khổ, thiếu thốn, muỗi rừng hành hạ, gây bệnh sốt rét, có cả sốt ác tính. Trong các bệnh xá trung đoàn, bệnh binh nhiều gấp mấy lần thương binh. Ở hầu hết các đơn vị đều nảy sinh hiện tượng sinh hoạt rời rạc, kỷ luật nội bộ không nghiêm, kỷ luật dân vận sút kém, thậm chí có những hành động xấu.

Theo Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ .

Trong Bản Báo Cáo Sau Trận Đánh của Chiến Dịch Pleime - mà ông gọi là Pleiku Campaign,Thiếu Tướng Harry Kinnard, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ, cung cấp các con số tổn thất như sau:

- Địch: 3.561 chết, 1.178 bị thương, 157 bị bắt.

- Hoa Kỳ: 300 chết, 524 bị thương, 4 mất tích.

- Vũ Khí Tịch Thu: 897 súng cá nhân, 126 súng cộng đồng.

Theo Quân Đoàn II .

Trong Lời Mở Đầu của cuốn "Why Pleime", Thiếu Tướng Vĩnh Lộc, Tư Lệnh Quân Đoàn II, viết:

Qua cuốn sách tôi chỉ muốn lưu ý là trong trận Pleime, 6000 Việt Cộng đã bị loại khử, 3000 vũ khí cá nhân và cộng đồng bị tịch thu hay phá hủy, trong số đó có 169 súng đại liên hạng nặng và 179 lính chính qui Bắc Việt bị bắt làm tù binh.

Sau khi giải tỏa trại Pleime, Ban 3 Tham Mưu/QĐ 2 cung cấp bản báo cáo tổn thất sau đây ngày 27/10/1965:

Tổn thất bạn: Biệt Cách Dù, 15 chết, 20 bị thương. LLĐB, 1 chêt. DSCĐ, 21 chết, 21 bị thương, 6 mất tích. HK, 12 chết, 8 bị thương. Thiết Kỵ 3, 7 chết, 27 bị thương, 4 mất tích. 1/42, 32 chết, 72 bị thương, 2 mất tích. 21 BĐQ, 35 chết, 5 bị thương. 22 BĐQ, 12 bị thương. Pháo Binh: 4 chết, 2 bị thương, 6 mất tích. Công Binh, 1 bị thương. Tổng cộng: 111 chết, 190 bị thương, 18 mất tích. Tổn thất VC: 211 chết, 115 chết do oanh kich, 6 bị bắt, 1 súng không giựt 57 ly, 2 súng lục, 2 bích kích pháo 81 ly, 12 đại liên, 3 trung liên, 9 liên thanh Browning, 37 tiểu liên, 22 súng trường, 8 carbines, 2 M79, 1 B40 chống chiến xa.

Cuối cuộc hành quân Thần Phong 7 do Lữ Đoàn Dù QLVNCH thực hiện, Ban 3 Tham Mưu/QĐ 2 cung cấp bản báo cáo tổn thất sau đây ngày 25/11/1965:

Thời kỳ từ 18 đến 24 tháng 11, tổng kết - 264 VC chết (đếm xác) 12 VC bị bắt. Dù 21 chết, 58 bị thương.


Lời bàn .

Con số 6000 Việt Cộng bị loại khử mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đưa ra - phỏng chừng 2/3 quân số của ba Trung Đoàn 32, 33 và 66 BV Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 sung vào chiến dịch Pleime - phải là chính xác, vì lẽ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã căn cứ vào phân tích tình báo đúc kết ngày 17/11/1965 và đi đến kết luận là địch chỉ còn lại một lực lượng không hơn 3 tiểu đoàn để mà lấy quyết định tung Lữ Đoàn Dù VNCH với 5 tiểu đoàn (3, 5, 6, 7 và 8) ra truy nã nốt - tiếp sau các đơn vị của Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ - lực lượng sống sót này tại vùng thung lũng Iadrang sát biên giới Căm Bốt. Quả thật vậy, trong một tuần lễ thực hiện cuộc hành quân Thần Phong 7, từ 18 đến 24 tháng 11 năm 1965, các đơn vị dù chỉ bắt gặp có 2 tiểu đoàn Việt Cộng, Tiểu Đoàn 334 và Tiểu Đoàn 635 thuộc Trung Đoàn 32 BV. Giả sử con số ước tính đó sai, và địch vẫn còn quân số dồi dào, chắc là 5 tiểu đoàn dù đã bị sơi tái khi nhảy vào hang hùm.

Vai trò của phóng pháo cơ B-52 .

Chiến thuật trải thảm bom bằng phóng pháo cơ B-52 được đưa ra thực hiện trên chiến trường Nam Việt Nam lần đầu tiên tại rặng núi Chu Prong trong chiến dịch Pleime. Sau khi hai Lữ Đoàn 1 và 3 Kỵ Binh Mỹ truy đuổi hai Trung Đoàn 32 và 33 BV từ trại Pleime về đến hậu cần rặng núi Chu Prong và sau khi xác định vị trí đóng quân của ba Trung Đoàn 32, 33 và 66 BV tại chân núi Chu Prong và dọc theo hai ven bờ nam và bắc của sông Iadrang, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ cho Tiểu Đoàn 1/7 Kỵ Binh thuộc Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh Mỹ nhảy xuống bãi đáp X-Ray đánh chận mặt đông nam vị trí đóng quân của Trung Đoàn 66 BV ngày 14/11/1965, đồng thời cho B-52 trải thảm bom tuần tự từ tây sang đông, mỗi ngày 5 lần từ ngày 15 qua ngày 16/11/1965. Qua ngày 17/11, hai tiểu đoàn Kỵ Binh Mỹ đóng tại bãi đáp X-Ray được lệnh rút lui ra khỏi bãi đáp đi lên theo hướng bắc để B-52 thả bom luôn bãi đáp X-Ray.

Khi thuật lại cuộc hành quân Thần Phong 7, Tướng Vĩnh Lộc viết:

Trong năm ngày liên tiếp, từ 15 đến 19 tháng 11, các phóng pháo cơ B52 đã bay tổng cộng 96 phi vụ. Từng khu vực một, các khu vực của rặng núi Chu Prông - mỗi khu 20 dậm vuông - tuần tự trải qua một cơn động đất từ Tây sang Đông. Các công sự và hầm hố trước nay từng chống cản các vụ đánh phá của phi cơ tác chiến và pháo binh bắt đầu bị các trái bom 750 cân anh trực tiếp đánh rập. Lớp cây lá rừng rậm không còn hữu hiệu cho công việc ẩn núp lẫn bao che. "Cửa hậu" vào Căm Bốt bị đóng lại và để trốn thoát, tàn quân Việt Cộng chỉ còn lại thung lũng eo hẹp của Ia Drang.

Trong số 6000 lính Việt Cộng bị giết, khoảng 2000 bị chết bởi bom B-52.

Các danh xưng khác của chiến dịch Pleime .

Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 .

Chiến dịch Plâyme là danh xưng nguyên thủy của Mặt Trận B3. Sau này, giới quân sự Bắc Việt đặt thêm tên chiến dịch Plâyme-Iadrang, với dụng ý che lấp sự kiện bị Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ bất thần nhảy vào tấn công hậu cần tại thung lũng Iadrang và rêu rao là đánh ngụy tại trại Pleime ngày 19 tháng 10, để dụ và phục kích quân Mỹ nhảy vào tiếp cứu tại thung lũng Iadrang - cách trại Pleime hơn 30 cây số - ngày 14 tháng 11 năm 1965!

Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ .

Thay vì khiêm nhượng chấp nhận vai trò thứ yếu là tăng phái cho Quân Đoàn II và nằm dưới quyền điều khiển của Quân Đoàn II trong chiến dịch Pleime, Sư Đoàn 1Kỵ Binh Mỹ chọn lựa thay đổi tên của chiến dịch thành chiến dịch Pleiku hay chiến dịch Pleiku-Iadrang trong đó hoặc liệt vai trò của QLVNCH vào hàng thứ yếu hoặc ngay cả cho trận chiến Pleime là nơi tao ngộ giữa duy hai lực lượng vĩ đại Việt Cộng và Hoa Kỳ mà tuyệt nhiên không có mảy may sự hiện diện của một đơn vị tác chiến thuộc QLVNCH.

Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II .

Trên thực tế, chiến dịch Pleime là cuộc phản công của Quân Đoàn II đã bẻ gẫy chiến dịch Plâyme của Mặt Trận B3 với ba trận đánh: một, tại trại Pleime (Thiết Đoàn 3 VNCH) ; hai, tại chân rặng núi Chu Prông (Lữ Đoàn 3 Không Kỵ HK); và ba, tại thung lũng Iadrang (Lữ Đoàn Dù VNCH).

Phía Việt Cộng và Phía Mỹ chỉ chú tâm vào trận tại chân rặng núi Chu Prông - mà cả hai gọi là trận Iadrang (đáng lẽ ra phải gọi là trận Chu Prông và dành tên này cho trận đánh do Lữ Đoàn Dù VNCH thực hiện) - và hoặc coi nhẹ hay làm lơ hai trận đánh do QLVNCH đóng vai chủ chốt tại trại Pleime và tại thung lũng Iadrang.



Nguyễn Văn Tín .
Ngày 12 tháng 11 năm 2009 .

Posted by: caoduy Nov 2 2012, 04:54 PM






Nhật Ký Trận Pleime Đại Tá Hiếu,

Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II



Ngày 19 tháng 10 năm 1965

- 2300 giờ, Đại Úy Moore, chỉ huy trưởng trại Pleime, báo cáo về cho Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II là một đơn vị Bắc Quân khai hỏa vào trại với khí giới nhẹ, bích kích pháo và súng không giựt.

Ngày 20 tháng 10 năm 1965

- Quân địch phát động một loạt xung phong. Trại chống trả mãnh liệt. Suốt đêm, địch đã liên tiếp thất bại chọc thủng qua các vị trí phòng thủ.

- Gọi Tướng Vĩnh Lộc, tại Bộ Chỉ Huy tác chiến ở Bình Định, đang chỉ huy cuộc hành quân Thần Phong 6, khuyến cáo là coi bộ các sinh hoạt VC tại Bình Định chỉ là thế nghi binh và Pleime mới là điểm tấn công chính. Việt Cộng đang áp dụng chiến thuật "nhất điểm lưỡng diện".

Tướng Vĩnh Lộc nói là sẽ trở về Pleiku càng sớm càng tốt, ngay sau khi thực hiện xong cuộc trực thăng vận quân lính vào các điểm tập trung của địch tại vùng phía nam Quận Hoài Ân.

- Sáng sớm hôm nay, địch quân phát động một cuộc xung phong mãnh liệt. Kêu gọi oanh kích đẩy lui được cuộc tấn công.

- Các phi vụ tiếp vận và tải thương vẫn gặp trở ngại bởi hỏa lực phòng không địch.

- Tuy bị tổn thất nặng Việt Cộng vẫn bám sát quanh trại, và coi bộ không chỉ là một tiểu đoàn, mà lực lượng của chúng cỡ trung đoàn.

- Ngoài vấn đề địch quân đông gấp bội, trại còn gặp khó khăn về mặt tiếp tế lương thực bằng đường hàng không và công cuộc di tản thương binh bị các cuộc pháo kích vào phi đạo và bãi trực thăng không ngừng cản trở.

- Tướng Vĩnh Lộc có mặt tại Pleiku vào buổi chiều.

- Coi bộ lần này địch quân không vội vàng như trước với những cuộc tấn công chớp nhoáng rồi tháo lui. Hình như chúng tìm cách buộc các lực lượng của chúng ta đến giải cứu và chúng có hai mục tiêu, trước là nhắm vào đoàn quân tiếp cứu, thứ đến là trại. Điều này sẽ hiến cho chúng một con mồi to lớn hơn và có nhiều cơ may thành công hơn nhờ vào tập trung được một lực lượng to lớn hơn.

- Phía mình lấy quyết định chấp nhận trò chơi của địch. Vì lẽ chúng dự tính loại dần các lực lượng của ta, kế hoạch điều quân phải xử dụng tối đa đến yếu tố thời gian và đồng thời khai thác yếu điểm của địch quân trong thế điều quân của chúng.

- Qui tụ một Chiến Đoàn Đặc Nhiệm (CĐĐN) bộ binh thiết giáp tiếp cứu bao gồm: Ban Chỉ Huy Trung Đoàn Thiết Kỵ, một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân, một Đại Đội Thiết Vận Xa M-113, một Đại Đội Xe Tăng M-41, một đơn vị Pháo Binh và một Trung Đội Công Binh.

- 1800 giờ, CĐĐN tụ họp tại vùng tập trung và đóng trại qua đêm.

- Tướng Vĩnh Lộc chỉ định Trung Tá Nguyễn Trọng Luật Chỉ Huy Trưởng CĐĐN.

- Trong đêm thứ hai, trại Pleime chỉ bị bích kích pháo địch quấy phá và không xảy ra một cuộc tấn công nào.

Ngày 21 tháng 10 năm 1965

- 0800 giờ, ra lệnh cho CĐĐN của Trung Tá Luật di chuyển dọc theo trục lộ Phù Mỹ-Pleime, nhưng chỉ thực hiện những cuộc tuần tiễu mạnh dạn nội trong đường bán kính 10 cây số.

- Xuất phái các đội toán trinh sát Lực Lượng Đặc Biệt Dù với trọng trách phát giác các ổ phục kích của địch dọc theo lộ trình dẫn đến trại Pleime.

- Chuẩn bị sắp xếp bốc các toán quân tăng phái bằng trực thăng cho CĐĐN của Trung Tá Luật từ Kontum và Bình Định đưa đến Pleiku, để thực hiện ngay sau khi điều kiện khí tượng cho phép trực thăng cất cánh.

- 0930 giờ, cho trực thăng vận hai đại đội của Toán 91 LLĐBD tới địa điểm cách trại Pleime 5 cây số hướng đông bắc (1) để xác định cách sắp xếp vị trí quân địch quanh trại và (2) để tăng cường trại đã phải chiến đấu không ngừng trong suốt 36 tiếng đồng hồ chống cự một lực lượng địch đông gấp 5 lần. Hy vọng địch nghĩ nhầm là toán quân LLĐBD này sẽ kết nối với CĐĐN vào ngay buổi chiều hôm nay.

- Các toán trinh sát báo cáo là không tìm thấy một ổ phục kích nào dọc theo lộ trình dẫn tới Pleime. Điều này có nghĩa là địch đã loại khử thế phục kích tĩnh động và áp dụng thế phục kích di động. Làm như vậy, địch nhắm (1) duy trì kín đáo, (2) tránh thiệt hại gây nên bởi các tiền hỏa tập pháo binh và không quân của ta vào các vị trí phục kích, (3) có được thế uyển chuyển đáp ứng mọi trường hợp có thể xảy ra. Ngoài ra, phương tiện truyền tin của chúng đã tiến bộ đến mức độ chúng dùng tới thế phục kích di động. Quả là địch đã học được bài học của trận Đức Cơ (tháng 8 năm 1965), khi chúng hứng chịu tổn thất nặng nề tại các ổ phục kích tĩnh động.

- Các toán trinh sát báo cáo là các toán địch quân thuộc Trung Đoàn 32 BV đã dời các khu tập trung quân gần Chu Prong và đang trên đường di chuyển đến địa điểm phục kích trên Tỉnh Lộ 5. Điều này có nghĩa là Bộ Tư Lệnh Dã Chiến Việt Cộng xác tín là phần 1 của kế hoạch - phục kích đoàn tiếp cứu - sắp xảy ra.

- 1030 giờ, trên đường tiến tới trại sau khi đổ bộ, Tiểu Đoàn 91 LLĐBD đụng độ địch giết và gây thương tích cho một số không rõ Việt Cộng và tịch thu một bích kích pháo 82 ly, hai súng liên thanh 50 ly, nhiều súng cộng đồng và súng trường nhãn hiệu Nga Sô. Cuộc đụng độ này chứng tỏ là quanh trại, địch đã phân tán quân nhằm tránh trở nên các mục tiêu oanh kích của ta và cũng nhằm phục kích các lực lượng tiếp cứu khi được trực thăng vận đến vùng quanh trại.

- Coi bộ Việt Cộng khám phá ra là các sinh hoạt của các toán quân ta tới giờ chỉ nhằm dụ dẫm chúng chờ tấn công các lực lượng tiếp cứu; nếu chúng hấp tấp phá hủy trại, cơ hội nhẫn nại trông mong trước giờ sẽ không xảy ra.

- Điều này giải thích tại sao đêm nay áp lực của địch quanh trại gia tăng. Trại bị quấy nhiễu bắn phá suốt đêm nhưng không xảy ra một cuộc xung phong nào. Hành động như vậy, địch bắn tiếng là ngoại trừ lực lượng giải cứu được phái tới, các toán quân địch sẽ ở nán lại và xiết chặt vòng vây lại.

- Như vậy là Bộ Tư Lệnh Dã Chiến Việt Cộng đã lấy quyết định xử dụng tới Trung Đoàn 33 ít kinh nghiệm chiến đấu hơn (vừa mới đặt chân tới Cao Nguyên một vài tháng trước) để tấn công trại Pleime và xử dụng Trung Đoàn 32 dồi dào kinh nghiệm chiến đấu để phục kích đoàn quân tiếp cứu. Trung đoàn này xâm nhập vào Nam Việt Nam từ tháng Giêng; đã gây công trạng với các cuộc tấn công và phục kích cấp tiểu đoàn và trung đoàn, thực hiện tại các tỉnh Kontum và Pleiku, tỉ như Plei Kleng (tháng 3 năm 65), Lệ Thanh (tháng 6 năm65) và Đức Cơ (tháng 8 năm 65).

- Coi bộ kế hoạch của Việt Cộng gồm ba giai đoạn: (1) Trung Đoàn 33 bao quanh Pleime và quấy nhiễu quân trú phòng, tạo đủ áp lực để buộc QĐ II phái lực lượng phản ứng; (2) Trung Đoàn 32 phục kích và triệt hủy đoàn quân tiếp cứu; (3) Cả hai trung đoàn hợp lực tràn ngập và phá hủy trại Pleime.

- Phía ta đương đầu với một toán đối thủ có hạng: Tướng VC Chu Huy Mân, Tư Lệnh Quân Khu IV và hai phụ tá chính, Đại Tá Quân, Phụ Tá Tư Lệnh, và Đại Tá Hà Vi Tùng, Tham Mưu Trưởng. Trong cuộc chiến Đông Dương, Tùng chỉ huy Trung Đoàn 803, kết cấu cùng với Trung Đoàn 108 thành lực lượng chính của Việt Minh trên Cao Nguyên. Thành tích của hai trung đoàn này là chiếm cứ Kontum và đánh bại Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 100 Pháp trên Quốc Lộ 19.

Ngày 22 tháng 10 năm 1965

- CĐĐN của Trung Tá Luật tiếp tục tuần tiễu trên lộ trình cũ.

- Tiểu Đoàn 91 LLĐBD tiếp tục tiến tới trại Pleime. Tiểu đoàn đụng độ thêm hai lần với địch và tịch thu 4 đại liên và nhiều súng ống.

- Vào buổi chiều, với trợ lực của không yểm, tiểu đoàn rốt cùng tới đích tăng cường cho trại Pleime.

- Sự tăng cường này khiến doanh trại an tâm phần nào. Nhưng chính vào lúc này lại gặp thêm khó khăn. Trong suốt bốn ngày liền, hỏa lực dày đặc của Việt Cộng đã ngăn cản trại tiếp tế nước uống tại khe suối gần trại.

- 0510 giờ, cột ăng ten của đài ra điô chính bị hỏa lực địch đốn hạ.

- Bằng cách trì hoãn các thế điều quân, Bộ Tư Lệnh QĐ II đã thâu góp thêm được thông tin về địch và có được thêm thời gian. Ngoài CĐĐN của Trung Tá Luật, chỉ còn lại một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân đóng tại Pleiku. Ngay cả trong trường hợp Bộ Tư Lệnh QĐII quyết định dùng tới đơn vị cuối cùng này, cũng không tìm ra trực thăng vì Tiểu Đoàn 119 Trực Thăng Mỹ vẫn bận với cuộc hành quân Thần Phong 6. Mặt khác, thời tiết sương mù tại Đèo Măng và An Khê không cho phép máy bay hoạt động.

Ngày 23 tháng 10 năm 1965

- Sáng sớm, các toán trinh sát LLĐBD báo cáo các toán quân thuộc Trung Đoàn 32 đã tới địa điểm phục kích. Lấy ngay quyết định thôi thúc đoàn quân tiếp cứu đánh thốc tới trại Pleime không một chút chần chờ và với bất cứ giá nào.

- 1000 giờ, Tiểu Đoàn 1/42 của ta được trực thăng vận từ Kontum đến Pleiku, rồi được quân xa vận chuyển đến tăng phái cho CĐĐN của Trung Tá Luật.

- 1100 giờ, ra lệnh cho Tiểu Đoàn 22 Biệt Động Quân - đơn vị sau cùng ở lại Pleiku - sẵn sàng được trực thăng vận vào lúc 1400 giờ.

- Lực lượng của các toán quân kể trên, gồm cả CĐĐN khoảng chừng một ngàn người, còn ít ỏi hơn lực lượng địch cỡ trung đoàn mai phục sẵn tại các vị trí phục kích.

- Với đơn vị cuối cùng bổ sung cho CĐĐN của Trung Tá Luật, thành phố Pleiku bị bỏ ngỏ. Đế phòng mọi bất chắc, gọi cho Thiếu Tướng Stanley R. Larsen, tại Bộ Tư Lệnh US Task Force Alpha ở Nha Trang, yêu cầu gửi quân Mỹ tạm thời phụ trách an ninh cho phi trường Pleiku và thành phố Pleiku.

- 1300 giờ, Task Force Ingram gồm một tiểu đoàn bộ binh và một pháo đội thuộc 1st Air Cavalry Division đến đúng theo thời khóa biểu ấn định.

- 1400 giờ, Tiểu Đoàn 22 Biệt Động Quân được trực thăng vận tới bãi đáp tại phía tây của Tỉnh Lộ 5, cách Pleime 10 cây sộ với nhiệm vụ: (1) càn quét về hướng đông và ép đẩy địch về hướng Tỉnh Lộ 5; (2) ngăn chận và triệt hủy địch quân bị kẹt giữa tiểu đoàn và CĐĐN.

- 1400 giờ, CĐĐN của Trung Tá Luật chuyển bánh ra khỏi Phù Mỹ và tấn công dọc theo trục Tỉnh Lộ 5 để giải cứu trại Pleime.

- 1700 giờ, ra lệnh cho CĐĐN của Trung Tá Luật ngưng lại giữa đoạn đường trong khi các cuộc oanh kích dự tính trước thực hiện các phi vụ trên đầu các vị trí nghi quân địch tập trung.

- 1750 giờ, Trung Tá Luật báo cáo là đang khi tiến hành leo lên một đoạn đường giốc và hẹp với cây cối rậm rạp hai bên đường, CĐĐN thình lình đối đầu với hỏa lực mạnh tới từ phía nam và đông; đồng thời, phía hậu của đoàn quân tiếp cứu gồm các quân xa chiến đấu cũng báo cáo là bị hỏa lực địch xung phong uy hiếp.

- Địch hoàn toàn chiếm phần lợi thế về mặt địa hình và hỏa lực mạnh của chúng được phân phối cẩn thận. Nhưng quân ta phản ứng nhanh chóng với hỏa lực từ các họng súng máy đại liên từ các xe tăng và thiết vận xa.

- Không Quân lập tức được gọi đến can thiệp và kịp thời ngăn chận các đợt xung phong liên tiếp của địch quân.

- Súng bắn lẻ tẻ kéo dài tới khi trời sập tối trên chiến trường.

- CĐĐN tái tổ chức cấp tốc các vị trí của mình vì địch có thể tấn công tiếp ban đêm.

- 0315 giờ, địch tấn công đúng theo dự đoán, nhưng chúng không thành công chọc thủng các tuyến phòng của quân ta.

- Kêu gọi Không Quân can thiệp, và một lần nữa biểu dương hỏa lực hữu hiệu và chính xác.

Ngày 24 tháng 10 năm 1965

- Vào buổi sáng, trong khi công việc tái tiếp tế và tản thương đang tiến hành, các cuộc tuần tiễu được CĐĐN thực hiện quanh chiến trường và tìm thấy: 120 xác VC chết, 75 súng cộng đồng và cá nhân, với một số tù binh.

- Task Force Ingram được tăng phái thêm một pháo đội và di chuyển từ phi trường Pleiku tới vị trí tại 10 cây số cách Phù Mỷ ngõ hầu cung ứng hỏa lực pháo binh yểm trợ cho CĐĐN của Trung Tá Luật khi cần thiết.

- 2400 giờ,1st Brigade of 1st US Air Cavalry Division di chuyển tới phi trường Pleiku.

- Việt Cộng thất bại trong việc thực hiện phần một của kế hoạch và cũng tiêu tùng trong nỗ lực phá hủy trại Pleime. Trung Đoàn 32 được lệnh triệt thoái thay vì hợp lực với Trung Đoàn 33 đang bao quanh trại.

- Trong ngày, tình hình yên lặng hoàn toàn.

- 0150 giờ, trại chỉ hứng chịu một ít đạn bích kích pháo của địch.

Ngày 25 tháng 10 năm 1965

- 1300 giờ, CĐĐN của Trung Tá Luật lại chuyển bánh tiến tới trại Pleime.

- Tiến được 5 cây số, các thiết vận xa tiền phong của đoàn quân tiếp cứu gặp phải hỏa lực của địch. Hỏa pháo của Task Force Ingram liền dập tắt hỏa lực địch.

-1700 giờ, CĐĐN của Trung Tá Luật tới trại Pleime.

Ngày 26 tháng 10 năm 1965

- Sáng sớm, một cuộc càn quét được lập tức thực hiện quanh trại.

- 1015 giờ, trong khi CĐĐN dàn ra phía nam trại, một hỏa lực địch mãnh liệt bộc phát. Vì sợ bị các xe tăng và thiết vận xa lăn bánh trên đầu, Việt Cộng cố gắng phỗng tay trên bằng cách phát động một cuộc phục kích nhưng khốn thay, chúng ở trong một vị thế quá bất lợi, che dấu nhưng không chống đỡ trước hỏa lực dồi dào của hỏa tập từ thiết vận xa, pháo binh và Không Quân. Khi cuộc chạm súng chấm dứt, trên 140 Việt Cộng phơi thây tại chiến trường, 5 bị bắt và ít nhất 100 Việt Cộng bị thương, cùng với 20 súng cộng đồng bị tịch thu.

- Một buổi họp quan trọng được triệu tập tại Trung Tâm Hành Quân QĐ II với sự hiện diện của các cố vấn Mỹ và các chỉ huy trưởng đơn vị.

- Phát biểu bài thuyết trình sau đây: "Các đơn vị địch đã rút lui về phía tây tới biên giới Căm Bốt. Đây là cơ hội đào thoát duy nhất vì ngoài lợi thế về địa hình, hậu cứ Chu Prông và mật khu Căm Bốt cung cấp không những nơi trú ngụ mà còn thêm tiếp liệu và bổ sung quân số mà hai Trung Đoàn 32 và 33 đang thiếu hụt. Lần đầu tiên từ khi cuộc chiến khởi phát trên bán đảo Đông Dương, các lực lượng của ta có cơ hội đi tới kết luận như thế này. Trong suốt các cuộc gây hấn từ năm 1948, địch luôn có thể rời bỏ chiến trường và rút lui an toàn, thôi giao tranh tùy ý mình. Do đó lực lượng của ta không nên bỏ lỡ cơ may này: phải đuổi theo hai Trung Đoàn Bắc Quân vì nếu không, mối nguy hiểm sẽ vẫn còn đó và địch có thì giờ tái tổ chức các đơn vị của chúng. Ngoài ra, quyết định trên lần này khả thi được vì có sẵn các lực lượng trừ bị, với sự hiện diện của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ đóng tại An Khê, một đơn vị có khả năng di động cực cao trên toàn thế giới và đồng thời có những quân cụ và vũ khí hiện đại nhất."

- Quyết định của Bộ Tư Lệnh QĐ II khai thác các kết quả của đợt một và truy đuổi địch quân được giới hữu trách quân sự Mỹ biểu đồng tình và đôi bên thỏa thuận thiết lập một sự cộng tác chặt chẽ trong các sinh hoạt hành quân. 1st US Air Cavalry Division là nỗ lực chính với hành quân Long Reach và Lữ Đoàn Dù VN đóng vai trò trừ bị, sẵn sàng xung trận theo lệnh của Quân Đoàn II.

- Bộ Tư Lệnh Mỹ đồng ý theo phương thức sau: liên hợp tình báo và yểm trợ, chia xẻ khái niệm hành quân và kết quả, vùng hành quân riêng rẽ, chỉ huy riêng rẽ, điều quân riêng rẽ, thực hiện các sinh hoạt riêng rẽ, và trừ bị riêng rẽ.

Ngày 27 tháng 10 năm 1965

- Công cuộc càn quét kéo dài đến trưa.

- Về phía nam trại, quanh đồi chứ danh Chu Hô, khám phá thêm xác chết và súng ống địch. Một số xạ thủ Việt Cộng bị xiềng vào các súng đại liên của chúng.

- Các phi đội Eagle Flights thuộc Air Cavalry Division xung trận. Từ hừng đông đến chập tối, các phi đội này không ngừng bay trên vùng lùng kiếm địch quân. Mọi nơi nghi ngờ có sự hiện diện của địch đều được chu đáo kiểm tra và ứng xử, hoặc với các cuộc oanh kích hoặc với chính hỏa lực của phi đội, để đánh tan và phá vỡ ra từng mảnh nhỏ và như vậy không cho phép địch quân lẩn trốn.

Ngày 28 tháng 10 năm 1965

- Đem Chiến Đoàn Thủy Quân Lục Chiến tới bằng không vận từ Ban Mê Thuật để giữ an ninh trên Tỉnh Lộ 5 cho việc triệt thoái của CĐĐN.

- Ra lệnh cho Trung Tá Luật đưa CĐĐN ra khỏi trại Pleime và trở về Pleiku, vì không còn ghi nhận được bóng dáng địch quân quanh trại sau công cuộc càn quét.

- Trên đường tháo lui, CĐĐN của Trung Tá Luật không gặp một đối kháng nào ngoài 6 mìn chống chiến xa được tháo gỡ.

- Thế là hành quân Dân Thắng 21 chấm dứt với 400 thương vong phía địch quân.

Ngày 29 tháng 10 năm 1965

- Thu xếp để cho các toán LLĐBD VN tháp tùng các toán Eagle Flights để trợ lực các quân lính mới tới của US 1st Air Cavalry.

- Rất nhiều tàn quân Việt Cộng bị bắt qua chiến thuật của Eagle Flights.

- Khảo cung Trung Sĩ Việt Cộng Nguyễn Xuân Tiến.

Ngày 30 tháng 10 năm 1965

- Khảo cung sơ khởi ba quân lính Việt Cộng qui hàng.

- Chúng cho biết là ngay từ 19 tháng 9 - một tháng trước cuộc tấn công - một cuộc chuẩn bị kỹ lưỡng xuống đến hạ tầng thấp nhất được phát động. Nhiều cuộc tập dượt được mọi đơn vị thực hiện trên bản đồ và trên các mặt bàn với đồn hình cát. Đồng thời, các đội toán vận tải với sự trợ lực của các lao công địa phương tới tấp chuyển vận gạo và đạn dược đến trước.

Ngày 31 tháng 10 năm 1965

- Thẩm vấn sơ khởi Hoàng Văn Chung, ĐĐ 8, TĐ 966, Trung Đoàn 32.

- Tài liệu tịch thu: Tiêu lệnh tác chiến phục kích bởi Trung Đoàn 32, gửi cho Đinh Khẩn, trung đoàn trưởng, soạn tại bộ chỉ huy trung đoàn/Plei Luc Chin, ký tên Tham Mưu Trưởng (Hà Vi Tùng) lúc 15 giờ, ngày 12 tháng 10 năm 1965, Pleiku, Plei The (YA 815 008) với bản đồ, tỷ lệ 1/1000000 soạn năm 1962.

- Tài liệu cho thấy Bộ Tư Lệnh Dã Chiến Việt Cộng dự tính là "sau đợt tấn công đầu tiên và Pleime, phía QLVNCH sẽ phải gửi một đoàn tiếp cứu. Đoàn tiếp cứu này phỏng đoán sẽ bao gồm mốt toán lính tác chiến và một toán thiết giáp tác chiến đến từ Biệt Khu Chiến Thuật 24. Chắc cũng sẽ có một hay hai tiểu đoàn lính Mỹ làm trừ bị."

- Điều Bộ Tư Lệnh Dã Chiến Việt Cộng không thấy trước được là sự tăng phái của US Ingram Task Force, đặc biệt là tiểu đoàn pháo binh đem từ Phù Mỹ tới gần vùng ổ phục kích. Hỏa lực của pháo binh này đã dập tắt hỏa lực của địch tại nơi phục kích gồm các đại liên, súng không giựt 57 ly và các súng phóng hỏa tiễn (B.40) cùng các đại liên phòng không.

Ngày 1 tháng 11 năm 1965

- Bộ Tư Lệnh 1st US Air Cavalry Division báo cáo là vào lúc 0730 giờ, khoảng một trung đội Việt Cộng xuất hiện tại 10 cây số tây nam trại Pleime. Một lực lượng phản ứng tức khắc được 1st Brigade thuộc 1st Air Cavalry Division tung ra. Chỉ vài phút sau, 20 Việt Cộng bị giết và bắt sống 19 tên. Các toán lính Mỹ tiếp tục lục lọi và thình lình khám phá một bệnh xá dã chiến Việt Cộng đầy đủ trang bị thuốc men và y cụ giải phẩu chế tạo bởi các nước Cộng Sản.

- Trong khi các chiến lợi phẩm được chuyển vận đi bằng trực thăng, một lực lượng địch cỡ tiểu đoàn âm thầm tiến tới các toán quân bạn và tìm cách bao vây các vị trí của họ. Cuộc đụng độ đầu tiên giữa các đơn vị của 1st US Air Cavalry Division và Việt Cộng xảy ra. Cuộc đụng độ này kéo dài 5 tiếng đồng hồ cho đến trời tối. Khi tháo lui, địch đã bị 'First Team' đánh cho một đòn chí tử: 99 Việt Cộng bị giết (đếm được xác), 44 lính chính qui Việt Cộng khác bị bắt sống cùng với 20 khí giới. Nhưng có ít nhất 200 Việt Cộng hoặc bị chết hay bị thương.

- Việc phát giác trại cứu thương này cũng cống hiến nhiều tài liệu, đặc biệt là một bản đồ cho biết các đường tiếp tế và di chuyển quân của địch. Các dữ kiện này đã được biến cải thành những thông tin tình báo đưa tới gặt hái thêm nhiều thành quả.

- Khảo cung 13 lính Việt Cộng bắt được tại trạm xá cấp trung đoàn.

Ngày 2 tháng 11 năm 1965

- Thẩm vấn sơ khởi Trần Ngọc Lưỡng, thuộc Đại Đội C-18, Trung Đoàn 101.

Ngày 3 tháng 11 năm 1965

-Thẩm vấn sơ khởi Trung Sĩ Nhất Cao Xuân Hải, thuộc TĐ 2, Trung Đoàn 324.

- 2100 giờ, một cuộc phục kích táo bạo ngay trong lòng khu Chu Prong-Ia Drang gây tổn thất nặng cho Tiểu Đoàn 8 mới xâm nhập thuộc Trung Đoàn 66: 112 chết (đếm được xác), khoảng hơn 200 tên khác bị chết hay bị thương, tịch thu 30 khí giới.

Ngày 4 tháng 11 năm 1965

- Khám phá được một hầm chôn vũ khí lớn tại 5 cây số phía tây trại Pleime, gần xông Ia Meur.

Ngày 6 tháng 11 năm 1965

- Tiểu Đoàn 5 thuộc Trung Đoàn 33 bị tiêu diệt gần hết sau cuộc giao tranh xảy ra tại phía bắc sông Ia Meur: 77 chết (đếm được xác), gần 400 tên khác phỏng chừng chết hay bị thương.

Ngày 7 tháng 11 năm 1965

- Tới giờ phút này, 1st Brigade thuộc 1st US Air Cavalry Division trong cuộc hành quân 'All The Way' trải rộng một vùng khoảng 2500 cây số vuông đã giáng một cú thoi sơn vào đầu các đơn vị Việt Cộng trên đường rút lui, nhưng trong các cuộc đụng độ, vẫn không thấy vết tích liên quan đến Trung Đoàn 32. Tuy số thương vong Việt Cộng lên tới 1500 quân lính, gồm cả số thương vong trong đợt đầu, thêm một trung đoàn - Trung Đoàn 66 - đã được bổ sung vào trận địa.

- Phỏng chừng các đơn vị của Trung Đoàn 32 đã chuồn mất về hướng đông.

- Thẩm vấn Hoàng Thế U, thuộc TĐ 8 Trung Đoàn 66.

- Thẩm vấn Trung Sĩ Phạm Sâm, thuộc Đại Đội Truyền Tin, Trung Đoàn 101B.

Ngày 8 tháng 11 năm 1965

- Đề nghị khái niệm chuyển hướng hành quân đi ngược hướng rặng núi Chu Prong để đánh lừa Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3. Sáng kiến này được chuyển đạt tới Tướng Kinnard qua ngã Tướng Larsen, Tư Lệnh I Field Force VN.

Ngày 9 tháng 11 năm 1965

- 1st US Air Cavalry bắt đầu di chuyển quân từ phía tây sang phía đông (đi xa khỏi rặng núi Chu Prong ).

- Đây là thế nghi binh nhằm khiến địch tưởng là các lực lượng phe ta đã đánh mất dấu vết các đơn vị địch, nhưng kỳ thật ra - chúng ta biết được qua các cuộc thẩm vấn tù binh và báo cáo nguồn tin tình báo - địch tập trung trong vùng Chu Prong-Ia Drang: (1) ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 66 trải dài dọc theo bờ phía bắc sông Ia Drang; (2) Trung Đoàn 32 cũng đóng quân phía bắc trong cùng chung vùng với Trung Đoàn 66; và (3) Trung Đoàn 33 đóng chốt tại các vị trí gần bên làng Anta (danh xưng của Việt Cộng), phía đông dãy núi Chu Prong.

Ngày 10 tháng 11 năm 1965

- US 3rd Brigade thay thế US 1st Brigade.

- Hành quân All the Way chấm dứt, hành quân Silver Bayonet khởi sự.

Ngày 11 tháng 11 năm 1965

- Đọc báo cáo các thẩm vấn tù binh và hàng binh Việt Cộng cho thấy Bộ Tư Lệnh Dã Chiến Việt Cộng đã lấy quyết định "tấn công đợt hai Pleime". Ngày tấn công được ấn định là ngày 16 tháng 11. Tất cả ba trung đoàn sẽ được xung vào lần này cùng với đơn vị bích kích pháo 120 ly và một tiểu đoàn súng phòng không 14.5 ly hai nòng, cả hai đơn vị này đang trên đường xâm nhập và dự tính sẽ tới kịp cho cuộc tấn công. Theo lời tuyên bố của viên sĩ quan ủy viên chính trí qui hàng, kế hoạch của cuộc tấn công mới sẽ chính yếu là triệt hủy trại Pleime.

- Đích thân gặp Tướng Kinnard tại doanh trại An Khê để thảo luận về ngày N tấn công của địch quân và phác họa kế hoạch cùng với Bộ Tư Lệnh 1st US Air Cavalry nhằm đánh phủ đầu địch quân ngay trong lòng địch trước ngày N (16/11).

- Hàng binh Việt Cộng Thiếu Úy Bùi Văn Cường, sĩ quan ủy viên chính trị, đại đội truyền tin, Trung Đoàn 33 ước tính là Trung Đoàn 33 của đương sự đã mất 40 phần trăm lực lượng khởi thủy 2200 quân, với một mất mát 60 phần trăm trong số 150 quân và 13 súng phòng không trong đại đội súng phòng không. Con số này đặc biệt quan trọng đối với Bộ Tư Lệnh 1st US Air Cavalry vì đại đơn vị này thi hành trực thăng chiến.

Ngày 12 tháng 11 năm 1965

- US 3rd Air Cavalry Brigade tiếp tục dùng thế nghi binh bằng cách hành quân từ phía tây chuyển qua phía đông, đi xa khỏi rặng núi Chu Prong và tiến tới gần trại Pleime.

Ngày 13 tháng 11 năm 1965

- Báo cáo tình báo từ các toán LLĐBD VN cho biết là các quân lính Việt Cộng tại vùng Chu Prong-Ia Drang có vể nhởn nhơ trong khi chuẩn bị cho cuộc tấn công đợt hai vào trại Pleime.

- Bộ Tư Lệnh QĐ II và Bộ Tư Lệnh US 1st Air Cavalry đồng ý ra tay tấn công địch quân trước ngay tại cửa ngõ rặng núi Chu Prong, ấn định vào ngày mai.

Ngày 14 tháng 11 năm 1965

- 1200 giờ, trực thăng đổ quân của 3rd Air Cavalry xuống bãi đáp X-Ray, cách trại Pleime khoảng 25 cây số, tại phía đông chân rặng núi Chu Prong.

- Sau 20 phút chuẩn bị bãi với hỏa pháo và 30 giây hỏa lực trực thăng chiến đấu, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ bắt đầu đổ bộ. Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 1/7 là Trung Tá Harold G. Moore.

- Coi bộ thế nghi binh có hiệu quả: địch không có phản ứng tại bãi đáp X-Ray. Trách vụ an ninh bãi đáp được giao phó cho Đại Đội A, và Đại Đội B được lệnh tung ra lùng kiếm địch quân.

- 1245 giờ, các vụ đụng độ chạm súng nhẹ bắt đầu, trở thành nặng vào khoảng 1330 giờ.

- Đồng thời, Đại Đội C và Đại Đội D tiếp tục được đổ xuống bãi đáp X-Ray.

- 1740 giờ, Trung Tá Moore thu hồi các đại đội và thiết lập một chu vi phòng thủ chặt chẽ qua đêm.

- 1800 giờ, Đại Đội B của Tiểu Đoàn 2/7 đổ bộ để tăng cường cho 1/7.

- Ban đêm, quân địch chỉ đánh thăm dò quanh chu vi.

Ngày 15 tháng 11 năm 1965

- Khi mặt trời vừa ló dạng, địch quân lại xuất hiện và tấn công cùng lúc từ ba hướng.

- 0730 giờ, địch quân tiến gần tới chu vi các hố chiến đấu cá nhân bất chấp bị pháo binh, bích kích pháo và hỏa lực không yểm gây tổn thất nặng. Nhiều trận đánh xáp là cả xảy ra.

- 0910 giờ, Đại Đội A, Tiểu Đoàn 2/7 đổ bộ để tăng cường.

- 1000 giờ, cuộc tấn công của địch quân bị đẩy lui. Xác chết, thi thể, súng ống và trang cụ của địch quân rải rác khắc cùng ven và chung quang các chu vi phòng thủ. Có nhiều dấu chỉ địch lôi kéo đi nhiều xác chết ra khỏi vùng giao tranh.

- 1510 giờ, Tiểu Đoàn 2/5 đi bộ từ bãi đáp Victor tới bãi đáp X-Ray và giải cứu trung đội bị cô lập và không mấy gặp sự kháng cự của địch.

- Phóng pháo cơ B52 cũng tham dự và trận đánh với năm phi vụ thả bom mỗi ngày vào rặng núi Chu Prong.

- Đêm tương đối yên lặng tại bãi đáp X-Ray.

Ngày 16 tháng 11 năm 1965

- 0400 giờ, địch tấn công từ hướng đông nam. Trái sáng được thả xuống từ phi cơ. Cuộc tấn công bị súng nhỏ và hỏa lực pháo binh đánh bại.

- 0432 giờ, địch lại tấn công từ một hướng khác, nhưng bị hỏa lực pháo binh gây tổn thất lớn.

- 0500 giờ, địch chuyển cuộc tấn sang hướng tây nam, nhưng bị đẩy lui sau nửa giờ giao tranh.

- 0627 giờ, một cuộc tấn công khác nhắm thẳng vào ban chỉ huy.

- 0641 giờ, địch bị đánh bật ra và lôi theo xác chết dưới tầm hỏa lực.

- 0810 giờ, một cuộc lùng kiếm và càn quét được tất cả các đơn vị thực hiện quanh chu vi trại. Xác chết địch nằm la liệt khắp chiến trường và thu nhặt được rất nhiều súng ống.

- Toàn thể trận chiến kéo dài liên tục trong 48 tiếng với 79 chết và 125 bị thương đối với Tiểu Đoàn 1/7, và 634 chết (đếm được xác), 1215 chết (ước lượng) , 6 bị bắt sống đối với Tiểu Đoàn 9 BV

- Điểm đáng chú ý là địch đã không đặt các súng ống cộng đồng trên các núi đồi ngó xuống bãi đáp để yểm trợ cho cuộc tấn công của chúng. Tình trạng này có thể giải thích bởi những lý do sau đây:

- (1) Địch đã mất hầu hết các súng ống cộng đồng hạng nặng trong đợt một.

- (2) Địch đã bị Tiểu Đoàn 1/7 tấn công bất ngờ và cấp chỉ huy của họ đã không biết xử dụng thế lợi về mặt địa hình.

- (3) Địch đã quá ỉ lại vào chiến thuật 'biển người' và quá tự tin là cuộc tấn công sẽ mau chóng phá vỡ đội hình của Tiểu Đoàn 1/7.

- 1040 giờ, Tiểu Đoàn 1/7 rời khỏi bãi đáp X-Ray và được hai Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 thay thế.

- Vào buối chiều, một chiếc trực thăng bị bắn hạ tại vùng trời bãi đáp Albany.

Ngày 17 tháng 11 năm 1965

- Hai Tiểu Đoàn được lệnh rời khỏi bãi đáp X-Ray vì mục tiêu hôm nay của B52 bao gồm bãi đáp X-Ray.

- Hai tiểu đoàn được lệnh ra cách xa 3 cây số khỏi bãi đáp, Tiểu Đoàn 2/7 theo hướng bắc và Tiểu Đoàn 2/5 theo hướng tây bắc đi tới bãi đáp Albany.

- Việc di chuyển này dựa theo ước tính là địch đã rút lui về hướng đó, coi bộ nhằm tấn công vị trí pháo binh tại bãi đáp Albany từng yểm trợ hữu hiệu Tiểu Đoàn 1/7 trong hai ngày qua.

- Tiểu Đoàn 2/7 lọt vào ổ phục kích của một đơn vị Việt Cộng cỡ một tiểu đoàn, khi sắp tới gần mục tiêu.

- Nhưng một lần nữa, Việt Cộng lại biến thành những mục tiêu cho hỏa lực oanh tạc và pháo tập: 406 chết (đếm được xác), 100 chết (ước lượng) và tịch thu 112 vũ khí.

- Tình báo ước tính về khả năng địch thực hiện ngày hôm nay cho thấy là gần 2/3 tổng số lực lượng địch bị loại khỏi vòng chiến qua các cuộc giao tranh đợt I và đợt II.

- B52 tiếp tục thả bom có hệ thống các vùng trong rặng núi Chu Prong - từng hộp 20 dậm vuông - từ tây qua đông. Các hầm trú và giao hầm hố trước nay chống cự được lại các cuộc oanh tạc của phi cơ chiến thuật và pháo binh bắt đầu banh xác bởi sức công phá của những trái bom 750 cân anh. Rừng cây không còn là phương tiện trú ẩn và trốn tránh hữu hiệu nữa. Cửa hậu đưa qua Căm Bốt bị khóa lại và để thoát thân, hai Tiểu Đoàn 334 và 635 sống sót của Trung Đoàn 32 chỉ còn cách duy nhất xử dụng thung lũng eo hẹp của sông Ia Drang.

- Sắp xếp để các toán LLĐBD ra khỏi các vùng sắp bị B52 thả bom, rồi phái họ trở lại khám xét kết quả tàn phá quân lính và cơ sở địch gây nên bởi bom B52.

- Bộ Tư Lệnh QĐ II nghĩ là đã tới lúc tung vào Lữ Đoàn Dù VN trừ bị để chấm dứt một cuộc chiến đã kéo dài khoảng một tháng.

- 1st Air Cavalry Division tiếp tục gây áp lực từ đông sang tây. Yêu cầu Bộ Tư Lệnh 1st Air Cavalry thiết lập một căn cứ hỏa lực pháo binh mới đặt tại bãi đáp Crooks (87, 12), cách 7 cây số hướng đông bắc của vùng Lữ Đoàn Dù VN sẽ thực hiện cuộc hành quân càn quét.

- 1st Air Cavalry Division trực thăng vận mấy khẩu đại bác vào vị trí chiều hôm nay.

- Ban Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù, các Ban Chỉ Huy của Chiến Đoàn 1 Dù và 2 Dù, năm Tiểu Đoàn Dù: 3, 5, 6, 7 và 8 đóng quân rải rác tại Sài Gòn, Biên Hòa, Vũng Tàu và Phú Yên được báo sẵn sàng được chuyển vận tới Pleiku sáng ngày mai.

- Báo cho Ban Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù là cuộc hành quân mang tên Thần Phong 7 sẽ chỉ được hỏa lực pháo binh yểm trợ từ bãi đáp Crooks và bãi đáp Columbus và Ban Chỉ Huy sẽ cần tới sự trợ giúp của một viên Cố Vấn Mỹ để gọi pháo khi cần.

Ngày 18 tháng 11 năm 1965

- Sáng sớm, các phi cơ vận tải khổng lồ của C130's Squadron thuộc 7th US Air Force không vận toàn bộ Lữ Đoàn Dù từ bốn phi trường đến phi trường Pleiku nội trong vài tiếng đồng hồ.

- Trung Tá Ngô Quang Trưởng, Tham Mưu Trưởng của Tướng Du Quốc Đống, được chỉ định chỉ huy cuộc hành quân.

- Nhận thấy Trung Tá Trưởng chọn Thiếu Tá Schwarzkoft làm cố vấn cho lữ đoàn. Nhớ thấy anh chàng này tại cuộc giải tỏa trại Đức Cơ; anh ta dám cự nự Tướng Vĩnh Lộc và bênh vực Thiếu Tá Nghị, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 1 Dù, từ chối tấn công khi không có đủ thì giờ chuẩn bị đầy đủ cho công cuộc giải tỏa trại. Anh ta ăn nói giống tài tử John Wayne, tốt bụng và đáng tin cậy.

- Thuyết trình về Thần Phong 7 cho toàn ban Chỉ Huy Lữ Đoàn. Báo cho Trung Tá Trưởng biết là sẽ được sự yểm trợ của pháo binh thuộc 1st US Air Cavalry đặt tại bãi đáp Crooks và bãi đáp Columbus và của các toán LLĐB Dù VN xâm nhập sâu trong lòng địch. Đặc biệt là chỉ điểm cho Trung Tá Trưởng thung lũng nhỏ hẹp của sông Ia Drang mà hai tiểu đoàn sống sót Việt Cộng sẽ xử dụng để chuồn về Căm Bốt.

- Sứ mạng của Lữ Đoàn Dù là triệt hủy các đơn vị tẩu tán Việt Cộng và các cơ sở của chúng quang thung lũng Ia Drang.

- Mọi nỗ lực mấy ngày cuối đây - thả bom B52, điều quân của các đơn vị US 1st Air Cavalry - đều nhằm đưa đẩy các đơn vị Việt Cộng còn lại về con đường đào tẩu cuối cùng của thung lũng nhỏ hẹp Ia Drang.

- 1500 giờ, Ban Chỉ Huy Chiến Đoàn 1 Dù, các Tiểu Đoàn 3, 5, 6 Dù được trực thăng vận đến địa điểm (84,09), phía bắc sông Ia Drang.

- Tiểu Đoàn 3 Dù lập tức càn quét theo hướng tây tiến tới Plei The.

- Tiểu Đoàn 6 Dù cũng càn quét theo hướng tây nhưng hơi về phía nam song song với hướng tiến quân của Tiểu Đoàn 3 Dù nhắm tới Plei Leo.

- Các toán LLĐB Dù báo cáo là một lực lượng địch cỡ tiểu đoàn âm thầm bám sát theo toán quân của Tiểu Đoàn 3 Dù.

Ngày 19 tháng 11 năm 1965

- 1100 giờ, Tiểu Đoàn 3 Dù được lệnh dụ dẫm địch đi theo mình xuống phía nam tới địa điểm (81, 08), phía bắc sông Ia Drang, nơi Tiểu Đoàn 6 Dù thiết lập ổ phục kích nằm chờ.

Ngày 20 tháng 11 năm 1965

- 1440 giờ, các đơn vị đic̣h lọt vào ổ phục kích. Gần 200 tên Việt Cộng thuộc Tiểu Đoàn 635/Trung Đoàn 32 từng tránh né giao tranh và còn nguyên vẹn trong suốt đợt hai cuối cùng bị lộ tung tích và buộc phải chiến đấu, mặc dù đã cố gắng hết sức tránh đụng độ.

- Thu thập được một hàng binh quan trọng Thiếu Úy Bùi Văn Cường (tự Cồn), sĩ quan ủy viên chính trị, đại đội truyền tin, Trung Đoàn 32. Cường tiết lộ nhiều tin tức tình báo về hai Tiểu Đoàn sống sót 334 và 635 thuộc Trung Đoàn 32 và về con đường tháo lui của chúng.

- Trên đường càn quét về hướng tây, hai Tiểu Đoàn 3 và 6 Dù đã triệt hủy 3 trung tâm huấn luyện, một hầm chứa trang cụ và 75 căn nhà.

- 1745 giờ, Tiểu Đoàn 8 Dù được trực thăng vận đến địa điểm (82,08).

- Ban Chỉ Huy Chiến Đoàn 1 Dù, các Tiểu Đoàn 3, 5, 6 Dù được lệnh đi bộ tới địa điểm (82,08)

- Tổng lược danh xưng của các đơn vị Việt Cộng do các tù binh cung cấp.

Ngày 22 tháng 11 năm 1965

- 1100 giờ, Ban Chỉ Huy Chiến Đoàn 2 Dù, các Tiểu Đoàn 2 và 7 Dù được trực thăng vận đến địa điểm (82,08) để sát nhập với Tiểu Đoàn 8 Dù.

- 1350 giờ, toàn thể Lữ Đoàn Dù hiện diện tại địa điểm (82, 08) vùng tập trung quân và được lệnh vượt sang phía nam sông Ia Drang, và leo núi lên tới đỉnh tại (81,06).

Ngày 23 tháng 11 năm 1965

- 1115 giờ, Trung Tá Trưởng và lữ đoàn dù tới địa điểm (81,06), và thảo kế hoạch lập ổ phục kích địch quân tại thung lũng eo hẹp phía nam bờ sông Ia Drang.

- Thẩm vấn Nguyễn Nghệ Trung, thuộc Tiểu Đoàn 635, Trung Đoàn 32.

Ngày 24 tháng 11 năm 1965

- 0945 giờ, Tiểu Đoàn 3 Dù đụng độ toán quân địch tại địa điểm (80, 07).

- 1050 giờ, Tiểu Đoàn 6 Dù đụng độ cùng toán địch quân đó tại địa điểm (82, 06).

- Toán quân địch bị kẹt giữa hai vị trí nút chặn. Hỏa lực pháo binh được gọi tới.

- Khoảng nửa tiếng sau, các Tiểu Đoàn 7 và 8 Dù xung phong xuống sườn núi và xô đẩy các toán địch quân áp vào bờ phía nam sông Ia Drang.

- Kết quả: 65 tên Việt Cộng bị giết (đếm được xác), 10 tên bị bắt sống, và tịch thu 58 súng ống.

- Sau khi không còn đụng độ với địch quân, Lữ Đoàn Dù được lệnh tháo lui ra khỏi vùng hành quân, chấm dứt đợt ba của Trận Chiến Pleime.

Ghi chú: Nhật ký này được tái tạo từ chính lời văn của Đại Tá Hiếu lẩy từ Why Pleime. Thật ra phương thức này đi ngược chiều điều gì Đại Tá Hiếu đã làm, khi để thảo bản tường trình sau trận đánh Pleime, Đại Tá Hiếu đã tham khảo những điều ghi chép trong nhật ký để có được các dữ kiện, các ngày giờ và những suy tư của mình trong khi trận đánh đang tiếp diễn. Đại Tá Hiếu có thói quen ghi chép nhật ký, ngay cả khi còn là một trang thanh niên trước khi tòng quân; cụ Hướng đã khám phá mối tình thầm kín của cậu con trai khi đọc mấy trang nhật ký của con trai để trên bàn viết; thân phụ Tướng Hiếu cũng đọc được những hàng chữ cuối cùng ghi chép trong cuốn nhật ký, sau khi Tướng Hiếu gọi điện thoại cho vợ căn dặn "đừng để các con chơi ngoài đường"; Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 22, nói: "Tướng Hiếu luôn mang theo một cuốn sổ để trong túi áo. Mỗi lần ra lệnh ngoài chiến trường, Tướng Hiếu luôn ghi chép lệnh vào trong cuốn sổ."

Nguyễn Văn Tín

Posted by: caoduy Dec 29 2012, 08:49 AM






Hoàng hôn chụp xuống Pleiku



Bài phóng sự ngày 16 tháng 3-1975 trên Chính Luận Sài Gòn

Lời giới thiệu: Miền Nam Việt Nam thực sự đã không bị xụp đổ trên phương diện quân sự khi thị trấn Phước Long bị thất thủ.

Cũng không do việc mất Ban Mê Thuột. Toàn bộ cuộc tái phối trí trở thành cuộc rút lui bi thảm đưa đến việc mất miền Nam thực sự bắt đầu từ lúc Pleiku ra đi.

Sau Khi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II Di Tản Về Nha Trang, Hoàng hôn chụp xuống Pleiku, Phố Xá Tràn Ngập Người: Trẻ, Già, Lớn, Bé Không Biết Đi Đâu

Nhân dịp tháng 4-2004, 29 năm sau, Dân Sinh San Jose phổ biến 2 bài báo chụp lại trên vi phim về cuộc rút quân kể trên. Bài báo thứ nhất đăng trên Chính Luận số 3338 ngày thứ Ba 18 tháng 3-1975 với tựa đề: Hoàng hôn chụp xuống Pleiku. Bài báo này do phái viên Nguyễn Tú điện về trong lúc chính ông cũng đang tìm đường tháo chạy.

Bài báo thứ hai trên Chính Luận với tựa đề: 8 giờ đêm Chủ Nhật, Kontum – Pleiku bi thảm ra đi, bỏ lại phía sau những cột khói, những vùng lửa. Bài này đăng ngày 19 tháng 3-1975 và được ghi là do Nguyễn Tú đọc về, xen lẫn tiếng khóc nức nở của chính ông.

Bài báo thứ hai này đăng trang nhất báo Chính Luận số 3339 được coi là tin tức duy nhất được loan báo về cuộc rút quân ở Cao Nguyên. Bài này đã được các báo ngoại quốc dịch lại và đăng tải trên các hệ thống tin tức quốc tế.

Hai bài báo kể trên trích trong tài liệu sưu tầm của IRCC dành cho viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose. Ký giả Nguyễn Tú sau thời gian kẹt lại Việt Nam hiện đã qua Mỹ định cư tại DC.

*****

(Sài Gòn 17-3) Chiều tối Chủ Nhật ngày 16 tháng 3-1975, bạn Nguyễn Tú, đặc phái viên Chính Luận tại chiến trường Quân khu 2, đã từ Pleiku gọi điện thoại về cho biết tình hình Pleiku, sau khi Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 di tản về Nha Trang.

Bạn Nguyễn Tú cho biết là trong hai ngày qua, đồng bào trong toàn tỉnh đã hoang mang tới cực độ khi nghe tin các bài phát thanh ngoại quốc loan báo Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 di tản về Nha Trang. Giới hữu trách không có lời giải thích nào để trấn an đồng bào mỗi phút lại càng mất thêm tinh thần, mạnh ai lo liệu phương tiện di tản ra khỏi vùng giao tranh và tránh mặt quân cộng sản.

Chiều qua, các phố xá đã đóng cửa không buôn bán cầm chừng như trước đây và đồng bào đã đổ xô hết ra đường, nhốn nháo ngược xuôi tìm lối chạy. Người ta thuê bao đủ mọi loại xe, chất hết đồ đạc quần áo để chuẩn bị chạy. Giá xe từ 200 ngàn, nửa triệu một chiếc đã tăng lên nhiều hơn nữa. Những người ít tiền cũng vét túi, chung nhau thuê xe, và các loại xe, từ xe lam, xe vận tải, xe lô, xa nhà, xe Honda, cho đến cả xe ủi đất, xe cứu hỏa, xe cần trục, máy cày v.v… đều chất đầy ắp đồ đạc, đầu nối đuôi dài dài trên các đường phố chính như Hoàng Diệu, Võ Tánh, Phan Bội Châu, Quang Trung, Hai Bà Trưng. Tất cả đều rộn ràng di chuyển, nhưng không biết di chuyển theo lối nào, vì con đường duy nhất có thể chạy về Quy Nhơn là quốc lộ 19 thì đã bị địch cắt. Áp lực của quân cộng sản vẫn nặng nề trên con đường băng rừng băng núi này, cái chết có thể đe dọa tập thể tỵ nạn bất cừ nơi nào và bất cứ giờ phút nào.

Những chuyến bay của Hàng Không Việt Nam đã ngưng từ mấy hôm nay nên phi trường chỉ còn là nơi hoạt động rộn rịp của các loại máy bay quân sự. Tin tức một số gia đình thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và các ngoại kiều được di tản ra khỏi Pleiku làm cho mọi người càng thêm hốt hoảng. Họ chỉ còn trông ngóng vào con đường sống duy nhất là quốc lộ 19. Họ cầu nguyện và mong ngóng cho quốc lộ này được giải tỏa mau lẹ để lánh xa nơi quân cộng sản kéo tới.

Cảnh hốt hoảng càng thêm mãnh liệt hơn khi một số đồng bào tỵ nạn ở Kontum, Thành An, Phú Nhơn v.v… kéo về Pleiku chờ mở đường chạy giặc. Ám ảnh… đại lộ kinh hoàng và chợ Đông Ba rực cháy ngày nào ở miền Trung là một ám ảnh khó xóa nhòa trong tâm tư mọi người.

Dắt dìu nhau ngược xuôi ngoài đường phố, và đồng bào ngơ ngác thầm hỏi nhau biết chạy đi đâu bây giờ? Từ cả tuần, báo chí không lên Pleiku nữa, do đó có muốn được đọc những lời tuyên bố rất bình tĩnh của các giới chức Sài Gòn cũng không được.

Qua điện thoại, bạn Nguyễn Tú báo tin cho tòa soạn và bạn đọc Chính Luận biết là bạn đang tìm cách thoát khỏi Pleiku cùng đồng bào và sau đây là bản tin cuối cùng của bạn từ Pleiku gửi về cho tòa soạn và bạn đọc Chính Luận.

Lại thêm một hoàng hôn:

Bạn Nguyễn Tú cho biết, qua điện thoại, nguyên văn như sau:

Lại thêm một hoàng hôn, có thể hơn thế nữa, bắt đầu. Trưa hôm nay từ 12 giờ, dân chúng Thanh An, Phú Nhơn và các vùng lân cận Pleiku đều đổ xô về thị xã Pleiku. Họ đang sống những giờ phút lo âu, kinh hoàng ngoài đường phố. Trên khắp ngả đường đều chật các xe đủ loại, xe quân sự, xe dân sự, xe chở hàng, xe ủi đất, xe chữa lửa, xe máy kéo có rờ moọc, bên trên chất đầy những “gia bảo” cuối cùng của dân chúng. Tất cả các gia đình, già trẻ lớn bé, dân sự cũng như quân sự, ngồi sẵn trên xe, để chờ di tản mà họ không biết là đi đường nào. Các lực lượng diện địa của ta và các lực lượng trong ngành an ninh, quân cảnh, cảnh sát đều không còn có thể kiểm soát được nữa. Vì tất cả các nhân viên đó đều lo lắng cho chính gia đình họ. Ngoài đường phố đầy rẫy những người đi bộ. Những quân nhân, và thường dân tay xách nách mang và bồng bế các trẻ thơ, xách những giỏ đồ đạc lang thang khắp phố, không biết đi đâu nữa. Pleiku đang sống trong một không khí kinh hoàng chưa từng thấy, hơn cả cố đô Huế năm 1972.

Kontum – Pleiku coi như bị bỏ ngỏ, vì các nhân viên có trong trách an ninh đã chỉ lo cho riêng gia đình họ và không còn ai còn có tinh thần đảm nhận trách vụ của mình… Sự kiểm soát đã lọt ra ngoài tay của các giới lãnh đạo chính quyền tỉnh. Riêng các lực lượng chính quy còn có kỷ luật và tinh thần chiến đấu. Nhưng tình trạng hỗn loạn xáo trộn của dân chúng Pleiku ra đầy ngoài đường, đã tạo nên một cảnh tượng thật không thể tưởng tượng nổi. Trên khuôn mặt mỗi người đều lộ vẻ lo âu, không tả hết. Chiến tranh thực sự chưa tới Pleiku. Chưa một đạn pháo kích nào của địch bắn vào thị xã Pleiku. Hoàng hôn của Pleiku có thể coi như đã bắt đầu, đồng thời có thể tiếp luôn những cảnh hoàng hôn khác.

Tình trạng Pleiku bi thảm quá!


Bài phóng sự tiếp theo viết ngày 17 tháng 3-1975.

8 Giờ Đêm Chủ Nhật, Kontum – Pleiku Bi Thảm Ra Đi Bỏ Lại Phía Sau Những Cột Khói, Những Vùng Lửa

Bản tin này được đọc giữa tiếng khóc nức nở của bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú

(Sài Gòn 18-3) Sáng nay bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, tại một địa điểm dừng chân trên đường rút lui của quân dân hai tỉnh Kontum – Pleiku, báo tin qua điện thoại quang cảnh di tản bi thảm của đồng bào. Dưới đây là nguyên văn ghi lại lời bạn Nguyễn Tú đọc qua điện thoại.

Tất cả lên đường:


Tối nay, Pleiku đã thực sự hỗn loạn. Tất cả dân chúng Pleiku thêm vào đó dân chúng ven tỉnh, dân chúng thuộc vài quận gần thị xã Pleiku, và cả dân chúng Kontum đã đổ xô nhau chạy về Pleiku đều xuống đường và tổ chức một đêm không ngủ. Không phải để biểu tình chống ai, mà để vội vàng hốt hoảng tiếp tục chất các hàng hóa, bàn ghế, tủ giường, cùng những vật dụng riêng lên đủ thứ xe: Xe lam, 3 bánh, xe vận tải hạng nặng, xe Jeep, xe dốt rác, xe GMC nhà binh, xe Honda. Thậm chí xe be, xe cần trục, xe máy kéo, trác lơ, xe hốt rác. CẢ đến xe chữa lửa cũng được dùng để chất đồ và chở người. Xe nào chất xong đồ là người leo lên ngồi sẵn, xe nào đôi nhíp cũng gần như thăng bằng, vì chất quá nặng.

Từ trưa, các lực lượng an ninh trong thị xã Pleiku như Quân Cảnh, Cảnh Sát bỏ tất cả nhiệm sở không còn thấy bóng một ai, mặc dù hôm qua thứ Bảy 15 tháng 3 còn canh phòng rất gay gắt các ngã ra vào tỉnh và thị xã Pleiku.

Mọi đường phố không còn một nhân viên công lực nào giữ trật tự nữa. Tất cả mọi người đều về nhà lo việc di tản cho gia đình. Liên lạc vô tuyến của hệ thống quân đội không còn được điều hòa và hữu hiệu như trước nữa tuy vẫn chưa hẳn gián đoạn. Các nhân viên truyền tin cũng thay phiên nhau về nhà để lo việc di tản gia đình. Sự kiểm soát an ninh trật tự có thể coi như đã tuột khỏi tầm tay chính quyền địa phương Pleiku. Tại tư dinh Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku, các nghị viên, các Trưởng Ty, Sở hấp tấp ra vào họp liên miên.

Chưa bao giờ các đại diện dân cử kể cả đối lập và chính quyền đã sát cánh với nhau như thế. Chưa bao giờ lập pháp, hành pháp, tư pháp đều đồng một lòng, một dạ như thế. Đồng một lòng một dạ trong một câu hỏi duy nhất: Bao giờ thì di tản? Mấy giờ thì di tản? Trên thực tế thì Pleiku đã sống giờ thứ 25 từ hôm qua thứ Bảy 15 tháng 3. Hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3 lúc 19 giờ đã có điện trở lại trong toàn thị xã.

Đèn ngoài đường và trong các tư gia cũng được thắp sáng. Có lẽ là một hội hoa đăng cuối cùng. Khắp các đường phố, dân chúng đi lại hết sức nhộn nhịp, tất tưởi. Ngay từ xế trưa hôm nay 16 tháng 3, các xe nào đã chất xong đồ vật đều chuyển bánh trên Quốc Lộ 14 đi về Phú Bổn thành một đoàn dài. Nhưng phải kể từ 20 giờ ngày hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3, sự di chuyển toàn diện của dân chúng mới thực sự bắt đầu, đoàn xe ước chừng đến hàng ngàn chiếc, bật đèn pha nối đuôi nhau trên hàng chục cây số trông như một cuộc “trở về nhà sau cuộc nghỉ cuối tuần.” Nhưng đây đâu phải là “đoàn xe thanh bình.”

Sáng kiến vĩ đại:


Cuộc di tản đại quy mô của hai tỉnh gom lại là Kontum và Pleiku do sáng kiến tư nhân có thể coi như là “vĩ đại” ở chốn Tây Nguyên hẻo lánh này.

“Mục tiêu đầu tiên là Phú Bổn. Sau đó sẽ tính.” Đó là lời một đồng bào di tản nói với Chính Luận. Nhưng ra khỏi thị xã, được vài cây số thì đoàn xe bị kẹt vì những chiếc xe nhỏ hơn như xe lam, xe ô tô nhỏ, xe Honda muốn vượt trước. Phải một giờ sau vụ kẹt xe này mới được giải tỏa.

Dân chúng nghèo cũng ra đi bằng phương tiện thiên nhiên, trời đã phú cho họ là đôi chân của chính họ. Họ đây là gồm cả già, trẻ, lớn, bé, con nít còn bồng trên tay, đàn bà đang mang bầu, tay xách, nách mang một vài manh chiếu, một vài bọc quần áo, buồn tủi, lo âu, gia đình nọ nối tiếp gia đình kia đi hàng một sát bên lề đường để tránh đoàn xe. Đèn pha của đoàn xe lần lượt chiếu các bóng lưng còng xuống của người lớn, những bóng nhỏ hơn của các trẻ em tay níu vạt áo hoặc ống quần của người bố hay người mẹ. Họ lặng lẻ thất thểu bước nọ trước bước kia trong đêm tối của tâm hồn.

Cuộc di tản này chắc chắn sẽ kéo dài tới ngày hôm sau. Thế là Kontum và Pleiku đã bỏ ngỏ, chính thức và không chính thức. Không chính thức mà chính thức vào hồi 20 giờ đêm ngày Chủ Nhật 16 tháng 3-1975.

Pleiku không còn gì để cho tôi săn tin thêm nữa.

Ba lô vẫn cõng trên vai, hồi 22 giờ 30 tôi theo đoàn người di tản ra khỏi thị xã Pleiku. Bầu trời hôm nay đẹp quá, hàng ngàn vì sao lấp lánh như thiên thần nháy mắt với trần gian, hay đó là những ám hiệu dục dã: “Lẹ lên!”

Nếu tôi có một người bạn đường đi bên tôi, tôi sẽ bảo: “Bạn ơi, trên trời có bao nhiêu vì sao thì lòng tôi đau xót còn hơn thế nữa.”

Đốt, phá, bỏ rơi:

Các kho súng, kho đạn tại tỉnh Pleiku đã được lệnh thiêu hủy, tiếng nổ lớn nối liền tiếng nổ nhỏ. Từng cột khói đen bốc lên trong lửa đỏ từ các bồn nhiên liệu cũng được lệnh phá hủy. Tất cả đều bùng cháy. Nhiều khu phố trong thị xã Pleiku đã bị toán người đập phá nhà cửa của các chủ nhân đã di tản, và đã bị phóng hỏa, ít nhất tôi cũng đếm được 14 đám cháy trong những khu phố khác nhau.

Nhiều tiếng súng cũng đã nổ trong thị xã. Có tin Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku đã hạ lệnh cho đốt kho giấy bạc trong Ty Ngân Khố, ước lượng khoảng 300 triệu và trong khi tưới xăng để đốt, ông Trưởng Ty Ngân Khố đã bị phỏng. Không còn một bác sĩ tư nào trong thành phố. Quân cũng như dân y viện không còn hoạt động. Một số bệnh nhân tại dân y viện cũng như một số thương binh tại quân y viện Pleiku đã bị bỏ rơi lại vì không còn ai lo cho họ nữa. Chính họ trong tình trạng bệnh hoạn chẳng tự mình làm được. Ngoài sự chịu chết đói dần mòn ngay trên giường bệnh.

Một nguồn tin đáng tin cậy cho hay là Chuẩn tướng Tất, Tư Lệnh Mặt Trận Kontum – Pleiku đang chỉ huy cuộc triệt thoái lực lượng chính quy đi về hướng Nam trên quốc lộ 14.

Trên đường nóng bỏng:

(Pleiku 17-3) Sáng nay, cuộc di tản đang tiếp diễn dưới ánh mặt trời huy hoàng của một ngày đầu tuần. Hàng ngàn chiếc xe dân sự và quân sự vẫn nối tiếp nhau trên quốc lộ 19 đi về hướng Phú Bổn. Nhiều xe vì chở quá nặng không chạy nổi đã bỏ lại trên đường.

Các quân nhân được lệnh triệt thoái dưới quyền tư lệnh của Tướng Tất đã thi hành một cách rất trật tự và kỷ luật. Các đơn vị Biệt Động Quân đã được lệnh đi hai bên quốc lộ 14 ở những chỗ xung yếu để bảo vệ đoàn xe di tản dân sự và quân sự. Các đoàn người đi bộ thật là thảm thương, đàn bà, con trẻ đi bên lộ dưới ánh nắng nóng bỏng không giọt nước để uống.

Dọc quốc lộ từ Pleiku đến Hậu Bổn là tỉnh lỵ của Phú Bổn, đoàn xe cứ nối dài. Đoàn người đi bộ, bị bỏ lại sau, nhưng họ vẫn cứ cố gắng lết đi trên đường nóng bỏng dưới ánh nắng của Pleiku. Chưa biết đêm nay họ có thể tới được Phú Bổn bằng đôi chân của chính họ hay không. Sẽ có nhiều người sẽ bị chết đói, chết khát dọc đường. Dọc Quốc lộ 14 đi về phía Phú Bổn các làng, các ấp, các buôn đều trống trơn không còn một ai. Cảnh hoang tàn dọc quốc lộ 14 tôi không làm sao mà còn có trí óc để nghĩ ra những danh từ tường trình với độc giả.

Bi thảm quá đồng bào ơi!

Hôm nay thay vì lá thư hàng tuần sự tường trình của tôi có thể ngắn ngủi và không mạch lạc. Mong quý vị độc giả phương xa ở tại cái thủ đô đầy ánh sáng hiểu cho.

Cho tới nay vẫn không thể hiểu được lệnh bỏ ngỏ Kontum – Pleiku là ở đâu mà ra và tại sao lại có sự ra đi hấp tấp trong dân chúng trong khi các nhà cầm quyền quân sự đã trù liệu kế hoạch từ trước. Không có giải thích nào cho dân chúng. Không có tổ chức nào để di tản dân chúng trong trật tự và an ninh, không có một sự trợ giúp nào cho các dân nghèo không có phương tiện đi xe.

Từ năm 1954 cho tới nay, chính tôi đã chứng kiến bao cuộc di tản. Cuộc di tản Kontum – Pleiku dể lại cho tôi một mỗi chán chường. Sống với những hy vọng mong manh từ năm 1954 đến năm 1975 tới nay tôi cảm thấy không còn đủ sức, đủ ý chí để bấu víu lấy cái chút hy vọng mong manh ấy nữa. Ngoảnh về phía Pleiku khói vẫn ngùn ngụt bốc lên vì những đám cháy đêm qua.

Dọc lộ xe tăng, đại pháo dạt ra hai bên đường để bảo vệ những chỗ xung yếu để cho đoàn xe di tản dân sự và quân sự có thể đi chót lọt tới Hậu Bổn tức tỉnh lỵ Phú Bổn. Nhưng trên đoạn quốc lộ 14 từ Pleiku tới Hậu Bổn vẫn xảy ra nhiều đoạn đường kẹt xe, có thể kể hàng 5 đến 10 cây số chưa biết rằng đoàn xe có thể tới Hậu Bổn được không. Và từ Hậu Bổn sẽ đi đâu chưa ai rõ. Riêng cho tôi không còn có trí óc nào để nghĩ đến tương lai dù rằng tương lai chỉ là ở một giây, một phút sau đó.

Điện đàm dứt đoạn…

Nguyễn Tú


Ghi chú: Trên đây phóng viên Nguyễn Tú mới chỉ tường thuật được đoạn mở đầu của chuyến rút quân bi thảm và sau đó thì hết phương tiện liên lạc. Thực sự đoàn quân dân rút từ Tây Nguyên về Duyên Hải đã hoàn toàn làm tan rã cả Quân Khu II với hàng ngàn người chết dọc đường và đưa đến cảnh toàn thể miền Nam vỡ ra thành từng mảnh vụn.













Posted by: caoduy Dec 29 2012, 08:49 AM






Pleiku nắng bụi mưa bùn


Kính tặng những ai, đã một lần đến và sống tại thành phố Pleiku để hồi tưởng về kỷ niệm

Thời chiến tranh Việt Nam, Pleiku là một địa danh mà hầu như ai cũng biết. Một thành phố, (đúng ra là một khu thị trấn) dân cư thưa thớt, mà đa số là dân người Thượng. Một nơi đèo heo hút gió xa tít tận miền cao. Vậy mà tiếng tăm, và vang bóng một thời.Cuộc chiến đã làm nên tiếng tăm? Hay nói đúng hơn là “người lính” đã làm nên một địa danh nổi tiếng này.Ngày trước, ai đã từng là lính chiến? Ai đã từng là kẻ “bị đày”? Và ai đã từng là dân “tứ chiếng”, là kẻ “giang hồ”? Thì đất địa Pleiku là nơi được mời gọi.

Tôi đến Pleiku vào giữa năm 1969. Không phải là gì gì cả, mà là một sĩ quan mới ra trường. Về đơn vị binh chủng Lực lương Đặc biệt, SQ hoặc HSQ mới ra trường là phải đi tác chiến, thử lửa một thời gian. Ai cũng vậy. Coi như phải chấp nhận thử thách, gian nguy, phải rèn luyện “da ngựa dậm nghìn” cho đáng mặt làm trai.Những ngày đầu mới đến Pleiku thật lạ lẫm, chán chường. Một phố thị chỉ như là một thị trấn nhỏ lại lắm người. Dân địa phương thì ít mà tứ xứ thì nhiều. Những năm trước (từ 1966-67), từ khi có bước chân các “chú Sam” đến là sôi động hẵn. Người ta nói: Mỹ đến đâu là như có “mật” ở đó. Đàn ong, lũ kiến, ruồi nhặng bay theo. Có lẻ cũng không sai, vì từ dạo đó, Pleiku tiếng tăm lừng lẫy.Phố xá nhỏ hẹp. Phố Pleiku chỉ có 5-7 con đường ngang dọc. Đường phố chính là Hoàng Diệu, đi từ đầu đến cuối đường, hút chưa tàn điếu thuốc. Chung quanh thì làng mạc thưa thớt dân cư. Một thị trấn vùng núi, đèo heo hút gió. Vậy mà, những gì ở nơi khác có là Pleiku thời dạo đó vẫn có – có đủ cả. Có quán xá, có bar, có nhà hàng, có vũ trường, có đĩ điếm, có trác tán, ăn chơi… Dân tứ phương đổ về, góp phần cho Pleiku bao thứ hay, thứ dở. Người ta về làm ăn, về tìm việc, sinh nhai, sinh kế kiếm tiền. Về để kiếm sống, và cũng về … để chết.Một bộ tư lệnh quân đoàn nằm đó, và một phi trường lớn cũng ở đó (phi trường Cù Hành).



Ngày đêm xe cộ tấp nập tới lui và máy bay lên xuống không ngớt. Từng đoàn quân, từng đơn vị, lính ở đâu cũng lần lượt kéo về, ghé qua, trú đóng. Nhiều thứ lính, nhiều đơn vị, binh chủng, được gọi là “thứ dữ”, thứ “bất trị”, đều có mặt. Nhiều chủng tộc, sắc dân. Không lừng lẫy, tiếng tăm sao được? Người ta hát, qua câu vè ví von: “Pleiku đi dễ khó về, trai đi bỏ mạng, gái về nát thây”. Nghe mà phát ớn.Tuy nhiên, nói vậy, tiếng đồn như vậy, nhưng mà không hẵn là vậy. Thật sự thì Pleiku không dữ dằn, không khắc nghiệt lắm đâu. Mà là một nơi dễ mến, và cũng “thân thiết”.Tôi đã đến đấy gần hai năm và khi ra đi, cảm thấy nhiều lưu luyến. Xin kể:Pleiku có khí hậu giông giống như Đà lạt.

Một vùng đất cao nên khí hậu mát quanh năm. Cây cảnh hoa màu, Đà lạt trồng được thứ gì thì Pleiku cũng trồng được thứ đó: bông hoa và rau trái. Ai đã có đến vườn hoa Phú thọ? Một xóm ngoại ô (chỉ cách thị xã vài cây số?) với nhiều vẻ nên thơ, tình tứ, đẹp không ngờ. Hoa rất nhiều và đủ thứ. Hoa khoe săc muôn màu. Ngoài hoa là cây ăn trái. Mít ngon đặc sản vùng này. Tha hồ mua, tha hồ hái trái và tha hồ ăn, cho dầu “kẻo nhựa vân tay”. Mít, hoa chỉ là cái cớ. Nếu vào Phú thọ, khách còn tìm nhiều cái khác nữa: Cùng mấy em đi dạo, tìm “sầu riêng”, “măng cụt”, hái “vú sữa” chín mềm, mân mê “mận hồng đào” da trơn thơm ngát (nghĩa bóng). Mặc sức mà thưởng thức. Thú vị làm sao! Nhưng mà cũng phải cẫn thận, coi chừng. VC cũng thường mò ra và mời đi “du ngoạn”..Đi dạo biển hổ.

Phong cảnh đẹp và thơ mộng. Thiên nhiên đã ưu đãi cho vùng đất địa rừng núi Pleiku. Một cái hồ khá là rộng, chu vi hàng mấy cây số (tôi không được rõ diện tích, nhưng thấy là lớn rộng). Nước phẵng lặng xanh trong. Bao quanh từng khoảng cây rừng, sương giăng mờ mịt. Nghe nói biển hồ không có đáy? Nước không bao giờ cạn kiệt. Một đồi đá thấp, nơi vui chơi, hò hẹn rất thơ mộng, rất trữ tình. Có am, có chùa, tượng phật, cây cảnh. Từ trên đỉnh dài xuống mé mặt hồ, từng nơi, từng chổ, hấp dẩn, gọi mời. Đã có biết bao mối tình hẹn hò, thề ước tại đây? Pleiku nắng bụi, mưa bùn? Những ngày mưa dầm rả rít, mưa không dứt, thành phố trở nên ãm đạm. Vậy mà cũng ít ai “an phận” nằm nhà, nằm queo doanh trại để mà nhai gạo sấy, thưởng thức lương khô? Nếu không phải bận công tác, trực hành quân thì cũng “bay” ra phố, vô quán cà phê, quán nhậu. Hay ít nhất cũng tạt vào “lữ quán” Bà Tám (cầu số 3) để giải buồn. Ở đây, các em tươi mát, chí nghĩa, chí tình. Tiền không có cứ “ghi sổ”, lương lãnh trả sau. Bà Tám rất là điệu nghệ.



Nắng bụi? Đúng là như vậy. Bụi đường đất đỏ, màu đỏ gạch, bám vào trên thân thể, trên áo quần, trên nón, trên giày…Dầu anh đi về đâu, nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết: anh về từ “miền đất đỏ bụi mù” Pleiku, phố núi.Dấu giày in phố núi – Bước chân anh lấm bụi hồng – Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng – Lê gót phong trần, anh một thuở dừng chân. Pleiku hầu như con gái khắp tứ xứ, khắp mọi miền. Đủ “kiểu”, đủ “cở”: Từ cô gái Huế nằng nặng giọng nói nghe êm tai đến các nàng “nẩu” (dân Phù cát, Phú Yên, xứ Quảng). Quen nàng, chỉ nghe nàng nói cũng đã thấy vui tai. Dân miền Nam, tôi cứ “hả?” hoài mà không hiểu được nàng nói những gì. Các em Bình Định, Nha trang, Tuy hòa, Sài gòn, miền Tây, và cả dân Bắc (kỳ) cũng không thiếu. Pleiku hầu như qui tụ “bông hoa” khắp mọi miền đất nước.

Đã có nhiều cơ hội, nhờ quen với Tiểu đoàn 20/CTCT. Ban văn nghệ Tiểu đoàn qui tụ khá nhiều ca sĩ – con gái khắp mọi miền – Vài ba tuần lễ, một tháng mở “bale”, mở tiệc rước mời. Rước cả những “em Pleiku” (cở tuổi choai choai 16, 17, 18… ham vui, thích nhảy). Đến để mà tha hồ hát ca, nhảy nhót.

Đơn vị B17/LLĐB, thời thiếu tá Ngô đình Lưu (tay chịu chơi, hào hoa phong nhả) ông cho lập một “vườn tao ngộ”. Trồng hoa kiểng, có ghế đá, xích đu, có bàn ngồi ngắm trăng, uống rượu, tán gẩu nói chuyện phào. Các cô rất thích. Thích vì được chìu chuộng săn đón. Ca hát nhãy nhót cho đã, mời các em ngắm, dạo vườn hoa – hoa muôn sắc, hoa muôn màu – các em rất thích. Thích thì cứ ngắm, cứ chơi. Và… thích nữa… thì cứ ở qua đêm cũng được…Nhờ thế, mà Pleiku dù là xứ “bị đày”, vẫn không thấy buồn, thấy chán. Vừa đi hành quân, lội rừng, đánh giặc, vừa chơi bất cần đời mà cảm thấy cuộc đời… vẫn đáng sống. Chiến tranh dù nghiệt ngã, chết chóc, dù hủy hoại mọi tương lai. Đời lình dù phải sống nay, chết mai, vẫn không sợ. Kẻ này đi, người khác đến, qua bao tháng năm, vẫn cứ chiến đấu, cứ vui chơi. Nếu không vui, nếu không “xả lán” quên đời thì làm sao mà chịu nổi. Cứ chơi, cứ lăn xả, và cứ… quên mình. Pleiku vẫn luôn là nơi yêu đời, vui sống.Không vui chơi ở đơn vị, thì vui chơi ở các tửu đìếm, nhà hàng. Hai cứ đìểm: Hoàng Liêng, Mimosa, là nơi “đóng quân” hàng đêm của lính. Có tiền thì vung vít, ít tiền thì một ly cà phê đá, một gói thuốc cũng đủ cho “nữa đêm về sáng”. Giờ giới nghiêm không là quan trọng. Chưa say, chưa xỉn chưa về. Say quá, gục ngã, nằm đường, có quân cảnh chở đưa về. Cùng lắm là “ký củ”. Cả mạng sống còn chẳng màng, sá gì năm, mười ngày “trọng cấm” lẻ tẻ.Ngang tàng mọi nơi, ăn chơi mọi chổ. Và có lẻ từ tính vung vít bạt mạng, chơi không biết sợ của lính núi rừng mà địch quân phải nể sợ. Sợ những thằng lính liều mạng, liều mình. Liều mà đánh giặc, giữ vững được đất nước quê hương. Sau này, quê hương, đất nước có phải bị mất đi là tại, do ai? Tại những tên (ngồi mát ăn bát vàng) hèn nhát, khiếp nhược. Chắc chắn không phải tại mấy tên lính “ba gai” chẳng bao giờ biết sợ, bất cần đời, coi thường mạng sống…Cà phê Hoàng Lan, những đêm không ngủ được, những lần nhậu xĩn quắc cần câu, ghé Hoàng Lan để thưởng thức hương vị tách cà phê. Đắng bờ môi mà ngọt ngào tình cảm. Mùi hương thoang thoảng.

Hương hoa (từng nụ) ngọc lan phảng phất về đêm. Hương hăng hắt của mái tóc thả lững bờ vai của em (bé) Monique H’ Lem, người con gái Thượng lai Tây có dáng dong dỏng cao, mũi thẳng, cặp mắt lắng sâu màu xanh lục, đôi môi mọng, cười rất duyên, và … đẹp đéo chịu được. Tôi đã ghiền và đã mê “Hoàng Lan” hầu như một dạo. Trời xui đất khiến để tôi, dân trai xứ miền Tây (thiếu gì con gái đẹp) lại xúc động, mê say một người con gái Thượng xứ bụi mù. Không biết ai đã từng đến Pleiku, và đã từng “uống” cà phê Hoàng Lan (1970). Xin xẻ chia chút tâm tình này. Trên bốn mươi năm. Bây giờ vẫn nhớ.

Còn nữa! Quán bún về đêm, có một “o” xứ Huế. Giọng nằng nặng, êm ái nhẹ nhàng, quyến rũ làm sao. Em chỉ là người làm công chạy bàn mời khách. Vậy mà đêm nào không ghé, không thưởng thức vị bún bò thơm lừng, ăn ớt vào “cay té lưỡi”, nước mắt tuông tràn, thì về nhà không ngủ được (vì đói). Em bé Huế dễ thương ơi! Bây giờ, em ở đâu? Chắc đã chồng con, đã già đi, da mồi tóc bạc? Nếu em còn sống? Dẫu sao, kỷ niệm một thời nơi xứ nắng bụi mưa bùn, cũng còn “một chút gì để nhớ, để thương”…Pleiku, một phố thị nhỏ mà đi không giáp. Đi hoài vẫn còn chổ để đi. Nếu có được một em bên cạnh đi không biết mõi, không biết chán, và thời khắc cũng như ngưng đọng, ngừng trôi. Các em là dân tứ xứ, và các anh cũng từ mọi nẻo về đây. Bọn anh vì “bị đày” mà đến, còn các em do“tự nguyện” mà về. Về đây đi em? Về để bắt gặp và làm quen (cả làm tình) với những tên lính “bụi” như anh. Chắc cũng không phải em ham tiền, ham cao sang danh vọng, hoặc ham làm kiếp “giang hồ” mà là do định mệnh an bày sắp đặt? Mình không tránh được. Cuộc đời lính, kiếp giang hồ, thân phận giống như nhau? Có các em để đời các anh thêm ý nghĩa (dù không trong sạch, chả thanh cao). Nhưng các em cũng đã góp phần, góp sức cho cuộc chiến, cuộc đời. Dở hay. Hay dở? Cứ mặc! Tầm thường hay thánh thiện? Chẳng màng! Chiều Biển Hồ.Một buổi chiều, sau chuyến hành quân về, chờ vự vụ lệnh (thời gian đó, đi phép bằng SVL), đi Sài gòn.

Chúng tôi, hai thằng mượn chiếc xe Jeep của chỉ huy phó để đi một vòng phố xá. Nói là chỉ đi dạo phố, chứ thực sự là đi kiếm chổ nào đó để giải khuây.Trời xế chiều, Pleiku vắng ngắt một số đường. Hai đứa vừa đảo một vòng vẫn chưa có ý định đi đâu. Một chiếc xích lô ngược chiều chạy tới. Trên xe hai nàng con gái đẹp mặc áo dài. Trời, mặc áo dài đi dạo phố giữa xế trưa thì không phải là dân địa phương. Tên chạy xích lô cũng điệu, chạy chầm chậm và ngừng lại trước đầu xe Jeep. Tôi dừng xe, bước tới. Hai người đẹp có ý hỏi tìm địa chỉ nhà. Tôi móc ví trả tiền xe.
-Xin đừng ngại. Hai cô về đâu tôi…, xin phép, chúng tôi có thể đưa hai cô đi. Tụi tôi chỉ đi chơi, đang rãnh…
Một nàng e dè. Nàng kia bước xuống đưa địa chỉ tìm nhà.
-Chị em em từ Qui nhơn lên tìm nhà đứa bạn. Địa chỉ này…
-Đường Hai Bà Trưng. Cũng không xa mấy! Tụi tôi đưa hai cô đi. Nếu hai cô không ngại.
-Sợ phiền các anh!
-Không sao. Tụi tôi cũng muốn làm việc nghĩa. Vả lại, rất hân hạnh được các cô cho phép.
Thằng bạn nhanh nhẩu tiếp xách cái túi hành trang để vào xe và trịnh trọng mời hai quí nương lên xe yên vị….
Chó ngáp phải ruồi! Buồn ngủ gặp chiếu manh.! Ở đâu mà khiến xui như thế này?
Vừa đi, vừa gợi chuyện. Thì ra hai cô giáo lên Pleiku chơi. Cũng muốn tìm biết đây đó một vài nơi xinh đẹp ở xứ bụi mù. Trời còn sớm. Mời hai nàng cùng đi một vòng Pleiku cho biết, và sau đó là ra viếng cảnh biển hồ.Một buổi chiều quá là mộng, là mơ, làm quên đi bao gian khổ chiến trận mấy ngày qua: leo rừng, lội núi. Và quên cả cái sự vụ lệnh đi phép đang chờ. Tôi, thằng bạn, cùng hai người khách bất chợt thật là vui. Hai nàng cũng thành tâm và quyến rủ. Bờ hồ sương giăng lãng đãng. Mặt hồ lăn tăn một ít cơn sóng gợn buổi chiều hôm. Cảnh vật quá mộng, quá thơ, quá hửu tình. Hai thằng lính hành quân về chưa kịp hớt tóc, chưa kịp diện đồ. Bù xù tóc tai, áo quần nhà binh xốc xếch, vẫn không làm suy giảm những ân tình của hai em gái hậu phương – hai cô giáo miền biển mặn, cát vàng khát khao “tình anh lính chiến”.Thêm một đêm, và gần một ngày (hôm sau) với tình yêu thương nồng thắm. “Hai mươi hai” giờ, quả là ý nghĩa, quả là thú vị cuộc đời.Chúng tôi chia tay, hẹn ngày tái ngộ, đưa hai nàng về địa chỉ hai nàng cần tìm. Lưu luyến chia ly, giã từ, hò hẹn…Tôi về, năn nỉ thiếu tá chỉ huy phó gần đứt lưỡi. Ông chỉ giận dỗi một lúc, rồi mọi việc cũng qua. Lên Ban 1 nhận sự vụ lệnh, bay Sài gòn đi tiếp mấy ngày (phép) còn lại.
Tình người bản thượng.

Làng Pleimrong, cách Pleiku khoảng 30km. Là một buôn làng giàu có thịnh vượng nhất vùng. Có một trại lực lượng đặc biệt (do Đ/úy Báu làm trưởng trại). Hầu hết biệt kích quân là người thượng (khoảng một tiểu đoàn (350-400 quân). Mỗi lần đi hành quân vùng Pleimrong là coi như đi dưỡng sức, vì địch (khi đó:1970) chỉ lẻ tẻ đơn vị nhỏ. Một vùng khá an ninh nhờ đ/u Báu thường xuyên tung quân hành quân lục soát.. Một lần, tôi cùng đơn vị (tiểu đoàn) BKQ/ Tiếp ứng về đó hành quân, các đại đội thì đóng bên ngoài. Tôi, SQ phụ tá Toán A174 (chỉ huy TĐ)/BKQ/TƯ – chỉ theo với nhiệm vụ cố vấn – nên tà tà đi nhìều chỗ cho biết.

Buồn, không làm gì, đi vào mấy nhà thượng (kiếm những nhà giàu). Sức giàu của một nhà thượng ở đây không thua gì người kinh. Nhà sàn, cây danh mộc, mái ngói. Tài sản có hàng bạc triệu (năm 1970): một đàn bò 5-7 chục con, đàn dê cũng 5-6 chục. Heo lúc nhúc, gà lung tung chạy khắp vườn. Mua một con (gà) lớn nhỏ đều đồng giá. Nếu con nhỏ, sau này cũng lớn vậy thôi, núi rừng nuôi nó (người dân thượng bảo vậy). Vì thế không có chuyện so sánh lớn bé. Có một lần, vào dịp tổng thống Thiệu đến thăm, và ông được dân làng đãi rượu cần. Hai cái “ché” chứa rượu cần dành đãi tổng thống, trị giá 200.000 đồng/cái. Dân làng tổ chức tiếp đón rất rình rang.Nhà giàu, có con gái –thuộc hàng tiểu thơ – không làm gì, thường ở nhà dệt vải. Trông “tiểu thơ” ngồi dệt vải cũng quí phái lắm. Dệt những thứ thổ cẩm (từng miếng vừa vừa dùng làm xà rong, khăn choàng, có thể may áo dài) màu sắc sặc sở rất đẹp. Các nàng cứ lo dệt, dệt trên nhà sàn lót gổ đẹp. “Khách” đến chơi được lịch thiệp chào mời vào nhà. Nói chuyện, các nàng có thể nghe, nói được tiếng kinh (tiếng Việt) nhưng không rành lắm. Như vậy là có thể chọc ghẹo và làm quen. Gặp trai kinh, hầu như mấy nàng cũng thích, tuy hơi e ngại. Ít nói, chỉ hay cưòi. Thân mật, ngồi sát vào nhau, sờ soạn, mó may, không phản đối, có phần như…thích? Ngay cả sờ ngực, sờ vú, hôn hít… Nhưng mà “bắt cái nước” thì tuyệt đối không, trừ khi là chồng nàng. Đó, dễ dãi như vậy đó, mặc tình mà vui chơi, mà thân mật. Sờ ngực khá thú vị, ngực căng cứng, no tròn. Hôn thì mùi hăng hăng như khét nắng.

Cũng vì em dễ dãi, em thích. Cũng tại mình ham vui, thích khám phá tìm của lạ. Chứ không ham muốn gì đâu. Gái thượng mà không lai (lai Pháp) thì không thấy gì là đẹp. Xin lỗi nha! Nhưng tiến xa hơn nữa, hoặc sàm sở thì… coi chừng. Có thể bị mét (báo cáo), bị thưa vì có thái độ xấu xa. Tới tai ông tỉnh trưởng Đ/tá Yaba là rắc rối. Đ/tá Yaba rất uy quyền, rất có uy tín, được toàn dân thượng tin yêu. Ông bảo vệ người thượng, rất thẳng thắng với quân đội kinh (nếu có hành vi sai phạm). Còn nhớ, có một lần đi chơi, thăm mấy nữ nhân viên (kinh) ở tòa hành chánh tỉnh, tôi đậu xe nhằm “parking” của ông (tại tòa tỉnh trưởng, vì thiếu chổ đậu) bị ghi số xe, phù hiệu đơn vị, báo về Đ/tá Can (chỉ huy trưởng C2/LLĐB). Tôi bị kêu lên, ông la cho một trận, thiếu điều ký củ.Con gái thượng, con nhà giàu cũng khá là nết na chững chạc – nết na mà vẫn cho sờ mó? – Thấy trai kinh dường như thích (nhất là sĩ quan trẻ tuổi) nhưng dè dặt, cẫn thận. Thích thì thích nhưng khó mà rủ đi chơi riêng lẻ. Không biết có phải khó khăn gia đình? Tuy nhiên, đến chơi, ngồi bên nhau, chọc ghẹo, cha mẹ thấy, chẳng nói gì. Không biết họ bằng lòng hay vì sợ mà không nói?Thú vị nhất là ra rình xem tắm suối. Buổi trưa, không làm gì, tôi cùng một vài đứa rủ ra mé suối lén rình đàn bà con gái thượng tắm. Tắm có hai bến tắm: đàn ông tắm riêng và đàn bà con gái tắm riêng, khoảng cách khá xa. Và phái nữ luôn dành phần phía trên dòng nước chảy. Khi tắm, các ả cứ tự nhiên “thoát y”, lõa lồ thân thể.


Như các nàng tiên. Trửng giởn, liếng thoáng, đùa cợt, té nước, chạy quanh…Cả một đám thân thể trần truồng. mặc sức mà rình xem cho đã mắt. Bất thần đứng dậy. Thấy có người, mẹ con chí chóe la lối, vụt chạy, quơ đồ đạc khăn áo che vào thân, tỏ ra hốt hoảng. Một lần bị như vậy coi như bến tắm phải bỏ đi. Tìm bến khác. Rình xem con gái thượng tắm rất vui, nhưng mà phải kín đáo và cẫn thận. Bị báo cáo, bị thưa là khốn. Ký củ và đổ đi chổ khác như chơi.Người thượng khá chân thật, rất tình người. Ít ranh ma, xảo trá. Trừ khi họ được chung sống nhìều với người kinh. Thời VNCH, dân tộc người thượng được luật pháp bảo vệ, lại có phần được ưu đãi nhiều thứ. Cũng nhằm mục đích lấy lòng để mua chuột, cai trị?Đến với họ, quen thân với người thượng cần nên giữ ý dè chừng. Tránh lợi dụng, tránh ma mảnh, lừa dối, gạt gẫm, hãm hại, nhất là lãnh vực tình cảm yêu thương. Người con gái thượng khi yêu rất thật, cho bằng cả lòng tin. Tuy nhiên, gạt gẫm, dối lừa, chơi qua rồi bỏ. Hậu quả khôn lường (cả vật chất lãn tinh thần). Nghe nói người thượng có biệt tài “thư”. Đối với ai gạt lừa bội phản. Thư một đống đá sỏi, da trâu trong bụng, cho bỏ thói Sở Khanh phản trắc lưu manh. Nghe nói thôi, chưa có dịp thấy.Ché rượu cần Làng Pleikép, cách thị xã Pleiku khoảng 10 km. Một làng được người Mỹ (qua VN giới thiệu yêu cầu) giúp vật liệu xây dựng nhà cửa, mọi thứ tiện nghi cho toàn thể dân làng. Đúng ra, Pleikép chỉ là một ấp.Một bữa, xây cất xong, tổ chức lễ khánh thành, mời “ân nhân” BCH/B17/LLĐB (Mỹ lẫn Việt). Chỉ huy trưởng đi công tác. Đáng lẻ chỉ huy phó đi, thiếu tá Quỳnh (CHP) kêu tôi (là trưởng Ban CTCT) đi thế.Một buổi tiếp đón khá trọng thể, Hai dãy thức ăn bày thẳng tắp chạy dài. Phía trên là bàn dành cho khách quí (VIP). Thức ăn là thịt dê thui nham nhở, còn sống, máu tuơm . Hai ché rượu cần hai bên. Hai chiếc ghế dành cho thượng khách (trung tá cố vấn Mỹ và tôi). Hai dãy người dân hai bên đông đúc.

Mọi người vổ tay hoan hô mừng đón, chờ đợi khai mạc. Tr/tá Mỹ chào. Tôi chào. Hai tên đứng hai bên khá trịnh trọng, mỗi người dùng chiếc khăn trắng nắm cần câu (cần uống ruợu), lau, ngậm miệng nút cho ruợu ra. Xong, lau lại và hai tay cung kính đưa sang cố vấn Mỹ và tôi, mỗi người ngồi nút một cần. Phải uống cạn một “can” (theo nghi thức). Cái miệng ché rộng cở gang tay đầy nước tới miệng ché. Một thanh gác ngang, ở giữa là một que dính liền dài khoảng 2,5cm nằm trong nước hướng mủi xuống dưới. Nút (uống) ruợu (từ dưới đáy), nước trên miệng dực xuống, dực đến khi đầu que lên phía trên mặt nước, là một “can”. Dung lượng rượu có thể gần cả lít. Hai hàng người dân phía dưới đứng chờ. Thỉnh thoảng vổ tay tán thưởng. Tôi nâng chiếc cần nút. Từng giọt rượu nồng tuông chảy vào miệng, ngòn ngọt, thơm thơm, cũng dể uống. Tuy nhiên, càng uống, cơ thể nóng bừng. Chất rượu lan khắp cơ thể. Bên kia tên Mỹ cũng cố mà nút. Anh ta ngưng và tôi bên này, chiếc que cũng đã lộ ra trên mặt nước. Cơ thể đã nóng và đầu óc hơi choáng váng. Một tràng pháo tay vang dậy. Và hai tên “hầu cận” lại đổ thêm nước vào, lên đầy miệng ché. Kính mời nhị vị cạn thêm “can” nữa. Trời đất! Như vậy là nghi thức phải uống hai “can”. Bụng tôi đã sắp no phình. Tứ chi gần bủng rủng. Tên Tr/tá cố vấn Mỹ nút, và tôi cũng nút. “Bá quan văn võ” đứng dưới tiếp tục chờ. Cạn thêm ½ can, tôi gần muốn ngã. Đầu óc nóng bừng. Tên Mỹ vừa xong. Còn tôi. Chết bỏ cũng phải ráng cho cạn, dầu rằng uống không muốn nổi nữa. Vì thể diện, vì danh dự, tôi cố nút. Và sau cùng cũng cạn. Vổ tay vang dậy, mọi người xúm vào uống và ăn.

Tôi được chuyền đưa cái nĩa với miếng thịt dê tươm máu. Đón nhận và cắn một cái, tôi lợm giọng, muốn ói. Phải ráng mà dằn. Để miếng thịt xuống, tôi ra dấu “người bạn đồng hành” (cố vấn Mỹ) xin kiếu. Tên Mỹ đứng dậy chào giã từ. Tôi cũng chào và từ giã bước ra. Lạng quạng, muốn ngã. Tên tài xế dìu tôi ra xe. Vừa lên xe, chạy ra chưa khỏi cổng là tôi ói. Ói tơi tả, ói dài dài về tới cổng trại. Đầu óc như muốn bể tung, nhức buốc. Ai đưa về phòng tôi cũng không nhớ. Miên mang, dã dượi, suốt một đêm và gần cả một ngày. Chiều đến, tạm tỉnh, thiếu tá Quỳnh chỉ huy phó đến thăm. Động viên khen ngợi:
-Cậu đở chưa? Kể ra cũng không phải mất mặt. Ói trên xe, ói dọc đường không ai biết. Tham dự buổi lễ thành công. Cám ơn cậu. Một lần, cho biết. Tởn tới già. Sau này nghe nói đến rượu cần, tôi phát sợ.Thật sự, rượu cần ngon. Có lẻ rượu đãi khách quí, người thượng họ làm chất liệu ngon, tốt. Lại nước rượu đầu tiên, nguyên chất. Uống ngòn ngọt, thơm thơm, nồng nàng hương vị. Cũng là thứ rượu ngon. Ngon không thua gì rượu đậu nành, rượu nếp than, rượu đế. Cũng là “quốc tửu”. Hân hạnh lắm thay!…Cuộc đời binh ngiệp, trãi bao năm, tôi đã đi, đến khá nhiều nơi, nhiều chổ: đồng bằng, biển cả, núi rừng… qua bao nhiêu miền đất nước, quê hương. Pleiku vẫn là nơi đáng nhớ.Vùng cao nguyên đất đỏ: nắng bụi mưa bùn. Nghe qua, ai cũng ngại, cũng sợ, không muốn đến. Nhưng đã đến rồi, vẫn thấy luyến, thấy thương – Thương đất nước, thương tình người, thương cảnh vật. Trước đây, thời giặc giã chiến tranh là vậy. Bây giờ không biết sao?
Viết về Pleiku, viết để nhớ về kỷ niệm. Và những ai, đã một lần đến Pleiku, xin cùng nhau chia xẻ chút nỗi niềm.

Tháng tư/11
Ng. Dân.





Posted by: caoduy Feb 9 2013, 09:49 AM






Pleiku - 6 tháng cuối cùng



Bài này nói về Pleiku trong mấy tháng cuối cùng trước khi có cuộc di tản dọc theo Liên Tỉnh lộ 7B, bắt đầu từ tỉnh này. Bài này có tính cách tóm lược và vì thế chúng tôi loại bỏ một số sự kiện cho ngắn gọn. Chúng ta có thể đọc để biết qua về tình hình tại tỉnh biên cương này trước khi miền Trung dần dần rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt.



Tháng Chín 1974, Bộ Chỉ huy Tiểu Khu Pleiku dọn sang doanh trại mới xây xong là Trại Biên Trấn có cổng chính nằm trên Đường Hoàng Diệu và cổng sau nằm trên Đường Trần Hưng Đạo, đối diện với cổng chính của trại cũ. Tôi chỉ còn nhớ rằng sau đó tại trại cũ, câu lạc bộ sĩ quan được dùng làm Ty Nhân Dân Tự Vệ mà Trưởng Ty là Đại Uý Bảo Nghê. Trung tâm Điều hành Hỗn hợp vẫn nằm trong trại cũ nhưng Chỉ Huy Trưởng là Thiếu tá Trần Thanh Tâm mới lên trung tá.

Lúc bấy giờ, Tiểu khu Pleiku chỉ còn có ba quận, tức chi khu, là Lệ Thanh, Lệ Trung và Phú Nhơn nhưng có đến 77 xã, tức là 77 phân chi khu cần tới 144 sĩ quan làm phân chi khu trưởng và phân chi khu phó. Hệ thống phân chi khu tại đây vừa mới hoàn chỉnh và cũng vì vậy mà tôi phải ra công tác ngoài này trong một thời gian bất định. Vì hầu hết các sĩ quan tại Pleiku, theo tôi biết, cho rằng việc thành lập các phân chi khu là một mưu đồ chính trị hơn là một chiến lược quân sự nên không có cảm tình với tôi vì tôi có nhiệm vụ tìm hiểu về hiệu năng của hệ thống này.

Về lực lượng chiến đấu, Tiểu khu Pleiku lúc đó có mấy trung đội Pháo Binh Lãnh Thổ, chín tiểu đoàn Địa Phương Quân 205, 213, 222, 223, 239, 240, 241, 278 và 279 và hai đại đội biệt lập. Trong chín vị tiểu đoàn trưởng lúc đó, chỉ có tiểu đoàn trưởng của Tiểu Đoàn 278 là Thiếu tá (Lý Thái Phước), tất cả tám vị kia đều mang cấp bậc đại uý. Tôi nghe nhiều người nói rằng Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu 2 là Tướng Nguyễn Văn Toàn, lúc đó mới lên trung tướng, thuộc binh chủng Thiết Giáp nên hầu hết các chức vụ trọng yếu tại Quân khu 2 và nhất là tại Pleiku đều do các sĩ quan Thiết Giáp nắm giữ. Tôi thấy điều này chỉ đúng một phần nào. Quận Trưởng Kiêm Chi Khu Trưởng Lệ Trung là Thiếu Tá Nguyễn Đình Minh không thuộc binh chủng Thiết Giáp. Quận Trưởng Kiêm Chu Khu Trưởng Phú Nhơn là Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Cẩn cũng vậy và Quận Trưởng Kiêm Chi Khu Trưởng Thanh An là Thiếu tá Nguyễn Tải, một sĩ quan Địa Phương Quân phục vụ tại Pleiku từ khi còn là một thiếu uý. Tuy nhiên, tháng Mười 1974 thì Thiếu tá Tải có nhiệm vụ đặc trách thanh tra phân chi khu và người thay thế ông tại Thanh An là Thiếu tá Lê Phú Mỹ, một sĩ quan Thiết Giáp và Chi Khu Phó Phú Nhơn là Thiếu tá Nguyễn Thiện Thành, một sĩ quan Thiết Giáp khác. Riêng chi Đội Trưởng 214 Cơ Giới thì đương nhiên phải là một sĩ quan Thiết Giáp và người giữ chức vụ này là Thiếu uý Nguyễn Đức Long, cháu ruột của Đại tá Nguyễn Đức Dung, Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Pleiku. Trước đó, Đại tá Dung là Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, về giữ chức vụ này thay thế Đại tá Trương Sơn Ba tức Ya Ba đắc cử vào Thượng Nghị Viện.

Nhìn chung, tình hình tại Pleiku lúc bấy giờ khá yên tĩnh. Có mấy lần tôi theo Thiếu tá Tải đi xe Jeep vào tận các nơi xa xôi hẻo lánh để thăm các phân chi khu mà chẳng phải lo ngại gì. Chỉ có những phân chi khu nằm bên ngoài Bộ Chỉ Huy Chi khu Thanh An về phía Đức Cơ là bị cộng quân mấy lần quấy nhiễu về ban đêm. Cũng nhờ đi theo Thiếu tá Tải vào tận các làng xã mà tôi hiểu thêm về đời sống của dân quê nghèo khổ tại Pleiku, nhất là người Thượng. Và cũng nhờ đi theo Thiếu tá Tải mà tôi biết trước việc Tướng Toàn bị thay thế.

Khoảng cuối tháng Mười, tôi và Thiếu tá Tải ghé vào dùng cơm trưa với một linh mục quản nhiệm một xứ đạo gần Thanh An nhân một chuyến công tác tại đây. Vị linh mục này có tên là Thành, hỏi tôi ở Sàigòn ra hồi nào và cho biết rằng Ngài có quen biết với vị linh mục quản nhiệm giáo xứ của tôi.

Sau khi ăn trưa, trong lúc Thiếu tá Tải ngồi lại phòng ăn uống trà với linh mục Thành thì tôi ra phía sau nhà hút thuốc và ngắm cảnh núi đồi. Tôi nghe linh mục Thành nói với Thiếu tá Tải rằng “Tướng Toàn kỳ này phải đi đấy!” Thiếu tá Tải vốn ăn nói nhỏ nhẹ, nói những gì sau đó tôi không nghe rõ.

Vài ngày sau, tôi theo Thiếu tá Tải xuống thanh tra các phân chi khu thuộc Phú Nhơn. Tối hôm đó, chúng tôi dùng cơm trong Bộ Chỉ Huy Chi Khu Phú Nhơn với Thiếu tá Cẩn, thân sinh của ông và không có mặt Thiếu tá Thành. Suốt bữa cơm, hai ông thiếu tá này bàn đủ chuyện nhưng không thấy Thiếu tá Tải nói về Tướng Toàn. Sau bữa ăn tối, tôi nói muốn ra bên ngoài chơi và ngủ tối ngoài đó. Thiếu tá Cẩn cười cười nói rằng ra ngoài đó chơi rồi về trong này mà ngủ, đừng có sợ pháo kích vì vùng này rất an ninh. Thiếu tá Tải thì cho phép tôi lái chiếc xe Jeep mang số 113-275 ra ngoài đó nhưng phải trở vào trước tám giờ sáng hôm sau. Tuy nhiên, cô con gái của gia đình quen đã chạy chiếc Honda Dame vào đón tôi ra nhà cô. Chính cái đêm ngủ lại tại nhà người quen này đã khiến tôi rất có cảm tình với dân quê miền Trung, mãi cho đến bây giờ. Tôi rất phục việc nhiều gia đình dù nghèo khổ cách mấy cũng cố gắng cho con ăn học nên người. Cô gái mà tôi nói ở trên lúc đó đang tập sự y tá tại Dân Y Viện Pleiku mà tôi quen biết là vì chiều nào cũng đi bộ từ Bộ Chỉ Huy về nhà tại Cư xá Trần Quí Cáp ngang qua đó nên chào hỏi nhau nhiều lần rồi thành quen.

Trở lại việc Thiếu tá Cẩn nói rằng vùng của ông rất an ninh không sợ pháo kích ban đêm thì thực ra lúc đó tại bất cứ vùng nào trong tỉnh Pleiku cũng vậy mà theo tôi biết là do Tướng Toàn.

Cứ mỗi lần một nơi nào đó trong tỉnh lỵ Pleiku hoặc các vùng phụ cận mà bị pháo kích ban đêm là ngay sáng hôm sau có một uỷ ban điều tra được thành lập. Thông thường, uỷ ban này gồm có các sĩ quan thuộc Văn Phòng Tổng Thanh Tra, Ty An Ninh Quân Đội, Phòng Nhì và Phòng Ba Tiểu Khu Pleiku cùng với một sĩ quan Pháo Binh. Cũng thông thường, khoảng ba hay bốn giờ chiều cùng ngày thì uỷ ban điều tra trở về sau khi đã tìm ra vị trí cộng quân đặt hoả tiễn hay đại pháo và lẽ đương nhiên là biết rõ nơi đó thuộc phạm vi trách nhiệm của đơn vị nào. Thời gian còn lại của chiều hôm đó, vị chủ tịch của uỷ ban điều tra sẽ hoàn thành Phúc Trình Điều Tra để cho đả tự viên đánh máy trình thượng cấp vào sáng sớm hôm sau. Chỉ một hoặc hai ngày sau, viên đơn vị trưởng có chịu trách nhiệm an ninh khu vực mà cộng quân đặt hoả tiễn sẽ mất chức. Tôi biết có ít nhất hai tiểu đoàn trưởng Địa Phương Quân bị mất chức trong trường hợp như vậy. Vì thế nên nhiều người “khoái” Tướng Toàn ở điểm đó. Tôi nhận thấy Tướng Toàn không làm như vậy cũng không được bởi vì Pleiku là nơi đặt bản doanh của rất nhiều đại đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Nếu không kể Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu 2 thì tại Pleiku còn có, tính từ đông sang tây và theo tôi biết, Liên Đoàn 322 Yểm Trợ Trực Tiếp, Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu 2, Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị, Liên Đoàn 72 Quân Y, Sư Đoàn 6 Không Quân, Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh tại Căn Cứ Hàm Rồng. Ngoài ra, tại Pleiku còn có một kho xăng thùng và một kho xăng bồn mà đặc công Việt Cộng bò vào rất thường xuyên để rồi chết banh xác.

Từ tháng Mười Một 1974, bầu không khí tại các đơn vị tại Pleiku nhộn nhịp hẳn lên vì các ông thay phiên nhau... khao lon. Ngoài hai đại tá được lên chuẩn tướng là Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân và Trần Văn Cẩm, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II thì còn vô số các sĩ quan cấp uý lên cấp tá. Tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Pleiku, sĩ quan lên cấp tá duy nhất là Đại Uý Phạm Viết Giáp, Trưởng Phòng Nhì. Ông này vừa ít giao thiệp vừa nghèo nên không có tiền khao lon ai cả. Các tiểu đoàn trưởng Địa Phương Quân lên thiếu tá gồm có Đại Uý Trần Kỳ, Tiểu Đoàn Trưởng 205 (ông này mới về thay Đại Uý Nguyễn Tấn Á), Đại Uý Nguyễn Quang Miên, Tiểu Đoàn Trưởng 222 và Đại Uý Nguyễn Hải Thành, Tiểu Đoàn Trưởng 279. Trong ba ông này, Thiếu tá Thành là người đối xử với tôi tốt nhất, như anh em một nhà. Tôi không quen biết Thiếu tá Miên còn riêng về Thiếu tá Kỳ thì tôi nghe nhiều người khen.

Cũng trong thời gian này, có một số người bắt đầu kín đáo bàn tán về tin Tướng Toàn sắp bị thay thế. Tuy nhiên, tôi không nghe thấy bất cứ ai nói rằng ai sẽ là người thay thế Tướng Toàn. Tôi cứ tưởng rằng một khi chuẩn bị ra đi thì người ta không màng đến công việc thường nhật như trước nữa nhưng đối với Tướng Toàn thì lại khác.

Một ngày kia, chúng tôi được lệnh mở lại hồ sơ điều tra về vụ Plei Dolim. Trước đó, Việt Cộng về lùa dân chúng, hầu hết là người Thượng, vô rừng “học tập” và một đơn vị được lệnh đi giải cứu. Tuy nhiên, đơn vị này chỉ tiến vào rừng một đoạn rồi được lệnh trở về sau khi báo cáo rằng không tìm thấy dấu vết của dân chúng cũng như Việt Cộng. Trên đường về, cái đơn vị này có bắt đi một số gia súc của người Thượng và họ làm dữ sau đó. Theo vài người nói, nếu ngoài đó không làm đến nơi đến chốn thì sẽ có một phái đoàn từ Giám Sát Viện ra điều tra chứ không phải chuyện nhỏ. Có lẽ phúc trình điều tra trước đó không làm cho thượng cấp hài lòng nên người ta bắt mở hồ sơ thêm một lần nữa. Lần này, trên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tăng cường cho chúng tôi một sĩ quan là Thiếu tá Hương (không nhớ họ). Thế là chúng tôi lại gửi công điện đi để gọi hết người này đến người khác về trình diện để thẩm vấn. Có lần, chúng tôi phải gọi cùng một lúc tới mấy sĩ quan về để họ đối chất với nhau nên đơn vị đó không còn đủ sĩ quan thay thế tạm thời. Mấy “ông” bên Phòng Tổng Quản Trị gặp chúng tôi cứ trách lên trách xuống.

Một buổi sáng nọ, tôi vừa xuống ca trực mà không có gì cần làm ngay nên nhân gặp Thiếu uý Nguyễn Đăng Mừng bên Ty Nhân Dân Tự Vệ ghé ngang, tôi cùng ông này kéo nhau ra một tiệm cà-phê trên Đường Hoàng Diệu nghe nhạc, định đến khoảng 10 giờ sẽ trở về. Chúng tôi chưa nghe xong một mặt của cuốn băng Anna 5 thì anh chàng tài xế chạy ra tìm.

Về văn phòng, tôi được lệnh phải cầm chồng hồ sơ Plei Dolim lên Văn Phòng Tư Lệnh Quân Đoàn ngay lập tức vì Trung Tướng Toàn muốn xem một số chi tiết trong đó, thay vì đợi đến khi có phúc trình điều tra như thường lệ. Khi chiếc xe bắt đầu chạy vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, nghe anh tài xế nói, tôi mới biết rằng theo lệnh của Tướng Toàn, chỉ có xe du lịch và xe Jeep mới được phép ra vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II bằng cổng chính.

Vừa lên lầu, tôi đã gặp ngay một viên đại uý đứng chờ. Ông này vừa lật hồ sơ ra xem vừa hỏi tôi về một số chi tiết. Sau đó, ông đem chồng hồ sơ vào trình Trung Tướng Toàn và một lúc sau trở ra, nói với tôi rằng nếu trong khoảng nửa tiếng nữa mà không thấy Tướng Toàn gọi vào hỏi thêm chi tiết thì tôi có thể ra về. Nửa tiếng sau, tôi chào viên đại uý ra về sau khi ông này hứa sẽ cho người mang hồ sơ xuống trả lại.

Sau này, có dịp gặp Trung uý Lãnh của Văn Phòng Tổng Thanh Tra Quân Đoàn II, tôi mới biết trên đó cũng mở một cuộc điều tra riêng của họ về vụ Plei Dolim.

Sau đó, không biết vì lý do gì, một sĩ quan cấp tá khác là Trung tá Đoàn Tuệ từ Phòng Ba Quân Đoàn II xuống làm việc chung với chúng tôi. Trung tá Tuệ và Thiếu tá Nguyễn Tải thay phiên nhau đi thanh tra các phân chi khu trong khi tôi lại phải sang phần hành thanh tra các tiểu đoàn Địa Phương Quân.

Thông thường, trong các cuộc thanh tra thường niên, phái đoàn chúng tôi dựa vào các câu hỏi đã ghi sẵn trong mẫu QĐ mà thanh tra từng lãnh vực trong đó gồm có:

- Quân Số và Quản Trị Nhân Viên;
- Tổ Chức và Huấn Luyện;
- Trang Bị Cơ Hữu;
- Hành Chánh Tài Chánh, Ẩm Thực Vụ, Quân Tiếp Vụ và Thực Phẩm Phụ Trội;
- Chiến Tranh Chính Trị, Kỷ Luật và Tinh Thần;
- Doanh Trại, Trại Gia Binh và An Ninh Đồn Trú
- Hoạt Động của Đơn Vị.

Về sau, mục Thực Phẩm Phụ Trội được bãi bỏ và thay vào đó, chúng tôi có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo hàng tháng về tù hàng binh địch.

Việc thanh tra các tiểu đoàn Địa Phương Quân đã đem lại cho cá nhân tôi nhiều thù oán sau này. Số là dựa theo những gì mình xem xét, các lãnh vực trên đây sẽ được đánh giá Thượng Hạng, Ưu, Bình, Thứ, và Liệt. Đơn vị nào mà bị xếp vào loại Liệt thì đơn vị trưởng coi như mất chức. Đơn vị nào bị xếp hạng Thứ thì ít nhất cũng có vài sĩ quan lãnh từ tám ngày trọng cấm trở lên. Có một lần, chúng tôi ghi vào phúc trình rằng “Đơn vị chưa có Huấn Thị Điều Hành Căn Bản”. Đọc xong, Đại tá Dung nổi giận cầm bút phê ngay bên cạnh “Phạt đơn vị trưởng tám ngày trọng cấm”. Cũng có những trường hợp chúng tôi bị oán trách từ các đơn vị khác, không phải đơn vị bị thanh tra mà chúng tôi chỉ xin kể ra một ví dụ.

Có nhiều đơn vị trưởng bổ nhiệm một số sĩ quan vào các chức vụ mà họ chưa từng theo học khoá căn bản, chẳng hạn như sĩ quan trưởng Ban Tư nhưng chưa học khoá tiếp căn bản về liệu bao giờ. Theo chỉ thị, chúng tôi phải phúc trình sự việc này và kết quả là Phòng Tổng Quản Trị phải gửi ông này đi học đồng thời phải kiếm người thay thế tạm thời. Nhiều khi gặp mấy ông bên Phòng Tổng Quản Trị, tôi bị họ trách hoài vì kiếm ra người có đủ khả năng chuyên môn để thay thế không phải là chuyện chơi. Nhưng tôi nghe nói đã có những vụ mua chuộc hối lộ nhau trong những trường hợp như vậy. Và cũng chỉ vì làm việc quá thẳng thắn, không biết “du di” mà có lần chúng tôi suýt mang hoạ vào thân.

Vào thượng tuần tháng Chạp 1974, việc Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn sắp sửa giã từ Quân Đoàn II và Quân Khu 2 là điều mà gần như ai cũng biết. Sau đó, lại có tin thay thế Tướng Toàn sẽ là Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, lúc đó đang là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Quang Trung.

Có rất nhiều người chú ý đến việc Tướng Phú chưa từng làm đơn vị trưởng một đại đơn vị nào tại Cao Nguyên bao giờ thì nay làm tư lệnh cả một quân đoàn liệu có gặp trở ngại gì hay không. Kế đến, lại cũng có nhiều người đoán tới đoán lui ai sẽ là tham mưu trưởng mới của quân đoàn.

Ngày 8 tháng Chạp, tôi ở lại văn phòng làm việc rất trễ và đến khoảng tám giờ tối thì có người dưới phòng trực đem xuống cho tôi một điện văn để trong bao thơ có mấy chữ Thượng Khẩn và Kín để tôi ký nhận. Mở bao thư ra xem, tôi mới biết đó là một công điện gọi tôi về Sàigòn nội nhật hôm sau mà đoạn cuối trong đó chỉ ghi rằng “Lý do cho biết sau.” Tôi ở lại văn phòng làm cho xong văn kiện dở dang rồi lên nhà Thiếu Tá Lê Văn Tư là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi trên Chợ Mới để báo tin. Nhân tiện, tôi nhờ ông sáng sớm hôm sau gọi điện thoại sang Thiếu Tá Đinh Văn Yên, Chỉ Huy Trưởng Quân Vận Pleiku xin ưu tiên dành chỗ trên phi cơ cho tôi về Sàigòn trong ngày 9 mong gặp may mắn. Gần tám giờ sáng ngày hôm sau, tôi vào đến văn phòng thì tất cả mọi người đã có mặt. Thiếu Tá Tư bảo đả tự viên đánh sự vụ lệnh cho tôi mà trong phần “Ngày về” ghi là “Khi xong công tác”. Sau đó, ông nói với tôi rằng bên Quân Vận cho biết ngày hôm nay sẽ có rất nhiều phi vụ chuyển quân từ Sàigòn ra nên khi trở về, phi cơ trống chỗ nhiều lắm, không có ai phải đợi sang ngày hôm sau. Ngay sau đó, tôi lại phải sang Khối Tài Chánh của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận để lãnh lương. Trưởng Khối là Trung Uý Nguyễn Văn Nam giúp tôi xong việc rất nhanh chóng. Sau này, tôi nghe tin anh Nam đã tử nạn trong khi di tản tại Phú Bổn. Tin này làm tôi vừa buồn vừa ân hận vì vào tháng Chín trước đó, tôi có lỗi với anh mà chưa có dịp gặp riêng để xin lỗi.

Lãnh lương xong, tôi sang Quân Vận Pleiku trình sự vụ lệnh để xin phi vụ thì quả nhiên sau đó được cho biết rằng sẽ có chỗ cho tôi trên chuyến bay lúc hai giờ. Tôi xin dời lại bốn giờ vì như vậy, tôi có thể thu xếp một số công việc cá nhân khác. Sau đó, tôi đang định đi bộ ra một tiệm ăn trên Đường Lê Lợi thì gặp Trung Uý Nguyễn Hữu Cải thuộc Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị lái xe chở một số sĩ quan cấp úy chạy vào. Trung Uý Cải cũng cho biết rằng bình thường thì đơn vị của anh phải mua vé Hàng Không Việt Nam cho các quân nhân đi công tác nhưng hôm nay thì có nhiều phi vụ quân sự nên tiết kiệm được khá nhiều tiền. Anh Cải cao lớn, đẹp trai và rất có tư cách, là một trong những đàn anh mà tôi quí mến nhất trong suốt thời gian phục vụ trong quân đội. Rất tiếc rằng đó là lần sau cùng tôi gặp anh vì sau này anh lâm bệnh rồi qua đời trong một trại tù ngoài miền Bắc.

Đi dọc theo Đường Lê Lợi, tôi thấy những chiếc vận tải cơ Hercules C-130 nối tiếp nhau hạ cánh và cất cánh. Có thể nói rằng lúc nào nhìn lên bầu trời lúc đó cũng thấy một chiếc đảo vòng quanh phi trường Cù Hanh. Chiều hôm đó vào phi trường, tôi mới biết có một đơn vị Biệt Động Quân được chuyển từ Sàigòn ra. Nhìn thấy các anh chuyển những khẩu đại bác 105mm từ phi cơ xuống, tôi biết đơn vị này ở cấp liên đoàn.

Trưa ngày 23, tôi xuống Trung Tâm Xã Hội Quân Đội tại Ngã Sáu xin phi vụ trở ra Pleiku thì trưa hôm sau có được chỗ trên một chiếc Caribou C-7. Lúc ngồi chờ phi vụ tại Phòng Hành Khách Quân Sự của Phi Trường Tân Sơn Nhứt, tôi gặp một thằng bạn bên Quân Cảnh cùng với mấy đồng đội áp tải một toán tù binh Việt Cộng vào ngồi tại một khu riêng biệt. Trong toán này, tôi thấy có hai chị bị còng tay chung với nhau chạy lạch bạch, tay còn lại cũng làm điệu cầm một chiếc khăn mouchoir.

Tôi trở ra Pleiku vào khoảng hơn bốn giờ chiều, lúc sương trắng đã xuống che kín đường phố. Sau khi tắm rửa, tôi vào đơn vị thì hầu hết đã về nhà chuẩn bị cho đêm Giáng Sinh. Điều này chứng tỏ rằng lệnh cắm trại cũng không gắt gao cho lắm. Tôi ghé qua phòng trực thì gặp mấy thằng bạn nói rằng mày không ra sớm mà chứng kiến lễ bàn giao quyền Tư Lệnh Quân Đoàn giữa Tướng Toàn và Tướng Phú rất oai nghiêm. Nghe vậy, tôi ghé qua Khối Chiến Tranh Chính Trị xin phép xem một số hình ảnh về buổi lễ này.

Đến đây, tôi nghĩ cũng nên nói qua về Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và kế đến là Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II.

Vào tháng Mười 1973, Tướng Phú, lúc đó là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Quang Trung, muốn ra xạ trường xem việc sử dụng nòng giảm thiểu M-72 trong việc huấn luyện. Hôm đó, tháp tùng Tướng Phú ra xạ trường có tới hàng chục sĩ quan cấp tá còn tôi vì là tép riu nên ôm cặp đi sau cùng. Đó là lần duy nhất trong đời quân ngũ tôi có dịp đi theo và đứng gần Tướng Phú. Tôi thấy ông nói năng nhỏ nhẹ và giản dị.

Tôi không phải là một người có đủ tư cách và kiến thức quân sự để đánh giá khả năng Tướng Phú. Trong thời gian ngắn ngủi ông ở Pleiku, tôi để ý thấy tất cả các phúc trình đưa lên ông, ông đọc xong, phê bên cạnh bằng bút lông mực đỏ mà không bao giờ bỏ dấu. Về việc Tướng Phú đề cử mấy người bạn của ông ra giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II và Quân Khu 2 mà không được chấp thuận, tôi chỉ biết được một số chi tiết.

Khi Tướng Phú còn ở TTHL Quang Trung, Chỉ Huy Phó của trung tâm là Đại Tá Phạm Văn Huấn và Tham Mưu Trưởng là Đại Tá Phạm Văn Hưởng. Tuy cả ba cùng là Phạm Văn nhưng hai ông kia không phải là bà con thân thích nên có lẽ ông không muốn kéo theo ra Pleiku. Người thứ nhất mà ông muốn giữ chức TMT QĐII là Đại Tá Biệt Động Quân Nguyễn Văn Đại, lúc đó đang là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Theo những người biết về Đại Tá Đại kể lại thì ông là một sĩ quan ưu tú và giỏi về hành chánh quản trị nhưng chức tham mưu trưởng một quân đoàn quả là quá lớn và xa lạ với ông. Nhận xét của cá nhân tôi là Đại Tá Đại hiền lành và khiêm cung giống Đại Tá Huấn của TTHL Quang Trung. Dù sao đi nữa thì việc đề nghị này cũng không được Bộ Tổng Tham Mưu chấp thuận. Kế đến là Đại Tá Cao Đăng Tường. Tôi biết ông này từ năm 1968 khi ông còn là Trung Tá Cục Trưởng Cục Chính Huấn. Ông rất hiền lành nhưng nếu nói về khả năng để giữ chức tham mưu trưởng một quân đoàn thì ông thua Đại Tá Đại. Có lẽ vì vậy nên Bộ TTM cũng không chấp thuận cho ông ra giữ chức vụ TMT QĐ II mà thay vào đó, bổ nhiệm Đại Tá Lê Khắc Lý.

Về Đại Tá Lý, tôi phải công nhận hai điều. Thứ nhất, ông khá nghiêm khắc nên nhiều người không ưa. Thứ hai, ông thừa khả năng giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II và Quân Khu 2. Và điều thứ hai này mới là quan trọng, nhất là ông thuộc loại khá thanh liêm. Đại Tá Lý đã hai lần giữ chức Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 22 Bộ Binh dưới quyền Đại Tá và Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Hiếu nên rất am tường địa hình tại Cao Nguyên cũng như vùng duyên hải.

Mới về nhậm chức được ít lâu, Đại Tá Lý gửi đi các đơn vị một sự vụ văn thư ra lệnh cho tất cả các quân nhân trực thuộc Quân Đoàn II phải bỏ quân phục bốn túi có kiểu túi tròn, dùng nút của Mỹ giấu bên dưới nắp áo và nắp túi. Thay vào đó, tất cả phải mặc quân phục đúng theo mẫu của Cục Quân Nhu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Anh em chúng tôi thường than phiền là nút áo của Việt Nam làm mỏng dính, khi bỏ ngoài tiệm giặt ủi rất thường bị bể.

Có một ngày nọ đang có lệnh cấm trại, Đại Tá Lý chạy xe ngang qua khu Diệp Kính thấy quân nhân đến đó rất đông để xem phim Gia Lăng Trùng Kiến Tinh Võ Môn. Ngay sau đó ông gọi điện thoại xuống các đơn vị trưởng nghoé cho một tăng. Tôi lại thích Đại Tá Lý ở điểm này. Trong khi Tướng Phú phải chấp nhận việc Bộ Tổng Tham Mưu bổ nhiệm Đại Tá Lê Khắc Lý thì ông lại có toàn quyền bổ nhiệm các tham mưu trưởng tiểu khu mà đầu tiên là Pleiku.

Người đầu tiên mà Tướng Phú bổ nhiệm thay thế Trung Tá Lê Thường trong chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Pleiku là Thiếu Tá Đàm Văn Từ, một người mà tôi chưa hề nghe nói tới. Chỉ một tháng sau, Thiếu Tá Từ lại sang giữ chức Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Pleiku và thay thế Thiếu Tá Từ là Trung Tá Trần Hữu Tác.

Trước đó cả chục năm, tôi đã biết ông này khi ông còn là một trung uý trưởng trại của Lực Lượng Đặc Biệt. Về sau, ông trở thành một trong những sĩ quan ưu tú của binh chủng này. Việc đưa ông về Pleiku giữ chức tham mưu trưởng là đúng, nhiều người muốn, nhưng tại sao Tướng Phú không đưa ông về ngay từ đầu. Trong thời gian đó, tất cả các đơn vị đều bận rộn vì tình hình biến chuyển cùng với việc thay đổi cấp số đơn vị mà cứ phải họp hành thuyết trình liên miên khi có tham mưu trưởng mới, rất phiền phức, nhất là đối với các đơn vị trưởng trấn thủ xa xôi.

Ngày 9 tháng Giêng 1975, anh em chúng tôi được tin Phước Long thất thủ. Tuy nhiên, tôi thấy hầu hết đều có vẻ buồn hơn là lo lắng vì theo họ, tình hình chung trên toàn lãnh thổ không đến nỗi nào. Tôi có một người bà con lúc đó đang ở Phước Long là Linh Mục Vũ Cát Đại, Trưởng Phòng Tuyên Uý Công Giáo Tiểu Khu Phước Long. Vài ngày sau tôi gọi điện thoại về Sàigòn hỏi thăm thì được xác nhận rằng ông đã bị xem như mất tích cùng với Đại Tá Nguyễn Thống Thành và Trung Tá Nguyễn Văn Thành (không phải Trung Tá Thành “Râu” bên Nhảy Dù). Vài ngày sau nữa, chúng tôi nhận được một lá thư của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, đang giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trường Thiết Giáp, gửi ra hỏi thăm chung. Rồi Đại Tá Nguyễn Đức Dung cũng đi theo Tướng Toàn.

Tối hôm đó, tôi đang ngồi trực thì được lệnh lên ngay Liên Đoàn 66 Khai Thác Truyền Tin Diện Địa để nhận một bưu điệp từ Phủ Thủ Tướng gởi ra có độ khẩn là Hoả Tốc và độ mật là Tối Mật. Vì chỉ có sĩ quan tổng trực mới có quyền mở một bao thư có hai chữ Tối Mật nên tôi đem bao thư đó sang Toà Hành Chánh thì thấy Thiếu Tá Khổng Trọng Phương đang đứng chờ tôi ngoài hành lang lầu một còn Đại Tá Nguyễn Đức Dung thì đi đi lại lại trong văn phòng của ông có gắn hai chữ Tỉnh Trưởng phía bên trên cửa. Thiếu Tá Phương vốn ít nói, chỉ nhận lấy bao thơ, không hỏi gì cả rồi vỗ vai ra hiệu cho tôi về. Gần trưa ngày hôm sau, anh bạn bên Phòng Nhì nói nhỏ cho biết bưu điệp đó có nội dung “Đại Tá Nguyễn Đức Dung chuẩn bị bàn giao chức vụ Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng”. Không biết Thiếu Tá Phương hay Đại Uý Phạm Ngọc Minh Chánh Văn Phòng Tỉnh Trưởng “xì” tin này ra. Lúc đầu, nhiều người xì xào rằng Tân Tỉnh Trưởng Pleiku sẽ là Trung Tá Chương lúc đó đang chỉ huy Tiểu Đoàn 69 Pháo Binh. Sau đó, tôi mới được biết người thay thế Đại Tá Dung sẽ là một người bạn cùng Khoá 11 Võ Bị với ông, Đại Tá Hoàng Thọ Nhu, lúc đó đang là một Liên Đoàn Trưởng Biệt Động Quân.

Tôi biết Đại Tá Nhu khá rõ. Vào năm 1965, khi Đại Uý Bùi Hữu Nghĩa (thường được gọi là Đại Uý Paul), Tiểu Đoàn Trưởng 36 Biệt Động Quân hy sinh tại mặt trận Phước Long thì ông Nhu đã là một thiếu tá ưu tú của binh chủng này. Năm 1972, tôi có phục vụ dưới quyền ông trong một thời gian ngắn tại mặt trận Tân Cảnh, Kontum. Khoảng gần cuối tháng Giêng 1975, Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II xuống chủ toạ lễ bàn giao chức vụ giữa Đại Tá Dung và Đại Tá Nhu, tổ chức ngay sân cờ Toà Hành Chánh mà tôi cũng có mặt.

Vài ngày sau, chúng tôi nhận được Sự Vụ Văn Thư số 7474 từ Bộ Tổng Tham Mưu kèm theo một phụ bản dày gần bằng nửa cuốn Melway tại Úc hiện nay. Phụ bản này được in bằng hai thứ tiếng Việt – Anh mà theo đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Pleiku sẽ không còn chức vụ Tiểu Khu Phó. Vì vậy, Tiểu Khu Phó lúc đó là Trung Tá Quách Năng ra giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Chiến Thuật. Hai tuần sau, Thiếu Tá Lê Phú Mỹ cũng đi theo Đại Tá Dung và Trung Tá Năng lại giữ chức vụ Chi Khu Trưởng Thanh An thay thế Thiếu Tá Mỹ.

Trước Tết Ất Mão mấy ngày, Cộng quân vị phạm ngưng bắn, tất công một số vị trí gần Thanh An khiến nhiều thường dân thương vong. Vì vậy nên Trung Tá Năng hướng dẫn một phái đoàn của Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát Đình Chiến ICCS đến tận nơi xem xét. Cộng quân lại tấn công luôn cả đoàn xe này khiến Trung Tá Năng bị thương mù mất một mắt. Thiếu Tá Nguyễn Tải lại từ giã chúng tôi ra làm Quận Trưởng Thanh An một lần nữa. Thực tình mà nói, lúc đó tôi căm giận bọn Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt hơn bao giờ hết.

Chiều 30 Tết, tôi ở lì trong văn phòng không đi đâu cho đến gần trưa hôm sau thì Thiếu Tá Tư cho tài xế vào đón tôi lên nhà ông dùng cơm. Đến chiều, tôi ghé xuống nhà một người bạn thăm bà vợ mới sanh rồi trở về văn phòng. Tối hôm đó, trong phòng trực rất đông anh em nên tôi cũng xuống đó cho vui. Chúng tôi dành rất nhiều thì giờ để bàn về chiến sự và tôi thấy những người phục vụ lâu năm tại Pleiku không tin rằng Việt Cộng sẽ dám tấn công vào đây. Cứ nhìn lại Trận Mậu Thân thì rõ, tấn công Ban Mê Thuột thì Việt Cộng may ra còn có thể đạt được một mục đích nào đó chứ tấn công Pleiku thì chỉ có nướng quân vô ích.

Khoảng một tuần sau, các anh em trong Đại Đội Tình Báo Quân Đoàn II trong khi công tác dọc theo biên giới ghi nhận được nhiều tin tức và dấu hiệu cho thấy Cộng Quân sẽ tấn công Ban Mê Thuột. Tướng Phú không tin. Mấy ngày sau nữa, có mấy người đi làm gỗ trong rừng về báo cáo rằng nhiều đại đơn vị Cộng Quân di chuyển về hướng Ban Mê Thuột, bánh xe tạo thành hai đường mòn song song trong rừng, Tướng Phú cũng vẫn tin rằng chúng sẽ đánh Pleiku. Vì vậy nên chúng tôi được lệnh chuẩn bị cho công việc phòng thủ.

Ngay sau đó, có mấy chiếc máy ủi đến đào đất phía sau văn phòng Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu để làm bunker chỉ huy. Họ thắp đèn sáng trưng làm việc cả ngày đêm, máy chạy ầm ì làm anh em tôi hết ngủ. Kế đến, các quân nhân trong Trung Đội Công Vụ đặt thêm các bao cát dọc theo hàng rào và các bức tường quanh trại trong khi anh em chúng tôi lại được huấn luyện bổ túc tại chỗ về M-72 và một số vũ khí khác. Sau đó, cả Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Pleiku được tổ chức thành các trung đội để sẵn sàng tác chiến. Trung đội trưởng là một trung uý hay đại uý và riêng tiểu đội của tôi có tới gần một chục thiếu uý và chuẩn uý nhìn nhau nhe răng cười. Rốt cuộc, Việt Cộng không đánh Pleiku; chúng tấn công Ban Mê Thuột.

Chiều ngày 12 tháng Ba 1975, anh em chúng tôi được tin thị xã Ban Mê Thuột mất, nhưng nhiều đơn vị của ta vẫn còn chống trả mãnh liệt tại các nơi khác quanh đó. Tối hôm đó, tôi biết tin hai Đại Tá Vũ Thế Quang và Nguyễn Trọng Luật bị Việt Cộng bắt sống. Ngày 14, Linh Mục Tuyên Uý Phan Hữu Hậu thoát về được từ Ban Mê Thuột. Ông đến Trung Tâm Hành Quân cho anh em chúng tôi biết tình hình tại đó. Kể từ lúc đó, tôi thấy dân chúng khá xôn xao và một số bắt đầu di tản về Nha Trang và Sàigòn. Có mấy gia đình quen chạy vào nhờ tôi xin giùm phương tiện cho gia đình họ nhưng tôi không dám nhận lời.

Cũng trong ngày 14, tôi theo một phái đoàn vào xem xét trong Phi Trường Cù Hanh thì thấy dân chúng xúm lại chờ ngoài cổng. Đứng từ Đường Phạm Phú Quốc nhìn xuống phi đạo, chúng tôi thấy những chiếc Chinook CH-47 lần lượt hạ cánh và cất cánh di tản một số quân dân về Nha Trang. Chúng tôi vừa rời phi trường được một lúc thì cộng quân pháo kích vào. Chiều hôm đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra mật lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú dời tất cả các đại đơn vị chủ lực tại Pleiku về Nha Trang, bỏ lại tất cả các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân. Sáng hôm sau, tôi được một sĩ quan bên Sở II An Ninh Quân Đội nói nhỏ cho biết tin này. Tôi rất hoang mang không biết phải làm sao nên dại dột gọi điện thoại về Sở Nghiên Cứu Kế Hoạch xin chỉ thị thì một lúc sau được trả lời rằng “Không có lệnh riêng nào cho anh hết.” Vì vậy nên tôi không dám bỏ về Sàigòn. Chiều hôm đó, hầu như ai cũng biết về lệnh di tản Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II về Nha Trang nhưng tất cả các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân được lệnh vẫn tiếp tục nhiệm vụ tại vị trí như thường. Đến tối, tôi nghe xe hơi của Ty Dân Vận và Chiêu Hồi chạy vòng vòng trong thị xã phát thanh lời của Đại Tá Nhu kêu gọi dân chúng bình tĩnh và không nên lo nghĩ đến việc di tản.

Trưa hôm sau, tôi gọi điện thoại cho một người bạn là Trung Uý Phạm Biểu Sang bên Sư Đoàn 6 Không Quân thì không thấy ai trả lời. Tôi gọi sang mấy người bạn tại các đơn vị khác thì vẫn liên lạc được. Như vậy, anh em tại hai tổng đài điện thoại Liên Hoa và Liên Giang vẫn còn làm việc như thường. Một lúc sau, có tin đồn Đại Tá Nhu đã bỏ đi và Trung Tá Trần Thanh Tâm tạm thời thay thế. Đó chỉ là tin vịt. Đến chiều, anh em chúng tôi tập họp tại sân cờ, phía trước Phòng Tổng Quản Trị và Phòng Một. Sau đó, Đại Tá Nhu đến nói chuyện và cho biết ông cũng như tất cả các cấp chỉ huy khác đều ở lại với anh em. Tối hôm đó, tôi nghe nói một đơn vị Biệt Động Quân cho nổ tung Ty Ngân Khố Pleiku để cướp tiền. Tôi biết khá rõ, vụ nổ này có thật nhưng không phải là một vụ cướp.

Đại Tá Hoàng Thọ Nhu được lệnh chuyển tất cả số tiền trong Ty Ngân Khố về Sàigòn. Tuy nhiên, sau đó lệnh này được huỷ bỏ vì không xin được phi vụ. Lại sau đó nữa, Đại Tá Nhu được lệnh thiêu hủy tất cả số tiền trong ty. Không biết vì lý do gì, ông lại làm khác. Ông nhờ một đơn vị Biệt Động Quân bảo vệ an ninh để chuyển số tiền này đi và cuối cùng bỏ lên một chiếc trực thăng C&C của một đơn vị trưởng. Xong xuôi, anh em Biệt Động Quân mới phá huỷ Ty Ngân Khố. Nhiệm vụ này không được trao cho một đơn vị Địa Phương Quân là vì sợ gây hoang mang: đã có lệnh ở lại sao lại chuyển tiền đi và đốt phá Ty Ngân Khố? Khi vị chỉ huy trưởng kia về đến Phú Yên, Tướng Phú có đến cảm ơn ông đã điều động việc di tản và sau đó, Đại Tá Nhu cho người đến nhận lại tiền đựng đầy trong một sac marin. Năm 2002, tôi có liên lạc được với Đại Tá Nhu và ông đơn vị trưởng kia để xin xác nhận lại sự việc này.

Kế đến, những ai nói rằng tình hình tại Pleiku cực kỳ rối loạn trong ngày 16 tháng Ba là nói sai. Tôi chỉ công nhận một điều là dân chúng có hoang mang và nhiều
người hơi hoảng. Tối hôm đó, gia đình các quân nhân trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Pleiku kéo vào trong trại rất đông, nằm chật trong các văn phòng. Anh em trong Trung Đội Công Vụ phải canh phòng cẩn mật vì sợ đặc công Việt Cộng len lỏi vào đặt chất nổ hay ném lựu đạn qua hàng rào vào bên trong. Vì phải nhường chỗ nằm cho gia đình của đồng đội nên anh em độc thân chúng tôi kéo nhau xuống... nhà tù lúc đó trống trơn để ngủ. Tuy nhiên, không anh nào ngủ được. Có anh đề nghị binh xập xám cho vui nhưng chẳng ai còn lòng dạ nào mà đánh bài đánh bạc. Chúng tôi nói chuyện trước mắt, người quyết định ở lại người quyết định di tản theo đoàn quân bất chấp có lệnh cấm. Cá nhân tôi lúc đó cũng chưa biết tính sao vì chỉ thị dành cho tôi là “làm việc theo nguyên tắc và quyết định theo tình hình”. Một lúc sau, tôi sang phòng trực nghe ngóng tình hình rồi nằm ngủ quên tại đó.

Khoảng năm giờ sáng ngày 17, nhiều người thức dậy chuẩn bị di tản khiến tôi cũng thức dậy theo. Tôi trở về văn phòng thì Thiếu Tá Tư cho biết Trung Tá Tuệ lấy xe Jeep đi đâu từ hôm qua chưa thấy trở lại. Còn lại một chiếc xe Jeep duy nhất, anh tài xế Trần Giỏi lái chở gia đình Thiếu Tá Tư và vợ con anh, hơi chật nhưng con nít ngồi lên đùi người lớn rồi cũng xong. Trời sáng, chiếc xe từ từ lăn bánh, tôi đi bộ bên cạnh nói chuyện với Thiếu Tá Tư cho đến đường Hoàng Diệu thì bắt tay từ giã ông và về nhà mà tôi mới thuê trên Đường Phó Đức Chính. Nằm nghỉ một lúc, tôi vẫn chưa biết nên làm gì nhưng thấy trong người không yên nên lại ngồi dậy đi vào trại.

Lúc đi ngang qua Phòng Truyền Tin, tôi định ghé vào đó xem nếu anh em bên đó phá huỷ máy móc của họ dưới hầm truyền tin thì tôi cũng tiêu huỷ hết hồ sơ của tôi. Tuy nhiên, nghĩ lại tôi thấy rằng mình không có phận sự thì không nên đi vào đó. Tôi về văn phòng mở tủ hồ sơ ra nhìn một lúc. Cuối cùng, tôi quyết định nửa nọ nửa kia, tức là thiêu huỷ tất cả các hồ sơ điều tra vốn có độ mật cao hơn hồ sơ thanh tra. Các hồ sơ thanh tra thường niên, tôi giữ lại, chỉ thiêu huỷ các hồ sơ thanh tra bất thần và thanh tra đặc biệt. Xong xuôi, tôi sang phòng Thiếu Tá Tư xoá hết tất cả những gì còn ghi lại trên chart thuyết trình. Sau khi “phá hoại” xong, tôi sang các phòng khác thì thấy vẫn còn một số anh em đang đứng nói chuyện với nhau. Hầu hết họ thuộc thành phần binh sĩ, không di tản là vì gia đình họ lập nghiệp tại Pleiku đã lâu nên quyết định ở lại. Gần trưa hôm đó, tôi được một thằng bạn ghé vào cho biết có một đơn vị chiến xa M-48 của Lữ Đoàn II Kỵ Binh đang bắn phá thiêu hủy các kho quân trang quân cụ trên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và họ sẽ di tản trong vài giờ nữa. Đó là một trong những đơn vị Chủ Lực Quân sau cùng còn có mặt tại Pleiku. Nghe nói vậy, tôi liền lấy vũ khí theo nó về nhà ăn cơm xong rồi ra ngã ba Diệp Kính đứng chờ. Một lúc sau, có một đoàn M-48 chạy qua, chiếc chạy gần cuối dừng lại cho tôi leo lên.

Đi đến Hàm Rồng, tôi nhìn về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II thấy khói đen bốc lên ngụt trời. Tôi không dám nhìn lại lần thứ hai. Hai bên đường, dân chúng gồng gánh đi bộ rất đông. Tôi thầm cầu nguyện ơn trên để không xảy ra một Đại Lộ Kinh Hoàng nữa.

Đến chiều, đoàn xe bắt kịp một đơn vị của Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân. Không biết có lệnh từ đâu đến hay không mà hai bên phối hợp bảo vệ đoàn xe và người di tản phía trước. Tuy nhiên, chỉ thấy Việt Cộng bắn ra rất ít trong khi các khẩu đại liên bên ta không ngừng nhả đạn vào các bị trí khả nghi. Sáng hôm sau, đơn vị Kỵ Binh được lệnh cho một toán lên trợ chiến cho đoàn người đi trước. Tôi ngồi trên chiếc thuộc toán này.

Thiết giáp có lợi một chỗ là nó có thể leo lên lề mà chạy, vượt qua tất cả các con suối nhỏ hay mô đất. Tuy nhiên, gặp đoạn đường đèo thì cũng nằm chịu trận. Quá trưa, chúng tôi đến Phú Bổn, người và xe kẹt cứng tại đây và Việt Cộng bắt đầu pháo kích. Thấy vậy, đoàn M-48 chạy ra một bãi đất trống dàn đội hình rồi nã đại bác vào các vị trí địch.

Chiều hôm đó, tôi cầm bản đồ và đeo súng đi bộ về phía trước thì gặp lại một số đồng đội. Đến một con dốc, tôi nhìn xuống đoạn đường cuối dốc phía trước thì thấy có một chiếc trực thăng đáp xuống. Lúc đó, tôi đang đứng bên cạnh một chiếc xe Jeep của Sư Đoàn 6 Không Quân mà trên đó có một thiếu tá. Trên xe cũng có một máy truyền tin. Thấy tôi định đi xuống chân đồi nghe ngóng tin tức, một anh Không Quân nói đừng có đến đó sợ Việt Cộng pháo kích vào khi thấy có trực thăng đáp. Vậy nên tôi đợi cho chiếc trực thăng cất cánh rồi mới đi. Đến nơi, tôi được biết sự việc như sau.

Theo lệnh từ đâu không rõ, anh em thuộc Khối Chiến Tranh Chính Trị Quân Đoàn II đánh một lời kêu gọi của Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm rằng tất cả các đơn vị hãy giữ hàng ngũ và sẵn sàng chiến đấu trong khi di chuyển. Sau đó, Tướng Cẩm đáp trực thăng xuống ký vào giấy stencil rồi anh em CTCT lập tức quay ronéo đem đi phân phát khắp nơi. Tôi cũng cầm lấy một xấp đem về.

Chập tối, có hai chiếc trực thăng đến bắn phi đạn xuống các vị trí Cộng quân gần hai bên đường. Khoảng tám giờ tối, Việt Cộng tấn công. Các đơn vị Kỵ Binh cho nổ máy và quay đầu xe tứ phía đối đầu với địch. Cho đến lúc đó, tôi thấy các đơn vị vẫn chiến đấu có trật tự. Chỉ kẹt một điều là Việt Cộng pháo kích bừa bãi khiến dân lành bị chết quá nhiều, những người sống sót kinh hoảng bỏ chạy tứ tung, gây rất nhiều khó khăn cho việc chiến đấu của anh em chúng tôi.


Nguyễn Thế Khiết

Posted by: KhoaNam Apr 16 2013, 07:21 AM






Nước Sông Pa và Cường Đô La.



Làm sao tôi có thể kể cho các em biết rằng người Kinh của chúng tôi đang giết chết dân tộc các em từng ngày từng giờ.

Amai B’lan

Hơn nửa cuộc đời, tôi sống trong Thung Lũng Điện Tử (Silicon Valley) tại phía Nam của Vịnh San Francisco. Ở một nơi có vài chục giống dân sống cạnh bên nhau – và tiếng Anh được dùng như ngôn ngữ chính – tôi dễ có cảm tưởng mình là một công dân quốc tế, cùng với niềm xác tín rằng những phương tiện giao thông (và truyền thông) hiện đại đã khiến cho quả địa cầu trở thành nhỏ lại tựa như một ngôi làng: a global village.

Niềm xác tín này (vừa) hơi bị lung lay chút đỉnh, sau khi tôi nghe một cô giáo trẻ – nơi một buôn làng heo hút – kể chuyện ở quê nhà:
Buôn nằm cạnh quốc lộ 25, bên cạnh con đường rách nát y như bản thân mình vậy. Đi ngang qua nhìn vào buôn, sẽ thấy những ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng cạnh nhau, rúm ró, buồn bã và nín nhịn. Cả buôn có khoảng 70 nóc nhà. 99% là người Jrai và một gia đình người Kinh đến bán tạp hóa giữa làng...

Giữa buôn có trường làng, chỉ một phòng học. Lớp một học buổi sáng. Lớp hai học buổi chiều. Lên lớp ba thì qua học ké Phùm Ang cách đó chừng hai cây số. Lên lớp sáu thì phải vào Ia R’siơm học. Cả buôn từ trước đến nay chưa có ai tốt nghiệp lớp 12...

Một hôm, tôi hỏi các em có biết các em đang sống ở nước nào không. Cả lớp im phăng phắc nhìn nhau, phải gợi mãi, cuối cùng một em ngập ngừng nói:

- Nước Việt Nam phải không cô?

Tôi hỏi tiếp:

- Ai biết, trên thế giới còn nước nào khác?

Lần này thì cả lớp hào hứng hẳn lên, rồi một em nhanh miệng nói:

- Dạ, nước sông Pa ạ.

Tôi không tài nào nhịn được cười bởi câu trả lời ngây thơ ấy, nhưng ngẫm lại thì thấy chua xót quá. Buôn làng của các em bị những ngọn núi chất ngất kia bủa vây, cuộc sống của các em chỉ có nương rẫy, trâu bò và dòng sông miệt mài chảy. Mọi biến chuyển của thế giới bên ngoài không lọt tới cuộc sống của các em được.(Amai B’lan. Nước Mắt Của Rừng. California: Nhân Ảnh, 2013).
Ô hay! Nếu đúng như thế thì (chả lẽ) trong cái làng địa cầu hiện nay không có cái buôn Phùm Gi sao? Nhân loại dường như không ai biết đến địa danh này, và vì “bị những ngọn núi chất ngất kia bủa vây, cuộc sống ... chỉ có nương rẫy, trâu bò và dòng sông miệt mài chảy” nên các em cũng chả biết đến ai (khác) cả.

Vẫn cứ theo lời của cô giáo Amai B’lan:
Cả Phùm Gi không có lấy một cái giếng. Đất nơi đây toàn đá, đào giếng rất cực mà chẳng có nước, nên tất cả mọi sinh hoạt đều dùng nước sông Pa. Sáng sáng, trước khi lên nương, những cô gái trong buôn đeo gùi ra sông lấy nước. Họ vét một hố cát, ngồi chờ nước thấm vào, rồi múc từng gáo nước đổ vào quả bầu khô gùi về nhà. Nước để nguyên trong quả bầu, không nấu nướng gì hết. Khi nàouống cứ việc xách quả bầu lên tu một hơi căng bụng đã đời. Ai chịu khó hơn thì chèo thuyền qua sông, tìm tới những con suối trên núi. Người ta nói nước suối uống ngon nhất, sau đó mới tới nước sông, nước giếng xếp hạng ba.

Cứ chiều đến, tôi lại ra sông nhìn người dân từ bờ bên kia chèo thuyền về. Nắng vàng trải xuống lòng sông sóng sánh như lụa. Trời cao xanh. Núi ngút ngàn. Cảnh tượng trông bình yên đến lạ. Con nít giờ đó cũng ra sông tắm rửa, mong ngóng bố mẹ. Phụ nữ tranh thủ lấy nước, giặt giũ quần áo. Bến sông trở nên nhộn nhịp hẳn. Cũng ở đây, tôi nghe người dân kể về sông Pa với giọng điệu tiếc nuối. Họ nói:“Ngày trước sông Pa trong xanh lắm, lại có nhiều cá nữa.

Gần đây có một cái thác rất đẹp gọi là thác tiên. Bây giờ thì hết rồi. Mấy năm trở lại đây, sông Pa bắt đầu đục ngầu vì ô nhiễm, nhưng người dân đâu còn cách nào khác là cứ phải tiếp tục uống thứ nước đó. Nguồn nước ô nhiễm kéo theo bệnh tật. Viêm khớp, đau thận, đau bao tử là những bệnh ít người thoát được. Theo họ, thà chết từ từ vì bệnh còn hơn là chết ngay tại chỗ vì khát.

Trong buôn hầu như không có người già bởi lẽ đâu ai sống thọ tới 60. Phân nửa học trò của tôi mồ côi cha hoặc mẹ từ khi còn rất nhỏ...

Cuộc sống của họ nếu cứ thế trôi qua thì cũng đã bần cùng lắm rồi. Thế mà một ngày kia, cách đây khoảng hai năm, công ty Hoàng Anh Gia Lai lập dự án xây thủy điện. Để có đất xây thủy điện, chính quyền lấy đất của dân lại mà không hề đền bù một xu, rồi bán lại cho Hoàng Anh Gia Lai. Kết quả, dự án đó nuốt hết một nửa buôn Phùm Gi và nuốt luôn cả sự linh thiêng ở đây...

Con sông Pa dài 374 cây số chảy qua ba tỉnh Kontum, Gia Lai, Phú Yên, nhưng lại phải đeo tới năm cái gông thủy điện vào cổ. Thủy điện Đồng Cam, thủy điện Ba Hạ, thủy điện An Khê, thủy điện Ayun Hạ, thủy điện Ayun Thượng. Bây giờ thêm một cái cạnh Phùm Gi này nữa là sáu. Tính ra, trung bình cứ hơn 60 cây số là bị một đập. Ngày nay, các nước trên thế giới không chơi thủy điện nữa vì nhiều tác hại, đến cả người dân nơi đây cũng biết. Họ thấp thỏm lo sợ tới một ngày mình phải bỏ buôn ra đi vì đập tràn. Và điều đó đã tới trước khi tôi rời nơi đây một tuần.

Dòng sông mùa khô cạn đến mức trâu bò có thể lội qua, nay dâng nước lênh láng tràn bờ. Người ta đã ngăn đập lại. Con đập cách buôn chừng 200 mét nên Phùm Gi gánh chịu hậu quả nặng nề nhất và nhanh nhất của việc ngăn dòng. Nước dâng lên tới sau nhà dân, bò vào vườn tược và gieo rắc nỗi kinh hoàng...

Dòng sông hiền hòa ngày đêm có tiếng thác đổ nay hết rồi.
Những chiều ra sông lấy nước nay cũng hết rồi.
Dòng sông bây giờ là một đường băng nước khổng lồ, dơ bẩn và đục ngầu. Nước đã dâng lên hơn hai mét. Mọi người không còn thấy con sông Pa quen thuộc đâu nữa, mà chỉ thấy một con quái vật lúc nào cũng chực chờ muốn nuốt chửng buôn làng...( S.đ.d trang 103-109).


Thủy Điện Hoàng Anh Gia Lai. Ảnh: Trần Thị Trung Thu


Sự có mặt bất ngờ của Hoàng Anh Gia Lai, trong phần cuối câu truyện của cô giáo ở bản làng xa khiến tôi (thốt nhiên) nghĩ lại. Thôn Phùm Ghi, té ra, đâu có bị thiên hạ lãng quên. Nó đã được chiếu cố bởi một công ty kinh doanh đa ngành rất lớn mà tên tuổi chủ nhân đã “phủ khắp các mặt báo” trong cũng như ngoài nước. Tờ Phụ Nữ gọi ông là “Cường Đôla: Doanh nhân thiếu gia nghìn tỷ" cùng với những chi tiết lý thú:

"Vào thời điểm đó, giới truyền thông lùng sục các thông tin về chuyện làm ăn cũng như 'tài năng kinh doanh' của thiếu gia nhưng thu được kết quả không nhiều. Một lãnh đạo của Công ty chứng khoán Sài Gòn – người có thời gian làm việc với Nguyễn Quốc Cường khi công ty này tư vấn niêm yết cho QCG cho biết:'Cường rất dễ chịu và là một người kinh doanh, chứ không có cách cư xử kiểu dân chơi bạt tử như mọi người đồn đại'.
Trong khi đó, nếu tìm kiếm thông tin về Cường Đôla trên Internet thì người ta sẽ nhận được vô vàn tin tức về thú chơi siêu xe, quá khứ của một dân chơi khét tiếng nơi phố núi, mối tình với các chân dài như …



Cường Đôla đình đám với siêu xe Lamborghini Aventador màu vàng


Dù thỉnh thoảng vẫn lái xe qua lại trên freeway 1015– đoạn Hollywood Freeway, băng ngang qua nơi cư ngụ của những minh tinh màn bạc Hoa Kỳ – tôi vẫn chưa bao giờ có cái “may mắn” được tận mắt nhìn thấy một chiếc “siêu xe Lamborghini Aventador” nào cả. Nó quá hiếm vì quá mắc, giá cả đâu chừng nửa triệu Mỹ Kim!

Vẫn theo lời của tác giả Nước Mắt Của Rừng (*):

Người Jrai đã từng là chủ vùng đất này (tên Gia Lai đọc từ chữ “Jrai” mà ra). Tổ tiên họ đã sống và đã chết ở đây. Họ có cách sống và văn hóa của riêng họ. Không ai cảm thấy lạc lõng trong buôn làng của mình. Mọi người gắn kết với nhau bằng truyền thống tâm linh vô cùng sâu sắc. Trên đầu họ là bầu trời tự do. Dưới chân họ là đất rừng linh thiêng. Họ đã sống như thế biết bao thế hệ. Mọi chuyện cứ diễn ra như thuở ban đầu cho tới khi người Kinh tới.
Người Kinh tới, đặt ra những chủ trương ngu ngốc và vơ vét mọi thứ về mình vì họ có quyền lực trong tay. Số liệu thống kê năm 2008 cho thấy ở Gia Lai, người Kinh chiếm 52% dân số, trong khi người Jrai chỉ còn 33,5%. Người Kinh nghiễm nhiên trở thành ông chủ trên mảnh đất của người Jrai, làm giàu trên sự lạc hậu của người bản địa nhưng không lúc nào ngớt lời chê bai. Những người Jrai hiền lành và thật thà nhanh chóng trở nên trắng tay và bị kinh hóa.

Bi kịch của người Jrai không lạ và cũng không mới. Khắp nơi trên quả địa cầu này đã có rất nhiều giống dân bản địa đã từng trải qua những kinh nghiệm (không may) tương tự. Tuy nhiên, khai thác vơ vét cạn kiệt mọi tài nguyên thiên nhiên để mua sắm cả một dàn xe hơi (mỗi cái trị giá vài trăm ngàn dollars) và dồn nạn nhân đến mức bị diệt vong thì là chuyện (e) chỉ có thể xẩy ra ở nước CHXHCNVN. Nơi mà vị chủ tịch nước đầu tiên (ông Hồ Chí Minh) đã từng long trọng hứa hẹn – trong Thư Gửi Đại Hội Các Dân Tộc Thiểu Số Miền Nam, vào ngày 19 tháng 4 năm 1946 – như sau:

Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.

Theo thông tin của Sở Văn Hoá, Thể Thao & Du Lịch Gia Lai:

Nhân kỷ niệm 60 năm Bác Hồ gửi thư cho đồng bào các dân tộc thiểu số miền Nam, Uỷ ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp cùng Ban chỉ đạo Tây Nguyên tổ chức kỷ niệm 60 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam đồng thời đã lập bia thư tạc nội dung thư Bác...

Toàn bộ nội dung bức thư được thể hiện kiểu chữ hộp, chất liệu đồng, gắn trên phiến đá Thanh Hóa nguyên khối, nặng hơn 60 tấn, phía trên nội dung thư tạc chân dung Bác Hồ trên biểu tượng đài sen. Di tích sẽ cung cấp cho du khách và các nhà nghiên cứu những hiểu biết về tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Bác, bổ sung vào kho tàng Việt Nam những trang tư liệu quý giá... Hiện nay di tích đang được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng tỉnh Gia Lai lập hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận di tích lịch sử quốc gia …

Cái di tích của sự lường gạt trắng trợn này của ông Hồ Chí Minh – tất nhiên – sẽ được ghi nhớ mãi mà không cần phải được tạc bằng đồng hay ghi trên trên bia đá nào ráo trọi. Riêng về tội ác đối với những dân tộc bản địa hiện nay thì tôi e rằng cả đám người Kinh, dù ở trong hay ngoài nước, đều là đồng phạm. Im lặng trước tội ác là đồng loã, chớ còn gì nữa.

K’Tien

(*) Nước Mắt Của Rừng. Bút Ký của Amai B’Lan.Tựa: Phan Ni Tấn.Nhân Ảnh Xuất Bản. Bìa và tranh: Khánh Trường.Trình Bày: Lê Hân & Tạ Quốc Quang. Copyright @ 2013 by Trung Thu. ISBN: 978-0-9811982-9-3. Ấn phí và bưu phí 15 M.K. Sách có thể đặt mua theo địa chỉ sau:
Mr. Lê Hân

375 Destino Circle, San Jose, CA 95133
U.S.A or han.le3359@gmail.com

Posted by: KhoaNam Jul 23 2013, 07:42 AM






Trận đánh chiến xa thần kỳ trên đỉnh núi :

Nhổ chốt đèo Chu Pao



Chu Pao ai oán hờn trong gió
Một tấc khăn tang, một tấc đường
(Vô danh)

Quốc lộ 14 nối Kontum và Pleiku là đoạn huyết mạch chiến lược cần phải giự Chi Đoàn 1/8 Thiết kyddược giao giữ an ninh trục lộ và mở đượng Đường từ buôn Pleiboi, qua khỏi căn cứ hoả lực 42 tới phía đông bắc của căn cứ hoả lực 41 dưới chân núi Chu Pao. Qua khỏi núi Chu Thoi (đối diện núi Chu Pao, phía Nam quốc lộ 14 chừng 2Km là tới đồi Sao Mai rồi sau đó là tới Tân Phụ Đoạn đường đến đây là khá an toạn Từ Chu Pao tới Tân Phú do Biệt Động Quân phụ trạch
Rừng núi âm u, sương mù lảng đảng phủ chụp quấn quít từng chiếc chiến xa mờ ảo. Mỗi sáng sớm, khi rừng xanh còn ngái ngủ, Chi Đoàn đã cho xe lăn xích rời vị trí, lục soát và an ninh đoạn đường trách nhiệm trước 8 giờ sáng cho đoàn xe tiếp tế lên Kontum. Thường thì việc mở đường và an ninh trục lộ do các đơn vị Địa Phương Quân đảm trách. Công việc nguy hiểm và nhàm chán, sáng đi, chiều rút. Thời gian lâu không có chi xẩy ra, anh em hay ỷ lại và coi thượng Từ đó, địch điều nghiên thói quen của các đơn vị mở đường để rồi có một ngày mưa bụi âm u, địch ra tay tấn công chớp nhoáng. Thường là đơn vị mở đường bị thiệt hại nặng trong tình huống bất ngờ đọ

Không theo vết xe cũ của các đơn vị bạn, tôi chỉ thị các Chi Đội luôn luôn thay đổi vị trí, đội hình phòng thủ an ninh cũng di chuyển luôn trong ngày. Và nhờ vậy, Chi Đoàn đã bảo toàn khả năng tác chiến và an ninh vùng trách nhiệm trong suốt thời gian cấp trên giao phó.

Cuối tháng 4. 1972, địch bất ngờ tập trung quân và hoả lực tấn công và đánh bật đơn vị Biệt Động Quân trên đỉnh Chu Pao, rồi đào hầm hố, bám trụ, đóng chốt trên đó với đại bác không giật 75 ly, các loại cối và đại liên phòng không. Ý đồ của Bắc quân rõ ràng là cố ý cắt đứt quốc lộ 14, chận đoàn xe tại eo núi Chu Pao và Buôn làng không tên dưới chân núi để cô lập và cắt đường tiếp tế cho Kontụm

Khi xe dẫn đầu đoàn xe vừa tới chân núi Chu Thoi, đại bác, cối và các loại súng của địch từ trên đỉnh Chu Pao ồ ạt tác xạ tới tấp vào đoàn xe. Hai chiếc đầu trúng đạn bốc cháy, các xe đi sau phóng vào các rừng chồi cạnh đường để tránh tầm quan sát của các ổ tác xạ địch, đoàn xe ở giữa và cuối quay đầu lại chờ lệnh

Nhìn lên đỉnh Chu Pao, tử thần như đang múa may, quay cuồng. Giữa cái âm u của núi rừng, giữa cái khét lẹt của súng đạn, viễn tượng Kontum bị cô lập chuẩn bị bước tiến quân kế tiếp của các sư đoàn Bắc quân sau khi gây tổn thất nặng cho quân ta ở Tân Cảnh, Sư Đoàn 23 BB quyết định phá thế địch, lệnh cho Biệt Động Quân phải tái chiếm Chu Pao và Thiết Giáp phải bảo vệ đoàn xe bằng mọi giá. Nhận lệnh "Mặt Trời", hiểu được cái căng cứng của tình thế, ngước nhìn đỉnh núi lờn vờn bóng địch, tôi quay sang người hiệu thính viên:
- Cậu gọi Đại uý Chi Đoàn phó (Phan Chánh Hảo) gặp tôi gấp!
- Bravo! 51 gọi!
- Bravo nghe 51!
- Lệnh Alpha mời Bravo tới 51 họp!
- Nhận rõ 51!

Tôi gặp Phan Chánh Hảo, cho biết một số tình hình và chỉ thị của thượng cập Hảo chăm chú ghi từng chỉ thị ban ra.

- Chi Đội 3 tăng cường thêm phân đội chiến xa chỉ huy, tiến lên ngang núi Chu Thoi, hướng đại bác lên đỉnh Chu Pao dập thẳng vào những vị trí đặt súng của địch khi chúng bắn xuống đường!
- Nhận rõ!
Hảo lui ra và chúng tôi phóng lên xe và tiến hành kế hoạch tạm thời bịt miệng tiếng súng địch Khi chiến xa chúng tôi dàn trận di chuyển nhô ra khỏi vị trí, các loại hoả lực địch từ đỉnh Chu Pao phóng xuống, và vị trí chúng bị lộ, chúng tôi dập tối đa hoả lực đại bác và đại liên vào vị trí địch, dìm địch không ngóc đầu được, nhờ vậy, phần đầu của đoàn xe kẹt trong rừng thưa phóng được ra đường an toàn và hướng đầu về Pleiku. Chi Đội chỉ huy sau đó rút xuống phía Nam căn cứ hoả lực chừng 2 Km, án ngữ bên kia con suối. Chi Đội 1 và 2 chia nhau giữ các khúc quanh nguy hiểm, chiếm các cao điểm chế ngự quanh vụng Và sau đó, toàn Chi Đoàn cũng được lệnh rút sau khi đoàn công voa vượt khỏi khu vực trách nhiệm



Đỉnh Chu Pao, nút chặn oan nghiệt, hiểm hóc lởn vởn bóng tử thần nhìn xuống quốc lộ 14. Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn 23 lòng như lửa đột Đại tá Đạt, hình ảnh con mãnh sư sa cơ trên vùng Tân Cảnh chờn vờn trong đầu ộng Biệt Động Quân không chiếm lại được đỉnh Chu Pao, Lý Tòng Bá, con mãnh sư còn lại trên Cao Nguyên đầy khói lửa, vùng vẫy không chịu bó tay, ông đập tay xuống bản đồ hành quân:
- Phải nhổ chốt Chu Pao bằng mọi giá!
Bộ Tư Lệnh SDD23BB giao trách nhiệm nhổ chốt Chu Pao lại cho Trung Đoàn 45 BB và Chi Đoàn 1/8 Chiến Xa giữ nhiệm vụ yễm trợ hoả lực, đồng thời án ngữ đoạn đường từ Căn cứ Hoả Lực 41 tới núi Chu Pao. Được sự yểm trợ tối đa của không quân và pháo binh, Bộ Binh và Thiết giáp đã tấn công dữ dội các chốt kiên cố của địch trên đỉnh núi. Súng đạn vang trời suốt 7 ngày đêm, cái chốt ác hiểm này vẫn còn nằm nguyên trong tay địch. Những cơn gió núi vẫn thổi, sương mù vẫn giăng những sáng tinh sương, và tiếng súng địch vẫn còn thách thức. Bắc quân nghĩ chắc như nêm là các chốt trên đỉnh Chu Pao là thành đồng vách sắt, bất khả xâm phạm

Sáng ngày 26.04.1972, khi các Chi Đội bố trí xong đôi hình thì bất ngờ có lệnh triệu tập ban tham mưu Chi Đoàn 1/8 Chiến xa. Phiên họp diẽn ra tại "Buôn không tên" dưới chân núi Chu Pao. Ngoài tôi ra, trong buổi họp còn có Đại Tá Nguyễn Văn Chà, Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 45 BB. Ban 3 Trung Đoàn báo cáo lên Đại tá Tư Lệnh Sư Đoàn về tình hình địch, tình hình bạn và và những khó khăn mà Bộ Binh đã phải đối đầi và không vượt qua được Đại tá Lý Tòng Bá bóp trạn Ông xoay người nhìn khắp núi rừng, nhìn lên đỉnh Chu Pao, bỗng mặt ông nghiêm lai một cách cương quyết khi ông nhìn qua tôi, và như một thứ lệnh bất ngờ từ trên trời, vị Tư Lệnh Sư Đoàn nói như đinh đóng:

- Toàn thể gia đình Tài Lực 1/8 (danh hiệu Chi Đoàn trương 1/8) phải nhổ xong chốt Chu Pao nội trong ngày nay! Không cần đợi phi pháo!
Tôi choáng váng và bất ngờ:
- Thưa Đại tá Tư lệnh! Nhổ bằng cách nào?
- Cho chiến xa leo lên đỉnh Chu Pao! Chi Đoàn sẽ sử dụng con đường mòn xe be kéo gỗ khi xưa ở hướng đông bắc Chu Pao để tiến lên đỉnh núi! Con đường không sủ dụng đã lâu đó nay đã ngập cây rừng nhưng chiến xa có thể càn qua được Địch không thể ngờ ta dùng con đường này! Anh cho anh em thám sát ngay và hành động gấp cho tôi!

Sau khi nhận lệnh, tôi đờ người ra, đầu óc xoay tròn những ý nghĩ không có đáp sộ Lần đầu tiên trong đời binh nghiệp với xích sắt, với chiến xa, tôi mới nghe và nhận một cái lệnh cho chiến xa leo núi tấn công địch Cái này sách vở không dạy, binh pháp không thấy đề cập Nếu vị Tư lệnh Sư Đoàn không phải là Đại Tá Lý Tòng Bá, một sĩ quan cao cấp kỳ cựu của binh chủng Thiết Giáp, đã từng du học về Thiết Giáp tại trường Thiết Giáp Saumur của Pháp và Fort – Knox của Hoa Kỳ, có lẽ tôi đã từ chối chấp hành cái lệnh lạ đời này, và chấp nhận luôn hậu quả của việc ra toà án quân sự Nhưng khộng Tôi không có sự lựa chọn nào khạc Tôi chấp hành lệnh

Người tôi như lửa bỏng, tôi về Chi Đoàn đích thân lựa 5 binh sĩ gan dạ và nhanh nhẹn theo tôi đi thám sát địa hình con đường chuyển quận Thầy trò chúng tôi âm thầm như những bóng ma, len lỏi trong rừng cây dưới chân núi, vòng về phí Đông ngọn núi, chúng tôi quả thật tìm ra được con đường mòn xe be kéo gỗ lúc xưa đúng như Đại tá Lý Tòng Bá đã nói. Vì chiến tranh, con đường trở thành hoang vu, không sử dụng, cỏ cây rừng mọc phủ xanh rì nhưng chỉ là những cây non không đủ sức cản chiến xa. Con đường này cộng quân không hề biết, không hề ngờ. Bây giờ tất cả là rừng bao phủ Chu Pao như một chiếc áo xanh lục, âm u theo tháng năm dài, theo những cơn mưa đổ trút xuống rừng xạnh

Từ chân núi lên đỉnh núi xa khoảng không tới một cây số, nếu là địa hình đồng bằng thì có thể không đầy 2 phút, chiến xa có thể phóng qua công sự phòng thủ địch, nhưng ở đây, trước mặt chúng tôi là con đường mòn dốc cao đầy cây rậm, ngoằn nghèo chữ chi khi lên dốc, có khoảng rất hẹp bên cạnh là vực sâu, chiến xa chạy không ngay hay lệch tay lái là có cơ rơi xuống vực Sau khi thẩm sát và lượng định địa hình, chúng tôi xuống núi. Nhìn lại núi Chu Pao , một vùng núi rừng trùng điệp so vai chạy dài từ Đông Nam sang Tây Bắc theo quốc lộ 14 với đỉnh cao đầy hầm hố và các hốc đá ẩn chứa cả một Tiểu Đoàn Bắc quân đóng chốt để cô lập Kontum.

Tôi nghĩ bụng: "Tư Lệnh Sư Đoàn đã phóng mũi lao lên đỉnh núi thì mình phải theo lao, phải chấp hành lệnh" Đếm từng bước dài về lại Chi Đoàn, tôi cho họp toàn bộ sĩ quan để bàn kế hoạch đưa chiến xa M41 leo lên núi tấn công mục tiêu. Tiếng Tư Lệnh Sư Đoàn như còn văng vẳng bên tai tôi:"Phải nhổ xong chốt Chu Pao nội trong ngày nay! Không cần đợi phi pháo!" Khi mục tiêu được chỉ định, lệnh ban ra, hầu hết các sĩ quan trong Chi Đoàn đều kinh ngạc về sứ mạng hiểm nghèo này. Đại uý Hảo, Chi Đoàn phó phá tan bầu không khí nghẹt thở :
- Tại sao Alpha không từ chối cái lệnh quái ác này?
Tôi trầm tĩnh nhìn hết anh em đang căng thẳng chờ câu trả lời:
- Xin anh em nhớ Đại tá Tư Lệnh Sư Đoàn là một sĩ quan Thiết Giáp lừng danh, kinh nghiệm trận mạc từ cấp nhỏ, ông có một cái lý nào đó khi ban lệnh. Chúng ta không có quyền từ chối lệnh này, mặc dù theo tôi, trước mắt chúng ta chỉ có khoảng 20 phần trăm hy vọng chiếm được mục tiêu! Anh em có ý kiến gì hay không?

Sứ mệnh vô cùng nguy hiểm, hầu như bất khả thi, nên mọi người im lặng, không một ai lên tiếng. Tôi nhìn hết anh em, tôi đảo mắt nhìn núi rừng và sau cùng, mắt tôi dán lên đỉnh Chu Pao. Rừng thiêng thúc giục, đỉnh cao thách thức, sứ mệnh là máu, là lửa, là đạn, là trách nhiệm đối với Tổ Quốc và có thể cũng là niềm tự hào: Lần đầu tiên trong chiến sử, chiến xa M41 tiến lên đỉnh núi giải quyết chiến trường. Tôi hít mạnh, buồng phổi căng ra, và cuối cùng, chính tôi chọn phương án tiến quân trong đầu: Hình thành một Chi Đội hổn hợp để làm mũi nhọn tấn kích mục tiêu địch, tất cả thành phần còn lại sẽ dàn quâ tập trung hoả lực tối đa đổ lửa vào mục tiêu để đánh lạc hướng địch

Công tác tấn kích trên đỉnh Chu Pao cực kỳ nguy hiểm, nên thành phần tham dự ngoài xe Chi Đoàn trưởng, Chi Đội trưởng Chi Đội trực còn kèm theo 3 xe tình nguyện Tất cả thành phần còn lại, Chi Đoàn phó, theo kế hoạch, sẽ cho chiến xa bố trí trong rừng, sát phía Nam Quốc Lộ 14 với nhiệm vụ là hướng tất cả các loại súng lên núi, tác xạ tối đa vào mục tiêu khi Chi Đội vượt tuyến tấn kích trên Quốc Lộ 14 để leo lên núi bằng con đường mọn



Phía sau núi Chu Thới có một bãi lầy chiến xa M41 không qua được nhưng M113 thì không trở ngại. Tôi lệnh cho 2 xe M113 của Chi Đội chỉ huy vượt qua bãi lầy, nối cáp dài kéo từng chiếc M41 qua bên nay bãi, sau đó, toàn bộ len lỏi trong rừng tiến về hướng Đông Bắc Chu Pao. Tôi chia đội hình và kế hoạch tấn công như sau:
- Chiến xa M41 mang số 21 do Thượng sĩ Tôn chỉ huy dẫn đầu có nhiệm vụ dò đường, mở đường và soi đượng Khi vừa tới đỉnh sẽ phóng chiến xa đánh thẳng tốc tới phía trước nơi vị trí địch đạt khẩu đại bác 75 ly không giật chế ngự QL14.
- Chiếc kế là chiến xa chỉ huy, khi tới đỉnh sẽ đánh tràn qua hướng Tây để bảo vệ sườn cho chiến xa 21 dẫn đầu.
- Chiếc thứ 3 là chiến xa M41 mang số 11, khi tới đỉnh Chu Pao sẽ vượt qua yên ngựa đánh thẳng về hướng Đông Bắc
- Chiếc thứ 4 là chiến xa M41 của Chi Đội trưởng Chi Đội 2, Trung uý Chính, sẳn sàng tiếp ứng khi có lệnh
- Chiếc thư 5 là chiến xa M41 của Thiếu uý Chi, Chi Đội phó Chi Đôi 3, khi đến đỉnh phải vượt qua đèo yên ngựa cùng với chiến xa 11 mở rộng đội hình dồn địch xuống núi.
- Một Đại Đội của Tiểu Đoàn 4/45 tùng thiết do Đại uý Cẩm, Tiểu Đoàn Trưởng chỉ huy sẽ bám sát chiến xa để bảo vệ và đánh cận chiến với Bắc quận

Từ tuyến xuất phát dưới chân núi che kín bởi rừng xanh, khi chiến xa số 21 vừa băng ngang QL14 thì từ những vị trí đã bố trí sẳn, Đại uý Hải cho lệnh khai hoả tối đa lên đỉnh Chu Pao. Địch không hề hay biết gì về sự chuyển quân của toán xung kích đang âm thầm leo núi, mỗi phút một gang tấc gần về mục tiêu địch Chiến xa chỉ huy theo sát xe dẫn đầu để rồi từng chiếc thay nhau mất hút trong rừng cây.

Là một tín đồ Công giáo, tin ở Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ Maria, tôi làm dấu thánh giá lần chót để cầu xin sự bình anh cho anh em trong những giây phút phải lao vào tuyến lửa, trước khi đoàn xe biến mất trong mầu xanh dày đặc của núi rừng. Từ giây phút này, đầu óc tôi căng thẳng, tôi quên tất cả Mẹ già, gia đình, quên anh chị em, quên những người thân thương, và quên đi cả bản thân mình, trong tâm trí tôi chỉ còn lại có một điều quan trọng sinh tử: "Phải đè bẹp địch ngay trong những phút giây đầu tiên khi phóng vào tuyến địch Nếu không làm được chuyện này, tất cả anh em sẽ phải bỏ xác trên đỉnh Chu Pao, và chiến xa sẽ vùi chôn dưới vực thẩm oan nghiệt dưới chân núi."

Lối mòn lên đỉnh Chu Pao dài không tới một cây số mà hôm nay tôi tưởng nó kéo dài ra vô tận Mười phút trôi qua mà tôi tưởng như cả đời người. Cho đến hôm nay, hơn 30 năm trôi qua, khi nhớ lại trận đánh kỳ lạ này, tuy vẫn còn những cảm giác hãnh diện và thích thú, nhưng dường cảm giác ớn lạnh trên tuyến đầu lửa đạn trong trận đánh vẫn còn chạy trên gáy tôi như mới vừa xẩy ra trên đỉnh núi ngày nào.

Nối đuôi nhau, âm thầm, trừ tiếng vang nhẹ của xích sắt, chiếc này bò theo chiếc kia, xích sắt chiếc sau lăn chính xác in đè lên vết xích chiếc trước, bộ binh tùng thiết in vết dày theo vết chiến xa. Tất cả đều đạn lên nòng, căng cứng, cẩn trọng khi đối diện với tử thần. Tử thần là địch, tử thần là mìn, tử thần là vực thẳm cận kề vết xích lăn của chiến xa, sai một ly là đi một dậm xuống đáy chân đồi.

Tiếng đại bác, đại liên qua lại từ dưới bắn lên, từ trên nả xuống kéo dài liên tục nhận chìm rừng núi trong một âm thanh điên cuồng, hổn loạn Tiếng xích sắt chuyển động của đoàn chiến xa leo núi biến mất trong tiếng đạn nổ liên hồi. Chiến xa cứ bò lên, vượt thêm một đoạn nữa, tôi chợt thấy một phần của đỉnh Chu Pao, phần yên ngựa, nơi thấp nhất nối liền mõm núi phía Đông và rặng núi phía Tây. Tất cả hệ thống vô tuyến đều im lặng, gương mặt chiến binh lạnh lùng trên pháo tháp, lạnh lùng theo vết chân tùng thiết, chờ đợi một cuộc xung phong tập kích quyết liệt bất ngờ vào tuyến địch Thời tiết trên đỉnh Chu Pao còn rất lạnh nhưng áo trận của tôi vẫn đẫm ưới mồ hôi.

Đứng trong vị trí của trưởng xa, khẩu đại liên 50 đã được nối với 5 thùng đạn Một thùng lựu đạn được tháo khỏi hộp, sẳn sàng sử dụng khi chiến xa ủi thẳng tới hầm địch khi đại bác và đại liên không còn hiệu quả mà chỉ có lựu đạn và lưỡi lê. Bên phải tôi, Thượng sĩ Bào thuộc phân đội chiến xa chỉ huy mặt đanh lại, hai tay ghìm chặc khẩu đại liên 50 sẳn sàng nhả đạn Tôi hồi hộp nhìn theo chiến xa dẫn đầu mang số 21, khoảng cách lên tới đỉnh núi một lúc một rút ngắn, tim tôi muốn vỡ tung trong lồng ngực khi chiến xa đầu vừa lên khỏi dốc. Bắc quân vẫn không hay biết gì về sự có mặt của những con cua sắt định mệnh trên đỉnh Chu Pao ngay sát nách hầm hố của các chột Bỗng Tôn hét trong hệ thống âm thoại:

- Mục tiêu hướng 12 giờ! Khoảng cách 50 mét! Bắn!
Tiếng đại bác và đại liên của xe đầu dệt thảm lửa vào các mục tiêu địch. Chợt hai tiếng nổ liền nhau từ hướng 3 giờ của xe mang số 21, nó bị khựng lại, tôi hét lớn trong máy.
- 21 lao thẳng vào mục tiêu! Để hướng 3 giờ cho tôi thanh toán!

Hai tiếng nổ tiếp theo, chiếc 21 bốc cháy. Ngay lúc đó xe chỉ huy vượt qua chỗ đất bằng, ép qua bên phải, đại bác và đại liên càn quét tất cả khu vực trước mặt, cây cối thi nhau rạp ngả, cách xe chi huy chừng 20 mét là khẩu đại bác 75 ly không giật đặt trên tảng đá cao quay nòng về xe chỉ huy. Trong gang tấc chết sống, tôi tung hai qua lựu đạn về hướng địch Địch khai hoả thẳng vào xe chỉ huy, đạn trúng bên hông pháo tháp, Bào bị thương, máu văng tung toé vào mặt tôi. Tôi hét:
- Kéo Bào vào trong! Nạp thêm đạn!
Tôi chụp khẩu đại liên 50 đẩy gần hai thùng đạn vào vị trí khẩu 75 ly địch. Trong nháy mắt, ba chiến xa sau vọt tới, tôi điều động gấp rút qua âm thoại:
- 11 vượt qua yên ngựa, tấn công mục tiêu hướng 3 giờ! Chính số 2 phối hợp 11 mở rộng đội hình càn quét mục tiêu! 34 tấn công hướng trước mặt xe 21!

Lệnh ra như một cái máy. Các chiến xa nhận lệnh phóng ào vào mục tiêu và hướng chỉ định Lúc này ta và địch sát nhau, có chỗ địch kẹt dưới hầm, chiến xa cán lên trên, có nơi địch và ta cài răng lược, cận chiến, đại bác, đại liên trở thành vô dụng, lựu đạn được dùng tối đa. Địch bám chốt cả một tiểu đoàn, quân dố quá đông, địa thế lại chật hẹp, khó xoay trở, mình tung lựu đạn xuống, địch tung lựu đạn lên. Tôi chụp máy hét:
- Cẩm cho con cái nhào vô tiếp sức gấp!
Liền đó, Đại Đội tùng thiết của Đại uý Cẩm từ mé rừng tràn vào hai hướng tấn công của chiến xa và một trận đánh cận chiến vô cùng hào hùng và ác liệt đã diễn ra. Lưỡi lê tuốt trần, lựu đạn nổ khắp nơi. Ta và địch quyện nhau trong trận tử chiến kinh người ngay trên đỉnh Chu Pao. Có bộ binh yễm trợ, Trung uý Chính, Chi Đội trưởng. Chi Đội 2 tức tốc dẫn hai chiến xa tràn qua mõm bên kia của yên ngựa, nơi mà trước đó bộ binh sau gần một tuần quần thảo với Bắc quân đã không chiếm được. Giờ này, chiến xa và bộ binh đang cày nát từng công sự phòng thủ của địch Cùng lúc đó, tại yên ngựa, chiến xa đã ủi sập một một số hần chữ A chống phi pháo của Bắc quận Một số chết chôn tại hầm, một số còn sống không còn chỗ trú ẩn, tàn quân địch thoát chạy xuống triền phía Bắc của núi Chu Pao, liều mạng chống trả bằng B40, B41 và lựu đạn, nhưng cuối cùng đã bị đánh bật khỏi vị trí, bỏ của, bỏ vũ khí và xác đồng chí để chạy lấy người. Trong đời binh nghiệp, chưa bao giờ tôi được chứng kiến và trực tiếp tham dự một trận đánh tuyệt vời của sự phối hợp nhịp nhàng giữa bộ binh và thiết giáp như lần này. Chiêu "nhị thức" ( bộ binh - thiết giáp) đã san bằng các chốt địch trên đỉnh Chu Pao, điều mà các tướng Bắc quân đã bàng hoàng và không bao giờ nghĩ tới. Làm sao, có sĩ quan nào trong binh sử nghĩ tới chuyện dùng chiến xa leo lên núi phá chốt địch!

Đứng trên đỉnh núi, tôi ngẫng mặt nhìn trời, thầm nghĩ: "Chiến công này là của tất cả anh em! Là niềm vui của Chi Đoàn /18. Là niềm tự hào của quân lực, của Sư Đoàn 23 và của tôi!" Nhưng rồi, những vết máu của Thượng sĩ Bào khô lại trên mặt, trên áo chiến của tôi đã làm tôi đau xót về những thương vong, mất mát của thuộc cấp, của anh em thiết kỵ cũng như bộ binh trên đỉnh Chu Pao oan nghiệt mà suốt đời tôi cũng không thể nào quên. Lòng tự hào trong tôi, người lính tác chiến vừa hoàn thành nhiệm vụ khó khăn được thương cấp uỷ thác, bị nguội lạnh và vơi đi.

Chiến thắng nhổ nguyên một tiểu đoàn Bắc quân đóng chốt trên đỉnh Chu Pao đã giữ cho Kontum sống, đã làm buồng ngực của anh em thiết kỵ và Sư Đoàn 23 BB căng phồng niềm tự tin và tự hào, và điều này môt phần đóng góp cho chiến thắng trong trận ác chiến giải toả Kontum sau này.



Sau khi báo cáo kết quả trận đánh lên Sư Đoàn, Đại tá Tư Lệnh chỉ thị cho Tiểu Đoàn 4/45 BB ở lại giữ đồi Chu Pao, Chi Đoàn 1/8 Chiến xa rút vế Pleiku để nhận tiếp tế và vài ngày sau đó lại nhận lệnh di chuyển lên Kontum, để rồi trở thành đơn vị Thiết Kỵ duy nhất có mặt trong các trận ác chiến giải vây thành phố này.

Chiếc trực thăng của Tư Lệnh Sư Đoàn quần trên vòm trời chiến địa. Đỉnh Chu Pao đã im tiếng súng. Cờ vàng ba sọc phất phới trong gió trên mõm đá một mà trước đó mấy giờ, 75 ly không giật của Bắc quân còn uy hiếp Quốc Lộ 14. Đại tá Tư lệnh Lý Tòng Bá gởi qua âm thoại lời khen và chào mừng anh ẹm Từ trực thăng, ông nhìn xuống những mõm đá tử thần trên đỉnh Chu Pao, niềm tự hào về cánh quân Thiết Kỵ của Chi Đoàn 1/8 tràn ngập tim ông. Ông nghĩ đến cái lệnh ban đầu phải nhổ chót Chu Pao bằng mọi giá, và anh em đã hoàn thành sứ mệnh trong một trận đánh tuyệt vời trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Ông nói như để mình ông nghe: "Chú Vinh! Gia đình Tài Lực của chú số một!"
Lê Quang Vinh
(Edit: Hải Triều)
Ghi chú:
Báo cáo kết quả trân đánh lên Sư Đoàn:
Thiết Giáp:
- 1 chiến xa bị phá huỹ
- 2 tử trận
- 4 bị thượng
Bộ binh:
- 7 tử trận
- 12 bị thương.
Bắc quân:
- 30 tử thương bỏ xác tại chộ
- Một số chết bị chôn lấp dưới hầm sập không đào lên được
- Thu 17 súng đủ loại, trong đó có 2 đại bác không giật 75 lỵ

Lê Quang Vinh

Khoá 19 VB Thủ Đức

Binh chủng Thiết Giạp Chi đoàn trưởng Chi Đoàn 1/8 Chiến Xa.
Đơn vị và chức vụ cuối cùng: Thiết Đoàn Phó Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh

Posted by: NamQuoc Feb 6 2014, 08:43 AM






Một thoáng Pleiku


Thật lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa - thực sự vĩnh viễn xa - Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời xin lỗi.

Tôi chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với tôi dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.

Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan Thiết) và đảm trách một vùng hành quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt - Sông Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.

Loanh quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Bộ Tư Lệnh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.

Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẩm máu để có một “Kontum Kiêu hùng”. Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng mạn (và vi phạm quân phong quân kỷ?) như ai.

Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm, không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận chiến đẫm máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.

Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy” này.

Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.

Do cái ân tình đó, nên những ngày không hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán rượu trong khu Chợ Mới. Một tháng, tôi chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân, để “may mà có em đời con dễ thương!”

Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13/3/75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh. Một nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.

Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không phải là những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề… mà những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)

Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được chút thời gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ - nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.

Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết những câu thơ hào sảng:

Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….
cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ Pleiku:

Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
….

Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với những người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy, mà dường như cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài thơ chưa được viết thành lời. Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.

Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Đỗ Bê ... những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku. Khi tất cả - có lẽ cũng như tôi - chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.

Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng 3. Cùng với những đổng đội của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố Núi sẽ không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó”:

Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền

Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao của những thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm) các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!

Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng khuâng.

Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó, nợ người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.

Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku

Phạm Tín An Ninh

Posted by: caoduy Feb 25 2014, 09:56 AM






Mùa Đông Pleiku


Nguyễn Đình Tuấn, một Phi công Trực thăng có dáng dấp và khuôn mặt trẻ nhất của những khóa UH1 đầu tiên ở Ft. Hunter nhưng cũng là một trong những Phi công Trực thăng lanh lẹ và gan dạ nhất trên các chiến trường Vùng II và Vùng III Chiến Thuật.

Nguyễn Đình Tuấn còn được anh em gọi là Tuấn Con Gái hay Tuấn Bụng để khỏi lộn với các tên Tuấn khác trong PD. Bạn Tuấn đang có thì giờ rảnh ngồi viết lại những kỷ niệm bay bổng ngày xưa với những tên người, những biến cố, những địa danh dù đã trên dưới 40 năm, tác giả vẫn nhớ rõ và ghi lại với đầy đủ chi tiết. Thật đáng khâm phục !

Mời các bạn cùng enjoy bài viết đầu tiên trong số nhiều bài viết của Tuấn.

Mùa Đông Pleiku

Mùa mưa đến dưới đồng bằng ! Chúng tôi thất nghiệp, thật là an bình cho đất nước.

Lãnh thổ chúng tôi phụ trách 2 tỉnh Phú Yên và Bình Định, nước dâng lên cao khắp mọi nơi, quân cộng sản trốn lên vùng cao để tránh nước, ước gì chúng tránh “Nước” chúng tôi lên núi rồi thành Tiên thì hạnh phúc biết bao ! Hạnh phúc cho cả dân tộc Việt Nam !

Phi đoàn 243 tăng phái lên Cao nguyên, chúng tôi khăn gói dẫn nhau đi biệt phái 2 tuần lễ.

Hợp đoàn Mãnh Sư 243 với 8 chiếc trực thăng, 32 nhân viên phi hành, 1C&C, 2 Guns và 5 Slicks biệt phái cho SĐ22BB. Chúng tôi đã kết nghĩa với SĐ22, vị Tư lệnh Sư đoàn hơi quý tôi, sau hôm tôi đưa Trung tá Thông vào thị sát Chiến trường, thăm Bộ chỉ huy nhẹ đóng tại quận Phù Mỹ nơi mà Chiến trận đang sôi bỏng cả tuần lễ, Trực thăng không vào tiếp tế được đã 3 ngày, chúng pháo kích chính xác quá. Tôi bay low level từ An Sơn đến Phù Mỹ, làm một lèo theo đường rầy xe lửa, nên Tướng Tư lệnh được dịp thấy máy bay lướt trên đầu ngọn cây, bay sát cánh đồng lúa.

Một hôm tôi làm việc với Tướng, sau một ngày dài bay bổng, ông dặn người Sĩ quan tùy viên giữ chúng tôi lại tư gia ăn cơm tối.

Bữa cơm ngoài trời tư gia Tướng tọa lạc trên sườn núi phía sau Bộ Tư Lệnh Sư đoàn, nhìn cảnh hoàng hôn khó mà quên. Tôi được biết Tướng chưa bao giờ đãi khách. Có tí Beer tôi lâng lâng xúc động vì đa cảm, vì cảnh đẹp và vì hãnh diện cho người Phi công Trực thăng chúng tôi được đãi ngộ. Chiều tối bay về, người Xạ thủ làm rơi cái nòng súng M60, cũng may tôi bay ngoài đồng trống nên không gây tai nạn ..nhưng biết đâu có thằng vẹm nào đó bị vỡ đầu ! Thằng em về trả súng cụt nòng !

Hợp đoàn đáp Pleiku, chúng tôi được cáp 1 barrack trống trải với những ghế bố để tạm trú, nhìn hai hàng ghế bố trơ trọi lạnh lẽo... ôi cô đơn ! 32 nhân viên phi hành biệt phái 2 tuần lễ xa nhà, xa nệm êm chăn ấm, cơm hàng cháo chợ. Tôi sang barrack gần đó, khu độc thân của PD 229 tá túc với thằng Nghị cháy, Nghị là bạn học với tôi thời tỉểu học Giuse Nghĩa Thục, lên trung học Lasan Bá Ninh, rồi nó đi Lasan Ban Mê Thuột.

Người nó bị cháy tan nát sau trận Tân Cảnh, Võ Định, Đồi Chu Pao, Tiền đồn 5, tiền đồn 6, tụi nó những chàng phi công 229, những chàng phi công võ trang đã anh dũng chiến đấu và đền nợ nước, riêng nó bị cháu 60% mà vẫn sống nhăn mà không chịu xuống đất làm, không được giải ngũ thì xin đi bay lại! đời nó gắn liền với trời mây và nàng UH.

Ngày mất nước, tôi lái xe đến tận nhà, đón nó và thằng Nam cò bay ra Hạm đội, nó còn nợ tôi ơn cứu tù ... nghĩa là cứu nó khỏi đi tù cộng sản !

Tôi cất cánh Tân Sơn Nhất về Cần Thơ, lấy cao độ tôi nhìn thấy hợp đoàn Air America làm vòng chờ trên trời cao, hợp đoàn của họ làm vòng tròn trên nền trời Saigon, tôi theo đưôi một cách hồ hởi, lòng thơ thới hân hoan, tôi bảo thằng Nghị khỏi về Cần Thơ nữa, tao đeo tụi nó là chắc ăn, Nghị mỉm cười, mặt bắt đầu tươi sáng lên, nếu tôi bay về Cần Thơ thì tương lai không biết về đâu ?.

Bi giờ bay theo hợp đoàn Air America thì còn gì bằng, đánh bài mà ôm con xì thì chắc như bắp ! hai thằng thấy chân trời hé mở, lòng hân hoan như mở cờ trong bụng. Lúc mới cất cánh tôi nhìn Nghị nó như người vô tri vô giác ngồi im không nói không cười, dĩ nhiên lòng chúng tôi như chết lặng !

Không gì sung sướng bằng một mình một tầu đi chơi và cũng không gì đau khổ bằng một mình một tầu không biết bay về đâu trong không gian bát ngát..sao ta bơ vơ không chốn về ! có phải chăng quả báo nhãn tiền... Sau 1 vòng trên bầu trời Saigon, những người bạn Huê Kỳ của tôi đều biến mất dạng, từng tầu, từng tầu lại từng tầu họ đã có bãi đáp sẵn, tôi trơ trọi, tôi 1 mình. Thật vô duyên ! phải có tầu của thằng Báu nữa thì cũng an ủi cái tuổi già ! Một mình trên vùng trời Saigon, tôi làm gì đây ? Hai đứa im lặng, cảm tưởng hụt hững bị bỏ rơi làm tôi chới với.

Để phá tan bầu không khí im lặng : Mày check cho tao Nhà Bè ở đâu ? Thằng Nghị lôi bản đồ ra loay hoay.

Tôi đổi sang tần số PD231 để nghe những người bạn cùng phi đoàn xưa, để biết tôi không cô đơn ! Có tiếng léo nhéo đáp Đệ Thất Hạm đội. Nhà Bè, tôi nhìn xuống không còn chỗ trống, đông nghẹt Trực thăng. Tao ra Vũng Tầu, Nghị gật đầu.

Từ khi nó quay máy tầu, là lúc nó đã giao mạng sống cho tôi, tôi cưu mang nó từ đây cho đến ngày nó rời Ft. Chaffee về với gia đình em gái nó.

Ft Chaffee tiền tôi không có nhưng bạn tôi có nhiều, thuốc lá từng cây từ niên trưởng Tâm bên Chinook, từ thằng Thế Th/tá BĐQ, từ thằng Hải em ruột Lài, phu nhân Đ/tá Dõng, chúng tôi hút gần chết phải cho thiên hạ hút ké. Nguyễn Trần Thị Oanh.

Pleiku tháng 12 trời lạnh như cắt, tôi gọi điện thoại viễn liên thông qua những em gái bên Tiger, bên MACV để liên lạc về nhà. tôi có sợi giây liên lạc mật thiết với hững người em gái viễn thông này từ ngày mới ra Phù Cát, chúng tôi ôm điện thoại hàng đêm, hàng giờ, Phù Cát buồn chán ngày cũng như đêm, có hôm sáng sớm các nàng đánh thức tôi dậy đi bay.

May sao người nhắc điện thoại trả lời đúng là nàng, Yến người tình Saigon của tôi dạo ấy, cùng tôi mừng rỡ nói chuyện với nhau không kịp thở, tôi bảo em mai lấy Air Vietnam lên Pleiku với anh..trời Pleiku lạnh quá nhớ hơi ấm của em, nhớ vòng tay ấm áp nồng nhiệt của em. Tôi dặn em khi lên máy bay nhờ người phi công dân sự gọi đài kiểm soát Pleiku điện thoại cho biệt đội 243 để Hạ sĩ quan trực ra đón em, tôi đọc số ĐT của Biệt đội, và số ĐT của Nghị cháy để em gọi nó sang đón em về phòng nghỉ ngơi, không tắm rửa vì trời Pleiku quá lạnh, và tôi không muốn mất mùi Saigon khi tôi đi bay về !.

Biệt đội chúng tôi nằm Pleiku liên tục 2 tuần rồi về Phù Cát nghỉ 2 tuần, đứa nào cũng căng thẳng vì đây là lần đầu PĐ đi biệt phái vì tình hình nóng bỏng, lạ vùng bay bổng và bầu trời Pleiku lại gần hơn nên cảnh vật khác hẳn, Đi bay cái gì cũng lạ ! Teo bỏ mẹ !

Có lẽ vùng phố núi cao nên chúng tôi tưởng trời đất gần... tôi gần trời xa đất thì ngán gì ông thần chết ! Chiểu đi bay về Yến đứng đón tôi tại cửa biệt đội.

Chúng tôi ôm nhau.
Trái đất ngừng quay
Chúng tôi ngừng thở
Say đắm hôn nhau
Những chiến hữu tôi
Cũng hạnh phúc lây
Với tình chúng tôi..

Người tình của tôi rất ư là văn minh, em sống tự nhiên như người Tây phương, cũng rượu, cũng Beer, cũng thuốc lá, cũng đàn ông chả kém gì chúng tôi ! Có những đêm hai đứa ngất ngưởng bên két 33 tại Hoàng Gia, tôi mới biết tụi thằng Vũ. Thủy Quân Lục Chiến đóng đô. Có những ngày phì phà thuốc lá vỉa hè Thanh Thế, tôi mặt đỏ gay. Brodard một buổi chiều thật nóng tưởng như cháy da, hai đứa ngồi bên két 33 trong máy lạnh, tôi không bao giờ mặc quân phục đi chơi, cũng không bao giờ quên cái “xẻng”, 4 ông nhẩy dù trắng trẻo ngồi xa “địa” chúng tôi, gia điều muốn bắt nạt, muốn sinh sự với thằng em không mặc đồ lính !

Tôi liếc nhìn, nghĩ bụng, lính Nhẩy dù mà trắng trẻo thì đâu biết trận mạc là cái đéo gì ? Lính nhẩy dù thứ thiệt đều là bạn tôi, thằng Kha, thằng Khiết, thằng Trần Gia Tốn, em ruột tôi là Ngọc Hiếu thuộc TĐ5, sau nó về TĐ14. Yến biết tụi này là thuộc ban Tâm Lý Chiến dù, xui cho tụi nó, tôi lúc nào cũng có 6 viên cho chắc ăn !.

Hai đứa tôi tôi chơi hết 1 két 33, chúng tôi quởn mà, ôm nhau khệnh khạng ra cửa, 4 thằng nhẩy dù đứng đợi trước cửa phì phèo thuốc lá, nếu là 4 ông Nhẩy dù thì không bao giờ đứng đợi ! Allez chơi !

Tôi móc “xẻng” 4 thằng con chạy có cờ, sau này thằng Thọ Dù gập tôi xin lỗi. Yến đã đi hát một thời gian ngắn lúc nhạc trẻ mới thịnh hành nên chúng nó biết em. Hai đứa tôi tận hưởng cuộc đời, lấy phòng ngủ làm nhà ... hầu như mỗi đêm, ngày tôi về phép. Em thích tôi cái lối sống bạt mạng bất cần đời.

Tôi phớt tỉnh trước mọi sự.


Lệ Minh.

Tôi tình nguyện cho những phi vụ hiểm nghèo, tôi vào An Lão, vào Hoài An, đi Chu Pao, vào Lệ Minh một mình. Để vừa lòng Nguyễn Xuân Trình. Sao vậy Trình ?

Gần Tết đầu năm 1974, Tôi bay VR với Tướng Tất, tư lệnh BĐQ cả một ngày, ăn trưa trên tầu bay. Tôi được biết phải cắm cờ VN, phải quay phim gửi về Phủ Tổng Thống làm quà Tết cho Tổng Thống.

Lệ Minh là một quận nhỏ thuộc tỉnh Pleiku không thuộc quyền kiểm soát của quân ta từ lâu.

Ngày N, Trinh bay C&C dẫn Khoa “bàn đèn” cùng hợp đoàn thả một trung đội trinh sát vào cắm cờ quay phim như ciné, hợp đoàn bay low level theo sự hướng dẫn của Đ/úy Trình, Đ/úy Khoa dẫn hợp đoàn đổ một trung đội Trinh sát và phóng viên chiến trường ngay đầu phi đạo Lệ Minh. Tôi được ân huệ bay rescue vì đã bay lead liên tục một tháng rồi. Khoa dẫn hợp đoàn ra an toàn, chắc nó làm dấu Thánh giá cẩn thận ? Có kiêng có lành ? Mọi người thở phào nhẹ nhõm, đinh ninh phi vụ hoàn tất, quân ta hoàn toàn vô sự.

Bỗng trên tầng số FM xôn xa Phe ta không quay phim được ! Vì không có cây để cắm cờ ! Có lỗ mà không có cọc ! Thế mới biết cái nào quan trọng ? Cây cọc bỏ quên trên tầu bay ! Lệ Minh rừng rậm khắp nơi, Trinh sát chỉ biết giết giặc, không biết làm thợ mộc. “Thằng T bay một mình, để nó vào một mình”... Chúng bắt nạt tôi quá DM Chào thua ! Trình hỏi tôi rất lịch sự ? Anh muốn làm sao ? Tao muốn “Kẹp chả”. Tôi trả lời.

Bay một mình lạnh lẽo thấy mẹ ! Vùng Lệ Minh thuộc quyền kiểm soát của chúng từ lâu ! Gun 1 bay đầu, tôi nằm giữa, Gun 2 theo đuôi.Chúng tôi low level vào Lệ Minh lần thứ hai với một người Trinh sát ôm cây cầm cờ. Gần đến phi trường Lệ Minh, bên trái tầu, một đốm lửa phụt lên, tôi Low level quá lẹ, tôi và thằng Liễn nhìn nhau, tôi khỏi cần phải ra lệnh, Liễn cho một tràng M 60 xuống đốm lửa. Liễn là Cơ phi ruột của tôi, nó theo tôi hầu hết các trận lớn và những phi vụ hiểm nghèo. Liễn vượt biển sang sau, hiện ở Nam Cali.

Chuyến Solo hoàn tất ! về đáp thì mới biết Gun 2 của thằng Quang Mập bị dính một mảnh nhỏ của trái B 41Cải tổ. Phát đạn bắn hụt tôi ?

Đ/úy Trình là một phi công giỏi, đầy mưu trí và nhiều tham vọng. Trên trời thì rất là anh hùng, dưới đất mà được như thế thì chúng ta có được một người chỉ huy hoàn hảo ! Đạo đức chỉ huy ? Chắc nước chúng tôi không bao giờ cần những thứ này. Những thằng chết nhát không bao giờ dám bay với tôi, những thằng bỏ tôi ngang xương vì chết nhát một thời gian sau đều chết thiệt ! Thằng Thiệt rỗ, thằng Hùng lìm ...

Có lẽ mạng tôi lớn, tai to quá chăng ? tại Phật mà !.


Xập Xám Cứu Mạng


Tôi đã thoát chết trong sự tình cờ vài lần.

Ngày còn ở PĐ 231, trận Krek đầu năm 1971, Phát từ Đà Nẵng đổi về Biên Hòa, Phát khóa 1 trực thăng, Khóa 8/68 Thủ Đức được ưu tiên bay số 2 vì là “em mới” và bay với tôi, người Hoa tiêu phó nhiều giờ bay, kinh nghiệm đầy mồm ! Chính ra phải nói : Tôi bay với Phát mới đúng lễ nghi quân cách !

Phát điềm tĩnh, trái ngược hẳn với Quá, người leader của chúng tôi, nhưng tôi rất “chịu” Quá, tướng nó không ngang tàng, không bảnh bao, phải nói là lè phè củ mì, nhưng dám ăn, dám nói và dám làm. Ăn đây là ăn tiền , nó đánh bạc giỏi lắm. Hôm anh chị Lộc “Rửa tay gác kiếm” Tôi có gặp nó, bi giờ Quá là Professional Poker USA.

Quá đã từng chửi thề DM các anh nhẩy dù cấp bậc Tr/tá, Th/tá trong BCH Dù đóng tại PT Tây Ninh. Hôm đó tôi tái mặt, đã rình rình nhè nhẹ, để tay lên báng súng, căng quá đấy ! Biết làm sao bây giờ ? Ngày đó chúng tôi 5 chiếc trực thăng làm việc cho Dù. Thiếu óai Quá bay lead, chúng tôi toàn Thiếu oái, trừ Tr/úy Tiên Romeo, Tr/úy Yto Yban và Tr/úy Phùng văn Tấn..

Chiều xuống chúng tôi sửa soạn về tổ, thời tiết không được tốt cho lắm, kiểm điểm lại còn thiếu một phi hành đoàn. Qua hỏi Bộ Chỉ Huy , người SQ Dù trực hành quân trả lời lờ mờ. Hỏi han lung tung vẫn không có câu trả lời chính xác. Một chiếc Trực thăng chưa về, hợp đoàn chúng tôi còn lại 4 chiếc, làm sao đây ? Chúng tôi không về được ? Không bao giờ có chuyện như thế xảy ra .

Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè .

Quá không dằn được tức bực vì lo ngại cho bạn, cho những người Wingman của mình, nó la chửi, gào thét toán loạn, chơi một màn độc thoại, độc diễn trong BCH Dù. Cũng may các anh SQ cao cấp Dù rất bình tĩnh giải quyết vấn đề sau khi ăn một tràng tiếng Đức của Quá, mọi việc ổn thỏa. Từ đó Quá được thăng cấp Đ/tá đặc cách tại mặt trận ! Kèm theo 30 ngày trọng cấm. Lon do chúng tôi gắn, 30 ngày do BTL Không Quân cấp ! Phải Đ/tá mới có quyền chửi DM Tr/tá chứ !

Tôi đã bay với Phát, nó bay giỏi, trầm tĩnh, Low level khỏi chê, có lần đã bay qua 2 cây cau, phải nghiêng cánh. Phi công vùng 1 mà !


Người Tù Binh Hụt


Hợp đoàn 5 chiếc làm việc cho Dù tại ngả ba Krek, nhiệm vụ tiếp tế và tản thương những người anh hùng đã đền nợ nước về hậu cứ, Thằng Công bay số 4 với Quang, người Thiếu Sinh Quân rất chững chạc và đàng hoàng, ít thích binh xập xám. Buổi chiều chúng tôi vào check Phi lệnh, xem mình bay với ai ? làm gì ? rồi ngày mai lè phè ra tầu thi hành nhiệm vụ. Công vào đổi tên phi lệnh tôi xuống bay với nó chiếc số 4, Quang lên chiếc số 2 với Phát, Phát Quang ? Chúng tôi không ai thắc mắc khiếu nại gì cả. số 4 hơi khó bay hơn số 2 một chút, sáng hôm sau đi bay tôi hỏi Công sao vậy ? Nó trả lời : Tao thích Quang lắm nhưng nó không thích binh xập xám, tầu mình có 3 tay rồi, mày nữa là đủ ! Ôi Xập xám !

Hôm ấy trời sương mù, sương mù mỏng, trần mây thấp 300’ , broken..Chúng tôi leo trên mây núp bóng từ bi. Hợp đoàn nối đuôi nhau bay vào Krek, không sợ đạn ở dưới đát bắn lên vì quân thù không thấy đường, dưới bụng chúng tôi được bao phủ bởi trần mây thấp, an toàn trên xa lộ. Đến ngã ba điểm hẹn, hợp đoàn đục mây chui xuống đáp tiếp tế cho quân Dù, rồi bốc những chiến sĩ tử trận về hậu cứ Phi trường Tây Ninh. Ngã ba Krek sương mù mỏng, tầm nhìn rất giới hạn, thằng Công tí nữa thì ủi vào một cây khô không to lắm đứng sừng sững phía bên phải của nó, cây đã chết khô, trùng mầu với sương mù khó nhận thấy.

Tôi giựt cần lái về bên trái tôi, tôi luôn ôm nhẹ cần lái khi vào “hot” chúng tôi luôn luôn bay Dual khi vào nơi nguy hiểm và khi bay low level. Thợ vịn cũng đòi hỏi kinh nghiệm đỡ khổ cho Trưởng phi cơ nhiều lắm. Nhìn nhau nhe răng cười, căng quá ! Không kịp nói gì với nhau, chỉ kịp la DM !

Hợp đoàn 5 chiếc vội vã đáp, chúng tôi cố làm việc thật nhanh để thoát ra khỏi vùng cho lẹ, tử khí bao trùm mọi cảnh vật. Thật ghê rợn ! Bỏ thực phẩm, nước uống và đạn dược xong lại load những tử thi bọc trong poncho đã bốc mùi, chúng tôi vội vã cất cánh. Tầu vừa lên khỏi mặt đất tôi nghe trong tầng số : Số 2 bị bắn rớt, số 3 chần chờ, số 4 chúng tôi chới với, Công khựng lại vì số 3 còn đó, chúng tôi hoang mang một giây, hai thằng nhìn nhau để lấy lại tinh thần, tôi hất hàm với nó như thầm nói : Bình tĩnh ! Tôi vừa nói : Lên mày ! Thì may quá số 3 cất cánh sau 1 giây chần chừ vì shock ! Thế là Công vội đẩy con tầu bay theo người bạn phía trước. Chúng tôi good team work !

Tôi bay nhiều với thằng Công, thàng Thạc, chúng tôi thay phiên nhau bay, chia đều nhiệm vụ. Chúng tôi 4 chiếc trực thăng nối đuôi nhau đáp phi trường Tây Ninh để lại tầu số 2 với 2 chàng phi công Phát - Quang thay vì Phát - Tuấn. Tôi thẫn thờ : Âu cũng là số mạng, thằng Công nhìn tôi : “C’est la vie” Công sau này đi Mỹ lại để học bay Chinook.

Ngay sau đó đích thân vị Phi đoàn trưởng 231 bay tầu rescue lên đón PHĐ lâm nạn nhưng chỉ cứu được 1 người Cơ phi tên Điệu. Tôi hãnh diện được phục vụ Phi đoàn với những người chỉ huy như vậy. Như anh Thân, anh Lộc xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, luôn dấn thân vào chỗ nguy hiểm với đàn em, nóng ruột vì đàn em trong vùng nguy hiểm, giải cứu đàn em không đắn đo suy nghĩ.

Câu chuyện bị bắn rớt tầu được Điệu kể lại ngay sau đó :

Vừa cất cánh tầu số 2 bị bắn rơi ngay tại chỗ, nhờ bản lãnh và kinh nghiệm Phát điều khiển con tầu chạm đất an toàn, không mạnh cho lắm, Điệu bị bất ngờ nên ngã chúi vào những túi xác chết không kịp chạy. Những những người chiến hữu của Điệu cũng không chạy được xa, Phát và Quang bị bắt không xa chỗ tầu rớt, bị trói chặt ngay, Dũng người xạ thủ trắng trẻo cao ráo, hơi gầy,bảnh trai với biệt hiệu Dũng lai, với hai giòng máu trong người, ra phố Dũng luôn có 1 bông mai để cài cổ áo coi cũng bảnh choẹ lắm.

Quân thù la : “Thằng này là xạ thủ” . Chúng bắt trói Dũng và chặt đầu ngay tại chỗ bằng mã tấu . Dũng đền nợ nước không kịp đeo lon. Nó không cần đeo lon lá gì cả ! Người anh hùng Tổ Quốc ghi ơn, không phân biệt cấp bậc. Tôi vẫn nhớ đến nó và câu chuyện tếu nó kể lúc standby. Chúng la to một lần nữa : Còn 1 thằng nữa... Còn một thằng nữa ! Điệu vội kéo Zipper cái Poncho đựng xác chết bên cạnh, dùng tay cào vào xác chết, vơ vét những giọt máu khô bôi vội lên mặt mình, lên áo bay, nhắm mắt nín thở như đã chết rồi, chúng tìm được xác Điệu nằm cạnh Poncho bảo nhau : “Thằng này chết rồi” rồi kéo nhau chạy hết. Quân Dù cũng quanh đây thành chúng không kiểm soát kỹ và cũng không dùng súng bắn.

Điệu bò ra ruộng, ngâm mình dưới bùn đợi tầu lên cứu, nghe tiếng máy bay quen thuộc trên trời , Điệu lôi cái gương tròn nhỏ, bán ngoài chợ dùng để chải đầu (tên Điệu mà !) . Cái gương đã cứu nó, tầu rescue thấy ánh sáng nhấp nháy của Điệu nhào xuống bốc nó về. Điệu hiện ở USA, theo lời Th/tá Tiên. Anh hùng Phát và Quang được trả về ngày trao đổi tù binh, sau đó các anh có chữ “Tù Binh” gắn liền với tên mình. Hiện 2 anh ở USA.

Đó là lần đầu tôi thoát nạn. Ngã ba Krek, tôi, người tù binh hụt !


Mạt Chược Cứu Mạng


Lần thứ hai cũng thật tình cờ. Phù Cát sáng Chủ Nhật, ngày tôi nghỉ lên Phi Đoàn uống café ăn sáng ghi sổ. Quán Th/sĩ Khoa, vừa kêu ly cà phê sữa chưa kịp uống. Xếp đi tìm tôi, anh thích tôi nhưng không để lộ cho ai biết cả. Anh chịu tôi sau ngày tôi vào xin anh đi bay biệt phái hành quân với PD 215.

“ Chú đi với tôi ra Qui Nhơn ăn sáng, nhẩy đầm Matinêe, tắm hơi, đấm bóp”.. Anh làm một hơi. Th/sĩ Khoa đang pha café phải ngửng lên nhìn.

Tôi chới với đầy ngạc nhiên ! Xếp rủ mình đi phố Qui Nhơn để hưởng lạc ? Một chương trình hấp dẫn đầy chất lượng cho ngày Chủ Nhật ! Thật là buồn ngủ mà gặp chiếu manh ! Xếp nói tiếp : Thiếu Tá Đào bao ! Thiếu Tá Đào là Chỉ Huy Trưởng Pháo binh Tiểu khu Bình Định. Mấy ông pháo binh “khẩm địa” !

Yes Sir !

Tôi chưa kịp hớp 1 miếng café sữa nào, bỏ lại trên bàn vội vàng theo xếp. Tôi tự nhiên lấy chìa khóa xe Pickup của xếp, ngày đó sau xếp là tôi, có lẽ chúng không ưa tôi là vì vậy ! Có lần tôi và 3 em gái Saigon : Phụng, Nguyên, Viên ngồi đằng trước, đằng sau 4 ông xếp lớn, anh Thân, anh Hổ, anh Bút và Thành Quang ngồi thùng. Nổ máy xe, đợi xếp lấy nón bay dẫn thằng học trò đi Check out Trưởng phi cơ, thằng Khang Mát.

Ba thầy trò vừa leo lên con dốc nhỏ trước mặt Phi đoàn, thì ngược chiều chiếc xe Jeep của Th/tá Hy, trưởng phòng An ninh quân đội chận lại, Anh Hy hỏi xếp : Thân, sao đi bay 3 người ? Tôi thiếu một tay đây, anh Hy tổ chức mạt chược ngày Chủ Nhật. Xếp rất nể ông An Ninh này. Tôi còn nể hơn xếp gấp trăm lần ! Chưa bao giờ tôi xoa mà thắng anh Hy ! Tôi rất quý mến anh chị Hy. Xếp nhìn tôi chần chừ : Chú ở lại. Tôi lẩm bẩm chửi thề trong bụng ! Anh Hy cười thỏa mãn trong sự đau khổ của tôi rồi lái xe đi ngay .

Tôi im lặng buồn 5 phút tiếc hùi hụi màn đấm bóp tắm hơi.

Tiger Massage anh em chúng tôi có quyền người đấm ta bóp ! Rồi tùy nghi... Ôi những em trẻ đẹp, trắng trẻo, chân dài...! Tôi đưa xếp và thằng Khang Mát ra phi đạo lấy tầu gập Đ/Úy Trình đứng bên cạnh chiếc tầu định mệnh ! Trình bay hành quân nhưng vẫn nhường chiếc tầu định mệnh cho xếp, một hành động đẹp của người học trò kính trọng người thầy.

Trình nói : Th/tá bay chiếc này, để tôi check chiếc khác, một chiếc tầu bên cạnh.

Hành động đẹp này đã cứu Trình thoát hiểm, thật là số mạng. Tôi lái xe về Phi đoàn lòng tiếc hùi hụi. Chủ nhật mất một chầu ăn chơi chùa đầy hào hứng ! Mỡ treo gần miệng rồi mà không được đớp ! Rủa thầm anh Hy, xin lỗi anh, người cứu mạng tôi không chỉ một lần. Vợ chồng Th/tá Hy được bầu là Gia Đình Á Châu Gương Mẫu tại Chicago năm 2009, con cháu nên người, nổi tiếng trong cộng đồng cả Việt lẫn Mỹ. Xuống Câu Lạc Bộ Th/sĩ Khoa lần nữa, tôi gọi ly Café thứ hai, lại chưa kịp uống thì người Sĩ quan trực chạy xuống hớt hải la : Phi đoàn trưởng rớt tầu !

Tôi vội chạy lên văn phòng Phi đoiàn, Hành Quân Chiến Cuộc báo tầu rớt ở Bà Gi, một phi trường nhỏ chúng tôi thường dùng bay tập, máy bị tắt, hệ thống thủy điều hỏng cùng một lúc, tầu rơi như cục đá, lún xuống bùn, người anh cả chúng tôi thiệt mạng ngay tại chỗ vì bị Transmission đè lên người ngộp thở, thằng Khang mát nằm trên bị cháy tả tơi 40% còn sống sót. Nếu tôi ngồi thùng thì sao đây ? Có bao giờ cột giây an toàn khi ngồi sau đâu ! Tôi làm sao sống sót được ?

Dieu seil le sait ?

Hôm ấy tôi không Café, không mạt chược, còn gì là vui thú nữa. Lòng tôi đã gởi theo người anh Cả !


Trung Tâm Y Khoa

Tôi không thiết bay bổng gì nữa, về Saigon khám định kỳ tôi khai bệnh : Xoang mũi, Xoay viêm trái phải nằm Bệnh xá 30 ngày rồi 3 tháng.

Bác sĩ cho thuốc, tôi không uống, vứt thuốc xuống ống cống, không vứt vào thùng rác sợ bị phát giác ! Thuốc theo ống cống ra sông, bệnh ở lại với tôi, tôi nuôi bệnh. Tôi không muốn về Phù Cát !

Tôi lang thang Saigon, lấy chiếc Lambretta của thằng Hai néo 231 chạy ra Vũng Tầu ở với Yến cả tháng trời.


Phố Núi

Trở lại Pleiku, tôi và Yến biệt phái qua phòng thằng Nghị cháy, chúng tôi ngủ chung 1 giường, 3 đứa đắp 2 mền, Yến nằm giữa ôm nhau một cục mà vẫn lạnh đến nỗi thằng Nghị trở dậy lấy cái bếp điện, kê miếng gỗ dầy nửa lóng tay để bếp lên, đút dưới gầm giường làm lò sưởi. Nửa đêm phòng khét lẹt toàn mùi khói.

Tôi và Nghị giật mình thức giấc, miếng gỗ kê dưới bếp điện cháy đen thui, sắp sửa cháy xuống sàn nhà bằng gỗ, Barrack toàn bằng gỗ ! Chúng tôi sắp đốt Barrack ! Chúng tôi sắp biến thành 3 con heo quay !

Thằng Nghị đi gặp Th/tá Mão, Chỉ Huy Trưởng Phòng Thủ xin giấy tờ để Yến ra vào phi trường cho tiện. Có hôm thằng Khoan Th/tá BĐQ xách jeep lại đón chúng tôi đi ăn cơm Tây, đi Phượng Hoàng nhẩy nhót. Chiều đi bay về chúng tôi ra phố ăn cơm, đi nhậu bia ôm với cả băng 229 và thằng Toàn bên Thái Dương (530) .

Tối buồn, hai đứa mò ra phố núi uống bia tôi đậu xe Dodge cũ của SĐ22 Biệt Phái ngay trước cửa tiệm nhậu bên cạnh CLB Phượng Hoàng. Yến thật lịch sự trong thời trang mùa đông, em diện như tài tử ciné, hai đứa vào ngồi lặng lẽ trong góc tiệm. Để khỏi làm phiền bồi bàn, tôi gọi 1 két 33 cho tiện việc sổ sách !

Có lẽ trò chơi này làm phiền lòng mấy người bạn SQ BĐQ ngồi xa, Tôi mặc Nomex 2 mảnh không lon lá nhưng có “xẻng” đeo bên hông, mặt non choẹt , thấy khó ưa ! Than ơi, tôi hiền khô ! các ông BĐQ ra chiều khó chịu. phải chi mấy anh lớn thì dễ tính, Anh Tất, anh Nhu, anh Từ Vấn, anh Hùng, anh Lạc, anh Tay hay thằng Thế, thằng Khoan, thằng Hiển thì tôi được miễn phí ! Cũng may thằng Vinh râu đến đúng lúc, nó ngửi thấy mùi khen khét ngay khi bước vào cửa. Dạo đó nó quá hay ! tôi mê nó cũng vì vậy ! BĐQ thấy thằng Vinh râu, sau câu chào hỏi xã giao mọi chuyện không gì xảy ra ! Các ông ấy đã sửa soạn móc lựu đạn rồi.

Lỗi tại tôi chê hai bông mai lại không mặc áo liền quần nên phe ta nhầm ! Bộ Nomex hại tôi nhiều lần nhưng tôi vẫn thích Nomex ! Chúng tôi sống như những ngày ở Saigon nhưng thú vị hơn nhiều, đầy tình yêu và tình bạn trong bầu không khí chiến tranh. Yến thích diện, em vẽ kiểu, tự chế quần áo. Yến nhiều quần áo đẹp, có dạo báo Saigon chụp hình vào mùa Giáng Sinh, Nhà tiệm vải trên đường Tạ Thu Thâu mà !

Tôi bay bổng, chiến đấu với quân thù, đánh đu với tử thần để được vui chơi với tình nhân và bạn hữu 229. Không khí mát lạnh thú vị hơn Saigon rất nhiều. Nhân dịp phi đội Hải Sư thiếu người bay lead, không dám xuống bốc toán Viễn Thám trong mật khu An Lão để NT Nguyễn Thái Dũng bay C&C phải ra tay rước toán, làm ơn mắc oán không còn ở Phi Đoàn nữa. Hải Sư ! sao không thấy thằng nào nổi cơn mát ! Nếu thành lập Phi Đội bay test thì đã có sẵn chúng Vì thằng Lead tránh nhiệm hơi nặng và nguy hiểm. Tôi tình nguyện biệt phái cả tháng thay vì 2 tuần, chỉ bay lead thôi. Xem tử thần có làm gì được nhau ? !

Vì ham chơi, tôi tình nguyện bay vào chỗ chết để sống. Để được sống sao cho ý nghĩa, chứ không phải để mà sống ! Lôi thôi quá vậy ? ! Cũng là “sống” thôi mà ! Chúng tôi yêu nhau không kể thời gian ...Trời Pleiku sau ngày bay bổng chỉ có : ăn nhậu, sương khói, và yêu đương ! Một thời để yêu và một thời để chết ! Cả Barrack im lặng như tờ. Chúng nó đi đâu hết ? Chuyện lạ ? Ở xứ độc thân chúng ồn ào náo nhiệt cả ngày lẫn đêm, dù có đi bay hay không. Té ra thằng Mạnh, thằng Đài, thằng Phú, thằng Tuân, thằng Nghị, cả bọn chúng nó nằm ngồi trong phòng thằng Mạnh, thằng Đài nghe cải lương trực tiếp truyền thanh ! Tuồng cải lương truyền từ cái Microphone gắn đầu giường thằng Nghị xuống 2 cái loa to tổ bố trong phòng thằng Mạnh thằng Đài... tiếng thở biến thành tiếng hét... tôi và Yến đóng tuồng Tarzan “ Tiếng Hú Giữa Rừng Khuya” để chúng thưởng thức !

Bố quỷ !

Posted by: caoduy Apr 26 2014, 07:52 AM






Mưa Pleiku, cơn mưa dài không dứt

Trải qua khá nhiều năm – hơn 40 năm – và nhiều cảnh ngộ đã trôi qua ấy thế mà tôi vẫn không quên được ấn tượng về mưa Tây nguyên thuở ấy. Và nếu tính thời gian thì cũng trên 50 năm sống ở Nam bộ với biết bao mùa mưa nắng nhưng hình ảnh cơn mưa, cảm giác trong mưa của tôi đối với mưa phương Nam vẫn không thể chồng lên những gì tôi có được và lưu giữ về mưa Tây nguyên, nơi tôi sống 2 năm ở Kontum và 3 năm tại Pleiku. Mưa Pleiku là cái đỉnh của mưa miền núi, tôi bảo lưu điều này!

Thời ấy, Pleiku như một sơn nữ còn nhiều hương rừng trên da thịt đang rụt rè đi những bước chầm chậm vào trung tâm đô thị. Đó là một thị xã mang thật nhiều tính tạm bợ trong kiến trúc nhà cửa, phố phường và cả trong tâm tư nhiều con người không phải dân gốc tại đó, chỉ có mặt vì công việc của người công chức hay quân nhân với tâm trạng tạm cư chờ một ngày đổi về đâu đó theo ý muốn. Thành phố thời chiến tranh lọt thỏm trong một thung lũng lớn và bao quanh đấy là một không khí bất an. Nhìn từ máy bay xuống càng thấy tính tạm bợ của thành phố này, trại lính san sát nhau, mái nhà dân đa phần là mái tôn đã xỉn màu không hứa hẹn gì nhiều về một thành phố miền cao thơ mộng hơi một chút chênh vênh, cheo leo, nhiều đường cong gợi hình gợi cảm theo đúng nghĩa của nó.

Nhà tôi nằm ngay ngã ba, giữa đường Nguyễn Đình Chiểu với con đường lởm chởm đá dẫn vào phía hông bệnh viện thấp bé dưới những cây cổ thụ đêm đêm tôi vẫn nghe nhiều tiếng cú kêu. Và nhà tôi chỉ cách CLB Phượng Hoàng có một bức tường thấp, đó là một chốn nhảy nhót, ca hát nhiều tính dã chiến chủ yếu dành cho lính và đôi khi có…học trò gái của tôi đi cùng với họ! Sau lưng căn nhà gỗ tôi mướn là công viên còn thiếu nhiều sự chăm sóc nếu không kể một căn nhà sàn nghe nói của quan chức lớn nào đó ở Sài Gòn. Tất cả không gian xung quanh nơi căn nhà của tôi là đầy những thứ không nhiều hứa hẹn một tương lai cho ai đó muốn coi Pleiku là quê hương thứ hai.

Những buổi tối mưa, thị xã tối rất đậm và rất nhanh như bị đóng cửa, nhiều lúc ngồi nhà hiu quanh quá tôi đã khoác áo mưa đi ra thì quả thật những lúc như vậy lòng chỉ thầm mong sao…bị pháo kích đặng cho mọi thứ náo động lên môt tí! Nghĩ lại, thật kinh khủng, không hiểu bằng cách nào chúng tôi sống được qua những cơn mưa mỏng, không ồn ào như mưa Nam bộ, không lãng mạn da diết như mưa Huế mà đúng là …mưa rừng mang nhiều nét bí ẩn! Mưa ở đây là mưa yêu dấu, không đi kèm gió lớn làm cho thành phố nghiêng đi như mưa Huế. Nhiều giọt nước đã bị những cây cao ngăn lại, làm tản ra khiến cho nó rơi xuống nhẹ nhàng. Người thuở ấy mỗi khi đi trong mưa mặc áo mưa chứ không ai trùm cái poncho tùm hụp làm mất hết những dáng thon dáng cong nữ tính như bây giờ.

Và kinh nghiệm của tôi là, mưa ồn ào, bặm trợn như giận như hờn như ghen kiểu mưa Sài Gòn vậy mà không làm cản trở những cuộc hò hẹn đứng nghe mưa vì nó chóng tan. Còn mưa Pleiku, không phải như thơ Huy Cận “Đêm mưa làm nhớ không gian / Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la”. Đúng là tôi không bơ vơ một tí nào bởi thứ mưa Tây nguyên ấy không đánh thức nỗi sầu xa xứ, nó không là mưa xứ lạ mà là xứ đang lôi tôi vào sự tạo dựng một mối ràng buộc thân quen.

Một lần chia sẻ với anh bạn mưa Pleiku không làm mình có cảm giác lưu đày phát vãng, tôi được anh cho biết anh có cảm tưởng đây là mưa trên vùng đất mới của những người không quê hương! Đấy là mưa rừng, cũng may thời ấy tôi không có những cuộc hò hẹn hoặc những buổi hai người ngồi ở hai nơi cùng ngắm cơn mưa đa cảm cày xới hồn con người! Và một lần khác, có mặt tại vùng ngoại ô nơi người ta trồng hoa màu rất xanh tốt, nhìn mưa xuống dàn bầu hay dàn su su gì đó, tôi không thấy những chiếc lá bị đánh bẹp giúm dù mưa khá to. Lá rừng và mưa rừng như nương vào nhau tung hứng!

Những đêm mưa thường làm tôi khó ngủ, nó nhẹ như mơn man nhưng tôi không nhận đựơc sự vỗ về đó, cái mà tôi nhận vào những đêm như thế là cảm giác sướt mướt, nhão nhè. Ngay cả khi tôi đang ngủ thì mưa đêm cũng đánh thức tôi dậy, bỏ mặc tôi nằm mường tượng ra ngôi trường tôi dạy chỉ có linh hồn của nó là những cô gái láu táu thông minh và hay ăn hàng mới đáng kể. Còn trong đêm mưa, mấy dãy nhà thấp bé không kiên cố ấy vắng lặng đầy không khí yêu ma, có thể có những hồn ma hiện về đi lại trên hành lang thông thốc gió.

Mưa đêm, nằm mường tượng ra khu chợ trời, nơi đô hội phồn hoa nhất của Pleiku đang sũng nước tội nghiệp dưới ánh đèn vàng vọt của những con đường một thành phố tứ xứ mà đêm ai cũng rút vào nhà trả nó về với nguyên dạng một thị xã mồ côi, không thân thuộc, không quê hương! Mỗi sáng nào đêm qua có mưa, khi đi trên đường tới trường, con đường gây ấn tượng nhờ những đám nữ sinh trường tôi đi tới lớp, trong lòng tôi thường hay hiện ra câu nói thầm thật vớ vẩn rằng đêm qua mưa Pleiku đa cảm đến vậy nhưng không làm chết một ai! Thật may mắn!

Giờ Pleiku không còn là nó của tôi năm xưa nữa. Không phải vì những đổi thay bên ngoài khiến nó xa lạ với tôi, những thứ thay đổi đó như một dòng sông tự chảy khỏi cần một sức đẩy của máy bơm, thời gian trôi và nước trôi theo. Tôi đã về Pleiku một lần cách đây 3 năm, đêm mưa đứng nhìn ra ngoài mắt bị che chắn bởi những khối nhà hình thù kỳ quặc. Không còn mưa rừng trên đường phố Pleiku! Tôi biết lấy gì để yêu mến nó như một người tình, có thể đó là người gốc Tây nguyên không chừng, nếu trời sắp xếp cho tôi như vậy!

Cao Thoại Châu

Posted by: KhoaNam Jul 17 2014, 08:17 AM





Giã biệt miền cao


Sau lễ mãn khóa tôi được ưu tiên chọn Phi Đoàn 114 thuộc Không Đoàn 62 làm đơn vị đầu tiên để phục vụ. Điều mà tôi vui mừng nhứt là gặp lại Bố Già Đặng Văn Hậu, người thầy cũ đã dạy khóa tôi, nay là đương kim chức vụ Phi Đoàn Trưởng. Ngày tôi đến trình diện, bố Hậu tươi cười bắt tay tôi khiến tôi vơi bớt nỗi ưu tư của một người lính mới. Trước ánh mắt bao dung của bố, tôi vui mừng hỏi:

- Thưa thầy, khi nào tôi mới được đi bay?

– Anh yên chí, tôi sẽ cho người xác định hành quân để anh sớm đi bay với anh em.

Tôi hân hoan chờ đợi. Đúng như lời hứa hẹn của bố Hậu, một tháng sau, tôi được xác định khả năng hành quân. Những phi vụ đầu tiên của tôi là hộ tống xa đoàn (Escort Convoy), hộ tống hỏa xa (Escort Train). Sau đó, tôi được đi biệt phái ở Kontum để thực tập hành quân. Biệt đội Kontum yểm trợ cho Biệt Khu 24. Sau những phi vụ hướng dẫn khu trục (Forward Air Control) ở những mục tiêu oanh kích tự do hoặc phi vụ quan sát hành quân (Combat Observation), tôi được anh La Kim Điệp gấp rút huấn luyện tôi lái xe Jeep và nhảy đầm. Đó là môn sơ đẳng mà lính hào hoa mới ra lò phải biết để lả lướt với đàn anh. Tôi được thả solo rất sớm và nhận lãnh nhiệm vụ đưa đàn anh tới nhà… đào sau bữa cơm chiều và rước mấy ổng về sau mười giờ đêm. Chiều nào tôi cũng lái xe Jeep đi … rải quân y như đi thả team biệt kích qua nhiều nhà của các giai nhân xứ Thượng yêu lính tàu bay. Để được như đàn anh có … đào cho vơi bớt cái lạnh lẻo của miền cao, tôi lái xe đi ground show khắp phố Kontum. Mấy ngày sau, tôi giao trách nhiệm tài xế đưa đón lại cho anh Thái cơ khí viên vì tôi vừa quen được một cô nữ sinh thơm như … mít, có mái tóc huyền óng ả, khuôn mặt trái soan, đôi mắt đẹp lúc nào cũng ươn ướt, mày rậm, lông mi cong vút. Đặc biệt nàng có hai cái răng khểnh càng làm tăng thêm nét duyên dáng. Thân hình nàng cân đối, hấp dẫn, lộ ra những đường cong tuyệt mỹ trên chiếc áo dài trắng nữ sinh.

Buổi tối đầu tiên đến nhà nàng, tôi khám phá ra người đẹp có tài thổi … tiêu. Tôi yêu cầu nàng thổi vài khúc cho tôi thưởng thức. E ấp, ngại ngần giây lát, nàng mới chịu thổi tiêu cho tôi nghe. Trong buổi sơ ngộ đó, nàng tắt đèn điện và thắp lên một ngọn nến. Tôi hỏi:

- Sao em không để đèn sáng? (Không chịu đèn hả)

Nàng mỉm cười, nhìn tôi:

- Em thích ánh sáng của những ngọn nến hơn đèn điện vì nó làm dịu mắt.

Tiếng tiêu trầm bổng của nàng nghe như tiếng tiêu đệm trong những khúc ngâm thơ tao đàn. Thổi xong, nàng hỏi:

- Nghe được không anh?

Tôi phát biểu cảm tưởng:

- Nghe du dương lắm, tiếng tiêu khiến tâm hồn anh hoài cổ. Anh tưởng tượng em là nàng Kiều xưa còn anh là Kim Trọng trong đêm gặp gỡ đầu tiên. (Cải lương quá!)

– Sao em cũng có cảm nghĩ giống như anh vậy đó.

Về nhà trọ của biệt đội, đàn anh bắt tôi phải báo cáo kết quả. Tôi báo cáo láo với họ là tôi đã tiến chiếm … mục tiêu (Dóc tổ!). Nghe tôi nói nàng thổi tiêu rất hay, một anh diễu cợt, trêu chọc tôi:

- Chắc là em thổi kèn còn giỏi hơn thổi tiêu nữa đó!

Tôi cười nói:

- Vậy thì tôi quá sướng, các bác ạ!

Vào những ngày cuối tuần, bác sĩ Thạch của Bệnh Viện 2 Dã Chiến thường mời chúng tôi đến nhà để dự dạ vũ do vợ chồng ông tổ chức. Cái máy Aikai thay cho nhạc sống nhưng cũng rất hào hứng, tưng bừng. Có khoảng hai chục cặp nam nữ đến nhảy nhót, kể cả chúng tôi trong bầu không khí ấm áp thân mật. Chiều thứ Bảy nào được biệt đội Pleiku gọi điện thoại mời họp mặt thì chúng tôi bay xuống Hội Quán Phượng Hoàng để nhảy đầm. Thỉnh thoảng, chúng tôi chở bác sĩ Thạch xuống Pleiku, phối hợp với Đại úy Nguyễn Chánh Tôn của đơn vị tôi, đi săn thú rừng. Hai tay thiện xạ nầy đã hạ được nhiều con thịt, đem về cho biệt đội nấu nướng rồi đánh chén cả đêm.

Nhân viên phi hành của Phi Đoàn tôi luân phiên nhau đi biệt phái, mỗi nơi mười lăm ngày. Anh nào bị mỹ nhân trói chân, cột cẳng trên đường biệt phái thì xin phép đóng đô dài hạn ở cái nơi mà chàng bị vướng lưới tình nàng. Sau nửa tháng ở biệt đội, về phi đoàn, tôi bay những phi vụ do Trung Tâm Hành Quân Không Trợ II điều động, có khi phải khăn gói lên đường đi tăng phái cho những biệt đội đang yểm trợ những cuộc hành quân lớn.

Nửa tháng làm việc ở Phi Đoàn, vào những ngày cuối tuần, tôi thường hướng dẫn người yêu đi xi nê, đi dạo phố Nha Trang rồi ra bãi biển, ngồi bên nhau trên cát trắng, nhìn trăng buông tơ vàng trên sóng nước bao la mà hẹn ước chuyện tương lai. Có khi tôi dẫn nàng đi ngoạn cảnh ở Hòn Chồng, vào Hải Học Viện hay ra Cầu Đá ăn phở. Người yêu của tôi lúc đó là một nữ sinh, con của một gia đình đạo dòng. Nàng thường dẫn tôi đi xem lễ ở nhà thờ Núi trong những chiều Chúa Nhật. Tôi lại có cái thú riêng qua cầu Xóm Bóng để vui chơi với ngư dân. Họ lái thuyền đưa tôi ra Hòn Yến, Hòn Cò…, ném chất nổ xuống biển để vớt cá đem về làm bữa cơm chiều, mời tôi ra ăn rồi cùng nhau đờn ca cổ nhạc miền… Nam. Những lúc vui chơi với dân đánh cá có tâm hồn mộc mạc, hiền hòa, lòng tôi vơi bớt niềm thương nhớ quê xưa vì nơi chôn nhao cắt rún của tôi là một làng đánh cá nghèo nàn. Sáng nào không có tên trên bảng phi lệnh, tôi cũng chạy ra bãi biển để bơi lội. Khi mệt mỏi, tôi ngồi trên cát trắng nhìn vầng dương từ từ nhô lên ở chân trời phía Đông ửng hồng. Thuyền ngư phủ tấp nập ra khơi. Tôi nằm trên bãi cát trắng vài phút để lắng nghe nhạc trùng dương vọng về giữa buổi ban mai. Hàng cây dừa mượt lá mang những buồng trái xanh trĩu nặng và rặng thùy dương lả ngọn đang xôn xao chào đón ánh bình minh. Tôi sống thân cận với biển từ thuở ấu thơ. Hơi thở của gia đình tôi hòa nhập và tùy thuộc vào hơi thở của biển. Trong huyết quản của tôi cũng chất chứa đầy chất biển mặn nồng. Đáng lẽ tôi phải gia nhập Hải Quân để được gần biển cho thỏa mộng hải hồ nhưng định mệnh bắt tôi làm kiếp chim trời nhớ biển. Nghĩ cho cùng, hai cõi biển, trời bao la đều cho tâm hồn tôi chắp cánh.

Sống bên biển và người yêu qua hai tuần lễ, tôi lại thu xếp hành trang đi biệt phái. Hình như tôi có duyên nợ với… miền Cao Nguyên nên hết biệt phái Kontum lại đến Pleiku, xứ Thượng phủ đầy bụi đỏ trên cỏ cây, hoa lá, trên căn cứ, phố phường. Vào những chiều mù sương, khí lạnh toát ra từ rừng núi âm u. Chờ anh em đi bay về đông đủ, chúng tôi ngồi đầy nhóc trên chiếc xe Jeep rất … bụi đời, chạy ra phố, vào những phòng tắm nước nóng để tẩy sạch phong trần trước khi ăn cơm chiều rồi đi du hí. Biệt đội L19 của chúng tôi nằm trong Căn Cứ 92 do Thiếu Tá Phùng Ngọc ẩn làm Chỉ Huy Trưởng (1965), người đại huynh của chúng tôi văn võ song toàn và rất … chịu chơi! Tôi có đi bay với anh hai phi vụ yểm trợ hành quân ở chiến trường Đức Cơ. Bên cạnh chúng tôi còn có biệt đội Khu Trục AD6. (Phi Đoàn 524– Thiên Lôi) và biệt đội trực thăng H34 (Phi Đoàn Thần Tượng). Thời gian tôi thường đi biệt phái ở miền Cao Nguyên là lúc có nhiều cao thủ của Phi Đoàn 114 tình nguyện dẫn… phu nhân lên Pleiku để biệt phái dài hạn. Đó là những cặp vợ chồng anh Châu Điên, Nghĩa Ruồi, Vĩnh Méo, Hà Thuyên… Có lẽ các chàng nầy đã bị cái lạnh đêm trường của miền cao nhiều đêm dày đạp các chàng dưới gót giầy đồng nên cần phải có người bạn gối chăn để ấp ủ. Do đó mà các chàng khó lòng chém vè để đi lả lướt được (kể như hết nhúc nhích). Còn độc thân như tôi thì mặc sức mà đi dọc về ngang, không bị ai ràng buộc. Có lần đi biệt phái với anh Nguyễn Triết cũng còn độc thân như tôi (không biết có còn origin không), sau phi vụ hành quân ở vùng Dakto (Tân Cảnh) chúng tôi đáp xuống phi trường Phượng Hoàng, rủ Trung úy Nghĩa, Trưởng Trại Biệt Kích gần đó lái xe chạy đến quán Lệ Thanh để nhậu thịt rừng. Tửu quán nầy nằm cạnh ven rừng đợi chờ tiếp đón những chàng trai thời loạn từ chiến trận trở về. Các nàng chiêu đãi viên xinh đẹp không kém chi gái thành đô. Hỏi ra mới biết các nàng từ Sài Gòn đến. Chẳng biết các nàng chán đời hay sao mà lên tới chốn non cao, rừng rậm, cu kêu, vượn hú để phục vụ khách tang bồng. Sau chầu nhậu no say, trước khi bay về Kontum, chúng tôi còn bay rà sát nóc quán của các nàng tiên hạ giới.

Mấy ông có vợ nhiều khi còn láu táu hơn bọn độc thân. Ở phía Tây Bắc Pleiku có một cái buôn Thượng gần bờ suối mà già, trẻ, gái, trai đều tắm thoát y một trăm phầm trăm. Chiều nào các ông có vợ của biệt đội Pleiku, sau khi thi hành xong phi vụ, trước khi về đáp phi trường Cù Hanh cũng bay lượn thật thấp trên cái buôn sexy kia để xem dân Thượng tắm. Nhiều nàng đang đứng bên bờ suối, phô cái … hơ hớ ra ngoài, thấy phi cơ bay quần mãi nên hoảng hốt, lấy tay mà bụm…

Không biết tại sao cái chất tếu thường tiềm ẩn trong tâm hồn lính hào hoa. Chất tếu đã làm cuộc đời bay bổng nở vạn đóa hoa cười dù trong vùng lửa đạn, giữa cơn mưa to, gió lớn chúng tôi vẫn đùa giỡn và cười vang trên tần số máy vô tuyến. Cái tếu nhiều khi làm tăng sức quyến rũ cho kẻ đi mây, về gió đối với giai nhân. Các chàng luôn tếu, luôn yêu đời có lẻ vì thân thể tráng kiện, tim, gan, phèo, phổi, tai, mắt, mũi, họng,… cái gì cũng tốt. Mỗi năm các chàng phải đi khám sức khỏe hai lần, một lần tại bệnh xá của Sư Đoàn Không Quân đang phục vụ, một lần tại Trung Tâm Giám Định Y Khoa ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Có năm tôi gặp cả chục cô chiêu đãi viên của Air Vietnam đi khám sức khỏe định kỳ. Lúc ấy bác sĩ Bôi đang làm việc tại Trung Tâm Giám Định Y Khoa. Một người bạn cùng đi khám sức khỏe với tôi, nhìn thân hình lồ lộ của các nàng mà tặc lưỡi, hít hà, nói:

- Phải chi tớ được thay thế bác sĩ Bôi hôm nay để khám tổng quát cho các nàng.

Anh bạn nầy muốn được no mắt nhưng không nghĩ tới hậu quả của việc khám thân thể các nàng đã có nhiều giờ bay chắc chắn anh ta sẽ tưởng tượng và … lên như điên, thêm tức ngọc hành chứ sung sướng gì mà ham.

Phi Đoàn của tôi có nhiều cao thủ tiếu lâm như cặp bài trùng Tỏ và Tố, thường đi biệt phái Qui Nhơn, Tuy Hòa, chuyên đáp sân ngắn, gió ngang. Không biết hai anh lấy ở đâu cái quần tam giác của phái yếu dùng để che chở cái tòa thiên nhiên đem về đóng đinh dính vào vách tường của biệt đội Qui Nhơn và viết phía dưới một câu: “Các Phi Hành Đoàn trước khi bay, nhớ rờ vô cái này để lấy hên”. Bố già Hậu, Phi Đoàn Trưởng có lầm ra thăm biệt đội, đọc cái câu Tiêu Lệnh Hành Quân kia, ông đứng lắc đầu mà cười (không biết bố có lấy hên trước khi bay về Nha Trang hay không). Một danh tiếu của Phi Đoàn 114 đã làm cho những em gái hậu phương cười muốn đứt .. lưng quần là anh Minh Mọi. Anh nầy đen đúa, khuôn mặt dài, xương xẩu trông giống như sắc dân da đỏ của nước Cờ Hoa. Anh ta mặc áo bay xanh đi biệt phái cao nguyên, lúc trở về đơn vị, áo ngã thành màu đất đỏ. Có lẽ anh quá nặng nợ phong trần nên qua mười lăm ngày chinh chiến, anh không cần thay mảnh phi bào. Có lần trong một phi vụ, anh và cố vấn của đơn vị bị hạ cánh ép buộc xuống một khu rừng rậm của Ban Mê Thuột. Anh đã áp dụng mọi phương thức mưu sinh thoát hiểm, đưa người bạn Mỹ đến chỗ an toàn và liên lạc được với máy bay trực thăng Rescue. Vì rừng cây quá cao và rậm, nên trực thăng phải thả biệt kích xuống cưa cây để dọn bãi đáp mới bốc được phi hành đoàn lâm nạn. Tội nghiệp anh đã qua đời một cách đột ngột vì bị bịnh cảm nặng ở biệt đội Qui Nhơ

n.

Trong khoảng thời gian tôi phục vụ tại Phi Đoàn 114, chỉ có một phi hành đoàn mất tích trong phi vụ hộ tống đoàn xe từ Dục Mỹ đến Khánh Dương. Đó là anh Tiên và Nhi. Một tai nạn xảy ra tại sân bay Dakpet khiến anh Huỳnh Tước phải vĩnh viễn lìa xa tổ ấm khi vợ anh đang mang thai ba tháng. Anh đã ha cánh ở một sân bay không được xác định hành quân. Lúc cất cánh lại vì sân quá ngắn, chiếc L19 chạy gần hết chiều dài phi đạo mà vẫn chưa lên được, anh hoảng hốt kéo cần lái, phi cơ vừa lên tới ngọn cây thì bị triệt nâng rớt xuống. Kể ra thì số tử vong của Phi Đoàn lúc ấy không nhiều và người chỉ huy đơn vị là bố già Đặng Văn Hậu không bị mang tiếng … sát quân.

Tôi như có ký hợp đồng dài hạn với hai biệt đội Kontum và Pleichim (đó là cái tên do anh chàng mắt một mí, râu mép cứng như rễ tre, bụng bự như Trư Bát Giới, biệt danh là Long “Heo” của Phi Đoàn tôi đã đặt cho Pleiku. Anh ta nói: Cu, Chim gì cũng vậy thôi!). Tôi cứ mãi gắn bó với miền Thượng nầy hoài như gà què ăn quẩn cối xay. Có phải chăng tôi bị hấp lực của núi Hàm Rồng. Cái núi ngộ nghĩnh nầy nằm ở phía Đông Nam Pleiku, có dạng giống cái dày dày sẵn đúc của cái phái mà từ ngàn năm xưa đã làm nghiêng thành đổ nước và không thể thiếu được ở cõi trần gian như lính tàu bay không thể thiếu cái phi đạo vì không có nó thì lấy chi mà đáp.

Đã có mấy chiếc máy bay rớt ở núi Hàm Rồng, gần kề cái lạch Đào Nguyên, chắc là bị nó hút. Vậy mà khi bay hành quân về, trước khi đáp chúng tôi cũng lượn một vòng ngắm cái núi dễ thương ấy để lấy hên (chúng tôi đặt tên cho nó là núi Lìn).

Tối thứ Bảy nào biệt đội cũng chia làm hai phe. Một phe đi nhảy đầm ở Hội Quán Phượng Hoàng. Một phe lái xe Jeep chạy dọc quốc lộ 19 để săn thỏ rừng. Những con thỏ đi ăn đêm ở hai bên vệ đường thấy đèn pha sáng, chúng dừng lại nhìn đèn. Mục tiêu rất dễ bắn trúng vì súng đạn chài nên đêm thứ Bảy nào chúng tôi cũng ăn món thịt thỏ nấu rượu chát. Thỉnh thoảng lại đổi sang món thỏ rô-ti. Chúng tôi không dám đi săn ở xa vì sợ gặp lũ Vẹm. Con đường huyết mạch nầy từ Qui Nhơn đến Pleiku, đã có lần Việt Cộng phục kích đánh tan tành đoàn xe của lực lượng ta. Phi vụ hộ tống xa đoàn hôm ấy do anh Trần Chấn Sơn và một cố vấn Mỹ của Phi Đoàn 114 thi hành. Phi Hành Đoàn nầy đã can đảm đáp xuống quốc lộ, bốc một anh Trung úy của đơn vị nhảy dù khi anh ta bị thương, lết ra đường vẫy tay cầu cứu phi cơ. Anh sĩ quan nầy được cứu mạng trong sự may mắn hiếm có. Kể ra anh được phi hành đoàn gan lì của chiếc L19 đa năng, đa hiệu kia cải tử hoàn sanh!

Tôi biệt phái ở Cao Nguyên nhiều lần rồi nên ïcảm thấy hơi nhàm chán bèn xin ra xứ biển Qui Nhơn để được ngắm trăng treo trên ngọn thùy dương, được nghe lại điệu nhạc trầm của biển cả. Lần đi biệt phái Qui Nhơn mà tôi khó quên được là lần đi với tay hảo hán Trương Hải Yến, biệt danh là Yến Fulro. Anh nầy cao như sếu cồ, khuôn mặt rắn rỏi, lì lợm, da ngăm đen như những chú … Ra-Đê.

Tôi rất nặng phần trình diễn khi đi bay. Dây nịt da xệ xuống khỏi rốn, gắn đầy đạn P38 như cao bồi Texas, bên hông phải mang súng Ru-lô, bên trái mang cái dao dài hai tấc rưỡi. Yến Fulro còn nặng phần trình diễn hơn tôi nữa. Anh ta trang bị vũ khí giống như tôi nhưng đặc biệt mang một con dao to như cái dao phay. Có lần anh và tôi ghé vào quán nước dừa ở Bồng Sơn, anh rút dao ra phụ cô em chủ quán chặt dừa nhanh như gọt khoai lang khiến người đẹp nhìn anh cười tủm tỉm hoài (Anh nầy dù mặc quần xà lỏn đi chơi vẫn ăn khách như thường). Yến và tôi đã bay yểm trợ hành quân tận ngoài Tam Quan và vùng thung lũng An Lão, có khi hộ tống xa đoàn từ Qui Nhơn qua khỏi đèo Măng Giang (Từ đèo nầy về cao nguyên thuộc trách nhiệm của biệt đội Pleichim).

Mỗi chiều thứ Bảy, Yến rủ tôi bay xuống Sông Cầu, hạ cánh trên cái phi đạo sát bờ biển (Phi đạo này thuộc loại sân ngắn, gió ngang). Sau khi đáp xuống vẫn để máy phi cơ nổ (Ga-lăng-ti), gài thắng, chúng tôi chạy vô chợ mua tôm biển còn tươi rói và thịt bò mới mổ rồi bay trở về Qui Nhơn, cùng vài thân hữu Bộ Binh làm món Tả-Pí-Lù, cụng ly bốp chát cho tới khi thấy… đời lên hương nồng nàn như mùi rượu. Sau đó, chúng tôi đến vũ trường Hằng Nga ngoài phố hoặc vào những tửu quán có nhạc sống để gầy độ thứ hai. Anh em Không Quân chúng tôi sống với nhau rất đậm tình thân ái, không phân biệt cấp bực, ngành nghề. Qua các biệt đội tôi càng thấy rõ điều đó. Lúc lên xe Jeep, ai lên đầu tiên thì làm tài xế, ai lên ghế trước thì ngồi ghế trước, ai lên ghế sau thì chịu khó ngồi ghế sau. Chúng tôi đối xử với nhau rất bình đẳng đúng như nội dung của bài ca Huynh Đệ Chi Binh.

Biệt đội Qui Nhơn ở sát bờ biển. Tôi lại được dịp ngâm mình trong nước mặn để nhớ miên man về biển quê tôi. Có một hôm đi chợ ở Sông Cầu về, chúng tôi bay thấp khoảng 100 bộ để nhìn phần mộ của cố thi sĩ Hàn Mạc Tử nằm dưới chân đèo Cù Mông ở phía Nam Qui Nhơn, để tưởng niệm nhà thơ bất hạnh.

Hết hạn biệt phái trở về miền nắng vàng, cát trắng, biển xanh của Nha Trang. Trong những ngày cuối tuần tôi cô đơn, đi thẫn thờ trên bãi biển vì người yêu của tôi đã về quê cũ tận ngoài xứ Quảng. Mẹ ruột của nàng thì ở Nha Trang còn cha mẹ nuôi thì ở xứ Kẹo mạch nha. Tôi lại mang hành trang trở về xứ Thượng. Có lẻ núi Hàm Rồng ở Pleiku không còn hấp dẫn nữa nên tôi xin đi biệt phái Ban Mê Thuột, cái xứ được đặt tên là xứ Buồn Muôn Thuở. Biệt đội ở trên lầu 2 của Câu Lạc Bộ Sĩ Quan. Cũng giống như Pleiku, Ban Mê Thuột vương đầy bụi đỏ trên phố phường, cây cối, đường sá. Trời lạnh lạnh khiến khách lạ buồn ngủ hay nghĩ ngợi xa xăm. Chiều nào máy phóng thanh của Phòng Thông Tinh cũng phát ra điệu nhạc Thượng buồn da diết. Cửa phòng chúng tôi ở trông ra đường phố và một cái bùng binh lớn. Bên kia bùng binh là giáo đường với gác chuông cao vượt lên nền trời thường có mây xám phủ giăng. Biệt đội chúng tôi lãnh nhiệm vụ yểm trợ cho Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Những cuộc hành quân của Sư Đoàn nầy thường càn quét địch ở phía Bắc Buôn Hồ và vùng rừng núi phía Tây Nam Ban Mê Thuột. Ngoài ra còn có những phi vụ hướng dẫn khu trục oanh kích mật khu hay điểm tập trung của Việt Cộng làm suy yếu tiềm năng địch. Thỉnh thoảng chúng tôi dướng dẫn đoàn xe từ Nha Trang lên, theo Quốc Lộ 21. Chúng tôi chờ đón xa đoàn ở Khánh Dương và đưa về Ban Mê Thuột.

Qui tụ ở biệt đội nầy gồm nhiều tay hảo hớn như Võ Ý, Nguyễn Đình Đại, Võ Văn Oanh, Lê Hồng Triển, Trương Tố… lại thêm hai anh sĩ quan Liên Lạc Không Quân chịu chơi là Bùi Hùng và Nguyễn Văn Vàng, coi chuyện tử sanh như chuyện … ăn nhậu. Từ thứ Hai tới thứ Sáu, sau bữa cơm chiều chúng tôi thường đến quán Black Cat của Đài Kiểm Báo Pyramid. Quán nầy là quán nhậu và… nhót, có ban nhạc chơi tương đối khá nên lính Việt, lính Mỹ ngồi chật cả quán. Đêm thứ Bảy hằng tuần, Câu Lạc Bộ Sĩ Quan có tổ chức dạ vũ. Các chàng hào hoa phong nhã lại được dịp lả lướt cùng những người đẹp của xứ Buồn Muôn Thuở (Xứ buồn nhưng các em thì luôn… cười toe toét). Tôi được biệt đội phân công đưa một nàng đi bộ về nhà khi hết dạ vũ, vì xe Jeep phải chở nhiều giai nhân về nhiều nơi trong thành phố. Nàng ấy mang tên của… Hằng Nga. Nhà nàng cách Câu Lạc Bộ Sĩ Quan gần hai cây số. Đường đi xuyên qua đồi dốc, dưới những hàng cây cao, cành lá um tùm. Những xóm nhà rải rác nằm im lìm dưới trời khuya. Nếu một mình tôi đi con đường nầy ban đêm chắc tôi cũng sợ bị ma nhác. Đường thì gập ghềnh khó đi, vậy mà nàng mang giày cao gót sánh vai tôi đi suốt quãng đường dài. Qua những chỗ tối, nàng sợ sệt nắm chặt tay tôi. Vào một đêm trời sáng trăng, tôi đưa nàng về ngang một xóm nhỏ, nghe tiếng hát của Nhật Trường vọng ra từ máy thu thanh của nhà ai trong một bản nhạc trữ tình: Chiến tranh qua rồi, đường về chung lối có anh và em….

Nàng bấm tay tôi, hỏi:

- Anh có thích bản nhạc nầy không anh?

Tôi đan những ngón tay của mình vào những ngón tay mềm mại của nàng, trả lời:

- Anh thích lắm vì nó hợp với cảnh tình hiện tại của anh và em nhưng chỉ tiếc là đất nước mình chưa hết chiến tranh.

– Chưa hết chiến tranh nhưng anh vẫn được cùng em chung lối về nhà em.

Đường về chung lối này đã đưa tôi với nàng đến nẻo tình yêu. Vài người bạn Bộ Binh đã báo động cho tôi biết là nàng có số sát kép. Có một sĩ quan yêu nàng, vừa tính chuyện trầu cau thì bị tử trận. Sau đó, một anh chàng khác cặp với nàng được ít lâu thì ra chiến trường bị thương phải cưa mất một chân. Tôi nghe họ nói mà ớn lạnh xương sống, nổi da gà, dựng tóc gáy nhưng vì tôi thuộc nòi lãng mạn, đã bị thần tình ái cho uống thuốc liều nên trời gầm tôi cũng không… nhả!

Đêm nọ sau chương trình dạ vũ, mấy hảo hớn của biệt đội tổ chức đi săn dọc theo con đường đi Bandon. Nàng đi theo tôi. Khi trời sắp rạng đông, tôi bỏ bạn bè ở ven rừng, lái xe Jeep chở nàng về. Lúc nàng xuống xe đi vô nhà, tôi trở đầu xe trên dốc nhưng vì đường đất trơn trợt sau cơn mưa khuya nên xe bị tuột xuống suối và nằm ở tư thế dựng đứng, nước ngập đến nửa xe. May mắn là tôi không bị thương tích. Tôi phải lội bộ năm cây số đến cầu viện chồng của người chị bà con cô cậu với tôi đang làm Chỉ Huy Trưởng Công Binh Kiến Tạo trục chiếc xe Jeep đem về, sửa chữa. Tôi phải mượn tạm chiếc xe Jeep của Công Binh đi đón bạn bè về.

Gặp lại những người Bộ Binh biết chuyện tôi bị lọt xuống suối, họ lại khuyến cáo tôi:

- Tụi tao đã nói con nhỏ đó xui lắm mà mầy không nghe, cứ nhào vô. May mắn là mầy gặp nạn nhưng chưa chết. Rút ra mà dọt đi em ơi!

Tôi vẫn không tin lời họ. Tôi cười bẽn lẽn chứ không trả lời.

Trở về đơn vị sau khi gặp xui xẻo, tôi bỗng được đi nghĩ phép dưỡng sức ở Đà Lạt mười lăm ngày. Tôi buồn nhớ người yêu của tôi giờ đây đã xa vắng. Đi dưỡng sức một mình thì có thú vị gì đâu. Tôi cũng miễn cưỡng thu xếp hành trang, theo chiếc Cessna của đơn vị lên xứ Hoa Đào. Trong chuyến bay này có hai người độc thân là tôi và anh Đinh Lưu Cương. Anh Cương là người hướng dẫn tôi học kinh thánh để cưới vợ theo đạo Thiên Chúa. Ngày đầu tiên đến Trung Tâm Dưỡng Sức Phi Vân, ở Đà Lạt tôi cùng anh Cương đi dạo phố, ăn kem, uống cà phê. Hai đứa cảm thấy nhớ nhà nên hôm sau chúng tôi ra phi trường Cam Ly, đón phi cơ Mỹ, xin tháp tùng vêà Sài Gòn. Tôi được hơn mười ngày sống bên cạnh mẹ, anh, chị, em tôi sau một thời gian dài đăng đẳng xa cách, nhớ thương.

Không biết anh em trong Phi Đoàn có tường trình về sự việc của tôi lên ông Trưởng Phòng Hành Quân biệt danh là Luyện “Cầy” hay không mà lần biệt phái sau khi tôi hết phép, trở về đơn vị ổng cắt tôi đi Quảng Đức (Gia Nghĩa) với anh chàng mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao tên là Lê Hồng Triển chớ không cắt tôi đi Ban Mê Thuột nữa. Nhưng Quảng Đức nằm ở phía Nam Ban Mê Thuột không bao xa nên tôi muốn đi thăm nàng chẳng khó khăn gì, anh Triển lại rất ăn rơ với tôi nữa. Anh chàng hào hoa và đào hoa nầy mới lên Quảng Đức được hai ngày thì đã có… mèo.

Tỉnh Quảng Đứùc được thiết lập trên một vùng đồi thấp, cây cối rậm rạp rất khó xác định tọa độ, vì địa thế chỗ nào cũng gần giống nhau. Đặc biệt là phi trường của cái tỉnh lỵ khỉ ho, cò gáy nầy được làm trên một ngọn đồi dài san bằng. Chúng tôi đặt tên cho nó là sân bay Hàng Không Mẫu Hạm. Dưới triền dốc của hai đầu phi đạo có xác mấy phi cơ vụn vỡ chứng tỏ rằng sân bay nầy rất khó đáp nên đã có nhiều tai nạn xảy ra. Nếu không được xác định khả năng đáp sân này như phi công của Phi Đoàn tôi thì khó lòng mà hạ cánh an toàn được. Có một hôm trời vừa dứt cơn mưa, Triển và tôi ra phi trường để đi bay. Bỗng một chiếc Cessna của Air Vietnam vào vòng phi đạo để đáp xuống. Lúc vào cận tiến, phi công phải tống ga bay lại (go around) bốn năm lần mới đáp được, báo hại hành khách lúc bước xuống phi cơ người nào mặt mày cũng phờ phạc vì đã bị ói mửa.

Đứng ở phi trường nhìn xuống những xóm nhà chung quanh có khác chi đứng trên núi cao nhìn xuống thung lũng. Những ngày mưa tầm tã, chúng tôi lái xe đi ăn cơm ngoài phố rất truân chuyên vì đất đỏ dẻo nhẹo bám đầy bốn bánh xe. Chiếc xe Jeep chạy sàng qua sàng lại như một anh chàng say rượu đi không thẳng đường. Tỉnh nầy còn buồn hơn xứ Buồn Muôn Thuở nữa, phố chợ nghèo nàn, dân cư thưa thớt. Biệt đội chúng tôi nằm trong Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Đức cũng khá đầy đủ tiện nghi. Tôi bỗng gặp Yến, người bạn gái học cùng trường trung học Vũng Tàu với tôi ngày trước. Cô ta làm việc hành chánh ở Tòa tỉnh nầy. Trông cô cũng xinh xắn, duyên dáng như lúc còn là một nữ sinh, chỉ hơi khác xưa là cô ít nói và có vẻ suy tư. Tôi mời cô ăn sáng để cùng nhau nhắc nhở lại những kỷ niệm ngày xưa trong lứa tuổi học trò. Tôi nhớ có lần hội diễn văn nghệ ở trường, tôi đóng vai tráng sĩ trong một vỡ kịch thơ dã sử, Yến đã hóa trang cho tôi. Khi thoa môi son cho tôi xong rồi, cô đứng đối diện với tôi ngắm nghía khuôn mặt son phấn của tôi mãi. Lúc đó, tôi cũng ngắm cô vì cô có cái nốt ruồi hạt mè trên vành môi trông rất hữu duyên. Tội nghiệp cho cô trôi dạt đến cái tỉnh cheo leo nầy để sẽ bị gió núi, mưa ngàn và nỗi ưu tư làm héo úa dung nhan.

Sau lần đi biệt phái Quảng Đức, lần kế tiếp tôi lên Bảo Lộc với cao thủ binh sập sám Nguyễn Đình Đại. Biệt phái ở đây chẳng khác gì đi dưỡng sức ở Đà Lạt vì chúng tôi ở Câu Lạc Bộ Sĩ Quan bên bờ hồ có nhà thủy tọa rất thơ mộng. Dưới tiết trời mát lạnh, những vườn chè xanh ngát tắm nắng ban mai. Cuộc sống ở đây bình lặng như mặt hồ không gợn sóng trong những đêm Thu trăng sáng khắp núi rừng. Buổi chiều đi bay về, Đại cùng các sĩ quan trong Tiểu Khu gầy sòng để điều binh khiển tướng sát phạt nhau. Tôi ngồi đối ẩm với một người bạn sĩ quan già tâm đắc tới khuya. Một đêm, ông bạn nọ mời tôi về cư xá của ổng cách Câu Lạc Bộ hơn một cây số để nhậu. Quá nữa đêm, tôi chếch choáng hơi men, đi bộ về và bị lạc đường, lọt vào cái đầm nước sâu đến đầu gối, lau sậy um tùm. Tới gà gáy đầu, tôi mới mò được đường về phòng đúng lúc Đại cũng vừa về tới. Tôi thì lạnh run vì quần áo ướt còn Đại thì bị cháy túi, mặt mày ủ dột. Giữa canh khuya, hai hảo hán bỗng nhìn nhau mà cười. Đại cười tôi uống rượu say quờ quạng đến nỗi bị ma men dẫn đi nhận nước, may mà thoát được nếu không thì có đường đi theo anh Minh “Mọi” cho có bạn nhậu dưới âm phủ. Tôi cười anh bị con ma đen đỏ lấy sạch hết tháng lương. Vậy mà sáng Chúa Nhựt hôm sau, chúng tôi vẫn có tiết mục vui chơi như thường. Thi hành xong phi vụ FAC (Forward Air Control), tôi rủ Đại bay lên Đà Lạt, đi ăn sáng rồi ngồi quán cà phê Tùng nghe nhạc. Sau đó hai đứa đi dạo phố, ngắm những cô nữ sinh Trường Trung Học Bùi Thị Xuân trong tà áo trắng thướt tha giữa buổi trưa tan học.

Trở về Nha Trang lần nầy, tôi vui mừng gặp lại người yêu từ xứ Quảng vào thăm tôi đúng lúc tôi vừa nhận được lệnh thuyên chuyển ra Phi Đoàn 110 – Không Đoàn 41 (Đà Nẵng), Ải Địa Đầu của lính tàu bay. Tâm trạng của tôi lúc đó nửa vui, nửa buồn. Vui vì tôi được ở gần người yêu và buồn vì phải xa nhiều bạn bè thân mến. Tôi sẽ khó có dịp lên thăm lại miền cao yêu dấu đã gắn ghi nhiều kỷ niệm êm đẹp qua những lần đi biệt phái.

Sau đêm phi đoàn đãi tiệc tiễn đưa anh Dương Vĩnh Tiểng đổi về miền Nam còn tôi thì đổi ra Đà Nẵng, bố già Hậu – Phi Đoàn Trưởng cắt đại huynh Võ Ý lái một chiếc Cessna bay liên lạc kỹ thuật và luôn tiện chở tôi và người yêu đi đến đơn vị mới.

Chuyến bay Nha Trang – Pleiku – Đà Nẵng đã cho tôi nhìn lại cái núi Hàm Rồng quen thuộc và miền Thượng vừa thức giấc dưới ánh nắng ban mai để vẫy tay chào giã biệt. Từ đây, tôi sẽ ra tận Ải Địa Đầu mà nhớ thương Không Đoàn Biên Trấn ngày xưa ./.

Kha Lăng Đa

Posted by: caoduy Aug 6 2014, 08:35 AM



(Pleime, chương V). Các toán này đóng vai trò các đội "cứu hỏa" nhảy xuống dập tắt các mòi lửa mỗi khi quân du kích Việt Cộng nhúm lên tại các tiền đồn DSCĐ hẻo lánh thuộc Quân Đoàn II.


Chiến dịch Pleime và chiến dịch Pleiku


Sau khi Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ tham dự vào Chiến Dịch Pleime, Thiếu Tướng Kinnard, Tư Lệnh, thảo bản báo cáo chiến trận mang tựa đề là Pleiku Campaign (Chiến Dịch Pleiku ). Tên nguyên thủy của chiến dịch này là Long Reach Operation, diễn tả nỗ lực "với tay" truy kích Bắc Quân từ trại Pleime đến hậu cứ Chu Prong. Việc thay đổi danh xưng này đã khiến cho nhiều người lầm tưởng là chiến dịch Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ tham dự vào hoàn toàn khác biệt Chiến Dịch Pleime. Không hiểu Tướng Kinnard có chủ tâm gây nên tác dụng tiêu cực này không, nhưng hậu quả là các sử gia quân sự và các tác giả Mỹ khi viết về trận Pleime đã có khuynh hướng vùi dập tên Pleime cùng vai trò chính của QLVNCH, và thay thế vào đó trận Ia Drang và vai trò chính của QLHK song song với Quân Cộng Sản Bắc Việt.

Tướng Kinnard thảo xong Pleiku Campaign ngày 14 tháng 3 năm 1966 để đệ trình lên Tướng Westmoreland, US Military Assistance Command, Vietnam. Vì Sư Đoàn 1 Không Kỵ là một đơn vị được tăng phái cho Quân Đoàn II trong Chiến Dịch Pleime, nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tiếp nhận được một bản của tài liệu loại "mật" này. Kế đó, Đại Tá Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, đã tham khảo (số 30) bản báo cáo của Tướng Kinnard khi thảo bản báo cáo Chiến Dịch Pleime (Why Pleime ) với chữ ký của Tướng Vĩnh Lộc, đệ trình lên Trung Tâm Hành Quân/Bộ Tổng Tham Mưu. Trong bản báo cáo này, Đại Tá Hiếu đã bổ túc và sửa sai, một cách âm thầm và gián tiếp, đôi điều thiếu sót và lệch lạc tìm thấy trong Pleiku Campaign.

Một bản thảo của bản Why Pleime đã được gửi đến cho Tướng Kinnard và ông đã hồi đáp cám ơn Tướng Vĩnh Lộc đã tặng cho ông một bản:

20 tháng 12 năm 1966
…Tôi vừa đọc xong cuốn sách tuyệt mỹ Why Pleime và nhận thấy cuốn sách rất dễ đọc và thú vị và khiến tôi sống lại những ngày tháng bận rộn và quan trọng của mùa thu năm ngoái. Thiếu Tướng đã có nhã ý nhắc đến cá nhân tôi trong cuốn sách và, xin Thiếu Tướng tin là tôi cũng ngưỡng mộ những đặc điểm lãnh đạo tài ba của Thiếu Tướng. Cuốn sách này sẽ trở thành một cuốn sách trân quí trong thư việ̣n riêng của tôi…
Major General Harry W.O. Kinnard
Acting Assistant Chief of Staff for Force Development
The U.S. Department of the Army
Former Commander 1st Air Cavalry Division
(An Khe)

1. Nhất Điểm Lưỡng Diện

Khi Việt Cộng bắt đầu tấn công trại Pleime tối ngày 19 tháng 10 năm 1965, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đang tăng phái cho cuộc hành quân Thần Phong 6 ở Bồng Sơn tại vùng ven biển. Cuộc hành quân này là một hành động phản ứng của Quân Đoàn II nhằm chống lại một cuộc tấn công của Việt Cộng tại Quận Hoài Ân khởi sự cùng một lúc với cuộc tấn công vào trại Pleime. Tướng Kinnard đồng quan điểm với Tư Lệnh I Field Force Vietnam và Cố Vấn Trưởng Mỹ Quân Đoàn II mặt trận Hoài Ân chứ không phải Pleime là nỗ lực chính của Việt Cộng (Pleiku, trang 10):

Mặc dù có nhiều báo cáo kế tiếp trong Vùng Chiến Thuật Quân Đoàn II là trại DSCĐ Pleime có thể bị tấn công (hầu hết là không xảy ra) cuộc tấn công của địch vào lúc 191900 tháng 10 gây một ít ngạc nhiên. Nhưng, ngay cả khi thấy địch sung vào trận nhiều quân lính, ý kiến chung đồng thuận là vùng ven biển vẫn là mục tiêu thật sự của các nỗ lực Việt Cộng trong vùng của quân đoàn.

Nhưng Đại Tá Hiếu đã chẩn đoán ngay là Việt Cộng dùng chiến thuật "nhất điểm lưỡng diện" (Pleime, cuối chương II), với điểm là Pleiku, và hai diện là Hoài Ân - phụ - và Pleime - chính. Do đó, Đại Tá Hiếu khuyến cáo với Tướng Vĩnh Lộc, đang trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân Thần Phong 6, cần trở lại Pleiku gấp (Pleime, đầu chương III).

Đại Tá Hiếu còn chẩn đoán thêm Việt Cộng dùng chiến thuật "công đồn đả viện" tại mặt trận Pleime dựa vào những sự kiện sau đây (Pleime, chương IV):

1. Việt Cộng dùng một trung đoàn khi tấn công Pleime nhưng lại không đánh dứt điểm mà chỉ vây hãm cầm chân.

2. Việt Cộng đặt súng phòng không quanh trại Pleime để cấm cản tiếp cứu trại bằng trực thăng vận và buộc Quân Đoàn II phải xuất phái Lực Lượng Đặc Nhiệm Tiếp Cứu bằng đường bộ.

3. Trung Đoàn 33 BV vây lấn trại mới xâm nhập NVN được một tháng, là một lực lượng yếu kém so với Trung Đoàn 32 BV lập ổ phục kích, là một lực lượng đã có mặt và đã sung trận nhiều lần tại Cao Nguyên từ đầu năm 1965.

2. Trung Tá Luật Án Binh Bất Động LLĐNTK

Khi nhận xét về thái độ của Trung Tá Luật coi bộ có vẻ rụt rè không dám mạnh dạn cho Lực Lượng Đặc Nhiệm Thiết Kỵ tiến bước trong bốn ngày, từ 20 đến 24 tháng 10, Tướng Kinnard cho là Trung Tá Luật chỉ dạn dĩ lên được là nhờ vào sự bảo đảm yểm trợ pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ (Pleiku, trang 21):

Để thúc đẩy đoàn quân tiếp cứu di chuyển ngày 24/10, Lữ Đoàn 1 đặt để một toán liên lạc viên pháo binh với đoàn quân thiết kỵ, như vậy bảo đảm pháo yểm Mỹ cho LLĐNTK. Tuy nhiên, chỉ huy trưởng LLĐNTK chọn lựa tiếp tục dừng chân tại vị trí này qua đêm trong khi đó ông phái người trở lui về Pleiku để xin thêm tiếp tế. Toán liên lạc viên pháo binh nhập vào LLĐNTK từ một trong những trực thăng di tản thương binh chiều tối ngày 24/10.

Tại phần tổng kết của bản báo cáo nơi trang 123, Tướng Kinnard còn nhắc nhở lại ý kiến đó:

Sau cuộc giao tranh tiên khởi ngày 23 tháng 10 giữa lực lượng đặc nhiệm thiết kỵ (LLĐNTK) và Trung Đoàn 32 Bắc Quân, Chỉ Huy Trưởng LLĐNTK tỏ ý rất e ngại cho đoàn quân của ông lăn bánh tiến tới Pleime. Chỉ khi có được sự bảo đảm yểm trợ hỏa lực từ các đơn vị pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ và việc đặt để một toán liên lạc viên pháo binh vào trong đoàn quân tiếp cứu thì LLĐNTK mới chịu tiến bước lại tới trại DSCĐ.

Đại Tá Hiếu chỉnh Tướng Kinnard và nói mọi động thái của Trung Tá Luật từ khi xuất trại Pleiku đến khi tới trại Pleime, nhất cử nhất động là làm theo lệnh trực tiếp của Đại Tá Hiếu. Đại Tá Hiếu ra lệnh rành mạch cho Đại Tá Luật là di chuyển đoàn quân tiếp cứu tới Phù Mỹ ngày 21 tháng 11 rồi dừng chân lại tại đó và chỉ hành quân tuần tiễu luẩn quẩn trong đường kính 10 cây số vì hai lý do: một là tranh thủ thời gian để gom góp đủ quân số tăng cường cho LLĐNTK; và hai là để đối ứng với chiến thuật phục kích di động mà Việt Cộng đem ra xử dụng lần đầu tiên trong dịp này - thay vì phục kích tĩnh động như những cuộc tấn công trước đó. Chỉ khi hội đủ hai yếu tố này, Trung Tá Luật mới nhận được lệnh tiến quân (Pleime, chương IV).

Sáng ngày 21 tháng 10, Chiến Đoàn Luật tiếp tục di chuyển, dọc theo trục Phú Mỹ-Pleime, nhưng chỉ thực hiện những cuộc tuần tiễu bạo dạn nội trong một đường kính 10 cây số! Lệnh ban bố rõ ràng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cho Chiến Đoàn Trưởng, Trung Tá Luật, là giả bộ cho đoàn quân sắp tiến tới Trại Pleime, nhưng trong thực tế, ông phải đợi thêm cho đủ lực lượng tăng phái sẽ được di chuyển tới bằng đường không từ Kontum và Bình Định tới Pleiku, ngay khi các điều kiện thời tiết cho phép các di chuyển bằng đường không.

3. Sáng Kiến Truy Kích Địch Sau Khi Giải Tỏa Trại Pleime

Khi đề cập tới trường hợp Sư Đoàn 1 Không Kỵ được trao sứ mạng truy kích địch quân sau khi giải tỏa trại Pleime, Tướng Kinnard phát biểu như sau (Pleiku, trang 31):

Ngày 26-27/10 đánh dấu một khúc quẹo trong cuộc hành quân của sư đoàn tại Pleime. Ngày 26/10, Tướng William C. Westmoreland, Tư Lệnh, Lực Lượng Hoa Kỳ, Việt Nam, thăm bộ chỉ huy tiền phương của Lữ Đoàn tại Homecoming. Ngay cả với số tin tức tình báo ít ỏi vào thời kỳ đó, rõ ràng là nỗ lực của Bắc Quân tại Pleime phải là cái gì hơn việc thông thường, một cuộc hành quân "thử lửa". Trong buổi họp giữa Tướng Westmoreland và các sĩ quan của sư đoàn, đề tài thảo luận nhấn mạnh là các Lực Lượng Hoa Kỳ bây giờ phải làm hơn là chỉ chận đứng địch; phải truy lùng và tiêu diệt địch.

Và đồng thời Tướng Kinnard cũng trích dẫn điện tín nhận ngày 31 tháng 10 xác nhận khẩu lệnh chính thức của Tư Lệnh Field Force Vietnam (Pleiku, trang 15):

Giai Đoạn II: (Văn thư 1312 từ Tư Lệnh FFV, gửi Tư Lệnh, SĐ 1 KK, ngày 310145 tháng 10 năm 1965)

"Đề Tài: Xác nhận khẩu lệnh của Tư Lệnh FFV truyền cho Tư Lệnh SĐ 1 KK ngày 28/10/65.

"Tham Chiếu:
A. Văn thư 1097 từ AVF-CG-CP, DTD 221421Z
B. Văn thư 38215 MAC J311, DTD 270629Z (NOTAL)

"Các đơn vị của SĐ 1 KK hiện có mặt quanh Pleiku sẽ phối hợp với và thiết lập một vùng hành quân quanh trại DSCĐ Pleime và đảm trách thực hiện các cuộc hành quân để tìm, ghim và hủy diệt các lực lượng VC đang tạo nguy khốn trong vùng chung này."

Trong phần 10. Khái Niệm Hành Quân (Pleiku, trang 16) và phần 11. Thi Hành (Pleiku, trang 17), không thấy Tướng Kinnard nói tới sự kiện sáng kiến truy đuổi địch phát xuất từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, đồng thời sự kiện Sư Đoàn 1 Không Kỵ tiếp tục đóng vai trò một lực lượng tăng phái cho Quân Đoàn II.

Đại Tá Hiếu đã bổ túc phần thiếu sót này khi nhắc tới buổi họp quan trọng xảy ra ngày 26 tháng 10 tại Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật/Quân Đoàn II với sự hiện diện của các cố vấn Mỹ và các chỉ huy trưởng của các đơn vị. Trong buổi họp này, Đại Tá Hiếu đã đề nghị truy đuổi địch quân đến tận mật khu Chu Prong với khả năng trực thăng vận của Sư Đoàn 1 Không Kỵ. Trong giai đoạn này, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đóng vai trò nỗ lực chính với hành quân Long Reach và Lữ Đoàn Dù VN giữ vai trò lực lượng trừ bị (Pleime, chương V).

Đại Tá Hiếu cũng hoạch địch rõ ràng khái niệm và phương thức hành quân phối hợp giữa Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ (Pleime, chương VIII).

Trong đợt III, các cuộc hành quân được thực hiện qua một sự cộng tác mật thiết giữa các Lực Lượng Việt Nam và Mỹ: đó là phương thức mới nhất được đem ra áp dụng từ Thế Chiến II. Các đặc điểm của phương thức này là:
- Phối hợp các công tác tình báo và yểm trợ.
- Chia sẻ khái niệm hành quân và kết quả.
- Vùng hành quân riêng rẽ.
- Bộ tư lệnh riêng rẽ.
- Điều quân riêng rẽ.
- Hành động riêng rẽ.
- Trừ bị riêng rẽ.

Phương thức trên đã đem lại nhiều kết quả tốt, đặc biệt trong một nước như Việt Nam trong đó tâm lý quần chúng chứa đựng nhiều phức tạp và tinh tế. Phương thức này cũng tạo nên một tinh thần ganh đua giữa hai quân lực và giữa các đơn vị.

Các cố vấn Mỹ thuộc Quân Đoàn II chuyển đạt đến giới quân sự cao cấp Mỹ sáng kiến hành quân truy đuổi địch và được sự hưởng ứng và chấp thuận của các tướng lãnh Mỹ của I Field Force Vietnam và COMUSMACV.

Sau chiến dịch Pleime, Tướng Westmoreland đã nhận định là khái niệm hành quân phối hợp của Quân Đoàn II là một khái niệm vô tiền khoáng hậu trong chiến trường cận đại (Pleime, lời tựa):

Sự hữu hiệu của nỗ lực khéo tổ chức, ăn khớp mật thiết, cộng tác phối trí chung quả là hiếm thấy trong chiến tranh hiện đại.

4. Vai Trò Eagle Flights DSCĐ

Tướng Kinnard có ghi nhận sự hỗ trợ của các toán Eagle Flights DSCĐ mà Quân Đoàn II cắt đặt cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ dùng về mặt trinh sát. Các toán Eagles Flights được tăng phái đặc biệt cho Thiết Kỵ 1/9 Không Kỵ từ ngày 1 tháng 11 (Pleiku, trang 46) đến ngày 5 tháng 11 (Pleiku, trang 58). Tuy nhiên, Tướng Kinnard có vẻ coi thường các toán trinh sát người thượng này, khi ông lần đầu tiên làm quen với họ ngày 25 tháng 10, trong giai đoạn giải cứu trại Pleime (Pleiku, trang 24):

Thiết Đoàn B 2/9 trở về lại dưới quyền điều khiển của thiết đoàn lúc 1230 giờ và thiết đoàn (-) bắt đầu các cuộc hành quân lùng kiếm trong vùng của Tiểu Khu quận Lệ Thanh (ZA246245) với sự tăng phái của một đội toán LLĐB DSCĐ "Eagle Flight". Đội toán này, tuy mang vẻ một đơn vị không vận, trên thực tế là một nhóm người thượng trinh sát trên bộ gồm sáu tiểu đội với 5 tiền sát viên. Thiết đoàn cũng thăm dò các cạnh sườn của vùng thuộc Lữ Đoàn 1.

Về phía Đại Tá Hiếu, coi bộ các toán Eagle Flight là niềm hãnh diện của Quân Đoàn II (Pleime, chương V). Các toán này đóng vai trò các đội "cứu hỏa" nhảy xuống dập tắt các mòi lửa mỗi khi quân du kích Việt Cộng nhúm lên tại các tiền đồn DSCĐ hẻo lánh thuộc Quân Đoàn II.

Ngày 27 tháng 10, các Toán Bay Đại Bàng thuộc Sư Đoàn Không Kỵ tung vào chiến trường. Từ hoàng hôn tới xế chiều, chúng không ngừng bay trên vùng để tìm kiếm địch. Mọi nghi ngờ về sự hiện diện của địch được kiểm chứng và xử lý, hoặc bằng không kích hay bởi chính các Toán Bay Đại Bàng, hay bởi các lực lượng phản kích.

5. Vai Trò Trinh Sát của các Toán Biệt Cách Dù

Ngoài vai trò hỗ trợ của các toán Eagle Flight Thượng, Quân Đoàn II còn cung cấp cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ các toán trinh sát Biệt Cách Dù trên các chuyến bay trực thăng lùng kiếm địch. Tướng Kinnard không hề đề cập tới điểm này. Đại Tá Hiếu nhắc nhở gián tiếp đến hoạt động của các toán Biệt Cách Dù với việc đính kèm tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng liên quan đến sinh hoạt của Sư Đoàn 1 Không Kỵ tại Pleime và Ia Drang (Pleime, tài liệu B). Xin trích dẫn:

Đợt 2: xử dụng những đơn vị tăng phái nhỏ và phối hợp với Biệt Cách Dù ngụy để thực hiện những cuộc tấn kích vào hậu cứ của ta (28 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1965).

Đổ bộ thẳng bằng "nhảy cóc" vào hậu cần của ta bằng trực thăng (28 tháng 10 đến 10 tháng 11 năm 1965). Các lực lượng xử dụng: từ một tiểu đoàn đến một đại đội của lính Mỹ hay hai đại đội của lính Mỹ phối hợp với Biệt Cách Dù ngụy.

Trước khi đổ bộ. Thám sát các bãi đổ bộ bằng nhiều phi vụ thám sát hay bằng các toán nhỏ Biệt Cách Dù ngụy.

Biệt Các Dù ngụy hay các đơn vị thám sát Mỹ luôn đổ bộ trước để giữ an ninh bãi đổ bộ trước khi bộ binh, đơn vị yểm trợ và sở chỉ huy đổ bộ.

Sau khi đổ bộ quân. Biệt Cách Dù ngụy thường tiến xa tuần tiễu.

6. Biến Cố Ngày 9/11/1965

Ngày 10 tháng 11 năm 1965 (Pleiku, trang 73) , Tướng Kinnard ghi vào bản báo cáo là bắt đầu từ ngày 9 tháng 11

Thế điều quân chuyển hướng từ tây sang đông là để khơi ngòi cho một quyết định gần sắp tới từ Bộ Tư Lệnh sư đoàn Bắc Quân.

và ngày 10 tháng 11 Lữ Đoàn 3 KK thay thế cho Lữ Đoàn 1 KK.

"Một quyết định gần sắp tới từ Bộ Tư Lệnh sư đoàn Bắc quân" là quyết định gì thì Tướng Kinnard không nói rõ. Nhưng trước khi tìm hiểu về quyết định này, chúng ta hãy bàn tới sự chuyển hướng của các cuộc hành quân "từ tây sang đông".

Ngày 8 tháng 11, Đại Tá Hiếu mớm cho Tướng Kinnard hành động chuyển hướng này qua I Field Force Vietnam (Pleiku, trang 67):

Vào khoảng lúc này, Field Force Vietnam yêu cầu sư đoàn di chuyển các cuộc hành quân của mình về phía đông Pleime nếu "không có thêm đụng độ mới nữa trong vùng phía tây".

Đó là thế nghi binh để làm cho Việt Cộng tưởng lầm là Lữ Đoàn 1 KK đã đánh mất tung tích khiến họ đâm ra chểnh mảng để rồi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II sẽ lấy một quyết định chiến thuật bất ngờ giáng lên đầu địch (Pleime, chương V):

Ngày 9 tháng 11, hướng di chuyển và xoay chuyển trọng tâm từ tây sang đông bắt đầu và ngày 10 tháng 11, Lữ Đoàn 3 Mỹ thay thế Lữ Đoàn 1 Mỹ. Nhưng trong thực tế, vào thời điểm này, các đơn vị Việt Cộng nằm tại các địa điểm sau đây, như là các cuộc hành quân sau này tung vào ngay trọng tâm của vùng Chu Prông-Ia Drang cho thấy: ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 66 đóng thành hàng giây dọc theo mạn bắc của sông Ia Drang; Trung Đoàn 32 cũng ở phía bắc trong cùng vùng; Trung Đoàn 33 duy trí các vị trì trong vùng kế cận làng Anta (theo đanh xưng Việt Cộng), đông của rặng núi Chu Prông.

Tin chắc các lực lượng của ta đánh mất vết tích của các đơn vị của họ, Mặt Trận Việt Cộng liền lấy một quyết định để lấy lại ưu thế với một cuộc tiến công. Mục tiêu lại là Pleime và ngày tiến công được ấn định vào ngày 16 tháng 11. Kế hoạch được biết trong nội bộ cán bộ Việt Cộng như là đợt hai của cuộc tiến công Pleime. Tất cả ba trung đoàn sẽ can dự vào lần này, cũng như một tiểu đoàn pháo kích 120 ly và một tiểu đoàn súng phòng không hai nòng 14,5 ly; cả hai đơn vị này đang trên đường xâm nhập và dự tính sẽ tới kịp thời cho cuộc tiến công.

7. Khái Niệm Tấn Công Tại Bãi Đáp X-Ray Ngày 14/11/1965

Và đây là "quyết định gần sắp tới từ Bộ Tư Lệnh sư đoàn Bắc quân" theo tin tình báo Đại Tá có được: tấn công trại Pleime lần thứ hai. Đại Tá Hiếu liền điều nghiên kế hoạch tấn công trước địch tại bãi đáp X-Ray và khái niệm hành quân này được các đơn vị của Sư Đoàn 1 Không Kỵ thi hành.

Điểm thứ nhất, Đại Tá Hiếu đề nghị ngày N được ấn định là ngày 14/11/1945, hai ngày trước khi Việt Cộng dự tính tấn công trại Pleime lần thứ hai, vì vào lúc đó các đơn vị Việt Cộng chưa được tái trang bị về mặt súng phòng không và bịch kích pháo mà địch đã mất mát sau cuộc tấn công trại Pleime - tiểu đoàn bích kích pháo 120 ly và tiểu đoàn súng phòng không hai nòng 14.5 ly chưa tới chiến trường. (Pleime, chương V):

Tỉ lệ 1/10 chứng tỏ tiểu đoàn 1/7 rất là may mắn vì thật bất ngờ là từ trên các đồi bao quát ngó xuống bãi đáp, địch đã không đặt các vũ khí cộng đồng để yểm trợ các cuộc tấn công. Tình trạng này chỉ có thể giải thích bởi các lý do sau đây:

- Địch đã mất gần hết các vũ khí cộng đồng trong đợt đầu.

- Họ bị tiểu đoàn 1/7 tấn công bất ngờ và các cán bộ chỉ huy đã không khéo xử dụng địa thế.

- Các chiến thuật của họ hầu như dựa và "biển người" và họ quá tự tin là cuộc tấn công của họ sẽ làm cho tiểu đoàn 1/7 rã ngũ rất mau chóng.

Tướng Kinnard có cảm nhận được mưu trí của Đại Tá Hiếu (Pleiku, trang 88) khi ông nhận xét:

Hiển nhiên là nỗ lực của Bắc Quân không được hỗ trợ bởi các tiểu đoàn bích kích pháo và súng phòng không không tới kịp vào vùng chiến trận và còn rong ruổi trên đường mòn xâm nhập.

Điểm thứ hai, Đại Tá Hiếu cho đổ bộ quân của Lữ Đoàn 3 Không Kỵ tại vùng phía nam của nơi ba trung đoàn Bắc Quân tập trung, nơi chân rặng núi Chu Prong, chứ không tấn sâu hơn lên phía bắc, không phải để phục kích địch quân tại hậu cứ, mà làm nút chận không cho quân lính của ba trung đoàn địch tràn xuống phía nam, để rồi triệt hạ họ với bom B-52:

Cần lưu ý là từ chiều ngày 15 tháng 11, các phóng pháo cơ B52 đã tham gia vào trận đánh với năm phi vụ oanh tạc hằng ngày tại rặng núi Chu Prông. Ngày 17 tháng 11, các mục tiêu oanh tạc cũng bao gồm bãi đáp X-ray và hai tiểu đoàn của ta được lệnh di chuyển ra cách bãi đáp 3 cây số, về hướng bắc và hướng tây bắc tới một bãi đáp khác gọi là bãi đáp Albany.


Tướng Kinnard cũng nói tới việc dùng đến bom B-52 trong bản báo cáo (Pleiku, trang 88):

Ngày 15/11 cũng được đánh dấu bởi việc xử dụng lần đầu tiên một vũ khí mới của lực lượng Mỹ và gây kinh hoàng cho quân lính địch kể cả những chiến binh gan lì nhất. Ngay sau giờ ngọ, một vùng rộng lớn quanh vị trí YZ8702 thình lình nổ tung với hàng trăm tấn bom làm rung chuyển khắp cùng mặt đất như thể một tấm thảm đang được trải ra. Các phóng pháo cơ B-52 đã đánh rập. Trong năm ngày kế tiếp các phóng pháo cơ khổng lồ làm thịt một vùng rộng lớn của rặng núi Chu Prong. Các chiến sĩ Bắc Quân sống trong hãi sợ các cuộc tấn công này vì họ tin là mỗi cuộc oanh kích bao phủ một vùng 20 cây số vuông và các địa đạo và hầm trú cá nhân không thể bảo vệ họ.

Như vậy, nỗ lực chính trong cuộc tấn công vào hậu cần rặng núi Chu Prong từ ngày 14 đến 17 tháng 11 năm 1965 không phải là Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ của Đại Tá Hal Moore tại bãi đáp X-Ray , mà là các cuộc oanh tạc bom trải thảm của B-52 nhắm vào toàn bộ ba trung đoàn Bắc Quân, đặc biệt Trung Đoàn 32 và 33 trong hai ngày 15 và 16 tháng 11, và đặc biệt Trung Đoàn 66 ngày 17 tháng 11 ngay tại bãi đáp X-Ray. B-52 đã giết hại khoảng 2.000 chiến binh Bắc Quân.

8. Biến Cố Ngày 18 tháng 11 năm 1965

Ngày 18 tháng 11 năm 1965, Tướng Kinnard tiết lộ là một căn cứ hỏa lực pháo binh mới được thiết lập tại bãi đáp Crooks, nhưng lại không nêu rõ lý do (Pleiku, trang 96):

Ngay trước cuộc tấn công, TĐ 2/5 KK, di chuyển tới phía tây vào một vị trí nút chặn, đổ bộ không vận vào bãi đáp Crooks (YA875125) cùng với các khẩu đại bác. Tiểu đoàn này thực hiện tuần tiễu từ căn cứ mới và trong đêm hứng chịu hỏa lực thăm dò nhẹ và sách nhiễu của súng nhỏ và bích kích pháo.

Đại Tá Hiếu nói rõ hơn là vào ngày 17 tháng 11 năm 1965 (Pleime, chương VI):

Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nghĩ là đến lúc tung lực lượng trừ bị vào để chấm dứt trận chiến đã kéo dài khoảng một tháng. Ngoài bị tổn thất nặng nề, địch buộc phải xa vào bẫy các lực lượng của ta giăng ra và xô đẩy vào các lộ trình rút lui mà chúng ta dự kiến.

Lần này nỗ lực chính được thực hiện bởi Lữ Đoàn Dù QLVNCH với sứ mạng triệt hủy các đơn vị Việt Cộng đào tẩu và tất cả các cơ sở xung quanh thung lũng Ia Drang. Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ trước nay gánh chịu tấn công sẽ tiếp tục tạo áp lực từ Đông sang Tây và cung ứng pháo yểm cho Lữ Đoàn Dù.

Cuộc hành quân mang tên "Thần Phong 7" khởi động chiều ngày 18 tháng 11 khi lữ đoàn đươc trực thăng vận tới vùng hành quân, ngay sau khi tới Pleiku.

Chiều ngày 17 tháng 11 năm 1965, Đại Tá Hiếu đã thu xếp nhờ

Phi Đội C130 của Phi Đoàn 7 KQHK vận chuyển trong vài tiếng đồng hồ các đơn vị sau đây: Ban Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù; Ban Chỉ Huy các Chiến Đoàn 1 và 2 Dù; Năm tiểu đoàn Dù: 1, 3, 5, 7 và 8 từ các nơi khác nhau, như Sài Gòn, Biên Hòa, Vũng Tàu và Phú Yên tới Pleiku. Chính là nhờ vào công lao đóng góp của họ mà cuộc hành quân đã có thể khởi sự đúng vào ngày giờ ấn định.

Đồng thời, Đại Tá Hiếu đã yêu cầu Sư Đoàn 1 Không Kỵ đặt một pháo đội mới tại địa điểm (YA875125) để chuẩn bị kịp thời yểm trợ cho Lữ Đoàn Dù VN trước khi cuộc hành quân Thần Phong 7 khai diễn.

Trong giai đoạn này của chiến dịch Pleime, Tướng Kinnard có nói là bắt đầu từ ngày 20 tháng 11, Lữ Đoàn 2 KK thay thế cho Lữ Đoàn 3 KK và tiếp tục lùng kiếm địch quân và Ban Chỉ Huy Lữ Đoàn được đặt tại trại Đức Cơ (Pleiku, trang 102):

Lữ Đoàn 3 di chuyển các đơn vị tác chiến tới bãi đáp Crooks và Golf, để phối hợp điều quân với Lữ Đoàn 2. Lữ Đoàn 2 đảm trách quyền điều khiển các đơn vị tác chiến trong vùng chiến trận này. Sau khi chuyển giao nhiệm vụ, Lữ Đoàn 3 bắt đầu di chuyển về căn cứ An Khê với TĐ 1/7 và các đơn vị tăng phái và cơ hữu khác. Đối với Đơn Vị Yểm Trợ Tiền Phương 3, đây là lần đầu tiên đơn vị được xả hơi từ khi chiến dịch khởi sự ngày 23 tháng 10.

Lữ Đoàn 2 dự tính xử dụng trại LLĐB Đức Cơ (YA840252) như là căn cứ làm việc cho Ban Chỉ Huy Tiền Phương, và đổ bộ xong vào buổi chiều. TĐ 1/5 KK thực hiện tuần tiễu từ bãi đáp Golf, và TĐ 2/5 KK tuần tiễu từ bãi đáp Crooks.

nhưng lại làm lơ vai trò tăng phái cho Lữ Đoàn Dù VN bằng cách hành quân trở lại từ đông sang tây, như Đại Tá Hiếu chỉ cho thấy trong đoạn vừa mới trích dẫn, để thi hành kế của Quân Đoàn II chận địch xuống phía nam và hiệp lực cùng Lữ Đoàn Dù dồn hai tiểu đoàn địch vào hành lang mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tiên liệu địch sẽ dùng để tẩu thoát về hậu cứ bên Căm Bốt.

9. Công Trạng Của Sư Đoàn 1 Không Kỵ trong Chiến Dịch Pleime

Trong phần kết của bản báo cáo, Tướng Kinnard đã đặt một câu hỏi then chốt (Pleiku, trang 123):

Câu hỏi còn lại là liệu có thể chận đứng mối đe dọa nếu không có Sư Đoàn 1 Không Kỵ không?

Và câu trả lời đương nhiên của Tướng Kinnard là không. Ông nêu ra những lý lẽ sau đây: một, Quân Đoàn II không có đủ quân để thành lập một đoàn quân tiếp cứu đủ mạnh để thắng vượt qua ổ phục kích của Trung Đoàn 32 BV gồm 2.000 binh sĩ; hai, Trung Tá Luật e ngại không cho dám cho đoàn quân tiếp cứu tiến bước cho đến khi bị Tướng Kinnard đốc thúc và bảo đảm pháo yểm; ba, đoàn quân tiếp cứu, sau khi giải tỏa được trại Pleime, đã tránh khỏi bị địch quân xâu xé khi thực hiện hành quân càn quét quanh trại, nhờ vào sự yểm trợ pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ; bốn, Quân Đoàn II không có khả năng truy kích địch đến tận mật khu Chu Prong; và năm, ngay cả khi đến lượt Lữ Đoàn Dù VN tham chiến thay các đơn vị Lữ Đoàn 3 KK, lữ đoàn trưởng Dù VN cũng phải nhìn nhận là pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ giết hại địch quân nhiều hơn là các đơn vị bộ chiến Dù.

Các điểm Tướng Kinnard nêu lên đều đúng cả. Xét riêng về tổn thất địch trong chiến dịch Pleime, trong tổng số khoảng 6.000 binh sĩ VC bị loại khỏi vòng chiến, công trạng của ba lữ đoàn không kỵ là 3561 VC chết và 1178 VC bị thương, của B-52 là khoảng 2.000 VC chết, phía các đơn vị QLVNCH là khoảng 450 VC chết (200 quanh Pleime trong hành quân Dân Thắng 21, và 250 tại Ia Drang trong hành quân Thần Phong 7).

Tuy nhiên, Tướng Kinnard quên là tất cả những chiến thắng Sư Đoàn 1 Không Kỵ thực hiện được trong chiến dịch Pleime là nhờ vào tài suy tính của bộ óc tại Ban Tham Mưu Quân Đoàn II: một, Đại Tá Hiếu đã đoán được Việt Cộng lần này dùng thế phục kích di động, nếu không pháo binh của SĐ1KK sẽ bắn vào khoảng chống không; hai, Đại Tá Hiếu đã cung cấp các thông tin tình báo thu thập được từ việc khảo cung các tù binh và hàng binh Việt Cộng, và từ các đội toán Biệt Cách Dù len lỏi trong lòng địch, liên quan đến các vị trí của ba trung đoàn Bắc Quân tập trung tại mật khu Chu Prong; ba, Đại Tá Hiếu đã bày thế nghi binh chuyển hướng hành quân từ đông-tây sang tây-đông ngày 9/11 để có thể tấn công địch cách bất ngờ; bốn, Đại Tá Hiếu đã bày cho Lữ Đoàn 3 KK tấn công vào Chu Prong ngày 14/11 để tránh thiệt hại tối đa cho trực thăng và binh sĩ Mỹ khi Việt Cộng không có trong tay các súng phòng không và bích kích pháo hạng nặng; năm, Đại Tá Hiếu đã đề ra khái niệm dùng vũ khí B-52 chiến lược làm vũ khí chiến thuật lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam; sáu, Đại Tá Hiếu đã sắp xếp đặt để pháo binh của SĐ1KK tại Crooks trong tầm bắn vào vùng Lữ Đoàn Dù sẽ hành quân. Nói tóm lại, Đại Tá Hiếu đã khéo biết xử dụng tới (Pleime, chương V):

một đơn vị có khả năng di động cực cao trên toàn thế giới và đồng thời có những quân cụ và vũ khí hiện đại nhất

Nếu không có tài điều khiển của Đại Tá Hiếu, mãnh lực vô song địch của SĐ1KK sẽ chỉ là một quả đấm thoi sơn tung vào khoảng chân không, không tài nào đánh trúng một địch quân tàng hình tài giỏi. Tướng Westmoreland đã có một thẩm định trung thực hơn liên quan đến vai trò của Quân Đoàn II trong chiến dịch Pleime khi ông viết (Pleime, lời tựa):

Các thành quả nổi bật của các giai đoạn sau có thể, có lẽ, không bao giờ thể hiện được nếu như không có đầu óc thẩm định và con mắt nhìn xa của giới lãnh đạo Việt Nam. Nỗ lực chuẩn bị tiên khởi trên chiến trường, mở đường cho việc xử dụng Sư Đoàn 1 Không Kỵ, đã do các lực lượng Việt Nam hoàn thành. Cũng vậy, thành quả khai thác của giai đoạn chót đã do Lữ Đoàn Dù Việt Nam phần lớn hoàn thành.

Nguyễn Văn Tín
07 tháng 05 năm 2010

Posted by: NamQuoc Aug 23 2014, 09:13 AM





Đâu dễ phai mờ



Một lần tuân lệnh cấp trên, buông súng, bị lưu đày biệt xứ hơn 8 năm mà cũng chưa tởn.Thực ra anh Ý chỉ hơn tôi có cái đế (ảnh Trung Tá, tui Trung Úy) mà ép tôi quá..

Đang phi hành tỏi, chờ vàng, thả cá vào chiên sơ, rồi cho mật ong, nước mắm vào kho...Thì có tiếng phone reo...
Nhà thơ Võ Ý từ Cali gọi sang...Anh bảo tôi là nhân chứng sống, trong cuộc di tản đầy máu và nước mắt, về trên tỉnh lộ 7B,Anh cho biết là đại hội Phố Núi sắp khai mạc tại Cali,Anh cần có một bài viết về cuộc di tản nầy, và anh bảo tôi phải viết, bài viết không dài quá 2 trang, và phải hoàn tất nội trong ngày nay.Viết xong email sang cho anh, để anh sắp xếp đọc trong ngày hội,Nói xong anh cúp phone...
Kêu trời không thấu,Cuộc di tản 2 tháng trời mà bảo tôi viết 2 trang...Trong khi tôi đã có 2 bài viết về cuộc di tản nầy, 2 bài với tổng cộng hơn 12 trang.Bây giờ tôi phải rút từ 12 trang xuống còn 2 trang.Vì tôi chưa nhận giấy giải ngũ,nên cấp trên ra lệnh là tôi phải thi hành,có gì khiếu nại sau. Một lần tuân lệnh cấp trên, buông súng, bị lưu đày biệt xứ hơn 8 năm mà cũng chưa tởn.Thực ra anh Ý chỉ hơn tôi có cái đế (ảnh Trung Tá, tui Trung Úy) mà ép tôi quá...Nhưng dù gì thì lúc lưu đày ra Bắc,Tôi và ảnh cùng chung đội rau tại trại tù Hà Tây,mấy năm trời vui buồn có nhau,...Vậy là tắt lửa, vô khỏ computer liền may ra mới kịp.
*

Xe chầm chậm ngang qua cổng Quân Đoàn, mới hơn 6 giờ sáng, trời lành lạnh sương mờ...Hình ảnh người lính gác cổng trong tư thế tác chiến, không bao giờ phai mờ trong trí tôi, mỗi khi có dịp hồi ức lại, ngày giờ năm tháng mà tôi củng đồng đội chung đơn vị, phải rời bỏ quân đoàn, ra đi mà lộ trình không biết phải đi về đâu? Không nhận bất cứ mệnh lệnh nào củă một cấp trưởng, ra đi chỉ là việc tự phát, thấy đơn vị bạn bỏ đi .. cũng đi theo, chỉ vậy thôi .
Là một đơn vị trừ bị cho vùng hai chiến thuật, các toán Chiến tranh chính trị hành quân, thường xuyên tăng phái cho đơn vị bạn. Đơn vị 201CTCT của tôi vừa từ Kon Tum về hậu cứ quân đoàn, khoảng 10 ngày trước khi di tản, đang công tác tăng phái cho Biệt Động Quân tại B15, khi Biệt Động Quân rút đi, đơn vị tôi tự động rút về Pleiku, trong thành phố KonTum lúc bấy giờ, loa phóng thanh ra rả... Lệnh Đại Tá Tỉnh Trưởng, cấm quân nhân ra khỏi tỉnh với bất cứ lý do gì... Là đơn vị tăng phài, nên đoàn xe của Đại Đội 201 qua cầu Dakpla dễ dàng...
Về quân đoàn, doanh trại tiểu đoàn đóng cạnh truyền tìn,có một đêm giặc pháo ngay vào quân đoàn... Tin tức xấu lan truyền cùng khắp, kể từ khi Ban Mê Thuộc tạm coi như thất thủ...Buổi sáng trước ngày di tản, Trung Úy Quế, ban 3 Tiểu Đoàn, dừng xe gắn máy trước sân tiểu đoàn, anh cho biết là hầu hết các đơn vị trong quân đoàn đã di tản, chỉ còn thiết giáp, truyền tin và mình ...
Anh em xôn xao bàn tán, tiểu đoàn như rắn mất đầu, vị tiểu đoàn trưởng bay đi đâu mất... Trước khi đi, người còn dặn lại tiểu đoàn phó trông coi tiểu đoàn, ông bận đi họp ở quân đoàn... Tiểu đoàn phó mới từ Sài Gòn đổi ra chưa tới 3 tháng ...Tôi thì cũng từ Sài Gòn ra được gần 5 tháng ... Cũng đều từ Tiểu Đoàn 50 CTC T thuyên chuyển về đây.
Đêm đó, tất cả quân nhân trong đơn vị không ai ra lệnh, tự động quay quần bên nhau, ngủ ngoài sân... Hình như ai cũng sợ đơn vị ra đi bất thình lình , mình bị bỏ lại..
Sáng sớm, tiểu đoàn phó cho lệnh phá kho, anh em được thêm khá nhiều lương khô, cũng như đạn dược..
Tôi thấy thương cho người lính gác cổng quân đoàn vô cùng... Thượng phiên không biết có người thay không? Điếm trưởng không biết có còn không? Quân phong, quân kỷ, trong những ngày sau cùng, giết rất nhiều quân nhân không dám tự ý rời đơn vị...
Mấy chiếc M48, còn thật mớ,i đậu rải rác gần cổng .. Nòng súng buồn bả chỉa xuống đồi ... Xe qua khỏi cổng, trên ghế trưởng xa, tôi còn ngoái đầu nhìn lại cổng quân đoàn, hình như tôi linh cảm .. đây là hình ảnh cổng quân đoàn mà tôi được nhìn lần cuối..!
Con đường Hoàng Diệu, và nhiều con đường khác trong thành phố, dù còn sương mờ, dù còn quá sớm để bắt đầu một ngày mới ... vậy mà đường nào cũng rộn rịp, xe cộ đủ loại, xe nhà binh nhiều nhất.. Gương mặt mọi người đều mang nét " giới nghiêm", hình như trong đầu mọi người đều mang nhiều thắc mắc mà chẳng ai giải đáp giùm cho...
Đoàn xe của Tiểu Đoàn 20 , sau khoảng nửa giờ ngừng trên đường Hoàng Diệu, để nghe ngóng tình hình..Vị tiểu đoàn phó ra lệnh lên đường theo sau đoàn xe quân cảnh vừa chạy ngang.. Xe chầm chậm theo về hướng Hàm Rồng.. Tôi nhìn rạp Diệp Kính một lần cuối..Cũng như tôi đã nhìn trường trung học Pleime khi xe từ quân đoàn ra tỉnh..Pleiku không phải là quê hương... Nhưng là đất của quốc gia, bỏ đi thì lòng nào lại không luyến tiếc...!
Tôi nhìn phía trước, tôi nhìn phiá sau ... xe đâu mà nhiều quá, xe lô bồi xe nhà, xe đò, các loại xe quân đội... rồng rắn chầm chậm bò đi. Gần tới Hàm Rồng, xe trước rẽ phải băng lề chạy cày trên đất cỏ... một khoảng khá xa mới thấy lờ mờ dạng một con lộ... mà có lẽ từ lâu không người qua lại.
Lính trên xe nhiều người biết... Con đường nầy dẫn đến Phú Bổn... Đoàn xe vẫn êm ả chạy, chưa thấy gì là nguy hiễm, chưa nghe tiếng súng ..
Xe qua Thung Lủng Hồng... Rải rác một vài chiếc GMC bị lật.. vài xác quân nhân nằm sãi tay bên ba lô súng đạn.. có lẽ tại nạn ...Rồi đoàn xe rồng rắn cũng tới được Phú Bổn...Lính gốc miền Nam có vẽ vui vì được về Nam, dù trên mặt vẫn đầy nét lo âu ... Lính người địa phương, mặt mũi đâm chiêu vì chuyền đi bất ngờ... xa người thân xa vợ xa con...
Đêm Phú Bổn tương đối an toàn, Trung Tá Lò văn Bảo củng vài cận vệ.. đi bộ qua từng xe di tản, an ủi đoàn quân.. ..
Rồi lần lượt tới Phú Túc, tới Củng Sơn, tới bờ sông Ba...
Có những khúc xuyên rừng, công bình ủi dường, đốt lửa cháy rực, Biệt động quân, súng cầm tay dàn an ninh hai bên đường rừng, nhiều em lính quá trẻ, tuổi chưa tới 20.. Họ lặng lẽ cầm súng trong thế sẵn sàng chiến đấu... Không biết họ có nghĩ gì về đoàn quân đang xuối Nam, và thân phận của người lính an ninh đoạn hậu rồi sẽ ra sao?? Một sự bỏ rơi tàn nhẫn quá...!!
Tôi thấy xa xót trong lòng khi nhớ tới những người lính trẻ nầy... Hình ảnh hào hùng đó khó phai mờ trong tôi .
Từ bờ bên kia Sông Ba theo đập Đồng Cam về Hiếu Xương mới là đoạn đường đầy máu.... Biết bao nhiêu xác quân nhân chết trong tư thế dơ tay đầu hàng, bọn quỷ người từ phiá sau bắn tới đoàn lính thất thế đã đầu hàng... trong đám thi thể nầy có Đại Úy Klang thuộc tiểu đoàn 20CTCT. Đập Đồng Cam ngâp tràn xác chết, xác dân lẫn lính, khi trời kêu ai người đó phải dạ.. Chứ làm sao cải được.Đoàn xe chạy sát bên nhau, người đi bộ khít bên nhau .. Phiá trên núi, nơi mà ngày trước quân đội Đồng Minh Đại Hàn đã xây nhiều công sự phòng thủ, giữ an ninh con đường 7B nầy, bây giờ bỏ hoang, cộng quân chiếm đóng, từ trên đó, cứ tà tà bắn xuống đoàn người ... bia di động!!
Khi sắp tới quận Hiếu Xương, tin Thiếu Tá Hải tử thương, người của sở 2 liên lạc ( Nha Kỷ Thuật) vị sĩ quan trẻ tuôi, kinh nghiệm trận mạt đầy người, đang trực tiếp chỉ huy thuộc cấp mở đường máu, xe của ông bị 1 tráo B40... Tin nầy đã gây bàng hoàng xúc động cho hầu hết quân dân trên đường di tản
Buổi chiều , trời đã nhạt nắng, tiếng súng đã dịu đi nhiều ... Lá cờ vàng thân thương được một anh lính địa phương của quận Hiếu Xương phầt bay chào đón đoàn quân di tản .
Dân quận Hiếu Xương đứng đầy hai bên đường, hôm đó là ngày rằm, chén cơm, cái bánh, trái chuối, điếu thuốc, được người dân ần cần trao tận tay người lính...
Tôi nhận một chén cơm, với đôi đũa, có tàu hủ kho tương ... từ tay một cố gái trong tuổi đôi mươi, ăn vội thật ngon, nghe cay cay khoé mắt, lần đầu tiên trong đời lính, tôi cảm nhận được tình quân dân thắm thiết, tình dân đối với lính Cộng Hòa.
Lịch sử dù đã sang trang .. Nhưng sự thật bao giờ cũng phải trả lại sự trung thực cho lịch sử, ai trách nhiệm về việc ra lệnh cuộc rút quân nầy... Sinh mạng người lính, nói đúng ra , là sinh mang của thuộc cấp ... sao ai đó nỡ lòng nào, bỏ con mình trong biển lửa... bao nhiêu oan hồn trên tử lộ 7B... Vẫn còn oán hờn vất vưởng... Bao giờ cờ xưa dựng lại .. Có ai nhớ lập đàn tràng cầu cho sinh linh siêu thoát
Những cái chết lẽ ra phải hào hùng, trả đền ơn sông núi ..Thì họ hình như bị bức tử, chết mà không biết mình chết cho ai, cho mục đích gì?
Cầu mong vong linh quân dân cán chính tan thây, nát thịt trên con đường lộ máu, vì sự tính toán sai lầm của cấp lảnh đạo, sớm siêu thoát.. Thượng Đế, Chúa, Phật ở xa người quá... không biết có thấu hiểu nỗi lòng của người lính Việt Nam Cộng Hòa, cuộc chiến tàn đã bao năm rồi mà vết thương đau vẫn còn như mới ngày hôm qua.

Thy Lan Thảo .

(Viết tại Kỳ Đà Động ... ngày 9/9/2012)

Posted by: caoduy Sep 11 2014, 07:29 AM





CÒN NỢ THANH AN

Thân tặng những ai đã từng ở PLEIKU

Mải bận bịu với những lo toan cho miếng cơm , manh áo của cuộc sống đời thường - Đến hôm nay , gần 40 năm đã trôi qua , dù ở rất gần với BÀU CẠN , với THANH AN &PLEIKU bụi mù đất đỏ , tôi vẫn chưa có lần về thăm lại chốn xưa để tạ lỗi cùng người , cùng mảnh đất đã cưu mang , đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm của cả một thời thanh xuân !

Tôi đến THANH AN sau MÙA HÈ ĐỎ LỬA , cởi bỏ chiếc áo thư sinh , khoác lên vai mảnh chiến y của SƯ ĐOÀN BIÊN TRẤN 23 , địa bàn hoạt động của đơn vị tôi là cả mặt trận cao nguyên bao gồm các tỉnh :

QUẢNG ĐỨC , BMT , PLEIKU , KONTUM & PHÚ BỔN

Nhưng PLEIKU lại là nơi cho tôi rất nhiều kỷ niệm , tôi đến đây đầu tiên để trình diện đơn vị , khởi đầu cho cuộc sống phong sương của đời lính chiến & cũng từ biệt CAO NGUYÊN từ chốn này !

Tôi nhớ sở trà BÀU CẠN với những đêm quân hành vội vã - những sáng , những trưa , những chiều trên đường hành quân được ngắm nhìn những bông hoa cúc dại vàng cả một góc trời KATIKA ( BÀU CẠN )

Tôi nhớ THANH AN , một quận lỵ nghèo của PLEIKU , một thị trấn nhỏ nhoi nằm trên trục lộ nối liền PLEIKU - ĐỨC CƠ một vùng đất nghèo khó , đầy máu và lửa của quê hương , nơi mà người dân vẫn phải độn khoai vào bữa cơm ! nơi mà cái chết vẫn hằng ngày đe dọa , vẫn thường đổi chác miếng cơm , manh áo bằng chính mạng sống của người dân nghèo THANH AN ! Đa số người dân nơi đây mưu sinh bằng nghề hái ĐÓT để làm chổi , đã có bao người phải bỏ mình trên những ngọn núi ở tây THANH AN ,

Tôi thương THANH AN , tôi quý người THANH AN : nghèo tiền bạc , của cải nhưng rất giàu tình thương , giàu lòng nhân ái .

Như một định mệnh , khi cuộc chiến tháng 3/75 nổ ra , đơn vị tôi lúc đó đang đóng quân tại BMT , sau 7 ngày tử thủ tại MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG PHỤNG DỰC , tôi bị bắt và bị dẫn đến nhiều địa danh từ BMT đến biên giới ĐỨC CƠ và cuối cùng lại là một trại tù tự lập tại chính mảnh đất đầy kỷ niệm THANH BÌNH , THANH AN , PLEIKU cho đến ngày được trẳ " TỰ DO "

Tôi nhớ THANH AN nhiều lắm : nhớ mẹ già THANH AN , nhớ người em gái nhỏ THANH AN ngày nào đã dấu cho tôi từng củ khoai , từng khúc củi rừng những lần toán tù chúng tôi đi làm ngang qua xóm ( chúng tôi được phân công đi lấy củi , mẹ và em chặt sẵn cho tôi mang về )

Cũng ngay tại quê hương này ở thời điểm ấy chắc cũng không ít những bà mẹ già , những em gái như THANH AN của tôi cũng đã cưu mang , đã cùng sẻ chia những nỗi đau với anh em , với đồng đội của tôi trong những tháng ngày đau thương và khốn khó ấy !

Lòng mẹ là thế ! tình em chan chứa biết dường nào mà tôi lại vô tâm , vô tâm quá ! không một lời từ tạ THANH AN khi được thả về ...Để đến mãi hôm nay, ngồi tại quê hương này , dù đã gần 40 năm không gặp lại THANH AN - Dù có muộn màng , tôi xin được gởi đến THANH AN , đến mẹ , đến em lời tạ lỗi :

Tôi còn nợ THANH AN , con còn nợ MẸ , anh còn nợ EM - Món nợ ân tình ấy con xin ghi khắc trong tim ...

BK PHẠM QUANG CHIẾN 342
( Để nhớ về THANH AN dấu yêu )

Posted by: caoduy Sep 11 2014, 07:29 AM





Mưa Pleiku


Pleiku sau lễ phật đản đã vào mùa mưa, ban đầu mưa bất chợt, sau dần dà mưa dầm dề, mưa dai dẳng, mưa liên miên, mưa sáng, mưa chiều, mưa đêm, mưa khuya, mưa Pleiku thật lạ cứ tạt đủ bốn hướng là hết mùa mưa, ban đầu mưa chiều tạt hướng Tây....Mưa hình như cũng có hồn gọi ta về với kỷ niệm xưa, mưa khuya lành lạnh trong cơn gió nhẹ thoáng qua, tiếng mưa rả rích hòa với gió xen lẫn tiếng côn trùng nỉ non giống như ai đó đang trách nhẹ ta đã vô tình quên đi một kỷ niệm đẹp đẽ trong quá khứ, mưa đêm thánh thót trong nỗi nhớ bất chợt tràn về, mưa đong đầy nỗi niềm trong từng giọt rơi trên tấm tôn, mái lá.... Sống với Pleiku đã trên chục mùa mưa nhưng tôi vẫn thấy mưa ở đây thật lạ. Có cơn mưa ầm ào thoáng qua, có cơn mưa triền miên não nề. Tiếng mưa tỉ tê kéo lê thê từ ngày sang đêm, từng tiếng mưa rơi gõ vào vách tâm hồn vang lên thành lời tâm sự u hoài luyến nhớ một cái gì gần lắm mà như vẫn rất xa.

Sinh ra và lớn lên từ đất Bắc xa xôi, chuyển vùng rồi làm việc nhiều năm trong nắng gió và những cơn mưa Pleiku-Tây Nguyên. Tuổi thơ tôi chăn bò, cắt cỏ rồi lặn lội nơi ruộng trũng, ao đầm, nhặt ốc, móc cua, bắt cá, vớt tôm với tôi mưa, nắng, bão lũ đã quen lắm lắm từ tấm bé. Vậy mà mỗi lần nghe mưa nơi đây tôi vẫn thấy là lạ thế nào ấy, không thể giải thích nổi. Tiếng mưa nhặt khoan thiết tha như gọi nhớ lại những kỷ niệm của ngày thơ nhớp nháp, sình lầy, vô tư mà thơm tho no đầy kỷ niệm và nặng trĩu nghĩa xóm, tình quê...........

Ai ở xa đến Pleiku nghe tiếng mưa đêm chắc rằng sẽ ngạc nhiên lắm lắm, nhưng nếu chịu khó ở lại hết mùa mưa sẽ cảm thụ được hết, rồi sẽ quen dần với mưa Pleiku và tin chắc rằng những trận mưa đêm sẽ trở thành kỷ niệm không thể nào quên của mỗi con người đã trải nếm qua mùa mưa ở nơi đây, nơi có đủ đầy cái nắng, cái gió, cái đó và cả cái mây mưa......

Đêm nay, đêm Pleiku tháng tư âm, ngày nguyệt tận, trời cũng đã về khuya.........Trằn trọc mãi tôi vẫn không sao chợp mắt được...những kỷ niệm ngày xưa lại lần lựợt hiện về như một cuộn phim quay chậm hành hạ, thôi thúc, dằn vặt tôi, khiến tôi không thể nào chịu nổi,....ngoài trời trận mưa rả rích kéo dài từ chiều đập vào tán lá Bằng lăng trước nhà tạo nên những âm thanh buồn tẻ, nghe thật day dứt, não nùng.......người ta thường bảo những đêm mưa là những đêm buồn, có lẽ đúng như vậy thật,....trên đời này đã có không biết đến bao nhiêu bản nhạc, bài thơ, áng văn chương diễn tả lại cái buồn của những trận mưa đêm, nhưng có lẽ vẫn chưa đầy đủ, phải chăng vì mưa đêm thường ấp ủ những mơ ước, nhớ nhung, mập mờ, huyền ảo, khi thực, khi hư.....Thưở thiếu thời tiếng mưa rơi trên mái nhà đã từng là những lời ru cho giấc ngủ ngon lành của tôi bên hơi ấm mẹ hiền, lớn lên những đêm mưa rơi nghe mới buồn làm sao....đêm nay đây mưa cũng lại rơi và tôi chỉ còn biết cầu mong cho nó hãy là những lời ru cho giấc ngủ mơ muộn mằn được gặp lại những kỷ niệm mới qua về.........Nhưng thôi tôi xin.....không mơ về ai cả mà hãy mơ về một trận mưa thật to để hoa cỏ Pleiku-Tây nguyên mãi xanh, cho rừng hoa dã quì héo khô nảy lộc đâm trồi.............

Cho niềm hân hoan của người trồng cây cà phê, cây bắp, cây tiêu; Cho tiếng cười thêm tươi của Bác nông dân nhìn thửa ruộng đã xong phần gieo xạ và mầm cây con đang nẩy lộc, đâm trồi. Mưa đêm! hãy mưa to nữa lên cho lòng tôi bớt đi nặng trĩu một nỗi niềm mà cứ mỗi lần mưa rơi lại dội về vấn hỏi và hành hạ, cho những ai đến với Mưa Pleiku rồi ra đi luôn mãi nhớ về những trận mưa đêm không thể diễn tả và không thể nào quên....

ST

Posted by: caoduy Feb 3 2015, 08:18 AM





Đón Xuân nơi tiền đồn

Mỗi dịp Xuân về, lòng tôi lại rộn lên những kỷ niệm về những Mùa Xuân cũ. Một trong những Mùa Xuân ấy là cái Tết nơi tiền đồn hẻo lánh trên Cao Nguyên với biết bao hy vọng, nhưng cũng với biết bao trăn trở, khắc khoải, và cả buồn tủi! Đơn vị tôi lúc đó là TĐ11/BĐQ địa bàn hoạt động là Vùng 2 CT, tức QĐII/QK2. Hậu cứ nằm tại Biển Hồ Pleiku, một địa điểm khá thơ mộng với du khách ngày nay, nhưng vào thời đó nó vẫn còn là một nơi hoang vu với khá nhiều căn cứ Quân Sự như TT Huấn Luyện Trường Sơn, Tiểu Đoàn 37 Pháo Binh, Tiểu đoàn Công Binh, LĐ2/BĐQ với Bộ Chỉ Huy và 3 Tiểu Đoàn Tác Chiến lừng danh là 11, 22 và 23. Pleiku trước đó cũng ít được nhắc nhở tới, người ta chỉ biết tới Pleiku như một chiến địa với Pleime, Daktô, Đức Cơ v.v… Nó chỉ được chú ý nhiều từ khi một bài thơ của Vũ Hữu Định viết về Pleiku, được Phạm Duy phổ nhạc dưới tên Còn Một Chút Gì Để Nhớ. Những lời cuả bài thơ thật sống động,

Phố núi cao, phố núi trời mây,
Phố xa không xa, trời thấp thật gần....
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa Đông...


Thực vậy, Pleiku là một xứ sở có thể nói là gần như mưa quanh năm.Pleiku, 1965 Với những người sống ở đồng bằng thì xứ sở này cũng được gọi là “quanh năm Mùa Đông”với tiết trời lành lạnh, phố xá hẹp, nghèo nàn. Trục lộ chính là đường Hoàng Diệu với một số tiệm buôn bán nhỏ bắt đầu từ Bưu Điện Thị Xã qua cầu Hội Thương Hội Phú dài chừng 6-700 mét. Chính vì thế mà thi sĩ diễn tả “đi dăm phút đã về chốn cũ” đủ để biết nó nhỏ như thế nào! Vậy mà dù sao so với Kontum và nhất là so với Phú Bổn và Quảng Đức, Pleiku vẫn là 1 thành phố lớn. Dù muốn dù không, với những người lính tác chiến chúng tôi khi đó, Pleiku là một thành phố ấm cúng với ánh đèn điện, với nước máy, với các hàng quán, nhất là các quán cà phê có dàn nhạc steréo, có các thiếu nữ lượn lờ thanh lịch. Dù là thủ phủ của một bộ phận chiến tranh, Bộ Tư Lệnh QĐII, Pleiku vẫn là một thành phố tương đối thanh bình, do người dân ở đây đã quá quen với những tiếng “đại bác ru đêm” hoặc tiếng gầm rú của máy bay phản lực, tiếng khua vang của trực thăng, hoặc ngay cả tiếng xích sắt của từng đoàn Thiết Giáp, tiếng xe GMC chuyển quân ầm ĩ qua thành phố...


Pleiku vẫn là điểm dừng chân mơ ước của những người lính chiến thuộc Sư Đoàn 22 BB và của đám BĐQ chúng tôi. Những mơ ước nhỏ nhoi đó chỉ đến rất ngắn ngủi trong những lần kết thúc một chiến dịch hành quân, dài ngắn tùy tính chất từng trận đánh. Có khi cả năm trời chúng tôi không được ghé về thành phố này một lần. Như từ Tháng Mười Một năm 1971, Tiểu Đoàn 11/BĐQ chúng tôi đi hành quân trận Plei M’rông (Kontum), rồi sau đó vướng Mùa Hè Đỏ Lửa Kontum tới Tháng Sáu 1972, về tới Hậu Cứ nhưng lại bị cấm trại rồi đi luôn một mạch xuống Bồng Sơn, Tam Quan (Bình Định), rồi lại chuyển qua Đức Phổ, Mộ Đức (Quảng Ngãi), mãi tới Tháng Mười Một 1972 mới kết thúc, và được trở lại thành phố nghỉ ngơi.

Nhưng cuộc chiến đang lúc khốc liệt, Tiểu Đoàn chúng tôi nghỉ ngơi vài ngày để bổ sung quân số, sau đó kéo đi TTHL/BĐQ Dục Mỹ (Ninh Hòa, Nha Trang) để huấn luyện bổ túc cấp Tiểu Đoàn thời gian dự trù khoảng 9-10 tuần. Những tưởng, sau mấy năm lăn lóc sa trường, đây là dịp nghỉ ngơi để ăn cái Tết đầu tiên trong đời quân ngũ với không khí thanh bình thật sự, TĐ Trưởng cũng đã nghĩ đến việc nhân dịp này cho một số SQ lần lượt đi phép thường niên. Tiếc rằng, lệnh đưa xuống Cấm Quân! Lại Cấm Quân!

Trong đời lính, chúng tôi chán nhất là 2 chữ này. Cấm Quân có nghĩa là mọi quân nhân không được rời doanh trại và dĩ nhiên luôn phải ở tư thế sẵn sàng tác chiến, sẵn sàng di chuyển đến khu vực đang xảy ra chiến sự. Cấm Quân khác với Cấm Trại, vì Cấm Trại chỉ trong phạm vi một đơn vị thường là cấp Tiểu Đoàn, đôi khi không hẳn vì lý do chuẩn bị hành quân, có thể do lính vô kỷ luật nên đơn vị bị phạt. Còn Cấm Quân thì trên bình diện lớn hơn thường là một Quân Trấn. Quân nhân trong toàn khu vực không được ra khỏi doanh trại nếu không có những Sự Vụ Lệnh đặc biệt do Đơn Vị Trưởng cấp, vì khi Cấm Quân không một quân nhân nào được đi phép, kể cả phép đặc biệt như tang, hôn...

Quả nhiên, những dự đoán của chúng tôi không lầm! Qua báo chí lúc bấy giờ chúng tôi phong phanh được biết một giải pháp cho Chiến Tranh Việt Nam đã gần hoàn thành, nghĩa là cuộc mặc cả tay đôi giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ đã có kết quả và đang chờ ngày ký kết. Kết quả ra sao thì đám quân nhân chúng tôi, kể cả Tiểu Đoàn Trưởng, không hề được biết. Cũng chỉ phong phanh chúng tôi được biết sắp tới sẽ có chiến dịch “dành dân lấn đất” để khi Hiệp Định ngừng chiến được ký kết thì “bên nào ở nguyên chỗ đó” và từ ngữ chuyên môn gọi là “đóng quân da beo”. Vì vậy một chiến dịch sẽ được mở ra để xác định chủ quyền. Hình thức thi hành ra sao thì chỉ đến khi thực hiện chúng tôi mới được phổ biến.

6 giờ chiều ngày 15 Tháng Giêng năm 1973, tôi nhớ rõ hôm đó là ngày Thứ Hai 12 Tháng Chạp Âm Lịch năm Nhâm Tý, nghĩa là chỉ còn chưa tới 3 tuần nữa là Tết, tôi nhận được một công điện Khẩn từ LĐ2/BĐQ ở Pleiku lệnh cho TĐ11/BĐQ phải sẵn sàng di chuyển lúc 5 giờ sáng ngày hôm sau 16/01/1973. Phần bảo mật ghi Phổ Biến Hạn Chế, nghĩa là chỉ từ cấp Đại đội Trưởng trở lên và những giới chức thẩm quyền đơn vị mới được biết. Công Điện cũng không cho biết sẽ di chuyển tới đâu, chỉ nói thêm rằng “Chi Tiết Cụ Thể Sẽ Nhận Được Khi Di Chuyển”.


Điều tức cười là khoảng 12 giờ đêm, đoàn quân xa đã ồn ào tới khu vực đóng quân của Tiểu Đoàn kéo theo khá đông cư dân của Dục Mỹ, những cô gái bán bãi (danh từ dùng để gọi những người gánh hàng rong đi theo những bãi tập để bán cho binh sĩ đang huấn luyện, gồm đồ ăn nước uống, hầu hết đều là thiếu nữ hoặc phụ nữ, không có nam giới. Những người này cũng gần như toàn bộ là vợ con những cán bộ chiến sĩ trong TTHL).

Họ đến đây để đòi nợ, vì truyền thống của quân trường là ăn thiếu, do người lính chỉ được lãnh lương vào khoảng từ ngày 20 tới cuối tháng, và hầu như lương lính tháng nào “xào” tháng đó. Những người bán thiếu chỉ cần ghi tên và đơn vị của người mua thiếu. Nếu là tân binh huấn luyện thì họ sẽ nhờ những cán bộ cơ hữu như Thường Vụ Đại Đội khóa sinh đòi dùm, còn nếu là đơn vị bổ túc thì họ sẽ nhờ những Thường Vụ của Đại Đội người mua thiếu đòi dùm trừ thẳng vào tiền lương ngay khi phát lương.

Điều đáng tiếc là đơn vị chúng tôi di chuyển đột ngột và bí mật nên cấm mọi cuộc tiếp xúc với bên ngoài, do đó họ không thể vào doanh trại để tìm, cũng không thể kiếm người Thường Vụ Đại Độ để nhờ giúp, họ chỉ có thể tụ tập ở bên cạnh những chiếc xe để chờ.

Khoảng 3 giờ sáng kẻng báo động đánh thức toàn đơn vị, các chốt canh gác ở ngoài cũng được lịnh gọi về. Có lẽ là đặc biệt nhất từ trước tới nay, lần này những toán ở xa có xe đến đón khỏi phải lội bộ. Lính tác chiến thì cái gì cũng nhanh, chỉ lướt sơ một lượt các cấp chỉ huy Trung Đội đã nắm vững quân số của mình để báo cho Thường Vụ Đại Đội, lệnh ngắn gọn được ban ra tuyên bố Tiểu Đoàn phải di chuyển để nhận nhiệm vụ mới và tất cả lên xe. Khi đó những người bán bãi mới tới kiếm các Thường Vụ Đại Đội để nhờ giải quyết. Họ đưa danh sách các người mua thiếu để nhờ đòi dùm, nhưng thực ra đây là những may rủi rất lớn mà họ phải gánh chịu bởi chưa biết người mua thiếu sẽ ra sao và các ông Thường Vụ này có đòi được hay không và làm cách nào để trả... Tuy nhiên, họ cũng cố gắng để vớt vát với một chút hy vọng.

Bộ phận rút sau cùng khỏi căn cứ là Ban Truyền Tin của tôi, vì chúng tôi phải giữ anten chính để nhận Công Điện chót từ Liên Đoàn trước khi chuyển qua hệ thống tiếp vận trung gian trên đường di chuyển. Dĩ nhiên, với hệ thống tiếp vận trung gian qua từng chặng di chuyển, chúng tôi không thể chuyển hoặc nhận những Công Điện thuộc loại Mật được nữa (nhưng lại được nhận Công Điện Hỏa Tốc-Tối Mật). Đúng 5 giờ sáng, sau khi chúng tôi báo cáo đơn vị đã sẵn sàng lên xe, Công Điện gởi tới là di chuyển về Pleiku, lệnh cụ thể sẽ nhận được khi vào vùng phủ sóng (khoảng 50km bán kính với Hậu Cứ Liên Đoàn).

Qua Công Điện chúng tôi thấy rõ là nhiệm vụ đang chờ chúng tôi không thuộc vùng chúng tôi sẽ đi qua hoặc ở phía sau. Nghĩa là chúng tôi sẽ không đi Ban Mê Thuột, hoặc Phú Yên, hoặc Quy Nhơn. Và theo kinh nghiệm, chúng tôi đoán chừng nhiệm vụ mới chắc sẽ không có gì nặng nhọc, hoặc gay cấn, nguy hiểm, và có thể chắc đây không phải là cuộc hành quân đụng địch (bởi vì chúng tôi là Lực Lượng Tổng Trừ Bị Vùng, nếu chiến sự lớn, bắt buộc có cầu không vận để chuyển chúng tôi về Pleiku, tệ nhất cũng là Trực Thăng Vận đổ bộ). Hơn nữa mặc dù là Công Điện Mật và Khẩn nhưng lại không ấn định thời gian di chuyển bắt buộc, bởi thường với những cuộc hành quân gấp rút trong Công Điện ghi rõ thời hạn bắt buộc có mặt, kể cả phải di chuyển đêm qua vùng chiến sự nguy hiểm.

Với những nhận định trên, Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh di chuyển nhưng Đại Đội đi đầu được lịnh tà tà không phải gấp rút. Sau khi rời khỏi căn cứ đúng 5 giờ sáng, đến 6 giờ mới tới Ninh Hòa chỉ cách đúng 12km, 12 giờ trưa tới Đèo Đại Lãnh, 2 giờ chiều mới qua khỏi đèo, và 5 giờ chiều thì Tiểu Đoàn nhận được lệnh đóng quân trong Phi Trường Phú Yên qua đêm.

Phi trường Phú Yên chỉ là một sân bay dã chiến với phi đạo được lát bằng những tấm PSP do khoảng 1 Đại Đội Địa Phương Quân bảo vệ. Vào thời gian đó Phi Trường chỉ được xử dụng cho những chuyến bay quân sự khẩn cấp trong trường hợp Quốc Lộ 1 bị cắt đứt. Có lẽ Phú Yên là 1 tỉnh yên tĩnh nhứt của VNCH khi đó, Tiểu Khu này hầu như không có các đơn vị Chủ Lực trú đóng, Không Quân chỉ có vài chiếc L19, L20 không có Phi Đoàn Trực Thăng nào, còn Hải Quân cũng chỉ có mấy chiếc Tuần Duyên Hạm, không Thiết Giáp. Sau khi bố phòng cho đơn vị xong, nhóm Sĩ Quan chúng tôi kéo nhau vô Thị Xã để ăn tối.

Mới 6 giờ chiều mà phố xá vắng ngắt, hàng quán đã gần như đóng cửa hết chỉ còn rất ít quán xá mở cửa mà chỉ là những quán tạp hóa bán lèo tèo những thứ cần trong gia đình như gạo, mắm... Tôi muốn kiếm 1 gói thuốc hút loại sang như Ruby, Capstan cũng không thấy đừng nói chi thuốc Mỹ như Pall Mall, Lucky, Salem... Mãi sau, nhờ 1 người xe ôm chúng tôi mới tìm được 1 quán ăn, gọi mãi họ mới chịu mở cửa, té ra hôm đó là Thứ Ba không phải là ngày cuối tuần để ăn nhậu, và hơn nữa dân Phú Yên cũng ít ra quán ăn nhậu, ngay cả ăn sáng cũng hiếm vì chỉ có vài quán hủ tíu của người Hoa trên đường Duy Tân.

Gọi được chủ quán mở cửa chúng tôi ngỡ ngàng vì gọi bất kỳ món gì cũng không có, chúng tôi phải đưa tiền để ông ta đi mua đồ, vì nghĩ rằng những bộ đồ rằn ri làm cho ông ta sợ. Cũng may đây là thành phố biển vì vậy chỉ một lúc sau vợ chồng ông ta đã về với đủ thứ tôm cá và cả những con mực khổng lồ còn tươi nguyên đang ngáp. Chúng tôi được ăn một bữa tối ngon lành mà Pleiku không thể có được với cái giá rất rẻ chỉ bằng 1/3 so với giá ở Pleiku.

Sau một đêm an bình, 3 giờ sáng hôm sau tôi nhận được công điện qua tiểu khu Phú Yên tiếp vận. Sau khi giải mã chúng tôi được biết TĐ chúng tôi sẽ về Thanh An. Đoàn quân xa cuả chúng tôi lại tiếp tục lăn bánh về cao nguyên, tốc độ có nhanh hơn, bởi chúng tôi được lịnh phải tới địa điểm trước 3 giờ chiều, nghĩa là chúng tôi chỉ có 10 giờ nữa để di chuyển. QL1 tương đối an toàn và cũng khá phẳng phiu. Chúng tôi tiến vào QL19 cũng xuông xẻ không gặp bất kỳ trở ngại nào, có lẽ địch quân cũng không dám đụng độ với một đơn vị lớn như vậy. Khoảng 12 giờ trưa chúng tôi đã về tới khu vực núi Hàm Rồng, đã có thể liên lạc trực tiếp với LĐ qua hệ thống truyền tin nội bộ. Lịnh hành quân cũng được chuyển trực tiếp không dùng công điện nữa. Rất may TĐ11/BĐQ chúng tôi được chia về trấn đóng khu vực đồn điền trà Cateka Bàu Cỏ, từ ngã ba Hàm Rồng chúng tôi mất chừng 1 giờ di chuyển là đã tới khu vực đóng quân.

Đồn điền trà Cateka tọa lạc trên một bình nguyên khá rộng, tuy vậy diện tích khai thác cũng không nhiều lắm có lẽ khoảng vài ba chục hecta, cơ ngơi cũng chẳng có gì đồ sộ ngoài vài ngôi nhà ngói đỏ làm văn phòng đồn điền và mấy căn nhà lớn lợp tole làm chỗ chế biến trà. Cũng giống như đồn điền trà ở Biển Hồ, trà ở đây cũng chủ yếu xuất khẩu qua Pháp, do đó dân VN hầu như không ai được thưởng thức trà Cateka (dĩ nhiên trừ chúng tôi thỉnh thoảng vẫn được uống trà biếu). Trà Cateka chỉ là trà mộc, nghĩa là trà xấy khô chứ không tẩm ướp hương vị như các loại trà Blao hoặc trà Tàu. Ai quen uống trà Tàu sẽ khó thưởng thức được trà này, nhưng dân thích trà Lipton thì lại rất khoái vì đây là sản phẩm chính để chế tạo trà Lipton khi qua tới Châu Âu. Chia vị trí cho các Đại Đội xong, các ĐĐ trưởng về BCH/TĐ họp tham mưu. Vị trí hiện tại chỉ là tạm thời, ngày mai chúng tôi sẽ phải trải quân trên diện tích thật rộng mỗi đại đội trách nhiệm một khu vực tính bằng nhiều ô vuông trên bản đồ, vì khu vực toàn tiểu đoàn chúng tôi đảm trách kéo dài cả chục ô và vào sâu mỗi bên cũng cả trên chục ô nữa, nghĩa là TĐ có một địa bàn bán kính trên 10km.

Cũng ngày mai liên đoàn sẽ trang bị thêm cho chúng tôi một loại “chiến cụ” mới, đó là những lá cờ vàng 3 sọc đỏ. Mỗi người lính sẽ được cấp phát vài ba chục lá cờ, lớn thì dài khoảng 1m, còn cờ nhỏ thì khoảng 30cm, và sẽ có thêm rất nhiều nữa trong tương lai. Nhiệm vụ mỗi người sẽ là kiếm cây để làm cán cờ và sẽ mang những lá cờ đó đi cắm trong khu vực của mình, leo lên những cây cao nhất để cắm những lá cờ lớn. nếu trong khu vực có nhà dân thì cắm trước cửa nhà họ. Hèn gì trên đường di chuyển chúng tôi đã thấy cờ vàng khắp nơi, những tưởng năm nay sẽ có hòa bình nên dân chúng đón Tết sớm hơn mọi năm. Thanh An, là một quận nằm ở phía Tây Nam thành phố Pkeiku giáp ranh với biên giới Cam Bốt, có 2 tiền đồn do 2 TĐ BĐQ bảo vệ là Pleime (TĐ 82 BĐQ) ở phía Đông và Đức Cơ (TĐ 81 BĐQ) ở phía Nam, đến thời điểm đó chưa có trận chiến lớn nào xảy ra nên tương đối yên bình. Được hoạt động trong khu vực này vào dịp Tết cũng là dịp may lớn với đơn vị bởi chiến sự năm qua chủ yếu ở Kontum và Bình Định chứ Pleiku không có gì cả, do vậy chúng tôi an tâm đón Tết.

Mọi việc diễn ra cũng êm ả như mong muốn, cờ chở tới là chúng tôi đưa xuống các đại đội và giao cho tất cả các binh sĩ và ai nấy hăng say đi cắm, cũng không xảy ra vụ đụng độ nào. Hội Bảo Trợ Gia Đình Binh Sĩ cũng nhân dịp này gởi quà Tết đến toàn thể đơn vị. Các em nữ sinh Trường Minh Đức và Trường Trung Học Pleime cũng đi theo để ủy lạo và giao quà. Tuy nhiên chỉ có BCH/TĐ là được hân hạnh đón tiếp còn các ĐĐ thì ở rất xa, hơn nữa đã phân tán mỏng nên không thể về được, tuy vậy quà Tết thì được phân phối đều đến mọi quân nhân. Đây cũng là lần duy nhất mà tôi nhận được quà từ hậu phương. Gọi là quà nhưng mỗi phần chỉ có 1 khăn mặt, 1 cây crème đánh răng Hynos, 1 cục savon thơm, 1 gói Ruby Quân Tiếp Vụ và đặc biệt 1 lá thư. (Lá thư gởi cho tôi rất vui, của 1 em nữ sinh Minh Đức đang học lớp Đệ Tứ. Tôi lại cũng có một cô chị họ thua tôi cả chục tuổi đang học Đệ Tứ ở trường này, nên có chuyện rất vui về lá thư này. Có dịp, tôi sẽ kể lại hầu quý bạn).

Hiệp Định Paris trôi qua êm đềm, chỉ vài vụ đụng độ lẻ tẻ với du kích VC nhưng chúng cũng không chủ trương và ham đánh vì thế chỉ nổ súng một lúc là chúng chuồn mất. Còn 10 ngày nữa là Tết, lịnh cũng chỉ nói đơn vị giữ vững vị trí không để VC lấn đất, không có thêm một chỉ thị đặc biệt nào khác. Gần nơi đóng quân của BCH/TĐ, có một con suối cắt ngang rừng trúc, chúng tôi thường tới để tắm giặt. Nước suối trong xanh, bờ là bãi cát trắng mịn trải dài, phong cảnh thật thơ mộng. Sau khi cho lao công đào binh đào giao thông hào phòng thủ chung quanh khu vực chừng hơn 1 hecta, chúng tôi dựng thêm mấy nếp nhà tranh làm câu lạc bộ và nơi uống cà phê, nhờ đám hậu cứ mang một ít đồ xuống bán. Vì khá gần thị xã nên hầu như ngày nào chúng tôi cũng được tiếp tế, thậm chí có thể ăn cả hủ tíu hoặc phở nóng nữa. Một điều chưa từng xảy ra với lính đi hành quân như chúng tôi, nhưng mấy ông Địa Phương Quân thì chỉ coi là chuyện bình thường, mấy ổng còn nhiều hơn nữa kìa…Một đơn vị BĐQ đang chờ "trực thăng vận"

Đêm Giao Thừa Quý Sửu được chúng tôi đón mừng thật hào hứng, trong cái chòi lớn dùng làm câu lạc bộ. Tôi hy sinh một cục pin PRC 25 để thắp đèn vừa đánh bài vừa uống rượu. Chẳng biết đêm đó chúng tôi uống hết mấy chai Martel, và tôi thức được tới mấy giờ, nhưng khi tôi mở mắt thì đã là trưa Mùng Một rồi. Tôi đánh răng rửa mặt xong định qua lều TĐ trưởng chúc tuổi thì đã thấy ồn ào, đám lính tốp thì lắc bầu cua, tốp thì binh xập xám. Ông TĐT, đang ngồi trong CLB cùng các SQ Tham Mưu TĐ, thấy tôi bước vô hỏi đêm qua ngủ ngon không, có mơ thấy em nào không. Tôi cũng cám ơn và chúc tuổi mọi người, ai nấy đều nồng nhiệt nói lên những mơ ước của mình về một ngày mai không tiếng súng.

Lời hát của bài Một Mai Giã Từ Vũ Khí “rồi có một ngày có một ngày chinh chiến tàn…” trong chiếc casette nghe sao mà day dứt. Ngày đó có phải đang đến không? Bao giờ thì ngày đó sẽ đến? Văng vẳng từ chiếc radio đài SG bài Ly Rượu Mừng, mở qua đài Phát Thanh Quân Đội thì lại cũng bài đó. Đến bao giờ chúng ta có thể thoải mái ngồi trong phòng khách nâng ly rượu chứ không phải là ngồi trong những túp lều như thế này? Những người hiện diện tại đây nếu không vì cuộc chiến bẩn thỉu do bọn Cộng Sản Bắc Việt muốn nhuộm đỏ miền Nam thì hẳn giờ này họ cũng đang vui vẻ với vợ, với con với những người thân, với bạn bè và tất nhiên với những ly rượu mừng. Thế mà giờ đây mỗi người đón Xuân chỉ với ước mơ nhỏ nhoi,

Vui cùng ruộng nương cùng đàn trâu,
Với cây đa khóm trúc hàng cau. Với con đê có chiếc cầu tre…
Ta lại gặp ta còn vòng tay mở rộng thương mến bao la
Chuông chùa làng xa chiều lại vang
Bếp ai lên khói ấm tình thương
Bát cơm rau thắm mối tình quê
Có con trâu có nương dâu, thiên đường này mơ ước bao lâu.

Chung quanh chúng tôi là màu xanh của núi rừng. Bao giờ chúng tôi được chuyển đổi sang màu xanh của thanh bình nơi đồng quê, có vườn ruộng, có túp lều tranh, với người vợ hiền và bầy con thơ? Đến bao giờ chúng tôi mới rũ bỏ được hết những căm thù, những tàn nhẫn của chiến tranh để được làm người dân hiền hòa trong một đất nước thanh bình im tiếng súng, vắng tiếng bom? Liệu sau Hiệp Định Paris, bọn Cộng Sản này có chịu rút về miền Bắc, trả lại cuộc sống an vui cho chúng tôi? Có phải là mùa Xuân này không?

Chuyện sẽ không xảy ra dễ dàng như thế. Nhưng cuộc sống vẫn luôn là những chuỗi hy vọng, và chúng tôi vẫn luôn hy vọng, trong lạc quan: ngày đất nước thanh bình đang đến, trong tự do và trong hạnh phúc với muôn người.

Mũ Nâu Trương Trọng Kiên

Cựu SQTT/TĐ11/BĐQ


Posted by: caoduy Feb 25 2015, 08:15 AM





Cuộc di tản đầy máu và nước mắt

Không phải mãi hai ngày sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau vụ di tản rút quân bỏ miền Trung. Vào buổi tối ngày 17.3.1975, tại bữa cơm đãi một số Viên Chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại nhà ông Thomas Polgar, Trưởng CIA, ở Sài Gòn, Tướng Ðặng Văn Quang Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu, đã lật trang sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu. Rất giống người Nga tiêu diệt đội quân của Nã Phá Luân vào năm 1812 bằng cách bỏ đất để câu giờ hầu chấn chỉnh tổ chức quật ngược thế cờ, Tướng Quang cho rằng quyết định của ông Thiệu đi theo chiến lược đó sẽ đánh bại quân Bắc Việt. Tướng Quang nói ‘’Có thể mùa mưa sẽ giúp chúng tôi như thể Ðại Tướng mùa Đông đã giúp người Nga’’.

Tại Cao Nguyên Trung Phần, dân chúng không chờ giải thích. Họ thấy rõ quá rồi nên tự lo lấy.Khi quân Bắc Việt pháo kích Kontum, con đường dẫn xuống Pleiku tràn ngập dân di tản chạy trốn pháo kích. Trong khi các Ðơn Vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu rời các vị trí ở Pleiku và các phi cơ vận tải bay lên bay xuống phi trường suốt ngày đêm, người dân biết ngay đến lúc chạy theo Quân Ðội.

Vào đêm Chủ Nhật, một đoàn xe vận tải dài thòng âm thầm rời khỏi Pleiku từng cái một đèn sáng choang. Phóng viên Nguyễn Tư nghĩ nó ‘’giống như một đoàn xe đi chơi cuối tuần trở về nhà’’. Phía sau, những tiếng nổ lớn phát ra từ các kho đạn bị phá và bầu trời đen nghịt khói từ các bồn xăng đốt cháy.

Trong khi đoàn xe tiến về hướng Nam tung lên những đám bụi đỏ mờ mịt, từng đoàn người dân đi bộ dài như rắn bò hai bên Ðường Quốc Lộ song song với đoàn quân xa. Một vị Nữ Tu Công Giáo nhớ lại ‘’trẻ thơ và trẻ em được chất lên xe bò và người kéo đi. Mọi người đều hoảng hốt. Người ta cố thuê mướn xe bằng mọi giá’’. Trong ba ngày 16, 17, 18, tháng ba, cuộc di tản di chuyển êm thắm khỏi Pleiku và giữa các đoàn quân xa là hàng trăm dân sự đi theo cuộc di tản. Và cũng từ đó bắt đầu một đoàn công voa di tản đầy máu và nước mắt.

Ði được nửa đường tiến ra Duyên Hải, đoàn xe bị khựng lại để cho Công Binh Quân Ðoàn II cố làm xong chiếc cầu nổi ngang qua sông Ea Pa cách đèo Cheo Reo (Phú bổn) vài cây số. Tướng Phạm Văn Phú tiên liệu hai ngày sẽ sửa xong con Ðường số 7 nhưng mãi ba ngày vẫn chưa sửa xong cây cầu. Ðến chiều tối ngày 18.3, xe cộ và lính tráng đã đi được ba ngày và một đám dân tỵ nạn khổng lồ bị khựng lại dọc theo con đường và dồn cục tạm nghỉ ở chung quanh châu thành Tỉnh Phú Bổn. Cái châu thành nhỏ bé cheo leo này làm sao cung cấp đủ nhu cầu cho đoàn di tản này, nhiều người bỏ nhà ra đi chỉ có bộ đồ trên người. Vì hoảng sợ, địch đe dọa phía sau, đói khát và có những băng lính không còn Cấp Chỉ Huy nữa sanh đạo tặc, đoàn người đòi cứ tiến đi không cần biết hậu quả ra sao. Trước tình thế hỗn quân hỗn quan này, các giới chức lãnh đạo không thể nào thuyết phục dân chúng và điều động xe cộ vũ khí thành một phòng tuyến phòng thủ.

Và y như xảy ra khi quân Ðức bao vây khóa chặt Paris năm 1940, dân châu thành cũng chạy trốn, làm tắc nghẽn mọi con đường, Quân Ðội không thể nào di chuyển để bảo vệ họ trước kẻ địch. Tình hình đe dọa hỗn loạn. Cần phải có những bàn tay tổ chức. Nhưng Tướng Lê Duy Tất vẫn còn ở Pleiku với đoàn hậu vệ Biệt Ðộng Quân, trong khi Ðại Tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn xe, đã phải bỏ xe đi bộ đến Bộ Chỉ Huy ở Cheo Reo.

Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu di chuyển xuống Quốc Lộ số 7, Tướng cộng sản Văn tiến Dũng cũng đã bị đánh lừa theo kế hoạch của Tướng Phú. Trước khi khởi sự chiến dịch 275, Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh sư đoàn 320 về những con Ðường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể nào dùng nó như là lối thoát sau cùng. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Tây Phương nói dân chúng đang bỏ Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập và Hà Nội đánh tín hiệu ngày 16.3 báo cho biết Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã di tản về Nha Trang, Dũng mới bắt đầu nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch quân rút được không. Ðến 4 giờ chiều cùng ngày, công điện của Hà Nội đến báo, tình báo Bắc Việt báo một đoàn xe dài từ Pleiku tiến về phía Nam xuống Ban Mê Thuột. Tin này làm cho Tướng cộng sản bối rối. Phải chăng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phản công hay là chạy trốn?

Tình báo của Dũng cho ông ta câu trả lời ngay sau đó, đúng như tình hình diễn biến ở trên. Ðến lúc này bộ chỉ huy cộng sản mới dở bản đồ ra, chiếu đèn pin và dùng kiếng phóng đại dò tìm địch quân. Kiểm điểm lại, Tướng Dũng và Tướng Kim Tuấn, tư lệnh sư đoàn 320, mới biết bị Tướng Phú lừa ngay trước mắt, Tướng Dũng khiển trách Tướng Kim Tuấn, đồng thời phối trí các đơn vị di chuyển về tụ điểm Quốc Lộ 7 để tiêu diệt đoàn công voa di tản về Tuy Hòa.

Ðoàn xe Quân Dân miền Nam cầu mong sao cho thời gian chậm lại để đi kịp về miền biển không bị cộng sản tấn công. Nhưng không kịp nữa, khi màn đêm buông xuống ngày 18.3 lúc đoàn xe kẹt ở Cheo Reo, quân cộng sản bắt đầu pháo kích vào đám đông dân di tản. Họ hết còn bí mật nữa và kẻ thù ở trong tầm tay. Ðêm ngày 18.3, những đơn vị tiền phong của sư đoàn 302 đụng độ với đoàn xe Quân Ðoàn II ở Cheo Reo. Cùng lúc các đơn vị khác đụng độ với Ðoàn Quân hậu bị Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân ở Thị Trấn Thành An ngã tư Quốc Lộ 14 và Quốc Lộ 7. Ðại Tá Lý đi bộ mãi rồi cũng tới Bộ Chỉ Huy Cheo Reo kịp lúc để giúp điều động Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vào vị trí phòng thủ chống các cuộc xung phong của quân Bắc Việt ở lối vào Thị Trấn phía Tây. Ðồng thời, pháo binh Bắc Việt rót vào. Ðoàn xe cái đầu ở Cheo Reo nhưng cái đuôi vẫn còn ở Pleiku. Việt cộng tha hồ pháo kích. Sáng hôm sau, xác chết và xác bị thương lính tráng và dân nằm la liệt trên Ðường Phố Cheo Reo (Phú Bổn) cùng với hàng trăm xe cộ bị phá hủy hoặc bỏ rơi. Một phi công trực thăng Không Quân Việt Nam báo cáo: ‘’Khi tôi bay thấp, tôi có thể nhìn thấy hàng trăm xác chết nằm rải rác dọc theo con đường cạnh các xe còn cháy’’.

Mặc dù lực lượng cộng sản đã chiếm được Phi Trường Phú Bổn, Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vẫn còn giữ được lối vào châu thành và cây cầu phía Nam sửa xong. Ðây là một cú cải tử hoàn sinh, Ðại Tá Lý và các Cấp Chỉ Huy của ông có cơ hội ra lệnh cho đoàn xe lên đường trở lại với 2.000 xe nổ máy ầm ầm lăn bánh.

Nhưng đoàn xe di chuyển không bao lâu, Tướng Phú cho trực thăng đến đón Ðại Tá Lý ra khỏi Cheo Reo. Thế là đầu không còn ai Chỉ Huy chỉ có Tướng Tất Chỉ Huy ở phía sau. Từ ngày 19 trở đi, Chỉ Huy đầu đoàn công voa là những Ðơn Vị Trưởng cấp Tiểu Ðoàn, Ðại Ðội mạnh ai lấy ra lệnh.

Bất kể hỏa lực của cộng sản, trực thăng của Không Quân Việt Nam bắt đầu đáp xuống bốc những người Lính và dân bị thương dọc theo con đường. Khi những người di tản được trực thăng chở đến Phi Trường Tuy Hòa, họ kể những chuyện khủng khiếp xảy ra cho họ. Ngày 19.3, đầu đoàn xe đã đến Sông Côn chỉ còn cách Tuy Hòa 40 km. Nhưng ở đoạn đuôi nửa đường giữa Cheo Reo và Sông Côn, quân Bắc Việt lại đánh ngang hông đoàn xe, lần này ở khoảng Thị Trấn Phú Túc. Không Quân Việt Nam được gọi đến oanh kích chặn tiến quân của địch nhưng đã nhầm lẫn bỏ bom xuống Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân (Làm tổn thất gần 1 Tiểu Ðoàn). Nhưng Liên Ðoàn này vẫn tiếp tục chiến đấu giữ cho con đường mở.

Ðoàn xe chạy qua Cheo Reo cho đến ngày 21.3 thì quân Bắc Việt chọc thủng các vị trí cố thủ của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, vượt qua chiếm châu thành và cắt đứt con đường. Trong số khoảng 160.000 người của đoàn xe di tản, nhiều người dân bị cô lập với Lính của Ba Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Theo lệnh Tướng Phú, Tướng Tất, vẫn còn ở phía sau đoàn xe, phải bỏ mọi vũ khí và quân trang nặng để chạy khỏi Phú Bổn càng nhanh càng tốt. Hàng ngàn người chạy vào rừng. Lính tráng với vợ con bên cạnh bị rượt bắt và tấn công nhiều lần.

Một số ít giơ cờ lên được trực thăng đáp xuống bốc. Nhưng đa số cầm chắc bị đói và bị bắt.

Những người may mắn, các bà mẹ trẻ dính máu, các cụ già và phụ nữ người mặc áo dính bùn, và những người lính gào khóc, chân không, bước xuống trực thăng trước khi các phóng viên bủa ra hỏi thăm tin tức tại phi đạo Tuy Hòa. Các trực thăng bắt đầu chở thực phẩm và nước cho đoàn xe vẫn còn dài thòng di chuyển như con rắn vì đã có nhiều người đói.

Trong khi ở đuôi đoàn xe bị tấn công dữ dội và Tướng Tất cùng các Ðơn Vị còn lại cố chống trả bọc hậu, các Ðơn Vị đầu đoàn xe đã tiến vào ranh giới Tuy Hòa, trên con Sông Ba, cách Thị Trấn 20 cây số. Chiếc cầu nổi mà Tướng Cao Văn Viên hứa cũng đến kịp lúc, nhưng không kịp với lực lượng cộng sản đã đắp mô các ngã đường nằm giữa Sông và Tuy Hòa. Chiếc cầu không thể nào chở xe nổi đến chỗ Bắc nên phải mượn 4 phi cơ C-47 của Quân Ðoàn IV chở từng khúc đến.

Ngày 22.3, đúng một tuần sau khi đoàn xe di tản đầy máu và nước mắt rời Pleiku, chiếc cầu được bắc xong, đầu đoàn xe vội vã vượt qua con sông quá nặng làm chiếc cầu phao lật, người trong xe cộ phải lội sông. Nhưng đến cuối ngày, đoàn xe vẫn tiếp tục vượt qua khi chiếc cầu được sửa lật lại. Ngay cả đến thời thiết cũng tiếp tay cho cộng sản để làm cho đoạn cuối đoàn xe đến Tuy Hòa chưa hết nạn.

Trời nắng đột nhiên trở thành mưa gió lạnh lẽo cho người di tản. Không những thời tiết thay đổi xấu gây ra bệnh tật mà nó còn làm cho phi cơ quân sự không bay lên yểm trợ, chống trả những cuộc tấn công dưới đất của việt cộng. Từ ngày 22.3, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân bị kẹt đánh trong một trận đánh bọc hậu vừa đánh vừa lui trước nỗ lực rượt theo rất rát của quân cộng sản. Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân đã thu góp xe tăng và pháo binh để bảo vệ con đường ở khúc quẹo thung lũng gần cầu nổi. Họ đánh câu giờ để cho người di tản và Lính kịp vượt qua sông.

Ðồng thời, những Ðơn Vị đi đầu đã vượt qua Sông Ba rồi phải phá mô việt Cộng để tiến vào Tuy Hòa. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân chỉ còn ít quân sống sót đã gom góp được hơn chục thiết giáp M-113 vừa đánh vừa ủi các mô tiêu diệt các vị trí cộng sản. Ðến ngày 25.3, vị trí cuối cùng của quân Bắc Việt bị tiêu diệt nốt, Biệt Ðộng Quân bắt tay được với Lực Lượng Ðịa Phương Quân ở phía Ðông Tuy Hòa.

Ðoàn xe khập khễnh tiến vào Tuy Hòa như một đoàn xe ma. Xấp xỉ 60.000 người dân đến đích, hai phần ba hay hơn 100.000 người bị bỏ lại dọc đường, chết sống không ai biết. Về phía Quân Ðội, 20.000 quân tiếp vận và yểm trợ, chỉ còn 5.000 người đến nơi. Sáu Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân 7.000 người, chỉ còn 900 đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn II ở Nha Trang và đóng chốt bảo vệ Thành Phố.

Một vị Tướng ở Bộ Tham Mưu đã buồn bã nói: ‘’70% lực lượng tác chiến của Quân Ðoàn II gồm Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh Chiến Ðấu và các Ðơn Vị Truyền Tin đã bị tan rã từ ngày 10 đến 25.3’’. Vì thế chuyện phản công tái chiếm Ban Mê Thuột không thể giao phó cho Quân Ðoàn II.

Canh bạc Tướng Phú chọn Quốc Lộ 7 có thể đã an toàn nếu các cầu nổi được bắc kịp thời và Tướng Viên đổ lỗi cho vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II. Tướng Viên tin rằng Tướng Phú phải hoãn cuộc di tản ít ngày để cho các Kỹ Sư Công Binh kịp bắc cầu. Tướng Viên cũng tin rằng hoãn lại cho phép điều động sắp xếp kỹ hơn nhất là kiểm soát dân chúng. Theo một vị Tướng Mỹ thông thạo các Sĩ Quan cao cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lỗi lầm không những ở kế hoạch di tản của Tướng Phú mà ở ngay chính Tướng Phú và lỗi lầm đầu tiên và quan trọng nhất là để mất Ban Mê Thuột. Một vị Tư Lệnh Quân Ðoàn cương quyết hơn không cần phải rút quân như vậy. Một Sĩ Quan Tùy Viên Mỹ tuyên bố: ‘’Một vị Tư Lệnh mạnh như Tướng Toàn (Trước đó là Tư Lệnh Quân Ðoàn II) có thể phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, sử dụng toàn bộ Hải, Lục, Không Quân có trong tay đã có thể kềm hãm quân Bắc Việt, cố thủ thêm một năm nữa’’.

Nhưng ngày 25.3.1975,không còn cơ hội đó. Cuộc di tản tự làm cho mình thất bại đau đớn, như lời Tướng Viên mô tả, hoàn tất, gây một cơn ác mộng tâm lý và chính trị to lớn cho ông Thiệu, cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cho dân chúng Việt Nam Cộng Hòa. Một dư luận đồn thổi khắp nước và cả ở những viên chức dân sự và quân sự cao cấp nói rằng: Tổng Thống Thiệu và người Mỹ, trong một thỏa hiệp mật của Hiệp Định Paris, đã cố kết với nhau cho cộng sản chiếm một phần lớn lãnh thổ Nam Việt Nam. Tại sao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu can trường suốt hai mươi năm không thua đột nhiên bị ra lệnh rút khỏi Cao Nguyên, bỏ Pleiku và Kontum không một tiếng súng giao tranh ?

Tinh thần đổ vỡ vì mất bốn Tỉnh trong ba tháng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh nặng và vô ích không tái chiếm nổi Ban Mê Thuột đã làm cho dân chúng Nam Việt Nam hết còn tin tưởng Tổng Thống Thiệu có thể bảo vệ họ. Vậy ai khác có thể làm được? Phe đối lập ông Thiệu vô tổ chức, đứng ngoài chờ thời cơ và người Mỹ tiếp tục làm ngơ. Chỉ có ông Thiệu là người phải tìm ra cách nào để lấy lại tinh thần cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trước khi ông tìm ra hướng đi hợp tình thế thì tin xấu từ Quân Ðoàn I bay về. Cũng lại di tản và cuộc di tản Quân Ðoàn I bi thảm không kém để kết thúc ngày 30.4.1975.

Đại Tá Trịnh Tiếu

Posted by: KhoaNam Mar 2 2015, 07:38 AM





Hoàng hôn chụp xuống Pleiku evacuation2

Bài phóng sự ngày 16 tháng 3-1975 trên Chính Luận Sài Gòn : Hoàng hôn chụp xuống Pleiku evacuation2

Apr 27, 2004

Sau Khi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II Di Tản Về Nha Trang, Hoàng hôn chụp xuống Pleiku, Phố Xá Tràn Ngập Người: Trẻ, Già, Lớn, Bé Không Biết Đi Đâu
Lời giới thiệu: Miền Nam Việt Nam thực sự đã không bị xụp đổ trên phương diện quân sự khi thị tráán Phước Long bị thất thủ. Cũng không do việc mất Ban Mê Thuột. Toàn bộ cuộc tái phối trí trở thành cuộc rút lui bi thảm đưa đến việc mất miền Nam thực sự bắt đầu từ lúc Pleiku ra đi.

Nhân dịp tháng 4-2004, 29 năm sau, Dân Sinh San Jose phổ biến 2 bài báo chụp lại trên vi phim về cuộc rút quân kể trên. Bài báo thứ nhất đăng trên Chính Luận số 3338 ngày thứ Ba 18 tháng 3-1975 với tựa đề: Hoàng hôn chụp xuống Pleiku. Bài báo này do phái viên Nguyễn Tú điện về trong lúc chính ông cũng đang tìm đường tháo chạy.
Bài báo thứ hai trên Chính Luận với tựa đề: 8 giờ đêm Chủ Nhật, Kontum – Pleiku bi thảm ra đi, bỏ lại phía sau những cột khói, những vùng lửa. Bài này đăng ngày 19 tháng 3-1975 và được ghi là do Nguyễn Tú đọc về, xen lẫn tiếng khóc nức nở của chính ông.
Bài báo thứ hai này đăng trang nhất báo Chính Luận số 3339 được coi là tin tức duy nhất được loan báo về cuộc rút quân ở Cao Nguyên. Bài này đã được các báo ngoại quốc dịch lại và đăng tải trên các hệ thống tin tức quốc tế.
Hai bài báo kể trên trích trong tài liệu sưu tầm của IRCC dành cho viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose. Ký giả Nguyễn Tú sau thời gian kẹt lại Việt Nam hiện đã qua Mỹ định cư tại DC.

(Sài Gòn 17-3) Chiều tối Chủ Nhật ngày 16 tháng 3-1975, bạn Nguyễn Tú, đặc phái viên Chính Luận tại chiến trường Quân khu 2, đã từ Pleiku gọi điện thoại về cho biết tình hình Pleiku, sau khi Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 di tản về Nha Trang. Bạn Nguyễn Tú cho biết là trong hai ngày qua, đồng bào trong toàn tỉnh đã hoang mang tới cực độ khi nghe tin các bài phát thanh ngoại quốc loan báo Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 di tản về Nha Trang. Giới hữu trách không có lời giải thích nào để trấn an đồng bào mỗi phút lại càng mất thêm tinh thần, mạnh ai lo liệu phương tiện di tản ra khỏi vùng giao tranh và tránh mặt quân cộng sản.

Chiều qua, các phố xá đã đóng cửa không buôn bán cầm chừng như trước đây và đồng bào đã đổ xô hết ra đường, nhốn nháo ngược xuôi tìm lối chạy. Người ta thuê bao đủ mọi loại xe, chất hết đồ đạc quần áo để chuẩn bị chạy. Giá xe từ 200 ngàn, nửa triệu một chiếc đã tăng lên nhiều hơn nữa. Những người ít tiền cũng vét túi, chung nhau thuê xe, và các loại xe, từ xe lam, xe vận tải, xe lô, xa nhà, xe Honda, cho đến cả xe ủi đất, xe cứu hỏa, xe cần trục, máy cày v.v… đều chất đầy ắp đồ đạc, đầu nối đuôi dài dài trên các đường phố chính như Hoàng Diệu, Võ Tánh, Phan Bội Châu, Quang Trung, Hai Bà Trưng. Tất cả đều rộn ràng di chuyển, nhưng không biết di chuyển theo lối nào, vì con đường duy nhất có thể chạy về Quy Nhơn là quốc lộ 19 thì đã bị địch cắt. Áp lực của quân cộng sản vẫn nặng nề trên con đường băng rừng băng núi này, cái chết có thể đe dọa tập thể tỵ nạn bất cừ nơi nào và bất cứ giờ phút nào.

Những chuyến bay của Hàng Không Việt Nam đã ngưng từ mấy hôm nay nên phi trường chỉ còn là nơi hoạt động rộn rịp của các loại máy bay quân sự. Tin tức một số gia đình thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và các ngoại kiều được di tản ra khỏi Pleiku làm cho mọi người càng thêm hốt hoảng. Họ chỉ còn trông ngóng vào con đường sống duy nhất là quốc lộ 19. Họ cầu nguyện và mong ngóng cho quốc lộ này được giải tỏa mau lẹ để lánh xa nơi quân cộng sản kéo tới.

Cảnh hốt hoảng càng thêm mãnh liệt hơn khi một số đồng bào tỵ nạn ở Kontum, Thành An, Phú Nhơn v.v… kéo về Pleiku chờ mở đường chạy giặc. Ám ảnh… đại lộ kinh hoàng và chợ Đông Ba rực cháy ngày nào ở miền Trung là một ám ảnh khó xóa nhòa trong tâm tư mọi người.

Dắt dìu nhau ngược xuôi ngoài đường phố, và đồng bào ngơ ngác thầm hỏi nhau biết chạy đi đâu bây giờ? Từ cả tuần, báo chí không lên Pleiku nữa, do đó có muốn được đọc những lời tuyên bố rất bình tĩnh của các giới chức Sài Gòn cũng không được.

Qua điện thoại, bạn Nguyễn Tú báo tin cho tòa soạn và bạn đọc Chính Luận biết là bạn đang tìm cách thoát khỏi Pleiku cùng đồng bào và sau đây là bản tin cuối cùng của bạn từ Pleiku gửi về cho tòa soạn và bạn đọc Chính Luận.
Lại thêm một hoàng hôn:
Bạn Nguyễn Tú cho biết, qua điện thoại, nguyên văn như sau:
Lại thêm một hoàng hôn, có thể hơn thế nữa, bắt đầu. Trưa hôm nay từ 12 giờ, dân chúng Thanh An, Phú Nhơn và các vùng lân cận Pleiku đều đổ xô về thị xã Pleiku. Họ đang sống những giờ phút lo âu, kinh hoàng ngoài đường phố. Trên khắp ngả đường đều chật các xe đủ loại, xe quân sự, xe dân sự, xe chở hàng, xe ủi đất, xe chữa lửa, xe máy kéo có rờ moọc, bên trên chất đầy những “gia bảo” cuối cùng của dân chúng. Tất cả các gia đình, già trẻ lớn bé, dân sự cũng như quân sự, ngồi sẵn trên xe, để chờ di tản mà họ không biết là đi đường nào. Các lực lượng diện địa của ta và các lực lượng trong ngành an ninh, quân cảnh, cảnh sát đều không còn có thể kiểm soát được nữa. Vì tất cả các nhân viên đó đều lo lắng cho chính gia đình họ. Ngoài đường phố đầy rẫy những người đi bộ. Những quân nhân, và thường dân tay xách nách mang và bồng bế các trẻ thơ, xách những giỏ đồ đạc lang thang khắp phố, không biết đi đâu nữa. Pleiku đang sống trong một không khí kinh hoàng chưa từng thấy, hơn cả cố đô Huế năm 1972.

Kontum – Pleiku coi như bị bỏ ngỏ, vì các nhân viên có trong trách an ninh đã chỉ lo cho riêng gia đình họ và không còn ai còn có tinh thần đảm nhận trách vụ của mình… Sự kiểm soát đã lọt ra ngoài tay của các giới lãnh đạo chính quyền tỉnh. Riêng các lực lượng chính quy còn có kỷ luật và tinh thần chiến đấu. Nhưng tình trạng hỗn loạn xáo trộn của dân chúng Pleiku ra đầy ngoài đường, đã tạo nên một cảnh tượng thật không thể tưởng tượng nổi. Trên khuôn mặt mỗi người đều lộ vẻ lo âu, không tả hết. Chiến tranh thực sự chưa tới Pleiku. Chưa một đạn pháo kích nào của địch bắn vào thị xã Pleiku. Hoàng hôn của Pleiku có thể coi như đã bắt đầu, đồng thời có thể tiếp luôn những cảnh hoàng hôn khác.
Tình trạng Pleiku bi thảm quá!
+ + +
Bài phóng sự tiếp theo viết ngày 17 tháng 3-1975.
8 Giờ Đêm Chủ Nhật, Kontum – Pleiku Bi Thảm Ra Đi Bỏ Lại Phía Sau Những Cột Khói, Những Vùng Lửa
Bản tin này được đọc giữa tiếng khóc nức nở của bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú
(Sài Gòn 18-3) Sáng nay bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, tại một địa điểm dừng chân trên đường rút lui của quân dân hai tỉnh Kontum – Pleiku, báo tin qua điện thoại quang cảnh di tản bi thảm của đồng bào. Dưới đây là nguyên văn ghi lại lời bạn Nguyễn Tú đọc qua điện thoại.
Tất cả lên đường:
Tối nay, Pleiku đã thực sự hỗn loạn. Tất cả dân chúng Pleiku thêm vào đó dân chúng ven tỉnh, dân chúng thuộc vài quận gần thị xã Pleiku, và cả dân chúng Kontum đã đổ xô nhau chạy về Pleiku đều xuống đường và tổ chức một đêm không ngủ. Không phải để biểu tình chống ai, mà để vội vàng hốt hoảng tiếp tục chất các hàng hóa, bàn ghế, tủ giường, cùng những vật dụng riêng lên đủ thứ xe: Xe lam, 3 bánh, xe vận tải hạng nặng, xe Jeep, xe dốt rác, xe GMC nhà binh, xe Honda. Thậm chí xe be, xe cần trục, xe máy kéo, trác lơ, xe hốt rác. CẢ đến xe chữa lửa cũng được dùng để chất đồ và chở người. Xe nào chất xong đồ là người leo lên ngồi sẵn, xe nào đôi nhíp cũng gần như thăng bằng, vì chất quá nặng.
Từ trưa, các lực lượng an ninh trong thị xã Pleiku như Quân Cảnh, Cảnh Sát bỏ tất cả nhiệm sở không còn thấy bóng một ai, mặc dù hôm qua thứ Bảy 15 tháng 3 còn canh phòng rất gay gắt các ngã ra vào tỉnh và thị xã Pleiku.
Mọi đường phố không còn một nhân viên công lực nào giữ trật tự nữa. Tất cả mọi người đều về nhà lo việc di tản cho gia đình. Liên lạc vô tuyến của hệ thống quân đội không còn được điều hòa và hữu hiệu như trước nữa tuy vẫn chưa hẳn gián đoạn. Các nhân viên truyền tin cũng thay phiên nhau về nhà để lo việc di tản gia đình. Sự kiểm soát an ninh trật tự có thể coi như đã tuột khỏi tầm tay chính quyền địa phương Pleiku. Tại tư dinh Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku, các nghị viên, các Trưởng Ty, Sở hấp tấp ra vào họp liên miên.

Chưa bao giờ các đại diện dân cử kể cả đối lập và chính quyền đã sát cánh với nhau như thế. Chưa bao giờ lập pháp, hành pháp, tư pháp đều đồng một lòng, một dạ như thế. Đồng một lòng một dạ trong một câu hỏi duy nhất: Bao giờ thì di tản? Mấy giờ thì di tản? Trên thực tế thì Pleiku đã sống giờ thứ 25 từ hôm qua thứ Bảy 15 tháng 3. Hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3 lúc 19 giờ đã có điện trở lại trong toàn thị xã.
Đèn ngoài đường và trong các tư gia cũng được thắp sáng. Có lẽ là một hội hoa đăng cuối cùng. Khắp các đường phố, dân chúng đi lại hết sức nhộn nhịp, tất tưởi. Ngay từ xế trưa hôm nay 16 tháng 3, các xe nào đã chất xong đồ vật đều chuyển bánh trên Quốc Lộ 14 đi về Phú Bổn thành một đoàn dài. Nhưng phải kể từ 20 giờ ngày hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3, sự di chuyển toàn diện của dân chúng mới thực sự bắt đầu, đoàn xe ước chừng đến hàng ngàn chiếc, bật đèn pha nối đuôi nhau trên hàng chục cây số trông như một cuộc “trở về nhà sau cuộc nghỉ cuối tuần.” Nhưng đây đâu phải là “đoàn xe thanh bình.”
Sáng kiến vĩ đại:
Cuộc di tản đại quy mô của hai tỉnh gom lại là Kontum và Pleiku do sáng kiến tư nhân có thể coi như là “vĩ đại” ở chốn Tây Nguyên hẻo lánh này.
“Mục tiêu đầu tiên là Phú Bổn. Sau đó sẽ tính.” Đó là lời một đồng bào di tản nói với Chính Luận. Nhưng ra khỏi thị xã, được vài cây số thì đoàn xe bị kẹt vì những chiếc xe nhỏ hơn như xe lam, xe ô tô nhỏ, xe Honda muốn vượt trước. Phải một giờ sau vụ kẹt xe này mới được giải tỏa.
Dân chúng nghèo cũng ra đi bằng phương tiện thiên nhiên, trời đã phú cho họ là đôi chân của chính họ. Họ đây là gồm cả già, trẻ, lớn, bé, con nít còn bồng trên tay, đàn bà đang mang bầu, tay xách, nách mang một vài manh chiếu, một vài bọc quần áo, buồn tủi, lo âu, gia đình nọ nối tiếp gia đình kia đi hàng một sát bên lề đường để tránh đoàn xe. Đèn pha của đoàn xe lần lượt chiếu các bóng lưng còng xuống của người lớn, những bóng nhỏ hơn của các trẻ em tay níu vạt áo hoặc ống quần của người bố hay người mẹ. Họ lặng lẻ thất thểu bước nọ trước bước kia trong đêm tối của tâm hồn.
Cuộc di tản này chắc chắn sẽ kéo dài tới ngày hôm sau. Thế là Kontum và Pleiku đã bỏ ngỏ, chính thức và không chính thức. Không chính thức mà chính thức vào hồi 20 giờ đêm ngày Chủ Nhật 16 tháng 3-1975.
Pleiku không còn gì để cho tôi săn tin thêm nữa.
Ba lô vẫn cõng trên vai, hồi 22 giờ 30 tôi theo đoàn người di tản ra khỏi thị xã Pleiku. Bầu trời hôm nay đẹp quá, hàng ngàn vì sao lấp lánh như thiên thần nháy mắt với trần gian, hay đó là những ám hiệu dục dã: “Lẹ lên!”
Nếu tôi có một người bạn đường đi bên tôi, tôi sẽ bảo: “Bạn ơi, trên trời có bao nhiêu vì sao thì lòng tôi đau xót còn hơn thế nữa.”
Đốt, phá, bỏ rơi:
Các kho súng, kho đạn tại tỉnh Pleiku đã được lệnh thiêu hủy, tiếng nổ lớn nối liền tiếng nổ nhỏ. Từng cột khói đen bốc lên trong lửa đỏ từ các bồn nhiên liệu cũng được lệnh phá hủy. Tất cả đều bùng cháy. Nhiều khu phố trong thị xã Pleiku đã bị toán người đập phá nhà cửa của các chủ nhân đã di tản, và đã bị phóng hỏa, ít nhất tôi cũng đếm được 14 đám cháy trong những khu phố khác nhau.
Nhiều tiếng súng cũng đã nổ trong thị xã. Có tin Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku đã hạ lệnh cho đốt kho giấy bạc trong Ty Ngân Khố, ước lượng khoảng 300 triệu và trong khi tưới xăng để đốt, ông Trưởng Ty Ngân Khố đã bị phỏng. Không còn một bác sĩ tư nào trong thành phố. Quân cũng như dân y viện không còn hoạt động. Một số bệnh nhân tại dân y viện cũng như một số thương binh tại quân y viện Pleiku đã bị bỏ rơi lại vì không còn ai lo cho họ nữa. Chính họ trong tình trạng bệnh hoạn chẳng tự mình làm được. Ngoài sự chịu chết đói dần mòn ngay trên giường bệnh.
Một nguồn tin đáng tin cậy cho hay là Chuẩn tướng Tất, Tư Lệnh Mặt Trận Kontum – Pleiku đang chỉ huy cuộc triệt thoái lực lượng chính quy đi về hướng Nam trên quốc lộ 14.
Trên đường nóng bỏng:
(Pleiku 17-3) Sáng nay, cuộc di tản đang tiếp diễn dưới ánh mặt trời huy hoàng của một ngày đầu tuần. Hàng ngàn chiếc xe dân sự và quân sự vẫn nối tiếp nhau trên quốc lộ 19 đi về hướng Phú Bổn. Nhiều xe vì chở quá nặng không chạy nổi đã bỏ lại trên đường.
Các quân nhân được lệnh triệt thoái dưới quyền tư lệnh của Tướng Tất đã thi hành một cách rất trật tự và kỷ luật. Các đơn vị Biệt Động Quân đã được lệnh đi hai bên quốc lộ 14 ở những chỗ xung yếu để bảo vệ đoàn xe di tản dân sự và quân sự. Các đoàn người đi bộ thật là thảm thương, đàn bà, con trẻ đi bên lộ dưới ánh nắng nóng bỏng không giọt nước để uống.
Dọc quốc lộ từ Pleiku đến Hậu Bổn là tỉnh lỵ của Phú Bổn, đoàn xe cứ nối dài. Đoàn người đi bộ, bị bỏ lại sau, nhưng họ vẫn cứ cố gắng lết đi trên đường nóng bỏng dưới ánh nắng của Pleiku. Chưa biết đêm nay họ có thể tới được Phú Bổn bằng đôi chân của chính họ hay không. Sẽ có nhiều người sẽ bị chết đói, chết khát dọc đường. Dọc Quốc lộ 14 đi về phía Phú Bổn các làng, các ấp, các buôn đều trống trơn không còn một ai. Cảnh hoang tàn dọc quốc lộ 14 tôi không làm sao mà còn có trí óc để nghĩ ra những danh từ tường trình với độc giả.
Bi thảm quá đồng bào ơi!
Hôm nay thay vì lá thư hàng tuần sự tường trình của tôi có thể ngắn ngủi và không mạch lạc. Mong quý vị độc giả phương xa ở tại cái thủ đô đầy ánh sáng hiểu cho.

Cho tới nay vẫn không thể hiểu được lệnh bỏ ngỏ Kontum – Pleiku là ở đâu mà ra và tại sao lại có sự ra đi hấp tấp trong dân chúng trong khi các nhà cầm quyền quân sự đã trù liệu kế hoạch từ trước. Không có giải thích nào cho dân chúng. Không có tổ chức nào để di tản dân chúng trong trật tự và an ninh, không có một sự trợ giúp nào cho các dân nghèo không có phương tiện đi xe.
Từ năm 1954 cho tới nay, chính tôi đã chứng kiến bao cuộc di tản. Cuộc di tản Kontum – Pleiku dể lại cho tôi một mỗi chán chường. Sống với những hy vọng mong manh từ năm 1954 đến năm 1975 tới nay tôi cảm thấy không còn đủ sức, đủ ý chí để bấu víu lấy cái chút hy vọng mong manh ấy nữa. Ngoảnh về phía Pleiku khói vẫn ngùn ngụt bốc lên vì những đám cháy đêm qua.
Dọc lộ xe tăng, đại pháo dạt ra hai bên đường để bảo vệ những chỗ xung yếu để cho đoàn xe di tản dân sự và quân sự có thể đi chót lọt tới Hậu Bổn tức tỉnh lỵ Phú Bổn. Nhưng trên đoạn quốc lộ 14 từ Pleiku tới Hậu Bổn vẫn xảy ra nhiều đoạn đường kẹt xe, có thể kể hàng 5 đến 10 cây số chưa biết rằng đoàn xe có thể tới Hậu Bổn được không. Và từ Hậu Bổn sẽ đi đâu chưa ai rõ. Riêng cho tôi không còn có trí óc nào để nghĩ đến tương lai dù rằng tương lai chỉ là ở một giây, một phút sau đó.
Điện đàm dứt đoạn…

Nguyễn Tú, Chính Luận

Ghi chú: Trên đây phóng viên Nguyễn Tú mới chỉ tường thuật được đoạn mở đầu của chuyến rút quân bi thảm và sau đó thì hết phương tiện liên lạc. Thực sự đoàn quân dân rút từ Tây Nguyên về Duyên Hải đã hoàn toàn làm tan rã cả Quân Khu II với hàng ngàn người chết dọc đường và đưa đến cảnh toàn thể miền Nam vỡ ra thành từng mảnh vụn.


Posted by: caoduy Mar 19 2015, 08:31 AM


Những mảnh trời nghiêng đổ bên bờ sông Ba


Dòng thác người thoát đi từ Cao Nguyên bức tử, từng đợt bỏ xác theo từng tấc đường oan nghiệt mùa xuân 1975. Lớp lớp người lính miền Nam súng trên tay mở đường, dân theo lính ra đi., một người lính mấy chục người dân nối đuôi theo sau. Những AK, những B40 bắn xả vào đoàn người, những chiếc xe, từ xe tăng đến xe đò, dầy đặc người, người rụng xuống như sung khi bị B40 của Bắc quân nả trúng. Người lính miền Nam bắn trả, người lính miền Nam gục chết theo đường, người dân miền Nam gục chết theo lính. Những viên đạn oan nghiệt của Bắc quân đeo đuổi đoàn người chạy loạn và khựng lại tại Sông Ba.

Người ta không biết bao nhiêu người đã chết dọc theo quốc lộ 14 rồi liên tỉnh lộ 7B. Rất nhiều, không ai biết ai đã chết, không ai xem căn cước người dân ngã xuống, không ai xem thẻ bài người lính ngã xuống dọc đường miên man, mê loạn… Những cái lệnh bỏ Cao Nguyên quái đản đưa đến một cuộc rút quân “không sách vở”, và trong đó có những cái chết anh dũng, có những hy sinh anh dũng mà người nằm xuống không cần ghi tên….Họ, những người lính miền Nam, những người lính Lôi Hổ… đã đem thân mở đường máu cho dân chạy giặc “Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay thấm máu anh em!” Lời hát đã hiện thực.

Chưa bao giờ trong cuộc chiến, người ta thấy người dân kinh sợ Bắc quân phải bỏ chạy và chết thảm dọc dường như ngày tận thế. Có những cái chết mà người dân đã chết trên lưng người lính. Họ đã dìu nhau đi, họ đã cõng nhau đi, và họ đã cùng nhau nhận những tràng AK ngã xuống, họ đã cùng chết một chỗ. Những dòng máu đổ theo vệ đường di tản rút quân nối nhau từng đoạn, máu của người dân miền Nam, máu của người lính miền Nam, chan hòa, đậm đặc, khô cứng dưới trời Cao Nguyên. Bị bỏ lại sau lưng, dòng người cứ cuồn cuộn đổ về phía trước, ngơ ngác, bàng hoàng, mắt không khô lệ …

Bên này bờ sông Ba, quân cũng như dân, hết toán này sang toán khác, băng mình qua con nước chảy. Hắn chần chừ nhìn dòng nước chảy xiết, rồi đi dọc ngược theo bờ sông Ba, dừng lại bên một chiếc xe ieep lùn với hai chiếc cần câu cột quặt về phía trước, hai bánh trước dừng lại sát bờ nước. Đứng trầm ngâm trên xe là Thiếu Tá Nguyễn Bá Nguyệt, đơn vị trưởng 103 Pháo binh 175 ly nòng dài. Không biết ông đang suy nghĩ gì giữa âm thanh chát chúa của hàng loạt AK đâu đó vọng lại. Quanh xe ông là những người lính thuộc quyền.

Họ không qua sông vì ông chưa quyết định qua sông. Họ không muốn bỏ ông thầy, người đơn vị trưởng sống chết của họ . Hắn chen giữa những người lính, những người lính thấy hắn là một sĩ quan mang phù hiệu pháo binh cùng tiểu đoàn nên lách ra. Hắn đến gần ông đưa tay chào và hỏi:

- Thiếu tá quyết định ra sao?

- Tụi mày cứ qua sông! Dìu nhau qua sông nhanh lên! Còn tao… Tao sẽ tính sau!

Giọng ông chắc và tĩnh. Ông vẫn quen gọi đàn em và lính ông cái kiểu “mày tao” thân mật như thế. Ông trả lời hắn, và đồng thời lời ông cũng là lệnh. Ông ngước nhìn đồi núi xung quanh, nhìn mấy đứa con qua sông. Hắn chào ông rồi đi dọc theo bờ sông để tìm chỗ vượt. Hắn đứng lại bên bờ nước nhìn về chiếc xejeep của Thiếu Tá Nguyệt như muốn từ giã ông một lần cuối. Bóng ông sừng sững trong trời chiều ảm đạm.

Bỗng hắn thấy ông đưa tay lên, mũi súng ngắn phòng thân của ông dí thẳng vào đầu. Một tiếng nổ, người ông đổ xuống khung kính xe Jeep. Thế là hết! ông đã hy sinh. Tiếng súng Bắc quân nghe thật gần. Hắn lao mình vào dòng nước. Tiếng AK như đuổi theo dòng nước chảy.

Hắn qua khỏi sông Ba tối 13 tháng 3 năm 1975. Hắn vượt núi rừng hướng về Củng Sơn, quần áo tả tơi. Trưa hôm sau, lên tới đỉnh đồi, miệng khô khốc, hắn dựa lưng vào một gốc cây nghỉ mệt. Hắn muốn thiếp đi, nhưng tiếng súng địch như gần lại, như theo chân hắn. Hắn lửng thửng đứng dậy tiếp tục xuống núi và mơ dưới chân núi là một dòng suối nước trong vắt. Những vục nước hiện trong trí, trong mắt hắn, giục hắn đổ dốc nhanh hơn.

Đến nơi, trước mắt hắn chỉ là một dòng suối cạn, vương vải những đồ đạc, áo quần, những bi đông không còn một giọt nước của lớp người đi trước bỏ lại. Hắn lại trèo lên một sườn đồi khác, rồi lại mơ ước bên kia chân đồi là một dòng suối. Gần đó, một chiến xa bốc cháy. Người lính mũ đen nằm úp mặt bên cạnh xe, máu tươm trên mặt cỏ. Hắn lại gần đỡ anh dậy.

Người lính thều thào:

- Tôi bị đạn vào ruột rất nặng! Tôi sẽ chết tại đây? Nếu anh về được Tuy Hòa nhờ nhắn… .

Người lính thều thào rồi tắt thở trước khi nói lời sau cùng. Anh là ai? Gia đình anh là ai? Hắn đặt người lính mũ đen xuống, vuốt mắt anh và chạy tiếp. Lên lưng chừng đồi, một quảng trống và bằng có bóng cây, hắn ngã lưng nằm dài xuống cỏ, bóng mát không che lấp nỗi cô đơn tuyệt vọng của hắn. Hắn nhìn những đám mây qua bầu trời. Đám mây thênh thang, bay về phương Nam. Hắn nghĩ đến Sài Gòn. Sài Gòn vời vợi trong cơn mơ. Hắn muốn thành mây, nhưng thực tại chôn chân hắn trên đất, chôn chân hắn trong hiểm nghèo, trong thân phận của một bại binh tháo chạy.

Hơi gió núi làm hắn tỉnh người. Hắn bỗng nhớ hai bông mai còn trên bâu áo trận, vai áo còn phù hiệu binh chủng. Hai cái này có thể giết hắn như chơi nếu hắn bất ngờ gặp VC. Hắn lột bộ đồ trận nhét vào bụi rậm và lôi ra trong bọc vải một bộ quần áo cũ, mặc vào. Cuộc đời binh nghiệp của hắn gói trọn trong bụi rậm. Hắn không buồn. Đúng ra, hắn không còn cảm giác để tiếc nuối. Khi hắn dợm đứng lên và đi tiếp, một người hạ sĩ quan quân y trên vai còn nguyên phù hiệu, không rõ đơn vị, bỗng xuất hiện tiến về phía hắn, hai tay dính đầy máu.

- Anh bị thương phải không?

- Không? Tôi vừa sanh cho một chị ở cuối dốc. Trời ơi! Còn cái cảnh nào đoạn trường hơn? Người đàn bà phải sinh con trong cảnh chạy loạn sống chết này.

Tôi đã thay cô Mụ để làm tất cả cái gì tôi có thể làm được. Tôi đã bọc đứa bé trong cái áo của mẹ nó, và để hai mẹ con dưới gốc cây. Tôi không hiểu làm sao hai mẹ con có thể về tới Củng Sơn hay Phú Bổn. Làm sao người mẹ bất hạnh này trèo non, vượt suối làm sao cô ta biết đường đi xuyên rừng, đói khát!.Tôi phải đi, không ở lại giúp gì hơn. Dường như Bắc quân sẽ có mặt nơi đây. Thôi tụi mình đi cho có bạn!

Hắn và người bạn đồng hành đổ nhanh qua một khu rừng thưa và lần mò xuống núi. Bóng chiều theo chân, màn đêm dần dà phủ chụp không gian. Những người chạy loạn vẫn còn nghe tiếng đạn réo xé từng mảnh âm thanh tịch mịch.

Thoai thoải trên sườn đồi, có những toán người rách rưới, phờ phạc đi về hướng mặt trời mọc. Người đàn ông tay dìu vợ tay dắt một đám con nhỏ. Vạt áo trước bụng người đàn bà đẫm ướt máu. Không biết chị bị trúng đạn từ bao giờ. Tiếng súng AK càng gần, người đàn ông càng kéo vợ chạy nhanh hơn.

Mấy đứa con theo mẹ như đàn gà, và nó không ..biết là mẹ nó đã kiệt sức.

Đến một gốc cây có bóng mát, người đàn bà giật tay chồng và thều thào:

- Em không thể sống! Anh bỏ em lại đây! Đem mấy đứa con thoát khỏi chỗ này! Trời ơi! Anh ơi!

- Làm sao anh và các con bỏ em lại đây cho đành!

- Anh không thể đem xác em về Tuy Hòa được? Phải cứu các con, Em không còn sức! Em không còn máu! Em không còn hơi thở! Để em xuống? Dựa em vào gốc cây! Chạy nhanh đi!

Người đàn ông như hiểu được những lời cuối cùng của vợ mình. Nàng sắp từ giã cõi đời. Anh bó tay tuyệt vọng. Anh không làm gì được để cứu vợ. Anh thương vợ đứt ruột, nhưng anh đầu hàng trước định mệnh nghiệt ngã. Người đàn bà nhắp miệng thều thào:

- Sao anh không dắt con chạy đi! Vĩnh biệt anh! Vĩnh biệt các con!

Hai dòng nước mắt chị tuôn ra. Chị còn thoi thóp nhưng yếu dần. Người đàn ông gọi mấy đứa con lại quì trước mẹ.

- Lạy mẹ đi con!

Và anh, nước mắt đầm đìa, cùng với mấy đứa con quỳ sụp xuống lạy mấy lạy trước hình hài bất động của người đàn bà. Tiếng súng AK nghe đâu đó rất gần. Người đàn ông gạt lệ, nhìn vợ lần chót rồi ôm con chạy xuyên rừng, lúp xúp ba đứa trẻ chạy theo sau rồi khuất dần trong rừng xanh…

Anh là ai? Chị là ai? Những người lính miền Nam bỏ xác bên đường Cao Nguyên di tản là ai? Nào ai đếm được bao nhiêu sinh linh đã ngậm hờn trong rừng sâu núi thẳm, dọc quốc lộ 14, dọc liên tỉnh lộ 7B …của những ngày giữa tháng Tư 1975 oan nghiệt. Viết những dòng này gần 40 năm sau mà người viết vẫn không kềm được những nghẹn ngào, đau xót đến hai khóe mắt cứ muốn ứa ra những giọt lệ không cầm..

(Trích: Hải Triều, Mùa Xuân Đen, Nxb VietNam 2009)

Posted by: VanAnh Mar 23 2015, 10:29 AM


Những bước chân âm thầm (Y Vân – Kim Tuấn)


Kim Tuấn, Pleiku, Thơ trong nhạc, Vĩnh biệt, Y Vân, Địa danh đã đi vào nhạc

Thật ngạc nhiên khi vô tình biết thêm một chi tiết thú vị về phố núi Pleiku, nhạc sỹ Y Vân và nhà thơ Kim Tuấn: nhạc phẩm nổi tiếng “Những bước chân âm thầm” của Y Vân là phổ từ bài thơ “Kỷ niệm” của thi sỹ Kim Tuấn viết về thành phố Pleiku bụi mờ đầy kỷ niệm của những năm 1960.

Người hát nếu không để ý kỹ sẽ dễ hát sai thành “hoa bỗng dưng tuyết trắng“. Trong bài thơ thì Kim Tuấn viết “hoa vông rừng tuyết trắng“, còn trong bản nhạc mà chúng tôi sưu tầm được thì nhạc sỹ Y Vân viết “hoa vòng rừng tuyết trắng“. Theo chúng tôi thì “hoa vông rừng” là chính xác nhưng không biết có phải là Y Vân cố tình sửa thành “hoa vòng rừng” hay đó chỉ là lỗi xuất bản. Y Vân đã mất năm 1992, Kim Tuấn cũng đã vĩnh viễn giã từ “miền kỷ niệm” năm 2003.

Xin cầu nguyện cho linh hồn nhà thơ Kim Tuấn sẽ được thanh nhàn miền cực lạc!

PLEIKU THÂN YÊU – TỪ ‘KỶ NIỆM’ ĐẾN ‘NHỮNG BƯỚC CHÂN ÂM THẦM’
(Nguồn: tác giả Xuân Trường )



Những năm 60 của thế kỷ trước, nhà thơ Kim Tuấn sống tại Pleiku và đã sáng tác nhiều bài thơ cho miền đất thơ mộng này. Sau đó, anh về Sài Gòn rồi mất năm 2003. Kỷ niệm là bài thơ anh viết cho Pleiku, được Y Vân phổ nhạc và trở nên nổi tiếng…

Ngày ấy, nhà ở đường Phan Bội Châu, buổi chiều anh thường lang thang ra ngoại ô. Những khu vườn làng đồng bào dân tộc được trồng những cây vông rừng (cây gòn rừng), mỗi khi nó nứt trái thì bông bên trong màu trắng bay lả tả theo gió, rơi rơi nhẹ nhàng như từng miếng nhạc chạm vào cuối chiều xa nhớ đến tận cùng hoàng hôn, khiến anh nghĩ đến Pleiku có tuyết trắng:

Từng bước từng bước thầm
Hoa vông rừng tuyết trắng
Rặng thông già lặng câm
Hai đứa nhiều nuối tiếc

Tình yêu trong bài thơ dù có nguyên mẫu hay không, nhà thơ cũng đã tinh tế hòa nhịp cái tình trong cái cảnh, như một bức tranh Pleiku hoàng hôn, thanh thản nỗi buồn trong veo mà người ta dễ cảm nhận ở cái xứ sương mù và quanh năm mùa đông này.

Những năm tháng ấy, Pleiku còn nhiều cảnh chiến tranh và bắt lính. Có lẽ vì thế mà tuổi trẻ buồn cho thân phận, buồn cho tương lai như những hàng thông lặng câm, hay mây núi chụm đầu thủ thỉ. Tác giả đã điệp khúc nỗi buồn của tuổi trẻ ngày ấy nhiều lần:

Từng bước từng bước thầm
Cuối đầu in dấu mỏi
Tuổi trẻ buồn lặng câm
Núi nghiêng đầu thủ thỉ

Từ bài thơ Kỷ niệm của Kim Tuấn, nhạc sỹ Y Vân ở Sài Gòn đã phổ nhạc thành ca khúc Những bước chân âm thầm mà đến nay nhiều người Pleiku, Sài Gòn hoặc hải ngoại đã hát thuộc lòng, nhưng ít có người biết đó là bài hát liên quan đến Pleiku, được sáng tác tại Pleiku.

Từ những năm 90, người ta ồ ạt khai thác gỗ vườn để xẻ ván xuất khẩu, làm vắng bóng những cây gòn rừng, bay tuyết trắng chiều ngoại ô Pleiku. Biết bao giờ mới có lại cái không gian cây xanh ấy.

Kim Tuấn và Y Vân không còn nữa nhưng Kỷ niệm – Những bước chân âm thầm vẫn đang bềnh bồng khắp mọi nơi, không chỉ có ở Pleiku thân yêu. Thêm một lần nữa, chúng ta hãy cùng đọc lại bài thơ này:

Từng bước từng bước thầm
Hoa vông rừng tuyết trắng
Rặng thông già lặng câm
Hai đứa nhiều nuối tiếc

Sương mù giăng mấy đồi
Tay đan đầy kỷ niệm
Mưa giữa mùa tháng năm
Dật dờ cơn gió thổi

Một tháng không trăng rằm
Mây núi ôm trời thấp
Giá rét về căm căm
Cao nguyên mù đất đỏ

Posted by: caoduy Apr 11 2015, 09:16 AM


Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên quê hương


Một - Cách đây 50 năm, tại Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, Gia Định những buổi chiều mưa dầm Tháng 6 miền Nam, anh xoay trở quay quắt giữa những thây chết của những người lính thuộc đơn vị đầu đời, Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù, Tiểu Đoàn 52 Biệt Động, Tiểu Đoàn 2/7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh.. Những người chết của chiến trận Đồng Xoài, Bình Dương nổ ra từ những ngày đầu Tháng 6. Đối với một gã lính vừa qua tuổi 20 năm ấy, sự mất mát của hàng trăm chiến hữu chỉ được đưa về sau nhiều ngày kể từ khi tử trận quả là một sự đau thương quá lớn.. Thân thể người chết căng cứng, xanh đen, tím thẫm, dòi bọ lúc nhúc bò theo những vết thương sũng máu. Khoảng đất nghĩa trang đặc sánh bởi máu, thịt, con người chảy vữa, sền sệt.. Trong đó có máu, thịt của bạn anh, Thiếu Úy Trần Trí Dũng, gã học sinh đã cho bạn cùng lớp và toàn Trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng niềm hãnh diện.. Vô địch bóng bàn học sinh, thủ quân đội bóng rổ, cũng là trung phong hàng đầu của đội tuyển bóng tròn trường trung học đá hay nhất miền Trung. Nhưng giờ đây, tất cả dạng hình tươi trẻ sống động của Dũng với lúm đồng tiền trên má không còn nữa.. Kéo fermeture bao đựng xác – Bạn anh, người bạn ấu thơ của Đà Nẵng hơn mươi năm trước bấy giờ chỉ là một thây xác sùi sụp nước nhờn tím thẫm hôi hám. Có chăng được phần an ủi: xác Dũng còn nguyên dạng hình chưa bị vữa nát. Buổi đá banh năm xưa ở Sân Vận Động Chi Lăng làm sao tưởng ra tình cảnh nầy Dũng ơi?!
Xóm nhà dân trước nghĩa trang phải di tản vì mùi hôi thối bốc kín đặc khoảng không. Tiếng kêu khóc của thân nhân tử sĩ âm âm oán thán, xót xa, xé cắt.. Có bà cụ vật vã thều thào bên chiếc poncho gói xác người vừa lật mặt.. Nam ơi! Nam ơi! Sao cháu bỏ bà.. Anh ngồi xuống bên cạnh bà cụ.. Bà ơi, con cũng tên Nam, cha mẹ con không còn, con gọi bà bằng bà thay anh Nam. Trở về hậu cứ đơn vị nơi phi trường Biên Hòa, sân cờ tiểu đoàn trắng màu khăn tang, con trẻ chạy thất thanh quanh những người mẹ đang nằm lăn trước bậc thang các văn phòng đại đội.. Thiếu úy ơi! Thiếu úy ơi! Hóa ra anh là sĩ quan còn sót lại của một tiểu đoàn nhảy dù mà từ tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó, 4 đại đội trưởng đồng tử nạn.. Không biết Đại Úy Phát, đại đội trưởng Đại Đội 74 và đám quân binh thất lạc nay đang ở đâu. Thế nên, những tưởng Tháng 6 năm 1965 đã quá sức chịu đựng của con người – Cho dẫu là người lính có khẩu hiệu Nhẩy Dù Cố Gắng!

Hai - Từ trên trực thăng ở Quảng Trị đổ về Huế trong ngày Mồng Bốn Tết Âm Lịch anh đã thấy ra một Thành Phố Huế chết lặng. Người Huế chết khi ẩn núp sau những gốc cây bị pháo, hỏa tiễn cộng sản bắn lật ngược, cạnh hàng rào chè cháy xém; trên lề đường với mỗi viên gạch đồng bị vỡ vụn, nơi sân nhà trước chiếc bàn thờ xiêu đổ.. Người chết đang qùy lạy ông bà, với áo mới thấm máu, xé rách, con trẻ còn cầm trong tay bao đỏ tiền lì xì đầu năm.. Tuy nhiên cảnh chết của Huế không chỉ xẩy ra trong khu Thành Nội, trên đường Mai Thúc Loan, Đinh Bộ Lĩnh, khu sân bay Tây Lộc, ở những cửa thành Thượng Tứ, Đông Ba.. Chết ở Huế trùm khắp mọi chốn, tại mỗi phân đất tại vùng Bãi Dâu, bên cạnh Sông Hương, nơi sân Trường Gia Hội, Chùa Áo Vàng.. Và sau ngày quân cộng hòa chiếm lại Kỳ Đài, đám cán binh cộng sản gồm du kích, nội thành, và bộ đội miền Bắc bị đánh bật ra khỏi khu cố thủ Gia Hội, trên đường rút lui mang theo những tù nhân vốn chỉ là con trẻ vị thành niên, người già, phụ nữ.. những đối tượng làm con tin cho lần tháo chạy. Thế nên cuối cùng, thì cảnh chết, sự chết đã hiện thực, vượt khỏi sự tưởng tượng của bất cứ ai còn có Nhân Tính – Bởi người Huế đã liên tiếp bị thảm sát do những kẻ cùng chung khu phố, chung xóm nhà cư ngụ. Không sót một người. Không trật một người. Người Huế bị giết do một Sự Ác được ngụy danh là “giải phóng”, để thỏa mãn mặc cảm vô dụng, hèn kém của những kẻ gọi là “trí thức cách mạng”, điển hình đặc chất Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn thị Đoan Trinh, Tôn Thất Dương Kỵ.. Người Huế chết chật hết những bụi lùm ở Khe Đá Mài vùng núi Ngũ Tây; sùm sụp bước chân của đoàn người tìm kiếm trong những ngày hè cùng năm năm 1968. Hơi thây chết bốc lên theo nắng đầu hè miền Trung ong óng như hờn oan. Nhưng hỡi ôi! Chết ở Huế cũng chưa đủ cho cuộc đau thương của người Việt. Người Việt miền Trung chiếm đầu bảng oán hận. Không phải đợi dài lâu.

Ba - Anh đang ở trên cây số 9 kể từ Quảng Trị đến vùng thôn Mai Đẳng, xã Hải Lăng..Không thể dùng một chữ, một tĩnh từ, không thể nói, khóc, la, trước cảnh tượng trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ, môi chảy máu tươi, tay luống cuống, mắt mờ nhạt, mũi phập phồng. Không có thể biết gì về thân thể đang mở ra trước sự tàn khốc trước mặt.Trời ơi ! Hình như có tiếng kêu mơ hồ dội ngược ở trong lồng ngực, trong cổ họng, nơi óc não, hay chỉ là ảo giác của con người mất hết khả năng kiểm soát. Kiểm soát làm sao được nhịp đập của quả tim, không ai ngăn cản cơn chớp liên hồi của đôi mắt, tay nổi da gà, những sợi gân ở thái dương phồng lên đập xuống – Máu chảy ngúc ngắc trăn trở lăn lóc khô khan khó nhọc trong những gân căng đến độ chót … Cũng không phải như thế – Anh không biết, hoàn toàn không biết được gì của xác thân. Anh không còn là người đang sống, vì sống là sống cùng với người sống, chia xẻ vui buồn, đau đớn lo âu với người sống. Chung quanh anh trước mặt chỉ còn một hiện tượng, một không khí – Chết. Phải, chỉ có Sự Chết bao trùm vây cứng. Chỉ có nỗi chết đang tầng tầng phủ chặt kín không gian. Cho dù rằng, Tháng 4, 5, 1972 ở An Lộc với những ngôi mộ vô danh, mộ tập thể, những cái chết câm lặng đến độ chót của đau đớn kinh hoàng, người cha trầm tĩnh đi tìm từng cái chân, cánh tay của năm đứa con vừa bị tan thây vì quả đạn đại pháo, nhưng lại còn được một nấc chót – Bên cạnh người chết vẫn còn người đang sống – Ở An Lộc, anh thấy được loại người cuối đáy đau thương đó. An Lộc lại quá nhỏ, chỉ hơn một cây số vuông, cái chết cô đặc lại, ngập cứng vào người nhanh và gọn như nhát dao ngọt. Cái đau đến chớp mắt, người chưa kịp chuẩn bị thì đã ngập hẳn vào trong!
Nhưng ở đây, thôn Giáp Hậu, Mai Đẳng, Hải Lâm của Quảng Trị thì khác hơn An Lộc một bậc, hơn trên một tầng, tầng cao ngất chót vót, dài hơn An Lộc một chặng, dài hun hút mênh mông.sự chết trên 9 cây số đường này là 9 cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá, chết vương vãi từng mảnh thịt, chết từng cụm xương sống, đốt xương sườn, chết lăn lóc đầu lâu, chết rã rời từng bàn tay cong cong đen đúa … Anh đi theo chiếc xe công binh ủi một đường dài, những xác chết, không, phải nói những bó xương bị dồn cùng áo quần, vật dụng, chạm vào nhau nghe lóc cóc, xào xạc, “đống rác” người ùn ùn chuyển dịch, một chất nhờn đen đen ươn ướt lấp lánh trên mặt nhựa – nhựa thịt người !!Trời nắng, đồng trắng, con đường im lìm, động cơ chiếc xe ủi đất – phải gọi xe ủi người mới đúng – vang đều đều, hơi nắng bốc lên từng đường trên mặt nhựa, hơi nặng mùi … Vạn vật chết trong lòng ánh sáng. Ánh sáng có mùi của Sự Chết. Nếu cảnh chết tập thể của người Do Thái ở các trại tập trung gây nên niềm bàng hoàng xúc động, vì thế giới chứng kiến, thấy ra được những “xác người,” chồng chồng lớp lớp. Chín cây số đường chết của Quảng Trị không còn được quyền dùng danh từ “xác chết” nữa, vì đây chết tan nát, chết tung tóe, chết vỡ bùng … Chết trân tất cả mọi cái chết.Không còn được “người chết” trên đoạn đường kinh khiếp đến tột độ của chốn quê hương thê thảm đọa đày.
Anh ra khỏi 9 cây số đường kinh hoàng đến La Vang Thượng, xuống đi bộ vào La Vang chính tòa, nơi Tiểu Đoàn 11 Dù đang chiếm giữ. Hai cây số đường đất giữa ruộng lúa xanh cỏ, anh đi như người sống sót độc nhất sau trận bão lửa đã thiêu hủy hết loài người.Đường vắng, trời ủ giông, đất dưới chân mềm mềm theo mỗi bước đi, gió mát và không khí thênh thang. Anh ngồi xuống vệ đường bỏ tay xuống ao nước kỳ cọ từng ngón một. Anh muốn tẩy một phần sự chết bao quanh ? Có cảm giác lạ : Anh vừa phạm tội. Tội được sống.

Bốn – Nhưng cuối cùng..Hóa ra, Khổ Đau/Sự Chết nơi chiến trận Đồng Xoài 1965 chỉ là khúc dạo đầu phần bi thảm với những người lính tử trận. Cuộc tàn sát Mậu Thân, 1968 cũng trong giới hạn của ngàn người dân Thành Phố Huế bị đập đầu, chôn sống. Và cho dẫu ngọn lửa Mùa Hè 1972 gớm ghê khốc liệt bao nhiêu cũng chỉ bùng cháy, tiêu hủy các thị xã An Lộc, Kontum, Quảng Trị.. Hóa ra Địa Ngục Miền Nam không chỉ chừng ấy. Hóa ra khổ đau Miền Nam không chỉ với vài ngàn, vài chục ngàn người chết, những thị xã bị tiêu hủy.. Tai ương Việt Nam/Thảm Họa Miền Nam thăm thẳm vô bờ với mùa xuân uất hận không thể nào quên, dẫu hôm nay 40 năm sau 1975. Chúng ta hãy nhìn lại đoạn đường máu thẫm của một Dân tộc bị đọa đày trên quê nhà điêu linh.. Đầu xuân năm 1975, vào buổi Tháng Ba, thêm một lần người Miền Nam tự hỏi: Cộng sản sắp đánh ở đâu? Khi nào sẽ đổ ra thêm một trận máu xương với lực lượng cộng sản miền Bắc nhất quyết thực hiện bước cuối cùng cái gọi là sự nghiệp “giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”. Sự nghiệp cách mạng mà 40 năm sau 1975 bày ra tình cảnh nguy nan vô hạn với hiểm họa mất nước về người Hoa, và xã hội Việt Nam chìm ngập xuống vực thẳm băng hoại, suy vong.
Vào Tháng Ba năm 1975, lãnh thổ miền Nam đã bị mất một phần thuộc phía bắc sông Thạch Hãn, Quảng Trị của quân Khu I; ở Quân Khu II mất phần đất nằm về mặt bắc và tây của vùng Trường Sơn; Và quanh Sài Gòn một vùng rộng lớn của miền Đông Nam Bộ từ thượng lưu sông Đồng Nai qua Phước Long, Bình Long, Tây Ninh về Long An, Hậu Nghĩa, xuống Kiến Tường, Định Tường thuộc châu thổ sông Cửu Long. Trong tình hình chung như vừa kể, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh Quân Đoàn II đóng ở Pleiku lúc ấy không thể quyết đoán cụ thể về kế hoạch quân cộng sản sẽ đánh ở đâu trong vùng Quân Khu II. Trong khi ấy, cộng sản Hà Nội lập kế hoạch, bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975 mang mật danh là Chiến Dịch 275. Cuộc tiến công xử dụng các đơn vị cấp sư đoàn bộ binh Bắc Việt có chiến xa, đại bác nặng yểm trợ khởi cuộc nổ súng từ ngày ngày 10 Tháng 3 năm 1975 với mục tiêu là Ban Mê Thuộc, thành phố cực Nam của vùng cao nguyên. Bộ chính trị, quân ủy trung ương tại Hà Nội đã điều động thực hiện cuộc tấn công miền Nam với hai lợi điểm mà thật sự là hai ưu thế quyết định. Đấy là sự bất ngờ về tình báo thêm được bảo đảm bằng cái ô chính trị tuyệt đối an toàn tức là biết chắc Mỹ sẽ không bao giờ can thiệp lại vào Việt Nam. Cụ thể Hạm Đội Mỹ quay mặt trước lần hải quân Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH, tháng 1, năm 1974.
Trong cuộc họp mật của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng vào tháng 1 năm 1975 trước khi phát lệnh tấn công miền Nam theo kế hoạch Chiến Dịch 275, Ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa một bên ký kết Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam đã hân hoan tuyên bố: “Cho kẹo Mỹ cũng không dám trở lại Việt Nam!” Ngày 10 Tháng 3 năm 1975, quân đoàn Tây Nguyên dưới quyền tổng chỉ huy của Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đến từ Hà Nội đồng loạt tấn công vào thị xã Ban Mê Thuộc với những sư đoàn 324, 324B, 320, 308, 316 và cả sư 341 tổng trừ bị của quân đội miền Bắc. Nhưng khi quân dân Ban Mê Thuộc đang trên bờ vực sống-chết thì báo chí thế giới, báo cộng sản ở Hà Nội, báo phản chiến ở Sàigòn đều đồng thanh phát biểu: “Cách mạng giải phóng miền Nam là do mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng và giai cấp phản cách mạng; giữa nhân dân tiến bộ và thành phần ngụy quân, ngụy quyền phản động; giữa lực lượng vũ trang cách mạng và tập đoàn quân phiệt, phát xít công cụ của chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ…”


Với sư đoàn F10 làm mũi nhọn được hai sư đoàn 320, 316 tăng cường, và sư 341 đoàn làm tổng trừ bị, lực lượng cộng sản có khoảng 25,000 người được pháo binh, chiến xa nặng yểm trợ phối hợp. Đối lại tại thị xã Ban Mê Thuột phía VNCH chỉ có khoảng 1,200 lính chiến đấu trong tổng số lính hậu cứ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, lực lượng Địa phương quân Tiểu khu Đắc-lắc, và Liên đoàn 22 Biệt động quân. Thế nên từ hai giờ sáng ngày 10 tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công mà tướng Dũng ước tính chiến trận Ban Mê Thuột sẽ chấm dứt sau một tuần nhưng chỉ đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày, thị xã Ban Mê Thuột hầu như thuộc về phần kiểm soát của quân Bắc Việt cho dù Biệt Động Quân và bộ binh vẫn tiếp tục chiến đấu. Dũng cứ tưởng như là giấc mơ. Và Dũng đã đi từ giấc mơ sang một vùng ảo giác vào những ngày sau khi được báo cáo: Quân đoàn II tháo chạy!
Cuộc di tản dọc Tỉnh Lộ 7 theo lộ trình Pleiku-Phú Bổn xuống Tuy Hòa quá lớn với mối đau thương dài đặt trên hai trăm cây số đường núi với hai trăm ngàn dân thường đi từ hai thành phố Kontum, Pleiku. Phải, chỉ là dân thường những người nghèo không đủ tiền mua vé máy bay vào những tuần, tháng trước. Trời cao nguyên buổi tàn xuân gây gây rét vào sáng, càng về trưa nắng cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào thành xe, nòng pháo, khí cụ, tóc và da mặt người, vạn tròng mắt đỏ rực. Những tròng mắt mệt mỏi lo âu, tuyệt vọng. Phía sau lưng, thị xã Pleiku bốc lửa ngọn, khói đen đặc ngật ngật bay lên cao hơn đỉnh núi Hàm Rồng. Lửa lóng lánh ánh sáng kinh dị trong đôi ngươi những người lính Liên Đoàn 7 Biệt động quân, thành phần hậu vệ đoàn di tản. Trời cao nguyên với thị trấn Pleiku thường chĩu nặng sương mù nay oằn thân vật vã trong màu lửa địa ngục. Lửa từ khối đống kim loại vũ khí, từ những kho quân nhu, quân cụ soi loang loáng chập chờn những đường dốc hun hút lẩn khuất dưới tàng thông. Tất cả đồng nhóm lên màu đỏ chói. Màu đỏ của máu lửa soi chập chờn đoàn người di tản thê thiết. Đoàn di tản qua được một ngày bình an. Bình an sống sót qua đói, khát, nhục nhằn và lo âu. Lính gục trên mũi súng, đàn bà, con trẻ nằm rũ lên hành lý, thành xe, đất cát. Được sống, được ngủ là hạnh phúc quá lớn hở trời? Còn biết kêu vào đâu? Với ai? Nhưng nỗi bình an này không kéo dài được, bởi người cộng sản chỉ trong ngày 16 tháng Ba đã tìm ra đáp số cho câu hỏi: Quân đoàn II đang tính gì sau chấn thương ngày 10 tháng Ba tại điểm bất ngờ Ban Mê Thuột? Qua máy dò tìm làn sóng điện, Bộ Tư Lệnh Mặt trận B3 cộng sản khám phá những phi cơ C47, C130 xuất phát từ phi trường Cù Hanh (Pleiku) đi Nha Trang không có lượt bay về. Sự kiện nầy đã trút mối âu lo của Tướng Dũng về việc lực lượng VNCH có thể điều quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Thế nên Dũng ra lệnh cho Sư Đoàn 320 băng rừng truy kích đoàn di tản và Sư Đoàn 968 từ Lào về trên đường bôn tập về hướng Pleiku cũng được lệnh đâm ngang từ ngã ba Thanh An chuyển hướng hành quân dài theo Tỉnh Lộ 7 xuống đồng bằng vùng duyên hải miền Trung.
Ngày 16 tháng Ba, Một Chúa Nhật điêu linh tan nát dọc con đường đỏ sẫm đất núi và máu rây. Đoàn di tản bị chận ở phía đông Củng Sơn, bị cắt rời ở quận Phú Túc, bị đuổi dập từ tây quận lỵ Phú Bổn. Xe tăng cán ngang lên GMC, xe GMC hất xe đò chở thường dân xuống vực thẳm, cũng hất luôn những xe jeep nhỏ, cán qua những chiếc xe Dodge 4 của địa phương quân chở những người già và trẻ em tan tác. Chiếc vespa của một gia đình chạy lông lốc, xiêu vẹo trên sườn đồi, đứa con, người vợ rơi tơi tả, người chồng, người cha rơi cuối cùng với chiếc xe vỡ toang trên mỏm đá. Và súng nổ… 105, 155 pháo binh, hỏa tiễn TOW, XM72 của phía cộng hòa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 của phía cộng sản tất cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ nhòa ánh nắng. Mặt trời bị chìm khuất trong khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất bên lề đường, người khô quắt không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận biết nơi ổ mắt, mũi, miệng… Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh hơi. Ba đứa trẻ mắt lạc thần ngồi nhìn đoạn đường hỗn loạn không cảm giác. Bé trai nhỏ nhất gục đầu trên gối chị ngủ lay lắt.


Bao trùm tiếng la khóc khản đặc của người có âm thanh của đạn súng sơn pháo nổ thật gần. Sư đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang. Xác người tung lên theo đất bay bay.Cái chết không đơn giản, mau chóng bởi súng đạn. Chết còn bị nhận chìm từ từ trong lòng chiến xa khi chiếc xe tăng chúc đầu xuống đầu cầu nổi bắc qua sông Ba. Chiếc cầu bắc vội mỏng manh không th nào chứa nỗi sức nặng vạn con người, vạn chiếc xe.. Chiếc tăng M48 như khối đá ấn mạnh xuống lòng chén nứt vỡ. Trong lòng xe có tiếng người hét nghẹn, trên pháo tháp có đám người ngoi ngóp, người đạp lên đầu, lưng, vai người để được thở được sống thêm vài giây ngắn. Chiếc xe chìm xuống im lặng, kéo theo, mang theo, đè xuống rất nhiều thây xác. Xích sắt điên cuồng đào xoáy giòng sông máu sẫm làm quẫy lên, tung tóe những tay chân người kẹp dính đâu dưới lưn xe.
Cuối cùng đoàn di tản cũng về đến Tuy Hòa vào ngày 25 tháng Ba do Tiểu Đoàn 58 Biệt Động dẫn đầu. Hai-trăm ngàn dân theo lính chạy loạn từ Kontum, Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người. 200,000 trừ đi 60,000 vậy đã chết bao nhiêu? Không ai có thể tính chính xác được số dân thiệt mạng. Người chỉ biết và đau với trường hợp của từng người thân, của mỗi gia đình, của chính thịt da mình. Trên chiếc trực thăng từ phi trường Đông Tác (Tuy Hòa) về Nha Trang, viên thiếu tá ngồi ôm đứa con nhỏ, gục đầu nín thinh khi đứa bé chợt nhớ và hỏi nhỏ… Bà nội đâu hở ba? Trong đêm khuya nơi trại tạm cư ở đèo Rù Rì, nghe những lời than vãn rời rạc lẫn tiếng khóc nấc nghẹn ghìm ghìm. Trên bãi biển Nha Trang từng khối người ngồi chập choạng dưới trăng khuya. Trăng vàng chạch, đỏ nhừ nhừ như máu bầm. Trong lòng người di tản từ cao nguyên đồng bằng trong tháng Ba năm 1975 hầu như ai cũng đọng khối máu uất nghẹn đau thương. Khối máu oan hờn của một dân tộc điêu linh chỉ khác người dân miền Trung chịu sớm nhất. Đau nhất.

Mùa Chúa chịu nạn giải cứu thế gian diễn ra cùng lần bức tử miền Trung. Khởi đầu buổi Đồng Tế tàn cuộc miền Nam. Bắt đầu từ Ngày 10 Tháng Ba ở Ban Mê Thuột, dọc Tinh Lộ 7 B, con lộ máu dẫn về miền duyên hải. Hóa ra không cần đủ hết tháng Ba, để tiếp theo tháng Tư thấm máu toàn miền Nam sụp vỡ. Thế nên, người hôm nay phải viết lại, phải nói lên – Vì nếu không sẽ có tội – Tội với những người đã chết mà lượng người chết trên Tỉnh Lộ 7 B là oan khiên đồng hiến tế khởi đầu lần tận diệt Quê Hương. Của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.

Phan Nhật Nam

Bốn Mươi Năm Trận Ban Mê Thuột
Lần Khởi Cuộc Mất Quê Hương
10 Tháng 3, 1975-2015

Posted by: KhoaNam May 19 2015, 08:14 AM


Thời thế, thiện, ác, và... con người


Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương.

Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.

Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.

Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết. Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng. Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư:

- Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?
- Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!
- Việt-Cộng à?
- Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari, giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ )
- Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?
- “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.

Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.

- Hắn thuộc đơn vị nào vậy?
- Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.
- Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?
- Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.
- Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.
- “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm .

Tôi gật đầu, tán đồng,
- Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.

Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.

Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.

Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh. Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng. Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản. Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.

Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:

“ Ối! Ối! Đau! Đau quá!... Ư!... Ư!... ư… ư…”

Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:

“Don't worry! Don't worry! You will be Okay!”

Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.

Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì. Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay. Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi. Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm? Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều...

Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra. Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm.

“Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn. Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể. Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!

“Here it is!”

Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn. Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác. Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.

Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau. Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.

Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.

Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào. Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà. Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu: “Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby...”

Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt. Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.

Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây. Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người. Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.

Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ:

- Thank you!

Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói. Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,

- Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!
- Không thèm! nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng. Tôi tỉnh như ruồi,
- Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.
- Thuốc của đế quốc, không thèm hút!
- Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.

Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho. Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.

Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,
- Take it! It's good for you!
Tôi chêm thêm,
- Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!
Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,
- May you tell him to take it?
Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm.
- Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy!

Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.

Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe. Tôi mồi một điếu Salem, đưa cho tên Việt-Cộng,

- Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.
Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.
- Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.
- Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.
- E mấy?
- Hăm Tám (28)

Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,
- Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó
- Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.
- Cấp chức gì?
- Trung úy Đặc-Công.
- Quê ở đâu?
- Hải ... Rương
- Làng nào?
- Hỏi gì mà lắm thế?
- Thôi không hỏi nữa!

Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.

Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.

Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài. Mấy lần y mở miệng gọi tôi:
“Này! Này!”

Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya. Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.

Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ:

- Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?
Tôi ngạc nhiên
- Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?
Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,
- Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi phì cười.
- Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!

Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:
“Chẳng lẽ chính ủy nói sai?” tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.

- Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò.

- Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?

Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc. Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện. Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng.

- Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!

Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm. Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn. Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh.

- Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương...

Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái.

- Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra... các anh có độc ác đâu? Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.

Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.

“Don't throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.

Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.

“Take care! Good bye! My son!”

phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.

Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”

Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.

Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.

Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình

* * *

Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư.

- Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?
- Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi. Tôi biểu đồng tình.
- Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu? Tôi hỏi tiếp.
- Sau này anh có còn gặp lại y không?
- Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?
Tôi nhắc anh Tư.
- Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?
- “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.
- Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam.
Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp.
- Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.
Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng.
- Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy.
Anh Tư gật gù.
- Có khi hai người là bà con cũng nên?
Tôi cũng gật gù theo.
- Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”. Anh Tư phụ họa.
- Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!

* * *

Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.

Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.

Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ. Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau. Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.

Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ. Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:

“Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”

Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác. Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng. Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.

Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố: “Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”

Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ? Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19. Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra. Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm.

- Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán. Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:

- Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!

“Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3. Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”. Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai. Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm.

- Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy! Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.

Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.

Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!

Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta. Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh núp đàng sau một khuôn mặt điển trai. Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?

Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước. Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng. Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói.

- Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả!

Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại! Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm! Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.

Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:

“Don't worry! Don't worry! You will be Okay!”

Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.

Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.

Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,

- Lẹ lên! Lẹ lên!

Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh. Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng. Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.

“Ối!...Ối! ...Ối!...ôi!...ôi!...ôi!..ư...ư...ư..”

Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.

Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền. Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp. Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!... Hừ!...hừ! ...hừ!...” Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:
“Hừ!... Hừ!...Hừ!..Hường...ơi!...Hư...ường ...ơi!...ực!... ực!...ực!...”

Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!...Ư! Ử!...ư! ử!...” nhỏ dần.

Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.

Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa. Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.

Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi. Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.

Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng. Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17. Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào... đứng một lúc, nghe ngóng ... rồi đi vào.

Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương. Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.

Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Đại-Úy Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.

Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt. Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.

Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian. Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không? Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện. Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi. Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.

Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay. Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác. Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

Vương Mộng Long- K20

Posted by: caoduy Jul 8 2015, 08:53 AM


Pleiku hoài niệm


Tôi nhớ rất rõ, tôi đã gặp anh vào đầu mùa hoa phượng nở, có chút râm ran của tiếng ve gọi nắng hè.Con đường Duy Tân(nay là Trần Phú) Nha Trang, với hàng phi lao dài tiếp nối từ xóm chài của người dân Ba Làng di cư đến , tận cùng là Hải Học Viện (khu vực Cầu Đá)

Nắng và gió của phố biển,niềm vui và nỗi buồn của đời học sinh…đã chắp cánh nhẹ nhàng sau kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt Phượng hồng bờ môi…nhưng…

Sóng vỗ tình tôi…
âm vang bên đời…
âm vang đơn côi…

Tôi đã gặp anh lần đầu nơi khuôn viên DCCT Nha Trang cùng với các bạn của anh, lúc tôi đang viết tựa đề trên bức tường bôi đen của hội trường để chiếu film , ngày đó ngoài đi học , tôi thường sinh hoạt trong ca đoàn DCCT, cha Nam , ngài giao cho tôi viết , vẽ tựa đề các cuốn film hàng ngày được trình chiếu, bán vé để giúp đỡ những nạn nhân chiến cuộc của mùa hè đỏ lửa…từ khắp nơi đổ về các trạm tiếp cư của nhà dòng.

Anh sắp mãn khóa SQ Đồng Đế, anh và tôi đều có chung ký ức của người Phố núi bên mái trường Minh Đức dấu yêu (anh học hơn tôi 3 lớp), đặc biệt hơn cả là chúng tôi đều yêu mến ngôi nhà thờ nhỏ….yêu mến những vần lục bát giáo lý diễn ca của cố Lm. J. N.T.Thức

Sóng vỗ miên man …ru đời ngọt ngào như những hạt sương trong buổi sớm mai, hòa lẫn tiếng cười hồn nhiên , sửa soạn chắp cánh thênh thang bước xuống cuộc đời…phiêu du như loài chim biển.

Từ ngày xa Phố núi, gặp anh, tôi đã gặp lại Pleiku của tôi, cái thị trấn mà đi loanh quanh lại về chốn cũ…rất xa…nhưng rất gần…Và rồi gió biển đã se mặn tình Pleiku của chúng tôi. Anh đã ra trường và chọn đơn vị…..

Tôi nhận được lá thư thứ 3 và cũng là lá thư cuối cùng.

“KBC ….Thiện Ngôn ngày...tháng12…nắm 1972…

Còn mấy ngày nữa lễ Giang Sinh. Anh viết cho em không phải nỗi nhớ từ một Tây Nguyên mù sương , hoặc kỷ niệm ngày còn đi học dưới mái trường Minh Đức hay bên ngôi nhà thờ nhỏ. Mà cũng không phải từ một ngày nắng ấm gặp nhau bên DCCT , hay những lần theo em tan trường từ ngã 6 Lê Thánh Tôn , đi hết suốt con đường dài rẽ qua Lê Văn Duyệt em vẫn bắt anh phải đi xa…một đoạn phía sau……

L..em, nơi anh đang đóng quân là Thiện Ngôn, là cánh rừng già, hàng ngày oi nồng mùi thuốc súng, hàng đêm hỏa châu treo lơ lửng trên cao… ranh giới tử sinh lúc nào cũng cận kề đời lính……….v.v…..”

Tôi viết gì nữa bây giờ?!
Nỗi buồn nhớ cứ nhạt nhòa theo thời gian
Tuổi trẻ, tình yêu, và chiến tranh!
Tôi lại càng nhớ Pleiku hơn xưa…
Thương về xứ Thượng , nhớ Pleiku
Phố xá quanh năm phủ sương mù
Nắng gió Tây nguyên hồng bụi đỏ
Quay về buôn cũ…cuối chiều thu
Vi vu gió réo gọi thông ngàn
Người đi từ mấy độ quan san
Tơ nưng nước biếc hờn duyên kiếp
Đồi vắng Mường luông khóc thở than
Đâu rồi đường em về Sa thày?
Tình theo muôn kiếp ta còn say
Pleime khói lửa mùa chinh chiến
Lạc mất nhau rồi…mây thôi bay
Trà bá hoang sơ vắng điêu tàn
Sông làng Coucrok khóc ly tan
Tây nguyên xót xa sầu tuế nguyệt
Chết lạnh thân gầy tím tâm can

(Tôi viết bài này vào lễ Giáng Sinh năm 73)


Sài gòn cuối năm 2009, tôi gặp K sor Phúc trọng một hạnh ngộ tình cờ. Niềm vui vỡ òa, những bước chân Minh Đức lại trùng phùng... anh Phúc đã đưa tôi về với cuộc hội ngộ liên trường Pleiku 2013, 2014…gặp lại các bạn …tôi đã gặp lại Pleiku mà một thời tôi đi qua…ký ức về xứ Thượng luôn ủ khuất nơi góc trái tim… thấp thoáng bóng dáng người ấy hòa lẫn vào NGÀY THÁNG ẤY…vẫn còn mãi không quên!

Và tôi đã hợi ngộ cùng các bạn, xin cám ơn những Đình Nghĩa, Hồng Vân, M-Tâm,Th-Cao, Loan, Toàn, Linh Trần, Hà Đỗ... cùng tất cả các bạn Pleiku mà tôi được hạnh ngộ . Các bạn đã cho tôi sống dậy những ký ức vui buồn của tình người Phố núi.

Lê Phan
những ngày cuối tháng 3-2015

Posted by: caoduy Jul 8 2015, 08:53 AM


Dấu ấn vào đời


Năm 1972 năm mùa hè đỏ lửa, năm ấy ba tôi cũng vừa giã từ cuộc đời binh nghiệp: giải ngũ. Cao nguyên miền núi Pleiku có lệnh di tản dân, trong lúc mọi người lục đục kéo nhau đi, gia đình tôi cũng không ngoại lệ... chỉ có tôi vì công việc mới đang làm, vì vương vấn cái xứ bụi đỏ mù sương, mỗi buổi sáng trời sé se lạnh, nên tôi quyết định không đi theo gia đình, công việc của tôi đang làm là 1 nữ dân chính của ban chính huấn 201 thuộc tiểu đoàn 20 CTCT: đi tập hát và sinh hoạt với các chiến sĩ. Đoàn có tất cả 20 người, công việc khá vất vả là hay đi công tác đến các tiền đồn xa hút mắt. Tôi nhớ cũng năm ấy đoàn có lệnh đi công tác tại đồi Đakpek, ngọn đồi cao ngất gần biên giới Hạ Lào và không có đường bộ, lúc bấy giờ là cuộc chiến đang bùng phát dữ dội ... chúng tôi đến nơi bằng trực thăng, không ngờ công tác có 3 ngày mà cả đoàn bị kẹt gần cả tháng vì không có máy bay nào dám hạ cánh vì bị đạn pháo liên tục. Ngày ngày, dấu nổi lo và nhớ nhà trong lòng, tôi đi loanh quanh khắp doanh trại, từ ngọn đổi cao này nhìn xuống phía dưới là 1 con suối lớn, ban ngày chúng tôi xuống suối coi các cô nàng sơn nữ tắm giặt, nô đùa, giòng nước vàng lấp lánh, khi vừa lên khỏi mặt nước người nào cũng óng ánh bụi vàng bám đầy, một anh trong đoàn nói đùa:

- Ở dưới đáy suối có mỏ vàng đó...


Tiểu Đoàn 20 CTCT

Đêm xuống ở đây lặng lẽ, hiu quạnh vò cùng. Ở trên ngọn đồi này khá lâu nên chúng tôi cũng làm quen được vài gia đình người dân tộc Thượng, họ khá thân thiện và cũng biết tiếng Việt lơ lớ....

Bình minh chưa kịp ló dạng, tôi thức rất sớm, bỗng nghe từ xa tiếng trực thăng vọng từ xa ... rồi thật gần càng lúc càng gần, cả đoàn đều đã thức, anh Đại Đội Phó kêu mọi người chuẩn bị và chiếc trực thăng đã xuất hiện trên bầu trời xanh thẳm ..... Ở trên không phận nhìn xuống ngọn đồi, tôi nghe lòng buồn vô tả... đi vội vàng chưa kịp chào từ giã một người nào ở nơi mình đã lưu lại cả tháng trời sinh hoạt.....tôi thì thầm:

“Chào tạm biệt nhé đồi Đakpek, dù chỉ đến 1 lần mà sao nghe thân thương quá thương”.

Lần đó cũng là lần đi công tác cuối cùng của tôi, vài tháng sau tôi thay đồi công việc mới.

Năm 1973, tôi trúng tuyển vào làm ở một công ty Mỹ ở trong căn cứ của Sư Đoàn 6 không quân VN: Hãng Pacific - supply. Tôi làm ở phòng điều hành, ban cấp phát chứng từ cho tất cả vật liệu máy bay quân sự. Giám đốc của công ty là người Mỹ còn lại tất cả đều là người VN, bộ phận điều hành là cấp tá, cấp uý của nghành tiếp liệu.

Ngày tháng êm đềm trôi qua, dù nơi đây đêm đêm tiếng súng vẫn từ xa vọng về. Pleiku là vậy đó. Tôi chưa bao giờ có ý nghĩ bỏ nơi này mà đi ... nếu không có biến cố 1975....

Ba tôi mất năm 1974 vì cơn đau tim đột ngột.. bỏ lại Má và đàn con còn thơ dại 10 đứa. Khi còn phục vụ trong QĐVNCH, Ba tôi là chỉ huy phó của TTHL Trường Sơn Địa Phương Quân và Nghĩa Quân. Ba mất khi ấy chỉ 60 tuổi. Sau ngày Ba mất, cuộc sống gia đình tôi cũng thay đổi nhiều lắm, anh em trai tôi đều đi nhập ngũ, chị Hai đi theo chồng... nhà chồng chị có xưởng cưa, nên Má và các em theo chị về sống tại Phú Bổn, còn tôi ở lại tiếp tục công việc làm, ngoài ra ban đêm tôi còn làm thêm nghề thu ngân cho quán Cafe do người quen kinh doanh ... Năm 20 tuổi, các bạn tôi còn sách vở cầm tay, còn tôi đã lăn theo trường đời, không có thời gian để nghĩ đến tình cảm riêng tư ....

Ngày 15 tháng 4 năm 1975, tôi nghỉ phép thường niên nên cùng Má và đứa em gái thứ 9 đi Đà Lạt, đi được vài hôm thì nghe tin tức chiến sự mỗi ngày mỗi căng thẳng, Má lo lắng cho các anh chị em ở nhà và đường giao thông bị cô lập, gián đoạn ... rồi nghe Pleiku sắp thất thủ, dân đang di tản bằng con đường tỉnh lộ 7. Ở Đà Lat tình hình cũng đang rất lộn xộn, Má con tôi cũng theo mọi người đi về Nha Trang. Ở Nha Trang, chúng tôi không có người quen nên tôi đưa Má với em đến tị nạn tại trường học, còn tôi hằng ngày đi lang thang đến các trung tâm tiếp nhận dân tị nạn để tìm người thân. Những ngày cuối Nha Trang sắp mất, trên đèo rù rì tôi có gặp 1 người quen trong đoàn quân BĐQ chạy xe ngang, anh kêu Má con tôi lên xe về Sài Gòn nhưng Má không chịu, Má muốn đợi gặp cả nhà ở đây rồi cùng đi. Rồi cơ hội cuổi cũng hết khi tôi còn gặp 1 anh trong phi hành đoàn trực thăng Lạc Long 229, nhưng Má vẫn nhất định không chịu đi ... Lúc ấy, tôi muốn bỏ đi một mình, nhưng lại không đành vì Má hồi nào tới giờ có biết làm gì đâu ....

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn bị mất, tôi bàng hoàng, thẩn thờ nhìn lên bầu trời tháng tư xanh ngắt nhưng sao. Tôi nghe lòng chùng xuống, sao nghe đau đớn thế này,... hết rỏi ... 15 ngày ngược xuôi vất vả, mệt nhoài ... Tôi cứ ngỡ chỉ là giấc mơ ...


Pleiku

Ngày 2 tháng 5, theo chuyến xe từ Nha Trang đi Ban Mê Thuộc và từ Ban Mê Thuộc về Pleiku ... dọc đường gió bụi ..ôi hoang tàn đổ nát, xác người phơi khô, mùi tử khí bay ngập trong không khí. Về lại Pleiku 1 tuần thì gia đình tôi đoàn tụ... cám ơn Trời Phật, anh trai tôi là lính BĐQ, em trai là lính ĐPQ nên đi cải tạo 3 ngày thì về.

Thành phố Pleiku bây giờ toàn bộ đội, nhìn Quân phục và cái nón cối luộm thuộm đến mắc cuời ... chưa bao giờ tôi chán chường muốn phát điên như lúc này ...và chuyện đã xảy ra trong một buổi họp tổ dân phố, họ nói gì tôi không quan tâm nhưng khi tên cán bộ tên Hường, người thì lùn tịt nói về Tổng Thống Thiệu, hắn kêu Thằng Thiệu, tự nhiên tôi tức giận bộc phát có ý kiện liền:

- Tại sao cán bộ lại kêu Tổng Thống Thiệu như thế? Dù sao Ông cũng là Tổng Thống của miền Nam, chúng tôi kêu bác Hồ là ông Hồ, có bao giờ kêu thằng Hồ đâu !

Tên cán bộ đưa con mắt trắng dã nhìn tôi, mọi người trong phòng họp nhìn tôi lo ngại .....

Buổi họp kết thúc, tôi không bị hoạnh hoẹ gì nhưng tôi linh cảm có điều không hay sẽ đến với tôi ... Ngay đêm đó, ông tổ trưởng dân phố đến nhà tôi nói:

- Có lệnh triệu tập cô thoát ly gia đình để gia nhập đội nữ du kích.

Tôi tỉnh bơ trả lời ...

- Mai đi..hôm nay tôi đang bị đi tiêu chảy ...

Đêm hôm đó, tôi nói với Má và anh Ba:

- Thế nào tụi nằm vùng 30 tháng tư cũng sẽ moi móc thân thế gia đình mình báo cáo lên phường để lấy điềm, mai em đi vào Sai Gòn, em sẽ không về nữa, anh Ba liệu từ từ thu xếp đưa má, các em rời xa nơi này càng sớm càng tốt. Anh Ba đồng ý .

Mùa xuân năm 1976, tôi đón cái Tết đầu tiên tại Sài Gòn, nhớ gia đình , bạn bè, nhớ cao nguyên da diết , nên lòng buồn có tha thiết mùa Xuân đâu.Từ ngày vào Sài Gòn tôi có tìm gặp lại vài gia đình thân quen ở cùng cư xá Không Quân Pleiku, chồng các chị đều đã bị đi tù, cuộc sống ai cũng khó khăn .... Từ đó tôi cố bon chen tìm cuộc sống mới để tồn tại nơi đất lạ quê người.

Năm 1977, tôi được tin cả nhà tôi đã vào Định Quán sống bằng nghề làm Rẫy .

Năm 1979 Má tôi mất ....

Năm 1980, sau bao năm bôn ba thăng trầm. Tôi tích góp được một số vốn nho nhỏ nên mở một quán bán Cafe, và tại đây vào một buổi chiẻu tôi ngỡ ngàng biết bao khi gặp lại anh bạn Không Quân đã từng ở Pleiku, anh đi chung với một người bạn nữa và là chồng tôi bây giờ. Người Cựu SVSQ Thủ Đức ... từ đó chúng tôi quen nhau. Mùa Noel năm sau chúng tôi thành một gia đình.

Vượt qua bao sóng gió, đôi khi ngỡ là đã mất nhau... gian nan từ hai bàn tay trắng ....

34 năm đi qua, đồng hành với chúng tôi là vui buồn cay đắng có nhau.

40 năm rồi, tôi chưa một lần về thăm lại chốn xưa .Pleiku yêu dấu, nơi đầy kỷ niệm đẹp của một thời còn chinh chiến.

Còn tiếp...
Linh Trần

Posted by: caoduy Jul 24 2015, 09:38 AM


Kỷ niệm biệt đội Pleiku


Hôm nay, tiết trời bắt đầu chớm lạnh hơn để đón chào mùa đông cũng như sẵn sàng cho một năm Dương lịch mới. Vài cơn gió nhẹ bay ngang mang theo mùi hương thơm mát từ những cụm hoa phong lan sau vườn nhà. Tôi cảm thấy nhẹ nhàng và thật thoải mái với không gian và thời gian như thế này. Gọi là mùa đông cho thêm phần lãng mạn và tô thêm đôi chút quyến rũ chứ thực ra Cali làm gì có mùa đông như bao nơi khác nhưng tôi vẫn thấy ẩn hiện một chút gì đó của mùa đông Pleiku ngày nào… Những nuối tiếc, ký ức và kỷ niệm cứ chập chờn trong tôi mỗi khi đông về. Đặc biệt mùa đông nơi thành phố sương mù này, mùa đông cuối cùng của đời lính để rồi viễn xứ biền biệt…

Cũng như năm trước, năm nay, tôi và một số bạn bè cùng khóa 7/68 KQ lại được mời tham dự tiệc mừng Giáng sinh do anh chị Nguyễn văn Thân người bạn đồng khóa với chúng tôi tổ chức.

Hằng năm, vào các dịp lễ nghỉ và đặc biệt lễ mừng Giáng Sinh, anh chị Thân thường mở tiệc để khoản đãi nhân viên và gia đình, các cộng sự đã hợp tác với anh chị trong suốt năm qua, và bạn bè bằng những bữa tiệc tưng bừng và no say. Riêng tôi ”phải say mới được về”. Thật là một nghĩa cử cao đẹp và chan chứa tình người. Xin cám ơn bạn Thân, người bạn chí cốt của tôi…Đây cũng là dịp để anh em chúng tôi gặp lại nhau ăn uống, tâm sự cùng gợi nhớ những kỷ niệm vui buồn thời chinh chiến và đời binh nghiệp của chúng tôi. Thời mà các chàng trai tuổi đôi mươi căng đầy sức sống cùng trái tim tràn đầy khí phách kiêu hùng, quyết chí và quyết chiến để bảo vệ vẹn toàn đất nước, đem an bình, tự do cho toàn dân.

Đêm nay trong phòng tiệc với khoảng 40 bạn bè Khoá 7/68KQ, hơn 400 nhân viên của bạn Thân và gia đình, cùng thân hữu và một số khách mời, tôi có dịp ngồi cạnh anh bạn cùng khóa 7/68 KQ Lê Đăng Hùng (râu/charlot). Hùng cũng đồn trú tại Sư Đoàn 6 KQ với chức vụ là Trưởng phòng chuyển vận của Sư Đoàn. Tôi cũng có một vài kỷ niệm rất vui và đáng ghi nhớ với Hùng trong thời gian đầu biệt phái tại Pleiku, xin được ghi lại để lưu giữ mãi tình bạn thân thiết này.

Ngay sau khi được thuyên chuyển ra căn cứ 60 tại Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định. Việc đầu tiên là trình diện Phi đoàn trưởng Tr/t Đỗ văn Hiếu để nhận chỉ thị. Sau đó vài tuần tôi được bàn giao cho phi đội của Đại úy Đào Duy Tâm và Đ/u Tâm được giao quyền trưởng phòng hành quân của phi đoàn. Căn cứ Phù Cát rất rộng rãi, phi trường thuộc hạng quốc tế, cư xá dành cho sĩ quan thì khỏi chê. Khu tắm rửa có máy nước nóng, phòng ở có chỗ gắn máy lạnh, quạt máy và cả tủ lạnh nữa. Khi tôi nhận phòng thì máy lạnh đã “biết đi” và không quay về nữa. Tóm lại, đây là căn cứ của Hải quân Hoa Kỳ chuyển giao cho Không Quân Việt Nam nên rất tiện nghi. Tuy nhiên Phù Cát là môt địa danh quá u buồn, buồn không thua gì đêm 30 chờ tết… nhất là đối với tôi, một anh lính trẻ, độc thân, quen sống nơi thành phố. Muốn ngắm một bóng hồng, chỉ còn có cách “Bắc thang lên hỏi ông trời, Cớ sao con phải đổi dời ra đây? ”… Nhiều người than rằng Phù Cát là vùng đất để đầy đọa con người. Nói như vậy thì hơi quá, nhưng buồn, đơn sơ, hẻo lánh và nghèo nàn thật…

Đến phiên phi đội tôi đi biệt phái theo nhu cầu của Sư Đoàn 6 KQ tại Pleiku thông qua sự chuẩn thuận của Phi đoàn trưởng Phi đoàn 241 Chinook. Đây không phải lần đầu tôi đi biệt đội tại Pleiku. Tôi đã từng ở biệt đội tại Pleiku từ những tháng ngày đầu tiên khi biệt đội mới thành lập vào đầu năm 1971 cho đến cuối năm 1972 do Phi đoàn 237 đảm trách. Khi Phi đoàn 241 được thành lập, tôi cũng là người cuối cùng của Phi đoàn 237 chuyển giao cơ sở biệt đội tại Pleiku cho Phi đoàn 241. Khi đó Th/tá Đỗ v Hiếu (chưa lên Tr/tá) và Tr/úy Nguyễn hữu Lành tiếp nhận.

Vài tháng sau, trong lúc đợi đi biệt đội Đà Nẵng, tôi nghe tin máy bay của Tr/úy Lành bị bắn rớt, và bị cháy. Tr/úy Lành và Tr/úy Châu bị phỏng nặng. Điều thật buồn và chua chát là chỉ vài ngày sau thì Tr/úy Lành đã anh dũng hy sinh đền nợ nước. Tr/úy Nguyễn hồng Châu cũng xuất thân từ Khoá 7/68KQ và may mắn hơn, còn sống sót nhưng cũng bị phỏng rất nặng…

Bây giờ, xin nói về những tháng ngày biệt phái của biệt đội tại Pleiku, thành phố sương mù quanh năm nhưng tình vẫn nồng và tim vẫn ấm. Thành phố đã gợi hứng cho biết bao văn nhân, thi sĩ viết lên những vần thơ, nét nhạc tuyệt vời như tình khúc “Còn một chút gì để nhớ” Nhạc của Phạm Duy, thơ của Vũ Định và còn rất nhiều thơ và nhạc nổi tiếng khác nữa nói về thành phố bé nhỏ thân thương này…

Con gái Pleiku cũng có những nét đẹp rất đặc biệt. Theo tôi họ dịu dàng, kín đáo hơn những cô gái thành đô. Tuy nhiên, một ánh mắt liếc đong đưa, một nụ cười duyên hé mở cũng đủ làm nghiêng ngả các chàng trai tuấn mã đa tình. Không hiểu sức hút nào hay ma lực nào mà con gái Pleiku đã làm điên đảo biết bao đấng nam nhi chi trí đến như vậy… Cũng biết bao chàng trai Không Quân đã được (phải) dừng bước giang hồ nơi đây… Thật là, Pleiku đi dễ mà khó về…

Phố núi cao uốn lượn cong queo trong thành phố, hai đỉnh núi “Hàm Rồng” thu hút và cho ta nhiều mường tượng khác nhau một cách thú vị về cấu tạo của nó… Các cô nữ sinh thướt tha bên tà áo trắng khi tan trường và hồn nhiên thả bước trên những con đường màu đỏ trông rất xinh và nữ tính. Xa hơn một chút với Biển Hồ phẳng lặng nhưng nhiều bí ẩn và huyền thoại. Đứng ở Biển Hồ và hít một hơi thở dài vào tận lồng ngực, tôi cảm thấy lâng lâng, nhẹ nhàng và toàn thân tôi như cuộn vào không gian siêu thoát… Tất cả vẫn trải dài trong tâm thức tôi, dù rằng tôi đã đến và đi nhiều lần ở thành phố này.

Đáp tại Pleiku và sẵn sàng cho các chuyến bay biệt phái. Tôi đinh ninh và nghĩ rằng sẽ có xe ra đón các phi hành đoàn như thường lệ?! Nhưng đợi hoài không thấy! Chúng tôi đành phải đi bộ về nơi tạm trú của biệt đội. Hỏi anh em xuống ca, tôi mới biết Quân Đoàn không biệt phái xe cho biệt đội Chinook từ lâu. Tôi thầm nghĩ!! Phải có lý do nào đó Quân Đoàn mới cắt ngang và không biệt phái xe như vậy?! Về sau tôi đã hiểu và cảm thông với ông Th/tá của Quân Đoàn…

Vừa cất đồ vào phòng, tôi đi qua phòng hành quân của biệt đội, anh Hạ Sĩ Quan (HSQ) trực gọi tôi và nói:
Đ/úy có Th/úy Thạch Wano (Th/úy TW) ở đầu giây điện thoại muốn nói chuyện với Đ/úy .
Cầm điện thoại, Tôi nói: Alo!!
TW trả lời: Anh Yên. Em Thạch Wano đây.
Tôi hỏi: TW đang ở đâu?
TW trả lời : Em đang ở cổng phi trường Pleiku.
Tôi lại hỏi: Ồ! Sao TW biết anh ở đây?
TW trả lời: Em về phép SàiGòn gặp anh Châu, (Tr/Úy Châu PĐ237), cho biết anh đổi ra đây. Thấy Chinook đáp em gọi thử cầu may !!!
Tôi nói: TW đợi anh kiếm xe ra bảo lãnh em vào đây rồi mình nói chuyện.
TW nói: Không cần đâu, Quân Cảnh Không Quân ở cổng ai cũng biết em, anh chỉ đường là em vào tới.
Tôi chỉ đường cho TW. Trong khi chờ đợi tôi coi lại sổ sách trong biệt đội và phân chia các phi hành đoàn trực bay. Không lâu TW đã đến phòng hành quân biệt đội. Tôi thấy TW ốm nhiều. Sau khi tay bắt mặt mừng, tôi hỏi: TW là dân Lôi Hổ không lên lon thì thôi tại sao lại xuống Th/úy thế này? TW kể chuyện đụng với sếp nên bị kỷ luật, xuống 1 cấp và bị đổi lên đây. Tôi còn muốn nghe thêm chuyện của TW nhưng chú em bị lên cơn sốt rét bất chợt nên tôi đưa qua phòng nằm nghỉ.

Sáng ngày hôm sau tôi bàn với Tr/úy Đoàn văn Lập qua Quân Đoàn xin xe biệt phái nếu không được thì cũng chẳng mất mát gì. Chúng tôi gặp Th/Tá trưởng phòng chuyển vận (lâu quá tôi quên tên) ông từ chối biệt phái xe với nhiều lý do. Tôi với Tr/úy Lập ấm ức nhưng đành phải ra về.

Đến chiều cùng ngày, Th/úy TW gọi và rủ ra phố chơi sau đó ăn cơm chiều. Tôi và Tr/úy Lập ra phố đến quán bên đường đối diện với rạp hát Thanh Bình. Ngồi ở bàn có Th/úy TW, Tr/úy Bé và vài anh em HSQ Lôi Hổ thuộc Liên đoàn 72 xung kích. Trong lúc hàn huyên, tôi được biết Tr/úy Bé cũng đang trong tình trạng của Th/úy TW trước khi bị đổi lên đây và đang bị tạm giữ tại quân trấn để điều tra. Hiểu được chuyện hai sĩ quan Lôi Hổ, họ chọn lựa giữa sự sống và sự chết của đàn em trong toán và biết được hai bạn bằng lòng chấp nhận mọi hình phạt để bảo vệ sự sống còn của đàn em. Thật hiếm có và đáng phục.


Trong lúc chén chú chén anh, một chiếc xe Jeep rà tới đậu cạnh lề đường, người lái xe mặc đồ dân sự bước ra ngồi bàn sát đường gần chỗ chúng tôi đang ngồi. Tôi nhận ra đây là vị Th/Tá trưởng phòng chuyển vận của Quân Đoàn. Tôi vẫn còn khó chịu và không thoải mái vì thái độ của ông này khi tiếp chúng tôi hồi sáng, nên tôi không mặn mà để ý tới. Vài phút sau thì ông đến bắt tay Th/úy TW và Tr/úy Bé. Tôi không biết Th/úy TW và Tr/Uý Bé nói gì với ông, tôi chỉ thấy ông tiến tới bắt tay tôi và Tr/úy Lập. Trước khi quay đi ông nói với tôi là sáng mai ông sẽ biệt phái cho tôi 1 chiếc Jeep A2 đẹp thứ nhì của Quân Đoàn chỉ sau xe của tướng vùng.

Đúng như lời hứa. Sáng ngày hôm sau chúng tôi có một chiếc xe Jeep A2 đẹp cáo cạnh cùng với “ang ten” dài móc ngược tới tận sau xe. Đây là loại xe Jeep “lùn” đời mới. (Nghe nói đây là xe của Đ/Tá chỉ huy trưởng pháo binh). Khi tôi đi bay thì Tr/úy Lập ở nhà dùng xe làm phương tiện di chuyển anh em và đưa rước phi hành đoàn (PHĐ). Đến ngày thứ 3, sau khi rước PHĐ chúng tôi về thì Tr/úy Lập cho biết xe sắp hết xăng. Làm sao bây giờ!!! Tiền không đủ ăn làm gì có chuyện lấy tiền đổ xăng. Chắc lại cuốc bộ cho những ngày còn lại…

Chiều đó đang ở phòng hành quân, tôi chợt nhớ đến Tr/úy Lê đăng Hùng (K7/68KQ). Khi mới lên biệt đội tôi có đến nhà Tr/úy Hùng ăn tối. Trong bữa ăn đó có Tr/úy Tú trưởng trạm hàng không, Tr/úy Trang Quân Cảnh, Tr/úy Danh Trưởng phòng quân xa và vài anh em khác. Tôi nhớ mang máng hình như Tr/úy Hùng là trưởng phòng chuyển vận mà đã là dân chuyển vận thì chắc là có xăng! Tôi lưỡng lự vì bạn bè không gặp nhau từ khi rời quân trường Thủ Đức, nay mới gặp lại, đã được đãi ăn, bây giờ lại hỏi xin xăng thì không biết có tiện không? Không có xăng mà phải cuốc bộ thêm vài ngày nữa chắc là mệt và khó khăn lắm đây… Thôi thì một liều ba bảy cũng liều. Cứ hỏi thử xem sao? Đẹp trai không bằng chai mặt... Tôi gọi Tr/úy Hùng và trình bày vấn đề xăng nhớt . Tr/úy Hùng nói cứ đem xe ra cây xăng sẽ cho đàn em đổ. Tr/úy Hùng chơi với bạn bè quá đẹp. Không có một lời từ chối. Tôi như cây khô được tưới nước, vội vã báo tin cho Tr/úy Lập đem xe đi lấy xăng. Đây quả thật là một ân tình. Tôi và Tr/úy Lập sẽ mãi ghi nhớ ân tình này, sống để khoe và chết mang theo….

Hôm sau xong phi vụ trong ngày, tôi với Tr/úy Lập qua nhà Tr/úy Phan minh Nhơn (K7/68KQ) tắm nhờ rồi đi ăn. Đi bay nhiều nơi vừa nóng vừa bụi, về đến Pleiku thì trời đã tối và thời tiết thì lạnh, không tắm thì dơ dáy và khó chịu mà tắm nước lạnh thì “teo” hết chịu không nổi. May quá, nhờ Tr/Uý Nhơn chế được máy nước nóng loại dã chiến trong nhà và sẵn lòng cho tôi và Tr/úy Lập dùng nên cũng thoải mái phần nào. Sau đó tôi và Tr/úy Lập ra phố ăn tối. Đến nơi thì đã thấy các bạn đã có mặt. Hỏi ra, thì được biết Tr/úy Lập đã mời các bạn gặp nhau ăn tối ở đây. Thật là một bữa ăn tình cờ và nhớ đời…

Sau này khi đến Mỹ lúc ngồi nhậu bạn Lập có nhắc lại buổi ăn tối hôm đó và hỏi tôi: Có biết tiền ở đâu ra để trả cho bạn bè cả đám hôm đó không? Tôi chịu thua, thì bạn Lập kể lại nhờ chiều hôm đó Tr/úy Hùng cho đổ xăng, khi đổ đầy xăng cho xe, Tr/úy Lập nói với anh lính đổ thêm can xăng phụ nữa nên mới có tiền trang trải bữa ăn. Tôi kể lại chuyện này cho bạn Hùng nghe thì bạn chỉ mỉm cười… Tin hành lang là Tr/úy Lập còn làm thêm vài chuyến “uống” xăng như vậy… Thiệt là đói ăn vụng, túng làm liều… Con nhà lính nhưng lại tính quan… Thế mới khổ... Viết tới đây, tôi có phần hiếu kỳ: Lạ thật không hiểu sao chỉ trong ba ngày Tr/úy Lập có thể tiêu thụ hết một bình xăng?? Pleiku quá nhỏ và đường phố lại ít xe qua lại? Nếu một mai khi hoà bình chắc phải coi lại “dzụ” này ...

Tôi không được gia nhập KQ vì khi đó chưa đủ tuổi. Nếu muốn, cần phải có giấy uỷ nhiệm của cha mẹ và thị thực chữ ký của Quận thì mới hợp pháp. Ngay sau khi thủ tục giấy tờ hoàn tất thì cũng đúng lúc tôi được chọn vào K7/68KQ với 256 người mà hơn 2/3 là không phi hành mà sau này đi đến đâu gặp các bạn K7/68KQ, tôi cũng được tiếp đãi, giúp đỡ một cách thân thiện và chân tình. Đó cũng là ưu điểm tuyệt vời của tình bạn, tình chiến hữu trong Không Quân Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.

Tôi cũng gặp nhiều may mắn khác trong binh nghiệp như lúc qua Mỹ học bay trực thăng, khi mãn khoá thì có tài khoá cho học bay Chinook. Tôi lại được chọn để đi học khoá CH-47 Chinook đầu tiên. Về nước năm 1970 lúc 21 tuổi với cấp bậc thiếu úy, 22 tuổi lên trung uý, 23 tuổi lên đại uý. Đến năm 24 tuổi không có nghị định thăng cấp đợi mãi đến cuối năm thì Việt Cộng quyết định gởi tặng tôi 1 quả phòng không với mục đích thăng tôi lên cố thiếu tá. Nhưng “mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” tôi đã đáp được xuống vùng đất an toàn.

Gởi đến các bạn K7/68KQ và đồng đội bài viết này như một lời cảm ơn cho tình bạn trong thời trai trẻ, một thời cùng nhau chiến đấu cho sự tự do, dân chủ, ấm no của miền Nam Việt Nam và cho tình bạn của những năm tháng còn lại luôn được vui vẻ, hợp quần, chia sẻ và gần gũi nhau nhiều hơn. Cũng ước mong một ngày không xa, Việt Nam sẽ có Độc lập, Tự do và Thanh bình cho mọi người…

Hồ viết Yên
PĐ237 / PĐ241

Posted by: caoduy Sep 18 2015, 09:46 AM


Vết xích chiến xa trên đất Kontum


Đời Nhảy Toán / Nguyễn Văn Hải Chiến Đòan 1 Xung Kích
Toán chờ xuất phát. Thiếu úy Điệp (Phạm ngọc Điệp) trưởng toán (One zero), sáng nay đã bay Covey Ov10 quan sát bãi đáp, dự thuyết trình mục tiêu. Chuyến này Trung sĩ Quang (Trần Quang) toán phó (One one) phụ trách điện đàm

Khác hơn thường lệ, chiều nay mới bốn giờ toán chúng tôi đã được ăn cơm. Xong một lân nữa lệnh kiểm soát lại đồ đoàn. Toán chờ xuất phát. Thiếu úy Điệp (Phạm ngọc Điệp) trưởng toán (One zero), sáng nay đã bay Covey Ov10 quan sát bãi đáp, dự thuyết trình mục tiêu. Chuyến này Trung sĩ Quang (Trần Quang) toán phó (One one) phụ trách điện đàm, còn lại là bốn toán viên Biệt kích quân (BKQ). Tôi BKQ Hải (Nguyễn văn Hải) Thông dịch viên. BKQ Nguyễn duy Châu Khinh binh (point man) BKQ Hào (Lê thanh Hào) M79 sau cùng BKQ Cường (Nguyễn mạnh Cường) đoạn hậu.
Sáu người trong toán được đưa lên chiếc xe bít bùng, đậu trong sân. Đây là cãn cứ đươc xây dựng đặc biệt để người bên ngoài không thể nhìn thấy gì bên trong. Thiết kế ba dẫy nhà liền nhau tạo thành chữ U. Mọi cửa phòng bên trong, mở ra chung mọt cái sân. Phía trước cái cổng sắt đặc liền, luôn có người gác, cửa đóng im ỉm. Đó là căn cứ Biệt kich nằm trong phi trường Nakhon Phanom (NKP). Xe bít bùng mở cửa sau, rồi de khớp vào cánh cửa hông của chiếc trực thăng CH53 Jolly Green. Bằng cách này người bên ngoài không thể nhìn thấy cái gì được chuyển từ xe lên trực thăng .Tức thì ,cửa trực thăng được đóng lại ngay, rồi tiếng đề pa của động cơ cánh quạt rít lên, từ từ xoay nhấc bổng rời bay đi.
Nhìn qua khuôn cửa, trời đă nhạt nắng. Lên đến cao độ, trực thăng bay với sự hộ tống của hai Khu truc cơ A1 Skyraider đến từ lúc nào và đang bay kèm hai bên. Xem đồng hồ đã qua nửa giờ bay, nhìn qua cửa,bóng chiếc Covey OV10 (FAC) ánh lên cùng nắng chiều tà. Thiếu tá Thụ (Nguyễn văn Thụ) Sĩ quan Điều Nghiên và Không Thám, ra hiệu cho Toán chuẩn bị.





Một Thượng sĩ người Mỹ đã đứng trước cuộn thang dây. Không có bãi đáp, Toán được xâm nhập bằng thang dây. Trực thăng nặng nề hạ độ cao. Ngoài cửa sổ chiếc A1 đang lao xuống dọn bãi đáp bằng đại bác 50, tiếng như bò rống. Toán đã sẵn sàng.Trực thăng ồ một tiếng lớn, rít lên rồi từ từ đậu bên trên ngọn cây bao quanh một hố bom trống trải. Toán từng người một leo bám vào thang dây lẹ làng đáp đất .
Toán đã tiếp được đất an toàn, coi như xâm nhập thành công ...Có tiếng rên và tôi quay ngoắt lại. Cường nhóc sao nửa mặt đầy máu. Nhanh như cắt tôi nắm lấy máy truyền tin từ Quang gọi Covey báo cáo tình hình và mô tả vết thương. Nhìn máu chan hòa nửa gương mặt, Hào đang loay hoay phụ băng vết thương. Trước tình thế tôi thật sự nghĩ là nghiêm trọng và xin triệt xuất. Hỏi nguyên do chỉ vì cạnh ngoài chấn thang tự nhiên đập thẳng vào đầu. Người Mỹ trên Covey hỏi lại một lần nữa. Tôi đáp chắc chắn cái đầu nó bị bể. Thế rồi lệnh triệt xuất được truyền xuống. Trực thăng trở lại, sáu người leo lên thang, lựa chỗ cho đủ đứng rồi móc cái móc từ người vào thang. Thiếu úy Điệp người cuối cùng ở vị trí cuối thang ra hiệu trực thăng bay đi.
Về đến phi trường NKP trời đã về đêm, dưới ánh sáng đèn trên trực thăng tôi thấy Cường nhóc ngoài cái băng trên đầu, trông nó như chả làm sao cả. Tôi giật mình khi người y tá vào trong khoang tầu săn sóc vết thương cho Cường. Thiếu tá Thụ đứng bên tỏ vẻ lo lắng vì thấy vết thương quá nhẹ... Xe bít bùng chở Toán đang đường về căn cứ. Ngồi trong xe ai ai củng tỏ vẻ ngượng ngập nhất là tôi và Thiếu úy Điệp. Nhìn cái băng cá nhân tí tẹo trê trán Cường nhóc mà thấy xốn sang trong dạ và chuẩn bị đối phó bởi báo cáo của mình không xác thực . Xe đã vào trong sân căn cứ. Thiếu tá Thụ vội vàng, trước nhất xuống xe đi thẳng vào phòng Hành quân, dẫy nhà bên hai Toán người Thượng nhìn có vẽ soi mói trong ánh đèn pha trên cột cao dội ánh sáng chói chan xuống sân. Một Trung sĩ người Mỹ gọi tôi và Điệp lên phòng Hành quân. Cửa vừa mở, hai tôi bước vào chưa kịp dơ tay chào, đã gặp ngay nét mặt nộ khí xung thiên của Thiếu tá người Mỹ trưởng căn cứ. Sau một hồi dữ dằn mắng chửi với khoa tay múa chân, khỏi cần thông dịch. Ông ta giờ có vẽ nguôi và đang giải thích về chi phi cùng những khó khăn của một quá trình xâm nhập. Thiếu tá Thụ ngồi bên hoàn toàn yên lặng... Bây giờ thì " Này các bạn, với tư cách Trưởng căn cứ, tôi tuyên bố Toán của các bạn đang trong muc tiêu " Rồi tiến đến bắt tay Thiếu úy Điệp và vỗ vào vai tôi ông nói giọng gằn từng tiếng " Nhớ, đừng quên học thêm tiếng Anh bạn ạ".
Thiếu tá Thụ đánh thức chúng tôi dậy vào lúc năm giờ sáng, thông báo ba mươi phút nữa Toán đươc đưa ra sân bay. Cường nhóc ở lại NKP... Toán còn lai năm người hành quân.


Chiếc MC130 Blackbird, loại có râu móc trước mũi đề bốc Toán theo kiểu James Bond 007 (Fulton Skyhook Extraction System). Cửa sau đã mở sẵn chờ đợi cửa sau của xe bít bùng chở Toán. Thiếu tá Thụ không đi theo. Máy bay lập tức ra phi đạo rồi cất cánh. Hơn nửa giờ bay, giờ phi cơ đang chuẩn bị hạ cánh, cái cảm giác nặng chịch trong lòng cùng buốt hai tai, tạo cho tôi cảm giác bay bổng nhưng rất khó chịu trong người. Một xe GMC chạy đến tận cửa sau máy bay đón chúng tôi. Nhìn vào nóc nhà xây trước mặt, trên nóc nhà hàng chữ. Phi trường Kontum. GMC chở Toán đên một khu vực cũng nằm trong phi trường, trên sân sáu chiếc Kingbee sơn mầu blackbird đang chờ, sẵn sàng cất cánh.


Từ trực thăng, cảnh núi rừng trùng điệp. Bên dưới, đám mây trắng kéo thành một vệt dài dưới ánh nắng như chưa đủ sức làm tan loãng. Gió phần phật lốc vào làm ran rắt trên mặt cùng tiếng ầm ĩ của động cơ trực thăng. Người xạ thủ trực thăng, cạnh tôi mời thuốc hút.
Đảo một vòng, trực thăng chở Toán bắt đầu đáp xuống, theo sau những chiếc đã xuống trước. Đoàn King Bee sáu chiếc, chỉ chở năm hành khách. Dưới bãi đáp, một Trung úy người Mỹ thông báo phi hành đoàn cùng toán trưởng vào dự thuyết trình. Ngay tức thì, Thiếu úy Điệp, đưa cây Car 15 cho tôi, rồi vào phòng Hành quân.
Hai chiếc Kingbee cất cánh và một trong hai chở theo Toán. Vượt qua những ngọn đồi thoai thoải tiếp nhau, xa xa dẫy núi xanh mờ chắn ngang. Gió dữ dằn tung lốc ào ạt quanh quanh. Những đám mây lạ lạc bất thần tạt cái lạnh êm êm. Hai chiếc Cobra, đến từ lúc nào đang song hành hộ tống. Sự phối hợp không quân bài bản, nhuần nhuyễn với độ chính sác cao. Dưới kia giòng sông đỏ ngầu mầu đất ngoằn ngoèo chia cắt giữa núi cao và đồi cây. Xa kia, tầng mây trắng như cố bám lấy núi rừng và tuyệt vời hơn nữa, những đám mây mỏng nhỏ lang thang tạo thành bức tranh thần tiên lãng đãng. Người xạ thủ trực thăng ra dấu Toán chuẩn bị. Nhìn ra ngoài, đã thấy rõ chiếc OV10 (FAC) bay đằng xa. Theo thuyết trình hai chiếc Kingbee sẽ đáp xuống cùng một lúc hai bãi đáp khác nhau và chỉ có một chiếc là chở Toán, nhằm đánh lừa địch. Trực thăng hạ độ cao. Chiếc Cobra đang dọn bãi bằng đại liên sáu nòng và M79 tự động. Bằng vào một động tác hạ nhanh, trực thăng sát đất rồi trườn xa một quãng. Đáp vội trên con suối cạn, đá lởm chởm. Toán chúng tôi nhanh chóng thoát vào rừng cây.
Cơn mưa ngày qua để lại dấu tích dễ nhận trên bề dầy của lá rụng, nơi sinh sản và cũng là căn cứ của loại vắt độc hại. Mùi khai nồng, hăng hắc của cây lá bung lên như muốn giao tình với ánh nắng trên cao. Nhưng nắng chẳng đủ sức xuyên qua tàn cây xòe rộng dù rằng nắng đang trực diện với đất. Lặng lẽ chúng tôi cố gắng di chuyển thật nhanh để tránh cái lộ của bãi xâm nhập. Khi máy bay đi rối, chắc chắn ở gần đây, địch sẽ đến và thám thính.
Dự đoán không lầm, khi anh em ngồi nghỉ rồi ăn trưa, đất vẫn còn nhão, thêm sự tĩnh lặng, lẫn tiếng thú rừng thi thoảng âm vang rồi vọng lại. Tiếng súng địch bắn để báo động cho nhau. Rõ nhất vẫn là tiếng gà rừng mà tất nhiên không thể thiếu ở bất cứ một khoảnh rừng nào. Thiếu úy Điệp cùng Châu đang căn lại bản đồ lấy phương hướng. Hào thì vẫn cái mùi mắm ruốc xả kinh niên mà mỗi chuyến hành quân, vợ tịch thu hết lương khô, xong phát cho một hũ Ruốc xả có thề ăn dè được cả tháng. Có tiếng Covey lên bao vùng, tôi mở điện đàm chờ đợi. Toán phó Trần Quang đã giao điện đàm cho tôi để thế chỗ Cường nhóc đoạn hậu. Tiếng Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) trên Covey gọi Toán, tôi chuyển ngay bức điện đã làm sẵn, rồi nhanh chóng di chuyển, đâm xâu vào mục tiêu.


Khu rừng thật rậm rạp. Châu vất vả lắm để mở đường. Len tỏi, lạng lách, đánh vật với cây rừng, khi mà yêu cầu đi đúng đường. Chốc chốc hắn lại phải xem la bàn. Thiếu úy Điệp đi kế Châu, cây Car 15 luôn sẵn sàng bảo vệ. Trời quá chiều, ánh nắng hắt những tia cuối cùng. Muỗi như vã vào mặt và vắt thì nhiều vô kể, nó đi tìm mồi như người làm xiếc, di chuyển uốn dẻo thân mình rồi bung tiến tới mồi rất chính xác nếu chúng tôi lộ ra khoảng da thịt. Điệp đả chọn được chỗ nghỉ ăn cơm chiều. Có tiếng hú vọng lại, trầm ấm, lan tỏa rồi hình như lại dội lại. Trên tàn cây lao xao tiếng chim gọi nhau, thiếu đi giọng hót mượt mà ban mai. Tiếng súng địch quân vẫn thi thoảng nổ gọi nhau hay báo hiệu gì đó... Tay lấy lọ thuốc muỗi, xoa thêm vào mặt và tay để đối phó với sự tấn công quyết tử của vắt và muỗi. Nhá nhem tối, Toán đi tìm chỗ ngủ, lý tưởng nhất vẫn là gốc cây to, rễ bạnh. Trung sĩ Quang lên đi đầu. Di chuyển êm, chậm chạp và cẩn thận nghe ngóng. Trời tối hẳn, ánh trăng tỏa vằng vặc từ lúc nào. Đứng nghe ngóng một hồi lâu. Thiếu úy Điệp ra lệnh ai hút thuốc thì hút đi... Cẩn thận vì khói thuốc tỏa rất xa và đó là cái mùi không có ở núi rừng. Kinh nghiệm cho thấy, có Toán địch theo dõi cả ngày, đem đến, chỉ vì mùi thuốc lá dễ nhận, địch âm thầm bao vây và tấn công. Xong , Quang gài lại trái mìn M14 rồi di chuyển tìm chỗ ngủ. Địa điểm ngủ đêm đã được đồng ý. Toán chúng tôi hạ bàn tọa... Một đám mây đen lao thẳng vào mặt trăng, trời bỗng tối xầm rồi lại sáng. Ba lô là gối, lá cây rừng làm nệm. Dưới ánh trăng từng ngọn gió nhẹ lay động cây lá truyến tải ánh sáng phản chiếu lung linh. Cảm giác như lạc vào cõi kinh dị. Nghĩ bụng phải nhắm mắt lại ngay và đừng suy nghĩ cố mà tìm giấc ngủ. Đây là một kinh nghiệm, vì đã có những toán viên không ngủ được trong tình cảnh này, đã thút thít khóc gọi mẹ, để rồi bị chế giễu và sa thải, hay những toán viên đào ngũ chỉ vì đã từng để lại tiếng thở dài trong đêm hành quân.
Trời sáng, sương đêm còn ướt nơi ngực, là đà quẩn trong gió, sương mù mỏng dần theo gió núi lành lạnh. Thông lệ Toán có một tiếng đồng hồ đễ vệ sinh và chuẩn bị cơm nước trong ngày. Point man Châu trở lại vị trí dẫn đầu, giờ đang cùng Thiếu úy Điệp căn lại phương hướng, xong Điệp đưa cho tôi bức điện tin vừa viết bằng mật mã. Bất giác tôi nhìn Châu, khăn mầu lá cây cột trên trán, cái răng vàng nhìn thấy rõ bởi cái miệng hắn hô, trên gương mặt lầm lì, xa vắng như nhớ vợ. Tự nhiên tôi bật lên tiếng cười. Lệnh di chuyển, ngoái lại thấy Trần Quang đang xóa dấu vết. Tiếng súng báo hiệu hôm nay, bên này đã trả lời. Cánh rừng bớt rậm, nhưng cây lớn nhiều. Thỉnh thoảng vài trái cây ném xuống từ trên cao, nhìn lên thằng khỉ đang nhăn răng cười tay gãi gãi vào nách. Không gian bao trùm âm thanh núi rừng, nắng chếch trên cao, sưởi ấm cái lạnh bên dưới nhưng không đủ sức. Châu bất thần ngồi xuống tay ra thủ hiệu dừng lại, mắt nhìn Điệp và tôi. Quan sát động tĩnh rồi ngó về phía trước... Một con đường mòn chắn ngang hướng di chuyển. Phân công ba người yểm trợ, Điệp và tôi lum cum đi lên thám thính... Con đường rất ít lá cây, có nơi nhẵn nhụi, lạ lùng nơi kia loang một vũng nươc nhỏ như có ai mới vừa tiểu tiện. Hoảng hốt tôi kéo Điệp trở lui, miệng lầm bầm "đồng chí mái" Điệp hỏi lại "sao Hải biết". Đến nơi đòng đội đang chờ, tôi giải thích... Vết lỗ đái nhỏ, xâu in trên đất, tại vũng nước loang tròn, hạn chế thì dứt khoát đó là tác phẩm của phụ nữ, các bà. Gọn ghẽ và thẩm mỹ. Thiếu úy Điệp phất tay ra dấu, vượt đường mòn từng người một, yểm trợ lẫn nhau, đi trên lá cây. Bở hơi tai, chúng tôi đến đươc nơi có thể ngồi nghỉ. Có tiếng Covey trên bầu trời. Điệp vội vàng thêm vài chi tiết vào bức điện. Đại úy Ginh từ Covey đang gọi Toán, tôi trả lời và mau chóng chuyển ngay bức điện. Bây giờ tôi mới nhân rõ Thiếu tá Thụ trên Covey. Hai ông đều nói tiếng bắc nên dễ lộn.

5 Tiếp tục tiến vào mục tiêu. Nửa tiếng ăn buổi trưa, Toán vội vã di chuyển để tránh địch theo dõi. Châu dừng lại bên tảng đá cao ngút đầu, ngồi xuống rồi đưa tay chỉ. Một con suối rộng, nước chảy lặng lờ trong kẽ đá. Xa xa mà mắt thường có thể nhìn thấy, bên bờ suối, trên dốc thoai thoải, nép vào những cây cao. Hai dẫy nhà bằng cây rừng tre lá, ẩn nấp dưới những tàng cây. Thấp thoáng vài bóng người. Bên này suối, xa hơn một tí, những ngôi nhà ngắn và nhỏ, lọt xâu giữa những tảng đá lớn. Vài tên bộ đội đang lấy nước.
Toán nhanh chóng di chuyển càng xa càng tốt, nhắm hướng hạ lưu. Thấy có vẻ ổn, Toán dừng lại bàn bạc và đồng ý xin không kích. Định vị trên một vị trí có vẻ kín đáo và thuận tiện cho tác chiến. Tôi vừa ăn trưa vừa lo bắt liên lạc với FAC (Covey OV10), nhưng không được đành phải xài tới hệ thống máy cấp cứu P90. Một lúc sau, khọt khẹt và tiếng trả lời hoi: Sóng cấp cứu của ai lên với tần số...Tôi thông báo mật danh và được trả lời hãy đợi.
Mười phút trôi qua, động cơ ì ì của Covey càng lúc càng rõ. Trong máy PRC74 đã nghe rõ tiếng gọi Toán. Một ông tây điều không, trả lời mật danh và chuyển lên bức khẩn điện, tôi yêu cầu Không-quân. Mười phút sau khi nghiên cứu bức điện và điều không. Lời yêu cầu được chấp thuận. Báo cáo với Điệp, hiểu ý Quang và Hào lẳng lặng lấy trong ba lô hai trái mìn Claymore, hỏi ý Điệp nên gài ở đâu. Chớp nhoáng Toán đã ở vào vị trí chiến đấu. Nép vào góc hai cục đá to, giữ cái PRC74 ở vào nơi tương đối an toàn. Tôi đang ở giữa bốn đồng đội. Trên tầng cây cao sau lưng, tiếng kêu ré lên đuổi nhau ầm ĩ của đàn chim, chúng đang tung chưởng đánh nhau.
Covey lúc này đang vòng trên đầu chúng tôi. Hắn gọi Toán và xin mở cửa sổ (ý muốn thấy vị trí Toán bằng chiếu gương).Tôi cầm cái gương dưa lên mắt, ngó hướng mặt trời, lấy ánh sáng hội tụ tròn mờ trong gương và qua lỗ nhắm giữa gương chỉnh điểm ánh sáng tròn mờ lên thẳng Covey đang bay....À thấy rồi, xin cho mục tiêu. lúc này không còn cần mật mã, mà nói trực tiếp và bạch hóa.
-Lima charlie (tên Covey)nghe đây, ngay tại triền suối, hướng Tây, khoảng cách 1000 mét
-Pa pa oscar (tên Toán) nhận rõ, chuẩn bị panel cho oanh kích.
Một Phantom F4 lúc này đang bay trên trời.
-Papa oscar đây là Li ma charlie. Tao sửa soạn làm tình, xin cho ý kiến và trải panel vàng.
Một cú bay xuống như tia chớp, chiếc Covey lao nhanh trực chỉ mục tiêu và trái rocket đã được bắn ra. Nhìn làn khói trắng bốc lên, tôi ước lượng và gọi Covey.
-Lima charlie. Mục tiêu 200 mét về hướng bắc. Ngay triền suối.
-OK Papa oscar. Hãy nhìn đây.
Covey đảo nửa vòng cung, đầu chúc xuống, thêm một trái rocket thứ hai xuống mục tiêu. Máy bay múc thẳng lên cao, nghiên nghiên rồi ngừa bụng lên trời, tí sau mới lật lại, bay bình thường. Với câu hỏi:
-Papa oscar. Đúng mục tiêu chưa. Tao chơi có khá không?
-Lima charlie, Đúng rồi, thật tuyệt. Anh trình diễn giống như Elvis Presley.
-Cám ơn cám ơn Papa oscar. Ha, ha, ha, ha.
Liền tiếp theo sau, chiếc F4 xà xuống một trái bom ghim ngay mục tiêu khói trắng chỉ điểm.Tiếng nổ vang dội và một cột khói lửa bao trùm bốc cao. Ngay đầu tiên hắn đã xài loại 500 cân anh.Trên bầu trời lúc này còn thêm chiếc A1 Skyraider chả biết đến từ lúc nào? bất thần theo sau chiếc F4
6Máy bay như ngừng lại khi khai hỏa một loạt đại bác 50 và rồi hất ra tung tóe như đậu vãi những trái bom bi cứ như nắm tay một, rồi nghiêng nghiêng tăng tốc vút lên cao. Chợt tôi hoảng hốt, nhìn thấy làn đạn xanh, đỏ từ dưới đất bắn lên.


-Lima charlie. Đồ chơi có gai, ngươi thấy gì không? xanh, đỏ đang lên với bạn.
-Cám ơn, Papa oscar, thấy rõ 5 trên 5, có lẽ còn trước cả bạn. Nó sẽ câm họng.

Chiếc Phantom tiếp đến bổ nhào xuống và cắt một lúc hai trái bom, rồi biến mất sau cột khói mịt mù. Tiếng nổ khủng khiếp tạo sư chấn động, mà chỉ nhũng kẻ có tinh thần thép mới không khỏi sợ hãi khi mắt chứng kiến cảnh hãi hùng bom đạn, khói lửa bao trùm


-Papa oscar ghi nhận có tiêng nổ phụ. Xin xác nhận.
-Lima charlie...Đúng rồi và cháy dữ dội, có thể là kho tồn trữ nhiên liệu.

Trên cao họ tinh tường thật, lúc này bình tâm tôi mới nhận ra và báo cáo...Tới tấp đánh vào mục tiêu, chiếc A1 bổ nhào ném thêm hai trái bom Napalm. Một vệt dài toàn lửa cháy dần loang, tung lên những cuộn khói đen kịt. Trên bầu trời đã mất hút chiếc F4 và chiếc A1 cũng nhỏ dần. Sau đám mây cuồn cuộn trắng. Chỉ con lại chiếc Covey quần đảo, để ghi nhận cùng xác định kết quả.


-Papa oscar...Tạm biệt, thằng nhóc. Ta đã biết mi là ai rồi. Chuyển lời khen đến mi, con trai. Ta đi lo phần việc tiếp theo.
Tháo gỡ hai trái mìn claymore phòng thủ. Quang và Hào đã sẵn sàng di chuyển. Ngoái nhìn mục tiêu, vẩn tiếng nổ rời rạc và lửa khói bốc cao. Toán nhanh chóng vượt con suối trống trải. Biến vào khu rừng bên kia... Tiếng súng quanh quanh vẫn bắn cú một truyền tin ... hay đang có một cuộc lùng sục của địch. Chiều tà mang mầu nắng vàng ệch soi rọi trên khuôn mặt mỗi người. Tàng cây rừng thưa cao nghất không đủ sức che chắn ánh nắng chiếu ngang tạo cảnh thu não lòng trên cùng hình ảnh năm cái bóng đổ dài như ma quái chập chờn. Cố gắng di chuyển thật nhanh để kiếm tìm sự che chắn. Toán bất chấp sự hiểm nguy, vì chẳng còn con đường khác. Phải nhanh chóng thoát khỏi khu rừng thưa náy.

Mọi lo lắng rồi cũng qua, địa thế lại thuận tiện. Chúng tôi ăn cơm trong ánh sáng còn sót lại trong ngày. Tìm được chỗ ngủ, khi bóng tối bao trùm. Núi rừng bỗng trở nên yên lặng kỹ quái, như cố đẩy lùi những xao động vừa qua. Vài tiếng hú gọi nhau thê dài như có vẻ nhớ nhau. Trong ánh trăng chiếu rọi xuyên cành. Năm chúng tôi im lìm, lặng lẽ đi vào giấc ngủ.

7 Tiếng ngáy của thằng Hào làm tôi tỉnh giấc, chửi thề trong bụng, tôi nhoài người đưa tay lay gọi nó "mẹ cái thằng, đồ chết tiệt, ăn cho đẫy mám ruốc vào, ngủ rồi ngáy " Xem đồng hồ, mới bốn giờ sáng. Tôi nín cười vì bất chợt được thưởng thức bản hợp tấu tiếng người ngáy và gà gáy xen lẵn tiếng đệm âm trầm của thú rừng xa xa. Điệp hình như cũng đã thức. Trần Quang xích lại phía tôi rủ hút thuốc. Tôi buột miệng dút khoát"không được".Anh trăng treo ngang in nguyên cành lá trên gương mặt tẽn tò của Quang đã xấu lại càng xấu thêm.
Hai trái claymore phòng thủ đã được thu hồi.Toán chuẩn bị di chuyển. Sương mù dầy đặc làm hạn chế tầm nhìn và cái lạnh ướt hai hàng mi. Có tiêng súng nổ rồi bên này đáp lại. Địch đang truyền tin cho nhau. Đến một con suối cạn, bên kia dốc cao. Ngồi quan sát địa hình... Châu và Điệp đang so lại bản đồ và địa bàn. Hướng đi được xác định, phải vượt suối và khắc phục dốc cao. Châu và Điệp sang trước, ba người bên này yểm trợ. Đã có nhửng hòn đá theo chân của Châu, Điệp lăn xuống lòng suối, phát ra những tiếng va chạm lớn theo đà lăn, gây sự nguy hiểm, chú ý nếu địch ở gần đây. Bắt đầu ba người còn lại vượt qua dưới sự yểm trợ của hai người sang trước.
Vào ngay hướng đi của Toán, phía trước thoai thoải cánh rừng thưa, cây cao,bóng cả. Nắng chói rọi một mầu vàng vào từng đốm bãi cỏ bên dưới mà không bị che khuất bởi những tàn cây dâm mát. Xa xa tít ngoài, bìa rừng xanh thẵm, đẹp như tranh vẽ.
Địa thế thật bất lợi và rất nguy hiểm cho di chuyển và tác chiến. Lộ nguyên hình trong nhiệm vụ Thám-sát đồng nghĩa với nhất chín,nhì bù. Thiếu úy Điệp ra lệnh phòng thủ đợi Covey, vì thường vào giờ này đã lên bao vùng. Một con khỉ đực lông vàng, to lớn có vẻ đầu đàn, nhăn nhở cười trên cây, tay gãi gãi mân mê khoe quả quí. Ở phía xa kia lũ chim líu lo, đanh đá đánh nhau hay đùa giỡn ầm cả một góc rừng. Có tiếng ì ì quen thuộc của Covey rồi Thiếu tá Thụ gọi. Tôi gửi ngay bức điện, Điêp đưa cho hồi sáng rồi trao máy cho Điệp trực tiếp xin yểm trợ ...Lệnh chấp nhận và Toán bắt đầu di chuyển. Covey vọng ngay trên đầu.
Bở cả hơi tai, mồ hôi nhễ nhại. Cuối cùng cũng đã vượt qua trở ngại. Yên tâm hơn với địa thế hiện tại. Vẫn tiếng súng cú một quen thuộc, rồi tiếng đáp trả. Sự đe dọa tinh thần căng thẳng hay một cuộc bao vây đang hình thành vì điên tiết bởi trận oanh kích ngày qua. Point man Châu bỗng dừng lại. Tôi và Điệp lên quan sát. Con đường rộng, cách chúng tôi chừng tám hay mười mét, ngang hướng đi của Toán. Lên tiếp cận con đường, Điệp chụp ảnh và ghi nhận... Đường rộng hai mét, dấu vết thường xuyên và đang sử dụng, lá cây không bao phủ hết, lòi cả đất. Một vết trượt ngắn để lại dấu dép nghiên nghiên. Ngoắc tay ra hiệu cho Toán đi lên, chúng tôi vượt qua con đường.
Nửa tiếng nghỉ ăn trưa. Một tiếng hú lạ tai dài hơi ở hướng bắc, bên này cũng hú đáp lại. Chúng tôi nhìn nhau, lòng cũng đã hiểu. Sự sợ hãi ập tới chen lấn và len lỏi trong tôi. Nhưng rất may chỉ thoáng qua. Ý tưởng vượt khó, lồng lẫn vài gương mặt mấy em cava, xinh sắn thơm như mít, đã làm tâm hồn dịu lại. Mồ hôi chẩy dài trên mặt người đi đầu thật vất vả. Cái mặt bóng lưởng bởi thuốc bôi trừ muỗi và vắt nay lại càng bóng thêm vì mồ hôi. Bất giác mọi người nhìn nhau như muốn hỏi... Tiếng chim ré lên lao xao như đang gặp người lạ... "Kệ mẹ nó, tiếp tục, chả có chi" Tiếng nói khẽ của Thiếu úy Điệp nghe đanh vả gọn. Vẻ lừng khừng. Châu lại tiếp tục mở đường.
Một cơn dâm buổi chiều, che khuất ánh nắng đã ngả về tây. Ranh giới của rừng rậm,lui dần về phía sau. Trước mặt dốc thoai thoải trống trải tối mù bởi nhũng tàn cây xòe rộng. Nhũng cây cổ thụ vút lên cao vẻ thách thức. Một con đường lớn băng ngang ở phía trước chia cắt bên kia rừng chồi non, bên này cổ thụ. Toán khựng lại, án binh bất động. Thật đáng ghét, đành chờ tối hẳn... Trung sĩ Quang và Hào vùa giăng xong hai trái mìn phòng thủ. Vẫn tiếng súng phát một của địch, vẫn tạo ngay sự khủng bố tinh thần. Chẳng làm chúng tôi mê mụ đi.
8
Cơm vừa xong,thì trời vừa tối. Ngồi đợi trăng lên, nhưng thiết nghĩ trăng cũng chẳng đủ sức soi rọi qua những tàn cây rậm rạp, nhưng có thể cũng đủ để không khỏi va chạm. Âm thanh núi rừng bỗng bừng bừng trỗi dậy,ma quái, huyền bí, não nuột tiếng thú khàn đục vọng dội thê lương như mãi mãi cô đơn. Ánh trăng vừa treo chếch, cũng là lúc Toán tới chạm con đường. suýt vấp ngã bởi chỗ trũng trên con đường, bước băng ngang khoảng năm bước, lại một vết trũng. Cho tôi hiểu ra rằng, đây là con đường cho xe hơi chạy. Báo cáo xong với Điệp... Lệnh qua đường, tìm chỗ ngủ.
Lắng nghe động tĩnh, nhìn đồng hồ đã mười giờ đêm. Thấy an toàn. Điệp ra lệnh cho Quang và Hào đi gài claymore phòng thủ... Cố dỗ giấc ngủ, bằng cách nghĩ một chuyện vui rồi vật vờ chìm dần... Bỗng giật bắn người lên, tiếng nhẹ xoay người từ đồng đội. Vểnh tai dựng đứng, nghe cho rõ hơn... Từng bước, từng bước. Tiếng bước chân và cành cây khô gẫy. Địch đang di chuyển thẳng vào Toán. Ánh trăng lao xao qua kẽ lá, không đủ để nhìn rõ quang cảnh. Tiếng bước chân bỗng ngừng lại. Không khí nặng nề lại nặng thêm. Tôi suy đoán địch chỉ cách chúng tôi chừng bốn hay năm mét. Nhưng rồi có tiếng khụt khịt, xong đi thẳng về chỗ chúng tôi. Thở phào nhẹ nhõm, mọi người hiểu ngay chỉ là thú rừng. Đến gần, con heo rừng cao cả thước đứng đánh hơi một chặp, mới chịu ra đi... Mẹ kiếp, đêm đến thấy vợ chưa về, bực tức đi tìm... Làm hú hồn.
Nằm yên được một chặp.Trong đêm tĩnh lặng.Tiếng động cơ ì ì nặng chịch, ngay sau lưng chúng tôi. Chắc chắn trên con đường tối qua, với hai vết lõm hai bên. Gà gáy lao xao tứ phía, lâu lâu xen lẫn tiếng người ồn ào nhưng chẳng rõ nói gì. Trăng đang gặp núi cao bên hông, tỏa ánh sáng mờ đục đùa giỡn cùng sương mù bay bay theo gió. Nghĩ lại quả là đêm của những giật mình.
Liên lạc xong với Covey, chúng tôi lại bỏ sau lưng những gì đã qua. Ngày mới lại đến, bình thường như đang trong mục tiêu.?! Mới mười giờ sáng, cái không khí oi nồng, nắng gắt trên cao và gió, gió biến đâu mất. Thời tiết tạo những cơn mưa đầu mùa. Thấy một địa thế ưng ý. Thiếu úy Điệp cho Toán nghỉ lại ăn trưa. Một chiếc phản lực lang thang ầm ĩ trên không. Ăn cơm xong, tôi thấy đau bụng lạ kì. Mượn chai dầu gió của Châu, dùng móng tay cái tôi cạo hai bên khủy tay, nhưng chẳng hết đau. Hay tại hũ mắm ruốc của Hào mà mình đã xin, sơi khi sáng.Điệp nhìn tôi e ngại. Tôi kêu Quang đưa viên thuốc và rồi "Điệp coi dùm ba lô máy". Tôi tất tả ra ngoài, vẹt xong lá cây, khoan khoái phóng thích của nợ. Kéo quần lên trong trạng thái thoải mái. xoay lưng chưa kịp về chỗ. Súng ầm ầm nổ chát chúa. Tôi chỉ kịp nghe tiếng của Điệp "Hải chạy đi"
9
Nhanh như chớp, tôi nhắm thẳng hướng bốn người vừa khuất. Mặc cho gai rừng quất vào mặt và cổ, cố sức phóng cho kịp đồng đội chạy trước... Thế rồi cám ơn Chúa, chúng tôi cũng đã cùng nhau một nơi. Vui thoáng qua. Bất giác tôi và mọi người cùng nhìn nhau. Chiếc ba lo máy của tôi vẫn còn trong trận địa. Ứa gan và hoảng hốt, rút vội cái máy P90 phóng làn sóng cấp cứu. Rồi nóng nẩy, điên tiết tôi nói "Trở lại lấy máy ngay,chần chừ là không kịp" Tự động tôi lao lên trước dẫn đầu, trở lại trận địa, mà cách đây chẳng bao xa.
Bên dưới gốc cây, chiếc ba lo nằm ngang, chứng tỏ khi ra lệnh rút Điệp đả cố kéo mang theo. Quan sát động tĩnh, tôi cẩn thận nhôm từng bước, bốn đồng đội yểm trợ phía sau. Chỉ còn lại khoảng ba mét nữa,tôi dần bò vào.Ngồi dậy sốc cái ba lo vô vai,thở phào nhẹ nhõm. Chỉ là đám trinh sát địch. Dưới kia hai tên địch chết nằm xấp, vũ khí văng xa. Thiếu úy Điệp ra dấu lại đây, di chuyển. Tôi ra thủ hiệu chờ một tí, lẹ làng băng xuống lấy cây AK gần nhất, tiếc rẻ nhìn cây AK còn lại, tôi tặc lưỡi... Ôi, cũng chỉ làm quà cho mấy ông Tây mà thôi.
Cây rừng chằng chịt, cản trở nhiều và lấy đi bao sức lực. Nhìn đôi găng tay đen của Châu, đã thấy rõ những vết sước tráng ởn... Mừng rỡ khi nghe tiếng Covey. Bật điện đàm tôi gọi ngay.
-Hotel bravo đây Whisky yankee Toán đụng địch, xin trợ giúp khẩn cấp.
-Whisky yankee. Tao đang tới, yên tâm.
Tôi nhận ra ngay tiếng nói đặc biệt của Đại úy Storter, thanh tao như gái.
Lấy cẩm nang mật mã, tôi đọc và gửi lên Covey báo rõ tình hình và xin triệt xuất vì Toán đã bị lộ.
Tam nghỉ mệt ngồi chờ quyết định. Hào đang mân mê cây AK và lắc lắc tay ra dấu vô ích, súng hết đạn rồi.Trong máy có tiếng gọi Toán và Đại úy Storter thông báo, yêu cầu đã được chấp thuận và xin cửa sổ nhà tôi. Móc trong túi áo ngực lấy cái gương,chiếu thẳng lên Covey.
-Whisky yankee. Đi về hướng đông 200 mét,có bãi đáp.
Thông báo cho Thiếu úy điệp. Toán vội vã di chuyến, tẽ ngang hướng đông, được chừng 100 mét. Phía trước cây rừng thưa, từng bụi rậm rải rác chen lấn nhau. Điệp ra dấu ngồi xuống, quan sát địa thế. Toán đang đứng trên ngọn đồi. xa xa một khoảng trống bãi cỏ vàng, nhởn nhơ dưới ánh nắng vàng quá trưa. Thót người vì tiếng hú ngay sau lưng, kèm theo tiếng người. Rất nhanh, Toán đều tìm được mỗi người một gốc cây và sẵn sàng. Tôi gọi ngay cho Covey báo đụng địch và xin trợ giúp... Tiếng chân người xen lẫn những cánh tay vẹt cây rửng, từ từ đến thẳng chúng tôi... Sự căng thẳng, hồi hộp trên từng nét mặt, gần tôi, Hào đưa tay vuốt mồ hôi trên mặt. Tôi, tim như ngừng đập theo từng tiếng bước chân của địch. Châu và Điệp tay đang mở bao bi đông nước trong có chứa khoảng hai mươi trái lựu đạn mini... Loạt đạn đầu tiên của Trung sĩ Quang đã làm hai tên địch đi đầu vật ngửa, mà chẳng kịp nhìn thấy ai...Tiếng hô hoán, ra lệnh bỗng chốc ầm ĩ sau loạt đan của Quang. Tiếp đó,cái không khí nặng nề lại đè lên hiện trường, kèm theo mùi thuốc súng cộng lá cây rừng. Bên này đồi ,nghe thấy tiếng quát thúc dục. Toán chúng tôi đang bị bao vây bằng hai cánh quân. Địch đã đến gần và trực diện với chúng tôi bằng những loạt đạn phủ đầu áp đảo. Nép vào gốc cây, nhìn nhũng vết đạn cày sước, đất bắn tung tóe. Tôi gọi Covey trong lúc bốn đồng đội tác chiến.
-Hotel bravo. Anh có mang theo đồ chơi không,bật khói vàng cho anh chơi nhá.
-Whisky yankee, rất tiếc tôi không trang bị đồ chơi.Hãy cố gắng...Con hổ mang đang trên đường đến... Chạy ra bãi đáp sau lưng.
Bằng vào hỏa lực của mình.Toán cầm cự nhờ vào địa thế thuận lợi trên cao. Chúng tôi chơi lựu đạn dễ dàng và chính xác. Quang bò ra sau chúng tôi lo gài trái claymore để mở đường máu, tay đang sởi cuộn dây điện bấm mìn... Bất thần tiếng hô "Muốn sống đầu hàng đi, chúng mày bị vây chặt rồi "Đáp trả bằng một băng đạn vào chỗ tiếng nói. Nóng nẩy và điên tiết tôi gào lên "chửi thề". Bên dưới Quang đã gài mìn xong ra hiệu cho Toán rút xuống từng người. Đòn cân não và những loạt đạn qua lại chứng tỏ địch không đông... Giờ này địch đã chiếm được vị trí cao mà chúng tôi mới bỏ lại. Bên gốc cây to, bạnh. Điệp chỉ chiếc balo rách, đạn cày phá tung bên hông, nước trong bi đông giờ còn nhỏ giọt. Trên kia bốn cái xác địch nằm dài xuôi tay quanh những tay súng lâu lâu xuất hiện bắn xối xả vào chúng tôi. Địch đang chờ tiếp viện để làm cỏ Toán tôi.
10 /last
Tiếng súng xối xả của cả hai bên đánh bật đi tiếng Covey, mà có để ý mới nghe thấy. Tôi vẫn bấm mở máy điện đàm để Covey có thể theo dõi tình hình và thưởng thức diễn tiến trận đánh bằng âm thanh. Có tiếng thét thúc dục của cấp chỉ huy địch. Những lằn đạn cày sới, hất tung đất cát lên cao và lả tả vỏ cây văng vãi trên đấu và vai. Cây M79 của Hào tỏ ra thật hữu hiệu, áp đảo trận địa. Hào chứng tỏ sự nhanh nhẹn,t hông minh, chính xác trong tác chiến. Cây M79 của hắn thật tuyệt vời đã làm khưng lại cuộc tấn công, vì sau tiếng nổ của những trái M79. Phía địch gần như phải lo chống đỡ hoặc ẩn núp. Nhuần nhuyễn trong bài bản chiến thuật, lúc này mới thấy được tính hữu dụng của những giờ khó nhọc thực tập. Chiếc Covey xà xuống thật thấp, bay theo kiểu khủng bố với tiếng động cơ hết cốt. Xẹt,ào ào trên trận địa. Đèn xanh đã được bật,t rong chiến thuật quen thuộc. Covey gọi tôi.
Whisky yankee Phá vòng, chạy thẳng ra bãi đáp hướng đông.
Tôi báo cáo cho Điệp, hiểu Điệp ra lệnh chơi lựu đạn... Bất chấp Toán đồng loạt đứng lên. Mỗi người tay lựu đạn lấy hết sức ném về phía đối phương. Trung sĩ Quang nổ trái claymore. Toán chúng tôi hè nhau, vắt giò lên cổ, chạy thục mạng, nhắm hướng đông có bãi đáp. Dưới sự che khuất bởi khói và đất cát mịt mù của lựu đạn và mìn nổ. Cố hết sức, kết cục cũng ra được tới bìa rừng và thấy rõ những chấm đen của trực thăng đang lao tới. Thoải mái và phần nào lạc quan. Nét hân hoan hiện lên tửng khuôn mặt chờ đợi trực thăng bốc về.
-Whisky yankee. Con trai,mở cửa đi
Thiếu úy Điệp ra khỏi tàn cây rồi lắc gương.
-Whisky yankee. Thấy rồi. tiến ra khoảng trống, một trưc thăng sẽ bốc hết Toán.
Tiếng trực thăng chém gió đang quần ngự trên đầu. Hai chiếc Cobra, vòng chờ đợi sự điều khiển của Covey. Trên cao bốn chiếc Kingbee vẫn chưa chịu hạ thấp.
-Whisky yankee, ra ngay bãi đáp và chuẩn bị panel vàng. Hải, coi chừng phía bìa rừng.
Toán chạy thẳng ra bãi trống, phất panel vàng theo mật lệnh, trong lúc loạt rocket đầu tiên bốn, năm trái đươc phóng xuống nổ tung dài theo bìa rừng... Xa luân chiến... Tiếp theo sau, Cobra thứ hai, bay đầu chúc chúc... Tiếng đại liên mini, cùng 40ly tự động nghe phần phật, rồi nổ văng vãi dưới đất. Hai chiếc Cobra đảo vòng hai cũng là lúc chiếc Kingbee đang xuống bãi đáp. Phía sau hỏa lực của Cobra lập thành hàng rào thép cho Kingbee. Chiếc Cobra thứ hai lù lù phía sau... Nằm vội xuống đất, trong khi từ bìa rừng, cách Toán khoảng 50 mét, tiếng súng thi nhau nổ... À,mày chơi cú chót... Tôi thấy rõ chiếc Kingbee xẹt ngang qua đầu. Cây đại liên M60 phun ra lửa. Người xạ thủ đứng hẳn lên, vãi đạn xuống bìa rừng. Nhưng trực thăng bỗng bốc lên cao.
Hỏa lực của Cobra chơi bằng đủ mọi đồ chơi hiện có.Toán chúng tôi nằm chết dí tại bãi đáp. Địch đang nỗ lực chơi máy bay, tạm tha cho chúng tôi. Vẫn xa luân chiến, hai Cobra thi nhau tận dụng mọi hỏa lực và đang áp tải chiếc Kingbee xuống bãi. Người xạ thủ trên Kingbee nổ tới tấp vào bìa rừng, trong khi hỏa lực từ Cobra cày tung tóe đất cát. Một địa ngục lửa thép... Nhưng, rõ ràng là một thằng điên đứng chạy với cây thượng liên nồi xối xả bắn vào trực thăng. Lạ lùng cây M60 trên trưc thăng không làm hắn ngã được. Kingbee đáp hẳn xuống bãi. Hai Cobra vẫn bân bịu ở bìa rừng. Nhưng không thể ngăn được chừng cả chục tên địch đứng chạy bắn đuổi theo chiếc Kingbee. Trên trực thăng, tôi dơ cao khẩu AK chiến lợi phẩm dí dí thẳng vào mặt đối phương.
Toán về đến CCC (Snowden Hall) . Trời vừa ập tối. Nhân viên phòng Hành-quân ra đón, tay bắt mặt mừng. Chiếc Kingbee đang được soi đèn đếm vết đạn. Ông Thiếu tá người Mỹ dơ cao cây AK tôi mới trao, miệng cười ha hả. Trên sân lúc này chỉ còn ba chiếc Kingbee, hỏi ra, một chiếc bận đưa người xạ thủ bị thương lên tận Pleiku.

Nguyễn Văn Hải Toán Hải Sơn CCN (Command Control North)
Chiến Đoàn 1 Xung Kích / Sở Liên Lạc / Nha Kỹ Thuật

Nguyễn Văn Hải Chiến Đòan 1 Xung Kích

Posted by: caoduy Dec 23 2015, 11:57 AM


Xin sẽ được


“…Ngày 22 tháng mười hai năm 1976 tôi bước chân ra khỏi nhà tù Pleiku
Tôi bị bắt ở Kon tum cách đó khoảng bảy tháng. Từ Saigon đi xe đò lên cái tỉnh tận cùng biên giới ở phía Tây, chưa kịp nằm nóng lưng công an đã đến thăm hỏi, còng tay tống vào tù một tháng trời chờ xe đưa về trại giam tỉnh Pleiku. Hồi đó thời sinh viên khờ khạo, chưa bao giờ rời nơi sinh ra và lớn lên ở Saigon, chuyến đi Kontum là một mạo hiểm lớn. Vì quá nhiều lần toan tính vượt biên bằng tàu thất bại tôi quyết định thử thời vận lần nữa bằng đường bộ. Đâu có biết rằng những ngày vừa sau 30/4/ 75 VC chăng lưới tình báo nhân dân ở khắp mọi hang cùng ngõ hẻm, ngơ ngơ ngáo ngáo như tôi khi đến một địa phương xa lạ chắc chắn sẽ lọt ngay vào tầm ngắm của an ninh.

Lục soát ba lô tôi đem theo, bọn chúng thấy một cuộn dây đi rừng và tai hại hơn nữa, một viên đạn colt 45 nằm lẫn lộn trong mớ quần áo,bèn đẩy tôi vào ngay biệt giam. May cho tôi ngoại trừ tang vật hiện trường chúng không tìm được gì khác. Tôi vẫn còn giữ tấm thẻ sinh viên đại học Khoa Học Saigon và thẻ căn cước nên chúng không biết khép tôi vào tội gì . Sau này tôi mới biết với VC , tội tình nghi nặng hơn bất cứ tội nào khác. Ăn cắp ăn trộm còn có án về, tình nghi thì mút chỉ cà tha . Ba năm là chuyện nhỏ, có người đã phảI “ học tập “ trên chục năm trời ngày trở về ba má vợ con nhìn không ra.

Khoảng một tháng sau khi tạm giam ở Kon tum, CA chuyển tôi về Pleiku. Địa ngục trần gian bắt đầu hiện ra trước mặt tôi. Chỉ có ba phòng sức chứa khoảng 150 người , nay bị dồn nhét hơn ba trăm . Một biệt giam gồm khoảng trên mười hộc ( dành cho 10 người) chất đến ba chục mạng.

Lần đầu tiên ở tù tôi chỉ muốn tự tử. Chung quanh tôi đa số là Fulro cắc kè bông với vết thẹo ghẻ lở phủ kín người. Cấp bậc nhỏ nhất là thằng Giu Se Mới, khoảng 20 tuổi đại úy Fulro. Tôi nằm chung hộc với nó và thẳng Y Nguoun, thiếu tá, bị bắt vì chỉ huy một đại đội tấn công đồn Công An quân số khoảng mười bốn mạng. Đánh đấm thế nào mà thiếu tá Y Nguoun bị bắt sống , lính lác chạy tán loạn, đồn CA thì vẫn còn nguyên.

Đó là lần đầu tiên tôi biết con rận. Sáng sớm thức dậy nhìn thấy một giọt máu nhỏ bằng đầu kim đi chuyển trên cánh tay, tôi kinh ngạc không biết là cái gì. Giu Se Mới chụp ngay lấy bỏ vào miệng cắn cái cóc . Nó còn khuyến khích tôi “ thử đi, ngọt lắm “. Ông nội tôi cũng không dám thử.

Mỗi ngày, chúng tôi được múc nước vào rửa ráy buồng giam một lần, ai có nhiệm vụ trực hôm đó đuoc hưởng thêm phần cơm cháy. Một thằng giết người ( dân tộc Kinh) đang chờ ngày ra tòa vẫn dành giựt nhiệm vụ này với Thượng để có thêm cơm ăn. Ỷ mình Việt Nam chính cống nó ăn hiếp bọn Thượng khờ khạo ( hay giả khờ qua ải ). Thùng đựng nước là một thùng đạn lớn dùng chứa đủ thứ từ rác rưởi, ỉa đái, khạc nhổ. Sáng sớm hai thằng khiêng đổ ra đống rác rồi súc sơ sài bằng nước giếng, sau đó múc nước cũng từ giếng vào tắm rửa. Có lần tôi còn thấy rõ cục đàm của thằng nào nổi lều bều trên mặt. Không ăn nhằm gì hết với tù biệt giam vì cắc kè bông không sợ lở, chỉ việc vớt bỏ rồi thoải mái mà xối lên người, kỳ cọ với xà bông cục .Dân Thượng địa phương có thăm nuôi , sáu thằng Việt nam chúng tôi đói khát muôn năm.

Đó là lý do tại sao sạch sẽ tắm rửa như vậy mà anh Fulro nào cũng thành cắc kè bông. Thăm nuôi nghèo nàn, thiếu dinh dưỡng lại không ánh nắng mặt trời (biệt giam bị cấm ra khỏi khu vực buồng tối), vệ sinh tệ hạI, không bị ghẻ đầy người mới là chuyện lạ.

Cuối cùng tôi chuyển đến phòng ngoài. Ra rồi tôi lại nhớ thời gian năm “ hộc “. Dù sao thỉnh thoảng cũng được chia cho vài hơi thuốc rê quấn giấy bọc lương khô Trung Cộng. Hút cháy cổ mà vẫn ngon, hoặc chí ít cũng nếm đuoc mẩu bánh đậu xanh ( lương khô Tàu ) lớn bằng đầu ngón tay cái.

Tôi biết ơn Giu Se Mới đã “ bố thí “ vì trong biệt giam hai phong lương khô cộng với sáu điếu thuốc rê đổi được áo jacket lính Dù mặc rất ấm với khí hậu miền núi. “ Thấy cái mặt mày khờ, tao tội nghiệp ”. Không có sự tội nghiệp của đại úy Giu Se Mới suốt đời tôi cũng chẳng biết hương vị “ ration C “ Tàu nó như thế nào..

Nhất ý nhất quởn từ ngày bước lên chiếc xe đò định mệnh vốn liếng đi theo tôi cho tới ngày rời khỏi nhà tù chỉ bày nhiêu để chống chọi cái rét khủng khiếp mùa đông .
Tôi bắt đầu có ghẻ, ghẻ moc khắp nơi trên người bất kể chỗ kín hay hở. Ghẻ và đói là hai kẻ thù khủng khiếp hành hạ những thằng tù ngày cũng như đêm. Ghẻ và đói lại tàn ác hơn với những thằng tù “ xa xứ “quê quán ở tận Saigon như tôi. Tù Saigon đông lắm, nhưng đường xá xa xôi nhất là vào những ngày mới bị VC chiếm đóng miền Nam, phương tiện giao thông nghèo nàn, chẳng thằng nào có thăm nuôi. Bao nhiêu quần áo mang theo đã đổi lấy lương khô, thuốc rê, còn lại thì đem ra quấn hết vào người. Tù khổ nhưng rận rệp lại mừng vì càng ngày càng mập mạp , chỗ trú ẩn ấm cúng sau mấy lớp quần áo.

Buổi sáng tù được ra tắm nắng mỗi thằng tự mài lấy cho mình một cây kim từ những miếng sắt vụn kiếm được. Có hai lợi ích khi sở hữu một cây kim , để may lại bộ đồ rách ( chỉ là những sợi nilon rút ra từ bao tải) và để bắt con ghẻ. Nhiều thằng tù không ngồi được vì đít đầy ghẻ mủ, chổng mông cho một thằng khác chà sát xịt máu rồi rửa bằng nước muối. Đó là cách trị ghẻ duy nhất tù nghĩ ra được.

( Sau 30/4/75, ở tù là chuyện dĩ nhiên đối với tất cả những ai sinh ra và sống dưới chế độ VNCH. Con nít ba tuổi còn phải đi tù với mẹ, nhiều bà lặc lè cái bụng cũng ngồi vài tháng vì tội vượt biên hoặc buôn bán lặt vặt. Hề là người miền Nam ( không theo VC) thì phải “ học tập cải tạo “, đó là quy luật. )

Một đêm lúc còn trong hộc, bỗng dưng tôi thức dậy vào khoảng ba giờ sáng, chắc tại mấy con rận rệp cắn ngứa ngáy quá chịu không nổi. Thình lình tôi nghe văng vẳng từ xa vọng lại tiếng chuông nhà thờ. Tiếng chuông boong boong vọng vào tai rồi thấm dần đến quả tim từ lâu đã quên bẵng. Tôi nằm trong này hơn hai tháng rồi, chưa biết bao giờ mới được cho ra phòng ngoài chứ đừng nói gì đến được tha. Bao nhiêu ký ức hiện trong đầu tôi, những ngày còn ở ngoài đờI
.
Tôi là người Công Giáo, theo kiểu ông bà cha mẹ có đạo thì đương nhiên tôi cũng có đạo. Từ lúc lớn khôn tôi chẳng ý thức gì về vấn đề tôn giáo, nhưng phải đi lễ mỗi Chúa Nhật là một cực hình ( tôi thà rong chơi với bạn bè trong mấy quán cà phê ). Sinh viên năm thứ ba ĐHKH Saigon tôi thích những nơi có nhạc TCS, lơ mơ điếu thuốc quấn Bồ Đà . Hồi nhỏ ba má tôi vẫn buộc chúng tôi phải đi lễ chung với gia đình, nhưng khi bước vào đại học, ông bà để chúng tôi tự do. Tôi trịch thượng so sánh những linh mục với những con quạ đen .

Nhưng đêm hôm đó, tôi bị “ đánh thức “. Tiếng chuông vọng lại nhắc đến những Giáng Sinh gia đình thiếu vắng tôi trong lễ nửa đêm. Hình ảnh ba má tôi chăm chỉ dự lễ đều đặn nhất là sau ngày đại tang của đất nước. Ông bà cầu nguyện điều gì tôi không biết nhưng gương mặt già nua của cha mẹ giờ đây hiện rõ ràng trong tâm trí. Tôi bật khóc, tự nhiên tôi ngồi dậy, hai cái còng chữ u dưới chân rọt rẹt làm Giu Se Mới cằn nhằn “ ngủ đi thằng Sài Gòn “. Tôi không ngủ được nữa, lần đầu tiên sau bao nhiêu lâu tôi mấp máy môi đọc một kinh Lạy cha ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh. Rồi tôi quyết định make a deal với Thiên Chúa. Tôi thưa như thế này:

- Lạy Chúa, bao lâu rồi con đã không dự lễ với ba má, Xin cho con được ve trước Giáng Sinh năm nay, con muốn cùng ba má con dự thánh lễ Giáng Sinh . Nếu có thể xin hãy cho con điều đó. Nếu không xin hãy cất linh hồn con , con hết chịu nổi rồi. Sau Giáng Sinh nếu còn ở trong này con sẽ chẳng tha thiết điều gì nữa, cho con chết đi thì hơn.

Như đã nói, tội của tôi là tội “ tình nghi ” mà đối với VC “ tình nghi ” nặng hơn “ tình thiệt “. Tình thiệt còn có ngày về, tình nghi thì cứ mút mùa Lệ Thủy. Do đó cầu nguyện là một chuyện, cầu được ước thấy lại là chuyện khác. Tôi đinh ninh như thế và rồi tôi quên đi những gì mình đã thưa vào đêm thức dậy ba giờ sáng.

Ngày 22 tháng Mười Hai năm 1976. Đang lúc ra tắm nắng tù được lệnh trở vào phòng giam , thường là lệnh chuyến đi lao động những tù đã có án. Trước đó hai ngày ngày 20/12/1976 tôi chợt nhớ lại lời cầu xin của mình và lòng buồn rười rượi vì chắc chắn sẽ còn ở đây lâu. Thân thể tôi giờ như một bộ xương khô, cái đói chiếm trọn đầu óc. Đã có lần tôi suýt nhặt một trái ớt hiểm nằm giữa đống phân vì thèm. Tôi sắp chết rồi.

Đợt đầu được gọi ra để chuyển trại, cửa phòng giam mở khoảng mười lăm phút để tù có án tập trung . sau đó lại đóng. Điều này hơi bất thường vì trước đây chưa từng . Hóa ra còn một đợt kêu tên nữa cho về. Tên tôi nằm hàng thứ ba mươi sáu.

Tôi đi như bay ra khỏi nhà giam, đầu óc tôi tê điếng chẳng còn cảm giác Điều tôi không ngờ đã đến. Tôi bước ngang Biệt Giam thấy mặt Giu se Mới cười và nghe rõ tiếng nói của nó : “ thằng Saigon về rồi! ”. Cảm ơn mày nha Giu Se Mới, tao sẽ nhớ mày và Y Nguoun

Hồi bị bắt tôi còn ít tiền, công an VC trả lại tôi đầy đủ ( Điều này cũng đã làm tôi ngạc nhiên một thời gian, ít quá không đáng để lấy?). Tôi mua ngay một nải chuối, mấy cái bánh tét, tất cả những gì tôi thèm khát mà số tiền có thể mua được. Kết quả thấy ngay lập tức, tôi đứng dậy không nổi. Bao tử bị o ép thời gian dài nay căng ra quá độ làm tôi bị bội thực. Tôi ráng lết ra bến xe, trên người còn mặc bộ đồ tù trại phát. Ra đến đó tôi ngồi trên một băng ghế dài, ngẫm nghĩ cách đề về nhà. Tiên đã hết, làm thế nào đây? Cách duy nhất tôi có thể thực hiện lúc này là cầu nguyện. Tôi lại thưa:

- Lạy Chúa Chúa đã nghe lời con kêu xin , cho con được ra tù mà chỉ còn hai ngày nữa là đến Giáng Sinh, con lại không có tiền . Không lẽ Chúa bỏ con bơ vơ ở nơi này? Vậy thì cho con ra tù để làm gì?
Còn đang lẩm bẩm, tôi chợt nghe có tiếng nói
- Sao ngồi đây?.

Tôi ngước lên, trước mặt là một người đàn ông trung niên, ăn mặc như nông dân. Giọng miền Nam hơi phảng phất Trung Phần. Anh nhìn tôi có vẻ thông cảm (chắc tại bộ đồ tù)
Tôi thưa thiệt:
- Dạ tôi mới tù ra, nhà ở tận Saigon không biết làm sao đề về nhà
- Vậy hả, tôi tên Tường, mà nè sáng giờ ăn uống gì chưa?

Mặc dù ăn no đến bội thực, bao tử đang hành hạ nhưng cái đói ám ảnh khiến tôi buông vội ( vì tưởng như mình vẫn đang rất đói ):

- Dạ chưa
- Vậy ngồi đây chờ chút tôi đi chút xíu quay lạI

Tôi bàng hoàng, kinh ngạc. Như thể Chúa đang ở trước mặt tôi, Ngài đang trò chuyện , đang nghe những lời kêu van thống thiết và gởi một thiên sứ đến giúp tôi . Anh là Thiên Sứ của Thiên Chúa hay người thường vậy anh Tường?

Anh trở lại với khúc bánh mì:
- Nè ăn đi, tôi đã sắp xếp một chỗ cho anh trên chiếc xe đò về Saigon rồi.

Tôi theo anh, anh dẫn tôi lên chiếc xe, nói gì đó với người tài xế, rồi ngoắc tay:
- Về nhà bình yên nghe

Tôi vẫn không biết anh có phải là Thiên Thần Bổn Mệnh của tôi, vì thời điểm đó, đâu có ai muốn rắc rối, dây dưa với người lạ nhất là một thằng tù còn mang trên người bộ quần áo . Càng co cụm, khép kín càng tốt. Ai biết ai… là ai!

Tôi lên xe ôm cái bụng cóc ọc ạch vì thức ăn nằm ủ trong đó. Cứ khoảng một cây số tôi lại xin người tài xế ngừng lại để đi cầu. Trên dưới đều không ra được làm tôi như người sắp chết. Bụng tôi căng cứng giống trái banh chờ lúc bùng nổ. Tôi lại lâm râm cầu nguyện. Những lời kinh phần nào làm đau đớn dịu xuống, nhưng hỗn tạp hàng chục loại thức ăn trong dạ dày khiến tôi chỉ muốn chết cho xong. Hành khách đi chung xe không ai dám nói chuyện với tôi, họ chỉ liếc mắt nhìn, người đầu tiên ngồi hàng cuối đứng dậy xuống, đi ngang qua ném cho tôi hai đòn bánh tét rồi đi thẳng.

Người thứ hai, thứ ba giả bộ để rơi tờ giấy bạc, gói thuốc. Tôi cảm ơn họ những người xa lạ chỉ vì bộ đồ tù tôi mặc trên người sẵn sàng nhường nhịn chia sẻ chút vật thực rất nghèo nàn của họ. Những ngày đầu mất nước chẳng ai giàu có đủ để chia sẽ phần sở hữu của mình. Chắc họ đoán tôi là tù VC vừa được tha, mà đã là tù VC thì ( ngoài hình sự ) tất cả đều là anh hùng . Cảm ơn họ, những người miền Nam giàu lòng vị tha

Tối hôm đó xe ngừng lại ở Qui Nhon. Nhờ có tiền tôi thuê được cái ghế bố . Tôi muốn ngủ nhưng đau đớn quá đến bật khóc. Tôi lại ngồi dậy thầm thì cầu xin:
- Lạy Chúa, Chúa đã cho con ra tù, cho con có phương tiện về nhà không lẽ Chúa để con chết ở đây? Chúa biết là con cũng sắp chết rồi. Con thở không nổi nữa, đau quá Chúa ơi

Cầu nguyện một chặp, tôi mệt nằm xuống thiếp đi. Đoán chừng khoảng mười lăm phút sau, tôi ngồi bật dậy. Một con nôn thốc nôn tháo tống khứ hết mọi thức ăn đã nằm trong bao tử tôi hai ngày nay. Tôi tưởng sau đó tôi sẽ chết, thật lạ, hết cơn nôn tôi cảm thấy mình khỏe khoắn như chưa bao giờ khỏe như thế. Tối hôm đó tôi ngủ say như một đứa trẻ vừa no sữa

Xe đến ven thị xã Phan Thiết thì ngưng lại. Lệnh giới nghiêm không cho phép xe lưu thông qua thành phố sau nửa đêm. Đó là tôi đoán vậy, còn thật sự như thế nào tôi không biết. Đêm đó cũng như mọi người chúng tôi nằm lăn lóc ở hai bên vệ đường trong khách sạn “ Ngàn Sao “ ( nhìn lên trời thấy sao không!)

Sáng ngày 24/12/1976 tôi về tới nhà. Con chó Lucky má tôi thừa hưởng từ người dì đã đi tản qua Canada để lại. Nó gốc quân khuyển thường được ăn đồ ngon cho tới khi về với má tôi và sống dưới chế độ VC. Tội nghiệp “ thằng nhỏ “ phải tập ăn mọi thứ má tôi có thể chia cho nó. Chơi láng hết từ khoai mì khoai lang, cám heo v..v . Hai “ đứa ” tụi tôi vẫn chơi thân với nhau trước ngày tôi đi tù.


Nghe tiếng người Lucky từ trong nhà chạy ào ra sủa dữ dội. Tôi la khẽ “ Lucky, tao nè “ nghe tiếng tôi nó ư ử mừng rỡ, chân cào lên hàng rào đuôi vẫy dữ dội. Má tôi đang ăn cơm, nghe chó sủa vội chạy ra coi là ai, tay vẫn còn cầm chén. Vừa nhìn thấy tôi, má chết sững
- Trời ơi , ông ơi, thằng Bảy nó về rồi nè

Ba tôi chạy ra, mếu máo. Má tôi mở cổng, ôm chầm lấy tôi, Lucky nhảy chồm lên người tôi, ba tôi cứ cầm tay tôi mà lắc. Sau này khi bình tĩnh tôi mới biết ba má tôi tưởng tôi đã chết rồi vì không có tin tức gì hết từ ngày tôi bỏ đi. Ba má biết tôi tìm cách vượt biên đường bộ. Thú dữ, Khờ Me Đỏ, VC chắc là tôi không tài nào đi lọt. Thậm chí má tôi đã xin lễ cầu hồn cho tôi. Tôi đâu có dám cho ba má tôi biết bị tù ở Pleiku sợ ông bà tuổi già sức yếu lại lo gồng gánh thăm nuôi. Cuối cùng tôi chịu hết nỗi đánh liều gởi lén thằng bạn được tha bức thư cầu cứu chỉ cách ngày tôi được tự do có một tuần lễ. May là thằng bạn chắc về tới nhà vui quá quên giao thư. Cảm ơn nó, nếu không tôi lại làm khổ ba má tôi lần nữa.

Tính ra VC giam tôi hơn sáu tháng . Sáu tháng với một thằng thư sinh như tôi, từ nhỏ tới lớn chỉ biết ăn bám vào cha mẹ là cả một khoảng thời gian khủng khiếp. Tôi biết được con rận hình dạng ra sao, con cái ghẻ nhớ như thế nào và làm cách nào bắt “ quả tang hung thủ “ bằng đầu kim mài nhọn từ mảnh sắt vụn. Tôi biết sự dã man khi bệnh “ đói “ hành hạ , cảm giác “ sung sướng đến tê dại “ lúc áp chai thủy tinh nước nóng vào hai cái mông đầy ghê, hoặc khi thằng bạn “ ghẻ “ chà bật máu mủ rồi chế nước muối lên. Gọi là bạn ghẻ vì chúng tôi sẽ luân phiên “ điều trị “ bệnh ghẻ cho nhau theo lối đó.

Tôi cũng phải cảm ơn VC. Nghe lạ quá ha? Nhưng đúng là nhờ VC, bao tử tôi giờ vô địch. Tôi có thể ăn bất cứ con gì miễn là nó nhúc nhích ( tôi đã từng nếm “ hương vị “rận no máu khi cắn cái cóc trong miệng ). Bây giờ nhiều khi ăn thức ăn để lâu hoặc cơm thiu người khác sẽ bị ngộ độc thực phẩm, còn tôi hả ? “ vô tư “! Vi trùng sợ tôi chứ tôi đếch ngán bất cứ vi trùng nào. Sống sót tù VC tôi có thể sống sót mọi nơi, mọi hoàn cảnh vì tận cùng của sự khủng khiếp là Hỏa Ngục mà so với tù VC chắc còn thua một bậc.

Câu chuyện này hoàn toàn có thật mà bao nhiêu năm nay tôi muốn kể lại để VINH DANH và CÁM ƠN Thiên Chúa, những vì không biết cách viết, cộng thêm với sự lười biếng, lo toan cuộc sống tôi chưa làm được. Tin hay không tuỳ quý vị, nhưng ơn Thiên Chúa ban cho có thật, nhất là cộng thêm lời cầu bầu rất linh nghiệm của Mẹ Maria.
Còn đối với anh Tường tôi vẫn cầu nguyện cho anh ( tôi rất muốn biết anh chỉ là một người giàu lòng nhân đạo tình cờ đi ngang qua hay anh thật sự là một Thiên Sứ được sai đến?)

Tôi xin lỗi, tôi quên phần kết luận: chỉ trong vòng có hai ngày, từ trưa 22/12/1976 với một cái bụng bội thực gần chết, với phương tiện giao thông nghèo nàn dưới sự điều hành của VC đi từ Pleiku ( cách xa Saigon bao nhiêu cây số ? ) , tôi đã về tới nhà mình vào đúng trưa ngày 24/12/1976. Điều đó có nghĩa là đêm Giáng Sinh tôi đã được tham dự Thánh lễ nửa đêm với ba má mình như lời nguyện xin trong phòng biệt giam ở Pleiku…”

VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI
BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM

( Theo lời kể của một người bạn) Nguoiviettudo

Posted by: NamQuoc Jan 8 2016, 09:01 AM


Pleiku hoài niệm




Tôi nhớ rất rõ, tôi đã gặp anh vào đầu mùa hoa phượng nở, có chút râm ran của tiếng ve gọi nắng hè.Con đường Duy Tân(nay là Trần Phú) Nha Trang, với hàng phi lao dài tiếp nối từ xóm chài của người dân Ba Làng di cư đến , tận cùng là Hải Học Viện (khu vực Cầu Đá)

Nắng và gió của phố biển,niềm vui và nỗi buồn của đời học sinh…đã chắp cánh nhẹ nhàng sau kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt Phượng hồng bờ môi…nhưng…

Sóng vỗ tình tôi…
âm vang bên đời…
âm vang đơn côi…


Tôi đã gặp anh lần đầu nơi khuôn viên DCCT Nha Trang cùng với các bạn của anh, lúc tôi đang viết tựa đề trên bức tường bôi đen của hội trường để chiếu film , ngày đó ngoài đi học , tôi thường sinh hoạt trong ca đoàn DCCT, cha Nam , ngài giao cho tôi viết , vẽ tựa đề các cuốn film hàng ngày được trình chiếu, bán vé để giúp đỡ những nạn nhân chiến cuộc của mùa hè đỏ lửa…từ khắp nơi đổ về các trạm tiếp cư của nhà dòng.

Anh sắp mãn khóa SQ Đồng Đế, anh và tôi đều có chung ký ức của người Phố núi bên mái trường Minh Đức dấu yêu (anh học hơn tôi 3 lớp), đặc biệt hơn cả là chúng tôi đều yêu mến ngôi nhà thờ nhỏ….yêu mến những vần lục bát giáo lý diễn ca của cố Lm. J. N.T.Thức

Sóng vỗ miên man …ru đời ngọt ngào như những hạt sương trong buổi sớm mai, hòa lẫn tiếng cười hồn nhiên , sửa soạn chắp cánh thênh thang bước xuống cuộc đời…phiêu du như loài chim biển.

Từ ngày xa Phố núi, gặp anh, tôi đã gặp lại Pleiku của tôi, cái thị trấn mà đi loanh quanh lại về chốn cũ…rất xa…nhưng rất gần…Và rồi gió biển đã se mặn tình Pleiku của chúng tôi. Anh đã ra trường và chọn đơn vị…..

Tôi nhận được lá thư thứ 3 và cũng là lá thư cuối cùng.

“KBC ….Thiện Ngôn ngày...tháng12…nắm 1972…

Còn mấy ngày nữa lễ Giang Sinh. Anh viết cho em không phải nỗi nhớ từ một Tây Nguyên mù sương , hoặc kỷ niệm ngày còn đi học dưới mái trường Minh Đức hay bên ngôi nhà thờ nhỏ. Mà cũng không phải từ một ngày nắng ấm gặp nhau bên DCCT , hay những lần theo em tan trường từ ngã 6 Lê Thánh Tôn , đi hết suốt con đường dài rẽ qua Lê Văn Duyệt em vẫn bắt anh phải đi xa…một đoạn phía sau……

L..em, nơi anh đang đóng quân là Thiện Ngôn, là cánh rừng già, hàng ngày oi nồng mùi thuốc súng, hàng đêm hỏa châu treo lơ lửng trên cao… ranh giới tử sinh lúc nào cũng cận kề đời lính……….v.v…..”

Tôi viết gì nữa bây giờ?!
Nỗi buồn nhớ cứ nhạt nhòa theo thời gian
Tuổi trẻ, tình yêu, và chiến tranh!
Tôi lại càng nhớ Pleiku hơn xưa…
Thương về xứ Thượng , nhớ Pleiku
Phố xá quanh năm phủ sương mù
Nắng gió Tây nguyên hồng bụi đỏ
Quay về buôn cũ…cuối chiều thu
Vi vu gió réo gọi thông ngàn
Người đi từ mấy độ quan san
Tơ nưng nước biếc hờn duyên kiếp
Đồi vắng Mường luông khóc thở than
Đâu rồi đường em về Sa thày?
Tình theo muôn kiếp ta còn say
Pleime khói lửa mùa chinh chiến
Lạc mất nhau rồi…mây thôi bay
Trà bá hoang sơ vắng điêu tàn
Sông làng Coucrok khóc ly tan
Tây nguyên xót xa sầu tuế nguyệt
Chết lạnh thân gầy tím tâm can

(Tôi viết bài này vào lễ Giang Sinh năm 73)


Sài gòn cuối năm 2009, tôi gặp K sor Phúc trọng một hạnh ngộ tình cờ. Niềm vui vỡ òa, những bước chân Minh Đức lại trùng phùng... anh Phúc đã đưa tôi về với cuộc hội ngộ liên trường Pleiku 2013, 2014…gặp lại các bạn …tôi đã gặp lại Pleiku mà một thời tôi đi qua…ký ức về xứ Thượng luôn ủ khuất nơi góc trái tim… thấp thoáng bóng dáng người ấy hòa lẫn vào NGÀY THÁNG ẤY…vẫn còn mãi không quên!

Và tôi đã hợi ngộ cùng các bạn, xin cám ơn những Đình Nghĩa, Hồng Vân, M-Tâm,Th-Cao, Loan, Toàn, Linh Trần, Hà Đỗ... cùng tất cả các bạn Pleiku mà tôi được hạnh ngộ . Các bạn đã cho tôi sống dậy những ký ức vui buồn của tình người Phố núi.

Lê Phan
những ngày cuối tháng 3-2015

Posted by: NamQuoc Mar 22 2016, 12:57 PM


Ba mươi năm ấy


Cái thành phố cao nguyên đất đỏ ấy, mùa mưa thì nhớp nháp bùn dẻo, mùa hè và những ngày mùa đông lạnh và khô thì "bụi hồng" quyện theo từng cơn gió, chẳng có gì hấp dẫn hay ít ra làm khuây khỏa nguôi ngoai nỗi nhớ nhà, nỗi buồn chán của những con người tứ hướng tập họp lại vì phận sự, vì sinh kế - những quân nhân, những công tư chức, già hay trẻ, những nữ chiêu đãi viên trong các quán rượu, v.v. Giá sinh hoạt thì đắt đỏ; mọi thứ cá, tôm, cua đều phải vận chuyển từ Sài Gòn, và phải bằng đường hàng không cơ mới đủ độ tươi. Phố xá thì nhỏ bé, tuy không đến nỗi "đi dăm phút đã về chốn cũ" như Vũ Hữu Định diễn tả, chỗ vui chơi giải trí và "đạp đổ" thì tìm đỏ mắt cũng không ra.

Ấy vậy mà từ cao độ của chiếc trực thăng sắp đáp, nhìn những mái nhà tôn, những mái ngói nâu rải rác bên dưới, tôi cảm thấy lòng lâng lâng với nỗi vui được về thành phố; dĩ nhiên không rộn rã như mỗi lần về Sài gòn. Từ rừng già Plei Me về, tôi có hai ngày, ngày mai và ngày kia, tại Bộ Chỉ Huy này để họp - và dĩ nhiên tôi ngầm hiểu mình có hai đêm để vội vã tìm vui, để truy hoan trả đũa! Nhà binh có nhiều thứ ngầm hiểu để hoàn thành nhiệm vụ: tôi được đào tạo thế - nhận specified task và phải tự tìm ra implied task. Tôi quá giang một xe nhà binh từ phi trường ra phố, xuống xe trước khách sạn quen thuộc mọi lần.

Tắm rửa xong, vừa tròng trở lại bộ quân phục, định bách bộ ra phố tìm thức ăn thì có tiếng gõ cửa phòng. Tôi mở cửa và không ngạc nhiên khi thấy trước mặt mình là người hạ sĩ quan trẻ, vui tính của phòng nhân viên tại Bộ Chỉ Huy mà ngày mai tôi sẽ vào họp. Có nghìn cách để anh ta biết tôi về Pleiku lúc nào và tá túc ở đâu. Ngay khi chiếc trực thăng vừa nhấc bổng lên thì một bản báo cáo ngắn về ngày giờ tôi rời căn cứ Plei Me đã bay theo làn sóng điện và đáp trên bàn giấy trong văn phòng anh ta trước khi chiếc máy bay chạm đất ở phi trường. Hoặc giả một người nào đó báo tin, như người tài xế vừa cho tôi quá giang chẳng hạn. Cái tập thể của những người vận quần áo trận này có đông đúc thật - chả thế mà thị trấn này, nơi đặt bản doanh của một quân đoàn, đã được mệnh danh là thành phố của lính - nhưng người ta thường biết rõ nhau cả. Anh ta gặp tôi để chuyển đạt hai điều. Điều thứ nhất là chuyển lời vị xếp của anh ta thăm hỏi tôi có cần xe cộ gì không. Điều thứ hai thật bất ngờ và là một sự kiện sẽ hằng sâu trong trí tôi nhiều năm sau. Số là anh ta có một "thằng em" - một từ ngữ dùng thật rộng rãi từ thời nào tôi không rõ, để chỉ một người thân, từ em ruột, em họ, đến người dưng nước lã mà người ta cảm thấy đủ thân thiết để gọi thế - rất ghiền khiêu vũ. Hắn ta ghé Pleiku nhiều lần và nghe nói nhiều về Hội Quán Phượng Hoàng, nên đêm nay hắn muốn được vào cho biết. Điều phiền toái là không ai bảo lãnh cho hắn vào cổng. Thế là tôi được anh chàng trung sĩ phòng nhân viên nọ gởi gắm người anh em của anh tạ Chuyện như thế có thể cũng bình thường thôi, nếu anh ta không làm tôi khựng lại bằng mấy lời kể lể thêm. "Nó làm lơ xe đò chạy đường Sài Gòn - Pleikụ Hầu như tháng nào cũng ghé đây. Quần áo dính dầu nhớt dơ bẩn. Em phải cho nó mượn áo quần và giày để đi chơi tối naỵ" Trong một thoáng tôi bỗng tự trách mình sao quá dễ dãi; tôi muốn rút lại lời hứa bảo lãnh hắn nhưng lại ngại nói. Hắn ghiền khiêu vũ à? Có thật thế không? Lối giải trí này có thuộc thành phần như hắn không, hay là hắn xâm nhập Hội Quán vì một mục đích nào đó. Hằng đêm có biết bao sĩ quan, từ úy đến tá, thậm chí vị tướng tư lệnh vẫn thường lui tới đây. Có thể hắn là người của đối phương cũng nên. Rồi tôi bỗng thấy mình sợ hão huyền - đúng hơn, tôi muốn tin mình đã lo sợ hão huyền. Cuối cùng là hắn sẽ đợi tôi gần cổng Hội Quán lúc bảy giờ rưỡi đêm đó.

Tôi không biết Hội Quán Phượng Hoàng được lập ra hồi nào, và cũng chẳng có hơi sức đâu dò tìm ngọn nguồn của nó, vì phải dành hơi sức để lội suối băng ngàn và để truy hoan trả đũa! Nhưng qua những câu chuyện không đâu vào đâu chung quanh mình, tôi biết man mán nó là sáng kiến của một vị tư lệnh Quân Đoàn II này. Dù sao thì phải nhận những thằng ghiền nhạc, ưa nhảy nhót, cũng như những kẻ chỉ ghiền không khí vũ trường như tôi, tất cả đều thầm cám ơn vị tướng ấy. Và Quân Đoàn II đã điều hành Phượng Hoàng tuyệt cú mèo. Đội ngũ vũ nữ phải nói là "sạch nước cản" hết, trên trung bình hết. Chúng tôi có những lối nói riêng với nhau của những người trẻ; khi một cô gái được chấm điểm trên trung bình thì cả bọn đều hiểu về phương diện nào và theo tiêu chuẩn nào. Các cô vũ nữ ở nội trú trong dãy nhà đằng sau Hội Quán. Không khí vũ trường ấm cúng, nhiều tính chất nghệ thuật và nhất là rất an toàn, một phần vì khách chơi không ô hộp lắm, một phần vì biện pháp an ninh chặt chẽ. Chỉ có sĩ quan mới được vào, và thường dân thì chỉ một số có thẻ hội viên mới được đến giải trí. Không được mang vũ khí, chất nổ, dao, v.v. vào Hội Quán. Nhân viên quân cảnh tại cổng thi hành nhiệm vụ đúng mức. Thú thực, tôi bước vào một vũ trường ở Sài Gòn hay một nơi nào khác với tâm trạng bất an thường trực. Với Hội Quán Phượng Hoàng thì không thế, từ lần đầu tiên cho đến những lần sau này khi đã thành ma cũ.

***

Người trung sĩ phòng nhân viên giới thiệu hắn với tôi khi chúng tôi vừa xuống xe ngoài cổng Hội Quán. Tôi vờ nhìn với vẻ chú ý xã giao của người mới gặp, trong khi kỳ thực cố vận dụng một độ quan sát "chụp ảnh" cái gương mặt xương xương có vẻ dãi dầu, đầu tóc lười chải kia. Hắn trạc tuổi tôi, hoặc nếu có vẻ lớn tuổi hơn chút đỉnh thì tôi nghĩ do cuộc sống lam lũ chứ không do năm tháng. Cái cảm nhận đầu tiên của tôi là hắn không có vẻ gian manh, cũng không dữ tợn; gương mặt toát ra một vẻ nhẫn nhục và điềm đạm. Dù sao, tôi tự nhủ, thôi cũng được, mình chả có gì mất mát cả. Tên hắn là Thanh. Đêm đó tôi đi cùng hai người bạn nữa. Anh chàng trung sĩ làm xong bổn phận với "thằng em" mình liền xin phép chúng tôi cáo từ.
Qua khỏi cổng, cả bốn chúng tôi rẽ trái, theo lối đi tráng xi-măng thoai thoải dốc dẫn đến cửa vào Hội Quán. Thanh cố ý đi chậm nhường tôi bước trước. Dĩ nhiên, tôi là đầu đàn mà, và cũng theo qui ước ngầm nhà binh, đầu đàn thì phải làm "trưởng chi" lát nữa đây, khi tàn cuộc. Tôi biết hắn ta không có hậu ý đó; chẳng qua hắn muốn chứng tỏ với tôi thái độ của kẻ chịu ơn, và với nhóm chúng tôi thái độ của kẻ biết trên biết dưới.

Qua một hành lang ngắn có vài chiếc ghế dựa dài nằm dọc một bên lối đi để khách ngồi chuyện vãn trước khi nhập cuộc hoặc chờ đợi người mình hẹn hò, chúng tôi tiến đến cửa bên trái vào phòng khiêu vũ - cửa bên phải dẫn vào phòng ăn. Vén bức màn nhung xanh sậm buông dài gần chấm nền nhà, chúng tôi chạm một không gian lào xào tiếng nói cười khe khẽ và sực mùi thuốc lá, nước hoa, với ánh đèn màu mờ ảo không soi rõ mọi vật. Tế bào thị giác hình que của chúng tôi chỉ tốn vài giây điều chỉnh để cho chúng tôi trông rõ toàn cảnh: giữa căn phòng là sàn nhảy hình chữ nhật lát gạch hoa, "âm" dưới nền có lẽ gần một tấc, được rọi sáng bằng những bóng đèn cẩn chung quang bờ viền. Khoảng còn lại là bàn ghế sắp theo từng hàng và cách khoảng để chừa lối đi ngang và dọc. Quày rượu và thu tiền nằm cuối phòng, cạnh lối vào phòng vệ sinh. Ban nhạc bắt đầu chơi những tấu khúc vui nhộn để báo hiệu buổi khiêu vũ sắp bắt đầu.
Điều không may: viếng Phượng Hoàng vào một tối đông khách như đêm nay, và điều may mắn: còn duy nhất một bàn cho chúng tôi. Chúng tôi vừa yên vị thì bà tài pán đến. Sau câu hỏi han đon đả cố hữu, bà ta vào đề ngay:
- Chỉ còn hai cô chưa kẹt bàn.
- Còn đào để nhảy là quí rồi.
Tôi đáp nhanh như để trấn áp nỗi thất vọng của mình. Chúng tôi gồm những bốn trự mà chỉ có hai cô gái nhảy để chia nhau thì thật không bõ công của kẻ lâu ngày mới về thành phố! Lúc người đàn bà vừa quay lưng đi tôi dặn với theo:
- Chúng tôi bao bàn các cô tối nay.
Bà ta quay lại, ngập ngừng một lát rồi nói:
- Lệnh của sĩ quan quản lý không cho chúng tôi nhận bao bàn những tối đông khách, để các cô có thể chạy bàn tiếp khách. Nhưng để tôi cố thu xếp.

Chạy bàn có lẽ là một từ ngữ trong thế giới vũ trường. Nó không đồng nghĩa với công việc của một bồi bàn trong tiệm ăn. Vũ nữ nhảy với khách bốn bản là đủ một tích-kê và được điều động chạy sang bàn khác trong thứ tự "đặt hàng".
Hai bóng dáng con gái từ từ tiến về phía bàn chúng tôi, một dong dỏng cao và một hơi đẫy đà. Chút bực dọc còn sót lại trong tôi nãy giờ bỗng vụt tiêu tan khi tôi nhận ra Dung "mình dây" và Liên "Bắc Kỳ". Có thế chứ. Nhưng tôi không hiểu làm thế nào hai cô gái này lại không kẹt bàn trong một tối đông khách như đêm naỵ Những người khách đến đầu tiên bao giờ cũng có điều kiện chọn người mình thích, và họ không dại gì mà không đòi cho được hai hoa khôi của Hội Quán.
Một trong hai người bạn tôi lên tiếng bày tỏ hân hoan vì may mắn được gặp hai đệ nhất giai nhân. Liên Bắc Kỳ, một cây ăn nói trong đám vũ nữ tại đây, liến thoắng đáp:
- Không dám. Anh quá khen. Phải nói là chúng em may mắn được ngồi với các anh đêm naỵ Sáng nay Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn có gọi dặn phòng quản lý dành sẵn hai cô để tiếp thượng khách của ông từ Sài Gòn ra, và tụi em được lệnh chờ. Thế rồi khi nãy ông ấy gọi đến báo Hội Quán biết là chương trình đã hủy bỏ.

Tôi mới vỡ lẽ. Ít nhất mọi sự phải có nguyên ủy của nó! Tôi liếc Thanh. Hắn không chú ý nhiều đến hai cô gái. Chiếc bàn chỉ vừa cho bốn người ngồi lại phải dung nạp sáu mạng nên ngồi khá chen chúc. Dung ngồi chen vào giữa tôi và Thanh. Liên ngồi ở dãy ghế đối diện, giữa hai người bạn tôi. Thanh nhìn lơ đãng sàn nhảy và quang cảnh khắp phòng. Hắn không có vẻ mán rừng, vẻ nhà quê mới lên tỉnh.
Ánh sáng vụt đổi màu, trắng hơn một tí, giống như mặt đất âm u bỗng vụt sáng hơn vì mặt trời vừa ra khỏi đám mây đen. Cùng một lúc, nhịp điệu dồn dập, thúc giục của một bản paso doble trỗi lên. Đêm khiêu vũ bắt đầu. Vài cặp đã bước ra sàn nhảy. Hai người bạn tôi cứ đùn hai cô gái cho chúng tôi, nói rằng để nhường cho tôi từ rừng sâu về và cho Thanh là khách mới đến. Thanh thoái thác, cho biết mình chỉ muốn ngồi nghe nhạc và nhìn vũ trường của Hội Quán Phượng Hoàng cho biết thôi chứ không sính nhảy nhót lắm. Tôi đứng dậy dìu Dung ra sàn nhảy.
Điệu paso doble vừa dứt, căn phòng bỗng mờ đi và âm thanh chuyển sang tiết điệu blue chậm rãi và dìu dặt. Thiên hạ lục tục kéo nhau ra sàn nhảy khá đông trong khi cô ca sĩ trên bục gỗ đang rên rỉ bản Sang Ngang của nhạc sĩ Đỗ Lễ. Tôi vừa định trở về bàn để nhường cho Thanh nhảy với Dung thì cô nàng kéo tay tôi lại nói, "đi luôn bản này đi anh."

Chúng tôi biết nhau qua mấy lần trước tôi ghé đây. Nàng nhớ mơ hồ khá lâu không thấy tôi trở lại. Thực ra nàng đã nhớ chính xác, vì từ đêm nhảy sau cùng cách đây sáu tháng tuy tôi có về Pleiku đôi lần nhưng bận những tiết mục khác nên đã không viếng Phượng Hoàng.
Bước nhảy chậm rãi như thế này rất thích hợp cho những cặp yêu nhau thủ thỉ. Tôi cho rằng không cứ gì những đôi tình nhân mới thủ thỉ trong điệu slow; cô vũ nữ nào cũng hay ép mặt sát vào khách và thì thầm những chuyện không đâu vào đâu. Cả một nghệ thuật trong nghề đấy. Một người bạn tôi đã suýt bỏ vợ vì một ả anh ta gặp trong một vũ trường. Cô nàng có một giọng nói thỏ thẻ làm mê mệt khách, khiến anh ta đâm "ghiền", không đến thì nhớ quay quắt chịu không nổi. Tôi cũng khám phá ra một "chân lý" nữa trong giới vũ nữ: những ác cảm vô căn cứ. Đừng tưởng các cô chỉ hành xử vì tiền thôi, mà còn vì cảm tính nữa. Các cô có những lựa chọn, những né tránh ngầm. Như cô ả Dung đêm naỵ Chẳng phải cô ta mê gì tôi, chẳng qua muốn tránh khéo anh chàng Thanh mà cô cho là dở hơi. Với Liên hay một ai khác, có lẽ tôi cũng có vài khoảnh khắc ngỡ ngàng trước thái độ này, và có khi còn khấp khởi mừng thầm chắc mình được yêu rồi. Với Dung, nổi tiếng ở Phượng Hoàng là tốc, là bất cần, là đạp đổ, thì tôi "thông cảm" ngaỵ Tôi nhớ có lần một người bạn cho tôi hay, "Dung nó đẹp nhất nhì ở đây, lại nhảy giỏi, nhưng kiếm ít tiền hơn các cô khác dung nhan kém hơn, nhảy tồi hơn, chỉ vì nó không chịu chài khách. Nó hành nghề vũ nữ nghệ sĩ lắm, tùy hứng lắm!" Chưa hết, tôi còn nghe một số huyền thoại nữa về Dung, nào là ngày trước cô ta thất tình vì một công tử con nhà giàu nên đâm ra ăn chơi, rồi sa chân vào đường vũ nữ, và từ đó nuôi trong lòng mối hận tình lẫn hận thù những khách chơi giàu có, ném tiền qua cửa sổ; nào là Dung hành xử theo con tim, và con tim nàng có những tiêu chuẩn mọi người không hiểu nổi, v.v.

Tôi không rõ những điều kia có đúng không, nhưng tôi được biết ít ra cũng có vài người tán gia bại sản hay điêu đứng vì chạy theo nàng.
- Anh ấy là bạn anh?
- Chỉ mới biết lần đầu.
- Anh ta làm sao ấy, vẻ khinh khỉnh. Vào vũ trường mà không nhảy nhót thì ngồi làm gì. Không chừng chẳng biết nhảy!
Tôi ậm ự cho qua, và nghĩ thầm, "sao cô ngốc thế, việc gì đến mình mà khó tính thế. Rồi người ta cướp hết khách cho mà đói meo!"
Chúng tôi ba đứa chia nhau nhảy với hai cô gái. Dàn nhạc đã chơi hơn một chu kỳ rồi, và mặc cho chúng tôi cứ thỉnh thoảng thúc giục, Thanh vẫn không chịu đứng lên dìu cô nào ra sàn nhảy. Cuối cùng tôi thấy - và có lẽ hai người bạn tôi cũng nghĩ thế - nên để hắn ta yên, vì chắc hắn ta không biết nhảy. Thoáng nghi ngờ lúc ban chiều về hắn lại trở về trong óc tôi.
Điệu bebop trỗi lên. Có hai cặp bước ra. Tự nhiên không ai bảo ai, ba chúng tôi chỉ thích ngồi nhìn người ta nhảy. Riêng tôi, một phần vì cũng chán nhảy rồi, phần khác tôi chỉ biết những bước căn bản của điệu nhảy này, như một học sinh mới tập làm luận văn chỉ biết viết những câu ngắn đúng văn phạm chứ chưa biết diễn tả bằng những câu bay bướm, cầu kỳ, nên không hứng thú lắm. Chính lúc đó Thanh ngỏ lời với chúng tôi, xin mượn hai cô gái. Tuy chưa rõ ý định của hắn, chúng tôi đều gật đầu hưởng ứng, hay khuyến khích thì cũng vậy. Thanh vừa đứng dậy vừa đưa hai tay nắm tay Dung và Liên. Dung rút tay lại, lên tiếng:
- Không được đâu, tôi chưa bao giờ nhảy kiểu này.

Thanh khẽ mỉm cười với vẻ tự tin:
- Đừng lo, các cô chỉ theo tôi. Cứ đi như mình nhảy với một người. Phần tôi, tôi làm được.
Chúng tôi nhìn không chớp mắt bộ ba đó đang tiến ra sàn nhảy.
Trong khoảng bao nhiêu phút giây tiếp theo chúng tôi hầu như quên bẵng ý niệm thời gian, cứ dán mắt vào hai nữ và một nam đang quay, lộn, đẩy, kéo theo nhịp điệu bản nhạc đầy âm hưởng Trung Hoa, Rose de Chinẹ Tôi nhìn mỏi cả mắt cũng không sao hình dung được những động tác của Thanh, nói chi đến học lóm vài bước nhảy tân kỳ kia. Đôi chân hắn ta thoăn thoắt, khi nện gót, khi dí mũi dày, trong khi hai tay không ngừng điều khiển Dung và Liên xoay, tiến, lui chung quanh mình. Đầu hắn ngẩn cao, vẻ mặt linh hoạt, đôi mắt khi thì nhìn Dung, khi thì nhìn Liên, nhưng trong ánh mắt tôi có cảm tưởng mình thấy được tia say đắm hướng vào một cõi xa xôi nào, cõi của âm thanh khi lãng đãng khi dồn dập đang quyện trong không gian mờ ảo của vũ trường.
Thế rồi không còn cặp nào trên sàn nhảy nữa; mọi người chỉ muốn ngồi chiêm ngưỡng bộ tam vũ biểu diễn. Sân nhảy trống chỗ, Thanh như con phượng hoàng có không gian rộng để vỗ cánh, càng lả lướt hơn, đã nới rộng những vòng quay cho Dung và Liên. Họ chiếm hẳn vùng trung tâm sàn nhảy.
Tôi đảo mắt một vòng quanh phòng, một phản xạ tự nhiên ngầm biểu lộ niềm hãnh diện vô căn cứ rằng thiên thần của vũ trường đêm nay là một người bạn của mình. Mọi con mắt đều dồn về ba người trên sân nhảy; thậm chí không ai nói chuyện riêng, không buồn nâng ly uống. Tất cả vũ trường như bị thôi miên.
Trên bục của ban nhạc tôi vừa thoáng thấy anh chàng thổi saxophone, mà tôi đoán là trưởng ban nhạc vì tuổi tác lớn hơn cả, đang ghé tai nói điều gì với tay chơi dương cầm. Rồi dàn nhạc chuyển âm giai qua bản đàn khác, nhưng tiết điệu Swing vẫn tiếp nối.


Lúc điệu nhảy chấm dứt, bản nhạc tạm biệt, bản Auld Lang Syne quen thuộc, bỗng trỗi lên gieo một âm hưởng lưu luyến báo hiệu cuộc vui đã tàn và đèn vụt sáng trong khi tiếng vỗ tay đồng loạt vang lên như pháo nổ, rồi râm rang một lúc trước khi còn nghe lác đác và lịm dần ở cuối phòng. Tôi chưa từng thấy một sự tán thưởng như thế ở những buổi nhảy tại các khiêu vũ trường. Tôi cũng chưa từng thấy một dàn nhạc nào đã tỏ ra ưu ái với khách bằng cách chơi liên tiếp hai bản đàn cho một vũ điệu như thế.
Nét mặt Thanh vẫn bình thản, dường như hắn ta đã từng làm vua vũ trường với đôi chân vàng của mình. Nhưng hai cô gái thì không giấu nổi những nụ cười hài lòng. Tôi đoán họ cảm thấy hãnh diện lây vì là một thành phần bất khả phân trong màn biểu diễn của Thanh.
Tôi liếc nhìn Dung. Vẻ đăm đăm, khó chịu lúc ban đầu biến mất trên gương mặt bây giờ xinh xắn, khả ái của cô tạ Nhưng cô nàng vẫn không "thân thiện" với anh chàng Thanh, trong khi Liên thì tíu tít khen bước nhảy của anh ta lúc cả bọn chúng tôi nối đuôi theo giòng người từ từ xê dịch ra phía cửa.
Ra khỏi phòng nhảy, chúng tôi đi dọc hành lang để ra cổng. Bên trái hành lang là phòng ăn của Hội Quán, với lác đác vài người vừa bước vào; phần đông khách chơi thích ăn ở các tiệm quán ngoài phố hơn. Tôi đề nghị đi ăn bún bò Nhà Xác thì hai cô gái và hai người bạn tôi tán thành ngaỵ Có lẽ đối với khách ăn đêm của Phượng Hoàng cái tên đó không những không gây ngạc nhiên hay sửng sốt mà còn kích thích cái dạ dày vào giờ đó đã bắt đầu cảm thấy cồn cào. Anh chàng Thanh mở to mắt nhìn tôi ra chiều không hiểu tôi đùa hay ngụ ý gì. Tôi giải thích cái tên Nhà Xác do đâu mà có: quán ăn lụp xụp do một tư nhân mở trong khu bệnh viện dân y, cạnh nhà xác. Có lẽ khắp Pleiku tôi không tìm đâu được một nơi bán bún bò ngon như ở đây.

Và tại quán bún bò Nhà Xác đêm đó Thanh đã là một đề tài khá lạ lùng đối với chúng tôi. Sau này tôi được biết, ngoài tôi ra cả bọn chúng tôi lúc đó ai cũng đang có trong đầu một giả thuyết bình thường và hữu lý về con người nhảy đẹp nhất kia, một giả thuyết có dị biệt về tiểu tiết nhưng tương tự Ở đại thể. Chúng tôi tin rằng hắn ta đã có một thời ăn chơi có hạng ở Sài Gòn. Nếu không phải con nhà giàu thì ít ra cũng xuất thân từ một gia đình trung lưu, và vì lý do này hay lý do khác bị sa cơ thất thế nên mới ra thân phận như ngày nay.
Một trong hai người bạn tôi hỏi Thanh có học qua lớp dạy khiêu vũ nào không; anh ta đề cập đến tên các vũ sư nổi tiếng của Sài Gòn. Thanh với vẻ mặt ngơ ngác trả lời rất gọn rằng không hề nghe tên các vị kia bởi lẽ từ bé đến giờ có được học khiêu vũ "đàng hoàng" từ trường lớp nào đâu!
Không muốn để chúng tôi thắc mắc lâu, Thanh bắt đầu nói qua về tuổi thơ khốn khổ của mình. Hắn trốn khỏi viện mồ côi Long Thành lúc lên mười tuổi, và bắt đầu kiếp sống đầu đường xó chợ giữa cái thành phố một thời được mệnh danh hòn ngọc Viễn Đông, một nơi mà cái giàu có, cái hào nhoáng xa hoa vẫn đi bên cạnh cái nghèo khó, cái lam lũ. Hắn trở thành cậu bé đánh giày ban ngày, và đêm đêm ngủ trong các chợ, hay dưới mái hiên nhà người tạ Rồi dần dần hắn tìm được một chỗ trú tốt hơn: ban đêm hắn đóng đô hẳn trong cái phòng nhỏ chứa dụng cụ của nhà hàng khiêu vũ Kim Sơn, do lòng tốt của viên quản lý tại đây. Hắn lớn dần, thành một cậu thiếu niên mười sáu tuổi lém lỉnh, sành sõi trong thế giới bọn đánh giày.

Hằng đêm hắn nhìn những cặp uyên ương vũ trường quay cuồng theo sóng nhạc. Hắn đâm thích khiêu vũ. Hắn học lóm bằng quan sát, bằng sự chỉ dẫn của những người chị "nuôi" vũ nữ vốn rất mến hắn, một tình thương mến dễ nẩy sinh giữa những kẻ cùng một nấc thang trong xã hội. Nhưng hắn có thiên bẩm về nhảy nhót. Hắn học một mà biết mười, hắn có óc sáng tạo, óc tổng hợp, có khả năng bắt chước. Tóm lại, hắn thâu tóm những tinh hoa nhảy nhót mà thiên hạ đem đến thi thố hằng đêm ở vũ trường rồi biến hóa thành những bước riêng của mình!
Nghe xong những lời tự thuật không màu mè của Thanh, mối thiện cảm của chúng tôi đối với hắn ta bỗng tăng lên. Dung vụt miệng nói:
Anh dìu tuyệt quá. Em không ngờ dễ đi thế!

Tôi ngạc nhiên nghe tiếng em ngọt ngào thay thế tiếng tôi bướng bỉnh trong câu duy nhất Dung nói với Thanh ở phòng nhảy. Hai người bạn tôi ngỏ ý muốn Thanh chỉ vẽ thêm những bước nhảy mới lạ. Thanh vui vẻ nhận lời và cho biết mỗi tháng anh đều theo chuyến xe đò của hãng Nam Trung từ Sài Gòn ra Pleiku một vài ngày. Về phần mình, tôi cũng muốn tầm sư học đạo nhưng biết thân phận mình - không phải lính thành phố - nên chẳng nghĩ đến việc cầu học như các bạn tôi.
Mọi người đều công nhận danh bất hư truyền của quán bún bò Nhà Xác, và cả bọn chúng tôi đều kêu thêm tô thứ hai. Ăn xong chúng tôi ngồi tán gẫu một lát. Có lẽ cái thú vui của những câu chuyện bù khú chỉ thực sự có vào những thời khắc khuya khoắt của đêm, ở những hàng quán lụp xụp. Dung lục bóp lôi ra gói thuốc lá Salem để mời cả bọn, nhưng chúng tôi không ai hút. Thanh thì cám ơn nhưng cho biết chỉ hút Capstan thôi. Anh chàng lôi từ túi áo trên ra một bao xẹp lép không còn điếu thuốc nào cả. Dung vội đứng dậy, tiến ra cửa, nơi một cô bé đang ngồi bên thùng thuốc lá bằng kiếng, và xỉa tiền mua một gói Capstan rồi trở lại bàn trao cho Thanh. Anh chàng móc tiền trả lại nhưng Dung khoát tay từ chối.
- Cám ơn nhé.
- Ơn nghĩa gì, đừng thù oán là được rồi.
Vừa nói Dung vừa phà khói ra bằng lổ mũi và cười mỉm. Trong một thoáng cái hình ảnh "bụi" và duyên dáng kia giải thích riêng cho tôi tại sao nhiều người đàn ông đã điêu đứng vì người con gái này. Duy câu trả lời vì sao quả tim nàng chưa rung động vì họ thì chỉ có trời biết.

Thanh bỗng phá lên cười, đoạn nheo một mắt, lần đầu tiên từ suốt buổi tối tới giờ hắn nhìn Dung với vẻ thích thú, buông một câu nghe vừa bông đùa vừa khẳng định:
- Các cô mới vua thù oán!
- Yên trí, em chỉ thù mấy thằng cha giàu, không thù anh đâu.
Tia nhìn tinh nghịch của Dung chiếu thẳng vào mặt Thanh khi cô nàng thốt lên câu đó.
Chợt một người trong nhóm chúng tôi nhắc rằng đêm đã khuya, và chúng tôi vội đứng dậy, thanh toán tiền, rồi ra về. Sau khi đưa hai cô gái về chỗ trọ và đưa Thanh về nhà người trung sĩ anh nuôi, hai người bạn đưa tôi về khách sạn, và chúng tôi chia tay.
Mùa mưa của cao nguyên tới, kéo theo những trận đánh long trời, một điệp khúc chiến sự hằng năm, và tôi vất vả hơn với những cuộc hành quân liên miên. Bốn tháng kể từ đêm kỳ ngộ Ở quán bún bò Nhà Xác tôi mới trở lại Pleikụ Hai người bạn tôi vẫn còn đó. Chúng tôi lại viếng Hội Quán Phượng Hoàng để "mừng cho mày còn trở về được, và trở về lành lặn", nói theo lời mời của hai bạn tôi. Cảnh cũ, người xưa, chỉ thiếu Dung. Hỏi thăm về nàng thì chúng tôi được biết Dung nghỉ việc ba tháng rồi, về Sài Gòn, nghe đâu là để xây tổ uyên ương với một người khách chỉ gặp một lần duy nhất tại đây, bỏ lại sau lưng anh kép thương gia rất sộp cùng lời hứa về căn nhà bên suối mộng mị Ở Đà Lạt và một cuộc sống nhàn hạ, không phải chạy bàn ở đâu nữa. Bạn tôi cũng chẳng biết gì hơn thế.

Sự ra đi của Dung đã để lại sau lưng cô nàng cả Hội Quán Phượng Hoàng ngơ ngác. Ban quản lý cảm thấy một tài nguyên quí giá của Hội Quán vừa mất đi. Những khách chơi "nòi tình" cảm thấy hụt hẫng trong nỗi niềm rắp cung bắn sẻ. Những đồng nghiệp của Dung, từ những kẻ thù nghịch đến những người thân thiết, tất cả bàng hoàng; không ai hiểu nổi việc cô gái tốt số ấy âm thần ra đi, gạt qua một bên những người đàn ông thế lực, giàu có sẵn sàng hiến dâng mọi thứ mà một vũ nữ nào cũng mơ ước.
Lúc chia tay cách đây bốn tháng, hai người bạn tôi đã cẩn thận trao địa chỉ cho Thanh, nhưng từ đó đến nay tuyệt nhiên họ không nghe tăm hơi về sư phụ. Cả viên trung sĩ phòng nhân viên cũng không được tin tức gì về Thanh. Một lần anh ta có đến hỏi hãng xe Nam Trung thì chỉ được biết hắn ta không làm việc cho hãng đã lâu.

Hà Kỳ Lam

Philadelphia, PA, 1997.

Ba mươi năm đã trôi quạ Tôi không gặp lại một người nào trong năm người đã cùng ngồi ăn bún bò với tôi trong gian nhà lụp xụp một đêm năm xưa để có thể sửa lại câu thơ của cụ Nguyễn Du
Ba mươi năm ấy bây giờ là đây
Tôi mong tất cả hãy còn trên đời này, tất cả hãy bình yên, hãy được toại nguyện trong những gì mình ấp ủ, ở xứ người hay còn ở quê nhà.

Posted by: KhoaNam Apr 16 2016, 12:48 PM


Bàn tay


Con đường Quốc lộ 14, từ Pleiku đi Kontum còn tương đối an ninh cho những chuyến xe đò và nhứt là xe nhà binh chạy ngược xuôi chở quân, đồ tiếp tế nhiên liệu, lương thưc cho những cánh quân, những đơn vị trú đóng vùng Kontum, Tân Cảnh, Benhet vào ban ngày vào những năm 1970-1971. Từ KonTum, nối dài cho đến Tân Cảnh, QL14 vẫn còn là đường tráng nhựa rất tốt, nhưng từ Tân Cảnh đi về hướng Căn Cứ Ben Het chỉ là con đường rải đá gồ ghề, dằng xốc.

Đơn vị của tôi nằm ngay trên con đường dằng xốc này, nhưng vì địa thế hiểm trở chật hẹp nên con đường đã xẻ đôi căn cứ ra làm hai, có nghĩa là con đường chạy ngang chính giữa căn cứ. Đây là Căn Cứ Hoả Lực Dakto.

Căn cứ Hoả Lực nằm trên đỉnh ngọn đồi thấp, phía dưới chân đồi có con suối và chiếc cầu sắt bắt ngang uốn cong hai vòng trước khi lên đến đỉnh. Đơn vị của tôi từ Qui Nhơn tăng phái lên vùng Dakto-Tân Cảnh, gồm có sáu khẩu đại bác 105 ly, yểm trợ trực tiếp cho Trung Đoàn 42 Bộ Binh thuộc Sư Đoàn 22 BB, chịu trách nhiệm lãnh thổ ở đây.

Nhưng bỗng nhiên tình hình chiến cuộc trở nên sôi động, nên mới có một Lữ Đoàn Nhảy Dù tăng viện, và đã xãy ra chuyện ”Người Ở lại Charlie“, một ngọn núi cao ngất cách xa tôi ngoài tầm đạn 105 ly. Đơn vị này hiện có pháo binh cơ hữu của Nhảy Dù yểm trợ.

Buổi chiều trên căn cứ Hoả lực Dakto, tôi đang thư thả ngắm trời mây sông núi trong không khí “không tiếng súng nổ“ trong chốc lát, thì từ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 22 đang đặt tại Tân Cảnh, trong đó có Bộ chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn kèm theo, đã ra lệnh cho tôi chuẩn bị “thế lên đường“.

Dân Pháo Binh mà nghe lệnh “Thế Lên Đường“ là phát chán vì phải dọn tất cả, nặng nhứt là chất hết đạn đại bác lên xe, trung bình chừng hai ngàn quả, khiến lính các khẩu đội vác mệt nghỉ. Trời miền núi vùng Tam Biên (ngã ba biên giới Việt Miên Lào) xuống nhanh và mau tối. Khi tôi báo cáo “Sẵn sàng“ về Bộ Tư lênh Sư Đoàn, thì đầu máy bên kia bảo “chờ“.

Trời sẫm tối không nhìn thấy gì trước mặt. Than ôi! Giờ này mà còn chờ thì biết chừng nào mới “Thế lên Đường” để đến vị trí mới, chiếm đóng vị trí, rồi tác xạ yểm trợ ngay cho các đơn vị bạn đang chạm địch? Gióng hướng súng ban đêm là nổi cực hình cho Pháo Binh vì hạn chế tối đa tiếng động nhất là ánh đèn pin.

Tôi bốc máy thúc dục “Sao cho lệnh đi chưa?“ Dĩ nhiên là không nói bạch văn mà phải dùng ám danh đàm thoại cho địch không biết. Bên đầu máy vẫn bảo chờ. Tôi sốt ruột lắm. Cuối cùng vì lý do gì không biết, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đã ra lệnh hủy bỏ, vì đã điều động đơn vị 155 ly khác đến thế chỗ tôi sắp chiếm đóng.

Thế là khỏe re, nhưng phải cho lệnh Pháo Đội xuống đạn và quân dụng ở lại tại chỗ.

Một giờ khuya đêm đó, tôi nhận lệnh yểm trợ tối đa cho căn cứ Phượng Hoàng (căn cứ mà hồi chiều lệnh cho tôi di chuyển đến), vì đơn vị đại bác 155 ly của người bạn Lâm Xuân Thảo bị tràn ngập biển người sau nhiều đợt địch pháo kích liên tục. Đơn vị của tôi đã bắn liên tục từ khuya cho tới tờ mờ sáng thì được tin Pháo đội 155 ly bị “xoá sổ“, một số lính bị bắt sống. Trung Uý Thảo chết tại chỗ nhưng không toàn thây vì trận xáp lá cà của địch.

Tôi bàng hoàng xúc động thương tiếc cho người bạn trước tôi một khoá và cũng rùng mình nghĩ rằng Thảo đã chết thế mình. Tôi không hiểu tại sao đến giờ phút sau cùng thì thay đổi lệnh không cho tôi thay thế, mà là một đơn vị 155 ly, đến đó để yểm trợ cho căn cứ 5 và 6 đang bị áp lực địch vây.

Thảo chết không toàn thây nhưng vẫn lấy được xác. Được tin anh ra đi, tôi nghẹn cứng cổ họng, thương cho người bạn cùng đi học một khoá Đại Đội Phó Chiến Tranh Chính Trị ngày nào. Chúng tôi, cùng ở trong Pháo Binh Sư Đoàn và cùng cấp bậc, được tham dự khoá học này, nên chúng tôi rất thân nhau.

Ngày mãn khóa, Trường Chiến Tranh Chính Trị tổ chức buổi lể Sinh Nhật Tập Thể vừa dùng để mãn khóa vừa để cho các khoá sinh biết cách thực hành khi trở về đơn vị của mình.

Khi buổi lễ chấn dứt, Thảo đã nghịch phá, cắm nhiều đèn cầy xung quanh chiếc giường của tôi, rồi rải nhiều hoa tươi, và cắm một bình hoa thật to trên đầu giường. Hắn đã cắm một tấm bảng viết vội “Cố Đại Uý Nguyễn Trãi“ ngay chính giữa. Ngoài ra, hắn để xắc đựng quân trang dài tròn to bằng thân tôi và chiếc nón sắt của tôi trên đầu. Tất cả được phủ bằng poncho nên trong giống y chang một thây người chết nằm đó.

Sau khi thắp sáng tất cả đền cầy, hắn chạy ra hành lang gọi tôi vào phòng. Khi nhìn thấy một thây người trùm kín, ghi tên tôi, với ánh đèn cầy tỏ sáng và hoa tươi, tôi lạnh toát cả người. Tôi liên tưởng tới chuyện không may, như báo trước một điềm xấu sẽ xảy ra cho tôi trong những ngày kế tiếp, khi trở lại mặt trận.

Tôi giận lắm, tôi biết ngay là thằng Thảo nó làm trò chơi thật quá đáng này. Tôi vừa hét vừa đá mạnh làm tung toé hết hoa và đèn cầy. Sau đó, tôi đạp văng chiếc nón sắt cùng túi đựng quân trang rơi xuống giường, rồi hầm hầm bỏ ra ngoài.

Hành động giận dữ của tôi tưởng đủ để cho nó hiểu rằng tôi ghê sợ không thích trò chơi này, ngỏ hầu nó ân hận việc làm của mình.

Khi nguôi giận, tôi trở lại phòng thì lại thấy trò chơi cũ được lập lại. Tôi lại đá và hất tung chiếc giường, trong tiếng cười cuả những người cùng khoá đang chứng kiến. Thực tình tôi rất sợ hình ảnh này vì linh tính báo cho tôi biết sẽ có điều không may xảy ra cho tôi khi trở về đơn vị.

Giờ đây tin Thảo đã vĩnh viễn ra đi làm tôi xúc động mạnh. Chuyện này đáng lẽ ứng vào tôi. Sao Thảo lại chết thế tôi?? Hay đây là một điềm gỡ đã ứng nghiệm của một trò chơi “dại dột” trong trường Chiến Tranh Chính Trị?

Một năm sau, cũng tại Căn Cứ Hoả Lực Dakto, năm 1972, “Mùa Hè Đỏ Lửa”, trong đêm CSBV ào ạt tấn công Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 BB trong đó có Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn, và Bộ Tư Lệnh Tiền Phương. Pháo đội 105 ly của tôi đã bắn liên tục từ 10 giờ đêm đến rạng sáng hôm sau. Vì khoảng cách gần mút tầm nên tôi cho xử dụng thuốc nạp 7, là thuốc nạp hết cỡ. Vì vậy, nòng súng giật lùi rất mạnh làm cho càng súng một khẩu đã bị gãy. Theo dõi trên hệ thống vô tuyến, tôi biết giờ nào các ông xếp của mình rời hầm chỉ huy, giờ nào mất liên lạc, và giờ nào địch quân tràn ngập căn cứ, qua giọng nói vang lên trong máy của những sĩ quan “Đề Lô”.

Tôi mất liên lạc với cấp chỉ huy trực tiếp, nên quay sang yểm trợ cho một cánh quân Nhảy Dù thuộc Lữ Đoàn 2, gần Tân Cảnh. Viên sĩ quan”Đề Lô” của Nhảy Dù gọi tôi xin yểm trợ. Khi tôi kiểm soát vị trí mục tiêu, và điểm đứng (toạ độ điểm đứng của sĩ quan này) thì thấy khoảng cách rất gần. Sau khi điều chỉnh nhiều lần để bắn “hiệu quả”, mục tiêu chỉ còn cách đơn vị bạn dưới 50 mét. (Khoảng cách không an toàn và không cho phép tác xạ vì quá gần quân bạn.)

Tôi đích thân gặp người Sĩ Quan Đề lô và nói,

-“Không thể bắn cho anh được vì quá gần quân bạn.“

Người SQ “đề lô” ấy trả lời, rất dõng dạc,

-“Anh cứ bắn đi. Bắn cho đến khi nào không còn nghe tiếng của tôi nữa thì coi như tôi đã chết.“

Câu nói rất anh hùng và khí tiết của một Sĩ Quan Pháo Binh hy sinh thân mình để cứu đơn vị đã làm tôi sững người, bất động. Tôi nghẹn lời vài giây vì xúc động. Tôi không có sự chọn lựa nào hơn khi nghĩ đến những loạt đạn “Bắn Hiệu Quả“ sẽ cứu được đại đơn vị cuả bạn. Tôi cũng đang cầu xin an toàn cho viên sĩ quan “Đề Lô”.

Sau đó, tôi gọi danh xưng của người này nhiều lần và không thấy tăm hơi gì hết. Tôi lặng người đi và nghĩ rằng anh ta đã chết.

o O o

Lúc bấy giờ tôi mất liên lạc hoàn toàn với các cấp chỉ huy của tôi từ phía Trung Đoàn 42 và Pháo Binh Sư Đoàn. Tôi biết tất cả Bộ Tư Lệnh đã di tản ra ngoài và đang ở đâu đó. Từ giờ phút này tôi thực sự cảm thấy bơ vơ, giống như “rắn mất đầu“. Tôi không biết phải làm gì ngoài việc tự phòng thủ căn cứ.

Từ trên một ngọn đồi của căn cứ Dakto nhìn về hướng Tân Cảnh, tôi thấy hai chiếc phản lực đang nhào xuống, ngóc đầu lên liên tục, và rồi một cột khói mịt mù bám theo một chiếc. Chắc là bị dính hoả tiển SA7 của địch?

Khi Bộ Tư Lênh đã bị tràn ngập thì cũng là lúc bọn VC quay mũi dùi sang căn cứ của tôi bằng đại bác 130 ly. Tôi nghe tiếng depart rất rõ và xác định được hướng bắn từ đâu. Nhưng nó cách tôi 18 cây số lận, còn súng của tôi có phản pháo cũng chỉ gãi ngứa vì chỉ có 11 cây số 100 mét. Thế là cứ chịu trận ăn pháo địch mà không có một phản ứng nào.

Tất cả hấm hố, đài tác xạ, hầm đạn đều trúng đạn của địch tan nát. Hệ thống truyến tin bị sập đổ, gãy cần ăng ten không còn liên lạc với ai được. Hầm chỉ huy của Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn Cứ Pháo Binh cho tôi cũng bị pháo sập. Ông Tiểu Đoàn Trưởng đã bị thương.

Tôi chưa biết xoay sở ra sao trong tình cảnh này, trong khi bộ binh địch chưa tiến tới gần căn cứ của tôi. Tất cả lính của pháo đội đều trú ẩn dưới hố cá nhân mà chiều cao bằng với mỗi con người trừ cái đầu nhô lên để chiến đấu cá nhân. Đơn vị Pháo Binh của tôi ai cũng được trang bị thêm một khẩu M72, trong lúc này rất cần thiết để chống xe tăng địch; trên miệng hố cá nhân mỗi người đều có một khẩu M16 và một khẩu M72, chờ chiến xa địch tiến đến.

Sư Đoàn Bắc Việt, nhất là đơn vị pháo binh địch đang có một “đề lô” áp sát đơn vị tôi. Bọn này cũng tiết kiệm đạn ra phết, chỉ tác xạ khi nào có người đi trên mặt đất sau khi san bằng căn cứ. Căn cứ vào nhiều đợt pháo kích bằng 130 ly; tôi đoán là “đề lô” của địch rất gần, gần sát nên chúng pháo kích chính xác lắm. Cũng đã xế chiều , người nào cũng mệt mỏi và đói. Khi đạn130 ly không còn nổ trên căn cứ, tôi leo lên khỏi miệng hố đi kiếm soát một vòng xung quanh các hố cá nhân. Tôi gọi lớn Ban Hoả Đầu Vụ đem lương khô cho tôi và cho lính còn đang dưới hố cá nhân. Binh Nhứt Nguyễn Văn An, dáng người lùn, mập không lanh lợi, tay cầm gói gạo sấy đã đổ nước chạy đến miệng tro cho tôi. Lúc này tôi đã đi đến chổ khác. Bọn “đề lô” Việt Công ma mãnh không kém, vừa thấy có người trên mặt căn cứ là gọi pháo tiếp. Một tiếng nổ đạn depart từ một khu núi quen thuộc từ sáng tới giờ phát ra, nên chúng tôi biết ngay là sẽ ăn đạn pháo 130 ly kế tiếp. Không ai bảo ai, Binh Nhứt An tự động nhảy xuống cái hố trống của tôi, còn tôi thì nhảy vào hố khác cách đó chừng 100 mét (hố bỏ trống).

Loạt pháo này chỉ chừng trên dưới một chục quả rồi ngưng. Tôi chạy thục mạng về hố của mình, thì hỡi ôi, phía dưới hố chỉ còn lại đôi giày trận của An. Hình hài An nát bấy nhừ y như bầm tiết canh vịt, vì một quả đạn 130 ly rơi đúng xuống hố mà An đang núp. An đã chết thế cho tôi trong giây phút này. Làm sao tin được, một viên đạn bay theo chiều hình cong parabol từ trên cao có thể rớt trúng phóc vô miệng một cái hố cá nhân chỉ vừa vặn đúng cho một thân con người. Viên đạn rớt đúng ngay lúc tôi đã rời chỗ khác, và An đã chết thay thế tôi. Sát miệng hố có chiếc xe GMC 10 bánh đậu từ lâu dùng để phát điện cho hệ thống truyền tin đánh “morse“. Chiếc xe đã hư nát lủng nhiều lỗ đạn và xẹp bánh từ những đợt pháo kích trước, giờ đây thịt da nhão nhoẹt nát bấy và nhỏ như thịt bầm của An một phần được bắn lên và đang bám trên thành cửa xe.

Tôi lặng người đi và tưởng như trong mơ, tôi thực sự xúc động trước cái chết của người lính thuộc cấp chết thế cho mình. Cái số của tôi chưa tới??? Điều gì đã khiến cho tôi rời cái hố? Một sự tình cờ xảy ra hay có sự “sắp xếp của bàn tay vô hình nào đó??”

Một cách tránh pháo kích địch hiệu quả nhứt không gì bằng ẩn người trong hố cá nhân. Đạn rớt trước mặt hay sau lưng hố không bao giờ gây thiệt mạng. Chưa bao giờ tôi gặp một trường hợp đạn pháo kích rớt chính xác xuống miệng hố. Điều gì đã khiến tôi rời khỏi cái hố cá nhân của riêng tôi? Tim tôi đập mạnh hơn. Tôi lặng người và TIẾC THƯƠNG CHO AN. Người đi trong cuộc chiến thường hay tin tưởng vào SỐ MẠNG, hay là TRỜI KÊU AI NGƯỜI ẤY DẠ, hoặc ĐẠN TRÁNH MÌNH CHỨ MÌNH KHÔNG THỂ TRÁNH ĐẠN.

Tâm tư tôi bị giao động mạnh khi nhìn xuống hố, tôi không có thể nhận ra một thứ gì cái còn lại là của một con người, vì nó nát bấy như băm nhỏ. Một viên đạn đại bác 130 ly làm sao có thể rớt ngay phóc vô một cái hố đường kính chỉ chừng năm mươi centimet. Nếu như lúc đạn đang bay trong không trung, tốc độ gió mạnh hơn, hay gió đổi chiều chỉ một chút cũng làm viên đạn lệch đi; hay người xạ thủ địch quân giật cò chậm hơn 1/50 giây cũng sẽ làm viên đạn lệch qua chỗ khác vì sự quay của trái đất sẽ đổi chỗ viên đạn rơi.

Nhiều yếu tố để khiến một viên đại bác rơi trúng đích, nhưng có điều gì đã khiên tôi bồn chồn đói bụng mà phải rời hố, để rồi một binh sĩ thuộc cấp chết thế mình. Tôi nhắm mắt lại và lặng người không dám nhìn vào đáy hố, chỉ còn rõ nhất là đôi giày trận của Binh Nhứt An.

Trong nổi hụt hẫng kèm theo lo âu, chưa biết phải làm gì thì Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn Cứ chuyển cho tôi một cái lệnh. Hệ thống truyền tin gần và xa của đơn vị tôi coi như hoàn toàn tê liệt; chỉ còn duy nhứt đơn vị bảo vệ căn cứ của tôi là chỗ dựa trong lúc này.

Lệnh của Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn, cho tôi “triệt thoái khỏi căn cứ đi về trại BENHET ngay bây giờ”. Thì ra vẫn còn có người nghĩ đến tôi. Thực ra họ nghĩ đến 6 khẩu đại bác thì đúng hơn. Tôi không liên lạc trực tiếp với Quân Đoàn, mà chỉ thi hành lệnh qua trung gian là Biệt Động Quân Quân Khu 2. Đơn vị Pháo Binh của tôi mất tiêu hết đâu rồi, đâu còn xếp lớn xếp nhỏ gì để liên lạc.

Tôi trở lại Pháo đội và ra lệnh “cấp tốc di tản khỏi nơi này.“ Khi đề lô địch thấy lố nhố người xuất hiện chạy đi chạy lại trên mặt đất thì họ bắt đầu khai hỏa trở lại, làm cho công việc chuẩn bị trở nên phức tạp hơn. Chỉ móc được 5 khẩu đại bác vào những chiếc GMC nào còn chạy được dù là bể bánh xe, hay bể kết nước. Tôi phải bỏ lại một khẩu vì không còn kịp. Nếu cố gắng kéo cho được 6 khẩu và đầy đủ phụ tùng thì tôi e sẽ có quân nhân trúng đạn pháo kích. Do đó, tôi quyết định tự tay tôi rút khối kích hoả của khẩu bỏ lại và ném ra xa, giấu đi, làm vô hiệu không cho địch quân xử dụng khẩu đại bác này khi họ tràn ngập.

Tôi cất chiếc nón sắt ra khỏi đầu và cúi xuống hố, nơi có xác bầy nhầy bị băm nhỏ, như chào vĩnh biệt Binh Nhứt Nguyễn Văn An. Đạn pháo kích địch vẫn tiếp tục rơi. Tôi chạy thiệt nhanh lại đoàn xe đang chờ và phóng hết ga về hướng căn cứ BENHET, căn cứ đầu não của Biệt Động Quân Biên Phòng của vùng rừng núi Tam Biên. Đi về hướng BENHET tức là không về hướng đồng bằng mà càng tiến gần với ngả ba biên giới Việt Miên Lào.

Khi đến BENHET, tôi gặp người Trung Tá Biệt Động Quân, căn cứ trưởng. Ông ta bảo tự bố trí phòng thủ tạm và chờ sẽ có lệnh sau.. . Khi mặt trời khuất sau rặng núi, tôi quyết định dùng một chiếc GMC và lựa một toán lính gan dạ, lanh lẹ cùng tôi chạy trở lại căn cứ Dakto để lấy khẩu đại bác bị bỏ lại. Vì tôi là người dấu khối kích hỏa, biết chỗ nên tôi phải đi. Vả lại, có tôi cùng đi, binh sĩ sẽ lên tinh thần.

Địch quân không ngờ rằng có người trở lại nên không phản ứng kịp và chúng tôi đã hoàn thành công tác lấy được khẩu đại bác trở về. Ở đây pháo đội không gióng hướng súng để tác xạ yểm trợ nữa, mà chỉ bắn trực xạ phòng thủ vị trí, vì đêm nào cũng nghe tiếng xích của xe tăng địch gầm rú xung quanh. Cả pháo đội thức bét con mắt để trông chừng mà trực xạ. Tới ngày thứ tư mới có trực thăng câu đại bác và toàn bộ pháo đội tôi từ Benhet về Kon Tum.

Không phải Quân Đoàn thương tiếc đơn vị tôi mà cho trực thăng hai cánh quạt đến bốc, mà vì cả Sư Đoàn vừa bị tan hàng không còn một khẩu đại bác nào để tử thủ KonTum. Khi trực thăng đáp xuống là lúc đạn pháo kích bắt đầu rơi tới tấp. Trực thăng không thể chờ nên cũng liều mạng móc súng, đạn 105 ly, và dụng cụ. Coi như chơi trò ú tim hên xui may rủi, nếu lỡ trúng đạn thì đành chịu. Mỗi lần chỉ đáp được một trực thăng vì xuống một lúc dễ trúng đạn pháo kích. Sau 10 chuyến thì chuyển xong hết đơn vị. Chỉ khi nào trực thăng lên đến độ cao an toàn thì tôi mới biết mình thoát nạn.

Thời điểm này là lúc Cộng Quân Bắc Việt đang vây. KonTum chỉ còn có cái lõm. Trực thăng vừa đáp xuống thành Dapla là nhận dàn chào đạn của VC ngay. Bọn nó ở đây sẵn và pháo kích liên tục. Cái số của tôi may mắn nên không làm sao cả.

Những ngày gian khổ và nhiều nguy hiểm tại KonTum cũng qua đi khi có các đợn vị Pháo Binh của Sư Đoàn 23 đến được. Nhưng họ không thể mang theo đại bác vì trực thăng không thể câu súng qua đèo ChuPao. Không biết do ông lớn nào thương nghĩ tới, đã truyền lệnh cho tôi từ Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn 23, ra lệnh tôi bàn giao tất cả súng đại bác lại cho nhân viên Pháo Binh Sư Đoàn 23 để chuẩn “trực thăng vận” về Pleiku nhận súng ở đó và tái phối trí. (Tôi là dân Pháo Binh Sư Đoàn 22)

Gia đình tôi từ quê cha sanh mẹ đẻ cho tới quê vợ không biết tin tức tôi ra sao trong hai tháng. Ba tôi chạy ngược chạy xuôi hết đi coi bói ông thầy này tới bà nọ để mong tin con. Cả một sư đoàn 22 và cả một Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn của tôi tan nát, còn ai theo dõi số phận của tôi. Do đó, làm sao từ Nha Trang và Sài Gòn biết được.

Khi về đến Pleiku, đơn vị đã ổn định, tôi được đi phép đặc biệt về thăm nhà. Tất cả “gia tài“ quân ngũ của tôi để lại tại căn cứ Đệ Đức. Khi Bồng Sơn bị tràn ngập, căn cứ mất, tôi cũng mất hết tất cả. Nơi này có hai ông Tiểu Đoàn Trưởng và Tiểu Đoàn Phó tiểu đoàn của tôi cũng mất tích và chết sau đó. Tôi không còn đồ đạc gì nên cứ mặc quần áo trận lên xe đò về Nha Trang.

Vừa ngồi lên xe đò nhỏ từ Qui Nhơn đi Nha Trang, một cô ngồi sát bên bảo,

- “Anh mặc đồ này khi vô tới Hảo Sơn, Vũng Rô, tụi nó chận và bắt anh đó.“ Cô nói tiếp, “Để em đưa cái áo này cho anh mặc đỡ.“

Tôi nghĩ bụng, “Về tới đây còn gặp rắc rối.“ Thế là tôi cũng phải nghe lời cô ấy.

Tôi nhớ đến chuyện Binh Nhứt An đã thế chỗ tôi trong hố cá nhân, để rồi thịt xương bị nổ tung và bằm như tiết canh. Tôi thở ra và nghĩ không ngờ vẫn còn thế giới vô hình đâu đây. Tôi không biết phải làm gì với em gái tôi để gọi rằng đền ơn cứu mạng.(Tôi tin là người em gái của tôi, đã chết khi vừa tròn 3 tháng tuổi, đã luôn phù hộ cho tôi.) Kể từ đó tôi rất tin tưởng CON NGƯỜI TA CHẾT ĐI VẪN CÒN LINH HỒN, cũng như tôi tin CON NGƯỜI TA SỐNG CHẾT ĐỀU CÓ SỐ.

Đến năm 1975, vùng Dakto-Tân Cảnh-Ben Hét coi như mất luôn vào tay địch. Ta chỉ còn giữ được KonTum. 1972, Sư Đoàn 22 Bộ Binh cùng với một Liên Đoàn Biệt Động Quân ồ ạt tái chiếm ba Quận Bắc Bình Định là Hoài Ân, Bồng Sơn, Tam Quan. Có lúc quân ta dàn cả 52 khẩu đại bác trong rừng dừa Vạn An để bắn TOT (Time On Target) vào vùng đất địch. Chỉ trong hai giờ tác xạ không ngưng nghỉ, các đồi núi trơ xương chỉ còn đất với đá mà không có cây cối nữa.

Pháo đội của tôi chiếm đóng đồi Vạn An. Cứ sáng sáng năm giờ là pháo binh địch bắn vào căn cứ của tôi. Mà hễ bị pháo kích là chúng tôi bắt buộc phải phản pháo. Tôi chạy ra khẩu đội ra lệnh thì lính mới dám ngóc đầu lên vì địch bắn rát quá. Tôi đứng ngay giữa hai càng súng ra lệnh nạp đạn trực xạ vì súng địch chỉ cách chừng 1000 mét. Một quả đạn súng cối 82 ly của địch rớt làm rách áo giáp và xẻ nát thịt bắp đùi người xạ thủ nạp đạn rồi rớt xuống trước mặt tôi mà không nổ. Người lính ngã xuống. May mắn, nếu quả đạn ấy nổ thì tôi cũng banh xác rồi.

Vào đầu tháng 3 năm 1975, khi Cộng quân đã chiếm Ban mê Thuột, sau đó cắt đứt quốc lộ 19 từ Pleiku xuống Qui Nhơn, thì pháo đội tôi đóng tại chân đèo Mang Giang gần Lăng Mai Xuân Thưởng. Chúng pháo kích suốt ngày đêm để khống chế đơn vị tôi không cho yểm trợ Trung Đoàn Bộ Binh. Những chuyến xe tiếp tế, có khi lên tới 20 chiếc, dồn dập chở đạn 105 ly tới mỗi ngày. Một lần khi tôi leo lên chiếc GMC đứng trên 200 thùng đạn đại bác để kiểm soát số đạn chở đến bị sai thì những quả 82 ly của địch rót đến tới tấp. Có một quả rơi ngay dưới chân tôi và nằm trên những thùng gỗ đạn 105 mà không nổ. Thật là huyền diệu, và may mắn.

Những ngày cuối cùng của Phù Cát Bình Định, tôi bị một quả B40 bắn trúng chiếc xe của tôi trước khi qua cầu. Xe trúng đạn lật làm năm người trong xe bị thương, trong đó tôi, với sáu mảnh đạn B40. (Giờ đây sau 38 năm nó vẫn còn trong cánh tay). Sau chừng 30 phút, một người lính bò lên băng bó vết thương cho tôi thì bị một viên AK, khiến anh ta ngã xuống chết ngay.

Phản ứng tự nhiên của tôi là ngóc đầu lên xem từ hướng nào bắn. Tôi liền bị ba viên AK khác bắn từ sau ót xuyên ra phía trước mặt. Cả ba viên đạn đi vô khác nhau, nhưng chỉ có một lỗ nơi ba viên đạn đi ra nên nó phá cái mặt tôi khá lớn. Đây là một điều thần diệu, chỉ cần ba viên đạn ấy nhích ra một chút xiú thì sẽ chạm tới óc và chắc chắn tôi đã chết ngay. Tôi cũng tin rằng đứa em gái tôi đã cứu tôi trong giờ phút đó.

Những người lính và sĩ quan đơn vị khiêng tôi trên đoạn đường dài từ cầu Cương vào phi trường Phù Cát. Khi vào bên trong, phi hành đoàn của chiếc trực thăng HU-1B bằng lòng cho tôi đi trong khi phi trường đang khói lửa ngập trời. Ông Trung Uý Pháo Đội Phó của tôi cùng người Trung Sĩ Khẩu Trưởng khiêng tôi bỏ lên trực thăng đã có sẵn 34 người lính bộ binh trên ấy. Chiếc trực thăng cất cánh chừng 10 mét thì rớt xuống và chặt đứt đôi người Trung Uý pháo đội phó và Trung Sĩ Khẩu Trưởng, vì khi khiêng tôi bỏ lên trực thăng thì họ vẫn còn đứng dưới đất. Cánh quạt trực thặng lúc rớt xuống đã chém đứt đôi hai người. Phần trên từ ngực của họ đã bay mất, không thể tìm thấy.

Sáng hôm sau tôi bị bắt làm tù binh, nhưng họ thấy tôi bị thương nặng quá nên bỏ tôi nằm tại chỗ trong phi trường.

Trong trại tù Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt, một ngày chúa nhật nghỉ lao động, có người bạn tù lớn tuổi, cầm tay tôi coi chỉ tay và nói chắc như đinh đóng cột, “Mạng của anh rất lớn, nhiều lần sắp chết mà không chết, vì có một vong linh của kẻ khuất mặt che chở, Nó hiện lên rành rành đây nè.“ Tôi không tin điều ấy là có thực, nhưng qua những sự kiện xảy ra, khiến tôi thoát được hiểm nguy như vậy, làm tôi phải tin rằng điều ấy có thực.

Anh em bạn tù tối đến, vừa đói, vừa buồn, đau khổ không biết ngày nào trở về nhà, nên thường hay tổ chức kể chuyện cho quên hết đói và ưu phiền. Họ thấy tôi có những vết đạn còn mang trong người, nên hỏi thăm và bảo tôi kể chuyện “Những ngày cuối cùng cuộc chiến của tôi.“ Tôi đã kể lại tỉ mỉ câu chuyện bị thương, rớt máy bay. và những ngày gian nan sau đó. Sáng hôm sau Bộ Chỉ Huy Trại Tù cho người gọi tôi lên “làm việc“. Họ khủng bố tinh thần tôi từ 8 giờ sang đến 5 giờ chiều với kết luận, “còn hàm ơn luyến tiếc chế độ cũ.“

Từ ngày ra khỏi tù về với gia đình, tôi luôn tự tin rằng số tôi không chết sớm được, và có lẽ “Chỉ có Trời hại mới chết, người hại không chết.” Đây là những điều có thật tôi viết lại nhằm nói lên rằng, “Có thế giới vô hình, và Con Người Ta chết có số.“

Nguyễn Trãi

Posted by: NamQuoc Dec 7 2016, 12:01 PM



Tử chiến trong nghĩa địa



Người sống cũng sống không yên. Người chết cũng chết không yện Và thành phố Kontum cũng sẽ thành nghĩa địa nếu chúng tôi thua trận. Trận tử chiến trong nghĩa gần như quyết định số phận thành phố sương mù này.

Tân Cảnh, bản doanh của Sư Đoàn 22 đã thất thủ. Gió hú trên đỉnh cây, sương sa trên đỉnh núi, Tân cảnh phủ một mầu tạng Anh em đau lòng trước những mất máu của quân bạn Hàng ngày, Chi Đoàn mở đường lên Võ Định để tiếp ứng những cánh quân còn lại của Sư Đoàn 22 và Lữ Đoàn Dụ Trung tá Dù Nguyễn Đình Bảo vắng mặt Anh không trở lại. Anh vĩnh viễn nằm lại Charlie cùng với xác thân anh em Dù Tiểu đoàn 11...

Đoạn đường trách nhiệm ngày càng rút lại, hôm nay tới Ngô Trang, ngày mai tới Ngả Ba Vườn Thợm Bắc quân bám theo bước lùi của quân ta để tiến dần về Kontum. Uy hiếp và chiếm Kontum không còn là ý đồ, mà là mục tiêu quyết định của Bắc quận Kontum căng ra từng buồng phổi. Kontum căng ra từng hơi thợ Trận thư hùng đẫm máu đang thành hình trong từng bước di quân, cả Nam quân lẫn Bắc quận "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Cái giá bảo vệ Kontum đã quyết định trong đầu tư lệnh Sư Đoàn 23 Lý Tòng Bá và ngững người chiến binh dưới quyền đủ mọi binh chủng.

Vị trí các cánh chuyển quân của địch đã buộc đội hình phòng thủ của Chi Đoàn phải thích ứng theo. Lúc đầu, Chi Đoàn đóng chốt tại mặt Tây Bắc thành Dak Pha, rồi chuyển qua khu nhà đổ nát cũ của cố vấn Mỹ, nơi đã bị phá huỷ trong trận Mậu Thân, và cuối cùng, các vết xích sắt lại lăn qua doanh trại cũ của Chi Đội Cơ Giới V.100 của Tiểu Khu, nằm về phía Bắc của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, bên cạnh nghĩa trang, sát con lộ dẫn đi Tân Cạnh Đến vị trí được chỉ định sau cùng này, khi mấy đứa con đã về đầy đủ, tôi bốc máy:

- Gia đình Tài Lực cần họp mặt Cần gặp Alpha và Bravo! Nghe rỏ

- Alpha rõ 5!

- Bravo rõ 5!

Trong buổi họp khẩn của bộ tham mưu Chi Đoàn, cánh Alpha gồm 6 chiến xa án ngữ mặt Bắc và kiểm soát con lộ từ Tân Cảnh về Kontụm Cánh Bravo gồm 10 chiến xa giữ mặt phía Tây, ẩn nấp trong các căn nhà đổ nạt Chiến xa nằm chìm sâu dưới các ụ đất do xe ủi đất ủi với một bờ thành bảo vệ xe. Các cấu trúc này lẫn lộn trong các vách nhà đổ nát nên vị trí các chiến xa được dấu kín, khó mà bị địch phát giác từ xa. Ngoài những ụ ngầm, doanh trại của Chi Đội V. 100 còn có những ụ lộ thiên bao bọc bằng những thùng phuy đầy cát với 2 lớp bao cát xếp bên ngoài tương đối khá an toàn cho chiến xa.

Khi tất cả chiến xa đã nằm trong vị trí chuẩn bị và sẳn sàng chiến đấu sau lệnh của Sư Đoàn ban ra sáng ngày 14/4/1972, tôi và các sĩ quan thay nhau thăm từng ụ chiến xa, coi lại nhiên liệu, đạn dược, viếng từng xa đoạn Tin tức cho biết Bắc quân đang tiến gần về Kontụm Ngày đêm, tinh thần mọi người căng thẳng, chờ đợi một trận đánh kinh hồn, không thắng là khắp vị trí tác chiến sẽ thành tử địa, không thắng thì Kontum sẽ tan tành vào tay địch, không có đường lui. Tôi nhìn sau vào các nẻo đường mà địch có thể tấn kích ban ngày, tôi nhìn như xé màng đêm các vị trí khả nghi mà địch có thể tập kích ban đêm, ngày hay đêm gì thì tất cả gia đình Thiết Kỵ và Sư Đoàn 23 cũng phải một là giữ cho được Kontum, hai là phục hận Tân Cảnh, cho Charlie, cho quân bạn.

Đêm lạnh và yên lặng Gần sáng, khi cây xanh còn mơ ngủ, bỗng chim muông thức giấc xạt xào và giật mình vỗ cánh hoảng hốt bay ở hướng phòng thủ của Trung Đoàn 44 Bộ Bịnh Trận chiến bắt đầu. Bắc quân tiến dần vào vị trí tấn công với sự yễm trợ của chiến xa T54. Lệnh báo động tác chiến ban ra. Các máy âm thoại mở thường trực để nhận lệnh:

- Bravo sẳn sàng khai hoả tối đa và chính xác khi địch xuất hiện trong tầm hiệu quả!

- Bravo nhận rõ 5!

- Alpha cho con cái cải cách qua khu trại cưa, sau những đống gỗ!

- Alpha nhận rõ 5!

Những đứa con đã dàn đội hình theo chỉ thị Sau lưng chúng tôi là tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 45BB, phía ngoài khu nghĩa địa, gần bờ suối, đối diện sườn đồi trước mặt Từng phân đội một, từng xa đội một, mìn chiếu sáng và claymore được gài 2,3 lớp ở những vị trí chỉ định và hoả lực quân phòng thủ sẽ đổ lửa vào các mục tiêu.

Theo dõi máy, thì ra Trung Đoàn 44BB bị tấn công trước, vô cùng dữ dội tại Vườn Thơm. Tuyến phòng thủ này là một con lộ đất chạy dài từ Quốc Lộ 14 từ Kontum đi Tân Cảnh thọc xuống tới tỉnh lộ đi Polei Kleng. Một cánh quân khác của địch chuyển quân theo Quốc Lộ 14 tiến xuống khu đất phía Tây Bắc thuôc vị trí phòng thủ của Chi Đoạn Tôi nhận đuọc báo cáo nóng hổi của chiến xa nằm ngoài cùng cánh Alpha:

- Trình thẩm quyền, có tiếng động cơ xe di chuyện Địch đã qua khỏi cống nước dưới con dốc và đang ép dần về hướng Nam đối diện Bravo!

Đêm Cao Nguyên sương mù, mưa lất phất, mắt thường khó phát giác mục tiêu trong khỏang xa 100 đến 200 thước. Bắc quân đã di chuyển nương theo màn đêm và màn sương mưa. Những hạt sương, những hạt mưa, những cơn gió núi sắt se ướp vào da thịt người chiến binh, phủ ướt đầu súng lạnh và vách sắt chiến xa lạnh lùng, mắt đăm đăm hướng súng về phía địch Người lính đã phải vận dụng cả mắt, tai, mũi để nhận ra bóng địch, để nghe âm thanh di chuyển của chiến xa địch, để ngữi mùi xăng dịch hầu có thể biết trước địch và khai hoả trước địch

Đầu tôi căng cứng khi tiếng máy của T54 càng lúc càng rõ dần vào khu vực trách nhiệm Tôi bỗng nỗi giận: "Tụi mày tưởng có T54 là tụi mày ngon! Rồi ai ngon cho biết!" Tay tôi run run chụp ống liên hợp:

- 1,2,3! Đây Tài Lực! Bắn chính xác khi tank địch cách 200 mét, đạn xuyên phá siêu tốc C124. Tất cả nhận rỏ

- Nhận rõ! Alpha!

Tôi xoay nhìn về hướng cánh Bravo khi bất chợt hàng loạt mìn chiếu sáng vọt lên và nhận ra là bộ binh địch đang hàng hàng tiến vào khoảng giữa trường học và khu nhà đổ nạt Tiếng Trung uý Chinh, Chi đội trưởng Chi Đội 2 hét lớn trong máy:

- 1 và 2! Bắn!

Không gian đang như nghẹt thở theo từng vết xích lăn của T54 bỗng rùng mình trong biển lửa, trong một thứ âm thanh kinh người phủ chụp về hướng địch quận Mười khẩu đại bác 76 ly 2, mười khẩu đại liên 12 ly 7 và 10 khẩu đại liên 7 ly 62 sau lệnh "Bắn!" của Chinh đã cùng lúc khạc đạn Những tia lửa đạn đan chéo nhau chụp phủ lên đầu địch Tiền binh địch bị lưới lửa quét giạt lui lại với vô số thân người gục ngả tại chộ Thành phần còn sống vội vã rút lui và núp sau các gò mối, cùng lúc các T54 địch tiến lên theo đội hình hàng dọc, đại bác trong vị thế bắn cầu vọng

Bên cánh Bravo, đại bác nổ liên tục Chợt hai tiếng nổ lớn cùng lúc với hai cột lửa phụt lên cao về hướng địch, tôi nghe Thiếu uý Đức hét trong máy:

Chiến xa T54 bị quân ta bắn hạ tại Komtum.

- Trúng rồi! Hai con cua nướng T54! Mấy con khác còn chạy lòng vòng!

Chiến xa địch sau một phút hỗn loạn, nhận ra khu vực chiến xa chúng ta, chúng lấy lại đội hình tấn công và chuyển hướng bọc ra sau lưng vị trí của Chi Đoạn Đại liên 12 ly 8 và đại bác 100 ly của T54 ào ạt bắn vào hướng phòng thủ của Chi Đoàn 1/8. Hoả lực phản kích của địch cũng dữ dội không kém, không gian như muốn vỡ ra từng mạnh Chỉ mới là những phút giây đọ sức đầu tiên, Bắc quân đâu bỏ cuộc dễ dàng. Trong lúc chiến xa địch ép ra Quốc Lộ 14 để tiến sâu vào thành phố thì bộ binh địch lợi dụng trời mưa bò sát vào gần vị trí chiến xa ta để sử dụng B40 và B41 trong lúc đạn vẫn nổ vang trời. Khi những thân người hối hả bò lết tiến dần vào vị trí giăng mắc đầy mìn claymore, chạm giây căng, mìn claymore nổ nơi nào thì đại bác chống biển người C120 nổ chụp vào nơi đó. Cánh Bravo đã bẻ gẫy âm mưu "thí một mạng, đổi lấy một chiến xa địch"

Địa bàn cánh Alpha gồm một Phân Đội chỉ huy và một Chi Đội 3, tất cả được lệnh im lặng chờ địch Các nòng súng vẫn còn ướt lạnh và câm nịn Gió vẫn vô tình thổi những hạt mưa bay, mây thấp lững lờ trôi, đội hình bộ binh tùng thiết địch chuyển dịch thận trọng và câm nịn Có lẽ họ có một chút an tâm khi không đụng sức chống trả trên đường tiến quân, họ không ngờ họ bắt đầu lọt dần vào vòng đai hoả lực của vùng trách nhiệm Alpha. Tôi cầm sẳn ống liên hợp trên tay tự lúc nào. Tôi chờ cái phút giây phải đện Tôi bóp ống liên hợp:

- 3! Bắn!

Sáu khẩu đại bác gần như khai hoả cùng một lúc, các khẩu đại bác nổ quyện vào nhau thành một thứ âm thanh kinh khiếp, kỳ dị chụp lửa lưới vào mục tiêu. Chiến xa địch dẫn đầu trúng đạn, hai cột lửa màu cam phụt lên cao, các chiến xa còn lại và quân bộ chiến tùng thiết bị tấn công bất ngờ phải tháo lui và chạy tán loạn, đội hình bị vợ Bắc quân lui về bên kia bờ suối và khuất mất trong rừng cây.

Trời sáng dận Những vệt nắng xuyên mây, chọc thủng màn sương mỏng đang tan dần trên chiến địa khi tiếng súng hai bên bỗng ngưng tiếng như nghĩ xã hơi sau hiệp thử lửa ban đầu. Tiếng súng cũng im tiếng trên vùng trách nhiệm của Trung Đoàn 44 BB khi Bắc quân rút lui sau một đêm quần thảo mà không chọc thủng phòng tuyến địch Khi đang sửa soạn kiểm soát lại vị trí và sắp xếp đạn được cho các khẩu đại liên và đại bác, Chi Đoàn bỗng nhận được chỉ thị của "mặt trời":

- Gia đình Tài Lực dzu lu cải cách khỏi vị trí, tăng cường cho 44, củng cố lại hệ thống phòng thủ! Nghe rỏ

- Tài Lực nghe rõ 5!

Thế là Chi Đoàn di chuyện Đại Đội 44 Trinh Sát cho mấy đứa con xuống tận đầu dốc để hướng dẫn chiến xa vào vị trí đơn vị bạn, cùng lúc Trung Đoàn 53BB nhận nhiệm vụ lục soát khu vực giao tranh đêm hôm qua. Dưới sự hướng dẫn của Bộ Binh, chiến xa rời vị trí, vượt cống nước duói chân dốc, ép trái tiến vào khu Vườn Thợm Thiếu tá Ngô Minh Xuân, Trung đoàn phó Trung Đoàn 44 cho biết tình hình địch và bạn Yêu cầu của ông là Chi Đoàn mở rộng đội hình để yễm trợ cho cả 3 Tiểu Đoàn tu sửa lại hệ thống hầm hố phòng thủ.

Tất cả chiến xa chuyển vị trí ra phía sau những giao thông hào của Bộ Binh được nguỵ trang và bảo vệ bằng lưới chống B40. Đây là loại lưới théo đan vào nhau, có thể căng rộng, thu hẹp, cuôn tròn lại dễ dạng Khi đạn B40 hay B41 đụng vào lưới, ổ mắt cáo của lưới mở ra, thân đạn vừa lọt vào thì mắt lưới thu hẹp lại giữ chặc cánh đuôi đạn để đạn không phóng được vào mục tiêu. Lưới được căng bằng 4 cọc sắt dài 3m2, đóng sâu xuống đất khoảng 0m80. Sự có mặt của chiến xa trên các vị trí của 44 chỉ là tạm thời. Buổi chiều, trước khi trời tối, sau khi 44 hoàn tất xong việc tu bổ các vị trí phòng thủ, tiếp tế và tản thượng Chi Đoàn rút về lại các vị trí hoạch định Khi xích sắt chiến xa lăn xích qua các đơn vị Bộ Binh, chúng tôi vẫy tay chào nhau, và sự dựa lưng thân thiết đó đã giữ phòng tuyến của chúng tôi vững hơn.

Chiến trường yên tĩnh không được bao lâu, vết thương của trận giao tranh ban đầu còn đau nhức, địch thay đổi chiến thuật bằng pháo., pháo dồn dập, pháo khắp các vị trí trong thành phố, pháo vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoạn Kontum tê liệt sau 2 ngày mưa pháo.

Đêm 17 rạng 18 tháng 4/1972, lợi dụng trời tối và sương mù, địch tấn công tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 45BB nằm về phía Nam con suối, cặp theo nghĩa địa thành phó về phía Bắc trại cưa. Bắc quân tập trung hoả lực trực xạ từ bên sườn đồi đối diện, đại bác 75 ly không giật của địch phá huỷ vị trí súng cộng đồng, hầm hố của lực lượng phòng thủ, Bộ Binh rút lui vào sau nghĩa địa sau nhiều giờ giao tranh với số thương vong cao. Vì đây là kháng tuyến chính bảo vệ thành phố nên việc vỡ phòng tuyến này làm Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn lo âu. Đại tá Lý Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Đoàn, lên máy khiển trách Trung tá Phùng Văn Quang, Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 45BB.


Đến hừng sáng, tiếng súng giao tranh giữa địch và bạn tại khu nghĩa địa vẫn còn dữ dội như hồi đệm Súng nổ mọi hượng Tôi ngồi trong xe chỉ huy theo dõi sát tình hình giao tranh các nơi qua hệ thống truyền tin "không - lục". Gương mặt người hạ sĩ quan hiệu thính viên cũng căng thẳng như thượng cấp, bỗng anh trao nhanh ống liên hợp cho tôi:

- Trình Alpha! Tiếp chuyện cùng Quốc Bảo!

- Trình Quốc Bảo! Tài Lực nghe!

- Lệnh cho toàn bộ gia đình Tài Lực bằng mọi giá phải đẩy lui địch khỏi khu vực nghĩa địa, chiếm lại vị trí phòng thủ của Trung Đoàn 45!

Lệnh Quốc Bảo ban ra như thép. Tôi nhận lệnh và trả lời như cái máy:

- Trình Quốc Bảo. Nhận rõ!

Địa hình và tình hình thực tế quả là gay go. Sau khi 2 Tiểu đoàn Bộ Binh của Trung đoàn 45 bỏ vị trí lui về khu nghĩa địa, Bắc quân tràn ngập khu vực và bố phòng các vị trí Bộ Binh bỏ lại. Từ vị trí nơi các gò mả đến các hệ thống hầm hố bị địch chiếm là một khoảng trống 200 mét xa, Bộ Binh không có chỗ ẩn nấp khi tiến quân, không dễ dàng tái chiếm các vị trí đã mất trước hoả lực địch tác xạ từ các vị trí hầm hố và từ sườn đồi bên kia bờ suối. Làm sao phá thế phòng ngự của địch trước cái lệnh như đinh đóng của Quốc Bảo Tôi suy nghĩ chớp nhoáng và gọi hai sĩ quan Chi Đội Trưởng cùng bò lên tuyến đầu để quan sát địa thế, ước lượng mục tiêu. Chúng tôi núp và bàn bạc công chuyện sau gò mả xây, nơi đặt Bộ Chỉ Huy TD3/45, sau đó bò về vị trí Chi Đoàn đêu quyết định kế hoạch tấn công.

Tôi phóng ống dòm vào trận địa mà gia đình chúng tôi sắp phải lao vào. Đó là khu nghĩa địa với nhiều mồ mả, có cái xây khá cao nên không thể dàn hàng ngang tấn công chớp nhoáng được Tiến quân, chiến xa phại chạy chậm, len lách nên trở thành mục tiêu cho 75 ly không giật của địch từ bên kia bờ suối bắn trực xạ qua. Sau khi bàn thảo và liên lạc pháo yễm, gia đình Tài Lực xông vào trận ngay tức khặc Chi Đội 2 và 3 lách mình len giữa các gò mã từ từ tiến lên, vừa qua khỏi khu nghĩa địa, không có thời giờ chần chỉnh đội hình, tất cả chiến xa gầm lên, lao ngay vào tuyến địch, đạn bắn như mưa. Chi Đội 1phóng chiến xa sát cạnh sườn trái chận chiến xa địch đánh ngang hông, cùng lúc, sĩ quan tiền sát pháo binh lập hoả tập, pháo binh rót TỌT ào ạt vào lưng đồi trước mặt để khoá họng mấy khẩu 75 ly không giật của địch, đồng thời không cho địch tiếp ựng Trận đánh diễn ra như trong xi nệ Cùng với chiến xa chỉ huy, 2 Chi Đội đầu chỉa 10 nòng đại bác trực xạ vào khu vực giao thông hào cùng lúc, đại liên 50 trải dài khắp kháng tuyến địch, pháo binh TỌT tới tấp vào quả đồi trước mặt Một trận thư hùng tuyệt đẹp.

Nhưng khi vết xích của 10 chiến xa vừa lăn tới khu đất trống thì pháo binh bỗng ngưng bắn, ngay lập tức, từ bên kia quả đồi, địch tập trung súng chống chiến xa bắn xối xả vào hai Chi Đội đang tiến quân, vài chiến xa bị trúng đạn bất ngờ nên khựng lại. Tình thế vô cùng nguy cập Tiền sát pháo binh hét inh ỏi trong máy:

- Tiếp tục TỌT gấp! Tại sao giữa chừng lại ngưng cho tụi nó ăn phở Bao nhiêu phở cho hết vào! Tô lớn tô nhỏ gì cũng đổ hết vào đầu tụi nó ngay bây giợ! Gấp! Nghe rõ!

Trong lúc các chiến xa khựng lại, từ giao thông hào, địch hàng loạt nhô lên, đứng thẳng người phóng B40, B41 tới tấp vào đội hình Chi Đoạn Trước tình thế nguy cấp sinh tử này, để tiếp hơi với Tiền Sát Pháo Binh, để cứu Chi Đoàn, anh em và cứu cá nhân mình, tôi chụp máy tiếp lời tiền sát pháo binh:

- Trình Quốc Bảo! Xin tối đa pháo binh gấp!

Và liền sau đó, tôi điều động một Chi Đội trừ bị phóng lên tác xạ tối đa vào vị trí súng chống chiến xa bên kia bờ suối. Pháo binh tiếp tục nổ lại, tất cả Chi Đoàn cùng với hoả tập pháo binh phóng tới, tập trung hoả lực vào kháng tuyến địch Ngay lúc đó, qua hệ thống chỉ huy của Chi Đoàn, tiếng Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn Lý Tòng Bá thét lớn như thể ông đang đứng giữa đoàn chiến xa lâm trận:

Đại Tá Lý Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

- Tràn lên! Cán lên đầu tụi nó, đừng cho nó ngóc đầu dậy! Quốc Bảo luôn luôn ở cạnh các em!

Lệnh vừa ban ra, sau lưng như có một sức đẩy vạn năng, tức tốc tôi ra lệnh 6 chiến xa còn lại dàn hàng ngang lao vào tuyến địch, vừa chạy vừa tác xạ Còn cách mục tiêu 50 mét, thêm một chiến xa trúng đạn, 5 chiếc còn lại tiếp tục ủi thẳng vào các hầm hố của địch Ta và địch cận chiến lẫn lộn nhau, một trận chiến đẫm máu, tàn bạo chưa từng có giữa 5 chiến xa và 2 tiểu đoàn Bắc quân, đại bác, đại liên, lựu đạn nổ tứ phía, không gian, thời gian quyện vào nhau biến mất trong khói lửa. Bên trái tôi, chiến xa của Trung sĩ nhất Báo quay ngang, hạ nòng đại bác xuống giao thông hào vừa chạy vừa bắn, xe chỉ huy bám sát yễm trợ và tăng cường hoả lực cho xe đầu. Khi pháo binh bao trùm ngọn đồi bên kia suối bằng đạn nổ chụp thì Chi Đội trừ bị cũng chuyển hướng tấn cộng Bất chợt, từ một vị trí bên trái giao thông hào, một khẩu đại liên địch bắn thẳng vào xe chỉ huy. Tôi nghe một tiếng "chát" trên đầu, chiếc nón sắt quay ngang 1/4 vòng, chẳng cần biết chuyện gì xẩy ra cho cái nón sắt, tôi xoay người đẩy nguyên một thùng đại liên 50 vào vị trí đại liên địch, tiếp theo là một quả lựu đạn Một tiếng nổ lớn, một đám khói mù, thây người tung lên, tiếng súng địch tắt.

Mấy phút sau đó, bộ binh của SD23 tiến lện Trận đánh cận chiến diễn ra ác liệt giữa ban ngày giữa bộ binh địch và bộ binh SD23. Họ đã sử dụng tuyệt vời lưỡi lê và lựu đạn, đánh giạt quân thù ra khỏi vị trí, đánh dìm quân thù xuống các hố chộn Đến gần trưa, chiến xa và bộ binh đã quét sạch kháng tuyến địch.

Chiến xa T54 bị quân ta tịch thu taị Komtum.

Xác địch bỏ lại ngỗn ngang, số còn sống bỏ xác đồng đội lại chiến trường và đào thoạt Được chiến xa yễm trợ, một tiểu đoàn Bộ Binh vượt qua bên kia suối, chiếm giữ đỉnh đồi trước mặt.

Khi tình hình đã lắng dịu, quân ta làm chủ trận địa, tôi bước ra khỏi pháo tháp vươn vai, đảo mắt nhìn cảnh chiến trường đổ nạt Mùi khói súng còn vương trong gió, nhưng chính nó lại làm tôi lâng lâng khi biết địch đã bị đánh văng khỏi trân địa, duy chỉ có cái nón sắt trên đầu còn nặng Tôi giở cái cái nón sắt, để xuống thành chiến xa và bỗng trố mắt nhìn. Cái nón sắt dễ thương này bị thủng một lổ, và nhờ nó quay tròn một phần tư vòng khi chạm đạn, đạn đạo lệch hướng nên đạn đại liên địch chỉ hôn lên trán tôi một đường dài ran rát đỏ ao. Hú hồn. Tôi đã thoát chết trong một kẻ tóc, đường tợ Cái nón sắt vẫn còn trên đầu tôi, nó không thể là "cái nón sắt bên bờ lau sậy này" của một chiến binh vô danh chết trận trong một bài hát muộn phiền thê lương nào đó mà tôi không nhớ tên. Dù thắng trận và hoàn thành lệnh của Quốc Bảo, tim tôi cũng chùng xuống xót xa trước sự tổn thất khá cao của gia đình Tài Lực:

- 6 chiến xa bị hư hại nặng.

-18 anh em hy sinh, trong đó có 3 sĩ quan.

- 30 bị thương, trong đó có 4 sĩ quan.

Tiễn anh em bị thương lên máy bay trực thăng, vĩnh biệt những anh em đã chết, tôi lặng yên trên pháo thạp Nhìn lại trận địa, cuộc ác chiến từ đêm qua đến xế chiều hôm nay, nó như một cơ mơ, một cơn ác mộng. Đại tá Tư Lênh Sư Đoàn liên lạc:

- Quốc Bảo gởi lời khen tới tất cả các em! Các em đánh tuyệt đẹp!

Tôi cám ơn thượng cập Tôi cám ơn sự có mặt thường xuyên của Quốc Bảo trên hệ thống truyền tin suốt thời gian anh em quần thảo với Bắc quân, và sự quan tâm, gần gũi đó của thượng cấp là một trong những yếu tố quan trọng đóng góp vào chiến thắng của Chi Đoàn.

Nhìn khắp lượt mấy đứa con bị thương trong gia đình Tài Lực, nghĩ đến những trận đánh kế tiếp, tôi cho lệnh chuyển những chiến xa bị hư hỏng, trúng đạn bất khiển dụng, kéo về vị trí Chi Đội V.100 để toán Quân Cụ Cấp 2 và phân đội sửa chữa của Chi Đoàn phục hồi khả năng hoạt động của các chiến xa.

Ngọn đồi trước mắt tôi, quân bạn đã cắm cờ và trấn giữ, nhưng các cánh quân của địch vẫn còn dày đặc núi rừng Cao Nguyện Tôi vẫn còn nguyên giữa vùng lửa đạn trong những ngày sắp tới. Cơn mưa đi qua, cơn gió thổi qua, nhưng cuộc chiến đấu này vẫn còn trong mịt mờ lửa khói. Vài loạt súng xa vang vọng khắp núi đồi.

Lê Quang Vinh

Posted by: NamQuoc Jan 11 2017, 10:53 AM


Tháng tư không ánh mặt trời...


Xin một phút mặc niệm để tưởng nhớ những đồng độI cũ và những mũ nâu đã gục ngã trong cuộc chiến bảo vệ Tự Do cho miền Nam Việt Nam trước đây, chữ Tự Do mà chân giá trị của nó, chỉ sau khi tàn cuộc chiến, mớI thực sự được thấu hiểu. HT

Phần 1

Đông xuân một chín bảy lăm, tháng Giêng ngày 6, những sư đoàn chính qui Bắc Việt với T54 và đại pháo 130 ly yểm trợ tràn ngập tỉnh lỵ Phước Bình, Phước Long sau hơn hai tuần lễ ác chiến với quân trú phòng gồm phần lớn là quân địa phương diện điạ và một trung đoàn của SĐ5BB!! Hai biệt đội Biệt Cách Nhảy Dù được tung vào trận điạ mong cứu vản tình hình, nhưng đã quá muộn màng. Bắc quân với hỏa lực và quân số áp đảo gấp chục lần đã nghiền nát mọi sức kháng cự còn sót lại ! Lính 81, thiệt hại gần phân nửa, chạy dạt vào rừng, nương bóng tối rừng già tìm đường triệt thoái. Tháng Giêng năm 1975, tháng mở đầu cho định mạng cay nghiệt của miền Nam Việt Nam trong cuộc hành trình vào thềm đầu điạ ngục!

Trận chiến Phước Long thực chất chỉ là một trận đánh thăm dò của Cộng Sản Bắc Việt. Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương Hà Nội muốn thử laị lần chót phản ứng của ngườI Mỹ và độ dẽo cũa quân lực miền Nam trước khi hình thành kế hoạch tỗng tấn công. Họ đã có ngay câu trả lời. Sự im lặng dửng dưng của người Mỹ, và sự khoanh tay thúc thủ của miền Nam nhìn Phước Long bị tràn ngập! Hà Nội đã tìm ra chân lý : Hoa Kỳ thực sự bỏ rơi miền Nam và quân lực VNCH đã bị kéo căng tới mức không còn khả năng xoay sở! Kế hoạch tỗng tấn công chiếm dóng miền Nam được chính thức hình thành và Tây Nguyên được chọn làm khởi điểm cho cuộc tấn công, vì đây là nơi mà sự phòng thủ của quân lực miền Nam tương đối mõng và yếu kém nhất vì điạ thế núi rừng mênh mông, điệp trùng hiểm trở!

Để chuẩn bị cho Chiến Dich 275 đánh chiếm Tây Nguyên, Mặt trận B3 Bắc quân đã điều động sư đoàn 968 từ nam Lào vào khu vực Đức Cơ, Pleiku. Trung tuần tháng Hai, 1975, địch điều tiếp sư đoàn 316, tổng trừ bị từ Thanh Hoá, đi xuyên qua Quãng Trị vào điạ phận tỉnh Darlac sẵn sàng cho chiến dịch. Hai sư đoàn 10 và 320 của địch đanh hoạt đông tại Tây Nguyên cũng được điều động vào vị trí hành quân. Mục tiêu cuả chiến dich là thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh Darlac; vì theo phân tích và nhận định tình hình của Quân Uỷ Trung ương Hà Nội thì Ban Mê Thuột là thủ phủ chính trị và kinh tế của Tây nguyên, dân cư đông đúc, đất đai trù phú, sự phòng thủ lại tương đốI mõng vì tướng Phú, tư lịnh vùng II đã bố trí hai trung đoàn của sư đoàn 23 BB và các liên đoàn BĐQ tạI khu vực bắc Tây Nguyên nhằm bảo vệ Bộ Tư Lệnh QĐ2 tại Pleiku và tỉnh Kontum


Tướng Phạm văn Phú Tư Lệnh Vùng II

Để đánh lạc hướng QĐ2, địch mở những cuộc tấn công nghi binh mạnh tại Kontum, Pleiku và vùng cực Nam Tây Nguyên nhằm giử chân các lực lương của tướng Phú không cho về tiếp cứu Ban Mê Thuột, trong khi đó ba sư đoàn địch phiên hiệu số 10, 316 và 320 lặng lẽ di chuyễn vào khu vực mục tiêu. Tiếng súng mở màn cho chiến dịch 275 nổ dòn dọc Quốc Lộ 19, con đường huyết mạch nối liền Tây Nguyên và vùng duyên hải, sáng sớm mùng 4 tháng 3, năm 1975. Những cuộc tấn công đồng loạt đã cắt đứt đoạn đường từ đèo Mang Yang, Pleiku xuống Bình Định. Ngay sau đó, đặc công Cộng sản phá sập hai cây cầu trên Quốc Lộ 21 nối liền duyên hải với Cao Nguyên qua ngã Ban Mê Thuột. Đồng thời lực lương bộ binh thuộc Sư Đoàn 3 CSBV tấn công, tràn ngập đơn vị Điạ Phương Quân trấn giữ các cao điểm tạI khu vực. đèo An Khê, và một căn cứ hoả lực của Trung Đoàn 47, SĐ22 BB. Địch nả pháo dữ dội vào phi trường An Khê và căn cứ không quân Phù Cát tại Bình Định. Với Quốc Lộ 19 và 21, hai con đường duy nhất nối liền cao nguyên và vùng duyên hải bị cắt đứt, Tây Nguyên hoàn toàn bị cô lập chỉ sau hơn 24 tiếng đồng hồ với những đợt tấn công cường tập ác liệt.

Tại Pleiku, những trận mưa pháo dữ dội của địch dội lên các lực lượng thuộc Quân Đoàn 2 đóng dọc theo Quốc Lộ 19, đoạn từ Lệ Trung, cách thị xã Pleiku 15 km về phía đông, xuống tớI đoạn đường hẹp của đèo Mang Yang. Các căn cứ hỏa lực 92, phía đông Lệ Trung, 93 và 94, phía bắc đồI 3045 cũng bị pháo địch cày nát. Bộ Tư Lịnh QĐ2 lập tức tung hai tiểu đoàn thuộc LĐ4 BĐQ tăng cường cho Lữ Đoàn 2 Thiêt Kỵ đang hành quân khai thông Quốc Lộ 19, nhằm giải toả đoạn đường dẫn tới tận căn cứ hỏa lực 95 tiI Bình Định, ngay phía bắc đèo Mang Yang. Nhưng trước khi cuộc hành quân khởi sự tiến hành, căn cứ hỏa lực 94 đã bị địch quân tràn ngập. Trong lúc đó địch dùng hoả tiển pháo vào phi trường Pleiku, gây thiệt haị nặng cho khu vực bảo trì của phi trường. Ngày 9 tháng 3 , Trung Đoàn 9, SĐ 320 Bắc Việt cắt đứt Quốc Lộ 14, con đường huyết mạch cuốI cùng nốI liền Darlac với Pleiku về phía bắc, Ban Mê Thuột đã bị cô lập hoàn toàn vớI thế giớI bên ngoài và mọi nguồn viện binh có thể có được!!
Những cuộc tấn công dọc theo QL19 đã hoàn toàn thuyết phục Tướng Phú là Pleiku nơi đóng đại bản doanh của QĐ2 sẽ là mục tiêu chính của quân CSBV. Trong buổi họp tham mưu duyệt xét tình hình chiến sự tại Bộ Tư Lịnh QĐ 2, Đaị Tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng 2 QĐ, cho rằng Ban Mê Thuột sẽ là điểm cho cuộc tấn công, với hai mục tiêu trung chuyễn là Buôn Hô và Đức Lập. Dựa vào tin tức tình báo thâu lượm được về việc các đơn vị của SĐ 10 và 320 đã chuyễn hướng di chuyễn về phía nam cũng như việc địch tiến hành các hoạt đông trinh sát trong khu vực Quãng Đức và Darlac, ĐạI tá Tiếu trình với Tuớng Phú theo ông thì những cuộc tấn công của địch tạI Kontum, Pleiku, và trên QL19 chỉ là những cuộc tấn công nghi binh nhằm đánh lạc hướng QĐ2, và để cột chân các đơn vị ta tại chỗ. Tướng Phú nhận định ngược lại. Ông cho rằng mục tiêu chính của quân Bắc Việt sẽ là Pleiku, nơi đóng đại bản doanh của ông; vì trong mấy ngày qua địch đã pháo và tấn công dử dội các đơn vị của SĐ23 tại Thanh An, Pleiku và các tiểu đoàn BĐQ đóng tại phía bắc Kontum. Tướng Phú có lẻ phần vì mới về nắm tư lệnh QĐ 2 nên chưa quen thuộc lắm vớI cách hành binh bố trận của địch quân, phần vì ông cũng chẳng có bao nhiêu lực lượng trừ bị để xoay sở, nên ông khó có thể rút hai Trung Đoàn đang bảo vệ phía tây Pleiku vể tăng cường cho Ban Mê Thuột được khi mà tình hình

tạI đây chẳng có gì là nghiệm trọng lắm !
Có một điều hiển nhiên, không thể nào chối cãi được là sau Hiệp Định Paris 1973, VNCH hầu như bị trói tay bởi những điều khoãn dường như được soạn thảo chỉ nhằm ràng buộc một phía duy nhứt: VNCH ! Ngay trong vấn đề quân viện, quân miền Nam chỉ được phép một đổi một cho những chiến cụ hư hõng; trong khi miền Bắc thì viện trợ quân sự của khối Cộng dành cho Bắc Việt hoàn toàn không bị hạn chế, càng lúc càng tăng! Chưa kể đến từ cuối 73 về sau, khi TT Nixon bị vướng vào vụ Watergate đầy tai tiếng, Quốc HộI Mỹ với phe Dân Chủ nắm đa số bị áp lực nặng của quần chúng Mỹ qua các phong trào phản chiến chống chiến tranh VN, nhất là sự thiên vị đầy ác ý của truyền thông Hoa Kỳ, đã có những quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự sống còn của miền Nam Việt Nam: cắt giảm viện trơ quân sự từ một tỷ tư xuống còn 722 triệu đô la, và cuối cùng khi quân Bắc Việt đang ào ạt tấn công lấn chiếm miền Nam, một phát súng ân huệ được chọn đúng thời điểm dành cho VNCH: từ chối mọi quân viện cho miền Nam kễ cả việc tháo khoán 722 triệu đô la trong ngân sách đã dự trù cho miền Nam, vớI một lý luận hết sức đơn giản ‘300 tỹ cộng vớI nửa triệu quân Mỹ trang bị hùng hậu, tối tân nhất thế giớI trong 10 năm trờI vẫn không đánh thắng được CSBV, thì với 722 triệu đô la, quân lực miền Nam hiện đang rời rả trong chiến trận và nạn tham quan ô lại sẽ làm được việc gì ??!!’ Mười lăm sư đoàn quân chính qui Bắc Việt ngang nhiên nằm lạI miền Nam trong cái gọi là ngưng- chiến- da- beo, đâu ở tại đó, đã như một lưỡi kiếm thép kề vào yết hầu cuả miền Nam, nằm chờ đợi thời cơ với những đợt tân trang, bổ sung nhân lực cùng khí cụ tối tân từ miền Bắc đưa vào qua những hành lang xâm nhập được xây dựng sau 73, lợi dụng sự ràng buột cuả Hoa Kỳ bởi Hiệp Định Paris, không được phép ném bom tại cả miền Nam lẫn miền Bắc. Và thời cơ, cuối cùng đã tới!!

“Đến đây ta thấy hờn chinh chiến

Trong mắt em chiều lệ đẫm quanh ”

(Chiều Ngút Khói—Lê Nguyên Ngữ)

Tháng ba năm môt chín bảy lăm, tháng của định mệnh, nước mắt đắng cay và lửa máu!! Cơn bảo lửa thịnh nộ của Bắc quân đã đổ ập lên đầu những ngườI dân vô tộI tạI miền Tây Nguyên gió núi lá ngàn xanh. Ngày 9 tháng ba, các đơn vị thuộc SĐ10 Bắc Việt mở những cuộc tấn công đồng loạt đều khắp tỉnh Quãng Đức. Tại Kiến Đức, BĐQ đẩy lui các đợt tấn công của địch. TạI Đúc Lập, Bắc quân cũng bị đánh lui. Nhưng tại Dak Song, phía nam Đức Lập, sau những đợt tiền pháo hậu xung ác liêt, địch tràn ngập vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 53, SĐ23BB.

Tướng Phú lúc này chợt hiểu chính Darlac mới là mục tiêu chính của chiến dịch và ông cần phải có ngay quân tăng viện cho Ban Mê Thuột, trước khi quá muộn! Ông yêu cầu Bộ Tỗng Tham Mưu lập tức tăng cường thêm cho Quân Khu 2, một Liên Đoàn BĐQ, nhưng lời yêu cầu đã bị bác vì Bộ TTM hầu như không còn quân trừ bị trong tay, và chính Sàigòn lẫn Tây Ninh cũng đang bị áp lực mạnh của Cộng quân. Không còn quân trừ bị để xoay xở, Tướng Phú buộc phải rút hai tiểu đoàn 72 và 96 thuộc LĐ 21 BĐQ từ đèo Chư Pao và Kontum, trực thăng vận về Buôn Hô, cách Ban Mê Thuột 35 km, dùng đường bộ tiến về Ban Mê Thuột. Đại Đội Trinh Sát 45 tại Bản Đôn cũng được lịnh quay trở lại phòng thủ Ban Mê Thuột.

Ngày N, giờ G: 2 giờ sáng ngày 10 tháng ba năm một chín bảy lăm, Bắc quân tấn công Ban Mê Thuột. Trung đoàn đặc công 198 và hai tiểu đoàn chính qui địch bí mật xâm nhập vào thị xã Ban Mê Thuột từ trước mở những đợt tấn công dữ dộI vào phi trường Phụng Dực, phi trường L19, kho tiếp vận Mai Hắc Đế và Bộ Tư Lệnh SĐ23 BB. Các đơn vị Bắc quân của các SĐ 10, 316 và 320, tân công ào ạt vào thị xã Ban Mê Thuột từ ba hướng với sự yểm trợ của 64 chiến xa và xe bọc thép thuộc Trung Đoàn thiết giáp 273 BV và cơn bão lửa rung chuyễn núi rừng Tây Nguyên của 78 khẩu pháo nặng của hai trung đoàn pháo BV bắn cấp tập vào các mục tiêu đã định sẵn, cùng một lưới lửa của 2 trung đoàn pháo cao xạ phòng không địch giăng kín bầu trời Ban MêThuột, ngăn cản mọi yểm trợ cận yểm của không lực miền Nam. Bắc quân áp dụng chiến thuật sở trường “ Hoa Sen Nở” đánh thật bất ngờ, vũ bão và ác liệt với quân số và hỏa lực áp đảo vào các cơ quan chỉ huy đầu nảo của quân trú phòng, nhằm làm tê liệt rốI loạn mọI sự điều động kháng cự và phản công của quân đồn trú; sau đó từ trung tâm mục tiêu đánh tỏa ra ngoài để tiêu diệt nốt các lực lượng phòng thủ ngoạI vi đang rối loạn vì không còn liên lạc được với trung tâm chỉ huy. Giao tranh diễn ra ác liệt taị Bộ Tư Lệnh SĐ 23, khu phía nam dinh Tỉnh Trưởng, và Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac. Năm chiến xa địch bị bắn cháy gần BTLSĐ23, nhưng một lầm lẩn đáng tiếc đã xãy ra làm tê liệt sức kháng cự tại khu vực này. Một máy bay của không quân trong khi yểm trợ lực lượng phòng thủ đã thả lầm bom vào Bộ TLSĐ, hủy diệt Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật cùng mọi phương tiên truyền tin liên lạc! Sau 32 giờ chống trả quyết liệt, BTLSD23 bị địch quân tràn ngập, Tư Lịnh Phó SĐ 23 sa vào tay quân BV. Riêng lực lượng trú phòng tại phi trường BMT đẩy lui được nhiều đợt tấn công của quân địch, bảo vệ được đài kiểm soát không lưu, dù một số máy bay của SĐ6 Không Quân đã bị phá hủy khi địch tấn công mãnh liệt vào phi trường.


Tới chiều tối ngày 10 tháng ba, sau những đợt dập pháo dữ dội, với T54 yểm trợ, quân Bắc Việt mở liến tiếp nhiều đợt xung phong quyết liệt đã chiếm được vùng trung tâm Ban Mê Thuột, tuy vậy các lực lượng còn laị cuả Trung Đoàn 53, Thiết giáp và lực lực lượng diện địa vẫn giữ vững vị trí ở khu vực phía tây, đông và nam của thị xã BMT. Giao tranh vẫn tiếp diển ác liệt tạI phi trường Phụng Dực, nơi lực lượng của Bộ Tư LịnhTiền Phương SĐ23, Bộ CH Trung Đoàn 53 BB và Chi Đoàn 3, Lữ Đoàn 8 Thiết Kỵ vẫn tiếp tục cuộc kháng cự. Cưòng độ giao tranh vẫn khốc liệt giữa quân chính qui BV với các đơn vị của Trung Đoàn 53 BB và hai tiểu đoàn thuộc LĐ 21 BĐQ kéo dài tới tận ngày 11 tháng ba. Bắc quân chắc chắn phải bội phần kinh ngạc vì không ngờ những ngườI lính miền Nam với quân số, hỏa lực yếu kém chưa bằng được một phần mười quân địch, dù bị tấn công bất ngờ vẫn chiến đấu kiên cưòng cho tớI lúc không còn đạn dược mới chịu rút lui, hoặc buông súng đầu hàng!


Những cuộc giao tranh ác liễt vẫn tiếp diễn trọn ngày 11 tháng ba. Quân trú phòng ước tính có tớI 400 quân BV bị bắn chết, tich thu 50 vũ khí đủ loại và bắn cháy 13 chiến xa địch. Lực lượng thuộc Trung Đoàn 53 BB bảo vệ phi trường BMT báo cáo, quân BV đã xử dụng súng phun lửa trong các đợt tấn công vào vị trí phòng thủ của quân ta. Các ổ kháng cự rải rác còn lại của quân trú phòng trong thị xã vẫn chiến đấu dù Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Trọng Luật đã bị địch bắt đi.Trong khi đó, LĐ4 BĐQ đụng nặng với Bắc quân dọc QL19, gần cầu 23 và căn cứ hỏa lực 93 khi Trung Đoàn 95B BV mở cuộc phản công dữ dội vào những ngày 11,12 tháng ba nhắm vào các đơn vị mũ nâu. Cộng quân cũng nả pháo vào Bộ TLQĐ 2 và phi trường Pleiku gây hư hại cho một số phi cơ tại đây.

Vào ngày 12 tháng ba, mọi sự kháng cự có tổ chức tại Ban Mê Thuột chấm dứt. LĐ21 BĐQ với thành phần sống sót của hai tiểu đoàn tham chiến mỡ đường máu rút lui về vị trí gần phi trường Phụng Dực. Tướng Phú lập tức cho trực thăng vậnTrung Đoàn 45 về quận Phước An, trên QL21, phía đông Ban Mê Thuột nhằm thực hiện kế hoạch phản công tái chiếm Ban Mê Thuột. Ngày 13 tháng ba, SĐ 320 BV cũng cố xong vị trí chiếm được tại thị xã Ban Mê Thuột, bắt đầu tiếp tục tấn công vào phi trường Phụng Dực. Nhận thấy tình hình hết sức nghiêm trọng tại Quân Khu 2, Bộ TTM quyết định tăng viện đơn vị tỗng trừ bị cuối cùng cho Tây Nguyên: LĐ7 BĐQ được không vận đến Pleiku thay thế cho Trung Đoàn 44 đang đóng tại phía tây Pleiku để QĐ2 có thể tung đơn vị này vào việc phản công giải tỏa Ban Mê Thuột.

Vào ngày 14 tháng ba, Tướng Phú cho thành lập một Chiến Đoàn đặc nhiệm tại Phước An, gồm Trung Đoàn 45, một tiểu đoàn và Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 44, một tiểu đoàn còn lạI của LĐ21BĐQ; tất cả đặt dưới quyền điều động của tướng Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tư Lịnh SĐ23BB. Nhiệm vụ cũa chiến đoàn đặc nhiệm là sẽ tấn công về hướng tây dọc theo hai bên QL21 để bắt tay với lực lượng bạn gồm Tiểu Đoàn 3 Trung Đoàn 53, đã ác chiến vớI đich tại phi trường Phụng Dực suốt bốn ngày liên tục; các thành phần còn laị của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 53, rút lui về từ phia tây thị xã và của hai Tiểu Đoàn 72 và 96 thuộc LĐ21BĐQ. Cuộc phản công sẽ được yểm trợ về tiếp vận từ Nha Trang; và một lực lượng đặc nhiệm khác gồm 5 tiểu đoàn Điạ Phương Quân của tỉnh Khánh Hoà được lịnh hành quân mở đường đoạn từ Nha Trang đến tận Khánh Dương.

Ngày 14 tháng ba Tướng Phú bay về Cam Ranh dự buổi họp định mệnh với TT Thiệu, một buổi họp lịch sữ, quyết định số phận nghiệt ngã của miền Nam tự do, và đồng thời khai tử luôn Quân Lực VNCH, một quân lực đã chiến đấu gian khổ suốt hai mươi năm trường, để bảo vệ, gìn giữ sự vẹn toàn của từng tấc đất cho miền Nam tự do !! Tham dự cuộc họp có Đai Tướng Viên, TTM Trưởng, Tướng Đặng V.Quang, Cố vấn An Ninh, và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. TT Thiệu đã phát họa kế hoạch chiến lược phòng thủ miền Nam trong tình hình mới. Ông ra lịnh cho Tướng Phú phải chiếm lại Ban Mê Thuột bằng mọi giá, vì theo ông Ban Mê Thuột quan trọng trong việc phòng thủ miền Nam hơn Pleiku hay Kontum. Ông cho biết thêm về khái niệm chiến lược “Đầu Nhẹ, Đáy Nặng” bao gồm việc bỏ vùng lãnh thổ phía Băc, bỏ Pleiku, Kontum, lui về lập tuyến phòng thủ bảo vệ Ban Mê Thuột (phải chiếm lại) và các tỉnh vùng đồng bằng duyên hải, đông dân cư, trù phú, cùng toàn bộ Quân Khu 3 và 4. Lý luận của ông rất đơn thuần “ sự giảm quân viện của người Mỹ gây vô cùng khó khăn cho Quân Lực VNCH trong việc chiến đấu chống quân xâm lăng Cộng Sản. Nếu ngườI Mỹ viện trợ đầy đủ, chúng ta sẽ gìữ được toàn thể lãnh thổ. Nếu họ chỉ cho chúng ta có một nữa thì chúng ta sẽ chỉ giữ một nửa!!!!” .

Buổi họp định mệnh đó chỉ kéo dài đúng một tiếng rưởi đồng hồ! Bốn quyết định quan trong được thông qua: (1) Lực lượng chính qui của QĐ2 sẽ rút khỏi Pleiku-Kontum về vùng duyên hải, phôi hợp vớI lực lượng của SĐ22 tạI Bình Định để hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. (2) Các lực lượng diện địa và các viên chức chính quyền địa phương sẽ được để lại. (3) Cuộc tái phối trí phãi được tiến hành chỉ trong thờI hạn vài ngày và tuyệt đối trong vòng bí mật. Và (4) VớI các QL19, 21 đã bị cắt đứt, Liên Tỉnh Lộ 7B, một con đường phụ, tách khỏi QL14 khoãng ba mươi ba km, về phía nam Pleiku, chạy theo hướng đông nam, qua Hậu Bổn (Cheo Reo) về Tuy Hòa được chọn làm đường rút quân để tạo yếu tố bất ngờ. Liên tỉnh lộ 7B là một con đường nhỏ, lồi lỏm, bỏ hoang từ lâu, dài khoãng 250 km với những đoạn đưòng đầy bụi rậm, những khúc sông cạn nơi xe cộ và con ngườI có thể vượt qua được cần phải tu bổ, sửa chửa, cũng như cây cầu chính bắc qua Sông Ba, phiá nam Cũng Sơn bị phá hủy không còn xử dụng được, và một đoạn đường chót đi vào Tuy Hoà vô cùng nguy hiễm vì đầy rẩy mìn bẩy cuả quân đội Đại Hàn đã gài phong tỏa trước đây. Sau buổi họp với TT Thiệu, Tướng Phú bay trở lại Bộ Tư Lệnh QĐ2 để chuẩn bị kế hoạch lui quân, tái phối trí lực lượng.


Đêm 13 tháng ba, đặc công Cộng Sản đột nhập kho đạn Pleiku, phá hủy 1400 quả đạn pháo 105 ly. Tình hình an ninh tạI Pleiku trở nên tồi tệ vì phần lớn lực lượng của hai trung đoàn 44 và 45 đã được đưa về Phước An, chuẩn bị cho cuộc hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.

Tướng Phú ra lịnh xử dụng máy bay của SĐ6 KQ, di tản các quân nhân và gia đình thuộc những phòng sở không quan trọng tại Pleiku và Kontum. Đại Tá Giao, quyền Tư Lệnh SĐ6 Không Quân điều động việc di tản tại phi trường quân sự Pleiku. Chuẩn Tướng Trần V. Cẩm, Tư Lệnh Phó đặc trách hành quân của QĐ2, chỉ huy các lực lượng nằm tạI Pleiku; còn Đại Tá Phạm Duy Tất, Tư Lệnh BĐQ Vùng 2, vừa được thăng Chuẩn Tướng, phụ trách các lực lượng diện điạ của tiểu Khu Kontum và ba LĐ 6,22,23 BĐQ đang bảo vệ mặt bắc Kontum. Tướng Phú cho dời Bộ Tư Lệnh QĐ2 về Nha Trang, và bổ nhiệm Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 QĐ thay thế ĐạI Tá Nguyễn Trọng Luật đã bị bắt, làm Tỉnh Trưởng Darlac. Trưóc khi bay về Nha Trang, Tưóng Phú chỉ định Chuẩn Tưóng Tất, chỉ huy toàn bộ cuộc triệt thoái khỏi Kontum và Pleiku về Tuy Hòa bằng Liên Tỉnh Lộ 7B.

Ngày 15 Tháng ba, khi các lực lượng SĐ23 tại Phước An bắt đầu cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, tình hình các đơn vị còn lại của Trung Đoàn 53 tại phi trường Phung Dực càng lúc càng xấu hẳn. Các chiến sĩ SĐ23 và BĐQ tại đây dù bị những trận mưa pháo không ngừng của Bắc quân, vẫn liên tục đẩy lui những đợt tấn công biển người của Trung Đoàn 25 chính qui BV. Mặt Trận B3 địch tung thêm SĐ 316 vào trận điạ, chuẩn bị cho đợt tấn công cuối cùng, dứt điểm tuyến phòng thủ đã tơi tả của quân ta. Đồng thời, Tướng Văn Tiến Dũng, Tư Lệnh chiến dịch 275 Bắc quân, ra lịnh cho SĐ 10 BV từ Đức Lập, bôn tập lên chặn đánh chiến đoàn đặc nhiệm của QĐ2 tại Phưóc An, không để lực lượng này bắt tay vớI quân trú phòng còn lại của Trung Đoàn 53. SĐ 10 địch với chiến xa và pháo nặng yểm trợ đã chận đứng lực lượng tiền tiêu cuả Trung Đoàn 45 tạI sông Ea Nhiêu, khi chỉ còn cách các đơn vị đang bị vây hãm của Trung Đoàn 53 không đầy 10 cây số. Hoàn toàn không có chiến xa, còn không quân thì không yểm trợ được vì hoả lực phòng không dày đặc của địch, chiến đoàn đăc nhiệm của Tưóng Phú chỉ với một hỏa lực hạn chế của pháo binh yểm trợ, đã đánh những trận đẩm máu với Bắc quân trong suốt bốn ngày liền. Tiểu đoàn 2, Trung Đoàn 45, tan hàng sau những trận đụng độ ác liệt ! Khi Tưóng Tường TLSĐ23, chỉ huy chiến đoàn bị thưong nhẹ, tự ý di tản khỏi chiến trường bằng trực thăng, tinh thần chiến đấu cuả binh sĩ suy sụp và lực lượng phản công của hai Trung Đoàn còn lại của SĐ23 BB hoàn toàn tan rả!! Lực lượng đặc nhiệm thứ hai gồm 5 tiểu đoàn ĐPQ của TK Khánh Hòa cũng bị chận đứng tại đèo Khánh Dương. Ngày 18 tháng ba, các binh sĩ sống sót của Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 53, tại phi trường Phụng Dực, sau tám ngày không được tiếp tế lương thực và đạn dược, phải mở đường máu rút lui!

Ngày 21 tháng ba, những đơn vị tơi tả, còn lại của SĐ23 được bốc về Cam Ranh để chỉnh trang và tái phối trí. Trong lúc đó cuộc triệt thoái từ Pleiku đã khởi sự tiến hành. Bắc quân vẫn chiếm giữ các cao điểm tại Khánh Dương và vùng chung quanh, dọc QL21, mặc dầu lực lượng của Tiểu Đoàn 2 và 3 thuộc Trung Đoàn 40, SĐ22 BB đưọc điều qua từ Bình Định, mở những cuộc phản công ác liệt để chiếm lại những cao điểm này, nhưng không kết quả! Lữ Đoàn 3 Dù, từ mặt trận Thường Đức, trên đường về bảo vệ Sàigòn, bằng hải vận hạm của Hải quân VN, đã được linh đổ quân xuống Nha Trang, tức tốc lên Khánh Dương, chặn bước tiến cuả SĐ10 địch đang từ Tây Nguyên tràn xuống. Mục tiêu đặt ra trước mắt của QĐ2 là tái phôí trí các lực lượng còn lại, hoàn tất việc di tản khỏi Pleiku, Kontum, và chận đứng bước tiến như thác lũ của các binh đoàn Bắc quân, đang ào ạt tràn xuống bình nguyên, theo đường 21.

“Đêm Tây Nguyên trời không muốn sáng
Em chạy phương xa có ngóng về
Có thấy trăng vàng lên xác mẹ
Lên xác người nằm khắp nẻo quê ?!”
( Chiều Ngút Khói—Lê Nguyên Ngữ )


Cuộc triệt thoái khỏI Tây Nguyên của QĐ2 được bảo mật tuyệt đối. Tướng Phú hy vọng yếu tố bất ngờ sẽ giúp lực lượng QĐ2 có thễ rút về được Tuy Hòa trước khi địch quân phát giác. Chỉ một số ít sĩ quan trong ban tham mưu QĐ và một vài chỉ huy trưỏng đơn vị được thông báo quyết định rút quân. Còn các tiểu khu trưởng Kontum, Pleiku, Phú Bổn, chỉ đoán được ý định của quân khu vào giờ phút chót khi thấy các đơn vị quân chính qui của QĐ bắt đầu di tản. Kế hoạch triệt thoái được phát thảo vộI vả, đại cương, những mệnh lệnh hành quân chi tiết, cụ thể đều không hề có. Ngay cả vấn đề dân chúng sẽ đổ xô di tản theo đoàn quân khi biết được QĐ rút đi, cũng không hề được dự liệu trước. Hậu quả là đội hình chiến đấu của cả một quân đoàn không thể triển khai nhanh chóng và hiệu quả khi đụng địch vì dân chúng ở lẫn lộn trong hàng ngủ các binh sĩ làm họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc chiến đấu.

Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng QĐ2 có trình xin Tưóng Phú cho một tuần lể, hay ít nhất cũng đươc ba ngày để lập kế hoạch rút quân, nhưng Tướng Phú không tán thành điều này. Ông chỉ cho thời hạn một ngày là toàn bộ QĐ phảI triển khai phương án di tản, không được phép chậm trể! Và lịnh di chuyễn chỉ được phổ biến xuống các đơn vị đúng một tiếng đồng hồ trưóc khi khởi sự hành quân triệt thoái. Trong lịch sữ cổ kim, chưa hề có cuộc lui quân cấp QĐ nào mà thờI gian chuẩn bị chỉ có được một ngày, trừ trưòng hợp phải tan hàng, tháo chạy!! Sự thiếu chuẩn bị cũng là một nhân tố chính trong việc làm tan nát đoàn quân, cho dù đoàn quân đó có thiện chiến đến đâu đi nữa, chắc chắn cũng không tránh khỏi thảm bại khi bị địch quân truy đuổi !


Tướng Phú hiểu rõ LTL7B là con đường bị bỏ hoang và hư hỏng nhiều chỗ, nên ông ra lịnh cho Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu đi tiền tiêu để phụ trách việc sữa chữa,tu bổ những đoạn đường và cầu cống bị hư hại-. Ngày 16 tháng Ba năm 1975, QĐ2 bắt đầu cuộc triệt thoái bốn đợt. Mỗi đợt gồm khoãng 250 xe GMC, được một chi đoàn M48 thuộc Thiêt Đoàn 21 Chiến Xa yểm trợ. Các tiểu đoàn của năm LĐ BĐQ vẫn còn nằm án ngữ bảo vệ Kontum và Pleiku, cùng với một chi đoàn chiến xa M48 khác, làm lực lượng đoạn hậu cho QĐ, sẽ rút sau cùng vào ngày 19 tháng Ba. Các đơn vị tiếp vận, quân cụ, và pháo binh được lịnh di tản trong đợt đầu tiên và đợt ngày 17 tháng Ba. Các đơn vị Quân Cảnh, các phòng, sở thuộc QĐ, và thành phần còn lại của Trung Đoàn 44 BB rút trong đợt ngày 18 tháng Ba. Theo kế hoạch dự trù thì lực lượng diện địa của các Tiểu Khu Kontum, Pleiku, Phú Bổn sẽ phụ trách việc bảo vệ an ninh dọc đường rút lui, một nhiệm vụ gần như không tưởng, vì chính họ là những đơn vị sẽ bị QĐ bỏ lại!!

Lực lượng triệt thoái của QĐ2 bao gồm 1 tiểu đoàn của Trung Đoàn 44; 6 Liên Đoàn BĐQ: LĐ 4, 25, và LĐ 7( vừa được Bộ TTM tăng cường cho QK2 ) đang nằm tại Pleiku; LĐ 6,22,23 ở Kontum; Thiết Đoàn 21 Chiến Xa; 2 tiểu đoàn pháo 155-mmm Howitzer; 1 tiểu đoàn pháo tầm xa 175 ly; Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu và Liên Đoàn 231 Yểm Trợ Tiếp Vận. Ngày 16 tháng ba, lệnh triệt thoái được ban hành. LĐ 6 BĐQ, bảo vệ phía đông bắc thị xã Kontum, rút về thị xã Pleiku ngày hôm trước.Hai LĐ 22, 23 BDQ, từ phía bắc và tây bắc Kontum, rút về Pleiku ngày kế tiếp. Vào lúc này, một đơn vị của Trung Đoàn 44 BB và các LĐ 7,25 BĐQ vẫn còn án ngữ bảo vệ phía tây thị xã Pleiku. Một tiểu đoàn của LĐ25 BĐQ đang đụng độ ác liệt với lực lượng chính qui BV tại Thanh An. Tướng Tất, Tư Lệnh BĐQ QK2, chỉ huy toàn bộ cuộc triệt thoái, cho dời Bộ Chỉ Huy nhẹ của ông về Cheo Reo, Phú Bổn. Ông thay đổi kế hoạch, đưa một LĐ BĐQ theo yểm trợ cho LĐ 20 Công Binh Chiến Đấu trong trọng trách đi tiền tiêu. Chính nhờ quyết định này mà các đơn vị công binh của LĐ 20 có được sự yểm trợ cần thiết để thi hành nhiệm vụ vì các lực lượng điạ phương của Phú Bổn, cũng như của Kontum, Pleiku đều không hề bảo vệ an ninh lộ trình như kế hoạch dự trù, vì chính họ khi biết bị bỏ rơi đã di tản theo đoàn quân, hoặc tự ý rả ngũ! Ngày 16 tháng ba, lực lượng điạ phương địch dùng hoả tiển 122 ly pháo dữ dội vào thị xã Cheo Reo. Địch quân đã bắt đầu đánh hơi được động tĩnh của đoàn quân di tản!

Tại Chỉ Huy Sở Măt Trận B3 Bắc quân, Tướng Văn Tiến Dũng nhận được báo cáo của đơn vị kiểm thính, vừa chặn bắt đươc điện đàm vô tuyến của Không Quân miền Nam cho biết hầu hết các máy bay từ phi trường quân sự Pleiku đã cất cánh bay về Nha Trang, mặc dầu phi trường này vẫn chưa bị pháo kích nặng, và các điện đàm của QĐ2 cho biết Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của QĐ đã dời về Nha Trang. Các đài phát thanh ngoại quốc cũng loan tin dân chúng Pleiku đang đổ xô di tản về Saigòn bằng máy bay của hãng Hàng Không Việt Nam. Chiều ngày hôm ấy, một tổ trinh sát báo cáo về Sở Chỉ Huy Bắc quân, một đoàn công voa dài đang di chuyễn xuôi nam về hướng Phú Bổn. Tưóng Dũng ra lệnh báo đông cho Trung Đoàn 95 B chính qui BV đóng dọc QL19, SĐ320 tại phía bắc Ban Mê Thuột trên QL14, và SĐ10 tại QL21, theo dõi tình hình, vì lực lượng QĐ2 đang có những cuộc tái phối trí quan trọng. Sau khi đưọc báo cáo LTL 7B vẫn còn có thể xử dụng được, và đoàn công voa rất dài của QĐ2 đang tiến vào Cheo Reo, Tướng Dũng nổi giận, ra lịnh cho SĐ 320 tức tốc bôn tập về hướng Phú Bỗn để chặn đánh đoàn quân di tản.


Đại Lộ Kinh hoàng - Quốc Lộ Máu

Ngoại trừ những cuộc pháo kích bằng hỏa tiển 122-ly vào ngày 16, tháng ba, Bắc quân chưa có phản ứng gì đáng kể cho mãi tới tận ngày 18.Trong lúc tình hình thật khẩn cấp như dầu sôi lửa bõng, LĐ 20 Công Binh Chiến Đấu vẫn chưa hoàn tất được cầu phao qua sông Ea Pa, nằm về phía đông tỉnh lỵ Hậu Bổn (Cheo Reo), vì không đủ phương tiện cần thiết!. Đoàn công voa hoàn toàn kẹt cứng tại Cheo Reo và dọc trục lộ ngược về tận hướng ngả ba giao lộ giữa LTL7B và QL14.Chiều 18 tháng ba, SĐ320 BV khởi sự tấn công đoàn xe di tản tại thung lũng Cheo Reo bằng tất cả sức mạnh cuả hoả lực pháo nặng, cối 82 ly, và bộ binh xung kích. Cơn thịnh nộ cuồng điên của cấp chỉ huy và binh lính phương Bắc đã đỗ ập lên đầu hàng trăm ngàn thường dân vô tội và binh sĩ trên đoàn xe triệt thoái. Địch bắn xối xã vào mục tiêu bằng tất cả những gì có được trong tay. Từ đại pháo 130 ly, hoả tiển 122 mm, cho tớI B40, 41, thượng liên và súng cá nhân. Xác người già cả, thanh niên, đàn bà, trẻ em, tung toé trong tiếng nổ rền của đạn pháo. Những chiếc xe dân sự lẫn quân sự trúng đạn nỗ tung, bốc cháy, lửa khói mịt mù. Từng đoàn ngườI hốt hoảng, nhảy xuống xe tìm chổ trú ẩn ven đường, biến thành những tấm bia thịt di động cho lính BV tác xạ tự do. Thây người rụng ngã hết lớp này đến lớp khác, chồng chất lên nhau trong những tiếng thét gào đớn đau, tuyêt vong của cha gọi con, vơ gọi chồng, con thơ khóc ngất trong vòng tay đã đẫm đầy máu ấm cuả ngườI mẹ, trong những giây phút cuối cuả cuộc đờI, cố dùng thân thể đã loang lổ vết đạn thù che chở cho con! Ôi ! Các tướng lãnh Bắc quân thật quả lòng gang dạ sắt! Ra lệnh tàn sát quân thù không nương tay bất kể kẻ thù đó là đàn bà, con dại, hay những người dân thường vô tội, không một tấc sắt trong tay!!


ĐạI Tá Lý, Tham Mưu Trưởng QĐ2, đến Bộ Chỉ Huy nhẹ của đoàn quân triệt thoái đóng tại Cheo Reo vừa kịp lúc để ra lịnh cho Liên Đoàn 23 BĐQ tiến chiếm đèo Ban Bleik, một điểm chiến lược trọng yếu, ngay phía tây thị xã Cheo Reo. BĐQ đã chặn đứng những đợt tấn công vũ bảo của quân BV vào cạnh sườn của đoàn công voa, bảo vệ cho LĐ 20 Công Binh chiến đấu hoàn tất cầu phao qua sông Ea Pa. Đoàn công voa tiếp tục cuộc hành trình trên chăng đường điạ ngục còn lại trong cái đói khát, cái rét căm căm cuả rừng núi về đêm, và lửa đạn của quân thù bắn không thương tiếc lên đầu.Những thân xác già nua, những trẻ thơ, rơi rụng từ đoàn xe xuống, hay gục ngã bên đường vì kiệt lực, bị xe cộ tranh đường chạy, cán nát người, hay thoi thóp nằm chờ chết trong những kinh ngạc của phút giây cuốI cùng của cuộc đời, vì ai nên nổi ?! Vì sự bất xứng, vô trách nhiệm cuả cấp lãnh đạo miền Nam hay vì sự bạo tàn của người Cộng Sản phương Bắc?! Cùng ngày 18 tháng Ba, Bộ Tư Lệnh QĐ2 cuả Tướng Phú (đã di tản về Nha Trang hôm 16 tháng Ba), cho trực thăng bốc Đaị Tá Lý khỏi vùng Cheo Reo, Phú Bổn ! Tướng Cẩm, Tư Lệnh Phó QĐ2 cũng đã tự ý bay về Tuy Hòa, chỉ một ngày sau khi Tướng Phú cùng bộ tham mưu của ông bay về Nha Trang! Như vậy, chỉ còn mỗi một mình Tướng Tất là sĩ quan cao cấp nhất đi theo đoàn quân di tản! Chiều ngày 20 thàng Ba, khi Tướng Tất cùng lực lượng của ông vừa rút tới thị xã Cheo Reo bằng đường bộ, Tướng Phú cho trực thăng bốc ông cùng Tỉnh Trưởng Phú Bổn về Nha Trang, và đoàn quân triệt thoái kể từ giờ phút này đã thật sự như rắn mất đầu, vì không còn một ai trách nhiệm nữa!!

Sự triệt thoái bất ngờ của QĐ2 đã làm Tướng BV Văn Tiến Dũng, hoàn toàn kinh ngạc, nhưng đầy sãng khoái. Tướng Dũng tự hỏi, chính ai đã ra lịnh lui quân khỏi Tây Nguyên? Nếu quả thật Sàigòn đã ra lịnh đó, thì đây không những là một lầm lổi chiến lược không thể tha thứ, mà còn là một vấn đề vượt khỏi tầm mức chiến dịch mà Mặt Trận B3 đang đảm trách, thuộc về một tầm vóc chiến lược khác rộng lớn hơn. Tướng Dũng ngay lập tức hạ lịnh cho tất cả các đơn vị thuộc B3 phải chặn kín LTL7B, với mục tiêu rõ rệt không phải chỉ đánh bại mà là tiêu diệt toàn bộ lực lượng của QĐ2.

Ngày 21 tháng Ba, SĐ 320 BV với quân số và hỏa lực áp đảo, đã tràn ngập vị trí phòng thủ của LĐ23 BĐQ tại Cheo Reo, cắt đoàn di tản ra làm hai khúc. Hơn 160,000 dân và các LĐ BĐQ 4, 25 bị kẹt lại đàng sau và thành phần sống sót của LĐ23BĐQ. Tướng Phú ra lịnh cho các LĐ BĐQ đi đoạn hâu, bỏ đường lộ chính, cắt rừng, tìm đường thoát hiểm. Pháo và hoả lực súng nhỏ của địch vẫn tiếp tục bắn như mưa vào đoàn xe đang kẹt lại phía sau. Các đơn vị đoạn hậu của LĐ4, và 25 BĐQ, đánh vùi suốt đêm với lực lượng Bắc quân, bảo vệ cho khúc đuôi của đoàn xe chạy thoát vào rừng! Xác lính áo rằn hòa lẫn xác dân, nằm rải rác khắp nơi; máu loang thành vũng ven đường!

“ Có em lạc mẹ bên lề trận,
Có núi rừng xanh cũng ngậm ngùi! ”

(Chiều Ngút Khói—Lê Nguyên Ngữ)

Sáng ngày 19 tháng Ba, những xe đầu tiên của đoàn công voa đã tới được sông Cồn, cách Cũng Sơn 18 cây số về phía đông, và khoảng 2/3 chặng đường từ Cheo Reo tới điểm đến, Tuy Hòa. Nhưng khúc đuôi của đoàn xe di tản tơi tả vẫn còn lết thết mãi tận thị xã Cheo Reo, nơi những đoàn ngưòi tỵ nạn vẫn tiếp tục tràn vào những đường phố rải đầy xác chết. Tại khúc lòng cạn của sông Cà Lúi, 25 km phía tây bắc Cũng Sơn, một số chiến xa M48 bị mắc lầy khi vượt sông. LĐ 7BĐQ đụng nặng với quân truy kích của SĐ 320 BV. Các phi tuần A37 từ phi trường Nha trang đựơc gọi lên yểm trợ, đã oanh kích dữ dội vào vị trí của quân BV đang tấn công các đơn vị BĐQ bảo vệ đoàn xe. Nhưng một trong những máy bay yểm trợ quân bạn, đã nhầm lẫn đánh bom vào vị trí của BĐQ đang ác chiến với quân chính qui BV, gây thiệt hại nặng cho cả một tiểu đoàn của LĐ7! Tình hình đã rối rắm lại càng thêm rối rắm! Mệnh lệnh và kỹ luật hầu như không còn tồn tại nữa!! Thiết đoàn trưởng thiết đoàn M48, đơn vị chiên xa hộ tống đoàn công voa gần như không còn chỉ huy được đơn vị của mình, dầu rằng khoảng 10 chiên xa M48 vẫn còn có khả năng tác chiến. Khi thành phần đầu tiên của đoàn công voa tới được bờ sông Ba, cách Cũng Sơn khoãng 10 km về phía đông, họ mới vở lẻ đoạn đường dẫn vào Tuy Hòa của LTL7B đầy rẩy những mìn bẩy do quân đội Đại Hàn gài trước đây, không thể nào phá hủy gấp rút được! LĐ 20 Công Binh chiến đấu được lịnh bắt cầu phao qua sông Ba, và Hương Lộ 436, chạy dài theo bờ phía nam sông Ba được chọn đề đưa đoàn công voa về Tuy Hoà. Dự đoán được điều này, địch quân đã đóng chốt kín đoạn đường dài khoãng 2 cây số dọc Hương Lộ 436, phía đông nhánh tẻ của sông Ba, ngăn cản việc chuyên chở các đoạn cầu phao từ Tuy Hòa tới. Bộ Tư Lệnh QĐ2 lập tức cho điều TĐ 206 ĐPQ, một trong những tiểu đoàn diện địa thiện chiến nhất của Quân Khu 2, tấn công các chốt của Cộng quân tại dãi đưòng này từ phiá đông tới, trong lúc đó Tiểu Đoàn 34 BĐQ, với 16 chiếc M113 yểm trợ, tấn công từ phía Tây qua sau khi vượt qua khúc lòng cạn của sông Ba.


Ngày 20 tháng Ba, những xe tải nặng và chiến xa đã xé toạt khúc lòng cạn của sông Ba khiến xe cộ đi sau không thể nào vượt qua được. Trực thăng Chinook CH-47 cuả QĐ2 được lịnh chuyên chở các tấmđan thép lổ thả xuống chỗ khúc đáy sông cạn cho đoàn xe vượt qua, đồng thời trục các đoạn cầu phao nổi đến cho Công Binh bắt cầu qua sông Ba tại điạ điểm cách đó khoãng 1500 mét về phía hạ lưu. Vào ngày 21 thàng Ba, đoàn xe tập trung xung quanh khúc lòng cạn và điạ điểm cầu phao, phía đông Cũng Sơn chờ vượt sông. Trong lúc đó thành phần BĐQ đi đoạn hậu bị địch cắt làm đôi, tơi tả tại Cheo Reo. Phần lớn các tiểu đoàn của LĐ 6,7,22 BĐQ đã vượt qua được sông Cà Lúi, các LĐ 4,23,và 25 BĐQ còn kẹt lại phía sau lưng của SĐ 320BV, lúc này đang ào ạt tiến về phía Cũng Sơn. Ngày 22 tháng Ba, Trung Đoàn 64 thuộc SĐ320 Bắc quân mở cuộc tấn công dữ dội vào vị trí của LĐ 6 BĐQ, đang yểm trợ cho LĐ20 Công Binh chiến đấu hoàn tất cầu phao qua sông Ba, tại phía tây Cũng Sơn, nhưng bị đẩy lui. Một đoạn cầu phao đã sập khi đoàn xe ùn ùn kéo lên cầu; nhưng Công Binh đã nhanh chóng sữa chữa và một số lớn xe đã vượt qua được bờ nam của sông Ba, để đụng đầu ngay với các chốt kiềng của Bắc quân đóng dày đặc dọc hương lộ 436, khúc đuờng qua xã Mỹ Thạnh Tây.

Trong lúc Tiểu Đoàn 35 và 51 BĐQ đánh đoạn hậu bảo về đoàn công voa tại khúc đường hẹp, cách Cũng Sơn khoãng 7 km về hướng tây bắc, thì Tiểu Đoàn 34 BĐQ tiếp tục tấn công về hướng đông Hương Lộ 436 để nhổ các chốt địch. Tới lúc này thì LĐ 6 BĐQ là đơn vị tác chiến duy nhất còn có sự chỉ huy chặt chẻ trong đoàn quân triệt thoái, 3 tiểu đoàn còn sót lại trong tỗng số 18 tiểu đoàn của các LĐBĐQ bảo vệ đoàn công voa di tản trong cuộc trường chinh vượt qua trận địa sát của Bắc quân tại Cheo Reo, Phú Bổn!!


Lực lượng cuả Tiểu Đoàn 35 và 51 BĐQ đẩy lui cuộc tấn công dữ dội của Trung Đoàn 64 chính qui BV, đêm 23 tháng Ba, giết chết 50 lính BV và tịch thu đuợc 15 vũ khí đủ loại. Hai tiểu đonhưngàn này được một lực lượng yểm trợ gồm 15 chiến xa M41, 8 M48, 11 khẩu pháo 105 ly howitzers, và 2 khẩu 155 mm. Hai trực thăng Chinook được lịnh tiếp tế lương khô và đạn dược cho các tiểu đoàn BĐQ trong khi các đơn vị này vừa đánh vừa lui về Cũng Sơn. Đêm 24 tháng Ba, SĐ320 BV được tăng cường thêm hai chi đoàn chiến xa T54 đã ào ạt tiến vào Cũng Sơn sau khi LĐ 6 BĐQ rút lui về Tuy Hoà.

Trong khi đó, Tiểu Đoàn 34 BĐQ tiếp tục tấn công phá chốt địch tại xã Mỹ Thạnh Tây. Mặc dầu thời tiết xấu đã ngăn cản sự yểm trợ của không quân, lính mũ nâu đã lần lượt triệt hạ từng cụm kiềng chốt của Công quân. Ngày 25 tháng Ba, BĐQ nhổ xong chốt cuối cùng của địch, đưa đoàn công voa tả tơi vào địa phận tỉnh Tuy Hòa. Tiểu Đoàn 34 BĐQ, với quân số còn chưa đầy một đại đội, quay ngược trở lại, trấn giữ hướng lộ phía tây dẫn tới Tuy Hòa!

Trong tỗng số hơn 300 ngàn thưòng dân di tản theo đoàn quân triệt thoái, chỉ có khoãng 60,000 là về đến Tuy Hoà. Số còn lại vẫn không tung tích! Gần hai chục ngàn binh sĩ QĐ2 trên tỗng số hơn 60,000 quân chính qui và yểm trợ về được đến đích! Lực lượng này đã quá tả tơi, rách nát, còn mơ gì chuyện tấn công tái chiếm Ban Mê Thuột như kế họach đã dự trù! Trong lịch sữ Quân Lực VHCH, chưa hề có một cuộc rút lui nào thê thảm và tồi tệ như vậy! Đó là điềm xấu bất tường báo hiệu cho ngày tàn của một quân lưc, từng một thời làm khiếp sợ những binh đoàn lửa của Bắc quân ! Riêng 7000 quân thiện chiến của những LĐ BĐQ tinh nhuệ bậc nhất quân lực, mà trọng trách được giao phó, là đánh đoạn hậu, bảo vệ trắc diện, đi tiên tiêu, che chở cho đoàn quân dân di tản, khi về đến Tuy Hòa chỉ còn chưa được… 900 người! Ôi! Mũ Nâu, màu của vinh quang chiến thắng, hay muôn đời vẫn là màu…máu đọng?!

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỹ nhân hồi !

Trong lúc những trận giao tranh ác liệt bùng nổ ở Darlac, ba sư đoàn quân chính qui Bắc Việt với quân số và hỏa lực áp đảo đã tấn công dữ dội SĐ 22BB của Tướng Phan Đình Niệm tại vùng Bình Định. Tuy không đánh bật được lực lượng của SĐ 3 BV ra khỏi những cao điểm khống chế trục lộ giao thông trên QL19 đoạn qua đèo An Khê, nhưng các chiến sĩ SĐ 22 BB với sự yểm trợ của không quân đã gây thiệt hại nặng cho địch quân. Tướng Niệm hy vọng rằng SĐ3 BV với những thiệt hại nặng nề sẽ buột phải rút lui. Có một điều mà ông không thể nào tiên liệu được là những đột biến bất ngờ của tình hình tại các tỉnh còn lại thuộc QK2 đã làm những chiến thắng lừng lẩy của SĐ22 BB trở nên vô nghĩa!!

SĐ 3 BV bắt đầu cuộc phản công với những trận tấn công dữ dôị tràn ngập vị trí phòng thủ của lực lượng diện địa đang trấn giữ những cao điểm nhìn xuống đèo An Khê và các đơn vị điạ phương bảo vệ các cầu trên QL19 gần đó. Tướng Niệm lập tức cho tăng viện các tiểu đoàn bộ chiến thuộc SĐ22 BB chuẩn bị cho cuộc phản công tái chiếm các vị trí đã mất; nhưng Bắc quân lợi dụng những ưu thế bước đầu đã dàn toàn bộ lực lượng của các Trung Đoàn 2, 12, 14 thuộc SĐ 3 BV, cùng các đơn vị đặc công, pháo và các lực lượng yểm trợ địa phương tại vùng thung lũng Vĩnh Thạnh, nằm giữa đèo An Khê và Bình Khê.

Ngày 10 tháng Ba, 1975 khi SĐ 320 BV ào ạt tiến vào Ban Mê Thuột, ba trong tỗng số 4 trung đoàn của SĐ22 BB đã có mặt tại khu vực giữa quận An Nhơn, ngay giao lộ giữa QL19 với QL1, và vùng cực đông đèo An Khê. Tiểu Đoàn 1 và 2 thuộc Trung Đoàn 47 BB, án ngữ đọan đường phía đông dẫn vào đèo An Khê, liên tiếp đẩy lui những cuộc tấn công ác liệt của các tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2, 141 BV, và đánh bật lực lượng này ra khỏi chiến trường. Vào ngày 11 tháng ba, Tiểu Đoàn 3 còn lại của Trung Đoàn 47 BB được không vận tới quận Bình Khê, hoàn tất việc chuyễn quân cho toàn bộ Trung Đoàn. Lúc này, Tiểu Đoàn 927-ĐPQ vẫn giữ một số vị trí bên trong đèo, nhưng không còn kiểm soát được trục lộ giao thông qua đèo nữa. Ngày 11 tháng Ba, Bắc quân tràn ngập vị trí phòng thủ của Tiểu Đoàn 209 ĐPQ; Tiểu Đoàn 218 ĐPQ còn lại với các Đại Đội rải quân quá mỏng để giữ đèo đã bị cô lập hoàn toàn và lâm vào tình huống có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào!


Trung Đoàn 42, SĐ 22BB với Bộ Chỉ Huy đặt tại Bình Khê, mở những cuộc tấn công về phía tây, dọc theo QL19, trong nổ lực nhằm bắt tay với các đơn vị đang bị vây hảm của hai Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn 47 BB. Vào ngày 8 và 9 tháng Ba, Trung Đoàn 41BB từ Bồng Sơn di chuyễn tới vùng An Sơn trên QL19, để bảo vệ tuyến tiếp vận, liên lạc phía tây Bình Khê, và đồng thời bảo vệ an ninh cho căn cứ không quân Phù Cát. Trung đoàn 40 BB, trung đoàn thứ tư của SĐ 22 BB, vẫn nằm lại vùng phiá bắc tỉnh Bình Định, án ngữ cửa ngỏ vào thung lũng An Lão, và bảo vệ đèo Phù Ku trên Tỉnh Lộ 506, phía bắc Phù Mỹ.

Tới ngày 11 tháng ba, hai Tiểu Đoàn 1 và 2 thuộc Trung Đoàn 2 BV đã bị hoả lực phi pháo của quân ta gây thiệt hại nặng nề. Tiểu Đoàn 7, Trung Đoàn 141 Bắc quân bị đánh bật khỏi ngả ba giao thủy cuả hai sông Cồn và sông Đồng Phổ, với hai đại đội gần như bị diệt gọn. Các Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 5, Trung Đoàn 12 BV cũng bị thiệt hại nặng. Nhưng Bắc quân đã nhanh chóng bổ xung quân số và vũ khí, đạn dược bằng những đoàn xe tải rầm rộ đổ vào vùng thung lũng Vĩnh Thạnh. Ngày 13 tháng Ba, năm tiểu đoàn Bắc quân mở những đợt tấn công vũ bão vào vị trí của của Tiểu Đoàn 1 và 2, Trung Đoàn 47 BB, nhưng bị đẩy lui. Tính từ ngày 4 tháng Ba, 1975, liên tiếp bốn Tiểu Đoàn Trưởng của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 47 BB, đã tử trận! Tướng Niệm cho rút TĐ 2, với quân số chỉ còn phân nữa ra khỏi chiến trường, về dưỡng quân và tái phối trí tại hậu cứ SĐ. Trung Đoàn 47BB với hai tiểu đoàn còn lại bắt đầu mở những đợt tấn công vào vị trí quân BV tại khu vực phía tây dẫn vào đèo An Khê, nhằm bắt tay với lực lượng Điạ Phương Quân còn cố thủ trên đèo. Liên Đoàn 927 ĐPQ, dưới quyền điều động của Trung Đoàn 47 BB, đặt bộ chỉ huy tại phía tây đèo An Khê, với các đại đội đã hao hụt nặng của các Tiểu Đoàn 209, 217,và 218 ĐPQ nằm giữ những cao điểm dẫn qua đèo. Ngày 12 tháng Ba, Bắc quân tràn ngập Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 218 ĐPQ cùng một đại đội của TĐ này, mặc dù Trung Đoàn 47BB đã hết sức nổ lực phá vòng vây của Bắc quân để bắt tay với lực lượng diện điạ tử thủ tại đây. Tiểu Đoàn 218 ĐPQ gom góp những thành phần sống sót của các đại đội, cố thủ tại khu vực phía tây dẫn vào đèo. Nhưng đơn vị này vào ngày 17-tháng Ba đã bị lực lượng của Trung Đoàn12 BV tấn công, tràn ngập.

Giao tranh diễn ra rất khốc liệt giữa lực lương SĐ 22 BB và các đơn vị chính qui BV tại khu vưc nằm giữa đoạn cuối đèo về phía đông và quận Bình Khê kéo dài từ ngày 15 tới ngày 17 tháng Ba. Trung Đoàn 42 BB dồn mọi nổ lực tấn công nhằm đánh bật 3 tiểu đoàn thuộc SĐ 3 BV ra khỏi những cao điểm đang chiếm ngự gần cuối mạn đèo phía đông. Mặc dầu gây thiệt hại nặng cho Bắc quân, giết chết gần 500 lính BV chỉ trong vòng hai ngày, Trung Đoàn 42 BB vẫn không thanh toán được mục tiêu. Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 tuy bị thương hai lần khi chỉ huy cuộc tấn công, vẫn tiếp tục nằm lại với đơn vị. Trong lúc đó, Tướng Niệm cho điều động Trung Đoàn 41BB lên vùng phía nam quận Bình Khê, và cho rút hai tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 47BB đưa lên vùng bắc Bình Định thay thế Tiểu Đoàn 2 và 3, Trung Đoàn 40 BB, đựợc Tướng Phú điều động qua tăng cường bảo vệ Khánh Dương, tỉnh Khánh Hoà. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 47 BB, sau khi đưọc chỉnh trang và bổ sung quân số theo kế hoạch dự trù sẽ tiến lên phía bắc để thay thế Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 40 BB, rút về làm lưc lượng trừ bị cho SĐ.


Tướng Niệm với vỏn vẹn 2 trung đoàn trong tay, và không còn lực lượng trừ bị, đã ra lịnh cho các tiểu đoàn bộ chiến của ông cố giữ vững những vị trí chiếm được, sau khi lực lượng SĐ22 BB không thành công trong nổ lực khai thông đèo An Khê. Trong lúc đó, cuộc triệt binh xuôi đông của các đơn vị QĐ 2 đang tiến hành trên LTL 7B. Tới ngày 19 tháng Ba, Bắc quân đã kiểm soát được mạn đèo phía Tây dẫn vào vùng phụ cận của An Khê. Ngày 22 tháng Ba, Tiểu Đoàn 5, Trung Đoàn12 BV tiến vào An Khê. Mọi sự kháng cự của lực lượng phòng thủ tại đây chấm dứt. Hơn 5000 thường dân chen chúc trên những hưong lộ xuôi nam, cố gắng tìm đường thoát hiểm về Qui Nhơn. Ngày 24 tháng Ba, Trung Đoàn 42 BB triệt thoái dọc theo đường 19, phía đông Bình Khê, và Trung Đoàn 41 BB triển khai lực lượng phòng thủ Bình Khê.

Cùng ngày 24 tháng Ba, Bắc quân mở cuộc tấn công dữ dội vào Bình Khê, đồng thời bao vây, cô lập hai Trung Đoàn 41 và 42, SĐ 22 BB đang phòng thủ bảo vệ quận lỵ này. Các Trung Đoàn 141, và 12 thuộc SĐ3 BV ào ạt tiến về phía đông hướng Phù Cát. Mặt Trận B3 địch cho điều thêm Trung Đoàn 95 B từ Pleiku, tiến về phía đông, dọc theo QL19, để bắt tayTrung Đoàn 2 chính qui Bắc Việt, phối hợp tấn công nhằm tiêu diệt Trung Đoàn 42 BB, đang dàn quân bảo vệ phía đông quận Bình Khê. Nhưng Trung Đoàn 41 và 42 BB không để địch quân kịp thực hiện ý đồ, đã phá vở vòng vây của quân BV, rút lui về Qui Nhơn cùng với hơn 400 binh sĩ ĐPQ được trực thăng cứu thoát từ đèo An Khê ngày hôm trước. Khi lực lượng thụộc hai trung đoàn này đang đào hầm hố, cũng cố vị trí phòng thủ Qui Nhơn, thì Sàigòn cho lịnh di tản những đơn vị còn lại của SĐ 22BB. Ngày 31 tháng Ba, Bắc quân mở cuộc tấn công dữ dội vào căn cứ Không Quân Phù Cát, 32 máy bay của Không Lực miền Nam đã bay thoát về được các phi trường quân sự ở phía Nam. Vào ngày 1 và 2 tháng Tư, 1975, khoãng 7000 quân còn lại của SĐ 22 BB và lưc lượng diện địa tỉnh Bình Định được các chiến hạm của Hải Quân VN, tại cảng Qui Nhơn, bốc về cảng Vũng Tàu. Trong lúc đó, quân chính qui Bắc Việt với chiến xa yểm trợ đã tràn ngập thành phố Qui Nhơn!! Quân Khu 2, Vùng 2 Chiến Thuật đang thực sự bước vào cơn hấp hối!!

Sau khi cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột của chiến đoàn đặc nhiệm của Tưóng Phú tại Phước An bị SĐ 10 Bắc quân với quân số và hoả lực áp đảo chận đứng tại sông Ea Nhiêu, thành phần sống sót của LĐ 21 BĐQ, của các đơn vị thuộc SĐ 23 BB và lực lượng diện điạ Tiểu Khu Darlac đã mở đường máu, rút về phía đông dọc đường 21. Tất cả được tập trung tại quân Khánh Dương, một quận miền núi của tỉnh Khánh Hòa, nơi QL21 đổ qua đèo Cả xuôi xuống vùng bình nguyên Khánh Hòa. Đèo Cả là điểm phòng ngự lý tưởng để bảo vệ Nha Trang, nơi đặt đại bản doanh mới của QĐ2, Quân Khu 2, cùng Bộ Tư Lệnh của Hải Đội 2 Duyên Phòng, và SĐ2KQ. Nha Trang còn là nơi có các trung tâm huân luyện quốc gia Lam Sơn, và trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Về phía tây Ninh Hòa, nằm lưng chừng giữa vùng duyên hải và vùng đồi núi của quận Khánh Dương, là trung tâm huần luyện Dục Mỹ của binh chũng BĐQ và binh chũng Pháo Binh. Về mặt quân sự chiến lược thì Khánh Hòa là nơi tập trung các lực lương quân sự còn lại, một cứ điểm cuối cùng của Vùng 2 Chiến Thuật, để ngăn chặn đường tiến quân dọc theo QL1 về hướng Sàigòn của các binh đoàn Bắc Việt, cũng như là nơi phát khởi moi cuộc phản công trong tương lai nhằm tái chiếm Tây Nguyên.

Hầu hết những thành phần sống sót của các đơn vị rút về từ Darlac, được đưa khỏi Khánh Dương bằng đường bộ hay bằng trực thăng. BĐQ được bốc về Dục Mỹ để tái phối trí, còn các binh sĩ SĐ 23 BB được đưa về các trung tâm huấn luyện tại Cam Ranh và Lam Sơn để tái huân luyện và bổ sung quân số. Một bộ chỉ huy tiền phương của SĐ 23 BB được thành lập tại Khánh Dương để chỉ huy các lưc lượng tăng phái bảo vệ đèo gồm Lữ Đoàn 3 Dù, trên đường rút về bảo vệ thủ đô Sàigòn từ chiến trường Quãng Nam, đã chuyễn hướng lên thẳng Khánh Dương; và bộ chỉ huy của hai tiểu đoàn bộ chiến thuộc Trung đoàn 40, SĐ 22BB điều qua từ Bình Định. Lực lượng đich là SĐ10BV, sau khi đánh bại chiến đoàn đặc nhiệm của tướng Trường tại Phước An, tiến như thác lũ xuống vùng bình nguyên theo đường 21, đã nhanh chóng tiếp cân khu vực Khánh Dương. Trung Đoàn 40 BB tức tốc tiến sâu vế phía tây để chặn đánh lực lượng tiền phương của Bắc quân. Tronh khi đó LĐ 3 Dù dàn quân trên những cao địa bên trong khu vực đèo, ngay sau tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 40 BB. Ngày 22 tháng ba, lưc lượng tiền tiêu của SĐ10 BV, với chiến xa yểm trợ đã tràn vào vị trí của hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 40 BB. Với hoả lực và quân số áp đảo, SĐ10 Bắc quân đã đánh bật Trung Đoàn 40 BB ra khỏi vị trí bố phòng. Lưc lương còn lại của Trung Đoàn 40 BB rút lui ra tuyến sau, nhường chiến trường lại cho Lữ Đoàn 3 Dù

Với một hệ thống đường mòn xuyên qua vùng rừng rậm đầy những triền dốc đứng nằm về phía tây tỉnh Khánh Hòa, nếu bị ngăn chặn bởi Lữ Đoàn Dù đang bố trí quân trong khu vực đèo trên đuờng 21, Bắc quân có thể điều một lực lượng lớn tiến về phía nam, đi vòng qua vị trí của quân Dù, tràn xuống Nha Trang từ phía tây qua ngả Diên Khánh. Để tránh điều này, QĐ2 đã rút Trung Đoàn 40 BB về Dục Mỹ, đi ngược về phía nam, dàn quân tại vùng phía đông quận Diên Khánh, dọc hai bên Tỉnh Lộ 420, con đường dẫn từ hướng đông vào Diên Khánh và vào thành phố Nha Trang.Trung đoàn 40BB được tăng cường một tiểu đoàn ĐPQ và được yểm trợ bởi một đại bác 155-mm và hai khẩu 105 ly, Howitzers. Các toán viễn thám được tung vào khu vực rừng phía nam Khánh Dương nhằm phát hiện những dấu vết của lực lượng lớn Bắc quân trên đuờng di chuyễn về nam, hướng Diên Khánh; nhưng quân ta không phát giác được những dấu vêt gì khả nghi quan trong.

Lữ Đoàn 3 Dù cũng cố công sự phòng thủ tại đèo Cả, với các vị trí tiền tiêu đặt tại núi Chu Kroa, một cao điểm trên 1000 mét, nằm đợi SĐ10 Bắc quân mà một trung đoàn của SĐ này, Trung Đoàn 28 chính qui BV với T54 yểm trợ đã có mặt tại Khánh Dương.Về phía nam tuyến phòng thủ của LĐ 3 dù là vị trí của một tiểu đoàn ĐPQ. Riêng Tiểu Đoàn 34, LĐ 6 BĐQ, tiểu đoàn đã tả xung hữu đột vượt trận điạ sát của Bắc quân trên LTL 7B, bảo vệ mạn bắc đèo, đoạn dẫn vào Ninh Hòa.


Nhảy Dù tại Khánh Dương

Với LĐ 3 Dù vẫn còn trụ lại Khánh Dương trên đường 21, Tướng Phú vào ngày 29 tháng Ba, bổ nhiệm những tư lệnh trong vùng đất còn lại của QK2. Tướng Niệm, Tư Lệnh SĐ22 BB, chịu trách nhiệm hai tỉnh Bình Định và Phú Yên. Thị xã Qui Nhơn, cứ điểm cuối cùng của SĐ 22 BB tại Bình Định thất thủ ngày 2 tháng Tư, 1975. Riêng hai tỉnh cao nguyên còn lại là Tuyên Đức và Lâm Đồng đặt dưới quyền trách nhiệm của Tướng Lâm Quang Thơ, Chỉ Huy Trưởng trường Võ Bị Quốc Gia. Ngoài lực lượng điện đia của 2 tiểu khu TĐ và Lâm Đồng, Tướng Thơ còn có trong tay một tiểu đoàn BĐQ thuộc LĐ 24, đơn vị đã vượt rừng về Tuyên Đức sau khi Quãng Đức thất thủ. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tư Lệnh Phó QK2, được giao trách nhiệm phòng thủ Đặc Khu Cam Ranh, và hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Trách nhiệm nặng nề nhất, bảo vệ tỉnh Khánh Hòa, được giao phó cho Tướng Trần Văn Cẩm, chỉ huy toàn bộ lực lượng phòng thủ Nha Trang gồm LĐ3 Dù, Trung Đoàn 40BB, TĐ 34 BĐQ và các đơn vị diện địa.

Ngày 30 tháng Ba, SĐ 10 chính qui BV thay vì chuyễn hướng về phía tây để tránh Lữ Đoàn 3 Dù đang dàn quân bảo vệ Khánh Dương, đã tiến thẳng vào trận điạ bố phòng của quân Dù. Cùng ngày Bắc quân tấn công Tiểu Đoàn 3 Dù tại đèo Cả. Được yểm trợ bởi Trung Đoàn 40 Pháo tầm xa và hai chi đoàn chiến xa T54, các đơn vị thuộc Trung Đoàn 28 và 66 BV bao vây TĐ 3 Dù mà quân số lúc này chỉ còn hơn một Đại Đội! Lữ Đoàn 3 Dù bố trí sâu trong vùng phía nam núi Chu Kroa chừng 15 km dọc trên những cao điểm nhìn xuống QL21.Hoả lực pháo tầm xa 130 ly của địch quân đã bắn cháy 5 trên tỗng số 14 Thiết Vận Xa yểm trợ quân Dù, và buột 3 pháo đội 105- ly của Lữ Đoàn 3 Dù phải rút về tuyến sau, thiết lập các cứ điểm hỏa lực yểm trợ quân Dù gần buôn Ea Thi. Rất tiếc là các cứ điểm hỏa lực mới đã quá tầm bắn yểm trợ cho các vị trí tiền phương của quân Dù! Hoàn toàn thiếu sự yểm trợ của hỏa lực phi pháo, lại phải gánh chiụ những mưa pháo khũng khiếp của đại pháo 130 ly, kết hợp với những đợt tấn công ác liệt cuả quân bộ chiến tùng thiêt của Bắc quân, Lữ Đoàn 3 Dù, dù sao đi nữa cũng chỉ là một lữ đoàn khinh chiến cơ động, hoàn toàn không thích hợp cho lối đánh phòng thủ, đã sụp đổ rất nhanh! Tại buôn Ea Thi, lực lượng SĐ10 BV đánh bọc sườn các vị trí của quân Dù đóng dọc theo quốc lộ và tấn công vị trí của Tiểu Đoàn 6 Dù. Mặc dù quân Dù chống trả mãnh liệt, bắn cháy ba chiến xa T54 của Bắc quân, nhưng trưóc áp lực nặng nề của địch quân, TĐ6 Dù buộc phải bỏ vị trí. Với Lữ Đoàn 3 Dù bị cắt đôi tại Buôn Ea Thi, các đơn vị còn lại phải nhanh chóng tháo lui để bảo toàn lưc lượng.


Sau một tuần lể giao tranh khốc liệt với Bắc quân, Lữ Đoàn 3 Dù với quân số chỉ còn được một phần tư, rút lui qua khỏi Dục Mỹ, và Ninh Hòa, lập tuyến phòng thủ mới tại đoạn đường hẹp nơi QL 1 chạy dọc theo ven biển bên dưới núi Hòn Sơn, ngay phía Bắc Nha Trang. Với sự triệt thoái của quân Dù, các đơn vị tại các trung tâm huấn luyện Dục Mỹ và Ninh Hòa cũng bỏ vị trí rút lui. Ngày 1 tháng Tư, 1975, chiến xa Bắc Việt tiến vào Dục Mỹ, vượt qua Ninh Hoà, tiến thẳng về Nha Trang. Các thành phần còn lại của quân Dù, BĐQ, Trung Đoàn 40 BB và lực lượng diện điạ QK2 triệt thoái về Phan Rang. Lúc 15 giờ cùng ngày, các máy bay tại căn cứ Không Quân Nha Trang cất cánh bay về các phi trường phía nam. Ngày 2 tháng Tư, chiến xa Bắc Việt tiến vào thành phố Nha Trang. Bộ Tỗng Tham Mưu tại Sàigòn ra lịnh lập tức di tản các đơn vị còn lại của QĐ 2 ra khỏi Cam Ranh. Trong khi đó, các lực lượng diện địa của Tiểu Khu Tuyên Đức và Lâm Đồng cũng trìệt thoái qua ngả Phan Rang. Quân Đoàn 2, Quân Khu 2 kể từ giờ phút này đã bị chính thức xoá tên!!

Posted by: NamQuoc Jan 11 2017, 11:42 AM


Phần 2



Sau khi dứt điểm lực lượng quân sự của QĐ2, QK2, Quân Ủy Trung Ương Hà Nội bắt đầu chuyễn hướng tấn công nhắm vào Vùng I Chiến Thuật, vùng điạ đầu giới tuyến, với hy vọng sẽ chiếm đóng QKI trong thời hạn ngắn nhất dưạ vào những dấu hiệu suy sụp tinh thần của binh sĩ miền Nam. Vào đầu năm 1975, tình hình tại QKI tương đối yên tĩnh do những trận mưa mùa đã cản trở những cuộc hành quân lớn. Giao tranh bắt đầu bùng nổ vào tháng Giêng, tập trung ở những cao điạ phía nam và tây nam Huế, nơi diễn ra những trận đánh đẩm máu giữa quân chính qui BV và lực lượng của Tướng Trưởng từ cuối tháng Tám, 1974. Quân lực miền Nam cuối cùng đã chiếm lại phần lớn những vị trí trọng yếu tại vùng cao điểm này vào giữa tháng Giêng, 1975, gây thiệt hại nặng cho các đơn vị thuộc một sư đoàn quân chính qui BV và các trung đoàn độc lập tại đây.

Vào cuối tháng Giêng tin tức tình báo thâu lượm được cho biết Bắc quân đang chuẩn bị một kế hoạch tấn công lớn qua việc gia tăng tu bổ, sữa chửa một số lượng lớn chiến xa và xe bọc thép. Thêm vào đó, các nguồn tình báo khác của miền Nam cũng phát giác những bãi đậu dành cho chiến xa, các vị trí pháo binh, và những khu vực bảo trì quân sự của Bắc quân trong vùng. Trong lúc đó những trận giao tranh vẫn bùng nổ rải rác khắp quân khu.

Sau khi bị đánh bật khỏi những cao đia dọc QLI, phía nam thành phố Huế, trong những tuần lể đằu năm 1975, địch quân lập tức cho tăng cường thêm lực lượng trong khu vực này. Ngày 8 tháng Ba, những cuộc đụng độ lớn bùng nổ, khi Bắc quân tấn công chiếm 15 ấp xã ở phía nam tỉnh Quãng Trị và phía bắc Thừa Thiên. Đồng thời tại phía nam QK1, SĐ2 BV và Trung Đoàn 52 Bắc quân tấn công tràn ngập hai quận Hậu Đức vàTiên Phước, đe dọa tỉnh lỵ Tam Kỳ, Quãng Tín.

Tới trưa ngày 9 tháng Ba, với chiến xa và M113 yểm trợ, một lực lượng đặc nhiệm của QĐ1 bao gồm Tiểu Đoàn 8 Dù, các Tiểu Đoàn 112, 120 ĐPQ và ĐĐ 921 ĐPQ đã đánh bật quân BV ra khỏi những vị trí chiếm được tại Quãng Trị, gây tổn thất nặng cho địch. Bắc quân lại mở những cuộc tấn công vào các xã ở vùng duyên hải tỉnh Thừa Thiên, đồng thời tấn công dữ dội các đơn vị ĐPQ đang bảo vệ những tuyến đường dẫn vào thành phố Huế. Tại vùng đông nam Huế, 3 trung đoàn thuộc SĐ 324B BV bắt đầu chiến dịch Thừa Thiên với những đợt tấn công dọc theo khu vực dài 8 km vào sáng sớm mùng 8 tháng Ba. Với hoả lực pháo năng bắn tập trung yểm trợ, Bắc quân ào ạt tràn lên những ngọn đồi xung quanh. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 1 BB, vẫn giữ vững vị trí tại đồi 121; nhưng Tiểu Đoàn 1 thuộc trung đoàn này đã bi địch quân tràn ngập, đánh bật khỏi tuyến phòng thủ ở đối 224. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 54 BB bị đẩy khỏi đồi 144, nhưng sau đó đã chiếm lại được vị trí này trong ngày 9 tháng Ba. Đai Đội Trinh Sát SĐ1 BB cũng buộc phải bỏ vị trí tại đồi 50, phía tây bắc núi Bóng. Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh SĐ1BB, lập tức tung 2 Tiểu Đoàn 61 và 94 thuộc LĐ 15 BĐQ vào trận địa, nhằm chiếm lại những vị trí đã mất. TĐ 61 BĐQ càn qua trận phục kích của Bắc quân, tiếp tục phối hợp cùng TĐ 94 BĐQ mở những đợt phản công vào vị trí quân BV vào ngày 10 tháng Ba. Những cung từ từ các cuộc thẩm vấn tù binh BV bắt được trong ngày 11-tháng Ba cho biết toàn bộ SĐ 325 BV đã di chuyễn về phía nam, sẵn sàng cùng lực lượng điạ phương địch tấn công quận Phú Lộc.

Với khoãng 20 chiến xa T54 yểm trợ, quân BV tấn công hành lang Sông Bồ nơi Lữ Đoàn 147 TQLC với các Tiểu Đoàn 3,4,5,7 TQLC và Tiểu Đoàn 130 ĐPQ trấn giữ. Giao tranh diễn ra rất khốc liệt trong hai ngày, LĐ147TQLC đã chiếm lại một vị trí bị địch quân tràn ngập trong ngày 11 tháng Ba; gây thiệt hại nặng cho Bắc quân với 200 lính BV bị giết chết và phá hủy hai chiến xa địch, gây hư hại cho 7 chiếc khác, cùng tịch thu nhiều vũ khí, dạn dược. Một tiễu đoàn thuộc Trung Đoàn 6 chính qui BV xâm nhập vùng Phú Lộc, xử dụng 12 thuyền đánh cá cướp được cuả dân điạ phương, chuyễn quân qua Đầm Cậu Bảy, tấn công xã Vĩnh Hiền, quận Vĩnh Lộc ở đầu phía nam đảo, tiến ngược lên phía bắc, tấn công Vĩnh Giang. Một phần tiểu đoàn này tiến vào khu vực quận Phú Thứ, ngay phía đông thành phố Huế. Tiểu Đoàn 8 Dù được tăng cường bởi 2-đại đội của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 54 BB, với sự yểm trợ của một chi đoàn M113 chận đánh tiểu đoàn Bắc quân và tiêu diệt đơn vị này. Ngày 16 tháng Ba, một đơn vị của Trung Đoàn 54 BB phục kích thành phần còn lại của tiểu đoàn chính qui BV, giết chết Tiểu Đoàn Trưởng cùng 20 lính BV. Theo lời khai của 5 tù binh CS thì đơn vị này đã bị thiệt hại rất nặng, chỉ còn khoãng 33 người sống sót mà hầu hềt đều bị trọng thương. Những cuộc độn nhập khác của quân CSBV thuộc Trung Đoàn 4 độc lập vào hai quận Phong Điền và Quãng Điền, tây bắc thành phố Huế cũng bị quân ta nhanh chóng chận đứng và tiêu diệt.


Phía nam đèo Hải Vân, ngày mùng 8 tháng Ba, đặc công CS đột nhập Đà Nẵng, bắn B40 vào các công sở thuộc quận Hoà Vang. Ngày 11 tháng Ba, địch pháo kích dữ dội bằng hoả tiển 122-ly vào căn cứ không quân Đà Nẵng phá hủy một chiến đấu cơ F5 loại mới của Không Quân. Quân BV với trọng pháo yểm trợ cũng mỡ những cuộc tấn công vào các đơn vị thuộc SĐ3BB, SĐ Dù, và lực lượng diện điạ rải dài từ Đại Lộc tới Quế Sơn. Hầu hết các cuộc tấn công đều bị đẩy lui, nhưng đặc công CS đã phá sập được cây cầu chính trên TL540, phía bắc Đại Lộc.

Riêng tình hình tại tỉnh Quãng Tín khá nghiêm trọng. Cuộc tấn công được chờ đợi từ lâu của Bắc quân vào các quận đồi núi Tiên Phước và Hậu Đức cuối cùng đã diền ra vào ngày10 tháng Ba. Hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 31, SĐ 2 chính qui BV tấn công vào quận Tiên Phước từ hai hướng, tây và bắc; trong khi đó các đơn vị của Trung Đoàn 1 BV, mở cuộc tấn công từ hướng nam và đông nam lên. Ở Hậu Đức, một tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 31 chính qui BV, được sự yểm trợ của các lực lượng điạ phương, đã tràn ngập Tiểu Đoàn 102 ĐPQ. Thị xãTam Kỳ, tỉnh lỵ tỉnh Quãng Tín, cũng bị tấn công bằng hỏa tiển 122-ly vào ngày 11 tháng Ba; đồng thời địch pháo kích dữ dội căn cứ không quân tại Chu Lai.

Những thành phần sống sót của hai Tiểu Đoàn 116, 134 ĐPQ bị tràn ngập tại Tiên Phước, mở đường máu rút về phía đông, hướng Tam Kỳ. Tiểu Đoàn 135 ĐPQ cũng rút khỏi vị trí tại núi Bàn Quan, phía đông quận Tiên Phước, lui về Tam Kỳ, bỏ lại 4 khẩu 105 ly Howitzer. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 5, SĐ2BB, được tăng cường bởi Tiểu Đoàn 115 ĐPQ, đã mỡ những cuộc phản công chiếm lại vị trí trên núi Mỹ, cao điạ trọng yếu cuối cùng trên đường 533 giữa Tam Kỳ và Tiên Phước; nhưng sau đó buộc phải rút lui vì hỏa lực dữ dội của pháo đich. <

Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh SĐ2 BB cho thành lập một lực lượng giải tỏa từ Tam Kỳ tiến ngược lên để bảo vệ cho các đơn vị diện địa và dân chúng di tản về từ Tiên Phước. Tuy nhiên Băc quân đã chiếm các cao điạ, gồm cả Núi Ngọc, một ngọn đồi cao, nằm dọc theo trục lô tiến quân của đoàn quân tiếp ứng. Vào ngày 11 tháng Ba, lực lượng tiếp ứng của tướng Nhựt gồm hai Tiểu Đoàn 37, 39 BĐQ, và Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 5, SĐ 2 BB đã bị chận đứng ngay gần núi Ngọc. Ngày 12 tháng Ba, tướng Nhựt cho điều Trung Đoàn 5 thuộc SĐ 2 BB từ Quãng Ngãi vào án ngữ phía tây Tam Kỳ. Ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 5 BB rải quân dọc lộ 533 với các vị trí tiền tiêu sâu vào tận phía đông núi Mỹ. Hai Tiểu Đoàn 115, 135 ĐPQ bố trí phía bắc Trung Đoàn 5 BB, giữa lộ 533 và các đơn vị của lực lượng đặc nhiệm BĐQ đóng dưới núi Ngọc. Tiểu Đoàn 21 BĐQ lập tuyến phòng thủ ngay sau vị trí đóng quân của TĐ 135 ĐPQ. Vào lúc này, Tưóng Nhựt đã dàn 9 tiểu đoàn tai phía tây Tam Kỳ, trong khi đó một lực lượng hùng hậu của Bắc quân đang ào ạt tiến về hướng Tam Kỳ và thị xã này đã nằm trong tầm pháo nhẹ của địch.

Tại Đà Nẵng, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐ1, cũng đang lâm vào một tình huống hết sức khó khăn. Ngày 12 tháng Ba Bộ Tỗng tham Mưu tại Sàigòn ra lịnh cho ông trả SĐ Dù đang bố phòng bảo vệ Đà Nẵng về Sàigòn, đồng thời chuyễn lịnh của TT Thiệu cho QĐ1 phải ưu tiên bảo vệ Đà Nẵng. Tướng Trưởng mạnh mẽ chống lại quyết định này của Sàigòn. Ngày 13 tháng Ba, ông đích thân bay về Sàigòn gặp TT Thiệu và Đaị tướng Viên để yêu cầu Sàigòn thu hồi quyết định, nhưng Sàigòn chỉ trì hoãn việc rút SĐ Dù khỏi Vùng I thêm được 4 ngày, và sẽ bắt đầu vào ngày 17 tháng Ba. Hai ngày sau, Tướng Trưởng trong một nổ lực cuối cùng đã thuyết phục được TT Thiệu cho phép Lữ Đoàn 1 Dù, LĐ cuối cùng dự trù tái phối trí để bảo vệ thủ đô Sàigòn và tham gia hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột, nằm lại Đà Nẵng, với điều kiện không được xử dụng đơn vị này trong hành quân tác chiến. Để thay thế cho việc rút quân Dù khỏi Vùng I Chiến Thuật, TT Thiệu ra lệnh cho Bộ TTM không vận Lữ Đoàn 468 TQLC, mới thành lập, với hai Tiểu Đoàn 14, 16 TQLC, và một Liên Đoàn BĐQ ra QK1 để tăng cường cho lực lượng chiến đấu của Quân Đoàn 1.

Để trám vào khoãng trống do việc rút SĐ Dù về Sàigòn, Tướng Trưởng quyết định tái phối trí lại lực lượng bố phòng của QĐ1. Ông cho điều SĐTQLC từ Quãng Trị và vùng bắc Thừa Thiên về bảo vệ quận Phú Lộc và Đà Nẵng. Ngày 13 tháng Ba, LĐ14 BĐQ tiến lên phía bắc để thay thế cho lực lượng TQLC rút đi. Tướng Trưởng chỉ đề lại lữ đoàn TQLC đang năm tại Phú Lộc, là lữ đoàn TQLC duy nhất còn hoạt đông ngoài vùng phía bắc đèo Hải Vân. Tướng Nhựt, Tư Lệnh SĐ 2BB, cũng được lịnh rút một trung đoàn đang tham dự cuộc hành quân Quyết Thắng tại quận Nghĩa Hành, Quãng Ngãi về tăng cường bảo vệ tỉnh lỵ Tam Kỳ, Quãng Tín. QĐ 1 được lịnh phải bảo vệ Huế, Đà Nẵng bằng mọi giá, cho dù phải bỏ Quãng Trị, Quãng Tín, và Quãng Ngãi!

Trong buổi họp mật ngày 13 tháng Ba tại Sàigòn với TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, và Đại Tướng Viên, Tướng Trưởng được thông báo quyết định về việc di tản chiến thuật của QK2, và được lịnh chuẩn bị cho việc triệt thoái khỏi QK1 của Quân Lực VNCH trong kế hoạch tái phối trí lực lượng cho phù hợp với tình hình mới. Lực lượng Dù sẽ rút hết khỏi QK1 vào ngày 31 tháng Ba để về phòng thủ Sàigòn, và LĐ 468TQLC sẽ được TTM tăng cường cho việc bảo vệ Đà Nẵng vì vị trí chiến lược tối quan trọng của thành phố này cho dù phải hy sinh những tỉnh còn lại của QK1 kể cả cố đô Huế.

Tình hình chiến sự không được mấy khả quan cho Tướng Trưởng từ sau buổi họp mật tại dinh Độc Lập. Quân Bắc Việt đã mỡ những cuộc tấn công dữ dội,tràn ngập vị trí của hai tiểu đoàn ĐPQ ở mạn sưòn phiá tây tuyến phòng thủ tại sông Mỹ Chánh, Quãng Trị. Lui sâu về phiá nam, tại hành lang Sông Bồ, Tiểu Đoàn 4 và 5 TQLC đẩy lui những đợt xung phong ác liệt của Bắc quân vào khu vực trắch nhiệm của LĐ 147 TQLC. Tại vùng trách nhiệm của SĐ1BB, hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 3 BB, bị đánh bật khỏi căn cứ hỏa lực Bastogne, nhưng đã chiếm lại được ngay ngày hôm sau. Giao tranh dữ dội đã diễn ra tại tây nam Tam Kỳ. Quân BV tràn ngập vị trí phòng thủ của các đơn vị ĐPQ tại đây, và chiến xa BV đã xuất hiện ở phía nam quận Tiện Phước. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 5 BB, Tiểu Đoàn 37 BĐQ đã đánh những trận sáp lá cà đẫm máu với quân BV, và có nguy cơ bi tràn ngập.

Ngày 14 tháng Ba, Tướng Trưởng họp với Tướng Thi, Tư Lệnh Phó QK1, chỉ huy các đơn vị thuộc QĐ tại Quãng Trị và Thừa Thiên, cùng Tướng Lân, Tư Lệnh SĐ TQLC để phát họa kế hoạch phòng thủ Đà Nẵng. Theo đó, ông sẽ đưa toàn bộ lực lượng chiến đấu của QĐ1 về Quãng Nam để bảo vệ Đà Nẵng với các SĐ1, 3BB, SĐ TQLC nằm án ngữ tuyến đầu, và SĐ 2BB làm lực lượng trừ bị. Nhưng kế hoạch này phải được tiến hành từng giai đoạn với các sư đoàn từ Quãng Trị và Thừa Thiên lui binh về Đà Nẵng, và vùng lãnh thổ phía nam quân khu sẽ được rút bỏ. Tướng Trưởng ra lịnh di tản lập tức tất cả các đơn vị chiến đấu tại hai quận miền núi Sơn Hà, Trà Bồng thuộc tỉnh Quãng Ngãi, kể cả hai Tiểu đoàn 68, 69 BĐQ đang đóng tại đây, cùng toàn bộ cư dân nào muốn di tản theo.


Ngày 15 tháng Ba, LĐ14 BĐQ chuẩn bị nhận vùng trách nhiệm bàn giao từ LĐ 369 TQLC tại Quãng Trị. Trong lúc một lữ đoàn TQLC vẫn còn nằm lại vùng thung lũng Sông Bồ để bảo vệ Huế, Lữ Đoàn 369 TQLC sẽ được điều động về quận Đại Lộc, Quãng Nam, thay thế Lữ Đoàn 3 Dù di chuyễn về Sàigòn. Tướng Trưởng và Tướng Thi dự trù một cuộc di tản khỗng lồ của dân chúng Quãng Trị khi lực lượng TQLC rút đi, nên hai ông đã chỉ thị Bộ Tham Mưu Quân Đoàn chuẫn bị mọi phương án cần thiết để giúp đỡ quân chúng. Đồng thời, Tướng Trưởng ra lịnh cho Tướng Nhựt, Tư Lệnh SĐ2 BB giữ Trung Đoàn 6BB lại, án ngữ phía nam quận Nghĩa Hành để bảo vệ thị xã Quãng Ngãi. Vào ngày 14 và 15 tháng Ba, lực lượng Bắc quân mỡ những đợt tấn công dữ dội đều khắp tỉnh Quãng Ngãi, tràn ngập các tiền đồn quanh vòng đai thị xã. Lực lượng diện địa Tiểu Khu Quãng Ngãi đã suy yếu hẳn, sau khi các đơn vị chính qui của Trung Đoàn 5 BB được điều động qua bảo vệ thị xã Tam Kỳ, Quãng Tín, và phần lớn Trung Đoàn 4 BB đưọc đưa về làm lực lượng trừ bị cho Sư Đoàn 2BB tại Chu Lai. Tiểu Đoàn 70 BĐQ và Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 4BB, là hai tiểu đoàn chính qui duy nhứt còn nằm án ngữ phía tây quận Mộ Đức, cùng ba tiểu đoàn ĐPQ đóng quân giữa khu vực quận Mộ Đức và quận Đúc Phỗ, giáp ranh tỉnh Bình Định. Tại khu vực phía bắc, đêm 15 rạng 16 tháng Ba, quân BV tràn ngập vị trí của lực lượng diện điạ bảo vệ trục giao thông trên QL1, và cắt đứt đoạn đường từ Bình Sơn về Quãng Tín.

Tại Quãng Tín, quân BV tấn công khu vực phía bắc Tam Kỳ, sát gần QL1, đánh tan một đơn vị ĐPQ ở phía bắc thị xã vào đêm 15 tháng Ba. Đồng thời, Bắc quân mỡ những đợt tấn công ác liệt vào vị trí bố phòng của Trung Đoàn 5 BB và LĐ 12 BĐQ tại khu vực phía tây Tam Kỳ, đánh bật lực lượng phòng thủ của ta ỡ đây, và tràn ngập Tiểu Đoàn 37 BĐQ. Trong lúc sự sụp đỗ gần như không thể tránh khỏi ở hai tỉnh phía nam Quân Khu, việc hoán chuyễn các đơn vị tại Quãng Trị vẫn tiến hành như kế hoạch dự trù. Liên Đoàn 14 BĐQ đặt bộ chỉ huy ngay quận Hải Lăng, đã cho ba Tiểu Đoàn 77, 78 và 79 BĐQ nhận lãnh vùng trách nhiệm bàn giao từ các đơn vị thuộc Lữ Đoàn 369 TQLC, đang chuẩn bị di chuyễn xuôi nam để thay thế cho SĐ Dù rút khỏi Quãng Nam. Khi các lữ đoàn TQLC rút đi, tinh thần binh sĩ thuộc lực lượng điạ phương cũng như của dân chúng Quãng Trị sụp đỗ, mặc dầu những đơn vị Bắc quân xâm nhập vào vùng bình nguyên Quãng Trị, cho tới ngày 16 thang Ba, đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Cung từ của một hồi chánh viên thuộc Trung Đoàn 101, SĐ 325 chính qui BV, tại Phú Lộc cho biết toàn bộ SĐ 325 Bắc quân đã có mặt tại vùng phía nam Thừa Thiên, được yểm trợ bởi các đơn vị sơn pháo 85mm, và các đại pháo tầm xa 130 ly thuộc Trung Đoàn 84 Pháo Binh BV. Tới ngày 15 tháng Ba, hai Trung Đoàn 18 và 101 bộ chiến BV đã nằm trong tầm tấn kich Phú Lộc.


Ngày 17 tháng Ba, Lữ Đoàn 258 TQLC rút khỏi Quãng Trị về thay thế cho lữ đoàn Dù tại phía nam Thừa Thiên. Ngày 18 tháng Ba, SĐ TQLC đặt Bộ Tư lệnh Sư Đoàn tại phi trường Non Nước trên bãi biển phía đông Đà Nẳng, trong khi đó Lữ đoàn 2 Dù di chuyễn ra Cảng Đà Nẵng để chuẫn bị rút về Sàigòn. Để tăng cường phòng thủ Đà Nẵng, Tướng Trưởng cho điều các pháo đội 175 ly đang ở phía bắc đèo Hải Vân về Đà Nẵng cùng với một chi đoàn chiến xa M48. Như vậy Thiết Đoàn 20 Chiến Xa chỉ còn hai chi đoàn M48 tại Thừa Thiên. Ngay ngày hôm sau, 19 tháng Ba, 1975, Bắc quân vượt lằn ranh ngưng chiến, tràn vào Quãng Trị!

Cuộc triệt thoái khỏi Sơn Hà và Trà Bồng được tiến hành vào ngày 16 tháng Ba, khi hai trực thăng CH47 bắt đầu di tản thường dân ở đây. Các đơn vị của Tiểu Đoàn 68 BĐQ và lực lượng địa phương được bốc về Sơn Tịnh, phía bắc thị xã Quãng Ngãi. Có khoãng 12000 dân Trà Bồng di tản theo dọc quốc lộ để về Bình Sơn, dưới sự bảo vệ của Tiểu Đoàn 69 BĐQ và các đơn vị diện địa. Khi cuộc di tản vừa bắt đầu, quân BV mỡ những cuộc tấn công tràn ngập các tiền đồn phía bắc Bình Sơn, cắt đứt QL 1, đoạn đường giữa Bình Sơn và Chu Lai. Tướng Nhựt, Tư lệnh SĐ 2 BB, lập tức ra lịnh cho Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 6 BB, trung đoàn còn nằm lại bảo vệ thị xã Quãng Ngãi, di chuyễn từ Nghĩa Hành về tăng cường vòng đai phía tây thị xã Quãng Ngãi. Phía băc đèo Hải Vân, tại quận Phú Lộc, Thừa Thiên, Liên Đoàn 15 BĐQ đã tái chiếm những vị trí trên khu vực Núi Bóng vào ngày 17 và 18 tháng Ba. Tướng Thi, Tư Lệnh Phó QĐ1, đặc trách lực lượng bảo vệ cố đô Huế, cho điều 2 chi đoàn M48 còn lại của Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, từ phía băc về để tăng cường phòng thủ khu vực phía nam thành phố Huế.

Từ 1973, năm ký Hiệp Định ngừng bắn Paris, SĐ TQLC của QLVNCH vẫn nằm án ngữ tại vùng gìới tuyến để phòng thủ, bảo vệ tỉnh Quãng Trị. Vào đầu năm 1975, các lữ đoàn TQLC dàn quân dọc theo tuyến phòng thủ phía cực bắc của QK1. Lữ Đoàn 258TQLC nằm bên bờ nam sông Thạch Hản, ngay phía nam và phía tây thị xã Quãng Trị. Lữ Đoàn 147 TQLC đóng quân tại vùng cực nam Quãng Trị bảo vệ mặt phía tây dẫn vào QL1 và vùng duyên hải, vùng giữa phía nam sông Mỹ Chánh và phía tây Mỹ Chánh. Tháng Giêng, 1975, SĐ TQLC bắt đầu thành lập thêm một lữ đoàn, LĐ 468TQLC.Cho tới tháng Hai, 1975, thì nhiệm vụ của SĐ là bảo vệ, ngăn chặn bất cứ cuộc tấn công nào của địch quân vào hai tỉnh Quãng Trị và Thừa Thiên; trong trường hợp chẵng đặng đừng phải tháo lui, SĐ sẽ rút về phòng thủ cố đô Huế. Ngày 12 tháng Ba, cùng với sự di chuyễn bất ngờ của SĐ Dù từ Đà Nẵng về Sàigòn để bảo vệ thủ đô và Vùng 3 Chiến Thuật, Tướng Trưởng, Tư Lệnh QĐ1 nhận được lịnh phải ưu tiên bảo vệ Đà Nẵng bằng mọi giá. Ông lập tức cho Tướng Lân biết việc thay đôi chiến lược này, và ra linh Tướng Lân chuẫn bị sẵn sàng kế hoạch tái phối trí các đơn vị thuộc SĐ TQLC để trám vào các chỗ trống do lực lượng Dù rút đi, đồng thời nhận lãnh trọng trách bảo vệ Đà Nẵng. Chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ sau khi có quyết định rút SĐ Dù về Sàigòn, SĐ TQLC theo lịnh của Tướng Trưởng đã cho phối trí lại lực lượng, chuyễn hai lữ đoàn đang nằm tại Quãng Trị về phía nam. Lữ Đoàn 147 từ nam Mỹ Chánh rút về Phong Điền, đóng quân dọc hai bên QL1, theo hình cánh cung với Tiểu Đoàn 4 ở phía tây và nam, và Tiểu Đoàn 7 dàn quân về phía đông thị xã này. Tướng Lân cũng cho Lữ Đoàn 369 TQLC chiếm lĩnh vị trí ở khu vực bắc và tây Đà Nẵng; Lữ Đoàn 258 TQLC phụ trách bảo vệ khu vực sườn phía nam của thành phố. Riêng Lữ đoàn tân lập 468 TQLC đựơc Bô TTM chỉ định thay thế cho lực lượng Dù rút đi. Trong lúc QĐ 1 đang tiến hành việc tái phối trí lực lượng, Cộng quân mỡ những đợt tấn công dữ dội vào Tiểu Đoàn 4 và 5 thuộc LĐ 147 TQLC vừa rút về quận Phong Điền. Không còn quân trừ bị trong tay, Tướng Lân đành ra lịnh cho LĐ 147 TQLC vừa đánh vừa lui về phòng thủ Huế.


Tới ngày 17 tháng Ba, LĐ 258 TQLC đã hoàn tất việc chuyễn quân thay thế LĐ 2 Dù tại Đà Nẵng. Ngày 18 tháng Ba, Tướng Lân cho dời Bộ Tư lệnh SĐ từ Hương Điền, Thừa Thiên về phi trường Non Nước, phía đông nam Đà Nẵng, chỉ cách Bộ Tư Lệnh QĐ 1, đặt tại căn cứ Không Quân Đà Nẵng chưa đầy vài cây số. Mặc dầu việc bảo vệ Đà Nẵng là ưu tiên một của SĐ TQLC, ngày 20 tháng Ba, SĐ lại được lịnh tử thủ tại các vị trí phía bắc cố đô Huế. Cùng ngày LĐ 468 TQLC được không vận bằng C130 tới Đà Nẵng, và dàn quân từ mạn bắc đèo Hải Vân, dọc QL1 về tới Phước Tường. Trong khi đó LĐ147 đựoc biên chế thành 4 tiểu đoàn bộ chiến, một tiểu đoàn pháo binh, và các đơn vị yểm trợ. Tiên liệu sẽ có những trận đánh đẩm máu trong những ngày sắp tới, Bộ Tư Lệnh SĐ TQLC đã tăng cường cho LĐ 147, Tiểu Đoàn 3 TQLC thuộc LĐ 258. Với một lực lượng chiến đấu khoãng 3,000 người, LĐ 147 TQLC đã chuẫn bị tinh thân và tâm lý sẵn sàng cho cuộc thư hùng sống mái với Bắc quân trong những ngày sắp tới để bào vệ cố đô Huế. Nhưng chỉ hai ngày sau đó, toàn bộ lữ đoàn lại được lịnh lui binh về phía nam tới bờ biển Tân Mỹ để được tàu Hải Quân bốc về Đà Nẵng. Ngày 23 tháng Ba, lo lắng và bối rối vì lịnh lạc đổi thay, bất nhất, LĐ 147 TQLC mở đường rút về điểm hẹn tại Tân Mỹ, hiểu rõ rằng sanh mạng của toàn lữ đoàn gìờ phút này nằm hoàn toàn trong tay của những người bạn Hải Quân. Nhưng những tàu Hải Quân chỉ được thông báo về kế hoạch này vào giờ phút chót, khi LĐ 147 TQLC đã rời quá xa vị trí phòng thủ tại Hương Điền. Hải Quân đã cố gắng hết sức để đến điểm hẹn kịp lúc, nhưng rất tiếc điều này không thể thực hiên được, và chỉ tới nơi với một số tàu đổ bộ quá ít ỏi, không đủ để bốc các binh sĩ TQLC còn bị kẹt lại trong bờ. Những tàu đỗ bộ tới được khu vực bốc quân lại không thể cập bờ bởi những cồn cát ngầm, và chỉ có số binh sĩ nào bơi thật giỏi, mới có thể bơi tới được các tàu LCM đậu cách bờ hàng vài trăm mét.

Khi hiểu rõ được vị trí mới của họ không thễ phòng thủ được, và các tàu Hải Quân không thể bốc họ, các binh sĩ TQLC bắt đầu phá hủy các vũ khí cộng đồng, quăng các hỏa tiển TOW chống tăng xuống biển. Bị kẹp giữa hỏa lực pháo nặng 130 ly và các binh đoàn Bắc quân truy đuổi, các đơn vị thuộc LĐ147 TQLC tan rả hoàn toàn mà không hề có được một cơ hôị nào để giáp chiến sống mái với địch quân, và chỉ có khoãng 20 phần trăm là về tới Đà Nẵng!!

Ngày 19 tháng Ba, Tướng Trưởng bay vào Sàigòn để gặp TT Thiệu và Thủ Tướng Khiêm. Tại đây ông lại được lịnh ngưng việc di tản khỏi Huế và phải bố phòng bảo vệ các cứ điểm tại Huế, Đà Nẵng,Chu Lai, và thị xã Quãng Ngãi. Trong trưởng hợp bất khả kháng, ông được phép rút khỏi Chu Lai và Quãng Ngãi, nhưng phải bảo vệ Huế và Đà Nẵng bằng mọi giá! Ngày 20 tháng Ba, Tướng Trưởng bay trở lại Bộ Tư Lệnh QĐ1. Ông ra lịnh ngưng việc chuyễn các pháo đội 175 ly cùng vũ khí, đạn dược từ Huế vào Đà Nẵng. Cố đô Huế phải đưọc bảo vệ với bất cứ giá nào, mặc dầu ngày 19 tháng Ba, pháo binh địch đã bắn vào thành nội, và hàng trăm ngàn dân tị nạn đã nghẹt cứng trên QL1, đoạn đường xuôi về phía nam.


Việc tổ chức phòng ngự co cụm cho cố đô Huế đặt dưới quyền trách nhiệm của Tướng Lâm Quang Thi, được phân bổ cho Đại Tá Trí, Tư Lệnh phó SĐ TQLC, người chịu trách nhiệm mặt trận phía bắc thành phố Huế, và Tướng Điềm, Tư Lệnh SĐ1 BB, chịu trách nhiệm khu vực phía nam của Huế. Các tiền đồn của Đại Tá Trí, nằm ngay trong vùng giáp ranh giữa Quãng Trị-Thừa Thiên, chừng 30 km phía tây bắc Huế. Tại đây, dưới quyền điều động của LĐ 14 BĐQ là Tiểu Đoàn 77 BĐQ, 7 tiểu đoàn ĐPQ, và một chi đoàn Thiết Vận Xa M113 thuộc Thiết Đoàn 17Kỵ Binh. Bốn tiểu đoàn bộ chiến của LĐ 147 TQLC bố trí ngay trong vùng thung lũng trọng yếu Sông Bồ, trong tầm pháo binh nhẹ yểm trợ từ Thành Nội. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 78 và 79 BĐQ rãi quân ở tuyến đầu, cách vị trí của các đơn vị TQLC chừng 10 km về phía tây.Về phía nam của LĐ 147 TQLC, tại căn cứ hỏa lực Lion, tức căn cứ Núi Gió là 2 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 51, SĐ1BB.

Vùng trách nhiệm của Tướng Điềm bắt đầu từ phía tây nam của Trung Đoàn 51, SĐ1 BB, đơn vị tăng phái cho lực lượng của Đại Tá Trí. Trung Đoàn 3 BB với hai tiểu đoàn án ngữ trên những cao điạ quanh căn cứ hỏa lực Birmingham, nhìn xuống sông Hữu Trạch, phía nam Huế. Về phía đông của Trung Đoàn 3 BB, là hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 54 BB bảo vệ khu vực Mõ Tàu, trong lúc Trung Đoàn 1BB với ba tiểu đoàn cơ hữu, được tăng cường một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 51 BB, một chi đoàn chiến xa M48, và một chi đoàn thiết quân vận M113, rải quân dài về hướng đông nam tới tận khu vực Núi Bóng. Về phía đông của quận lỵ Phú Lộc ba tiểu đoàn của LĐ15 BĐQ, cùng một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 3 BB, chiếm lĩnh các cao điểm dọc theo QL1. LĐ 258 TQLC, với hai tiểu đoàn đóng quân gần Phú Lộc, và LIên Đoàn 914 ĐPQ gồm ba tiểu đoàn được giao trách nhiệm bảo vệ đèo Hải Vân.

Tình hình chiến sự tại khu vực phía bắc tỉnh Quãng Tín vào ngày 20 tháng Ba, tương đối khả quan hơn so với trước đây khi quân BV nã pháo nặng vào quận lỵ Thăng Bình, và tràn ngập các tiền đồn phiá tây nam quận lỵ này. Hai tiểu đoàn thuộc SĐ 3 BB, điều từ Quãng Nam qua, được tăng cường thêm hai tiểu đoàn ĐPQ, đã mỡ những cuộc phản công gây thiệt hại nặng cho lực lượng địch trong những trận đánh giằng co ác liệt phía đông Thăng Bình. Nhưng tại Tam Kỳ, tình hình không đưọc mấy khả quan dù SĐ 2 BB đã tập trung hầu hết lực lượng tại đây để bảo vệ tỉnh lỵ này. Ngày 21 tháng Ba, địch pháo dữ dội vào thành phố Tam Kỳ. Cùng ngày, Trung Đoàn 4 BB di chuyễn Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn từ Quãng Ngãi tới Tam Kỳ, cùng với Tiểu Đoàn1, Trung Đoàn 6BB, từ quận Bình Sơn qua, và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 916 ĐPQ rút từ Thăng Bình về.

Tại Quãng Ngãi, tình hình trở nên tối tệ, mặc dầu các đơn vị của Trung Đoàn 4BB thành công trong việc khai thông QL1 tại khu vực quận Bình Sơn. Nhưng tại phía tây Bình Sơn, quân chính qui BV tấn công dữ dội đoàn quân dân di tản từ Trà Bồng về. Tiểu Đoàn 69 BĐQ, đơn vị bảo vệ cuộc rút lui, đã lọt ổ phục kích và tan rã hoàn toàn. Bắc quân tấn công quận Đức Phổ cắt đứt trục giao thông trên QL1, cô lập cửa khẩu Sa Huỳnh và lực lượng bảo vệ gồm hai Tiểu Đoàn 70 BĐQ, và 137 ĐPQ đóng tại đây. Tướng Nhựt, Tư Lệnh SĐ, được phép tùy quyền hành động để duy trì lực lượng tác chiến cuả Sư Đoàn 2BB.


Ngày 19 tháng Ba, chiến xa và bộ binh BV vượt lằn ranh ngưng chiến ở Quãng Trị, tiến thẳng về phía nam mà chỉ gặp sự kháng cự yếu ớt của lực lượng điạ phương. Các đơn vị tiền tiêu của Bắc quân dừng lại tại tuyến Mỹ Chánh giáp ranh giới tỉnh Thừa Thiên chờ lịnh tấn công. Cuộc tấn công của địch bắt đầu vào sáng sớm ngày 21 tháng Ba, khi các tiểu đoàn tiền phương của SĐ 324B và 325 BV, cùng Trung Đoàn độc lập Trị Thiên, với sự yểm trợ của pháo tầm xa, ào ạt tràn vào vị trí bố phòng của quân ta tạị vùng hành lang Sông Bồ trải dài tới Phú Lộc. Hoả lực pháo nặng của địch cũng bắt đầu bắn vào thành phố Huế.

Tình hình tại tuyến phòng thủ Mỹ Chánh vẩn tương đối yên tĩnh. Những đợt tấn công của địch vào các đơn vị TQLC trấn đóng tại đây đã bị đẩy lui với những thiệt hại nặng nề cho Bắc quân. Nhưng vị trí bố phòng của quân ta tại khu vực Phú Lộc, sau những đợt tấn công ác liệt của lực lượng bộ chiến thuộc hai Sư Đoàn 324B và 325 chính qui BV, đã bắt đầu sụp đổ. Tại khu vực trách hiệm của SĐ1BB, Trung Đoàn 18, SĐ325 BV, được yểm trợ bởi Trung Đoàn 98 Pháo Binh BV, đã tràn lên đồi 350, và tiến đánh các vị trí của ta tại Núi Bóng. Giao tranh diễn ra rất khốc liệt, với Núi Bóng ba lần đổi chủ chỉ trong vòng một buổi chiều, nhưng cuối cùng lực lượng SĐ1BB đã chiếm lại vị trí này vào ngày 22 tháng Ba. Trung Đoàn thiện chiến 101 chính qui BV đã đánh bật Tiểu Đoàn 60, LĐ 15 BĐQ, ra khỏi đồi 500, phía tây Phú Lộc. Pháo địch cũng bắt đầu bắn ngăn chặn trên QL1. Những làn sóng dân tị nạn nghẹt cứng tại phía tây Phú Lộc. Tới chiều tối, đường từ Phú Lộc vào Đà Nẵng đã được khai thông. Về phiá tây, tại vùng đồi núi quanh khu vực Mõ Tàu, các đơn vị thuộc Trung Đoàn 271 Độc Lập, và Trung Đoàn 29, SĐ304 BV, tăng cường cho SĐ324 BV, mỡ những cuộc tấn công ác liệt vào vị trí đóng quân của Trung Đoàn 54 BB, nhưng bị ta đẩy lui. Cung từ của tù binh bắt được thuộc Trung Đoàn 271 Bắc quân cho biếtTrung Đoàn này bị thiệt hại rất nặng, với Tiểu đoàn 9-thuộc trung đoàn này hoàn toàn tan rả.

Ngày 22 tháng Ba, Bắc quân liên tục tấn công dọc tuyến phòng thủ tại Thừa Thiên. Quân miền Nam cũng mỡ những cuộc phản công nhằm chiếm lại đồi 224, một vị trí trọng yếu tại khu vực Mõ Tàu, nhưng không thành công. Cư dân cố đô Huế giảm còn khoãng năm chục ngàn người, và đèo Hải Vân nghẹt cứng dân tị nạn đang hốt hoảng tìm đường thoát hiểm về nam. Thành phố Đà Nẵng đông nghẹt những làn sóng người di tản. Cảnh Sát thị xã Đà Nẵng ước lượng đã có khoãng trên 100,000 dân tị nạn tại đây và dân chúng vẫn tiếp tục đổ dồn về càng lúc càng nhiều. Một phái đoàn liên bộ của chính phủ từ Sàigòn ra nhưng không giúp ích được gì mấy vì gạo đã không còn có đủ cho thị trường Đà Nẵng. Ngày 24 tháng Ba, chính quyền trung ương và điạ phương cố gắng di tản thưòng dân tị nạn mà con số giờ đã lên đến 400,000 về phiá nam bằng mọi phương tiện tàu thuyền có được. Tình hình chiến sự khả quan hơn, với những cuộc tấn công của Bắc quân vào Quãng Nam đã bị các đơn vị thuộc SĐ3 BB và lưc lượng diện địa chận đứng. An ninh tại thị xã Đà Nẵng tương đôi ổn định so với các nơi khác thuộc QK1.

Tại tây nam Tam Kỳ, Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 5BB, liên tục đụng nặng với quân chính qui BV từ ngày 12 tháng Ba. Tiểu Đoàn 2 BB khởi đầu cuộc hành quân với quân số 350 người, đến ngày 22 tháng Ba, đơn vị này chỉ còn khoãng 130 người. Tướng Nhựt cho thay thế tiểu đoàn này với Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 4BB; đồng thời cho dàn toàn bộ Trung Đoàn 4 BB, tăng cường bởi hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 5 BB và một chi đoàn chiến xa, tại khu vực tây nam Tam Kỳ. Tiểu Đoàn 6,Trung Đoàn 6BB, được gởi tới Chu Lai để tăng cường phòng thủ căn cứ này. Riêng Liên Đoàn 12 Biệt Động Quân vẫn nằm án ngữ bảo vệ vòng đai phía tây bắc Tam Kỳ.

Ngày 24 tháng Ba, Bắc quân bắt đầu tấn công thị xã Tam Kỳ. Đặc công địch xâm nhập trung tâm thị xã vào buổi sáng, phá hủy nhà máy điện Tam Kỳ. Pháo binh địch bắn cấp tập dọc theo tuyến phòng thủ của quân ta, và tới trưa, chiến xa và quân bộ chiến tùng thiết địch đã xuyên thũng tuyến phòng ngự của một tiểu đoàn ĐPQ và Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 5 BB. Tới chiều tối, thị xã Tam Kỳ thất thủ. Tướng Trưởng ra lịnh cho Tướng Nhựt rút hết lực lượng thuộc SĐ 2 ra khỏi Tam Kỳ, lui về phòng thủ Chu Lai. Nhưng lúc này, Tướng Nhựt không còn nắm được tình hình cũng như các đơn vị dưới quyền ông nữa! Ông cố gắng gom số binh sĩ còn lại của Trung Đoàn 4 BB, đưa về Chu Lai ngay đêm hôm đó. Hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 5 BB tan tát trong cuộc đụng độ với Bắc quân cũng được gom lại, di chuyễn vê phía nam. Các đơn vị thuộc LĐ 12 BĐQ trấn gìữ vòng đai phía tây bắc Tam Kỳ, bị thiệt hại nặng, buộc phải rút lui về căn cứ hỏa Lực Baldy, ngay ranh giới tỉnh Quãng Nam, cùng với bộ tham mưu của Tư Lệnh Phó SĐ 2 BB. Tướng Trưởng lập tức cho lịnh di tản tất cả các lực lượng tại tỉnh Quãng Ngãi về Chu Lai để tăng cường phòng thủ căn cứ này. Trong lúc đó, đặc công CS phá sập một cây cầu quan trọng trên QL1, đoạn đường từ Quãng Ngãi về Chu Lai.

Ngày 23 tháng Ba, các tiểu đoàn diện địa bảo vệ tuyến Mỹ Chánh đã tự ý rút lui. Khu vực Núi Bóng-Truồi vẫn còn tương đối yên tĩnh. Các đơn vị Công Binh phá hủy một cây cầu trên QL1, phía đông Lộc Sơn để ngăn cản chiến xa địch tiến về Huế qua ngả Phú Lộc. Ngày 24 tháng Ba, sau khi nhận báo cáo về sự sụp đỗ của tuyến phòng ngự Mỹ Chánh, Tướng Trưởng họp với các tư lệnh chiến trường gồm Tướng Thi, Tướng Lân, Tướng Hoàng Văn Lạc, Tư Lệnh Phó Vùng 1 Chiến Thuật,và Tướng Khánh, Tư Lệnh SĐ1 KQ, để duyệt xét tình hình. LĐ 913 Điạ Phương Quân sau khi tự ý bỏ vị trí phòng thủ tại Mỹ Chánh, rút lui về phía nam, vượt qua khỏi Phong Điền. Việc tháo chạy của LĐ 913 ĐPQ đã gây những chấn động trong các đơn vị khác, và một cuộc triệt thoái toàn bộ đã xãy ra. Bộ Tham Mưu QĐ1 cố gắng tập họp các binh sĩ lại tại khu vực sông Bồ, nhưng số lượng binh sĩ đào ngũ tập thể đã gia tăng. Phần lớn binh sĩ đào ngũ không phải vì sợ hãi chiến đấu với quân thù, mà chính yếu là vì âu lo cho sự an nguy của gia đình họ!

Lúc 6 gìờ chiều ngày 24 tháng Ba, Tướng Trưởng ra lịnh cho Tướng Thi bắt đầu di tản toàn bộ lực lượng phòng thủ Huế. Tất cả các đơn vị tại phía bắc và phía tây Huế đưọc lịnh tập họp tại Tân Mỹ, một cảng nhỏ nằm về phía tây bắc Huế, vượt qua một kênh hẹp để tới Phú Thuận, và di chuyễn về phía tây nam xuôi xuống đảo Vĩnh Lộc. Các đơn vị dự trù sẽ vượt qua cửa Đầm Cậu Bảy bằng một cầu phao do Công Binh bắt sẵn, di chuyễn dọc theo ven biển tới QL1. Từ đó họ sẽ vượt đèo Hải Vân về Đà Nẵng. Tất cả các chiến cụ nặng gồm chiến xa, xe tải, trọng pháo đều được lịnh phá hũy tại chỗ. SĐ 1BB được giao trọng trách bảo vệ cuộc triệt thoái đã dàn quân tại quận Phú Thứ đề làm một tuyến chặn lực lượng truy kích của Băc quân.

Khi dân chúng Huế biết được lệnh rút lui này, họ đã đổ xô về Tân Mỹ, rời khỏi Thừa Thiên bằng mọi phương tiện tàu thuyền tìm được ở đây. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương QĐ1 của Tướng Thi đặt bản doanh tại Tân Mỹ, cùng với Bộ Tư Lệnh SĐ TQLC, và Bộ Chỉ Huy LĐ147TQLC. Tiểu đoàn 7 TQLC án ngữ bảo vệ Cảng và an ninh cho Bộ Tư Lệnh QĐ, và SĐTQLC. Lúc này lực lượng SĐ 1 BB rút lui khỏi khu vực Truồi- Núi Bóng. Liên Đoàn 15 Biệt Động Quân, thay thế SĐ1 BB ,trấn giữ các vị trí tại sông Truồi, lui quân về Phú Bài sau khi bị thiệt hại nặng trong các trận đụng độ đẫm máu với lực lượng tấn kích của Bắc quân. Trung Đoàn 54BB triệt thoái khỏi khu vực Mõ Tàu, lui về căn cứ Eagle, phía tây nam Huế, gần QL1. Trung Đoàn 3 BB rút khỏi các vị trí tiền tiêu tại Sơn Huệ Trạch về Nam Hòa, phía nam Huế. Trung Đoàn 51 BB lui về phía tây Huế, và Trung Đoàn1 BB rút về từ Núi Bóng đóng quân quanh vòng đai thị xã Huế cùng Bộ Tư Lệnh SĐ.

Trong khi cuộc triệt binh chiến thuật đang tiến hành, một phái đoàn gồm những- vị-khách-không-mời của Bộ Tỗng Tham Mưu từ Sài gòn ra thẳng Tỗng Hành Dinh của Tướng Trưởng, mang mệnh lệnh bốc SĐTQLC khỏi Vùng 1 ngay lập tức để về bảo vệ thủ đô Sàigòn! Tướng Trưởng quyết liệt phản đối quyết định này, viện lẽ ông không thể nào bảo vệ được Đà Nẵng nếu SĐTQLC rút đi. Phái đoàn TTM khuyên ông bỏ Chu Lai, đưa SĐ2 BB về phòng thủ Đà Nẵng. Tướng Trưởng cho lịnh rút SĐ2BB khỏi căn cứ Chu Lai, nhưng ông vẫn báo cho phái đoàn cao cấp của Bộ TTM hay, Đà Nẵng sẽ không bảo vệ được nếu không còn SĐ TQLC. Một tin thật buồn đến cùng lúc với ông, các lực lượng tan tát còn lại của SĐ 2BB, đã không còn đủ hiệu năng tác chiến nữa!

Cuộc hải vận các đơn vị tại Chu Lai bắt đầu đêm 25 tháng Ba bằng những tàu đổ bộ LSTs từ Sàigòn ra. Lực lượng Hải Quân tham gia hành quân di tản các đơn vị tại Thừa Thiên cũng được điều động tham gia cuộc bốc quân ở Chu Lai. Trong lúc các chiến hạm Hải Quân tập trung về hướng Chu Lai, Trung Đoàn 6BB tả tơi trong chiến trận, đang cố mở đường máu từ Quãng Ngãi về căn cứ Chu Lai.Tỉnh Trưởng Quãng Ngãi cùng ban tham mưu không thể vượt qua nổi vòng vây của quân BV để về Chu Lai, đã dùng tàu di tản ra đảo Lý Sơn. Phía bắc thị xã Quãng Ngãi, trên QL1, cả một đoàn quân dân đang cố mỡ đuờng về Chu Lai với xác chết và người bị thương rải đầy dọc theo quốc lộ, làm gợi nhớ tới hình ảnh lửa máu ghê rợn trên “Đại Lộ Kinh Hoàng”. mùa hè 1972 tại Quãng Trị. Khoãng 7000 binh sĩ đã được các tàu Hải quân bốc từ Chu Lai về Đà Nẵng. Riêng thành phần sống sót của Trung Đoàn 4 và 6 thuộc SĐ2 BB di tản được về đảo Lý Sơn, trong lúc đó, Liên Đoàn 12 Biệt Động Quân,với quân số còn chưa được 500 người, và số binh sĩ còn sót lại của Trung Đoàn 5BB , mỡ đường về tới được Đà Nẵng.

Tình hình tại Đà Nẵng ngày 26 tháng Ba đã gần như rối loạn, nhưng lực lượng thuộc SĐ 3BB vẫn còn giữ vững các quận Dục Đức và Đại Lộc dù áp lực của địch quân càng lúc càng tăng. Sáng sớm cùng ngày, địch bắn 14 hỏa tiển 122-ly vào một trung tâm tỵ nạn gần vòng đai phi trường Đà Nẵng, gây tử thương và bị thương cho một số dân tỵ nạn ở đây, mà phần lớn là phụ nữ và trẻ em! Tinh thần binh sĩ thuộc SĐ 3BB sụp đổ. Binh lính bỏ đơn vị chiến đấu để trở về lo bảo vệ gia đình, vợ con đang ở tại Đà Nẵng. Tình hình hoàn toàn hổn loạn, với hơn 2 triệu người trên đường phố, lo tìm đường đưa gia đình trốn thoát về phía nam. An ninh, trật tự tại Đà Nẵng hầu như không còn duy trì được nữa!

Cuộc lui binh khỏi Thừa Thiên bắt đầu tương đối trật tự. LĐ 258 TQLC bắt tay LĐ 914 ĐPQ tại đảo Vĩnh Lộc để vượt qua eo biển hẹp tới Lộc Trì thuộc quận Phú Lộc. Nhưng đoạn cầu phao dự trù được Công Binh bắt tại đây đã không bao gìờ có ! Các tàu phao đươc công binh trù liệu làm cầu phao bắt qua kênh biển hẹp tại đây đã bị các đơn vị quân đôi khác xử dụng để vượt thoát. Lực lượng triệt thoái phải dùng thuyền đánh cá của dân điạ phương để vượt kênh. Tướng Trưởng bay trực thăng dọc theo đoàn quân di tản tới tận đảo Vĩnh Lộc. Ông hẵn ngậm ngùi khi thấy rõ một điều: tất cả đều hổn loạn, chỉ trừ các đơn vị TQLC là còn chặt chẽ và kỹ luật!

Bị trì hoãn do biển động, ngày 26 tháng Ba, một phần của LĐ 147TQLC rời Tân Mỹ về Đà Nẵng bằng tàu Hải Quân. Cùng ngày, một tiểu đoàn thuộc LĐ 258TQLC bảo vệ đèo Phú Gia, một đoạn đường hẹp, khúc khuỹu, khoãng 15 km về phía tây quận Phú Lộc, đụng nặng với quân chính qui BV. Với các sư đoàn Bắc quân đang tiến ào ạt về hướng đèo Hải Vân từ phía bắc, và mức độ hư hõng không thể sữa chữa kịp của các chiến hạm Hải Quân, Tướng Trưởng đành ra lịnh ngưng việc di tản binh sĩ cùng các khí cụ trang bị từ Huế vào Đà Nẵng. Hơn nữa, khi hiểu được không thể nào tăng cường phòng thủ Đà Nẵng bằng một SĐ 2BB đã gần như tan rã, Tướng Trưởng cho tập trung nổ lực vào các đơn vị TQLC còn kỹ luật và hiệu năng tác chiến. Trưa ngày 27 tháng Ba, máy bay của Không Quân đã bắn hạ bốn chiến xa địch đang tấn công căn cứ hỏa lực Baldy. Mặc dầu các tiểu đoàn bộ chiến của SĐ 3 BB đã chiến đấu thật dũng cảm, đẩy lui quân địch, nhưng rõ ràng lực lượng này không thể nào ngăn chặn được lưc lượng Bắc quân đang ào ạt tràn vào các quận huyện thuộc tỉnh Quãng Nam! Tướng Trưởng đành cho lịnh lui quân về phòng thủ một khu vực hạn hẹp hơn trong tầm yểm trợ của pháo binh từ trung tâm thị xã Đà Nẵng. Nhưng nổ lực để giữ vững tuyến phòng thủ cuối cùng đó đã thất bại khi một số lớn các binh sĩ SĐ 3BB đã bỏ ngũ để lo cứu gia đình. Với sự sụp đỗ hầu như không thể nào tránh khỏi, Tướng Trưởng trong một nổ lực cuối cùng đã cố di tản những đơn vị còn kỹ luật và khả năng tác chiến, mà phần lớn là binh sĩ TQLC bằng tàu Hải Quân về Sàigòn. Tướng Trưởng sau đó đã cùng một số sĩ quan trong bộ tham mưu của ông bơi trong biển động ra chiến hạm tiếp cứu đậu ngoài xa! Đà Nẵng, cứ điểm quân sự chiến lược cuối cùng của Quân Đoàn Một, Quân Khu Một với những đại đơn vị lừng lẫy một thời của QLVNCH: SĐ1BB, SĐ TQLC…đã lọt vào tay Bắc quân đêm-ba-mươi-tháng-Ba, năm-một-ngàn-chín-trăm-bảy-lăm!!!!

TỰ DO, NHỮNG KHOÃNH KHẮC CÒN LẠI

Cuộc tiến công năm 1975 của Cộng Sản BV tại miền Nam Việt Nam được phối hợp đồng bộ trên toàn quốc. Song song với những đợt tấn công tại QK 1 và QK 2, Bắc quân mỡ đầu chiến dịch tỗng công kích tại QK3 bằng cuộc tấn công vào Trị Tâm, quận lỵ quận Dầu Tiếng, nằm về phía tây nam đồn điền cao su Michelin. Phía tây Trị Tâm, bên kia sông Sàigòn, Tỉnh Lộ 239 đi xuyên qua đồn điền Bến Củi, trước khi nhập vào LTL 26, chạy dài về phía tây bắc vào thị xã Tây Ninh và xuôi huớng đông nam tới tận một tiền cứ của quân lực miền Nam tại Khiêm Hạnh. Tất cả mọi giao thông đi lại đều phải ngang qua Liên Tỉnh Lộ 26 và Lộ 239, do các tiền đồn của lực lượng diện địa kiểm soát. Quận lỵ Trị Tâm được phòng thủ bởi 3 tiểu đoàn Điạ Phương Quân và 9 trung đội Nghĩa Quân. Bộ Tư Lệnh QĐ3/QK3 dự đoán Bắc quân sẽ tấn công vào Trị Tâm do tin tức tình báo thu lượm được về việc các đơn vị thuộc SĐ 9 chính qui BV đang tập trung tại phía bắc thị trấn này, nên ngày 10 tháng Ba, đã tăng cường cho lực lượng phòng thũ tại đây thêm hai đại đội ĐPQ.

Cuộc tấn công vào Trị Tâm khởi sự lúc 6 giờ sáng ngày 11 tháng Ba với những đợt dập pháo dữ dội và các đợt xung phong ác liệt của quân bộ chiến tùng thiết địch vào vị trí quân ta. Trước đó, Bắc quân đã tấn công cắt đứt mọi đường liên lạc, tiếp vận của quân đồn trú; vào lúc 3:30 sáng bộ binh và chiến xa T54 địch tràn ngập môt tiền đồn của đơn vị ĐPQ trên TL239, khoãng 10 km phía tây Trị Tâm. Bộ Chỉ Huy TK Tây Ninh lập tức điều động 2 tiểu đoàn ĐPQ tiến về phía đông, dọc theo lộ 239 về hướng Bến Củi, nhưng lực lượng này đã bị chận đứng bởi hỏa lực dữ dội của địch khi gần đến tiền đồn ĐPQ bị địch chiếm giữ. Chiến xa địch đã xuất hiện ở khu vực đồn điền Bến Củi, yểm trợ cho lực lượng bộ binh địch, nhưng các đơn vị diện địa bảo vệ quận lỵ Trị Tâm, vẫn giữ vững vị trí, đẩy lui những cuộc xung phong ác liệt của Cộng quân, bắn cháy hai chiến xa T54 ngay trong khu vực thị xã. Mũi tấn công chính của Bắc quân vào Trị Tâm phát xuất từ hướng đông nên lực lượng phòng thủ tại đây đã cho nổ sập cây cầu trên lộ 239, phía đông thị trấn để ngăn chặn chiến xa địch. Giao tranh tiếp diễn dữ dội suốt đêm; cho đến hừng sáng 12 tháng Ba, quân trú phòng vẫn còn giữ vững Trị Tâm. Nhưng trong ngày 12 tháng Ba, lực lượng Bắc quân thuộc hai Trung Đoàn 95 C và 272 BV, được yểm trợ bởi một chi đoàn T54 cùng một trung đoàn pháo, mỡ những đợt tấn công liên tục, cuối cùng đã tràn ngập tuyến phòng thủ của quân diện địa trú phòng tại đây.

Bộ Tư Lệnh QĐ3 lập tức tăng viện cho chiến trường Trị Tâm một lực lượng đặc nhiệm. Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 318 gồm các đơn vị chiến xa và thiết quân vận thuộc Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh, với Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân tùng thiết, đã bị chặn đứng bởi hỏa lực B40, 41 và pháo tầm xa 130 ly của địch khi tiến quân gần đến khu vực Trị Tâm. Với Trị Tâm trong tay, Bắc quân đã kiễm soát được hành lang sông Sàigòn chạy dài từ thượng nguồn sông, gần căn cứ Tống Lê Chân, cho tới tận tiền đồn của quân lực miền Nam tại Rạch Bắp trong vùng Tam giác Sắt. Khiêm Hạnh, một tiền cứ của QLVNCH, nằm gần một giang cảng trọng yếu, và khu giao lộ tại Gò Dầu Hạ, với nhiệm vụ chính là ngặn chặn các đơn vị quân BV tiếp cận QL22 và QL1, đã nằm trong tầm pháo địch. Trị Tâm nay trở thành mục tiêu chính trong chiến dịch nhằm cô lập Tây Ninh với thủ đô Sàigòn. Trước đêm tấn công vào Trị Tâm, ba tiểu đoàn chính qui BV D14, 15, 18, với sự yểm trợ của Trung Đoàn 101, cùng Sư Đoàn 75 Pháo Binh BV, đã cắt đứt QL 22 giữa Gò Dầu Hạ và thị xã Tây Ninh. SĐ 75 Pháo Binh BV gồm 5 Trung Đoàn pháo hoạt động tại Tây Ninh trong chiến dịch này. Riêng SĐ 377 Phòng Không địch có khoãng 15-tiểu đoàn pháo cao xạ, mà một số các đơn vị của SĐ này đã yểm trợ trực tiếp cho bộ binh xung kích địch.

Trong khi các tiểu đoàn quân chính qui BV tại Tây Ninh cắt đứt QL22, phía bắc Gò Dầu Hạ, lực lượng thuộc Trung Đoàn 6 và 174, SĐ 5 Bắc quân, từ Kampuchia tràn qua biên giới, tấn công căn cứ Bến Cầu, phía tây bắc Gò Dầu Hạ, nằm giữa đường biên giới Viêt-Miên và sông Vàm Cỏ Đông. Những đợt tấn công đầu tiên của địch bị đẩy lui, với 2 chiến xa PT-76 bị bắn cháy. Ngày 12 tháng Ba, một lực lượng lớn chiến xa địch bị phát gìác tại phía tây G ò Dầu Hạ; các chiến đấu cơ của ta được gọi tới oanh kích phá hủy 8 tăng địch và làm hư hại 9 chiếc khác. Tuy nhiên, ngày 14 tháng Ba, các đơn vị diện địa phòng thủ Bến Cầu đã rút lui trước áp lực nặng của địch quân. Bến Cầu chỉ là một trong 8 tiền đồn nằm về phía tây sông Vàm Cỏ Đông bi địch tấn kích nặng nề vào ngày 12 tháng Ba. Hầu hết các cuộc tấn công vào các tiền đồn đều bị đẩy lui, nhưng đến ngày 14 tháng Ba, Bắc quân đã chiếm trọn các cứ điểm này.

Tướng Toàn, Tư Lệnh QĐ3 cho tăng cường lực lượng phòng thủ Khiêm Hạnh và dọc theo QL1 và QL22. Ông cho điều Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ với ba thiết đoàn cơ hữu, cùng hai Tiểu Đoàn 64, 92 Biệt Động Quân, và Trung Đoàn 48, SĐ18BB, đuợc tăng cường bởi các Thiết Vận Xa thuộc lực lượng trừ bị Quân Đoàn đóng tại Long Bình, Biên Hòa tới Khiêm Hạnh.và Gò Dầu Hạ. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 7, SĐ 5BB tại Lai Khê cũng được tăng phái cho chiến trường Khiêm Hạnh. Trong lúc một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 48BB tấn công về phía tây Gò Dầu Hạ để khai thông đoạn QL 1 dẫn từ Gò Dầu tới vùng biên giới Việt-Miên, Trung Đoàn 46BB tấn công về phía bắc dọc theo đường 22 để trợ lực các đơn vị diện địa khai thông đoạn đường dẫn về Tây Ninh đã gặp sự kháng cự và hoả lực pháo dữ dội của địch. Pháo phòng không địch dày đặc đến nổi trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn không thể nào đáp xuống Gò Dầu Hạ trong ngày 13 tháng Ba được. QL 22, đoạn giữa Gò Dầu Hạ và Tây Ninh vẫn bị địch quân phong toả.

Quốc Lộ 4 nối liền thủ đô Sàigòn và Vùng 4 Chiến Thuật, con đuờng huyết mạch trọng yếu dẫn về vùng châu thổ sông Cửu Long cũng bị đe doạ bởi các cuộc đụng độ đang lan rộng khắp QK3. QL 4 đi qua một vùng dân cư đông đúc với các ruộng lúa màu mỡ, bạt ngàn và các vườn thơm khóm của tỉnh Long An, nằm giữa ranh giới hai Vùng 3 và 4 Chiến Thuật. Lực lượng diện địa của TK Long An là một trong những lực lượng địa phương thiên chiến nhất trên toàn quốc, đã chứng tỏ thực lực của mình qua việc đè bẹp các tiểu đoàn chủ lực địa phương của địch tại đây trong những trận giao tranh khốc liệt diễn ra vào đầu tháng Ba với những tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Nhận thấy tầm mức quan trọng của việc bảo vệ giao thông trên QL4, Bộ TTM đã tăng phái hai Tiểu Đoàn 14 và 16 thuộc LĐ TQLC mới thành lập để tăng cường phòng thủ khu vực Long An. Các đơn vị TQLC và ĐPQ Long An đã mỡ những cuộc hành quân phối hợp chặt chẽ, duy trì an ninh cho tỉnh Long An trong suốt tháng Ba, 1975.

Trong khi Tướng Toàn tung hơn phân nữa lực lượng của QĐ3 để bảo vệ cạnh sườn phía tây, Bắc quân mỡ những đợt tấn công vào khu vực phía Đông và vùng trung tâm QK3. Các lực lượng còn lại của quân lực miền Nam hầu như không đủ để đối phó với những cuộc công kích càng lúc càng lan rộng của Cộng quân. Quân miền Nam được lịnh bỏ các cứ điểm tại An Lộc và Chơn Thành vì không còn giá trị về mặt chính trị và quân sự chiến lựơc, để tăng cường phòng vệ các khu vực đang bị áp lực nặng nề của địch. Lúc này lực lượng địch đã tăng cường thêm một SĐ, SĐ341 tỗng trừ bị, mới xâm nhập từ miền Bắc vào. Để bảo toàn lực lượng cho các đơn vị BĐQ và diện địa tại An Lộc và Chơn Thành Tướng Toàn đã cho lịnh di tản lực lượng này khỏi các cứ điểm tại hai khu vực trên cùng 12 khẩu pháo 105 ly Howiter. Riêng 5 trọng pháo 155 mm được phá hủy tại chỗ vì Không Quân không có trực thăng loại nặng để bốc những loại pháo này. Nhìn chung, tình hình tại vùng trung tâm QK3 vẫn tương đối yên tĩnh, mặc dầu có sự xuất hiện của SĐ 341 và Trung Đoàn 273 BV mới xâm nhập vào miền Nam. Áp lực nặng nề nhât của địch tại Vùng 3 Chiến Thuật tập trung ở cạnh sườn phía đông.

Ngay trước khi Bắc quân mỡ đợt tỗng công kích, lực lượng của SĐ18BB được phân bổ theo nhu cầu chiến trường. Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 43BB, nằm bảo vệ QL20, phía bắc thị xã Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh. Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn này, nằm ở phía nam Định Quán, và Tiểu Đoàn 3 đóng tại quận Hoài Đức, tỉnh Bình Tuy. Trung Đoàn 52BB, với Tiểu Đoàn 3 đóng dọc QL1, đoạn giữa Biên Hòa và Xuân Lộc; trong lúc hai tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 52BB hoạt động tại khu vực tây bắc thị xã Xuân Lộc. Riêng Trung Đoàn 48BB vẫn tăng phái cho SĐ 25BB tại Tây Ninh.

Lực lượng Bắc quân tại Nam Bộ mỡ đầu chiến dịch Bình Tuy-Long Khánh bằng những cuộc tấn công dữ dội vào các vị trí của ta dọc theo QL 1 và 20, hai tuyến liên lạc, tiếp vận chính trong vùng. Địch tấn công các tiền đồn, thị trấn, cầu cống tại phía bắc và phía tây thị xã Xuân Lộc. Ngày 17 tháng Ba, Trung Đoàn 209 chính qui BV, được yểm trợ bởi Trung Đoàn 210 Pháo Binh, thuộc SĐ 7 Bắc Quân, đã mỡ đầu cho đợt công kích đẫm máu và khốc liệt nhất trong cuộc chiến, trận thư hùng sống mái với các đơn vị thiện chiến của quân lực miền Nam tại thị xã Xuân Lộc, bằng cuộc tấn kích vào Định Quán, phía bắc Xuân Lộc, và tại cầu La Ngà, phía tây Định Quán. Địch xữ dụng 8 chiến xa T54 để yểm trợ cho đợt tấn công mỡ màn vào vị trí bố phòng của các đơn vị thuộc SĐ18 BB tại Định Quán. Pháo binh địch tác xạ phá hủy 4 trọng pháo 155 ly Howitzers đang bắn yểm trợ cho các đơn vị diện điạ của ta tại đây. Tướng Đảo, Tư Lệnh SĐ 18BB, tiên liệu trước cuộc tấn công của địch, đã cho tăng cường phòng thủ cầu La Ngà, nhưng trước hỏa lực dữ dội của pháo binh địch, quân trú phòng tại đây buộc phải bỏ vị trí. Ngày 18 tháng Ba, sau những đợt tiền pháo hậu xung ác liệt, Trung Đoàn 209 Bắc quân tiến vào Định Quán. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43 BB và Tiểu Đoàn ĐPQ, bảo vệ Định Quán, bị thiệt hại nặng, buộc phải rút lui. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 43BB cũng đụng độ nặng với địch quân tại tây bắc Hoài Đức, giết chết 10 lính BV trong ngày 17 tháng Ba. Trong lúc đó, một tiền đồn khác của Xuân Lộc do một đại đội ĐPQ và một trung đội pháo binh trấn giữ bị địch pháo và tấn công dữ dội. Cuộc tấn công của quân BV bị đẩy lui với những tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Một đại đội ĐPQ được gởi tới tăng viện cho tiền đồn này bị chặn đánh và thiệt hại nặng trên đường số 1(QL1), phía tây Ông Đồn. Trung Đoàn 24, SĐ 6 chính qui BV mỡ những đợt tấn công dữ dội vào vị trí của quân ta tại Gia Ray, về phía bắc Ông Đồn, trên lộ 333. Tới lúc này thì Bắc quân đã tung vào mặt trận Long Khánh 2 SĐ 6, và 7 chính qui BV. Đặc công CS cũng phá sập một cây cầu taị khu vực giao lộ giữa QL1 và TL332, cô lập hoàn toàn các đơn vị ta tại phía tây Lộ 332 với thị xã Xuân Lộc.

Phiá Bắc Xuân Lộc, trên đường 20, các ấp xã dọc trục lộ đã bị Bắc quân chiếm đóng, đồng thời một tiền đồn ĐPQ về phía cực bắc Long Khánh, giáp ranh tỉnh Lâm Đồng cũng bị địch tràn ngập. Tướng Đảo quyết định phản công với Trung Đoàn 52 trừ gồm hai tiểu đoàn bộ chiến, được tăng cường bởi Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh điều từ Tây Ninh qua. Chiến Đoàn 52 được lịnh hành quân khai thông QL20 đoạn từ Long Khánh tới Định Quán. Nhưng lực lượng này đã bị chận đứng bởi sức kháng cự dữ dội và hỏa lực pháo nặng của địch. Bắc quân cho tăng cưòng lực lượng tấn công tại mặt trận Long Khánh. Trung Đoàn 141, SĐ 7 chính qui BV, cùng Trung Đoàn 209 BV, tấn kích Định Quán. Trong lúc đó, Trung Đoàn 812, SĐ 6 chính qui BV tấn công tràn ngập quận Hoài Đức, Bình Tuy; hai trung đoàn còn lại của Sư Đoàn 6 Bắc quân, Trung Đoàn 33 và 274 tiến chiếm Gia Ray. Cứ điểm và là trạm quan sát của quân ta trên đỉnh núi Chứa Chan cao trên 2200 bộ cũng rơi vào tay các đơn vị thuộc SĐ 6 chính qui BV. Bắc quân bắt đầu nã trọng pháo vào thị xã Xuân Lộc. Tướng Toàn lập tức rút một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 48 BB, về tăng viện cho mặt trận phía đông của QK3.

Hai tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 48 BB vẫn nằm án ngữ bảo vệ Gò Dầu Hạ. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 48BB đụng độ với một đơn vị cấp đại đội quân chính qui BV tại phía tây sông Vàm Cỏ Đông vào ngày 17 tháng Ba, giết chết 36 lính BV, tịch thu một số vũ khí và đan dược. Nhưng tiền đồn Cầu Khói, phòng thủ bởi Tiểu Đoàn 351 ĐPQ, trên LTL 26, về phía bắc thị xã Tây Ninh đã bị Bắc quân tràn ngập. Tuyến phòng vệ ngoại vi của Tây Ninh và Hậu Nghĩa bắt đầu gãy vụn nhanh chóng sau khi Cầu Khói bị địch chiếm. Sau những trận mưa pháo dữ dội, Trung Đoàn Đặc Công 367, SĐ 5 chính qui BV tiến vào Đức Huệ ngày 21 tháng Ba, chiếm các vị trí tại phía tây nam của thị trấn trọng yếu Trảng Bàng trên QL1. Nếu Bắc quân chiếm được Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ và toàn vùng Tây Ninh sẽ bị cô lập. Bảo vệ cho mặt bắc của phi trường Tây ninh là một tiền đồn chính trên QL13. Ngày 22 tháng Ba, Bắc quân tấn công tràn ngập tiền đồn này. Quân trú phòng tại đây rút lui về một vị trí phòng thủ khác tại phía nam. Nhưng ngày 23, Công quân tiếp tục tấn công chiếm giữ vị trí này, như vậy chu vi phòng thủ tại khu vực bắc Tây Ninh chỉ còn trong phạm vi hạn hẹp 10 km chiều sâu.

Tại khu vực phía đông Tây Ninh, Bắc quân vẫn tiếp tục duy trì áp lực vào cứ điểm trọng yếu Khiêm Hạnh. Nằm ngay phía bắc Gò Dầu Hạ, Khiêm Hạnh là một cứ điểm quan trọng, với nhiệm vụ ngăn chặn các đơn vị Cộng quân tiếp cận QL1 từ phía bắc, cũng như chiếm Gò Dầu Hạ và Trảng Bàng. Từ Trảng Bàng, QL1 là trục lộ giao thông nhanh chóng nhất đi qua Bộ Tư Lệnh SĐ 25 tại Củ Chi, và thẳng về phi cảng Tân Sơn Nhất của thủ đô Sàigòn. Ngày 23 tháng Ba, chiến xa và quân bộ chiến VNCH đã đụng độ với Bắc quân gần Trường Mít, phía tây bắc Khiêm Hạnh. Lực lượng địch vươt qua cứ điểm Cầu Khói trên đường 26, tràn xuống. Ngày 24 tháng Ba, những trận giao tranh đẫm máu đã diển ra với số thương vong nặng nề cho cả hai bên. Tiểu Đoàn 3,Trung Đoàn 7, SĐ 5 BB, tăng phái cho SĐ 25 BB, đã thiệt hạ i hơn 400 người, vừa chết, bị thương và mất tích. Riêng lực lượng tấn kich, Trung Đoàn 271, thuộc SĐ 9 chính qui BV đã tổn thất nặng nề, với hơn 200 xác bỏ lại chiến trường. Hỏa lực của pháo binh và chiến xa địch bắn rất dữ dội. Trung Đoàn 271 Bắc quân được tăng cường Trung Đoàn 42 Pháo Binh BV, với các sơn pháo 85ly và 122mm, cùng một tiểu đoàn pháo cao xạ 37-ly bắn trực xạ yểm trợ chiến trường. Để đề phòng địch quân đánh bọc sườn các vị trí dọc hành lang sông Sàigòn, Tướng Toàn cho điều Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 7 BB về tăng cường phòng thủ căn cứ Rạch Bắp, phía tây khu Tam Giác Sắt. Tướng Toàn cũng yêu cầu Bộ TTM tăng phái một Lữ Đoàn Dù để phản công tái chiếm Trường Mít, nhưng Bộ TTM từ chối vì không thể tăng phái đơn vị tỗng trừ bị cuối cùng này cho QĐ 3 đuợc trong khi Tướng Toàn vẫn còn một số đơn vị trừ bị trong tay. Ngày 25 và 26 tháng Ba, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh cùng với các đơn vị thuộc SĐ 25BB, mỡ những cuộc phản công nhắm vào Trung Đoàn 271 chính qui BV tại Trường Mít, đã đánh bật Bắc quân ra khỏi khu vực này, và gây thiệt hại nặng nề cho địch. Tướng Toàn cho điều Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 48, SĐ 18BB, cùng 2 tiểu đoàn bộ chiến tới Khiêm Hạnh để tăng cường phòng thủ cứ điểm này.

Ngày 24 tháng Ba, trong lúc cuộc triệt thoái khỏi Bình Long của QĐ3 đang tiến hành thì lực lượng Cộng quân thuộc 2 SĐ 9 và 341 chính qui BV, được sự yểm trợ của một thiết đoàn tăng T54, tấn kích Chơn Thành. Liên Đoàn 31 và 32 Biệt Động Quân, với sự yểm trợ của Không Quân, đã đẩy lui Bắc quân, bắn cháy 7 chiến xa địch. Ngày 26 tháng Ba, SĐ 341 BV lại mỡ cuộc tấn công vào Chơn Thành nhằm thu hồi những T54 bị bắn cháy, nhưng BĐQ, một lần nữa lại đẩy lui quân địch. Ngày 27 tháng Ba, cuộc di tãn khỏi An Lộc, Bình Long hoàn tất; BĐQ vẫn nằm án ngữ bảo vệ Chơn Thành. Ngày 31 tháng Ba, SĐ 341Bắc quân, được tăng cường bởi Trung Đoàn 273 chính qui độc lập, tấn công dữ dội vào cứ điểm này. Sau khi dập hơn 3000 quả pháo vào Chơn Thành, Băc quân với sự yểm trợ của một thiết đoàn chiến xa, đã ào ạt tràn vào Chơn Thành. Nhưng lính Mũ Nâu lại một lần nữa, đánh bật lực lượng tấn kích của Cộng quân, bắn cháy thêm 11 T54. Để bảo toàn lực lượng chiến đấu của 2 LĐ BĐQ sẽ rất cần thiết cho những trận giao tranh sắp tới, Bộ Tư Lệnh QĐ 3 quyết định rút BĐQ ra khỏi cứ điểm Chơn Thành. Ngày 31 tháng Ba, Không Quân với 52 phi xuất đã oanh kích, bắn phá dữ dội khu vực đóng quân của SĐ 341, sư đoàn Bắc quân đã tả tơi trong những trận đọ sức đẫm máu với Biệt Động Quân, để các trực thăng có thể bốc toàn bộ Liên Đoàn 32 BĐQ ra khỏi Chơn Thành về tăng cường cho một điểm nóng khác, Khiêm Hạnh, Tây Ninh. Đêm 31 tháng Ba, 3-tiểu-đoàn thuộc Liên Đoàn 31BĐQ và một tiểu đoàn ĐPQ còn lại rút khỏi Chơn Thành về Bầu Bàng và Lai Khê; cùng rút theo họ là các đơn vị pháo và các chi đoàn chiến xa M41. Tới lúc này thì tuyến phòng ngự mặt bắc của Sàigòn chỉ còn cách Bộ Tư Lệnh SĐ 5 BB đóng tại Lai Khê, chừng 14 km về phía bắc. Áp lực của các sư đoàn Bắc quân càng lúc càng đè nặng quanh thủ đô Sàigòn, và các tuyến tiếp vận, liên lạc trọng yếu với lực lượng phòng thủ ngoại vi đã bị đe dọa nghiêm trọng.

Vấp phải sự kháng cự và phản kích quyết liệt của quân miền Nam tại Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long và Long Khánh, Bắc quân buộc phải rút lui để chấn chỉnh đội ngũ. Lợi dụng sự tạm lắng của chiến trường trong tuần lể đầu tháng Tư, quân miền Nam lo tái tổ chức và tái phối trí các đơn vị đã tả tơi trong chiến trận, triệt thoái về từ QK1 và 2, để sẵn sàng cho những cuộc giao tranh sắp tới với Bắc quân. Ngày 1 tháng Tư, Tướng Toàn cho trả 2 tiểu đoàn cùng Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 48 BB từ Tây Ninh về lại SĐ 18BB. Trung Đoàn 48 BB di chuyễn tới thị xã Xuân Lộc. Một tiểu đoàn của Trung Đoàn này được tăng phái cho thị xã Hàm Tân, thành phố nằm trên vùng duyên hải của tỉnh Bình Tuy, để bảo vệ an ninh cho thành phố cảng này, trong lúc hàng trăm ngàn dân tỵ nạn từ phía bắc đang tràn về. Khoãng 500 binh sĩ sống sót của SĐ 2BB từ QK1 di tản về sẽ được tái phối trí và trang bị để thay thế tiểu đoàn thuộc SĐ 18BB, bảo vệ Hàm Tân.

Trong lúc đó, Trung Đoàn 52, SĐ 18BB, tiến quân trên QL20, phía nam Định Quán đã đụng nặng với lực lượng Bắc quân, giết chết 50 lính BV. Trung đoàn còn lại của SĐ18BB, tấn công về phía đông dọc theo QL1, gần Xuân Lộc cũng đụng độ với một lực lượng lớn của Bắc quân đang có mặt tại đây. Tướng Toàn cho trả Trung Đoàn 7BB đang phụ trách hành quân tại khu vực QL1 gần Gò Dầu Hạ về cho SĐ 5BB tại Lai Khê. Như vậy chỉ còn các đơn vị thuộc SĐ 25BB, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh, BĐQ, và ĐPQ phụ trách việc phòng thủ, bảo vệ Tây Ninh cùng các tuyến tiếp vận liên lạc trọng yếu trong vùng.

Bị choáng váng bởi việc triệt thoái hổn loạn các lực lượng chính qui và diện điạ tại QK1 và QK2; bị đè nặng bởi hoang mang do những trận ác chiến bùng nổ trong ngay trong phạm vi an toàn của thủ đô Sàigòn, cộng thêm vào sự mờ mịt về tin tức khả tín liên quan đến tình trạng của các đơn vị di tản hay tan rả, và nhất là nổi âu lo cho những thảm kịch cuả cá nhân hay của gia đình đã đè nặng lên tâm trí các sĩ quan tham mưu trong Bộ Tỗng Tham Mưu tại Sàigòn, khiến họ gần như bị tê liệt, không phản ứng được gì cho tới giờ phút chót. Mãi tới ngày 27 tháng Ba, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tỗng Cục Trưởng Tỗng Cục Tiếp Vận, Bộ TTM, và Đại Tướng Viên, Tỗng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, mới chấp thuận kế hoạch tái tổ chức và phối trí lại các lực lượng quân sự di tản về từ Vùng 1 và 2 Chiến Thuật, bao gồm cả nhu cầu cấp bách thay thế các chiến cụ, trang bị, quân trang, quân dụng bị hư hỏng, thiệt hại trong chiến đấu.

Ngày 2 tháng Tư, những thành phần sống sót của SĐ TQLC được đổ xuống Vũng Tàu. Tướng Lân, Tư Lệnh SĐ cho toàn bộ đơn vị di chuyễn về hậu cứ của Tiểu Đoàn 4 TQLC để tái tổ chức và trang bị. Trong tỗng số 12000 binh sĩ TQLC được phối trí tại chiến trường QK1, chỉ còn lại khoãng 4000 là về đến Vũng Tàu. Các khí cụ, quân trang, quân dụng cần thiết cho việc tái trang bị lại SĐ TQLC có sẵn tại tỗng kho Long Bình, nhưng vấn đề chuyễn vận rất khó khăn. Một vấn đề quan trọng khác là sự thiếu hụt trầm trọng cấp chỉ huy cho các tiểu đoàn bộ chiến. Năm Tiểu Đoàn Trưởng và khoãng 40 Đại Đội Trưởng TQLC đã tử trận trong các cuộc giao tranh trong hai tháng Ba và tháng Tư. Tuy vậy việc tái tổ chức và phối trí SĐ TQLC được tiến hành rất nhanh. Một Lữ Đoàn gồm ba tiểu đoàn bộ chiến và một tiểu đoàn pháo binh đã sẵn sàng để nhận trang bị chỉ trong vòng ba ngày. Mười ngày sau đó, thêm một Lữ Đoàn nữa được tái tổ chức và trang bị.

Trong lúc đó, vào ngày 1 tháng Tư, việc di tản khỏi Nha Trang chấm dứt, khi quân chính qui BV chiếm Cảng Nha Trang. Việc di tản tại Cam Ranh vẫn được tiếp tục. Sâu về phía nam, căn cứ Không Quân Phan Rang dưới áp lực nặng nề của địch đã bắt đầu di tản, dù SĐ 6KQ tại đây vẫn tiếp tục các hoạt động hành quân giới hạn. Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của QĐ3/QK3 được thành lập tại Phan Rang, đặt dưới quyền trách nhiệm của Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, cựu Tư Lệnh QĐ4/QK4, và ngày 7 tháng Tư, Lữ Đoàn 2 Dù được không vận ra Phan Rang để tăng cường tuyến phòng thủ từ xa này. Ngày 9 tháng Tư, LĐ Dù di chuyễn ra Du Long, phía bắc Phan Rang trên đường số 1 để chặn đánh SĐ 10 Bắc quân đang ào ạt từ Cam Ranh tiến vào. Ngày 14 và 15 tháng Tư, SĐ 10 BV được sự yễm trợ của Trung Đoàn Pháo Binh 689, và chiến xa T54 đã tấn công phi trường Phan Rang cùng các cứ điểm phòng thũ khác của quân ta tại Phan Rang. Lực lượng phòng vệ Phan Rang gồm hai tiểu đoàn của LĐ 2 Dù, Liên Đoàn 33 BĐQ, hai trung đoàn trừ vừa được tái phối trí của SĐ 2BB, SĐ 6KQ và một số thiết quân vận M113 đã chống trả quyết liệt, đánh lui nhiều đợt xung phong của địch. Bắc quân tiếp tục tăng cường lực lượng quyết dứt điểm phi trường Phan Rang. Đến ngày 16 tháng Tư, Phan Rang thất thủ. Tướng Nghi, Tư Lệnh Mặt Trận Phan Rang, Tướng Sang Tư Lệnh SĐ 6KQ và một số sĩ quan cao cấp khác đã lọt vào tay địch. Phan Thiết, thành phố thuộc tỉnh Bình Thuận, nằm về phía tây nam Phan Rang cũng bị địch tấn công dữ dội. Mặc dầu ba tiểu đoàn ĐPQ và 20-trung đội Nghĩa Quân Tiểu Khu Bình Thuận đã chống trả thật kiên cường dũng cảm, nhưng không thể nào ngăn chặn được môt lực lượng lớn quân chính qui BV tràn xuống từ vùng núi đồi phía bắc. Ngày 12 tháng Tư, Phan Thiết bị tràn ngập!


Cầu Rạch ChiếcTrận đánh cuối cùng !

Tới ngày 11 tháng Tư, có khoãng 40000 binh sĩ di tản về từ QK1 và 2 được đưa vào các trung tâm huấn luyện quân sự hoặc được tái phối trí vào các đơn vị thuộc QK3. SĐ2 BB tập trung tại Hàm Tân, với quân số lên tới 3600 người, gồm hai tiểu đoàn Điạ Phương Quân thuộc TK Gia Định tăng cường. Trung Đoàn 4 thuộc SĐ 2 BB, vừa thành lập lại, được điều ra Phan Rang để thay thế LĐ 2 Dù; phần còn lại của SĐ 2BB gồm 4 tiểu đoàn sẽ tham chiến sau khi hoàn tất việc tái trang bị. Rất tiếc Trung Đoàn 4 BB đã tan hàng lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng trong trận đánh bảo vệ Phan Rang. Sư Đoàn 3BB vào ngày 11 tháng Tư còn khoãng 1,100 người nằm tại Bà Rịa, Phước Tuy, sẽ được tăng cường thêm 1000 binh sĩ, nhưng quân trang, quân dụng hoàn toàn thiếu hụt. SĐ 1BB cũng đồn trú tại Bà Rịa với vỏn vẹn 2 sĩ quan và 40 binh sĩ. SĐ 23BB đóng tại Long Hải, gần Bà Rịa với khoãng 1000 binh sĩ và 20 M16!

Riêng SĐ 22BB mà sự chống trả kiên cường trong các trận đánh bảo vệ Bình Định, một trong những chiến tích hào hùng nổi bật nhất, nói lên sự quyết tâm, lòng dũng cảm cùng khả năng lãnh đạo chỉ huy trong cuộc chiến đấu bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam, đã tương đối duy trì được đội ngũ. Tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, Vũng Tàu, SĐ 22BB có khoãng 4600 binh sĩ; một phần ba là Địa Phương Quân thuộc Vùng 2 Chiến Thuật. Tuy nhiên, Sư Đoàn thiếu hụt mọi trang bị, quân trang quân dụng. Mặc dầu Pháo Binh SĐ có đủ nhân lực cho ba tiểu đoàn pháo, nhưng chiến cụ như đại bác Howitzwers lại hoàn toàn không có. Ngày 12 tháng Tư, dù đang trong tình trạng thiếu hụt trang bị trầm trọng và việc tái tổ chức chưa được hoàn tất, SĐ nhận được lịnh về bảo vệ tỉnh Long An.

Ngày 9 tháng Tư một đánh lớn đã bùng nổ ở Long An khi Trung Đoàn 275, SĐ 5 chính qui BV từ tỉnh Svay Rieng, Kampuchia, xâm nhập qua vùng biên giới Việt-Miên, tấn công dữ dội các vị trí của ta gần thị trấn Tân An, Long An. Các lực lượng diện địa thuộc Tiểu Khu Long An, được tăng viện bởi Trung Đoàn 12, SĐ 7BB đã bẻ gãy những đợt tấn kích ác liệt của địch giết trên 100 lính chính qui BV. Ngày 10 tháng Tư, địch tấn công phi trường Cần Đước, quận Tân An, sau khi cắt đứt tuyến giao thông trên Quốc Lộ 4, nhưng bị lực lượng diện điạ tại đây đánh lui, gây thiêt hại nặng nề cho Bắc quân. Trong hai ngày giao tranh ác liệt, các Tiểu Đoàn 301, 322, 330 ĐPQ Long An đã giết chết 120 quân BV, bắt sống hai tù binh. Riêng Trung Đoàn 12, SĐ 7BB, ác chiến với 2 trung đoàn thuộc SĐ 5BV, đã giết chết 350 và bắt sống 16 tù binh BV. Ngày 12 tháng Tư, Bô Tỗng Tham Mưu tăng cường cho mặt trận Long An 3 tiểu đoàn thuộc SĐ 22BB vừa được tái thành lập. Để dể dàng cho việc chiến đấu chống lực lượng thuộc SĐ 5 BV tại đây, Bộ TTM đặt Long An trực thuộc vùng trách nhiệm của Quân Đoàn 4, QK4. Bắc quân vẫn tiếp tục duy trì áp lực tại hai tỉnh Biên Hòa và Tây Ninh bằng những cuộc pháo kích dữ dội vào phi trường quân sự Biên Hoà, trung tâm huấn luyện quân sự tại Bến Cát và các vị trí của ta tại Tây Ninh trong suốt hai tuần lể đầu tháng Tư. Quân miền Nam vẫn giữ vững cứ điểm Khiêm Hạnh, duy trì quyền kiểm soát Trãng Bàng và Củ Chi, mặc dầu giao tranh bùng nổ thường xuyên với địch quân. Trong lúc đó, trận đánh lớn cuối cùng, quyết định cho cuộc chiến, đang hình thành tại mặt trận Xuân Lộc.

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu thật dũng cảm, tuyệt vời tại chiến trường Xuân Lộc, nhưng Bắc quân đã biến mặt trận đẫm máu tại đây thành một loại “ cối-xay- thịt-sống”, nướng hàng sư đoàn quân chính qui Bắc Việt, với một ý đồ chiến lược rõ rệt: tiêu-hao-tiềm-năng-không-còn-khả-năng-thay-thế-của-quân-lực-miền-Nam, để Quân Đoàn 4 Bắc quân có thể chuyễn quân về phía tây, chuẫn bị sẵn sàng cho một cuộc tỗng tấn công vào thủ đô Sàigòn.

Sau đợt tấn kích đầu tiên vào Xuân Lộc bị thất bại nặnng nề, ngày 9 tháng Tư, SĐ 341chính qui BV bắt đầu đợt tấn công lần thứ hai vào thị xã Xuân Lộc. Sau những trận mưa pháo dữ dội với hơn 4000 đạn pháo vào Xuân Lộc, quân bộ chiến tùng thiết Bắc Việt tiến công ác liệt vào các vị trí bố phòng của Trung Đoàn 43, SĐ 18 BB. Trận chiến diễn ra rất khốc liệt với chiến xa xung trận và quân bộ chiến đánh sáp lá cà giằng co đẫm máu trên đường phố kéo dài tới hoàng hôn. Tới lúc này, Trung Đoàn 43 BB đã đánh bật hầu hết lực lượng tơi tả cuả địch ra khỏi thị xã, và cứ điểm do Trung Đoàn 52 BB trấn đóng trên QL 20 vẫn còn trong tay quân ta. Bắc quân mỡ đợt tấn công thứ ba vào ngày 10 tháng Tư với lực lượng của Trung Đoàn 165, SĐ 7 BV, được tăng cường bởi các trung đoàn thuộc hai SĐ 6, và 341 chính qui BV. Cường độ giao tranh diễn ra rất đẫm máu, khốc liệt, và một lần nữa, các đơn vị của ba sư đoàn chính qui BV bị đánh thiệt hại nặng, buộc phải tháo lui. Về phía tây Xuân Lộc, khu vực giữa Trãng Bom và giao lộ giữa QL 1 và QL 20, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 322 và 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn 1 Dù dồn nổ lực tấn công về phía đông, đã gặp phải sự chống cự dữ dội của địch tại đây. Ngày 11 tháng Tư, ngày thứ ba của trận chiến, Bắc quân tấn kích hậu cứ của Trung Đoàn 52 BB trên đường 20, các vị trí của Trung Đoàn 43BB tại Xuân Lộc, và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Vào lúc này, một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 48 BB, đang bảo vệ thị xã Hàm Tân, lui binh về tăng cường cho Xuân Lộc, và LĐ 1 Dù tiến quân tiếp cận thị xã Xuân Lộc. Trong lúc đó, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 322 vấp phải sự kháng cự và hoả lực dữ dội của địch, tiến rất chậm trên đoạn đường từ Trãng Bom về Xuân Lộc. Tướng Toàn, Tư Lệnh QĐ 3/QK 3 cho điều tiếp Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 315 từ Củ Chi qua tăng cường cho mặt trận Long Khánh.

Ngày 12 tháng Tư, các tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 52 BB đụng nặng với quân BV tại phía bắc Xuân Lộc. Thị xã Xuân Lộc đã trở thành đống gạch vụn, nhưng vẫn còn nằm trong tay Trung Đoàn 43 BB. Thiệt hại của Bắc quân tới giờ phút này rất nặng nề với khoãng 1000 xác bỏ lại chiến trường, 5 tù binh bị bắt sống, hơn 300 vũ khí đủ loại bị tịch thâu, và 11 chiến xa T54 bị phá hủy. Phần lớn các đơn vị thuộc Trung Đoàn 43 BB vẫn nằm bảo vệ phía đông thị xã Xuân Lộc; Trung Đoàn 48 BB án ngữ mặt tây nam; Lữ Đoàn 1 Dù di chuyễn từ phía nam lên phía bắc, nơi đóng quân của Tiểu Đoàn 82 BĐQ; và Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 322 tiến quân trên QL 1, phía tây của giao lộ với đường 20, tấn công về hướng Xuân Lộc. Ngày 13 tháng Tư, Bắc quân lại mỡ những đợt tấn kích vào Xuân Lộc. Tới lúc này, Bắc quân đã tung vào mặt trận Long Khánh 7 trong tỗng số 9 trung đoàn của ba SĐ 6,7, và 341 chính qui BV. Cuộc tấn công của địch vào Tiểu Đoàn 1 và Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 43 BB bắt đầu lúc 4:50, kéo dài tới 9:30 sáng. Địch tháo lui, bỏ lại chiến trường 235 xác và 30 vũ khí đủ loại. Tới trưa, Bắc quân lại mở những đợt xung phong dữ dội vào vị trí quân ta. Trận chiến kéo dài tới 3 giờ chiều, Trunng Đoàn 43 BB với sự yểm trợ hửu hiệu của Không Quân đã đánh lui quân địch, giữ vững vị trí. Trong lúc đó, LĐ 1 Dù tiếp tục tấn công lên hướng bắc, về phía Xuân Lộc, và Chiến Đoàn Đặc nhiệm 322, được tăng viện bởi hai Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 315, 316, tấn công từ hướng tây qua. Không Quân phát giác hai pháo đội 130 ly, pháo tầm xa của địch, đã oanh kích tiêu diệt các đơn vị này.

Bắc quân tiếp tục tăng cường lực lượng tại Vùng 3 Chiến Thuật mong đè bẹp sức kháng cự của quân ta tại đây. Quân Đoàn 1 BV từ Thanh Hoá xâm nhập vào miền Nam, đặt Bộ Chỉ Huy tại Phước Long với các SĐ 312,320B, 325 và 338 chính qui BV. SĐ 312 BV nằm bảo vệ Bộ Tư Lệnh QĐ1 tại Phước Long, nhưng các SĐ 320 B, 325 BV di chuyễn về hướng Long Khánh và ngày 15 tháng Tư, SĐ 325 BV bắt đầu tham chiến tại mặt trận Long Khánh. SĐ 10 và 304 BV cũng từ Vùng 2 Chiến Thuật tiến về hướng Sàigòn. Không ảnh chụp được cho thấy địch tập trung một lực lượng lớn những đơn vị phòng không gồm pháo cao xạ 85-ly do radar điều khiển và 37-ly quanh khu vực Đôn Luân, cùng các dàn hỏa tiển điạ không SA-2 dọc QL 14, phía nam tỉnh Quãng Đức.

Bộ Tỗng Tham Mưu đã cho tăng cường tuyến phòng thủ nội vi bảo vệ Thủ Đô Sàigòn trong khi trận chiến quyết định tại Long Khánh vẫn đang tiếp diễn ác liệt. Tướng Bá, Tư Lệnh SĐ 25BB, cho thành lập một bộ tư lệnh tiền phương với các đơn vị thuộcTrung Đoàn 50 BB tại Gò Dầu Hạ. Trung Đoàn 49 BB, cùng Bộ Chỉ Huy, và một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 46BB bảo vệ thị xã Tây Ninh. Hai tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 46 BB đóng dọc theo đường 22, đoạn giữa thị xã Tây Ninh và Gò Dầu Hạ. Ngoài các lực lượng diện địa đặc trách phòng thủ Sàigòn, ba liên đoàn Biệt Động Quân cũng được phối trí bảo vệ mặt phía tây dẫn vào Thủ Đô Sàigòn. LĐ 8 BĐQ mới thành lập với 1600 người đóng gần Phú Lâm, khu vực vòng đai thủ đô, nơi QL 4 dẫn từ vùng châu thổ sông Cửu Long về Sàigòn. Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân, đơn vị tinh nhuệ, bảo vệ và đưa đoàn công voa di tản về Tuy Hoà trên chặng đường điạ ngục Liên Tỉnh Lộ 7B, vừa được tái tổ chức, bổ sung quân số với 2600 binh sĩ nằm án ngữ phía tây nam Phú Lâm, trên QL4, đoạn gần Bình Chánh. Liên Đoàn 9 BĐQ, cũng vừa được thành lập với khoãng 1900 người, nằm bảo vệ quận Hóc Môn, cách phi trường Tân Sơn Nhất 5km về phía bắc. Mỗi liên đoàn BĐQ được một pháo đội trừ gồm 4 khẩu 105-ly Howitzwers yểm trợ, nhưng thiếu hụt trang bị hướng dẫn tác xạ, cũng như các phương tiện truyền tin, liên lạc, và vũ khí cộng đồng. Ngày 14 tháng Tư, BĐQ và quân diện điạ chặn đánh Trung Đoàn 115, SĐ 27 Đặc Công CS tại Hóc Môn, giết chết 11 lính BV. Lực lượng đặc công địch đang yểm trợ một toán đặc công thành có nhiệm vụ tuyên truyền, kích động quần chúng nổi dậy tại quận Gò Vấp, gần phi trường Tân Sơn Nhất. Đài phát thanh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một công cụ của Cộng Sản BV, liên tục phát đi những lời kêu gọi quần chúng nổi dậy, nhưng cũng như những lần kêu gọi trong các cuộc công kích trước đây, hoàn toàn bị dân chúng xao lãng. Mặt phía tây và đông nam dẫn vào Thủ Đô Sàigòn được một lữ đoàn TQLC án quân tại Long Bình, bảo vệ. Ngày 15 tháng Tư, SĐ 18 BB kiệt lực sau những trận đụng độ đẩm máu, liện tục với bốn SĐ quân chính qui BV tại Long Khánh, đã bắt đầu cuộc triệt thoái chiến thuật từ thị xã Xuân Lộc về phòng thủ Biên Hoà qua ngả Trãng Bom. Căn cứ Long Bình nay trở thành tuyến đầu tại mặt trận phía đông.


Tại mặt trận phía tây, mặc dầu lực lượng diện địa của TK Long An và Trung Đoàn 12, SĐ 7 BB vẫn còn giữ vững Tân An, ngày 18 tháng Tư, pháo binh Bắc quân đã tiến sát vòng đai Sàigòn, pháo dữ dội vào đài phát tuyến Phú Lâm bằng hỏa tiển 122-ly, phá hủy hai doanh trại quân đội và khu gia binh tại đây. Kế hoạch của Bắc quân là cắt đứt trục giao thông trên QL 4, gần quận Bình Chánh, nhằm mục đích ngăn chặn không cho lực lượng của hai SĐ 7và 9 BB lên tăng cường phòng thủ Sàigòn; từ Bình Chánh, Đặc Công địch sẽ xâm nhập vào khu vực phi trường Tân sơn Nhất và thành phố Sàigòn. Tại Long An, SĐ 5 BV tiếp tục tấn kích dữ dội dọc theo đường phân ranh cũ giữa QK3 và QK4, nhưng đến ngày 15 tháng Tư, Bắc quân buộc rút lui sau khi hai Trung Đoàn 6, 275 chính qui BV bị các đơn vi thuộc Trung Đoàn 12 BB đánh thiệt haị nặng nề gần khu vực Tân An. Vào lúc này, hai Trung Đoàn 41, 42 thuộc SĐ 22 BB vừa được tái phối trí, bổ sung quân số với trang bị hoàn toàn thiếu hụt, được điều động về Bến Lức và Tân An. Nhưng Bắc quân đã nhanh chóng tăng cường lực lượng tại Long An. Các trung đoàn thuộc Sư Đoàn 3, 5, 8, 9 BV, và SĐ 27 Đặc Công CS đã có mặt tại Long An và khu vực phía tây nam tỉnh Hậu Nghĩa. Trung Đoàn 262 và Lữ Đoàn 71 Pháo Phòng Không địch với các pháo đội đã xuất hiện gần ranh giới hai tỉnh Long An-Hậu Nghĩa.

Tại mặt trận Xuân Lộc sau hơn một tuần lể ác chiến đẩm máu liên tục với các sư đoàn trang bị hùng hậu của Cộng Sản Bắc Việt, SĐ 18 BB đã mỡ đường máu rút về phòng thủ Biên Hoà. Trước áp lực nặng của đich, Chiến đoàn Đặc Nhiệm 52 gồm Trung Đoàn 52 BB, Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ và các đơn vị diện đia tỉnh Long Khánh, buộc phải tháo lui trên QL1; phân nữa chiến cụ trang bị bị phá hũy. SĐ 6 BV tiền quân ào ạt về phía Trãng Bom. Các pháo đội 130 ly tầm xa của quân BV được phát giác trong những vùng rừng rậm phía bắc QL1, đang di chuyễn về hướng Biên Hoà. Đêm 15 và 16 tháng Tư phi trường quân sự Biên Hòa bị pháo kích dữ dội. Các phi đạo dành cho máy bay chiến đấu cất cánh đã bị hư hại nặng cùng với 6 chiến đấu cơ F5 và 14 Ả37. Đêm 15, đặc công địch xâm nhập phi trường phá hủy một phần khu vực tồn trử bom đạn của Căn cứ Không Quân Biên Hoà. Ngay đêm 15 tháng Tư, sau những đợt pháo cấp tập dữ dội vào vị trí quân ta, phá hủy 4 trọng pháo 155mm và 8 khẩu 105 ly Howitzer, các sư đoàn quân Bắc Việt tấn công tràn ngập Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 52 tại mặt trận Ngã Ba Dầu Dây, Long Khánh, và Trung Đoàn 48 BB, bảo vệ mặt phía tây thị xã Xuân Lộc. Các đơn vị còn lại thuộc SĐ 18 BB, LĐ1 Dù và các đơn vị diện điạ đưọc lịnh mỡ đưòng máu, triệt thoái dọc theo LTL số 2 về Bà Rịa, Phước Tuy. Ngày 16 tháng Tư, các máy bay C130 của Không Quân cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất, đã thả hai quả Daisy Cutter xuống đội hình của một quân đoàn quân Bắc Việt đang tập trung tại khu vực xã Dầu Dây, gây thiệt haị nặng nề cho cả một sư đoàn quân BV.

Trong tuần lể từ 20 tới 26 tháng Tư, chiến trường tạm lắng dịu khi Bắc quân ngừng tiến quân để cũng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc tỗng tấn công vào Thủ Đô Sàigòn. Mười sáu sư đoàn quân chính qui BV đã có mặt tại Quân Khu 3, Vùng 3 Chiến Thuật, sẵn sàng cho ba mũi tấn công vào Sàigòn, cứ điểm trọng yếu cuối cùng của miền Nam tự do. Ngày 21 tháng Tư, trong một hy vọng mong manh Cộng Sản BV sẽ ngừng tấn công, chấp nhận một giải pháp ho à h ợp h òa gi ải cho miền Nam Việt Nam, TT Thiệu từ chức, trao quyền theo hiến định cho Phó TT Trần Văn Hương, để cùng gia đình lên máy bay Hoa Kỳ bay đi Đài Loan!! Nhưng CSBV trên đà chiến thắng đã không hề có một mảy may ý định thưong thuyêt nào khi quân lực miền Nam đang trên đà tan vở hoàn toàn, và đồng minh Hoa Kỳ hầu như quay mặt, phủi tay!

Ngày 26 tháng Tư, Bắc quân tiếp tục mỡ những đợt tấn công vào tỉnh Biên Hòa, nằm về phía đông Sàigòn. Sau những trận mưa pháo dữ dội, các sư đoàn quân chính qui BV trên QL1, bắt đầu tiến vào Biên Hòa. Ngày 27 tháng Tư, 5-quân đoàn quân BV bao vây Thủ Đô Sàigòn. Lực lượng 232 Chiến Thuật BV cắt đứt trục giao thông huyết mạch trên QL4. Quân Đoàn 3 BV tiến quân từ hướng Củ Chi; trong khi QĐ1 Bắc quân chiếm QL13 tại mặt trận Bình Dương, QĐ 2BV khống chế QL15, chiếm Long Thành, và Bà Rịa. Vào lúc này, QĐ 4BV, mũi tấn công chính vào Sàigòn, đã kiểm soát trục tấn công từ hướng đông tại mặt trận Biên Hoà. Cùng ngày 27 tháng Tư, TT Hưong trao chức vụ Tỗng thống VNCH lại cho Tướng Dương Văn Minh trong một nổ lực cuối cùng nhằm đạt được thỏa hiệp với CSBV. Nhưng cố gắng này đã trở nên vô vọng, khi CSBV từ chối mọi cuộc thương thuyết, quyết thôn tính miền Nam tự do bằng vũ lực!

Chiều 28 tháng Tư, Nguyễn Thành Trung, viên Trung Úy phi công đào nhiệm về phía địch, đã dẫn một đoàn A-37 oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất phá hủy một số máy bay tại đây. Ngày 29 tháng Tư, pháo nặng của địch bắt đầu bắn dữ dội vào phi trường Tân Sơn Nhât, đồng thời Đặc Công và quân bộ chiến địch xâm nhập vào quận Gò Vấp, ngay phía bắc phi trường. Những đơn vị thiện chiến còn lại của quân lưc miền Nam: TQLC, Dù, Biệt Động Quân, 81 BCND, và một số những đơn vị bộ binh cùng Thiết Giáp, vẫn tiếp tục chiến đấu, kháng cự mãnh liệt. Hừng sáng ngày 30 tháng Tư, người Mỹ hoàn tất việc di tản nhân viên tại sứ quán Hoa Kỳ; 10 giờ 30 phút cùng ngày, Tướng Dương Văn Minh, quyền TT VNCH, qua một thông điệp phổ biến trên hệ thống truyền thông quốc gia, ra lịnh cho các đơn vị còn lại của quân lực miền Nam, hạ vũ khí, chờ bàn giao cho lực lượng Bắc quân.

Sàigòn, Thủ-Đô-văn-vật-một-thời-của-miền Nam-tự-do chính thức lọt vào tay Bắc quân trưa ngày-ba-mươì-tháng-Tư, năm-một chín-bảy-lăm!!! Những đốm lữa Tự Do le lói cuối cùng đã phụt tắt sau hơn hai mươi năm trường chói lòa, rực sáng!!

“ Chư Pao ai oán hờn trong gió,
Một giãi khăn sô: một tấc đường!!”
(Một nhà thơ Biệt-Động-Quân)



Ba mươi năm đã qua. Ba mươi năm của những đoạn trường, dâu bể. Mái đầu xanh của những người lính trẻ năm nào giờ đã điểm trắng màu sương. Nắm xưong tàn của đồng đội gục ngã trong cuộc chiến tương tàn cốt nhục giờ hẵn đã nhạt nhòa theo cát buị! Có còn chăng chỉ là những nuối tiếc, nhớ thương của gia đinh, của bạn bè, đồng đội cũ mỗi độ Tháng Tư về. Tháng Tư, tháng của đau thưong, đất trời hận tủi; tháng của những đêm dài tăm tối, không-còn-thấy-ánh-mặt-trời! Xin một giọt nước mắt khóc cho quê hương điêu tàn, tang tóc. Khóc cho hơn sáu triệu sinh linh của cả hai miền Nam Bắc đã nằm xuống tức tưởi bởi những tham vọng cuồng điên của những tay đồ tể, mất hẵn tính người. Đất nước còn được gì sau hơn ba mươi năm tàn cuộc chiến?! Có còn chăng chỉ là những đói nghèo, lạc hậu, thù hận, bất công, nhũng lạm. Có còn chăng là những vết hằn rức ray, trăn trở của những con người đã từng một thời nhập cuộc, mong làm một chút gì đó cho quê hương, đất nước; nhưng lực bất tòng tâm, nên đành cúi mặt ngậm ngùi, nhìn quê hương tan tát! Xương máu của bao triệu người Việt đã đỗ trong cuộc chiến “đánh-cho-Mỹ-cút-Ngụy-nhào”, dấy động bởi tập đoàn cai trị Bắc phương; để rồi hai mươi năm sau, chính những người Cộng Sản đó lại trải thảm đỏ, van nài kẻ tử thù xưa mau trở lại!! Ôi oái ăm, tủi nhục, uất hờn, mai mĩa cho bao triệu con ngưòi đã nằm xuống! Ba mươi năm, tàn-cơn- chinh-chiến, người Cộng Sản VN vẫn không chút hồi tâm hối cải, vẫn tiếp tục đoạ đày đất nước! Vẫn vì những tư lợi, bè phái riêng tư, cản trở mọi nổ lực nhằm dân chủ hóa đất nước. Nhằm đưa đất nước vượt thoát cái vòng luẫn quẫn ác độc: ‘chuyên chế-đói nghèo-lạc hậu’, đã đeo đuổi dân tộc dai dẵng hàng bao thập kỹ. Người Cộng Sản Âu châu dù sao đi nữa cũng còn có cái can đảm tột cùng và cái liêm sĩ cần thiêt của những kẽ sĩ, biết công khai hối lổi, nhìn nhận những sai lầm của mình đã gây điêu tàn cho đất nước. Nhưng người Cộng Sản Á châu, nhất là người CS Việt Nam không hề có được cái liêm sĩ đó! Vẫn đội cái thây ma “Chũ-Nghĩa-Xã-Hội-ưu-việt” rửa nát để tiếp tục lừa mị, phỉnh gạt, mưu cầu tư lợi cho bản thân và bè nhóm. Mẹ Việt Nam vẫn tiếp tục ưu phiền nhìn những đứa con nghịch-tử không hề biết hối cải, ăn năn; sớm quay đầu trở lại với tự tình dân tộc. Hoà giải, hàn gắn những nổi-thù-hận-thương-đau do chính họ gây nên; vẫn tiếp tục đi theo con đường tội lỗi cũ!! Ôi mẹ hiền Việt Nam! Mẹ vẫn mãi mãi gặm nhắm nổi ưu phiền ray rứt, ngậm ngùi nhìn đàn con hận thù cấu xé lẫn nhau, tự-nguyện làm tên-lính-đánh-thuê cho những thế lực cường quốc ngoại bang làm điêu tàn thêm đất nước! Nên mẹ vẫn nhỏ lệ ngậm ngùi, ôm mãi trong lòng một nổi buồn, nổi-buồn-nhược-tiểu-xót-xa!!!

HUY TƯỞNG
California, những ngày tháng tha hương, 2005

Tài liệu tham khảo:
• US Marines in Vietnam, 1973-1975: The Bitter End (1990)
By Major George R. Dunham U.S. Marine Corps and Colonel David A. Quinlan U.S. Marine Corps
• America in Vietnam
By Dr. John Guilmartin, Professor of History at Ohio State University
• Vietnam: The End, 1975
eHistory.com
• Invasion of South Vietnam—The Razor’s Edge
Faculty.Winthrop.edu/haynsworthh/
• North Vietnam’s Final Offensive: Strategic Endgame Nonpareil
Merle L. Pribbenow—1999 Merle L. Pribbenow
• Vietnam: Ceasefire To Capitulation
Colonel William E. Le Gro
US Army Center of Military History
CMH Pub 90-29
1985
• Hình ảnh : Nhiếp ảnh gia N.Ngọc Hạnh, BĐQ, TQLC,81BCD

Posted by: BienHo Apr 10 2017, 10:56 AM


Sao Hôm, Sao Mai ...


Giữa tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đã xảy ra bên dòng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng tây nam. Trong hai ngày 14&15 tháng Tư 1974, Tiểu đoàn 82 /BĐQ/QLVNCH bị hai Trung đoàn 48/SĐ320 & 64/SĐ320/CSBV xa luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển người. Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong. Cuối cùng, địch đã dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm. Trưa 15 tháng Tư 1974 Cộng-Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711. Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu đoàn 82/BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ chối tản thương, họ đã đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu đoàn 82/ BĐQ trừ (-) đã trở lại trận địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ dũng mãnh. Dạ chiến là sở trường của Biệt Động Quân Plei-Me, vì thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng-Sản bám trụ đã bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ. Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận. Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên "Đồi Thịt Bằm". Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mãnh liệt như một cơn dông mùa hè.

Rồi, tình hình lắng dịu, địch và ta lại ghìm quân, chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù. Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như mình là một tiểu tướng cầm quân thời Tam-Quốc. Tôi đã phải nặn óc, vận dụng hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của mình để đương đầu với một đơn vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị mình. Tôi biết rõ Sư đoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản. Địch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư đoàn 320/ Điện-Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh. Trong thời gian này, có một mẩu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta, trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320 /Điện-Biên, đã cảnh giác các đơn vị dưới quyền, "Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với thằng Hai Nâu". Phòng 7 giải mã, cho tôi biết địch gọi TĐ82/BĐQ là "Thằng Hai Nâu".

Một ngày, giữa tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng nam núi Chư Gô thì được thông báo cái điện thứ nhì, "Thằng Hai Nâu đang hoạt động dã ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó..." điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320/CSBV ra lệnh cho Trung đoàn 48/SĐ320. Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống nhòm, tôi thấy rõ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng bắc Chư Gô rạp xuống như những luống cày. Hình như trong đêm, cả trăm người đã đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ đông bắc xuống tây nam, sát chân núi Chư-Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi. Tôi ra lệnh cho Đại úy Quách cơ Bình (k22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày hôm đó, tôi đã dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối. Quân dã ngoại của tôi ém trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới cổng nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú Bình. Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Đại úy Bình, thì từ biên giới Miên, địch đã nã khoảng hai trăm trái đại bác vào trại. Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đã bị ta phát giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nhì gốc Chợ-Lớn bị tử thương. Rồi tình hình lại yên...

Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng-Sản chiều chiều cưỡi ngựa, thám sát khu ngã ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về hướng bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đã bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt động của Trung đoàn 42/ Bộ Binh trừ (-) và Tiểu đoàn 82/ Biệt động Quân. Trung tá Nguyễn thanh Danh (k19 VB) trung đoàn phó Trung đoàn 42/ Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh. Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt-Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng bắc. Chuyện không thể nói trên vô tuyến, vì vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung tá Danh. Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đã gặp Đại tá Nguyễn hữu Thông (k16VB) trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 /SĐ22 Bộ Binh đang có mặt. Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân của Niên trưởng Thông.

Niên trưởng Thông hỏi, - Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần gì vậy em?
Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên trưởng Thông nghe tin tức địch tôi vừa nhận được, và ý đồ hành động của tôi, rồi đề nghị,
- Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về bắc, để tôi dễ bề xoay trở.
Đại tá Thông đồng ý ngay,
- Okay, Làm đi! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú...

-o-
Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày vì chú Quách cơ Bình (TĐPhó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại đội 1/82. Khi tôi đã hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về phòng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng tây bắc Plei-Me. Tôi đã dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm ăn này, những quân nhân còn lại trong đơn vị hoàn toàn không biết thày trò tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới việc tôi xuất trại.

Tôi chọn "Vùng làm ăn" trên đoạn đường xe be cách ngã ba Tỉnh lộ 6C làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên bìa rừng của đoạn đường này không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đã gài xong. Hướng nổ của hai quả mìn đánh chéo nhau thành hình chữ "W". Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn đạn chì của Claymore sẽ giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm-Vương đã gọi. Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự. Ngày thứ nhì trôi qua, vô sự. Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu...
Binh nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi,
- Thiếu tá! Có tiếng xe!
- Tao có nghe gì đâu?
Tôi quay sang hỏi chú Chi,
- Ê! Chi! Có nghe tiếng gì không?
Trung sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu,
- Dạ không. Em không nghe gì cả! ...
Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu,
- Em nghe rõ có tiếng máy xe mà ông thiếu tá! Đó! Đó! Nghe rõ chưa?
- Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm...
Rừng già xanh rì trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng tây, phía làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rõ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.

Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh,
- Chuẩn bị đánh tank! Đánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!
Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước. Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên bìa đường, dòm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng "thịt" được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép mình trong cỏ, đợi chờ...

Tiếng động cơ đã gầm gừ dưới chân dốc. "Ỉm! Ỉm!...ì...ì...ì...Ỉm!..." đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đã có dịp nghe tank địch chạy sát bên mình vài lần. Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển còn gây tiếng "két! két!" của xích sắt khi móc xích bám vào guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng "két! két!"

Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc. Vòm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Thì ra đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nhì sau lưng. Vì phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhõm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc. Chú Ba lầm bầm,

- Đồ phá thối!
Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn bắc của trại. Khoảng bốn giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc vì xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku. Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị Việt-Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua đoạn đường đèo ngã ba làng Xổm thì chiếc xe kéo bị "lột dên" không tiếp tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong Câu Lạc Bộ tiểu đoàn.

-Tôi là người quen của Trung tá Danh... bà chủ xe be khoe với tôi.
- Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng-Sản à?
- Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rõ lệnh này, nên họ bắn bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.
- À ra thế!
Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không biết gì hơn. Tôi vào máy, gọi Trung tá Danh, báo cho anh biết tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai đoàn xe của họ sẽ dắt dìu nhau về qua căn cứ 711.

--o--
Ngày kế tiếp...
Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt Miên.
"Oách! Oách! Oách!... Quàng! Quàng! Quạc! ...Ụt! Ụt! Ụt!..." đàn chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng tây, tiếng chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở.
"K'rọc! ...K'rọc! ..."
- "Hừm! ...Hừm!. ."
Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá!
Con cóc Claymore trên tay tôi đã sẵn sàng.
Tiếng "K'rọc! ...K'rọc! ..." -"Hừm! ...Hừm! ..." gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa.

"K'rọc! ...K'rọc! ..." -"Hừm! ...Hừm! ..." Trong nắng xế tà, một đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng phì phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, "Hừm!...Hừm!.." Còn tiếng "K'rọc!... K'rọc!..." đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước. Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường mòn nhập vào Tỉnh lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng. Chớm bóng chiều. Muỗi rừng "O...o...o..." sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra bò, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày vò, không dám gãi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.

Chợt rừng chiều xào xạc...
"Oách! Oách! Oách! ...Quàng! Quàng! Quạc! ...Ụt! Ụt! Ụt!..." Hướng tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng chim rộn rã, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng vó ngựa nện trên đường, "Lộp cộp!...Lộp cộp!...Lộp cộp!..." Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore.
"Lộp cộp! ...Lộp cộp! ...Lộp cộp! ..." một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc giòng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây súng lục đeo chéo qua vai.

Tôi nghiến răng, bấm cò con cóc,
"K'rạch!"
Con cóc đã kích hỏa, nhưng quả mìn không nổ!
Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ quơ lên trời.
"Hí!... Hí!... Hí!... í!.. .í!... í!..." Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí.
Một cái bóng đen bay vòng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên kia đường.
"Oành!" quả Claymore của Hạ sĩ Ba nổ! Ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá gãy. Tiếp đó, "Rẹt! Rẹt! Rẹt!..." bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất.

Con chiến mã quằn quại trên mặt đường xe be, miệng phì phì sùi bọt.
Tôi và Trung sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ sĩ Ba và bốn tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Mình ngựa bị ghim đầy vết Claymore và vết M16. Nhưng trong vòng bán kính một trăm mét, chúng tôi không tìm ra dấu tích của chủ nó. Đại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm đại Việt đang hoạt động vùng tây bắc Plei-Me được điều động hỏa tốc tiến về hướng bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.

Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối hướng bắc con đường, chúng tôi tìm được dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đã thoát thân thẳng về hướng bắc.

Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi thì phát giác ra rằng, sức điện đã làm đứt một trong hai sợi dây chì gắn vào đầu ngòi nổ, khiến dòng điện bị ngắt, trái mìn câm.
Chú Chi càm ràm,
- Chắc thằng "cội" này có bùa!...

--0--
Ít lâu sau...
Trung đoàn 42/SĐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về Bình-Định, căn cứ 711 được bàn giao cho Liên đoàn 24 BĐQ trách nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TĐ 82/BĐQ được thu hẹp lại vể hướng nam hai cây số. Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TĐ81/BĐQ. Thiếu tá Nguyễn ngọc Lân đã đặt bản doanh Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 81/BĐQ của ông ngay dưới chân ngọn núi lửa nơi ngã ba làng Xổm.

Trưa 27 tháng Bảy 1974 chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung đoàn 64/SĐ320 CSBV hướng bắc, Trung đoàn 48/SĐ320 CSBV hướng nam, đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Động Quân đang hành quân mở đường dọc Tỉnh lộ 6C. Sau hòa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập kích đã được các đơn vị Cộng-Sản thuộc Mặt Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu quả. Chiến thuật này là một sự phối hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích. Bộ binh địch khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng thì bộ binh địch đã ở kế bên ta rồi. Ta chưa kịp chấn chỉnh đội hình thì địch đã xung phong. Vì vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt-Cộng đã chặt đầu Thiếu tá Nguyễn ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TĐ81/BĐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đã bắt làm tù binh ông tiểu đoàn phó TĐ81/BĐQ là Thiếu tá Trần văn Ngọc (k18 VB).

Trong khi đó, tại mặt trận phía nam, Trung đoàn 48/SĐ320 của địch không tiến được bước nào. Suốt ngày 27 tháng Bảy 1974, ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám. Pháo địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu thì khả năng tác chiến đã giảm đi nhiều. Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người. Trước đó, pháo địch nổ dày dặc trên mặt Tỉnh lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, vì quân mở đường của TĐ82/BĐQ không trải dài trên trục lộ như thói quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào. Cách bố quân dã ngoại đặc biệt lạ lùng này của TĐ82/BĐQ đã khiến Trung đoàn 48/SĐ320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây-Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.

Những ngày sau đó, tiền đồn Plei-Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân chiến. Hết Trung đoàn 48/SĐ320 đến Trung đoàn 64/SĐ320, rồi tới Trung đoàn 26 Địa Phương/Mặt Trận B3 thay nhau phơi thây trên các lớp rào kẽm gai phòng thủ Plei-Me. Hai mươi đợt biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư Đoàn Điện-Biên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ giữa sân tiền đồn biên phòng này. Trận đánh đã kéo dài ba mươi tư ngày đêm. Sáng mùng 2 tháng Chín 1974 chiến dịch vây hãm Plei-Me chấm dứt. Thêm một lần đụng độ, "Thằng Hai Nâu" đã chứng tỏ cho địch biết rằng, ở Tây-Nguyên, Tiểu đoàn 82/ Biệt Động Quân là một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại. Trung đoàn 48/SĐ320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và tái huấn luyện.

Tới đầu năm 1975,Trung đoàn 48/Sư đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công trong chiến dịch tấn công Ban-Mê-Thuột. Lúc đó Tiểu đoàn 82/BĐQ đã chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng-Đức. Vì thế "Thằng Hai Nâu" và những đơn vị trực thuộc SĐ320/Điện-Biên CSBV không còn dịp nào chạm mặt nhau nữa...

--0--
. . . . . .
Sàigòn, ngày 7/5/1975,
Hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2, Sàigòn. Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng-Sản Bắc-Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ. Xe thứ nhì có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc-Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngõ TK9, tìm địa chỉ.

Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi,
- Phải nhà này có Vương mộng Long không?
Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi phòng khách. Tôi ở nhà một mình. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban-Mê-Thuột để tìm kiếm vợ con tôi.
- Phải! Các ông cần gì?
- Tôi muốn gặp Vương mộng Long.
Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh mình, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời,
- Tôi đây!
- À! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh khỏe không?
- Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.
Ông thượng tá Quân-Đội Bắc-Việt quan sát tôi vài giây rồi nói,
- Vất vả hai ngày nay tôi mới tìm được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui lòng tiếp tôi hay không?
- Vâng, mời ông vào nhà.

Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm tò mò bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn phòng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ. Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, chìa tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha chút âm sắc lơ lớ Thượng-Du Bắc-Việt, ông ta mở lời,
- Anh Long có nhận ra tôi không?
- Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đã gặp ông lúc nào.
- Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây-Nguyên cách đây một năm.
- À...
- Tháng Sáu năm ngoái, anh đã phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút. Thế nào, có được không?
- Ư...ư.. ông cứ tự nhiên...

Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc? Năm nào gia đình tôi vào Nam? Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi tình nguyện đi lính Ngụy hay đã bị bắt lính, động viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương?

Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của mình không có ý tầm thù. Vì thế, lòng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại.

Người sĩ quan Bắc-Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Điện-Biên-Phủ, ở Quảng-Trị, ở Tây-Nguyên.

Ông khách thao thao,
- Tớ là con quan Lang xứ Cao-Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây. Tớ phục vụ Sư đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Đánh Điện-Biên tớ làm đại đội trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập Miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy hòa bình... Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945 ông học trường Tây ở Hà-Nội. Ông sắp thi "Diplôme" thì Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể chuyện đánh thắng Điện-Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân-Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suýt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư đoàn 320/ Điện-Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường Bình-Định, một nửa xuôi Jarai. Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng tháng Tư 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suýt tí nữa ông ta đã bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đã thua tôi (TĐ82/BĐQ).

Khi kể tới trận vây đồn Plei-Me 34 ngày đêm (tháng 7&8 năm 1974) ông ta la lớn,
- Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng lì như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc! Gớm thật!

Sau câu, "Gớm thật!" ông ta vỗ đùi đánh "độp!" một cái, rồi nhìn tôi, tán dương,
- Lì thật! Tớ khen cậu đó!
Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn Ma Thuột tháng Ba 1975 và màn bôn tập Quân Đoàn 2 Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông trung tá trung đoàn trưởng CSBV đã được thăng cấp thượng tá. Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu.

Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đã ba lần, ông ta thắc mắc,
- Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, lì lợm như thế?
Tôi chỉ trả lời thật gọn,
- Vì chữ hiếu!
Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa mãn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm.

Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về. Nơi bực cửa, khách nhìn vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm,
- Tôi còn ở Sàigòn ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng, chúng ta đã đánh nhau hai lần trên Tây-Nguyên, hai lần bất phân thắng bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, vì anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng thì tôi tối, anh tối thì tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một vì sao rụng.

- Cám ơn ông.
Vào lúc người sĩ quan Cộng-Sản cất bước, tôi cố với theo,
- Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm tôi giết hụt ông. Thế là hòa. Còn trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, thì ông thua tôi rành rành. Về cái vụ Ban-Mê-Thuột, tôi công nhận, ông đã chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban-Mê-Thuột không phải là tôi.
- Anh nói đúng. Trong trận Buôn-Ma-Thuột không có "Thằng Hai Nâu". Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh...
Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng.
Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam và người khách không mời rời con hẻm.

--o--
Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm-Tân, Thuận-Hải.
Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa-Kỳ tỵ nạn.
Từ tháng giêng 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng (KQ), Lý ngọc Châu (BĐQ) vân vân, đều đã lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn. Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn thanh Danh (k19VB) và Lê văn Để (BĐQ) vẫn bặt vô âm tín. Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở Công-An Quận 1 Thành Phố Hồ Chí Minh để hỏi hồ sơ của mình thì được biết, cô Huyền, người nữ Công-An phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh-Văn kéo dài nửa năm. Một anh bạn gốc Không-Quân đã giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại-Vụ. Anh Danh và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà-Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà-Nội nộp cho Phòng Xuất Cảnh Bộ Ngoại-Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.

Hà-Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, tìm dư hương ngày cũ. Tôi đạp xe một vòng quanh Sàigòn, gặp người quen, xin viện trợ. Trung tá Bùi văn Huấn, cựu liên đoàn trưởng Liên đoàn 22/ Biệt Động Quân giúp tôi 100 nghìn đồng. Bạn tôi, (TQLC) Mai văn Tấn (k21VB) cho tôi 100 nghìn đồng. Và anh Vũ văn Ích, một người anh con dì con già của tôi cũng giúp tôi 100 nghìn đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà-Nội.

Hà Nội, một ngày tháng 8 năm 1990...

Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, dơ tay ngoắc,
- Tìm nhà trọ phải không?
- Phải...
- Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa...
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.
- Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn... tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát.
Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn,
- Bên kia đường...theo tôi...
Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn phòng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn phòng bên trái cư xá,
- Nhà tôi đây...

Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ,
- Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi...

Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm, rẻ chán! Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình chữ "U". Ba người nằm trong một căn phòng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rõ...

- Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về? ông chủ nhà gợi chuyện.
- Hải-Dương
- Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?
- Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày...
- Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì?
- Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam...
- Có thường ghé Sàigòn không?
- Chuyến nào mà chẳng ghé...
- Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàigòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?
- Vâng, đông lắm, vui lắm...vậy chứ bác đã ở Sàigòn hở? Bác làm gì trong đó?
- Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học...
- Ủa! Vậy ra bác là giáo sư...
- Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về hiu...
- Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?
- Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau...chúng nó thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm ăn...
- Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?
- Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược (thời Tây) thì xảy ra cách mạng.

Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lý thuyết Cộng-Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng Miền Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lý Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng... học sinh nghe theo răm rắp...

- Rồi sau đó...
- Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ... tớ về hiu, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm...
- Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
- Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi,
- Tìm cái gì đấy hở?...
- Phố Hàng Bài...
- Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!
Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nhìn trần nhà, miệng cười khì khì,
- Chú em đi buôn đường Sàigòn, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng...

Tôi đành nhỏ giọng, thú thật,

- Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ...

- Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần túy Hải-Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đã có đôi người của chế độ Sàigòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là may mắn lắm rồi...
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài,
- Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai...

Đêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà-Nội, Tô-Lan-Phương còn đang biểu diễn bài "Cô Gái Vót Chông". Giọng cô Ca Sĩ Nhân Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô-Lan-Phương bị chặn lại ngoài hiên.

Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu, "Anh ở đầu sông, em cuối sông..." Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.

--o--
Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất cảnh. M ột ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố phường Hà-Nội. Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ Hội-An trong Nam. Tiếng chuông xe điện "leng keng...leng keng..." làm cho thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo lòng, thịt bò khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi ...

- Chè đỗ đen đi chú em...
- Cho tôi một bát.
Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên,
- Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?
Tôi giựt mình, "Chẳng lẽ bà này quen mình, gọi đùa mình là đại tá?"
Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang,
- Bát to đấy nhá! Để lấy sức cuốc một ngày.
-Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên, Tây-Nguyên lấy sức đánh...xích lô.
Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than thở,
- Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ sừ...
- Đại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá...
- Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu... Mẹ kiếp! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần mình. Bây giờ hòa bình, nó duỗi mình ra, nó ăn cả, đồ chó má! Thấy tôi trố mắt theo dõi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích,
- Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy! Đáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu chục tuổi đầu còn phải đi đạp xích lô để kiếm sống thì quả là tội nghiệp quá!
Người phu xe già thở dài,
- Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như... một vì sao rụng.
Tôi giật mình, bốn tiếng "một vì sao rụng" hình như tôi đã nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi...

Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét gì quen không, thì bên bờ hồ có tiếng gọi,

-Xích lô! Xích lô!
Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh,
- Mai tôi giả tiền nhớ! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên...
- Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà...

Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá thì ông đã nhanh chân đẩy xe sang bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước (tháng 5/1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rõ nét mặt của người khách lạ đã tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàigòn thất thủ. Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại hình dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông thượng tá Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi vai ngang, người phu xe già... cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó, thân hình người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.

Khi chiếc xích lô lẫn trong dòng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ.

Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn hình ảnh người phu xe già, với câu than thở, "Bây giờ, thân tớ ví như...một vì sao rụng"
--0--
Đêm thứ nhì, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên này đường, trong ánh điện mờ. Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này, bố tôi đã đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi tròn bốn tuổi. Hôm ấy bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay hát, "Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em..."

Bố bịt mồm tôi lại,
- Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay... Con hãy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!

Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay.

Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không còn gặp nhau nữa. Vì hai năm sau, bố tôi đã bị giết. Những người mê say "bài hát không hay" đã giết bố tôi...

Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đã đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước mắt,

- Bố ơi! Bố ơi!... Con nhớ Bố ! Con thương Bố! Bố ơi! ...

Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sàigòn. Ông chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái-Nguyên pha tiễn khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.

Sáng mùa Thu Hà-Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Điện đường lập lòe. Quán hàng còn đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách vào ga. Còi tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng ga còn im tiếng, vì chưa tới giờ phát đi những "bài hát không hay".

Đứng trên sân ga Hàng-Cỏ, lòng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi vì sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông...

Vương mộng Long- k20VBDL

Posted by: BienHo May 8 2017, 12:55 PM


Bàn tay...


Dakto

Con đường Quốc lộ 14, từ Pleiku đi Kontum còn tương đối an ninh cho những chuyến xe đò và nhứt là xe nhà binh chạy ngược xuôi chở quân, đồ tiếp tế nhiên liệu, lương thưc cho những cánh quân, những đơn vị trú đóng vùng Kontum, Tân Cảnh, Benhet vào ban ngày vào những năm 1970-1971. Từ KonTum, nối dài cho đến Tân Cảnh, QL14 vẫn còn là đường tráng nhựa rất tốt, nhưng từ Tân Cảnh đi về hướng Căn Cứ Ben Het chỉ là con đường rải đá gồ ghề, dằng xốc.

Đơn vị của tôi nằm ngay trên con đường dằng xốc này, nhưng vì địa thế hiểm trở chật hẹp nên con đường đã xẻ đôi căn cứ ra làm hai, có nghĩa là con đường chạy ngang chính giữa căn cứ. Đây là Căn Cứ Hoả Lực Dakto.

Căn cứ Hoả Lực nằm trên đỉnh ngọn đồi thấp, phía dưới chân đồi có con suối và chiếc cầu sắt bắt ngang uốn cong hai vòng trước khi lên đến đỉnh. Đơn vị của tôi từ Qui Nhơn tăng phái lên vùng Dakto-Tân Cảnh, gồm có sáu khẩu đại bác 105 ly, yểm trợ trực tiếp cho Trung Đoàn 42 Bộ Binh thuộc Sư Đoàn 22 BB, chịu trách nhiệm lãnh thổ ở đây.

Nhưng bỗng nhiên tình hình chiến cuộc trở nên sôi động, nên mới có một Lữ Đoàn Nhảy Dù tăng viện, và đã xãy ra chuyện ”Người Ở lại Charlie“, một ngọn núi cao ngất cách xa tôi ngoài tầm đạn 105 ly. Đơn vị này hiện có pháo binh cơ hữu của Nhảy Dù yểm trợ.

Buổi chiều trên căn cứ Hoả lực Dakto, tôi đang thư thả ngắm trời mây sông núi trong không khí “không tiếng súng nổ“ trong chốc lát, thì từ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 22 đang đặt tại Tân Cảnh, trong đó có Bộ chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn kèm theo, đã ra lệnh cho tôi chuẩn bị “thế lên đường“.

Dân Pháo Binh mà nghe lệnh “Thế Lên Đường“ là phát chán vì phải dọn tất cả, nặng nhứt là chất hết đạn đại bác lên xe, trung bình chừng hai ngàn quả, khiến lính các khẩu đội vác mệt nghỉ. Trời miền núi vùng Tam Biên (ngã ba biên giới Việt Miên Lào) xuống nhanh và mau tối. Khi tôi báo cáo “Sẵn sàng“ về Bộ Tư lênh Sư Đoàn, thì đầu máy bên kia bảo “chờ“.

Trời sẫm tối không nhìn thấy gì trước mặt. Than ôi! Giờ này mà còn chờ thì biết chừng nào mới “Thế lên Đường” để đến vị trí mới, chiếm đóng vị trí, rồi tác xạ yểm trợ ngay cho các đơn vị bạn đang chạm địch? Gióng hướng súng ban đêm là nổi cực hình cho Pháo Binh vì hạn chế tối đa tiếng động nhất là ánh đèn pin.

Tôi bốc máy thúc dục “Sao cho lệnh đi chưa?“ Dĩ nhiên là không nói bạch văn mà phải dùng ám danh đàm thoại cho địch không biết. Bên đầu máy vẫn bảo chờ. Tôi sốt ruột lắm. Cuối cùng vì lý do gì không biết, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đã ra lệnh hủy bỏ, vì đã điều động đơn vị 155 ly khác đến thế chỗ tôi sắp chiếm đóng.

Thế là khỏe re, nhưng phải cho lệnh Pháo Đội xuống đạn và quân dụng ở lại tại chỗ.

Một giờ khuya đêm đó, tôi nhận lệnh yểm trợ tối đa cho căn cứ Phượng Hoàng (căn cứ mà hồi chiều lệnh cho tôi di chuyển đến), vì đơn vị đại bác 155 ly của người bạn Lâm Xuân Thảo bị tràn ngập biển người sau nhiều đợt địch pháo kích liên tục. Đơn vị của tôi đã bắn liên tục từ khuya cho tới tờ mờ sáng thì được tin Pháo đội 155 ly bị “xoá sổ“, một số lính bị bắt sống. Trung Uý Thảo chết tại chỗ nhưng không toàn thây vì trận xáp lá cà của địch.

Tôi bàng hoàng xúc động thương tiếc cho người bạn trước tôi một khoá và cũng rùng mình nghĩ rằng Thảo đã chết thế mình. Tôi không hiểu tại sao đến giờ phút sau cùng thì thay đổi lệnh không cho tôi thay thế, mà là một đơn vị 155 ly, đến đó để yểm trợ cho căn cứ 5 và 6 đang bị áp lực địch vây.

Thảo chết không toàn thây nhưng vẫn lấy được xác. Được tin anh ra đi, tôi nghẹn cứng cổ họng, thương cho người bạn cùng đi học một khoá Đại Đội Phó Chiến Tranh Chính Trị ngày nào. Chúng tôi, cùng ở trong Pháo Binh Sư Đoàn và cùng cấp bậc, được tham dự khoá học này, nên chúng tôi rất thân nhau.

Ngày mãn khóa, Trường Chiến Tranh Chính Trị tổ chức buổi lể Sinh Nhật Tập Thể vừa dùng để mãn khóa vừa để cho các khoá sinh biết cách thực hành khi trở về đơn vị của mình.

Khi buổi lễ chấn dứt, Thảo đã nghịch phá, cắm nhiều đèn cầy xung quanh chiếc giường của tôi, rồi rải nhiều hoa tươi, và cắm một bình hoa thật to trên đầu giường. Hắn đã cắm một tấm bảng viết vội “Cố Đại Uý Nguyễn Trãi“ ngay chính giữa. Ngoài ra, hắn để xắc đựng quân trang dài tròn to bằng thân tôi và chiếc nón sắt của tôi trên đầu. Tất cả được phủ bằng poncho nên trong giống y chang một thây người chết nằm đó.

Sau khi thắp sáng tất cả đền cầy, hắn chạy ra hành lang gọi tôi vào phòng. Khi nhìn thấy một thây người trùm kín, ghi tên tôi, với ánh đèn cầy tỏ sáng và hoa tươi, tôi lạnh toát cả người. Tôi liên tưởng tới chuyện không may, như báo trước một điềm xấu sẽ xảy ra cho tôi trong những ngày kế tiếp, khi trở lại mặt trận.

Tôi giận lắm, tôi biết ngay là thằng Thảo nó làm trò chơi thật quá đáng này. Tôi vừa hét vừa đá mạnh làm tung toé hết hoa và đèn cầy. Sau đó, tôi đạp văng chiếc nón sắt cùng túi đựng quân trang rơi xuống giường, rồi hầm hầm bỏ ra ngoài.

Hành động giận dữ của tôi tưởng đủ để cho nó hiểu rằng tôi ghê sợ không thích trò chơi này, ngỏ hầu nó ân hận việc làm của mình.

Khi nguôi giận, tôi trở lại phòng thì lại thấy trò chơi cũ được lập lại. Tôi lại đá và hất tung chiếc giường, trong tiếng cười cuả những người cùng khoá đang chứng kiến. Thực tình tôi rất sợ hình ảnh này vì linh tính báo cho tôi biết sẽ có điều không may xảy ra cho tôi khi trở về đơn vị.

Giờ đây tin Thảo đã vĩnh viễn ra đi làm tôi xúc động mạnh. Chuyện này đáng lẽ ứng vào tôi. Sao Thảo lại chết thế tôi?? Hay đây là một điềm gỡ đã ứng nghiệm của một trò chơi “dại dột” trong trường Chiến Tranh Chính Trị?

Một năm sau, cũng tại Căn Cứ Hoả Lực Dakto, năm 1972, “Mùa Hè Đỏ Lửa”, trong đêm CSBV ào ạt tấn công Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 BB trong đó có Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn, và Bộ Tư Lệnh Tiền Phương. Pháo đội 105 ly của tôi đã bắn liên tục từ 10 giờ đêm đến rạng sáng hôm sau. Vì khoảng cách gần mút tầm nên tôi cho xử dụng thuốc nạp 7, là thuốc nạp hết cỡ. Vì vậy, nòng súng giật lùi rất mạnh làm cho càng súng một khẩu đã bị gãy. Theo dõi trên hệ thống vô tuyến, tôi biết giờ nào các ông xếp của mình rời hầm chỉ huy, giờ nào mất liên lạc, và giờ nào địch quân tràn ngập căn cứ, qua giọng nói vang lên trong máy của những sĩ quan “Đề Lô”.

Tôi mất liên lạc với cấp chỉ huy trực tiếp, nên quay sang yểm trợ cho một cánh quân Nhảy Dù thuộc Lữ Đoàn 2, gần Tân Cảnh. Viên sĩ quan”Đề Lô” của Nhảy Dù gọi tôi xin yểm trợ. Khi tôi kiểm soát vị trí mục tiêu, và điểm đứng (toạ độ điểm đứng của sĩ quan này) thì thấy khoảng cách rất gần. Sau khi điều chỉnh nhiều lần để bắn “hiệu quả”, mục tiêu chỉ còn cách đơn vị bạn dưới 50 mét. (Khoảng cách không an toàn và không cho phép tác xạ vì quá gần quân bạn.)

Tôi đích thân gặp người Sĩ Quan Đề lô và nói,

-“Không thể bắn cho anh được vì quá gần quân bạn.“

Người SQ “đề lô” ấy trả lời, rất dõng dạc,

-“Anh cứ bắn đi. Bắn cho đến khi nào không còn nghe tiếng của tôi nữa thì coi như tôi đã chết.“

Câu nói rất anh hùng và khí tiết của một Sĩ Quan Pháo Binh hy sinh thân mình để cứu đơn vị đã làm tôi sững người, bất động. Tôi nghẹn lời vài giây vì xúc động. Tôi không có sự chọn lựa nào hơn khi nghĩ đến những loạt đạn “Bắn Hiệu Quả“ sẽ cứu được đại đơn vị cuả bạn. Tôi cũng đang cầu xin an toàn cho viên sĩ quan “Đề Lô”.

Sau đó, tôi gọi danh xưng của người này nhiều lần và không thấy tăm hơi gì hết. Tôi lặng người đi và nghĩ rằng anh ta đã chết.

o O o

Lúc bấy giờ tôi mất liên lạc hoàn toàn với các cấp chỉ huy của tôi từ phía Trung Đoàn 42 và Pháo Binh Sư Đoàn. Tôi biết tất cả Bộ Tư Lệnh đã di tản ra ngoài và đang ở đâu đó. Từ giờ phút này tôi thực sự cảm thấy bơ vơ, giống như “rắn mất đầu“. Tôi không biết phải làm gì ngoài việc tự phòng thủ căn cứ.

Từ trên một ngọn đồi của căn cứ Dakto nhìn về hướng Tân Cảnh, tôi thấy hai chiếc phản lực đang nhào xuống, ngóc đầu lên liên tục, và rồi một cột khói mịt mù bám theo một chiếc. Chắc là bị dính hoả tiển SA7 của địch?


Căn cứ Tân Cảnh

Khi Bộ Tư Lênh đã bị tràn ngập thì cũng là lúc bọn VC quay mũi dùi sang căn cứ của tôi bằng đại bác 130 ly. Tôi nghe tiếng depart rất rõ và xác định được hướng bắn từ đâu. Nhưng nó cách tôi 18 cây số lận, còn súng của tôi có phản pháo cũng chỉ gãi ngứa vì chỉ có 11 cây số 100 mét. Thế là cứ chịu trận ăn pháo địch mà không có một phản ứng nào.

Tất cả hấm hố, đài tác xạ, hầm đạn đều trúng đạn của địch tan nát. Hệ thống truyến tin bị sập đổ, gãy cần ăng ten không còn liên lạc với ai được. Hầm chỉ huy của Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn Cứ Pháo Binh cho tôi cũng bị pháo sập. Ông Tiểu Đoàn Trưởng đã bị thương.

Tôi chưa biết xoay sở ra sao trong tình cảnh này, trong khi bộ binh địch chưa tiến tới gần căn cứ của tôi. Tất cả lính của pháo đội đều trú ẩn dưới hố cá nhân mà chiều cao bằng với mỗi con người trừ cái đầu nhô lên để chiến đấu cá nhân. Đơn vị Pháo Binh của tôi ai cũng được trang bị thêm một khẩu M72, trong lúc này rất cần thiết để chống xe tăng địch; trên miệng hố cá nhân mỗi người đều có một khẩu M16 và một khẩu M72, chờ chiến xa địch tiến đến.

Sư Đoàn Bắc Việt, nhất là đơn vị pháo binh địch đang có một “đề lô” áp sát đơn vị tôi. Bọn này cũng tiết kiệm đạn ra phết, chỉ tác xạ khi nào có người đi trên mặt đất sau khi san bằng căn cứ. Căn cứ vào nhiều đợt pháo kích bằng 130 ly; tôi đoán là “đề lô” của địch rất gần, gần sát nên chúng pháo kích chính xác lắm. Cũng đã xế chiều , người nào cũng mệt mỏi và đói. Khi đạn130 ly không còn nổ trên căn cứ, tôi leo lên khỏi miệng hố đi kiếm soát một vòng xung quanh các hố cá nhân. Tôi gọi lớn Ban Hoả Đầu Vụ đem lương khô cho tôi và cho lính còn đang dưới hố cá nhân. Binh Nhứt Nguyễn Văn An, dáng người lùn, mập không lanh lợi, tay cầm gói gạo sấy đã đổ nước chạy đến miệng tro cho tôi. Lúc này tôi đã đi đến chổ khác. Bọn “đề lô” Việt Công ma mãnh không kém, vừa thấy có người trên mặt căn cứ là gọi pháo tiếp. Một tiếng nổ đạn depart từ một khu núi quen thuộc từ sáng tới giờ phát ra, nên chúng tôi biết ngay là sẽ ăn đạn pháo 130 ly kế tiếp. Không ai bảo ai, Binh Nhứt An tự động nhảy xuống cái hố trống của tôi, còn tôi thì nhảy vào hố khác cách đó chừng 100 mét (hố bỏ trống).

Loạt pháo này chỉ chừng trên dưới một chục quả rồi ngưng. Tôi chạy thục mạng về hố của mình, thì hỡi ôi, phía dưới hố chỉ còn lại đôi giày trận của An. Hình hài An nát bấy nhừ y như bầm tiết canh vịt, vì một quả đạn 130 ly rơi đúng xuống hố mà An đang núp. An đã chết thế cho tôi trong giây phút này. Làm sao tin được, một viên đạn bay theo chiều hình cong parabol từ trên cao có thể rớt trúng phóc vô miệng một cái hố cá nhân chỉ vừa vặn đúng cho một thân con người. Viên đạn rớt đúng ngay lúc tôi đã rời chỗ khác, và An đã chết thay thế tôi. Sát miệng hố có chiếc xe GMC 10 bánh đậu từ lâu dùng để phát điện cho hệ thống truyền tin đánh “morse“. Chiếc xe đã hư nát lủng nhiều lỗ đạn và xẹp bánh từ những đợt pháo kích trước, giờ đây thịt da nhão nhoẹt nát bấy và nhỏ như thịt bầm của An một phần được bắn lên và đang bám trên thành cửa xe.

Tôi lặng người đi và tưởng như trong mơ, tôi thực sự xúc động trước cái chết của người lính thuộc cấp chết thế cho mình. Cái số của tôi chưa tới??? Điều gì đã khiến cho tôi rời cái hố? Một sự tình cờ xảy ra hay có sự “sắp xếp của bàn tay vô hình nào đó??”

Một cách tránh pháo kích địch hiệu quả nhứt không gì bằng ẩn người trong hố cá nhân. Đạn rớt trước mặt hay sau lưng hố không bao giờ gây thiệt mạng. Chưa bao giờ tôi gặp một trường hợp đạn pháo kích rớt chính xác xuống miệng hố. Điều gì đã khiến tôi rời khỏi cái hố cá nhân của riêng tôi? Tim tôi đập mạnh hơn. Tôi lặng người và TIẾC THƯƠNG CHO AN. Người đi trong cuộc chiến thường hay tin tưởng vào SỐ MẠNG, hay là TRỜI KÊU AI NGƯỜI ẤY DẠ, hoặc ĐẠN TRÁNH MÌNH CHỨ MÌNH KHÔNG THỂ TRÁNH ĐẠN.

Tâm tư tôi bị giao động mạnh khi nhìn xuống hố, tôi không có thể nhận ra một thứ gì cái còn lại là của một con người, vì nó nát bấy như băm nhỏ. Một viên đạn đại bác 130 ly làm sao có thể rớt ngay phóc vô một cái hố đường kính chỉ chừng năm mươi centimet. Nếu như lúc đạn đang bay trong không trung, tốc độ gió mạnh hơn, hay gió đổi chiều chỉ một chút cũng làm viên đạn lệch đi; hay người xạ thủ địch quân giật cò chậm hơn 1/50 giây cũng sẽ làm viên đạn lệch qua chỗ khác vì sự quay của trái đất sẽ đổi chỗ viên đạn rơi.

Nhiều yếu tố để khiến một viên đại bác rơi trúng đích, nhưng có điều gì đã khiên tôi bồn chồn đói bụng mà phải rời hố, để rồi một binh sĩ thuộc cấp chết thế mình. Tôi nhắm mắt lại và lặng người không dám nhìn vào đáy hố, chỉ còn rõ nhất là đôi giày trận của Binh Nhứt An.

Trong nổi hụt hẫng kèm theo lo âu, chưa biết phải làm gì thì Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn Cứ chuyển cho tôi một cái lệnh. Hệ thống truyền tin gần và xa của đơn vị tôi coi như hoàn toàn tê liệt; chỉ còn duy nhứt đơn vị bảo vệ căn cứ của tôi là chỗ dựa trong lúc này.

Lệnh của Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn, cho tôi “triệt thoái khỏi căn cứ đi về trại BENHET ngay bây giờ”. Thì ra vẫn còn có người nghĩ đến tôi. Thực ra họ nghĩ đến 6 khẩu đại bác thì đúng hơn. Tôi không liên lạc trực tiếp với Quân Đoàn, mà chỉ thi hành lệnh qua trung gian là Biệt Động Quân Quân Khu 2. Đơn vị Pháo Binh của tôi mất tiêu hết đâu rồi, đâu còn xếp lớn xếp nhỏ gì để liên lạc.

Tôi trở lại Pháo đội và ra lệnh “cấp tốc di tản khỏi nơi này.“ Khi đề lô địch thấy lố nhố người xuất hiện chạy đi chạy lại trên mặt đất thì họ bắt đầu khai hỏa trở lại, làm cho công việc chuẩn bị trở nên phức tạp hơn. Chỉ móc được 5 khẩu đại bác vào những chiếc GMC nào còn chạy được dù là bể bánh xe, hay bể kết nước. Tôi phải bỏ lại một khẩu vì không còn kịp. Nếu cố gắng kéo cho được 6 khẩu và đầy đủ phụ tùng thì tôi e sẽ có quân nhân trúng đạn pháo kích. Do đó, tôi quyết định tự tay tôi rút khối kích hoả của khẩu bỏ lại và ném ra xa, giấu đi, làm vô hiệu không cho địch quân xử dụng khẩu đại bác này khi họ tràn ngập.

Tôi cất chiếc nón sắt ra khỏi đầu và cúi xuống hố, nơi có xác bầy nhầy bị băm nhỏ, như chào vĩnh biệt Binh Nhứt Nguyễn Văn An. Đạn pháo kích địch vẫn tiếp tục rơi. Tôi chạy thiệt nhanh lại đoàn xe đang chờ và phóng hết ga về hướng căn cứ BENHET, căn cứ đầu não của Biệt Động Quân Biên Phòng của vùng rừng núi Tam Biên. Đi về hướng BENHET tức là không về hướng đồng bằng mà càng tiến gần với ngả ba biên giới Việt Miên Lào.

Khi đến BENHET, tôi gặp người Trung Tá Biệt Động Quân, căn cứ trưởng. Ông ta bảo tự bố trí phòng thủ tạm và chờ sẽ có lệnh sau.. . Khi mặt trời khuất sau rặng núi, tôi quyết định dùng một chiếc GMC và lựa một toán lính gan dạ, lanh lẹ cùng tôi chạy trở lại căn cứ Dakto để lấy khẩu đại bác bị bỏ lại. Vì tôi là người dấu khối kích hỏa, biết chỗ nên tôi phải đi. Vả lại, có tôi cùng đi, binh sĩ sẽ lên tinh thần.

Địch quân không ngờ rằng có người trở lại nên không phản ứng kịp và chúng tôi đã hoàn thành công tác lấy được khẩu đại bác trở về. Ở đây pháo đội không gióng hướng súng để tác xạ yểm trợ nữa, mà chỉ bắn trực xạ phòng thủ vị trí, vì đêm nào cũng nghe tiếng xích của xe tăng địch gầm rú xung quanh. Cả pháo đội thức bét con mắt để trông chừng mà trực xạ. Tới ngày thứ tư mới có trực thăng câu đại bác và toàn bộ pháo đội tôi từ Benhet về Kon Tum.

Không phải Quân Đoàn thương tiếc đơn vị tôi mà cho trực thăng hai cánh quạt đến bốc, mà vì cả Sư Đoàn vừa bị tan hàng không còn một khẩu đại bác nào để tử thủ KonTum. Khi trực thăng đáp xuống là lúc đạn pháo kích bắt đầu rơi tới tấp. Trực thăng không thể chờ nên cũng liều mạng móc súng, đạn 105 ly, và dụng cụ. Coi như chơi trò ú tim hên xui may rủi, nếu lỡ trúng đạn thì đành chịu. Mỗi lần chỉ đáp được một trực thăng vì xuống một lúc dễ trúng đạn pháo kích. Sau 10 chuyến thì chuyển xong hết đơn vị. Chỉ khi nào trực thăng lên đến độ cao an toàn thì tôi mới biết mình thoát nạn.

Thời điểm này là lúc Cộng Quân Bắc Việt đang vây. KonTum chỉ còn có cái lõm. Trực thăng vừa đáp xuống thành Dapla là nhận dàn chào đạn của VC ngay. Bọn nó ở đây sẵn và pháo kích liên tục. Cái số của tôi may mắn nên không làm sao cả.

Những ngày gian khổ và nhiều nguy hiểm tại KonTum cũng qua đi khi có các đợn vị Pháo Binh của Sư Đoàn 23 đến được. Nhưng họ không thể mang theo đại bác vì trực thăng không thể câu súng qua đèo ChuPao. Không biết do ông lớn nào thương nghĩ tới, đã truyền lệnh cho tôi từ Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn 23, ra lệnh tôi bàn giao tất cả súng đại bác lại cho nhân viên Pháo Binh Sư Đoàn 23 để chuẩn “trực thăng vận” về Pleiku nhận súng ở đó và tái phối trí. (Tôi là dân Pháo Binh Sư Đoàn 22)

Gia đình tôi từ quê cha sanh mẹ đẻ cho tới quê vợ không biết tin tức tôi ra sao trong hai tháng. Ba tôi chạy ngược chạy xuôi hết đi coi bói ông thầy này tới bà nọ để mong tin con. Cả một sư đoàn 22 và cả một Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn của tôi tan nát, còn ai theo dõi số phận của tôi. Do đó, làm sao từ Nha Trang và Sài Gòn biết được.

Khi về đến Pleiku, đơn vị đã ổn định, tôi được đi phép đặc biệt về thăm nhà. Tất cả “gia tài“ quân ngũ của tôi để lại tại căn cứ Đệ Đức. Khi Bồng Sơn bị tràn ngập, căn cứ mất, tôi cũng mất hết tất cả. Nơi này có hai ông Tiểu Đoàn Trưởng và Tiểu Đoàn Phó tiểu đoàn của tôi cũng mất tích và chết sau đó. Tôi không còn đồ đạc gì nên cứ mặc quần áo trận lên xe đò về Nha Trang.

Vừa ngồi lên xe đò nhỏ từ Qui Nhơn đi Nha Trang, một cô ngồi sát bên bảo,

- “Anh mặc đồ này khi vô tới Hảo Sơn, Vũng Rô, tụi nó chận và bắt anh đó.“ Cô nói tiếp, “Để em đưa cái áo này cho anh mặc đỡ.“

Tôi nghĩ bụng, “Về tới đây còn gặp rắc rối.“ Thế là tôi cũng phải nghe lời cô ấy.

Tôi nhớ đến chuyện Binh Nhứt An đã thế chỗ tôi trong hố cá nhân, để rồi thịt xương bị nổ tung và bằm như tiết canh. Tôi thở ra và nghĩ không ngờ vẫn còn thế giới vô hình đâu đây. Tôi không biết phải làm gì với em gái tôi để gọi rằng đền ơn cứu mạng.(Tôi tin là người em gái của tôi, đã chết khi vừa tròn 3 tháng tuổi, đã luôn phù hộ cho tôi.) Kể từ đó tôi rất tin tưởng CON NGƯỜI TA CHẾT ĐI VẪN CÒN LINH HỒN, cũng như tôi tin CON NGƯỜI TA SỐNG CHẾT ĐỀU CÓ SỐ.

Đến năm 1975, vùng Dakto-Tân Cảnh-Ben Hét coi như mất luôn vào tay địch. Ta chỉ còn giữ được KonTum. 1972, Sư Đoàn 22 Bộ Binh cùng với một Liên Đoàn Biệt Động Quân ồ ạt tái chiếm ba Quận Bắc Bình Định là Hoài Ân, Bồng Sơn, Tam Quan. Có lúc quân ta dàn cả 52 khẩu đại bác trong rừng dừa Vạn An để bắn TOT (Time On Target) vào vùng đất địch. Chỉ trong hai giờ tác xạ không ngưng nghỉ, các đồi núi trơ xương chỉ còn đất với đá mà không có cây cối nữa.

Pháo đội của tôi chiếm đóng đồi Vạn An. Cứ sáng sáng năm giờ là pháo binh địch bắn vào căn cứ của tôi. Mà hễ bị pháo kích là chúng tôi bắt buộc phải phản pháo. Tôi chạy ra khẩu đội ra lệnh thì lính mới dám ngóc đầu lên vì địch bắn rát quá. Tôi đứng ngay giữa hai càng súng ra lệnh nạp đạn trực xạ vì súng địch chỉ cách chừng 1000 mét. Một quả đạn súng cối 82 ly của địch rớt làm rách áo giáp và xẻ nát thịt bắp đùi người xạ thủ nạp đạn rồi rớt xuống trước mặt tôi mà không nổ. Người lính ngã xuống. May mắn, nếu quả đạn ấy nổ thì tôi cũng banh xác rồi.

Vào đầu tháng 3 năm 1975, khi Cộng quân đã chiếm Ban mê Thuột, sau đó cắt đứt quốc lộ 19 từ Pleiku xuống Qui Nhơn, thì pháo đội tôi đóng tại chân đèo Mang Giang gần Lăng Mai Xuân Thưởng. Chúng pháo kích suốt ngày đêm để khống chế đơn vị tôi không cho yểm trợ Trung Đoàn Bộ Binh. Những chuyến xe tiếp tế, có khi lên tới 20 chiếc, dồn dập chở đạn 105 ly tới mỗi ngày. Một lần khi tôi leo lên chiếc GMC đứng trên 200 thùng đạn đại bác để kiểm soát số đạn chở đến bị sai thì những quả 82 ly của địch rót đến tới tấp. Có một quả rơi ngay dưới chân tôi và nằm trên những thùng gỗ đạn 105 mà không nổ. Thật là huyền diệu, và may mắn.

Những ngày cuối cùng của Phù Cát Bình Định, tôi bị một quả B40 bắn trúng chiếc xe của tôi trước khi qua cầu. Xe trúng đạn lật làm năm người trong xe bị thương, trong đó tôi, với sáu mảnh đạn B40. (Giờ đây sau 38 năm nó vẫn còn trong cánh tay). Sau chừng 30 phút, một người lính bò lên băng bó vết thương cho tôi thì bị một viên AK, khiến anh ta ngã xuống chết ngay.

Phản ứng tự nhiên của tôi là ngóc đầu lên xem từ hướng nào bắn. Tôi liền bị ba viên AK khác bắn từ sau ót xuyên ra phía trước mặt. Cả ba viên đạn đi vô khác nhau, nhưng chỉ có một lỗ nơi ba viên đạn đi ra nên nó phá cái mặt tôi khá lớn. Đây là một điều thần diệu, chỉ cần ba viên đạn ấy nhích ra một chút xiú thì sẽ chạm tới óc và chắc chắn tôi đã chết ngay. Tôi cũng tin rằng đứa em gái tôi đã cứu tôi trong giờ phút đó.

Những người lính và sĩ quan đơn vị khiêng tôi trên đoạn đường dài từ cầu Cương vào phi trường Phù Cát. Khi vào bên trong, phi hành đoàn của chiếc trực thăng HU-1B bằng lòng cho tôi đi trong khi phi trường đang khói lửa ngập trời. Ông Trung Uý Pháo Đội Phó của tôi cùng người Trung Sĩ Khẩu Trưởng khiêng tôi bỏ lên trực thăng đã có sẵn 34 người lính bộ binh trên ấy. Chiếc trực thăng cất cánh chừng 10 mét thì rớt xuống và chặt đứt đôi người Trung Uý pháo đội phó và Trung Sĩ Khẩu Trưởng, vì khi khiêng tôi bỏ lên trực thăng thì họ vẫn còn đứng dưới đất. Cánh quạt trực thặng lúc rớt xuống đã chém đứt đôi hai người. Phần trên từ ngực của họ đã bay mất, không thể tìm thấy.

Sáng hôm sau tôi bị bắt làm tù binh, nhưng họ thấy tôi bị thương nặng quá nên bỏ tôi nằm tại chỗ trong phi trường.

Trong trại tù Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt, một ngày chúa nhật nghỉ lao động, có người bạn tù lớn tuổi, cầm tay tôi coi chỉ tay và nói chắc như đinh đóng cột, “Mạng của anh rất lớn, nhiều lần sắp chết mà không chết, vì có một vong linh của kẻ khuất mặt che chở, Nó hiện lên rành rành đây nè.“ Tôi không tin điều ấy là có thực, nhưng qua những sự kiện xảy ra, khiến tôi thoát được hiểm nguy như vậy, làm tôi phải tin rằng điều ấy có thực.

Anh em bạn tù tối đến, vừa đói, vừa buồn, đau khổ không biết ngày nào trở về nhà, nên thường hay tổ chức kể chuyện cho quên hết đói và ưu phiền. Họ thấy tôi có những vết đạn còn mang trong người, nên hỏi thăm và bảo tôi kể chuyện “Những ngày cuối cùng cuộc chiến của tôi.“ Tôi đã kể lại tỉ mỉ câu chuyện bị thương, rớt máy bay. và những ngày gian nan sau đó. Sáng hôm sau Bộ Chỉ Huy Trại Tù cho người gọi tôi lên “làm việc“. Họ khủng bố tinh thần tôi từ 8 giờ sang đến 5 giờ chiều với kết luận, “còn hàm ơn luyến tiếc chế độ cũ.“

Từ ngày ra khỏi tù về với gia đình, tôi luôn tự tin rằng số tôi không chết sớm được, và có lẽ “Chỉ có Trời hại mới chết, người hại không chết.” Đây là những điều có thật tôi viết lại nhằm nói lên rằng, “Có thế giới vô hình, và Con Người Ta chết có số.“

Nguyễn Trãi

Posted by: caoduy Jun 5 2017, 08:32 AM


Cao Nguyên: Sương mù hay khói súng


Ngày 15 tháng giêng năm 1972, tại bãi đáp trực thăng Ba Gi cách thị xã Qui Nhơn 12 cây số về hướng Tây Bắc, Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II, Trung Tướng Ngô Dzu trả lời cuộc phỏng vấn của báo chí trong và ngoài nước một cách khẳng định là Cộng quân sẽ đánh lớn tại Quân Khu II. Tướng Ngô Dzu cũng cho biết, hiện nay Trung Đoàn 21 thuộc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của Bắc Việt đang thiết lập các căn cứ trong vùng thung lũng An Lão, nằm về phía Bắc của Qui Nhơn. Và cũng theo tin tình báo mới đây thì Bộ Chỉ Huy Quân Khu 5 của Cộng quân được ghi nhận đã xuất hiện trong quận Hoài An, tỉnh Bình Định, làm cho tình hình của vùng này trở nên nghiêm trọng.

Trung Tướng Ngô Dzu còn cho biết thêm, quân số của Cộng quân xâm nhập vào Quân Khu II đã lên đến 60 ngàn người, ông cũng tiên đoán chừng một tháng nữa, địch quân sẽ di chuyển các cơ sở đến vùng Tam Biên, sẽ dùng chiến thuật "công đồn đả viện" để đánh Cao Nguyên và biến Kontum thành một Điện Biên Phủ. Một cố vấn dân sự cao cấp Mỹ của Quân Khu II, ông John Paul Vann tin rằng Cộng quân sẵn sàng hy sinh 10 ngàn quân để chiếm cho được vùng Cao Nguyên. Cuộc chiến sẽ trải rộng từ thành phố Kontum đến Pleiku và Bình Định. Ông cũng tiên đoán là chiến xa của Cộng quân sẽ tấn công vào Benhet và Tân Cảnh đầu tiên.

Cùng lúc với Tướng Trần Nam Trung của Bắc Việt đọc nhật lệnh kêu gọi Cộng quân đánh lớn, đánh mạnh khắp nơi, thì báo Washington Star của Mỹ, số ra ngày 10 tháng 4 năm 1972 loan tin sư đoàn cuối cùng của Bắc Việt đã lên đường tiến vào miền Nam để tăng cường cho 120 ngàn Cộng quân đang rải dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Những tin tức chiến sự như vậy là một hứa hẹn những tháng ngày đầy máu và nước mắt cho cuộc sống đang yên vui bình lặng của người dân miền Nam.

Rồi những gì mọi người chờ đợi cũng sẽ đến. Mùa xuân đến và mùa xuân đã qua. Khi những tia nắng của một sớm mai hè vừa đủ ấm để ửng hồng đôi má của người con gái Cao Nguyên thì tiếng súng bắt đầu nổ. Theo tài liệu bắt được trong mình của một Chuẩn Úy Việt Cộng tên Khổng Thanh Hiền thì lệnh tấn công tại mặt trận Tam Biên được ấn định vào ngày 13 tháng 3 năm 1972. Đó cũng là ngày mà lực lượng Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đụng độ ác liệt với các đơn vị của Sư Đoàn Thép 320 Cộng quân chung quanh Căn Cứ Hỏa Lực 5. Sư Đoàn Thép là sư đoàn đã từng chiến thắng tại Điện Biên Phủ trước đây và hiện là một trong những đơn vị nòng cốt của Bắc Việt. Lần ra quân này, chỉ sau 3 ngày đụng trận với một vài đơn vị của Lữ Đoàn 2 Dù, Sư Đoàn Thép đã phải để lại nhiều tổn thất. Một trong những xác Cộng quân bỏ lại chiến trường, có xác của Chuẩn Úy Khổng Thanh Hiền thuộc Tiểu Đoàn Phòng Không của Trung Đoàn 64, Sư Đoàn 320. Những tài liệu tịch thu được trên mình của sĩ quan này là do Tướng Phạm Ngọc Mậu ký ngày 20 tháng 10 năm 1971. Các nguồn tin tình báo của Quân Khu II cho rằng Tướng Phạm Ngọc Mậu đã thay thế Tướng Hoàng Minh Thảo, chỉ huy mặt trận Cao Nguyên Trung Phần mà Hà Nội gọi là Mặt Trận B3.

Đúng như sự dự đoán của những giới chức thẩm quyền của Quân Khu II, Tân Cảnh là nơi đầu tiên mà chiến trận bùng nổ. Cuộc chiến diễn ra khốc liệt không thua gì cuộc chiến tại vùng Trị Thiên, chỉ khác nhau về mặt địa thế: một bên là đồng bằng, một bên là rừng núi, và điều này ảnh hưởng phần nào đến sự yểm trợ của chiến xa và không lực.

Vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 23 tháng 4 năm 1972, Công Trường 2 Cộng quân được yểm trợ bởi nhiều chiến xa T-54 đã ào ạt tấn công vào căn cứ hỏa lực Tân Cảnh, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh do Đại Tá Lê Đức Đạt làm tư lệnh, và đây cũng là bản doanh của Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Thông làm Trung Đoàn Trưởng. Thoạt tiên Cộng quân dội xuống Tân Cảnh cả ngàn quả đạn đại bác 82 ly và hỏa tiễn 122 lỵ Trận mưa pháo kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ.

Lúc 22 giờ 30 phút cùng ngày, Trung Tâm Hành Quân của căn cứ Tân Cảnh bị hư hại hoàn toàn vì một hỏa tiễn điều khiển chống chiến xa của Cộng quân chui ngay vào cửa hầm. Hầu hết những người trong Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và trong Ban Chỉ Huy của Trung Tá Thông đều bị thương. Chỉ có Đại Tá Đạt và Trung Tá Thông là thoát nạn vì đã rời hầm chỉ huy trước đó để đi đôn đốc binh sĩ của mình. Trung Tâm Hành Quân phải dời qua một hầm kế bên.

Đến 23 giờ, cánh quân tiền phương của Cộng quân được phát hiện cách quận Dakto chừng một cây số về hướng Tây với sự yểm trợ của 3 xe tăng T-54. Lập tức phi cơ AC-130 cất cánh từ phi trường Nha Trang bay đến oanh kích và bắn cháy ngay 3 chiến xa này khi còn cách Dakto chừng 500 mét, nhưng không ngăn được bước tiến của toán tiền phương địch. Đúng nửa đêm, Cộng quân ào ạt tấn công tiền đồn Tân Cảnh.

Sau khi đạo quân tiền phương với quân số chừng một trung đoàn tấn công vào Tân Cảnh, một trung đoàn Cộng quân thứ hai xuất hiện cách Tân Cảnh 3 cây số về hướng Tây Bắc, kéo ra Quốc Lộ 14 và cắt đoạn đường Dakto-Tân Cảnh ra làm bốn đoạn, khiến cho sự liên lạc giữa hai nơi chỉ còn qua máy vô tuyến mà thôị

Ngay sau khi phát giác sự xuất hiện của cánh quân thứ hai này, mặc dầu thời tiết được loan báo là xấu, các toán A-1 Skyraider thuộc Phi Đoàn 530 của Không Đoàn 72 Chiến Thuật và các khu trục A-37 của Không Đoàn 62 Chiến Thuật biệt phái cho Pleiku đã nhất loạt cất cánh từ phi trường Cù Hanh để bay lên oanh kích cánh quân này.

Khoảng 2 giờ 30 sáng, vừa pháo kích vừa xung phong, hai trung đoàn Cộng quân cố gắng tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, nhưng gặp phải sự kháng cự quá ư mãnh liệt của các chiến sĩ Trung Đoàn 42, nên trận chiến kéo dài cho đến lúc trời sáng, Tân Cảnh vẫn còn đứng vững. Trời vừa sáng thì thời tiết trở thành bất lợi cho những người đang tử thủ trong Tân Cảnh. Sương mù xuống thấp làm cho Không Quân bị bó tay, không thể yểm trợ được.

Vào lúc 7 giờ sáng ngày 24 tháng 3, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II hoàn toàn mất liên lạc vô tuyến với căn cứ hỏa lực Tân Cảnh. Cả Bộ Tham Mưu của Tướng Ngô Dzu như ngồi trên lửa. Không ai dám mở lời tiên đoán số phận của Tân Cảnh như thế nào. Đích thân Tướng Dzu gọi cho các đơn vị yểm trợ như Không Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh... để hỏi, không ai biết số phận của Tân Cảnh bây giờ ra sao.

Cho đến 10 giờ sáng, một sĩ quan Truyền Tin la lên, "Liên lạc được rồi." Tướng Dzu chụp lấy máy hỏi dồn. Đại Tá Đạt báo cáo đã đẩy lui được địch quân. Mọi người trong Trung Tâm Hành Quân đều thở phào và nét mặt người nào cũng lộ vẻ phấn khởi. Cũng vào lúc này, thời tiết đã trở nên quang đãng hơn, các phi cơ chiến đấu của Không Đoàn 72 Chiến Thuật bắt đầu cất cánh và mấy chiếc trực thăng tiếp tế đạn dược đã lọt được màn lưới lửa phòng không của địch, đáp an toàn xuống căn cứ Tân Cảnh.

Mặc dù vẫn còn đứng vững trước đợt tấn công thứ nhất, nhưng với sự tăng cường thêm một sư đoàn thứ hai của địch quân từ căn cứ hậu cần 609 nằm bên kia biên giới (ở bên Lào) tiến qua, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã cho căn cứ Tân Cảnh và một số các căn cứ hỏa lực khác dọc theo dòng sông Poko ở phía Tây Quốc Lộ 14 di tản chiến thuật, rút về lập một phòng tuyến mới ở ngang căn cứ Bravo, cách Kontum 20 cây số về phía Bắc.

Cùng với kế hoạch di tản chiến thuật một số các căn cứ hỏa lực ở mạn Bắc thành phố Kontum, Tướng Ngô Dzu đã thành lập một ủy ban có tên là Ủy Ban Di Tản Đồng Bào Kontum và Pleiku. Ủy ban này do Đại Tá Hồ Hồng Nam, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị của Quân Đoàn II làm chủ tịch. Phương tiện di tản sẽ bằng máy bay C-130 của Hoa Kỳ và C-123 của Việt Nam Cộng Hoà. Một nguồn tin cho biết bệnh tim của Tướng Ngô Dzu bị tái phát, nhưng ông bất chấp, dồn nỗ lực vào hai việc là di tản đồng bào ra khỏi vùng lửa đạn và tái chiếm các căn cứ mà quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã di tản chiến thuật trong những ngày vừa qua.

Người dân của hai thành phố Pleiku và Kontum đã sống trong lo sợ phập phồng từ những ngày trước Tết Nguyên Đán vì những tin tức chiến sự ngày càng nặng nề. Cơn ác mộng đó cứ chập chờn trong mọi sinh hoạt của người dân Tây Nguyên cho đến hôm nay, chiến trận đã thực sự bùng nổ.

Tôi đến Pleiku trong những ngày thành phố này đang di tản. Thành phố có lệnh giới nghiêm lúc 7 giờ tối, nhưng mới 5 giờ chiều trên các đường phố đã không thấy bóng dáng một người dân. Chỉ có những chiếc xe nhà binh chạy hết tốc lực. Những người ngồi trên xe, ai cũng mặc áo giáp, đội nón sắt cẩn thận. Trong thành phố, nhà nào cũng làm hầm nấp pháo kích. Đa số đều làm hầm nổi. Gia đình của các quân nhân, công chức được lệnh di tản khỏi Pleiku để cho người chiến sĩ rảnh tay chiến đấu. Các công chức chuẩn bị nhận súng khi có lệnh.

Vẻ kinh hoàng hiện trên nét mặt mọi người. Nỗi lo âu chồng chất bởi nhiều vấn đề. Di tản: đến đâu, ăn đâu, ở đâu?. Nhà cửa, tài sản để lại, ai trông coỉ Lâu mau mới về? Bà vợ của một giáo sư buồn rầu tâm sự với tôi:

- Tôi bụng mang dạ chửa. Cả tuần lễ nay tôi lo quá, chẳng ăn uống gì được. Nhà nào cũng làm hầm, nhưng ăn thua gì cô. Chồng tôi nhất định ở lại đây. Tôi và các cháu tính về Saigon, nhưng giá máy bay đắt quá, cả gia đình phải mấy chục ngàn tiền vé, tiền đâu mà đi!

Giá vé máy bay Pleiku-Sài Gòn ngày thường là 3,800 đồng. Nhưng lúc này giá chợ đen khoảng 10 ngàn một vé. Nếu muốn mua giá chính thức thì phải chờ hơn nửa tháng. Súng đạn đã nổ sát một bên rồi, có ai kiên nhẫn chờ hơn nửa tháng nữa mới rời thành phố?

Một khu chợ trời thành hình dọc theo đường Hoàng Diệụ Đồ đạc bán rất nhiều và rất rẻ. Người bán nhiều hơn người mua. Những nhu yếu phẩm như gạo, nước mắm, dầu hôi... giá tăng lên vùn vụt. Những người nghèo dành dụm được ít vàng phải đem bán để lấy tiền di chuyển. Vàng xuống giá rất nhanh. Các tiệm vàng đều bán ra mà không mua vào. Vàng y giá 20 ngàn đồng một lượng, trong khi gạo 20 ngàn một tạ. Ai cũng cố bán ti vi, tủ lạnh, radio... để bọc tiền mà chạy. Nhưng ai dám bỏ tiền ra mua mấy thứ đó lúc nàỵ Có người treo bảng bán cả nhà, bán thật rẻ mà đã 3 tuần nay không có một người nào hỏi đến.

Lệnh di tản được ban ra. Dân Kontum di tản về Pleiku. Các trường học ở Pleiku được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Trong khi đó, gia đình quân nhân, công chức ở Pleiku lại di tản đi nơi khác. Tôi nêu lên sự thắc mắc này, một giới chức thẩm quyền ở Pleiku giải thích: dân Kontum tạm thời di tản về đây để chờ lập cầu không vận chuyển đi các nơi khác như Nha Trang, Saigon...

Hôm qua, ngày 27 tháng 4, quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiếp tế từ Qui Nhơn lên Pleiku 400 tấn gạo. Người dân Pleiku mỗi ngày tiêu thụ 30 ngàn tấn. Tỉnh Pleiku chưa có kế hoạch nào về việc phân phối số gạo nói trên. Cho tới hôm nay, kho gạo an toàn của Pleiku chưa hề đụng tới. Kho gạo này có thể nuôi toàn thể dân Pleiku trong vòng một tháng. Gạo và những nhu yếu phẩm khác vẫn tăng giá vùn vụt. Mua được một ký gạo là một chuyện rất khó khăn, vì trong hoàn cảnh này, có tiền chưa chắc đã mua được. Tất cả tiệm ăn trong thành phố đều đóng cửa. Khoảng 50 phóng viên Việt Nam và ngoại quốc đang có mặt ở đây phải ăn hủ tiếu hoặc phở thay cơm và bánh mì. Những gia đình giàu có vội vàng ra đị Những người khác lần lượt tiếp nối. Và thành phố Pleiku ngày càng hoang vắng.

Sau khi bắt lại liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, suốt ngày hôm đó tại căn cứ Tân Cảnh, các chiến sĩ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh đã anh dũng đẩy lui nhiều đợt xung phong mãnh liệt của Cộng quân có quân số đông gấp ba lần và được yểm trợ bởi 60 chiến xa T-54 cùng với một trung đoàn pháo. Cuộc chiến đấu hào hùng này đã kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ không ngừng một giây phút. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II theo dõi những diễn tiến tại Tân Cảnh cho đến 19 giờ 45 phút ngày 24 tháng 4 thì một lần nữa mất liên lạc với căn cứ này. Và theo tin của một số binh sĩ và đồng bào vừa thoát khỏi quận Dakto thì Cộng quân đã tràn vào căn cứ Tân Cảnh vào lúc tối ngày 24.

Trong lúc đó, tại quận Dakto, Trung Tá Lò Văn Bảo chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân vẫn tiếp tục kháng cự với Cộng quân, mặc dù đã có lệnh di tản chiến thuật khỏi nơi này. Trung Tá Bảo gốc người Thái vùng Bắc Việt, ông gọi máy vô tuyến về Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nói rằng ông sẽ quyết chiến với địch quân, chết chứ không lùi bước. Rồi sau đó cũng như Đại Tá Đạt, người ta không biết số phận của Trung Tá Bảo như thế nào vì mọi liên lạc đều bị gián đoạn.

Chờ hai ngày ở phi trường Pleiku dưới trời nắng cháy và cát bụi, đến ngày thứ ba tôi mới được theo máy bay quan sát lên Kontum. Máy bay bay giữa những cụm mây trắng, bên dưới là núi rừng trùng trùng điệp điệp. Pleiku cách Kontum chừng 45 cây số đường bộ.

Sau khi Tân Cảnh và Dakto di tản chiến thuật, thành phố Kontum ngày càng chịu áp lực nặng nề của Cộng quân. Con đường duy nhất nối liền Kontum và Pleiku đã bị cắt đứt. Phi trường Kontum bị pháo kích vào mỗi ngàỵ Phương tiện còn lại duy nhất là máy bay quân sự. Hôm trước đến Phòng Báo Chí của Quân Đoàn để xin phương tiện, gặp mấy người từ Kontum về, một anh nói với tôi:

- Cô nên mặc áo giáp, đội nón sắt vì trên Kontum Việt Cộng pháo kích dữ lắm, pháo như mưa. Xuống máy bay là phải chạy tìm chỗ nấp liền. Nên kiếm cái ba lô để mang theo thức ăn. Các tiệm ăn trên Kontum đều đóng cửa hết.

Tôi nghĩ chết sống có số. Với tôi, nhiều khi mang áo giáp, đội nón sắt rồi nặng quá chạy không nổi thì cũng chết. Ngày đầu chờ máy bay, tôi còn mang theo bánh mì và một bộ quần áo. Nhưng chờ đợi mãi, đến ngày thứ ba, khi leo lên máy bay, tôi chỉ mang cái máy ảnh, ít thuốc cần thiết và băng cá nhân. Người nữ phóng viên chiến trường không cần mang son phấn nên hành trang cũng nhẹ bớt phần nào. Có những đoạn máy bay bay thật thấp. Tiếng người phi công nói qua ống nghe:

- Cô nhìn xuống mặt đường, có mấy chiếc xe đò bị Việt Cộng giựt mìn còn xác nằm bên đường đó.

Con đường ngoằn ngoèo bên dưới thật vắng, không có bóng một chiếc xe nào đang di chuyển. Thỉnh thoảng thấy một vài chiếc xe hàng bị lật. Trước đây vài ngày, nghe nói có nhiều xe hàng liều mạng chở người tị nạn từ Kontum về Pleiku, giữa đường bị Việt Cộng giựt mìn hoặc từ trên núi bắn B-40 xuống. Máy bay bay ngang một làng nào đó. Khắp làng không thấy bóng dáng một người dân. Tôi hỏi người phi công:

- Sao không thấy một người dân nào cả? Đây cách Kontum chừng bao nhiêu cây số và đang ở về hướng nào?

Người phi công chấm một dấu đỏ trên bản đồ ghi dấu vị trí hiện tại của máy bay và đưa tấm bản đồ về phía tôi:

- Dân đã được di tản rồi. Cô không nhìn thấy những hố bom B-52 dưới kia sao? Còn cách Kontum 20 cây số về hướng Nam.

Hai người xạ thủ đại liên nói đùa với tôi:

- Nếu thấy Việt Cộng, tụi tôi nhường súng cho cô bắn.

Tôi nhìn xuống bên dưới, có 3 chiếc xe mang cờ Công giáo, chiếc đi giữa chở một cái hòm, hình như là một đám tang. Về sau tôi được biết người chết là một thanh niên, một trong những người đang ngồi ở phi trường đợi máy bay để rời Kontum, rồi bị pháo kích mà chết. Hôm đến Phòng Báo Chí của Quân Đoàn II, gặp Đại Úy Vượng, ông khuyên:

- Cô lên Kontum thì nên chuẩn bị sẵn cho một cuộc chạy bộ. Hãy mang giày nào cho dễ chạy. Trên đó không có xe cho cô di chuyển. Có mượn được xe cũng không có xăng. Xuống phi trường, cô phải chạy bộ vào thành phố, chỉ chừng 3 cây số thôi. Tại Kontum, bây giờ, một giọt xăng quý như một giọt máu.


Vậy là tối hôm đó tôi tìm mua một đôi giày ba ta để chuẩn bị cho một cuộc chạy bộ từ phi trường vào thành phố. Nhưng rồi cũng may, trực thăng hạ cánh cách tòa hành chánh tỉnh chừng một cây số. Thế là tôi chỉ đi bộ vào phố chứ khỏi chạy bộ. Lúc đó Việt Cộng đang pháo vào phi trường. Những đoàn người trên đường ra phi trường phải dừng lạị Một người trong nhóm đó thở dài:

- Trời ơi, Việt Cộng pháo vào phi trường mãi. Không biết bà con của mình đợi ở đó có sao không!

Tôi đến đây nhằm ngày Chủ Nhật, chỉ có con đường ra phi trường là còn có người di chuyển. Hằng ngàn người, đa số là vợ con của quân nhân và công chức tụ tập trước MACV để xin máy bay di chuyển. Phải có giấy của Đại Tá Tỉnh Trưởng ký trước, rồi đến xin giấy của Đại Tá Mỹ ở MACV. Bao giờ cầm được giấy lên máy bay mới biết chắc mình được đi. Giấy được đi phải là giấy ưu tiên một. Đối với máy bay Mỹ, mọi người giữ được kỷ luật như vậy, còn với máy bay Việt Nam, dân cứ ào lên, ào lên. Không có cách gì để giữ cho được trật tự.

Cách đây vài hôm ở phi trường Cù Hanh, hơn 10 ngàn người tràn lên một chiếc máy baỵ An Ninh, Quân Cảnh không thể nào ngăn cản được. Một ông Trung Tá rút súng bắn dọa một phát, viên đạn vô tình lại trúng vào cánh máy bay sao đó mà máy bay không cất cánh được. Và người ta lại kiên nhẫn ăn, ngủ ngay tại phi trường để chờ. Tội nhất là những đứa bé sơ sanh, phải dầm mưa dãi nắng và chịu đói khát, đau ốm đã bao nhiêu lâu rồi. Vấn đề tiếp tế cho Kontum ngày càng trở nên khó khăn, tất cả chỉ còn trông chờ vào các trực thăng Chinook. Những nhu yếu phẩm cần thiết làm sao có đủ cho đồng bào tị nạn chạy về từ Dakto, Tân Cảnh.

Tôi đến toà hành chánh tỉnh Kontum vào lúc 10 giờ sáng. Quân nhân, công chức tụ họp từ từng dưới lên cả trên lầu. Họ chia ra từng nhóm, người nào cũng nói về chuyện di tản. Họ đến đây để xin giấy di chuyển cho gia đình. Tôi đang đứng ở cầu thang hỏi thăm mấy người ở đây thì Đại Tá Nguyễn Bá Thìn, Tỉnh Trưởng Kontum đi ra, thấy tôi ông chào hỏi và nói:

- Bây giờ tôi đi thăm các trại tạm cư, cô có đi không? Cô nên viết để kêu gọi giúp đở cho hoàn cảnh này.

Tôi lên xe của Trung Tá Đổ, Tiểu Khu Phó, hướng về các trại tạm cư. Trường học và các cô nhi viện được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Chúng tôi ghé lại một trường học. Trên sân trường, người Thượng nằm, ngồi dưới các gốc cây, họ vừa chạy về từ Dakto, Tân Cảnh. Nét mặt người nào cũng có vẻ ngơ ngác trông thật tội nghiệp. Trong khi Đại Tá Thìn hỏi thăm những cán bộ Bình Định Nông Thôn về vấn đề phân phát gạo cho đồng bào tị nạn, thì tôi đi chụp hình và tìm những người Thượng biết nói tiếng Việt để hỏi thăm. Mấy người này đến từ làng Konkring. Tôi nghe tiếng Đại Tá Thìn hỏi:

- Ty Y Tế có rắc thuốc không?

Gần 10 năm làm báo, đây là lần đầu tiên tôi thấy một ông Đại Tá Tỉnh Trưởng đi kiểm soát nhà cầu của một trại tị nạn. Vấn đề giữ được vệ sinh ở trại này thật là khó khăn. Cán bộ thì ít, người tị nạn thì đông. Tất cả nhân lực đang dồn vào chiến trận, vào việc di tản dân Kontum đi nơi khác và tiếp cư dân nơi khác về Kontum. Mỗi người được lãnh 500 gram gạo một ngày, nhưng không dám ăn hết, để dành lại một ít phòng hờ ngày mai không được phát gạo nữa. Thời chiến chinh, ai mà biết được những gì sẽ đến trong ngày mai.

Vào lúc 16 giờ ngày 29 tháng 4, một phi cơ quan sát trong lúc bay trên không phận Dakto, bỗng nhiên thấy ánh sáng của một tấm kiếng từ dưới đất chiếu lên. Phi công liền xuống thấp để quan sát thì thấy một đám đông đang tụ họp quanh khu chợ. Dakto và ra dấu hiệu cấp cứu. Khi phi cơ xuống thấp hơn nữa, thấy đám đông đó là khoảng 200 binh sĩ của ta. Những người này đang làm dấu hiệu cho phi cơ đáp xuống. Phi công định đáp xuống một bãi trống phía Tây của chợ, nhưng địch biết được ý định đó nên bắn lên máy bay như mưa và đồng thời mở đợt tấn công vào đám binh sĩ của ta đang bị vây.

Được tin báo của máy bay quan sát, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tin rằng nhóm 200 binh sĩ đang bị vây khổn ở chợ Dakto gồm có Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và binh sĩ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh trên đường di tản khỏi căn cứ Tân Cảnh. Vì vậy, cuộc giải vây cho nhóm 200 người đang cầm cự với địch đã được thực hiện với ưu tiên một.

Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đưa được Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh cùng với 200 binh sĩ từ chợ Dakto về căn cứ của Quân Đoàn. Cùng đi với Đại Tá Đạt, có Trung Tá Nghiêm Kế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 22 Công Binh Chiến Đấu, một đơn vị yểm trợ của Sư Đoàn 22.

Ký nhi viện Vincent cũng là một trong những trại tạm cự Chúng tôi đến thăm vào buổi trưa, các dì phước đều mặc áo màu xanh, lúp màu xanh và đang làm việc rất bận rộn. Có mấy dì phước ngồi ghi tên những người mới đến vào danh sách. Người tị nạn ở đây đa số là người Thượng từ các buôn ở mạn Bắc của Kontum chạy về. Tôi ngồi xuống bên cạnh một dì phước rất trẻ, nói được tiếng Barna. Sinh hoạt chung với họ rồi nói được tiếng của họ. Ký nhi viện này ở bên cạnh trường trung học Quenot của cha Trường. Trường học thật khang trang đẹp đẽ. Những cây phượng trong sân nở hoa đỏ rực. Xác hoa phượng phủ đầy các lối đi.

Đại Tá Thìn hỏi các dì phước:

- Vấn đề vệ sinh ở đây làm cho các sơ vất vả lắm phải không?

Một dì phước trả lời:

- Người Thượng họ tắm cả ngày, tắm nhiều hơn mình nữa, nhưng họ không có quần áo để thay. Có một bộ đồ là họ mặc cho đến khi rách, chứ không giặt giũ gì cả. Mà muốn giặt cũng không có đồ để thaỵ

Tôi hỏi dì phước:

- Thưa sơ, trại này hiện có bao nhiêu người?

- Đã tiếp nhận hai ngày nay là 950 ngườị Số người mới đến còn đang lập danh sách.

Một dì phước quay lại hỏi tôi:

- Cô có nghe tin gì về Konkring không? Có mấy sơ ở Konkring cũng thuộc về Vincent de Paul, ở đây chúng tôi không được tin tức gì hết, chắc bị Việt Cộng bắt giữ lại hết rồi.

Các dì phước ở đây nhắc đến những người ở Konkring một cách quan tâm và thương mến. Buổi loạn ly bom đạn đâu có tránh ai, Việt Cộng đâu có chừa ai.

Rời trại tạm cư ở ký nhi viện Vincent, chúng tôi đến thăm một trại tạm cư khác tại một trường trung học. Chúng tôi đến lúc đồng bào đang ăn cơm. Thức ăn thật đơn giản: rau luộc và một món mặn. Vợ chồng, con cái ngồi bẹp xuống nền của lớp học. Họ ăn một cách ngon lành, nhưng trên mặt vẫn còn những nét sợ hãi vì đoạn đường họ đã vượt qua và những hiểm nguy họ đã gặp.

Tôi hỏi một người đàn bà ngồi gần cửa:

- Chị chạy mấy ngày mới tới đây?

Người đàn bà đặt chén cơm xuống, nhìn tôi rồi trả lời:

- Đi 4 ngày trong rừng, mới ló đầu ra là gặp ngay Việt Cộng. Chạy đến chảy máu chân cũng không hay. Về tới đây mới biết mình còn sống.

Một ông cụ ngồi nhìn chén cơm mà không ăn, nước mắt rưng rưng:

- Mấy đứa con tôi thất lạc hết rồi. Không biết chúng còn sống hay đã chết. Ngày nào tôi cũng đi tìm chúng nó. Có ai thấy chỉ dùm tôi.

Tỉnh Kontum có khoảng 50 ngàn dân, gồm 30 ngàn người ở thành phố và 20 ngàn người rải rác các quận chung quanh. Người Thượng ở trong những làng mạc xa xôi hẻo lánh. Trong khi dân Kontum di tản về Pleiku hoặc Saigon, dân ở các làng, các quận lại đổ về Kontum tị nạn. Những gia đình giàu có đã đi hết rồi, bây giờ còn lại đa số là gia đình của quân nhân và công chức. Phía bên Mỹ thông báo rằng, đến ngày 1 tháng 5, họ không cấp phương tiện để di tản đồng bào nữa.

Ngày 29 tháng 4, một vị thượng tọa dẫn 5 ngàn tín đồ đi bộ từ Kontum về Pleikụ Đoàn người ngày đi đêm nghỉ, cuối cùng cũng về tới Biển Hồ. Nhà cầm quyền Kontum lo lắng rất nhiều về việc di tản, nhưng không đủ phương tiện. Tướng Ngô Dzu cũng rất khổ tâm về việc nàỵ Một ngày chỉ có 4 chiếc Chinook tiếp tế. Sự tiếp tế nhỏ giọt nên cũng đến ngày thành phố Kontum không có điện vì thiếu dầu, một số dân trong các làng đói vì thiếu gạo. Bây giờ Kontum đã bị cô lập, cuộc sống của những người còn lại ở đây chỉ mong vào sự tiếp tế của máy bay mỗi ngày.

Thành phố Kontum chỉ mới hoang vắng, nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Nguyên vẹn với nét đẹp của một thành phố miền Cao Nguyên. Dòng sông Dabla vẫn lặng lờ uốn khúc quanh co, và trên bờ, màu hoa phượng vĩ vẫn rực rỡ trong khói lửa chiến tranh đang bao trùm thành phố.

Buổi sáng tôi ra phi trường để gửi bài về toà soạn thì chợt bắt gặp một tà áo xanh, màu áo xanh đồng phục của những nữ tiếp viên hàng không Air Việt Nam. Người con gái có đôi mắt to và đen, nét mặt buồn như muốn khóc. Nàng có vẻ lạc lõng giữa một rừng người đang chờ di tản ở phi trường và hình như đang tìm kiếm một người nào đó. Khi đi ngang qua chỗ Đại Úy Hoà và tôi đang đứng nói chuyện với nhau, người con gái dừng lại ấp úng hỏi vị sĩ quan:

- Thưa Đại Úy, Đại Úy có thể cho tôi biết trong số thương binh mà Đại Úy đã di tản về các bệnh viện có Thiếu Úy Nguyễn... không?

Đại Úy Hoà, Quân Y, nhìn người con gái một lát rồi chậm rãi trả lời:

- Tôi làm sao nhớ hết được. Nếu cô cho tôi thêm số quân, đơn vị của người đó, tôi sẽ tìm dùm cho cô. Chừng nào cô mới có chuyến bay trở lại đây?

Người nữ tiếp viên có vẻ mừng rỡ:

- Thiếu Úy Nguyễn..., thuộc Trung Đoàn 42, tôi không nhớ số quân của anh ấy. Sau khi Tân Cảnh di tản, tôi không được tin tức gì của anh ấy nữa. Tôi tình nguyện bay đường Saigon-Kontum mỗi ngày hai chuyến, sáng và chiều, để lên đây mong kiếm được tin tức của anh. Nhưng mỗi lần máy bay hạ cánh có một tiếng đồng hồ, nên tôi chỉ luẩn quẩn hỏi thăm ở trong phi trường này mà thôi.

Đại Úy Hoà hứa với người nữ tiếp viên hàng không:

- Tôi sẽ hỏi phòng hành quân dùm cô. Đồng thời tôi sẽ dò xem danh sách của thương binh. Trưa nay, lúc máy bay của cô đáp xuống, tôi sẽ ra đây trả lời cho cộ Hiện nay, những người sống sót của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 và Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 42 đóng ở Tân Cảnh đã về đây hết, tôi cũng sẽ hỏi thăm dùm cô.

Sau khi người nữ tiếp viên trở lại máy bay về Saigon. Đại Úy Hoà làm đúng lời hứa, đã đi nhiều nơi để dò thăm tin tức. Nhưng tên của người sĩ quan này không có trong danh sách những thương binh, cũng không có mặt trong số những người về từ Tân Cảnh. Vậy chỉ còn một là thất lạc trong rừng, hai là bị lọt vào tay địch, ba là đã chết mất xác. Tôi thấy Đại Úy Hòa có vẻ ái ngại khi đến giờ phải ra phi trường gặp lại người nữ tiếp viên hồi sáng. Các phi trường Kontum và Pleiku bị pháo mỗi ngày, nhưng nàng vẫn tình nguyện bay lên đây ngày hai chuyến, với hy vọng có chút tin tức hay được gặp lại người yêu.

Buổi trưa tôi từ chối không đi cùng Đại Úy Hoà ra phi trường. Tôi sợ phải nhìn thấy những giọt nước mắt và nét tuyệt vọng trên khuôn mặt hiền lành của người con gái đó. Tôi sợ một câu trả lời từ miệng mình thốt ra là một sự thật phũ phàng dập tắt hết mọi niềm hy vọng. Tình yêu của người con gái đó quá đẹp và quá hiếm trong những ngày ly loạn như hôm nay.

Kiều Mỹ Duyên

Posted by: NamQuoc Jul 3 2017, 09:59 AM


Những ngày cuối cùng trên liên tỉnh lộ 7B


Tỉnh Lộ 7

Theo hồi ký của Trung úy D. (Biệt Động Quân): “Những trang sử bi thảm của một quân đội kiêu hùng”

Đoàn xe GMC của Trường Bộ binh Thủ Đức ngừng lại tại ngã tư Trương Minh Giảng-Tú Xương; trên đoàn xe là những sinh viên sĩ quan khóa 1/72 trừ bị. Họ đã nhập ngũ theo lịnh “Tổng động viên” sau Mùa Hè Đỏ Lửa. Tất cả vội vàng nhảy xuống xe rồi tản mát đi khắp hướng của Saigon. Hôm nay cũng là ngày Hiệp định Ba-Lê có hiệu lực trên toàn cõi VN; tôi là một trong những sinh viên sĩ quan ấy. Tôi lững thững tản bộ về nhà để tận hưởng cái cảm giác thoải mái sau những ngày ép mình với kỷ luật của Quân trường. Trời Saigon đã sẫm tối, từ dốc cầu Trương Minh Giảng về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, cả một rừng cờ treo trước cửa của nhà dọc hai bên đường, trên những cao ốc. Tiếng hát ca sĩ Khánh Ly vọng ra hè phố từ một quán càfé bên cạnh khu Đại học Vạn Hạnh “Ta đã thấy gì trong đêm nay, cờ bay trăm ngọn cờ bay… Mặt đất rung rinh, tin hòa bình bay về khắp hướng”. Nghe những điệu nhạc này tôi lâng lâng thoáng chút hy vọng khi nghĩ đến hai chữ Hoà Bình.

Chút thoáng hy vọng về Hoà Bình ấy thực sự đã tiêu tan khi tôi đặt chân lên đất Pleiku. Pleiku, thành phố của lính. Pleiku với thơ mộng trong một bài hát “Em Pleiku má đỏ môi hồng”. Chiến tranh vẫn diễn ra khốc liệt trên lãnh thổ Quân Khu. Đặc biệt tại vùng Pleiku-Kontum và Phân Khu Bắc Bình Định-Bồng Sơn-Tam Quan. Từ Bộ chỉ huy Biệt Động Quân, tôi nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu đoàn 42 Biệt Động do Thiếu Tá Phạm Văn Tiến làm Tiểu đoàn trưởng. Lúc này Tiểu đoàn đang trách nhiệm tại vùng sở trà Kafeka, quận Thạnh An. Trong một lần dẫn Trung đội đánh chiếm cao điểm 30, tôi bị thương khá nặng, xuất viện tôi được thuyên chuyển về Bộ chỉ huy Biệt Động Quân (BĐQ) Quân khu 2 và nhận nhiệm vụ Sĩ quan Hành quân tại Trung tâm hành quân cho đến ngày cuối cùng khi Quân doàn II di tản trên Liên tỉnh lộ 7B.

Tháng 12/1974, Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng BĐQ Quân khu 2 đuợc chỉ dịnh làm Tư lịnh mặt trận Kontum, do đó tất cả quân nhân thuộc Phòng 2, Phòng 3 và Trung tâm hành quân được điều động lên Kontum để thành lập Bộ tư lịnh Mặt Trận.

Những tháng cuối năm 1974, Mặt trận Kontum không có những trận đánh lớn, tình hình tương đối yên tĩnh một cách không bình thường. Nhân dịp gần đến cuối năm, phòng Chiến tranh chánh trị (CTCT) đã mời một số ca sĩ như Khánh Ly, Ngọc Minh lên Kontum hát tại những tuyến đầu của Mặt trận. Những ngày Tết đã êm đềm trôi qua, Cộng quân không pháo kích vào thị xã và Bộ tư lịnh.

Ngày 12/3/75, Thiếu tá Khôi, Trung tâm trưởng Trung tâm hành quân ra lịnh cho chúng tôi thu dọn gấp để kịp dời Kontum ngày hôm sau về lại Pleiku. Bộ Tư lịnh hành quân sẽ đóng tại Hàm Rồng nơi đặt Bộ Tư lịnh Mặt trận Nam Pleiku của Tư lịnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Tướng Tất kiêm nhiệm Tư lịnh Mặt trận Nam Pleiku.

Đoàn xe chỡ chúng tôi cùng với Liên đoàn 4 BĐQ di chuyển ngang qua thị xã, dân chúng ngơ ngác nhìn với ánh mắt lo âu. Dân chúng ở đây đã quen nhiều với chiến tranh, họ thường vui mừng khi thấy quân vào Kontum và thoáng lo âu khi thấy bất cứ một đơn vị quân chủ lực nào rút đi. Thực sự giờ phút đó tôi cũng không hiểu tại sao mà toàn bộ BĐQ chúng tôi lại hối hả rút đi như thế lại không có đơn vị nào hoán đổi vùng trách nhiệm như thường lệ từ trước đến nay. Kontum đã bỏ ngỏ từ ngày hôm ấy khi toàn bộ quân chủ lực được rút đi.

Đơn vị chúng tôi về tới Hàm Rồng chưa đầy 5 ngày thì ngày 17/3/75 Quân đoàn II bắt đầu di tản theo Liên tỉnh lộ 7B về Tuy Hòa. Bộ Tư lịnh Quân đoàn được không vận về Nha Trang. Nhưng Bộ Tư lịnh Mặt trận của Tướng Tất chúng tôi vẫn làm việc kỷ luật và bình thường. Những ngày này Tướng Tất luôn luôn hỏi đến hai Liên đoàn 4 và 25 rút các đứa con khỏi trận địa vùng Thạnh An và Pleiku. Tướng Tất chỉ huy Đoàn quân trên liên tỉnh lộ vào trưa về Bộ tư lịnh; vào chiều đó, ông lại bay trên đoàn quân di tản để chỉ huy.

Chín giờ sáng ngày 20/3/75, những quân nhân cuối cùng của Bộ Tư lịnh Mặt trận băt đầu rút khỏi căn cứ Hàm Rồng. Tôi được lịnh đi trên chiêc xe tăng M113 chỉ huy của Tướng Tất. Đoàn xe dời Hàm Rồng chạy qua phố chính của thị xã Pleiku phố xá vắng tanh. Những cửa tiệm bị cướp phá tan hoang. Một thành phố chết. Tôi ngồi trên xe đưa mắt nhìn về hướng Bộ Tư lịnh Quân đoàn và phi trường Cù Hanh thấy những cột khói đang bốc cao tại hai nơi này.

Tướng Tất hằn rõ nét ưu tư trên khuông mặt đen xạm của ông. Ông là vị tướng mới nhất của QLVNCH và cũng là vị tướng duy nhất của Quân đoàn II cùng Bộ Tham mưu triệt thoái bằng đường bộ. Các cuộc điện đàm liên tiếp giữa Tướng Tất và các Đơn vị trưởng đang di chuyển trên Liên tỉnh lộ 7B cho tôi hiểu lệnh của ông đã không được thi hành đúng. Thực sự đến ngày hôm nay 20/3/75, lệnh của ông chỉ còn hữu hiệu với các đơn vị BĐQ mà thôi. Tướng Tất đã dùng các Tiểu đoàn BĐQ thiện chiến nhất của Liên đoàn 4 (một Liên đoàn nổi danh đã làm VC phải khiếp sợ tại vùng châu thổ sông Cửu Long -Tiểu đoàn 42 “Cọp Ba Đầu Rằn”). Hành quân bọc hậu, đây là một trong những cố gắng sau cùng của Tướng Tất nhưng sự hỗn độn vô cùng của quân và dân xen kẽ nhau, tắc nghẽn xe cộ đã làm tiêu tan mọi hy vọng của vị Tướng chỉ huy đoàn quân triệt thoái này.

Khoảng 3 giờ chiều cùng ngày, chúng tôi đến được tỉnh lỵ Phú Bổn. Tướng Tất ngồi trên mũi trước chiếc M113 cho xe chạy vòng quanh phố tỉnh nhỏ xíu này rồi đậu trong sân trường tiểu học. Từ chiếc máy truyền tin trong xe Đại tá Hồng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn II Kỵ binh, và Đại tá Tây, Liên đoàn trưởng Liên đoàn BĐQ đang liên tiếp báo cáo với Tướng Tất diễn tiến đánh diệt các chốt chận cấp Tiểu đoàn của địch gồm các Tiểu đoàn K13, K9, K2 và các Tiểu đoàn chủ lực miền của Cộng quân. Tiếp sau là một phi tuần A39 đánh bom lầm vào đơn vị bạn, vụ đánh lầm này đã gây bất hòa về chỉ huy giữa hai Đại tá.

Ánh nắng lại gần tắt, mặt trời đã xuống tới đỉnh núi ở xa xa thì tin từ Nha Trang cho biết sư đoàn 320 do tên Đại tá Bắc Việt Vũ Lăng làm Tư lệnh đang gấp rút bôn tập về Phú Bổn để chặn đánh quân ta. Trên khuôn mặt đã xạm đen vì nắng cháy, Tướng Tất nén tiếng thở dài. Ông đang nghĩ gì…??

Trong gần hai năm làm việc tại Trung tâm Hành quân, tôi thường được tiếp xúc với ông khi chiến trường sôi bỏng. Tại Bộ Tư lịnh tiền phương trên đồi 37 Pháo binh (Pleiku), ông đoán quyết với Thiếu tá Long, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 82 Biệt Động, bằng mọi giá phải giữ vững căn cứ Pleiku khi bị 3 Trung đoàn quân chính quy Cộng sản Bắc Việt vây hãm. Cùng thời gian khi căn cứ Pleiku đang bị địch xung phong biển người, chúng hy vọng dứt điểm căn cứ này thì 3 căn cứ hỏa lực khác là 522-433-711 bị cộng quân tràn ngập trong đêm. Tướng Tất đã điều Tiểu đoàn 90 với Thiếu tá Phan Bát Giác, người Tiểu đoàn trưởng tài bà này đã dùng quân theo lối đánh của “Tổ Tam Tam” lấy lại ba căn cứ hỏa lực trên ngay trong ngày hôm sau. Pleiku vẫn đứng vững ngạo nghễ sau đợt tấn công biển người. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được ở ông nỗi thất vọng chua chát như trong tiếng thở dài của buổi chiều hôm đó…

Ánh nắng chiều đã tắt hẳn, Tướng Tất ngã mình trên chiếc võng căng trong xe. Tôi trực máy truyền tin trong xe. Khoảng 5 giờ chiều, tiếng máy truyền tin gọi rè rè “Trường An – Hiệp Tình”. Trường An là ám danh đàm thoại của Tướng Tất, Hiệp Tình là Tướng Phú, Tư lịnh Quân đoàn. Tôi cầm máy trả lời “Trình Mặt Trời – Trường An nghe”, tôi chưa kịp lên tiếng gọi Tướng Tất vì lúc đó ông vừa như thiếp đi trên võng thì tiếp theo một vọng nói thật nhanh “Anh nói với Trường An – Đạp lên mà đi”. Là một sĩ quan hành quân, tôi hiểu đó là lệnh sau cùng khi không còn cách nào khác để cứu vãn tình thế hiện tại, giờ khai tử của đoàn quân bị tắc nghẽn tại Phú Bổn này đã điểm, tôi xúc động lặng đi trong giây phút thì Tướng Tất chợt tỉnh. Ông hỏi :”Có gì không?”. Tôi trả lời cho ông nguyên văn lệnh của Quân đoàn. Tướng Tất ngồi dậy bước ra khỏi chiếc M113. Ông cho gọi tất cả đến rồi dặn dò với chúng tôi một câu ngắn gọn “Các anh theo Trung tá Huấn, Tôi sẽ cho C&C bốc các anh”.

Trời lúc này đã xẫm tối khoảng 17 giờ 30, một trực thăng đáp xuống sân trường Tiểu học Phú Bổn bốc Tướng Tất, Đại tá Hoàng Thọ Nhu, Tỉnh trưởng Pleiku. Chiếc trực thăng cất cánh mang theo điểm tựa và niềm hy vọng sau cùng của chúng tôi.

Tướng Tất đi rồi, Trung tá Huấn, Liên đoàn trưởng Liên đoàn 22 BĐQ nói với chúng tôi là phải gấp rút dời xa Phú Bổn càng nhanh càng tốt vì sau đó sẽ có những phi tuần phá hủy những quân và chiến cụ đang kẹt ứ tại đây. Chúng tôi tạt vào rừng nhắm hướng Tuy Hòa mà đi, trong số này tôi còn nhớ có Trung tá Lộc, Tham mưu trưởng, Thiếu tá Khôi, Trưởng phòng 3, Trung úy Thành của Phòng 2, Thiếu úy Chương phòng CTCT, tôi, Thiếu úy Chúc, Chuẩn úy Phước của Trung tâm Hành quân… Từ lúc này tôi không còn nhớ tới giờ giấc của thời gian nữa. Khi đi sâu vào rừng núi Phú Bổn được 2-3 giờ lúc vượt qua một đỉnh đồi cao nhìn lại Phú Bổn những cột lửa loé sáng rực, trên trời là 2 chiếc A37 đang nhào lộn bắn phá.

Đêm xuống thật nhanh với núi rừng, Trung tá Huấn và Lộc nói là không thể đi đông như thế này vì dễ bị lộ nên tách ra làm hai. Các quân nhân của Liên đoàn theo Trung Tá Huấn, Ban Tham mưu BĐQ theo Trung tá Lộc. Qua đêm trời hừng sáng, tôi thật vô cùng ngạc nhiên khi thấy có rất nhiều đoàn quân cũng tạt vào rừng theo đoàn quân chúng tôi hôm qua. Thật tội nghiệp cho họ, vợ chồng, con cái cha mẹ anh em dắt dìu nhau. Họ không mang theo được bất cứ một thứ gì cả, là dân của phố thị, họ hoàn toàn không hiểu được sự khắc nghiệt ghê gớm của thời tiết tháng 4 trong cánh rừng già bạt ngàn như thế này. Những đám dân tội nghiệp ấy cứ lếch thếch đi theo hướng chúng tôi đi. Họ sẽ không theo kịp những quân nhân chuyên nghiệp như chúng tôi.

Sau ba bốn lần bị truy kích qua mấy ngày tôi không còn nhớ nữa, chỉ thấy sức đã kiệt vì đói và khát. Chúng tôi còn lại 5 người đến bên một con sông (có lẽ đó là sông Ba). Trong đêm tối trời, tôi đã hoàn toàn kiệt sức nhìn bên kia bờ sông hy vọng gặp quân bạn. Ba người trong chúng tôi đã bơi được qua bờ bên kia con sông dâng cuồn cuộn nước chảy. Tôi không nhớ rõ 3 người ấy là ai vì chúng tôi vừa bị truy kích chạy tán loạn trong lúc đó Cộng quân lại bắn xối xả vào đoàn người chúng tôi.

Bên này con sông chỉ còn lại tôi và Trung sĩ Thành Phòng 2. Thành còn rất trẻ khoảng 21-22. Thành bảo tôi “Cố gắng bơi qua đi Trung úy”. Nhìn sông tôi hiểu sức mình không thể qua nổi. Tôi bảo với Thành :”Tôi ở lại bên này”. Thành nói :”Vậy tui qua nhe”. Thành xuống nước; khi ra tới dòng nước cuồn cuộn tôi thấy Thành chới với rồi chìm hẳn. Chứng kiến Thành chết chìm trong đêm tịch mịch của núi rừng, tôi đứng lên vô tri vô giác lê từng bước bên con sông ấy. Trên người tôi không còn cái gì ngoài bộ đồ trận tả tơi đang mặc. Tôi cứ đi đi mãi khi nắng loé lên sau những ngọn cây cao. Một tiếng quát giọng Bắc đặt sệt :”Biệt Động Ngụy giơ tay nên”, tôi thẩn thờ quay ngang nhìn “Lính chính quy Bắc Việt”.

Tại Trại Đào Bá Phước, Bộ chỉ huy BĐQ ở Saigon đã trả lời mẹ tôi khi bà đến hỏi tin của tôi “Trung úy D. được ghi nhận mất tích trên Liên tỉnh lộ 7B”.

Trung úy D

Posted by: BienHo Jul 13 2017, 10:24 AM


Căn cứ Pleime,

trận tử chiến của tiểu Đoàn 82 BĐQ biên Phòng



*Tiền cứ Pleime: những trận đánh đã đi vào chiến sử

Trại biên phòng Pleime cách Pleiku khoảng 50 km về hướng Tây Nam, được thành lập từ tháng 10/1963. Từ khi thành lập cho đến cuối năm 1974, căn cứ này đã nhiều lần bị CQ tập trung lực lượng tấn công để cố chiếm căn cứ trọng yếu này nhưng đều bị đẩy lùi, một số trận giao tranh đã đi vào chiến sử như trận đánh vào tháng 10/1965. Theo tài liệu của đặc san Mũ Nâu và tài liệu của trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, trận chiến này được ghi nhận như sau:

Ngày 19 tháng 10/1965, bộ Tư lệnh B 3 CSBV (chỉ huy lực lượng Cộng quân tại Cao nguyên) đã điều động 2 trung đoàn 32 và 33 chủ lực tấn công vào tiền cứ Pleime. Trung đoàn 33 CSBV là lực lượng tấn công chính, trung đoàn 32 CSBV là lực lượng phụ trợ có nhiệm vụ chận đánh lực lượng tăng viện của liên quân Việt-Mỹ. Với chiến thuật tiền pháo hậu xung thường áp dụng trong các trận tấn công cường tập, Cộng quân đã mở trận hỏa công pháo dữ dội vào căn cứ. Ngay sau khi trận chiến xảy ra, lực lượng tăng viện VNCH được điều khẩn để tiếp cứu nhưng đã bị trung đoàn 32 CSBV phục kích. Giao tranh diễn ra ác liệt, đến ngày 23 tháng 10/1965, lực lượng tăng viện VNCH đã chọc thủng vòng vây của CQ và tiến vào tiếp cứu quân trú phòng trong căn cứ, trung đoàn 33 CSBV bị đánh bật sau 1 tuần liên tiếp tấn công nhưng thất bại.

Đầu tháng 11/1965, một chiến đoàn Nhảy Dù VNCH phối hợp với Sư đoàn 1 Không kỵ Hoa Kỳ tung cuộc hành quân tảo thanh các đơn vị của trung đoàn 32, 33 và trung đoàn 66 CSBV còn nguyên vẹn quanh khu vực gần trại Pleime, trong thung lũng Ia Drang, khu vực cụm núi Chu Prong. Sau hai tuần liên tục truy kích, lực lượng Việt-Mỹ đã loại khỏi vòng chiến 465 CSBV, bắt sống 15 tù binh và tịch thu 70 vũ khí đủ loại.

* Tiểu đoàn 82 Biệt động quân Biên phòng và trận chiến 1974:

Tháng 10/1970, theo kế hoạch chung của bộ Tổng tham mưu QL/VNCH và bộ Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại VN, trại Pleime được chuyển giao cho tiểu đoàn 82 Biệt động quân Biên phòng được thành lập với quân số của Biệt kích quân cải tuyển sang Biệt động quân, ngay sau đó, tiểu đoàn được bổ sung một số sĩ quan chỉ huy, hạ sĩ quan và binh sĩ do bộ chỉ huy Biệt động quân Quân khu 2 điều phối.

Tháng 4/1974, sau khi đã tung quân lấn chiếm và kiểm soát khu vực gần căn cứ Đức Cơ, sư đoàn 320B CSBV khởi động cuộc tấn công quy mô vào căn cứ Pleime. Địch quân đã điều động trung đoàn 48, trung đoàn 64, 1 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn pháo phòng không hiệp đồng chuẩn bị cuộc tấn công. Trước tình hình đó, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã khẩn cấp điều động 2 trung đoàn của Sư đoàn 22 BB tăng viện cho mặt trận Pleime, trong đó trung đoàn 42 được tăng cường cho căn cứ hỏa lực 711 và khu vực kế cận. Cùng với sự tăng viện của 2 trung đoàn Bộ binh, Không quân VNCH tại Cao nguyên đã tiến hành nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của các đơn vị CQ. Sự can thiệp nhanh chóng của lực lượng VNCH đã ngăn chận và vô hiệu hóa kế hoạch đánh chiếm Pleime của CQ. Đến tháng 5/1974, lực lượng VNCH đã làm chủ khu vực quanh căn cứ này.

Sau khi tình hình quanh Pleime tạm lắng dịu, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã cho lệnh Sư đoàn 22 BB rút 2 trung đoàn về lại tỉnh Bình Định, do đó Cộng quân đã tận dụng cơ hội mở cuộc tấn công vào Pleime. Lực lượng trú phòng vào thời gian này gồm có 4 đại đội tác chiến của tiểu đoàn 82 Biệt động quân và 1 đại đội của tiểu đoàn 81 Biệt động quân tăng phái. Các đại đội Biệt động quân khai triển lực lượng tổ chức phòng thủ cụm tuyến trung tâm căn cứ và hai tiền đồn Chu Ho và đồi 509. Trong khi hoạt động bên ngoài căn cứ, đại đội 2/81 đã bị CQ tấn kích bất thần, đại đội này đã chống trả dũng mãnh nhưng trước một lực lượng địch đông gấp 5, cuối cùng đại đội phải rút vào căn cứ với 22 chiến binh vào được bên trong trước khi Cộng quân bao vây và phong tỏa các thông lộ ra vào căn cứ.

Trong trận tấn công vào căn cứ Pleime lần này, Cộng quân đã sử dụng 4 tiểu đoàn thuộc 2 trung đoàn 9 và 48 CSBV, tăng cường trung đoàn 26 biệt lập của B3. Sau đó CQ lại tung vào trận chiến trung đoàn 64 CSBV để mở các trận tấn công biển người vào căn cứ này. Địch đã sử dụng đủ các loại pháo 130 ly, 120 ly, và súng cối 82 ly pháo kích liên, trong khi đó, tiểu đoàn pháo phòng không của đối phương cũng đã bố trí 12 vị trí đặt súng 12.7 phòng không để bắn trực thăng tiếp tế và tải thương cũng như chống trả các đợt không tập của Không quân VNCH. Sau 6 ngày đêm tử chiến, tiền đồn Chu Ho đã thất thủ, 5 ngày sau đó, 10 tháng 8/1974, đến lượt tiền cứ đồi 509 bị Cộng quân tràn ngập. Các chiến binh sống sót tại hai tiền cứ nói trên đã vượt thoát vào rừng và tự mưu sinh thoát hiểm trong hoàn cảnh vô cùng bi tráng: hết đạn, không có thức ăn và nước uống trong những ngày tử chiến với CQ.

Sau khi đã đánh chiếm 2 tiền cứ Chu Hô và đồi 509, Cộng quân đã tập trung lực lượng tấn công vào khu trung tâm căn cứ Pleime. Tiểu đoàn 82 CQ đã bị bao vây trong 1 tháng, không nhận được tiếp tế lương thực, thuốc men và đạn dược. Chiến đấu trong một tình thế nguy kịch, thế nhưng cả tiểu đoàn đã giữ vững được tuyến phòng ngự. Đến ngày 2 tháng 9/1974, Quân đoàn 2 đã điều động lực lượng tăng viện gồm Bộ binh, Biệt động quân và Thiết giáp nỗ lực tiếp cứu tiền cứ Pleime. Các đơn vị sư đoàn 320 CSBV bắt đầu bị đánh bật sau 20 lần tấn công bất thành vào căn cứ. Riêng tiểu đoàn 82 BĐQ sau khi nhận được tiếp tế và tái tổ chức đơn vị và tổ chức phản công tái chiếm 2 tiền đồn Chu Ho và đồi 509.

* Lược trình về 12 tiểu đoàn Biệt động quân biên phòng:

Trước năm 1970 tại Vùng 2 Chiến thuật (từ tháng 8/1970 đổi thành Quân khu 2) có 15 trại biên phòng do các tiểu đoàn Dân sự Chiến đấu thuộc Lực lượng Đặc biệt trách nhiệm phòng ngự. Đến tháng 5/1970, như đã trình bày, theo kế hoạch của liên quân Việt-Mỹ, liên đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ được lệnh thực hiện đợt cải tuyển cho các trại biên phòng. Binh đoàn này được lệnh chấm dứt các hoạt động biệt kích trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời chuyển các đơn vị Dân sự chiến đấu sang binh chủng Biệt động quân VNCH để thành lập các tiểu đoàn Biệt động quân Biên phòng.

Theo quy trình và phương thức hoán chuyển, trong vòng 90 ngày kể từ có quyết định cải tuyển, các trại Dân sự Chiến đấu được tổ chức theo cơ cấu tiểu đoàn Biệt động quân gồm 3 đại đội chiến đấu, 1 dại đội chỉ huy và ban chỉ huy Tiểu đoàn.

Cải tuyển đợt 1 vào ngày 31/8/1970:

- Trại Polei Kleng (A-241), tỉnh Kontum chuyển thành tiểu đoàn 62 BĐQ Biên phòng với quân số 403 người.
- Trại Plei Mrong (A-113), tỉnh Pleiku, chuyển thành tiểu đoàn 63 BĐQ Biên phòng với quân số 443 chiến binh.
- Trại Tieu Atar (A 231), tỉnh Darlac, chuyển thành tiểu đoàn 71 BĐQ Biên phòng với quân số 414 chiến binh.
- Trại Trang Phúc (A-223), tỉnh Darlac, chuyển thành tiểu đoàn 72 BDQ Biên phòng với quân số 399 chiến binh.
- Trại Plei Djereng (A-251), tỉnh Pleiku, chuyển thành tiểu đoàn 80 BĐQ Biên phòng với quân số 479 chiến binh.
- Trại Đức Cơ ( A-253), tỉnh Pleiku, chuyển thành tiểu đoàn 81 BĐQ Biên phòng với quân số 457 chiến binh.
- Trại Plei Me (A-255), tỉnh Pleiku, chuyển thành tiểu đoàn 82 BĐQ Biên phòng với quân số 464 chiến binh.
- Trại Bu Prang (A-236), tỉnh Quảng Đức, chuyển thành tiểu đoàn 89 BĐQ Biên phòng với quân số 377 chiến binh.
- Trại Dak Pek (A-242), tỉnh Kontum, chuyển thành tiểu đoàn 88 BĐQ Biên phòng với quân số 298.
- Trại Dak Seang (A-245), tỉnh Kontum, chuyển thành tiểu đoàn 90 BĐQ Biên phòng với quân số 431 chiến binh.

Cải tuyển đợt 2 vào ngày 31/12/1970:

- Trại Ben Het (A-244), tỉnh Kontum, chuyển thành tiểu đoàn 95 BĐQ Biên phòng với quân số 430 chiến binh.
- Trại Đức Lập ( A-239), tỉnh Quảng Đức, chuyển thành tiểu đoàn 96 BĐQ Biên phòng với quân số 400.

3 trại đóng cửa, chấm dứt hoạt động:


- Trại Kontum (B-24) đóng cửa ngày 30 tháng 11/1970;
- trại Ban Mê Thuột ( B-23), đóng cửa ngày 15 tháng 12/1970;
- trại Pleiku (Company B), đóng cửa ngày 15 tháng 1/1971.

Vương Hồng Anh

Posted by: NamQuoc Jul 25 2017, 11:24 AM


Ba mươi năm ấy


Cái thành phố cao nguyên đất đỏ ấy, mùa mưa thì nhớp nháp bùn dẻo, mùa hè và những ngày mùa đông lạnh và khô thì "bụi hồng" quyện theo từng cơn gió, chẳng có gì hấp dẫn hay ít ra làm khuây khỏa nguôi ngoai nỗi nhớ nhà, nỗi buồn chán của những con người tứ hướng tập họp lại vì phận sự, vì sinh kế - những quân nhân, những công tư chức, già hay trẻ, những nữ chiêu đãi viên trong các quán rượu, v.v. Giá sinh hoạt thì đắt đỏ; mọi thứ cá, tôm, cua đều phải vận chuyển từ Sài Gòn, và phải bằng đường hàng không cơ mới đủ độ tươi. Phố xá thì nhỏ bé, tuy không đến nỗi "đi dăm phút đã về chốn cũ" như Vũ Hữu Định diễn tả, chỗ vui chơi giải trí và "đạp đổ" thì tìm đỏ mắt cũng không ra.

Ấy vậy mà từ cao độ của chiếc trực thăng sắp đáp, nhìn những mái nhà tôn, những mái ngói nâu rải rác bên dưới, tôi cảm thấy lòng lâng lâng với nỗi vui được về thành phố; dĩ nhiên không rộn rã như mỗi lần về Sài gòn. Từ rừng già Plei Me về, tôi có hai ngày, ngày mai và ngày kia, tại Bộ Chỉ Huy này để họp - và dĩ nhiên tôi ngầm hiểu mình có hai đêm để vội vã tìm vui, để truy hoan trả đũa! Nhà binh có nhiều thứ ngầm hiểu để hoàn thành nhiệm vụ: tôi được đào tạo thế - nhận specified task và phải tự tìm ra implied task. Tôi quá giang một xe nhà binh từ phi trường ra phố, xuống xe trước khách sạn quen thuộc mọi lần.

Tắm rửa xong, vừa tròng trở lại bộ quân phục, định bách bộ ra phố tìm thức ăn thì có tiếng gõ cửa phòng. Tôi mở cửa và không ngạc nhiên khi thấy trước mặt mình là người hạ sĩ quan trẻ, vui tính của phòng nhân viên tại Bộ Chỉ Huy mà ngày mai tôi sẽ vào họp. Có nghìn cách để anh ta biết tôi về Pleiku lúc nào và tá túc ở đâu. Ngay khi chiếc trực thăng vừa nhấc bổng lên thì một bản báo cáo ngắn về ngày giờ tôi rời căn cứ Plei Me đã bay theo làn sóng điện và đáp trên bàn giấy trong văn phòng anh ta trước khi chiếc máy bay chạm đất ở phi trường. Hoặc giả một người nào đó báo tin, như người tài xế vừa cho tôi quá giang chẳng hạn. Cái tập thể của những người vận quần áo trận này có đông đúc thật - chả thế mà thị trấn này, nơi đặt bản doanh của một quân đoàn, đã được mệnh danh là thành phố của lính - nhưng người ta thường biết rõ nhau cả. Anh ta gặp tôi để chuyển đạt hai điều. Điều thứ nhất là chuyển lời vị xếp của anh ta thăm hỏi tôi có cần xe cộ gì không. Điều thứ hai thật bất ngờ và là một sự kiện sẽ hằng sâu trong trí tôi nhiều năm sau. Số là anh ta có một "thằng em" - một từ ngữ dùng thật rộng rãi từ thời nào tôi không rõ, để chỉ một người thân, từ em ruột, em họ, đến người dưng nước lã mà người ta cảm thấy đủ thân thiết để gọi thế - rất ghiền khiêu vũ. Hắn ta ghé Pleiku nhiều lần và nghe nói nhiều về Hội Quán Phượng Hoàng, nên đêm nay hắn muốn được vào cho biết. Điều phiền toái là không ai bảo lãnh cho hắn vào cổng. Thế là tôi được anh chàng trung sĩ phòng nhân viên nọ gởi gắm người anh em của anh tạ Chuyện như thế có thể cũng bình thường thôi, nếu anh ta không làm tôi khựng lại bằng mấy lời kể lể thêm. "Nó làm lơ xe đò chạy đường Sài Gòn - Pleikụ Hầu như tháng nào cũng ghé đây. Quần áo dính dầu nhớt dơ bẩn. Em phải cho nó mượn áo quần và giày để đi chơi tối naỵ" Trong một thoáng tôi bỗng tự trách mình sao quá dễ dãi; tôi muốn rút lại lời hứa bảo lãnh hắn nhưng lại ngại nói. Hắn ghiền khiêu vũ à? Có thật thế không? Lối giải trí này có thuộc thành phần như hắn không, hay là hắn xâm nhập Hội Quán vì một mục đích nào đó. Hằng đêm có biết bao sĩ quan, từ úy đến tá, thậm chí vị tướng tư lệnh vẫn thường lui tới đây. Có thể hắn là người của đối phương cũng nên. Rồi tôi bỗng thấy mình sợ hão huyền - đúng hơn, tôi muốn tin mình đã lo sợ hão huyền. Cuối cùng là hắn sẽ đợi tôi gần cổng Hội Quán lúc bảy giờ rưỡi đêm đó.

Tôi không biết Hội Quán Phượng Hoàng được lập ra hồi nào, và cũng chẳng có hơi sức đâu dò tìm ngọn nguồn của nó, vì phải dành hơi sức để lội suối băng ngàn và để truy hoan trả đũa! Nhưng qua những câu chuyện không đâu vào đâu chung quanh mình, tôi biết man mán nó là sáng kiến của một vị tư lệnh Quân Đoàn II này. Dù sao thì phải nhận những thằng ghiền nhạc, ưa nhảy nhót, cũng như những kẻ chỉ ghiền không khí vũ trường như tôi, tất cả đều thầm cám ơn vị tướng ấy. Và Quân Đoàn II đã điều hành Phượng Hoàng tuyệt cú mèo. Đội ngũ vũ nữ phải nói là "sạch nước cản" hết, trên trung bình hết. Chúng tôi có những lối nói riêng với nhau của những người trẻ; khi một cô gái được chấm điểm trên trung bình thì cả bọn đều hiểu về phương diện nào và theo tiêu chuẩn nào. Các cô vũ nữ ở nội trú trong dãy nhà đằng sau Hội Quán. Không khí vũ trường ấm cúng, nhiều tính chất nghệ thuật và nhất là rất an toàn, một phần vì khách chơi không ô hộp lắm, một phần vì biện pháp an ninh chặt chẽ. Chỉ có sĩ quan mới được vào, và thường dân thì chỉ một số có thẻ hội viên mới được đến giải trí. Không được mang vũ khí, chất nổ, dao, v.v. vào Hội Quán. Nhân viên quân cảnh tại cổng thi hành nhiệm vụ đúng mức. Thú thực, tôi bước vào một vũ trường ở Sài Gòn hay một nơi nào khác với tâm trạng bất an thường trực. Với Hội Quán Phượng Hoàng thì không thế, từ lần đầu tiên cho đến những lần sau này khi đã thành ma cũ.

***

Người trung sĩ phòng nhân viên giới thiệu hắn với tôi khi chúng tôi vừa xuống xe ngoài cổng Hội Quán. Tôi vờ nhìn với vẻ chú ý xã giao của người mới gặp, trong khi kỳ thực cố vận dụng một độ quan sát "chụp ảnh" cái gương mặt xương xương có vẻ dãi dầu, đầu tóc lười chải kia. Hắn trạc tuổi tôi, hoặc nếu có vẻ lớn tuổi hơn chút đỉnh thì tôi nghĩ do cuộc sống lam lũ chứ không do năm tháng. Cái cảm nhận đầu tiên của tôi là hắn không có vẻ gian manh, cũng không dữ tợn; gương mặt toát ra một vẻ nhẫn nhục và điềm đạm. Dù sao, tôi tự nhủ, thôi cũng được, mình chả có gì mất mát cả. Tên hắn là Thanh. Đêm đó tôi đi cùng hai người bạn nữa. Anh chàng trung sĩ làm xong bổn phận với "thằng em" mình liền xin phép chúng tôi cáo từ.

Qua khỏi cổng, cả bốn chúng tôi rẽ trái, theo lối đi tráng xi-măng thoai thoải dốc dẫn đến cửa vào Hội Quán. Thanh cố ý đi chậm nhường tôi bước trước. Dĩ nhiên, tôi là đầu đàn mà, và cũng theo qui ước ngầm nhà binh, đầu đàn thì phải làm "trưởng chi" lát nữa đây, khi tàn cuộc. Tôi biết hắn ta không có hậu ý đó; chẳng qua hắn muốn chứng tỏ với tôi thái độ của kẻ chịu ơn, và với nhóm chúng tôi thái độ của kẻ biết trên biết dưới.

Qua một hành lang ngắn có vài chiếc ghế dựa dài nằm dọc một bên lối đi để khách ngồi chuyện vãn trước khi nhập cuộc hoặc chờ đợi người mình hẹn hò, chúng tôi tiến đến cửa bên trái vào phòng khiêu vũ - cửa bên phải dẫn vào phòng ăn. Vén bức màn nhung xanh sậm buông dài gần chấm nền nhà, chúng tôi chạm một không gian lào xào tiếng nói cười khe khẽ và sực mùi thuốc lá, nước hoa, với ánh đèn màu mờ ảo không soi rõ mọi vật. Tế bào thị giác hình que của chúng tôi chỉ tốn vài giây điều chỉnh để cho chúng tôi trông rõ toàn cảnh: giữa căn phòng là sàn nhảy hình chữ nhật lát gạch hoa, "âm" dưới nền có lẽ gần một tấc, được rọi sáng bằng những bóng đèn cẩn chung quang bờ viền. Khoảng còn lại là bàn ghế sắp theo từng hàng và cách khoảng để chừa lối đi ngang và dọc. Quày rượu và thu tiền nằm cuối phòng, cạnh lối vào phòng vệ sinh. Ban nhạc bắt đầu chơi những tấu khúc vui nhộn để báo hiệu buổi khiêu vũ sắp bắt đầu.

Điều không may: viếng Phượng Hoàng vào một tối đông khách như đêm nay, và điều may mắn: còn duy nhất một bàn cho chúng tôi. Chúng tôi vừa yên vị thì bà tài pán đến. Sau câu hỏi han đon đả cố hữu, bà ta vào đề ngay:
- Chỉ còn hai cô chưa kẹt bàn.
- Còn đào để nhảy là quí rồi.
Tôi đáp nhanh như để trấn áp nỗi thất vọng của mình. Chúng tôi gồm những bốn trự mà chỉ có hai cô gái nhảy để chia nhau thì thật không bõ công của kẻ lâu ngày mới về thành phố! Lúc người đàn bà vừa quay lưng đi tôi dặn với theo:
- Chúng tôi bao bàn các cô tối nay.
Bà ta quay lại, ngập ngừng một lát rồi nói:
- Lệnh của sĩ quan quản lý không cho chúng tôi nhận bao bàn những tối đông khách, để các cô có thể chạy bàn tiếp khách. Nhưng để tôi cố thu xếp.

Chạy bàn có lẽ là một từ ngữ trong thế giới vũ trường. Nó không đồng nghĩa với công việc của một bồi bàn trong tiệm ăn. Vũ nữ nhảy với khách bốn bản là đủ một tích-kê và được điều động chạy sang bàn khác trong thứ tự "đặt hàng".

Hai bóng dáng con gái từ từ tiến về phía bàn chúng tôi, một dong dỏng cao và một hơi đẫy đà. Chút bực dọc còn sót lại trong tôi nãy giờ bỗng vụt tiêu tan khi tôi nhận ra Dung "mình dây" và Liên "Bắc Kỳ". Có thế chứ. Nhưng tôi không hiểu làm thế nào hai cô gái này lại không kẹt bàn trong một tối đông khách như đêm naỵ Những người khách đến đầu tiên bao giờ cũng có điều kiện chọn người mình thích, và họ không dại gì mà không đòi cho được hai hoa khôi của Hội Quán.
Một trong hai người bạn tôi lên tiếng bày tỏ hân hoan vì may mắn được gặp hai đệ nhất giai nhân. Liên Bắc Kỳ, một cây ăn nói trong đám vũ nữ tại đây, liến thoắng đáp:
- Không dám. Anh quá khen. Phải nói là chúng em may mắn được ngồi với các anh đêm naỵ Sáng nay Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn có gọi dặn phòng quản lý dành sẵn hai cô để tiếp thượng khách của ông từ Sài Gòn ra, và tụi em được lệnh chờ. Thế rồi khi nãy ông ấy gọi đến báo Hội Quán biết là chương trình đã hủy bỏ.

Tôi mới vỡ lẽ. Ít nhất mọi sự phải có nguyên ủy của nó! Tôi liếc Thanh. Hắn không chú ý nhiều đến hai cô gái. Chiếc bàn chỉ vừa cho bốn người ngồi lại phải dung nạp sáu mạng nên ngồi khá chen chúc. Dung ngồi chen vào giữa tôi và Thanh. Liên ngồi ở dãy ghế đối diện, giữa hai người bạn tôi. Thanh nhìn lơ đãng sàn nhảy và quang cảnh khắp phòng. Hắn không có vẻ mán rừng, vẻ nhà quê mới lên tỉnh.

Ánh sáng vụt đổi màu, trắng hơn một tí, giống như mặt đất âm u bỗng vụt sáng hơn vì mặt trời vừa ra khỏi đám mây đen. Cùng một lúc, nhịp điệu dồn dập, thúc giục của một bản paso doble trỗi lên. Đêm khiêu vũ bắt đầu. Vài cặp đã bước ra sàn nhảy. Hai người bạn tôi cứ đùn hai cô gái cho chúng tôi, nói rằng để nhường cho tôi từ rừng sâu về và cho Thanh là khách mới đến. Thanh thoái thác, cho biết mình chỉ muốn ngồi nghe nhạc và nhìn vũ trường của Hội Quán Phượng Hoàng cho biết thôi chứ không sính nhảy nhót lắm. Tôi đứng dậy dìu Dung ra sàn nhảy.

Điệu paso doble vừa dứt, căn phòng bỗng mờ đi và âm thanh chuyển sang tiết điệu blue chậm rãi và dìu dặt. Thiên hạ lục tục kéo nhau ra sàn nhảy khá đông trong khi cô ca sĩ trên bục gỗ đang rên rỉ bản Sang Ngang của nhạc sĩ Đỗ Lễ. Tôi vừa định trở về bàn để nhường cho Thanh nhảy với Dung thì cô nàng kéo tay tôi lại nói, "đi luôn bản này đi anh."

Chúng tôi biết nhau qua mấy lần trước tôi ghé đây. Nàng nhớ mơ hồ khá lâu không thấy tôi trở lại. Thực ra nàng đã nhớ chính xác, vì từ đêm nhảy sau cùng cách đây sáu tháng tuy tôi có về Pleiku đôi lần nhưng bận những tiết mục khác nên đã không viếng Phượng Hoàng.

Bước nhảy chậm rãi như thế này rất thích hợp cho những cặp yêu nhau thủ thỉ. Tôi cho rằng không cứ gì những đôi tình nhân mới thủ thỉ trong điệu slow; cô vũ nữ nào cũng hay ép mặt sát vào khách và thì thầm những chuyện không đâu vào đâu. Cả một nghệ thuật trong nghề đấy. Một người bạn tôi đã suýt bỏ vợ vì một ả anh ta gặp trong một vũ trường. Cô nàng có một giọng nói thỏ thẻ làm mê mệt khách, khiến anh ta đâm "ghiền", không đến thì nhớ quay quắt chịu không nổi. Tôi cũng khám phá ra một "chân lý" nữa trong giới vũ nữ: những ác cảm vô căn cứ. Đừng tưởng các cô chỉ hành xử vì tiền thôi, mà còn vì cảm tính nữa. Các cô có những lựa chọn, những né tránh ngầm. Như cô ả Dung đêm naỵ Chẳng phải cô ta mê gì tôi, chẳng qua muốn tránh khéo anh chàng Thanh mà cô cho là dở hơi. Với Liên hay một ai khác, có lẽ tôi cũng có vài khoảnh khắc ngỡ ngàng trước thái độ này, và có khi còn khấp khởi mừng thầm chắc mình được yêu rồi. Với Dung, nổi tiếng ở Phượng Hoàng là tốc, là bất cần, là đạp đổ, thì tôi "thông cảm" ngaỵ Tôi nhớ có lần một người bạn cho tôi hay, "Dung nó đẹp nhất nhì ở đây, lại nhảy giỏi, nhưng kiếm ít tiền hơn các cô khác dung nhan kém hơn, nhảy tồi hơn, chỉ vì nó không chịu chài khách. Nó hành nghề vũ nữ nghệ sĩ lắm, tùy hứng lắm!" Chưa hết, tôi còn nghe một số huyền thoại nữa về Dung, nào là ngày trước cô ta thất tình vì một công tử con nhà giàu nên đâm ra ăn chơi, rồi sa chân vào đường vũ nữ, và từ đó nuôi trong lòng mối hận tình lẫn hận thù những khách chơi giàu có, ném tiền qua cửa sổ; nào là Dung hành xử theo con tim, và con tim nàng có những tiêu chuẩn mọi người không hiểu nổi, v.v.

Tôi không rõ những điều kia có đúng không, nhưng tôi được biết ít ra cũng có vài người tán gia bại sản hay điêu đứng vì chạy theo nàng.
- Anh ấy là bạn anh?
- Chỉ mới biết lần đầu.
- Anh ta làm sao ấy, vẻ khinh khỉnh. Vào vũ trường mà không nhảy nhót thì ngồi làm gì. Không chừng chẳng biết nhảy!
Tôi ậm ự cho qua, và nghĩ thầm, "sao cô ngốc thế, việc gì đến mình mà khó tính thế. Rồi người ta cướp hết khách cho mà đói meo!"
Chúng tôi ba đứa chia nhau nhảy với hai cô gái. Dàn nhạc đã chơi hơn một chu kỳ rồi, và mặc cho chúng tôi cứ thỉnh thoảng thúc giục, Thanh vẫn không chịu đứng lên dìu cô nào ra sàn nhảy. Cuối cùng tôi thấy - và có lẽ hai người bạn tôi cũng nghĩ thế - nên để hắn ta yên, vì chắc hắn ta không biết nhảy. Thoáng nghi ngờ lúc ban chiều về hắn lại trở về trong óc tôi.

Điệu bebop trỗi lên. Có hai cặp bước ra. Tự nhiên không ai bảo ai, ba chúng tôi chỉ thích ngồi nhìn người ta nhảy. Riêng tôi, một phần vì cũng chán nhảy rồi, phần khác tôi chỉ biết những bước căn bản của điệu nhảy này, như một học sinh mới tập làm luận văn chỉ biết viết những câu ngắn đúng văn phạm chứ chưa biết diễn tả bằng những câu bay bướm, cầu kỳ, nên không hứng thú lắm. Chính lúc đó Thanh ngỏ lời với chúng tôi, xin mượn hai cô gái. Tuy chưa rõ ý định của hắn, chúng tôi đều gật đầu hưởng ứng, hay khuyến khích thì cũng vậy. Thanh vừa đứng dậy vừa đưa hai tay nắm tay Dung và Liên. Dung rút tay lại, lên tiếng:
- Không được đâu, tôi chưa bao giờ nhảy kiểu này.

Thanh khẽ mỉm cười với vẻ tự tin:
- Đừng lo, các cô chỉ theo tôi. Cứ đi như mình nhảy với một người. Phần tôi, tôi làm được.
Chúng tôi nhìn không chớp mắt bộ ba đó đang tiến ra sàn nhảy.
Trong khoảng bao nhiêu phút giây tiếp theo chúng tôi hầu như quên bẵng ý niệm thời gian, cứ dán mắt vào hai nữ và một nam đang quay, lộn, đẩy, kéo theo nhịp điệu bản nhạc đầy âm hưởng Trung Hoa, Rose de Chinẹ Tôi nhìn mỏi cả mắt cũng không sao hình dung được những động tác của Thanh, nói chi đến học lóm vài bước nhảy tân kỳ kia. Đôi chân hắn ta thoăn thoắt, khi nện gót, khi dí mũi dày, trong khi hai tay không ngừng điều khiển Dung và Liên xoay, tiến, lui chung quanh mình. Đầu hắn ngẩn cao, vẻ mặt linh hoạt, đôi mắt khi thì nhìn Dung, khi thì nhìn Liên, nhưng trong ánh mắt tôi có cảm tưởng mình thấy được tia say đắm hướng vào một cõi xa xôi nào, cõi của âm thanh khi lãng đãng khi dồn dập đang quyện trong không gian mờ ảo của vũ trường.

Thế rồi không còn cặp nào trên sàn nhảy nữa; mọi người chỉ muốn ngồi chiêm ngưỡng bộ tam vũ biểu diễn. Sân nhảy trống chỗ, Thanh như con phượng hoàng có không gian rộng để vỗ cánh, càng lả lướt hơn, đã nới rộng những vòng quay cho Dung và Liên. Họ chiếm hẳn vùng trung tâm sàn nhảy.
Tôi đảo mắt một vòng quanh phòng, một phản xạ tự nhiên ngầm biểu lộ niềm hãnh diện vô căn cứ rằng thiên thần của vũ trường đêm nay là một người bạn của mình. Mọi con mắt đều dồn về ba người trên sân nhảy; thậm chí không ai nói chuyện riêng, không buồn nâng ly uống. Tất cả vũ trường như bị thôi miên.

Trên bục của ban nhạc tôi vừa thoáng thấy anh chàng thổi saxophone, mà tôi đoán là trưởng ban nhạc vì tuổi tác lớn hơn cả, đang ghé tai nói điều gì với tay chơi dương cầm. Rồi dàn nhạc chuyển âm giai qua bản đàn khác, nhưng tiết điệu Swing vẫn tiếp nối.

Lúc điệu nhảy chấm dứt, bản nhạc tạm biệt, bản Auld Lang Syne quen thuộc, bỗng trỗi lên gieo một âm hưởng lưu luyến báo hiệu cuộc vui đã tàn và đèn vụt sáng trong khi tiếng vỗ tay đồng loạt vang lên như pháo nổ, rồi râm rang một lúc trước khi còn nghe lác đác và lịm dần ở cuối phòng. Tôi chưa từng thấy một sự tán thưởng như thế ở những buổi nhảy tại các khiêu vũ trường. Tôi cũng chưa từng thấy một dàn nhạc nào đã tỏ ra ưu ái với khách bằng cách chơi liên tiếp hai bản đàn cho một vũ điệu như thế.
Nét mặt Thanh vẫn bình thản, dường như hắn ta đã từng làm vua vũ trường với đôi chân vàng của mình. Nhưng hai cô gái thì không giấu nổi những nụ cười hài lòng. Tôi đoán họ cảm thấy hãnh diện lây vì là một thành phần bất khả phân trong màn biểu diễn của Thanh.

Tôi liếc nhìn Dung. Vẻ đăm đăm, khó chịu lúc ban đầu biến mất trên gương mặt bây giờ xinh xắn, khả ái của cô tạ Nhưng cô nàng vẫn không "thân thiện" với anh chàng Thanh, trong khi Liên thì tíu tít khen bước nhảy của anh ta lúc cả bọn chúng tôi nối đuôi theo giòng người từ từ xê dịch ra phía cửa.
Ra khỏi phòng nhảy, chúng tôi đi dọc hành lang để ra cổng. Bên trái hành lang là phòng ăn của Hội Quán, với lác đác vài người vừa bước vào; phần đông khách chơi thích ăn ở các tiệm quán ngoài phố hơn. Tôi đề nghị đi ăn bún bò Nhà Xác thì hai cô gái và hai người bạn tôi tán thành ngaỵ Có lẽ đối với khách ăn đêm của Phượng Hoàng cái tên đó không những không gây ngạc nhiên hay sửng sốt mà còn kích thích cái dạ dày vào giờ đó đã bắt đầu cảm thấy cồn cào. Anh chàng Thanh mở to mắt nhìn tôi ra chiều không hiểu tôi đùa hay ngụ ý gì. Tôi giải thích cái tên Nhà Xác do đâu mà có: quán ăn lụp xụp do một tư nhân mở trong khu bệnh viện dân y, cạnh nhà xác. Có lẽ khắp Pleiku tôi không tìm đâu được một nơi bán bún bò ngon như ở đây.

Và tại quán bún bò Nhà Xác đêm đó Thanh đã là một đề tài khá lạ lùng đối với chúng tôi. Sau này tôi được biết, ngoài tôi ra cả bọn chúng tôi lúc đó ai cũng đang có trong đầu một giả thuyết bình thường và hữu lý về con người nhảy đẹp nhất kia, một giả thuyết có dị biệt về tiểu tiết nhưng tương tự Ở đại thể. Chúng tôi tin rằng hắn ta đã có một thời ăn chơi có hạng ở Sài Gòn. Nếu không phải con nhà giàu thì ít ra cũng xuất thân từ một gia đình trung lưu, và vì lý do này hay lý do khác bị sa cơ thất thế nên mới ra thân phận như ngày nay.

Một trong hai người bạn tôi hỏi Thanh có học qua lớp dạy khiêu vũ nào không; anh ta đề cập đến tên các vũ sư nổi tiếng của Sài Gòn. Thanh với vẻ mặt ngơ ngác trả lời rất gọn rằng không hề nghe tên các vị kia bởi lẽ từ bé đến giờ có được học khiêu vũ "đàng hoàng" từ trường lớp nào đâu!

Không muốn để chúng tôi thắc mắc lâu, Thanh bắt đầu nói qua về tuổi thơ khốn khổ của mình. Hắn trốn khỏi viện mồ côi Long Thành lúc lên mười tuổi, và bắt đầu kiếp sống đầu đường xó chợ giữa cái thành phố một thời được mệnh danh hòn ngọc Viễn Đông, một nơi mà cái giàu có, cái hào nhoáng xa hoa vẫn đi bên cạnh cái nghèo khó, cái lam lũ. Hắn trở thành cậu bé đánh giày ban ngày, và đêm đêm ngủ trong các chợ, hay dưới mái hiên nhà người tạ Rồi dần dần hắn tìm được một chỗ trú tốt hơn: ban đêm hắn đóng đô hẳn trong cái phòng nhỏ chứa dụng cụ của nhà hàng khiêu vũ Kim Sơn, do lòng tốt của viên quản lý tại đây. Hắn lớn dần, thành một cậu thiếu niên mười sáu tuổi lém lỉnh, sành sõi trong thế giới bọn đánh giày.

Hằng đêm hắn nhìn những cặp uyên ương vũ trường quay cuồng theo sóng nhạc. Hắn đâm thích khiêu vũ. Hắn học lóm bằng quan sát, bằng sự chỉ dẫn của những người chị "nuôi" vũ nữ vốn rất mến hắn, một tình thương mến dễ nẩy sinh giữa những kẻ cùng một nấc thang trong xã hội. Nhưng hắn có thiên bẩm về nhảy nhót. Hắn học một mà biết mười, hắn có óc sáng tạo, óc tổng hợp, có khả năng bắt chước. Tóm lại, hắn thâu tóm những tinh hoa nhảy nhót mà thiên hạ đem đến thi thố hằng đêm ở vũ trường rồi biến hóa thành những bước riêng của mình!
Nghe xong những lời tự thuật không màu mè của Thanh, mối thiện cảm của chúng tôi đối với hắn ta bỗng tăng lên. Dung vụt miệng nói:
Anh dìu tuyệt quá. Em không ngờ dễ đi thế!

Tôi ngạc nhiên nghe tiếng em ngọt ngào thay thế tiếng tôi bướng bỉnh trong câu duy nhất Dung nói với Thanh ở phòng nhảy. Hai người bạn tôi ngỏ ý muốn Thanh chỉ vẽ thêm những bước nhảy mới lạ. Thanh vui vẻ nhận lời và cho biết mỗi tháng anh đều theo chuyến xe đò của hãng Nam Trung từ Sài Gòn ra Pleiku một vài ngày. Về phần mình, tôi cũng muốn tầm sư học đạo nhưng biết thân phận mình - không phải lính thành phố - nên chẳng nghĩ đến việc cầu học như các bạn tôi.

Mọi người đều công nhận danh bất hư truyền của quán bún bò Nhà Xác, và cả bọn chúng tôi đều kêu thêm tô thứ hai. Ăn xong chúng tôi ngồi tán gẫu một lát. Có lẽ cái thú vui của những câu chuyện bù khú chỉ thực sự có vào những thời khắc khuya khoắt của đêm, ở những hàng quán lụp xụp. Dung lục bóp lôi ra gói thuốc lá Salem để mời cả bọn, nhưng chúng tôi không ai hút. Thanh thì cám ơn nhưng cho biết chỉ hút Capstan thôi. Anh chàng lôi từ túi áo trên ra một bao xẹp lép không còn điếu thuốc nào cả. Dung vội đứng dậy, tiến ra cửa, nơi một cô bé đang ngồi bên thùng thuốc lá bằng kiếng, và xỉa tiền mua một gói Capstan rồi trở lại bàn trao cho Thanh. Anh chàng móc tiền trả lại nhưng Dung khoát tay từ chối.
- Cám ơn nhé.
- Ơn nghĩa gì, đừng thù oán là được rồi.
Vừa nói Dung vừa phà khói ra bằng lổ mũi và cười mỉm. Trong một thoáng cái hình ảnh "bụi" và duyên dáng kia giải thích riêng cho tôi tại sao nhiều người đàn ông đã điêu đứng vì người con gái này. Duy câu trả lời vì sao quả tim nàng chưa rung động vì họ thì chỉ có trời biết.

Thanh bỗng phá lên cười, đoạn nheo một mắt, lần đầu tiên từ suốt buổi tối tới giờ hắn nhìn Dung với vẻ thích thú, buông một câu nghe vừa bông đùa vừa khẳng định:
- Các cô mới vua thù oán!
- Yên trí, em chỉ thù mấy thằng cha giàu, không thù anh đâu.
Tia nhìn tinh nghịch của Dung chiếu thẳng vào mặt Thanh khi cô nàng thốt lên câu đó.
Chợt một người trong nhóm chúng tôi nhắc rằng đêm đã khuya, và chúng tôi vội đứng dậy, thanh toán tiền, rồi ra về. Sau khi đưa hai cô gái về chỗ trọ và đưa Thanh về nhà người trung sĩ anh nuôi, hai người bạn đưa tôi về khách sạn, và chúng tôi chia tay.

Mùa mưa của cao nguyên tới, kéo theo những trận đánh long trời, một điệp khúc chiến sự hằng năm, và tôi vất vả hơn với những cuộc hành quân liên miên. Bốn tháng kể từ đêm kỳ ngộ Ở quán bún bò Nhà Xác tôi mới trở lại Pleikụ Hai người bạn tôi vẫn còn đó. Chúng tôi lại viếng Hội Quán Phượng Hoàng để "mừng cho mày còn trở về được, và trở về lành lặn", nói theo lời mời của hai bạn tôi. Cảnh cũ, người xưa, chỉ thiếu Dung. Hỏi thăm về nàng thì chúng tôi được biết Dung nghỉ việc ba tháng rồi, về Sài Gòn, nghe đâu là để xây tổ uyên ương với một người khách chỉ gặp một lần duy nhất tại đây, bỏ lại sau lưng anh kép thương gia rất sộp cùng lời hứa về căn nhà bên suối mộng mị Ở Đà Lạt và một cuộc sống nhàn hạ, không phải chạy bàn ở đâu nữa. Bạn tôi cũng chẳng biết gì hơn thế.

Sự ra đi của Dung đã để lại sau lưng cô nàng cả Hội Quán Phượng Hoàng ngơ ngác. Ban quản lý cảm thấy một tài nguyên quí giá của Hội Quán vừa mất đi. Những khách chơi "nòi tình" cảm thấy hụt hẫng trong nỗi niềm rắp cung bắn sẻ. Những đồng nghiệp của Dung, từ những kẻ thù nghịch đến những người thân thiết, tất cả bàng hoàng; không ai hiểu nổi việc cô gái tốt số ấy âm thần ra đi, gạt qua một bên những người đàn ông thế lực, giàu có sẵn sàng hiến dâng mọi thứ mà một vũ nữ nào cũng mơ ước.

Lúc chia tay cách đây bốn tháng, hai người bạn tôi đã cẩn thận trao địa chỉ cho Thanh, nhưng từ đó đến nay tuyệt nhiên họ không nghe tăm hơi về sư phụ. Cả viên trung sĩ phòng nhân viên cũng không được tin tức gì về Thanh. Một lần anh ta có đến hỏi hãng xe Nam Trung thì chỉ được biết hắn ta không làm việc cho hãng đã lâu.

***

Philadelphia, PA, 1997.

Ba mươi năm đã trôi quạ Tôi không gặp lại một người nào trong năm người đã cùng ngồi ăn bún bò với tôi trong gian nhà lụp xụp một đêm năm xưa để có thể sửa lại câu thơ của cụ Nguyễn Du
Ba mươi năm ấy bây giờ là đây
Tôi mong tất cả hãy còn trên đời này, tất cả hãy bình yên, hãy được toại nguyện trong những gì mình ấp ủ, ở xứ người hay còn ở quê nhà.

Hà Kỳ Lam

Posted by: BienHo Aug 25 2018, 01:00 PM


Người tù chăn bò ở Gia Trung


Trời đang vào trưa. Nắng đứng bóng tàng cây sao rậm lá làm thành khoảng mát tròn trịa trên đỉnh đồi nằm bên con đường đất đỏ dẫn vào khu trại tù Gia Trung. Xa xa dưới chân đồi, ẩn hiện sau trảng tranh rợp gió là khoảng Tỉnh lộ mệt nhoài cố bám vào sườn dốc Tây Nguyên chênh vênh non núi. Khúc đường đầy ổ gà, mỗi ngày hiếm hoi vài chuyến xe đò Đồng Tiến uể oải quang gánh ngược phía An Khê hay xuôi về đồng bằng. Chân đồi phía bên kia tiếp giáp với trùng điệp núi rừng là dòng suối len lách lẩn khuất sau vạt nương rẫy hoang phế, xác xơ những hàng mì mảnh mai xiêu đổ. Buông làng rộn rịp dãy nhà sàn bên bờ suối ngày nào giờ chỉ lèo tèo vài cái chòi rẫy đã dột nát theo sự thất bại của phong trào xóa khố, định canh, định cư mà chính quyền Cách mạng địa phương vẫn bức bách hô hào. Người dân miền núi quen với cuộc sống du canh đã bồng bế nhau đi cao hơn xa hơn vào trong xanh thẳm cheo leo của núi rừng để tìm sống cuộc đời Tự do phóng khoáng cố hữu.

Dưới tàng cây sao, một người đàn ông khoảng ngoài ba mươi đang chăm chú đánh tranh. Chân trái người đàn ông cụt đến đầu gối. Chiếc chân gỗ, có lẽ do anh tự làm, đứng một mình buồn bã trên nền đất. Cạnh đống tranh đã bện xong, sắp ngay ngắn chừng mươi tấm, một con bò cái đứng uể oải nhai đám cỏ xanh non lẫn với lá mì mà người đàn ông đã chu đáo gom lại thành đống. Cả người lẫn bò đều trầm mặc như nhau.

Đêm qua người đàn ông mất ngủ. Nằm trăn trở trên chõng tre, anh miên man nghĩ đến gia đình vợ con và niềm hạnh phúc trong mơ. Hôm nay là ngày đầy năm của đứa con đầu lòng anh chưa thấy mặt. Ngày con gái thôi nôi, chập chững bước chân nhỏ đầu đời, vậy mà bố không có mặt ở nhà. Anh mơ màng đến bước chân trở về khua tiếng gỗ trên khoảng sân gạch trước thềm nhà lẫn trong lời reo mừng trẻ thơ để rồi chỉ nghe trong vọng dậy đêm trường tiếng mình thở dài trống vắng.

Người đàn ông ngưng bện tranh, ngước mắt nhìn quanh. Con dốc sỏi vướng bụi đỏ ngoằn ngoèo dẫn lối vào trại tù oan khổ. Vệt khói gầy từ chiếc chòi tranh còm cõi, lay lắt màu lam xám cơ hàn bên dòng suối buồn bã trôi phía dưới chân đồi. Con đường nhựa loang nắng mất hút lối về trong mờ mịt Tây Nguyên. Tất cả chợt lan xa, hoang tàn tĩnh vật. Chỉ còn lại trong hồn anh niềm im lặng thinh không. Người đàn ông ngồi bất động, mắt như im sửng vào một nơi nào đó trong tận cùng suy tưởng.

Anh để lại một phần chân trái của mình trên chiến trường đầu tiên. Sau vài tháng kiên gan tập lại chuyện đi đứng với bàn chân nhân tạo tại một Trung tâm chỉnh hình, người Sĩ quan Thương binh trẻ trở về Thành phố quê hương làm thầy dạy học. Ngôi trường cũ và mối tình đầu thuở học trò đã giúp anh sống cuộc đời hạnh phúc bình thường. Làm chồng. Sắp làm cha thì cuộc chiến tàn. Gã học trò cùng lớp năm nào theo đoàn người chiến thắng từ rừng rú kiêu hãnh trở về tiếp thu trường cũ. Vinh quang lẫn mặc cảm không được đoái hoài vẫn làm hắn ghen tức nhiều đêm trong cánh rừng mật khu thiếu sinh khí đã khiến hắn quên đi hào khí mà trở thành đanh ác. Ngày khăn gói đi trình diện học tập cải tạo, người Sĩ quan miền Nam cầm tay vợ mà lòng rưng buồn chẳng nói được tiếng giã từ. Mắt nàng nhòa lệ tiễn đưa lẫn giọt âu lo cho đứa con đầu lòng đang vào những tháng cuối cưu mang.

Phận nước đưa đẩy phận người cùng cảnh ngộ gần lại với nhau. Từ nhiều nơi trên khắp miền Nam, cả ngàn Sĩ quan cũ đã bị bắt đi tập trung cải tạo ở Gia Trung, duy chỉ mình anh là Thương binh cụt chân. Bạn tù nhiều người đã giúp anh hàng ngày làm xong chỉ tiêu lao động, cùng nhau vượt khó trong tình đồng đội tình người.

Năm tù đầu tiên chậm chạp trôi qua trong muôn vàn nhớ thương về gia đình, về người vợ hiền mảnh mai yếu đuối chưa quen chuyện gánh gồng và đứa con thơ chưa hề thấy mặt cha. Ngày nhận lá thư nhà đầu tiên có kèm tấm hình mẹ với bé gái Thiếu-Anh vừa tròn sáu tháng và "Giống bố như đúc", người Thương binh mừng tủi khóc như một đứa trẻ. Tình vợ chồng và lòng thương con đã giúp anh nương náu từng ngày.

Gần đây, hơn một năm sau những ngày cuối tháng Tư năm trước, viên quản giáo trưởng mới của trại từ miền Bắc thuyên chuyển vào gọi anh lên "làm việc". Điều mà anh vẫn từ lâu lo sợ đã đến. Chiếc chân nhân tạo như một phần thân thể của anh từ mấy năm nay thuộc về nhân dân. Anh phải trả chân của mình lại cho Nhân dân. Trại cho anh mấy ngày làm đôi nạng gỗ để giúp đi lại. Cách Mạng khoan hồng sẽ giao công tác thích hợp để anh tiếp tục lao động cải tạo. Nghĩ đến những chiếc "hòm" nhôm sáng loáng mỗi Cán bộ, vệ binh, hí hửng xách theo khi về Bắc nghỉ phép, người Thương binh nhìn xuống viên quản giáo lùn thấp, dằn lòng :

- Tôi chỉ lo nếu người quen của Cán bộ thấp bé quá thì sẽ gặp trở ngại. Cán bộ biết đấy, vì như thế phải điều chỉnh đế chiếc giày chân phải rất cao, khó đi lắm. Ngày trước, lúc Ngụy làm chân giả cho phế binh, họ có Bác sĩ, chuyên viên, đo kích thước làm riêng cho từng người rồi hướng dẫn chỉnh hình luyện tập hàng tháng trời.

- Đồng chí K trưởng của đơn vị cũ tôi không bé người lắm đâu...

Viên quản giáo khựng biết mình lỡ lời, cặp môi dày thâm khói thuốc lào nhếch nụ cười gằn trên khuôn mặt vừa đanh lại.

- Chả sao ! Đồng chí thủ trưởng sẽ khắc phục được tất ! Mỹ Ngụy, đồng chí ấy còn đánh thắng thì sá gì cái chân què.

Người Thương binh cũng cười khi anh bước xuống hiên ngôi nhà họp khang trang được dựng trên nền đất đắp cao bằng đôi tay khéo léo của những người tù cải tạo.

- Vâng ! Có chân đi, lại được cao thêm vài phân thì tốt quá...

Quay ngước nhìn mái hiên tranh lợp dày gần nửa mét, anh khẻ thở dài bước qua khuôn sân bằng phẳng láng bóng. Anh đang bước những bước cuối bằng đôi chân sắp bị tiếm đoạt của mình.

Ngày người Thương binh tháo chiếc chân giả trao cho viên quản giáo rồi chống đôi nạng gỗ về trại, anh cảm thấy như chân trái mình đang rỉ máu. Anh vừa bị cắt mất đi phần thân thể của mình. Nỗi đớn đau thấm đậm xót xa hơn vết cắt trên da thịt. Nỗi đau chung của một thế hệ bị lường gạt, bị tước đoạt, lưu đày, trên chính Quê hương mình.

Vài hôm sau, vệ binh chở một xe đầy khoai mì khô và người Thương binh đến một Hợp tác xã nông nghiệp trong khu vực. Họ đổi khoai mì để nhận một con bò già, còm cõi, mang về trại. Gã chủ nhiệm phấn khởi với số lượng lớn khoai mì sẽ giúp hợp tác xã báo cáo vượt mức chỉ tiêu thu hoạch, rối rít mời người vệ binh ngồi chồm hổm trên nền đất kéo từng hơi thuốc lào dài, khói nồng thơm sặc sụa. Nhóm xã viên áo quần lam lũ, đi lại như bóng, lần lượt đổ từng thúng khoai vào bao tải đặt trên bàn cân. Họ cặm cụi cân đong, phụ nhau vác từng bao mì đầy ắp vào kho.

Con bò đứng lặng lẽ ở cuối sân, mắt mông lung nhìn khoang trời xanh thẳm, dáng suy tư như một nhà hiền triết đang tiếc thương cho cuộc đời phi lý quanh mình.

Anh Thương binh chống người trên nạng gỗ thương hại nhìn con bò già - phần hoán đổi thua thiệt mà anh phải chấp nhận không thể đề kháng. Anh với cái chân đã bị tước đoạt và con bò già mất năng suất lao động, đang lơ đãng nhai lại mớ cỏ không hề có trong cái bao tử lép, đã bị chuyển qua vế thiếu trong một biến trình ngụy chứng nghịch lý và hồ đồ.

Một người đàn bà trẻ khăn choàng đầu, tay áo nâu dài phủ kín những ngón tay, vội vã bước vào sân nhà hợp tác. Nàng đứng nhìn chiếc xe khoai mì vơi quá nửa, thì thầm trao đổi với một người đàn bà trong nhóm, rồi thoắt bước đến bên con bò. Cô đứng tần ngần, xót thương nhìn đôi mắt bò hiền từ đang mở lớn nhìn nàng. Từ ống áo nâu cũ lấm bụi thuôn ra những ngón tay thon thả trắng hồng. Nàng để tay lên đầu con bò một hồi lâu rồi nhẹ vuốt lên khoảng lưng vàng ủng gầy gò. Cô gái cúi đầu thổn thức, hai hàng nước mắt lăn đọng trên khuôn mặt thanh tú.

Người Thương binh chống nạng về phía cô gái. Nàng ngẩng đầu nhìn anh, đôi mắt còn ngấn lệ vướng víu chút e ngại lẫn ngạc nhiên. Cô gái còn trẻ lắm, có lẽ chưa đến hai mươi. Anh ngại ngần tự giới thiệu mình. Cô gái thoáng nhìn gả vệ binh vẫn ngồi chồm hổm trên nền đất đang ồn ào tán chuyện.

- Cháu cũng đoán chú từ trong trại Gia Trung ra. Không hiểu sao Thương binh như chú mà họ cũng bắt đi cải tạo?

- Tôi vẫn tự hỏi mình từ hơn một năm nay câu hỏi tương tự. Thôi thì cúi đầu ráng sống. Hi vọng ngày mai trời lại sáng...Có lẽ cô rất thân thuộc với con bò này ?

Cô gái quay đầu, cố ngăn lòng xúc động đang khơi.

- Đây là một trong bầy bò đẻ bảy con của gia đình. Năm ngoái cha mẹ cháu bị kiểm kê theo diện tư sản. Bầy bò bị sung công. Chị em cháu đặt tên bò theo bảy nốt nhạc. Ba con giao về Hợp tác xã này, nhờ đó mà cháu được làm lao động nhẹ. Đây là con La. Đầu tháng Hai rồi, con Rê con Mi bị đổi cho bộ đội để họ ăn mừng. Hôm nay tới lượt con La. Ba mươi tháng Tư qua rồi, lễ gì sắp tới nữa vậy chú ?

Người Thương binh xúc động thả tầm mắt nhìn bãi đồi hoang cháy ngoài kia. Chàng mường tượng đến bầy bò khỏe mạnh ung dung với cỏ mượt trên ngọn đồi xanh. Nhạc chuông ngân nga đọng bóng hoàng hôn theo từng bước chân gia súc chậm rãi trở về chuồng. Tiếng cười con gái hồn nhiên trên đồi chiều bay theo âm nhạc. Phận người. Phận bò. Phận đời cuồng xoay trong vòng biện chứng duy vật điêu ngoa. Những con bò bị sung công, một lần nữa với thân phận đọa đày đang trở thành hiến vật cho cuộc tế lễ thần linh mới.

- Còn vài tháng nữa mới đến tháng Chín. Cô cũng biết... phận tù đày... nhưng tôi sẽ cố gắng để con La thảnh thơi no đủ được ngày nào hay ngày đó.

Cô gái vuốt ve khúc lưng con La gầy nhom trơ xương sườn. Nàng nghẹn ngào gởi gắm sao nghe như tiếng mình đang thốt lên lời tự nhủ.

- Cảm ơn chú. Dù sao con La cũng sẽ được ung dung nghỉ ngơi vài tháng trước khi yên phận. Cha chung không ai khóc... Ở đây, xã viên ai cũng lợi dụng sức bò để bớt nhọc nhằn cho mình nhưng chẳng ai màng lo tới hoặc có thì giờ để chăm sóc nên con La ngày càng ốm yếu.

Cô gái quày quả bỏ đi lúc chiếc xe chở con La rời nhà hợp tác chạy về Gia Trung. Người Thương binh biết cô gái đang khóc ròng trên mỗi bước chân nàng. Bấc giác chàng đưa tay vỗ về sống lưng trơ xương của con bò già vẫn nằm im trên sàn xe đang gầm gừ leo dốc.

Công việc chăn bò tưởng đơn giản thực quả khó khăn cho người Thương binh phải chống nạng gỗ băng đồi, trèo mương, dẫn bò tìm vùng có cỏ non. Từ rạng sáng, sau khi lãnh khẩu phần cơm độn khoai và bi-đông nước, lúc vệ binh dẫn các tổ lao động đi thành xâu dài lên rẫy thì anh lê nạng gỗ dẫn bò xuống đồi đi tìm ăn đến chạng vạng tối mới về đến trại. Gần đây người thương binh vui mừng tìm ra được vùng đồi cỏ mượt xanh, không xa suối, cho bò ăn no tắm mát, tuy phải chịu khó chống nạng đi xa. Được ăn no và khỏi phải thồ kéo nặng nhọc suốt ngày, con La nhanh chóng lấy lại sức lực. Tuy còn gầy còm nhưng những lằn trũng giữa xương sườn cạn dần.

Một buổi chiều sau khi chống nạng trèo dốc về đến trại, anh cột bò vào chuồng cạnh khu nhà vệ binh rồi mệt mỏi về láng. Bụng đói cồn cào mà thân xác thì chỉ muốn nằm vật ra ngủ vùi. Người Thương binh ngạc nhiên khi thấy đông đủ bạn tù đang ngồi quanh chõng tre của anh chờ đợi. Giữa chỏng nhô cao một vật gì đó được đậy kín bằng chiếc tấm đắp. Mọi người nhôn nhao tranh nhau bảo anh nhắm mắt chờ nghe hô 1, 2, 3 xong mới được mở ra. Anh lặng người nhìn trừng trừng chiếc chân giả trên chõng tre mà nước mắt hân hoan đầm đìa trên má. Lời cảm ơn chiến hữu, tình bạn, tình người, khản nghẹn trong nỗi vui ngần ngật choáng váng. Anh chợt biết rất rõ mình có thể đứng thẳng và thách thức mọi điều. Những bàn tay nhân hậu đã nắm chặt lấy nhau tự tại thì có sá chi chút cơ hàn khổ nghiệt.

Gần nửa tháng qua, bạn tù trong láng đã âm thầm đo đạc chiếc chân cũ của anh rồi cùng nhau góp tài năng sáng kiến hoàn thành chiếc chân mới. Chân đẽo bằng gỗ cây căm-xe rất tinh xảo. Phần để cột nối vào bắp vế được làm bằng nhựa bọc da rất công phu với những sợi dây da có nẹp cài chắc chắn.

Người hy sinh cái xách da tốt, một bạn tù lớn tuổi, nói đùa.

- Có "chưn đứng" rồi thì ráng chăn bò cho mập để hôm nào cách mạng chia cho mỗi đứa một miếng thịt để nhét kẽ răng ăn mừng nghe "đồng chí".

Buổi tối hôm đó, người Thương binh mừng quá quên ngủ. Anh gắn chân vào, điều chỉnh tới lui, tập đi hằng giờ.

Chỉ vài ngày sau khi người Thương binh có chân mới, giữa một buổi học tập chính trị sau giờ lao động, quản giáo gọi anh đứng dậy. Cách mạng khen ngợi anh đã khắc phục tự làm chân gỗ để đi, không cần nạng và không lệ thuộc vào chân giả Mỹ Ngụy để lại. Cách mạng chí công vô tư sẽ giúp đỡ anh nâng cao năng suất lao động cải tạo. Từ nay ngoài công tác chăn bò tăng nhanh trọng lượng, mỗi ngày cách mạng tạo điều kiện để anh đóng góp thêm vào chỉ tiêu lao động sản xuất các bạn tù phải làm. Tối hôm đó, tay xách chiếc đòn gỗ cùng bước về láng, tổ lao động của anh có thêm câu chuyện để cùng nhau cười qua đêm.

Hàng ngày dẫn bò xuống tắm ở dòng suối chân đồi, người thương binh gợi chuyện rồi trở thành thân mật với ông già người Rhadé một mình giữ cháu ở cái chòi rẫy bên bờ suối. Đứa bé trai chưa đầy bốn tháng mà cha mẹ phải bỏ ở nhà nhờ nội trông để đi làm rẫy xa cho hợp tác xã nông nghiệp. Mỗi ngày họ phải ra đi từ rạng sớm đến tối mịt mới về lại chòi. Ông nội già yếu chẳng có chi ngoài nước cơm pha muối để nuôi cháu. Lần anh trao cho người Thượng già nhúm đường cát trắng quậy trộn vào nước cơm, nhìn đứa bé ngon lành nuốt trọn từng muỗng ngọt ngào mà lòng anh bàng hoàng xúc động. Từ đó, mỗi lần bạn tù sớt cho chút đường cát, tán đường, nắm muối, dúm bột ngọt anh đều không quên người bạn vong niên nghèo khó bên bờ suối. Ông già Rhadé cũng cảm tấm lòng người bạn Kinh khổ nạn, chỉ anh giăng bẫy đặt lờ giúp tổ lao động "cải thiện" bữa cơm tối. Gặp ngày "trúng mối" anh hí hửng cất giấu mang về trại con cá nhỏ hay chú thỏ con bằng nắm tay ngờ nghệch sa bẫy. Người và bò với những tấm tranh oằn lưng đếm từng bước mệt nhọc trên con dốc dài trở về trại mỗi chiều hôm.

Mùa hè cải tạo thứ hai đang đến trên vùng đày ải núi non với những trận mưa tầm tã nghiêng xám đất trời. Mưa nguồn lê thê đêm tù, mở trừng trừng giấc mộng héo hon, dột nát mái hồn người bơ phờ đất trích.

Một buổi sáng sau cơn mưa đầu mùa, anh vội vã dẫn bò lên đồi, thở ra nhẹ nhõm đứng nhìn những tấm tranh bện xong xếp gọn gàng bên đống lá tranh đã phơi chất khô ráo trong chòi. Anh thầm cảm ơn người bạn vong niên. Nghe lời khuyên của ông già Rhadé, anh "tranh thủ" mấy hôm liền dựng chòi. Mái lá lợp xong ngày trước vừa kịp cho trận mưa rừng khai mùa rầm rĩ suốt đêm.

Gã vệ binh đứng nhìn xoi bói hồi lâu cái chòi tranh nép mình bên gốc sao già rồi bỏ đi về phía sườn đồi nơi người Thương binh đang cắt tranh. Quẩn bên anh là con bò đang phe phẩy đuôi gặm cỏ. Hắn chăm chú đứng quan sát người thương binh với cái chân gỗ đang nhanh nhẹn đi lại gom tranh vừa cắt thành bó.

- Anh bảo quản chất liệu lao động như thế là tốt lắm.

Câu nói gợi chuyện tan rớt trong tiếng cỏ tranh xào xạc. Hắn nhìn cảnh đồi êm vắng rồi yên tâm vác súng bỏ đi. Bước chân người lính miền Bắc vất vả leo quãng dốc đất mòn trơn tuột. Đôi dép lốp Bình-trị-Thiên không còn ích lợi gì cho hắn vào lúc này. Người vệ binh lúi húi tháo dép xách tay. Hắn bấm từng bước chân trần rịn thấm đất đỏ cao nguyên ướt loang như máu.

Tiếng khóc sơ sinh đòi sữa vẳng lên từ cái chòi rẫy bên bờ suối nghe mà nao lòng. Đã mấy hôm nay anh và các bạn tù chẳng còn chút đường nào để làm ngọt thơm miếng nước cơm loãng nhạt. Tiếng khóc đúng cữ nghe như tiếng kẻng báo cơm buồn bã làm anh cảm thấy đói. Khẩu phần cơm độn mì bới theo, chỉ lưng nửa cái lon gi-gô, anh ăn trọn với muối mà chẳng thấm vào đâu so với cái bao tử lép. Người Thương binh thở dài vói tay lấy cái bi-đông nước treo bên gốc cây sao. Anh tháo chân, ngồi tựa vách chòi, lặng lẽ uống từng ngụm nước.

Chênh vênh trên dãy đồi chồm cúi vào nhau nghiêng ngã, vài cụm mây xám vướng víu trôi trên nóc cánh rừng giang vật vờ gió núi. Con La chán cỏ, chạy quanh quẩn hồi lâu ở lưng chừng đồi rồi ung dung phe phẩy cái đuôi lông đen mượt, đủng đỉnh bước về chòi. Tiếng long cong phát ra từ những mẫu trúc đeo quanh cổ, đều đặn theo bước chân, nghe buồn buồn như tiếng mõ thiếu vắng âm vọng ngân nga của lời kinh tụng. Con bò đứng lại trước chòi. Tiếng trúc im bặt. Đứa bé cũng đã thôi khóc từ một lúc nào đó, có lẽ đã được Nội dỗ dành, ngủ qua cơn đói. Buổi trưa núi rừng ngút ngàn vắng lặng, mơ hồ tiếng gió đùa quanh tàng cây sao nắng in bóng lá.

Người Thương binh lạ lùng nhìn con bò anh chăm sóc hàng ngày. Anh nhớ lại con bò trơ xương đứng âu sầu trước sân nhà hợp tác xã hai tháng trước đây. Bụng con La no tròn xuôi theo bờ lưng đầy đặn, bóng ửng màu lông vàng sậm, chẳng còn chút vết tích nào của dãy xương sườn đói khổ. Anh lê người đến bên con bò, vuốt ve lên lớp da bụng tròn căng. Dãy bầu vú ửng mịn chút màu hồng mơn man dòng sinh động đang chuyển mình trong rạt rào nhụy chồi hé nụ. Ngón tay anh bất chợt sờ lên núm vú rịn nhựa hồi sinh rồi sững sờ ở đó. Trong cơn mơ rất thật, người Thương binh cúi đầu xuống vùng phơn phớt hồng son. Anh nuốt dòng sữa thơm, thấy mình trở về bên thuở sơ sinh sữa mẹ ẵm bồng. Tiếng khóc của đứa bé từ bờ suối vẳng lên khiến người thương binh bừng tỉnh cơn mê, nhìn xuống chân đồi. Trong nỗi hạnh phúc tràn bờ, anh dẫn con bò mẹ chạy nhanh về phía bờ suối.

Con La hiền từ nhìn người Thượng già ẵm đẩy miệng cháu vào dãy bầu vú mịn màng. Khả năng thiên bẩm giúp đứa bé hả miệng nút chùn chụt dòng sữa ngọt từ bà mẹ mới. Ngón tay nhỏ bé tham lam, sờ nắn mân mê từng bầu vú đang hồi rịn ràn chất sống. Con La ngẩng cao đầu, miệng phát ra tiếng gọi nghé trầm trầm run dài vào nỗi nhớ nào đó xa lăng lắc. Bầy con trai gái của mẹ. Những con bò đực, bò cái, vừa lớn đã bị sung công. Đứa con nào vẫn hàng ngày thồ kéo khổ ải, bụng thiếu cỏ khô. Đứa con nào đã bị bức tử vào những ngày lễ hội vừa qua. Đứa con nào sắp theo số phần của mẹ, chờ đến phiên mình làm hiến vật cho cuộc liên hoan máu thịt so đo. Tiếng gọi nghé như chuỗi âm nhạc trầm láy phát xuất tự đáy buồng phổi uất nghẹn. Âm thanh buồn mà sinh động của sự sống bền bỉ, cần thiết, lớn lên, thôi thúc. Đó cũng là âm thanh nhắn nhủ về một sự sống đang tới hồi kết cuộc. Thời gian vẫn trôi. Mỗi hoàng hôn vẫn xuống tiếp ngày lên. Rồi mùa Thu sẽ đến như sự nhắc lại về một định mệnh rất buồn.

Tiếng khóc vọng từ bờ suối khiến người Thương binh giật mình trở về với thực tại. Thằng bé hôm nay sao đói sớm quá !? Anh thầm nghĩ, chống tay đứng dậy, loay hoay tra chiếc chân gỗ vào người. Anh thả mắt dài theo con dốc vắng lặng nắng trưa. Vệt đất đỏ ngoằn ngoèo trườn lên cao dần rồi mất hút sau cánh rừng giang im rền một màu xanh thẫm ngút ngàn. Tia nhìn tìm kiếm dừng lại trên chiếc xe đò cũ kỹ vừa dừng ở cuối chân con dốc, nơi ngã ba tiếp giáp với khoảng đường nhựa xám đen loang lổ ổ gà. Chiếc xe đò vô tình để lại đám bụi đỏ mù phủ quanh nhóm hành khách vừa xuống xe rồi chậm chạp lăn bánh theo con tỉnh lộ cheo leo xuôi về hướng đồng bằng. Niềm hy vọng náo nức không tên vừa nhú chợt lả tả lụn tàn theo giấc mơ ngày không tưởng. Người Thương binh thất vọng nhìn dáng hai gã vệ binh tay cầm súng đang cắm cúi leo con dốc sỏi. Anh thở dài lên tiếng gọi con La đang cuồng chân đi thơ thẩn trong bãi tranh vàng hanh màu nắng. Người và bò buồn bã dẫn nhau đi về phía tiếng khóc.


Phan Thái Yên

Posted by: NamQuoc Oct 6 2018, 03:46 PM


Pleiku, cao nguyên, Việt Nam


Ngày 14 / 3 / 1962

“Thưa Thiếu Tá, tôi là Thiếu Tá Hassinger, được cử làm “Cố Vấn” cho Thiếu Tá... Thú thật, tôi xin ‘học nghề với thiếu Tá’. Ông rất sành sỏi về cao nguyên và đây là nhiệm kỳ thứ tư của Ông tại Ban Mê Thuột-Pleiku?”
“Xin chào Thiêu Tá Hassinger và Welcome ông đến Cao Nguyên Việt Nam.” Tôn nhìn thẳng người đối diện.
Đó là một trung niên Mỹ trắng, khoảng trên 40, đeo kính trắng và để râu mép. Đúng là một counterpart (đối nhiệm) theo đúng nghĩa chính và nghĩa bóng: Cả hai đều có tên bắt đầu bằng mẫu từ H, đều mang cấp hiệu Thiếu Tá, đều trên 1 thước 7 và trên 75 ký, đều mang kính trắng và đều có để ria mép(1). Cả hai trung niên đều để tóc ngắn 1 phân, có thân hình rắn chắc và rám nắng.

Hôm ấy là 14 tháng 3, sinh nhật con trai thứ ba của Tôn, vừa được 4 tuổi.

“Thưa Thiếu Tá, tôi có chút quà kỷ niệm đem từ Mỹ qua. Biết là Thiếu Tá thích loại Ropp, nhưng tôi chỉ có cái pipe hiệu Briar này, cùng lon “Captain Black (thuốc pipe) và gói (xì gà) La Havana.”(2)

“Xin Cám ơn Thiếu Tá. Ngày mai, tôi “vào” thăm một đơn vị Thám kích, ở ‘rẫy Gia Long’(3), đang tiếp tay cho SĐ 9 quét Mật khu Kon Hà Nừng.(3)

“OK! tôi sẽ đi với Thiếu Tá”.

Rồi Tôn cho Hassinger biết thêm: Thám kích cũng chỉ là một đơn vị Bộ Binh mà hàng hạ sĩ quan và binh sĩ được tuyển chọn từ các sắc dân Thượng, với nòng cốt là Rhadé, Djarai và H’re. Tôn và Đại Úy Vũ Viết Sinh(4) là tác giả đề án đã khai sinh ra thám kích, căn cứ theo mô hình của Unité Légère de Brousse (Đơn vị vũ trang nhẹ để băng rừng) của Pháp trước 1954, và các toán Eagle Flight Team (đội Diều Hâu) của Mỹ sau này, với nhiệm vụ bám địch trong rừng rậm của Cao Nguyên, với nguyên tắc là, nếu phải giao tranh, thì, đánh nhanh và rút gọn. Đây là phương tiện thiết thực kiểm chứng tin tức (bằng người) trên chiến trường, mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đã thuyết phục được Bộ TTM và US/MACV thành lập riêng cho vùng 2 chiến thuật, và Sư Đoàn 22 và 23 cùng các tiểu khu ở Cao Nguyên trực tiếp điều khiển và sử dụng.
. . .

“Tư râu! Tư râu!(5)
“5 trên 5”
“Sẽ đón “Tư Râu” ở hướng 2 giờ. Có cần khói không? (6)
“Khỏi”
Dăm phút sau, trực thăng “sâu róm” Chinook đưa Tôn và Hassinger cùng vài sĩ quan tham mưu đáp xuống chỗ nghỉ quân của thám kích.

PLEIKU, tháng 7 / 1962

Tôn từ trong nhà bước ra sân trước (dãy nhà sĩ quan, cạnh Tòa Án Pleiku) thì rất ngạc nhiên, thấy Hassinger ngồi chờ trên xe jeep.

“Hello, bạn đi đâu đó? Cần (cái) gì, mà không phone cho tôi?”
“Tôi đến mừng bất ngờ sinh nhật thứ 37 của bạn!”
“Tốt quá, xin mời bạn vào nhà.”
“Nhân tiện, có món quà, và Happy Birthday!”

Đó là chiếc radio panasonic hiệu National 9 băng của Nhật. Sau đó, Hassinger chụp nhiều tấm hình gia đình Tôn, khi thì toàn bộ, khi thì chỉ riêng vợ chồng Tôn.

Buổi chiều tối chủ nhật ấy là buổi tiệc nhỏ cả gia đình Tôn vui vẻ bên Hassinger với con cochin de lait (heo sữa) quay tại nhà. Trong dịp này, Hassinger ngỏ ý xin bớt một trong 3 con trai của Tôn, đưa về Mỹ cho ăn học và trả lại Tôn khi được 18 tuổi, nhưng các con trai của Tôn không chịu đi, mặc dù lúc ấy còn nhỏ (8 tuổi, 6 tuổi, và 4 tuổi) chưa biết gì.

FORT ORD, đầu tháng 5 / 1963.

- “Xin lỗi quý vị trong Phái Đoàn, tôi muốn gặp Thiếu Tá Tôn.

“Dạ, tôi là Tôn đây.

”Tôi là Đại Úy Moorlick, tôi được bà Thiếu Tá Hassinger nhờ đến “đón chuyến xe lửa “ tối nay, để mời Thiếu Tá về dùng cơm tối nay tại nhà Bà; Bà Thiếu Tá nhắn thêm, rằng Thiếu Tá có thể rủ “thêm bạn bè cùng về dùng cơm cho vui.”

Quả thật là một sự ngạc nhiên thích thú đã “phục kích” Tôn trong chuyến Du hành Quan Sát một tháng tại Hoa Kỳ, viếng thăm vài cơ sở chỉ huy và huấn luyện đặc biệt của Hoa Kỳ, trong phái đoàn do vị Cục Trưởng Cục ANQĐ lúc ấy hướng dẫn và Tôn là phụ tá.

Trong phái đoàn, có Thiếu Tá Trần Văn Kính, Cục Phó Cục ANQĐ, Đại Úy Nguyễn Văn Khuyến, Chánh sở 3 ANQĐ và Đại Úy Nguyễn Văn Nghị, làm thông dịch viên cho Trưởng Phái Đoàn (7).

Vị trưởng Phái Đoàn giữ Đại Úy Nghị cùng lên xe Sedan về nhà khách của Fort Ord, còn Tôn cùng với Đại Úy Moorlick; thiếu tá Kính và đại úy Khuyến lên xe Sedan của căn cứ, cùng nhau về nhà bà Hassinger.

Đây là một căn nhà 3 phòng xinh xắn, đèn sáng choang, trong Fort Ord. Và Tôn đã gặp Joan, vợ của Hassinger, một thiếu phụ trên 30, tóc vàng như tơ, mắt đen với nụ cười hiền lành, thân hình gọn gàng, với 2 tay rộng mở, đón chào Tôn và ôm hôn Tôn:

“Welcome Tôn! Welcom aboard!”

Joan dẫn Tôn đi xem nhà, từ phòng ngủ đến ga-ra (2 xe du lịch) Ngay tại phòng khách, trên lò sưởi ở chính giữa phòng, là môt tấm hình 18x 24 của Hassinger và Tôn bá vai nhau, ngậm pipe, chụp tại cổng Đồn chu Dron (là Đồn Đức Cơ, cuối Quốc lộ 19 giữa Pleiku và Bokheo) hồi giáng sinh 1962; Hai chiến hữu cấp Tá, 1 Việt 1 Mỹ, cũng đeo kính (cận) râm và để ria mép. Ảnh chụp lúc chiến Đoàn A (dzù) do Thiếu Tá Bùi Kim Kha chỉ huy đã “link up” (giao tiếp) với chiến Đoàn B (T.Q.L.C) của Thiếu Tá Triệu Văn Yên, hoàn tất giải tỏa biên giới Việt Miên(8).

Buổi ăn tối rất thân mật, mặc dù có chút khó khăn về ngôn ngữ và lúc 11.00 giờ đêm, 3 sĩ quan Việt về nghỉ tại nhà khách của Fort Ord.

PLEIKU, tháng 7 / 1963

“Major Hassinger, tôi nhờ bạn gởi về bà Hassinger món quà này “do vợ tôi gởi biếu: 1 bộ áo quần dài VN và thêm cái món lá Huế nữa“ nhưng, nón là chỉ để treo tường thôi nhé.

Chà, đẹp quá. Tôi và Joan rất appreciate.

Bốn tuần lễ sau, Hassinger trao lại cho Tôn tấm hình mầu của Joan, chụp tại sân cỏ trước nhà, ở Fort Ord: Joan duyên dáng trong chiếc áo dài, mầu cẩm thạch và chiếc quần Mỹ A, bộ áo quần VN do Cát Vàng gởi tặng, tay cầm chiếc “nón bài thơ.”

PLEIKU, 5 / 11 / 1963

“Hello, Major Hassinger, tôi vừa ở phòng General Khánh(9) ra. “Bây giờ là 12 g 15. Ông Tư Lệnh muốn tôi có mặt lúc 02.00 PM và “ngồi tại ghế Tham Mưu Trưởng của Sư Đoàn 22 ở Kontum. Bạn kiếm cho tôi 1 HUI/A và đưa tôi lên Kontum để thi hành lệnh.”

“Great! Ai thay bạn tại đây?”
“Đại Úy Vũ Viết Sinh”(4)
. . .
- “Má à! Ông Tướng(9) đưa anh lên Kontum (Sư Đoàn) 22. Vài hôm nữa, anh sẽ về đón em và các con lên sau. Anh đi ngay bây giờ với Hassinger bằng trực thăng. Chiều anh sẽ phone. Hôn em và các con!”

KONTUM, cùng ngày 5 / 11 / 1963.

“Reng! Reng! Reng!”

Tôn đến Kontum bằng trực thăng (có Hassinger) và jeep vừa đón vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22, vừa trình diện xong với Đại Tá Nguyễn Bảo Trị(10) và vừa mới ngồi vào ghế TMT/SĐ.

- “Thưa Thiếu Tá, có Trung Tướng gọi.”
....
“Dạ, thưa Trung Tướng, tôi nghe.”

“Râu đó hả? Tốt! Làm việc đi.”

“Xin tuân lệnh Trung Tướng, và xin cám ơn Trung Tướng.”

Lúc ấy, chiếc đồng hồ treo tường tại phòng TMT/SĐ 22, chỉ đúng 02.00 giờ chiều.
“Bạn, tôi trở về Pleiku! Good Luck!”

Hassinger từ văn phòng Cố Vấn Trưởng Sư Đoàn ra, gõ cửa và vào phòng TMT/SĐ bắt tay Tôn.
“Chào bạn Hassinger. Xin cám ơn bạn rất nhiều và cám ơn pilot. Khi nào viết thư, cho tôi gởi lời chào Joan với nhé!”

PLEIKU, tháng 7 / 1968

“Dạ, Đại Tá Tôn, tôi xin nghe.”

- “Dạ, thưa Đại Tá, Dung(11) đây! Vụ phục kích ở Plei Boy rất ngon. Lát nửa, xin mời Đại Tá lên quan sát (chiến trường).”

- “OK, ông Dung.(11)

Plei Boy là một vị trí chiến lược trên QL. 14 tại ranh liên tỉnh Pleiku-Kontum. Thỉnh thoảng, lợi dụng sự lơ là (?) tại liên ranh, cộng quân đã qua lại vùng này. Chẳng qua là Quân Đoàn muốn để CS bị lầm tưởng là “Yên tĩnh”, rồi xử dụng. Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh làm vài cú phục kích ngoạn mục, “làm cỏ” đấy.

“Sáu râu, nghe!”

Tiếng máy PRC. 25 vang lên, trong phòng TMT/Quân Đoàn 2.

”Mời Thẩm Quyền lên đường”

“Xong ngay!”
. . .
“Col Hassinger! Đây là Thiếu Tá Dung(11) Thiết Đoàn Trưởng, Và đây là Trung Úy Tánh(12). Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn I Kỵ Binh. Mời bạn xem chiến lợi phẩm của vụ phục kích đêm qua... Và tôi xin giới thiệu với các bạn, Trung Tá Hassinger, Cố Vấn của tôi năm 1962. Ông ta ghé thăm tôi trước khi về Mỹ nghỉ ngơi, sau “nhiệm kỳ thứ ba này (tại Việt Nam)”.

Lúc ấy, Tôn đã là Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2.

Đang ngồi, vừa giải quyết công việc tham mưu và vừa theo dõi các báo cáo đặc biệt của Trung Tâm Hành Quân, tại văn phòng; được Thiếu Tá Dung Báo, Tân liền xuống lầu vào văn phòng Tham Mưu Cố Vấn, mời Hassinger (vừa lên Pleiku để thăm Tôn trước khi về Mỹ nghỉ) cùng lên jeep và Tôn tự lái, không cần hộ tống, ra khỏi cổng “Thành Pleime” (Bản doanh BTL/Quân Đoàn 2), chạy lên phía Bắc QL.14, đến quan sát tại chỗ chiến công của Đoàn Kỵ Binh xuất sắc của Quân Đoàn: 20 xác VC tại chỗ, 1 đại liên, 2 AT3 và 10 AK. 47.

Sau vụ này và vài chiến công khác, Dung và Tánh đều được “đặc cách vinh thăng tại mặt trận” trong năm (1968), lên 1 cấp nữa.

Chiến trường Cao Nguyên lần hồi sôi nổi... Quân Đoàn 2 mở cửa biên giới, đón tiếp Chiến Đoàn của Tướng Neak Sam (Miên) qua, vì tái huấn luyện tại Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ (Khánh Hòa)

“Bạn Hassinger à, tôi rất tiếc rằng bạn không ở chơi lâu với tôi được. Tối nay, Cát Vàng sẽ thết bạn món tournedos, có cả Chateau Neuf du Pape(13) mà bạn thích đó.

“Thank you! Sau nhiệm kỳ, chắc tôi sẽ qua Tái Lan.”

“Xin chuyển lời thăm của tôi và Cát Vàng đến Joan và các cháu nhé!”.

SAIGON, đầu tháng 4 / 1975

Huế rồi Đà Nẵng lần lượt bị Bắc Việt chiếm. Tình hình đất nước khá lộn xộn.

“Colonel Tôn ơi, hãy xin phép với Thượng Cấp của bạn cho bạn ‘đi phép một thời gian.’ Tôi đã sẵn sàng 1 chiếc 120 để “chở bạn, Cát Vàng và 6 cháu của các bạn.”

Đầu tháng 4/1975, lúc đang phục vụ tại Phủ Đầu Rồng, Tôn đã nhận được 1 lá thơ “confidential” của Hassinger, lúc ấy làm tham mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Mỹ tại Thái (USMAC-Thai)

Và, Tôn đã trả lời:

” Xin cám ơn bạn. Như tôi đã từng thảo luận với bạn nhiều lần: đây là cuộc chiến của tôi, của người Việt Nam muốn sống còn. It’s my War. Xin cám ơn bạn đã nghĩ đến tôi, đến gia đình tôi.”

”Nhưng, “advienne que pourra”(14) và God bless you”.

BẮC VIỆT- TRẠI TÙ “CỐC” NGHĨA LỘ, tháng 10 / 1978

Ngày 30/4/75, Saigon sụp đổ.

Một tháng sau, 2 phi cơ C.119 (chiến lợi phẩm của CS) chở cấp đại tá “trình diện đi tù” từ Tân Sơn Nhất đáp xuống sân bay Nghĩa Lộ, cách Hà Nội nửa giờ bay, trên vùng Thượng Du Bắc Việt.

Một vài đại tá đã lần lượt mệnh chung, vào thời gian này, như quý vị Huỳnh Hữu Ban, Trưởng Phòng 5 Bộ TTM Nguyễn Bá Thìn tự Long, Tỉnh Trưởng Kontum Lê Minh Luân, Đại diện Không quân cạnh Tổng Cục Tiếp Vận.
. . .
Lúc này Tôn ở cùng “lán” với Đại Tá Nguyển Thành Chuẩn(15) từng là một cấp chỉ huy thâm niên của LLĐB đã bị tù Côn Đảo sao đảo chánh bất thành năm 1960. Tôn nằm kế cận Chuẩn và lúc ấy, mới được biết rằng Hassinger có làm cố vấn cho Chuẩn lúc còn ở LLĐB/V 4 CT. Chuẩn cũng đeo kính trắng như Hassinger và Tôn, nhưng không để ria mép cũng như không hút pipe và xì gà.

Các “tù Saigon” được tập trung đắp đập xây hồ nước tại xã Cẩm Giàng, thỉnh thoảng gặp được đồng bào và đã đau đớn khi nghe:

“Tưởng rằng “các quan” ra giải phóng cho chúng tôi, chứ ai ngờ “các quan lại đi tù!”.

Hoặc “Các người có một thiên đàng mà không biết giữ!”

Thời điểm này, không giống như bé con của các gia đình ở Phủ Tỉnh Gia (Thanh Hóa) thì rất lể phép, các trẻ con ở Bắc Việt lại văng tục chưởi bới “mày lại dám xoa đầu bố mày à?”

SANTA CLARA, tháng 6 / 1992

Sau gần 13 năm lao tù CS tại Bắc Việt rồi tại Long Khánh (Việt Nam), Tôn cùng gia đình đến được đất Mỹ vào cuối 1991.

Tháng 2/1992, Tôn gởi thơ cho Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ để tìm kiếm Hassinger. Vài tuần sau, Bộ Quốc Phòng cho biết đã chuyển thơ đến Hassinger, và chắc chắn Tôn sẽ được tin của Hassinger, qua thơ từ hoặc điện thoại.
“Reng! Reng! Hello, tối muốn được nói chuyện với Đại Tá Tôn.”

“Dạ thưa tôi là Tôn đây”.

....và ở hai đầu dây, hai bạn già, khi nghe tiếng nhau, sau 17 năm bặt tin và xa cách, đã cùng òa lên khóc, khóc vì xúc động, khóc vì sung sướng được nghe lại tiếng nhau.

SANTA CLARA, đệ nhị lục cá nguyệt 1993.

“Hello, old friend! Tháng 9 này, con (trai) đầu lòng của tôi cưới vợ. Xin mời hai bạn già qua ăn cưới.”

“Vậy, bạn cho biết là từ “Port Angeles/tiểu bang Washington State, bạn sẽ về đây “bằng xe hơi, hoặc bằng máy bay?”

“OK, tôi sẽ trả lời bạn sau. Có lẽ tôi qua một mình thôi.”

Ngày 17/9/93, Tôn ra phi trường San Jose đón Hassinger. Gia đình Tôn đã sắp xếp mộtphòng (có phòng vệ sinh) để bạn nghỉ ngơi ở nhà Tôn (thuê) ở 2058 Hoover Drive.

Hassinger ở lại chơi 3 ngày. Và rất thích thú được dành riêng một phòng vệ sinh, vì Hassinger bị “tiểu đường”, và rất khó khăn và lúng túng khi phải đi vệ sinh.

Lúc này, vì là chỗ thân tình, Hassinger bảo Tôn gọi là Bob (từ chữ Robert) cho thân mật hơn. Trong 3 ngày bên nhau, Bob đã tâm tình rằng:

”Bob đã ly thân với Joan và Joan đã mất 20 năm nay. Hai con của Bob- Joan nay đều là sĩ quan cao cấp trong Quân Lực HK, đến 1994 thì sẽ hưu trí: Rick (nam) là 1 Đại Tá Army Aviation (Không Lực Lục Quân) và Jane (nữ) là y sĩ Đại Tá Không Quân. Bob được 2 cháu trai và 2 cháu gái. Cả hai đều ở với gia đình tại Miền Đông và Đông Nam Hoa Kỳ, lâu lâu họ về thăm Bob ở Port Angeles, hoặc Bob phải lái xe đi thăm.

Bob cũng đã tục huyền với Sarint, một thiếu phụ Thái Lan có 2 con gái, đều đã có gia đình và ra riêng: gái đầu, Kim, lấy Roger Nelson Kỹ sư cơ khí Mỹ, và gái Út, Kae lấy Pheng Somsanith 1 kỷ sư điện tử gốc Lào, chưa có con.

Sau 30/4/75, với tư cách là Tham Mưu Trưởng US/Mac. Thai, Bob đã điện cho các cơ quan Mỹ ở khắp nơi, tại Thái Lan và Đảo Guam, còn Joan thì đích thân đến tìm kiếm tại trại Pendleton. Nhưng hoàn toàn bặt tin của Tôn và gia đình Tôn, vì lúc ấy, Tôn đã “ở tù trong” và gia đình Tôn ở “tù Ngoài”

Tôn cũng nhắc tới Nguyễn Thành Chuẩn(15) lúc còn ở tù CS, và kỷ niệm vui là Bob từng là Cố Vấn cho cả hai.
Sáng thứ bảy 18/9/93, Bob “đi họ” bên nhà trai, cùng cụng ly rượu mừng khi con trai và con dâu trưởng của vợ chồng Tôn, trong lễ phục VN đến chúc mừng và dâng ruợu Bob theo phong tục và lễ nghi VN.

Con trai đầu của Tôn năm 1962 ở Pleiku (Việt Nam) mới lên 8 tuổi và năm nay, năm 1993 là một thanh niên khỏe mạnh, với tóc ngắn 1 phân (gợi bao nhiêu kỷ niệm cho Bob và Tôn) là đầu bếp chính (chief cook) của nhà hàng Nhật Nijo Castle tại Pruneyard Shopping Center/Campbell.

Mặc dù rất bận về vụ đám cưới, Cát Vàng đã cho Bob thưởng thức nhiều món ăn lạ miệng, từ xúp măng cua, chạo tôm bún bò Huế, mít xúc với bánh tráng mè, carry dê, đến chateau (Pháp) v.v... Bob rất cảm động về sự tiếp đón và tài nấu nướng và luôn miệng khen Cát Vàng là cordon bleu(16) ngoại hạng.

Tối 18/9, Bob dự dạ tiệc cưới, với 330 thân nhân và bạn bè của gia đình Tôn tại nhà hàng Flourishing Garden ở đường Monterey và lúc cùng về lại 2058 Hoover Drive thì đá quá 12.00 giờ khuya. Hôm sau, Cát Vàng lại thết một bữa “cao lâu” để Bob lót dạ, trước khi Tôn đưa ra phi trường đáp may về lại Port Angeles.
. . .

Các năm kế tiếp, mỗi lần đến ngày sinh nhật của Sarint và Bob, Thì Tôn gởi hoa biếu, và ngược lại, Bob cũng làm như thế, để mừng sinh nhật của Cát Vàng và Tôn.

SANTA CLARA,
đệ tứ tam cá nguyệt 1994

Nhân ngày Lễ lao động (Mỹ) hôm 5/9/94, gia đình Tôn mời người anh cột chèo qua nhà ăn cơm, rồi Tôn nhận thấy bị đau ran ngực.

Nhớ lại lúc còn ở tù CS ở Thượng Du Bắc Việt, rồi ở trại Thanh Phong (Cựu Bắc Trung Việt) Tôn thỉnh thoảng đau như vậy và thường được các thầy, cạo gió và bầu giác cho, thì hết. Bị nhốt chung với các cha và các thầy, nên, khi đau như thế, Tôn được sự giúp đỡ của Hòa Thượng Thích Thiện Chánh (tức là Thầy Đặng Minh Tâm, Tuyên Úy của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, trụ trì Chùa Thới Hòa ở Gò Vấp, là bạn thân của em trai của Tôn. Sau khi ra tù, thầy đã viên tịch ngày 5/12/96, do bệnh tiểu đường), hoặc thầy Thích Thiện Nhẫn (võ sư đai đen, môn đệ của Hòa Thượng Thích Hộ Giác).

Lần này, cậu trai Út (1962 là 4 tuổi lúc Bob xin làm con) 36 tuổi xức dầu rồi cạo gió cho Tôn, mà vẫn không hết.
Hôm sau Tôn đến gặp Y sĩ Mạc Đìa để châm cứu, và Mạc Đìa có dặn là nên đi đo lại cholesterol.

Sáng 9/9/94, cơn đau trở lại. Tôn đến gặp BS. gia đình là BS. Nicole Thái Đông Phương; Sau khi chẩn bệnh cho Tôn, bác sĩ cho bấm ngay 911 đưa Tôn vào bệnh viện San Jose. Tại đây, tôn được BS Nguyễn Xuân Ngãi cấp tốc định bệnh, rồi sau đó, được danh sư BS. Romine khẩn cấp mổ tim vì “chỉ còn 15% sống thôi”.

Tuần lễ sau, đáng lẽ Tôn được xuất viện; nhưng cả 3 lần Bác Sĩ nhắc nhở, Cát Vàng vẫn quên đem áo quần để Tôn thay (và ra về). Và, vào thời điểm ấy, Tôn bị (đứng tim). Được cấp cứu câp thời, đến trưa 17/9/94. Tôn được “cấy” máy trợ tim A.I.C.D. vào bụng, và sống. Tôn đã nằm viện được 15 ngày.

Ngày 10/10/94, sau khi được tin Tôn bị open heart, và biết được Tôn đã được bình yên, Bob cùng Sarint dùng chiếc xe Motor-home, do vợ chồng Kae và Pheng Somsamith lái, từ Port Angeles, qua Seattle, rồi dừng chân tại Redwood City dùng xe hơi (thuê) đến 2058 Hoover Drive (Santa Clara) thăm Tôn, đang trong tháng đầu tiên hồi phục.

Bob có gợi ý là ít lâu nữa, khi đi đứng bình thường, Tôn nên đem Cát Vàng lên Port Angeles ở chơi một thời gian với Bob và Sarint. Port Angeles là một thành phố biển ở trước mặt, núi ở sau lưng, ít dân cư chứ không ồn ào như vùng San José, mặc dù lúc ấy Santa Clara còn thưa người lắm.

Cho đến mùa thu 2000, Tôn và Cát Vàng vẫn chưa lên chơi Port Angeles được, vì chưa thuận tiện cho tim của Tôn.

PORT ANGELES
Saturday 23 September 2000, 23.01 PM

From : Kae Nelson

To: Hung Ton (and others)
Hello from Sarint and Bob Hassingerf. Dad is not doing too well. He’s trying his best to stay well. He would like to hear from every one.
Thanks. Kae.

PORT ANGELES
Saturday 21 October 2000, 21:46PM

From: Kim Som Sanith
To: Hung Ton (and others)
Dad just get back from Hospital today. He’s there 3-4 days. He knows who you are, he’s just lost for words, especially name. He lost lots of weight. Bob and Sarint would like to hear from you all. Please write or phone.

Tóm lược điện thơ ngày 23/9 của Kae Nelson và 21/10 của Kim
1. Sarint và Bob xin gởi lời chào (đến các bạn bè). Ba (là Bob) không được khỏe lắm, mà làm ra bộ “là còn khỏe”.
2. Ba vừa mới xuất viện. Ba đã ở bệnh viện 3-4 ngày. Ba biết người nói chuyện là ai, nhưng Ba lại mất các chữ thôi, đặc biệt là các “tên” (của bạn) Bob và Sarint mong muốn được “nghe” bạn bè. Xin vui lòng viết thơ hoặc điện thoại.
. . .
SAN JOSE
“Má ơi, chắc ông Hassinger không qua khỏi đâu.
”81, 82 rồi. Để anh gọi nữa nhé.”
Và, lần thứ tư trong tháng, Tôn bấm số 1-360-452-2030.

Báo VIỆT NAM số 3639
Thứ Tư 25 tháng 10, 2000

PHÂN ƯU

Nhận được tin
Cựu Đại Tá Quân Lực Hoa Kỳ
Robert Wayne Hassinger
Cựu Cố Vấn Tham Mưu BTL/Quân Đoàn 2/QL. VNCH
Cựu Cố Vấn Lực Lượng Đặc Biệt/Vùng 4 Chiến Thuật/QL. VNCH
Cựu Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh US/MAC- Thái Lan đã vãng phần sáng 23 tháng 10 năm 2000 tại Port Angeles (TB. Washington) Hưởng thọ được 81 niên tuế (1919)
Chúng tôi, một số chiến hữu QL/VNCH xin kính cẩn nguyện cầu cho hương linh cựu chiến hữu Hassinger siêu sinh nơi cõi Tịnh Độ. và xin chia buồn cùng Khum Sarint và tang quyến.
Thành kính phân ưu.
Gia đình Nguyễn Thành Chuẩn (San Francisco, Bắc Cali)
Gia đình Tạ Đình Lương(17) (Phoenix, Arizona
Gia đình Vũ Viết Sinh (Pomona, Nam Cali)
Gia đình Tôn Thất Hùng (San Jose, Bắc Cali)

San Jose, tháng 11 năm 2000
Tôn Thất Hùng

(1) Trong thập niên 60, trong toàn Quân Lực VNCH chỉ có 5 sĩ quan để râu (có giấy phép của Bộ TTM/P3): Tướng Kỳ, 2 Không Quân (Hà Xuân Vịnh và ...Trương) 1 công Binh (Nguyễn Văn Bạch) và Tôn.
(2) Trước 1975, Tôn là “1 cây” pipe và xì gà: 50 cối + (côïng) 25 xì gà/ngày.
(3) Đầu thế kỷ XIX là nơi mà Vua Gia Long đã dừng chân ở Kon Ha Nung... Kon Hà Nừng: ở phía Đông đồn Mang Buk, và phía Nam Quận Ly Chương Nghĩa (Pleateau G.I) thuộc liên ranh 3 tỉnh Kontum-Pleiku-Bình Định.
(4) sau này là Trung Tá, 13 năm lao tù CS, hiện ở Pomona, Nam Cali.
(5) Tôn không dùng các ám danh đàm thoại như vài cấp chỉ huy khác (Soleil, mặt trời, đại bàng...) mà tùy theo cấp bậc của mỗi thời gian, khi thì “Tư râu”, rồi lần hồi “Năm râu” hay “Sáu râu” (Thiếu, Trung, Đại Tá).
(6) Khói (smoke): mầu xanh là “bạn”, mầu đỏ là “địch” mầu vàng là “tản thương”.
(7) Đại Tá Kính, 13 năm lao tù CS, không rõ địa chỉ hiện tại: Đại Tá Khuyến, di tản 1975, hiện ở San Francisco. Thiếu Tá Nghị, không rõ địa chỉ hiện tại.
(8) Đại Tá Bùi Kim Kha, không rõ địa chỉ hiện tại: Trung Tá (?) Triệu Văn Yên, đã mất (?) trước 30/4/75 (?)
(9) Lúc ấy là Trung Tướng Nguyễn Khánh. Hiện, Đại Tướng ở Sacramento.
(10) Sau hết là Trung Tướng, hiện định cư ở Nam Cali.
(11) sau này, là Đại Tá, Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, 13 năm lao tù CS, hiện đã định cư tại Mỹ.
(12) sau hết, là Trung Tá, không rõ địa chỉ định cư ở Mỹ
(13)Tourne dos: steak bò, có da heo (lộn ngược) bọc quanh (món ăn Pháp) chateau neuf du pape: rượu chát đỏ Pháp.
(14) từ ngữ Pháp: mặc kệ cho xảy ra chuyện gì (Hassinger biết tiếng Pháp).
(15) nay định cư tại San Francisco
(16) Cordon bleu: đầu bếp lành nghề (từ ngữ Pháp)
(17) Sĩ quan Kỳ Cựu Quân Đoàn 2. Khi tàn cuộc chiến là Trung Tá cấp Trưởng Phòng tại BTL/SD 25. 13 năm lao tù CS, thường sưởi ấm bạn đồng tù với giọng ca nhẹ nhàng và điêu luyện.

TÔN THẤT HÙNG

Posted by: NamQuoc Dec 6 2018, 11:33 AM


LEIKU - Trong Nỗi Nhớ


Viết theo lời kể lại của một anh lính Không Quân thuộc Trung Tâm Tiếp Liệu Chuyển Vận/Không Đoàn Kỹ Thuật - Biên Hoà.

30 tháng 4, ngày nầy 37 năm về trước, như một cơn “Đại Hồng Thuỷ”, Cộng Sản Đỏ miền Bắc xua quân vượt vùng giới tuyến với đại “cuồng binh” trang bị xe tăng, thần công súng lớn súng nhỏ đủ loại khí giới giết người, huỷ hoại những cái gì tốt đẹp và đời sống thanh bình, đem đến cho dân miền Nam những tang tóc, đổ nát, chia lìa...Một ngày đau buồn khốn khổ nhứt cho đại gia đình miền Nam. Hàng triệu người dân phải từ bỏ tất cả tung ra những cuộc di cư tìm một thế giới tự do; biết là một sự mạo hiểm đầy gian nguy nhưng họ vẫn thử thách với số phận. Có người may mắn đến được bến bờ Tự Do, ngược lại phải bỏ mình trên Biển Đông hoặc trong mảnh đất hoan du rừng sâu nào đó trên hành trình. Số phận những người còn kẹt lại trong nước đã phải gánh chịu một sự trã thù vô cùng tàn nhẩn. Cộng Sản dùng từ “ mỹ miều”, để che đậy cái “ác tâm” mà chúng gọi là “đăng ký học tập ngắn ngày”. Học tập ở đây chỉ là bị chúng bỏ tù biệt xứ, đài đoạ, lao động khổ sai trong đói khát, không thuốc men khi bịnh tật, khác nào một sự “trả thù”! hèn.

30 tháng 4 nầy nhớ về ngày 30.4.75. Là những người may mắn thoát khỏi Cộng Sản Đỏ; chúng ta hãy cùng dành một phút nghiêng mình mặc niệm tưởng đến các vị danh tướng anh hùng, đã noi gương “Võ Tánh” tử tiết theo thành, đến các chiến sĩ anh hùng cầm súng chiến đấu thà chết không hàn giặc Cộng, đến các đồng bào gan dạ thà hy sinh mạng mình còn hơn sống với Cộng sản.

Chúng ta nguời dân Việt Nam đang có đòi sống TỰ-DO trên thế giới hãy lên án “những kẻ vô liêm sĩ" đã từng bị giặc Cộng rượt đuổi trốn chui nhủi, được thần Tự Do ra tay nâng đở cho được một đời sống sung túc hạnh phúc, nay quây lưng trở mặt với chúng ta, vì chút lợi nhuận, đi tưng bóc hùa theo Cộng Sản, ca ngợi ngày nầy, (30/4) là ngày “chiến thắng”. Nhứt là số nam nữ ca sĩ, doanh thương qua đường văn nghệ, họ vì tiền bạc mà quên đi cái ngày nào bị Cộng Sản lên án, phân biệt “nhạc xanh nhạc vàng”, văn nghệ đồi truỵ, bây giờ có ca sĩ vác mặt đến ca tụng cái “nghĩa địa hoành tráng” của Cộng Sản, mà không hổ thẹn.

Vô luân thay! Cho những kẻ “phản bội” nầy, lại ngu muội “nghe những gì Cộng Sản nói”.

Công Tác Pleiku
Rời Phù Cát từ sáng sớm, đoàn tăng cường thêm 2 chiếc xe (GMC), lấy từ Phù Cát, theo Quốc Lộ (QL) 19 lên An Khê, trên đường còn lưu lại nhiều dấu vết chiến tranh, nhiều nhà bị vết đạn trên tường, xác xe nhà binh bị đốt cháy nằm ngả nghiêng bên lề đường.

An Khê nằm trên QL 19, giữa Quy Nhơn và Pleiku, là một địa điểm chiến lược quan trọng trong thời chiến tranh. Quân Lực Hoa Kỳ lập một căn cứ lục quân, Sư Đoàn Đệ Nhứt Kỵ Binh đóng quân tại đây vào năm 1965, đến năm 1968, Lữ Đoàn 173 Dù Hoa Kỳ tiếp tục đóng chốt tại đây để ngăn chặn sự xâm nhập của quân đội Cộng Sản Bắc Việt xuống miền biển và đồng bằng. Từ trên cao nhìn xuống căn cứ còn thấy được đường bay và vô số doanh trại nằm phía dưới triền đèo.

Qua An Khê, đường tiếp tục đi lên, lên cao dần, xuyên qua nhiều vách đá núi. Khí hậu trở nên lạnh hơn, càng lên cao, càng thấy nhiều dấu tích tàn phá, huỷ hoại của cuộc rút quân khỏi Pleiku vừa qua. Bây giờ, chúng tôi bắt đầu lên xứ Thượng. Đường lên vùng cao có nhiều thung lũng và cầu bắc qua suối, phần nhiều cầu hư hỏng, ván lót bị long lở, hoặc bị mất, gãy gập ghềnh. Mỗi lần đi qua, phải thật hết sức cẩn thận, cứ lên cao rồi lại xuống ghềnh là một con suối chạy ngang, một lần đang đổ đèo, xe đang ngon trớn tuôn xuống gần hết đèo, bất ngờ, trước mặt chúng tôi là một cây cầu không còn ván lót, chỉ còn hai khung thành cầu chơ vơ trên con suối, tất cả chúng tôi đều hốt hoảng, vì với sức tuôn mạnh của xe đang đổ dốc ngon trớn mà đâm ầm vào thành cầu, lọt xuống suối, chắc không còn ai có thể trở về với vợ con, anh tài xế rà chân vào bàn thắng, tiếng xe gầm, lẫn mùi khét của bố thắng bốc khói, còn độ vài thước là đụng đầu cầu, anh tài xế nhanh mắt, bẻ tay lái sang lề phải vô đám rừng thưa, thì ra, ở đây đã có một con đường mòn vừa vặn cho chiếc xe tuôn vào. Cành cây, chồi quẹt vào thành xe bần bật, xe chậm rãi chạy bình thường, từ từ lăn bánh trên cát, băng qua suối, theo vết của những người đi trước, lên lề an toàn. Thật may mắn, thoát được hiểm nguy, chúng tôi ra khỏi xe, thở phào thư thả, mọi căng thẳng vừa rồi đã tạm qua, anh trưởng đoàn đến vỗ vai khen ngợi anh tài xế vài lời rồi mời anh điếu thuốc lá “hành khách”, chúng tôi tìm chỗ ngồi tựa nghỉ lưng, phì phà thuốc lá, trong khi anh tài xế chui xuống gầm xe, kiểm tra an toàn để còn phải tiếp tục leo đèo nữa.

Chợt đâu trong bụi rừng chồi, từ hướng suối đi lên, một người đàn ông Thượng, da đen xạm, chỉ đóng chiếc khố, người để trần, tay xách một con cá giống loài cá bông ở miền đồng bằng, tay kia anh cầm một cái “nôm”, chúng tôi vây quanh vừa xem cá, vừa xem người, đó là một con cá thật lớn, mà tôi chưa từng thấy bao giờ, nó to gần bằng bắp về người thường, một anh bạn tôi hỏi:
- Có bán không?

Với giọng miền Thượng “lơ lớ”, anh ta đáp:
- Không bán! Không bán, đổi muối!


Sau khi anh tài xế, kiểm tra xe xong, đoàn cũng tranh thủ …giải khát, lót lòng, chúng tôi tiếp tục lên đường, xe chạy không xa bao lâu bắt kịp người Thượng lúc nãy, tay vẫn xách con cá nặng nề, qua khỏi khu rừng chồi, đến một cánh đồng láng, một làng của dân Thượng, đồng loạt nhà sàn sát nhau, mái chóp cao, vách tháp bằng nẹp tre mây, một cái thang bắc ngay cửa ra vào để đi lên xuống, vài đứa bé trần truồng chạy đùa giỡn, cạnh cái cầu thang, hai cô gái Thượng, vào tuổi cập kê, đang cùng nhau giã thóc trong một cái cối bằng hai cái chày gỗ, ngực trần, đôi “non bồng" cùng nhịp nhàng theo động tác lên xuống.

Anh bạn ngồi cạnh chợt hỏi tôi:
- Đố bồ, tại sao mấy cô gái đó để trần
- Nóng nực


- Không phải đâu, người Thượng có phong tục là “xấu che, tốt khoe”, mấy cô chưa chồng, họ tự hào là “của” họ đẹp, còn mấy người đã có chồng, có con, họ cho là xấu nên đem giấu đi, khác với dân miền quê của tụi mình, có con đem ra ngoài sân, ngoài ngõ, vác vú cho con bú. Còn độc hơn nữa là mấy bà mê "ông Tướng" (bài Tứ sắc) đang trong cuộc chơi, có cả đàn ông mà mấy bà cũng tự nhiên vạch vú cho con bú, rất tự nhiên.
- Vậy chắc mấy ông thua "Đứt Chến"!

Trong xe, mọi người lục đục tìm áo ấm mặc thêm, xe bắt đầu nặng nề leo dốc, tiếng máy nổ gầm gừ to hơn, bây giờ thì đi lên, đường rất nguy hiểm, nhiều khúc quẹo rất nhặt, hai bên vách núi càng lên cao, càng cảm thấy lạnh hơn, gió và khí lạnh bắt đầu thổi đến, gió giựt từng cơn, tạt rào rào qua khung cửa xe đóng kín. Chúng tôi lên đến đỉnh cao nguyên, ngọn núi cao Mang-Yang là một huyện thuộc Tỉnh Gia Lai, Kontum, dân số độ 45,000 phần đông là người thiểu số, Gia Rai và Barma, có diện tích 1,226 Km2. Tên Mang-Yang có từ tiếng người Gia Rai (có nghĩa là Cổng Trời). Mang-Yang nơi thường xuyên bị địch phục kích đánh trộm, bên đường còn nhiều xác xe nhà binh, xe đò, xe dân sự, nằm nghiêng ngửa bên triền núi.

Lợi dụng địa thế hiểm hóc này, nơi đây quân đội Pháp cũng có nhiều lần bị phục kích, lần nặng nhứt vào ngày 24-7-54. Một trung đoàn quân đội Pháp được lệnh từ bỏ đồn An Khê, rút về Pleiku. Đoàn công-voa di chuyển trên Quốc Lộ 19, lên đèo Mang Yang, cách Pleiku khoảng 80km bị Việt Minh phục kích, chận đường nơi cây số 15, trận chiến diễn ra trong 5 ngày, quân đội Pháp chống trả quyết liệt, để giải vây, mở đường tiến về Pleiku, suốt con đường dài 55 km dầy đặt quân Việt-Minh, sau 5 ngày trung đoàn binh Pháp thua nặng số binh sĩ còn sống thoát chạy về Pleiku. Hiện nay quanh ngọn đồi nầy có nhiều “am thờ cô hồn” cho những người đã chết trong hai lần chiến tranh.

Chúng tôi an toàn qua khỏi đèo Mang-Yang đang tiến dần đến Pleiku, nếu không biết trên đỉnh núi cao vút kia đang có một thành phố thì chắc chắn không bao giờ tôi có thể tưởng tượng được là có sự sung túc của một thành phố. Từ dưới nhìn lên chỉ thấy một phong cảnh đẹp như trong tranh vẽ của một hoạ sĩ lừng danh, từng chùm mây trắng đục như khói sương vần vũ trên đỉnh núi chen lẫn với rừng thông xanh mượt trải dài theo triền núi. “Ôi! đẹp làm sao”. Một thành phố núi cao, thành phố đầy sương, quả là một nơi tuyệt vời cho những ai muốn sống gần thiên nhiên.

Pleiku một thành phố nằm trên đồng bằng của những ngọn núi cao ở Trung Tâm Tây-Nguyên, Trung Phần Việt Nam thuộc tỉnh Gia Lai-Kuntom, cao hơn mặt biển 750m, có mặt bằng là 261 km2, nằm trên trục lộ đường Liên Tỉnh 19, hướng Đông giáp Tỉnh Bình Định, hướng Tây giáp nước Cambochia và đường Liên Tỉnh 14, hướng Bắc giáp Kontum và hướng Nam giáp Ban-Mê-Thuộc, có dân số là 186.763 người, sắc dân chính là người Kinh, Balma, và Jarai.

Sau hơn một giờ đoàn xe chúng tôi đi vào cửa ngõ thành phố, nhằm tháng Mười trời cuối Thu nên đêm xuống mau. Những tia nắng chiều ẻo lả vẫn còn đủ cho chúng tôi nhìn quanh thành phố là một vùng đẹp của quê hương, cây xanh đang chuyển mình thay lá, những chiếc lá úa vàng hồng nhiều màu sắc một cơn gió vô tình cuốn lá rơi lã chã trên đường phố vắng người qua lại. Đánh một vòng qua cái giếng nước (fountain), trên con đường chánh của thành phố, những cây phượng vĩ cũng đang chuyển mình thay lá với cành còn đầy nụ hoa đỏ, giống như những tàn lọng to vươn ra như đôi tay khổng lồ dang rộng che chở cho mái Nhà Thờ cao ngất nóc hình chữ “V” ngược, xây cất theo kiểu Châu Âu vào thời Pháp Thuộc.

Đoàn xe ra ngoại ô đi về hướng Phi Trường Cù Hanh, cách thành phố 10km, dọc hai bên đường nhìn thấy nhiều trái xu-xu xanh mướt lủng lẳng đeo theo những dây leo kết chằng chịt quanh hàng rào. Nhà nào cũng có trồng xu xu, đu đủ, đậu rồng trái to, nơi đây (Pleiku) đất đỏ và dẻo mưa trơn trợt như trét “mỡ bò” lại rất thích hơp với loại rau trái nầy, người ta nói “chỉ cần bỏ hột giống xuống tự nó mộc lên và sinh quả”. Đi ngang qua một vườn trồng khoai mì (sắn), có lẽ đang đúng mùa thu hoạch vô số thân cây bật gốc nằm ngả nghiêng trên mặt đất, nhìn cảnh nầy nhắc tôi nhớ lại lời của một anh cố vấn “xây dựng nông thôn” lúc làm công tác về miệt thôn quê ở Xã Hiệp Hoà, Biên Hoà, anh nói: “Đất ở xứ nầy tốt lắm , chỉ cần cắm một cái "que" xuống là có ăn”. Ý anh nói “que” ở đây là một khúc thân cây khoai mì (sắn).

Xe chúng tôi tiếp tục đi về hướng phi trường, trước mặt chúng tôi từ xa, bốn giàn ‘radar” có hình bầu dục, trắng như bạch kim, to lớn khổng lồ sừng sững vượt lên như thi đua cùng núi cao, phản ánh nắng mặt trời lấp lánh như hàng vạn tấm gương phát ra ánh sáng lập loè. Ngừng xe ngay trước cổng phi trường, anh bộ đội nhảy xuống làm thủ tuc an ninh; nhìn qua cửa sổ, bỗng tôi thấy có bốn thanh niên trên người chỉ mặt cái quần “xà lỏn” che thân, họ đang ngồi chồm hổm hai cùi chỏ gác lên hai đầu gối, đầu cuối thấp, thân người co cụp lại để tránh những mũi nhọn kẽm gai đang lơm chởm trên đầu và chung quanh họ, các anh nầy bị nhốt trong cái rọ “hay chuồng cọp” chiều cao độ một mét, ở giữa ban ngày nắng nóng, đêm xuống thì rất lạnh của núi rừng Cao Nguyên. Tại sao họ lãnh cái hinh phạt tàn nhẫn như thế! Giữa người với con người sao nỡ đối xử tàn tệ như thuở còn man di, lạc hậu! Chúng tôi chỉ biết nhìn họ mà ái ngại, ! tội nghiệp, không ai dám mở lời hỏi tai sao?

(Phi Trường Pleiku còn có tên gọi là Phi Trường Cù Hanh). Vào thời gian Cộng Sản Bắc Việt mở màn những đợt phá hoại, tung ra nhiều trận tấn công lớn vào miền Nam Việt Nam. Vào năm 1962, Phi Trường Pleiku là Căn Cứ 62 Phi Đoàn Quan Sát của Không Quân Việt Nam, với loại phi cơ L19 Cessna, tình hình chiến tranh ngày càng leo thang, đến 1964, một phân-Đoàn chiến đấu cơ A1 Skyraiders từ phi trường Biên Hoà được đưa ra yểm trợ. Từ đấy, Căn Cứ 62 được tăng cấp số lên gọi là: Không Đoàn Tác Chiến 62. Binh đội Cộng Sản Bắc Việt càng tăng cường, xâm nhập vào miền Nam qua biên giới Lào, Cambochia. Pleiku là tuyến đầu chận sự tràn qua biên giới của quân Cộng Sản Bắc Việt. Do đó phi trường được nâng cấp, bành trường lớn hơn. Không Quân Hoa Kỳ xây lại mặt bằng nối dài đường bay lên 1,829m, và các hạ tầng cơ sở được xử dụng chung giữa Không Quân Việt Nam và Không Quân Hoa Kỳ.


Ngày 6-2-1965, phi trường bị tấn công, pháo kích nặng, cộng quân bám sát vào hàng rào phi trường, nhưng bị hoả lực phòng thủ vòng đai chận đứng. Không có trận nổ súng nào mà không đổ máu. Kết quả Không Quân Hoa Kỳ bị 9 tử trận, 128 bị thương. Thua keo này, VC bầy keo khác, chỉ chực ăn tươi nuốt sống Pleiku, vì nơi này là một chướng ngại lớn cho ý đồ đưa binh đội Bắc Việt đi xuyên qua Lào và Cambochia, theo Đường Mòn Hồ Chí Minh (xưa Việt Minh gọi là Đường Trường Sơn) tràn xuống đồng bằng và tiến xa hơn nữa là vào miền Nam. Quan sát tình hình chuyển động quân sự của Bắc Việt quanh vùng, Cố Vấn Trưởng của Vùng II, Quân Đoàn II Chiến Thuật và Trung Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Đoàn II cho biết tình hình trở nên nguy kịch trầm trọng, Cộng Sản Bắc Việt điều động đến khoảng 60,000 quân di chuyển vào vùng tam biên “Việt-Miên-Lào”, dùng chiến thuật “biển ngườ” công đồn, đả viện để biến Cao Nguyên và Kontum thành một Điện Biên Phủ thứ II, ông John Paul Vann, Cố Vấn Quân Sự Cao Cấp của Hoa Kỳ tiên đoán: “Cộng Sản sẵn sàng hy sinh 10,000 binh để chiếm cho được vùng Cao Nguyên, trận chiến sẽ trải dài từ thành phố Kontum đến Pleiku, tràn đến Bình Định…Mở màn cho ý đồ nầy, Cộng Sản Bắc Việt chọn một ngọn đồi cao nhứt trong vùng là Đồi 937. Sau tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968), Bắc Việt đưa binh đội chính quy vào Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, chiếm những ngọn đồi cao nhứt để làm căn cứ chiến lược, ngọn 937, cao 937 mét, tính từ độ mức mặt biển, đứng riêng rẽ với các ngọn đồi khác, ngọn đồi này được bao quanh bởi những rừng cây dày đặc và tre rừng cao ngất trời, vì thế mà nơi đây rất khó dò tìm được mục tiêu, là một địa hình rất thuận lợi để lập căn cứ. Biết được ý dồ của Bắc Việt, quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà mở cuộc hành quân tiểu trừ.

Sau lần đụng trận đầu tiên với binh Cộng Sản, do địa hình nhiều cây cao không tiện cho trực thăng vận đổ quân, vì vậy quân đội đồng minh Hoa Kỳ và Việt Nam phải bám lấy địch quân từng bước từ dưới chân đồi tiến lên, những trận chiến đấu cày răng lược, giáp lá cà... quyết liệt đến tàn nhẫn. Được sự yểm trợ mạnh của pháo binh và oanh tạc cơ, sau 15 ngày chiến đấu Cộng Sản rút binh chạy sang biên giới Lào. Đại đội C (Charlie là mật mã liên lạc qua vô tuyến) tiến chiếm ngọn đồi đầu tiên, lấy tên “Charlie” đặt cho Đồi 937. Kiểm diểm sau cuộc chiến tìm thấy: 65 xác binh sĩ Bắc Việt rải rác quanh vùng, nhiều nón cối, súng AK47, lựu đạn chày và nhiều cuộn băng cứu thương đẫm máu; vô đến trung tâm đồi đếm được 15 binh Bắc Việt chết treo lửng lờ từ ngọn cây, những người nầy là xạ thủ đại liên, bị xích chân vào súng lớn. Sau khi kiểm điểm ngọn đồi có tất cả 633 xác chết binh Bắc Việt, nhưng không thể đoán biết đươc bao nhiêu người bị thương được mang đi, và số người chết vùi dập bởi đại pháo làm sập hầm trú ẩn. Thiệt hại về phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà :73 người chết, 372 người bị thương. Sau khi làm chủ ngọn đồi, quân đội Hoa Kỳ còn đặt thêm một tên cho ngọn đồi là “Hamburger”.

Trận chiến thắng đồi Charlie đã chứng tỏ sự vững mạnh của quân lục Việt Nam Cộng Hoà và Đồng Minh Hoa Kỳ, nhưng trái lại đã gặp không ít khó khăn ở truyền thông báo chí và Quốc Hội Hoa Kỳ, gây trong dân chúng Hoa Kỳ có phản ứng không tốt cho sự chiến đấu chống Cộng Sản ở miền Nam Việt Nam. Do nhiều áp lực, nên Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ ở Việt Nam quyết định bỏ Đồi Charlie, bàn giao lại cho Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, từ đây đảm đang việc phòng thủ giữ Đồi Charlie.

Cộng Sản vẫn nuôi mộng đánh chiếm vùng Cao Nguyên Trung Phần để làm bàn đạp đánh xuống vùng đồng bằng, kế đó là miền Nam Việt Nam. Vào đầu tháng 2 năm 1972, binh Cộng Sản Bắc Việt theo con đường mà chúng đã mở sẵn từ tam biên (Việt-Miên-Lào) xuyên qua vùng đồi núi phía Nam Đồn Tân-Cảnh, cách QL14 độ 2km để tiến về Quân Đoàn II. Trong lúc nầy tình hình mặt trận Tây Bắc tỉnh Tây Ninh bị áp lực mạnh của Cộng Sản và An Lộc đang bị địch bao vây, nên Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù được điều động về giải vây. Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II xin tiếp viện, Sư Đoàn Dù phái Tiểu Đoàn 11 Dù, chỉ huy bởi Trung Tá Nguyễn Đình Bảo lên thế chổ trấn thủ Đồi Charlie. Binh Cộng Sản đoán được sự phân tán lớn của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, chúng liền cho mở mặt trận tấn công thăm dò, chiến sĩ VNCH ở đồi Charlie phải nhiều ngày oanh liệt “cắn răng” giáp chiến chống lại với chiến thuật “biển người” của binh Cộng Sản Bắc Việt để cố gắng giữ căn cứ. Nhưng cuối cùng, tất cả đã vĩnh viễn ở lại Charlie với cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, vị chỉ huy trưởng anh hùng cùng nằm lại với các chiến sĩ anh em đã anh dũng hy sinh.

Sau Charlie, binh Cộng Sản tiếp tục trên đường tấn công, nằm trong chiến dịch "Mùa Hè Đỏ Lửa". Sư Đoàn 2 Cộng Sản được yểm trợ bởi chiến xa T54 ào ạt mở trận chiến vào hướng Tây của Bộ Tư Lịnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh tại Tân Cảnh, cách biên giới Viêt-Miên-Lào 5km, là nơi mở màn “Chiến Dịch Mùa Xuân" của Bắc Việt Cộng Sản. Mưa pháo 82 ly, hoả tiễn 122 ly kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ, lúc 10:30 ngày 23-4-72 thì hầm chỉ huy hành quân bị trúng hoả tiễn, hệ thống điều khiển chỉ huy bị thiêu huỷ, nhiều sĩ quan chỉ huy bị thương nặng, đến 11:00 giờ đêm, cánh quân tiền phương của Cộng Sản bị Sư Đoàn 22 Bộ Binh phát hiện, cách Đakto 1km, có 3 chiến xa T54 yểm trợ, lập tức yêu cầu Phi Trường Nha Trang cho tăng cường phi cơ hoả lực (AC130 gunship) lên bắn cháy tất cả chiến xa T54 của Cộng Quân nhưng vẫn không chận được sự tấn công của binh Cộng Sản. Đến nửa đêm, độ một trung đoàn binh Cộng Sản ào ạt tràn vào tiền đồn Tân Cảnh, mặt khác một trung đoàn binh Cộng Sản thứ hai xuất hiện cách Tân Cảnh độ 3 km về hướng Tây Bắc, chúng tiến hành đánh chiếm QL14 cắt đường giao thông giữa Dakto và Tân Cảnh làm bốn đoạn, khiến cho sư liên lạc giữa hai thành phố bây giờ chỉ nhờ vào máy vô tuyến.

Mặc dầu thời tiết xấu các phi cơ chiến đấu Skyraider A-1, A-37 xuất phát từ Phi Trường Cù Hanh lên oanh kích Cộng Quân đang chiếm giữ QL14. Gần sáng Cộng Quân vừa pháo kích vừa xua quân vào Đồn Tân Cảnh, gặp phải hoả lực mạnh của các chiến sĩ Trung Đoàn 42 mãnh liệt chống trả, nhờ vậy Tân Cảnh đứng vững đến khi trời sáng. Trời sáng sương mù nhiều lại thấp không thuận lợi cho phi cỏ yểm trợ. Trước tình thế quân địch quá đông, về phía ta thì bất lợi vì thời tiết xấu, tướng Ngô-Dzu ra lệnh di tản chiến thuật Đồn Tân Cảnh và các đồn phía Tây QL 14. Cùng với đông bào lui về tái lập giới tuyến cách Kontum 20 km, chiến đấu dũng cảm của Trung Đoàn 42 Bộ Binh đẩy lui nhiều đợt tấn công “biển người” của Cộng Quân với khối bộ binh gấp ba lần và thêm 60 chiến xa T54 yểm trợ. Trận chiến kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ không ngừng nghỉ; ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 liên lạc được với căn cứ đến 8:00 tối ngày 24-4-72 thì mất liên lạc. Một số quân sĩ thoát khỏi quận Dakto về cho biết Căn Cứ Tân Cảnh đã bị Cộng Sản tràn ngập đêm 24 tháng 4 năm 1972. Sau khi hai quận Dakto và Tân Cảnh bỏ ngỏ cho Cộng Sản, thành phố Kontum càng bị áp lực nặng nề của quân Bắc Việt; con đường QL 14 nối liền giữa Kontum và Pleiku bị cắt đứt, Kontum bị cô lập, thiếu dầu thiếu điện, lương thực tiếp tế không đến được, phi cơ không đủ để chuyển lương thực, ngày càng khó khăn dân chúng phải di tản về Pleiku bằng phi cơ và đường bộ cách giữa Kontum và Pleiku 45 km..

Lần lượt Cộng Sản Bắc Việt chiếm các căn cứ quan trọng tiền đồn phòng thủ Kontum và Pleiku. Muốn tiến chiếm Kontum và Pleiku thì chúng phải triệt hạ một chướng ngại vật lớn là: Lệ Khánh, căn cứ nầy còn có tên là (Polei-Kleng.) Lệ-Khánh là tên một con đồi lớn, nằm về phía Tây Bắc, cách Thành Phố Kontum khoảng 22 km, chung quanh Đồi Lệ-Khánh có những đồi thông khác, nằm rải rác, tạo nên một khung cảnh thật thơ mộng. Để ngăn ngừa mọi áp lưc của Cộng-sản đối với Kontum và Pleiku, trên đồi Lệ-Khánh quân đội Hoa Kỳ đặt một căn cứ hoả lực kiên cố. Doanh trại căn cứ xây theo hình tam giác, có một hệ thống giao thông hào chìm lẫn nổi, có 13 lô cốt phòng thủ quanh trại, căn cứ Lê Khánh có chức năng chận đứng mọi xâm nhập của Cộng Quân từ biên giới Lào-Việt-Miên qua Đường Mòn Hồ Chí Minh. Vì vậy, bất cứ giá nào CS Bắc Việt cũng quyết tâm san bằng Lệ Khánh. Cộng Quân Bắc Việt khơi mào tấn công Lệ Khánh vào những ngày đầu tháng 5/72 bằng những trận pháo không ngừng nghỉ, với những đại pháo 82 ly và 122 ly, suốt tuần dồn dập rót đại pháo vào đồn Lệ Khánh.

Đến ngày 7-5-72 cộng quân tăng cường độ pháo kích nặng hơn, từ 8:00 sáng đến nửa đêm, chúng chuyển sang tấn công ở sườn phải vòng đai. Biệt động quân giữ vững vị trí, đánh trả nhiều đợt tấn công trong đêm, đến sáng Cộng binh lui binh để phục hồi lực lượng, để lại trên 300 xác treo rải rác quanh vòng đai phòng thủ. Sau một giờ kiểm binh, cộng quân tăng cường, tấn công tới tấp. Lần này, chúng dùng đại pháo 105 ly, rót hàng ngàn quả vào căn cứ hàng nhiều giờ, trước khi thả 20 chiến xa T54 yểm trợ bộ binh tấn công căn cứ. Mặc dù đã hết sức mệt mỏi, sau nhiều giờ chiến đấu không nghỉ, Biệt Động Quân sẵn sàng với M-72 chống chiến xa, đợt tấn công lần 2 này có 5 chiến xa T-54 bị bắn cháy, nhiều xác cộng quân ngã gục tại chỗ. Lần nữa cộng quân tháo lui, chiến trận giằng co mãi đến 20 ngày, binh sĩ BĐQ phải sống ẩn núp dưới những giao thông hào chìm để tránh mưa pháo liền tay của binh Cộng Sản. Quang cảnh đồi Lệ Khánh không còn được đẹp như tranh vẽ của trời Cao Nguyên nữa, căn cứ Lệ Khánh bi bầm dập thành mảnh bởi đạn pháo của cộng quân, kho đạn của đồn bị trúng pháo nổ tanh banh, trung tâm hành quân xụp đổ, những binh sĩ BDQ vẫn cô đơn kiên cường chống giặc, lương thực, nước uống dự trữ chỉ dùng đủ 3 tháng. Căn Cứ Lệ Khánh hoàn toàn bị cô lập, không tiếp tế, không tải lương được. Biệt phòng BĐQ vẫn chiến đấu, ai bị thương nặng thì nằm bệnh xá, còn cầm súng được, vẫn tiếp tục bắn địch quân, vợ con binh sĩ cũng tham gia chiến đấu, người tay súng, người tải thương, người tải đạn, người quan sát canh phòng,.....

Cả tháng trời, Lệ Khánh không có ban đêm, khi mặt trời vừa khuất bóng, những trái hoả châu thả xuống liên tục soi sáng cả một vùng quanh căn cứ, một tiểu đoàn pháo binh của Sư Đoàn 22 bộ binh bên kia sông Poko bắn pháo yểm trợ cánh quân trú phòng chỉ độ 20km, xác địch quân rải dãy hàng rào phòng thủ hơn 20 ngày trước, giờ thì sình thúi, pha trộn mùi khói thuốc súng, làm cho căn cứ nặc nồng mùi tử khí. Từ ngày 20 cho đến về sau, căn cứ mất liên lạc với QĐ II, các đội cao điểm bị quân CS chiếm đặt cao xạ trực chỉ vào căn cứ, cây ăn-ten (antenna) dù căng lên lại là đích cho súng pháo của địch. Chỉ huy căn cứ Lệ Khánh quyết định rút lui khỏi căn cứ. Trong số các lô cốt, lô cốt số 13 là an toàn hơn, tiểu đoàn được lệnh sẵn sàng lên đường, đến gần sáng, phá hàng rào kẽm gai chằng chịt của lô cốt số 13, trong khi quân CS vẫn tiếp tục nã pháo như mưa vào trại. Toán tiền phong mở đường máu tiến ra ngoài, toán trước, trợ cho toán sau, dẫn dắt gia đình, binh sĩ và thương binh… thoát được ra ngoài vòng pháo của địch, hai toán chia nhau đi hai hướng khác nhau, nhờ liên lạc được vô tuyến gọi phi cơ quan sát vị trí địch quân, đem phi cơ oanh tạc cộng quân đang vây căn cứ. Hai cánh quân rút lui mãi đến chiều hôm sau mới đến con sông Poko, một cánh quân bảo vệ cho gia đình binh sĩ cố gắng qua sông để đến tạm trú tại căn cứ Liên Đội 385 Địa Phương Quân, một cánh vừa rút lui vừa chống đỡ yểm trợ cho đoàn qua sông, tiếng con nít khóc làm lộ mục tiêu, Việt Cộng rượt đuổi theo đoàn đang vượt qua sông, nhờ mùa khô, nước cạn ngang ngực nên cả đoàn và gia đình cũng lướt băng qua sông, một bà mẹ người Thượng đai đứa con còn trong nôi trước ngực, bị trúng đạn chết tức khắc nằm thả ngửa trên mặt nước, trong khi đứa con còn đang ngậm vú mẹ. Cộng Quân đuổi kịp đến bờ sông, chúng dùng súng cối 61 ly nã đạn, không chút thương tiếc vào đoàn vượt sông, thật dã man, giết chết cả đàn bà con nít, mặt nước sông Poka nhuộm đỏ máu của những người dân vô tội, 360 người cùng vượt sông, sang đến bờ chỉ còn lại 97 người sống sót.


Từ đồi Charlie, Dakto, Tân Cảnh, nay đến Lệ Khánh thất thủ, mục tiêu của CS là Pleiku, bây giờ còn lại Kontum, đầu giới tuyến, binh CS bắt đầu tấn công căn cứ 41 và 42 ,là hai căn cứ then chốt cho an ninh của QL 14 giữa Pleiku và Kontum cách nhau 15km, âm mưu của CS là cắt đứt mối tiếp tế, liên lạc, lưu thông giữa 2 thành phố, nếu 2 căn cứ then chốt nầy mất thì Pleiku sẽ rơi vào sự kiểm soát của CS Bắc Việt, vì vậy, một bên trong tư thế tấn công, một bên trong thế thủ, dù cho có bao nhiêu thân xác phải hy sinh. Vào lúc nửa đêm, cộng quân pháo hàng trăm quả vào căn cứ, sau đó một đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng và một trung đoàn trợ chiến, đặc công của Việt Cộng còn rất trẻ tuổi khoảng từ 15-16… đã bị chích thuốc kích thích, nên rất liều mạng sống, chúng đeo vào người khoảng 50 kg chất nổ, nhào vô hàng rào căn cứ tấn công, phá rào dọn đường cho trung đoàn bộ binh, có trung đoàn pháo yểm trợ, tấn công đẫm máu vào căn cứ ở hướng Đông, chiến sĩ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh từ hướng Tây đánh lên, nhờ sự quan sát tốt trên không của L19 và C7 chỉ điểm cho pháo binh yểm trợ rất chính xác, thêm hoả châu soi sáng vùng chiến địa, nhờ đó mà phi cơ C130 vũ trang (C130 gunship) và phi cơ oanh tạc F-4 trực xạ chính xác vào các cánh quân Cộng Sản, trận chiến kéo dài đến sáng, Cộng Quân lơi tiếng súng, dần dần rút lui, biến mất vào các triền núi. Chiến sĩ các căn cứ hoả lực phải đi chôn 160 xác Cộng Quân quanh vòng rào phòng thủ và 40 xác khác trên bờ suối, nhiều xác đặc công CS còn trẻ trong lứa tuổi học sinh nhưng lại bị đem xử dụng liều mạng chết thật thảm thương. Sư Đoàn 23 Bộ Binh cho tăng viện về Kontum, cả một đoàn xe vận chuyển và các đơn vị Thiết Giáp đều bị phục kích trên tuyến đường dài từ Sơn Trà cho đến đồi Chu Pao. Vào đầu tháng 6, 1972 quyền kiểm soát đỉnh đồi Chú Pao bị rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt).
- Ê! Ê! Nó đang dòm bồ cà.

Anh bạn khều vai trong khi tôi đang suy tư nhìn những người đang bị đối xử tàn tệ trong cũi kia. Anh bộ đội mặc đồ chiến đấu màu xanh ô-liu, nón cối, đeo sao vàng nền đỏ trên vai đang đếm từng người chúng tôi. Xe tiến vô phi trường, đến khu nhà độc thân, đó là những dãy nhà tiền chế, sơn phết màu trắng, sạch sẽ phân ranh đều đặn bằng những hàng cây đu đủ hoặc chuối, đang được mùa sai quả, trước, sau, không một bóng người, cả một căn cứ mênh mông, lạnh tanh như nơi hoang phế, rác rến, giấy báo, gỗ ván, bàn ghế nghiêng ngửa, bàn ngồi cầu tiêu lăn lóc ngoài sân, chén đĩa bể tung tóe, có lẽ đó là dấu vết của cuộc tháo chạy, bị phá hoại, hôi của dữ dội vừa qua, sau khi QĐ II bỏ ngỏ.

Chúng tôi được phân cho một căn nhà để nghỉ tại đây, thời gian là bao lâu thì không biết, phải xong hết việc mới biết có được về hay không. Ra công quét dọn, chúng tôi nhặt được nhiều sách, sách học tiếng Anh, văn thơ, tiểu thuyết, nhứt là loại tự luyện văn hoá, tự học. Tôi nghĩ, nơi đây, cảnh vật tịch mịch, quanh năm với núi rừng - một thành phố buồn - các anh chàng “hào hoa” lấy sách để tự trao đổi kiến thức, giải khuây. Vuốt lại tờ giấy còn dán ở vách, một câu thơ của ai đó còn lưu lại:

Bây giờ anh ở Pleiku
Cỏ xanh là núi, mây mù là sương....

Kẻng cơm reng lên. Chúng tôi tập họp để gặp trưởng đoàn, dặn dò những điều cần phải làm để giữ an toàn khi có báo động. Anh ta cho biết:
- Vì bọn địch “FULRO” (Lực Lượng Biệt Kích người Thượng, được trợ cấp bởi Chính Phủ Hoa Kỳ) còn đang lẩn náo gần đây, âm mưu phá hoại chúng ta, nếu có báo động, các anh ở đâu thì cứ ở tại chỗ, không chạy lộn xộn ra ngoài, tránh lẫn lộn, nếu không bị địch đâm chết thì cũng bị bạn ta bắn lầm.

Cơm xong trời đã tối, không đèn, phải nhờ mấy cây đèn bin, lấy đầy bi-đông nước chín, chúng tôi quay về chỗ nghỉ, tạm yên tâm và hy vọng sẽ có được một giấc ngủ ngon lành. Đã 3 đêm xa nhà, thật không nỗi buồn nào hơn! Những giọt mưa rơi chạm vào mái tôn ngân tiếng ton…ton… đều đều như nhịp đệm cho một bản nhạc buồn đưa tôi vào giấc ngủ lúc nào mà không hay. Đang chập chờn, nửa tỉnh, nửa mê, bỗng tiếng còi “tu hít" rít lên vang dội, tiếng kẻng chất chứa xé màn đêm, chúng tôi tung mền ngồi dậy nghe ngóng. Im lặng, nhớ lời dặn ban chiều “Ở đâu, ở đó”, thì bên ngoài, tiếng chân chạy thình thịch, tiếng người la ó, tiếng cò súng lên đạn róch rách:
- Đừng ra ngoài.

Anh bạn tôi nhắc nhở khẽ. Không có chuyện gì xảy ra tiếp, báo động độ nửa tiếng đồng hồ kết thúc, có lẽ cũng gần sáng, tiếng chim rừng ríu rít vừa đánh thức chúng tôi dậy. Sau đêm nghỉ ngơi, thì bắt tay vào việc. Nhờ tập trung vào công việc, nên cũng tạm quên nỗi nhớ nhà, toán Biên Hoà chúng tôi được giao việc thống kê vật liệu trong các kho, các nhóm khác được phân công phục hồi máy điện, phục hồi cơ khí và phi đạo tháo gỡ vũ khí trên các phi cơ có vũ trang. Bây giờ, chúng tôi mới có cơ hội nhìn qua cảnh vật, còn nhiều phi cơ nằm ụ, nằm rải rác trên phi đạo, những C-47, C-130, C-141, trực thăng UH-1, nhìn thấy những chiếc phi cơ này còn “đứng vững” trên các “bánh đáp”, chứng tỏ chúng chỉ bị hư hỏng nhẹ, hoặc có cái con tốt. Có lẽ do vội vàng rút chạy chỉ được phá huỷ không triệt để, số phi cơ và các tài sản còn lại này đáng giá hàng khối "dollars" khổng lồ, đang chờ “chủ mới”! Những ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi thả nhau đi mọt sách cũ trong trại, hoặc đi bộ ra hàng rào phòng thủ, từ các vọng gác cao, nhìn xuống các cô gái Thượng tắm suối, giặt đồ, họ chỉ mặc độc nhứt chiếc xà rong, để ngực trần, vui đùa, tát nước lẫn nhau, đặc biệt không có đàn ông.

Công việc tiến triển thật tốt, hàng thu nhặt được chuyển dần về Phi Trường Phù Cát, có lẽ những người “chủ mới” nầy xài lại hay bán đi các tài sản bạc tỷ đồng dollar nầy. Trong những chuyến vận chuyển tài sản về Phù Cát, ban đầu suông sẻ, bất ngờ, một hôm có tin xảy ra tai nạn, một chiếc xe tải GMC từ Pleiku đổ đèo Mang-Yang, xe đúng vào vách núi ở khúc quẹo ngặt, anh tài xế (lính KQ cũ) bị hất tung qua chỗ ngồi của người tháp tùng áp tải, anh cán bộ áp tải, bị văng qua thế chỗ người tài xế, anh bị cái "vô-lăng”(Volant) đập chết, người tài xế bị thương, tất cả đều được đem về Phi Trường Phù Cát, “Tử đâu, táng đó”, anh cán bộ được chôn tại đây, anh lính (KQVNCH) nằm điều trị đến ngày bình phục.

Tính ra, thời gian công tác đã ngoài 2 tháng, một hôm cuối tuần, chúng tôi được lệnh áp tải lương thực, theo xe đi chợ thị xã, nơi mà ngày xưa, Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn II, Vùng II Chiến Thuật trú đóng, ngày nào, đường phố rộn rịp, xe cộ nhà binh, dân sự, dân chúng và binh sĩ sinh hoạt tấp nập, vui vẻ, đời sống an lành, sung túc của thành phố màu xanh, bây giờ phố mưa buồn, ướt át, những con đường trơn trượt như trét mỡ bò mà vắng vẻ người qua lại, chẳng bù cho ngày xưa, khu vực này là Trung Tâm Thương Mại sầm uất, ồn ào..

Nơi cái bồn binh phun nước (fountain) ở đầu con đường chánh, thẳng tắp, chúng tôi đang mệt mỏi với cái cần xé đầy rau quả trên vai, thì thấy bên vỉa hè gần đường có một cái quán lộ thiên, kê vài cái bàn, ghế con thấp lè tè gần mặt đất, một cô gái trẻ độ tuổi trăng tròn, trong bộ đồ bà ba, ngoắt tay, miệng mời chúng tôi:
- Ngồi nghỉ chân, uống cà phê đi các anh. Tiện nơi ngồi nghỉ mệt, chờ xe đón.

Chúng tôi ngó lẫn nhau như hỏi ý. Cô gái tiếp tục mời vồn vã luôn tay, luôn miệng:
- Vô ngồi nghỉ mệt đi các anh, ở đây có cà phê cứt chồn. Đặc biệt ngon lắm.

Người con gái miền Cao Nguyên, thanh nhã. Dáng cao, làn da trắng mịn, giọng nói miền Nam thanh tao, dịu dàng rất để gây cảm tình, không ai bảo ai, chúng tôi đồng loạt đặt cái “ của nợ ” trên vai xuống, kéo ghế ngồi quanh cái bàn con vuông vứt, anh bạn hỏi:
- Cà phê cứt chồn là sao hả cô?
- Là con chồn ăn hột cà phê, sau đó “Ị” ra, người đi rừng lượm về phơi khô, rang lên rồi xay ra cà phê.

- Ở đây chắc có nhiều chồn lắm phải không cô?

Chúng tôi cùng cười rộ, làm hai má của cô gái đã hồng lại hồng thêm. Lần lượt, cô bưng 5 tách cà phê đặt lên bàn, trong thao tác nhẹ nhàng, lịch sự, với những ngón tay thon thon, dong dài, búp măng.
- Các anh người Miền Nam, Sài Gòn?
- Còn cô quê ở đây? Cô có biết Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở chỗ nào không?

Không chút ngập ngừng, chứng tỏ là rất quen thuộc địa phương này, Cô chỉ về hướng xa xa trên con đường nối dài với nơi chúng tôi đang ngồi:
- Đằng kia kìa, chỗ mấy ngôi nhà sập nát bình địa, còn lại mấy tấm tường vôi vàng lẫn trong đám cây, nơi đó là Quân Đoàn II, họ đánh nhau dữ quá, năm 72, rồi năm 75, họ bỏ hết không còn gì.

- Rồi bây giờ còn lại cô.

Cô gái lại thẹn thùng, cười mỉm, quay chiếc lưng “ong” vội vã vào trong. Nhìn thân hình người con gái cao nguyên với mái tóc dài kẹp thả lỏng tận thắt lưng, chiếc áo bà ba trắng chật vừa phải, ôm xát thân mình cô nổi bật những đường nét mà những phụ nữ thi hoa hậu cần phải có, chiếc quần đen láng lóng lánh, bóng lộn, ôm gọn cả thân mình tròn trịa, cân đối. Tôi nghĩ: Giá mà cô ta mặc bộ đồ tắm, thì chắc chắn không thua gì các nàng dự thi "hoa hậu" trên sân khấu để giám khảo ngắm nhìn, cho điểm, đôi má hồng, đôi môi đỏ tự nhiên hiện trên khuôn mặt tròn trái soan, đôi chân mày vòng cung hình lá liễu cân đối trên cặp mắt hạt huyền tròn xoe, ẩn hiện dưới cặp lông nheo cong vút, nhấp nháy, mỗi lần cô chớp mắt thì: ôi! Thật tuyệt vời.

Thảo nào, lúc đang vào thời chiến tranh nóng bỏng ở vùng Cao Nguyên, một vị cố vấn trưởng đầy quyền lực trong tay đã phải luỵ vì tình với một phụ nữ của Thị Xã Pleiku.

Ông John Paul Vann, trong thời gian làm cố vấn cho Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Đoàn II, Vùng II Chiến Thuật, phải lòng một cô gái “má đỏ môi hồng” nên đã thay đổi cuộc đời của Ông. Sóng gió của mối tình muộn và đầy ngang trái nầy, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tận “Tòa Nhà Trắng ở Hoa Thịnh Đốn”, vì ông đang là một nhân vật quyền thế đương thời, tình yêu này sẽ ảnh hưởng lớn trên vận mạng quốc gia bạn, mà giữa lúc Cao Nguyên trong cảnh khói lửa ngút trời chiến tranh, Ông đã nói lên tâm sự của mình, thổ lộ cùng mọi người về sự lựa chọn cho đời ông: "Sau khi tình hình của Cao Nguyên sáng sủa, tôi sẽ làm đám cưới với nàng, tôi sẽ ở lại đây với nàng cho hết cuộc đời và Việt Nam sẽ là quê hương thứ hai của tôi".

Vì thế, từ lúc đó bạn bè của ông đều nghĩ rằng: ông đang phục vụ một cách hăng say cho quê hương Việt Nam của ông, chớ không phải làm cố vấn cho một quốc gia bạn. Sự ước nguyện của ông chẳng bao giờ thành. Vào “Mùa Hè Đỏ Lửa”, Bắc Việt Cộng Sản cho mở cuộc tấn công vào tận Thị Xã Kontum, ông cùng người quan sát viên Hoa Kỳ trên chiếc phi cơ trực thăng, rời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Pleiku đi quan sát mặt trận. Trên đường bay đi Kontum, chiếc trực thăng OH-58 bỗng phát nổ cháy trên bầu trời Pleiku, lúc đó là 9:20 đêm 09-6-1972, ông Vann, người quan sát viên và phi công đều chết. Tai nạn gây ra là lúc trực thăng bay trong mưa, sương mù, máy bay đang bay ở cao độ thấp nên đụng phải cây rừng mà nổ.

Ông Vann được đưa về Hoa Kỳ, an táng tại Arlington National Cemetery, tiểu bang Virginia. Ông thọ 48 tuổi. Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăng cấp cho ông từ Đại Tá lên Cố Thiếu Tướng.

Sau buổi tiệc chia tay vào ngày cuối tuần, chúng tôi hớn hở thu dọn hành trang, nhìn lại lần nữa quang cảnh điêu tàn, xơ xác, vắng tanh, những chiếc phi cơ phơi mình, dầm mưa, dãi nắng, lòng chua xót cho những chiến lợi phẩm đáng giá bị bỏ phế này.

Từ giả phi trường chúng tôi phải đi qua một vòng nữa: xuyên qua thành phố, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nơi bị san thành bình địa, chỉ còn lại những đống gạch vụn to tướng. Nơi đây ngày xưa, đã từng là đầu não chỉ huy chống lại những cuộc lan tràn xuống miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt. Nhưng bây giờ thời oanh liệt nay còn đâu? Tất cả đã tan tành trong khói lửa, máu và chết chóc. Con lộ dẫn chúng tôi quanh trở lại vùng bồn binh, nơi quán cóc bên đường mà anh em chúng tôi đã có được một lần cùng ngồi uống tách cà phê thơm có cô chủ xinh đẹp. Cuộc gặp gỡ như bèo nước, mây trôi, rồi vĩnh viễn không còn gặp nhau nữa.

Mặt trời vẫn mọc trên cao, sinh hoạt đời sống con người vẫn tiếp tục bình thường, dáng điệu dịu dàng của cô gái Pleiku đang loay hoay chuẩn bị cho một ngày mới, “ Giã Từ Pleiku ” của “ còn chút gì để nhớ, để quên …”.

Không phải chỉ có Ông Tướng Cố vấn cảm nhận được cái đẹp, cái thuỳ mi dễ thương của người con gái Pleiku, mà nhiều du khách đến đây, dù chỉ một lần thôi, cũng phải cảm xúc trước cái đẹp của người, của cảnh vật thiên nhiên, của cây xanh, núi cao mây phủ mù mờ. Trước những cảnh đẹp xúc tích, hữu tình này, nhà thơ Vũ Hữu Định đã không cầm lòng, bộc phát một bài thơ mô tả gần như thật của sự quyến rũ ở đây:

Sách Tham Khảo:
- “Chinh Chiến Điêu Linh”: Kiều Mỹ Duyên
- "A Bright Shining Lie": Neil Sheelan
- "Việt Nam War"

Cáo lỗi: Về tên họ nhân vật trong bài chuyện kể này là những tên họ không thật, nếu có sự trùng hợp, thành thật ngoài ý muốn. Thành thật cám ơn, những chỉ dẩn bổ ích.

Nguyễn văn Đáng

Posted by: KhoaNam Jun 6 2019, 10:39 AM


Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku


Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi nhận lệnh kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số.

Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng.

Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ, nên bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn – phải nói ông anh mới đúng – là Liên Đoàn Trưởng của một liên đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu.

Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Henessey. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”.

Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này.

Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng. anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái.

Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp túi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:

– Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44?

Tôi khựng lại, ngạc nhiên:
– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi!

– Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy?

Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò:
– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà.

Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi:
– Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không?

Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác.

Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết…

Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ.

Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghi anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu.

Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui:

– Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi.

Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo này là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ.

Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Một cô gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ và có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt cô có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn.

Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có bóng dáng cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm màu của Thiên Chúa.

Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc ở khu ngoại ô tương đối an toàn, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế.

Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức.

Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch.

Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội.

Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm.

Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi.

Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng Carbine M2 chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh.

Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày.

Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng.

Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh.

Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục:

– Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu?

Vị linh mục buồn bã:
– Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy.

Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ.

Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thầy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ.

- Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy?

Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại:

– Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy.
Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt.

– Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần?

Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế.

Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện một lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô Trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé.

Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa.

Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặt.

Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc.

Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi chợt nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sững sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình:

– Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau.

Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng” nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng gió mưa lầy lội, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị cũ, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt.

Phạm Tín An Ninh