Welcome Guest ( Log In | Register )

 
Reply to this topicStart new topic
> Chung Quân
M&N
post May 12 2008, 06:51 PM
Post #1


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country



Chung Quân Buổi Nhạc Thính Phòng "Một Thời Ðể Nhớ"

"Nhắc lại những kỷ niệm văn nghệ của những nhạc sĩ xuất thân từ trường Trung Học Nguyễn Trãi: Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Ðức Huy, Nam Lộc, Võ Tá Hân, Phạm Mỹ Lộc... để tri ân Cố Giáo Sư Nhạc Sĩ Chung Quân."



Nếu muốn viết đầy đủ về sinh hoạt văn nghệ của trường trung học Nguyễn Trãi đáng nhẽ tôi phải tham khảo thêm những bậc đàn anh đã học trường này từ Hà Nội trước năm 54. Nhưng bài viết này giới hạn trong những kỷ niệm nhỏ bé riêng tư nên tôi nhớ và biết đến đâu viết đến đấy đề chia sẻ với những bậc trưởng thượng và bạn cùng trường. Như vậy nếu tôi không biết và không nhắc đến những nhân vật tài hoa một thời, xin các thầy các bạn bỏ qua cho.

Năm 54, lúc mới di cư vào Nam, những buổi chiều mưa ngập lụt ở xóm Bàn Cờ là những lúc cơn nhớ day dứt nhất về Hà Nội của người anh cả tôi (bác sĩ Phạm Văn Vận) dâng lên. Ông say sưa nhắc lại kỷ niệm sinh hoạt văn nghệ Nguyễn Trãi với các bạn hữu ngoài Bắc thời niên thiếu.

Tôi còn nhớ rất mơ hồ lời ông kể là trường Nguyễn Trãi Hà Nội rất to và nổi tiếng với nhiều giáo sư giỏi và sinh hoạt văn nghệ học sinh rất khởi sắc. Nơi đây, với sự hướng dẫn của các thầy như nhà văn Vũ Khắc Khoan, nhạc sĩ Chung Quân (tôi sẽ kể nhiều hơn về thầy khi nói đến sinh hoạt văn nghệ Nguyễn Trãi Sài Gòn) ông anh cả tôi cùng bạn hữu như Dương Hồng Duyệt (tác giả ca khúc Đường Chiều, điệu Blues, rất nổi tiếng cuối thập niên 50 tại Sài Gòn, và cũng là cháu nhạc sĩ Dương Thiệu Tước), Nguyễn Long Cương (về sau đi sang Ý học về đạo diễn điện ảnh)... tổ chức những buổi văn nghệ tại nhà Hát Lớn Hà Nội hoặc ở sân khấu Côn Sơn của trường. Bây giờ tôi nhắc lại chi tiết hơn về thầy Vũ Khắc Khoan và sân khấu Côn Sơn. Thầy Khoan không những là một nhà văn nổi tiếng cả nước biết đến với tác phẩm "Thần Tháp Rùa" và nhiều tác phẩm khác, thầy còn rất uyên bác về kịch nghệ. Tại sân khấu Côn Sơn thầy đã hướng dẫn học trò dựng vở kịch "Thành Cát Tư Hãn", (sau này ở trường Chu Văn An Sài Gòn, thầy cho dựng lại vở kịch này với Hồ Hải Trân đóng vai Sơn Ca; và tại trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ với Hà Bay đóng vai Sơn Ca). Vở kịch này đã mang lại cả không khí kịch cho người Hà Nội vào mùa thu nắng hanh vàng se lạnh. Sau di cư vào miền Nam năm 54, Thầy cũng đã có công ghi lại và cho xuất bản vở Chèo "Quan Âm Thị Kính", viết "Tìm Hiểu Sân Khấu Chèo" và phụ trách khoa kịch nghệ của trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn. Trong những chương trình văn nghệ Nguyễn Trãi Hà Nội cũng không thể thiếu tiết mục vũ "Trấn Thủ Lưu Ðồn" (sau này các cựu học sinh Nguyễn Trãi Hà Nội đã dựng lại tiết mục này trong sinh hoạt văn nghệ của trường trung học Chu Văn An Sài Gòn). "Trấn Thủ Lưu Ðồn" là một điệu vũ lấy từ Chèo. Riêng phần hát thì lấy từ điệu "hát Dịp Ðuổi" của Chèo Cổ. Tiết mục vũ "Trấn Thủ Lưu Ðồn" thường đi đôi với "Lơ Thơ Tơ Liễu", một điệu "hát Hồi Tiếu" cũng lấy từ Chèo Cổ. Lúc dạy cho học trò Nguyễn Trãi thầy Khoan đã cải biên rất nhiều. So với điệu múa và hát nguyên thủy của Chèo, thì học trò Nguyễn Trãi Hà Nội (và học trò Chu Văn An Sài Gòn sau này) múa ít uyển chuyển hơn, hát với tiết điệu nhanh, mạnh hơn và bỏ hết phần luyến láy (trong một số Ðại Nhạc Hội ở miền Nam tôi thấy nghệ sĩ Hoàng Thư cũng múa "Trấn Thủ Lưu Ðồn", nhưng khác với những bước múa của thầy Khoan dạy cho học trò). Ða số những tiết mục văn nghệ của học sinh Nguyễn Trãi Hà Nội, lúc di cư vào Sài Gòn lại được dựng lại tại trường Chu Văn An Sài gòn, vì những học sinh này đã chuyển sang học đệ nhị cấp tại đây. Trong khi đó trường trung học Nguyễn Trãi Sài Gòn chỉ có đến lớp Ðệ Tứ (về sau mới có đệ nhị cấp). Tuy nhiên sinh hoạt văn nghệ Nguyễn Trãi Sài Gòn vẫn còn đặc sắc dưới sự hướng dẫn của thầy Chung Quân.

Lúc trường Nguyễn Trãi di chuyển vào Sài Gòn thì tôi vẫn học tiểu học, nhưng cũng đủ khôn lớn để ghi nhận những sinh hoạt văn nghệ của người anh thứ ba (Phạm Hữu Ðộ) học tại đây.

Tôi còn nhớ quãng năm 55, 56 gì đó, vào một ngày mưa như trút nước, tôi được đi xem đại nhạc nhạc hội đầu tiên ở miền Nam của học sinh Nguyễn Trãi tổ chức tại rạp Thanh Bình. Tiết mục đáng nhớ nhất là hợp xướng "Sông Bến Hải", thầy Chung Quân sáng tác và tập cho các học trò. Ðây là một trường ca rất có giá trị, nói về một dòng sông chia cắt đất nước và nỗi lòng bỏ quê hương của người di cư năm 54. Nhưng rất tiếc không thấy Thầy cho phổ biến về sau. Thật là bất công nếu nhắc đến Nhạc Sĩ Chung Quân mà chỉ biết có nhạc phẩm "Làng Tôi" và quên mất trường ca "Sông Bến Hải". Hợp xướng này Thầy viết hòa âm rất khó, nhưng có điều lạ là Thầy tập cho học trò với kiến thức âm nhạc thô thiển, nhưng hát không bao giờ lộn từ bè này sang bè khác. "Bí quyết" này của thầy tôi đã tìm ra khi học tại trường Nguyễn Trải sau này.

Thầy Chung Quân tên thật là thầy Tiến. Ngày xưa thầy học nhạc ở Chủng Viện nên Thầy rất giỏi về hòa âm và viết hợp xướng. Sở dĩ học sinh Nguyễn Trãi yêu kính Thầy là vì được học nhạc với Thầy suốt bốn năm từ đệ Thất đến đệ Tứ. Còn các giáo sư khác trong bốn năm học chỉ học một năm họa hoằn mới học hai năm nếu thầy đó dạy hai môn học khác nhau. Tính Thầy hòa nhã nhưng rất nghiêm khắc. Tôi còn nhớ Thầy viết chữ rất đẹp. Nhiều khi bản nhạc Thầy viết trên bảng học trò không nỡ xóa đi dù hết giờ học. Ðiều đặc biệt là Thầy "vung" phấn trên bảng đen, chỉ với một nét Thầy tạo được cả năm dòng kẻ nhạc và khóa son cùng một lúc (cũng như sự độc đáo của thầy Hạnh "gầy" dạy Hình Học có thể vẽ vòng tròn trên bảng bằng cả hai tay trái và phải, và có anh bạn "kháo" rằng, thầy vẽ tròn hơn compa!). Trở lại với Thầy Chung Quân, tuy lý thuyết âm nhạc rất khô khan, nhất là phần nhớ các bộ khóa đầu bản nhạc và làm sao để tìm ra âm giai chính của bản nhạc đó. Thầy Chung Quân đã nghĩ ra câu thơ lục bát 'bất hủ", để giúp học trò dễ nhớ lúc học thi. Ðó là:
"Nhất Sòn, Nhị Rế, Tam La,
Tứ Mi, Ngũ Sí, Lục Pha, Thất Ðồ."
Có nghĩa là nếu thấy ở đầu bản nhạc có một dấu thăng thì bài ấy có âm giai Sol là chính, nếu có hai dấu thăng thì là âm giai Rê v.v...

Thầy Chung Quân có lối tập hợp xướng thật độc đáo và rất công phu. Tôi nhớ năm ấy học Ðệ Ngũ, chúng tôi được thầy tập cho hợp xướng "Hè Về" của nhạc sĩ Hùng Lân để trình diễn trong buổi văn nghệ cuối niên học. Thầy tuyển chọn khoảng bốn mươi học sinh có giọng tốt từ trầm tới cao để hát bốn bè. Thầy chia mỗi bè thành một nhóm. Tôi còn nhớ thầy Chung Quân nhờ những thầy có giọng tốt hoặc giỏi đàn nhạc trong trường như thầy Ðặng Ðình Phùng (thầy có giọng ca tenor rất tốt và đánh tây ban cầm cổ điển cũng cừ khôi không kém); thầy Ðỗ Ðinh Tuân (tức ca sĩ Ðỗ Tuấn của ban Học Sinh, Sinh Viên Ðài Phát Thanh Sài Gòn, thập niên 50, thầy có giọng ca đầm ấm truyền cảm như Pat Boon, thầy lại giỏi Anh Văn, nên một thời nổi tiếng với bản "Bernadine" , "Technique"); thầy Cao Thanh Tùng (nhạc sĩ trung hồ cầm của Ðài Truyền Hình Sài Gòn, hiện nay thỉnh thoảng thấy thầy xuất hiện ở những cuốn Video giá trị, thầy là một nhà giáo đa tài, một thời phụ trách mục "Ðố Vui Ðể Học" và hiện nay giữ mục điểm phim cho báo Việt Mercury). Ba thầy này dạy ba bè cho học sinh còn thầy Chung Quân lo một bè. Có một điều trớ trêu là đa số anh có giọng tốt được tuyển chọn thì lại không có khiếu giữ bè, thường hay hát lộn sang bè của người khác. Vì thế giòng giã hơn một tháng chúng tôi tập hát bè của mình riêng rẽ một cách rất máy móc. Những anh tập bè phụ thì thấy thật chán vì thấy bè của mình lời ca chẳng ra câu cú gì cả, thỉnh thoảng lại phải ngừng dăm trường canh, rồi lai "giót" vào mấy câu vô ý nghĩa. Còn những anh hát bè trầm sự "biểu diễn" lại nhàn hạ hơn,ï giống mấy nhạc sĩ chơi kèn tuba trong ban đại hòa tấu, thường hay "ngủ gật", đến lúc tỉnh dậy cũng đủ kịp để "ồm ồm" vài tiếng góp phần kết thúc bài. Khốn nỗi, những anh hát bè phụ và bè trầm thầy lại chọn những anh khá nhạc hơn các bạn khác, để giữ bè cho vững. Nhưng, các anh này cũng không khỏi than là Thầy đã "ngược đãi" mình, tập hát kiểu này thì về sau bạn gái có yêu cầu hát "Hè Về" cũng không dám. Nhưng đến lúc tập đã nhuần nhuyễn, thầy Chung Quân cho bốn bè ghép lại, thì dù hát bè phụ hay bè chính, anh nào cũng khoái chí vì thấy mình "quan trọng" được tham dự vào một ban hợp xướng bốn bè trình diễn với một kỹ thuật không kém các ban hợp xướng khác của Sài Gòn.

Thầy Chung Quân viết nhạc rất ít, nhưng có bài "Làng Tôi" nổi tiếng cả nước. Theo giai thoại thì nhà sản xuất phim ở Hà Nội trước 54 (hình như phim "Kiếp Hoa") đã dùng bài "Làng Tôi" nhưng không xin phép, khiến thầy Chung Quân đưa họ ra tòa, thầy thắng kiện. Lúc vào Sài Gòn thầy có tiền "tậu" vespa rất sớm so với các thầy khác của trường Nguyễn Trãi.

Trước năm 75, tôi đang học ở San Francisco thì nghe thấy thầy Chung Quân đang học tiến sĩ Sử Học ở New York. Sau đó cho đến khi thầy mất tôi không nghe thêm gì tin tức về thầy nữa. Sở dĩ tôi phải dài dòng để nhắc đến thầy Chung Quân kính yêu là vì ít nhiều, với những dòng nhạc ngây thơ thầy dạy dỗ thời niên thiếu, đã ươm mơ thành những dòng nhạc tình bất hủ sau này của các nhạc sĩ Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Ðức Huy, Nam Lộc, Võ Tá Hân và Phạm Mỹ Lộc (cũng chính là người viết bài này, chưa có ca khúc nào nổi tiếng và trở thành bất hủ cả! Nhưng, vì say mê âm nhạc tôi đã bỏ rất nhiều thì giờ đi đến từng địa phương của quê hương để nghiên cứu dân ca, mong có dịp từ những giai điệu đó viết được những dòng nhạc để trả nợ đất nước, trả nợ những thầy âm nhạc ít nhiều đã hướng dẫn tôi trong quá khứ như Chung Quân, Trần Văn Khê, Phạm Duy, Phạm Trọng Cầu. Và nhất là cống hiến cho các bạn Nguyễn Trãi hoặc khán thính giả bốn phương những âm điệu để quên đi những sự mệt nhọc trong cuộc sống hàng ngày.)

Hôm nay, trên đầu đã hai thứ tóc, nói như nhà văn Mai Thảo lúc sinh thời, tôi muốn trở về "Bến Ðậu Thần Tiên", đó là trường trung học Nguyễn Trãi, để ôn lại những sinh hoạt văn nghệ với bạn bè thân yêu, nhất là có dịp nhắc đến kỷ niệm với những nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Ðức Huy, Nam Lộc, Võ Tá Hân.

Có rất nhiều tài liệu, băng nhạc, video đã nói đến âm nhạc và cuộc đời của những nhạc sĩ Nguyễn Trãi nói trên, vì dòng nhạc của họ đã đến với tám chục triệu người trong và ngoài nước. Những gì tôi nhắc đến ở đây chỉ là kỷ niệm riêng tư góp nhặt ở thời trung học, nếu không đúng ý các bạn thì các bạn cũng nên bỏ qua vì những kỷ niệm này rất đẹp ở nét ngây thơ, vô tư của tuổi nhỏ.

Tôi học cùng với Ngô Thụy Miên (tên thật là Ngô Quang Bình) và Võ Tá Hân ba năm Thất, Lục, Ngũ (đều là B1) từ năm 60 đến 63. Thật ra Bình không học nhạc nhiều ở thầy Chung Quân. Vì, lúc bắt đầu học Nguyễn Trãi, anh đã học vĩ cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Trong lớp, ngoài môn nhạc, còn các môn khác anh học rất ít, nhưng lại thuộc loại khá. Sau này lúc học Hòa Âm ở trường Quốc Gia Âm Nhạc tôi mới thấy phục anh vì chương trình của trường để đào tạo nhạc sĩ chuyên nghiệp, nên nhạc sinh phải học rất nhiều môn ngoài nhạc khí đã chọn, làm sao anh có thể học song song cả hai bên mà vẫn khá đều. Ðó là chưa kể thì giờ đánh bi, đánh đáo với bạn hữu. Lúc lớn hơn thì la cà với bạn bè tìm cảm hứng sáng tác những ca khúc bất hủ. Tính anh rất hiền và tốt vói bạn bè. Tôi nhớ anh hay cho tôi mượn sách nhạc pháp của Hùng Lân để trau dồi thêm lý thuyết. Tôi rất mê tây ban cầm cổ điển, nhưng không có nhiều tài liệu để tập luyện, anh đã giới thiệu tôi với người anh của anh là Ngô Quang Thắng (tuy học vĩ cầm ở Quốc Gia Âm Nhạc nhưng cũng tập thêm tây ban cầm) để cho tôi mượn thêm tài liệu. Năm 68, trong một buổi tổ chức chung với Từ Công Phụng tại trường âm nhạc Bach Sài Gòn, tôi giới thiệu tập nhạc đầu tiên "Những Bài Hát Cho Tình Yêu", Ngô Thụy Miên và Hà Học Ngôn (cũng học vỹ cầm tại Quốc Gia Âm Nhạc) không quản ngại giúp phần nhạc đệm dương cầm, tuy lúc này anh đã bắt đầu có tiếng và tôi là một nhạc sĩ vô danh. Năm 1971, trước khi đi Mỹ học, tôi có tham dự buổi ra mắt tập nhạc "Ðông Quân Tình Khúc" của anh. Ðây là cơn gió mát đầu tiên thổi vào dòng nhạc tình yếm thế của miền Nam. Ðúng thế, lúc ấy tuổi trẻ miền Nam đã bắt đầu bớt "say sưa" với giòng nhạc u buồn của Trịnh Công Sơn, thì giòng nhạc tình Ngô Thụy Miên xuất hiện như xoa dịu nỗi đau của tuổi trẻ. Từ dạo ấy tôi mất liên lạc với anh nhưng vẫn nghe nhạc anh, vì ca khúc của anh được phổ biến rất rộng rãi khắp nơi. Lúc anh đoàn tụ với gia đình tại Mỹ thỉnh thoảng tôi liên lạc lại với anh để nói chuyện âm nhạc. Anh quả là một người bạn Nguyễn Trãi tài hoa và tử tế.

Như đã nói ở trên tôi học cùng với Võ Tá Hân ba năm Thất, Lục, Ngũ tại Nguyễn Trãi. Anh học rất giỏi và đứng đầu lớp nhiều môn. Cũng giống như Ngô Thụy Miên, từ Ðệ Ngũ anh đã bắt đầu học Tây Ban Cầm ở trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Gần đây anh đã bỏ ra nhiều công phu đều soạn cho đàn Tây Ban Cầm và Dương Cầm những ca khúc nổi tiếng của nhạc Việt. Ngoài ra anh sáng tác ca khúc nhiều thể loại khác nhau và đã phổ biến hơn hai mươi CD. Ðặc sắc nhất là Nhạc Phật và những ca khúc viết về Huế. Vì tôi chuyển sang học ở trường Chu Văn An sau năm Ðệ Ngũ nên cũng it có dịp anh. Mãi gần đây, sau mấy chục năm xa cách nhân dịp anh có nhã ý và cho xuất bản ca khúc "Ảo Mơ" của tôi do Harold Mann trình tấu Dương Cầm trong CD "Half Moon Dream" của nhà sản xuất Gianna, nên bạn bè lại có dịp liên lạc, hàn huyên chuyện cũ ở Nguyễn Trãi ngày xưa.

Nhạc sĩ Ðức Huy (tên thật là Ðặng Ðức Huy) cũng là một học sinh Nguyễn Trãi tài hoa, thuộc thành phần có "nhan sắc". Ở Nguyễn Trãi anh học hơn tôi một lớp, nhưng sang Chu Văn An thì chúng tôi học cùng năm Ðệ Tam và Ðệ Nhị (vì tôi học nhảy một lớp). Tôi còn nhớ anh rất được thầy Tô Ðình Hiền, dạy Việt Văn, yêu mến. Ðã có lần anh được thầy Hiền cho đến lớp tôi (Ðệ Lục B1) để trần thuyết về chuyện "Nửa Chừng Xuân" của nhà văn Khái Hưng. Vì có thiên khiếu về Việt Văn từ thuở bé, nên khi trở thành nhạc sĩ chuyên nghiệp lúc sáng tác ca khúc, anh viết lời ca ý nghĩa rất súc tích và có tư tưởng. Ngay lúc đang học trung hoc đệ nhất cấp ở Nguyễn Trãi, Ðức Huy đã chơi kích động nhạc và cùng bạn bè lập ban nhạc "Crazy Boy", trình diễn trong dịp phát phần thưởng cuối năm. Ðiều đáng nhớ là tôi đã có dịp nghe anh chơi đàn guitar điện bài "Ðường Chiều" của Hồng Duyệt (một cựu học sinh Nguyễn Trãi tôi đã nói đến ở trên.). Tiện đây tôi cũng nên nhắc đến một số bạn Nguyễn Trãi cùng thời với anh Ðức Huy, đã lập và chơi nhạc trẻ rất nổi tiếng như ban The Forty Six (anh Diệu biết đàn Hạ Uy Cầm, Quyên chơi lead guitar, Phùng Thuận chơi trống...). Trong bài viết này, tôi tránh nói tới sự nghiệp âm nhạc của Ðức Huy và Ngô Thụy Miên sau này vì nhà báo Trường Kỳ đã nói khá kỹ trong các "Tuyển Tập Nghệ Sĩ" đã xuất bản.

Nói về sinh hoạt âm nhạc của Vũ Thành An tại Nguyễn Trãi thì tôi không có nhiều kỷ niệm với anh. Tuy nhiên, tôi nhớ gặp anh trong một buổi họp văn nghệ của trường do thầy Tô Ðình Hiền hướng dẫn, có cả nhà báo Ngọc Hoài Phương tham dự. Sau này lên đại học anh mới sáng tác nhạc và nổi tiếng. Khi học ở trường Luật Sài Gòn tôi gặp lại anh và đã có dịp sinh hoạt chung với anh và nhạc sĩ Từ Công Phụng ở một trại thanh niên tổ chức tại Vũng Tàu (đặc biệt ở trại thanh niên này có sự tham dự của các nhân vật nổi tiếng sau này như Ðỗ Ngọc Yến, Hà Tường Cát, Lê Ðình Ðiểu, Bùi Bảo Trúc, Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Tường Quí, Ðào Trường Phúc, Nguyễn Lương Bằng, Lê Hoài Quỳnh, Lê Công Chính, Tống Hoằng và một nhân vật Nguyễn Trãi Phạm Phúc Hưng, người anh thứ tư của tôi). Lúc đánh đàn cho ban "Tinh Hoa Ðọc Chuyện" của nhạc sĩ Nguyễn Hiền tại Ðài Phát Thanh Sài Gòn, thỉnh thoảng tôi có dịp gặp Vũ Thành An, nhưng không có dịp nói chuyện lâu. Sau đó, tôi đi du học ở Hoa Kỳ, từ giã sinh hoạt âm nhạc với các bạn bè trong nước, chuyển sang sinh hoạt văn nghệ sinh viên hải ngoại vùng Bay Area, đã gặp nhà thơ Cao Ðồng Khánh, và nhạc sĩ Ðặng Xuân Thìn trong dịp thực hiện chương trình phát thanh "Tiếng Vọng Quê Hương" trên đài phát thanh KQED tại San Francisco năm 72. Khi Vũ Thành An đến Mỹ đoàn tụ gia đình, tôi có dịp hỏi thăm anh qua điện thoại, và gửi anh một số bài viết về nhạc của tôi trên các báo Văn Học, Nhân Văn và Hợp Lưu. Từ dạo đó tôi chưa có dịp gặp lại nhạc sĩ Nguyễn Trãi tài hoa Vũ Thành An, nhưng sắp tới đây ở Nhạc Hội "Một Thời Ðể Nhớ" tôi hy vọng sẽ được gặp lại anh để hàn huyên chuyện cũ.

Người đa tài nữa của Nguyễn Trãi tôi muốn nhắc đến là Nhạc Sĩ Nam Lộc. Tôi không được quen trực tiếp anh, nhưng mỗi lần tôi cùng anh bạn Phạm Ðức Tiến đến "Hầm Gió" của anh uống cà phê, anh Nam Lộc thường không lấy tiền (có lẽ vì thế tôi nhớ đến tấm lòng hào hiệp của anh mãi chăng!). Ngoài tài viết nhạc và làm M.C. sau này, lúc đi học ở Chu Văn An anh cũng làm trưởng ban báo chí một năm và có ra được một đặc san do chính anh vẽ bìa. Anh cũng là nhạc sĩ di tản đầu tiên sáng tác ca khúc về Sài Gòn để nhớ đến thành phố đã đổi tên. Sau này và bây giờ ngoài sinh hoạt âm nhạc, anh còn hoat động rất hăng say và hữu hiệu trong lãnh vực di trú để bênh vực quyền lợi người tị nạn Ðông Dương.

Người cuối cùng là một nhạc sĩ rất có công với trường Nguyễn Trãi, nhưng bị lãng quên. Ðó là anh Phạm Ngọc Cung. Anh đã sáng tác ra Đoàn ca của trường Nguyễn Trãi Sài Gòn. (Tôi nhớ bắt đầu bài này là câu "Anh em ta là học sinh của trường Nguyễn Trãi...") Sau chuyển sang học trường Chu Văn An anh cùng một số bạn Nguyễn Trãi cũ (như Hùng clarinette, Tộ trống...), lập ra ban nhạc Chu Văn An, anh làm trưởng ban nhạc và chơi kèn saxophone. Ban nhạc này rất nổi tiếng trong giới học sinh (và cả sinh viên) Sài Gòn, và hầu như là ban nhạc học sinh đầu tiên chơi nhạc Zazz. Tôi được nghe ban nhạc của anh trình diễn rất đặc sắc trong một Ðại Nhạc Hội của Tổng Liên Ðoàn Học Sinh, Sinh Viên Sài Gòn do các cựu học sinh Nguyễn Trãi, (nhưng lúc ấy đã là sinh viên tổ chức) tổ chức (trong đó có sự tham dự của nhạc sĩ Nguyễn Trãi Hồng Duyệt, ca sĩ Nguyễn Trãi Phạm Vận, các nhân vật nổi tiếng như ca sĩ Ðỗ Tuấn, Duy Trác, Võ Anh Tuấn...). Sau đó tôi nghe bạn bè nói anh ra nhập quân đội rồi không thấy anh sinh hoạt âm nhạc nữa. Theo ý tôi, các bạn Nguyễn Trãi nếu có dịp cũng nên tri ân anh Phạm Ngọc Cung người bạn Nguyễn Trãi, tuy ở tuổi học sinh ngây thơ nhưng đã có công viết đoàn ca cho bạn mình hát và trả ơn ngôi trường thân yêu của mình và ông thầy nhạc đáng kính nhạc sĩ Chung Quân.

Ngày 28 tháng Bảy trong hè này anh Phạm Duy Quang, anh Mai Ðông Thành cùng một số bạn bè Nguyễn Trãi sẽ tổ chức một buổi âm nhạc thính phòng "Một Thời Ðể Nhớ", trình bày nhạc phẩm "Làng Tôi" của thầy Tiến (tức nhạc sĩ Chung Quân) và những sáng tác của các nhạc sĩ xuất thân Nguyễn Trãi như Vũ Thành An, Nam Lộc, Ðức Huy, Ngô Thụy Miên và Phạm Mỹ Lộc. Ðây cũng là dịp để ít nhiều các môn sinh của thầy Chung Quân đốt nén hương lòng tri ân thầy đã gieo âm thanh Việt Nam vào những trái tim thơ ngây của thời niên thiếu tại ngôi trường thân yêu Nguyễn Trãi, để sau này họ cống hiến cho đời những dòng nhạc tình bất hủ cho nền tân nhạc Việt Nam. Cũng nhân dịp này, tôi muốn nhắc đến một chút sử liệu để các bạn nhạc sĩ xuất thân từ trường Nguyễn Trãi đã thành danh trong nền tân nhạc Việt Nam, hãnh diện về ngôi trường của mình. Cụ Nguyễn Trãi không những là một khai quốc công thần của nhà hậu Lê về phần võ, văn chương của cụ cũng ngút ngàn nghĩa khí, còn về âm nhạc, cụ cũng là một nhà nhạc học sớm nhất của Việt Nam. Với kiến thức uyên bác về âm nhạc, cụ nhất quyết phản đối hoạn quan Lương Ðăng trong việc phỏng theo âm nhạc nhà Minh để san định lại nền âm nhạc Việt Nam sau khi đất nước thoát khỏi ách thống trị của Minh triều.

Sau cùng, còn rất nhiều cựu học sinh Nguyễn Trãi khác rất giỏi nhạc và nổi tiếng nhưng tôi chưa có dịp sinh hoạt chung nên xin lỗi các bạn (thí dụ như anh Ðỗ Bảo San cựu học sinh Nguyễn Trãi, tốt nghiệp Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, sau đi du học về sáng tác (composition) tại đại học Hawaii. Anh rất giỏi nhạc, qua anh Nguyễn Văn Ðính ở San Francisco năm 73, tôi có nhận được nhạc kịch "Trầu Cau" của anh. Sau lần trình diễn tại Ðại Học Hawaii, rồi sau không thấy phổ biến nữa.). Dù sao độc giả cũng miễn chấp cho người viết những chi tiết có thể không chính xác, hoặc thiếu sót, vì đây chỉ là dịp tôi muốn nhắc lại và chia sẻ với những bạn văn nghệ Nguyễn Trãi, trong nhưng năm qua tôi đã có duyên sinh hoạt với họ. Và bây giờ họ là những nhạc sĩ đã thành danh làm say mê hàng triệu con tim. Và nhất là ngày 28 tháng 7 năm nay tôi hy vọng gặp lại họ ở nhạc hội thính phòng tổ chức ở thủ đô của người tị nạn Little Sài Gòn (Orange County, California).


Phạm Văn Kỳ Thanh
Los Gatos 7/2002


Nguồn: http://www.honque.com/ngothuymien

--------------------------------------------------------------------------------

:::Nguyên Giao:::
Nhạc Sĩ Chung Quân - Nguyễn Đức Tiến :Nổi Tiếng Vì Là Tác Giả Bản Nhạc ‘Làng Tôi’




Nhạc sĩ Chung Quân nổi tiếng vì là tác giả bản nhạc ‘Làng Tôi’ đã trúng giải của công ty điện ảnh kiêm tuồng cải lương Kim Chung ở Hà Nội năm 1952 để làm bản nhạc nền cho cuốn phim có tiếng nói đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam; Đó là phim ‘Kiếp Hoa’.

Khi thông báo tuyển nhạc được quảng bá, các nhạc sĩ ‘bậc thầy’ nổi tiếng thời đó đua nhau gửi những ‘đứa con tinh thần’ về công ty điện ảnh mong được trúng giải. ‘Cậu’ Nguyễn Đức Tiến – lúc đó mới 16 tuổi - cũng dự thi với bản Làng Tôi. Bản nhạc có lời như sau:

‘Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh
Eâm xuôi về Nam

Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên mấy hàng cau
Đồng quê mơ màng

Nhưng than ôi
Có một chiều thu, lá thu rơi
Có một chiều thu, lá thu rơi
Oâm súng nhìn quê, tôi thầm mơ bóng ngày về

Mơ trong bóng ngày về
Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn, người bốn phương’

Chung Quân Nguyễn Đức Tiến đã đánh bại các bậc đàn anh - lúc đó xuất sắc với nhiều sáng tác cho tân nhạc, và không phải là ít - với chỉ một bản nhạc có lẽ là đầu tay! Bản nhạc được chấm nhất vì có tiết điệu êm đềm, bình dị, đặc biệt là rất dễ hát, dễ thuộc, và khi hát lên là người nghe cảm thấy có một cái gì đó thiết tha, trìu mến (Tương tự như bản ‘Lòng Mẹ’ của cố nhạc sĩ Y Vân). Làng Tôi lập tức được công bố, thu thanh và làm nhạc nền cho phim Kiếp Hoa!

Vì là phim có tiếng nói đầu tiên kể từ năm 1937 khi ngành phim ảnh Việt Nam được khai sinh, Kiếp Hoa nổi tiếng khiến bản nhạc Làng Tôi và tác giả của nó cũng nổi tiếng theo, cả nước đều biết.

Hai năm sau, 1954, thanh niên Nguyễn Đức Tiến 18 tuổi, di cư vào Nam, gia đình định cư ở vùng Khánh Hội. Các trường Chu Văn An từ Hà Nội, Nguyễn Trãi ở Hải Phòng cũng lục tục di cư vào Nam.

Do danh tiếng của mình từ khi đoạt giải ở Hà Nội, cộng thêm các giấy tờ đã học sư phạm chuyên ngành về Nhạc, nhạc sĩ trẻ tuổi Chung Quân được Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Đệ Nhất Cộng Hòa ưu đãi, cho dạy môn nhạc tại hai trường trung học Chu Văn An, và Nguyễn Trãi, ăn lương theo ngạch giáo sư trung học đệ nhất cấp, tương đối là cao. Trên thực tế, về bằng cấp giáo dục, thầy Tiến lúc đó chỉ mới có bằng trung học, học trường sư phạm theo ngạch hương sư.
Tôi còn nhớ khoảng năm 1955-56, vào một hôm trời mưa như trút nước, tôi được đi xem một đại nhạc hội của các học sinh trường trung học Nguyễn Trãi tổ chức tại rạp Thanh Bình. Tiết mục đáng nhớ nhất là hợp xướng ‘Sông Bến Hải’ do nhạc sĩ Chung Quân, đồng thời là giáo sư âm nhạc, sáng tác và tập cho các học sinh của trường. Đây là một trường ca có giá trị nghệ thuật cao, nói về một dòng sông chia đôi đất nước, và tâm trạng phải bỏ ‘quê cha, đất tổ’ của người di cư năm 1954. Hợp xướng này nghe thật hay, và chắc chắn không dễ tập, nhất là với mấy cậu học trò có kiến thức âm nhạc rất ‘căn bản’! Mãi đến sau này, khi được học nhạc với thầy Nguyễn Đức Tiến ở Chu Văn An, tôi mới được biết một, hai ‘bí quyết’ đọc nhạc do thầy dậy cho các học trò.

Thật là điều đáng tiếc khi không hiểu vì sao, trường ca Sông Bến Hải sau này không thấy được phổ biến, và giới yêu nhạc chỉ biết nhạc sĩ Chung Quân qua bản Làng Tôi!

Thầy Tiến dáng dong dỏng cao, hay đeo kính mát gọng vàng, và có thể nói là đẹp trai. Các giáo sư thời ấy đi dạy ăn mặc rất sang trọng. Trời nắng chang chang đổ mồ hôi nhưng cụ hiệu trưởng Trần Văn Việt vẫn luôn luôn mặc com-lê trắng, đeo cravát. Các giáo sư và các vị giám thị - tuy không bằng cụ hiệu trưởng - cũng đeo cravát, mặc áo sơ mi dài tay cài nút măng-sét. Trông các thầy thật ‘oai’! Trong các giáo-sư, người ăn mặc đẹp nhất, sang nhất, và đúng mốt nhất vẫn là thầy Tiến. Đặc biệt, khi đi dạy ở Chu Văn An, người ta đã thấy thầy lượn xe Vespa rất sớm so với các giáo sư khác.

Vì là giáo sư âm nhạc, thầy Tiến đã phải ‘biểu diễn dẫn giải’ (demo) bằng ca hát cho đám học trò non dại chúng tôi, nên nhờ vậy, chúng tôi đã nhiều lần được nghe thầy hát ‘nhạc sống’ thật … sống động! Mỗi khi thầy cất tiếng hát – chắc chắn to hơn khi thầy nói! - cả lớp chúng tôi đều lắng tai nghe và mong thầy hát thật lâu để chúng tôi được thưởng thức. Tôi còn nhớ rõ những lúc thầy trịnh trọng gõ thanh nĩa chuẩn âm (gọi là ‘Aâm thoa’) bằng kim loại trắng, trước khi say sưa đơn ca bài Hòn Vọng Phu:

‘Nơi phía nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nước non xưa đến giờ
Đường chiều mịt mù,
Cát bay tỏa bước ngựa phi đường trường
Nếp tàn y hùng cường
Vẫn còn bay trong gió
Bóng chàng xa, sắp dần qua’
(Lê Thương)

trước mặt đám học trò ngẩn người, yên lặng lắng nghe - không phải một, mà nguyên cả ba - bài hát đầy những hình ảnh lịch sử này. Không có nhạc đệm mà qua tiếng thầy hát, tôi có thể như hình dung ra các hình ảnh ngựa phi, qua sông vượt núi, và tiếng đao khiên loảng xoảng nơi chiến trường …

Cho đến giờ này tôi vẫn còn có thể lẩm bẩm được những nốt nhạc của một bài dân ca phổ thông của Ý Đại Lợi, cũng do thầy Chung Quân dạy:

‘Sòn sòn, đố đố si si
Phà phà, lá lá son son
Mì lá son son, phà phà
Pha mi rề lá son’

Mê nghe, và hát tân nhạc, nhưng tôi rất dốt, và lười về nhạc lý. Nếu không nhờ thầy Tiến chỉ dậy, không biết bao giờ tôi mới biết được sự khác nhau, cũng như cách đánh nhịp 2/4 (“Một xuống, một lên!”), ¾ (“Một, hai, ba!” theo ba cạnh của tam giác có một góc vuông), và 4/4 (tức C: “Một, hai, ba, bốn!” theo hình số 8 có 4 góc nhọn).

Vì nhạc lý là môn học khô khan, nhất là phần nhớ các bộ khóa đầu bản nhạc, và làm sao tìm ra giai âm chính của bản nhạc đó, thầy Tiến đã sáng chế ra một bài lục bát thật độc đáo và hữu dụng, vừa đủ và cho đúng 7 nốt nhạc! Đó là:

‘Nhất Sòn, Nhị Rế, Tam La,
Tứ Mi, Ngũ Sí, Lục Pha, Thất Đồ!’

Có nghĩa là nếu thấy ở đầu bản nhạc có một dấu thăng, thì bài ấy có âm giai Sol là chính; Nếu có hai dấu thăng thì là âm giai Rê, v.v. Học trò của thầy hơn người một phần là nhờ những ‘bí quyết’ này.

Chung Quân Nguyễn Đức Tiến có lối tập hợp xướng rất công phu, một phần có lẽ vì thầy ngày trước có học nhạc ở Chủng viện nên đã được huấn luyện chuyên nghiệp về hòa âm, và hợp xướng. Tôi nhớ trong năm học Đệ Ngũ, chúng tôi được thầy tập cho hợp xướng bài ‘Hè Về’ của nhạc sĩ Hùng Lân để trình diễn trong buổi văn nghệ cuối niên học. Thầy tuyển được đâu 40 học sinh có giọng tốt từ trầm đến bổng để hát 4 bè. Thầy cũng tìm được ba giáo sư có giọng, hay giỏi đàn nhạc trong trường, để mỗi thầy làm trưởng một bè.

Bốn nhóm bè, lúc tập thì tập riêng, chỉ hát phần bè của mình mà không biết ba nhóm kia hát gì. Sau khi cả bốn nhóm đã nhuần nhuyễn, ‘Oâng bầu’ Chung Quân cho ráp lại bốn nhóm hát cùng một chỗ, và chung một lúc: Tất cả 40 học sinh trong đoàn hợp ca không thể nào nghĩ rằng tiếng hát bè ‘thỉnh-thoảng-xen-vào’ của mình lại có thể vừa hay, vừa ‘quan trọng’ được góp tiếng vào một ban hợp xướng bốn bè, nghe có vẻ nghệ thuật không khác gì các ban hợp xướng chuyên nghiệp của Sài Gòn Hoa Lệ.

Có mấy ai đi học miễn phí mà lại may mắn được đi nghe và được dạy các kỹ thuật của âm nhạc thuộc loại thính phòng, có tiêu chuẩn quốc tế như tụi tôi?

Thầy Tiến viết chữ trên bảng rất đẹp. Nhiều khi hết giờ của thầy, học trò chúng tôi không nỡ xóa đi lời các bản nhạc thầy đã viết trên bảng. Chưa kể thầy còn có tài ‘vung’ phấn trên bảng đen, chỉ với một nét, thầy đã tạo được cả năm dòng kẻ nhạc, và khóa Son cùng một lúc từ đầu bên kia bảng, sang bên này bảng, thẳng tắp, và đều đặn tưởng như có dùng thước hay máy vẽ! Có lần chúng tôi hỏi, thầy trả lời nho nhỏ như không có gì đáng để ý, “Làm nhiều thì quen tay; Vậy thôi!”

Tính thầy hòa nhã nhưng rất nghiêm. Chỉ nói nhỏ nhẹ khi thật cần thiết, mực thước và nghiêm. Học với thầy hai, ba năm mà chưa bao giờ tôi thấy thầy la mắng một đứa học trò nào, và ít khi thấy thầy cười thành tiếng. Tuy say sưa dạy nhạc nhưng hình như thầy không biết tên chúng tôi: Tôi chưa bao giờ thấy thầy có nhớ, và gọi tên bất cứ một học sinh nào - trừ khi có sổ điểm trước mặt! Có thể vì thày dạy quá nhiều lớp, hay trí nhớ của thầy đã đầy những dữ kiện khác cần, và đáng nhớ hơn. Giữa thầy và trò, chúng tôi vẫn cảm thấy có một bức tường ngăn cách nào đó!

Thế mà chúng tôi vẫn mến phục thầy dù rằng ở ban B (tức là Ban Toán), nhạc chỉ là môn học phụ, có hệ số điểm thấp nhất là 1, mỗi tuần chỉ học có một giờ (giống như Vẽ, Sử, Địa, Thể Dục, Hán, v.v.). Bù lại, khác với các giáo sư các môn khác, lớp của tôi được học thầy Tiến suốt 4 năm liền của Trung Học Đệ Nhất Cấp.

Một lần đọc báo của Sứ Quán Việt Nam ở Wellington, Tân Tây Lan, tôi thấy tin thầy Nguyễn Đức Tiến đã tốt nghiệp Tiến sĩ Văn chương ở Anh quốc, trong một chương trình học bổng, và đã được nhà trường giữ lại, mời làm giáo sư diễn giảng. Tôi ngồi suy nghĩ: Như vậy thầy Tiến đã phải đi học lại từ lớp Đệ Tam ở Sài Gòn; Và trước khi có thể trình luận án tiến sĩ, chắc chắn thầy cũng phải có ít nhất tương đương cao học văn chương Anh. Văn chương Anh đâu phải là môn dễ học cho một người Việt Nam, để lấy được văn bằng cao nhất như thế? Tưởng thầy chỉ có biệt tài về Nhạc, bây giờ mới biết thầy còn có nhiều khả năng khác ít người biết …

Ngoài ra, tôi cũng được nghe phong phanh, những mảnh tin tức có khi hơi mâu thuẫn nhau - và chưa phối kiểm được (có thể vì thầy chọn lối sống rất riêng tư) - về thầy Nguyễn Đức Tiến, như:

– ‘Trước năm 1975, tôi nghe nói thầy Tiến đang học Sử học ở New York!’

– ‘Tôi nghe ai nói ông Chung Quân được học bổng du học về ngành Khảo cổ ở Texas!’

– ‘Giáo sư/Tiến sĩ Nguyễn Đức Tiến từ Anh về lại Việt nam, ở cùng với mẹ già sau năm
1975; Nhà vẫn ở khu Khánh-Hội!’

– Theo một anh bạn - trước cũng là học sinh của thầy ở trường Nguyễn Trãi - thì thầy
Tiến đã qua đời.

Gửi bản thảo bài viết này cho một số thân hữu, tôi đột nhiên nhận được thư trả lời qua Liên Mạng (Internet) của một anh bạn đàn anh, thân hồi còn du học ở Tân Tây Lan, từ bên Uùc gửi qua:

“Tôi có dạy học cùng với anh Tiến ở Đại Học Huế. Sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ ở ngoại quốc về, anh Tiến đã trở thành giáo sư Ban Văn Khoa ở đại học này từ năm 1971 đến 1976. Anh Tiến là một người thông thái, nhân hậu, trọng nguyên tắc, và có tư cách. Tôi đã nhiều lần cảm phục chứng kiến anh ấy can đảm công khai phê phán những sai trái, và lố bịch của các cán bộ cộng sản trong trường, nên đã bị cho bãi nhiệm khỏi ban giáo sư của Ban Văn khoa - Đại Học Huế.

Anh Tiến đã mất năm 1988 tại Sài Gòn sau khi bị đứt gân máu trên đầu - trong lúc đang đánh cờ tướng với người em rể - khiến anh bị mê man, và bất tỉnh (coma). Tôi có lại thăm anh trên giường bệnh trong bệnh viện, nhưng chỉ có nhà tôi đến đám táng của anh (vì lúc đó tôi đang vượt biên).”

Ngỡ ngàng, tôi chẳng biết làm gì, đâm ra thành ‘Giận cá, chém thớt’: Qua đời lúc (16 + (1988 - 1952) =) 52 tuổi thì không biết trong cáo phó, tang gia đã thông báo như thế nào: ‘Hưởng Dương’ hay ‘Hưởng Thọ’?

Tôi viết bài này để ghi lại những kỷ niệm đẹp chúng tôi - đám học sinh ở trường trung học Chu Văn An những năm 1960 – 1962 ở Sài Gòn - đã được may mắn có chung với thầy:

Chung Quân Nguyễn Đức Tiến,
một nhạc sĩ tài hoa, đa năng
đồng thời một vị giáo sư yêu nghề, và tận tụy với học trò.

Dù thế nào, làm sao quên đuợc thầy Chung Quân Nguyễn Đức Tiến, nhất là khi tình cờ nghe tiếng ai hát bài Làng Tôi trên xứ người. Bài hát ấy tính ra đã (2005 – 1952 =) 53 tuổi, hơn cả người đã sáng tạo ra nó


Nguồn: Vietnam Review
Người đăng: Pham Anh Dũng


-------------------------------------------------------------







:::Nguyên Giao:::

Nhạc Sĩ Chung Quân - Nguyễn Đức Tiến :Nổi Tiếng Vì Là Tác Giả Bản Nhạc ‘Làng Tôi’




Nhạc sĩ Chung Quân nổi tiếng vì là tác giả bản nhạc ‘Làng Tôi’ đã trúng giải của công ty điện ảnh kiêm tuồng cải lương Kim Chung ở Hà Nội năm 1952 để làm bản nhạc nền cho cuốn phim có tiếng nói đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam; Đó là phim ‘Kiếp Hoa’.

Khi thông báo tuyển nhạc được quảng bá, các nhạc sĩ ‘bậc thầy’ nổi tiếng thời đó đua nhau gửi những ‘đứa con tinh thần’ về công ty điện ảnh mong được trúng giải. ‘Cậu’ Nguyễn Đức Tiến – lúc đó mới 16 tuổi - cũng dự thi với bản Làng Tôi. Bản nhạc có lời như sau:

‘Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh
Eâm xuôi về Nam

Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên mấy hàng cau
Đồng quê mơ màng

Nhưng than ôi
Có một chiều thu, lá thu rơi
Có một chiều thu, lá thu rơi
Oâm súng nhìn quê, tôi thầm mơ bóng ngày về

Mơ trong bóng ngày về
Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn, người bốn phương’

Chung Quân Nguyễn Đức Tiến đã đánh bại các bậc đàn anh - lúc đó xuất sắc với nhiều sáng tác cho tân nhạc, và không phải là ít - với chỉ một bản nhạc có lẽ là đầu tay! Bản nhạc được chấm nhất vì có tiết điệu êm đềm, bình dị, đặc biệt là rất dễ hát, dễ thuộc, và khi hát lên là người nghe cảm thấy có một cái gì đó thiết tha, trìu mến (Tương tự như bản ‘Lòng Mẹ’ của cố nhạc sĩ Y Vân). Làng Tôi lập tức được công bố, thu thanh và làm nhạc nền cho phim Kiếp Hoa!

Vì là phim có tiếng nói đầu tiên kể từ năm 1937 khi ngành phim ảnh Việt Nam được khai sinh, Kiếp Hoa nổi tiếng khiến bản nhạc Làng Tôi và tác giả của nó cũng nổi tiếng theo, cả nước đều biết.

Hai năm sau, 1954, thanh niên Nguyễn Đức Tiến 18 tuổi, di cư vào Nam, gia đình định cư ở vùng Khánh Hội. Các trường Chu Văn An từ Hà Nội, Nguyễn Trãi ở Hải Phòng cũng lục tục di cư vào Nam.

Do danh tiếng của mình từ khi đoạt giải ở Hà Nội, cộng thêm các giấy tờ đã học sư phạm chuyên ngành về Nhạc, nhạc sĩ trẻ tuổi Chung Quân được Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Đệ Nhất Cộng Hòa ưu đãi, cho dạy môn nhạc tại hai trường trung học Chu Văn An, và Nguyễn Trãi, ăn lương theo ngạch giáo sư trung học đệ nhất cấp, tương đối là cao. Trên thực tế, về bằng cấp giáo dục, thầy Tiến lúc đó chỉ mới có bằng trung học, học trường sư phạm theo ngạch hương sư.
Tôi còn nhớ khoảng năm 1955-56, vào một hôm trời mưa như trút nước, tôi được đi xem một đại nhạc hội của các học sinh trường trung học Nguyễn Trãi tổ chức tại rạp Thanh Bình. Tiết mục đáng nhớ nhất là hợp xướng ‘Sông Bến Hải’ do nhạc sĩ Chung Quân, đồng thời là giáo sư âm nhạc, sáng tác và tập cho các học sinh của trường. Đây là một trường ca có giá trị nghệ thuật cao, nói về một dòng sông chia đôi đất nước, và tâm trạng phải bỏ ‘quê cha, đất tổ’ của người di cư năm 1954. Hợp xướng này nghe thật hay, và chắc chắn không dễ tập, nhất là với mấy cậu học trò có kiến thức âm nhạc rất ‘căn bản’! Mãi đến sau này, khi được học nhạc với thầy Nguyễn Đức Tiến ở Chu Văn An, tôi mới được biết một, hai ‘bí quyết’ đọc nhạc do thầy dậy cho các học trò.

Thật là điều đáng tiếc khi không hiểu vì sao, trường ca Sông Bến Hải sau này không thấy được phổ biến, và giới yêu nhạc chỉ biết nhạc sĩ Chung Quân qua bản Làng Tôi!

Thầy Tiến dáng dong dỏng cao, hay đeo kính mát gọng vàng, và có thể nói là đẹp trai. Các giáo sư thời ấy đi dạy ăn mặc rất sang trọng. Trời nắng chang chang đổ mồ hôi nhưng cụ hiệu trưởng Trần Văn Việt vẫn luôn luôn mặc com-lê trắng, đeo cravát. Các giáo sư và các vị giám thị - tuy không bằng cụ hiệu trưởng - cũng đeo cravát, mặc áo sơ mi dài tay cài nút măng-sét. Trông các thầy thật ‘oai’! Trong các giáo-sư, người ăn mặc đẹp nhất, sang nhất, và đúng mốt nhất vẫn là thầy Tiến. Đặc biệt, khi đi dạy ở Chu Văn An, người ta đã thấy thầy lượn xe Vespa rất sớm so với các giáo sư khác.

Vì là giáo sư âm nhạc, thầy Tiến đã phải ‘biểu diễn dẫn giải’ (demo) bằng ca hát cho đám học trò non dại chúng tôi, nên nhờ vậy, chúng tôi đã nhiều lần được nghe thầy hát ‘nhạc sống’ thật … sống động! Mỗi khi thầy cất tiếng hát – chắc chắn to hơn khi thầy nói! - cả lớp chúng tôi đều lắng tai nghe và mong thầy hát thật lâu để chúng tôi được thưởng thức. Tôi còn nhớ rõ những lúc thầy trịnh trọng gõ thanh nĩa chuẩn âm (gọi là ‘Aâm thoa’) bằng kim loại trắng, trước khi say sưa đơn ca bài Hòn Vọng Phu:

‘Nơi phía nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nước non xưa đến giờ
Đường chiều mịt mù,
Cát bay tỏa bước ngựa phi đường trường
Nếp tàn y hùng cường
Vẫn còn bay trong gió
Bóng chàng xa, sắp dần qua’
(Lê Thương)

trước mặt đám học trò ngẩn người, yên lặng lắng nghe - không phải một, mà nguyên cả ba - bài hát đầy những hình ảnh lịch sử này. Không có nhạc đệm mà qua tiếng thầy hát, tôi có thể như hình dung ra các hình ảnh ngựa phi, qua sông vượt núi, và tiếng đao khiên loảng xoảng nơi chiến trường …

Cho đến giờ này tôi vẫn còn có thể lẩm bẩm được những nốt nhạc của một bài dân ca phổ thông của Ý Đại Lợi, cũng do thầy Chung Quân dạy:

‘Sòn sòn, đố đố si si
Phà phà, lá lá son son
Mì lá son son, phà phà
Pha mi rề lá son’

Mê nghe, và hát tân nhạc, nhưng tôi rất dốt, và lười về nhạc lý. Nếu không nhờ thầy Tiến chỉ dậy, không biết bao giờ tôi mới biết được sự khác nhau, cũng như cách đánh nhịp 2/4 (“Một xuống, một lên!”), ¾ (“Một, hai, ba!” theo ba cạnh của tam giác có một góc vuông), và 4/4 (tức C: “Một, hai, ba, bốn!” theo hình số 8 có 4 góc nhọn).

Vì nhạc lý là môn học khô khan, nhất là phần nhớ các bộ khóa đầu bản nhạc, và làm sao tìm ra giai âm chính của bản nhạc đó, thầy Tiến đã sáng chế ra một bài lục bát thật độc đáo và hữu dụng, vừa đủ và cho đúng 7 nốt nhạc! Đó là:

‘Nhất Sòn, Nhị Rế, Tam La,
Tứ Mi, Ngũ Sí, Lục Pha, Thất Đồ!’

Có nghĩa là nếu thấy ở đầu bản nhạc có một dấu thăng, thì bài ấy có âm giai Sol là chính; Nếu có hai dấu thăng thì là âm giai Rê, v.v. Học trò của thầy hơn người một phần là nhờ những ‘bí quyết’ này.

Chung Quân Nguyễn Đức Tiến có lối tập hợp xướng rất công phu, một phần có lẽ vì thầy ngày trước có học nhạc ở Chủng viện nên đã được huấn luyện chuyên nghiệp về hòa âm, và hợp xướng. Tôi nhớ trong năm học Đệ Ngũ, chúng tôi được thầy tập cho hợp xướng bài ‘Hè Về’ của nhạc sĩ Hùng Lân để trình diễn trong buổi văn nghệ cuối niên học. Thầy tuyển được đâu 40 học sinh có giọng tốt từ trầm đến bổng để hát 4 bè. Thầy cũng tìm được ba giáo sư có giọng, hay giỏi đàn nhạc trong trường, để mỗi thầy làm trưởng một bè.

Bốn nhóm bè, lúc tập thì tập riêng, chỉ hát phần bè của mình mà không biết ba nhóm kia hát gì. Sau khi cả bốn nhóm đã nhuần nhuyễn, ‘Oâng bầu’ Chung Quân cho ráp lại bốn nhóm hát cùng một chỗ, và chung một lúc: Tất cả 40 học sinh trong đoàn hợp ca không thể nào nghĩ rằng tiếng hát bè ‘thỉnh-thoảng-xen-vào’ của mình lại có thể vừa hay, vừa ‘quan trọng’ được góp tiếng vào một ban hợp xướng bốn bè, nghe có vẻ nghệ thuật không khác gì các ban hợp xướng chuyên nghiệp của Sài Gòn Hoa Lệ.

Có mấy ai đi học miễn phí mà lại may mắn được đi nghe và được dạy các kỹ thuật của âm nhạc thuộc loại thính phòng, có tiêu chuẩn quốc tế như tụi tôi?

Thầy Tiến viết chữ trên bảng rất đẹp. Nhiều khi hết giờ của thầy, học trò chúng tôi không nỡ xóa đi lời các bản nhạc thầy đã viết trên bảng. Chưa kể thầy còn có tài ‘vung’ phấn trên bảng đen, chỉ với một nét, thầy đã tạo được cả năm dòng kẻ nhạc, và khóa Son cùng một lúc từ đầu bên kia bảng, sang bên này bảng, thẳng tắp, và đều đặn tưởng như có dùng thước hay máy vẽ! Có lần chúng tôi hỏi, thầy trả lời nho nhỏ như không có gì đáng để ý, “Làm nhiều thì quen tay; Vậy thôi!”

Tính thầy hòa nhã nhưng rất nghiêm. Chỉ nói nhỏ nhẹ khi thật cần thiết, mực thước và nghiêm. Học với thầy hai, ba năm mà chưa bao giờ tôi thấy thầy la mắng một đứa học trò nào, và ít khi thấy thầy cười thành tiếng. Tuy say sưa dạy nhạc nhưng hình như thầy không biết tên chúng tôi: Tôi chưa bao giờ thấy thầy có nhớ, và gọi tên bất cứ một học sinh nào - trừ khi có sổ điểm trước mặt! Có thể vì thày dạy quá nhiều lớp, hay trí nhớ của thầy đã đầy những dữ kiện khác cần, và đáng nhớ hơn. Giữa thầy và trò, chúng tôi vẫn cảm thấy có một bức tường ngăn cách nào đó!

Thế mà chúng tôi vẫn mến phục thầy dù rằng ở ban B (tức là Ban Toán), nhạc chỉ là môn học phụ, có hệ số điểm thấp nhất là 1, mỗi tuần chỉ học có một giờ (giống như Vẽ, Sử, Địa, Thể Dục, Hán, v.v.). Bù lại, khác với các giáo sư các môn khác, lớp của tôi được học thầy Tiến suốt 4 năm liền của Trung Học Đệ Nhất Cấp.

Một lần đọc báo của Sứ Quán Việt Nam ở Wellington, Tân Tây Lan, tôi thấy tin thầy Nguyễn Đức Tiến đã tốt nghiệp Tiến sĩ Văn chương ở Anh quốc, trong một chương trình học bổng, và đã được nhà trường giữ lại, mời làm giáo sư diễn giảng. Tôi ngồi suy nghĩ: Như vậy thầy Tiến đã phải đi học lại từ lớp Đệ Tam ở Sài Gòn; Và trước khi có thể trình luận án tiến sĩ, chắc chắn thầy cũng phải có ít nhất tương đương cao học văn chương Anh. Văn chương Anh đâu phải là môn dễ học cho một người Việt Nam, để lấy được văn bằng cao nhất như thế? Tưởng thầy chỉ có biệt tài về Nhạc, bây giờ mới biết thầy còn có nhiều khả năng khác ít người biết …

Ngoài ra, tôi cũng được nghe phong phanh, những mảnh tin tức có khi hơi mâu thuẫn nhau - và chưa phối kiểm được (có thể vì thầy chọn lối sống rất riêng tư) - về thầy Nguyễn Đức Tiến, như:

– ‘Trước năm 1975, tôi nghe nói thầy Tiến đang học Sử học ở New York!’

– ‘Tôi nghe ai nói ông Chung Quân được học bổng du học về ngành Khảo cổ ở Texas!’

– ‘Giáo sư/Tiến sĩ Nguyễn Đức Tiến từ Anh về lại Việt nam, ở cùng với mẹ già sau năm
1975; Nhà vẫn ở khu Khánh-Hội!’

– Theo một anh bạn - trước cũng là học sinh của thầy ở trường Nguyễn Trãi - thì thầy
Tiến đã qua đời.

Gửi bản thảo bài viết này cho một số thân hữu, tôi đột nhiên nhận được thư trả lời qua Liên Mạng (Internet) của một anh bạn đàn anh, thân hồi còn du học ở Tân Tây Lan, từ bên Uùc gửi qua:

“Tôi có dạy học cùng với anh Tiến ở Đại Học Huế. Sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ ở ngoại quốc về, anh Tiến đã trở thành giáo sư Ban Văn Khoa ở đại học này từ năm 1971 đến 1976. Anh Tiến là một người thông thái, nhân hậu, trọng nguyên tắc, và có tư cách. Tôi đã nhiều lần cảm phục chứng kiến anh ấy can đảm công khai phê phán những sai trái, và lố bịch của các cán bộ cộng sản trong trường, nên đã bị cho bãi nhiệm khỏi ban giáo sư của Ban Văn khoa - Đại Học Huế.

Anh Tiến đã mất năm 1988 tại Sài Gòn sau khi bị đứt gân máu trên đầu - trong lúc đang đánh cờ tướng với người em rể - khiến anh bị mê man, và bất tỉnh (coma). Tôi có lại thăm anh trên giường bệnh trong bệnh viện, nhưng chỉ có nhà tôi đến đám táng của anh (vì lúc đó tôi đang vượt biên).”

Ngỡ ngàng, tôi chẳng biết làm gì, đâm ra thành ‘Giận cá, chém thớt’: Qua đời lúc (16 + (1988 - 1952) =) 52 tuổi thì không biết trong cáo phó, tang gia đã thông báo như thế nào: ‘Hưởng Dương’ hay ‘Hưởng Thọ’?

Tôi viết bài này để ghi lại những kỷ niệm đẹp chúng tôi - đám học sinh ở trường trung học Chu Văn An những năm 1960 – 1962 ở Sài Gòn - đã được may mắn có chung với thầy:

Chung Quân Nguyễn Đức Tiến,
một nhạc sĩ tài hoa, đa năng
đồng thời một vị giáo sư yêu nghề, và tận tụy với học trò.

Dù thế nào, làm sao quên đuợc thầy Chung Quân Nguyễn Đức Tiến, nhất là khi tình cờ nghe tiếng ai hát bài Làng Tôi trên xứ người. Bài hát ấy tính ra đã (2005 – 1952 =) 53 tuổi, hơn cả người đã sáng tạo ra nó


--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
M&N
post May 12 2008, 06:58 PM
Post #2


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country




Làng Tôi - Ái Vân


--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Reply to this topicStart new topic
1 User(s) are reading this topic (1 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 16th June 2024 - 10:20 PM