Welcome Guest ( Log In | Register )

63 Pages V   1 2 3 > » 

PhuDung
Posted on: Nov 23 2020, 12:25 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Muôn sự tại duyên.


Mọi sự vật trên thế gian và cả vũ trụ này đều được tạo thành bởi rất nhiều điều kiện. Ngay cả hạt điện tử là đơn vị cực nhỏ cũng không phải là một thực thể riêng biệt, chúng luôn ở vào tình trạng liên kết. Chính vì mọi cá thể đều phải nhờ vào vô số điều kiện mới có thể biểu hiện và tồn tại, nên ta gọi đó là duyên sinh. Nhìn một cơn mưa, ta biết cánh đồng lúa vừa tiếp nhận thêm duyên là nước và trên bầu trời cũng bớt đi duyên là mây.

Tiến trình đến đi của duyên sinh vô cùng kỳ bí. Chúng không hề có tướng trạng cố định, hoặc khi chúng ở dạng không hình tướng. Vì vậy, ta không thể dùng con mắt bình thường hay kỹ thuật của khoa học mà có thể thấy rõ sự vận hành của chúng. Trừ phi, ta có thể vượt thoát được ý niệm sai lầm về cái tôi riêng biệt và phá vỡ được ranh giới hạn hẹp ấy, tầm nhìn của ta có thể vượt qua phạm vi thời gian và không gian có thể tính được thì ta mới thấy rõ tiến trình hoạt động của mọi duyên từ nơi chính mình và vạn vật xung quanh. Tuy nhiên, mọi duyên đều tuân theo nguyên tắc nhân quả, nên còn gọi là nhân duyên. Nhân là cái đã xảy ra trước đó. Nghĩa là không bao giờ có cái duyên hoàn toàn mới lạ, mà luôn có một số duyên nhỏ trong đó đã từng gặp gỡ và liên kết với nhau rồi. Vì thế, duyên hôm nay cũng chính là nhân của tương lai.

Người xưa hay nói muốn làm nên việc gì cũng phải hội đủ ba yếu tố quan trọng: thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Thiên thời là điều kiện thích hợp từ vũ trụ đưa tới. Địa lợi là hoàn cảnh xã hội phù hợp với việc ta làm. Nhân hòa là sự yểm trợ nhiệt tình của mọi người xung quanh. Nhưng người xưa còn cho rằng thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi lại không bằng nhân hòa. Có nhân hòa thì sẽ dễ dàng có được hai yếu tố còn lại, vì yếu tố nhân hòa nằm ngay trong chính ta, ta có thể chủ động để tạo ra nó. Chỉ cần ta buông bỏ bớt tâm cao ngạo và đố kỵ, hết lòng kính trọng và nâng đỡ mọi người xung quanh – tức là sống có phước có đức – thì tự nhiên ta sẽ kết nối được với hai yếu tố kia. Dù ta có tài năng và bản lĩnh đến đâu mà thiếu một trong ba yếu tố này, đặc biệt là không thu phục được lòng người, thì ta không thể nào thành công được. Nếu có thì cũng mau chóng sụp đổ. Nên nhớ duyên có hợp có tan, có đến có đi. Ta đừng tin chắc rằng những gì mình có được hôm này sẽ tồn tại mãi mãi. Tuy ta không thể hoàn toàn chủ động tạo ra hết mọi nhân duyên cho mình, nhưng ta có thể tạo ra sự liên kết để nhân duyên duy trì hay tan rã.

Tâm ta cũng là một cơ chế rất kỳ bí. Mỗi ý niệm tốt sẽ phát sinh ra vô số năng lượng tốt và mỗi ý niệm xấu sẽ phát sinh vô số năng lượng xấu. Chúng sẽ liên kết trực tiếp với những năng lượng tốt hay xấu khác đang bàng bạc khắp nơi trong vũ trụ, và đến khi gộp đủ nhân duyên thì cũng sẽ tạo nên những hiệu ứng lớn đến không ngờ. Vì thế, tâm ta chính là nguồn gốc tạo ra hầu hết nhân duyên thích ứng cho ta. Nhưng nếu không đủ sức phát huy được ưu thế của tâm để bồi đắp thêm cho nhân duyên mình đang có, thì ta phải đành chấp nhận để nhân duyên ra đi. Thái độ này chính là tùy duyên. Ngoài ra, không mong cầu bất cứ nhân duyên nào khác cũng là thái độ tùy duyên.

Tùy duyên là vui lòng chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, tạm ngưng tranh đấu và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng tranh đấu và bình thản chờ đợi lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác. Đừng quên, một việc thành cần phải hội tụ hàng triệu nhân duyên, chỉ cần thiếu một duyên thì nó cũng có thể bất thành. Nếu ta có hiểu biết sâu sắc hay từng trải nghiệm, thì trong vài trường hợp ta cũng có thể đoán biết được mình nên làm gì và không nên làm gì, để cho nhân duyên tốt hội tụ đầy đủ trở lại hay nhân duyên xấu sớm tan biến đi.

Ta thường gọi nhân duyên tốt là thuận duyên và nhân duyên xấu là nghịch duyên, tức là những điều kiện có lợi và bất lợi cho ta. Có những duyên thuận với ta nhưng lại nghịch với kẻ khác, và có những nhân duyên thuận với kẻ khác nhưng lại nghịch với ta. Đó chỉ là nói trong phạm vi con người, trong khi nhân duyên vốn luôn xảy ra với vạn vật ở khắp nơi trong vũ trụ. Bản chất của nhân duyên thì không có thuận nghịch, tốt xấu. Nó chỉ hội tụ hay tan rã theo sự thích ứng giữa các tần số năng lượng phát ra từ mọi cá thể mà thôi.

Thói quen của hầu hết chúng ta khi đón nhận thuận duyên thì luôn cảm thấy sung sướng và rất muốn duy trì mãi nhân duyên ấy. Còn khi gặp phải nghịch duyên thì luôn cảm thấy khó chịu và tìm cách tránh né hay loại trừ. Nhưng chưa hẳn thuận duyên sẽ đem lại giá trị hạnh phúc, hay nghịch duyên sẽ mang tới khổ đau thật sự. Nhiều khi nghịch duyên đưa tới sự trưởng thành, còn thuận duyên lại dễ khiến ta yếu đuối. Có khi thuận duyên ban đầu nhưng lại biến thành nghịch duyên sau này, hay nghịch duyên bây giờ nhưng lại là thuận duyên trong tương lai. Tất cả đều tùy thuộc vào bản lĩnh và thái độ sống của chúng ta. Do đó, ta không cần phải khẩn trương thay đổi những nhân duyên mà mình không hài lòng, hay cố gắng tìm kiếm những nhân duyên mà mình yêu thích. Khi tâm ta đã vững chãi đủ để tạo ra những nhân duyên an lành thì những nhân duyên tương ứng sẽ tự động kết nó mà thôi. Mà thật ra, khi tìm được sức sống từ nơi chính mình, ta sẽ không còn quan trọng điều kiện bên ngoài nữa. Nhân duyên nào cũng được cả. Rất tự tại.

Tùy duyên phải bất biến

Tùy duyên còn là thái độ biết tận dụng những nhân duyên mới mẻ đang hội tụ trong hiện tại để giải quyết vấn đề, hay tạo nên những đột phá tốt đẹp hơn. Nó sẵn sang bỏ qua những dự tính, kể cả nhưng khuôn thước đã được đặt để trước đây. Thái độ này chỉ có những kẻ bản lĩnh và vững chãi thật sự Họ phải đảm bảo phẩm chất không những không bị thay đổi mà còn tuyệt vời hơn trước khi hành động. Điều này khác hẳn với sự bùng vỡ của cảm xúc – quyết liệt làm cho được như ý rồi mau chóng chán nản và buông xuôi.
Nhà thiền có một câu chuyện rất thú vị. Hai sư Huynh đệ nọ trên đường du phương hóa độ, bỗng thấy một cô gái đang loay hoay tìm cách đi qua dòng suối chảy xiết. Người sư Huynh liền tiến tới hỏi: “Này cô! Cô có muốn tôi cõng cô qua bờ bên kia không?”. Cô gái vô cùng mừng rỡ gật đầu đồng ý. Sau khi qua con suối rồi, hai huynh đệ giã từ cô gái và tiếp tục cuộc hành trình. Đi được một đỗi đường, người sư đệ không kiềm chế được nữa bè bức xúc lên tiếng: “Sao sư huynh lại làm như vậy?”. Người sư huynh ngạc nhiên hỏi: “Làm chuyện gì?”. “Thì chuyện cõng cô gái hồi nãy đó, chúng ta là người xuất gia tu hành kia mà!” – người sư đệ hơi cáu gắt. Người sư huynh mỉm cười, vỗ vai người sư đệ: “Ta đã để cô gái ấy lại bên bờ suối rồi, sao sư đệ còn mang tới đây!”.

Người sư đệ không giúp cô gái qua sông thì không có gì sai. Vì trình độ tu tập của người sư đệ còn yếu kém, cần phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh để tâm hồng không bị khuấy động mà dễ dàng thiền định. Nhưng cái sai của người sư đệ là nghĩ người sư huynh cũng cùng trình độ như mình, cũng phải giữ sự thực tập y như mình, nên đã bất mãn với việc sư huynh giúp đỡ cô gái. Đành rằng sự thanh tịnh tâm hồn là yêu cầu bắt buộc đối với người đã xuất gia tu hành, nhưng đó không phải là mục đích sau cuối của sự tu hành. Tu hành đâu phải cốt để bảo vệ giới luật cho thật trong sang, còn ai khổ mặc ai. Giới luật mà chỉ bảo vệ cho mỗi sự thanh tịnh thôi thì giới luật ấy chỉ dành cho những kẻ sống vì bản thân hay còn quá yếu kém. Nó không có giá trị thích ứng cho những người đã có đủ bản lĩnh bất động trước những xáo động của hoàn cảnh. Cho nên, ta không thể căn cứ trên vài hiện tượng bên ngoài để thẩm định mà không suy xét đến động cơ và kết quả. Vấn đề là sau hành động đột phá ấy thì họ đánh mất chính mình hay nâng cao phẩm chất hơn.

Câu nói “Ta đã để cô gái ấy lại bên bờ suối rồi, sao sư đệ còn mang tới đây?” đã xác định phần nào trình độ bất nhiễm của vị sư huynh. Tất nhiên, phải cần có thêm những kiểm chứng thực tế khác thì ta mới đủ tin vào khả năng tùy duyên mà không thay đổi phẩm chất của một người nào đó. Bởi vì có nhiều người rất thích đột phá, nhất là những người trẻ. Họ luôn muốn dùng hết năng lực để nắm bắt những nhân duyên trong hiện tại để làm nên kỳ tích, nhưng số người thành công thì rất ít ỏi. Hầu hết gặp thất bại là do họ đã quá tự tin, đánh giá thấp hoàn cảnh, bị tham vọng chi phối, bị thói quen thay đổi lập trường kích động, hoặc không biết mình đang chiều theo sự tùy hứng. Tuy họ cũng tùy duyên nhưng lại…biến mất.
Thay đổi chiến lược bất ngờ, vượt qua nguyên tắc quan trọng, bất chấp sự cản trở của những người xung quanh, nhưng cuối cùng không đạt được mục đích mà còn phải trả những cái giá rất đắt thì đó là vết thương tâm lý rất nặng. Vết thương ấy sẽ khiến ta đánh mất niềm tin nơi bản thân và trở nên rất dị ứng với những thay đổi sau này. Chính vì hậu quả khó lương như thế nên người từng trải chỉ thích lối sống bình thường, giữ theo khuôn thước cho yên ổn. Nhưng cuộc đời đâu phải lúc nào cũng bình thường. Sẽ có lúc ta buộc phải vượt thoát sự bình thường ấy mới có thể cứu lấy bản thân hay giúp đỡ được kẻ khác thì ta phải làm sao? Thế nên, trang bị sẵn một khả năng đủ lớn để ứng phó trước những nghịch cảnh là hành động của những kẻ trải nghiệm và có hiểu biết sâu sắc. Thiền Sư Trần Nhân Tông thời nhà Trần của Việt Nam đã từng khuyên: “Ở đời vui đạo phải tùy duyên/ Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền” (Cư trần lạc đạo thả tùy duyên/ Cơ tắc xan hè khốn tắc miên – Cư trần lạc đạo). Nghệ thuật giữ gìn sự thanh thản trong tâm hồn ngay giữa bao sự phiền nhiễu của đời thường chính là thái độ tùy duyên. Theo Thiền Sư Trần Nhân Tông, tùy duyên có nghĩa là đói thì ăn mệt thì ngủ. Nhưng ăn ra ăn và ngủ ra ngủ; việc nào ra việc ấy, không trộn lẫn nhau, không thấy việc nào quan trọng hơn việc nào; việc nào đến trước thì giải quyết trước, không nôn nóng không bâng khuâng. Mới nghe qua thật dễ, nhưng làm được thì rất khó. Ta phải thay đổi những thói quen rất lâu đời như vội vàng, lo lắng và sợ hãi. Ngay cả những kẻ sống trong chốn u nhàn cũng vẫn còn đầy rẫy những khắc khoải mong cầu thì đừng nói chi ta đang sống giữa chốn lao xao.

Lẽ dĩ nhiên, không ai bắt buộc ta phải tùy duyên. Nhưng khả năng tùy duyên của ta càng lớn thì sự thanh thản trong tâm hồn sẽ càng lớn. Nếu ta vẫn còn tiếp tục đi tìm hạnh phúc ở bên ngoài thì chắc chắn ta sẽ mãi còn mong muốn và áp đặt nhân duyên thuận theo ý mình. Chỉ khi nào ta đã tìm thấy giá trị hạnh phúc chân thật nơi chính mình thì ta mới chấp nhận được mọi hoàn cảnh. Hòa nhập mọi hoàn cảnh để giúp người giúp đời mà không bị hòa tan, đó chính là mẫu người lý tưởng nhất của xã hội trong mọi thời đại.

Sưu tầm
  Forum: THẾ GIỚI HUYỀN BÍ - TỬ VI TƯỚNG MỆNH · Post Preview: #164561 · Replies: 0 · Views: 1,105

PhuDung
Posted on: Nov 23 2020, 12:25 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Một thoáng Sài Gòn


Tôi như nhiều người không sinh ra tại Sài Gòn nhưng suốt học trình từ tiểu học lên đại học được sống với thủ đô của miền Nam, qua tên gọi mỹ miều là “Hòn Ngọc Viễn Ðông.” Tôi suy tư về nguồn gốc các danh từ Sài Gòn và Hòn Ngọc Viễn Ðông.

Theo sự truy nguyên, Sài Gòn thuở ban đầu là đất của người Khờ-me, nguyên là một làng đánh cá tên đầu tiên Prey Nokor: Prey là thánh thần (dieu, god) và Nokor là thành phố hay đô thị (la ville; town, city), mang ý nghĩa “thành phố thánh thần. ”

Năm 1862, khi miền Nam Việt Nam thành thuộc địa của Pháp, người Pháp đặt tên chính thức là Saigon: Do theo âm ngữ Trung Hoa (Thầy Ngòn, Xi Coóng) hay Miên ngữ “Prey Nokor,” từ đó tên được Việt hóa là Sài Gòn. Thành phố này được Pháp xây dựng rất tối tân, mới lạ, được xem là bậc nhất của vùng Ðông Nam Á vào thời bấy giờ. Dân các xứ xung quanh gọi đó là Hòn Ngọc Viễn Ðông (la Perle de l’Extrême-Orient, the Pearl of the Far East), và người Pháp ví von là Paris Phương Ðông (Paris de l’Orient, Paris in the Orient) để ám chỉ là một thành phố phồn thịnh, lịch lãm nhất của Pháp ở vùng Ðông Nam Á.

Giả thuyết khác như theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Ðôn viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh Chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ “Lũy Sài Gòn” (theo tài liệu này viết là “Sài Côn,” chữ “Gòn” được dùng thế cho “Côn”). Ðây là lần đầu tiên chữ “Sài Gòn” xuất hiện. Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Sài Gòn, không phải đợi đến năm 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị quân Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Ðề Ngạn, hay Xi Coóng tức Tây Cống.

Dù sao thì Sài Gòn và Hòn Ngọc Viễn Ðông vẫn là một nơi quyến rũ, ấp ủ con tim bao thế hệ dân gốc Âu hay Á. Trước khi tôi rời Sài Gòn vì biến cố chính trị 1975, những kỷ niệm lưu luyến với Sài Gòn hay Hòn Ngọc Viễn Ðông có nhiều lắm. Thuở ấy thời sinh viên sao mà đẹp đẽ… Thời gian trôi qua như cái chớp mắt nay đã gần 4 thập niên ly hương, nhìn lại thấy mình không còn ở lứa tuổi hai mươi của Sài Gòn mộng mơ. Không còn nữa kỷ niệm đêm đêm tản bộ hóng mát dọc theo bờ sông Sài Gòn, hướng mắt về mái nhà lồng bên kia là Thủ Thiêm từ bến đò, bến bắc, gió thổi mát rượi từ mé sông. Không còn nữa kỷ niệm Sài Gòn mưa lãng mạn mà ta phải luồn lách giữa những vũng nước không tên, trong cái giá lạnh khi lượn xe gắn máy chạy trong cơn mưa rào xối xả từ trời cao nước mưa bắn văng tung tóe… Sài Gòn cũng đã chìm khuất vào dĩ vãng xa xôi. Rồi khi kỷ niệm trở về chỉ còn lại những nỗi nhớ đáng yêu bằng nước mắt ấm đầy ắp những lưu luyến yêu thương trong tâm tưởng… Cơ hồ như Sài Gòn đã sống dậy mãnh liệt trong tiềm thức cũ, mãi mãi theo ta những nhớ nhung không nguôi như bài ca:

“Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng?
Tà áo em bay theo giọt nắng vàng
Con đường ta đi dòng sông kỷ niệm
Nỗi nhớ trong em nỗi nhớ dịu dàng
Sài Gòn bây giờ mưa giăng ngập lối
Hai đứa bên nhau âu yếm không rời
Ðôi mắt yêu thương làn môi chờ đợi
Từng đợt mưa rơi… bối rối bồi hồi
Sài gòn bây giờ lòng ai vương vấn
Mai anh đi rồi còn nhớ em không?
Ðôi mắt nai tơ buồn xa vời vợi
Cơn gió vô tình đuổi lá vàng rơi
Sài gòn bây giờ có buồn không em?
Mưa vẫn rơi rơi… từng giọt êm êm
Suối tóc thơm bay hương tình dịu nhẹ
Ngây ngất dạt dào con phố về đêm”
(Sài Gòn Niềm Thương Nỗi Nhớ; Tác Giả: Võ Tá Hân, Trần Ngọc)

Sài Gòn gắn bó với tôi bắt đầu bằng những thơ ngây cũ nơi mà thành phố như một chốn phồn hoa đô hội. Người ta có thể bị choáng ngợp với một đô thị mang dáng vẻ Tây phương, như người con gái kiều diễm, kiêu sa, đài các… Ở một góc nào đó Sài Gòn ủ dột của phố đêm, lầy lội của xóm nghèo, trong nét bình dân của tiếng rao hàng, những con kinh nước đen,…

Nhiều người sống với Sài Gòn, dù mưa hay nắng, ban ngày hay ban đêm, bận rộn tất bật hay nhàn rỗi rong ruổi với phố xá của nó. Thưởng thức những món ngon mà cả nhóm bạn tôi khoái khẩu. Nào là Mì Cây Nhãn, Mì Chú Hỏa, mì La Cay Nguyễn Tri Phương. Nào hủ tiếu gà cá chợ cũ, hủ tiếu saté Lệ Thanh Chợ Lớn… Lề đường Sài Gòn xưa có hàng me Nguyễn Du, có hàng sao cao vút khúc Võ Trường Toản, Trưng Vương.

Tôi nhớ rõ có những hàng phượng vĩ và hoàng điệp trong sân trường Petrus Ký. Sài Gòn có trường Gia Long với món bò bía, xe đậu xanh đậu đỏ. Có trường Luật Khoa trên đường Duy Tân với xe nước dừa uống môi em ngọt. Có trường Dược khoa, Văn khoa trên đường Cường Ðể chạy thẳng xuống bờ sông Sài Gòn, Bến Bạch Ðằng,… Sài Gòn có những quán kem, quán cà-fê, quán ăn vỉa hè,…

Những sinh hoạt bình dị có quán cơm Bà Cả Ðọi, quán Bắc Bà Ba Bủng… để thưởng thức những món Sài Gòn khoái khẩu với hệ quả Pavlov cồn cào dạ dầy, sau những buổi tan học ngày cũ bạn bè rủ nhau đi ăn hàng Sài Gòn. Tôi nhớ con hẻm kín đáo Casino Sài Gòn nào những bún chả, bánh cuốn Thanh Trì, bánh tôm Cổ Ngư; những gánh hàng rong, những xe bán thức ăn của khu Bàn Cờ, khu Nguyễn Thiện Thuật, Chợ Vườn Chuối, Chùa Kỳ Viên, Chợ Ðũi,… Xen kẽ trong trí nhớ có nhiều lưu niệm trong ký ức xưa, có những nhà hàng, những điểm hẹn hò: Passage Eden, Casino Sài Gòn, Mini Rex, La Pagode, Pôle Nord, Givral, Brodard, khu thương xá Tax,… Nhắc đến Sài Gòn có những nơi như Continental, Caravelle, Majestic,… Lề đường Sài Gòn còn có những gánh hàng rong. Thương nhớ làm sao kỷ niệm Sài Gòn có nước mía Viễn Ðông có thịt phá lấu, có gỏi đu đủ gan cháy khô bò, có bánh bột chiên, có món bánh cay gần khu Chùa Chà Và mà nhà văn Thinh Quang nhắc tôi hôm nọ. Những thực khách của những nhà hàng sang trọng theo cung cách kiểu Tây phương của Sài Gòn… Chính họ cũng là giới hâm mộ thường trực tại các quán cóc trên vỉa hè Sài Gòn. Ðó là những nét đặt thù của Sài Gòn, của người Sài Gòn, hay thuật ngữ phương Tây “Saigonais,” “Saigonese.”

Nhớ Sài Gòn, làm sao quên nổi những góc phố, những con đường của nơi ấy nhỉ? Năm 1865, Phó Ðô Ðốc Pierre Paul Marie de la Grandière (1807-1876) đại diện cho chính quyền Pháp tiến hành việc đặt tên cho 26 con đường trên địa bàn của Sài Gòn mà trước đó chỉ được đánh số thứ tự. Trải qua hơn 300 năm xây dựng và phát triển, Sài Gòn đã có hơn 1,500 con đường lớn, nhỏ và từ lâu các tên đường đã bao lần thay đổi do yếu tố chính trị: Thời Pháp thuộc đường Tự Do xưa của ta là đường Catinat… Pháp đã đặt Charner cho tên đường Nguyễn Huệ, Mac Mahon là Công Lý sau đó. Bonard thành Lê Lợi, Mossard là Nguyễn Du… Ðường mang tên Phó Ðô Ðốc HQ Pháp De La Grandlière ta thay bằng tên vua, đường Gia Long. Paul Blanchy tên ta là Hai Bà Trưng. Mayer thành đường Hiền Vương… Và đại lộ Boulevard de la Somme phe ta đặt tên vua, đại lộ Hàm Nghi… Nhà tôi ở đường mang tên Tây D’Espagne sau thành Lê Thánh Tôn.

Những khách sạn thời Pháp thuộc tọa lạc ngay trung tâm Sài Gòn cũng đã là nhân chứng cho bao năm binh biến, vật đổi sao dời. Khách sạn Continental đã được kiến trúc sư Pháp thiết kế và xây dựng vào năm 1880 và nay là khách sạn lâu đời nhất Việt Nam. Continental từng đón tiếp nhiều nhân vật nổi tiếng, như nhà thơ Nobel của Ấn Ðộ là Rabindranath Tagore, văn hào Pháp André Malreaux là tác giả của La Condition humaine(Thân phận con người 1933), sau làm bộ trưởng Văn Hóa Pháp (1959-1969); văn hào Anh Graham Greene(tác giả của sách bestseller “The Quiet American” – Người Mỹ Trầm Lặng); cựu Tổng Thống Pháp Jacques Chirac, và nữ tài tử điện ảnh Catherine Deneuve (thủ diễn trong các phim đoạt giải điện ảnh Indochine, Le Dernier Métro, Belle de Jour),…

Chủ nhân đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau, nhà sản xuất vật liệu xây dựng, sau được bán lại cho Công Tước De Montpensier. Chủ sau nữa là Mathieu Francini. Ngoài ra, Continental còn có tên là “Radio Catinat,” nơi mà giới báo chí truyền thông tụ hội, trao đổi, thu nhặt tin tức thời sự “nóng“nhất, sai có, đúng có.

Nhà hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành lập năm 1925, nằm ở góc đường Catinat và Luro(sau là Cường Ðể) nhìn ra bờ sông Sài Gòn, do một thương nhân người Tàu giàu có và nổi tiếng nhất nhì Sài Gòn thời bấy giờ là Hui Bon Hoa (tức chú Hỏa) xây dựng theo đồ án thiết kế của một kiến trúc sư người Pháp. Suốt gần 90 năm tuổi của mình, Majestic đã đón tiếp nhiều nhân vật quốc tế: Tổng Thống Pháp Mitterrand, Thái Tử Nhật Akishino, Thủ Tướng Lý Hiển Long của Singapore, Thái Tử Ðan Mạch Henrick, Thái Tử Anh Andrew, Công Chúa Thái Lan Maha Chakri Sring Dhorn.

Các quán cà phê như La Pagode là nơi hội tụ của giới thơ văn, báo chí Sài Gòn một thuở như tụ quán Caffe Trieste nằm trên Vallejo Street (góc đường Grant) hướng Bắc của phố San Francisco, chủ nhân là một người Ý di cư, nhưng quán cà phê này là nơi mà giới tao nhân mặc khách, những nghệ sĩ lui tới gặp gỡ nhau… Nó còn là phòng hội của những nhà văn Lawrence Ferlinghetti, Alan Watts, Jack Kerouac, Allen Ginsberg, Richard Brautigan, Bob Kaufman, Gregory Corso, Michael McClure, Kenneth Rexroth, Neeli Cherkovski,… nhà thơ nổi tiếng Jack Hirschman, nghệ sĩ Peter Le Blanc, Don Moses và nhiếp ảnh gia giải Pulitzer là Joe Rosenthal, rồi những Jimo Perini, Bill Cosby, Paul Kantner, Liam Mayclem, Joey Reynolds và Mal Sharpe,… Trieste còn là nơi thi sĩ gốc Nga giải Nobel văn chương Joseph Brodsky lui tới trau chuốt thơ của mình. Còn nữa. Rồi ở góc phòng còn phảng phất bóng dáng của nhà đạo diễn nổi danh Francis Ford Coppola ngồi đọc và đánh bóng kịch bản phim “The Godfather” những năm 70.

Paris có Café de Flore, ở ngay ngã tư của Boulevard Saint-Germain và đường St. Benoit, nơi gặp gỡ ngày xưa của văn và triết gia như André Breton, Francoise Sagan, André Malraux, Francois Mauriac, Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Albert Camus,…

Cái chung của La Pagode của Sài Gòn, Caffe Trieste của San Francisco, hay Café de Flore của Paris là những địa điểm tụ họp của giới văn hóa nghệ thuật, những nơi có lịch sử riêng biệt của chính nó.

Sài Gòn có thơ Nguyên Sa, có nhạc Ngô Thụy Miên… Hỡi những ai đã từng đi dưới cơn nắng của Sài Gòn, bạn còn nhớ chứ?

“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng…”

Nhà thơ Vũ Uyên Giang cho bài thơ nhớ Sài Gòn xưa, Sài Gòn nhớ nắng, nhớ mưa:

“Nhớ quá Sài Gòn của thuở xưa
Ta từ Bưu Ðiện bước ngang qua
Nhà thờ Ðức Mẹ nằm im lặng
Con phố Hàn Thuyên nắng nhạt nhòa…
Nhớ đến Sài Gòn một thuở xưa
Buổi chiều nhạt nắng lại rơi mưa
Gọi thầm khe khẽ tên ai đó
Ðất khách trong lòng đang đổ mưa.”

Sài Gòn qua nỗi nhung nhớ của nhà văn Trần Mộng Tú:

“Âm thanh của những tiếng động hàng ngày, như tiếng chuông nhà thờ buổi sáng, tiếng xe rồ của một chiếc xích lô máy, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng chuông leng keng của người bán cà rem, tiếng gọi nhau ơi ới trong những con hẻm, tiếng mua bán xôn xao khi đi qua cửa chợ, vẻ im ắng thơ mộng của một con đường vắng sau cơn mưa… Làm lên một Sài Gòn bềnh bồng trong nỗi nhớ.

“Sài Gòn mỗi tháng, mỗi năm, dần dần đổi khác. Chúng tôi lớn lên, đi qua thời kỳ tiểu học, vào trung học thì chiến tranh bắt đầu thấp thoáng sau cánh cửa nhà trường. Ðã có những bạn trai thi rớt Tú Tài phải nhập ngũ. Những giọt nước mắt đã rơi xuống sân trường. Sau đó, với ngày biểu tình, với đêm giới nghiêm, với vòng kẽm gai, với hỏa châu vụt bay lên, vụt rơi xuống, tắt nhanh, như tương lai của cả một thế hệ lớn lên giữa chiến tranh.

“Sài Gòn như một người tình đầu đời, để cho ta bất cứ ở tuổi nào, bất cứ đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra như một vệt son còn chói đỏ. Sài Gòn như một mảnh trầm còn nguyên vẹn hương thơm, như một vết thương trên ngực chưa lành, đang chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống.”

Thi sĩ Phạm Sĩ Trung nhớ Sài Gòn:

“Sài Gòn ơi Sài Gòn
Những con đường thân quen
Hàng cây cao bóng mát
Tình yêu thật êm đềm
Sài Gòn ơi Sài Gòn
Nơi tôi đã lớn lên
Nhớ thương buồn vời vợi
Suốt đời chẳng sao quên”


VietHai
  Forum: TÙY BÚT · Post Preview: #164560 · Replies: 0 · Views: 8,258

PhuDung
Posted on: Nov 23 2020, 12:25 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Nhà tiên tri Mỹ Edgar Cayce và nhân quả luân hồi


Nhân quả luân hồi ngày nay không còn xa lạ đối với xã hội Tây phương nữa. Dù không phải Phật giáo hay Ấn giáo – hai tôn giáo của phương Đông nói về luân hồi từ mấy ngàn năm – người Âu Mỹ cũng tìm hiểu và tin chết không phải là hết vì họ đã được đọc nhiều tác phẩm đưa ra những trường hợp người lớn, trẻ con nhớ kiếp trước của mình. Những trường hợp này được kiểm chứng nghiêm túc theo phương pháp khoa học trước khi sách được xuất bản. Tiêu biểu là Dr. Ian Stevenson của đại học Virginia ở Charlottsville, Hoa Kỳ đã bỏ ra hơn 40 năm đi cùng khắp năm châu để kiểm chứng hiện tượng nhớ kiếp trước kiếp sau. Vào Google, gõ chữ Reincarnation, ta sẽ thấy không biết bao nhiêu sách viết về luân hồi. Chỉ năm nay thôi (2013) đã có mười bảy cuốn viết về hiện tượng nhớ kiếp trước.

Sách tôi mới được đọc là cuốn “Soul Survivor – The Reincarnation of a World War II Pilot” kể chuyện một bé trai ở Mỹ, khi mới biết nói, đã làm cha mẹ bực mình vì cứ nói đến cái chết của mình ở kiếp trước khi bé là một phi công trẻ tuổi. Bruce và Andrea Leininger, cha mẹ của James, là tín đồ Tin Lành và không tin luân hồi. Khi chưa đầy hai tuổi, ban đêm James hay la hét trong trong giấc ngủ, cứ lập đi lập lại câu, “Máy bay cháy! Máy bay cháy! Phi công không nhảy ra được.” và ban ngày thì vẽ đủ thứ máy bay thả bom, hàng không mẫu hạm. James còn biết rành rẻ tên của nhiều bộ phận trên chiếc máy bay chiến đấu. Cha mẹ lấy làm lạ và rất hoang mang. Khi lên 4 tuổi, thấy cha đang đọc cuốn “The Battle for Iwo Jima, 1945” của tác giả Derrick Wright, cậu bé xà tới, chỉ vào trang có hình chiếc máy bay đang bốc cháy và nói: “Máy bay của con đó, bị bắn. Cha bé hỏi :”Ai bắn?”, bé trả lời: “The Japanese!” Cậu bé còn nói thêm là chiếc máy bay cất cánh từ hàng không mẫu hạm Natoma. Cha hỏi James có biết ai trên chiếc tàu đó không thì cậu nói có quen Jack Larson. Cha cậu vội tìm kiếm hồ sơ của chiếc hàng không mẫu hạm Natoma và sững sờ thấy hình ảnh chiếc tàu đó tham chiến ở Thái Bình Dương năm 1945. Ngày 3, tháng 3, 1945, một máy bay tác chiến bị quân Nhật bắn trúng, phát cháy và rơi xuống biển. Phi công là trung úy James M. Huston, người độc nhất chết trận hôm ấy. James chỉ hình chiếc máy bay đang phát cháy trong cuốn sách của Derrick Wright và nói là máy bay của mình bị quân Nhật bắn rơi. Cha của cậu cũng tìm ra người phi công có tên là Jack Larson. Hiện ông này còn sống ở Arkansas. Ông cũng tìm được một người phi công nữa, cũng cất cánh từ chiếc Natoma tên là Ralph Clarbour. Ông này nói máy bay của ông bay bên cạnh chiếc máy bay bị bắn rơi của trung úy James M. Huston. Về sau họ còn tìm ra thân nhân của người phi công tử trận. Đến đây thì Bruce và Andrea Leininger không còn nghi ngờ gì nữa. Họ tin rằng con trai họ là hậu thân của James M. Huston Jr.

Không hiểu sao vẫn có độc giả cho rằng câu chuyện này không thật tuy chứng cớ đã rành rành như thế. Ben Cox, một mục sư Tin Lành từng nghiên cứu nhiều về hiện tượng nhớ kiếp trước kiếp sau để viết luận án, nói rằng tuy không tin hẵn là có luân hồi nhưng ông tin câu chuyện này có thật và kết luận rằng, “Dù niềm tin tôn giáo của mình là gì đi nữa thì cũng nên chấp nhận rằng sự hiểu biết của mình về đời sống này và về sự tiếp nối của đời sống rất hạn hẹp” (No matter what our religious faith is, there are more to life, and its continuance than we know).

Nhân quả luân hồi là định luật của vũ trụ, không phải do Ấn giáo hay Phật giáo đặt ra, nên dù tin hay không tin, tất cả chúng ta đều bị luân hồi nhân quả chi phối rất công bằng, nghĩa là kiếp lai sinh của một người xấu tốt tùy duyên nghiệp của người ấy định đoạt, không do một Đấng Sáng Tạo hay thần linh nào quyết định cả. Nghiệp lành nghiệp dữ là nhân và quả của hành động, lời nói, hay ý nghĩ của mình ở đời này và nhiều đời trước. Chỉ dấy lên một ý nghĩ xấu trong đầu cũng đã gây một nghiệp xấu. Cuốn Many Mansions – The Edgard Cayce Story on Reincarnation của tiến sĩ Gina Cerminara trình bày rõ ràng sự tiếp nối của đời sống, sự liên hệ nhân quả nhiều đời. Bà tin rằng nguyên nhân bệnh hoạn, nguyên nhân của sự bất hạnh của con người ở kiếp này là do những nghiệp xấu ác tích lũy từ nhiều kiếp trước mà người ta nói là bệnh nghiệp, nghiệp dĩ, vì bà đã phân tách và chiêm nghiệm hơn 2000 mãnh đời do nhà tiên tri/ngoại cảm Edgar Cayce để lại. Ông Edgar Cayce của thế kỷ 20 nổi tiếng là “The Miracle Man of Virginia Beach” vì ông, một người chỉ học xong lớp 8, khi thiếp đi đã có khả năng chẩn bịnh chính xác, cho toa thuốc chính xác chữa lành bệnh cho những ai đã tìm đến nhờ ông giúp đỡ. Khi tỉnh ra thì ông không biết mình đã nói gì, ông không biết một tí gì về y học! Thật là một hiện tượng kỳ lạ, mầu nhiệm, vượt trên sự hiểu biết của con người. Từ 1901, ông chỉ chẩn bệnh và chữa bệnh, nhưng 22 năm sau, tự dưng ông nói đến kiếp trước kiếp sau. Khi tỉnh dậy, ông rất lo sợ vì kinh thánh của tôn giáo ông không nói đến luân hồi. Nhưng, tuy không dạy luân hồi, Jesus có nói đến trường hợp John the Baptist là Elias tái sinh (xem kinh thánh Mathew 17:12-13), ông thấy yên tâm. Bệnh phát ra vì cơ thể vật lý (physical body) ở kiếp này có vấn đề được gọi là ‘physical reading’. Có người đến xin “soi căn” để biết kiếp trước mình đã làm gì mà kiếp sống hiện tại quá cơ cực, tinh thần lẫn vật chất. Trường hợp này được gọi là ‘life reading’, tạm dịch là soi căn. Hồ sơ của hơn 2000 vụ soi căn này được tàng giữ ở thư viện của hội Association for Research and Enlightenment ở Virginia Beach, tiểu bang Virginia. Những người đến soi căn thường được cho biết tên tuổi, việc làm của mình ở kiếp trước. Họ còn được chỉ dẫn phương pháp kiểm chứng như tìm tên ấy trong trong một cuốn sách cũ, trong sổ bộ đời, hay tên tuổi.

Tiến Sĩ Gina Germinara, một nhà tâm lý học cận đại, trong cuốn Many Mansions –The Edgard Cayce Story of Reincarnation – đã phân tích rõ ràng cho ta thấy nhân và quả theo nhau như bóng với hình. Một nhân lành dù nhỏ nhiệm đến đâu cũng sẽ đưa đến một nghiệp lành nhỏ nhiệm tương xứng. Bà nói đến nhiều loại nhân quả như Boomerang Karma. Boomerang là một dụng cụ bằng gỗ được đẻo thành hình thù như một thanh gươm ngắn hai đầu bằng nhau do thổ dân Úc sáng chế. Khi phóng ra mạnh theo một tư thế nhất định mà không trúng vật gì thì thanh gỗ đó sẽ dội lại quay về phía người phóng nó. Một hành động xấu ác nhằm vào người khác thì người phạm điều ác này cũng sẽ bị một quả báo tương tự ở đời sau, như trường hợp một phụ nữ 40 tuổi, từ nhỏ đã bị dị ứng với nhiều thức ăn. Chỉ ăn một tí bánh mì hay hạt ngũ cốc gì (cereal grains) là bắt đầu hách xì hơi dữ dội như người bị “hay fever” nặng [dị ứng với cây cỏ và phấn hoa]. Khi đụng những chất làm bằng da (giày da) hay plastic (cọng kính đeo mắt), bà thấy đau đớn ở phía trái như giây thần kinh bị chạm. Bà đã đi khám nhiều bác sĩ nhưng không có kết quả. Năm 25 tuổi, bà thử dùng thôi miên thì cơn đau có thuyên giảm, nhưng sáu năm sau thì những chứng đau nhức như thế trở lại. Khi nghe danh ông Cayce, bà đến xin một “physical reading” [định bệnh] hy vọng ông sẽ cho biết phương thuốc chữa trị. Nhưng khi ông Cayce thiếp đi thì ông nói rằng bệnh của bà là bệnh nghiệp (karmic origin), rằng một kiếp trong quá khứ bà là một nhà hóa học và đã dùng nhiều chất hóa học gây ngứa ngáy cho nhiều người. Bà còn dùng chất hóa học làm cho hơi thở của người khác phát ra chất độc. Kiếp này bà phải trả giá cho những nghiệp dữ đó. Toa thuốc của ông có thể chữa lành những bệnh thông thường, còn bệnh nghiệp thì khó chữa. Ông nói rằng thuốc thang, mổ xẻ, vật lý trị liệu v.v… có thể giúp cơ thể phục hồi sức khỏe nhưng nếu là bệnh nghiệp thì người bệnh, ngoài những phương tiện trên, phải tự mình tu tâm dưỡng tính để chuyển nghiệp mới mong khỏi bệnh được.

Một thứ nhân quả thứ hai mà bà gọi là Organismic Karma nói về người nào lạm dụng một bộ phận (organ) của cơ thể mình ở kiếp trước thì kiếp sau bộ phận đó sẽ không được lành mạnh, như trường hợp của một người đàn ông 35 tuổi. Từ nhỏ, bộ phận tiêu hóa của ông rất yếu. Ông đã phải kiêng ăn nhiều thứ, vậy mà, sau mỗi bữa ăn, phải cần nhiều giờ thức ăn mới tiêu hóa được. Cái tật ăn uống khó tiêu này làm cho ông nhiều lần bị bỉ mặt, khốn khổ trong vấn đề giao tế. Edgard Cayce nói lên rằng, ở một kiếp xa xưa, khi ông là cận vệ của vua Louis XIII ở Pháp, ông có thói xấu là ăn uống quá độ, tham ăn quá mức. Và gần đây, kiếp trước của kiếp này thôi, là ngự y của ông vua Ba Tư, ông cũng tham ăn lắm. Như vậy là qua hai tiền kiếp, ông không tự chủ được, đã phạm tội buông thả, tham lam thì nay cần phải kìm bớt lại, nên khi ra đời với một bộ phận tiêu hóa yếu, ông không thể ăn uống như một người bình thường được.

Loại nhân quả thứ ba được gọi là Symbolic Karma cũng thể hiện qua sự việc cơ thể bị trừng phạt (physical karma). Một thanh niên trẻ tuổi bị bệnh thiếu máu từ nhỏ (anemia). Cha cậu là bác sĩ đã tìm hết phương pháp chữa trị mà cũng không ăn thua gì. Người con vẫn bị thiếu máu trầm trọng. Khi soi căn cho thấy nguyên nhân của căn bệnh này ở một tiền kiếp xa xưa, cách kiếp này năm kiếp khi anh dùng thủ đoạn độc ác cướp chánh quyền ở xứ Peru làm đổ máu bao nhiêu người, nên bây giờ phải gánh chịu hậu quả là thân thể mình không đủ máu. Đây không phải trường hơp lạm dụng một bộ phận (Organismic Karma), cũng không phải hại một người khác (Boomerang Karma) mà là một trường hợp trừng phạt tượng trưng (Symbolic Karma), chỉ một bộ phận của cơ thể chịu sự trừng phạt. Có lẽ trong tiềm thức của ông (unconscious mind), ông vẫn cảm thấy tội lỗi, vẫn còn ký ức ghê rợn của những cuộc đổ máu . Những trường hợp soi căn của Cayce cho thấy tinh thần và thể xác tương tác ảnh hưởng nhau rất rõ ràng như khoa phân tâm học ngày nay đã chứng minh.

Dr. Cerminara đưa ra nhiều thí dụ về quả báo của tính khinh người, tính cười nhạo kẻ khác . Tiêu biểu là chuyện một người con gái kiếp này bước đi khập khiểng vì bị lao ở xương hông. Nguyên nhân xảy ra từ hai kiếp trước khi cô sống ở xã hội La Mã. Kiếp ấy cô sinh trưởng trong gia đình quý tộc, họ hàng của hoàng đế Nero. Cô lấy làm thích thú khi ngồi trên cao nhìn cảnh những người theo Đạo Chúa (Christians) bị những con thú xé xác ở đấu trường. Rõ rệt nhất là cô đã cười lớn khi thấy một cô gái bị móng vuốt của một con sư tử cào nát một bên hông.

Một trường hợp chế nhạo kẻ khác phải chịu nghiệp báo xảy ra cho một cô gái 18 tuổi. Cô có thể được xếp vào hạng người xinh đẹp như hoa khôi nếu cô không bị nặng cân quá. Bác sĩ nói tuyến yên (pituitary gland) của cô có vấn đề. Nhưng tuyến yên có vấn đề làm cô bị bệnh mập là vì cô đã từng chế nhạo những người mập trong quá khứ. Soi căn cho thấy hai kiếp trước đây, cô là một lực sĩ (athlete) vừa xinh đẹp vừa có thực tài nhưng cô hay châm biếm các cô đồng nghiệp không nhanh nhẹn, gọn gàng như cô vì thân hình họ quá tải.

Chuyện thứ ba về một người nam 21 tuổi theo đạo Ky-tô có khuynh hướng đồng tình luyến ái. Cha mẹ muốn cậu đi tu nhưng cậu không cảm thấy có ơn kêu gọi nên đã sống với bản năng đồng tình luyến ái của mình. Kết quả soi căn cho thấy, ở kiếp trước khi cậu sinh sống ở Pháp thời còn vua chúa, cậu đã mỉa mai châm biếm những người đồng tình luyến ái. Là một người có tài vẻ tranh hí họa (cartoonist), cậu dùng tài mọn của mình lật tẩy, cười nhạo những người đồng tình luyến ái của thời ấy. Đúng là ghét của nào trời trao của ấy.

Qua những câu chuyện soi căn, tác giả nhận xét rằng những gì xảy ra ở trên đời không phải ngẩu nhiên mà đều do nhân duyên trong đời trước. Nhân duyên xấu thì quả xấu. Nhân duyên tốt thì quả tốt, không sai chạy vào đâu được. Cũng vì nhân quả nghiệp báo khác nhau mà trong một tai nạn xe cộ, có người chết, người bị thương, và có người thì bình yên vô sự. Cũng vì nhân quả nghiệp báo khác nhau mà anh em cùng cha cùng mẹ, cùng huyết thống nhưng cá tính lại rất khác nhau, ngay cả anh em sinh đôi cũng không giống nhau. Người thì thông minh dĩnh ngộ, người thì u mê, chậm chạp. Một người sinh ra với một ngoại hình xinh đẹp là do người ấy đã tích lũy được nhiều nghiệp lành trong quá khứ. Thân thể chỉ là ngôi nhà cho linh hồn tạm trú ở một kiếp. Linh hồn hiện hữu trước khi đứa bé chào đời và vẫn hiện hữu sau khi ngôi nhà tạm trú bị hoại. Linh hồn sẽ tìm một ngôi nhà mới cho một kiếp mới. Lý nhân quả đã giải thích một cách rất hữu lý những sự bất công của xã hội. Thuyết luân hồi cho con người một mối hy vọng là kiếp sau sẽ khá hơn nếu kiếp này mình sống một cuộc sống lương thiện, không hại người hại vật. Tin nhân quả luân hồi, con người sẽ sống thánh thiện hơn, bình an hơn, hạnh phúc hơn vì tâm không tham luyến quá mức, không ganh ghét quá mức, không sân si quá mức.

Chương 14 nói về nhân quả và những mãnh đời cô đơn khá thú vị. Có người đặt câu hỏi tại sao nhiều người, cả nam lẫn nữ, suốt đời phải chịu cảnh cô đơn một mình, dù họ cũng có một cuộc sống bình thường, mặt mày cũng dễ coi, tại sao không gặp đối tượng để kết hôn. Phải chăng là do nhân quả, nghiệp báo? Những hồ sơ soi căn của Edgard Cayce có gặp những trường hợp này không?

Người Pháp có một câu nhận xét rất dí dỏm về định nghĩa hôn nhân như sau: “Hôn nhân được ví như một pháo đài đang bị bao vây: “Những người ở ngoài thì muốn vào trong, còn những người ở bên trong thì muốn thoát ra ngoài!” Nghe thì có vẻ khôi hài nhưng nghiệm lại thì cũng có phần đúng. Hôn nhân đã đem lại nhiều ưu phiền, khổ não cho nhiều người. Nhưng ngạc nhiên thay, số đông vẫn muốn kinh qua kinh nghiệm của hôn nhân. Thật vậy, tuy ai cũng biết đời sống vợ chồng thường gặp nhiều khó khăn phiền toái nhưng những người không lập gia đình lại có mặc cảm là mình bị thua thiệt, bị mất mát một thứ gì qúi báu, đã thất bại trong cuộc sống, cảm thấy cô đơn ray rứt. Trong một xã hội văn minh, thường thì người nữ hay lo lắng về vần đề hôn nhân hơn người nam. Ngoài sự việc sống một mình cô đơn, buồn nản, họ còn có cảm tưởng xã hội bớt lòng kính trọng họ.

Câu chuyện người phụ nữ cô đơn giữa thành phố Nữu Ước ồn ào sau đây cho thấy bà phải trả giá cho những việc làm của kiếp trước. Gốc người Na-uy, bà là một phụ nữ khá xinh đẹp với một phong cách đài các. Khi tìm đến xin soi căn lần đầu khi bà 47 tuổi thì đã có hai đời chồng. Sau khi kết hôn không bao lâu, người chồng thứ nhất qua đời. Bà tái giá với một người đàn ông lớn tuổi hơn và đời sống vợ chồng lần này chỉ mang lại khổ đau nên không bao lâu sau thì bà ly dị. Bà không có con. Người thân trong gia đình bà chết hết không còn ai. Quả thật ở trên thế gian này bà thật trơ trọi đơn độc. Với chức vụ một bí thư giao tế, bà thường xuyên gặp gỡ nhiều người, nhưng đó là những cuộc gặp gỡ xã giao hời hợt thôi. Bà rất muốn đi bước nữa nhưng không có cơ hội. Bà thật sự là bơ vơ giữa cuộc đời. Bà muốn hỏi tại sao mình cứ phải chịu cảnh một mình đơn chiếc, tại sao không gặp được người bạn đời tử tế, tại sao không giống ai (a misfit). Soi căn cho thấy hai kiếp trước bà đã phạm một tội nặng: tự kết liễu đời mình, nên đời nay phải chịu cảnh đơn độc không chồng, không con. Ở kiếp ấy bà có chồng, có hai con. Không hiểu vì nguyên nhân gì, chồng bà bỗng dưng bị cộng đồng khinh khi. Sau khi sinh đứa con thứ hai, bà không chịu được cảnh bị khi dễ nên nhảy xuống hồ tự tử. Hành động tìm cái chết của bà chứng tỏ bà là một người ích kỷ, đã cướp đi sự yêu thương săn sóc đối với chồng và con. Bà không tôn quý mái ấm gia đình, chỉ nghĩ đến mình, không làm tròn trách nhiệm với con, không nhẫn nhục bên cạnh chồng.

Câu chuyện thứ hai cũng nói về một phụ nữ muốn trốn nợ đời nên đã gặp quả báo. Mồ côi cha mẹ rất sớm, cô được hai người cô già săn sóc. Lớn lên với hai người già, cô thấy khó hòa hợp với những người đồng tuổi. Cô trở nên người hướng nội, khép kín (introvert), sống đơn độc xa những người đồng trang lứa. Tuy có nghề dạy trẻ (mẫu giáo), cô luôn ước ao có một gia đình riêng nhưng không gặp đối tượng thích hợp. Cô cũng có qua lại thân mật với một người tình, nhưng không hợp tính nên đành phải chấm dứt. Sau đó, cô thấy đời mình quá trống rỗng, quá vô duyên. Cô để hết tâm trí vào công việc nhưng lâu lâu lại bị trầm cảm, có lúc kéo dài vài tuần rồi sau đó mới nguôi ngoai. Những lúc buồn bả chán nản, cô đã có ý nghĩ muốn tìm cái chết. Người ngoài không ai có thể tin nổi cô giáo dạy trẻ này nhiều lúc đã muốn tự tử, vì bề ngoài cô là một phụ nữ xinh đẹp, yêu nghề, nhiệt tình. Kết quả soi căn cho thấy bốn kiếp về trước, cô là con một tù trưởng ở Ba Tư. Khi bộ lạc Bedouin đến cướp phá, cô là một trong mấy người bị ông tù trưởng Bedouin bắt làm con tin. Sau đó ông này giao cô cho ông phó của mình. Rồi cô có con với người này. Nhưng sau khi hạ sinh một bé gái, cô tự tử chết vì uất ức không chịu được sự nhục nhã bị cưỡng ép. Cô là một cô gái kiêu ngạo, cứng đầu với một cái “tôi” rất lớn, thà chết chứ không chịu nhục mà quên đứa con sơ sinh của mình bị bỏ lại không người săn sóc cưu mang. Con người cô, trong kiếp hiện tại, tính khí vẫn mạnh mẽ, độc lập, tự chủ, tự cường như đàn ông, những nét đặc thù của kiếp trước làm cho người phái nam không muốn gần. Và lạ thay, ở kiếp này cô lại muốn có con. Nếu không vì hai người cô già khó tánh, cô đã xin một bé gái về nuôi từ lâu rồi. Và cũng như ở kiếp trước, cô thường nghĩ đến quyên sinh mong chấm dứt cuộc đời cô quạnh, buồn tẻ hiện tại. Nhưng từ khi soi căn thì cô không còn giữ ý tưởng tự tử nữa, vì thấy rằng nghiệp thì phải trả, không trả bây giờ thì mai sau cũng phải trả thôi. Cô còn được biết rằng nếu từ nay về sau cô biết nghĩ đến người khác, tìm cách giúp đỡ những người chung quanh thì sẽ có một ngày cô gặp hạnh phúc lứa đôi, nhưng muộn. Cô cần một thời gian thử thách để chuyển nghiệp.

Nhân quả nghiệp báo giải thích được mọi hiện tượng trên cõi đời này, giải thích được tại sao có người được sinh ra trong một xã hội văn minh với những tiện nghi vật chất đầy đủ, có người lại sinh ra ở một xứ nghèo nàn thiếu thốn đủ điều. Hôn nhân cũng không thoát khỏi được sự vận hành của nhân quả nghiệp báo. Cayce nhấn mạnh rằng hai người trở nên vợ chồng ở kiếp này là để trả nợ nhân quả cho nhau. Không khi nào hai người mới gặp nhau lần đầu mà thành phu phụ cả. Họ đã gặp nhau trong nhiều đời, nhiều kiếp, khi thì cha/mẹ con, khi thì vợ chồng, anh em, hay bạn bè, mà cũng có thể là người thù oán nữa. Thật đúng là không oan nghiệt thì bất thành phu phụ. Ông cũng nói rằng hiện tượng không trung thành của vợ/chồng, hiện tượng đồng tình luyến ái, ly dị, tái hôn v.v… đều có căn duyên từ một hay nhiều đời trước.

Vừa rồi, một nữ xướng ngôn viên của một đài truyền hình khẳng định rằng ông già Noel và Chúa Jesus là người da trắng như để đáp lại lời tuyên bố của một phụ nữ da đen cho rằng ông già Noel và Chúa Jesus không phải người da trắng. Rất kinh ngạc là ngay sau đó không biết bao nhiêu người đồng loạt lên tiếng mạ lị cô xướng ngôn viên là kỳ thị chủng tộc! Và không biết rồi cuộc tranh cải này sẽ đi về đâu. Phải chi mọi người hiểu và nhận nhân quả luân hồi là định luật của vũ trụ thì không còn có những tranh cãi vô bổ như thế này. Vì mọi người trên thế gian này đã luân hồi nhiều lần, đã từng sinh sống ở nhiều nơi trên quả địa cầu. Một người có thể sinh ra ở Mông Cổ kiếp này, nhưng kiếp trước thì sinh ra ở Châu Phi, kiếp trước nữa thì ở Châu Âu, Châu Á v.v… Khi thì làm người nam, khi thì người nữ, khi thì sống trong nhung lụa, có khi sống trong cảnh bần hàn tùy duyên nghiệp trong những kiếp quá khứ của mình, như những câu chuyện luân hồi của Bác Sĩ Brian Wise trong cuốn Many Lives Many Masters, Only Love is Real hay những chuyện tái sinh của bà Carol Bowman, Edgar Cayce, Hans Ten Dam, Brad Steiger, Tom Shroder, Michael Newton, Sylvia Cranston và nhiều tác giả nữa mà tôi chưa được đọc. Chỉ trong cuốn Many Mansions – The Edgard Cayce Story on Reincarnation, tác giả cũng đã đưa ra số phận của hằng trăm mãnh đời được chiêm nghiệm qua nhiều kiếp và đã chịu sự vận hành của nhân quả nghiệp báo. Muốn biết thêm, xin mời đọc cuốn sách rất hấp dẫn của Dr. Gina Cerminara. Vào Google hay Amazon.com sẽ thấy nhiều sách về nhân quả luân hồi.

Hoàng Thị Quỳnh Hoa
  Forum: THẾ GIỚI HUYỀN BÍ - TỬ VI TƯỚNG MỆNH · Post Preview: #164562 · Replies: 0 · Views: 8,124

PhuDung
Posted on: Nov 23 2020, 11:47 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



100 câu thơ về Lịch Sử Việt Nam


Học sinh Việt Nam Cộng Hòa thời tiểu học đã được dạy lịch sử.
100 câu thơ về lịch sử Việt Nam mà chỉ có học sinh thời Việt Nam Cộng Hòa được học!!!

1. Vua nào mặt sắt đen sì?
2. Vua nào trong buổi hàn vi ở chùa?
3. Tướng nào bẻ gậy phò vua?
4. Tướng nào dùng bút đánh lừa Vương Thông?
5. Ngựa ai phun lửa đầy đồng?
6. Voi ai nhỏ lệ ở giòng Hóa Giang?
7. Kiếm ai trả lại rùa vàng?
8. Súng ai rền ở Vũ Quang thủa nào?
9. Còn ai đổi mặc hoàng bào?
10. Nữ lưu sánh với anh hào những ai?
11. Nhà thơ lên đoạn đầu đài?
12. Tướng Tàu chui ống chạy dài Bắc phương?
13. Tướng Nam chẳng thiết phong vương?
14. Rắc lông ngỗng, thiếp nghe chàng hại cha?
15. Anh hùng đại thắng Đống Đa?
16. Đông du khởi xướng bôn ba những ngày?
17. Lũy Thầy ai đắp, ai xây?
18. Hồng-Sơn Liệp-Hộ, triều Tây ẩn mình?
19. Vua Bà lừng lẫy uy danh?
20. Ấu nhi tập trận, cỏ tranh làm cờ?
21. Vua nào nguyên-súy hội thơ?
22. Hùng-Vương quốc-tổ đền thờ ở đâu?
23. Đại vương bẻ gẫy sừng trâu?
24. Rừng Lam khởi nghĩa áo nâu anh hùng?
25. Hại dân bán nước tên Cung?
26. Đục chìm thuyền địch dưới sông Bạch-Đằng?
27. Lý triều nổi tiếng cao tăng?
28. Bình-Ngô ai soạn bản văn lưu truyền?
29. Mười ba liệt sĩ thành Yên?
30. Bỏ quan treo ấn tu tiên thủa nào?
31. Ai sinh trăm trứng đồng bào?
32. Bình-Khôi chức hiệu được trao cho người?
33. Tây-Sơn có nữ tướng tài?
34. Cần-vương chống Pháp bị đầy xứ xa?
35. Tổ ngành hát bội nước ta?
36.. Khúc ngâm Chinh-Phụ ai là tác nhân?
37. Vua nào sát hại công thần?
38. Nhà văn viết truyện Tố-Tâm trữ tình?
39. Thái-Nguyên chống Pháp dấy binh?
40. Hà-Ninh tổng đốc vị thành vong thân?
41. Vua nào mở nghiệp nhà Trần?
42. Nêu gương hiếu tử diễn âm lưu truyền?
43. Công lao văn học Nguyễn-Thuyên?
44. Lừng danh duyên hải Dinh-Điền là ai?
45. Nhà thơ sông Vị, biệt tài?
46. Vua nào chống Pháp bị đầy đảo xa?
47. Ngày nào kỷ niệm Đống Đa?
48. Biên thùy tiễn biệt lời cha dặn dò?
49. Mê-Linh xây dựng cơ đồ?
50. Bến Hàm-Tử bắt quân thù xâm lăng?
51. Húy danh Hoàng-Đế Gia-Long?
52. Tướng nào hương khói Lăng-Ông thủa giờ?
53. Rồng thiêng kết nghĩa Âu-Cơ?
54.. Thánh Trần nay có bàn thờ ở đâu?
55. Đời nào có chức Lạc-Hầu?
56. Tướng Châu-Văn-Tiếp, ở đâu bỏ mình?
57. Danh nho thường gọi Trạng Trình?
58. Cha con cùng quyết hy sinh với thành?
59. Đầm Dạ-Trạch nức uy danh?
60. Sớ dâng chém nịnh không thành, từ quan?
61. Công thần vì rắn thác oan?
62. Ai mời bô lão dự bàn chiến chinh?
63. Vua nào dòng dõi Đế-Minh?
64.. Vĩnh-Long thất thủ, liều mình tiết trung?
65. Ngày nào trẩy hội Đền Hùng?
66. Ngày nào sông Hát, nhị Trưng trẫm mình?
67. Núi nào ngự trị Sơn-Tinh?
68. Sông nào ghép lại bút danh thi hào?
69. Gốc nguồn hai chữ đồng bào?
70. Bôn ba tổ chức phong trào Đông du?
71. Hùm Thiêng trấn đóng chiến khu?
72. Vua nào thành lập Hội Thơ Tao-Đàn?
73. Dẹp Thanh giữ vững giang san?
74. Thiết triều nằm lả khiến tàn nghiệp Lê?
75. Hóa-Giang giữ trọn lời thề?
76. Mười năm kháng chiến chẳng nề gian lao?
77. Móng rùa thần tặng vua nào?
78. Bình Chiêm, Dẹp Tống, Lý trào nổi danh?
79. Dâng vua sách lược “Trị-Bình”?
80. Trạng nguyên tướng xấu ví mình hoa sen?
81. Người Tàu dựng đất Hà-Tiên?
82. Họ Lương chống Pháp, Thái-Nguyên bỏ mình?
83. Quy-Nhơn thất thủ, quyên sinh?
84. Lê Triều sử ký soạn thành họ Ngô?
85. Công thần mà bị quật mồ?
86. “Vân-Tiên” tác giả lòa mù là ai?
87. Đại-Từ nổi tiếng tú tài?
88. Đem nghề in sách miệt mài dạy dân?
89. Dâng vua cải cách điều trần?
90. Sánh duyên công chúa Ngọc-Hân, vua nào?
91. Thi nhân nổi loạn họ Cao?
92. Xây thành đắp lũy, họ Đào là ai?
93. Họ Phan lãnh ấn khâm sai?
94. Phòng khuya vọng tiếng thuyền chài tương tư?
95. Đông y lừng tiếng danh sư?
96. Lời thề diệt địch trên bờ Hóa-Giang?
97. Vân-Đồn ai thắng danh vang?
98. Am mây ẩn dật chẳng màng lợi danh?
99. Mùa xuân nào phá quân Thanh?
100. Bao giờ trở lại thanh bình Việt Nam?
100 Câu Đố Lịch sử
(của Đào Hữu Dương)

CÂU TRẢ LỜI LÀ :

1- Mai Hắc Đế, mặt sắt đen sì
2- Lý Thái Tổ thuở hàn vi ở chùa
3- Hưng Đạo bẻ gậy phò vua
4- Nguyễn Trãi dùng bút, đánh lừa Vương Thông
5- Ngựa Thánh Gióng phun lửa đầy đồng
6- Voi Hưng Đạo khóc giữa dòng Hóa Giang!
7- Kiếm Lê Lợi trả rùa vàng
8- Súng Cao Thắng nổ Vũ Quang thuở nào.
9- Lê Lai cứu chúa đổi bào
10- Hai Bà Trưng sánh anh hào ra oai!
11- Cao Bá Quát lên đoạn đầu đài
12- Thoát Hoan chui ống chạy dài bắc phương.
13- Trần Bình Trọng khinh Bắc Vương
14- Mỵ Châu, lông ngỗng rắc đường hại cha!
15- Quang Trung đại thắng Đống Đa
16- Cụ Phan sang Nhật bôn ba tháng ngày! (Phan Bội Châu lập phong trào Đông Du)
17- Đào Duy Từ đắp Lũy Thầy
18- Nguyễn Du xử thế, triều Tây ẩn mình!
19- Bà Triệu lừng lẫy uy danh
20- Đinh Bộ Lĩnh lấy cỏ tranh làm cờ
21- Thánh Tông nguyên súy Hội thơ
22- Lâm Thao Nghĩa Lĩnh đền thờ Hùng Vương
23- Sừng trâu bẻ gẫy: Phùng Hưng
24- Lê Lợi khởi nghĩa, anh hùng Lam Sơn
25- Họ Hồ phản bội cha ông
26- Yết Kiêu, Dã Tượng, thần sông Bạch Đằng!
27- Vạn Hạnh, triều Lý cao tăng
28- “Bình Ngô”… Nguyễn Trãi hùng văn lưu truyền
29- Quốc Dân Đảng, (mười ba) Liệt Sĩ thành Yên
30- Từ Thức treo ấn tu tiên (động) Bích Đào.
31- Âu Cơ (sinh) trăm trứng đồng bào
32- Bình Khôi, Trưng Nhị được trao chúc này
33- Bùi Thị Xuân, nữ tướng tài
34- Hàm Nghi chống Pháp, bị đày xứ xa.
35- Đào Tấn, tổ hát bội nước ta
36- Đặng Trần Côn với khúc ca Chinh Phụ sầu…
37- Gia Long giết hại công hầu
38- Tố Tâm Ngọc Phách xiết bao trữ tình! (Hoàng Ngọc Phách tác giả tiểu thuyết Tố Tâm)
39- Đội Cấn chống Pháp, dấy binh
40- Hoàng Diệu tổng đốc, vị thành vong thân
41- Trần Cảnh mở nghiệp nhà Trần (Trần Cảnh tức Trần Thái Tông)
42- Chuyện Hiếu Văn Phức, diễn âm lưu truyền (Lý Văn Phức, tác giả Nhị Thập Tứ Hiếu
diễn ca)
43- Chữ Nôm khai sáng, Nguyễn Thuyên
44- Công Trứ dựng nghiệp dinh điền chẳng sai!
45- Tú Xương thơ phú biệt tài
46- Duy Tân chống Phàp, bị đày đảo xa
47- Mùng Năm Tết, giỗ Đống Đa
48- Nam Quan, Nguyễn Trãi nghe cha dặn dò
49- Trưng Vương xây dựng cơ đồ
50- Quang Khải: Hàm Tử “cầm Hồ” hiên ngang (Trần Quan Khải: Đoạt sáo Chương Dương
độ. cầm Hồ Hàm Tử quan
51- Nguyễn Ánh tên huý Gia Long
52- Tướng Lê Văn Duyệt, Lăng Ông phụng thờ
53- Lạc Long kết nghĩa Âu Cơ
54- Thánh Trần, Vạn Kiếp ngai thờ tử lâu
55- Đời Hùng: Lạc Tướng , Lạc Hầu
56- Long Hồ thủy chiến, tướng Châu bỏ mình (Châu Văn Tiếp)
57- Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức Trạng Trình
58- Tri Phương, phò mã hy sinh thủ thường (Nguyễn Tri Phương và phò mã Nguyễn Lâm)
59- Triệu Quang Phục, Dạ Trạch Vương
60- Chu thần thảo sớ chém phường nịnh gian (Chu thần tức Chu Văn An)
61- Nguyễn Trãi vì rắn thác oan
62- Nhân Tông triệu tập Diên Hồng đánh Nguyên (Trần Nhân Tông)
63- Lộc Tục dòng dõi Đế Minh (Lộc Tộc tức Kinh Dương Vương)
64- Mất thành, Thanh Giản quyên sinh cùng đường! (Cụ Phan Thanh Giản để mất thành
Vĩnh Long)
65- Mười tháng ba, Giỗ Hùng Vương
66- Tháng hai mồng sáu Nhị Trưng trầm mình
67- Tản Viên ngự trị Sơn Tinh (Tản Viên thuộc dẫy núi Ba Vì ở Hà Tây).
68- Sông Đà núi Tản bút danh thi hào
69- Trăm con một bọc : Đồng Bào
70- Phan Bội Châu khởi phong trào Đông Du
71- Hoàng Hoa Thám lập chiến khu
72- Lê Thánh Tông mở Hội Thơ Tao Đàn
73- Quang Bình giữ nước đuổi Thanh (Nguyễn Quang Bình tức Nguyễn Huệ)
74- Ngọa triều Long Đĩnh khiến tàn Tiền Lê.
75- Hoá Giang Hưng Đạo hẹn thề
76- Mười năm Lê Lợi một bề đuổi Minh
77- Thục Phán được móng rùa thiêng (Thục Phán An Dương Vương)
78- Thường Kiệt đánh Tống bình Chiêm lẫy lừng (Lý Thường Kiệt tức Ngô Tuấn)
79- Lương Đắc Bằng dâng sách “Trị Bình”
80- Đĩnh Chi tướng xấu, ví mình hoa sen (Mạc Đĩnh Chi)
81- Mạc Cửu dựng đất Hà Tiên
82- Ngọc Quyến chống Pháp, Thái Nguyên bỏ mình (Lương Ngọc Quyến)
83- Quy Nhơn, Võ Tánh hy sinh
84- Đại Việt Sử Ký, công trình họ Ngô (Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đời Lê)
85- Lê Văn Duyệt bị san mồ
86- Đồ Chiểu tác giả lòa mù “Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu)
87- Đại Từ nổi tiếng Hải Thần (Nguyễn Hải Thần,hoạt
động cách mạng chống Pháp)
88- Nhữ Học in sách, ân cần dạy dân. (Lương Nhữ Học)
89- Trường Tộ, cải cách điều trần. (Nguyễn Trường Tộ, thời vua Tự Đức)
90- Vua Quang Trung sánh Ngọc Hân chung tình
91- Cao Bá Quát chống Triều Đình
92- Duy Từ đắp lũy, đào kinh bậc thầy (Đào Duy Từ)
93- Phan Kế Toại lãnh ấn Khâm Sai
94- Trương Chi tiếng hát đọa đầy Mị Nương
95- Hải Thượng y thuật danh nhân
96- Lời thề sông Hóa thánh Trần diệt Mông (Trần Hưng Đạo)
97- Khánh Dư nổi tiếng Vân Đồn (Trần Khánh Dư)
98- Trạng Trình ẩn dât chẳng còn lợi danh
99- Mùa Xuân Kỷ Dậu đuổi Thanh
100- Dân quyền, dân chủ an lành Việt Nam.

Đào Hữu Dương
  Forum: TRAU DỒI TÌM HIỂU TIẾNG VIỆT - CA DAO - TỤC NGỮ · Post Preview: #164558 · Replies: 0 · Views: 8,325

PhuDung
Posted on: Nov 23 2020, 11:47 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Bản đối chiếu chữ Việt Cộng & chữ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa


A

Ấn tượng = Đáng ghi nhớ, đáng nhớ

B

Bắc bộ / Trung bộ / Nam bộ = Bắc phần / Trung phần / Nam phần
Bác sỹ / Ca sỹ = Bác sĩ / Ca sĩ
Bài nói = Diễn văn
Bang = Tiểu bang (State)
Báo cáo = Phúc trình, tường thuật, nói, kể
Bảo hiểm (mũ) = An toàn (mũ)
Bảo quản = Che chở, giữ gìn, bảo vệ, bảo trì
Bảo tàng = Viện bảo tàng
Bèo = Rẻ (tiền)
Biên chế = Chính ngạchngạch
Biểu diễn = Trình diễn
Bình ổn = Quân bình, ổn định
Bình quân = Trung bình
Bo mạch = Mạch điện chính trong computer (motherboard)
Bổ sung = Thêm, bổ túc
Bồi dưỡng = Nghỉ ngơi, tẩm bổ, săn sóc, chăm nom, ăn uống đầy đủ
Bóng đá = Đá Banh, Túc cầu
Bức xúc = Dồn nén, bực tức, trăn trở, khó chịu

C

Cá cược = Đánh cá
Cách ly = Cô lập
Cái A-lô = Cái điện thọai (telephone receiver)
Cái đài = Radio, máy phát thanh
Căn hộ = Căn nhà
Căng (lắm) = Căng thẳng (intense)
Cảnh báo = Báo động, phải chú ý, lưu ý
Cầu lông = Vũ cầu
Chảnh = Kiêu ngạo, làm tàng
Chất lượng = Phẩm chất tốt (chỉ đề cập phẩm “quality,” không đề cập lượng “quantity”)
Chất xám = Trí tuệ, sự thông minh
Chế độ = Quy chế
Chỉ đạo = Chỉ thị, ra lệnh, điều khiển
Chiêu đãi = Thiết đãi
Chủ đạo = Chính
Chủ nhiệm = Trưởng ban, Khoa trưởng
Chủ trì = Chủ tọa
Chữa cháy = Cứu hỏa
Chức năng = Khả năng, nhiệm vụ
Chuẩn mực = Tiêu chuẩn, Mẫu mực
Chui = Lén lút
Chứng minh nhân dân = Thẻ Căn cuớc
Chùm ảnh = Một số hình ảnh
Chuyên chở = Nói lên, nêu ra (ý nghĩa của câu nói, bài viết, …)
Chuyển ngữ = Dịch (cũng có thể dùng chuyển ngữ)
Cò = Môi giới, Dắt mối
Cơ bản = Căn bản
Cơ bắp = Bắp thịt (Biểu diễn cơ bắp = Khoe bắp thịt)
Co cụm = Thu hẹp
Cơ khí (tĩnh từ!) = Cầu kỳ, phức tạp
Cơ sở = Căn bản, nguồn gốc
Cơ trưởng / Cơ phó = Phi công chính (trưởng) / Phi công phụ (phó)
Công đoàn = Nghiệp đoàn
Công nghiệp = Kỹ nghệ
Công trình = Công tác
Cửa khẩu = Phi cảng, Hải cảng
Cự ly = Khoảng cách, Chiều dài
Cụm từ = Nhóm chữ
Cửa khẩu = Phi cảng, Hải cảng
Cứu hộ = Cứu cấp

D

Diện = Thành phần
Diễu binh / Diễu hành = Diễn binh / Diễn hành (có nghĩa trình diễn, phô trương)
Dự kiến = Phỏng định, dự đoán
Dũng cảm = Mạnh mẽ

Đ

Đại táo / Tiểu táo = Nấu ăn chung, ăn tập thể / Nấu ăn riêng, ăn gia đình
Đại trà = Quy mô, cỡ lớn
Đảm bảo = Bảo đảm
Đẳng cấp = Giai cấp
Đăng ký = Ghi danh, ghi tên
Đào tị = Tị nạn
Đáp án = Câu trả lời, Đáp số, Kết quả, trả lời
Đầu ra/ Đầu vào = xuất kho/nhập kho; Kết quả, sản lượng / Vốn đầu tư
Đề án = Dự án
Đề xuất = Đề nghị
Đi làm suốt = Đi làm suốt ngày, suốt buổi …
Điện cho ai = Gọi điện thoại cho ai, điện thoại cho ai
Đội ngũ = Hàng ngũ
Đội tàu = Hạm đội (Hạm Đội số 7 = Đệ Thất Hạm Đội)
Đồng bào dân tộc = Đồng bào sắc tộc, Đồng bào thiểu số
Động não = Vận dụng trí óc, suy luận, suy nghĩ
Động thái = Động lực, Thái độ và hành động
Động viên = Khuyến khích
Đột xuất = Bất ngờ
Đường băng = Phi đạo
Đường cao tốc = Xa lộ

G

Gia công = Làm ăn công
Giá hữu nghị = Giá tượng trưng
Giá mềm = Giá rẻ
Giải phóng mặt bằng = Ủi cho đất bằng / khai quang / dọn dẹp cho trống (không bừa bãi)
Giải phóng = Lấy lại, đem đi, thoát ra, cứu thoát… (riêng chữ này bị VC lạm dụng rất nhiều)
Giảm tốc = Giảm tốc độ
Giản đơn = Đơn giản
Giao dịch (cs dùng từa tựa như trả giá) = Thương thảo (négocier)
Giao lưu = Giao thiệp, trao đổi
Giáo trình = Chương trình giảng dạy
Gói = (package) Ngân khoản, số tiền

H

Hạch toán = Kế toán
Hải quan = Quan Thuế
Hâm, Tửng = Khùng, mát giây
Hàng không dân dụng = Hàng không dân sự
Hát đôi = Song ca
Hát tốp = Hợp ca
Hạt nhân (vũ khí) = Nguyên tử
Hậu cần = Tiếp liệu
Hệ quả = Hậu quả
Hiện đại = Tối tân
Hiển thị = Xem, Thấy, Hiện ra
Hộ = Nhà, Gia đình
Hộ chiếu = Sổ Thông hành
Hộ khẩu = Tờ khai gia đình
Hộ lý = Dâm nô
Hồ hởi = Phấn khởi
Hoành tráng = Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ
Học vị = Bằng cấp
Hội chữ thập đỏ = Hội Hồng Thập Tự
Hưng phấn = Kích động, vui sướng
Hữu hảo = Tốt đẹp
Hữu nghị = Thân hữu
Huyện = Quận

K

Kênh = Băng tần (Channel), Đài (truyền hình / phát thanh = TV / Radio)
Khả năng (có) = Có thể xẩy ra (possible)
Khắc phục = Tìm cách giải quyết
Khẩn trương = Gấp rút, Khẩn cấp, nhanh lên
Khẩu trang = Miếng vải che mặt (bác sĩ, y tá trong nhà thương hoặc tránh hít bụi, khói…)
Khâu = Bộ phận, nhóm, ngành, ban, khoa
Khủng = Rất lớn (không đứng riêng một mình: Khủng khiếp, kinh khủng, khủng hoảng…)
Kích hoạt = Khởi đầu, Mở đầu, Mở màn
Kiệt suất = Giỏi, xuất sắc
Kiều hối = Ngoại tệ
Kinh điển = Hay, Có thể dùng làm thí dụ (Trận đấu kinh điển = Trận đấu hay)
Kinh qua = Trải qua

L

Làm gái = Làm điếm
Làm việc = Thẩm vấn, điều tra
Lầu năm góc / Nhà trắng = Ngũ Giác Đài / Tòa Bạch Ốc
Lên lớp (Anh lên lớp tôi) = Dạy đời, Sửa lưng
Lễ tân = Nghi lễ (Ban lễ tân = Ban nghi lễ, đón tiếp)
Liên hệ = Liên lạc (contact), Nói chuyện với
Liên Hợp Quốc = Liên Hiệp Quốc
Liên hoan = Đại hội, ăn mừng
Lính gái = Nữ quân nhân
Lính thủy đánh bộ = Thủy quân lục chiến
Linh tinh = Vớ vẩn
Lợi nhuận = Lợi tức
Lược tóm = Tóm lược
Lý giải = Giải thích (explain)

M

Máy bay lên thẳng = Trực thăng
Mĩ – Mỹ = (Hoa kỳ = USA)
Minh họa = Tượng trưng (illustrated)
Múa đôi = Khiêu vũ

N

Nắm bắt = Nắm vững
Nâng cấp = Nâng, hoặc đưa giá trị lên, làm tăng phẩm chất, tân trang
Năng nổ = Siêng năng, tháo vát
Nghệ danh = Tên (nghệ sĩ = stage name) dùng ngoài tên thật
Nghệ nhân = Thợ, nghệ sĩ
Nghĩa vụ quân sự = Đi quân dịch (cũng có thể dùng Nghĩa vụ quân sự)
Nghiêm túc = Nghiêm chỉnh
Nghiệp dư = Đi làm thêm (2nd job / nghề phụ, nghề tay trái)
Ngoại hình = Bề ngoài, Dáng người, Hình dung
Nhà giàn = Giàn khoan (dầu khí)
Nhà khách = Khách sạn
Nhân thân = Thân nhân
Nhất quán = Luôn luôn, trước sau như một
Nhất trí = Đồng lòng, đồng ý
Nỗi niềm (tĩnh từ!) = Vẻ suy tư
Nội thất = Trong nhà
Nội y = Quần áo lót (mặc bên trong)

P

Phản ánh = Phản ảnh
Phản biện = Phản đối
Phản cảm = Gây khó chịu
Phần cứng = Cương liệu (hardware)
Phản hồi = Trả lời, hồi âm
Phần mềm = Nhu liệu (software)
Phát sóng = Phát thanh
Phi khẩu = Phi trường, phi cảng
Phí = Giá (không đứng riêng: Lệ phí, Phí tổn, Chi phí)
Phiên bản = Bản (Phiên bản tiếng Việt = Bản tiếng Việt)
Phó Tiến Sĩ = Cao Học
Phục hồi nhân phẩm = Hoàn lương
Phương án = Kế hoạch
Phượt = Đi chơi, Đi Du lịch

Q

Quá đát = Quá cũ, Quá hạn, Phế thải
Quá tải = Quá sức, quá mức
Quan chức = Nhân viên (có thẩm quyền / quyền hạn)
Quân hàm = Cấp bực
Quản lý = Quản trị, kiểm soát, điều hành, điều khiển, sở hữu
Quan tâm = Lo lắng
Quán triệt = Hiểu rõ
Quảng bá = Quảng cáo hay Truyền bá
Quảng trường = Công trường
Quy hoạch = Kế hoạch
Quy trình = Tiến trình

S

Sân bay = Phi trường (tàu sân bay = hàng không mẫu hạm)
Sơ tán = Tản cư
Sốc (“shocked)” = Kinh hoàng, kinh ngạc, ngạc nhiên
Sự cố = Trở ngại
Sư = Sư đoàn
Sức khỏe công dân = Y tế công cộng

T

Tài chủ nước lạ = Tàu cộng xâm lăng
Tạo dáng = Làm dáng, Làm điệu
Tập đòan / Doanh nghiệp = Công ty, Tổ hợp
Tàu vũ trụ = Phi thuyền
Tên lửa = Hỏa tiễn
Tham gia lưu thông (xe cộ) = Lưu hành
Tham quan = Thăm viếng
Thân thương = Thân mến
Thanh lý = Thanh toán, chứng minh
Thi công = Làm
Thị phần = Thị trường
Thiết bị = Trang bị
Thư giãn = Tỉnh táo, giải trí, nghỉ ngơi (bớt căng thẳng)
Thu nhập = Lợi tức
Thuyết phục (tính) = Có lý (makes sense), hợp lý, tin được
Tiến công = Tấn công
Tiến độ = Tiến trình
Tiến sĩ hữu nghị = Tiến sĩ giấy – tiến sĩ dởm
Tiên tiến = Xuất sắc
Tiếp cận = Gần gũi, Giao tiếp
Tiếp thu = Tiếp nhận, thâu nhận, lãnh hội
Tiêu dùng = Tiêu thụ
Tố chất = Tư chất (cuả một người)
Tổ lái = Phi hành đòan
Tờ rơi = Truyền đơn
Tranh thủ = Cố gắng
Trí tuệ = Kiến thức
Triển khai = Khai triển (điều quân – dùng trong quân đội)
Truy cập = Vào xem (vào xem trang báo điện tử)
Tư duy = Suy nghĩ
Tư liệu = Tài liệu
Tư vấn = Cố vấn (conseiller)
Từ = Tiếng, chữ
Tuyến đường = Con đường
Tuyển = Đội tuyển (khi nói về một đội thể thao)

U

Ùn tắc = Tắt nghẽn

V

Vận động viên = Lực sĩ
Vận hành = Điều hành
Vấn nạn = Vấn đề
Viện Ung Bướu = Viện Ung Thư
Vô tư = Tự nhiên
Vống (nói) = Nói quanh co, lòng vòng

X

Xác tín = Chính xác
Xe con = Xe du lịch
Xe khách = Xe đò
Xe tải = Xe vận tải, chở hàng
Xử lý = Giải quyết, thi hành
Xuất khẩu / Nhập khẩu: Xuất cảng / Nhập cảng



Mời Quý Vị Tham Gia Và Bổ Túc Cho Đầy Đủ Hơn Để Chúng Ta Cùng Tham Khảo.


Chú thích: Dựa theo ý kiến và bản biên soạn đầu tiên của Trần Văn Giang

Tham Khảo:
Đào Văn Bình: Tự Điển Tiếng Việt Đổi Đời (Từ vần A-X)
  Forum: TRAU DỒI TÌM HIỂU TIẾNG VIỆT - CA DAO - TỤC NGỮ · Post Preview: #164557 · Replies: 0 · Views: 1,130

PhuDung
Posted on: Nov 23 2020, 11:47 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Tiếng Việt


Tiếng Việt là độc âm nghĩa là nói từng tiếng góp lại thành một câu, viết từng từ góp lại thành một bài văn. Tiếng Việt dùng 32 chữ cái của mẫu tự La Tinh để viết, nguyên thủy do các linh mục Bồ Đào Nha và Pháp mang vào Việt Nam từ thế kỷ 16, phiên âm tiếng Việt để truyền đạo Thiên Chúa, dần dần lập thành Chữ Quốc Ngữ thay thế Chữ Nho cho đến nay.

Tôi nhận thấy so với tất cả các nước dùng mẫu tự ABC trên thế giới thì chỉ có từ ngữ Việt Nam mới có thể chỉ dùng những từ có cùng một Phụ Âm đứng đầu để kể một câu chuyện có vần Phụ Âm đó, hoặc viết một bài văn với cùng một Phụ Âm ở đầu từ.

Để chứng minh, tôi đã viết được 5 Chuyện với cùng một Chữ bắt đầu:


1. Chữ B: Bà Ba Bán Bún (522 chữ B)
2. Chữ C: Chuyện Cậu Chính (720 chữ C)
3. Chữ H: Hẹn Hò (404 chữ H)
4. Chữ T: Tiểu Truyện Toàn Tê (2216 chữ T)
5. Chữ V: Viết Văn (378 chữ V)

Nguyễn Văn Luận

1.BÀ BA BÁN BÚN
Bà Ba buồn bã bế bé Bưởi bủng beo, bi bô, biết bò. Bà bẽ bàng bởi bà bị bắt ba bốn bận, bố bé Bưởi bội bạc, bỏ bà, biền biệt, bà bị bịnh …bón. Bà Ba bán bún, bọn “bọ”(cán bộ) bảo bà bán bún bò. Bà bất bình, bà bảo bà bán bún bung. Ba bà bạn buôn, bán bún bị bắt. Bà Ba buồn, bèn bỏ bán bún, bán bánh bèo. Bánh bèo bằng bột, bọn “bẩm báo” biết bà bán bánh bèo, báo bà …bán bánh bằng bột! Bà bừng bừng bực bội, bóp bét bánh bèo, bôi bê bết “Biên bản bắt bán bánh bằng bột”

Bộ (công an) bắt bà Ba, bảo bà bán bánh bằng bột, bừa bãi, bướng bỉnh, báng bổ. Bọn bồ bịch “bác Bình bên Bộ” biết bà Ba bầu bĩnh, béo bở, bèn bô bô bảo bà: “Biếu bác Bình bốn bách”, bác Bình bãi bỏ “Biên bản bán bánh bèo”.

Bà Ba bấm bụng, biếu “ba bách”. Bà biết bà bị bắt bí, bởi bánh bèo bà bằng bột …bo bo . “Bầy bịp bợm, bọn bưng bô, bết bát, bê bối, bèo bọt, bắt bừa bãi …!” Bộ ban bố: “Bắt bún, bắt bánh bằng bột”. Bọn bồi bút bênh Bộ, bốc “Bắt…bắt !” bất biết. Bọn “bọ” bắt bà Biên, bà Bích, bà Bạch bán bánh bao. Ba bà bàn bạc, bỏ bán bún, bánh bao, bánh bèo, buôn ….bắp ! _ Buôn bắp bấp bênh, “bị bắt bỏ bu ! “, bà Ba bảo bạn.

Bà Ba bèn bồng bé Bưởi bi bô, buôn …bầu bí. Bầu bí buôn ba bán bảy ! Bập bùng, bì bõm bến bãi, bờ bụi, bà Ba bứt bí, bứt bầu, bó bầu, bó bí bỏ bị bự, bán buôn bớt bận bịu ! Bạn bè bốc: “bà Ba Bị bán bầu bí …bộn bạc!”

Bà Ba buồn bời bợi bởi bố bé Bưởi bội bạc bỏ bà, bởi bịnh bón. Bà bực bội, bất bình bởi bọn “bọ” bám bà, bức bách bà, bắt bà bảy bận, bòn bóc bà bởi bà biết buôn bán. Bà bỏ Bất Bạt (Sơn Tây), Bắc bộ, bỏ bán bầu bí, bế bé Bưởi bụ bẫm, bôn ba, bao bọc bởi bác Bàng Bến Bính (Hải Phòng), bung buồm bám biển, bị bão, bồng bềnh… Bà Ba bế bổng bé Bưởi, bíu bác Bàng biết bơi.., bơi bì bạch biển Bắc bão bùng … Bà bye bye bọn Bắc Bộ bẩm báo, bức bách, bắt bớ bừa bãi…! Bóng bẩy, bảnh bao, bà Ba bước bên bờ biển Boston biêng biếc, bàng bạc. Bé Bưởi bắt bóng balloon bay bướm, bước bên bà, bé bảo: “Bờ biển Boston blue…beautiful !” Bà Ba bưng bát bún bò, bảo bé Bưởi: “Bún bò Boston bát bự bằng bún bò Bolsa …!”. Bánh bao Bolsa…bôi bơ béo bổ, bánh bao Boston bềnh bệch, bánh bèo Boston bột …bở! Bé Bưởi bửa bánh bao, bỗng bảo bồi bàn : “Ba bát bún bò ….!”. “Bún bò Boston Bistro bát bự, “bảy bucks”,”beautiful….beautiful…!

2. CHUYỆN CẬU CHÍNH
Cậu Chính con cả cụ Chánh Chợ Cầu, chững chạc, cứng cỏi, chăm chú, chần chừ chọn các cô Chanh, Cốm, Cẩm, Châu… cho chót chuyện cha cậu cấm cậu cặp cả …chín cô! Chấn chỉnh, cậu Chính compare các cô, confused…! Cô Cẩm cùng cục, cong cớn, cô Chanh chậm chạp, chắt chiu, cô Cốm chanh chua, cà chớn…Cuối cùng cậu Chính cảm cô Châu. Cậu chịu cô Châu: cô chăm chỉ, cần cù, cổ cao, co chuẩn, con cụ Chất có cồn cỏ cạnh Chùa Cam. Cụ Chất cám cảnh còm cõi, cơ cực, chuân chuyên, chợ chiều chen chúc, cụ chỉ có Châu, cụ chăm chút, chiều chuộng, cố chọn chồng có của cho con. Cụ chấm cậu Chính: “Con cả cụ Chánh Chợ Cầu cặp cùng con cụ, chắc chắn cha con cụ chứa chan…của cải!” Cụ Chánh Chợ Cầu cũng chịu cô Châu con cụ Chất Chùa Cam, cầu cho con cụ cùng cô Châu…chính chuyên, chặt chẽ! Cô Châu cười chúm chím: “Con chịu…!” Các cô Chanh, Cẩm, Cốm chắc chắn chuyện cậu Chính cặp cái Châu, cay cú, cau có, cãi cọ chán chê, cùng chạy cầu cứu cụ Còng, cầy cục cụ can cụ Chánh Chợ Cầu: “Chúng cháu cao cả, chẳng chịu cảnh chồng chung, cụ che chở cho chúng cháu, cậu Chính chỉ chực …chôm của!” Các cô cũng cảnh cáo cậu Chính “Can chi cặp cái Châu chích chòe?” Cậu Chính chợt choáng, chẳng chịu các cô chỏng chảnh, chập chờn con chuồn chuồn, cuống con cào cào “Chết chắc…!” Các cô cố chê, chéo chân, choạc cẳng chửi cô Châu: Cô Cốm: ” Con Châu cổ cò, chân cong…Cậu Chính cay con cà cuống, chó chầu cục cứt!” Cô Cẩm: ” Cái Châu còi cọc, chiu chít, cổ cáu chằng chịt chân chim, chồm chỗm con cú chê con chẫu chuộc!” Cô Chanh: ” Con Châu chảnh chọe, chủ chứa, cạp củ cải cháo chua, con cầy chộp con cóc chết!” Các cô càng châm chọc cô Châu, cậu Chính càng chê các cô. Cậu chua chát: ” Các cô cáo chồn, cà chớn, chán chết…!” Cuộc chiến chiếm…con chim… cù cưa, con cò chết cháy…! Cô Châu cột chặt…cột cờ, còng chân cậu Chính! Các cô Chanh, Cốm, Cẩm cố công cầm cự chí chết, cãi chầy cãi cối chửi cô Châu, chung cuộc… chết chìm…! Các cô còn chỉ cậu Chính ca cẩm: ” Con cá cắn câu, con cò cất cánh…cóc cần…coi chừng…cắt chim!”, chửi câu cuối cùng, các cô cùng chập chững co cẳng …chạy! Cậu Chính chỉ cho cụ Chánh, cha cậu, chứng cớ các cô cạy cửa, chẹt cổ cô Châu, công chúa của cậu, còn cắn cậu , cấu cậu. Cụ Còng, con cô con cậu của cái Cẩm, cố chấp, che chở con Chanh, con Cốm cản cậu. Con Chanh chồng chết, cái Cốm cancer, cùng cực, chồng chê cõng con…chuồn…! Cái Cẩm cầm cái, cướp cơm của chú cháu con Chi, cả community chê cười ! Căn cứ cử chỉ của các cô “chuột chết”, cụ Chánh Chợ Cầu chào cụ Chất Chùa Cam: “Cho các cháu…chập chùng, chũm chọe chuyện chiếu chăn..!” Cậu Chính cắt cây cảnh, cắt cỏ, cô Châu chăm chậu cúc, cặm cụi chẻ củi, chặt con cá chép, cơm canh, cỗ cúng. Chập choạng chiều, cô Châu chải chuốt, cậu Chính chững chạc cắp cặp cùng các cụ, các con, các cháu chuyển cỗ cúng, cùng chè chén chứa chan chuyện con cà, con cút, con chim cánh cụt. Cơm cúng cỗ có : Canh chua cá catfish, Canh cải cà chua, Cá chép chiên, Chả chìa, Càng cua cặp củ cải chua chiên chảo, Cam, Chuối chín cây, có cả Chocolate cookies, Coconut candies . Cụ Chánh cùng cụ Chất chạm cốc. Cụ Chất chúc: ” Chúc cụ Chánh chân chính, cha chồng cháu Châu, cầm cân cho chắc, chống Cộng chuyên chế, chó càn cướp của, chúc các con có cu Chính con coming!” Cụ Chánh chếnh choáng, chớp chớp, cầm chừng, chực cảm. Cụ cười, cất cao cổ ca câu chuyện chữ C: Chiều chiều chênh chếnh cánh cò ! Con công, con cú, con chim chích, con cu, Có con cóc cái, chu choa…chộp con cào cào…!

3. HẸN HÒ
Hăng hái học hành, Huệ, Hồng, Hương, Hảo, Hạnh, ham hội họp, hào hứng, hớn hở, hát hò. Hạnh hát “Hello”, Hảo hát “Hoàng Hôn Hawaii”, Hương hát “Haiti hiu hắt”, Hồng hết hơi “hông hát…!” Huệ hò Huế hay …hơn hết! Huệ hao hao Halle-Berry, Hồng… hot, hở hang, Hương hơi hư hỏng, Hảo ham hàng hiệu, Hạnh …hiền hòa. Huệ hợp Hảo, học hình họa, hí hoáy họa hình hổ, hình hươu, hình hoa hòe, hoa huệ. Hồng, Hương ham hóa học, hì hục hốt …hành, hẹ, hột hồi, hoa hiên, hoa hồng hòa hỗn hợp…hăng hăng! Hạnh ho he học hàng hải…hão huyền! Hết hè, Hồng háo hức, hí hửng hỏi Hương: “Hương hẹn hò Huỳnh Hữu Hải, hứa hôn hả?” Hương hốt hoảng, hậm hực: “Hải Hủi, hắn hippy, hâm hấp, hẹp hòi…Hương hầu hạ hắn, hắn hờ hững, hắt hủi Hương, hằn học hành hạ Hương…!” Hương hụt hơi, hổn hển: “ Hắn hung hãn hành hung Hương, hích Hương, húc Hương, hét ‘Hương hooker’. Hắn hăm hở, hùng hục, hoạnh họe, hà hiếp Hương hai hôm, Hương hận hắn..hu..hu …!” Hồng hiểu hồi hôm Hương hốc hác, hết hồn, hắt hơi, ho hù hụ, héo hon, hết hồng hào. Hương hãi hùng, hối hận, hét hết hơi: “Hải Hủi hèn hạ, hôi hám…!”. Hải hầm hầm, hắn hoảng, hắn hét, hắn hầm hè, hục hặc, hùng hổ …hù Hương… Hương hớt hơ hớt hải hỏi Hồng: “Hu hu..hỡi Hồng! help Hương… hầu hắn hết hung hăng, hãm hại Hương”. Hồng hiểu hết, hối hả, hào hiệp, hét: “Hải hỗn hào! ha ha… hành hung hả?”. Hồng hô:”Huệ, Hảo, Hạnh, …Help…Help…!” Hải hoảng hồn…hết hung hãn! Hảo: ” Ha…ha…hì…hì Hải Hủi…hấp hối…! Huệ hò Huế hay huyền hoặc hôm Holiday, hội họp. Hạnh hân hoan hỏi Huệ: “How…hè Houston..? Hẹn hò hay hứa hôn…?” Huệ hoan hỉ: “Hôm hẹn hò, Huệ, Hoàng hái hoa hồng, hưởng hoàng hôn Houston huy hoàng. Hoàng: “Hân hạnh…hân hạnh…!” Huệ hơi hoảng hốt…Hoàng hào hoa, háo hức… hôn Huệ!…Huệ hiểu Him hơn hết. He hiểu Huệ hoàn hảo. He hiền hòa, hôn Huệ hoài…hôn hoài. Huệ hắt hơi, húng hắng ho. Hoàng hối hả, hà hơi… hôn Huệ, Huệ hết ho, hả hê, hú hí. Hè Houston hồng hồng, Hoàng hugs Huệ, hái hoa hồng hỏi Huệ hứa hôn. Huệ hold Him, háo hức, Huệ… hò Huế. Huệ happy. Hallelujah !

4. TIỂU TRUYỆN TOÀN TÊ: TÌNH THU THỦY
Tôi tên Trần Toàn. Thuở thiếu thời trú tại Thừa Thiên, thường tụ tập tụi trẻ trong thôn tập tuồng. Trưởng thành thời Tổng Thống Thiệu, tôi thích thể thao, thuộc tuyển tập Trần Thiện Thanh, thích Thái Thanh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền. Trở thành trai thời thượng, tôi thường tới trang trại tại Thủ Thiêm tìm Thu Thủy, tay trong tay thủ thỉ, thì thầm, tình tứ, trân trọng, thiết tha. Tôi thương Thu Thủy, thư từ thề thốt, Thu Thuỷ thương tôi thiệt tình, tấm tình trong trắng, thanh tao. Thu Thuỷ tuổi Thìn, tôi tuổi Tuất, theo thầy tướng tuổi Thìn tuổi Tuất tác thành thật tuyệt! Tập thành tạo thao tác tại thao trường, tôi theo tướng Thái tận tụy từng trận tảo thanh, tham trận thắng Tết Thân thần thoại, thăng tiến, tháp tùng tỉnh trưởng thanh tra tỉnh Thừa Thiên. Tình thắm thiết, tràn trề, tôi tặng Thu Thuỷ tập thơ Thanh Tâm Tuyền, Thu Thuỷ thổn thức thương tôi, tặng tôi Trái Tim Thiên Thần, thoáng trong tiếng thở, từng tiếng “thương Toàn”, “thương Toàn” tưởng thấu tới Trời trong tiết Thu thanh tịnh. Thời thế tráo trở, tháng Tư … tang thương! Tôi tập trung tại trại Tân Trào tỉnh Thanh, thất thểu từ tỉnh Thanh tới tỉnh Thái, tỉnh Tuyên, tối tăm, thê thảm tới Tám Tám (1988). Tình Thu Thuỷ tan tác. Từng tháng, từng tháng trôi trong thương tiếc, tuổi trẻ tàn tạ trong tù. Tôi thao thức, trằn trọc, thui thủi, thẫn thờ, tìm từng tiếng thân thương trong tiềm thức, tưởng tượng Thu Thuỷ thỏ thẻ tâm tình thời trước Tết Thân. Thỉnh thoảng tôi thảng thốt, thều thào, tâm thần tức tưởi, toan tính trốn tù. Tuần tiếp theo, trưởng tại tập trung tám trăm tù, tra tấn tư tưởng. Trại trên thông tin tới trại tôi: tên Trật Tự Trại thủ tiêu tù trốn trại. Tôi trấn tĩnh, tinh thần tỉnh táo, thôi thì từ từ tính toán… Trước Tết Tám Tám(1988), tôi thoát tù, tới Texas. Trời thương! Tôi tưởng thân tan từ Tết trước. Tuy tiều tụy, thiếu thốn, tám tháng trời tại Texas, tôi tập thể thao, tập tạ, trở thành tươi trẻ toàn thân, tay to, tóc tốt. Thoát thân tù tội, tra tấn tư tưởng, tôi thấy từ tên thiếu tá trưởng trại tù tới tên trật tự trại thật tầm thường, ti tiện! Trước tiên, tôi tức tốc truy tìm tin tức Thu Thuỷ, trầm tĩnh tìm tòi trên tờ Tuần Tin Tức, từng trang, từng thứ, từ tin thể thao tới tin thị trường thiêu thụ. Tìm thên trong tờ Time, thấy tin thật thương tâm: tám tên tài tử túng tiền, tự tử tại Toronto tối thứ tư tuần trước.Tin tổng thống tính tăng thuế, tin tụi tống tiền tiểu thương trốn thoát, tẩu tán trốn trong Town…Từ từ, tằn tiện, tích tiền, tôi thuê thám tử thạo tiếng Tầu, tiếng Thái, tiếng Tây, truy tìm Thu Thuỷ từ Texas tới Toronto, từ Taiwan tới Tây Tạng. Tâm trí thẫn thờ, thấp thỏm, tin tức Thu Thuỷ tiêu tăm, thành thử tối trông trăng tôi thao thức, trăng tàn tôi thở than. Tình Thu Thuỷ tha thiết trong tim tôi tựa Truyện Tình Thiên Thai thuở trước. Thôi thì tạm thời thôi tiếc thương, tôi take train theo Tour từ Texas tới Tahoe, tới Tampa, tới Tennesse, thật thích thú! Tôi tiếp tục travel từ Toronto tới Tokyo, tới Turkey, tới tận Tahiti …! Tám tháng trời thấm thoắt …! Thăm thầy Thông tại Tampa(thầy thắng Tèo trường tôi thuở trước), thầy tiếp tôi trong tư thất, tường trắng toát. Thưởng thức trà Tầu thơm, thầy Thông thôi thúc tôi theo thầy thảo tập Thơ Tình Tuyệt Tác. Tôi thưa: thơ thì tôi trao Thu Thuỷ, tình thì tan tác, tim trống trải, tứ thơ thất tán! Thôi thì tôi thử tìm tòi từng tiếng, tạo thành “truyện tếu toàn Tê”. Thầy Thông tán thành, tôi thấy thanh thản trong tim. Thầy Thông thật tử tế! Trước Tết Tân Tỵ, tôi thong thả, tìm từng tiểu tiết trong trí. Từ thuở tám tuổi, tại trường thằng Tèo thao thao truyện Thảo Tóc Tiên, tôi tưởng tượng, thêm thắt thành Truyện Tình thực tại.

5. TÌNH THẢO TÓC TIÊN – TƯ THẸO TẠI TEXAS.
Trời tháng Tám, tiết Thu, thoảng từ tiệm Tầu tiếng tiêu thánh thót, trữ tình, Thảo Tóc Tiên thẹn thò, thủ thỉ: _ Thảo thiệt tình thương Tư! _ Thiệt thế? Tư thân Thảo từ thuở thiếu thời, Tư thương Thảo thành thực! Tư Thẹo tỏ tình, thì thầm tha thiết, Thảo Tóc Tiên tức thời thút thít: _ Thảo tức thiệt, thằng Tí Thộn theo Thảo, thấy Thảo thương Tư, trêu tức Thảo, to tiếng: “Thảo tóc thưa, tai teo, trán thẹo, tò te tí te!” Thảo thưa thầy Tám Thuốc Tễ (thằng Tí thường theo thầy tán thuốc), thì thầy Tám tủm tỉm, trơ trẽn, tức thiệt, tức thiệt! _ Thiệt thế, Thảo? Tư trợn trừng. Tư Thẹo trước theo thằng Trâu Trắng tập thiền Tây Tạng tám tháng, từng tấp tểnh trở thành thám tử tìm tầu Titanic. Thấy Thảo Tóc Tiên thút thít, Tư tất tưởi, tóc tua tủa, tức tốc tìm tới thầy trò Tám Thuốc Tễ, Tí Thộn. Thảo tòn ten theo Tư. _ Tiểu tử Tí Thộn thật ti tiện, Tư Thẹo thét to. _ Tao ti tiện? Tí Thộn thét theo,” Tư Thẹo tí tởn tán Thảo Tóc Tiên tai teo, trán thẹo, tò te, tò te!” _ “Thầy Tám Thuốc Tễ trơ trẽn trắng trợn, tiếng Thảo the thé, thằng Tí Thộn tồi tàn, trêu tao thì tao…” Thảo toan túm tóc thằng Tí thì tuột tay. Tư Thẹo tung tay tống trúng trán thầy Tám. Thầy Tám thụp thật thấp theo thế Tề Thiên thỉnh Tam Tạng, tẩu thoát. _ Trời! thằng tục tử tham tàn, tao thề tặng tí tiết! Tí Thộn tiến tới, thuận tay thụi tới tấp Thảo Tóc Tiên, từ tai tới tim. Thảo té, te tua, tức thở, túi tiền tung toé, trông thực thảm thương! Tí Thộn , tay thọc túi thách thức… Tư Thẹo tọa thân theo thế Tào Tháo Tế Thần, tay trái thọc Tí Thộn. Tí Thộn tài tình tránh thoát. Tư Thẹo thẳng thừng tống tiếp, Tí Thộn teo tởn tưởng tiêu, trườn thân tạo thành thế Thám Tử Trèo Tường, thét to ”Tao tẩu!” Thảo Tóc Tiên thích thú, thều thào: “Tư…ư …thư…ơng!” Tư Thẹo, Thảo Tóc Tiên, tay trong tay, tình tứ, từ từ, thong thả, thất thểu tìm tới tiệm…thuốc Tây! Tí thộn thua trận, tới thầy Tám Thuốc Tễ than thở : _ Thưa thầy, tôi thua thằng Tư Thẹo trận trước tại tôi tương tư Thảo Tóc Tiên, tâm thần thảng thốt. Thầy thật tử tế, thí tôi tí tiền, tôi tập tạ, tháng tới tôi trả thù, thách thằng Tư Thẹo thi tài. Thầy Tám từ từ, thủng thẳng: _ Thế thì tốt …! Tao tức thằng Tư Thẹo tống tao trúng trán, tao toan tống trả thì tao thôi. Tao té te tua, tưởng theo tổ tiên tức thời. Tán thành tiểu tử tập tạ, tao tặng tám trăm. Tập tốt thì thắng, thua thì tao …thiến! Tao tìm thuốc trợ tim, tháng tới tao trợ thủ. Thầy Tám tán thuốc tễ, trộn tam tinh, thịt trăn, tương, trứng, tôm, tỏi, thêm tiêu, trà Thanh Tâm, thành thứ thuốc …thất tộc! Tí Thộn thoạt trông tim tím thưởng tiết trâu. Thầy Tám tán thêm: “Toa thuốc Trợ Tim từ thời thầy Tham Tán toà Thượng Thẩm từng theo Tôn Thọ Tường truyền tới tao. Thuốc trợ tim thứ thiệt! Thừa tướng triều Thành Thái thử thuốc, thấy tim tốt, tâm trạng thảnh thơi, tâu Thái Tử, Thái Tử tâu Thánh Thượng, Thánh Thượng thăng thầy Tham Tán thành Thượng Thư! Tiếp tục tìm tiền, Tí Thộn tới thăm Thỏ Thơm, tán tỉnh. Thỏ Thơm tuổi Tý, tha từ trại tập trung trẻ theo Tầu tiêu thụ thuốc Tây, thích thằng Tí trẻ trung, trắng trẻo, tuy…thộn! Thỏ Thơm thấy Tí Thộn thao thao thì tố thêm: _ Tí thân thương …! Thằng Tư Thẹo thắng tám thiên, tiền thưởng trận tháng trước, tậu Toyota tung tẩy. Thỏ thấy Thảo Tóc Tiên tí ta tí tởn theo Tư Thẹo tới tiệm thuốc Tây, tay thoa trán Tư Thẹo, tay thọc túi thằng Tư tìm tiền trả tiệm thuốc, trông thật tục tĩu. Thỏ toan thét to :”thật tởm!”, thấy thằng Tư trợn tròn thì Thỏ thôi, tức thiệt! Tí Thộn tiếp: _ Tháng tới Tí trả thù thằng Tư Thẹo tục tằn! Thầy Tám trợ thủ Tí tất thắng. Thỏ thương, Tí tập tạ từ tuần trước, thiếu tiền. Thỏ thương Tí thì …thảy tạm tí tiền, Tí thề trả thù tháng tới! Thỏ Thơm tặng Tí Thộn tám trăm.

6. TRẬN TRANH TÀI TẠI TRẠI TRÂU, TEXAS.
Trời thanh thanh, tiếng trống tùng tùng. Ta, Tây, Tầu, từng tốp, từng tốp tới Trại Trâu từ trưa. Trọng tài tề tựu từ trước, trông thật trang trọng. Tụi thằng Tom thiếu ticket, tức tối tiểu tiện tứ tung! Thầy Tám Thuốc Tễ thổi trumpet thôi thúc trận trả thù. Thầy thao thức tập thổi trumpet từ tuần trước. Thỏ Thơm tháo túi thuốc Trợ Tim từ tay thầy Tám, tiến tới thì thào: “Tí… thư…ơng, thoa thuốc…! Thuốc thum thủm. Thỏ Thơm thoa từ trên trán, thoa tai, thoa tóc, thoa tay Tí Thộn. Toyota Tư Thẹo từ từ tiến tới Trại Trâu trong tư thế thắng trận, Thảo Tóc Tiên thấp thỏm, trông trắng toát. Thầy Tám Thuốc Tễ tỉnh táo tiến tới trung tâm Trại, thổi trumpet tám tiếng toe toe…Toàn thể theo thứ tự, tạo thành từng tốp thẳng tắp. Tư Thẹo thoạt trông Tí Thộn tay tím, tóc tai thum thủm thì tởn tận tim. Thầy Tám thổi tiếp …tu…tu, tới tiếng “tu” thứ tư thì Tí Thộn theo thế Thăng Thiên, tống thẳng từ trên tới Tư Thẹo. Tư Thẹo tránh thoát, thận trọng từng tí: “thằng tiểu tử tận tâm trả thù!” Thỏ Thơm thét: “Tiến tới…tiến tới.. .Tí thương!” Thảo Tóc Tiên tiếp theo: “Thận trọng…thận trọng…Tư thương!” Tiếng trumpet thầy Tám Thuốc Tễ từ tu…tu thành toét…toét thì Tí Thộn, thuận tay trái, tống tới tấp Tư Thẹo. Tuy Tư thụp thật thấp theo thế Tiểu Tăng Thoát Tục, Tí Thộn tống thêm thùm thụp, trúng từng trái. Tư Thẹo té, tả tơi! Thầy Tám Thuốc Tễ thổi tiếp…té…té, Tư Thẹo thều thào: ”Tha tớ…thiệt tình tớ …thua!” Tí Thộn thét to: _ Thua thì tao tịch thu Toyota, trả tiền thì tao trả, thiếu tiền thì…thôi! Thỏ Thơm thích thú, thét: “Ta thắng …ta thắng!” Thầy Tám thôi thổi trumpet, tủm tỉm: “Thuốc Trợ Tim thầy Tham Tám Toà Thượng Thẩm thật tuyệt!” Thỏ Thơm thả tóc thướt tha, theo Tí Thộn, thầy Tám Thuốc Tễ tới tịch thu Toyota Tư Thẹo. Thầy Tám thong thả từng tiếng: _ Ta thắng trận, toàn thể theo tao tới tiệm Tầu Tân Tiến tiệc tùng thỏa thích, thưởng thức trứng tôm tráng tương, trà tầu Tam Tỉnh, tiền tao trả…! Tư thẹo tái tê, thều thào: “Ta thà tự tử, tiếng tăm ta tiêu tan, thân ta tơi tả…Trời!” Thảo Tóc Tiên thương Tư thua trận, thút thít: _ Tư …thương! Từ từ tính toán, trận tới trả thù…Tư tới thầy Thông Thái tìm thuật triệt thuốc Trợ Tim thầy Tám Thuốc Tễ thì ta thắng. Thất thểu, tủi thân, tiếc Toyota, Tư Thẹo theo Thảo Tóc Tiên tạ từ Trại Trâu trong tiếng tiêu thánh thót, thảm thê, thoảng từ tiệm Tầu trước Trại… Tờ Tin Tức tường thuật: Thầy Tám Thuốc Tễ trợ thủ Tí Thộn trả thù Tư Thẹo. Tí Thộn thoăn thoắt tựa Tề Thiên, Tư Thẹo tuy to, thua trông thấy. Tiếng Thỏ Thơm the thé, tiếng trumpet thầy Tám toe toe, tiếng trống thôi thúc tài tình, Tí thắng trận. Tí Thộn tịch thu Toyota Tư Thẹo, Tư tiếc Toyota toan tự tử. Tờ Thời Thế thuật tiếp: Tin từ Trại Trâu, Texas. Thầy Tám tức Tám Thuốc Tễ tìm tòi tạo thành thuốc Trợ Tim từ thuốc Tễ, trộn thêm tỏi, tôm, thịt, tương, tam tinh, trà Tầu thành thứ thuốc thần thông, trợ thủ Tí thắng Tư trong tích tắc. Toa thuốc truyền từ triều Thành Thái tới tay thầy Tám, truyền tụng từ Texas tới Toronto, tới tận Toà Thánh. Tờ Tennesse Time thông tin: Trận tới, Tư Thẹo tìm thầy Thông Thái triệt thuốc Trợ Tim thầy Tám Thuốc Tễ, thách thức Tí Thộn tranh tài tại Toronto Tower, tháng Tám, Trung Thu. Tiền thưởng tám triệu tính theo tiền Tầu. Tuy thị trường tiêu thụ thụt từng tháng, từng tuần, Trump tính tài trợ thêm trăm triệu tính theo tiền Thái. Tổng Tống Tiệp, Thủ Tướng Togo trù tính tới Toronto. Thị trưởng Torocto, theo tin thất thiệt, thương thuyết tăng tiền ticket. Tin tức truyền trực tiếp trên Tivi, từ tầng thứ tám Toronto Tower. Tickets …tìm tại tiệm ta, tiêm Tầu, tiệm thuốc Tây, tiệm tóc, tại Toronto, tại Texas.

7. VIẾT VĂN
Vân vô vàn vất vả, vừa vun vườn, vừa việc vặt vãnh…Vân vào ven vách, vạch vali, vớ vuông vải viền vàng vắt vòng vai, vơ vẩn… vạch…vạch…vẽ vòng vèo, vo viên… Võ vẽ viết văn, Vân viết vào ‘Vở Việt Văn’…viết về việc Vạn vụng về vần vò vợ, vì vậy Vân vương vấn Vũ Văn Vinh, viết về Valentine, Vermont và Virginia Vân Vinh vi vu, vui vẻ vacations. Vân vất vuông vải viền vàng vào vali, vò võ, vẩn vơ…Vạn vừa về, vội vàng, vờ vồn vã với vợ. Vạn vồ vập vuốt ve Vân, vuốt vai, vuốt vế, vạch vú, vọc váy vợ…vòi vĩnh! Vân vùng vằng: “Vớ vẩn…!” Vạn vẫn vân vê, vẹo vú, vớt vát, van vỉ… Vân vươn vai, vênh váo: ” Vất va vất vưởng , vờ vĩnh, vòng vo, vung vít, vụng về… Vợ vất vả vẫn vần vợ…võ vàng!” Vạn vặn vẹo: “Võ vàng!…võ vàng với Vinh ? ..Vinh ve vãn, Valentine vui vẻ… vacations, vắng vẻ, vấn vương..?” Vân vội vớ ‘Vở Việt Văn’ vừa viết vất vào vách, vạch vali vơ vài vuông vải, vờ vịt vắt vẻo vá víu… Vạn vít vai Vân, vừa véo vai, véo vế, véo vú, vừa vụt Vân vèo vèo. Vạn vất vài vật vướng víu va vào vách vỡ vụn, vương vãi vung vít, vừa vụt vừa văng…”Võ vàng…võ vàng…!”. Vân vùng vẫy, vịn vào vách, vấp vuông vải, vật vã, vàng vọt, vật vờ, vì vậy…vội vàng vô Viện. Vinh vạm vỡ, vác Volvo vòng Virginia vùn vụt về với Vân, vào Viện, vẫy vẫy Vân, vỗ vai, vỗ về Vân, vương vương vời vợi…! Vạn vung vẩy, vênh váo vào Viện, vồ Vinh, vồ vào vai, vừa vụt Vinh vừa vụt Vân vút… vút…very violent! Vinh vật Vạn, véo vành vai, vằn vài vết. Vân vén váy, vỗ vỗ, văng vào Vạn: ” Vạn vẩu…! vượn Vẹm..!, vớ vẩn, vo ve, vô vị, vụn vặt, vật vứt vào vại…!” Vạn vất vưởng về ‘vòm’, vật vờ, vô vọng, vơ vét vòng vàng vù về Vancouver. Vân Vinh vọn vẹn vui vầy, ví với vầng vân vũ vằng vặc. Vân vịn vai Vinh vui vẻ vào Vương Viện vái…vái… Vạn vật vô vi !

Câu chuyện bằng chữ ” C “ Cậu Cẩn con của cụ Chánh, cháu của cô Cúc, cháu của chú Chiến. Cậu Cẩn có con chó cỡ con chồn, cẳng con chó cao cở cẳng con cò, cổ cũn cởn cở cổ con cóc. Cổ con chó cậu cột cái chuông. Cậu cưng con chó cùng cực, con chó cũng cưng cậu. Cứ chiều chiều cậu cõng con chó, cầm chiếc cần câu chăm chỉ câu cá chép cạnh chân cầu cuối cồn cát. Cậu chăm chú canh chừng cước cần câu, chốc chốc cậu cất cao cần câu coi. Con cá chép cắc cớ cắn câu, cậu Cẩn cất cao cần câu, cậu cười. Chốc chốc cả con cá chuối cũng cắn câu. Cậu Cẩn cầm con cá chuối chặt cổ, chìa cho con chó cưng của cậu. Con chó của cậu cắn cổ con cá chuối co cẳng chạy. Cậu Cẩn cất cần câu, cùng các cậu choai choai chơi cờ cạnh cổng chợ. Chơi cờ chán chê, cậu cõng con chó. cầm con cá chép cậu chuồn. Cậu Cẩn cho con chó của cậu chui chuồng, cậu cầm con cá chép cậu cạo, cậu chặt, cậu cho chảo cậu chiên. Cá chín, cậu Cẩn cùng cụ Chánh chén cá chép chiên chấm cà cuống cùng chuối chát. Con chó cưng của cậu Cẩn cứ chập chờn cửa chuồng chở chực. Cuối cùng cậu Cẩn cho con chó chén cơm chiên cùng chút cá chép. Con chó cạp chén cơm chui chuồng. Cụ Chánh côi cút, cụ cũng có con chim chích choè cùng cái chuồng chim cáo cạnh, cụ cưng con chim của cụ. Cứ chốc chốc cụ cầm cái chổi chà chống chân, cụ chầm chậm chộp các chú chuồn chuồn chập chờn cạnh cây cam cho con chim của cụ chén. Có chiều, cậu Cẩn cùng các chú choai choai câu cá, câu cua chỗ cống của cậu Cử. Cậu=2 0cột con chó cưng của cậu cạnh cửa. Con chó của cậu Cẩn cà chớn cứ chực cắn con chim của cụ Chánh. Cụ Chánh cầm cây chổi chọc con chó, con chó co cẳng chạy. Cụ Chánh cảnh cáo cậu Cẩn, cậu chỉ cười cậu còn cãi cối. Cũng có chiều cậu Cẩn cần công cán chỗ công cộng. Cậu cũng cột con chó của cậu cạnh cửa chuồng. Cụ Chánh cùng cụ Chẩn chơi cờ. Cụ Chẩn cũng có con chó choai choai, cụ chẳng coi chừng, cụ cột con chó cạnh chỗ con chim của cụ Chánh. Con chó của cụ Chẩn cùng con chó của cậu Cẩn cắc cớ chỉ chờ chực cắn chim của cụ Chánh. Cụ Chánh cầm cây cố cản, con chó cứ cào cấu, cứ cằn cằn. Chợt con chó của cậu Cẩn chồm cẳng cao cắn cái chuồng chim của cụ Chánh. Con chim chích choè chạy cuống cuồng cầu cu cụ Chánh. Con chó của cụ Chẩn cắn cụt cánh, con chó của cậu Cẩn chặn cửa cắn chân, cắn cổ con chim. Chim của cụ Chánh cụt cẳng, cụt cánh, cuối cùng chết cứng, chỉ còn cái chân còn cục cựa. Cụ Chánh cay cú cầm cây cối chục cân cất cao choảng con chó. Con chó của cụ Chẩn cà cuống co cẳng chạy. Cái cối cán cẳng con chó của cậu Cẩn cái “cộp“ chát chúa, con chó cố chạy – cụ Chánh cầm cây cuốc cuốc cổ con chó. Con chó của cậu Cẩn chùn chân. Cuối cùng cụ Chánh chém con chó chết cứng. Cụ Chánh cùng cụ Chẩn cắt cổ con chó, các cụ cầm chép các cụ cạo, các cụ chất con chó cạo vào chỗ có củi cháy. Cẳng con chó cong cong, các cụ chờ con chó chín các cụ chặt, các cụ cưa. Cụ Chánh cất cho cậu Cẩn cái cẳng, cái cổ. Còn cả con chó các cụ cho chảo các cụ chiên. Con chó chết các cụ có cớ chè chén. Chó chiên, chả chìa, củ chuối. Chốc chốc các cụ cùng chạm cốc, các cụ cười. Cậu Cẩn chăm chú coi chân, coi cổ con chó. Cậu Cẩn cấu cụ Chánh: “Chó chết!”

Nguyễn Văn Luận
  Forum: TRAU DỒI TÌM HIỂU TIẾNG VIỆT - CA DAO - TỤC NGỮ · Post Preview: #164556 · Replies: 0 · Views: 1,193

PhuDung
Posted on: Nov 18 2020, 12:26 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Phiếm luận về tiếng Huế ngày xưa


Huế nguyên là đất đế đô, nơi sinh trưởng của vua chúa, chốn triều đình quan lại, đa số tao nhân mặc khách đều tụ họp về đây. Do đó mà tiếng nói của xứ Huế, trang nhã thanh tao, có khi lại nặng mùi “bề trên” hoặc kiểu cách đến buồn cười.

Chúng ta thử nghe một người địa vị hơi thấp kém một chút, “hầu chuyện” (1) một ông hoàng: “Tớ nghe đức ông se, nên đem dâng một cân đường phèn để đức ông xơi với nước trà buổi sáng”. Phải gọi ông hoàng là ngài, đức ông hay tôn ông và tự xưng mình là “tớ”. Còn con đức ông thì gọi bằng “mệ”. Đức ông chỉ có se chứ không bao giờ đau, chỉ có xơi chứ không ăn, và đức ông cũng không ngủ, ngài chỉ ngơi hay giấc. Cho nên có chữ “cơm xơi”, “cơm thời”, tức là thứ cơm của ông hoàng bà chúa, của các cụ các quan. Còn vua thì ngự thiện, chứ không xơi không thời.

Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa tai nghe

Ông hoàng không ăn thì vua cũng không chết. Vua chỉ có băng hay thăng hà. Khi ngài thăng hà rồi thì không bỏ vào hòm mà bỏ vào tử cung để đưa lên an táng tại tôn lăng, nói một cách văn hoa là ninh lăng. Nơi chôn ông hoàng không dùng chữ mộ mà dân chúng thì mồ mả.

Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm.

Bây giờ không còn vua chúa nữa lối dùng chữ trở nên tự do. Những cái mả xây cất bằng ngói gạch, hơi đồ sộ một chút nhiều người gọi bừa là lăng.

Ngoài cái lối nói năng có tôn ty trật tự dân Huế thường hay dùng chữ.

– Tui đã biết trước, đa ngôn thì đa quá (2), nói lắm rồi răng cũng sinh chuyện cho mà coi!

– Hai vợ chồng nớ cũng lạ, không khi mô nghĩ đến chuyện tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn (3), hễ hết gạo là xách rá đi mượn hàng xóm.

– Tui nghĩ thằng hai Bụi cũng gan thiệt, đơn thương độc mã (4) mà dám tới chọc tổ ong vò vẽ mà chơi!

Có khi người ta dùng luôn cả một câu dài!

Hắn với tui cùng ở chung một xóm, nhưng hắn khinh tui nghèo, có khi mô hắn thèm đặt chưn vô nhà tui mô. Cơ chi tui mà giàu có, thì dẫu ở trên năm non tí tè hắn cũng bò tới.

– Bác ơi! Hơi mô mà trách móc cho mệt! Thói đời là rứa rồi: Bần cư trung thị vô nhơn vấn, Phú tại sơn lâm hữu khách tầm! (5)

Thỉnh thoảng người ta lại dùng điển: Tui tưởng mời hắn ăn cho vui, chớ kéo cả họ Tạ như rứa thì biết lấy chi mà dọn!

(Trong tuồng Sơn hậu, sau khi Tạ Ôn Đinh lên cầm quyền, con cháu trong họ Tạ đều được cất nhắc lên chức này chức khác).

Ngoài lối nói chữ nho đúng theo nghĩa của nó, người Huế còn nói một cách lắt léo mà ngay cả người Trung Hoa cũng không sao hiểu nổi.

Chê một cô nào già người ta bảo là bách diệp. Bách là trăm, diệp là lá, trăm lá tức là tra lắm. Người Huế thường dùng chữ tra hơn là chữ già: ông tra thì mụ cũng tra, tra đời không trót thế, chữ tới hơn chữ đến, chữ đặng hơn chữ được và chữ tui chứ không dùng chữ tôi v.v…

Thấy một cô gái không chồng mà chửa, người ta cười bảo nhau: “Con Huế nết na như rứa, ai ngờ lại trung hưng. Thằng cha mô đó cắc cớ thiệt!” Trung hưng là một chữ của lịch sử: nhà Trần Trung Hưng, nhà Lê Trung Hưng tức là đương suy sụp nửa chừng lại dấy lên. Nhưng đây là cái bụng nổi lên. Cũng cùng một nghĩa với câu: Phềnh phềnh lớn giữa lớn ra, mẹ ơi! con chẳng ở nhà được đâu. Ở nhà làng bắt mất trâu… (Bắt trâu là một lối phạt vạ mà gia đình cô gái chửa hoang phải nạp cho xã).

Về lối nói lắt léo, bóng gió thì đó cũng là một sở trường của dân Huế. Cười mấy ông dượng tò te với cháu vợ hay bà gia thương yêu rể quá trớn, người ta nói: Đi đâu cho ngái cho xa, ở đây với dượng bằng ba lấy chồng. Hay: Mụ gia yêu rể mỗi điều mỗi yêu.

Muốn cho được trang nhã, văn hoa, ngoài lối dùng chữ nho, dân Huế hay đem vào trong câu nói những thành ngữ, tục ngữ hay ca dao.

– Nói chơ, đèn nhà ai sáng nhà nấy, mụ đã hay ho chi hơn ai mà đòi xăm lo vô chuyện người khác.

– Mợ tưởng tui cần mợ lắm à? Không mợ chợ cũng đông, mợ đi vô Quảng ai trông mợ về.

– Tui không ngờ mợ tệ như rứa! Cậu ăn của chú mạ tui đến lút mày lút mặt mà hễ tui nói động đến cậu là cậu réo tên tục chú mạ tui ra mà chưởi. Rõ đồ phản Trụ đầu Châu, ăn cơm của Phật đút (đốt) râu thầy chùa.

– Chuyện có dính chi hắn mô, rứa mà khi không ách giữa đàng mà mang vô cổ, có rứa mới trợn trắng con mắt ra.

– Chao ui! Hay ho chi mô có! Dột từ trên nóc dột xuống! Phủ ăn đường phủ, huyện ăn đường huyện, chỉ có thằng dân là khổ.

– Tui đã nói với hắn nhiều lần, buôn Ngô buôn Tàu, không giàu bằng buôn hà tiện, nếu biết khéo tém dặt một chút thì làm chi đến nổi phải mang công mắc nợ!

Như ta đã thấy ở trên cùng với cái lối dùng chữ nho một cách lắt léo, như trung hưng, bách diệp v.v… thì khi dùng tiếng Việt cũng có cái lối lắt léo như vậy nhất là mượn những tiếng đồng âm:

– Bác say hung rồi, để cháu dắt bác về cho rồi!

– Say chi mà say! Say sưa sáo bổ à? Tao mà say thì đứa mô tỉnh?

(Say là những cái cọc, khi giăng sáo bắt cá những ngư phủ thường đóng để giữ sáo, mà hễ say đóng sưa thì sáo phải ngã).

– Thiệt là vô can mà xé vải ra, can đi can lại, công đà nên công!

Can là may để nối hai khổ vải với nhau cho dài ra hoặc may cho vải khỏi xơ. Dùng chữ can vải theo nghĩa can là liên can. Ý nói việc không dính líu gì đến mình, rây vào làm gì cho sinh chuyện.

Từ chỗ dùng chữ lắt léo đến chỗ nói lái chỉ cách nhau có một bước.

Chồng bảo vợ: “Nhà thì nhiều con nít, mình mua thứ cá long hội ni về làm chi không biết”. Cá long hội dùng để nói những loại cá vụn vặt nhiều xương vì “long hội” là lôi họng.

Không đáng vai anh mà tự xưng là anh, không đáng vai chú mà tự xưng là chú thì người ta nói mỉa: “Anh chi mà anh! Anh quẻ a?” (Anh quẻ là ẻ quanh). Hoặc: “Chú chi? Chú trong họ” (chú trong họ là chó trong hụ – hụ tức là cái hũ).

Lại có câu đố cũng dùng lối nói lái:

Thợ rèn, thợ bạc ngồi co,
Kẻ kềm, người búa biết thò vào đâu.

Câu trên dùng để đố cây me đất. Me đất là mất đe. Một khi đã bị mất hòn đe thì thợ rèn, thợ bạc đều phải ngồi co tức là khoanh tay không làm gì được.

Vì là một bài phiếm luận nên tôi không bàn kỹ và cũng không đưa vào nhiều ví dụ, nhưng với đôi nét chấm phá về tiếng Huế này tôi muốn gợi ý các bạn, nhất là bạn trẻ, nên tìm hiểu sâu thêm tiếng nói của cha anh xưa để chọn lấy những điều tinh túy đặng giữ gìn bản sắc ngôn ngữ của quê hương.

Mặc Khách

_____________

1. Kẻ nhỏ không có quyền nói chuyện với người lớn, chỉ được phép “hầu” chuyện mà thôi.

2. Đa ngôn đa quá: nói nhiều lỗi lầm nhiều.

3. Chứa lúa phòng đói, chứa áo phòng lạnh.

4. Một mình một ngựa một giáo.

5. Nghèo ngay giữa chợ không người hỏi, giàu tại rừng sâu có khách tìm.
  Forum: TRAU DỒI TÌM HIỂU TIẾNG VIỆT - CA DAO - TỤC NGỮ · Post Preview: #164536 · Replies: 0 · Views: 1,264

PhuDung
Posted on: Oct 20 2020, 11:32 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Cô ba Huế


Ông Đại chủ tiệm giặt mở hũ kim chi thì mỗi ngày, nhưng mở lòng với hàng xóm ở khu thương mại này thì hiếm lắm! Vậy mà sáng nay, tôi đang nói điện thoại với bạn bè ngoài thùng thơ của building thì ông đem ra cho tôi một ly trà. Tôi gật đầu cảm ơn vì đang bận đấu hót nhưng không quên ông Đại thường không làm những việc thừa! Tôi mở cửa xe mình lấy bao thuốc lá với cái quẹt, đưa ông. Bởi trí nhớ tôi còn tốt lắm, ông tuyên bố bỏ thuốc đã có hơn ba tháng nay, nhưng bỏ mua chứ chưa bỏ hút.

Trong không khí lễ hội cuối năm với tiết trời khá lạnh, không gian lá vàng bay muôn nơi như chính những đứa trẻ đầu xanh chân đất của ba, bốn mươi năm trước - những tiếng nói giọng cười xưa cũ lại vang lên trong điện thoại mà nhắc về ngôi trường tranh vách đất như cái chuồng bò; nhắc lại một dòng sông cuối xóm... chảy đi đâu? Những từ ngữ xưng hô: “mày/ tao” thật lâu rồi mới nghe lại trong cuộc sống “ông/ tôi” rỗng tuếch nơi này! Ly trà thơm trên tay hòa quyện với tâm tư tình cảm trong tôi đến tuyệt vời trong một sáng mùa đông.

Sau những giây phút trở về mái trường xưa với bạn cũ, những ký ức về một dòng sông, ngôi trường làng... thơm ngọt dư vị trà sâm trong cuống họng. Tôi bước vô tiệm giặt để hỏi ông Đại là trà gì mà ngon đến... cho tôi xin ly nữa được không? Nhưng đã nói là ông Đại mở hũ kim chi thì mỗi ngày nhưng mở lòng với tha nhân thì hiếm lắm! Ông chỉ viết cho tôi vài chữ Đại Hàn lên miếng giấy và bảo tôi: “Có bán ngoài chợ Đại Hàn”. Tôi sống đời tha phương nên chẳng biết buồn với đối nhân xử thế không phải bạn bè, tôi về tiệm tôi để bắt đầu một ngày mới có dư vị xa xưa đầy kỷ niệm.

Sáng hôm sau, thay vì pha bình trà bỏ lên xe, rồi đi làm. Tôi chỉ đổ nước sôi vô bình chứ không bỏ trà xanh mà lái thẳng ra chợ Đại Hàn để mua thứ trà ông uống bà khen như lời ông Đại giới thiệu thêm vào buổi chiều cùng ngày. Tôi vô chợ kim chi, tìm đến hàng trà bánh để lạc vào mê hồn trận với chữ nghĩa Đại Hàn. Những con chữ ngoằn ngoèo như giun mà trong mắt người mù chữ ngoại thì nó cùng họ với chữ Nhật; chữ Tàu đến choáng váng đầu óc, tôi cố tìm một người Đại Hàn trong chợ để nhờ giúp! Nhưng chợ sớm quá, chỉ le hoe mấy anh Mễ còn ngái ngủ - đang sắp hàng lên kệ. Tôi tìm được bà cụ thất thập, tóc trắng, dáng gầy tỏa vẻ thanh cao, cũng đang săm soi hũ này gói nọ. Tôi ngờ ngợ bà gốc kim chi nên tôi hỏi nhờ giúp bằng tiếng Anh thì bà trả lời tôi một câu tiếng Việt - giọng Huế: “Tôi là người Việt Nam, anh người Tàu hỉ...”

Tôi cười cảm ơn vì bà cụ này vui thật! Nghĩ tôi người Tàu mà hỏi tôi bằng tiếng Việt... trơn tru. Từ đó, tôi cứ dõi mắt theo bà cụ mà linh tính tôi nói là người quen. Càng quan sát lén thì càng hứng thú vì dáng đi khác người của bà cụ gợi nhớ cô ba Huế ở xóm tôi dạo nọ. Một xóm làng hiền hòa bên con sông xanh mà hôm qua bạn bè tôi còn nhắc là hết tuổi trẻ chúng tôi vẫn chưa thám hiểm được sông chảy về đâu? Trong đầu óc tôi hiện lên những gương mặt bạn bè, từng ngôi nhà trong xóm với cây trái nhà ai - hương vị thế nào? Nhà cô ba Huế làm nghề thợ may ở cuối xóm...

Năm ấy khoảng Mậu Thân (1968), tôi mới năm, sáu tuổi đầu nhưng đã có mặt trên từng cây số của cái xóm nghèo ven sông. Một dạo, có những gia đình người miền Trung chạy giặc vào. Chính quyền địa phương cấp đất cất nhà và giúp đỡ gạo tiền để ổn định cuộc sống. Cô ba Huế năm đó chừng ba mươi, nghe nói chồng chết nhưng có đứa con gái cỡ tuổi tôi. Cô đến xóm tôi với con gái và ông già đầu bạc như cha cô thì phải. Ba người họ sống chung trong căn nhà hoang mà chủ cũ là Việt cộng nằm vùng, đã bị bắt quả tang có truyền đơn và súng đạn chôn trong vườn nên Cảnh sát Quốc gia cho đi nghỉ mát ngoài Côn đảo. Nay, căn nhà vô chủ đó, được chính quyền cấp cho cô ba vô ở và còn xin tôn bên căn cứ Mỹ để thay mới cho đồng bào chạy giặc ngoài Trung vào nên nhà cô nổi bật trong xóm với tôn nhôm trắng lóa dưới ánh mặt trời. Không nhớ khi nào thì ông già và con bé gái bỏ đi? Từ đó, cô ba một mình. Tôi nhớ con nhỏ... nó nói nó nghe chứ tôi cũng không hiểu nó nói gì!

Cô ba mang tiếng không hay trong một xóm làng dân dã là cô ba chồng chết, nhưng những người có từ tâm hơn thì gọi là cô ba Huế. Cô ba mướn người rào giậu ngăn sân bằng cọc sắt với kẽm gai làm phật lòng hàng xóm vì xóm tôi luông tuồng nhà này qua nhà kia đã quen mắt mọi người. Trẻ con bọn tôi thì không thích cái hàng rào kiên cố làm xa lạ chúng tôi với cây khế, cây tầm ruột, cây trứng gà... đã có trong sân ngôi nhà hoang từ khi cô ba chưa đến đây. Tóm lại, giọng Huế đã làm cho cô ba nổi bật trong một xóm làng miền Nam, nay thêm cái bờ rào làm cho thiện cảm của láng giềng trong xóm thêm xa cách. Nhưng từ hôm cô ba treo bảng “Nhận may vá quần áo” thì có người gọi là cô ba thợ may và nhiều thiếu nữ trong xóm lui tới để may mặc. Với cánh đàn ông thì sầm xì chuyện cô ba đi về lẻ bóng nhiều hơn vì đàn ông xóm tôi chỉ có nhu cần ăn nhậu chứ không có nhu cầu ăn mặc.

Bỗng một hôm, gió heo may đã về... Chú Tư bánh mì “quậy” cô ba làm om sòm làng trên xóm dưới. Chú Tư là lính Nghĩa quân ngoài đồn, chú mập và lúc nào cũng... say. Quần áo lính lè phè không tả nổi, đôi giày bố của ổng là thiên hạ đệ nhất... thúi. Chú có đàn con nhỏ chừng bảy, tám đứa. Sáng ra là mỗi đứa một cái bao bồng bột trắng chứa chừng hai chục ổ bánh mì nóng giòn, thím Tư thả đàn con đi khắp xóm bán bánh mì. Đứa nào hết trước về trước nộp tiền cho thím Tư, và từ đó đến mặt trời lặn trong ngày thì nó tự do đi phá làng phá xóm là chính - đi học là phụ. Thím Tư chỉ lo xong chuyện bánh mì cho đàn con đi bán mỗi sáng là thím gầy sòng tứ sắc tới chiều hôm. Cái tên chú Tư bánh mì có từ bao giờ thì tôi cũng không biết, chỉ biết được theo mấy thằng con chú Tư mà đi phá làng phá xóm thì khỏi chê! Tụi nó phá từ Chùa ra tới Thổ thần ngoài Đình cũng khóc tiếng Miên.

Hôm chú Tư xuống phiên gác đồn, ghé quán Chín Chiều nhậu tiết canh heo với lòng lợn, trên đường về nhà ngủ lấy sức để chiều nhậu tiếp. Lúc ngang nhà cô ba Huế giữa trưa vắng vẻ, ngoài hiên gió heo may đã về... cô ba vừa may vừa hò “sầu lẻ bóng” bên song cửa sổ làm con lợn lòng chú Tư ngọ nguậy; làm xà lỏn đứt dây thun nên chú Tư ghé cô ba nhờ luồn lại dây thun quần! Chẳng biết cuộc thương lượng của chú Tư với cô ba thế nào mà cô ba đá chú Tư bay ra đường làm chó sủa rân trời giữa ban trưa, trẻ con túm tụm kháo nhau: Cô ba có võ. Thím Tư nghe tin, bỏ sòng tứ sắc đi cứu chồng với cây chổi chà trong tay thì không nguy hiểm gì nhưng cái miệng thím Tư la làng... “con ba Huế giết chồng tui” thì náo động làng trên xóm dưới.

Từ đó, cánh đàn ông mà đặc biệt là mấy ông lính Nghĩa quân “nghía” cô ba đi chợ dữ dội. Hôm đó, đám trẻ chúng tôi mới giật cô hồn ở nhà nọ cúng tháng bảy. Cả đám tụ tập trước nhà hớt tóc Thanh Xuân, chúng tôi ăn những thứ giật được như mía lóng, trái cóc, đậu phộng luộc... thằng Mỹ con bà sáu Sận lớn con nên háu ăn, nó vừa ăn của nó, vừa giật ăn của thằng Cu mót - con chú Tư bánh mì. Thằng Cu mót không hiền nên hai đứa đánh nhau, Cu mót nhỏ hơn nên bị đau, nó lăm le cục đá đỏ tổ chảng, lừa thế chọi thằng Mỹ sao cho trúng rồi chạy. Ai dè, ba nó ngoài đồn về, thấy. Chúng tôi méc chú Tư là thằng Mỹ ăn hiếp Cu mót. Chú Tư tịch thu hết mía, cóc, đậu phộng của hai đứa nó... để tao đi nhậu! Thằng Mỹ la làng “Ỷ lớn ăn hiếp con nít.” Chú Tư nói nó: “Vậy sao mày lớn hơn thằng Cu mót mà mày đánh nó để giật đồ ăn? Bây giờ tao không lấy nữa, mày có ngon thì chấp thằng Cu mót một tay, hai đứa đánh tay đôi. Đứa nào thắng lấy hết.” Đám con nít cổ võ vì đứa nào cũng thích coi đánh lộn và ghét thằng Mỹ vì nó ăn hiếp nhiều đứa chứ đâu riêng gì Cu mót.

Chú hai Đức cũng là lính nghĩa quân ngoài đồn - con ông cụ Thanh Xuân hớt tóc, từ trong nhà đi ra xem và làm trọng tài khi thằng Mỹ bị chọc quá nên liều xung trận chứ nó cũng rét chú Tư đang có mặt ở đó lắm! Hàng xóm nghe ồn cũng đã bắt đầu ra xem, ai nấy cười ngất với luật thi đấu của chú hai Đức. Luật rằng: Thằng Mỹ phải cho tay trái vô quần tà lỏn... bụm cu. Hễ tay trái mà rời cu là thua - không cần đánh nữa!

Trận đọ sức bắt đầu với thằng Mỹ - tay trái bụm cu - không được rời. Nó còn có tay phải quơ quơ... bị thằng Cu mót đục cho một trận phù mỏ. Nó đau quá.... lỡ bỏ tay trái khỏi bửu bối để đỡ đòn, rồi bất chấp luật lệ - tấn công Cu mót. Bị chú hai Đức tóm cổ, xử thua liền tại chỗ. Nó quê quá, bỏ về, hẹn ngày làm thịt Cu mót.

Chúng sanh a dua thì thời nào chả nhiều! Cả bọn bu vô Cu mót ăn ké chiến lợi phẩm. Chú Tư bỏ đì...nhậu. Chú hai Đức ngồi coi đám con nít ăn đồ cúng cô hồn một hồi. Đồ ăn đã hết nên nhiều đứa tản đi chơi chỗ khác, chỉ còn vài đứa ngồi gốc cây nhà chú Hai đợi nhà khác cúng cô hồn thì lên đường thi hành công vụ. Bỗng! Cô ba Huế đi chợ về. Từ xa đã biết là cô ba vì dáng người cao ráo lại còn đi guốc cao, tóc dài, da trắng như sương... cô ba đi như gió thoảng mây bay bởi quần áo cô ba lúc nào cũng tha thướt chứ không như các bà lôi thôi trong xóm. Chú hai Đức động lòng trắc ẩn mà lệnh rằng: “Đứa nào? Vỗ đít cô ba Huế một cái thì tao cho năm đồng khía ăn cà rem.”

Nghe năm đồng khía thì cả đám sáng mắt nhưng có gan chỉ thằng Cu mót. Nó nhỏ con nhưng gan lớn lắm! Nó đợi cô ba ngang nhà chú hai Đức là đứng dậy đi theo.... Cô ba thấy nó theo bên trái thì chuyển cái giỏ nhựa màu hồng sang bên phải vì sợ nó móc giỏ. Nó tạt qua phải thì cô ba chuyển giỏ qua trái mà không biết nó đang lừa thế vỗ mông! Đầu nó chỉ cao bằng lưng quần cô ba mà nó chuyển vị liên tục làm cô ba chóng mặt! Quay mòng mòng theo nó một hồi. Cô ba đứng “hỉ” cho nó một chặp... đâu ngời nó vỗ mông cô ba cái phét rồi chạy.

Cô ba giận quá nhưng làm sao chạy lại nó mà đuổi! Cô ba rẽ trái chứ không đi thẳng về nhà mình nữa, cô theo con đường mòn vượt qua bãi cỏ tranh để đến nhà chú Tư bánh mì - mắng vốn. Đám con nít theo sau như đi hội chợ, thằng nhỏ cao nhất - đi sau cuối là chú hai Đức.

Cô ba mắng té tát vào mặt chú Từ...nào là không biết dạy con; nào là mất dạy có dòng có giống... con nít mới nứt mắt đã dâm ô, vỗ đít đàn bà. Chú Tư nghiêm nghị trả lời: “Đâu phải cô ba méc thì tui kêu con tui về mà đánh nó được! Tui đi bắt Việt cộng nằm vùng thì cũng phải có chứng, có cớ - truyền đơn, súng đạn, cờ xí... mới bắt người ta được. Con tui đánh cô chỗ nào? Cô trưng ra bằng chứng dấu tay của nó thì tui mới xin lỗi cô - trừng trị nó được chứ!”

Cô ba chửi rân trời, xóm làng được dịp nghe giọng Huế đã tai. Chú Tư bánh mì với chú hai Đức thả bộ ra quán Chín Chiều. Đám con nít tâng bốc thằng Cu mót lên thủ lãnh vì nó mới lãnh năm đồng khía của chú Hai. Nó hào phóng như chú Tư vậy, cả đám theo nó kéo nhau ra tiệm tạp hóa thằng Chí (không biết sao cứ hễ có một người Tàu sống trong xóm người Việt thì người Tàu đó mặc xà lỏn chệt - dài tới đầu gối; ở trần quanh năm; trên mu hai bàn chân có vài cục ghẻ - không bao giờ hết - hình như để dụ ruồi?! Và bán tạp hóa. Và bị kêu bằng thằng. Dù ông Chí, tóc bạc trắng đầu từ trước khi đám nhỏ kêu ông bằng thằng được sinh ra).

Đám cô hồn sống đang ăn tép mỡ ép khô là đặc sản của tiệm ông Chí - do thằng Cu mót khao quân thì bắt được tin: Cô ba nhất định không về nhà mình để nấu cơm mà đến nhà ông Tám Hưởng (là ông nội thằng Cu mót; cha của chú Tư bánh mì). Cô ba gào cho được ông Tám ra mặt để mắng vốn: “Ông không biết dạy con cháu ông... dòng giống dâm ô; vô giáo dục; mất dạy ba đời...”

Ông Tám già lắm rồi, xưa làm thợ mộc nhưng búa đục của ông cũng đã đóng bụi vài năm nay vì mắt mũi kèm nhèm nên ông đâu làm gì được nữa. Ông Tám khẩn khoản xin cô ba... cho rờ chỗ bị đánh! Nếu có và đúng là dấu tay thằng Cu mót thì ông Tám xin lỗi cô và trừng trị cha con thằng Cu mót theo lời yêu cầu của cô ba.

Cô ba giận tím gan tím ruột, quảy giỏ đi thưa ông làng, ông xã. Khu vực quân sự gồm: Hội đồng xã, Chi khu cảnh sát, Đồn nghĩa quân, chung một vòng rào kẽm gai - có gài mìn claymore và duy nhất một cổng vào - có lính Nghĩa quân canh gác 24/24 nên con nít không được vào. Thuở ấy, tôi chưa có thẻ “Phóng viên không biên giới” nên không biết thêm được gì!


2.

Tôi dõi mắt theo cô ba, nay đã bảy mươi, trong cái chợ mà đời tôi không ngờ có ngày mình bước chân vô là chợ Đại Hàn; không ngờ lớn hơn là gặp lại cô ba ở một nơi cách làng xưa, xóm cũ tới nửa vòng trái đất. Không ngờ lớn nhất là bốn mươi năm dâu bể dòng đời, đứa bé lên năm đã bốn lăm, cô ba thướt tha... tóc dài, da trắng, dáng điệu nuột nà trong ký ức tôi đã là bà cụ bảy mươi - đi chợ một mình trên xứ lạ. Tôi muốn chạy đến cầm tay bà cụ... “Cô ba nhớ con hôn? Con là thằng...” Nhưng cô ba là cô ba! Cô ba không phải là bà Tư, bà Tám.... cho tôi nhắc lại ân tình!

Năm “giải phóng” thì tôi đã 13, cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới. Nhưng hoàn cảnh đất nước thu nhỏ là xóm làng, gia đình... đã buộc một đứa trẻ chọn lựa chiến tuyến trong thầm lặng. Tôi bị kỳ thị, bạc đãi trong trường học bởi lý lịch gia đình nên tự nhiên tôi đứng về bên thua trận dù tôi chưa cầm súng bao giờ. Bây giờ, tôi đứng đây! Lòng ngập tràn ký ức... dòng sông tuổi nhỏ - không biết chảy về đâu? Nhưng dòng ký ức trong tôi chảy về quê quán một cách tự nhiên của người xa xứ. Những hình ảnh thân quen, những gương mặt bạn bè... cả những muộn phiền xưa cũ gói gọn trong hình hài - quá khứ thướt tha kia! Cô ba. Tôi muốn gọi bằng tiếng lòng con trẻ nơi xứ xa gặp lại quê nhà. Nhưng hai tiếng “Cô ba” sao cứ nghẹn ngào trong cổ họng! Sao không phải là bà Tư; bà Tám... đã từng đánh chửi; cho ăn khi tôi còn chân đất chạy khắp làng trên xóm dưới với cái đầu khét nắng. Sao không phải là bà mẹ của đứa bạn nhỏ nào cũng được - cho tôi chạy đến nắm bàn tay gân guốc, run run.. nhìn vào đôi mắt già nua mờ ảo như xóm làng xa khuất theo dòng thời gian.... mà nhỏ lệ ân tình; cho tôi tìm lại tôi trong mắt mẹ đã mờ; tìm về xóm làng xưa cũ ven sông để nở nụ cười chưa vương mùi lưu lạc.... để thấy mình không phải là một người trung niên lữ thứ trên đất lạ quê người; thấy mình nhỏ nhoi trong đôi mắt mẹ quê là ước mơ của đời lưu lạc...

Cô ba biết tôi theo dõi nên mất tự nhiên của một người đi chợ sớm, thỉnh thoảng cô cũng để mắt tới tôi đang lục lạo những gói là gói mà chẳng biết gói nào là đúng cho sự tìm kiếm của mình. Thật ra đầu óc tôi đã không tập trung tìm kiếm thứ mình muốn tìm vì dòng sông quê tôi - không biết chảy đi đâu? Nhưng dòng ký ức về xóm làng xưa cũ tuôn chảy trong đầu. Ký ức về cô ba như mới hôm qua!

.... Xế chiều ngày 30/04/1975, những người bộ đội còn lá rừng trên ba lô lăm lăm súng AK tiến vào xóm nhỏ. Cô ba đã bỏ cái quần đen; cái áo bà ba lúc nào cũng giặt ủi kỹ càng để thướt tha theo mỗi bước đi. Cô ba trong bộ đồ bộ đội, tóc búi cao để đội nón cối chứ không buông tóc thề cho gió mơn man như xưa; chân dép râu như họ chứ không còn đôi guốc lọc cọc trên đường làng... cái băng đỏ trên cánh tay cô ba là hết những gì đền ơn đáp nghĩa cho một xóm làng đã cưu mang cô ba từ những ngày chân ướt chân ráo vào Nam lánh giặc. Cô hướng dẫn bộ đội chính quy vào tiếp quản khu vực quân sự gồm Hội đồng xã, Chi khu Cảnh sát và Đồn Nghĩa quân. Những người thanh niên ruộng vườn hôm qua đã thành Giải phóng quân sát cánh cùng bộ đội chính quy đi thu lượm súng đạn, quân trang, lương thực, thuốc men... hằng hà trong căn cứ Mỹ. Cả xóm, cả làng nhìn cô ba không nói, nhưng từ trong ánh mắt của họ đã thất vọng não nề, chua chát thay cho quân ăn cơm Quốc gia thờ ma cộng sản.

Sáng ngày 01/05/1975 thì cô ba đã ngồi ghế trưởng xa trên cái xe jeep của Mỹ bỏ lại, có tài xế là một Nghĩa quân thức thời mà danh từ mới gọi là: “Cách mạng ba mươi” Anh làm tài xế cho cô ba bởi trước đây ham thích lái xe bốn bánh nhưng chỉ được rửa xe. Bộ đội chính quy và giải phóng quân chỉ quen đi bộ, đâu ai biết lái xe. Chiếc xe jeep lùn có ăng-ten cao ngất như cần câu, hai người nông dân địa phương đã thôi ra đồng, để cây cuốc ở nhà và vác súng AK ngồi băng sau đi làm cách mạng. Súng lăm lăm như muốn giết hết những ánh mắt chưa quen với cuộc đổi đời. Xe jeep chạy khắp làng trên xóm dưới để ngăn chặn người dân hôi của trong căn cứ Mỹ, bắt bớ những người mà từ ngữ mới gọi là: nợ máu nhân dân. Đến chiều ngày 01/05/1975 thì cô ba chủ trì phiên họp Hội đồng nhân dân đầu tiên trong xóm, địa điểm là cửa nhà chú Hồ Trương. Cô ba tuyên án chú Hồ Trương - trưởng đồn Nghĩa quân là tay sai Đế quốc Mỹ; người mang nợ máu nhân dân lớn nhất ở xóm làng. (Chú Hồ Trương nguyên là lính Thủy quân lục chiến, một lần bị Việt cộng đánh lén đâu ở ngoài Trung, vợ con chú chết hết trong trại gia binh là cái hận những người bắn giết đàn bà, con trẻ. Chú chiến đấu tới cùng và bị thương nặng. Sau khi hồi phục thì quân đội cho chú giải ngũ nhưng chú không cam lòng nên về địa phương tham gia Nghĩa quân. Với tài chỉ huy và kinh nghiệm chiến đấu, chú được đề bạt làm trưởng đồn Nghĩa quân ở địa phương.

Sau kỳ tổng tấn công Tết Mậu thân, Việt cộng thua đậm nên thiếu người. Từ đó, đêm đêm họ mò về xóm làng bắt thanh niên vô bưng, ai không đi thì họ giết dã man bằng cách trói lại rồi đập đầu bằng dầm chèo chứ không dám bắn vì sợ tiếng súng làm động đến căn cứ Mỹ mà lại có căn cứ lính Nhảy dù bên cạnh nữa. Chú Hồ Trương với tư cách trưởng đồn Nghĩa quân đã âm thầm phục kích đường rút lui của địch và làm cỏ bọn thảo khấu bằng chiến công vang dội là sáng sau đêm phục kích, chú đưa về chợ Xã 14 xác địch quân Việt cộng cho đồng bào nhận diện - toàn những nông dân quen mặt, người đánh xe ngựa, kẻ vác lúa thuê ngoài nhà máy chà... Giặc căm thù chú tới xương tủy, họ lên kế hoạch công đồn Cây Khô, cũng là đồn Nghĩa quân biên trấn với mật khu Việt cộng để trả thù cho 14 đồng chí đi cướp của giết người mà chết không toàn thây.

Chú Hồ Trương với kinh nghiệm dạn dày trận mạc. Chú, tương kế tựu kế, đúng đêm tin tình báo cho hay giặc sẽ công đồn Cây Khô, chú cho Nghĩa quân đồn chú làm trưởng đồn đưa rượu thịt ra đồn Cây Khô để ăn mừng chiến công vang dội của Nghĩa quân địa phương. Chú chỉ giả tổ chức ăn nhậu trong đồn Cây Khô, cho hết lính tráng giả say... nhưng kỳ thực lính Nghĩa quân rút hết ra ngoài. Việt cộng lọt vô đồn trống! Khi hay trúng kế thì đã muộn!!! Bên ngoài Nghĩa quân bao vây, sau lưng Nghĩa quân lại có lính Nhảy dù yểm trợ thì chạy lên trời cũng không thoát. Từng người nông dân bỏ súng quy hàng nên tiếng tăm chú Hồ Trương lớn lắm! Ngoài cái dũng chú có cả cái trí nên Việt cộng treo giải cái đầu chú Hồ Trương cả trăm ngàn mà một tờ năm trăm con cọp hồi xưa đã lớn biết chừng nào?

Thành tích chống cộng của chú còn náo động đến mức, chú lặng lẽ dẫn theo có hai người Nghĩa quân đi phục kích tay kinh tài về thu thuế nhà máy chà. Còn ai trồng khoai đất này là chú Hồ Trương với chú hai Đức, chú Tư bánh mì. Ba chọi ba với tổ kinh tài của Việt cộng, chú bắt được tay kinh tài với cặp táp tiền lên đến bạc triệu, chú đem về 2 xác một bắt sống với cặp táp tiền nộp lên cấp trên. Thiếu tá Quận trưởng phải đáp trực thăng xuống sân Hội đồng Xã để gắn huy chương...

Nhưng thời oanh liệt nay còn đâu? Chiều ngày 01/05/1975. Ba người nông dân trong xóm chĩa ba cây AK vào chú Hồ Trương trước cửa nhà. Sau khi cô ba tuyên án chú Hồ Trương - nợ máu nhân dân. Cô ba tuyên lệnh xử bắn đến lần thứ hai mà ba cây AK cứ run cầm cập! Họ là nông dân. Đất, nước miền Nam đẻ họ ra để yêu chuộng hòa bình chứ không phải chiến tranh; yêu thương cốt nhục chứ không phải cuồng sát đồng bào; cây lúa trên đồng trĩu bông mới là ước mơ của họ. Sao bắt họ giết người trong tầm đạn từ nòng súng tới tội nhân chỉ chừng ba mét!

Chú Hồ Trương dõng dạc tuyên bố: “Tụi bay sợ hả? Cứ bắn đi! Tao chết thành ma cũng không tha Việt cộng.” Ba người nông dân hạ súng, khóc ròng. Ba người bộ đội răng hô phải thay mặt để thi hành án. Ôi! Hùm chết để da người ta chết để tiếng. Vĩnh biệt chú Hồ Trương năm tôi 13 tuổi. Tiếp theo là hình ảnh chú hai Đức, chú Tư bánh mì lao động khổ sai - đào ao cá bác Hồ ngay trong khu vực quân sự mà ngày xưa các chú đã canh giữ, còn hoài trong ký ức tôi. Người cho tôi ký ức về chiến tranh và hòa bình trên quê hương tôi, sao nhởn nhơ ở Mỹ một cách thiếu công bằng vậy ông trời?!

Cô ba nhìn lén tôi tôi biết! Nhưng dòng ký ức không ngăn được cứ tuôn chảy trong đầu óc tôi... những ngày tháng 5 đầy máu và nước mắt của ba mươi ba năm trước; của xóm làng tôi yêu lần lượt oán thù, thương hận... Có phải người đàn bà này là cội nguồn của mọi tội lỗi trên quê hương tôi? Hình ảnh cô ba tiều tụy sau tháng năm tù đày - trở về xóm cũ trong sự rẻ khinh của bà con cô bác lại động lòng tôi. (Sau tháng 5 - cô ba làm trời làm đất ở rẻo đất quê mùa mà tôi yêu nhớ. Cô ba biến mất trong tiếng thở nhẹ phào của bà con xóm làng. Có người cho là cô ba đi làm cách mạng cao hơn ở Thành phố, ở Trung ương không chừng?! Nhưng năm 1979 thì cô ba về lại mái nhà xưa sau 4 năm tù. Người đàn bà của quỷ lầm than trong tiếng kinh cầu, tiếng mõ đêm đêm... cô ba thướt tha, diệu dàng, da trắng như sương... chỉ còn là bóng mờ tội ác núp trong áo xám quy y. Chuyện ngoài Chùa sư nữ mà tôi nghe mẹ tôi kể rằng: Cô ba có người chị theo Việt cộng từ hồi còn đi học, làm nội gián cho Việt cộng ở Huế tới lấy chồng là sĩ quan Cảnh sát Cộng hòa, có đứa con gái năm, sáu tuổi thì Việt cộng mới tấn công Huế vào dịp Tết Mậu thân. Cô chị xử chồng rồi ra mặt là người cách mạng và gieo ác nghiệp lên thân phận đồng bào vô tội ngoài Huế. Khi Quân đội Quốc gia tái chiếm Huế thì cô chị rút theo vô bưng chứ đã giết chồng, giết người không kể xiết ở Kinh thành thì làm sao ở lại với Quốc gia được nữa? Cô chị này còn tung tin giả là đã chết trong chiến tranh để phe Quốc gia thôi làm khó gia đình còn ở lại vùng Quốc gia. Cha cô ba sợ họ bỏ tù cô ba nên dẫn cô với con mồ côi của cô hai trốn vào Nam vì chồng cô ba mới đích thị là Việt cộng nằm vùng ngoài Huế, chết trong Mậu Thân ở Huế. Nhưng cô gạt bà con xóm làng trong Nam là chồng cô chết trong màu áo Quốc gia. Chính mối hận lòng là Quốc gia mà cụ thể là Thủy quân lục chiến đã đưa chồng cô sang thế giới bên kia khi họ mới nên vợ chồng, còn chưa kịp có con nên cô thù chú Hồ Trương cho cụ thể từ khi nghe chú từng là Thủy quân lục chiến, diệt cộng tới bị thương nặng còn không chịu giải ngũ, còn tham gia Nghĩa quân để diệt cộng tới cùng.

Ngày 30/04/1975 đã chấm dứt giai đoạn chết như rươi của Việt cộng, lịch sử mở ra thời kỳ thụ hưởng cho những những người may mắn sống sót. Cô ba chớp thời cơ để trả thù chồng bằng cách khai báo chính mình là người chị của cô với thành tích tham gia cách mạng ngoài Huế. Sau tết Mậu Thân, tránh mặt vào Nam để giữ gìn tổ chức trước sự tinh anh của cảnh sát Quốc gia và an ninh Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Quả thật cô có lên Thành phố để nhận chức cao hơn, nhưng vì Thành phố Sài gòn là thủ phủ miền Nam nên trung ương rà lại danh sách cán bộ lãnh đạo cho chắc không có tàn dư Mỹ-Ngụy len lỏi vào... Và sự vụ bể ra là cán bộ Thành ủy Sài gòn và cán bộ Thành ủy thành phố Huế - cùng tên cùng họ, ngày tháng năm sanh... vì chị cô phao tin chết giả xưa kia để qua mắt Cảnh sát Quốc gia chứ người còn sống.

Trước mặt Ủy ban quân quản để xác minh ai là đồng chí thật của cách mạng? Cô chị cộng sản đã từng giết chồng, bỏ con, giết biết bao đồng bào ngoài Huế không gớm tay thì sá gì một cô em ruột mà không bắn bỏ cho rộng đường cách mạng. Nhưng cách mạng khoan hồng cho cô ba có chồng là Việt cộng nằm vùng, chết trong tết Mậu thân ở Huế, nênà cho cô vô tù để nghỉ ngơi. Coi như lời cảm ơn chận thành của cách mạng.)

Câu chuyện ngoài Chùa mà tôi nghe như nước đổ đầu vịt không ngờ còn đầy đủ trong tôi đến thế! Một đời người phụ nữ đắng cay bởi chiến tranh. Một đồng bào không may như nhiều đồng bào khốn khổ đi qua khói lửa mịt mù để hòa bình tay trắng với chuyên môn vắt chanh bỏ vỏ là sở trường cộng sản. Cô ba cũng là nạn nhân cộng sản thì đúng hơn là tội ác chiến tranh. Không biết nhiều năm sống trên nước Mỹ, trái tim tôi đã quên được mấy hận thù?! Những đêm không ngủ với nỗi nhớ nhà, nhớ mấy gốc dừa đang mùa ra hoa, rụng trắng bờ aoà con sông xưa không còn xanh trong như thời tôi nhỏ dại đã chảy về đâu những thắm thiết ân tình?...

Tôi chẳng mua được gì trong chợ - sáng hôm nay. Cô ba trả tiền mấy gói mì gói Đại Hàn; hũ kim chì...cô nhìn tôi lần nửa trước khi ra cửa chợ để ra về. Tôi theo ra ngoài hành lang chợ còn vắng tanh, chỉ có gió lạnh làm lòng tôi se thắt. Cô ba trong ký ức lên năm của tôi vẫn diệu dàng theo từng bước đi; cô ba mang băng đỏ, ngồi trên xe jeep chỉ là nông nỗi đàn bà; cô ba tóc trắng, lưu lạc xứ người... không biết có chồng con trong tuổi già hiu quạnh làm se thắt lòng tôi. Tôi muốn gọi “Cô ba” bằng tiếng lòng con trẻ nơi xứ xa để xóa bỏ hận thù! Nhưng hình ảnh dõng dạc của chú Hồ Trương trước khi chết đã bóp hầu, bóp họng tôi tới khó thở. Nước mắt tôi nhìn theo vóc dáng hao gầy.

Phan
  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #164352 · Replies: 0 · Views: 8,488

PhuDung
Posted on: Sep 30 2020, 12:30 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Đừng để dành điều tốt nhất cho đến cuối cùng


Chữ “bận” (忙) là sự kết hợp của chữ “tâm” (心) và chữ “vong” (亡), cứ mãi bận rộn rồi thì tâm cũng sẽ chết.

Tác giả Điền Duy chia sẻ trong cuốn sách ‘Hoa điền bán mẫu’ rằng: “Chúng ta nhận được những kịch bản khác nhau trong đời. Có người thì bình lặng, người thì nồng nhiệt, khi thì cười, lúc lại khóc. Dù ra sao, ta vẫn phải diễn cho đến khi hạ màn.”

Cuộc đời của chúng ta quá quý giá, đến mức mà dù có sống ra sao cũng có cảm giác như đã lãng phí. Nếu phải đưa ra một lời khuyên để không lãng phí cuộc đời, thì tôi nghĩ đó chính xác là: Đừng để dành điều tốt nhất cho đến cuối cùng.

Phần 2: Đừng để dành điều tốt nhất cho đến cuối cùng


Đừng đợi đến khi quá muộn, đây là điều mà tất cả mọi người đều hiểu, nhưng không phải ai cũng làm được.

Nhà văn nổi tiếng Mạc Ngôn đã chia sẻ trải nghiệm của một người bạn như sau:
Vợ của người bạn qua đời, khi thu dọn những di vật mà vợ để lại, anh ấy nhìn thấy một chiếc khăn choàng lụa còn chưa tháo mác. Bởi vì chiếc khăn này rất đẹp, rất đắt tiền nên vợ anh cứ mãi không nỡ dùng, cứ muốn đợi đến dịp đặc biệt.

Kết quả là cho đến ngày ra đi rồi cũng chưa đeo được chiếc khăn.
Anh ấy cảm khái rằng: Đừng để dành những gì tốt đẹp vào dịp đặc biệt rồi mới lấy ra dùng, mỗi ngày đang sống đều là ngày đặc biệt rồi!

Cũng giống như người vợ kia – chiếc khăn đẹp cứ mãi tiếc không choàng, chúng ta cũng luôn cất giữ những điều tốt đẹp để dành đến sau này, kết quả lại chẳng được như mong muốn..

Khi còn trẻ muốn đi leo núi mà chưa đi được, kết quả là về già bạn đành nhìn núi thở dài.

Khi đi mua sắm thích một cái áo nhưng đắt quá, đợi đến khi đủ tiền thì áo đã lỗi thời rồi.

Còn nhỏ, con muốn chơi đùa với bạn mà bạn mãi bận rộn, đến khi có thời gian thì con đã lớn rồi, cũng chẳng còn muốn chơi cùng bạn nữa.

Con trẻ muốn đi thả diều, đến khi bạn có thời gian thì con đã không còn thích diều nữa.

Vợ luôn nấu cơm, ôm con chờ bạn về nhà cùng ăn, nhưng bạn cứ mãi bận công việc, tiệc tùng ở công ty, đến một ngày về nhà ăn cơm cùng vợ con thì cô ấy đã bế con bỏ đi rồi.

Cha mẹ già muốn bạn có thể thỉnh thoảng về thăm họ nhưng bạn cứ lo làm ăn mãi, đến khi có thời gian về thăm cha mẹ thì họ đã qua đời…

Cuộc sống cũng giống như một giỏ táo tươi ngon vậy, bạn cứ chần chừ mãi không ăn. Đến cuối cùng táo bị hỏng rồi, bạn mới cảm thấy tiếc và bắt đầu ăn những quả chưa hỏng hết, ăn xong táo hỏng thì những quả tươi cũng đang hỏng, bạn lại tiếp tục phải ăn táo hỏng…

Bạn muốn để dành điều tốt nhất cho đến cuối cùng, nhưng lại thành ra cả đời chỉ ăn táo hỏng.

Thực phẩm sẽ hết hạn, hạnh phúc cũng vậy!

Hạnh phúc chẳng những sẽ hết hạn, mà còn sẽ biến mất khi chúng ta bận rộn.
Chữ “bận” (忙) là sự kết hợp của chữ “tâm” (心) và chữ “vong” (亡), cứ mãi bận rộn rồi thì tâm cũng sẽ chết.

Có rất nhiều người vô tình đánh mất chính mình và những điều quan trọng nhất cuộc đời trong lúc bận rộn.

Vừa hy sinh, vừa mất đi. Cả đời vội vã chạy nên không thể nào tận hưởng được phong cảnh đẹp bên đường.

Trước đây tôi từng đọc được một câu chuyện rằng, ở vùng núi Quý Châu có một bà cụ, con gái đi làm xa, mỗi năm chỉ về nhà ăn Tết với mẹ một lần, sau đó lại vội vã đi.

Mẹ thương con công việc bận rộn nên luôn nói rằng mình khỏe, lần nào bị bệnh cũng không cho con hay, sức khỏe mỗi ngày một yếu đi nhưng lại giả vờ là mình rất khỏe.
Bệnh lâu ngày, cuối cùng vào một đêm nọ, bà mẹ qua đời, sau đó vài ngày hàng xóm mới phát hiện ra. Con gái biết chuyện vội vàng quay về gào khóc trước thi thể của mẹ: “Mẹ ơi, con hối hận lắm, thật sự rất hối hận.”
Lúc này đây, hối hận và nước mắt đều đã muộn…

Từ đây về sau, trong nhà sẽ không còn hình bóng bố mẹ đợi chờ. Liệu chúng ta có giống như cô gái này chăng, vẫn cứ luôn trì hoãn:
Đợi sau khi kiếm được nhiều tiền sẽ đón bố mẹ đến sống cùng để bố mẹ an hưởng tuổi già.

Đợi đến khi sự nghiệp ổn định hơn sẽ bày tỏ với người mà mình thích.
Đợi làm xong công việc sẽ cùng người thân đi du lịch…

Kết quả là, cứ để họ mãi chờ đợi, chờ đợi… để rồi đánh mất những người yêu thương mình nhất!

Sống cho hiện tại, đừng bỏ lỡ thời gian

Một câu chuyện ngày xưa kể về ngày cuối cùng của một tội phạm tử hình như sau:

Có một thanh niên ăn không ngồi rồi, toàn là đi trộm gà trộm chó. Một ngày nọ, anh ta đi trộm ngựa ở doanh trại quân đội, bất cẩn bị bắt được. Tướng quân nổi giận lôi đình muốn chặt đầu anh ta để cảnh cáo dân chúng, nhưng cho phép anh ta nói ra tâm nguyện cuối cùng của mình trước khi chết.

Người thanh niên đau khổ nói: “Tôi muốn nấu cơm cho mẹ, từ nhỏ tôi luôn làm mẹ tức giận mà chưa từng hiếu kính với bà.”

Tướng quân hỏi: “Còn gì nữa không?”

“Tôi muốn xin lỗi Tiểu Thúy, tôi đã hứa sẽ tặng trâm ngọc cho cô ấy, nhưng xem ra là không làm được rồi.”

“Còn nữa không?”

Anh ta gào khóc nói: “Tôi còn muốn học để kiếm việc làm, không muốn trộm gà trộm chó nữa, thế nhưng bây giờ nói gì cũng đã muộn rồi….”

Tướng quân nghe xong cuối cùng lại thả anh ta đi và nói:

“Ngươi đường đường là nam nhi, hiếu kính mẹ già, tặng trâm ngọc cho người yêu, học nghề – vì sao đến ngày cuối cùng mới nghĩ đến làm những điều này vậy?. Ta lệnh cho nhà ngươi từ nay về sau phải xem mỗi ngày đều là ngày cuối cùng, có như vậy thì mới không phụ ta tha cho người một mạng.”

Chàng trai đã thức tỉnh, quyết không thể để những điều quan trọng đến phút cuối mới làm, nếu không thì sẽ tiếc nuối cả đời.

Đừng để những điều tốt đẹp nhất đến lúc cuối cùng mới làm, đừng để người quan trọng nhất đến phút cuối cùng mới yêu thương họ!

Sưu Tầm
  Forum: NGHỆ THUẬT SỐNG - TÂM LÝ HỌC · Post Preview: #164245 · Replies: 0 · Views: 8,565

PhuDung
Posted on: Aug 19 2020, 11:15 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Tiếng Việt dễ thương!


Nam kêu Kỳ, Bắc gọi Cọ (gọi là Kỳ Cọ)
Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi

Bắc quở Gầy, Nam than Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh
Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
Nam mần Sơ Sơ, Bắc làm Lấy Lệ

Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc Vạc tre, Bắc kê Lều chõng
Bắc nói trổng Thế Thôi, Nam bâng quơ Vậy Đó
Bắc đan cái Rọ, Nam làm giỏ Tre

Nam không nghe Nói Dai, Bắc chẳng mê Lải Nhải
Nam Cãi bai bãi, Bắc Lý Sự ào ào
Bắc vào Ô tô, Nam vô Xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng

Khi nắng Nam mở Dù, Bắc lại xoè Ô
Điên rồ Nam Đi trốn, nguy khốn Bắc Lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc Từ từ, Bắc khuyên Gượm lại
Bắc là Quá dại, Nam thì Ngu ghê

Nam Sợ Ghê, Bắc Hãi Quá
Nam thưa Tía Má, Bắc bẩm Thầy U
Nam nhủ Ưng Ghê, Bắc mê Hài Lòng
Nam chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh

Nhanh nhanh Nam bẻ Bắp, hấp tấp Bắc vặt Ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi! Bắc hô: cút xéo!

Bắc bảo: cứ véo! Nam: ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn!
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác

Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó

Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam: ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi!
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội

Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy

Bắc quậy Sướng Phê, Nam rên Đã Quá!
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng

Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa

Bắc vua Bia Bọt, Nam chúa La-De
Bắc khoe Bùi Bùi lạc rang, Nam: Thơm Thơm đậu phọng
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn

Nam toe toét “hổng chịu đèn”, Bắc vặn mình “em chả”
Bắc giấm chua “cái ả”, Nam bặm trợn “con kia”
Nam mỉa “tên cà chua”, Bắc rủa “đồ phải gió”
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ

Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan

Bắc xuýt xoa “Cái Lan xinh cực!”,
Nam trầm trồ “Con Lan đẹp hết chê!”
Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền mới lâu…

Sưu tầm
  Forum: TRAU DỒI TÌM HIỂU TIẾNG VIỆT - CA DAO - TỤC NGỮ · Post Preview: #164069 · Replies: 0 · Views: 1,928

PhuDung
Posted on: Aug 19 2020, 11:15 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



45 Câu nói dưới đây của người Do Thái,

rất hay cho chính bản thân và cuộc sống..



Biết những câu nói nổi tiếng dưới đây của người Do Thái bạn sẽ hiểu được vì sao họ lại thông minh và giàu có như vậy.

1. Tài sản có thể trở về số 0 nhưng kiến thức phải càng ngày càng mở rộng.
2. Thời gian tốt nhất để trồng cây là vào 20 năm trước. Thời gian tốt thứ hai là ngay bây giờ.
3. Điếc, nhưng không phải là không biết gì bởi còn có thể đọc được sách báo.
4. Nếu không học tập, cho dù đi vạn dặm đường xa thì mãi vẫn chỉ là người đưa thư mà thôi.
5. Ai cũng than vãn thiếu tiền nhưng chả ai than thở thiếu trí khôn cả.
6. Trên đời có 3 thứ không thể bị ai cướp mất: Đầu tiên là thức ăn đã vào trong dạ dày, hai là ước mơ đã ở trong lòng, ba là những kiến thức đã học trong đầu.
7. Người lớn dạy trẻ con học nói, còn trẻ con dạy người lớn im lặng.
8. Một người chỉ ra sai sót của bạn chưa chắc đã là kẻ thù của bạn; một người luôn luôn ca ngợi bạn chưa hẳn đã là bạn của bạn.
9. Hãy sợ con dê húc phía trước, con ngựa đá phía sau, còn kẻ ngu thì phải đề phòng tứ phía.
10. Kinh nghiệm là cái từ mà mọi người dùng để gọi các sai lầm của mình.
11. Khi bạn khóc vì không có giày để đi, hãy nhìn những người không có chân.
12. Khi già đi người ta thị lực kém đi nhưng nhìn thấy nhiều hơn.
13. Đừng sợ đi chậm. Chỉ sợ đứng yên.
14. Ta không cầu xin cho gánh nặng sẽ nhẹ hơn. Nhưng cho đôi vai hãy vững vàng hơn.
15. Bông lúa càng nhiều hạt, đầu nó càng rủ xuống. Người giỏi thường hay khiêm tốn.
16. Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin là mất tất cả.
17. Phần lớn người ta thất bại không phải do họ không có khả năng, mà là vì ý chí không kiên định.
18. Đừng nói gì trừ khi bạn đã học được cách im lặng.
19. Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản, ki bo chỉ làm nghèo đi.
20. Một hành trình ngàn dặm cũng chỉ khởi đầu từ bước đi đầu tiên.
21. Nếu vấn đề nào giải quyết được bằng tiền, thì đó không phải là vấn đề mà là chi phí.
22. Nếu bạn bị vấp ngã, điều đó chưa chắc có nghĩa bạn đang đi sai đường.
23. Có tiền cũng không tốt lắm, cũng như thiếu tiền cũng chẳng tồi lắm.
24. Không có tình huống vô vọng, chỉ có giải pháp không chính xác.
25. Chúa trời cho con người hai tai và một miệng để nghe nhiều nói ít.
26. Luôn luôn nhìn vào mặt tươi sáng của sự vật. Nếu không thấy, hãy đánh bóng cho đến khi nó tỏa sáng.
27. Nếu cuộc sống không dần dần tốt lên thì nó sẽ kém đi.
28. Đừng sợ rằng bạn không biết một cái gì đó. Hãy sợ rằng bạn không chịu tìm hiểu về nó.
29. Con người phải sống tối thiểu là vì sự tò mò.
30. Một khi bạn mắc một sai lầm, điều tốt nhất bạn có thể làm là cười vào nó.
31. Nếu mà làm từ thiện chẳng tốn kém gì thì ai cũng làm từ thiện cả.
32. Hầu như những loại hoa có màu trắng đều rất thơm, hoa có màu sắc đẹp đẽ thường không thơm. Người cũng vậy, càng mộc mạc giản dị, càng tỏa hương thơm từ bên trong.
33. Chết vì cười còn hơn là chết vì hoảng sợ.
34. Một người đàn ông có thể chuyển núi bắt đầu từ việc mang đi những viên đá nhỏ.
35. Khi chúng ta đem hoa tặng cho người khác thì người ngửi được mùi hương đầu tiên là chính chúng ta. Khi chúng ta nắm bùn ném vào người khác, thì người bị làm bẩn đầu tiên là bàn tay chúng ta.
36. Ngủ trên gối êm không có nghĩa có giấc mơ đẹp.
37. Nếu bạn không thể xử lý những việc nhỏ thì những việc lớn của bạn sẽ trở nên vô nghĩa.
38. Khi bồ câu kết bạn với quạ, mặc dù cánh của nó vẫn còn màu trắng nhưng trái tim thì dần dần chuyển sang màu đen.
39. Lúc nào vô công rỗi nghề thì người ta sẽ làm những việc long trời lở đất.
40. Khi còn trẻ phải làm những việc bạn nên làm, thì khi về già mới có thể làm những việc bạn muốn làm.
41. Cái khuy áo đầu tiên sai, cái sau cùng khó mà chữa được.
42. Hạnh phúc chỉ đến khi cánh cửa đã được mở.
43. Một ngôi nhà nhỏ đầy ắp tiếng cười có giá trị hơn một cung điện đầy nước mắt.
44. Cười là loại mỹ phẩm rẻ nhất, vận động là loại y dược rẻ nhất, chào hỏi là loại chi phí giao tiếp rẻ nhất.
45. Kinh nghiệm giống như một chiếc lược mà cuộc đời chỉ ban tặng sau khi chúng ta đã mất hết cả tóc.


Sưu tầm
  Forum: NGHỆ THUẬT SỐNG - TÂM LÝ HỌC · Post Preview: #164070 · Replies: 0 · Views: 1,510

PhuDung
Posted on: Aug 19 2020, 11:15 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Cái giá cuộc bức hại Cơ Đốc giáo: Một đế chế diệt vong, một dân tộc lưu lạc


Khoảng 2.000 năm trước, Chúa Jesus, con của Thượng đế đã hạ thế truyền đạo. Bởi vì số người tin Ngài càng ngày càng đông, đã khiến những người Do Thái tức giận. Kể từ đó, một cuộc diệt chủng đã xảy ra, gây nên cái chết cho hàng triệu tín đồ Cơ Đốc giáo.

Lời tiên đoán của Chúa Jesus về kết cục của người Do Thái

Vào thời Do Thái giáo mạt Pháp hoàn toàn không thể cứu rỗi con người nữa, Đức Jesus đã xuất thế, truyền giảng tân Pháp, quy chính giáo nghĩa, đã khiến một lượng lớn người tin theo, điều này đã chọc giận thế lực Do Thái giáo đương thời.
Các thượng tế và kỳ mục là người đứng đầu dân tộc Do Thái, họ muốn hại chết Đức Jesus. Nhưng thay vì trốn tránh họ, Chúa Jesus vẫn quay trở lại Jerusalem, thánh địa của Do Thái giáo. Lúc ấy, Chúa Jesus đã thấy trước rằng Ngài sẽ bị những kẻ xấu đóng đinh trên Thập tự giá, cũng như quả báo mà người Do Thái sẽ phải chịu vì tội ác này.

Tại Jerusalem, Chúa Jesus và các môn đồ đi vào thăm Thánh điện. Khi bước ra ngoài Thánh điện, các môn đồ của Chúa Jesus vẫn bị choáng ngợp bởi sự huy hoàng của nó.

Thánh điện được xây bằng đá cẩm thạch, mái điện màu vàng kim và gần như tất cả phần bên ngoài Thánh điện được phủ một lớp vàng. Khi được ánh sáng mặt trời chiếu rọi, vẻ rực rỡ và huy hoàng của nó không sao mô tả được.

Khi các môn đồ Chúa Jesus thấy công trình bằng đá cẩm thạch huy hoàng này, họ trở nên kích động. Một môn đồ nói với Ngài:

“Thưa Thầy, xin Thầy xem, những tảng đá này thật to lớn biết bao! Những tòa nhà này hoành tráng dường nào!”

Đức Chúa Jesus nói: “Ngươi thấy những tòa nhà to lớn này không? Rồi đây sẽ không còn một tảng đá nào chồng trên một tảng đá nào. Tất cả sẽ bị đổ xuống”.
Và rồi Chúa Jesus tiên tri về thời điểm Thánh điện bị phá:

“Khi các ngươi thấy Jerusalem bị các đạo quân vây hãm, hãy biết rằng thời kỳ hoang tàn của nó đã gần. Bấy giờ ai đang ở Judea, hãy trốn lên núi; ai đang ở trong thành, hãy tìm cách thoát ra; ai đang ở ngoài đồng, đừng trở vào thành, vì đó là những ngày báo trả, để tất cả những gì đã viết có thể được ứng nghiệm. Khốn thay cho những phụ nữ mang thai và những người mẹ có con còn bú trong những ngày ấy, vì sẽ có cơn đại nạn giáng xuống trong xứ, và cơn thịnh nộ nghịch lại dân này. Họ sẽ bị ngã chết bởi lưỡi gươm và bị bắt đem lưu đày giữa các nước…”

Không lâu sau, Chúa Jesus bị bắt trên đỉnh núi Olives. Ngài bị đưa đi và bị thẩm phán phi pháp trước Sanhedrin (Tòa án tối cao của Do Thái giáo) và các đại chủ tế. Rồi Ngài bị đưa tới chỗ Pontius Pilate, Tổng đốc Judea của La Mã từ năm 26 đến năm 36. Những người Do Thái đã yêu cầu Pilate kết án Chúa Jesus.

Pilate không đồng ý với quyết định xử tử Chúa Jesus của Sanhedrin và không muốn xét xử Chúa Jesus. Do đó Pilate đã gửi Chúa Jesus tới Herod, và rồi Herod lại gửi lại Chúa Jesus cho Pilate. Pilate tuyên bố rằng Chúa Jesus vô tội và muốn thả Ngài. Nhưng dưới áp lực mạnh mẽ của đám đông dân chúng Do Thái bị kích động, Pilate cuối cùng đã phán Chúa Jesus tội tử hình.

Sau khi Chúa Jesus chết, lời tiên tri của Ngài đã trở thành hiện thực. Năm 70, người Do Thái phản kháng lại Đế quốc La Mã và binh lính La Mã đã bao vây Jerusalem. Nhiều người Do Thái đã quay trở lại giúp đỡ. Không có nhiều lương thực ở Jerusalem, và dịch bệnh cũng bùng phát khắp thành phố. Kết quả là, vô số người đã bị chết bởi đói và dịch bệnh.

Người ta nói rằng trong một đêm, 40 thi thể được quẳng ra ngoài thành. Mặc dù người Do Thái đã cố hết sức bảo vệ thành phố, cuối cùng họ vẫn thất thủ. Người La Mã tràn vào thành phố và phá hủy ngôi điện. Đại quân La Mã thấy rằng rất nhiều vàng bạc đã bị tan chảy bởi ngọn lửa và len vào kẽ giữa những tảng đá cẩm thạch. Do đó Tướng quân La Mã đã ra lệnh quân lính đục hết vàng bạc ra khỏi khe và họ đã tách từng tảng đá một.

Kết quả là lời tiên tri của Chúa Jesus đã được hoàn tất: “Rồi đây sẽ không còn một tảng đá nào chồng trên một tảng đá nào. Tất cả sẽ bị đổ xuống”. Toàn bộ Thánh điện bị phá hủy và trở thành đống hoang phế.

Người ta nói rằng một triệu người Do Thái đã bị giết trong cuộc chiến và những ai sống sót thì bị bắt và trở thành nô lệ. Họ phân tán tại rất nhiều quốc gia. Điều này lại ứng nghiệm với lời tiên tri của Chúa Jesus: “Sẽ có cơn đại nạn giáng xuống trong xứ, và cơn thịnh nộ nghịch lại dân này. Họ sẽ bị ngã chết bởi lưỡi gươm và bị bắt đem lưu đày giữa các nước…”

Trong số hàng triệu người bị giết chết, không có ai là tín đồ Cơ Đốc giáo. Tại sao? Bởi vì tất cả tín đồ của Chúa Jesus đều nhớ lời Ngài. Do đó khi những tín đồ Cơ Đốc thấy quân La Mã đến, họ đều làm theo lời Chúa Jesus. Những ai ở trong thành thì chạy ra ngoài thành, còn những ai không ở trong thành thì không có ai chạy vào trong thành cả. Một số người di tản lên núi, một số người qua bờ Đông sông Jordan, còn những người khác thì chạy sang các vùng khác. Vì thế khi dân chúng trong thành Jerusalem bị chết bởi nạn đói, dịch bệnh và chiến tranh, thì chỉ những ai tin Chúa Jesus mới được bình an.

Trước khi bị đóng đinh lên Thập tự giá, Chúa Jesus đã nói với những đại tế ti của Do Thái giáo rằng: “Ta là con của Thượng đế, nước của ta và con dân của ta không ở nhân gian, các người hại chết ta, tội nghiệp sẽ quá lớn, suốt đời cũng không cách nào hoàn trả”.

Đại tế ti đáp lại rằng: “Chúng tôi không sợ, nếu ông thật sự là con của Thượng đế, chúng tôi nguyện ý hoàn trả, con dân của chúng tôi cóc thể lại bị giết, cũng có thể bị diệt quốc, không còn quốc gia!”

Những lời này không chỉ định ra tương lai của chính họ, mà còn định ra tương lai hàng nghìn năm của con cháu người Do Thái – người Do Thái hàng nghìn năm qua không có tổ quốc, bị bức hại phiêu bạt tứ xứ.

Đương nhiên, trong những người Do Thái cũng có rất nhiều triệu phú giàu có, đại tài phiệt quốc tế. Điều này đều là do tổ tông của những người này, trong khi kẻ xấu bức hại Chúa Jesus, họ đều là những người Do Thái giáo ở các giai tầng khác nhau đã ra tay giúp đỡ. Mặc dù họ không cứu được, những mà đều đã tận sức rồi, phần chân niệm đó đã cảm động trời đất, nên được trời đất ban cho phúc phận, đắc được đại phúc báo.

Cuộc bức hại của Nero và dịch bệnh

Sau khi Jesus bị hại chết, đệ tử sứ đồ của Ông tiếp tục truyền giáo, trong suốt cuộc bức hại của Do Thái giáo, rất nhiều sứ đồ đã đánh đổi bằng mạng sống. Cuộc bức hại của Do Thái giáo và cuộc bức hại của đế quốc La Mã đan xen lại với nhau.
Năm 64, Nero – người đứng đầu đế quốc La Mã lệnh cho chính phủ bôi nhọ môn đồ Cơ Đốc là “môn đồ tà giáo”, kích động dân chúng La Mã hùa vào cuộc bức hại lớn của chính phủ. Một lượng lớn môn đồ Cơ Đốc bị giết, bị ném vào đấu trường, dưới ánh nhìn và tiếng hô hào của người La Mã, bị mãnh thú xé xác… còn ra lệnh cho người đem môn đồ Cơ Đốc và cỏ khô buộc cả lại, và treo ở trong sân, để làm bó đuốc trong đêm hội.

Cái giá cuộc bức hại Cơ Đốc giáo: Một đế chế diệt vong, một dân tộc lưu lạc - ảnh 3Bức tranh “Lời cầu nguyện cuối cùng của những người tử vì đạo”, đã miêu tả tình cảnh trấn áp giáo đồ Cơ Đốc tàn khốc của đế quốc La Mã: trên các cột ở xung quanh đấu trường, phía bên trái đang bị hỏa thiêu, phía bên phải là những môn đồ Cơ Đốc bị đánh chết trên giá thập tự, ở giữa là những người sắp bị mãnh thú xé xác, cầu nguyện trước khi lâm chung, chính tín bất động. (Ảnh: Baptistatemplom.hu)

Năm 65, La Mã cổ đại bộc phát dịch bệnh (người đời sau có học giả cho đó là bệnh sốt rét). Năm 68, thành La Mã bạo động, Nero trong khi chạy trốn đã tự sát, thọ chỉ mới 31 tuổi.

Các hoàng đế La Mã kế vị vẫn tiếp tục bức hại đối với môn đồ Cơ Đốc, họ không tin rằng bức hại tín ngưỡng sẽ mang đến ác báo cho quốc gia, nhân dân, càng không tin rằng trường dịch bệnh kia là trời đang cảnh cáo. Cơ Đốc giáo vẫn luôn bị coi là phi pháp, có địa phương trấn áp nghiêm trọng thậm chí tàn sát, cũng có quan viên mắt nhắm mắt mở. Cuộc bức hại lúc nặng lúc nhẹ kéo dài gần 300 năm, dịch bệnh nhấn chìm La Mã cũng như âm hồn bất tán.

Cuộc bức hại của Aurelius và dịch bệnh

Năm 161, Aurelius Anthony trở thành nguyên thủ của La Mã, ông ta diệt trừ giáo đồ Cơ Đốc trên toàn quốc, hạ chiếu đem gia sản của môn đồ Cơ Đốc cho người tố cáo, dụ dỗ người trên toàn quốc đi truy tìm, tố cáo môn đồ Cơ Đốc. Chính phủ dùng vô vàn các loại tra tấn, cưỡng bức môn đồ Cơ Đốc phải từ bỏ tín ngưỡng, ai không từ bỏ thì sẽ bị chém đầu hoặc ném vào đấu trường bị mãnh thú xé xác, và còn để cho khán giả xem như giải trí.

Sau khi Aurelius Anthony chấp chính được 5 năm, đại dịch giáng xuống, sử gọi là “dịch bệnh Anthony”. Theo nghiên cứu tư liệu thống kê nhân khẩu cho thấy, tỷ lệ tử vong trong dịch bệnh Anthony ước chừng 7-10%, mà ở thành thị và trong quân đội ước chừng 13-15%, Aurelius Anthony và một vị hoàng đế cùng cai trị khác cũng chết vì bệnh dịch trong khoảng thời gian đó. Đại dịch tàn phá 16 năm, đế quốc cổ La Mã đi đến suy bại.

Cái giá cuộc bức hại Cơ Đốc giáo: Một đế chế diệt vong, một dân tộc lưu lạc - ảnh 4Dịch bệnh Anthony kéo dài tới 16 năm, làm suy tàn đế chế La Mã từng hùng bá châu Âu. (Ảnh: Peru.com)

Cuộc bức hại của Decius và bệnh dịch

Năm 249, Decius trở thành nguyên thủ của quốc gia, khởi đầu cho một lần bức hại chưa từng có trên quy mô quốc gia, ông ta hạ lệnh, lấy hình thức pháp luật để quy định ai ai cũng phải đi bái tế tượng thần của La Mã và tượng của hoàng đế La Mã, nếu không có chứng nhận đó thì sẽ bị xử chết.

Bởi vì Cơ Đốc giáo quy định không thể đi bái tế Thần khác, cho nên cũng bằng như là hủy đi tín ngưỡng của Cơ Đốc giáo, một lượng lớn môn đồ Cơ Đốc bởi kiên trinh bất khuất mà bị xử chết.

Đến năm sau, dịch bệnh lại lần nữa giáng xuống, Decius cũng chết vì chiến tranh. Đợt dịch bệnh này bởi vì Giám mục Cyprian của Cơ Đốc giáo có ghi chép, được gọi là “dịch bệnh Cyprian”. Đợt đại dịch này tàn phá gần 20 năm, 25 triệu người bị chết. Vào thời kỳ đỉnh cao, thành La Mã mỗi ngày chết 5.000 người, sức chiến đấu của quân đội giảm mạnh. Nguyên thủ kế vị là Claudius II cũng bị chết vì dịch bệnh.

Lần điên cuồng cuối cùng và huy hoàng vô hạn


Năm 284, Diocletian trở thành nguyên thủ của La Mã. Vào thời kỳ đầu trị vì ông ta khá khoan dung đối với môn đồ Cơ Đốc, con rể của ông ta là Galerius lại coi Cơ Đốc giáo như kẻ thù, hai lần phóng hỏa giá họa cho môn đồ Cơ Đốc, cuối cùng đã dẫn đến cuộc đại bức hại vào năm 303 của Diocletian: Đốt hủy thư tịch của Cơ Đốc giáo, phá hủy giáo đường; tịch thu tài sản; thanh trừ môn đồ Cơ Đốc trong quân đội và quan lại; về sau trực tiếp lấy tín ngưỡng làm vạch phân chia, tin theo Cơ Đốc thì sẽ bị bắt, bị tra tấn đày đọa, không từ bỏ tín ngưỡng sẽ bị xử chết.

Sau khi điên cuồng được hai năm, sức khỏe của Diocletian suy giảm nhanh chóng, không thể không thoái vị, sau khi Galerius tiếp quản chính đế vẫn tiếp tục bức hại. Lần này là cuộc đại bức hại đi ngược với Trời, đem đến chiến loạn cho quốc gia, mà bệnh tật dường như tập trung vào thân thể của Galerius.

Năm 310, Galerius mắc bệnh lạ, thống khổ vô cùng. Sử gia có ghi chép: sự dày vò tàn khốc của bệnh tật đúng như sự thống trị tàn khốc của ông ta vậy, tinh hoàn của ông ta bị nhiễm trùng hóa mủ, mọc ra cái nhọt rất lớn, dòi bâu lấy ông từ trong ra ngoài… Trên thân chỉ toàn da bọc xương như con ba ba, dưới thân phù thũng đến mức giống như một cái bánh pudding, hai chân cũng biến dạng.

Ác báo dày vò được 1 năm, Galerius cuối cùng tỉnh ngộ. Ông ta kêu lớn Thượng Đế quả thật có tồn tại, thật lòng hối cải, trong vùng Đông La Mã mà ông ta quản hạt đã đình chỉ tất cả bức hại đối với môn đồ Cơ Đốc, và ông đã quy y Cơ Đốc giáo. Mấy ngày sau, Galerius như trút được gánh nặng mà qua đời.

Từ năm 306-312 La Mã nội chiến, kết quả rất giống như một thần tích. Sáu đế tranh hùng, cuối cùng lấy ít thắng nhiều, thu được kỳ tích, thì chỉ có duy nhất Constantine là người tin theo Cơ Đốc giáo.

Năm 313, Constantine và Licinianus cùng ký sắc lệnh Milan, triệt để giải oan cho Cơ Đốc giáo trên toàn bộ La Mã. Không lâu sau, Licinianus lại bắt đầu tấn công Cơ Đốc giáo, sau đó liền bị Constantine đánh bại. Đế quốc La Mã xuyên suốt châu Á, châu Âu, châu Phi lại trở nên nhất thống, vinh diệu hoàng đế dành cả cho Constantine.

Giờ thì chúng ta biết rằng, đó là do Constantine giải oan cho Cơ Đốc giáo, công đức thiên đại phục hưng Cơ Đốc giáo mà có được, đó là công đức to lớn nhất trong lịch sử phương Tây.

Tinh Hoa
  Forum: CÔNG GIÁO · Post Preview: #164068 · Replies: 0 · Views: 8,584

PhuDung
Posted on: Aug 19 2020, 11:15 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Bàn về những niềm tin ngây ngô


I. MINH ĐỊNH

1. Tôi không tin những thứ như để mồ để mả, đồng bóng, bói tóan, tam hợp và tứ hành xung… không có nghĩa là tôi không tin rằng có những lực lượng siêu nhiên đang tác động tới từng người, từng cộng đồng, thậm chí là tới toàn thể nhân lọai. Ngược lại, tôi tin rằng có những lực lượng mà lòai người chưa biết và có thể chẳng bao giờ biết vì chúng ta chỉ là một phần của vũ trụ, cho nên chúng ta không thể nào biết được cái tòan thể là vũ trụ bao la, trong đó có những lực lượng đang tác động tới cuộc sống của chúng ta. Nhưng tôi tuyệt đối tin tưởng rằng những lực lượng đó họat động theo ý của chúng, chúng ta không thể nào dùng đồng bóng, cúng kiếng hay đặt mồ đặt mả mà thay đổi được số phận của mình.

2. Tôi không tin vào số tử vi do con người đóan cho nhau không có nghĩa là tôi không tin rằng người ta không có số. Ngược lại, tôi tin rằng mỗi người đều có số phận của riêng mỉnh, nhưng nếu coi số phận của mỗi người là một phương trình thì đấy là phương trình có cực kỳ nhiều ẩn số, chứ không phải chỉ có 5 ẩn số là giới, giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh và năm sinh và vì vậy mà không ai có thể đóan trước được.

II. ĐẶT MỒ ĐẶT MẢ

1. Trong kịch Hamlet (1601) có một câu rất ấn tượng và đáng nhớ: “Nhà vua béo và anh hành khất gầy chỉ là hai món ăn trên cùng một bàn tiệc”. Nghĩa là, chết rồi thì ai cũng như ai, cả anh hành khất lẫn nhà vua đều chỉ là món ăn của dòi bọ. Rất logic và rất duy vật. Nhưng có lẽ cũng chưa duy vật bằng Trang Tử (370-287 TCN). Sách Nam Hoa Kinh chép “Trang tử gần chết, các đệ tử muốn hậu táng, nhưng Trang tử không cho. Trang tử nói: Ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt làm ngọc bích, tinh- tú làm ngọc châu, vạn- vật làm lễ tống. Đám táng của ta như vậy, không đủ sao? Mà còn thêm chi cho lắm việc!” Đệ tử thưa: “Chúng con sợ diều quạ ăn xác Thầy!” Trang tử nói: “Trên thì diều quạ ăn, dưới thì giòi kiến ăn. Cướp đây mà cho riêng đó, sao lại có thiên lệch thế!”

Thế mà vào cuối thập kỷ thứ hai của thiên niên kỷ thứ ba (cách Trang Tử tới 2.400 năm) vẫn còn tán tụng về những chỗ đắc địa, rồng cuộn hổ chầu thì chẳng phải là mất thì giờ và nhảm nhí hay sao?

2. Trong lịch sử dân tộc Trung Hoa có hai nhân vật đặc biệt gian hùng: Tần Thủy Hòang và Tào Tháo. Nếu có thể táng bố mẹ vào những nơi đắc địa để triều đình của mình tồn tại mãi thì hẳn là hai nhận vật này đã làm rồi, dưới trướng của họ thiếu gì người giỏi. Nhưng kết cục, triều đại của Tần Thủy Hòang chỉ kéo dài thêm 6 năm sau khi ông ta chết, còn nhà Nguỵ cũng chỉ kéo dài mấy chục năm mà thôi.

3. Một số dân tộc dùng điểu táng (cho chim ăn xác chết), thủy táng (thả trôi sông), hỏa táng (thiêu thành tro) hay những dân tộc theo Thiên Chúa giáo, bị cấm làm những việc dị đoan nhảm nhí không có trò đặt mồ đặt mà thì sao? Cha ông họ không phù hộ cho con cháu ư?

4. Hỏi: Bạn có thấy ông thày địa lý nào xuất thân trâm anh thế phiệt hay con của các tứ trụ triều đình hay chưa?
Trả lời: Chắc chắn là chưa. Hầu hết đều là những người học hành không đến nơi đến chốn, khố rách áo ôm, chỉ được mỗi một cái là bẻm mép.

5. Hỏi: Vì sao người ta lại tin vào việc đặt mồ đặt mả?

Trả lời: Nếu quả thật đặt mồ đặt mả mà gây được ảnh hưởng tức thì tới số phận của người ta thì đây chắc chắn phải là mối bận tâm của những người nghèo khổ nhất, tương tự như những người nghèo nhất hiện nay quan tâm tới sổ số vậy. Nhưng, bạn đã thấy anh đánh giậm hay chị cấy thuê nào tìm thày địa lý để táng bố mẹ mình chưa? Chắc chắn là chưa. chỉ có những người đã giầu có hay đang trở thành giầu có mới làm những việc như thế mà thôi. Mà ngày xưa, cái thời sản xuất nông nghiệp, khi đã giầu rồi, đã có dăm ba mẫu ruộng rồi thì khó mà nghèo đi lắm. Vì thế mà thấy những nhà giàu có mà trước đó có thuê thày địa lý tìm chỗ đặt mồ đặt mả là người ta liền trầm trồ: Nhà ấy được thày địa lý chỉ chỗ đắc địa..v.v. Còn thời nay, kinh tế thị trường, chỉ cần vài quyết định sai lầm là sạt nghiệp ngay, còn những người làm chính trị trong các chế độ dân chủ chỉ cần lỡ miệng vài lần là thân bại danh liệt liền, mả bố có tang ở đâu cũng không giúp được.

Tóm lại: Di cốt của tiền nhân là cái đáng kính trọng, nhưng chẳng thể nào giúp được người sống bất cứ chuyện gì. Chớ nên mất thì giờ bàn nhăng tán nhảm những chuyện như thế.

Hòn đất mà biết nói năng
Thì thày địa lý hàm răng không còn.

III. TỨ HÀNH XUNG

1. Để xác định ngày, giờ, năm tháng, người Trung Quốc cổ đại đặt tên các năm theo tên những con vật mà họ thường gặp hàng ngày là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi (gọi là Thập Nhị Địa Chi hay mười hai con giáp), trong đó chỉ có con Rồng (Thìn) có lẽ là không có thật ngòai đời, nhưng lại có vị trí quan trọng trong tiềm thức của người Trung Quốc. Nhưng lúc đó, những người sống lâu có lẽ có tuổi thọ chừng 50-60 tuổi (nhân sinh thất thập cổ lai hi) cho nên nếu chu kỳ chỉ là 12 năm thì không thể nào mô tả được sự kiện diễn ra trong một đời người, mà cho thêm tên những con vật khác thì có thể là nhiều quá, khó nhờ. Cho nên người ta mới nghĩ ra Thiên Can hay Thập Can, gồm Canh, Tân, Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ. Thập Can kết hợp với Thập Nhị Địa Chi tạo thành một chu kỳ gọi là Lục Thập Hoa Giáp (60 năm) vì bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12 là 60. Như vậy là tạm đủ đối với những người cổ đại không đi ra khỏi lũy tre làng và tuổi thọ cao nhất cũng chừng 60 năm. Nhưng đối với người hiện đại thì như thế là chưa đủ, ví dụ, nếu nói cuộc Cách mạng năm Ất Dậu mà không chua thêm 1945 thì không ai tưởng tượng được cuộc Cách mạng này xảy ra khi nào, cách đây bao nhiêu năm. Tương tự như thế, nói đến Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu thì người ta cũng phải viết thêm năm dương lịch 1780..v.v.. Rõ ràng là có sự bất tiện.

2. Nhưng như thế vẫn chưa hết. Người Trung Hoa cổ đại còn quan niệm vũ trụ có âm và dương và được xây dựng từ năm thành tố gọi là Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), tương tự như đạo Phật quan niệm có bốn thành tố (Đất, Nước, Gió, Lửa). Đây là những quan niệm duy vật sơ khai, bây giờ chúng ta biết rằng vụ trụ được cấu tạo từ hơn một trăm nguyên tố. Ngũ Hành lại có tương sinh, tương khắc; các cặp tương sinh là Kim sinh Thủy (quan niệm đơn giản: nấu chảy kim lọai thì thành nước, những cắp khác cũng tương tự như thế), Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim; các cặp tương khắc là Kim khắc Mộc (dao chặt cây, các cặp khác cũng tương tự như thế), Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.

3. Tiến thêm một bước nữa, người ta ghép năm tháng vào với âm dương và ngũ hành, thành Tý (Dương Thủy), Sửu (Âm Thổ), Dần (Dương Mộc), Mão (Âm Mộc), Thìn (Dương Thổ), Tỵ (Âm Hỏa), Ngọ (Dương Hỏa), Mùi (Âm Thổ), Thân (Dương Kim), Dậu (Âm Kim), Tuất (Dương Thổ), Hợi (Âm Thủy). Và theo quy luật sinh khắc của ngũ hành, người ta nói rằng những người sinh trong một số năm nào đó thì xung khắc với nhau, cụ thể có 4 tuổi xung khắc nhau, gọi là Tứ Hành Xung như sau:

* Dần – Thân, Tỵ – Hợi khắc nhau
* Thìn – Tuất, Sửu– Mùi khắc nhau
* Tý – Ngọ , Mão – Dậu khắc nhau

Người ta nói, những người sinh trong những tuổi khắc nhau không nên lấy nhau, nếu lấy nhau sẽ gặp nhiều trắc trở. Có cả Tam hợp tức là 3 tuổi hợp nhau, nhưng ít người quan tâm thành ra không bàn ở đây vì dài quá.

4. Nhưng, không có bất cứ ở đâu, cả trên mặt đất, mặt biển hay trăng sao có bất kỳ dấu hiệu nào, ví dụ, chứng tỏ năm nay là năm Đinh Mùi. Đây là quy ước do con người đặt ra, nếu cái người đầu tiên nghĩ ra hệ thống can chi mà khởi đầu chu kỳ là năm Tý trước đó hay sau đó một vài năm thì năm nay có thể là năm Sửu, năm Dần hay bất kỳ năm nào khác. Mà năm Tý thuộc hành Thủy…v.v.. cũng là do con người tùy tiện đặt ra, chẳng có biểu hiện nào trong vũ trụ chứng tỏ điều đó.
Vì vậy mà Tứ Hành Xung chỉ là quan niệm giả tạo không đáng tin. Thêm nữa, Theo công trình nghiên cứu xã hội học của TS Nguyễn Minh Hòa (ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn TP HCM), tỷ lệ ly hôn/kết hôn ở Việt Nam là 31,4%, tức là cứ ba cặp kết hôn lại có một cặp ly hôn (mà nhiều người chắc chắn là đã tránh Tứ Hành Xung rồi).

ĐẠO LÝ là:

1. Các bậc làm cha làm mẹ chớ có tin vào Tứ Hành Xung mà cản trở tình duyên của con em, nhất là khi họ đã yêu nhau thắm thiết, có thẻ dẫn tới những bi kịch đáng tiếc.

2. Các bạn trẻ mới có gia đình mà gặp trục trặc chớ nghe người ta nói mình rơi vào Tứ Hành Xung mà đẩy nhanh tiến trình chia li, bao giờ cũng phải suy nghĩ cho thật kĩ.

Cách đây nhiều năm mình hay đến thăm một sư ông. Lần ấy có người hỏi: “Con, tuổi… cuới vào hôm nào thì hợp”, sư ông đáp: “Cưới chiều thứ bảy hay chủ nhật thì có nhiều phong bì”. Lại hỏi: “Con nên làm nhà theo hướng nào?”, sư ông hỏi lại: “Nhà phố hay quê?; đáp: “Phố ạ”, sư ông là trả lời: “Thế thì quay mặt ra đường chứ chả lẽ quay lưng đường à!” Thật là một sư ông hiểu đạo lý và sang suốt.

IV. COI GIỜ TẨM LIỆM, CHÔN CẤT, XẢ TANG và MÀU XE

1. Chắc chắn, đối với đời của một con người thì giây phút hồn lìa khỏi xác là thời điểm quan trọng nhất, bởi vì còn sống thì còn có thể thay đổi tất cả mọi thứ, nhưng chết rồi là hết. Thời khắc đó còn quan trọng ở chỗ lúc hồn lìa khỏi xác cũng có thể là lúc những phúc thần, Đức Phật hay Chúa Jesus… có thể đi ngang qua và các ngài mang hồn theo làm đệ tử thì quá may mắn; nhưng cũng có thể lúc đó lại xuất hiện ác thần, hồ ly tinh hay các ông Lenin, Mao Trạch Đông, Hitler, Popot… trên đường tuyển quân và họ lôi theo thì thật là khổ. Biết vậy, nhưng ai mà quyết định được giờ khắc lên đường ra khỏi cõi tạm này, cũng như làm sao biết được lúc nào phúc thần hay ác thần đi ngang quan địa phương mình để mà theo hay tránh.

Sau khi hồn đã đi rồi, mà theo William Shakespeare, qua lời của nhận vật Hamlet thì đấy chỉ còn là món khóai khẩu của dòi bọ, hay theo lời của Trang Tử thì bỏ trên mặt đất là mồi của cầy cáo, mà chôn xuống thì là mồi của giun dế, thì tại sao lại phải bận tâm về việc ngày giờ tẩm liệm, chôn cất, xả tang?

Mà tên gọi những ngày giờ đó, như đã nói trước đây, chỉ là do con người đặt ra, trên mặt đất, mặt biển, trong ánh mặt trời… không ở đâu có biểu hiện nói rằng, hôm nay, ngày 28 tháng 6 năm 2017 (âm lịch) là ngày Kỷ Dậu, tháng Đinh Mùi, năm Đinh Dậu. Vì vậy mà việc xem ngày giở để tẩm liệm, chôn cất, xả tang cũng là do con người bày đặt ra mà thôi.

Thiết nghĩ, ma chay là việc lớn, không ai có thể chuẩn bị đầy đủ được, vả lại cũng cần chờ đợi người thân ở xa về để đưa người vừa rời cõi tạm đọan đường cuối cùng cho nên đám tang chỉ nên kéo dài ba ngày là vừa.

2. Màu xe. Người ta còn gán cả ngũ hành cho màu sắc và từ đó cũng sinh ra chọn màu xe cho hợp tuổi. Nếu không tin cách gán ghép âm dương ngũ hành cho tuổi tác thì tất nhiên cũng nên coi mua xe theo tuổi chỉ là trò mua vui mà thôi.

Vả lại đã tin là phải mu axe có màu hạp với tuổi thì cũng phải tìm cả màu nhà, màu cánh cổng, màu quần áo, chiều cao và chiều rộng của cổng, thậm chí cả giờ ăn, giờ ngủ vì ăn ngủ phải giờ xấu thì sao? Tóm lại, nếu tin vào những trò phong thủy đó thì có quá nhiều cái để lo, cuộc sống còn thú vị gì nữa. Cá nhân tôi luôn hành động phù hợp với hòan cảnh, như các thiền sư nói: “Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền” và “Lấy vợ đàn bà làm nhà hướng nam”

V. SỐ TỬ VI

1. Những câu hỏi mà các nhà đoán số tử vi không thể nào trả lời nổi:

a. Tổng cộng chỉ có (12x365x60x2) = 525.600 lá số tử vi mà thôi. Trong khí đó, theo số liệu thống kê thì mổi năm riêng ở Việt Nam đã tăng thêm khoảng 1 triệu người, cộng với số người chết khoảng 500 ngàn, tức là mỗi năm có thêm 1,5 triệu trẻ em ra đời và sống đến lúc trưởng thành; như vậy là có 171 người có chung 1 lá số. Nếu tính trên toàn thế giới (7 tỷ người) thì sẽ có khoảng 13 ngàn người có chung 1 lá số, còn tính riêng ở Trung Quốc (1,3 tỷ người), nơi xuất phát tử vi đầu số thì sẽ có khoảng 2.500 người có chung 1 lá số. Số phận của những người đó có giống nhau hay không, thiết nghĩ chẳng cần nói thì cũng rõ. Ai còn nghi ngờ xin hãy vào một lớp mẫu giáo hay lớp 12 một trường trung học phổ thông nào đó thì sẽ thấy. Cụ thể hơn, chắc chắn là hiện nay đang có hàng chục cụ có lá số tử vi giống hệt là số của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và trong số đó cũng có một số cụ đang sống lay lắt những ngày cuối đời trong vùng thảm hoạ môi trường do Formosa gây ra.

b. Chưa cần nói đến số phận trong tương lai xa xôi, 171 cháu bé sinh ra từ 9 giờ đến 11 giờ sáng ngày hôm nay (giờ Hợi), trong khi tôi đang viết những dòng này, đều có chung lá số tử vi, cũng tức là có cung phụ mẫu giống hệt nhau (có thể kể thêm cung huynh đệ), vậy cha mẹ của các cháu bé này có số phận giống nhau hay không? Theo tử vi thì phải giống nhau. Nhưng trên thực tế chắc chắn là không, 171 gia đình có con cháu sinh vào giờ đó trong ngày hôm nay chắc chắn là có những hoàn cảnh vô cùng khác nhau, có gia đình giàu có, sang trọng nhưng cũng có gia đình nghèo nàn.

c. Hai anh em ruột, có cha mẹ chung nhau, vậy cung phụ mẫu (có thể thêm cung huynh đệ) của họ có giống nhau hay không? Theo tử vi thì cung phụ mẫu (cả huynh đệ) của hai người này phải khác nhau, trừ khi họ sinh cách nhau đúng 60 năm. Ông bố nào cả ghen và mù quáng tin vào tử vi chắc sẽ nghi ngờ vợ ngoại tình và có thể đánh vợ tới chết.

e. Có người ngay từ đầu đã thiểu năng trí tuệ hoặc tự kỷ hay người thuộc giới tính thứ 3 thì lá số sẽ như thế nào? Giống hay khác người bình thường?

d. Hai đứa trẻ, sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, đửa ở VN, đứa theo cha mẹ tới Nhật, Mĩ, Úc, Canada... định cư thì số phận có giống nhau hay không?

Tạm liệt kê vài câu hỏi khó như thế. Xin các thày tử vi hãy trả lời trực tiếp, còn vị nào nói rằng đã trình bày sai quan niệm của người Trung Quốc cổ đại hay vị nào nói rằng ếch ngồi đáy giống cũng xin trình bày xem quan niệm của người xưa chính xác là như thế nào. Xin đa tạ.

2. BẢN CHẤT CỦA LÁ SỐ TỬ VI

Tương truyền rằng đời Gia Tĩnh (vua Minh Thế Tông) có lưu truyền cuốn Tử vi Đẩu số Toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn.

Các sách về Tử vi sau này cũng đều thống nhất rằng người đầu tiên tổng hợp, hệ thống lại thành môn bói này là Trần Đoàn tức Hi Di Lão Tổ, sống vào đời Bắc Tống, Trung Quốc.

Tuy xuất phát từ Trung Quốc, Tử Vi không được nổi bật lắm trong các môn bói toán khác. Nhưng khi du nhập vào Việt Nam, nó trở thành môn học được ưa chuộng nhất. Dần dần, Tử Vi Việt Nam có thêm những dị biệt so với Tử Vi nguyên thủy của Trung Quốc.
Những dị biệt giữa Tử Vi Việt Nam và Trung Quốc bao gồm:

1. Cách an mệnh của Tử Vi Việt nam bắt đầu từ cung Dần, trong khi một số phái tử vi Trung quốc bắt đầu từ cung Tý

2. Cách tính tuế hạn của Tử Vi Việt Nam tùy thuộc vào chi của tuổi người xem. Trong khi tuế hạn của Trung quốc cố định.
Đối với những người không chuyên thì chỉ cần biết rằng cách lập lá số tử vi của Trung Quốc và Việt Nam là khác nhau. Và đây là câu hỏi lớn: Vì sao lại khác? Có phải vì nó lá món bói toán tuỳ tiện, thích thế nào cũng được?

Có những cuốn sách dạy an sao nói có 93 sao, nhưng cũng có cuốn nói có 89 sao, lại có môn phái Tử vi an sử dụng tới 118 sao.
Đại khái có 14 sao chính:

- Vòng Tử Vi có 6 sao: sao Tử vi, Thiên cơ, Thái dương, Vũ khúc, Thiên đồng và Liêm trinh.

- Vòng Thiên Phủ có 8 sao: Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát và Phá quân.

Còn lại là các phụ tinh. Các sao này mang bản sắc riêng biệt được an định trong 12 Cung trên một Thiên Bàn.

Lá số tử vi bao gồm 12 cung như sau: 1. Cung Mệnh và Thân, 2. Cung Phụ Mẫu, 3. Cung Phúc Đức, 4. Cung Điền Trạch, 5. Cung Quan Lộc, 6. Cung Nô Bộc, 7. Cung Thiên Di, 8. Cung Tật Ách, 9. Cung Tài Bạch, 10. Cung Tử Tức, 11. Cung Phu thê, 12. Cung Huynh Đệ (hay cung Bào). Tức là đủ hết các thứ liên quan đến cuộc đời của một con người, từ công danh, tài lộc, cha mẹ, vợ con, đất đai, nhà cửa, kẻ hầu người hạ..v.v.. cho nên nó có thể làm cho những người nhẹ dạ nhầm lẫn là khoa học.

Nhưng khoa tử vi hoàn toàn không khoa học gì hết, vì dù có 89, 93 hay 118 sao thì đây cũng là những tên gọi do một người nào đó nghĩ ra, chứ trên trời, dưới đất hay dưới biển hay trên vũ trụ cũng đều không có những thực thể nào như thế hết. Cách an sao vào mười hai cung cũng là do một người nào đó tự nghĩ ra. Nếu nói đây là MẶC KHẢI thì tại sao cách an mệnh của Tử Vi Việt nam bắt đầu từ cung Dần, trong khi một số phái tử vi Trung quốc bắt đầu từ cung Tý?

Như vậy, có thể kết luận: Tử vi là môn bói toán tuỳ tiện vì:

1. Khởi đầu của vòng lục thập hoa giáp (60) năm là do một ngưởi nào đó nghĩ ra, người đó có thể bắt đầu tính chu kỳ đầu tiên trước đó hoặc sau đó vài năm, và như thế năm nay có thể không phải là Đinh Dậu mà có thể là năm Dần, hay Thìn, hoặc Tỵ hay Ngọ…v.v.

2. Những ngôi sao để an vào các cung cũng là do một người nào đó nghĩ ra chứ hoàn toàn không có thật.

3. Cách an các ngôi sao cũng tuỳ tiện vì vậy mà cách lập tử vi của Việt Nam (học trò) lại khác với cách lập của Trung Quốc (thày).

Túm lại, tôi cho rằng đây là một thú chơi của người xưa, khá rắc rối, có những quy luật mà họ tự đặt ra, tương tự như cờ tướng hay cờ vây, rất có ích cho người già luyện trí óc và chỉ có thế mà thôi. Những người trẻ tuổi chớ nên mù quáng tin vào những trò bói toán quàng xiên để khỏi vừa mất thì giờ vừa mất tiền toi.

Xin các thày tử vi hãy trả lời trực tiếp, còn vị nào nói rằng đã trình bày sai quan niệm của người Trung Quốc cổ đại hay vị nào nói rằng ếch ngồi đáy giống cũng xin trình bày xem quan niệm của người xưa chính xác là như thế nào. Xin đa tạ.

3. NHỮNG CÂU CHUYỆN TỨC CƯỜI VỀ TỬ VI

1. Chuyện này có lẽ nhiều người biết. Hai người có chung một lá số, một ông làm vua, ông kia là dân thường, nhưng lại có mấy tổ ong mật; thế là cách “thày” liền bảo: “Chỉ huy cả vạn con ong thì cũng là vua rồi”. Nếu bây giờ có “thày” nào tìm được một cụ ông ở vùng thảm hoạ môi trường biển do Formosa gây ra đang nuôi một đàn vịt nhưng có cùng lá số tử vi với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và bảo: “Thì cụ cũng chỉ huy cả trăm con vịt, cũng là vua còn gì” thì hẳn là cụ già này sẽ bảo: “Ừ tôi cùng tuổi, nhưng chữ TUỔI” của tôi không có Ô đâm ra thành TỦI”.

2. Chuyện này có thật 100%. Người xem số cho tôi cũng đồng thời xem cho một người khác hơn tôi chừng 20 tuổi và phán: “Thằng này nhất định sẽ phải lấy hai đời vợ. Ông bà tìm xem có đứa đi ở hay cấy thuê nào cưới cho nó một đứa”. Gia đình cưới cho anh này một chị cấy thuê và sau đó một thời gian ngắn thì họ bỏ nhau. Chưa cưới đã nghĩ đến bỏ, mà lại phận làm thuê ở xa tới, gia đình nhà chồng khinh rẻ, không bỏ mới là chuyện lạ. Nhưng sau chuyện này, uy tín của thày lại càng cao thêm.

3. Cách đây nhiều năm mình có giao du với với một vị tiến sĩ, vị này tự khoe là thần sầu quỷ khóc về món tử vi và có lập lá số cho mấy người con của một người bạn quen chung. Chắc những lá số này đều tốt, bố mẹ sẽ thọ, tóm lại cả hai người bạn đều rất vui. Chẳng ngờ nửa năm sau người bạn nhờ lập số tử vi bỗng nhiên lăn ra chết. Mình tới đèo “thày” đi viếng tang, đã nửa đường rồi mà “thày” vẫn suýt soa, “sao lại chết, không thể tin được, không thể tin được”. Mình đành phải nói: “Chết thật rồi anh ơi, em ở đấy đêm qua mà. Tin đi anh”. Từ đó không hiểu sao không thấy anh này bàn về tử vi nữa.

4. Có một người rất thông minh, giàu có, hình như tuổi có chữ MẬU; thế là cứ nói đến bạn bè là lại bảo thằng ấy có chữ MẬU; MẬU là rậm rạp, buôn bán thì có nhiều tiền, trồng cây thì xum xuê, mà nếu không thì chỗ nào đó lông phải rậm. Có tức cười không? Lông và tiền thì liên quan gì với nhau. Người ta hay nói CANH CÔ MẬU QUẢ và cứ thấy người nào ít anh em hay ít con là lại nhắc tới câu đó..v..v., nhưng xin nhắc lại CANH hay MẬU đều là do con người đặt ra, trên trời, dưới đất hay dười biển không có chỗ nào có CANH hay MẬU hết.

5. Có một câu hỏi nữa, xin liệt kê thêm để các “thày” trả lời luôn một thể: Người sinh vào tháng nhuận thì lập lá số thế nào? Có người bảo nửa tháng đầu nhuận tính theo tháng trước, nửa sau thì tính theo tháng sau. Các vị có thấy vô lý không?

6. Ngày xưa người ta thường lấy lá số tử vi ngay từ khi mới lọt lòng. Nhưng phải trên 12 tuổi thì mới giải thích vì sợ nhỡ lá số nói là sau này sẽ làm đại tướng quân hay giàu nứt đố đổ vách mà lại chết yểu ngay từ năm hai ba tuổi thì “thày” làm gì còn chỗ kiếm cơm.

TỬ VI - TỔNG KẾT

Có thể liệt kê chí ít là 7 mâu thuẫn nội tại của chính môn Tử vi:

1. Khởi đầu của vòng lục thập hoa giáp (60) năm là do một ngưởi nào đó nghĩ ra, người đó có thể bắt đầu tính chu kỳ đầu tiên trước đó hoặc sau đó vài năm, và như thế năm nay có thể không phải là Đinh Dậu mà có thể là năm Dần, hay Thìn, hoặc Tỵ hay Ngọ…v.v.

2. Những sao để an vào các cung (12 cung) cũng là do một người nào đó nghĩ ra chứ hoàn toàn không có thật.

3. Cách an các ngôi sao cũng tuỳ tiện vì vậy mà cách lập tử vi của Việt Nam (học trò) lại khác với cách lập của Trung Quốc (thày).

4. Ngay từ 7 giờ sáng đến 9 giờ sang ngày hôm nay đã có 171 trẻ em Việt Nam ra đời, nghĩa là sẽ có 171 người có chung 1 lá số. Số phận của chúng có giống nhau hay không?

5. 171 cháu bé có chung lá số tử vi, cũng tức là có cung phụ mẫu giống hệt nhau (có thể kể thêm cung huynh đệ), vậy cha mẹ của các cháu bé này có số phận giống nhau hay không?

6. Hai anh em ruột, có cha mẹ chung, nhưng cung phụ mẫu (có thể thêm cung huynh đệ) của họ lại khác nhau. Các thày tử vi trả lời sao đây?

7. Làm sao lập số tử vi cho những người sinh trong tháng nhuận (âm lịch)?

8. Có người ngay từ đầu đã thiểu năng trí tuệ hoặc tự kỷ hay người thuộc giới tính thứ 3 thì lá số sẽ như thế nào? Giống hay khác người bình thường?

9. Hai đứa trẻ, sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, đửa ở VN, đứa theo cha mẹ tới Nhật, Mĩ, Úc, Canada... định cư thì số phận có giống nhau hay không?

Tất cả những người nói rằng thông thạo Tử vi mà tôi (hay bạn) đã gặp đều không trả lời được những câu hỏi này. Như vậy, có thể kết luận rằng, Tử vi hoặc là một thú chơi giống như môn cớ tướng hay cờ vây của người Trung Quốc cổ đại hoặc là một môn bói toán tuỳ tiện, chẳng có giá trị gì.

ĐẠO LÝ ở đây là:

1. Các bạn trẻ nếu có năng lực và thì giờ thì nên đi sâu tìm hiểu chuyên môn mình đang làm, rồi học ngoại ngữ, bán hàng trên mạng hay đọc những cuốn sách có hàm lượng trí thức cao. Đấy là những việc ích nước lợi nhà. Chớ nên sa đà vào những chuyện bói toán nhảm nhí, chỉ mất thì giờ.

2. Các ông bố bà mẹ trẻ tuyệt đối không được nghe theo các thày "Tử vi xem số cho người/Số thày thì để cho ruồi nó bu" mà mổ bụng lôi con ra sớm. Cực kỳ có hại.

Sưu tầm
  Forum: THẾ GIỚI HUYỀN BÍ - TỬ VI TƯỚNG MỆNH · Post Preview: #164067 · Replies: 0 · Views: 1,708

PhuDung
Posted on: Jul 12 2020, 10:41 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Những thành ngữ bạn có thể hiểu sai


Hàng ngày chúng ta vẫn sử dụng những thành ngữ quen thuộc do ông cha để lại trong khi nói chuyện hay viết lách. Tuy nhiên, có nhiều thành ngữ mặc dù thường xuyên sử dụng, nhưng câu gốc hay ý nghĩa của nó lại khác xa so với những gì ta nghĩ. Sau đây là một số những thành ngữ như vậy.

1_ Nghèo rớt mồng tơi

Nhiều người vẫn nhầm tưởng mồng tơi ở đây là cây mồng tơi mà chúng ta vẫn thường nấu canh hay dậu mồng tơi trong thơ Nguyễn Bính.

Nhưng thật ra, mồng tơi hoàn toàn khác với những gì bạn nghĩ. Trước đây người nông dân khi ra đồng thường khoác một chiếc áo được đan từ lá cọ để che nắng che mưa gọi là áo tơi. Phần trên cùng của áo tơi được khâu lại để luồn dây đeo qua vai gọi là mồng tơi.

Với những người rất nghèo, họ cứ đeo mãi một cái áo tơi cho đến khi phần dưới rách nát, rụng tơi tả còn mỗi cái mồng tơi sắp rớt (rụng ra mà vẫn phải sử dụng. Cho nên câu trên muốn nói đến người rất nghèo, nghèo đến tột cùng.

2_ Đều như vắt tranh


Chúng ta vẫn thường nói "đều như vắt chanh", nhưng thực ra câu này không có ý nghĩa. Vì vắt quả chanh thì làm sao mà đều được.

Với những bạn sinh ra trước những năm 7x, các bạn sẽ được biết đến hình ảnh nhà tranh vách đất. Khi lợp mái tranh, người ta sẽ đan những lá cọ (hoặc lá dừa vào với nhau thành một vắt gọi là vắt tranh. Từ những vắt tranh này mới được đưa lên mái nhà để lợp. Với những người thợ giỏi, họ biết sắp xếp các lá đều nhau nên vắt tranh rất đều và đẹp.

Đều như vắt tranh ý nói làm một cái gì đấy mà sản phẩm rất đồng đều.

3_ Lang bạt kỳ hồ

Khi nghe câu trên nhiều người nghĩ ngay đến hình ảnh một người sống phiêu bạt giang hồ, nay đây mai đó. Nhưng thực ra, đây là một câu thành ngữ Hán-Việt. Lang là con Sói, bạt là giẫm đạp, kỳ là đại từ chỉ chính con sói, hồ là vạt yếm dưới cổ.

Vậy Lang bạt kỳ hồ có nghĩa là con Sói dẫm vào chính cái yếm của nó. Ý nói người nào đó đang rất lúng túng, quẩn quanh không tìm ra lối thoát.

4_ Con cà con kê

Thoạt nghe nhiều người nghĩ ngay là con gà, con kê, tức muốn ám chỉ một người nói vòng vo vì con gà với con kê thực ra là một.

Nhưng nghĩa gốc của nó lại hoàn toàn khác. Ngày xưa làm nông nghiệp, người dân sau khi gieo cây cà, cây kê, đến thời điểm nhổ lên để trồng ra luống người ta cũng buộc lại thành từng bó như bó mạ mà các bạn thấy trên hình, được gọi là con cà, con kê. Việc trồng cà, trồng kê rất mất nhiều thời gian và tỉ mẩn vì phải tách từng cây trong bó ra rồi mới trồng.

Câu con cà con kê ý nói rất dài dòng, không biết bao giờ mới dứt như công việc trồng cà, trồng kê.

5_ Chạy như cờ lông công

Thoạt nghe cứ tưởng cờ lông công chỉ là một từ ghép nghe cho nó vần. Nhưng thực ra cờ lông công là một loại cờ hiệu được sử dụng từ thời xa xưa.

Ngày nay, việc trao đổi thông tin đã có hòm thư điện tử, bạn chỉ cần soạn thảo và một cái nháy chuột là xong. Tuy nhiên, từ thời xa xưa, khi việc di chuyển còn khó khăn thì việc trao đổi thông tin mất rất nhiều thời gian. Khi cần chuyển một thông tin hỏa tốc, người lính trạm dùng tín hiệu là một lá cờ có gắn thêm lông đuôi con công, gọi là cờ lông công. Vì là thông tin hỏa tốc nên người lính trạm khi gắn cờ này thường chạy rất nhanh, chạy qua chạy lại rất nhiều chặng đường.

Vì vậy, để nói đến những người suốt ngày chạy khắp nơi ngoài đường, hoặc chạy vội vã người ta thường sử dụng thành ngữ chạy như cờ lông công.

6_ Đanh đá cá cày

Câu này thường để chỉ những người phụ nữ có tính ương ngạnh, không được hiền lành, dịu dàng. Tuy nhiên, do ngôn ngữ vùng miền nên nhiều người đọc thành cá cầy khiến nhiều người tưởng đanh đá như con cá Cầy.

Thực ra, cá cày là một thứ làm bằng gỗ hoặc tre, có hình dáng gần giống với con cá được sử dụng trong chiếc cày thô sơ ngày xưa để điều khiển nâng hoặc hạ bắp cày để có đường cày nông hay sâu theo ý mình. Trong cấu tạo của cả chiếc cày, cá cày có hình dáng rất nhỏ nhưng nó có thể điều khiển được cả chiếc cày theo ý mình.

7_ Sư tử Hà Đông

Nhiều người vẫn dùng hình ảnh trên để nói về những bà vợ của mình. Tuy nhiên, không ít người lầm tưởng Hà Đông ở đây là quận Hà Đông, Hà Nội (trước đây thuộc tỉnh Hà Tây. Thực ra, Sư tử Hà Đông lại chẳng liên quan gì đến địa danh Hà Đông của chúng ta mà nó bắt nguồn từ một điển tích bên tận Trung cộng.

Trần Tạo tự Quý Thường, người đời nhà Tống, quê ở Vĩnh Gia. Vợ của Trần họ Liễu vốn có tính ghen dữ ghê gớm. Quý Thường rất sợ vợ nhưng rất có lòng tôn sùng đạo Phật. Hằng ngày ngồi đọc kinh, vợ lấy làm bực, la hét om sòm, nhưng Trần vẫn điềm nhiên, không dám cự một tiếng.

Tính của Trần cũng hào hoa, bằng hữu nhiều, nên ở nhà thường có yến tiệc. Để tăng phần hứng thú, long trọng của buổi tiệc, Trần chiều khách, mời kỹ nữ xướng ca. Liễu Thị trong phòng mượn điều này, điều nọ, quát tháo om sòm. Trần có lúc hốt hoảng, cầm gậy nơi tay bỏ rơi mất gậy. Bạn thân của Trần là Tô Đông Pha, nhân đó làm một bài thơ đùa cợt trong đó có hai câu như sau:

Từ đó, sư tử Hà Đông được dùng để chỉ những bà vợ có tính ghen tuông và mỗi khi xảy ra việc gì lập tức nổi cơn tam bành với chồng.

8_ Kẻ tám lạng người nửa cân

Mọi người vẫn thường dùng câu trên để nói về cuộc đấu giữa hai đội quân hay hai người cân sức, cân tài. Nhưng tại sao lại là tám lạng với nửa cân mà không phải năm lạng và nửa cân?

Thực ra, cân ở đây là cân ta từ ngày xưa: mỗi cân tương đương với 16 lạng, khoảng 0,6kg bây giờ. Vì vậy, nửa cân khi đó bằng đúng tám lạng.

9_ Công như công cốc

Nghe có vẻ như hai chữ công cốc người ta chỉ nói cho có vần, có điệu. Nhưng thực chất, chữ cốc ở trong câu thành ngữ này là một loài chim. Con chim Cốc cũng có màu đen và trông giống với con Quạ nhưng kích thước lớn hơn khá nhiều. Chúng là loài chim săn cá điệu nghệ nên nhiều ngư dân thuần hóa chim Cốc để đánh bắt cá. Thường các ngư dân sẽ đeo vào cổ con chim một chiếc vòng để sau khi chim bắt được cá to thì sẽ không thể nuốt được.

Vì vậy mà người ta thường dùng thành ngữ công như công cốc hay đơn giản là công cốc để ám chỉ những việc làm dù rất cố gắng mà không mang lại thành quả



Lê Anh Tuấn
  Forum: TRAU DỒI TÌM HIỂU TIẾNG VIỆT - CA DAO - TỤC NGỮ · Post Preview: #163918 · Replies: 0 · Views: 1,503

PhuDung
Posted on: Jun 23 2020, 11:54 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Ma có thật hay không?


Ma có thật hay không? Ma quỷ có thực sự tồn tại? Đây là một trong những câu hỏi bí ẩn gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử loài người. Từ xa xưa, khi con người có nhận thức, họ đã tin và ma quỷ. Tuy nhiên, cho tới ngày nay các nhà khoa học vẫn chưa tìm được câu trả lời cho hiện tượng bí ẩn siêu nhiên này.
Niềm tin phổ biến: Ma có thật?

Một cuộc thăm dò dư luận của Gallup năm 2005 cho thấy, 37% người Mỹ tin vào các ngôi nhà ma ám và khoảng 1/3 số người được hỏi tin là có ma. Hàng chục ngàn người trên khắp thế giới hiện có sở thích săn tìm ma, và theo thống kê của nhà nghiên cứu Sharon Hill thuộc trang Doubtful Newsblog, có khoảng 2.000 nhóm thợ săn ma nghiệp dư như vậy.

1/3 số người Mỹ tin có ma.


Ma là chủ đề phổ biến trong suốt thiên niên kỷ qua. Chúng xuất hiện trong vô số tác phẩm và loại hình nghệ thuật, từ vở kịch "Macbeth" của Shakespeare tới Kinh thánh và thậm chí còn cho ra đời thể loại chuyện ma dân gian.

Ma có lẽ là niềm tin vào hiện tượng siêu nhiên phổ biến nhất trên thế giới. Sự phổ biến này một phần do, niềm tin có ma thuộc một mạng lưới rộng lớn các niềm tin về sự siêu nhiên, bao gồm cả trải nghiệm cận chết, cuộc sống ở thế giới bên kia và sự giao tiếp bằng tinh thần.

Quan niệm cho rằng phần hồn của người chết vẫn lẩn quất quanh người sống đã có từ xa xưa, và nó đã mang tới niềm an ủi cho nhiều người. Họ cho rằng, những người thân yêu đã qua đời vẫn luôn dõi theo hoặc bên cạnh chúng ta trong các thời điểm nguy nan. Tuy nhiên, phần lớn mọi người tin vào ma do trải nghiệm của chính bản thân hoặc họ đã "nhìn thấy" hoặc cảm nhận thấy một số tồn tại không lý giải được.

Khoa học và logic về ma

Các trải nghiệm cá nhân là một chuyện nhưng chứng cứ khoa học lại là một vấn đề khác. Một phần khó khăn trong việc điều tra về ma là, hiện chưa có một định nghĩa thông dụng toàn cầu về việc ma là gì.

Nhiều người tin, ma là linh hồn của những người chết vì lí do nào đó đã “lạc lối” khi đang trên đường sang thế giới bên kia. Trong khi đó, số khác lại quả quyết ma là các thực thể thần giao cách cảm can dự vào thế giới từ trí não của chúng ta.

Thậm chí, một số người còn tạo ra cách phân loại đặc biệt về các loại ma khác nhau, chẳng hạn như yêu tinh, ma ám, linh hồn tinh thông và người cõi âm. Tất nhiên, tất cả chỉ là nhân tạo, giống như việc suy đoán các dòng giống tiên và rồng khác nhau. Số loại ma tùy thuộc vào ý muốn của bạn.

Các nhà khoa học đã chỉ ra nhiều mâu thuẫn hiện hữu trong các quan niệm về ma. Ví dụ như, ma là hữu hình hay vô hình? Theo những người tin vào ma, chúng có thể di chuyển xuyên qua bất kỳ vật thể rắn nào mà không hề tác động đến nó hoặc có thể đóng sập cửa hoặc ném vật thể khắp phòng.

Xét theo logic và duy vật biện chứng, sự việc chỉ có thể thế này hoặc thế kia. Nếu ma là linh hồn con người, tại sao chúng xuất hiện với dáng vẻ được mặc quần áo và đi kèm với các vật thể được coi là vô tri vô giác như mũ, gậy và trang phục, chưa kể đến nhiều báo cáo về tàu ma, xe hơi ma và toa xe ma?

Nếu ma là linh hồn của những người chết chưa được trả thù, tại sao lại tồn tại các vụ sát nhân chưa được phá án khi ma được cho là có thể giao tiếp bằng các phương tiện tâm linh và do đó có thể nhận diện kẻ giết mình cho cảnh sát. Cứ như vậy, bất kỳ tuyên bố nào về ma cũng làm dấy lên các căn cứ logic nghi ngờ nó.

Cho tới nay, các thợ săn ma vẫn chưa tìm thấy bất kỳ bằng chứng thuyết nào về sự tồn tại của ma.

Các thợ săn ma sử dụng nhiều phương pháp sáng tạo và đôi khi mơ hồ, bao gồm cả yếu tố tâm linh, để khám phá sự hiện diện của các linh hồn. Hầu như mọi thợ săn ma đều khẳng định hành động của họ mang tính khoa học và tỏ ra như vậy vì họ sử dụng thiết bị khoa học công nghệ cao, chẳng hạn như thiết bị đo bức xạ Geiger, máy dò điện từ trường (EMF), máy dò ion, camera hồng ngoại và micro siêu nhạy. Tuy nhiên, không có bất kỳ thiết bị nào trong số này từng được chứng minh đã thực sự phát hiện thấy ma.

Những người khác lại tiếp cận theo cách trái ngược, tuyên bố rằng, họ không thể chứng minh được sự tồn tại của ma đơn giản vì chúng ta hiện không có công nghệ phù hợp cho việc tìm kiếm và dò xét thế giới tâm linh. Dẫu vậy, điều này cũng không đúng: Hoặc ma tồn tại và xuất hiện trong thế giới vật chất thông thường của chúng ta (và do đó có thể được phát hiện và ghi lại bằng ảnh chụp, phim, video và đoạn ghi âm) hoặc không có thực. Nếu ma tồn tại và không thể phát hiện hoặc ghi lại bằng khoa học thì tất cả những bức ảnh, video và đoạn ghi âm tuyên bố là bằng chứng về ma chắc chắn không phải là ma.

Linh hồn

Với nhiều giả thuyết mâu thuẫn đến như vậy, không có gì ngạc nhiên khi biết rằng, bất chấp các nỗ lực của hàng ngàn thợ săn ma trên truyền hình và ở những nơi khác trong suốt nhiều thập niên qua, không có bất kỳ bằng chứng thuyết phục về ma được công bố.

Tại sao nhiều người vẫn tin?

Bất chấp vô số mâu thuẫn, rất nhiều người vẫn tin vào ma. Một quan điểm được đông đảo công nhận là, Albert Einstein đã đề xuất một cơ sở khoa học về sự tồn tại của ma: nếu năng lượng không thể được tạo ra hay phá hủy mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, điều gì xảy ra với năng lượng cơ thể của chúng ta khi chúng ta chết đi? Liệu chúng bằng cách nào đó có biến thành ma?

Cách biện giải trên dường như có lí, trừ phi bạn nắm rõ vật lý cơ bản. Câu trả lời rất đơn giản và rốt cuộc chẳng bí ẩn tí nào. Sau khi một người qua đời, năng lượng trong cơ thể của anh ta/cô ta đi theo con đường chuyển hóa năng lượng của mọi sinh vật khác sau khi chết: vào môi trường. Năng lượng được giải phóng dưới dạng nhiệt và chuyển hóa vào các sinh vật ăn chúng ta (chẳng hạn như động vật hoang dã nếu chúng ta không được chôn cất hoặc giun và vi khuẩn nếu chúng ta được mai táng) cũng như cây cối hấp thụ chúng ta. Không có bất kỳ “năng lượng” nào trong cơ thể sống sót qua cái chết của “thân chủ” để các thiết bị săn ma thông dụng phát hiện được.

Trong khi hầu hết các thợ săn ma tiến hành các trò phiêu lưu vô hại và cả vô ích, vẫn còn một mảng tối hơn đi kèm với nó. Trong khi các chương trình truyền hình săn ma ăn khách được phát sóng, cảnh sát trên khắp nước Mỹ đã chứng kiến việc tăng đột biến số người bị bắt, bị thương và thậm chí bị giết trong quá trình tìm kiếm ma. Năm 2010, một người đàn ông đã thiệt mạng trong khi săn ma cùng nhóm bạn với vọng nhìn thấy ma của một con tàu bị tai nạn nhiều năm trước đó. Con tàu ma không thấy đâu nhưng một con tàu thực xuất hiện đúng khúc cua và nghiến chết thợ săn ma xấu số.

Bằng chứng về ma hiện nay chẳng khác gì cách đây một năm, một thập niên và thậm chí một thế kỷ. Sự thất bại trong việc tìm kiếm bằng chứng đáng tin cậy của các thợ săn ma được cho là do 2 nguyên nhân: Trước hết là do ma không tồn tại và các báo cáo về ma có thể được lí giải bằng tâm lý, sự ngộ nhận, lầm tưởng hoặc trò bịp bợm. Thứ hai là, ma có tồn tại nhưng các thợ săn ma quá bất tài.

Rốt cuộc, săn ma không liên quan đến việc tìm kiếm bằng chứng (nếu như vậy, cuộc tìm kiếm đáng lẽ nên được chấm dứt từ cách đây rất lâu). Thay vào đó, quá trình này chủ yếu vì tận hưởng thú vui với bạn bè, kể các câu chuyện và thấy quan tâm đến những hiện tượng kỳ bí nhưng thú vị, rùng rợn và đôi chút sợ hãi nhưng hồi hộp và lôi cuốn.

Khám phá
  Forum: THẾ GIỚI HUYỀN BÍ - TỬ VI TƯỚNG MỆNH · Post Preview: #163852 · Replies: 0 · Views: 1,548

PhuDung
Posted on: Jan 21 2020, 12:06 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Thu dọn có nghĩa là vất bỏ


Người Mỹ nói rằng “Declutter is de-own,” nghĩa là muốn giải thoát mình khỏi sự trói buộc của những đồ vật lộn xộn, bề xề... thì trước hết phải sẵn sàng từ bỏ quyền sở hữu (de-own). Thu dọn chính là Declutter! Thu dọn làm cho cửa nhà gọn gàng, rộng rãi, sáng sủa hơn. Nếu biết thu dọn thì một căn nhà nhỏ đến đâu cũng vẫn còn rộng rãi; ngược lại, không biết thu dọn thì nhà cửa có rộng mấy cũng không tìm thấy chỗ len chân. Đối với Hằng, thu dọn là cách “trang trí” nhà cửa đẹp hơn cả, vì thế chúng ta phải tìm ra bí quyết của nó.
Dễ lắm, bí quyết thu dọn nằm ở chỗ này: thứ nhất là phải liệng bỏ (declutter is de-own); thứ hai, đừng quên mỗi ngày 15 phút làm như vậy. Sau đây là một vài điều tâm niệm giúp bạn liệng bỏ thành công:

1. Liệng bỏ mỗi ngày ít nhất một thứ: Trong 15 phút bỏ ra mỗi ngày, bạn phải tìm được ít nhất 1 thứ để liệng bỏ. Không nhất thiết phải “lên cơn điên” lục soạn, liệng bỏ tùm lum, để rồi hôm sau thấy thiếu rồi lại phải chạy ra cửa hàng tìm mua thứ khác. Nếu mỗi ngày bạn kiên trì vất đi một thứ thì sau 1 năm, bạn đã thanh tẩy được hơn… 300 món, và nhà cửa của bạn sẽ có thêm 300 khoảng trống. Điều quan trọng là bạn sẽ tạo được một lối sống mới, đơn giản và thanh thoát hơn.

Tủ ngổn ngang sách…

2. Chặn bớt đầu vào: Liệng bỏ là ở đầu ra, nhưng đồng thời phải chặn bớt đầu vào. Thu dọn sẽ hoàn toàn vô ích, nếu chúng ta không bỏ được thói quen mua đồ mới thế chỗ đồ cũ. Cương quyết mỗi ngày mỗi bớt mua. Các bạn tin em đi: Bạn sẽ không bao giờ hối tiếc vì bỏ lỡ dịp mua hàng. Trái lại, bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát hơn khi được giải thoát khỏi tâm lý chiếm hữu, vơ vào….

Đẹp ở sự đơn giản và khoảng trống

3. Đừng sợ buông bỏ: Một trong những lý do khiến bạn khó buông bỏ là vì sợ rằng có ngày mình sẽ cần tới đồ vật đó. Nhưng chúng ta nên hiểu rõ “cần” là gì. Nhiều món đồ có thể là hữu dụng, đúng ra, thứ gì cũng đều hữu dụng, nhưng không có nghĩa là bạn sẽ “cần” tới nó trong nhà bạn. Thí dụ: Một cái máy trộn hồ chắc chắn là rất có ích, nhưng nếu bạn không làm nghề thợ xây thì bạn giữ nó làm gì. Một thí dụ khác: Hoa thì đẹp thật, nhưng không phải cứ thấy hoa đẹp là phải cố hái khi mà vườn nhà mình đã có sẵn một bông rồi. Em nói vậy thôi, chứ vẫn biết thực hành là chuyện khác: Bảo “người ta” đừng mua thêm máy trộn hồ thì được, nhưng khuyên đừng cố hái thêm hoa chắc là khó lắm!

Nhà kho ngổn ngang đồ vật

4. Chỉ sắm những gì mình cần, hoặc thực sự thích: Đừng chạy theo trào lưu, hoặc đua đòi với người khác. Ở nhà riêng, chúng ta chỉ cần đồ dùng tiện ích, vừa tầm tay, chứ không cần những thứ hào nhoáng như khách sạn, tiệm ăn. Hãy thực tế về nhu cầu của gia đình.

5. Tặng quà “tinh thần”: Khi muốn tỏ lòng quí mến ai, chúng ta thường nghĩ tới một món quà gì đó. Nhưng quà cáp không nhất thiết phải là vật chất, rốt cuộc cũng trở thành một món chiếm chỗ vướng chân, sớm muộn cũng rơi vào sọt rác. Chẳng hạn, bạn có thể tặng một món quà ăn được (như kẹo bánh, rượu ngon, trà quí…) tặng gift certificate (vé đi ăn, vé đi chơi, đi coi ca nhạc, vé mua hàng…), tặng thời giờ (giúp người ta làm một việc gì đó…), tặng hoa tươi.

Muốn tránh bị đồ vật trói chân, phải biết từ bỏ

6. Đừng mất giờ vì những gì không cần thiết: Các bạn có để ý là những thứ lòa xòa làm vướng bận chân tay… chiếm mất rất nhiều thời giờ của chúng ta hay không? Nào là giờ mua sắm nó về, giờ săn sóc giữ gìn, giờ lau dọn chùi rửa… chưa kể đến đồng tiền bỏ ra để tậu nó cũng là giờ trích ra từ đời sống chúng ta. Đời sống rất quí giá, nhưng nghĩ lại thì chúng ta đã bỏ phí quá nhiều trong những thứ lòa xòa, vướng chân, vướng tay, không cần thiết đó.

Những ý tưởng trên đây chỉ là một vài gợi ý. Nếu bạn biết quí trọng “khoảng trống,” những khoảng không gian thoáng đãng làm cho tâm hồn thư giãn, bạn sẽ còn tìm được nhiều lý do mạnh mẽ hơn, thúc bách chúng ta “declutter” mạnh tay hơn nữa. Nhưng làm gì làm, bạn đừng quên rằng mỗi ngày 15 phút thu dọn là mỗi ngày tạo được một khoảng trống cho tâm hồn thêm thư thái.

Vũ Hằng
  Forum: NGHỆ THUẬT SỐNG - TÂM LÝ HỌC · Post Preview: #163179 · Replies: 0 · Views: 3,424

PhuDung
Posted on: Jan 21 2020, 12:06 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Một trẻ, hai nhà


Cuối cùng thì Eric cũng đã tìm được cuộc sống thoải mái, tư do khi bước chân vào trường đại học, cho dù đó chỉ là một căn phòng nhỏ trong ký túc xá. Gia đình của Eric khá phức tạp: cha mẹ ly dị khi Eric mới 10 tuổi, cha lấy vợ khác, mẹ đi thêm bước nữa. Vì cha mẹ của Eric chia sẻ quyền nuôi dưỡng, nên họ chia nhau thời gian để chăm sóc cho Eric. Em ở với gia đình cha ngày thường, và được mẹ đưa về vào những ngày cuối tuần. Cuộc sống của Eric bắt đầu thay đổi từ khi có tới hai gia đình mới, sống ở hai ngôi nhà khác nhau.

Gia đình pha trộn

Sau khi ly dị, cha mẹ của Eric đều lập gia đình mới. Người mẹ kế và người cha kế của Eric đều có con riêng, và sau đó có con chung với cha mẹ đẻ của Eric. Eric sống với hai gia đình pha trộn: gia đình của cha, gia đình của mẹ, hai nhóm anh chị em khác nhau. Mỗi gia đình lại có một nguyên tắc, cách cư xử khác nhau, thói quen, tính tình khác nhau. Một mình Eric phải cố gắng đáp ứng với những thay đổi của hai gia đình, em cảm thấy rất căng thẳng, nhưng không có cách nào khác là phải chịu đựng những khác nhau đó suốt nhiều năm của thời thơ ấu.

Josh, một cậu bé khác cũng có cha mẹ Josh ly dị. Em sống cùng người cha theo phán quyết của tòa án. Sau đó người cha “đi thêm bước nữa” với một người đàn bà đã có con riêng cùng tuổi và học cùng trường với Josh. Kỳ trại hè năm ngoái, Josh được cha đưa đến trường để cùng đi chung với bạn bè. Sau đó khoảng 30 phút, người mẹ kế mới đưa đứa con riêng của bà ấy đến. Vừa thấy người em đó, Josh òa lên khóc nức nở.
“Em ấy đã mặc chiếc áo sơ mi mà cha tặng cho con trong ngày sinh nhật,” Josh nói trong nước mắt. “Sao bà ấy lại có thể để cho em mặc chiếc áo đó của con chứ!”

Đối với Josh, em có thể chia sẻ mọi thứ cho người anh em khác cha, khác mẹ của mình, nhưng thứ gì của em phải là của em. Khi đồ đạc của em bị người khác lấy ra dùng, em cảm giác như bị xâm phạm quyền tự do cá nhân.

Trẻ em không muốn xáo trộn nhiều. Không gian của chúng, phải là của chúng. Bất cứ mọi dịch chuyển hoặc thay đổi đều khiến chúng cảm thấy mất an toàn vì như có ai đó đang theo dõi, đụng chạm đến cuộc sống riêng tư. Tiếc thay, nếu sống trong gia đình phức tạp, pha trộn nhiều, trẻ em sẽ khó cân bằng được tâm sinh lý.

Ảnh hưởng tâm lý

Tâm lý con trẻ khi cha mẹ ly hôn ảnh hưởng như thế nào và những điều cần biết chính là câu hỏi lớn đang đặt ra ở nhiều cặp vợ chồng khi không biết liệu rằng một khi cuộc sống hôn nhân không trọn vẹn, dẫn tới việc “đường ai nấy đi” sẽ tác động tới các bé như thế nào, nhất là khi chúng đang ở độ tuổi phát triển, khôn lớn, mọi vấn đề phát sinh trong đời sống hằng ngày đều có một sức ảnh hưởng nhất định.
Khi cha mẹ không còn giải pháp nào khác ngoài việc ly dị, ắt hẳn không ai muốn con cái mình sẽ đi theo “vết xe đổ” này. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của chuyên khoa Gia Đình & Người Tiêu Dùng thuộc Đại Học Utah (Hoa Kỳ), những cặp vợ chồng trong đó cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ trước đây đã từng ly dị thì khả năng “lịch sử ly hôn” lặp lại là rất cao, lên đến gấp hai lần. Tỷ lệ này sẽ tăng lên ba lần nếu cả hai vợ chồng đều là con của những gia đình ly dị trước đây.

Nhiều nhất trong số những thay đổi bất thường của trẻ có cha mẹ ly dị, đó là sự thay đổi tính khí, trẻ trở nên hung hăng hơn. Không phải ngẫu nhiên khi sự phát triển tâm sinh lý của bất kỳ đứa trẻ nào cũng đều cần sự giáo dục mang tính cương nhu tuỳ lúc của cha mẹ (mỗi người giữ một vai trò nghiêm khắc và dỗ dành nhất định). Với những gia đình chỉ còn một cha hoặc một mẹ thì sự kiểm soát, uốn nắn này sẽ trở nên khó khăn hơn. Từ đó dẫn đến sự mất cân đối trong tiến trình phát triển tâm lý của con cái. Hệ quả dễ thấy là có những bé trở nên hung hăng, hiếu chiến trong khi những trẻ khác có thể rụt rè và tự ti trước cuộc sống.

Cảm giác mất mát, bị ruồng bỏ: Khi cha mẹ ly dị, đứa trẻ buộc phải sống với một trong hai người. Dù ở vào lứa tuổi nào, đứa con cũng sẽ có cảm giác mất mát và thiếu thốn về mặt chăm sóc tinh thần. Tệ hơn, bé có thể cảm thấy bị ruồng bỏ nếu người cha hoặc mẹ còn lại không thường xuyên ghé thăm, hỏi han. Trẻ phải sống với cả hai bên “gia đình cha” và “gia đình mẹ”cũng không kém khổ tâm vì thường phải cam chịu cảnh cô đơn, chịu lụy, và rất hay tủi thân khi thấy cha mình chăm sóc cho người đàn bà khác không phải là mẹ của mình, và một đứa trẻ khác không do mẹ mình sanh ra.

Ảnh hưởng tới việc học hành: Theo thống kê của Hội Nghiên Cứu Trẻ Em Quốc Gia của Mỹ (National Survey of Children) đối với trẻ trong các gia đình ly dị, trung bình 15% trẻ bị ức hiếp ở trường; 13% bé sẽ bỏ học giữa chừng và có đến 60% các trẻ sẽ học hành sa sút so với khả năng học vấn của cha mẹ chúng.
Với nhiều gia đình, sự kiện ly dị có thể kéo theo việc con trẻ phải chuyển chỗ ở hoặc nơi học hành. Nếu bé may mắn không phải chuyển trường và làm quen lại thầy cô, bạn bè mới thì những trêu ghẹo vô ý từ bạn cùng lứa về tình trạng “thiếu cha” hoặc “vắng mẹ” có thể làm trẻ sợ đến trường. Ngoài ra, những môn học cần tham vấn ý kiến từ cha hoặc mẹ như trước đây cũng bị gián đoạn càng làm cho tình hình học hành của con trẻ thêm phần nghiêm trọng.

Giảm thiểu tổn thương cho trẻ

Quả thực, trước quyết định của người lớn, trẻ em cũng chịu những tổn thất tinh thần nhất định.
Để giảm thiểu sự tổn thương này cho con, các bậc phụ huynh vì lý do nào đó phải ly hôn người chồng/vợ của mình, cần hiểu tâm lý để giảm thiểu mọi tổn thương cho con trẻ.
- Thẳng thắn nhưng nhẹ nhàng nói cho con biết rõ tình trạng chia xa của cha mẹ.
- Hỏi ý kiến của con muốn sống với ai và tuyệt đối tôn trọng quyết định ấy.
- Người không trực tiếp nuôi dưỡng con nên thường xuyên ghé thăm và chu cấp đầy đủ.
- Nếu có trách nhiệm chia sẻ quyền nuôi con, người cha/mẹ nên tạo bầu không khí chan hòa trong gia đình, công bằng với tất cả những đứa con, không phân biệt “con anh, con tôi, con chúng ta”.
Hôn nhân là một trong những vấn đề hệ trọng nhất của một đời người. Trong đó, con cái chính là một trong những điều quan trọng nhất của cả cuộc đời cha mẹ. Vì thế, trước khi đi đến một quyết định liên quan đến cuộc hôn nhân, hãy suy nghĩ đến con trẻ trước tiên, và đừng để trẻ phải chịu nhiều tổn thương về tâm lý khi một mình em phải sống và chịu đựng ở hai gia đình, hai ngôi nhà khác nhau.

(Theo Focusonthefamily.com, và nguồn tổng hợp)
  Forum: MẸ - BÉ VÀ SỨC KHÒE · Post Preview: #163178 · Replies: 0 · Views: 1,421

PhuDung
Posted on: Jan 21 2020, 12:06 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Thu dọn có nghĩa là vất bỏ


Người Mỹ nói rằng “Declutter is de-own,” nghĩa là muốn giải thoát mình khỏi sự trói buộc của những đồ vật lộn xộn, bề xề... thì trước hết phải sẵn sàng từ bỏ quyền sở hữu (de-own). Thu dọn chính là Declutter! Thu dọn làm cho cửa nhà gọn gàng, rộng rãi, sáng sủa hơn. Nếu biết thu dọn thì một căn nhà nhỏ đến đâu cũng vẫn còn rộng rãi; ngược lại, không biết thu dọn thì nhà cửa có rộng mấy cũng không tìm thấy chỗ len chân. Đối với Hằng, thu dọn là cách “trang trí” nhà cửa đẹp hơn cả, vì thế chúng ta phải tìm ra bí quyết của nó.
Dễ lắm, bí quyết thu dọn nằm ở chỗ này: thứ nhất là phải liệng bỏ (declutter is de-own); thứ hai, đừng quên mỗi ngày 15 phút làm như vậy. Sau đây là một vài điều tâm niệm giúp bạn liệng bỏ thành công:

1. Liệng bỏ mỗi ngày ít nhất một thứ: Trong 15 phút bỏ ra mỗi ngày, bạn phải tìm được ít nhất 1 thứ để liệng bỏ. Không nhất thiết phải “lên cơn điên” lục soạn, liệng bỏ tùm lum, để rồi hôm sau thấy thiếu rồi lại phải chạy ra cửa hàng tìm mua thứ khác. Nếu mỗi ngày bạn kiên trì vất đi một thứ thì sau 1 năm, bạn đã thanh tẩy được hơn… 300 món, và nhà cửa của bạn sẽ có thêm 300 khoảng trống. Điều quan trọng là bạn sẽ tạo được một lối sống mới, đơn giản và thanh thoát hơn.

Tủ ngổn ngang sách…

2. Chặn bớt đầu vào: Liệng bỏ là ở đầu ra, nhưng đồng thời phải chặn bớt đầu vào. Thu dọn sẽ hoàn toàn vô ích, nếu chúng ta không bỏ được thói quen mua đồ mới thế chỗ đồ cũ. Cương quyết mỗi ngày mỗi bớt mua. Các bạn tin em đi: Bạn sẽ không bao giờ hối tiếc vì bỏ lỡ dịp mua hàng. Trái lại, bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát hơn khi được giải thoát khỏi tâm lý chiếm hữu, vơ vào….

Đẹp ở sự đơn giản và khoảng trống

3. Đừng sợ buông bỏ: Một trong những lý do khiến bạn khó buông bỏ là vì sợ rằng có ngày mình sẽ cần tới đồ vật đó. Nhưng chúng ta nên hiểu rõ “cần” là gì. Nhiều món đồ có thể là hữu dụng, đúng ra, thứ gì cũng đều hữu dụng, nhưng không có nghĩa là bạn sẽ “cần” tới nó trong nhà bạn. Thí dụ: Một cái máy trộn hồ chắc chắn là rất có ích, nhưng nếu bạn không làm nghề thợ xây thì bạn giữ nó làm gì. Một thí dụ khác: Hoa thì đẹp thật, nhưng không phải cứ thấy hoa đẹp là phải cố hái khi mà vườn nhà mình đã có sẵn một bông rồi. Em nói vậy thôi, chứ vẫn biết thực hành là chuyện khác: Bảo “người ta” đừng mua thêm máy trộn hồ thì được, nhưng khuyên đừng cố hái thêm hoa chắc là khó lắm!

Nhà kho ngổn ngang đồ vật

4. Chỉ sắm những gì mình cần, hoặc thực sự thích: Đừng chạy theo trào lưu, hoặc đua đòi với người khác. Ở nhà riêng, chúng ta chỉ cần đồ dùng tiện ích, vừa tầm tay, chứ không cần những thứ hào nhoáng như khách sạn, tiệm ăn. Hãy thực tế về nhu cầu của gia đình.

5. Tặng quà “tinh thần”: Khi muốn tỏ lòng quí mến ai, chúng ta thường nghĩ tới một món quà gì đó. Nhưng quà cáp không nhất thiết phải là vật chất, rốt cuộc cũng trở thành một món chiếm chỗ vướng chân, sớm muộn cũng rơi vào sọt rác. Chẳng hạn, bạn có thể tặng một món quà ăn được (như kẹo bánh, rượu ngon, trà quí…) tặng gift certificate (vé đi ăn, vé đi chơi, đi coi ca nhạc, vé mua hàng…), tặng thời giờ (giúp người ta làm một việc gì đó…), tặng hoa tươi.

Muốn tránh bị đồ vật trói chân, phải biết từ bỏ

6. Đừng mất giờ vì những gì không cần thiết: Các bạn có để ý là những thứ lòa xòa làm vướng bận chân tay… chiếm mất rất nhiều thời giờ của chúng ta hay không? Nào là giờ mua sắm nó về, giờ săn sóc giữ gìn, giờ lau dọn chùi rửa… chưa kể đến đồng tiền bỏ ra để tậu nó cũng là giờ trích ra từ đời sống chúng ta. Đời sống rất quí giá, nhưng nghĩ lại thì chúng ta đã bỏ phí quá nhiều trong những thứ lòa xòa, vướng chân, vướng tay, không cần thiết đó.

Những ý tưởng trên đây chỉ là một vài gợi ý. Nếu bạn biết quí trọng “khoảng trống,” những khoảng không gian thoáng đãng làm cho tâm hồn thư giãn, bạn sẽ còn tìm được nhiều lý do mạnh mẽ hơn, thúc bách chúng ta “declutter” mạnh tay hơn nữa. Nhưng làm gì làm, bạn đừng quên rằng mỗi ngày 15 phút thu dọn là mỗi ngày tạo được một khoảng trống cho tâm hồn thêm thư thái.

Vũ Hằng
  Forum: HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH - LỨA ĐÔI - CUỘC SỐNG · Post Preview: #163836 · Replies: 0 · Views: 4,131

PhuDung
Posted on: Jan 21 2020, 12:06 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Thu dọn có nghĩa là vất bỏ


Người Mỹ nói rằng “Declutter is de-own,” nghĩa là muốn giải thoát mình khỏi sự trói buộc của những đồ vật lộn xộn, bề xề... thì trước hết phải sẵn sàng từ bỏ quyền sở hữu (de-own). Thu dọn chính là Declutter! Thu dọn làm cho cửa nhà gọn gàng, rộng rãi, sáng sủa hơn. Nếu biết thu dọn thì một căn nhà nhỏ đến đâu cũng vẫn còn rộng rãi; ngược lại, không biết thu dọn thì nhà cửa có rộng mấy cũng không tìm thấy chỗ len chân. Đối với Hằng, thu dọn là cách “trang trí” nhà cửa đẹp hơn cả, vì thế chúng ta phải tìm ra bí quyết của nó.
Dễ lắm, bí quyết thu dọn nằm ở chỗ này: thứ nhất là phải liệng bỏ (declutter is de-own); thứ hai, đừng quên mỗi ngày 15 phút làm như vậy. Sau đây là một vài điều tâm niệm giúp bạn liệng bỏ thành công:

1. Liệng bỏ mỗi ngày ít nhất một thứ: Trong 15 phút bỏ ra mỗi ngày, bạn phải tìm được ít nhất 1 thứ để liệng bỏ. Không nhất thiết phải “lên cơn điên” lục soạn, liệng bỏ tùm lum, để rồi hôm sau thấy thiếu rồi lại phải chạy ra cửa hàng tìm mua thứ khác. Nếu mỗi ngày bạn kiên trì vất đi một thứ thì sau 1 năm, bạn đã thanh tẩy được hơn… 300 món, và nhà cửa của bạn sẽ có thêm 300 khoảng trống. Điều quan trọng là bạn sẽ tạo được một lối sống mới, đơn giản và thanh thoát hơn.

Tủ ngổn ngang sách…

2. Chặn bớt đầu vào: Liệng bỏ là ở đầu ra, nhưng đồng thời phải chặn bớt đầu vào. Thu dọn sẽ hoàn toàn vô ích, nếu chúng ta không bỏ được thói quen mua đồ mới thế chỗ đồ cũ. Cương quyết mỗi ngày mỗi bớt mua. Các bạn tin em đi: Bạn sẽ không bao giờ hối tiếc vì bỏ lỡ dịp mua hàng. Trái lại, bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát hơn khi được giải thoát khỏi tâm lý chiếm hữu, vơ vào….

Đẹp ở sự đơn giản và khoảng trống

3. Đừng sợ buông bỏ: Một trong những lý do khiến bạn khó buông bỏ là vì sợ rằng có ngày mình sẽ cần tới đồ vật đó. Nhưng chúng ta nên hiểu rõ “cần” là gì. Nhiều món đồ có thể là hữu dụng, đúng ra, thứ gì cũng đều hữu dụng, nhưng không có nghĩa là bạn sẽ “cần” tới nó trong nhà bạn. Thí dụ: Một cái máy trộn hồ chắc chắn là rất có ích, nhưng nếu bạn không làm nghề thợ xây thì bạn giữ nó làm gì. Một thí dụ khác: Hoa thì đẹp thật, nhưng không phải cứ thấy hoa đẹp là phải cố hái khi mà vườn nhà mình đã có sẵn một bông rồi. Em nói vậy thôi, chứ vẫn biết thực hành là chuyện khác: Bảo “người ta” đừng mua thêm máy trộn hồ thì được, nhưng khuyên đừng cố hái thêm hoa chắc là khó lắm!

Nhà kho ngổn ngang đồ vật

4. Chỉ sắm những gì mình cần, hoặc thực sự thích: Đừng chạy theo trào lưu, hoặc đua đòi với người khác. Ở nhà riêng, chúng ta chỉ cần đồ dùng tiện ích, vừa tầm tay, chứ không cần những thứ hào nhoáng như khách sạn, tiệm ăn. Hãy thực tế về nhu cầu của gia đình.

5. Tặng quà “tinh thần”: Khi muốn tỏ lòng quí mến ai, chúng ta thường nghĩ tới một món quà gì đó. Nhưng quà cáp không nhất thiết phải là vật chất, rốt cuộc cũng trở thành một món chiếm chỗ vướng chân, sớm muộn cũng rơi vào sọt rác. Chẳng hạn, bạn có thể tặng một món quà ăn được (như kẹo bánh, rượu ngon, trà quí…) tặng gift certificate (vé đi ăn, vé đi chơi, đi coi ca nhạc, vé mua hàng…), tặng thời giờ (giúp người ta làm một việc gì đó…), tặng hoa tươi.

Muốn tránh bị đồ vật trói chân, phải biết từ bỏ

6. Đừng mất giờ vì những gì không cần thiết: Các bạn có để ý là những thứ lòa xòa làm vướng bận chân tay… chiếm mất rất nhiều thời giờ của chúng ta hay không? Nào là giờ mua sắm nó về, giờ săn sóc giữ gìn, giờ lau dọn chùi rửa… chưa kể đến đồng tiền bỏ ra để tậu nó cũng là giờ trích ra từ đời sống chúng ta. Đời sống rất quí giá, nhưng nghĩ lại thì chúng ta đã bỏ phí quá nhiều trong những thứ lòa xòa, vướng chân, vướng tay, không cần thiết đó.

Những ý tưởng trên đây chỉ là một vài gợi ý. Nếu bạn biết quí trọng “khoảng trống,” những khoảng không gian thoáng đãng làm cho tâm hồn thư giãn, bạn sẽ còn tìm được nhiều lý do mạnh mẽ hơn, thúc bách chúng ta “declutter” mạnh tay hơn nữa. Nhưng làm gì làm, bạn đừng quên rằng mỗi ngày 15 phút thu dọn là mỗi ngày tạo được một khoảng trống cho tâm hồn thêm thư thái.

Vũ Hằng
  Forum: NGHỆ THUẬT SỐNG - TÂM LÝ HỌC · Post Preview: #163837 · Replies: 0 · Views: 2,570

PhuDung
Posted on: Jan 8 2020, 04:57 PM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Sống nghèo khổ khiến đàn ông dễ bị trầm cảm



Trầm cảm là một nguyên nhân nghiêm trọng gây tàn phế trên thế giới; nếu không được điều trị, nó có thể dẫn đến tình trạng lạm dụng chất kích thích, lo âu và tự tử.

Chứng rối loạn trầm cảm cơ bản là tình trạng đặc thù ảnh hưởng đến rất nhiều người, có khả năng khiến nhiều hoạt động từng đem lại niềm vui mất hẳn hứng khởi.

Nó cũng có thể gây ra cảm giác vô giá trị, mất cân bằng, như ngủ quá nhiều hay mất ngủ, và gây ra ý định tự tử.

Chúng tôi tìm hiểu vấn đề này trong một nghiên cứu mới, và thấy rằng việc sống ở những khu vực cùng quẫn có thể dẫn đến rối loạn trầm cảm ở đàn ông, nhưng phụ nữ lại không mắc phải chứng này.BM

Trước khi giải thích những phát hiện này, điều quan trọng là chúng ta cần biết rõ hơn về bối cảnh dẫn đến tình trạng này.

Có một số yếu tố nhất định khiến bạn có nguy cơ cao bị rối loạn trầm cảm. bị chẩn đoán mắc những căn bệnh kinh niên khó chữa như tiểu đường hay ung thư, dù ở thời hiện tại hay trong quá khứ, cũng có thể gia tăng rủi ro khiến bạn bị trầm cảm. Những tổn thương đau đớn, như bị lạm dụng tình dục hay thể chất, hay việc lớn lên trong một gia đình thiếu vắng sự ổn định, nề nếp, nhiều bất hoà trong hôn nhân.

Tuy nhiên, đó là các yếu tố riêng tư, hay còn gọi là hoàn cảnh cá nhân, có thể gây tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần của bạn. Và hầu hết các nghiên cứu trầm cảm đã tập trung vào những yếu tố riêng tư đó.

Nhưng còn có những yếu tố vượt ra bên ngoài cấp độ cá nhân, như đặc trưng của cộng đồng ta sống cùng - cũng có thể gây tác động rất lớn đến sức khỏe tâm thần của ta.

Một nghiên cứu cho thấy sống ở những khu vực nghèo khó có thể gây ra rối loạn trầm cảm ở nam giới nhưng không gây ảnh hưởng đến nữ giới

Các nghiên cứu trước đây cho thấy sống trong những cộng đồng túng quẫn khiến cư dân ở những khu vực này đánh giá sức khỏe của mình không đạt được mức khoẻ mạnh nhất và họ có thể chết sớm.

Qua nghiên cứu của mình, chúng tôi muốn tìm hiểu xem việc sống ở những khu vực cùng quẫn liệu có tác động gì đến sức khỏe tâm thần của phụ nữ và đàn ông hay không - ngay cả sau khi đã tính đến hoàn cảnh cá nhân. Nghĩa là, ngay cả sau khi bạn tính đến tình trạng kinh tế, địa vị xã hội của mỗi người (trong nghiên cứu của mình, chúng tôi tính đến các yếu tố như trình độ học vấn và vị trí trong xã hội), thì môi trường khu dân cư có tác động đến sức khỏe tâm thần của họ hay không?

Phát hiện đáng lo ngại

Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi sử dụng dữ liệu từ một trong những nghiên cứu kéo dài thời gian nhất về sức khỏe, bệnh kinh niên và cách sống của mọi người: Dữ liệu EPIC-Norforlk. Nghiên cứu này dựa trên 20.000 người đã trả lời bảng hỏi chi tiết về sức khỏe tâm thần và tiền sử bệnh của họ.

Mã bưu chính của người trả lời được liên kết với kết quả điều tra dân số để xác định xem họ có sống ở những cộng đồng khó khăn hay không. 5 năm sau khi xác định mức độ nghèo khó, người tham gia trả lời một bảng hỏi tâm lý xã hội để xác định xem liệu họ có bị rối loạn trầm cảm hay không. Sử dụng kỹ thuật thống kê, mối liên hệ giữa sự nghèo khó và trầm cảm được xem xét trong khi có tính đến vấn đề tiền sử bệnh, trình độ học vấn, vị trí trong xã hội và các yếu tố quan trọng khác.

Đàn ông sống ở những khu vực nghèo khó nhất có khả năng bị trầm cảm cao hơn 51% so với những người không sống trong khu vực như vậy. Kết quả không tìm thấy sự khác biệt đáng kể về thống kê ở nữ giới

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sống ở khu vực túng quẫn có ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần - ít nhất là ở nam giới.

Trong thực tế, chúng tôi nhận thấy đàn ông sống ở khu vực nghèo khổ có khả năng bị trầm cảm cao hơn 51% so với những người sống ở khu vực không túng quẫn. Thú vị là, kết quả không nhận thấy khác biệt đáng kể nào về mặt thống kê ở nữ giới.

Nghiên cứu của chúng tôi không đưa ra lý giải tại sao lại có trường hợp này - và ta cần nghiên cứu thêm nữa để trả lời câu hỏi đó. Tuy nhiên, có thể là vì rất nhiều đàn ông ở Anh Quốc và những vùng khác trên thế giới vẫn cảm thấy mình có trách nhiệm chính trong việc chu cấp, lo lắng cho cả gia đình.

Một nghiên cứu gần đây tìm hiểu về nguy cơ trầm cảm ở đàn ông và phụ nữ cho thấy đàn ông bị tác động nhiều hơn khi "thất bại trong những nhiệm vụ chính, như không thành công trong công việc như mong muốn, hoặc không thể chu cấp đầy đủ cho gia đình".

Nghiên cứu cũng cho thấy đàn ông có vẻ như nhạy cảm với một số yếu tố gây căng thẳng trong môi trường hơn so với phụ nữ, như các vấn đề liên quan đến công việc và tiền bạc.

Mặt khác, mức độ trầm cảm của phụ nữ bị ảnh hưởng nhiều từ những nhân tố gây trầm cảm bắt nguồn từ quan hệ tình cảm và mối liên hệ xã hội mà họ gắn bó. Chẳng hạn, những yếu tố như sự lạnh nhạt trong tình cảm với cha mẹ, hay sự không hài lòng về cuộc hôn nhân thực sự ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của phụ nữ.

Nhiều nhân tố có thể là nguyên nhân ẩn sau vấn đề này, nhưng ở Anh Quốc, số lượng đàn ông có nguy cơ chết vì tự tử cao gấp ba lần phụ nữ, và vì vậy nguyên nhân căn bản khiến đàn ông khổ sở nên được tìm hiểu.

Dù phụ nữ có nguy cơ thấp hơn trong việc bị rối loạn trầm cảm ở những khu vực nghèo đói, một nghiên cứu khác cho thấy có vẻ như họ dễ bị lo âu hơn.

Một lần nữa, nghiên cứu xa hơn về ảnh hưởng của môi trường khu dân cư đến sức khỏe tâm thần cần được tiến hành từ góc độ giới tính.

Có rất nhiều người đang sống ở khu vực nghèo khó trên thế giới và trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế ở cấp độ toàn cầu.

Việc hiểu rõ về tình trạng phụ nữ và đàn ông bị tác động bởi những khó khăn trong khu dân cư nghèo khó tới mức nào có thể giúp tập trung vào điều trị sức khỏe tâm thần, và đây là bước đi quan trọng trong tương lai.



Olivia Remes

  Forum: HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH - LỨA ĐÔI - CUỘC SỐNG · Post Preview: #163154 · Replies: 0 · Views: 1,723

PhuDung
Posted on: Aug 27 2019, 11:30 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Xã Lới (Gò Công)


Lục lạo trong văn hóa Nam Kỳ thấy có nhiều từ đọc trại đi do kị húy, có nhiều từ là dân đọc.... cho vui, cho khác với vùng khác.

Thí dụ:

Bắc Kỳ kêu hạt, Nam Kỳ thay thay hột.

Bắc Kỳ đĩa, Nam Kỳ dĩa.

Nhặt thành lượm, thóc thành lúa, nhạt thành lạt, nhợt nhạt thay thành lợt lạt.

Bắc gửi thì Nam thành gởi, Bắc thư thì Nam thành thơ.

Chữ Đàm không kị húy ai, nhưng vô Nam thành Đờm.

Tùng vô Nam thành Tòng.

Quế cũng không kị ai nhưng vô Nam thành Qưới, quý nhân thành quới nhơn, Nguyệt Quế thành Nguyệt Quới.

“Đảm đang” thành “đởm đương” là kị húy, đan đệm thành đương đệm.

Vì vua Minh Mạng tên thực là Nguyễn Phúc Đảm, mẹ vua là bà Trần Thị Đang.

Hòa thành Huề là không kị húy, nhưng Tây Hòa sẽ thành Tây Huề, đề huề.

An thành Yên.

Thí dụ vua Minh Mạng đặt tên Gia Định là Phiên An, nhưng dân Nam Kỳ đọc thành Phan Yên (tức thành Gia Định), Lê Văn Khôi làm binh biến thành Phan Yên.

“Ông ấy phứt núi rồi” (khuất núi).

“Ở góa” thành ra “ở giá”, đàn bà góa thành đờn bà giá.

Rồi “ngắn” đọc thành “vắn”.

Thí dụ quần ngắn thành quần vắn, thành ngữ “Bàn tay có ngón ngắn ngón dài” vô Nam thành “Bàn tay có ngón vắn ngón dài”.

Mới đọc đoạn văn Hồ Biểu Chánh sau:

“... Cháu ngó thoáng qua, thì thấy người ấy da mặt sần sượng nám đen, đầu tóc cụt cụt xắp xải, áo đơm nút khít đeo, quần vắn nửa ống cẳng, tay mang một cái nón lá, cổ vấn một cái khăn rằn”.

Khuất thành Phứt là một dạng biến âm Nam Kỳ.

Khuất núi là chết, Nam Kỳ đọc thành phứt núi.

Rồi ‘phứt’ là trạng từ chỉ sự dứt khoát.

Thí dụ:

- Mày có gì thì nói phứt ra cho rồi

- Đâu em nói phứt nghe thử coi

“Bà tính phận nó đã xong, còn phận mầy bà tính như vậy cũng là hay lắm. Hương giáo Cân có mười mấy mẫu đất, mà có một đứa con gái mà thôi.

Bà muốn đứng làm mai cưới nó cho mầy, tao không hiểu tại sao mầy dục dặc không chịu phứt đi cho rồi. Mầy cưới con Hương giáo, ngày sau mầy nhờ lắm chớ. Sao mầy chê?”

Tui đó các bạn trong văn hóa Nam Kỳ chữ ‘lới’ có nghĩa gì nè?

Trong Hán văn chữ 伎巧 (kỹ xảo) và 手段 (thủ đoạn) có nghĩa là chiêu trò, mánh khóe.

Mánh khóe là chữ thuần Việt.

Nhưng Nam Kỳ đọc là “Mánh lới”.

Mánh lới là từ có dính líu tới những bạn ghe chèo, bạn hàng bán buôn bằng ghe đường sông thời xưa.

Ai cũng biết xưa Nam Kỳ là văn minh sông nước, kinh rạch, sông ngòi.

Thương lái là người bán buôn đường sông:

“Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi
Kẻo khúc sông này bờ bụi tối tăm.
Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể
Cưới vợ có chửa về thổi lửa queo râu”
Bán buôn thì phải có thủ đoạn, có những cách ăn gian nói trớ mới bán buôn được.

Đó là mánh khóe bán buôn mà xưa kêu là “mánh lái”.

Lâu ngày thành mánh lới.

Nhiều người đặt tên con là “Lới”.

Nhưng đâu đó ta thấy không ai kêu “Lới buôn”, “Lới ghe”, “Lới xe”.

Nhưng “Mánh lới” cũng có nghĩa là người đó đang lái câu chuyện đi xa kiểu lòng vòng.

Thành ra chữ lới cũng không giải thích rõ ràng được.


Nguyễn Gia Việt
  Forum: TRAU DỒI TÌM HIỂU TIẾNG VIỆT - CA DAO - TỤC NGỮ · Post Preview: #162815 · Replies: 0 · Views: 3,528

PhuDung
Posted on: Aug 1 2019, 09:48 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Chuyện Hai Người “Quét Rác” Và “Xả Rác”


Vào sáng Chủ Nhật, có thể là do ngày nghỉ rảnh rỗi, một người đàn ông trung niên lúi húi quét dọn trước cửa nhà. Ông cầm chiếc chổi và đồ hốt rác quét sạch vỉa hè rồi quét dọc theo lề đường, cẩn thận gom tất cả đám cát, bao ny-lông, mẩu thuốc lá, ly giấy, lá khô và đủ thứ rác rưởi của xã hội văn minh vào thùng, đậy nắp cận thận, đặt ngay ngắn xuống lòng đường, để ngày mai xe rác của thành phố lấy đi. Hình như ông là người duy nhất ở khu phố này cầm chổi quét lòng đường và vỉa hè. Thói thường đều cho rằng chuyện đường phố sạch dơ để thành phố lo. Hơi đâu “bao đồng” chuyện nhà nước? Thế nhưng cứ mỗi lần qua khu Japan Town, ông lại cảm phục người Nhật về tinh thần tự trọng và yêu mến thành phố của họ. Lúc nào ông cũng thấy những ông, bà Nhật lúi húi quét dọn vỉa hè và lòng đường. Chính vì thế mà cả khu Japan Town lúc nào cũng sạch trơn. Chỉ cần bước qua ranh giới của Japan Town là một hình ảnh thật tương phản. Sự sạch sẽ, khang trang chỉ cách nhau một sợi chỉ. Có lần ông dừng xe lại hỏi thăm thì được các ông bà Nhật nói:

"Chúng tôi quan niệm rằng đường phố thuộc về người dân, không hoàn toàn thuộc về chính phủ. Do đó giữ gìn đường phố sạch sẽ cũng là trách nhiệm của người dân. Đồng ý là chúng tôi có đóng thuế để thành phố lo chuyện vệ sinh nhưng giờ đây thành phố có quá nhiều việc phải lo hoặc lo không xuể. Chúng tôi không ngồi đó than trời trách đất. Nếu muốn sở rác phục vụ tốt hơn thì chúng tôi lại phải đóng thêm thuế. Thôi thì chúng tôi chia xẻ trách nhiệm với nhà nước mà cũng là để giữ gìn đường phố của chính mình. Chẳng mất mát gì cả. Tới một thành phố khang trang sạch sẽ người ta cảm phục cả đất nước lẫn con người ở đó. Chúng tôi yêu khu phố của chúng tôi và cũng muốn khách vãng lai yêu mến nó.”
Chinh vì cảm phục người Nhật mà tuần nào ông cũng làm công việc này mà chẳng than phiền chi cả. Khi nhận thấy vỉa hè và lòng đường đã khá sạch, ông toan thu dọn để bước vào nhà thì một thanh niên từ xa bước tới, miệng phì phèo điếu thuốc. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc và đi đứng người ta có thể nhận ra đây là một chàng thanh niên ngang tàng. Khi tới chỗ ông đang đứng, người thanh niên rít hơi cuối cùng rồi coi như không có ai, thản nhiên quăng mẩu thuốc lá xuống đường. Nhìn mẩu thuốc là nằm tênh hênh trên mặt vỉa hè sạch trơn, dường như nó có vẻ “phá hoại” và trêu ngươi, cho nên người đàn ông tức giận, lớn tiếng gọi người thanh niên:
-Này, yêu cầu quay lại nhặt tàn thuốc lá lên nghe!
Người thanh niên đã đi cách xa ông khoảng năm, sáu bước, nghe gọi thế quay đầu lại nhìn với vẻ hết sức ngạc nhiên. Anh ta ngạc nhiên vì có thể cả trăm lần quăng mẩu thuốc lá như thế này mà chẳng ai phản ứng gì, nay có một “gã điên” làm chuyện không giống ai. Anh ta quay lại, sẵng giọng hỏi:
-Ông nói gì?
-Yêu cầu cậu nhặt mẩu thuốc lá lên!
Mặt chàng thanh niên đỏ gay:
-Bộ đường phố này của ông hả?
Người đàn ông trả lời ngay:
-Không phải của tôi nhưng tôi tôi quét dọn sạch sẽ. Người tự trọng không bao giờ xả rác bừa bãi. Cậu hiểu điều đó không? Tôi yêu cầu cậu nhặt lên!
Tự ái bị tổn thương, người thanh niên không cần phân biệt đúng-sai, nói như gây sự:
-Không nhặt thì sao?

Sự lớn tiếng qua lại giữa hai bên làm người trong nhà chạy ra, người qua lại trên hè phố tò mò đứng lại. Cuối cùng tất cả đều thấy đây không phải chuyện đại sự cho nên xúm vào can gián. Cuối cùng người thanh niên hậm hực bỏ đi còn người đàn ông đứng phân bua một hồi rồi bực bội bước vào nhà.
***

Ba ngày sau, tại một khu phố khác cách đó khoảng năm, sáu con đường người ta thấy một vị sư đang quét rác tại cổng một ngôi chùa. Hôm nay là Thứ Hai chùa vắng, Phật tử đi làm hết, sau hai ngày cuối tuần bận rộn với sinh hoạt và lễ lạc, rác đã thấy lai rai trên sân. Ngoài ra, còn lá trên cây rụng xuống cho nên thầy trụ trì ra công quét dọn, vừa vận động vừa làm sạch trong ngoài. Đối với người xuất gia, quét rác cũng là “công phu”. Sau khi cổng chùa đã sạch sẽ, sư toan đẩy thùng rác trở vào thì một chàng thanh niên tà tà bước tới. Đây chính là anh chàng đã gây sự với người đàn ông quét rác ba ngày trước. Khi đi tới cổng chùa, có thể do vô tình, do quán tính, cố tật, hoặc đãng trí, sau khi mở bao thuốc lá, chàng ta rút ra một điếu, châm lửa. Thấy bao thuốc đã hết, chàng ta quăng cả chiếc bao trống không dưới chân bức tường cạnh cổng chùa rồi thản nhiên bước đi. Thế nhưng khi bước đi khoảng năm, sáu thước, có thể do nhớ lại cuộc “đụng độ” với người đàn ông trước đây, chàng ta quay đầu lại xem sự thể như thế nào. Trái với phỏng đoán của mình, vị sư bình thản bước tới chân bức tường, cúi xuống nhặt bao thuốc lá lên, quay lại thùng rác, mở một bao rác nhỏ, bỏ bao thuốc lá trống vào bên trong, cột trở lại, bỏ vào thùng rác rồi lặng lẽ đẩy thùng rác vào bên trong sân chùa, không hề quay nhìn chàng thanh niên …đang ngạc nhiên đứng đó.
***

Ngày hôm sau, chàng thanh niên tới thăm vị sư. Sau khi giới thiệu mình chính là người xả rác trước cổng chùa. Chàng ta kể lại chuyện “đụng độ” với người đàn ông rồi hỏi:
-Thưa thầy, tại sao cùng một chuyện mà thầy lại có lối cư xử nhẹ nhàng hơn người đàn ông kia?
Sư hiền từ đáp:

-Người đàn ông đó là một công dân tốt. Một công dân tốt do làm tròn bổn phận của mình cho nên thường thẳng thắn nói lên cái sai của người khác để cùng nhau sửa chữa trong tinh thần ôn hòa. Tuy nhiên cách hành xử giữa một người thường và một người xuất gia có khác nhau. Người xuất gia không nói về cái lỗi của kẻ khác mà kham nhẫn để kẻ phạm lỗi giác ngộ mà tu sửa. Hai lối hành xử đó không cái nào hơn cái nào, “vạn pháp đều bình đẳng”, chỉ tùy duyên ứng xử mà thôi. Một căn nhà, một ngôi chùa, một khu phố hoặc nơi làm việc cần phải sạch sẽ. Sự sạch sẽ làm trang nghiêm cuộc sống và thế giới. Ngay đầu óc chúng ta cũng cần sạch sẽ. Muốn sạch sẽ thì phải quét rác. Một chiếc máy điện tử muốn tốt cũng phải “đổ rác”. Đầu óc con người muốn thanh tịnh, sạch sẽ cũng phải “đổ rác”- đổ bớt rác rưởi của tâm hồn. Những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, tị hiềm, những tư tưởng loại trừ, kỳ thị, ghét bỏ đều là rác rưởi của tâm hồn. “Quét rác” và “đổ rác” là việc làm thường xuyên của người nào muốn tâm hồn thanh tịnh. Từ thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Vì tâm không động cho nên ít gây đổ vỡ.
***

Ba ngày sau, chàng thanh niên tìm tới nhà người đàn ông, nói lời xin lỗi. Chàng học được một bài học nơi sư, “ Thay vì xả rác xuống đường hoặc nơi công cộng thì nên xả bớt rác trong tâm hồn mình.”

Lời người kể chuyện:

Ngoài đức tính kham nhẫn, có thể sư đã đạt tới mức “vô phân biệt”. Sư cứ thấy rác thì quét mà không hề phân biệt rác từ cây đổ xuống, Phật tử xả ra, nam hay nữ, lạ hay quen cho nên rác của chàng thanh niên cũng thế thôi. Chính vì “vô phân biệt” cho nên sư không động tâm. Không động tâm cho nên sư đã quét rác trong trạng thái “vô tâm”. Mà vô tâm thì an lành./.

Đào Văn Bình


  Forum: PHẬT GIÁO · Post Preview: #162680 · Replies: 0 · Views: 3,984

PhuDung
Posted on: Aug 1 2019, 09:48 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Tôi là Ai? Việt hay Mỹ?


Một bài viết hay dành cho những người Việt tại Hoa Kỳ…

Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuộc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi đó sau một ngày nhìn vào lịch thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn.

Bây giờ có ai mới quen gặp tôi, hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự nhiên, tôi ở San Jose , hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời, tôi ở Mỹ đến. Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ người ta hỏi, bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói, tôi là người Việt Nam , để cho họ không nhầm với người Trung Hoa, Nhật, hay Phi.

Đúng, tôi ở Mỹ trên dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ thử xem lại con người Mỹ của tôi.

Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì thay đổi cả. Vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông và cái mũi tẹt khiêm tốn, tóc sợi to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải nhuộm.

Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì nó vẫn cho cái căn cước da vàng rất rõ rệt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vẫn có vấn đề, đôi khi nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói tiếng Anh bể (broken English). Về cách phục sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài, tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc.

Nhưng khi bước vào nhà tôi, từ những bức tranh treo ở phòng khách, bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong bếp và nhất là sách, báo tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người San Jose hay người Hà Nội, người Mỹ hay người Việt? Tôi ở đất này đến ba mươi năm rồi cơ mà.

Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận mình là người Hà Nội; người ở Hải Phòng, Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam.

Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan, có gặp lại họ hàng nước mắt khôn cầm thì khi thăm viếng, hỏi han, họ vẫn thỉnh thoảng nói rất tự nhiên: chị đâu có phải là người Việt nữa, bây giờ chị là người Mỹ rồi, chắc cái này không hạp với chị, cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu.

Những lúc đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt, hay nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả. Những khi cần quyên tiền đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai cũng nhắc lại cho tôi đến ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Rằng tôi phải có bổn phận và tình thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi… nghĩ lại.

Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước, xương thịt của người tôi yêu nằm trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi nhà, đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Không đủ hay sao?

Bây giờ tôi phải có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa đường, xây trường học và nuôi những người ở khắp nơi mới tới, như trước kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân.

Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu; hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả, đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ, tôi cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước mình.

Chẳng có một lý do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ là mặt nước hồ gờn gợn sóng. Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa tháng Năm ở Thị Nghè, nhà mình ở Trần Quý Cáp, nhà anh ở trước rạp ciné Eden đứng trú mưa với nhau.

Nước ở hồ San Jose trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ Thuận những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi bất chợt bắt gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình. Và kỳ diệu làm sao, những cái bóng đó nó mạnh đến nỗi mình quên mất là mình đang ở Mỹ. Chắc tại tôi là người Việt Nam .

Lại có những lần ở Việt Nam , tôi bị muỗi đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi đường, ai nhìn mình cũng biết mình từ đâu đến và đang đi lạc. Tiền bạc tính hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không giống Việt Nam của mình, hình như đã có điều gì rất lạ.

Ngôn ngữ Việt thì thay đổi quá nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của chữ kia, làm nên một chữ mới thật là “ấn tượng”. Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, và họ nói nhanh quá, tôi nghe không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích.

Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ, cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi, và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt. Chắc tôi là người Mỹ!

So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt Nam ra đi, sống ở Mỹ, hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn. Ở trong nước có bài hát nổi tiếng “Quê hương mỗi người có một”, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưng có người lại nói: Nơi nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh mình, hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi là quê hương mình. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?

Tôi sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình không quen.

Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có sang trọng, lịch sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả.

Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với mẹ của một người bạn, lúc đó cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con dâu cụ tự nhiên rủ nhau theo đạo Công giáo. Găp tôi, cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và không may, cụ bị Alzheimer. Vậy là cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần hồn. Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt. Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.

Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt, nhất là khi tôi nằm mơ. Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt Nam , gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!

Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất xa xưa về người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa. Hồi đó sao mà mình thương những ông già trong thơ đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác như mình. Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay trong làng mình.

So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn nhận quốc tịch của một nước khác.


Khi về đổi họ thay tên.
Núi chùng bóng tủi, sông ghen cạn dòng.


Kim Thu tùy bút
Trích từ Adelaide Tuần Báo

  Forum: TÙY BÚT · Post Preview: #162672 · Replies: 0 · Views: 3,396

PhuDung
Posted on: Aug 1 2019, 09:48 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Sống lâu trăm tuổi….


Người Việt ảnh hưởng Tàu nên con cháu thường chúc ông bà sống lâu trăm tuổi (bách niên giai lão). Sống lâu theo quan niệm phương đông là điều tốt lành. Dù tuổi thọ người xưa không cao do y học chưa phát triển, vấn đề chăm sóc sức khoẻ còn lạc hậu nên hậu thế còn nghe, “nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Người sống tới bảy mươi tuổi đã hiếm thì mấy ai sống tới trăm năm được như lời chúc thọ của con cháu. Cái mốc “xưa nay hiếm” dừng lại ở tuổi bảy mươi, nhưng vẫn có người sống thọ hơn “cổ lai hy” trong đời…

Tôi còn nhớ năm mới lớp 11 hay 12 gì đó! Thằng “ông bầu” trong lớp thông báo với anh em, “nhà thằng Thân có tang. Chiều nay, tụi bay đừng đi đá banh, đám con gái đừng đi tập hát. Tụi mình phải đi đám ma. Thằng Thân tuy lúa, nhưng là bạn tốt của tụi mình…”

Bạn bè trong lớp mừng rơn với một chuyến dã ngoại vì nhà thằng Thân ở xa thành phố tới mấy tiếng đạp xe. Tuổi trẻ càng vui khi có cớ đi chơi ra khỏi thành phố tù túng là mừng. Tuổi đó, chắc không có gì vui hơn là cỡi chiếc xe đạp thường ngày đi học, đi đá banh, đi chơi loanh quanh với bạn bè… Nhưng hôm đó khác là chở một cô bạn học phía sau xe đạp. Dĩ nhiên là ai đi chung xe với ai, cũng là chuyện hết sức ý nhị từ hai phía, tế nhị trước bạn bè…

Chúng tôi đạp xe mấy tiếng đồng hồ không uổng công, vì bạn bè có dịp hiểu nhau hơn trong không gian nhỏ bé của lớp học, không khí thành phố u ám như sự nghi kỵ lẫn nhau do chủ nghĩa xã hội giáo đầu.

Trên những con đường lộng gió, qua những cây cầu bong đinh, ván lót cầu miếng mất miếng còn do mục nát, trộm cắp của thời bưng bít. Bạn trai có cơ hội làm chút gì đó cho bạn gái bớt lo sợ, bạn gái có cơ hội biểu hiện tình cảm của mình với cái vịn vai, cái nắm tay – qua cầu. Chỉ là vịn vai hay nắm tay vì sợ lọt dép thôi, nhưng tình ý thấm vào huyết mạch tới trọn đời. Nhớ nhau còn đó, nhưng giấu mãi trong tiếng cười thằng nọ đòi cõng con kia qua cầu để đời tao không ân hận lấy vợ què; con nhãi nọ hờ thằng cu kia uống nước, để lấy sức đạp… Gió thổi hồn nhiên đi đâu để gió tàn thu chiều nay quay lại một góc trời, chỗ bàn tay vịn vai còn nặng oằn năm tháng…

Chúng tôi đi đám ma mà không thấy đứa nào khóc, có đứa ứa nước mắt chẳng qua nó mới biết cười. Chúng tôi ở lại qua đêm ở nhà có tang vì không thể về bởi khi tới nơi thì trời đã tối; nỗi lo sợ con gái chả bù cho đám con trai vui mừng với một đêm không thế lực thù địch là những cây ăng-ten của đoàn đội cứ bám miết chúng tôi, không thầy cô rầy rà, không cha mẹ răn đe…

Cái thằng “ông bầu” của lớp là thằng không biết đá banh, nhưng trận banh nào cũng có mặt để lo bánh mì, nước uống cho anh em cầu thủ bằng tài Hồng bang chủ của nó. Mục đồng đánh trâu còn điệu nghệ hơn nó đánh đàn,nhưng sân khấu nào cũng có mặt nó với vai trò cố vấn cho mấy em thích hát hò; Nó có mặt ở bờ sông trộm mía, cù lao trộm khoai… nó tới cả sòng bầu cua cá cọp để bảo vệ quyền lợi anh em (bằng cái miệng nó thôi. Chứ khi bị chúng đánh thì nó chạy trước). Thế mà nó cũng thu xếp được nơi ăn, chốn ngủ cho anh em tử tế ở ngay nhà thằng bạn đang tang gia bối rối. Đúng là thiên tài cô đơn vì thuở nhỏ không bồ, lớn lên không vợ. Ngài cựu chủ tịch cộng đồng bên xứ cá sấu và chuột túi vẫn ở vậy nuôi thù, mơ ngày phục quốc.

Mấy chục năm sau mới biết đêm đó là kỷ niệm. Những ấp ủ trong lòng được nói ra, những ước mơ thầm kín được thấu hiểu; Chia sẻ, là điều đáng tin ở tuổi chưa biết nói dối. Dù chỉ là những điều nhỏ nhặt, thậm chí bị quên lãng theo dòng đời, hay để gió cuốn đi đến hôm gió hồn nhiên quay về đã lơ thơ tóc trắng, nhớ quá đi thôi một bàn tay. Riêng tôi nhớ thêm bà cụ già tới không thể già hơn. Bà không chịu vô nhà ngủ mà cứ tòn teng trên chiếc võng cói, mắc ngoài hàng ba. Bà nằm nghe nhạc đám ma hay nghe lòng già chảy máu. Đôi mắt bà khóc từ trong tâm nên mắt đã loà, hay khóc con đi trước mẹ, đôi mắt hoen ố thời gian của cụ bà đeo đẳng theo tôi. Bà là bà cố của bạn tôi. Bà không có giấy khai sanh nhưng theo những chuyện bà còn nhớ thì con cháu đoán ra bà đã trăm tuổi, hay hơn nữa. Hôm đó là đám ma của ông nội Sáu của thằng Thân. Tức những ông, bà nội Hai, Ba, Tư, Năm… đã lần lượt ra đi trước mẹ. Ông nội của Thân là ông nội Út trai, nên nó còn có bà nội Út gái nữa… Hai người lọm khọm đó, thấy cũng rất tội. Hay là còn trẻ quá mà tôi đã thành ông cụ non khi nghĩ tới cái giá sống trăm năm không phải là hạnh phúc mà chỉ là sự trừng phạt. Tôi càng nghĩ càng không hiểu bà cố có lỗi gì mà phải sống tới trăm tuổi mắt mờ, tay run, phải lần lượt khóc từng người con ra đi trong mắt mẹ…

Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu sao người ta thích sống lâu. Tần Thủy Hoàng nổi tiếng lịch sử về việc đi tìm phương thuốc trường sinh bất tử. Nhưng rồi ông cũng chết ở tuổi 49. Giấc mơ trường sinh của Tần Thủy Hoàng còn mãi trong tâm thức phương đông. Làm sao biết hết được bao người vẫn lặng lẽ đi tìm sự vĩnh cửu trong đời hạn hữu. Người ta ham sống lâu, nhưng để làm gì là hai chuyện ngày càng tách biệt theo tuổi tác.

Chẳng qua dư âm chiều nay đi uống ly cà phê với ông bạn đã làm hết ngày cuối trong đời công nhân của ông ta. Từ sáng mai, ông đã thực sự về hưu (retire). Ly cà phê Starbucks – uống lúc nào cũng được. Nhưng tôi tin là ông sẽ nhớ hôm cuối cùng ở cái hãng mà ông đã làm việc hơn ba mươi năm. Ông đã đi uống ly cà phê chia tay với người bạn mới nhất ở nơi ông đã làm việc (coi như cả đời).

Chia tay ông ở quán cà phê, tôi thấy người đàn ông lớn tuổi ngậm ngùi bước ra xe, như không bao giờ trở lại cuộc đời này nữa. Không. Đó chỉ là chiếc lá khô đang cuốn theo chiều gió, không phải ông… Nhưng tôi biết chắc một điều, từ ngày mai, ông sống một cuộc đời khác rồi. Chiều nay về đến nhà, có lẽ việc đầu tiên ông làm là vứt cái đồng hồ báo thức vô sọt rác. Không máng cái thẻ công nhân chung với chùm chìa khoá xe, để sáng mai đừng quên. Ông không cất vội nó lần cuối vào nơi không bao giờ mở ra, mà ông thư thả ngồi cởi giày, ngồi nhìn lại ba mươi mấy năm bán sức lao động ở quê người, tới cái thẻ công nhân bạc thếch. Cái được đã mất là đàn con khôn lớn, nhưng chẳng đứa nào muốn quay về sống với ông già lẩm cẩm, khó tính, lại tiện tặn từng đồng từng cắc. Cái mất, ông đã được là mất hết tuổi đời, sức lực. Một ông già là lính cũ ngày xưa. Trong cái may không ăn viên đạn vô tình của Việt cộng thì cái rủi hiển hiện là nắm xương khô gởi lại quê người trong một ngày không xa. Những hứa hẹn của người quen kẻ biết chỉ là lời thuận miệng mà có lẽ tôi là kẻ đãi bôi cuối cùng. Vì tôi cũng tiếp tục cuộc vui, nhưng với bạn bè trang lứa; tiếp tục cuộc đời với những ai còn giá trị lợi dụng. Tôi tiếp tục chửi thề, kể chuyện tiếu lâm với những người còn làm chung, gặp mỗi ngày. Ngày nào là ngày tôi đến thăm ông như đã hứa! Có chăng là ngày người quen kẻ biết gọi cho hay thì tôi ghé nhà quàn viếng ông lần cuối… Cũng lại là vì tôi. Vì tôi còn sống nên phải vậy chứ lòng tôi chưa chắc đủ thân thương với ông bạn vừa già, vừa khó, vừa chi li… Với ông, chỉ có một lý do lớn hơn ông làm tôi sẽ đến viếng ông vì ông là lính cũ. Vì đó là tự giác của người miền nam còn trọng tình quân dân.

Tôi khoát tay ra hiệu nhường ông: De trước đi. Ông de trước, chạy trước. Nhưng không có gì bảo đảm ông tới trước vì trời kêu ai nấy dạ. Tôi không có gì để bảo đảm là tôi đi viếng ông lần cuối ở nhà quàn hay ông lại mất thời giờ đi viếng tôi trước. Tôi ngồi lại trong xe với những người bạn tiễn tôi ra phi trường năm nọ. Bao nhiêu lời chúc phúc, cầu may; bao nhiêu hứa hẹn đọng thành. Nhưng tôi như ông già không bao giờ trở lại hãng nữa, tôi đã không về Việt nam từ khi bước chân đi. Những ân tình khất lại đến bao giờ, hay mãi mãi…

Tôi khác mà giống ông già là khi đến Mỹ, tôi đi mua cái đồng hồ báo thức và đi làm cái thẻ công nhân. Rồi một ngày sẽ đến. Tôi cũng vứt cái đáng ghét nhất mà phải tốn tiền mua là cái đồng hồ báo thức vô sọt rác, cất cái thẻ công nhân lần cuối vào nơi không bao giờ mở; tập quên những hứa hẹn đời thường…

Tôi về. Bóng tôi là người bạn trên vách garage từ khi sang Mỹ. Ánh đèn vàng hắt xuống đống cứt trâu nên cái bóng cũng thối. Ngồi gom kỷ niệm vui với ông bạn già để viết chút gì đó cho người vô công rỗi nghề từ ngày mai đọc chơi! Nhưng niềm vui qua đi, chỉ nỗi buồn ở lại. Những lúc khúc khích cười với nhau sau khi bình loạn, muốn cười lại thì bóng hồng đã tan. Nhưng buồn tâm sự về con cái của ông như ma ám, qủy trù, không buông tha…

Buồn (hay vui) khi chiều nay ông tâm sự ngoài Starbucks về một ước nguyện, chưa bao giờ nói ra, “Tôi ước gì được sống như bà ngoại Bảy của tôi. Năm ngoái tôi về, bà ngoại Bảy của tôi đã hơn trăm tuổi. Điếc đặc hai tai, nhưng nhìn miệng mình nói là biết mình nói gì nghe ông, trả lời trúng phóc. Tôi hỏi ngoại có bao nhiêu con,cháu? Ngồi kể không thiếu một đứa… đã chết. Trong khi những đứa còn sống, gần, thì không nhớ, mà nhớ đứa xa… Tôi hỏi, ông ngoại hồi xưa có đẹp trai không? Thì, tao quên mặt rồi! Ổng chết đời nào rồi, làm sao nhớ…”

“Sống lâu trăm tuổi” như cụm từ vô nghĩa, nó ám vô người ta từ người đời trước nên người đời sau nói theo, không suy nghĩ. Nhưng không chừng như thế lại hay hơn ngồi đến cái bóng cũng bốc mùi, rồi nghĩ bậy!

Ông bạn tôi lên giường đêm nay. Sự hưng phấn trước những lời chia tay của đồng nghiệp chắc mau phai. Vì tuổi đời của ông đã đủ thấm những gì miệng lưỡi. Đời dài suốt như đêm dài thao thức, không chừng ông bỏ bớt ước mong sống lâu trăm tuổi như bà ngoại Bảy của ông, người sống để nhớ những người đã chết, đã xa. Khi ngoại chết, có nhớ những người đã sống quanh ngoại cả trăm năm…

Ngoài cửa nhà tôi, đang là những đứa trẻ đang đi xin kẹo. Viên kẹo nào cho người trăm tuổi thấy hạnh phúc thì người ta quên chế tạo mà chỉ sản xuất những bộ xương người bằng nhựa như đồ chơi trẻ em. Đêm Halloween nghĩ về trăm tuổi như một trò đùa của số phận. Mong đừng nghiệt ngã với người ghiền ở trọ trần gian này.

Phan
  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #162673 · Replies: 0 · Views: 3,527

PhuDung
Posted on: Aug 1 2019, 09:48 AM


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269



Chữ “LÀM” của người phụ nữ


Tình cờ đọc trên mạng tôi thấy người ta “bôi bác” đàn ông. Họ nói cuộc đời người đàn ông gắn liền với chữ “ĂN”.

Đại loại như là:

Khi còn nhỏ thì “ăn học”. Xin tiền ba mẹ mua quà không được thì “ăn vạ”
Lớn chút nữa thì “ăn chơi”, “ăn mặc”, “ăn diện” để tán tỉnh các cô.
Lỡ “ăn nói bậy bạ” thì “ăn bạt tai”
Rồi thì “ăn hỏi”, “ăn cưới”, “ăn đời ở kiếp".
Khi vợ sắp sinh đành phải “ăn chay”. Sau khi vợ sinh lại phải “ăn kiêng”.
Khi bắt đầu chán (vợ) đâm ra "ăn vụng". “ăn gian nói dối”. Nói với vợ là đi “ăn cơm khách” nhưng thực ra là đi “ăn bánh trả tiền”. Vợ mà biết được cho “ăn gậy”, đuổi ra khỏi nhà đi “ăn mày".
Vân vân và vân vân
Nghe mà tức anh ách!
Nhưng ngẫm ra cũng đúng, mặc dù không đúng với tất cả mọi người. Trên đời cũng có nhiều đàn ông hiền lành, lo cho vợ con, có đồng nào đưa cho vợ đồng đó, vợ cho gì ăn nấy, không than vãn một câu như… tác giả bài viết này chẳng hạn.
Nhưng nghe người ta bôi bác đàn ông tôi cũng thấy tức, càng nghĩ càng tức, tức anh ách. Dự định “ăn miếng trả miếng” tôi cũng cố nghĩ xem đàn bà “ăn” gì!!! Nghĩ mãi, tôi thấy phụ nữ chẳng thích hợp với chữ “ăn” tí ti nào cả, có chăng chỉ là “ăn hàng” nhưng chẳng bằng một chút của đàn ông “ăn nhậu”.
Vậy cuộc đời người phụ nữ gắn với chữ gì? Suy nghĩ đúng hai ngày ba đêm, lục hết sách vở tôi thấy chẳng có ai nói phụ nữ hợp với chữ gì. Các nhà hiền triết Đông Tây Kim Cổ thường bốc phụ nữ lên tận mây xanh. Tỷ như:
-"Trên đời này chỉ có hai cái đẹp: phụ nữ và hoa hồng".
- "Phụ nữ được tạo dựng nên để làm dịu sự hung hãn trong tính cách của người đàn ông”.
-" Rung cảm, yêu, chịu đau khổ, hy sinh: những chữ này mãi mãi dệt nên trang đời của phụ nữ".
Nghe mà phát rét!

***
Một đêm phiền muộn (vì chưa nghĩ ra chữ thích hợp với người phụ nữ, “trả thù” cho cái việc bị nói “ham ăn”), tôi phát hiện ra rằng cuộc đời người phụ nữ gắn liền với chữ… “Làm”.
Làm thì cũng có ba bảy đường làm, làm theo kiểu “nói điều hay làm việc tốt”, “làm đẹp” hay đơn giản chỉ là “làm việc”. Nhưng cũng có làm theo kiểu “làm bậy làm bạ”, “làm hung làm dữ” vân vân và vân vân. Khác với chữ “ăn” hàm ý nhiều hư hỏng, chữ “làm” của người phụ nữ đa số là tuyệt vời. Không lẽ bạn chưa một lần thấy hạnh phúc bởi chữ “làm” của người phụ nữ của bạn hay sao!?. Bởi thế thay vì tìm cách lên án phụ nữ, “trả thù” cho cái chữ “ăn” đáng ghét trên, tôi lại “trở giáo quy hàng” viết bài này ca ngợi phụ nữ.



***
Lúc còn nằm nôi, người-phụ-nữ-tương-lai thường biểu diễn“làm xấu” mang lại tiếng cười hạnh phúc cho cả gia đình. “Con làm xấu đi!” thế là đứa bé chun mũi, nhắm mắt… đúng là .. xấu thật. Cái trò chơi làm xấu này tiêu tốn không ít thời gian và tiếng cười của nhiều gia đình. Có điều lạ là trò chơi này chỉ có ở bé gái. Bạn có bao giờ thấy bé trai chơi trò “làm xấu” chưa?
Lớn hơn một chút khi đi mẫu giáo, lớp một, lớp hai, là “làm nũng”, con gái ở tuổi này làm nũng thì không ai bằng, lòng mình dịu lại, đang bực bội cũng phải chìu, phải không bạn. Mà cũng như làm xấu, làm nũng chỉ có ở bé gái thôi, bé trai mà làm nũng thì…không giống ai!
Nhưng cũng cô bé hay làm nũng này, nếu không vừa ý sẽ “làm nung làm nẫy”, con gái làm nung làm nẫy thì đúng “ trời sợ”, “làm khó” cho bố mẹ. Khó nhưng cũng cố chìu thôi bạn ạ, có con gái khổ như vậy đó!
Mời ba mười bốn tuổi con gái đã biết “làm điệu”, “làm duyên làm dáng”, khiến không ít chàng trai mới lớn phải ngẫn ngơ.
Lớn hơn chút nữa, khi có người để ý thì các cô thường “làm cao”, ra cái vẻ“Ta đây lo học là chính, nhà người liệu mà tránh xa nơi khác”.
Thân hơn một chút, rủ đi chơi buổi đầu thì các cô lại “làm khó làm dễ” để “làm khổ” cánh đàn ông.
Khi đã đến tuổi lập gia đình, mọi việc đều thuận lợi, chàng trai ngỏ lời cầu hôn thì thường bị các cô“làm lơ”. Nhưng khi thấy chàng trai lơ không nhắc đến nữa thì các cô lại nhất đình đòi “làm thiệt”.
Thế là “làm lễ hỏi”, “làm lễ cưới”. Cô gái ngày xưa lên xe hoa về nhà chồng để “làm vợ”, “làm dâu” và sau này là “làm mẹ”.
Ngày xưa con gái đi làm dâu thường bị nhiều điều ấm ức, các bà mẹ chồng, có lẽ cảm thấy tình cảm đứa con trai dành cho mình bị san sẻ cho người khác nên thường quay sang “làm hung làm dữ”với cô con dâu mới, bởi thế mới này sinh nhiều bi kịch của làm dâu.
Thật thà cũng thể lái trâu
Thương nhau cũng thể nàng dâu, mẹ chồng
Câu ca dao đó đã nói lên phần nào quan hệ không mấy tốt đẹp giữa nàng dâu mẹ chồng. Nhưng dù khổ cực, ấm ức bao nhiều nàng dâu cũng chấp nhận và luôn hiếu thảo với mẹ chồng:
Phải đâu mẹ của riêng anh
Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi
Mẹ tuy không đẻ không nuôi
Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong

Chắt chiu từ những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em
(Xuân Quỳnh)
Có một chữ làm, đúng với nghĩa đen: “làm lụng”, “làm việc” thì người phụ nữ cũng không thua nam giới, có khi lại còn hơn:
Có chồng gánh vác giang san nhà chồng.
Khi gia đình gặp khó khăn, người phụ nữ sẵn sàng:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
( Trần Tế Xương)
Công việc nhà, những công việc không tên cũng đều phải nhờ tay người phụ nữ: làm tiệc, làm bếp, làm cơm, làm rau, làm gà, làm vịt…
Cả núi công việc phải làm để lo cho chồng và gia đình chồng nhưng người phụ nữ vẫn không quên thiên chức của mình, đó là “làm mẹ”.
Kể từ khi hình thành trong bụng mẹ, đến khi đủ hình hài, chín tháng cưu mang, mẹ đã hy sinh xiết bao. Rồi khi vượt cạn mẹ có thể hy sinh cả mạng sống của mình để con ra đời lành lặn.
Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình
(ca dao)
Rồi khi nuôi con
Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
(ca dao)
……..
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
(ca dao)
Một đời vốn liếng mẹ trao
Cho con tất cả, mẹ nào giữ riêng
(ca dao)
Hai từ “làm mẹ” hàm chứa biết bao điều cao quý, thiêng liêng: đó là suốt đời hy sinh, che chở, nuôi dưỡng, dạy dỗ con nên người, mẹ có thể hy sinh tất cả để con được hạnh phúc.
Khi con khôn lớn, thành gia thất, người phụ nữ bây giờ lại“làm mẹ chồng”, “làm mẹ vợ”.
Rồi ngày cháu ra đời, người phụ nữ đó bây giờ được lên chức:“làm bà nội”, “làm bà ngoại”. Bà nội hay bà ngoại lại một lần nữa như làm mẹ, cũng thức suốt đêm, canh cho con, cho cháu ngủ, cũng bế bồng, ầu ơ ru cháu bằng tất cả tình thương.
Nhiều năm trôi qua, nhiều thế hệ tiếp nối, người phụ nữ của ngày xưa có khi “làm bà Tổ” của một dòng họ.


***
Còn một chữ làm nữa mà tôi chưa nhắc đến trong phần trên, chữ làm khiến cho người phụ nữ đã đẹp lại càng đẹp hơn, đó là “làm đẹp”. Làm đẹp có lẽ được sinh ra cùng một lần với người phụ nữ.
Nhiều người đàn ông trên thế gian này (may mắn là số đó không nhiều) lên án phụ nữ về chuyện quá chăm chút làm đẹp. Có bao giờ bạn thấy người phụ nữ làm đẹp và đứng trước gương soi suốt ngày để ngắm mình không? chắc chắn là không. Người phụ nữ làm đẹp không phải cho họ mà là để cho đời, cho chúng ta đó hỡi những người đàn ông khờ khạo!. Vậy thì vì lẽ gì mà chúng ta lại lên án phụ nữ làm đẹp?.
Để làm đẹp, người phụ nữ lại có hàng trăm việc phải làm: làm đầu (làm tóc), làm móng tay, làm móng chân, làm trắng da, làm môi, làm mắt, làm lông mày, làm lông mi và hàng tá cái làm khác.

***
Làm xấu, làm nũng, làm nung làm nẫy, làm duyên làm dáng, làm điệu, làm cao, làm lơ, làm dâu, làm vợ, làm thinh, làm mẹ, làm đẹp…Từ thủa trong nôi cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, cuộc đời người phụ nữ luôn gắn với chữ “Làm”.

Huỳnh Công Toàn
  Forum: TRAU DỒI TÌM HIỂU TIẾNG VIỆT - CA DAO - TỤC NGỮ · Post Preview: #162681 · Replies: 0 · Views: 1,488

63 Pages V   1 2 3 > » 

New Posts  New Replies
No New Posts  No New Replies
Hot topic  Hot Topic (New)
No new  Hot Topic (No New)
Poll  Poll (New)
No new votes  Poll (No New)
Closed  Locked Topic
Moved  Moved Topic
 

Lo-Fi Version Time is now: 6th May 2024 - 09:38 AM