Welcome Guest ( Log In | Register )

2 Pages V  < 1 2  
Reply to this topicStart new topic
> Các Bậc Chân Sư Yogi Ấn Độ - Sri Yogananda, Dịch giả : Nguyễn Hữu Kiệt
WildFlowers
post Jun 3 2008, 11:01 AM
Post #13


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,312
Joined: 10-April 08
Member No.: 12
Country



Chương 13

Cây Bông Cải Bị Mất Trộm


- Bạch Sư Phụ, đây là món quà tặng của con: sáu cây bông cải do chính tay con trồng và săn sóc đặc biệt.
Với một cử chỉ trịnh trọng, tôi dân lên cho Sư Phụ cái rổ đựng bông cải. Sư Phụ đáp lại với một giọng sốt sắng:
- Cám ơn con. Con hãy cất trong phòng con. Ngày mai, Thầy sẽ cần dùng để nấu một bữa tiệc lớn.
Tôi vừa đến Puri để nghỉ hè tại đạo viện trên bờ biển của Sư Phụ. Đó là một ngôi nhà nhỏ, khang trang, với hai tầng lầu do Sư Phụ và các đệ tử dựng lên và day mặt ra vịnh Bengale.
Sáng hôm sau, tôi thức rất sớm và cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng trong bầu không khí miền biển cả với phong cảnh đẹp quanh vùng. Nghe giọng nói thanh tao của Sư Phụ, tôi nhìn thấy mấy bông cải quí và cất kỹ dưới gầm giường. Sư Phụ bảo tôi:
- Chúng ta hãy đi dạo một vòng trên bờ biển.
Sư Phụ mở đường đi trước, vài đệ tử và tôi đi từng nhóm lẻ tẻ. Sư Phụ nhìn chúng tôi bằng cặp mắt đầy khoan dung:
- Khi các đệ tử bên Tây Phương đi chơi chung với nhau, họ thường đi ăn rập từng bước. Bây giờ các con hãy sắp hàng đôi và tiến tới...
Chúng tôi cất bước đi nhịp nhàng; Sri Yukteswar vừa đi theo vừa hát một bài ca hành khúc. Tôi nhìn theo và thán phục sự tự nhiên bình thản của Sư Phụ khi người cùng hòa mình thi đua sự hăng say với các đệ tử.
- Ngừng lại... ngừng!
Đôi mắt của Sư Phụ nhìn quanh để tìm tôi:
- Mukunda, con có nhớ đóng cửa sau của đạo viện?
- Bạch Sư Phụ, con nhớ là đã đóng rồi!
Sri Yukteswar im lặng trong vài phút với một nụ cười trên môi. Sau cùng người nói:
- Không, con đã quên. Sự thiền định công phu không phải là một cái cớ để bào chữa cho sự cẩu thả trong đời sống hằng ngày. Con đã xao lãng bổn phận trông nom đạo viện và con sẽ bị trừng phạt về cái tội đó.
Tôi tưởng Sư Phụ nói đùa khi người nói thêm:
- Trong sáu cây bông cải của con, lát nữa chỉ còn lại có năm!
Theo lịnh Sư Phụ, chúng tôi quay trở lại và trong giây lát đã về gần tới đạo viện.
- Hãy đợi một lát, Mukunda; kìa con hãy nhìn về đằng xa, trên con đường ở bên đạo viện. Một người đang đi trên con đường đó, y là cái lý do sự trừng phạt của con!
Tôi cố dấu sự bất mãn với những lời nói lạ lùng đó. Thình lình, một người nông dân xuất hiện trên đường lộ với tướng đi xiêu vẹo, hai tay y múa may quay cuồng với những cử chỉ lạ lùng của một người điên. Vừa kinh ngạc, tôi vừa nhìn xem cảnh tượng buồn cười đó. Khi người ấy vừa đi đến một nơi trên đường lộ mà y sẽ khuất tầm nhãn quang của chúng tôi, Sri Yukteswar nói:
- Bây giờ, y sẽ quay đầu trở lại.
Quả thật, người nông phu đổi chiều hướng và noi theo con đường về đạo viện. Sau khi vượt qua một mảnh đất trống, y lọt vào đạo viện do cánh cửa sau mà tôi đã quên khóa lại cẩn thận theo lời dặn của Sư Phụ.
Trong giây lát, người ấy bước ra, tay ôm theo một cây bông cải trong sau cây bông cải quí báu của tôi. Bây giờ, y đi một cách vững chải, dường như y đã làm xong một kỳ công hiển hách.
Cuộc đùa nghịch vô lý này không làm cho tôi ngỡ ngàng quá mức, tôi bèn rượt theo tên ăn trộm. Tôi chạy theo đến nửa đường thì Sư Phụ gọi tôi trở lại và ôm bụng cười lớn. Giữa hai trận cười giòn giã, Sư Phụ giải thích:
- Người điên nầy đang mơ ước một cây bông cải. Thầy nghĩ rằng thật không phải là một điều dở mà cho y vào lấy một cây trong mấy cây bông cải của con, khi con không biết giữ gìn cẩn thận.
Tôi vội chạy vào phòng riêng của tôi và nhận thấy rằng tên ăn trộm hẳn là bị ám ảnh bởi một loại ra cải, nên không đá động đến những chiếc nhẫn vàng, đồng hồ tay và tiền bạc của tôi để rãi rác trên giường. Thay vì lấy trộm của quí này y lại bò xuống gầm giường là nơi cát những cây bông cải của tôi, hoàn toàn che dấu đối với những cặp mắt không để ý, lại khêu gợi lòng tham của y.
Đến chiều, tôi yêu cầu Sư Phụ giải thích hiện tượng khó hiểu đó. Sư Phụ chậm rãi lắc đầu:
- Một ngày kia con sẽ hiểu. Không bao lâu khoa học sẽ khám phá vài định luật huyền bí về loại đó trong thiên nhiên.
Về sau, khi toàn thể thế giới lấy làm ngạc nhiên trước những phát minh nhiệm mầu về khoa vô tuyến điện, tôi mới nhớ lại lời tiên tri của Sư Phụ.
Những quan niệm cổ xưa về thời gian và không gian đều bị đảo lộn, không một gian nhà nào là quá nhỏ để không thể chứa đựng cả Luân Đôn hay Vọng Các!
Bằng chứng không thể chối cải về một trong những khía cạnh toàn thông của con người từ nay dường như đã nằm trong tầm hiểu biết của những bộ óc hoài nghi nhất.
Sự so sánh với khoa vô tuyến có thể giúp cho ta hiểu rõ hơn câu chuyện cây bông cải. Sri Yukteswar chẳng khác nào như một vô tuyến điện. Tư tưởng con người không gì khác hơn là một rung động truyền đi xuyên qua chất dĩ thái. Cũng như một máy vô tuyến điện thu thanh một bản nhạc nhất định trong số hàng trăm nghìn chương trình phát thanh truyền đi từ khắp mọi nơi trên thế giới, Sư Phụ tôi đã bắt được những tư tưởng của một người điên bị ám ảnh bởi sự mông ước có một cây bông cải, giữa hằng sa số những tư tưởng của tất cả mọi người, tức bao nhiêu máy truyền thanh trên thế giới. Ý chí mạnh mẽ của Sư Phụ đã hành động xuyên qua không gian và bắt buộc người nông dân đổi chiều hướng quay trở đầu lại do cửa sau bước vào nhà lấy một cây bông cải trong phòng tôi!
Mọi việc có ý nghĩa đã xảy ra vài ngày sau vụ ăn trộm bông cải. Một cây đèn dầu lửa bị thất lạc. Đã nhiều lần chứng kiến khả năng tiên tri của Sư Phụ, tôi cho rằng đối với Sư Phụ thì tìm lại cây đèn chỉ là một trò chơi trẻ con.
Sư Phụ đoán biết ý nghĩ của tôi. Người hỏi tất cả các đệ tử trong đạo viện với một vẻ mặt nghiêm trọng khác thường. Một đệ tử thú nhận đã dùng cây đèn để đi ra giếng nước ngoài sân sau.
Sri Yukteswar trịnh trọng đưa ra lời khuyên.
- Hãy tìm cây đèn ở gần cái giếng.
Tôi hối hả chạy nhanh đến nơi thì không thấy đèn đâu cả! Thất vọng, tôi trở lại tịnh xá, Sư Phụ thốt ra một chuỗi cười dài không màng đến sự thất vọng của tôi:
- Tại sao con muốn cho ta phải tìm thấy lại cây đèn? Ta đâu phải là nhà phù thủy!
Người nói thêm với một tia sáng tinh ranh trong cặp mắt:
- Và cũng không phải là một thám tử tài ba!
Khi ấy tôi mới nhận định rằng Sư Phụ từ chối không dùng đến những quyền năng siêu phàm khi bị thử thách hoặc vì một mục đích tiểu mọn.
Thời gian trôi qua trong cuộc sống hòa hợp vui vẻ giữa Thấy trò Sri Yukteswar định tổ chức một cuộc rước lễ tôn giáo. Người giao cho tôi điều khiển cuộc diễn hành của các đệ tử qua thành phố và vịnh Puri. Ngày rước đèn đã đến, mặt trời bình minh xuất hiện với một nhiệt độ nóng bức khác thường.
Tôi hỏi trong cơn tuyệt vọng:
- Bạch Sư Phụ, làm sao con có thể hướng dẫn các huynh đệ đi chân trần trên bãi cát nóng như thiêu đốt?
Sư Phụ đáp:
- Ta sẽ tiết lộ cho con biết một điều bí mật. Thượng Đế sẽ đưa đến một cụm mây che bớt ánh nắng và các con sẽ đi đứng dễ dàng không chướng ngại.
Tôi vui vẻ nhận công tác tổ chức cuộc rước lễ. Nhóm đệ tử rời khỏi đạo viện, người đi đầu cầm cây đạo kỳ Sat Sanga (Sat Sanga có nghĩa là “Môn phái của Chân Lý.”) Trên cây cờ có vẽ một con mắt thánh tượng trưng cho Huệ Nhãn thiêng liêng. (“Nếu mắt ngươi chỉ có một, toàn thân ngươi sẽ chiếu sáng.” Trong cơn thiền định thâm sâu, Huệ Nhãn thức động ở một điểm trên trán, giữa hai chân mày. Các Kinh Sách gọi đó là con mắt Toàn Tri, con mắt thứ ba, con mắt của Thần Shiva, con mắt trực giác v.v...)
Khi chúng tôi rời khỏi đạo viện thì góc trời ở ngay trên đầu chúng tôi có mây kéo đen nghịt dường như do một phép mầu. Giữa những tiếng kêu ngạc nhiên của tất cả mọi người, một cơn mưa lấm tấm nhẹ hột rơi xuống làm dụi bớt sức nóng trên đường lộ và bãi cát nóng cháy da. Trong hai tiếng đồng hồ của cuộc diễn hành, mưa vẫn rơi đều hột không ngừng, đem đến sự mát rượi trong không khí và cả trong lòng người! Khi chúng tôi trở về đạo viện, cả mây lẫn mưa đều biến tan không còn để lại dấu vết.
Khi tôi tỏ lòng biết ơn Sư Phụ, người đáp:
- Con thấy rằng Thượng Đế che chở chúng ta, Thượng Đế thương yêu và giúp đỡ tất cả mọi người. Cũng như Ngài đã đem mây mưa để ứng lời cầu nguyện của Thầy Ngài thỏa mãn mọi điều mong ước chân thành của những người sùng tín. Người đời ít khi nhận thấy Thượng Đế đã đáp ứng bao nhiêu lần những ước vọng của họ. Ngài không thiên vị một vị thiểu số nào, nhưng Ngài lóng nghe những kể nào cầu nguyện Ngài với tất cả tâm hồn. Như vậy, người đời phải có một đức tin tuyệt đối nơi lòng Từ Bi Bác Ái của đấng Cha Lành trên trời.
Hằng năm, Sri Yukteswar hành lễ bốn mùa, trong những dịp đó các đệ tử tề tựu kéo về đông đảo từ khăp chốn xa gần. Cuộc rước lễ mùa đông cử hành tại Serampore, đó là lần rước lễ đầu tiên mà tôi tham dự, và nó đã đem đến cho tôi một niềm an lạc lạ thường.
Cuộc lễ bắt đầu từ lúc sáng sớm mai bằng một đám rước gồm những đệ tử sắp hàng đi chân trần diễn hành qua các đường phố. Giọng hát của hàng trăm đệ tử cùng hòa tấu một khúc thánh ca tôn giáo làm dịu tâm hồn, những nhạc công thổi sáo, đánh trống và chụp chõa. Dân chúng làm hứng khởi ném bôn hoa dưới chân chúng tôi, họ lấy làm sung sướng mà nghe chúng tôi suy tôn danh hiệu đấng Chí Tôn trong một khúc thánh ca vang lừng, đem đến cho họ một nét thay đổi mới lạ trong cuộc sống lặng lẻ với những bổn phận quen thuộc hàng ngày. Sau cuộc diễn hành khắp các đường phố, đám rước đã trở về sân đạo viện, tại đó chúng tôi đứng vây quanh Sư Phụ trong khi những bạn đồng môn khác từ những bao lơn trên đầu ném xuống chúng tôi từng đợt những cành hoa cúc và hoa mẫu đơn vàng ánh.
Những quan khách dự lễ bước lên từng lầu trên, tại đây họ được tiếp đãi với món sữa chua và cam ngọt. Tôi vạch một lối đi xuyên qua nhóm bạn đồng môn đang làm bếp. Trong dịp lễ long trọng này, với một số quan khách và đệ tử đông đảo như thế, những nồi chảo khổng lồ được đem ra sử dụng và việc nấu bếp được dặt ở ngoài sân. Những đám lữa củi nhúm trong các lò gạch xây tạm phát ra một luồng khói khét làm nghẹt thở, nhưng chúng tôi vẫ làm việc một cách vui vẻ hết lòng. Ở Ấn Độ, những cuộc thánh lễ tôn giáo không bao giờ bị coi như một việc khó nhọc, mỗi người đều làm bất cứ việc gì tùy sức mình, họ đóng góp tiền bạc, cơm gạo, rau trái hoặc phụ giúp một cánh tay lao lực.
Sư Phụ phút chốc đã đến với chúng tôi, người theo dõi mọi công việc chuẩn bị hành lễ. Không hề mệt mỏi, người thi đua sức vóc và niềm hứng khởi trong việc làm với những đệ tử trẻ nhiệt thành nhất.
Trên tầng lầu hai, một nhóm nhạc công và ca sĩ hát các bài thánh ca theo nhịp đàn kéo và trống nhỏ. Sư Phụ lắng tai nghe như một người sành điệu, vì người có một lỗ tai âm nhạc toàn hảo:
- Hát sai nhịp rồi!
Sau khi đi một vòng quan sát chỗ nhà bếp, Sư Phụ trở lại nhóm nhạc công lúc nãy. Bản nhạc du dương vang lên nhưng lần này thì hoàn toàn đúng nhịp.
Ở Ấn Độ, âm nhạc được coi như một nghệ thuật thiêng liêng, ngang hàng với hội họa hay kịch nghệ. Thần Brahama, thần Vishnu và thần Shiva, tức Ba Ngôi bất tử của Thượng Đế đều là những vị nhạc sĩ đầu tiên. Trong truyện Thần Thoại Ấn Độ, thần Shiva biểu hiện vị Vũ Công Thiêng Liêng với những vũ điệu thần bí, diễn tả cuộc sống sáng tạo, bảo dưỡng và biến tan của Vũ Trụ, trong khi thần Brahma đánh nhịp theo âm điệu những chụp chõa khua động vang tai và thần Vishnu đánh trống mridanga. Thần Krishna, một hậu thân của thần Vishnu luôn luôn được hình dung với một ống sáo mà những âm điệu du dương làm thức tỉnh những linh hồn còn đang mê muội trong giấc mơ của ảo giác, tức ảo ảnh của vũ trụ và nhắc nhở họ hãy quay trở về gốc cũ trường cửu muôn đời. Saraswati, vị nữ thần minh triết, được hình dung khảy đàn vina, mẹ của tất cả các thứ đàn dây. Bộ kinh Sama Veda chứa đựng những thiên luận nhạc cổ nhất thế giới.
Trong ngày lễ, ban nhạc công trên từng lầu hai đã làm hứng khởi đến cả những tay đầu bếp tình nguyện ở chung quanh những lò chảo sôi bỏng của họ. Các bạn đạo và tôi cùng vui vẻ hát những bài thánh ca và đánh nhịp bằng hai bàn tay.
Đến chiều, chúng tôi đã dọn cơm chiên với đậu, rau cải nấu với cari và bánh hấp cho hằng trăm quan khách. Sau bữa cơm chiều, chúng tôi trải nệm bằng vải cứng ở ngoài sân, tất cả mọi người đều ngồi xếp bằng trên nệm vải dưới màn trời đầy sao, chăm chú nghe lời giảng đầy minh triết của Sư Phụ về pháp môn Kriya Yoga, theo đó người nêu lý tưởng sống của cuộc đời thanh cao, yên tĩnh, tinh tiến, theo phép ăn uống giản dị và hoạt động cơ thể hàng ngày. Kế đó, nhóm đệ tử trẻ hát những bài thánh ca và cuộc lễ kết thúc bằng một khúc nhạc hòa tấu. Từ mười giờ tối đến nửa đem, các đệ tử chia nhau rửa chén bát và quét sân đạo viện. Sư Phụ gọi tôi lại gần:
- Thầy hài lòng về công việc mà con đã làm ngày hôm nay và suốt cả tuần lễ chuẩn bị. Thầy cần dùng đến con, đem nay con có thể ngủ trên giường Thầy.
Đó là một đặc ân mà tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến. Chúng tôi ngồi yên lặng trong một lúc, đắm chìm trong cơn tọa thiền thiêng liêng. Chúng tôi vừa nằm nghĩ trên giường được độ mươi phút thì Sư Phụ bèn ngồi dậy mặc áo chỉnh tề:
- Bạch Sư Phụ, có chuyện chi?
Tôi còn cảm thấy tràn đầy một niềm sung sướng với ý nghĩ được nằm gần bên Sư Phụ.
- Hình như có vài đệ tử đến trễ do chuyến xe lửa đêm, họ sẽ đến đây trong giây lát. Chúng ta hãy sửa soạn vài món ăn.
- Bạch Sư Phụ, ai lại đến đây vào lúc một giờ sáng?
- Con hãy ngủ yên, hôm nay con đã làm việc nhiều, để Thầy tự làm bếp.
Có một giọng quả quyết trong câu nói của Sư Phụ làm cho tôi phải ngồi dậy và theo người vào bếp. Trong giây lát, nồi cơm nóng và chảo đậu xào gia vịđã bốc khói nghi ngút.
Sư Phụ nở một nụ cười đầy vẻ ưu ái:
-Đêm nay con đã thắng đoạt sự mệt nhọc và không ngại làm một công việc bất ngờ, từ nay về sau không một công việc nặng nhọc nào có thể làm cho con e ngại được nữa.
Khi người vừa dứt lời, tôi nghe có tiếng chân người ở ngoài sân. Tôi bèn chạy xuống cầu thang và đưa vào một nhóm đệ tử. Một người trong nhóm nói thấp giọng:
- Thưa sư huynh, chúng tôi không dám quấy rầy Sư Phụ vào một giờ khuya khoắt như vầy. Chúng tôi đi nhằm chuyến xe khuya, biết là đến trễ nhưng chúng tôi không lẽ trở về mà không chào Sư Phụ.
Sư Phụ đang đợi các huynh, giờ này người đang lo cơm nước cho các huynh đó.
Giọng nói của Sư Phụ vang lên, tôi dắt nhóm đệ tử còn vẻ ngạc nhiên vào bếp. Đôi mắt chớp sáng, Sư Phụ quay sang phía tôi:
- Bây giờ con đã được nghe xong tin tức, Thầy hy vọng con lấy làm sung sướng mà thấy các vị khách của ta thật sự đã đi trễ chuyến xe lửa đêm nay!
Nửa giờ sau, tôi theo Sư Phụ vào buồng ngủ và lấy làm hãnh diện mà được nằm gần bên một vị tôn sư thánh thiện





--------------------
Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian
Go to the top of the page
 
+Quote Post
WildFlowers
post Jun 3 2008, 11:02 AM
Post #14


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,312
Joined: 10-April 08
Member No.: 12
Country



Chương 13

Cây Bông Cải Bị Mất Trộm


- Bạch Sư Phụ, đây là món quà tặng của con: sáu cây bông cải do chính tay con trồng và săn sóc đặc biệt.
Với một cử chỉ trịnh trọng, tôi dân lên cho Sư Phụ cái rổ đựng bông cải. Sư Phụ đáp lại với một giọng sốt sắng:
- Cám ơn con. Con hãy cất trong phòng con. Ngày mai, Thầy sẽ cần dùng để nấu một bữa tiệc lớn.
Tôi vừa đến Puri để nghỉ hè tại đạo viện trên bờ biển của Sư Phụ. Đó là một ngôi nhà nhỏ, khang trang, với hai tầng lầu do Sư Phụ và các đệ tử dựng lên và day mặt ra vịnh Bengale.
Sáng hôm sau, tôi thức rất sớm và cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng trong bầu không khí miền biển cả với phong cảnh đẹp quanh vùng. Nghe giọng nói thanh tao của Sư Phụ, tôi nhìn thấy mấy bông cải quí và cất kỹ dưới gầm giường. Sư Phụ bảo tôi:
- Chúng ta hãy đi dạo một vòng trên bờ biển.
Sư Phụ mở đường đi trước, vài đệ tử và tôi đi từng nhóm lẻ tẻ. Sư Phụ nhìn chúng tôi bằng cặp mắt đầy khoan dung:
- Khi các đệ tử bên Tây Phương đi chơi chung với nhau, họ thường đi ăn rập từng bước. Bây giờ các con hãy sắp hàng đôi và tiến tới...
Chúng tôi cất bước đi nhịp nhàng; Sri Yukteswar vừa đi theo vừa hát một bài ca hành khúc. Tôi nhìn theo và thán phục sự tự nhiên bình thản của Sư Phụ khi người cùng hòa mình thi đua sự hăng say với các đệ tử.
- Ngừng lại... ngừng!
Đôi mắt của Sư Phụ nhìn quanh để tìm tôi:
- Mukunda, con có nhớ đóng cửa sau của đạo viện?
- Bạch Sư Phụ, con nhớ là đã đóng rồi!
Sri Yukteswar im lặng trong vài phút với một nụ cười trên môi. Sau cùng người nói:
- Không, con đã quên. Sự thiền định công phu không phải là một cái cớ để bào chữa cho sự cẩu thả trong đời sống hằng ngày. Con đã xao lãng bổn phận trông nom đạo viện và con sẽ bị trừng phạt về cái tội đó.
Tôi tưởng Sư Phụ nói đùa khi người nói thêm:
- Trong sáu cây bông cải của con, lát nữa chỉ còn lại có năm!
Theo lịnh Sư Phụ, chúng tôi quay trở lại và trong giây lát đã về gần tới đạo viện.
- Hãy đợi một lát, Mukunda; kìa con hãy nhìn về đằng xa, trên con đường ở bên đạo viện. Một người đang đi trên con đường đó, y là cái lý do sự trừng phạt của con!
Tôi cố dấu sự bất mãn với những lời nói lạ lùng đó. Thình lình, một người nông dân xuất hiện trên đường lộ với tướng đi xiêu vẹo, hai tay y múa may quay cuồng với những cử chỉ lạ lùng của một người điên. Vừa kinh ngạc, tôi vừa nhìn xem cảnh tượng buồn cười đó. Khi người ấy vừa đi đến một nơi trên đường lộ mà y sẽ khuất tầm nhãn quang của chúng tôi, Sri Yukteswar nói:
- Bây giờ, y sẽ quay đầu trở lại.
Quả thật, người nông phu đổi chiều hướng và noi theo con đường về đạo viện. Sau khi vượt qua một mảnh đất trống, y lọt vào đạo viện do cánh cửa sau mà tôi đã quên khóa lại cẩn thận theo lời dặn của Sư Phụ.
Trong giây lát, người ấy bước ra, tay ôm theo một cây bông cải trong sau cây bông cải quí báu của tôi. Bây giờ, y đi một cách vững chải, dường như y đã làm xong một kỳ công hiển hách.
Cuộc đùa nghịch vô lý này không làm cho tôi ngỡ ngàng quá mức, tôi bèn rượt theo tên ăn trộm. Tôi chạy theo đến nửa đường thì Sư Phụ gọi tôi trở lại và ôm bụng cười lớn. Giữa hai trận cười giòn giã, Sư Phụ giải thích:
- Người điên nầy đang mơ ước một cây bông cải. Thầy nghĩ rằng thật không phải là một điều dở mà cho y vào lấy một cây trong mấy cây bông cải của con, khi con không biết giữ gìn cẩn thận.
Tôi vội chạy vào phòng riêng của tôi và nhận thấy rằng tên ăn trộm hẳn là bị ám ảnh bởi một loại ra cải, nên không đá động đến những chiếc nhẫn vàng, đồng hồ tay và tiền bạc của tôi để rãi rác trên giường. Thay vì lấy trộm của quí này y lại bò xuống gầm giường là nơi cát những cây bông cải của tôi, hoàn toàn che dấu đối với những cặp mắt không để ý, lại khêu gợi lòng tham của y.
Đến chiều, tôi yêu cầu Sư Phụ giải thích hiện tượng khó hiểu đó. Sư Phụ chậm rãi lắc đầu:
- Một ngày kia con sẽ hiểu. Không bao lâu khoa học sẽ khám phá vài định luật huyền bí về loại đó trong thiên nhiên.
Về sau, khi toàn thể thế giới lấy làm ngạc nhiên trước những phát minh nhiệm mầu về khoa vô tuyến điện, tôi mới nhớ lại lời tiên tri của Sư Phụ.
Những quan niệm cổ xưa về thời gian và không gian đều bị đảo lộn, không một gian nhà nào là quá nhỏ để không thể chứa đựng cả Luân Đôn hay Vọng Các!
Bằng chứng không thể chối cải về một trong những khía cạnh toàn thông của con người từ nay dường như đã nằm trong tầm hiểu biết của những bộ óc hoài nghi nhất.
Sự so sánh với khoa vô tuyến có thể giúp cho ta hiểu rõ hơn câu chuyện cây bông cải. Sri Yukteswar chẳng khác nào như một vô tuyến điện. Tư tưởng con người không gì khác hơn là một rung động truyền đi xuyên qua chất dĩ thái. Cũng như một máy vô tuyến điện thu thanh một bản nhạc nhất định trong số hàng trăm nghìn chương trình phát thanh truyền đi từ khắp mọi nơi trên thế giới, Sư Phụ tôi đã bắt được những tư tưởng của một người điên bị ám ảnh bởi sự mông ước có một cây bông cải, giữa hằng sa số những tư tưởng của tất cả mọi người, tức bao nhiêu máy truyền thanh trên thế giới. Ý chí mạnh mẽ của Sư Phụ đã hành động xuyên qua không gian và bắt buộc người nông dân đổi chiều hướng quay trở đầu lại do cửa sau bước vào nhà lấy một cây bông cải trong phòng tôi!
Mọi việc có ý nghĩa đã xảy ra vài ngày sau vụ ăn trộm bông cải. Một cây đèn dầu lửa bị thất lạc. Đã nhiều lần chứng kiến khả năng tiên tri của Sư Phụ, tôi cho rằng đối với Sư Phụ thì tìm lại cây đèn chỉ là một trò chơi trẻ con.
Sư Phụ đoán biết ý nghĩ của tôi. Người hỏi tất cả các đệ tử trong đạo viện với một vẻ mặt nghiêm trọng khác thường. Một đệ tử thú nhận đã dùng cây đèn để đi ra giếng nước ngoài sân sau.
Sri Yukteswar trịnh trọng đưa ra lời khuyên.
- Hãy tìm cây đèn ở gần cái giếng.
Tôi hối hả chạy nhanh đến nơi thì không thấy đèn đâu cả! Thất vọng, tôi trở lại tịnh xá, Sư Phụ thốt ra một chuỗi cười dài không màng đến sự thất vọng của tôi:
- Tại sao con muốn cho ta phải tìm thấy lại cây đèn? Ta đâu phải là nhà phù thủy!
Người nói thêm với một tia sáng tinh ranh trong cặp mắt:
- Và cũng không phải là một thám tử tài ba!
Khi ấy tôi mới nhận định rằng Sư Phụ từ chối không dùng đến những quyền năng siêu phàm khi bị thử thách hoặc vì một mục đích tiểu mọn.
Thời gian trôi qua trong cuộc sống hòa hợp vui vẻ giữa Thấy trò Sri Yukteswar định tổ chức một cuộc rước lễ tôn giáo. Người giao cho tôi điều khiển cuộc diễn hành của các đệ tử qua thành phố và vịnh Puri. Ngày rước đèn đã đến, mặt trời bình minh xuất hiện với một nhiệt độ nóng bức khác thường.
Tôi hỏi trong cơn tuyệt vọng:
- Bạch Sư Phụ, làm sao con có thể hướng dẫn các huynh đệ đi chân trần trên bãi cát nóng như thiêu đốt?
Sư Phụ đáp:
- Ta sẽ tiết lộ cho con biết một điều bí mật. Thượng Đế sẽ đưa đến một cụm mây che bớt ánh nắng và các con sẽ đi đứng dễ dàng không chướng ngại.
Tôi vui vẻ nhận công tác tổ chức cuộc rước lễ. Nhóm đệ tử rời khỏi đạo viện, người đi đầu cầm cây đạo kỳ Sat Sanga (Sat Sanga có nghĩa là “Môn phái của Chân Lý.”) Trên cây cờ có vẽ một con mắt thánh tượng trưng cho Huệ Nhãn thiêng liêng. (“Nếu mắt ngươi chỉ có một, toàn thân ngươi sẽ chiếu sáng.” Trong cơn thiền định thâm sâu, Huệ Nhãn thức động ở một điểm trên trán, giữa hai chân mày. Các Kinh Sách gọi đó là con mắt Toàn Tri, con mắt thứ ba, con mắt của Thần Shiva, con mắt trực giác v.v...)
Khi chúng tôi rời khỏi đạo viện thì góc trời ở ngay trên đầu chúng tôi có mây kéo đen nghịt dường như do một phép mầu. Giữa những tiếng kêu ngạc nhiên của tất cả mọi người, một cơn mưa lấm tấm nhẹ hột rơi xuống làm dụi bớt sức nóng trên đường lộ và bãi cát nóng cháy da. Trong hai tiếng đồng hồ của cuộc diễn hành, mưa vẫn rơi đều hột không ngừng, đem đến sự mát rượi trong không khí và cả trong lòng người! Khi chúng tôi trở về đạo viện, cả mây lẫn mưa đều biến tan không còn để lại dấu vết.
Khi tôi tỏ lòng biết ơn Sư Phụ, người đáp:
- Con thấy rằng Thượng Đế che chở chúng ta, Thượng Đế thương yêu và giúp đỡ tất cả mọi người. Cũng như Ngài đã đem mây mưa để ứng lời cầu nguyện của Thầy Ngài thỏa mãn mọi điều mong ước chân thành của những người sùng tín. Người đời ít khi nhận thấy Thượng Đế đã đáp ứng bao nhiêu lần những ước vọng của họ. Ngài không thiên vị một vị thiểu số nào, nhưng Ngài lóng nghe những kể nào cầu nguyện Ngài với tất cả tâm hồn. Như vậy, người đời phải có một đức tin tuyệt đối nơi lòng Từ Bi Bác Ái của đấng Cha Lành trên trời.
Hằng năm, Sri Yukteswar hành lễ bốn mùa, trong những dịp đó các đệ tử tề tựu kéo về đông đảo từ khăp chốn xa gần. Cuộc rước lễ mùa đông cử hành tại Serampore, đó là lần rước lễ đầu tiên mà tôi tham dự, và nó đã đem đến cho tôi một niềm an lạc lạ thường.
Cuộc lễ bắt đầu từ lúc sáng sớm mai bằng một đám rước gồm những đệ tử sắp hàng đi chân trần diễn hành qua các đường phố. Giọng hát của hàng trăm đệ tử cùng hòa tấu một khúc thánh ca tôn giáo làm dịu tâm hồn, những nhạc công thổi sáo, đánh trống và chụp chõa. Dân chúng làm hứng khởi ném bôn hoa dưới chân chúng tôi, họ lấy làm sung sướng mà nghe chúng tôi suy tôn danh hiệu đấng Chí Tôn trong một khúc thánh ca vang lừng, đem đến cho họ một nét thay đổi mới lạ trong cuộc sống lặng lẻ với những bổn phận quen thuộc hàng ngày. Sau cuộc diễn hành khắp các đường phố, đám rước đã trở về sân đạo viện, tại đó chúng tôi đứng vây quanh Sư Phụ trong khi những bạn đồng môn khác từ những bao lơn trên đầu ném xuống chúng tôi từng đợt những cành hoa cúc và hoa mẫu đơn vàng ánh.
Những quan khách dự lễ bước lên từng lầu trên, tại đây họ được tiếp đãi với món sữa chua và cam ngọt. Tôi vạch một lối đi xuyên qua nhóm bạn đồng môn đang làm bếp. Trong dịp lễ long trọng này, với một số quan khách và đệ tử đông đảo như thế, những nồi chảo khổng lồ được đem ra sử dụng và việc nấu bếp được dặt ở ngoài sân. Những đám lữa củi nhúm trong các lò gạch xây tạm phát ra một luồng khói khét làm nghẹt thở, nhưng chúng tôi vẫ làm việc một cách vui vẻ hết lòng. Ở Ấn Độ, những cuộc thánh lễ tôn giáo không bao giờ bị coi như một việc khó nhọc, mỗi người đều làm bất cứ việc gì tùy sức mình, họ đóng góp tiền bạc, cơm gạo, rau trái hoặc phụ giúp một cánh tay lao lực.
Sư Phụ phút chốc đã đến với chúng tôi, người theo dõi mọi công việc chuẩn bị hành lễ. Không hề mệt mỏi, người thi đua sức vóc và niềm hứng khởi trong việc làm với những đệ tử trẻ nhiệt thành nhất.
Trên tầng lầu hai, một nhóm nhạc công và ca sĩ hát các bài thánh ca theo nhịp đàn kéo và trống nhỏ. Sư Phụ lắng tai nghe như một người sành điệu, vì người có một lỗ tai âm nhạc toàn hảo:
- Hát sai nhịp rồi!
Sau khi đi một vòng quan sát chỗ nhà bếp, Sư Phụ trở lại nhóm nhạc công lúc nãy. Bản nhạc du dương vang lên nhưng lần này thì hoàn toàn đúng nhịp.
Ở Ấn Độ, âm nhạc được coi như một nghệ thuật thiêng liêng, ngang hàng với hội họa hay kịch nghệ. Thần Brahama, thần Vishnu và thần Shiva, tức Ba Ngôi bất tử của Thượng Đế đều là những vị nhạc sĩ đầu tiên. Trong truyện Thần Thoại Ấn Độ, thần Shiva biểu hiện vị Vũ Công Thiêng Liêng với những vũ điệu thần bí, diễn tả cuộc sống sáng tạo, bảo dưỡng và biến tan của Vũ Trụ, trong khi thần Brahma đánh nhịp theo âm điệu những chụp chõa khua động vang tai và thần Vishnu đánh trống mridanga. Thần Krishna, một hậu thân của thần Vishnu luôn luôn được hình dung với một ống sáo mà những âm điệu du dương làm thức tỉnh những linh hồn còn đang mê muội trong giấc mơ của ảo giác, tức ảo ảnh của vũ trụ và nhắc nhở họ hãy quay trở về gốc cũ trường cửu muôn đời. Saraswati, vị nữ thần minh triết, được hình dung khảy đàn vina, mẹ của tất cả các thứ đàn dây. Bộ kinh Sama Veda chứa đựng những thiên luận nhạc cổ nhất thế giới.
Trong ngày lễ, ban nhạc công trên từng lầu hai đã làm hứng khởi đến cả những tay đầu bếp tình nguyện ở chung quanh những lò chảo sôi bỏng của họ. Các bạn đạo và tôi cùng vui vẻ hát những bài thánh ca và đánh nhịp bằng hai bàn tay.
Đến chiều, chúng tôi đã dọn cơm chiên với đậu, rau cải nấu với cari và bánh hấp cho hằng trăm quan khách. Sau bữa cơm chiều, chúng tôi trải nệm bằng vải cứng ở ngoài sân, tất cả mọi người đều ngồi xếp bằng trên nệm vải dưới màn trời đầy sao, chăm chú nghe lời giảng đầy minh triết của Sư Phụ về pháp môn Kriya Yoga, theo đó người nêu lý tưởng sống của cuộc đời thanh cao, yên tĩnh, tinh tiến, theo phép ăn uống giản dị và hoạt động cơ thể hàng ngày. Kế đó, nhóm đệ tử trẻ hát những bài thánh ca và cuộc lễ kết thúc bằng một khúc nhạc hòa tấu. Từ mười giờ tối đến nửa đem, các đệ tử chia nhau rửa chén bát và quét sân đạo viện. Sư Phụ gọi tôi lại gần:
- Thầy hài lòng về công việc mà con đã làm ngày hôm nay và suốt cả tuần lễ chuẩn bị. Thầy cần dùng đến con, đem nay con có thể ngủ trên giường Thầy.
Đó là một đặc ân mà tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến. Chúng tôi ngồi yên lặng trong một lúc, đắm chìm trong cơn tọa thiền thiêng liêng. Chúng tôi vừa nằm nghĩ trên giường được độ mươi phút thì Sư Phụ bèn ngồi dậy mặc áo chỉnh tề:
- Bạch Sư Phụ, có chuyện chi?
Tôi còn cảm thấy tràn đầy một niềm sung sướng với ý nghĩ được nằm gần bên Sư Phụ.
- Hình như có vài đệ tử đến trễ do chuyến xe lửa đêm, họ sẽ đến đây trong giây lát. Chúng ta hãy sửa soạn vài món ăn.
- Bạch Sư Phụ, ai lại đến đây vào lúc một giờ sáng?
- Con hãy ngủ yên, hôm nay con đã làm việc nhiều, để Thầy tự làm bếp.
Có một giọng quả quyết trong câu nói của Sư Phụ làm cho tôi phải ngồi dậy và theo người vào bếp. Trong giây lát, nồi cơm nóng và chảo đậu xào gia vịđã bốc khói nghi ngút.
Sư Phụ nở một nụ cười đầy vẻ ưu ái:
-Đêm nay con đã thắng đoạt sự mệt nhọc và không ngại làm một công việc bất ngờ, từ nay về sau không một công việc nặng nhọc nào có thể làm cho con e ngại được nữa.
Khi người vừa dứt lời, tôi nghe có tiếng chân người ở ngoài sân. Tôi bèn chạy xuống cầu thang và đưa vào một nhóm đệ tử. Một người trong nhóm nói thấp giọng:
- Thưa sư huynh, chúng tôi không dám quấy rầy Sư Phụ vào một giờ khuya khoắt như vầy. Chúng tôi đi nhằm chuyến xe khuya, biết là đến trễ nhưng chúng tôi không lẽ trở về mà không chào Sư Phụ.
Sư Phụ đang đợi các huynh, giờ này người đang lo cơm nước cho các huynh đó.
Giọng nói của Sư Phụ vang lên, tôi dắt nhóm đệ tử còn vẻ ngạc nhiên vào bếp. Đôi mắt chớp sáng, Sư Phụ quay sang phía tôi:
- Bây giờ con đã được nghe xong tin tức, Thầy hy vọng con lấy làm sung sướng mà thấy các vị khách của ta thật sự đã đi trễ chuyến xe lửa đêm nay!
Nửa giờ sau, tôi theo Sư Phụ vào buồng ngủ và lấy làm hãnh diện mà được nằm gần bên một vị tôn sư thánh thiện.


--------------------
Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian
Go to the top of the page
 
+Quote Post
WildFlowers
post Jun 3 2008, 11:03 AM
Post #15


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,312
Joined: 10-April 08
Member No.: 12
Country



Chương 14

Để Đánh Lừa Các Tinh Tú


- Mukunda, tại sao con không đeo một vật phù hộ chiêm tinh?
- Bạch Sư Phụ, bởi vì con không tin khoa chiêm tinh.
- Vấn đề không phải là tin hay không tin! Thái độ khoa học duy nhất là tìm hiểu xem một vấn đề có đúng không đúng. Luật hấp dẫn vẫn có trước cũng như sau Newton. Thế giới này sẽ hỗn loạn nếu những định luật thiên nhiên chỉ hành động dưới điều kiện là phải được chấp nhận bởi con người.
Những tay thấy bói giả mạo đã làm hoen ố khoa học khảo sát tinh tú. KHoa chiêm tinh có một tầm bao quát trên địa hạt tóan học và triết lý, nó rộng rải đến nỗi chỉ người nào có một tầm hiểu biết kiến thức bao la mới có thể lãnh hội được nó một cách toàn diện. Bởi thế, kể ngu dốt không biết quan sát càn tượng, chỉ nhìn thấy ở đó một sự rối rắm không ý nghĩa, nhưng hiền triết lại có một quan niệm khác hẳn.
Những dây liên lạc vô hình, những sự tương quan ảnh hưởng, vãn có luôn luôn giữa vjn vật trong vũ trụ. Nhịp độ điều hòa của vũ trụ căn cứ trên sự tương quan. Con người, trong cáo lớp vỏ bằng xương bằng thịt, phải chiến đấu với hai thứ mãnh lực: trước hết, sự nhu cầu của thể xác cấu tạo nên bởi tứ đại giả hiệp: đất, nước, lửa, gió; sau đó là những mãnh lực phá hoại trong thiên nhiên, thuộc về ngoại cảnh. Khi con người còn chịu sự chi phối, kềm tỏa của xác thịt, y còn chịu ảnh hưởng của những sức mạnh biến chuyển không ngừng trong vũ trụ càn khôn.
Khoa chiêm tinh nghiên cứu những phản ứng của con người dưới ảnh hưởng khích động của các cầu tinh tú. Những bầu tinh tú vốn không lành không dữ mà chỉ phát ra những làn sóng rung động tích cực hay tiêu cực, thuộc âm hay thuộc dương. Chúng không phù trợ, cũng không làm hại con người, mà chỉ là những khí cụ trung gian do đó được biểu lộ một cách đúng đắn không hề suy chuyển, những mối tác động quân bình về nhân quả gây nên bởi những hành động trong quá khứ.
Một người sinh ra đời vào một ngày giờ mà những ảnh hưởng của các bầu tinh tú hòa hợp một cách đúng đắn với nghiệp quả cá nhân của y. Lá số chiêm tinh của người ấy tiết lộ cái dĩ vãng và những gì có thể xảy ra trong tương lai. Chỉ những người nào có khiếu linh giác và minh triết sâu xa mới có thể diễn đạt lá số ấy một cách đúng đắn, và những người ấy rất hiếm.
Bức thông điệp khắc trên bầu tinh tú đúng vào ngày giờ sinh của một người không phải là để tăng cường cái định mệnh của y (kết quả của những hành động thiện ác trong quá khứ) mà để gây ra nơi con người cái ý chí giải thoát khỏi cái ngục tù kiềm tỏa của vũ trụ. Người ấy không thể xóa bỏ kết quả của những việc mà y đã làm. Y đã gây ra những duyên nghiệp trong quá khứ, nó sẽ đơm bông kết quả từ từ trong cuộc đời hiện tại của y. Y có thể vượt qua mọi chướng ngại bởi vì y có những hành động của mình, và bởi vì y có những khả năng tâm linh vượt ra ngoài vòng ảnh hưởng độc đoán của các bầu tinh tú.
Sự sợ sệt dị đoan về khoa chiêm tinh biến con người thành một vật thụ động, nô lệ của một sức mạnh mù quáng. Người khôn ngoan sáng suốt thắng đoạt được những bầu hành tin, tức dĩ vãng của mình. Khi người ta càng nhận thức được sự hợp nhất tâm linh của mình với Tinh Thần, hay Đại Thể của vũ trụ người ta càng thoát khỏi sự kềm tỏa của vật chất. Linh hồn người vốn tự do trường cửu; vốn bất sinh bất diệt, nó không thể chịu áp lực trói buộc của các bầu tinh tú.
Thượng Đế, chính là Công Lý. Người hành giả hòa hợp bản thể của mình với đấng Thiêng Liêng sẽ không bao giờ làm một việc bất công. Sự hoạt động của y từ nay sẽ phù hợp một cách tự nhiên với những định luật chiêm tinh. Sự cầu nguyện, sự tham thiền quán tưởng sẽ giúp y giao cảm với Thiên Ý và không một mãnh lực nào là cao hơn sự che chở của sức mạnh đó từ bên trong.
- Bạch Sư Phụ, như vậy tại sao Sư Phụ muốn cho con đeo một vật hộ phù chiêm tinh?
Tôi đưa ra câu hỏi đó sau một cơn im lặng kéo dài, trong khi đó tôi suy gẫm rất lâu về những lời vàng ngọc của Sư Phụ.
- Chỉ khi nào người lữ hành đã đi đến mục tiêu cuộc hành trình, y mới không còn cần đến bản đồ. Trên đường thiên lý, y phải biết xử dụng mọi con đường thắt để tiết kiệm sinh lực và thời giờ. Những vị chân sư thời cổ đã khám phá được nhiều phương tiện thương ngắn khoảng thời gian mà con người trải qua giữa cảnh vô minh hắc ám của thế gian. Trong cái guồn máy phức tạp của luật nhân quả, có những bộ phận mà một bàn tay minh triết có thể điều chỉnh một cách khéo léo.
Tất cả những tai họa thống khổ của con người đều do bởi y đã vi phạm những định luật thiên nhiên. Các Thánh Kinh nói rằng con người phải tuân theo những định luật thiên nhiên đó trước khi kêu gọi đến quyền lực tối cao của Trời...
Sự cầu nguyện, sức mạnh ý chí, sự tham thiền, sự gần gũi các bậc chân tưởng, việc sử dụng những vật hộ phù chiêm tinh giúp cho ta có thể làm dịu bớt họac tiêu trừ nghiệp chướng do quả báo gây nên.
Cũng như một cái nhà có ống thương lôi được che chở khỏi bị sét đánh, thì sãc thân chúng ta cũng có thể được che chở bằng nhiều biện pháp. Từ nhiều thế kỷ, các nhà đạo sĩ Yogi đã nghiệm thấy rằng vài loại kim khí phát ra một thứ hào quang có thể ngăn ngừa ảnh hưởng khốc hại của các bầu tinh tú. Những luồng từ khí tinh vi lưu chuyển thường xuyên trong vũ trụ, con người không hề biết những luồng từ điển đó ảnh hưởng ra sao, có lợi hay có hại cho thân thể và không thể làm gì được để đề phòng những ảnh hưởng đó.
Vấn đề này đã từng khêu gợi sự chú ý của các vị chân sư thời cổ, các vịấy khám phá những phối hợp tốt lành của những loại khí, thậm chí cả những loại thảo mộc nhưng trên hết là các loại ngọc quí không tỳ vết nặng ít nhất là hai carats. Ngoài xứ Ấn Độ, ít có xứ nào đem việc sử dụng khoa chiêm tinh vào mục đích ngăn ngừa bệnh tật, tai họa, làm một đầu đề nghiên cứu quan trọng. Người ta thường không biết rằng những linh vật hộ phù bằng khí, đá quí hay thảo mộc, chỉ có hiệu nghiệm khi nào người ta đeo những vật ấy dính trên da thịt mình.
- Bạch Sư Phụ, con sẽ nghe theo lời khuyên của Sư Phụ và con sẽ mua một vật hộ phù. Con cảm thấy thích thú với ý nghĩ có thể đánh lừa các bầu tinh tú.
- Thường thì Thầy khuyên nên đeo một chiếc neo vàng pha bạc và đồng. Nhưng trong trường hợp riêng của con, Thầy muốn con hãy đeo một chiếc neo bằng bạc và chì.
Kế đó Sư Phụ đưa ra thêm một vài chi tiết.
- Bạch Sư Phụ, trường hợp của con là như thế nào?
- Không bao lâu, những tinh tú sẽ chiếu cố đến con một cách không được thuận thảo lắm, Mukunda! Nhưng con đừng sợ, con sẽ được che chở. Trong chừng một tháng, lá gan của con sẽ gây cho con nhiều lo lắng. Bịnh ấy đáng lẽ kéo dài đến sáu tháng, nhưng món vật hộ phù sẽ làm ngắn thời gian ấy lại còn hai mươi bốn ngày!
Qua ngày hôm sau, tôi đến một tiệm kinh hoàn và đặt làm một vật hộ phù. Lúc ấy sức khỏe tôi dồi dào nên tôi quên lững lời tiên tri của Sư Phụ! Người cũng đã rời Serampore để đi Banaras. Một tháng sau, tôi cảm thấy đau nhói bên hông ở chỗ vị trí của lá gan. Những tuần lễ tiếp theo sau đó, tôi bị chứng đau gan nhưng tôi do dự không muốn làm phiền Sư Phụ tôi và hy vọng sẽ có đủ sức chịu đựng cơn thử thách.
Nhưng hai mươi bốn ngày đau đớn đã làm suy yếu quyết định của tôi. Tôi đáp xe lửa đi Banaras, tại đây Sư Phụ tiếp đón tôi với một lòng ưu ái khác thường, nhưng không để cho tôi có dịp gặp riêng để nói chuyện với người về chứng bệnh của tôi. Nhiều đệ tử hôm ấy đếng viếng Sư Phụ để có dịp chiêm ngưỡng tôn nhân. Bị bỏ rơi, lại đau yếu, tôi bèn ngồi riêng một góc. Sau bữa cơm chiều, những người khách đã rút lui. Sư Phụ mới gọi tôi lên bao lơn lầu bát giác của tịnh xá.
- Phải chăng con đến đây vì chứng bệnh đau gan?
Sri Yukteswar day mặt qua chỗ khác, rồi đứng dậy đi bách bộ qua lại trong phòng, vóc dáng cao lớn của người thỉnh thoảng che khuất ánh trăng rọi xuyên qua cửa sổ.
- Con đã đâu hai mươi bốn ngày, có phải không?
- Thưa vâng.
- Con hãy tập môn thể dục trị chứng bao tử mà Thầy đã chỉ dẫn cho con trước đây.
Nếu Sư Phụ biết rõ con đau đớn là dường nào thì chắc Sư Phụ sẽ không bảo con tập thể dục nữa!
Tuy vậy, tôi cố gắng vâng lời:
- Con nói rằng con đau, nhưng thầy nói là không. Làm sao có một sự tương phản như thế được?
Sư Phụ nhìn tôi với đôi mắt dò xét.
Tôi lặng người vì ngạc nhiên. Thình lình tôi lấy làm vui mừng mà thấy rằng cơn bịnh của tôi đã nhẹ, tôi không còn cảm thấy sự đau đớn nó đã làm cho tôi mất ngủ trong nhiều tuần! Một lời nói của Sư Phụ cũng đủ làm tiêu tan sự đau đớn của tôi dường như là tôi chưa hề bịđau bao giờ.
Với tấm lòng biết ơn, tôi định quì xuống dưới chân Sư Phụ thì người đã chận tôi lại:
- Đừng làm trò trẻ con! Hãy đứng dậy và nhìn xem vầng trăng đẹp trên khu rừng già!
Nhưng đôi mắt của Sư Phụ long lanh một niềm hạnh phúc, trong khi tôi đứng lặng im trước mặt người. Nhìn thái độ của Sư Phụ tôi hiểu rằng người muốn tôi hãy cám ón, không phải Sư Phụ, mà là Thượng Đế.
Đến nay tôi vẫn còn đeo món vật hộ phù bằng bạc và chỉđể tưởng niệm cái ngày đã qua không còn trở lại, ngày mà tôi hiểu rằng tôi đã sống bên cạnh một bậc siêu nhân. Trong những dịp khác, khi tôi đưa những bạn bè của tôi đến đạo viện để nhờ Sư Phụ chữa bệnh cho họ, người luôn luôn khuyên họ dùng những vật hộ phù hay ngọc quí và giải thích sự hiệu nghiệm của những vật ấy để ngăn ngừa những sự chẳng lành, căn cứ trên khoa chiêm tinh.
Từ thuở nhỏ, tôi đã từng dùng những vật hộ phù như vậy, một phần bởi vì tôi thấy rất nhiều người có thái dộ sợ sệt dịđoan vói khoa chiêm tinh, và cũng bởi vì nhà chiêm tinh của gia đình tôi đã thốt ra lời tiên tri như sau: “Em sẽ cưới hỏi ba lần và bị hai lần góa vợ!” Tôi ngẫm nghĩ đến số mạng đáng buồn của tôi, và có cảm giác như linh hồn một con trừu bị hy sinh trước bàn thờ của ba cuộc hôn nhân!
Em phải chấp nhận số mệnh, Ananta khuyên tôi như thế. Lá số của em đã tiên liệu việc em trốn lên dãy Hy Mã Lạp Sơn hồi còn thơ ấu nhưng sẽ bị bắt lại. Như vậy lời tiên tri về ba cuộc hôn nhân cũng sẽ thành sự thật.
Một đêm kia, tôi có linh cảm rõ rệt rằng lời tiên tri ấy là sai. Tôi bèn đem đốt lá số của tôi và gói nhúm tro vào trong bao giấy, trên đó tôi viết giòng chữ: “Những mầm nghiệp quả của quá khứ không còn đâm chồi mọc nhánh, một khi nó đã bị cháy tiêu trong ngọn lửa minh triết thiêng liêng.” Tôi để cái gói giấy ở một nơi mà Ananta có thể nhìn thấy rõ ràng, anh tôi đọc xong lời thách thức của tôi bèn có nụ cười khinh miệt:
- Em không thể đốt cháy sự thật một cách dễ dàng như là đốt lá số này.
Quả thật, trước khi đến tuổi trưởng thành, gia đình tôi đã ba lần mưu toan xếp đặt việc hôn phối của tôi. Mỗi lần như thế tôi đều phá hỏng kế hoạch của họ, vì tôi biết rằng lòng yêu Đạo Lý của tôi còn mạnh mẽ hơn ảnh hưởng của tinh tú gây nên bởi sự hành động của luật quả báo.
Khi một người càng tiến hóa trên đường tâm linh thì những rung động tinh vi của y càng ảnh hưởng đến toàn thể vũ trụ và y càng ít bịảnh hưởng hơn bởi những chuyển biến không ngừng trong hiện tượng giới.
Những lời nói đó của Sư Phụ thường trở lại trong trí nhớ để trấn tĩnh tâm hồn tôi.
Tôi đã từng yêu cầu các nhà chiêm tinh hãy hoạch định những thời kỳ xung khắc căn cứ theo lá số của tôi, trong những thời kỳ đó tôi vẫn tiếp tục hành động và coi như không có chuyện gì; tôi vẫn làm những công việc theo chương trình mà tôi đã vạch sẵn, không màng để ý đến sự sung khắc hay thất bại. Quả thật, tôi chỉđạt được sự thành công bằng một cái giá rất đắt, là va chạm với những khó khăn trắc trở vô cùng lớn lao. Tuy vậy tôi đã có sự quả quyết chắc chắn, đức tin nơi sự che chở thiêng liêng, việc sử dụng khôn khéo quyền tự do ý chid, là những mãnh lực vô cùng mạnh mẽ hơn là tất cả những sự phối hợp ảnh hưởng của các tinh tú.
Tôi hiểu rằng lá số chiêm tinh của một người, không có nghĩa là người ấy chỉ là một kẻ nô lệ của quá khứ. Trái lại, nó có một ý nghĩa vinh diệu hơn: do Khoa Chiêm Tinh, đấng Thiêng Liêng tìm cách thức tỉnh nơi con người cái quyết định tự giải thoát khỏi mọi sự trói buộc, hạn chế. Thượng Đế sáng tạo ra con người như một linh hồn có cá tính riêng biệt, một phần tử cần thiết cho cơ cấu toàn diện của vũ trụ, bất luận trong vai trò tạm thời nào, dù quan trọng hay nhỏ nhặt tầm thường. Sự giải thoát của y sẽ là một việc tối hậu, nó tùy thuộc nơi sự thành công về đường tâm linh chứ không phải về phương diện vật chất.


--------------------
Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian
Go to the top of the page
 
+Quote Post
WildFlowers
post Jun 3 2008, 11:04 AM
Post #16


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,312
Joined: 10-April 08
Member No.: 12
Country



Chương 15

Vài Kỷ Niệm Lạ Lùng


- Nghe em và con tôi quá đề cao và khâm phục Sri Yukteswar, tôi sẽ đến viếng ông ấy một lần xem sao!
Bác sĩ thú y Narayan Chunder Roy nói với một giọng trịnh thượng, nhưng tôi không tỏ ra bất mãn. Ông ta là một người duy vật hạng nặng. Con trai ông, Santosh, khẩn khoản yêu cầu tôi giúp đỡ cha y, nhưng trường hợp này có vẻ tuyệt vọng.
Qua ngày hôm sau, bác sĩ Roy cùng đi với tôi đến đạo viện Serampore, Sư Phụ bằng lòng tiếp ông ta, cuộc hội kiến ngắn ngủi chỉ là một cơn im lặng kéo dài ở cả đôi bên, sau cùng người khách đứng dậy bỏ về.
- Con đem một người chết tới đây làm gì? Sri Yukteswar hỏi tôi khi cánh cửa vừa đóng lại phía sau lưng bác sĩ.
- Bạch Sư Phụ, bác sĩ Roy vẫn còn sống!
- Nhưng y sắp chết đến nơi rồi!
Lời nói đó làm tôi xúc động:
- Đó là một điều nặng nề cho người con của ông ta. Santosh hy vọng rằng thời gian sẽ đánh tan những ý tưởng duy vật của cha y. Cầu xin Sư Phụ hãy giúp đỡ người này.
- Được, Thầy sẽ làm vừa lòng con; gương mặt Sư Phụ vẫn thản nhiên. Người bác sĩ thú ý này không biết rằng y bị chứng đái đường rất nặng và y sẽ phải nằm liệt giường trong vòng mười lăm ngày. Các bác sĩ phải bó tay và y sẽ từ giã cõi đời trong vòng sáu tuần lễ kể từ ngày hôm nay nhờ sự can thiệp của con nên y sẽ khỏi bệnh vào ngày đó. Nhưng ta đặt một điều kiện: con hãy khuyên y đeo một vật hộ phù chiêm tinh, chắc chắn là y sẽ nhảy dựng lên như ngựa trước khi bịđem giải phẫu!
Sau một lúc im lặng, trong khi đó tôi ngẫm nghĩ nên làm cách nào để thuyết phục vị bác sĩ thú y, Sư Phụ nói tiếp:
- Khi y cảm thấy khá, con hãy khuyên y nên kiêng ăn thịt. Y sẽ không nghe lời khuyên đó và y sẽ chết trong sáu tháng, đúng vào lúc mà y tưởng là đã khỏi bệnh. Sáu tháng phụ trội đó chỉ được ban cho y là do lời cầu xin của con!
Ngày hôm sau, tôi dặn Santosh hãy đăt làm một vật hộ phù tại tiệm kim hoàn, bảy ngày sau đó, vật ấy đã làm xong nhưng bác sĩ Roy từ chối không chịu đeo.
- Tôi cảm thấy sức khỏe dồi dào. Các con đừng nhát tôi với những bùa phép chiêm tinh dịđoan đó.
Bác sĩ vừa nói vừa nhìn tôi cười ngạo nghễ.
Tôi thích thú mà nhớ lại rằng Sư Phụ vừa so sánh vị thú y với một con ngựa chứng.
Một tuần lễ trôi qua, vị thú y thình lình nhuốm bịnh, nên đành chịu đeo vật hộ phù.
Hai tuần sau, viên y sĩ khám bệnh cho y nói với tôi rằng trường hợp ấy đã tuyệt vọng và nói thêm nhiều chi tiết về những sự tàn phá trong cơ thể do bệnh tiểu đường gây ra.
Tôi lắc đầu:
- Sư Phụ tôi nói rằng bác sĩ Roy sẽ bình phục, bịnh này chỉ kéo dài trong vòng một tháng.
Viên y sĩ nhìn tôi với cặp mắt nghi ngờ. Nhưng hai tuần sau, ông ta gặp lại tôi và nói:
- Bác sĩ Roy đã hoàn toàn bình phục! Đây là trường hợp lạ lùng nhất trong đời bác sĩ của tôi. Tôi chưa từng thấy một người nào bịnh đang hấp hối mà tự nhiên lại bình phục một cách đột ngột như vậy. Thầy của anh chắc chắn là một nhà tiên tri và chữa bệnh!
Trong cuộc gặp gỡ với bác sĩ Roy, tôi có nói cho ông ta biết Sri Yukteswar có lời cảnh cáo ông ta không nên ăn thịt. Sau đó tôi không gặp ông ta trong sáu tháng. Một hôm tôi đang đứng trước hành ba nhà tôi, ông ta từ đâu tiến đến và nói:
- Em hãy nói với Thầy em rằng sở dĩ tôi mau lại sức là nhờ ăn rất nhiều thịt. Quan niệm phản khoa học của ông về vấn đề dinh dưỡng không thuyết phục được tôi!
Lúc ấy bác sĩ Roy quả thật là hiện thân của sức khỏe. Nhưng qua ngày hôm sau, Stantosh hốt hoảng chạy đến nhà tôi:
-Cha tôi thình lình ngã lăn ra chết hồi sáng này!
Đó là một trong những kinh nghiệm lạ kỳ nhất của đời tôi trong thời kỳ tôi sống chung với Sư Phụ. Người chữa khỏi bệnh cho viên thú y ngoan cố, không màng để ý đến sự hoài nghi thiển cận của ông ta, và kéo dài đời sống thế gian của ông ta thêm sáu tháng chỉ vì có lời cầu khẩn của tôi. Sri Yukteswar thường tỏ ra có lòng ưu ái vô bờ bến đối với những đệ tử chân thành cầu xin người giúp đỡ với tấm lòng khẩn thiết.
Điều làm tôi hãnh diện là tôi có đặc quyền đem những bạn học của tôi đến gặp Sư Phụ. Phần nhiều các bạn tôi trong những dịp đó đã từ bỏ thái độ hoài nghi của họ về vấn đề tôn giáo, một thái độ thịnh hành lúc đương thời.
Một trong những người bạn đó tên Sasim đã trải qua nhiều dịp nghỉ cuối tuần thích thú tại đạo viện. Sư Phụ có nhiều cảm tình với người thanh niên này và lấy làm buồn về cuộc đời phóng đãng, vô kỷ luật của y.
- Sasi, nếu con không sửa đổi cách sinh hoạt của con, con sẽ bị đau nặng!
Sri Yukteswar vừa nói vừa nhìn bạn tôi một cách tuyệt vọng.
- Ta nói có Mukunda làm chứng; con sẽ không còn nói rằng ta không khuyên giải con từ trước.
Sasi cười và nói:
- Bạch Thầy, con xin nhờ Thầy cầu nguyện dùm cho con! Con có nhiều thiện chí nhưng thiếu can đảm. Trên đời này, Thầy là vị cứu tinh của con, con không tin được ai nữa ngoài Thầy ra.
- Con phải đeo một hột đá xanh nặng hai carats. Đeo nó có lợi cho con.
- Con không đủ sức sắm vật ấy. Tuy nhiên, nếu con bị chuyện gì nguy cấp, con xin Thầy che chở cho con.
Sri Yukteswar trả lời với một vẻ bí hiểm:
- Trong vòng một năm, con sẽ đem đến đây ba hột ngọc bích, nhưng lúc bấy giờ thì những viên ngọc ấy không có ích gì cho con nữa.
Câu chuyện vẫn trở lại chung quanh một vấn đề. Sasi thú nhận với một sự tuyệt vọng đáng buồn cười:
- Con không thể tự sửa đổi! Đức tin của con đặt nơi Thầy, còn quý báu hơn mọi loại ngọc quí!
Một năm sau, tôi đến Calcutta cùng với Sư Phụ, người ở tại nhà một đệ tử tên là Naren Babu. Vào lúc mười giờ sáng, Sư Phụ và tôi đang ngồi nghỉ trong phòng khách trên lầu, thình lình tôi nghe tiếng mở cửa. Sư Phụ bèn nhỏm dậy và nói một cách nghiêm trọng:
- Sasi đã đến.
- Một năm vừa trôi qua, hai buồn phổi của y đã hỏng! Y không nghe lời Thầy. Con hãy nói rằng Ta không muốn tiếp y.
Tôi chạy xuống lầu thì thấy Sasi cũng đang lần từng bước thang đi lên.
- Mukunda, tôi hy vọng rằng Thầy có ở đây!
- Có, nhưng người không muốn bị ai quấy rầy.
Sasi vừa khóc sướt mướt vừa vượt qua trước mặt tôi để thụp xuống lạy Sư Phụ và đặt dưới chân người ba viên ngọc bích thật bích.
- Bạch Sư Phụ, các y sĩ nói rằng con bị chứng hoàn lao cấp số! Họ nói con sẽ không sống được tới ba tháng. Con khẩn cầu Sư Phụ giúp con vì con biết chỉ có Sư Phụ mới cứu được con.
- Phải chăng đã quá trễ để nghĩ đến việc cải tạo cuộc đời? Con hãy đi đi với những viên ngọc bích vô dụng này, thời kỳ hiệu nghiệm của nó đã qua rồi.
Sư Phụ nói xong thì chìm vào một cơn im lặng kéo dài, chỉ còn tiếng khóc nức nở của người thanh niên.
Tôi linh cảm rằng Sri Yukteswar chỉ nói vậy để thử thách đức tin của Sasi nơi quyền năng chữa bện của người. Bởi đó tôi không ngạc nhiên khi mà một giờ sau, Sư Phụ ban cho tôi một cái nhìn thương hại và nói:
-C on hãy đứng dậy, Sasi, và đừng làm mất sự yên tĩnh trong nhà người khác! Hãy trả các viên ngọc bích cho người kim hoàn vì hiện giờ đó là một sự phí tổn vô ích. Con đừng sợ, trong vài tuần con sẽ cảm thấy khỏi bệnh!
Một nụ cười chói sáng trên gương mặt đẫm lệ của Sasi chẳng khác nào như mặt trời xuất hiện sau cơn mưa:
- Bạch Sư Phụ, con cần phải uống thuốc chăng?
Sri Yukteswar tỏ ra giàu lòng tha thứ:
- Nếu con muốn. Uống thuốc hay không cũng chẳng hại gì. Dẫu cho mặt trời mặt trăng dời đi chỗ khác, con cũng không chết vì bệnh lao! Người nói thêm một cách đột ngột. Bây giời con hãy đi đi kẻo có khi ta lại đổi ý.
Sasi kiếu từ và rút lui.
Trong những tuần lễ sau đó, tôi đến thăm y nhiền lần và lấy làm thất vọng mà sức khỏe của y càng ngày càng hao mòn.
- Sasi sẽ không qua khỏi đêm nay!
Lời tuyên bố của vị y sĩ và tình trạng nguy kịch của bạn tôi làm cho tôi phải hối hả lên đường đến đạo viện. Sư Phụ lạnh lùng nghe lời báo cáo của tôi trong khi tôi vừa nói vừa khóc vì xúc động.
- Tại sao con đến làm phiền ta như vậy? Ta há chẳng nói trước rằng Sasi sẽ khỏi bệnh sao?
Tôi kính cẩn cúi đầu trước Sư Phụ và âm thầm rút lui.
Sư Phụ không nói gì những trầm mình trong im lặng, đôi mắt hé mở của người đang chiêm ngưỡng một cõi giới xa xăm nào. Tôi trở lại nhà Sasi ở Calcutta ngay khi đó và lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy bạn tôi đang ngồi tỉnh táo và uống sữa!
- Mukunda hỡi! Thật là kỳ diệu. Trong mấy tiếng đồng hồ qua, tôi cảm thấy trong phòng có sự hiện diện của Sư Phụ, ngay tức khắc chứng bệnh tôi liền thuyên giảm và biến tan đi mất. Tôi biết rằng chính nhờ Sư Phụ mà tôi được hoàn toàn bình phục!
Chỉ trong vài tuần, Sasi đã lên cân và sức khỏe dồi dào hơn bao giờ hết. Những sự khỏi bệnh của y lại có những hậu quả bất ngờ: y tỏ ra vô ơn bạc nghĩa, những cuộc viếng thăm đạo viện của y cũng thưa thớt lần lần. Một ngày nọ bạn tôi tâm sự với tôi rằng y cảm thấy hổ thẹn vì thái độ của mình đến nỗi y không dám đến gặp Sri Yukteswar.
Việc ấy đưa tôi đến kết luận rằng chứng bệnh của Sasi có cái hậu quả bất ngờ là làm cho y bị lệch lạc ý chí và không còn biết phép xử thế lịch sử ở đời!
Tôi thường bị xâm chiếm bởi những tư tưởng hoài nghi, vô thần. Tuy nhiên, một ý nghĩ băng khoăn đôi khi cũng thoáng qua trong trí tôi: linh hồn có hay chăng những tiềm năng chưa hề khai thác? Con người có lãng quên mục đích thật sự của mình chăng khi họ không quan tâm đến vấn đề này?
Dijen Babu, một người bạn học cùng lớp, tâm sự với tôi như thế khi tôi mời y đến viếng thăm đạo viện. Tôi bèn đáp:
- Sư Phụ Sri Yukteswar sẽ khai tâm cho anh theo pháp môn Kriya Yoga. Pháp môn này sẽ làm lắng dịu những sự cuồng loạn của ảo vọng bằng một sự giác ngộ thiêng liêng trong nội tâm.
Chiều hôm ấy, Dijen theo tôi đến đạo viện. Trước mặt Sư Phụ, bạn tôi cảm thấy một niềm an lạc thâm trầm xâm chiếm lấy tâm hồn y, và từ đó y thường đến viếng đạo viện luôn. Những điều lo lắng nhỏ nhạt của đời sống hằng ngày không đủ làm thỏa mãn con người, trong tánh chất của y cũng còn có sự khát khao chân lý. Trong những lời giảng huấn của Sri Yukteswar, Dijen nhận thấy một sự khích lệ thúc đẩy y tì kiếm tận nơi thâm sâu bí ẩn của nội tâm cái Chân Ngã bất diệt, khác hẳn với phàm ngã chật hẹp, ích kỷ của con người.
Dijen và tôi cùng theo học ban Cử Nhân tại trường Serampore College, trực thuộc trường đại học Calcutta và thường có thói quen đến đạo viện ngay sau giờ học. Sri Yukteswar thường nhìn thấy chúng tôi từ trên bao lơn từng lầu hai và tiếp đón chúng tôi với một nụ cười.
Một hôm, Kanai, một đệ tử trẻ nội trú tại đạo viện, đợi chúng tôi ở ngoài cửa và nói:
- Sư Phụ hôm nay vắng mặt, người có việc gấp phải đi Calcutta.
Ngày hôm sau, tôi nhận được một bử phiếu của Sư Phụ viết như sau: “Thầy sẽ rời khỏi Calcutta sáng ngày thứ Tư, con và Dijen hãy đón Thầy ở ga Serampore trên chuyến xe lửa 9 giờ.”
Sáng thứ Tư, vào lúc 8 giờ rưỡi, một thông điệp thần giao cách cảm của Sư Phụ đi xuyên qua trí tôi: “Thầy mắc bận vào giờ chót, đừng đón chuyến xe 9 giờ.”
Tôi liền báo tin cho Dijen, y đã sửa sọan ra đi những nghe tin ấy thì nói với giọng bất mãn.
- Anh cứ hay nói chuyện linh cảm với linh giác! Tôi chỉ tin những việc đó khi nào có chữ viết của Sư Phụ.
Tôi nhún vai, lặng lẽ ngồi xuống và quyết định ở lại, Dijen vừa bước ra cửa vừa nói lầm bầm và đóng sầm cánh cửa khi đi ra.
Trong phòng hơi u ám, tôi bèn đi đến chỗ cửa sổ trổ ra ngoài đường. Bỗng nhiên ánh sáng dịu lúc ban mai đổi thành một thứ ánh sáng chói lòa trong đó cửa sổ song sắt hoàn toàn biến mất dạng. Trên sàng gạch chói sáng, đứng sừng sững giữa phòng chính là Sri Yukteswar bằng xương bằng thịt rõ ràng!
Bàng hoàng và vô cùng kinh ngạc, tôi thụp xuống dưới chân Sư Phụ và sờ nhẹ hai bàn chân người để tỏ lòng tôn kính như thường lệ. Sư Phụ mang đôi giày bố màu da cam, đến giày bằng da dừa; tôi nhận ra một cách rõ ràng đó là đôi giầy mà Sư Phụ vẫn thường dung hằng ngày. Chiếc vạt áo màu vàng sậm của người phất qua đụng da mặt tôi, tôi cảm xúc được không những cái vạt áo mà còn nhận thấy mặt nhám của đôi giày bố và hai ngón chân cái cộm lên ở bên trong. Quá xúc động đến không thể nói chuyện được, tôi chỉ có thể nhìn Sư Phụ bằng cặp mắt dọ hỏi:
- Thầy rất vui lòng mà thấy con nhận được bức thông điệp thần giao cách cảm của Thầy.
Giọng nói của Sư Phụ vẫn bình thường không thay đổi.
- Thầy không thể hoàn tất mọi công việc kịp thời ở Calcutta và sẽ về đến Serampore trên chuyến xe lửa 10 giờ.
Câm lặng vì ngạc nhiên, tôi vẫn tiếp tục nhình Sư Phụ. Sri Yukteswar nói tiếp:
- Không, đây không phải là một sự hiện hình, mà chính là Thầy bằng xương bằng thịt. Thầy ban cho con cái kinh nghiệm hiếm có này do bởi Thiên Ý. Con hãy đợi Thầy tại nhà ga, Dijen và con sẽ gặp Thầy cũng trong bộ áo Thầy đang mặc lúc này, và đi trước Thầy có một thiếu nhi cầm một cái bình bằng bạc.
Sư Phụ bèn đặt hai bàn tay lên đầu tôi và nói thì thầm những lời ban ân huệ. Vừa dứt lời thì tôi nghe một tiếng động đặt biệt. Thể xác của Sư Phụ từ từ tan rã trong ánh sáng chói lòa. Hai bàn chân, rồi hai chân biến mất trước hết, kế đó tới thân mình và đầu, cũng ví như một cuộn giấy bị cuốn tròn lại. Cho đến phút chót, tôi cảm thấy sự đụng chạm nhẹ nhàng của những ngón tay luồn trong mái tóc tôi. Trong giây lát, ánh sánh chói lọi lúc nãy đã lu mờ dần, tôi chỉ còn nhìn thấy cái cửa sổ song sắt và những tia nắng mặt trời êm dịu.
Tôi chìm trong một cơn bàng hoàng như tỉnh như mê và tự hỏi phải chăng đó là một cơn nắng quáng đèn lòa, khiến cho tôi nhìn thấy một ảo ảnh. Trong lúc đó, Dijen mặt mày ngơ ngác bước vào gian phòng và nói:
- Sư Phụ không về trên chuyến xe 9 giờ, và luôn cả chuyến xe 9 rưỡi! Bạn tôi nói câu đó dường như để xin lỗi.
- Anh hãy đi theo tôi! Tôi biết Sư Phụ sẽ về trên chuyến xe 10 giờ.
Tôi kéo Kijen đi theo tôi, hầu như cưỡng bách, mặc dù y không bằng lòng. Mười phút sau chúng tôi đến nhà ga thì chuyến xe cũng vừa đến. Tôi kêu lên:
- Hào quang của Sư Phụ chói lòa khắp các toa xe lửa! Người đã về!
- Anh chỉ tưởng tượng! Dijen nói giọng châm biếm.
- Chúng ta hãy đợi ở đây.
Tôi diễn tả từng chi tiếh hình dáng của Sư Phụ khi người sẽ trở về. Tôi vừa nói xong thì Sri Yukteswar đã xuất hiện với bộ áo vàng sậm mà tôi đã thấy từ lúc nãy. Người đi chậm bước và theo sau một đứa trẻ nhỏ mang một cái bình bằng bạc.
Trong một lúc tôi cảm thấy lạnh mình vì kinh hãi trước sự kiện lạ lùng vừa xảy ra. Cả một bầu thế giới quen thuộc của thế kỷ 20 duy vật dường như sụp đổ trước đôi mắt ngạc nhiên của tôi, tôi tưởng chừng như sống thụt lùi trở lại thời kỳ mà đức Jesus xuất hiện trước thánh Pierre trên bờ biển Galilée!
Khi Sri Yukteswar đi đến chỗ mà Dijen và tôi ngồi bàng hoàng và câm lặng vì kinh sợ, Sư Phụ vừa mỉm cười vừa nói với người bạn tôi:
Ta cũng có gửi đến cho con một thông điệp, nhưng con không nhận được.
Dijen lặng thinh và nhìn tôi với một vẻ nghi ngờ. Sau khi đưa Sư Phụ về đạo viện, chúng tôi đi đến trường đại học Serampore College. Dijen ngừng lại giữa đường và nói với giọng bực tức:
- À, thì ra là như vậy! Sư Phụ có gửi thông điệp cho tôi! Tại sao anh dấu tôi? Anh phải trả lời cho tôi rõ.
- Có phải lỗi tại tôi chăng nếu tấm gương của linh hồn anh quá lu mờ nên không thể phản chiếu những thông điệp của Sư Phụ?
Dijen liền bình tĩnh lại ngay và nói với một giọng đầy hối hận:
-Tôi hiểu anh muốn nói gì. Nhưng anh hãy giải thích do đâu mà anh biết trước có một đứa trẻ nhỏ mang một cái bình bằng bạc?
Khi tôi vừa kể hết câu chuyện Sư Phụ xuất hiện một cách nhiệm mầu hồi lúc sáng sớm, thì chúng tôi đã đến trước cửa trường Serapore. Dijen bèn kết luận:
- Những gì tôi vừa được nghe về quyền năng của Sư Phụ làm cho tôi nghĩ rằng tất cả những trường đại học của thế giới chỉ là những vườn chơi trẻ con!




--------------------
Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian
Go to the top of the page
 
+Quote Post
WildFlowers
post Jun 3 2008, 11:05 AM
Post #17


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,312
Joined: 10-April 08
Member No.: 12
Country



Chương 16

Chuyến Du Hành Lên Tỉnh Kashmir


- Thưa cha, con muốn mời Sư Phụ và bốn người bạn cùng đi với con lên dãy Hy Mã Lạp Sơn trong dịp nghĩ hè. Cha có thể cho con sáu vé xe lửa đi Kashmir và tiền túi để đi đường?
Như tôi đã đoán trước, cha tôi liền bật cười:
- Đây là lần thứ ba mà con xin cha chuyện đó! Phải chăng con đã xin cha như thế trong dịp hè cách đây hai năm? Vào giờ chót, Sri Yukteswar đã từ chối không đi.
- Thưa cha, đúng vậy. Con không biết lần này Sư Phụ có định đi không. Nhưng nếu con cho người biết rằng vé xe lửa đã sẵn sàng thì con hy vọng Sư Phụ rốt cuộc sẽ chịu đi.
Cha tôi không tin chuyện ấy lắm, tuy nhiên ngày hôm sau người đưa cho tôi sáu tấm vé biếu đặc biệt và một cuộn giấy bạc mười rupees:
- Cha không nghĩ rằng cuộc du hành tưởng tượng của con phải cần dùng đến những thứ này, nhưng dù sao con cũng cứ cầm lấy!
Trong ngày hôm đó, tôi phô trương món quà đó trước mặt Sư Phụ, người mỉm cười về sự hứng khởi của tôi và nói một cách phân đôi, không quả quyết lắm:
- Thầy cũng mong có thể đi được, để xem sao.
Ngoài ra tôi còn mời bốn người bạn trong số đó Kanai, một đệ tử trẻ nội trú tại đạo viện, Rajendra Nath Mitra, Jotin Auddy và một bạn khác, ngày lên đường đã định là thứ Hai tuần tới.
Ngày thứ Bảy và Chủ Nhật tôi có mặt ở Calcutta để dự lễ cưới của một người anh họ tổ chức tại nhà tôi. Sáng sớm ngày thứ Hai, tôi đến Serampore với đồ hành lý. Rajendra đã đợi tôi trước cửa đạo viện và nói:
Sư Phụ không chịu đi, người mới bước ra đi dạo một vòng.
Tôi cảm thấy bất mãn, và sau cùng tôi quyết định:
-Tôi không thể để cho cha tôi cười một lần thứ ba về những kế họach ngao du tưởng tượng của tôi nữa. Chúng ta cũng cứ đi dù không có Sư Phụ.
Rajendra bằng lòng. Tôi rời khỏi đạo viện để tìm một đứa gia nô vì tôi biết rằng Kanai sẽ không đi nếu không có Sư Phụ và tôi cần một người để coi sóc hành lý. Tôi nghĩ đến Behari, trước kia đã từng giúp việc trong gia đình tôi và hiện đang giúp việc nhà cho một vị giáo chức ở Serampore. Trong khi tôi đang đi mau, tôi gặp Sư Phụ ở trước nhà thờ Gia Tô cách tòa án Serampore không xa. Sư Phụ có vẻ không vui:
- Con đi đâu?
- Bạch Sư Phụ, con nghe Kanai không chịu đi trong chuyến du ngoạn mà con đã sắp đặt. Con phải đi tìm Begari. Sư Phụ có nhớ chăng năm ngoái, nó thích đi chơi Kashmir đến nỗi nó đòi đi theo phục dịch chúng con mà không nhận tiền thù lao.
- Thầy nhớ. Tuy nhiên, Thầy không tin rằng lần này nó chịu đi.
Tôi càng bực mình:
- Nhưng, bạch Sư Phụ, đó là cái mộng mà nó vẫn ôm ấp từ lâu kia mà!
Sư Phụ lặng thinh và tiếp tục cuộc đi dạo, còn tôi thì đi đến nhà vị giáo chức. Đến trước sân, Behari tiếp đón tôi một cách nồng nhiệt nhưng thái độ ấy liền đổi thành một sự dè dặt khó hiểu khi tôi vừa nói đến Kashmir. Với vài lời xin lỗi, y bèn kiếu từ và đi vào nhà người chủ của y. Tôi đợi mất nửa giờ ngoài sân, hy vọng một cách mơ màng rằng chắc có lẽ y vào nhà trong để chuẩn bị hành trang lên đường. Sau cùng tôi gõ cửa. Người chủ nhà bước ra, mỉm cười và nói:
- Behari đã đi chợ bằng cửa sau cách đây độ nửa giờ.
Tôi bước đi trong sự thất vọng và tự hỏi phải chăng vì lời mời của tôi quá đột ngột hay đó là do ảnh hưởng vô hình của Sư Phụ. Khi tôi đi gần đến nhà thờ, tôi thấy Sư Phụ từ từ bước đến. Không đợi cho tôi nói gì, người bèn nói trước:
- À vậy là Behari cũng không đi! Bây giờ chương trình con ra sao?
Tôi cảm thấy như một đứa con ngỗ nghịch, quyết định đương đầu với cha:
- Bạch Sư Phụ, con sẽ yêu cầu chú con cho mượn người gia nô tên là Lai Dhari.
Sri Yukteswar đáp với nụ cười:
- Con cứ đi hỏi cậu con nếu con thấy cần. Nhưng Thầy không tin rằng con sẽ thành công.
Tôi từ biệt Sư Phụ và đi vào pháp đình Serampore. Chú tôi là Sarada Gosh làm luật sư tại tòa án, tiếp đón tôi một cách cởi mở. Tôi nói:
- Hôm nay cháu cùng với vài người bạn đi du ngoạn lên xứ Kashmir. Từ mấy năm nay cháu vẫn hằng mong ước có dịp đi chơi trên dãy núi Hy Mã Lạp Sơn.
- À, chú cũng chung vui với cháu. Cháu có muốn chú giúp đỡ điều gì trong cuộc đi chơi này không?
Những lời chú cởi mở đó có vẻ khích lệ đối với tôi:
- Thưa chú, cháu có thẻ mượn người gia nô Lai Dhari chăng?
Lời yêu cầu khiêm tốn này có ảnh hưởng như một tiếng sét đánh. Chú tôi nhảy dựng lên mạnh đến nỗi nó làm lật đổ bàn ghế, những giấy tờ trên bàn bay tản mác tứ phía, cái ống điếu dài đẽo bằng cây dừa của chú lăng long lóc xuống cái sàn gạch. Chú hét lớn trong cơn thịnh nộ:
- Đồ ích kỷ! Thật là hỗn láo! Ai sẽ lo việc nhà cho tao nếu mầy đem người nô bộc của tao đi theo mầy chơi?
Tôi cố dấu vẻ ngạc nhiên và nghĩ rằng sự thay đổi tâm lý đột ngột này lại là một trong những sự kỳ lạ bí hiểm trong ngày hôm đó. Tôi bèn hối hả rút lui, không màng nghĩ đến lòng tự ái bị va chạm!
Tôi trở lại đạo viện, tại đây các bạn tôi đã đợi sẵn. Trong trí tôi bắt đầu nảy sinh ra một sự tin tưởng chắn chắn rằng thái độ của Sư Phụ hẳn là có lý do chính đáng. Tôi cảm thấy hối hận vfi đã không chịu vâng lời Sư Phụ.
Sri Yukteswar thấy tôi bèn hỏi:
- Mukunda, con có muốn ở nán lại với Thầy thêm ít lâu chăng? Rajendra và các bạn có thể đi trước và đợi con ở Calcutta, khi đến đó con sẽ có thừa thời giờ đáp chuyến xe cuối cùng lúc chiều để đi lên Kashmir.
- Bạch Sư Phụ, con cảm thấy không vui nếu không có Sư Phụ cùng đi.
Các bạn tôi không hề để ý đến lời tuyên bố này. Họ kêu một cổ xe ngựa, chất hành lý lên xe và đi thẳng Kanai còn tôi lẳng lặng ngồi dưới chân Sư Phụ. Sau độ ba mươi phút im lặng hoàn toàn, Sri Yukteswar đứng dậy đi lên phòng ăn trên lầu hai và nói:
- Kanai, con hãy theo săn sóc Mukunda. Chuyến xe lửa đã sắp khởi hành.
Thình lình tôi vặn mình đau đớn với cơn buồn mửa, trong bụng quặn đau một cách kinh khủng. Cơn đau nhức nhối như dùi nhọn đâm vào ruột, tôi cảm thấy như một tội nhân bị quỉ sứ hành hình moi ruột dưới địa ngục. Tôi bò lết đến chỗ Sư Phụ ngồi và ngã vật xuống chân người, khi đó tôi mới biến tôi đã bị bệnh thời khí Á Châu, một chứng bệnh vô cùng hiểm nghèo! Sư Phụ cùng với Kanai khiêng tôi vào phòng khách. Bị dày vò trong cơn đau đớn, tôi rên siết:
- Bạch Sư Phụ, con xin giao mạng sống của con vào tay Sư Phụ.
Tôi cảm thấy dường như linh hồn tôi sắp sửa bị dứt ra khỏi thể xác một cách tàn nhẫn, phủ phàng!
Sri Yukteswar đặt đầu tôi lên hai đầu gối của người, vuốt trán tôi một cách nhẹ nhàng và nói:
- Con thấy việc gì sẽ xảy ra cho con nếu con cùng với các bạn đi ra nhà ga từ lúc này! Thầy đã phải coi chừng săn sóc con một cách kín đáo vì con đã cãi lời Thầy mà muốn đi du ngoạn vào thời kỳ bất lợi.
Sau cùng tôi đã hiểu.
Khi một vị tôn sư không chịu phô trương quyền năng của mình trước mắt mọi người thì người ta có thể nghĩ rằng sự việc đã diễn ra một cách bình thường. Sự can thiệp của Sư Phụ đã diễn ra một cách qua âm thầm tế nhị nên không ai hay biết gì cả. Sư Phụ đã ảnh hưởng đến Behati; vị luật sư Sarada, tức chú tôi; Rajendra và những người khác; một thứ ảnh hưởng vô hình vô ảnh đến nỗi tất cả mọi người trừ tôi ra đều nghĩ rằng sự việc đã xảy ra một cách tự nhiên và không có gì ngoài sự bình thường.
Vì Sư Phụ không bao giờ quên noi theo những tập quán thông thường, người khiến Kanai đi gọi một y sĩ chuyen khoa và báo tin cho chú tôi hay. Tôi kêu nài:
- Bạch Sư Phụ, chỉ có Sư Phụ mới có thể chữa khỏi bịnh cho con. Bịnh trạng của con quá nguy kịch, một y sĩ có thể làm được gì?
- Con hỡi, cầu xin Thượng Đế ban ân huệ thiêng liêng cho con! Con đừng băn khoăn về việc gọi y sĩ; y sĩ không còn thấy con ở vào tình trạng nguy kịch ấy nữa, vì con đã khỏi bệnh!
Sư Phụ vừa nói xong, cơn đau bụng dữ dội của tôi liền biến mất. Tôi ngồi dậy nhưng hãy còn yếu. Không bao lâu vị y sĩ đã đến nơi và khám tôi rất tỉ mỉ rồi nói:
- Em vừa trải qua một cơn đau kinh khủng. Tôi phải lấy máu để thử vi trùng xem sao.
Sáng ngày hôm sau, vị y sĩ hối hả trở lại thì thấy tôi đã ngồi dậy và cười nói vui vẻ.
- À, em đã nói chuyện được và lại tươi cười dường như mới ngày hôm qua đây em không ở dưới manh vuốt của Tử Thần!
Y vỗ nhẹ vào bàn tay tôi:
- Tôi không chắc là sẽ thấy em còn sống hôm nay khi cuộc khảo nghiệm hóa học cho biết là em bị chứng thời khí Á Châu. Em thật là phúc đức có được một vị tôn sư có quyền năng chữa bệnh, một quyền năng thiêng liêng của Trời Phật ban cho! Tôi không nghi ngờ gì về việc ấy.
Tôi cũng hoàn toàn đồng ý.
Khi vị y sĩ kiếu từ ra về, Rajendra và Auddy xuất hiện ở trước cửa. Họ có vẻ bất mãn những sắc mặt họ liền hòa dịu trở lại khi họ nhìn thấy vị y sĩ và gương mặt hãy còn xanh mét của tôi.
- Chúng tôi rất tức giận khi thấy anh không đến với chúng tôi tại Calcutta như đã hẹn trước. Anh bịđau hay sao?
- Phải.
Tôi không thể nín cười khi tôi thấy các bạn tôi đặt đồ hành lý xuống ngay chỗ ngày hôm qua.
Lúc đó Sư Phụ bước vào gian phòng. Tôi lấy tư cách một kẻ đang nằm dưỡng bệnh để tự cho phép nắm lấy bàn tay Sư Phụ một cách trìu mến:
- Bạch Sư Phụ, từ năm con mười hai tuổi đến nay con đã mưu toan thất bại nhiều lần để đi lên dãy Hy Mã Lạp Sơn. Bây giờ con tin rằng nếu không có ân huệ của Sư Phụ, đức Phật Mẫu Quan Âm chắc sẽ từ chối không chịu tiếp con ở trên đó!
“Nay con đã khá mạnh khỏe để co thể lên đường, Thầy sẽ cùng đi với con lên Kashmir.” Sư Phụ nói với tôi hai ngày sau khi tôi được chữa khỏi bệnh thời khí Á Châu một cách mầu nhiệm. Chiều hôm ấy, sáu người trong nhóm chúng tôi đáp chuyến xe lửa lên miền Bắc. Trạm ngừng đầu tiên là Simla, một thành phố hùng vĩ dưới chân Hy Mã Lạp Sơn. Chúng tôi đi dạo chơi trên những con đường dốc và chiêm ngưỡng phong cảnh đẹp của miền núi.
- Ai mua dâu không?
Một bà già bán dâu tươi ngồi rao hàng tại một góc chợ của thành phố. Những trái dâu đỏ thắm khêu gợi sự chú ý của Sư Phụ. Người mua một giỏ đầy và đưa cho chúng tôi ăn. Tôi nếm thử một trái nhưng liền nhăn mặt và nhả ra:
- Bạch Sư Phụ, dâu chua quá! Chắc không bao giờ con ăn nữa!
Sư Phụ bèn cười và nói:
- Trái lại, sau này con sẽ thích ăn dau hơn, khi con sang Mỹ Quốc. Trong một bữa cơm tối, bà chủ nhà sẽ dọn ra cho con món dâu chua với đường và kem. Bà ấy sẽ nghiền nát những trái dâu bằng một cái nĩa và con sẽ khen rằng, “Thật là ngon tuyệt diệu!” Chừng đó con sẽ nhớ đến ngày hôm nay ở Simla.
Tôi hoàn toàn quên lửng lời tiên tri đó và chỉ nhớ lại nhiều năm về sau.
Sau khi đến Mỹ Quốc, một hôm tôi được mời dùng cơm tối tại nhà bà Alice T. Hasey tại West Somerville, Massachusetts. Đến lúc ăn tráng miệng, bà chủ nhà cầm một cái nĩa, nghiền nát những trái dâu đỏ rồi thêm kem và đường. Bà mời toi dùng và nói:
- Những trái dâu nầy rất chua, tôi mong đại đức sẽ thích dùng nó với kem và đường.
Tôi nếm thử một muỗng bất giác thốt lên:
- Thật là ngon tuyệt trần!
Khi đó lời tiên tri của Sư Phụ mới trở lại trong ký ức của tôi. Tôi lấy làm kinh ngạc mà thấy rằng nhiều năm trước đây, tinh thần Sư Phụ hòa hợp với Thiêng Liêng, đã nhìn thấy sự liên hệ về nhân quả giữa các sự việc diễn biến sẽ xảy ra trong tương lai.
Nhóm chúng tôi lại rời Simla để đáp chuyến xe lửa đi Rawalpindi. Tại đây chúng tôi thuê một chiếc xe song mã để thực hiện một chuyến đi bảy ngày đến Srinagar, thủ phủ tỉnh Kashmir. Qua ngày thứ hai của cuộc hành trình bằng xe song mã lên miền bắc, chúng tôi đã thấy xuất hiện dãy Hy Mã Lạp Sơn trước cặp mắt kinh ngạc của chúng tôi. Những bánh xe bằng sắt của chiếc xe song mã kêu rít lên treen con đường lót đá nóng như thiêu đốt dưới ánh mặt trời, nhưng phong cảnh vĩ đại của miền núi đưa tâm hồn chúng tôi lên một trạng thái lâng lâng thoát tục. Auddy bèn thưa với Sư Phụ:
- Bạch Tôn Sư, con rất hân hạnh mà được thưởng thức toàn vẹn phong cảnh huy hoàng này bên cạnh tôn sư.
Lời nói đó của Auddy làm cho tôi khoái chí vì tôi cảm thấy vai trò hướng dẫn của tôi có vẻ quan trọng. Sri Yukteswar đọc được tử tưởng của tôi vì Sư Phụ day qua tôi và nói nhỏ:
- Con đừng quá vui thích như thế! Auddy ít thưởng thức cảnh đẹp hơn là muốn tìm một góc nào đó để được tự do hút thuốc lá.
Tôi cảm thấy dội ngược, và nói nhỏ lại:
- Bạch Sư Phụ, Sư Phụ quá nghi ngờ chăng? Con không tin rằng Auddy lại nghiện thuốc lá.
Tôi vừa nói vừa nhìn Sư Phụ một cách do dự vì người thường hay nói đâu trúng đó. Sư Phụ cười nói:
- Được rồi. Thầy sẽ không nói gì với Auddy. Nhưng con sẽ thấy rằng đến trạm ngừng tới đây, Auddy sẽ không để lỡ cơ hội.
Chiếc xe ngựa ngừng trước một trạm nghỉ. Khi người ta dắt ngựa đi uống nước, Auddy liền thưa:
- Bạch tôn sư, lát nữa xin tôn sư cho phép con ngồi đàng trước với người đánh xe. Con muốn ngồi ngoài để hứng luồng gió cho mát.
Sư Phụ gật đầu và quay qua nói nhỏ với tôi:
- Nó không phải muốn hứng gió mà là thèm thuốc lá.
Chiếc xe song mã lại lăn bánh kêu rít lên trên đường lộ. Đôi mắt Sư Phụ long lanh sáng, người bảo tôi:
- Con hãy thò đầu qua cửa sổ và nhìn xem Auddy hứng gió!
Tôi vâng lời và lấy làm ngạc nhiên mà nhìn thấy Auddy đang thở ra những vòng khói tỏa theo chiều gió. Tôi liền xin lỗi Sư Phụ:
- Bạch Sư Phụ, Sư Phụ luôn luôn nói có lý. Auddy thật sự đang thở khói mù mịt như ống khói tàu!
Tôi chắc là bạn tôi đã xin một điếu thuốc của người đánh xe, vì tôi biết y không có mua thuốc lá tại Calcutta.
Chúng tôi dong ruỗi trên đường núi gập ghềnh khúc khuỷu và một viễn ảnh huy hoàng đẹp đẽ diễn ra trước mắt chúng tôi đến tận chân trời: sông rạch, thung lũng, vực thẳm, sườn núi cheo leo. Chúng tôi ngủ đêm trong những quán trọ đơn sơ ở dọc đường và tự nấu lấy các bữa ăn. Sri Yukteswar đặc biệt chăm nom bữa ăn của tôi và bảo tôi phải uống nước chanh. Tuy hãy còn yếu, tôi lấy lại sức lần lần mặc dù đi du lịch bằng xe ngựa chạy trên đường núi không lấy gì làm tiện nghi cho lắm.
Tâm hồn chúng tôi tràn đầy một niềm hứng khởi khi chúng tôi đến gần trung tâm tỉnh Kashmir, một nơi đất lành với những hồ sen rộng lớn, những vườn hoa mọc trên mặt nước, những chiếc du thuyền màu mè sặc sỡ, con sông Jhelum với vô số những chiếc cầu vồng, những đồng cỏ xanh tươi điểm lác đác những đóa hoa rừng được bao bọc chung quanh bằng dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ!
Chúng tôi đến viếng ngôi đền cổ ở Srinagar với đạo viện hàng cầy cổ thụ có tàn che bóng mát và htuê phòng tại một lữ quán hai tầng. Mùa hè năm ấy, tiết trời tuyệt đẹp, ban ngày thì nóng, ban đêm hơi lạnh.
Chúng tôi đến viếng ngôi đền cổ ở Srinagar với đạo viện Shankara, trong khi tôi đang ngắm nnìn đạo viện trên đỉnh một ngọn núi mà nóc nhọn chỏ lên trên nền trời xanh biếc, thình lình tôi rớt vào một trạng thái bằng an phúc lạc lạ thường. Dưới mắt tôi, đạo viện Shankara biến thành cái linh ảnh của mọt ngôi kiến trúc mà nhiều năm về sau tôi dùng làm tổng hành dinh Cơ Quan Thực Hiện Chân Ngã của tôi ở Mỹ Quốc. Khi tôi viếng thành phố Los Angeles lần đầu tiên và nhìn thấy ngôi biệt thứ này từ ngọn núi Washington, tôi liền nhận ra ngay ngôi nhà kiến trúc đồ sộ đã từng xuất hiện trong vô số những cơn linh ảnh của tôi.
Sau khi đã trải qua vài tuần lễ nghĩ hè ở tỉnh Kashmir, tôi phải trở về tỉnh Bengale nhân dịp tựu trường ở Serampore College. Sư Phụ còn ở lại Srinagar với Kanai và Auddy.
Trước khi tôi lên đường, Sư Phụ nói cho tôi biết người sẽ bị đau nặng ở Kashmir. Tôi nói:
- Nhưng Sư Phụ đang dồi dào sức khỏe kia mà.
- Thậm chí, có lẽ Thầy cũng phải từ giã cõi trần.
- Ô, Sư Phụ!
Tôi vừa nói vừa thụp xuống chân người:
- Sư Phụ hãy hứa với con là không rời bỏ thể xác trong lúc này. Con sẽ không thể được nếu không có Sư Phụ.
Sri Yukteswar giữ im lặng nhưng nụ cười đầy vẻ từ ái của người làm tôi yên lòng. Tôi bèn từ giã người một cách luyến tiếc.
Vài ngày sau khi tôi trở về đạo viện Serampore, tôi nhận được bức điện tín của Auddy, “Sư Phụ đau nặng.”
Tôi gửi một điện tín cho Sri Yukteswar, “Sư Phụ đã hứa không từ bỏ con. Sư Phụ đừng rời bỏ thể xác, nếu không con sẽ chết theo.”
Từ Kashmir, Sư Phụ gửi điện tín trả lời, “Sẽ y như điều con mong ước.”
Vài ngày sau đó, tôi nhận được thư của Auddy cho biết rằng Sư Phụ đã bình phục. Nửa tháng sau, khi Sư Phụ và các đệ tử đã về tới Serampore, tôi lấy làm buồn mà nhận thấy rằng Sư Phụ đã sụt cân rất nhiều.
Sri Yukteswar bịđau nặng để cứu chuộc những tội lỗi của các đệ tử! Phương pháp chuyển di bệnh tật là một điều mà các nhà đạo sĩ cao tay vẫn biết rõ.
Một người khỏe mạnh có thể giúp đỡ một người yếu đuối bằng cách mang theo một đồ vật nặng thế cho y; cũng giống như thế, một bậc siêu nhân có trình độ tiến hóa cao có thể làm nhẹ bớt gánh nặng thể chất hoặc tinh thần của các đệ tử bằng cách tự mình gánh chịu lấy cái nghiệp quả của họ. Cũng như một người giàu chịu mất một ít tiền để trả nợ cho con cái y để cứu họ thoát khỏi hậu quả của những việc làm bất chánh, một vị tôn sư hy sinh một phần sức khỏe thể chất của mình để làm nhẹ bớt những nỗi đau khổ bệnh tật của các đệ tử.
Người đạo sĩ Yogi biết cái bí thuật giao cảm trên cõi giới vô hình với một người bình thường, bởi thế bệnh của người này được truyền một phần hoặc tất cả sang thể xác của người Yogi. Một vị tôn sư đã đạt tới hợp nhất tâm linh với Chân Như Đại Thể của Vũ Trụ không còn bận tâm đến việc gì xảy ra cho cái thể xác bằng xương bằng thịt của mình. Tuy rằng vịấy tình nguyện cho xác thân mình nhuốm bệnh để giúp đỡ kẻ khác, tinh thần của người vẫn còn nguyên vẹn và không hề thương tổn, người lấy làm sung sướng mà có thể làm nhẹ bới nỗi khổ của kẻ khác.
Người tu sĩ đạt tới sự giải thoát tâm linh, biết rằng thể xác của mình đã hoàn tất cái vai trò của nó; từ nay người có thể sử dụng nó bằng cách nào tùy ý. Sứ mạng của người ở trên thế gian là làm nhẹ bớt những nỗi khổ đau của nhân loại bằng mọi phương diện tâm linh, vật chất hay trí huệ; giúp đỡ bằng lời khuyên sáng suốt tốt lành, sức mạnh của ý chí, hay bằng việc chuyển di bệnh tật của người khác sang cho mình. Một vị tôn sư đã hoạt động tự do trên cõi siên thức có thể tự làm cho mình không còn biết cảm xúc những sự đau đớn của xác thân. Đôi khi người cũng tình nguyện chịu đựng sự đau đớn thể xác một cách can đảm để làm gương cho các đệ tử. Người Yogi hứng chịu sự đau khổ của kẻ khác về phần mình, tức là thanh toán giùm cho họ những oan nghiệt nợ nần mà họ phải chịu theo định luật nhân quả: định luật này vốn hành động một cách máy móc theo phép số học và có thể được điều chỉnh một cách khoa học bởi vì các bậc siêu nhân đã nếm mùi giải thoát.
Những định luật siêu nhiên không bắt buộc một vị tôn sư phải bịđau nặng nề để chữa khỏi bệnh cho người khác. Sự khỏi bệnh thường xảy ra bởi vì vị tôn sư biết rõ các phương pháp chữa bệnh một cách nhiệm mầu mà không làm tổn đến sức khỏe của mình. Tuy nhiên trong vài trường hợp rất hiếm, vị tôn sư vì muốn thúc đẩy mau chóng sự tiến hóa tâm linh của các đệ tử, có thể tình nguyện hứng chịu lấy một phần nghiệp quả xấu của họ trên bản thân mình.
Chính bằng cách đó mà đức Giê-Su đã tình nguyện cứu chuộc tội lỗi thế gian. Thánh thể của Chúa đáng lẽ không bao giờ có thể bị tử nạn trên thập tự giá nếu Ngài không có tình nguyện hợp tác với những định luật huyền bí về nhân quả trong vũ trụ. Ngài đảm nhiệm lấy cái khối nghiệp quả chung của toàn thể nhân loại và đặc biệt nhất là của các vị thánh tông đồ, đệ tử của Ngài, nhờ đó các vị này mới được tinh luyện và trở nên xứng đáng nhận lãnh sự giác ngộ tâm linh siêu đẳng.
Chỉ có những bậc tôn sư đã giác ngộ mới có thể thực hiện sự chuyển di tôn sinh lực của mình cho kẻ khác, hoặc hứng chịu lấy bệnh tật của kẻ khác trên xác thân mình. Bí thuật chữa bệnh bằng phương pháp Yoga này thật là ngoài vòng khả năng của kẻ thế nhân phàm tục, đối với họ nó lại là một điều không nên khuyến khích, bởi vì một thể xác đau ốm bệnh tật là một chướng ngại cho sự công phu tưởng luyện. Các Thánh Kinh Ấn Độ đều nói rằng bổn phận đầu tiên của con người là giữ cho thể xác được mạnh khỏe, nếu không, tinh thần sẽ không thể bước vào trạng thái thiền định thâm sâu.
Tuy nhiên, một tinh thần dũng mãnh có thể bất chấp những chướng ngại của thể chất để thực hiện sự giác ngộ tâm linh. Nhiều vị Thánh đã đạt tới mục đích đó mà khinh thường bệnh tật của thể xác. Thánh Francoise d’Assise trong một tình trạng ốm đau tuyệt vọng, đã thực hiện những cuộc chữa bệnh rất nhiệm mầu và thậm chí đã cải tử hồi sinh cho một người.
Tôi được biết một vị tưởng sĩ Ấn Độ bị chứng ung nhọt lở loét khắp cả nửa thân mình, cùng với bệnh đái đường rất nặng đến nỗi xét về những trường hợp thông thường thì vịấy không thể nào ngồi được hơn một khắc đồng hồ, nhưng tinh thần của người thật tinh tiến dũng mãnh phi thường. Bằng một ý chí mãnh liệt tưởng sĩ có thể ngồi thiền trong tư thế liên hoa suốt mười tám giờ mỗi ngày không gián đoạn trong trạng thái xuất thần nhập định. Về sau vị ấy thuật cho tôi nghe rằng:
Sau ba năm thiền định công phu, Ánh Sáng thiêng liêng tràn ngập vào thể xác bịnh tật của tôi mà trong cơn xuất thần say sưa mùi Đạo, tôi quên hẳn không còn cảm giác được nó nữa. Về sau, do ân phước thiêng liêng, cái thể xác của tôi đã hoàn toàn khỏi hết các bệnh tật.
Một trường hợp lịch sử về việc chữa khỏi bịnh một cách nhiệm mầu là của vua Baber (1983-1530), nhà sáng lập nên đế quốc Mogul ở Ấn Độ. Khi thái tử Humayun vướng phải một chứng bệnh hiểm nghèo thập tử nhất sinh, nhà vua trong cơn lo sợ bèn cầu nguyện Thiêng Liêng hãy để cho người nhuốm bệnh thay cho thái tử. Khi các vị y sĩ đã tuyệt vọng, thái tử Humayun đột nhiên bình phục một cách bất ngờ, nhưng Baber hoàng đế lại bịđau nặng và băng hà vì một chứng bệnh giống như của thái tử. Về sau, thái tử nối nghiệp cha lên ngôi hoàng đế xứ Ấn Độ.
Nhiều người tưởng rằng một vị tôn sư chắc là phải có một sức khỏe phi thường như Hercules. Điều đó hoàn toàn không đúng. Một thể xác đau yếu không phải là một dấu hiệu chỉ rằng vị tôn sư không thể đắc Đạo, cũng như một sức khỏe tát biển dời non không phải là triệu chứng của sự giác ngộ tâm linh. Nói cách khác, sức khỏe của thể xác không phải là cái tiêu chuẩn để xét đoán sự giác ngộ thiêng liêng, người ta phải xét đoán một vị tôn sư ở ngay trên lãnh vực tâm linh mà thôi.
Nhiều học giả Tây Phương tưởng lầm rằng một vị tôn sư là người giảng thuyết các vấn đề đạo lý, siêu hình bằng lời nói hay bằng sách vở. Trái lại, các bậc hiền triết đã nói rằng một vị tôn sư phải có thể đạt tới các trạng thái siêu thức tùy ý muốn, và ở trong trạng thái đại định một cách thường xuyên không gián đoạn. Chỉ có một bãn lĩnh như thế mới có thể chứng tỏ rằng người hành giả đã chế ngự được mọi điều vô minh ảo vọng của trần gian.
Chỉ có những bậc Tôn Sư siêu thoát mới có thể đảm trách việc gánh chịu lấy nghiệp quả của các đệ tử. Sri Yukteswar chỉ bịđau nặng ở Kashmir sau khi đã được các đấng thiêng liêng cho phép giúp đỡ những đệ tử bằng các phương pháp lạ lùng đó. Ít có vị thánh nhân nào có đầy đủ minh triết như Sư Phụ tôi vì người đã được tới sự hòa hợp với Chân Như Đại Thể của vũ trụ.
Khi tôi tỏ lòng ưu ái về sự gầy ốm và sụt cân của người, thì Sư Phụ vui vẻ trả lời:
- Trong cái họa ắt có cái phúc! Bây giờ nhờ gầy bớt, Thầy đã có thể mặc cái áo lót của mình hơi chật, mà Thầy đã bỏ không mặc đến từ nhiều năm nay!
Tiếng cười vang với một âm thanh trong trẻo của Sư Phụ làm cho tôi nhớ lại lời nói của St. Francois d’Assise: “Một ông thánh buồn rầu là một ông thánh đáng thương hại.”


--------------------
Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian
Go to the top of the page
 
+Quote Post
WildFlowers
post Jun 3 2008, 11:06 AM
Post #18


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,312
Joined: 10-April 08
Member No.: 12
Country



Chương 17

Một Cuộc Hoán Cải Lạ Lùng


- Với tư cách một người vợ hiền Ấn Độ, chị không phiền trách chồng chị, nhưng chị mong ước làm sao y từ bỏ những quan điểm duy vật của y. Y thường chế diễu những hình ảnh treo trong phòng tham thiền của chị! Em hỡi, chị tin tưởng chắc chắn rằng em có thể giúp chị.
Roma, chị cả tôi, nhìn tôi với cặp mắt van lơn. Tôi đến viếng chị tôi trong giây lát tại nhà chịở Calcutta. Lời yêu cầu của chị làm tôi cảm động vì chị tôi từ thuở nhỏ vẫn gây cho tôi một ảnh hưởng tâm linh rất lớn và từ khi mẹ tôi mất, chịđã cố gắng điền khuyết sự trống trải đó trong gia đình bằng tình thương của chịđối với chúng tôi.
- Thưa chị, lẽ tự nhiên em sẽ cố gắng hết sức để giúp chị.
Tôi mỉm cười để tìm cách dẹp tan sự buồn rầu hiện trên gương mặt chị, trái hẳn với nét mặt bình thản và vui tươi hàng ngày.
Một năm trước đây, chị tôi đã yêu cầu tôi chỉ dẫn pháp môn thiền định và chị đã thực hiện những tiến bộ đáng kể trên con đường đó.
Bỗng nhiên tôi có ý kiến:
- Ngày mai tôi sẽ đi viếng thăm ngôi đền thờ đức Phật Mẫu Quan Âm ở Dakshineswar. Chị hãy cùng đi và cố gắng thuyết phục chồng chị cùng đi với chúng ta. Tôi cảm thấy rằng tại nơi đền miếu trang nghiêm đó, đức Phật Mẫu sẽ cảm động được lòng y, nhưng chị đừng bao giờ hoàn y biết lý do hành hương này.
Chị tôi nhận lời với tấm lòng tràn đầy hy vọng. Sáng ngày hôm sau, tôi sung sướng mà tháy chị và anh rễ tôi sẵn sàng lên đường. Trong khi chiếc xe ngựa của chúng tôi dong ruỗi trên đường lộ trực chỉ Dakshineswar, anh rễ tôi Satish Chandra Bóe buông lời diễu cợt những vị Chân Sư của quá khứ, hiện tại và vị lai. Tôi nhận thấy Roma khóc thầm trong im lặng. Tôi an ủi chị:
- Chị hãy can đảm lên. Đừng cho y có sự thỏa mãn mà thấy chúng ta bực tức những lời nói chế nhạo của y.
Satish nói mỉa mai:
- Mukunda, làm sao cậu có thể bị hấp dẫn bởi những kẻ bịp đời giả mạo đó? Chỉ nội một cái hình dáng của người tu sĩ cũng làm cho ta dội ngược; có người gầy đét như bộ xương, có người lại to béo như một con voi!
Tôi bất giác bật cười vang lên, sự phản ứng này làm cho Satish cụt hứng, y trở nên im lặng trầm ngâm.
Khi cổ xe vừa tới Dakshineswar, y bèn đùa cợt và nói với giọng châm biếm:
- Có phải chăng cuộc đi chơi này có dụng ý để thuyết phục tôi?
Tôi không nói gì nhưng y lại nắm lấy tay tôi:
- N6ày ông tu sĩ, ông đừng quên thương lượng trước với nhà chùa về bữa cơm trưa nay của chúng ta!
- Bây giờ tôi phải tham thiền. Anh đừng lo lắng về bữa cơm trưa. Đức Phật Mẫu sẽ đảm nhiệm việc đó.
- Tôi không cần biết đức Phật Mẫu là ai! Nhưng cậu phải chịu trách nhiệm về bữa cơm trưa của tôi!
Giọng nói của Satish có vẻ như một sự hăm dọa.
Tôi đi một mình về phía hành lang có nhiều cột của ngôi đền thờ đức Quan Thế Âm. Tôi chọn một góc có bóng mát gần một cây cột và ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa. Tuy lúc ấy mới khoảng bảy giờ sáng nhưng ánh nắng mặt trời có vẻ sắp sửa nóng gắt. Quên hẳn sự vật ngoại cảnh, tôi sửa soạn ngồi thiền. Tâm trí tôi tập trung vào đức Phật Mẫu Quan Thế Âm mà vị tu sĩ Ramakrishna trước đây đã từng chiêm ngưỡng một cách nhiệt thành tại Dakshineswar. Đáp ứng những lời kêu gọi khẩn thiết của tu sĩ, pho tượng đức Phật Mẫu đã cử động và đã nói chuyện với tu sĩ ở chính ngôi đền này.
Tôi cầu nguyện, “Hỡi đức Phật Mẫu Quan Thế Âm từ bi vô lượng, hằng im lặng trong pho tượng bằng đá, ngài đã cử động, sinh hoạt trước sụ khẩn cầu của đức Ramakrishna, xin ngài cũng chiếu cố đến lời cầu xin khẩn thiết của con hằng khao khát được chiêm ngưỡng sự có mặt của ngài.”
Sự nhiệt thành của tôi mỗi lúc càng tăng, kèm theo với một sự bằng an thiêng liêng trong tâm hồn. Tuy nhiên, năm tiếng đồng hồ đã trôi qua, đức Phật Mẫu mà tôi ghi khắc hình dáng trong tư tưởng vẫn không đáp ứng; tôi cảm thấy hơi thất vọng. Đôi khi Thiêng Liêng cũng thử thách người hành giả bằng cách chậm ứng đáp lời cầu nguyện của y. Nhưng Ngài thường xuất hiện trước mắt người tu sĩ kiên tâm bền chí dưới một hình thức mà y thường chiêm bái. Người Gia Tô có khi nhìn thấy Phật Thích Ca hoặc đức Quán Âm, người Phật Giáo nhìn thấy đức Giê Su, hoặc thấy một vầng hào quang từ từ nới rộng, nếu sự chiêm bái của y khoác lấy một hình thức trừu tượng.
Tôi mở đôi mắt một cách luyến tiếc và thấy một vị tăng lữ bước tới đóng cửa đền vào giờ trưa như thường lệ. Tôi bèn đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi và bước ra sân. Mặt trời giữa trưa rọi thẳng xuống nền gạch như thiêu đốt làm cho hai bàn chân của tôi rất đau đớn như bị phỏng. Tôi vừa đứng giữa sân day mặt vào chánh điện vừa cầu nguyện một lần cuối cùng, "Ôi, Phật Mẫu, ngài đã không xuất hiện trong linh ảnh trước nhãn quang của con và bây giờ thì ngài đã khuất dạng trong đền thờ, phía sau những cánh cửa đã đóng. Hôm nay con đặc biệt cầu xin Phật Mẫu độ cho anh rễ con.”
Lời cầu nguyện đó tức khắc được đáp ứng. Trước hết một luồng từ điển mát rượi, tốt lành từ trên đi xuống dọc theo xương sống sau lưng tôi, xuống dưới tận hai bàn chân và đem cho tôi một cảm giác khoan khoái dễ chịu vô cùng. Kế đó tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy ngôi đền dường như từ từ nới rộng đến những kích thước khổng lồ không thể tưởng tượng! Những cánh cửa vĩ đại từ từ mở rộng để lộ pho tượng đá của đức Phật Mẫu, lúc đầu còn đứng yên, sau đó ngài từ từ cử động và nở một nụ cười tiếp đón làm cho tôi say sưa ngây ngất. Hơi thở toát ra từ hai buồng phổi của tôi dường như bị thương hút bởi một thứ đá nam châm khổng lồ. Toàn thân tôi vẫn yên tịnh nhưng không phải là bất động.
Tâm thức tôi đắm chìm trong cơn đại định, đã nới rộng một cách kinh khủng; tầm nhãn quang của tôi phóng ra xa đến mấy dặm đường cho thấy sông Hằng ở bên tay trái, phía bên mặt là khung cảnh bao quát của vùng Dakshineswar. Những vách tường của ngôi đền đều trong suốt, xuyên qua đó tôi nhìn thấy ở đằng xa những người nông dân đang cầy bừa trên những đồng ruộng diễn ra tận chân trời. Tuy tôi không mất hơi thở và toàn thân tôi đắm chìm trong một sự yên tĩnh lạ lùng nhưng tôi vẫn có thể cử động tay chân. Trong nhiều phút tôi chỉ mở mắt và nhắm mắt, trong cả hai trường hợp tôi đều nhình thấy rõ ràng khung cảnh bao quát của vùng Dakshineswar. Cũng như quang tuyến X, nhãn quang tâm linh soi thấu mọi vật vì con mắt thần thông đặt trung tâm ở khắp chốn nhưng không đặt chu vi ở đâu cả. Tôi lại hiểu thêm một lần nữa, trong sân đền nóng như thiêu đốt dưới ánh nắng gắt của mặt trời, rằng chỉ khi nào con người không còn say mê vật chất, đắm chìm trong cơn mơ ảo vọng của cuộc đời thế gian, chừng đó y mới co được sự sống trường cửu muôn đời.
Trong cái linh ảnh của tôi tại Dakshineswar, những vật duy nhất được phóng đại lạ thường là ngôi đền và pho tượng đức Phật Mẫu, kỳ dư đều hiện ra dưới hình dáng bình thường, tuy rằng bao bọc trong một ánh hào quang lạ lùng, với đủ tất cả các màu sắc rực rỡ của chiếc cầu vồng. Thể xác tôi dường như mỏng như sương và sẵn sàng bay bổng! Hoàn toàn ý thức được cảnh vật ở chung quanh, tôi nhìn chung quanh tôi và thậm chí bước đi vài bước mà không làm gián đoạn giây phút huyền diệu đó. Bên ngoài các bức tường của ngôi đền thình lình tôi thấy anh rể tôi ngồi dưới bóng mát của một cây đại thọ. Tôi theo dõi một cách dễ dàng giòng tư tưởng của y: bầu không khí thiêng liêng của ngôi đền làm cho y có đôi chút giảm bớt những ý nghĩ trần tục nhưng y lại có ý nghĩa oán trách tôi. Tôi bèn quay lại pho tượng khổng lồ của đức Quán Thế Âm:
- Bạch Phật Mẫu! Xin Ngài hãy cứu độ tâm linh cho anh rể con!
Pho tượng từ trước vẫn câm lặng bèn thốt ra những lời này, “Lời cầu nguyện của con đã được đáp ứng.”
Tôi sung sướng nhìn Satish. Dường như một giọng nói bí mật nào đã cho y biết rằng y đang chịu ảnh hưởng của một quyền năng thiêng liêng, y bèn đứng dậy và đi tới ngôi đền. Hầm hầm nét mặt, y đến gần tôi với hai bàn tay nắm chặt.
Cái linh ảnh thiêng liêng liền biến mất. Tôi không còn nhìn thấy đức Phật Mẫu: ngôi đền lúc nãy vấn toàn lớn vĩ đại, nay đã trở lại bình thường và không còn trong suốt nữa. Một lần nữa thân thể tôi lại quằn quại dưới những tia nắng gắt của mặt trời. Tôi lao mình vào bóng mát của dãy hành lang nhiều cột. Satish bèn giận dữ đuổi theo tôi. Tôi nhìn đồng hồ, lúc ấy vừa đúng một giờ trưa! Cái linh ảnh thiêng liêng đã kéo dài đúng sáu mươi phút.
-Thằng ngốc! Anh rể tôi la lên. Thế là mày vẫn ngồi khoanh tay khoanh chân ở một chỗ suốt sáu tiếng đồng hồ không nhúc nhích! Tao bắt gặp mày tại trận đó nhé! Bữa cơm trưa của tao đâu? Bây giờ đền đã đóng cửa, mày đã không dặn trước cho họ nấu cơm, thế là chúng ta phải ngồi trơ mõm ra đây phải không?
Sự xuất hiện của Đức Quan Thế Âm trong linh ảnh của tôi lúc này hãy con làm cho tôi say sưa ngây ngất. Tôi bèn đáp:
- Đức Phật Mẫu sẽ cho chúng ta ăn no.
Satish nổi cơn thịnh nộ đến cực điểm:
- Đây là lần chót, tao muốn xem thấy đức Phật Mẫu dọn cơm cho chúng ta ăn mà không cần có sự thỏa thuận của nhà chùa.
Y vừa nói dứt lời thì một vị tăng lữ đi ngang qua sân đền và đến gần chúng tôi:
- Con hỡi, ta đã nhìn thấy ánh hào quang hiện trên gương mặt con trong những giờ tham thiền vừa rồi. Sáng nay, khi các con vừa đến, ta cảm thấy cần để phần cơm dành cho bữa trưa của các con. Thật là trái luật lệ nhà chùa mà mời khách dùng bữa khi họ không dặn trước, tuy vậy ta cũng vui lòng dành một ngoại lệ cho các con.
Tôi cảm ơn vị tăng lữ và nhìn Satish thẳng vào đôi mắt y. Sự cảm xúc làm cho y đỏ mặt và cúi đầu. Khi một bữa ăn thịnh soạn được dọn ra cho chúng tôi, thậm chí có cả xoài ngon và trái mùa, tôi nhận thấy ông anh rể tôi chỉăn lấy lệ nhưng tâm hồn y vơ vẩn ở đâu đâu. Y có vẻ đắm chìm trong cơn suy tư thâm trầm. Trong chuyến trở về Calcutta, Satish lòng đã lắng dịu, nhìn tôi như có ý xin lỗi. Nhưng y vẫn lẳng lặng không nói gì kể từ khi vị tăng lữ mời chúng tôi dùng cơm trưa, việc này có cái tác dụng như một phép mầu nó đảo lộn tất cả những ý nghĩ duy vật của y.
Ngày hôm sau, tôi đến thăm chị tôi. Chịđón tiếp tôi một cách nồng nhiệt và nói:
- Nầy em, thật là một phép lạ! Tối hôm qua, Satish đã khóc trên đầu gối của chị. Y vừa khóc vừa nói: “Em yêu quí, anh thật là sung sướng vô bờ bến mà thấy rằng Mukunda đã thành công trong ý định muốn hoán cải anh. Anh sẽ sửa chữa lại tất cả những điều lầm lỗi của anh đối với em. Kể từ nay, buồng ngủ của chúng ta sẽ dành riêng cho sự cầu nguyện mà thôi, còn em sẽ ngủ trong phòng tham thiền nhỏ của em. Anh cảm thấy vô cùng hối tiếc mà đã diễu cợt Mukunda. Anh sẽ cứu chuộc lại tội lỗi bằng cách sẽ giữ im lặng đối với Mukunda cho đến khi nào anh đã tiến bộ khá nhiều trên đường Đạo. Kể từ ngày nay, anh sẽ tôn thờ đức Phật Mẫu Quan Thế Âm và hy vọng một ngày kia sẽ được đức Phật Mẫu ban phước lành!”
Nhiều năm sau, tôi đến viếng anh rể tôi ở Delhi. Tôi lấy làm vô cùng vui sướng mà thấy y đã đạt tới một trình độ tâm linh khá cao, và đức Phật Mẫu đã hạ cố mà xuất hiện trong những linh ảnh của y. Trong những ngày tôi tạm trú tại nhà y, tôi nhận thấy Satish dùng phần lớn thời giờ mỗi đêm để tham thiền trong vòng bí mật, dẫu trong những khi đau ốm và ban ngày còn phải làm việc tại văn phòng.
Đó là câu chuyện lạ lùng của anh rể tôi, từ một người duy vật đã trở thành vị tu sĩ thánh thiện.


--------------------
Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian
Go to the top of the page
 
+Quote Post
WildFlowers
post Jun 3 2008, 11:07 AM
Post #19


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 1,312
Joined: 10-April 08
Member No.: 12
Country



Chương 18 (Chương kết)

Tôi Trở Thành Tu Sĩ Xuất Gia


Kỳ thi Cử Nhân Văn Khoa của trường đại học Calcutta đã đến. Tôi không phải là một học trò chăm học, rất ít khi đi đến trường và chỉ học bài một cách hối hả, gấp rút vào giờ chót, vài ngày trước khi đi thi. Tuy vậy, do một sự may mắn lạ thường, tôi được ưu điểm về môn triết học và có đủ số điểm trung bình về các môn học khác.
Cha tôi không còn nỗi vui mừng nào lớn hơn khi nghe tin tôi thi đậu. Người nói:
- Thật cha không dám hy vọng rằng con sẽ thi đậu, Mukunda, con dành quá nhiều thời giờ gần bên Sư Phụ con ở đạo viện!
Trong nhiều năm, tôi không hề dám ước mong có ngày danh hiệu “Cử Nhân Văn Khoa” sẽ đi kèm đàng sau tên tôi. Tôi ít khi dùng danh hiệu ấy mà không nghĩ rằng đó là một ân huệ thiêng liêng ban cho tôi vì một lý do bí ẩn nào đó mà tôi không được biết rõ.
- Bạch Sư Phụ, cha con muốn con nhận một chức vụ trong Công ty Hỏa xa Bengal-Nagpur Railway nhưng con đã quyết liệt từ chối, tôi thưa với Sri Yukteswar một ngày nọ và tôi nói thêm một cách tuyệt vọng. Xin Sư Phụ hãy cho con làm lễ xuất gia.
Tôi nhìn Sư Phụ bằng cặp mắt van xin một cách khẩn thiết. Trong nhiều năm, Sư Phụ đã từ chối lời yêu cầu của tôi để đặt tôi trong một cuộc thử lòng, nhưng lần này người vui vẻ nhận lời:
- Được rồi. Ngày mai Thầy sẽ làm lễ xuất gia cho con. Thầy rất vui mà thấy con vẫn kiên quyết mong muốn trở thành một tu sĩ. Đức Lahiri Mahasay vẫn thường nói: “Nếu ta không mời Thượng Đế vào nhà trong thời kỳ còn xuân xanh thì Ngài sẽ không đến với ta vào lúc mùa đông của cuộc đời.”
- Bạch Sư Phụ, con không bao giờ quên mục đích ấy, là được xuất gia theo dòng tưởng sĩ Sưami như Sư Phụ vậy.
Tôi mỉm cười nhìn Sư Phụ với tất cả tấm lòng quí mến và nhớ đến một câu trong thánh kinh, “Người không lập gia đình thì lo việc Đạo và tìm cách làm vui lòng Thượng Đế, còn người lập gia đình thì lo việc đời và tìm cách làm vui lòng vợ nhà.” (Corinthiens, 1.7:32-33)

Tôi đã quan sát cuộc đời của nhiều bạn hữu đã từng lập gia đình sau khi muốn theo đuổi một đời sống tâm linh. Đắm chìm trong biển trần gian tục lụy với những nỗi lo âu vô bờ bến, họ đã quên hẳn chí nguyện công phu hành Đạo, tham thiền.

Ngày hôm sau là một trong những ngày đáng ghi nhớ nhất của đời tôi. Đó là một ngày hè sáng sủa đẹp trời vào tháng bảy năm 1914, vài tuần sau khi tôi nhận cấp bằng Cử nhan Văn Khoa. Trên bao lơn đjao viện ở Serampore, áo Sư Phụ nhuộm màu vàng sậm, tức màu áo cổ truyền của giới tưởng sĩ, một mảnh lụa trắng mới nguyên. Khi mảnh lụa đã khô ráo, Sư Phụ quấn nó trên mình tôi để mặc vào cho tôi như biểu tượng của sụe dứt bỏ cuộc đời trần gian. Sư Phụ giải thích:
- Một ngày kia, con sẽ sang các nước Âu Mỹ, ở nơi đó người ta thích lụa hơn. Với ý nghĩa tượng trưng, Thầy chọn cho con manh áo lụa thay vì manh áo vải theo truyền thống của các dòng tu sĩ.
Bên Ấn Độ là nơi mà các tu sĩ đều lập nguyện thanh bần, một vị tu sĩ mặc ấo lụa là một cảnh tượng ít có. Tuy nhiên nhiều tu sĩ Yogi cũng mặc áo lụa vì nó gìn giữ những giòng từ điển của thể xác hơn là áo vải.
Trong dịp làm lễ cho một người trở thành một tu sĩ xuất gia, có nhiều lễ nghi phiền phức nhưng Sri Yukteswar vốn chủ trương giản dị tối đa trong mọi việc, đã miễn tất cả những nghi lễ đó và chỉ yêu cầu tôi chọn lấy một pháp danh. Người mỉm cười và nói:
- Thầy cho con cái đặc quyền tự mình chọn lấy một pháp danh.
Sau một lúc suy nghĩ, tôi đáp:
- Pháp danh của con là Yogananda.
Danh hiệu này có nghĩa là “Phúc lạc (Ananda) sở đắc được nhờ bởi Hợp Nhất với Thiêng Liêng.”
- Được lắm! Kể từ nay con sẽ từ bở tên Mukunda Lal Ghosh và sẽ lấy pháp danh Yogananda thuộc dòng tu sĩ Swami.
Tôi quỳ trước mặt Sư Phụ và khi tôi nghe Sư Phụ xướng pháp danh mới của tôi lần đầu tiên, lòng tôi tràn ngập một nỗi niềm biết ơn sâu xa đối với người. Với một tình thương bao la, Sư Phụ đã cố gắng huấn luyện không ngừng để đào tạo chàng thanh niên Mukunda trở nên tu sĩ Yogananda.

Người tu sĩ Swami thuộc về một dòng tu cổ xưa do đức giáo chủ Shankara thành lập. Dòng tu này đã trải qua hằng bao nhiêu thế kỷ do một truyền thống liên tjuc gồm có các vị Tăng thống đạo hạnh cao thâm để duy trì sự nghiệp tâm linh của vị thủy tổ Shankara. Dòng tu sĩ Swami chủ trương lập nguyện thanh bần, khiết bạch và vâng lời.
Cái lý tưởng phụng sự nhân loại, dứt bỏ mọi điều tham vọng và ái dục trói buộc cuộc đời với thế gian làm cho phần nhiều các tu sĩ Swami đảm trách lấy một công trình cứu tế hay giáo dục ở Ấn Độ và đôi khi cũng ở ngoại quốc. Gjat bỏ tất cả mọi thành kiến về giai cấp, tôn giáo, màu da, nam mữ hay chủng tộc, một tu sĩ Swami hoàn toàn thấm nhuần lý tưởng bác ái đại đồng trong nhân loại. Người nêu cao một mục đích: đó là sự hoàn toàn hỗn hợp với Tinh Thần. Dù trong lúc tỉnh giấc hay khi ngủ mê, tâm thức của người tu sĩ luôn luôn thấm nhuần tư tưởng: “Ta là Chân Ngã, hay Chân Như Phật Tánh,” bởi đó vị tu sĩ Swami tuy thân còn ở nơi trần thế nhưng lòng đã thoát tục và không còn vướng bận chuyện trần gian. Chỉ khi đó người mới xứng đáng với danh hiệu của người, vì danh từ Phạn Ngữ Swami có nghĩa là: người đang tìm cách hợp nhất với Đại Ngã hay Chân Như Phật Tánh. Lẽ tự nhiên cũng cần nói thêm rằng không phải tất cả cát tu sĩ Swami đều đã đạt tới cái lý tưởng tối cao đó một cách đồng đều nhau.

Sri Yukteswar vừa là một tu sĩ Swami lại vừa là một người Yogi. Người tu sĩ Swami xuất gia theo dòng tu truyền thống của đức giáo chủ Shankara, không hẳn phải là một người Yogi. Người Yogi là người tu luyện theo một pháp môn nhất định dắt dẫn tới sự ngộ Đạo hay giao cảm với Thiêng Liêng; y có thể la người độc thân hay có gia đình, tu tại gia hay xuất gia. Người tu sĩ Swami noi theo con đường luận thuyết triết lý và từ bỏ thế gian: còn người Yogi thực hành một pháp môn được qui định một cách chặt chẽ nhằm mục đích chủ trị thể xác lẫn tinh thần và đưa linh hồn đến mục đích giải thoát. Ở mỗi thế kỷ pháp môn Yoga đã từng đem đến cho Ấn Độ những bậc siêu nhân đã đắc đạo giải thoát.

Trái hẳn với người thuwofng, một người Yogi chân chính có thể sống ngoài thế gian mà vẫn trung thành với lý tưởng tối cao của mình. Thật là một điều cao quí mà làm tròn những bổn phận thế gian, đồng thời chủ trị những dục vọng ích kỷ thấp hèn để nhằm mục đích trở nên một khí cụ hoạt động có ý thức và thuận theo Thiên Ý.
- Những ngày cuối cùng của Ananta sắp đến, y sẽ không còn sống được bao lâu nữa!
Những lời nói nầy vang dội trong trí tôi một buổi sáng, khi tôi đang đắm chìm trong cơn thiền định. Ít lâu sau khi tôi xuất gia theo dòng tu sĩ Swami, tôi trở về quê quán ở Gorakhpurr để thăm nhà và tạm trú tậ nha của anh tôi. Một cơn bệnh bất ngờ làm cho anh tôi phải nằm liệt giường, tôi săn sóc anh tôi hết lòng.
Lời báo điềm gở kể trên làm cho tôi rất buồn. Tôi cảm thấy không thể ở nán lại Gorakhpur để chứng kiến một cách bât lực cơn hấp hối của anh tôi. Trước lời xét doán gay gắt của cha tôi, tôi rời khỏi Ấn Độ bằng chuyến tàu đầu tiên khởi hành sang Miến Điện rồi vượt biển Trung Hoa để sang Nhật Bản. Tôi bước chân lên hải cảng Kobé và lưu trú tại đây vài ngày. Trong lòng buồn bực, tôi không cảm thấy có hứng thú để đi ngoạn cảnh.
Trên đường về Ấn Độ, tàu ghé bến Thượng Hải. Bác sĩ Misra, y sĩ trên tàu, đưa tôi đi dạo phố ngắm cảnh. Tôi có dịp viếng những cửa tiệm để mua ít quà lạ đem về biếu thân nhân và bạn bè. Tôi mua mônt món quà bổn xứ cho Ananta. Người chủ tiệm Trung Hoa vừa đưa cho tôi món quà mới mua, tôi liền đánh rơi xuống đất và nghẹn ngào kêu lên:
- Anh tôi đã mất rồi!
Bác sĩ Misra nhìn tôi với một nụ cười hoài nghi:
- Đại đức chớ vội bi quan, để chờ xem có tin gì không đã.
Khi tàu cặp bến Calcutta, tôi cùng lên bờ với bác sĩ Misra. Em út tôi, Bisnu, đã đợi tôi trên bến. Tôi liền nói trước:
- Anh biết rằng Ananta đã từ trần. Em hãy nói trước mặt bác sĩ đây cho biết xem anh mất vào ngày nào.
Bishnu liền nói đúng ngày mà tôi mua món quà biếu cho Ananta ở Thượng Hải. Bác sĩ Misra liền nói:
- Lạ thật! Nhưng chúng ta không nên loan tin nầy, kẻo các giáo sư lại thêm một năm học thần giao cách cảm vào chương trình ban Y Khoa vốn dĩ đã nặng nhọc lắm rồi!
Khi tôi về đến nhà, cha tôi ôm chầm lấy tôi một cách nồng nhiệt khác thường:
- Con đã về!
Cha tôi nói một cách thân ái. Hai giòng lệ chảy xuống hai bên gò má cha tôi. Bình nhật không hề biểu lộ tình cảm ra ngoài, người chưa bao giờ tỏ ra với tôi những cử chỉ yêu mến như thế. Tuy nhiên bề ngoài có vẻ nghiêm nghị, người có bên trong một quả tim ưu ái của một người mẹ. Trong gia đình, người đóng một vai trò song đôi của bậc phụ mẫu.

Ít lâu sau khi Ananta từ trần, Nalini, em gái tôi, được cứu thoát khỏi nanh vuốt của Tử Thần vì em được chữa khỏi bệnh một cách nhiệm mầu. Trước khi kể lại chuyện này, tôi xin nói vài lời về cuộc đời của em gái tôi.
Từ thuở nhỏ, tôi và em gái tôi vẫn không thuận nhau. Tôi là một thiếu nhi rất gầy ốm, nhưng Nalini thì lại còn gầy hơn nữa! Do bởi một thứ “mặc cảm” vô ý thức nào đó mà những nhà phân tâm học có lẽ nhận biết được dễ dàng, tôi thường hay trêu ghẹo em tôi về hình htù gầy đét như bộ xương của nó, và em tôi cũng trả đũa lại tôi với một sự thất thà ngây ngô của tuổi thơ ấu. Đôi khi mẹ tôi cũng can thiệp vào những cuộc gây gỗ giữa chúng tôi và kéo lỗ tai tôi vì tôi là nah mà không chịu nhường nhịn em gái.
Thời gian trôi qua, Nalini được cha mẹ tôi đính hôn cho một viên y sĩ trẻ tuổi ở Calcutta tên Panchanon Bose. Chàng rễ được một món tiền hồi môn dồi dào chắc hẳn là để bù trừ lại việc y phải cưới một cô vợ gầy đét như vậy!
Hôn lễ được cử hành rất long trọng. Tối hôm ấy tôi cũng có mặt cùng với một nhóm bạn bè thân quyến vui vẻ tề tựu trong phòng khách nhà chúng tôi ở Calcutta. Chàng rể ngồi trên ghế dài lót nệm thêu chỉ vàng óng ánh, còn Nalini ngồi bên cạnh với một chiếc áo cưới tuyệt đẹp, nhưng than ôi, chiếc áo tân hôn vẫn không thể nào che kín những khía cạnh xương xẩu của cô dâu. Tôi bước lại ngồi gần bên ông em rể mới của tôi và mỉm cười với y một cách thân tình. Y chỉ mới nhìn thấy mặt Nalini lần đầu tiên khi cử hành hôn lễ vào sáng ngày hôm ấy, và lúc ấy y mới biết số phần của y phải gặp một người vợ như thế nào trong cuộc sống lứa đôi.
Cảm thấy lòng ưu ái của tôi đối với y, chàng rể mới đưa mắt ám chỉ Nalini và kề tai tôi hỏi nhỏ:
- Cái đó là cái gì vậy?
Tôi đáp:
- Cái đó, thưa bác sĩ, là một bộ xương để cho ông khám nghiệm.
Cả hai chúng tôi đều phát tiếng cười vang trước cử tọa đông đảo gồm quan khách hai họ, sau khi đã cố nín cười mà không được!

Trong những năm kế đó, bác sĩ Bose đã chinh phục được lòng ưu ái của gia đình chúng tôi và thường được mời đến nhà xem bệnh mỗi khi trong gia đình có người đau ốm. Chúng tôi đã trở nên đôi bạn thân và thường nói đùa với nhau về cô em gái tôi. Một hôm em rể tôi tâm sự với tôi:
- Vợ em thật là một trường hợp y khoa kỳ lạ. Em đã thử tất cả mọi thứ bổ dưỡng như dầu gan cá thương, bơ, sữa, mạch nha, mật ông, cá, thịt, trứng gà và nhiều thứ thuốc bổ khác. Rốt cuộc vẫn không mập hêm ra chút nào cả.
Chúng tôi lại cùng nhau cười lớn.
Vài ngày sau đó tôi đến nhà em rể tôi. Tôi không có ý định ở lại lâu và định rời khỏi nhà mà không cho Nalini biết có tôi đến. Khi tôi vừa ra đến cửa thì tôi nghe giọng nói thân mật của em gái tôi:
- Anh ơi, hãy ở lại. Lần này anh sẽ không trốn thoát. Em có chuyện muốn nói với anh.
Tôi bước lên phòng của em tôi và ngạc nhiên thấy em rưng rưng nước mắt:
- Anh hỡi, chúng ta hãy quên đi mọi hiềm khích thuở xưa! Em biết rằng từ nay anh đã theo con đường xuất gia tầm đạo và em cũng muốn được như anh.
- Anh đã trở nên lực lưỡng khỏe mạnh như vậy. Anh có thể giúp em chăng?
Kế đó em tôi nói tiếp với niềm hy vọng:
- Em rất yêu chồng em, nhưng ảnh lúc nào cũng tránh né em, làm em rất tủi thân. Em lo trau dồi tâm tính và công phu tu niệm, nhưng phải chăng em phải chịu gầy ốm và vô duyên bạc phước suốt cuộc đời?
Lời khẩn cầu của em tôi làm tôi rất cảm động. Tôi cảm thấy thương xót cho số phận của em tôi. Một hôm Nalini yêu cầu tôi nhận em làm đệ tử. Em nói:
- Anh hãy thử thách em bằng cách nào tùy ý. Từ nay em chỉđặt đức tin nơi Thượng Đế chớ không còn tin tưởng ở thuốc men.
Nói đoạn, em tôi mở nút những chai thuốc bổ trút sạch tất cả xuống máng xối.
Để thử đức tin của em, tôi dặn em hãy kiêng cử ăn thịt, cá và trứng, và chỉ dùng toàn là rau trái mà thôi. Khi Nalini đã ăn chay trường trong nhiều tháng, không ngại nhiều nỗi khó khăn và đã theo đúng những qui luật khác của tôi đưa ra, tôi mới trở lại thăm em. Tôi nói:
- Em đã tôn trọng và tuân theo những qui luật của đời sống tâm linh, phần thưởng của em đã sắp đến!
Tôi mỉm cười và nói một cách trào phúng:
- Em tôi muốn trở nên mập béo như dì Tám nhà mình không, dì không còn thấy hai bàn chân của dì từ nhiều năm nay.
- Ôi thôi! Em chỉ muốn được như anh vậy thôi.
Tôi bèn long trọng tuyên bố:
-Do ân huệ thiêng liêng, cũng như tôi vẫn luôn luôn nói sự thật, điều ước vọng mà tôi tuyên bố ngày hôm nay sẽ trở thành sự thật.
(Thánh kinh Ấn Độ nói rằng người nào có thói quen nói lên sự thật có thể đạt được quyền năng làm cho lời nói của mình được thể hiện theo ý muốn. Điều mong ước mà y thốt ra với tất cả tâm hồn sẽ được thực hiện.)
- Kể từ bây giờ, thân thể của em sẽ chịu một sự thay đổi nhiệm mầu và trong vòng một tháng em sẽ cân nặng cũng như tôi.
Điều mong ước mà tôi nói lên bằng tất cả tâm hồn đã được đấp ứng. Trong vòng một tháng, Nalini đã cân nặng bằng tôi! Những nét tròn trĩnh duyên dáng làm cho thân hình em trở nên vô cùng hấp dẫn và chồng em càng yêu em thêm. Cuộc hôn nhân của em bắt đầu trong những điều kiên không toàn hảo nay đã trở thành một cuộc hôn nhân lý tưởng.
Từ Nhật Bản trở về, tôi nghe nói rằng trong khi tôi vắng mặt, Nalini bịđau chứng bịnh thương hàn. Tôi bèn hối hả đến nhà em thì lấy làm kinh ngạc mà thấy em mình gầy đét như bộ xương và đang mê man bất tỉnh. Em rể tôi thuật lại rằng lúc em còn tĩnh thì em luôn luôn lập đi lập lại những lời này, “Nếu Mukunda có mặt ở nhà thì tôi đã không bịđau đến nỗi này.” Y cho biết:
- Tôi và các bác sĩ khác đều tuyệt vọng. Bệnh kiết lại xuất hiện cùng một lúc với bệnh thương hàn!
Tôi bèn cầu nguyện với tất cả tấm lòng thành và áp dụng những phương pháp chữa bệnh theo khoa Yoga. Bệnh kiết của Nalini liền dứt hẳn nhưng bác sĩ Bose lắc đầu với một vẻ mặt u ám và nói:
- Điều ấy chỉ có nghĩa là vợ em không còn chút máu nào nữa.
Tôi liền trấn tĩnh y với một giọng quả quyết:
- Em tôi sẽ hết bệnh. Trong bảy ngày cơn nóng sốt sẽ dứt hẳn.
Một tuần lễ sau tôi lấy làm mừng mà thấy Nalini mở mắt và nhận ra tôi. Kể từ lúc đó em đã lần lần bình phục. Khi em đã thấy khỏe hẳn và nặng cân trở lại như trước, than ôi, em lại phải bù trừ cơn bệnh ấy với một giá quá đắt: hai chân em đã bị liệt bại. Những y sĩ chuyen khoa người Anh và Ấn đều tuyên bố rằng em sẽ phải mang tật suốt đời.
Mệt mỏi vì sự cố gắng mà tôi đã làm để cứu Nalini, tôi bèn đến Serampore để yêu cầu Sư Phụ giúp tôi. Sư Phụ động lòng trắc ẩn về bịnh trạng nguy kịch của em tôi và nói:
- Em con sẽ sử dụng hai chân lại được vào cuối tháng này. Con bảo nó hãy đeo một hạt trân châu nặng hai carat, không được đục lỗ và cột dính trên da thịt bằng một sợi dây.
Tôi quì dưới chân Sư Phụ để tạ ơn mà mừng rỡ trong lòng.
- Bạch Sư Phụ, lời nói của Sư Phụ cũng đủ chữa khỏi bệnh cho em con, tuy nhiên, nếu Sư Phụ muốn, con sẽ kiếm mua một hột trân châu ngay lập tức.
Sư Phụ gật đầu bằng lòng rồi diễn tả hình dáng và tính tình Nalini, tuy người chưa biết mặt em gái tôi bao giờ.
Tôi trở về Calcutta và mua một hột trân châu cho Nalini. Một tháng sau, hai chân liệt bại của em tôi đã hoàn toàn được chữa khỏi.
Em tôi yêu cầu tôi chuyển đạt sự biết ơn sâu xa của em cho Sư Phụ. Sư Phụ nghe tôi đưa tin lành về trong cơn im lặng và khi sửa soạn kiếu từ, người nói:
- Các bác sĩ đều nói rằng Nalini sẽ không bao giờ có con. Con hãy chuyển đạt cho em con bức thông điệp của thầy, rằng trong vài năm, nó sẽ sanh hai đức con gái.
Quả thật sau đó vài năm, Nalini sanh một đứa con gái và nhiều năm kế đó, lại sanh thêm một đứa con gái nữa. Em tôi vui mừng vô hạn và nói:
- Sư Phụ của anh đã ban phước lành cho gia đình em và cả nhà chúng ta. Một bậc siêu nhân như thế thật là thánh hóa cả xứ Ấn Độ do bởi sự hiện diện của người. Anh hỡi, anh hãy thưa với Sư Phụ rằng nhờ anh mà bây giờ em cũng xin làm đệ tử của Người để được thụ giáo theo phép môn Krisya Yoga.



Hết



--------------------
Đình So, Quán Giá, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp chưa tày Trăm Gian
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgocThienAnh
post Feb 27 2010, 08:25 AM
Post #20


Member
**

Group: Members
Posts: 13
Joined: 10-August 09
Member No.: 4,413
Country



thankyou.gif
Go to the top of the page
 
+Quote Post

2 Pages V  < 1 2
Reply to this topicStart new topic
1 User(s) are reading this topic (1 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 24th June 2024 - 03:19 PM