Welcome Guest ( Log In | Register )

 
Reply to this topicStart new topic
> Sau 44 năm, “vết thương dân tộc vẫn chưa lành”, Ký Thiệt
caoduy
post Apr 11 2019, 03:48 PM
Post #1


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 53
Country




Sau 44 năm, “vết thương dân tộc vẫn chưa lành”


Kể từ tháng tư đen 1975, khi cộng sản Bắc Việt dẫm nát bản Hiệp định Paris mà họ k‎ý trước đó hai năm, xua toàn lực, với sự chi viện tối đa của Nga cộng và Tàu cộng, “giải phóng” miền Nam, đến nay đã 44 năm trôi qua.

Cuộc “giải phóng” này đã khiến hơn một triệu người bỏ nhà, bỏ nước, bỏ ruộng vườn, vượt biển băng rừng, lội suối, bất chấp gian nguy đi tị nạn cộng sản. Theo ước tính, khoảng một phần tư trong số này đã không tới được bến bờ tự do. Những người đi tìm tự do bằng thuyền và bằng chân này bị những kẻ “đánh cho Liên-Xô, cho Trung Quốc” (lời Lê Duẩn) gọi là “những phần tử xấu, lưu manh, đĩ điếm” không thích ứng với đời sống mới xã hội chủ nghĩa.

Ba mươi năm sau, “những phần tử xấu, lưu manh, đĩ điếm” đó được “cách mạng” âu yếm gọi là “khúc ruột xa ngàn dặm”, và ngày 26.3.2004 đã cho ra đời Nghị Quyết 36 NQ/TW, thường được biết với cái tên vắn tắt là Nghị quyết 36, để “chăm lo” người Việt Nam ở nước ngoài.

Nguyễn Đình Bin là người được cử đặc trách thi hành Nghị quyết 36. Ngày 26.3.2019 vừa qua, để đánh dấu 15 năm thi hành Nghị quyết 36, ông Nguyễn Đình Bin đã viết một bài nhận định về việc “hàn gắn vết thương dân tộc”, trong đó có đoạn như sau:

“Sau 15 năm đi vào cuộc sống, Nghị quyết 36 NQ/TW đã được thực thi phần nào, được cộng đồng hoan nghênh, tạo ra khá nhiều đổi thay. Nhưng tôi vẫn buồn: vết thương dân tộc thực sự vẫn chưa lành!!! Với các nước ngoài đã từng đô hộ, xâm lược nước ta, gây ra biết bao tội ác tầy trời, biết bao đau thương, mất mát, hậu quả khủng khiếp, nặng nề… mà nhân dân ta vẫn còn phải gánh chịu, với truyền thống khoan dung, hòa hiếu, chúng ta đã gác lại quá khứ, bình thường hóa quan hệ và kết bạn, trở thành những đối tác chiến lược, hợp tác toàn diện… vì tương lai của mỗi quốc gia, vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Vậy mà, vì sao, cuộc chiến ác liệt nhất đã kết thúc và đất nước đã thu về một mối hơn 4 thập kỷ mà dân tộc ta, nói cho cùng đều là nạn nhân của sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài nói trên, vẫn chưa hòa giải được với nhau? Cũng chính sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài đó đã chia ly bao gia đình Việt và cả dân tộc Việt, gây ra cảnh huynh đệ tương tàn trên đất nước ta. Thế mà ta đã hòa giải được với họ, còn chúng ta, anh em một nhà “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”, thì lại chưa hòa giải được với nhau?”

Bỏ qua những câu tuyên truyền rỗng tuếch mà bất cứ anh cộng sản nào cũng nhai đi nhai lai như con két, “đồng chí” Nguyễn Đình Bin không thể không biết vìsao “vết thương dân tộc thực sự vẫn chưa lành”. Nguyễn Đình Bin thừa biết cái gọi là Nghị Quyết 36 (36-NQ/TW) của Bộ Chính trị khóa IX CSVN về “công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” chỉ là âm mưu đen tối của đảng CSVN nhằm xâm nhập, khai thác, lũng đoạn các Cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Để chi tiết hóa và thi hành nghị quyết này, Nguyễn Tấn Dũng đã k‎ý Nghị quyết 27/NQ-CP ngày 5.4.2016 vạch rõ những “công tác” CSVN sẽ thực hiện đối với người VN ở nước ngoài trong giai đoạn 5 năm từ 2016 tới 2020, bao trùm mọi khía cạnh trong đời sống của người Việt (hay gốc Việt) ở hải ngoại: chính trị, kinh tế, văn hóa, văn nghệ, báo chí truyền thông, giáo dục, tôn giáo…Nguyên văn như sau:

– Có kế hoạch, biện pháp cụ thể chủ động đấu tranh, phân hóa và đối phó với các đối tượng cực đoan quá khích, lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc để gây chia rẽ trong cộng đồng, gây tổn hại quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa Việt Nam và các nước, nhất là ở các địa bàn có đông người Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc.

– Huy động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

– Thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam.

– Nghiên cứu và cung cấp cho các Bộ, ngành, cơ quan trong nước kinh nghiệm quốc tế về thu hút các chuyên gia, trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.

– Xây dựng cơ sở dữ liệu về các nhà khoa học, nhà văn hóa, chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài.

– Tăng cường kết nối doanh nhân Việt Nam trong và ngoài nước, xây dựng và vận hành kênh thông tin điện tử để phát huy khả năng của người Việt Nam ở nước ngoài trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam, phát triển chương trình Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Ban hành cơ chế khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài trao đổi và cung cấp thông tin về thị trường, thị hiếu, tiêu chuẩn chất lượng của người tiêu dùng với các đại diện xúc tiến đầu tư và thương mại của Việt Nam ở các nước, đặc biệt là các địa bàn trọng Điểm có nhiều người Việt sinh sống. Tăng cường hỗ trợ hoạt động của Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài.

– Tăng cường thông tin tuyên truyền đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

a) Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền đến kiều bào về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo, dạy và học tiếng Việt,…; tăng cường tuyên truyền, vận động, hỗ trợ các cá nhân, tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài tuân thủ luật pháp và chính sách của nước sở tại.
b) Xây dựng, triển khai thực hiện Đề án cung ứng dịch vụ phát thanh, truyền hình qua mạng internet phục vụ người Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2015 – 2020,Đề án “Quảng bá xuất bản phẩm Việt Nam ra nước ngoài giai đoạn 2016 – 2020”, Đề án “Nâng cao chất lượng ấn phẩm, báo chí đối ngoại bằng tiếng nước ngoài” để tăng cường thông tin phục vụ người Việt Nam ở nước ngoài….
c) Lập kênh phát thanh, truyền hình phục vụ người Việt Nam ở nước ngoài bằng hệ thống truyền hình qua mạng IPTV hoặc hệ thống truyền hình của nước sở tại, nhất là tại các địa bàn tập trung đông người Việt Nam sinh sống; hỗ trợ cung cấp nội dung thông tin và hợp tác sản xuất chương trình với các báo, đài của người Việt Nam ở nước ngoài; tổ chức tập huấn và trao đổi nghiệp vụ báo chí với các phóng viên, biên tập viên kiều bào. Chủ động thiết lập quan hệ và tranh thủ các báo, đài có quan Điểm ủng hộ Việt Nam để đấu tranh phản bác lại luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của báo, đài, trang mạng nước ngoài có thái độ thù địch chống Việt Nam.

……

Với những mục tiêu trên đây, Nghị quyết 36 và Nghị quyết 28 đã hoàn toàn thất bại, không những với “người Việt Nam ở nước ngoài” mà ngay tại Việt Nam “…chúng ta, anh em một nhà ‘nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng’, thì lại chưa hòa giải được với nhau?”

Vì sao thế? Vì chính đảng Cộng sản Việt Nam chứ còn tại ai nữa mà “đồng chí” Nguyễn Đình Bin còn giả vờ thắc mắc! Đúng là giọng lưỡi của những kẻ vừa ăn cướp lại vừa la làng. Ngày nay, còn ai mà không biết năm 1945, Hồ Chí Minh và đồng đảng đem chủ thuyết Mác-Lê từ Liên-sô về Hang Pác-Bó đã che giấu cái đuôi cộng sản bằng cách đổi tên đảng cộng sản thành đảng Lao Động VN, kêu gọi dân Việt Nam đứng lên kháng chiến, đánh đuổi thực dân Pháp, do những người cộng sản tôn thờ Mác, Lê-nin và Mao núp dưới cái bảng hiệu Mặt trận Việt Minh lãnh đạo. Từ đó, những người cộng sản Việt Nam đã nhân danh đánh Tây, chống Mỹ, để giết “anh em một nhà”, “người trong một nước” suốt 30 năm (1945-1975), “gây ra biết bao tội ác tầy trời, biết bao đau thương, mất mát, hậu quả khủng khiếp, nặng nề…”.

Ngày 30.4.1975, VNCH sụp đổ. Quân đội Nhân Dân miền Bắc tiếp thu miền Nam và đặt các Ủy ban Quân quản với toàn quyền sinh sát. Không ai còn nhắc tới “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” và cái “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam VN”, một trong “bốn bên” đã ký vào bản Hiệp Định Paris 1973. Giờ của sự thật về cái “Mặt trận” và “Chính phủ Lâm thời” cho thấy chỉ là một con ma do CS Bắc Việt vẽ ra.

Năm 1976, không cần núp sau tấm bình phong “Đảng Lao Động VN” như trong suốt thời chiến tranh, đảng Cộng sản thống nhất hai miền Nam-Bắc dưới ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, và đặt tên nước là “Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, kèm theo nhãn hiệu “Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc”. Đại Hội Đảng kỳ IV đã hạ quyết tâm “tiến mau tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội” dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng CSVN, ghi rõ trong hiến pháp (điều 4), khởi đầu với chính sách triệt để cải tạo xã hội nhằm xây dựng một nhà nước vô sản chuyên chính.

Với chính sách điên rồ, man rợ ấy, đảng CSVN đã lại gây ra “gây ra biết bao tội ác tầy trời, biết bao đau thương, mất mát, hậu quả khủng khiếp, nặng nề” hơn nữa. Cái nhãn hiệu “Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc” đã trở thành “Nô lệ-Áp bức-Khổ đau”. Những người thù ghét đảng CSVN bây giờ không chỉ là những người tị nạn ở hải ngoại, không phải chỉ gồm những người có liên hệ tới “Mỹ-Ngụy”, nhưng cả những người đã sinh ra sau 1975, không phải chỉ có thường dân, nhưng có cả những đảng viên còn giữ được lương tâm, trong đó có ông Bùi Tín đã ra khỏi đảng và viết nhiều sách báo kể tội đảng CSVN. Nhân dịp 30.4.2015, ông Bùi Tín, lưu vong và đã qua đời tại Pháp, có viết một bản cáo trạng về tội lỗi của đảng CSVN mà ông đã tận tình phục vụ suốt 44 năm, hơn một nửa cuộc đời của ông. Bản báo trạng của ông Bùi Tín tựa đề là “Chỗ đứng của Đảng CSVN phải là vành móng ngựa”, trong đó có đoạn như sau:

Suốt 40 năm nay, tôi đã suy nghĩ, tìm hiểu. Từ đó tôi hoàn toàn tự tin để kết luận trong dịp này là trong 70 năm qua Đảng CSVN đã liên tiếp phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác:

– đã chọn sai lầm học thuyết chính trị Mác – Lênin và chế độ toàn trị độc đảng cực kỳ tệ hại,

– đã phạm tôị ác chồng chất trong việc chủ trương bạo lực vũ trang, chủ động gây nên cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn với hàng mấy triệu sinh mạng nhân dân, chủ yếu là thanh niên ưu tú thuộc cả 2 bên chiến tuyến,

– đã tàn phá vô kể sức lao động và của cải xã hội trong thời gian dài, trong các cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, cải tạo công thương nghiệp trong cả nước, đã vi phạm những hiệp định đã long trọng ký kết tại các Hội nghị Geneve năm 1954 và Hội nghị Paris năm 1973, đặc biệt là các điều khoản về «tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam», «không đe dọa dùng vũ lực và không dùng vũ lực», «thực hiện hòa hợp và hòa giải dân tộc», «không trả thù những người đã hợp tác với đối phương».

– đã đày đọa, trả thù hàng chục vạn viên chức và sỹ quan VN Cộng hòa trong hệ thống nhà tù mang nhãn hiệu «các lớp học cải tạo» để đánh lừa dư luận thế giói.

Có thể nói trên đây là những tội ác hiển nhiên có suy tính theo hệ thống, không thể chối cãi của đảng CSVN, của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, bằng chứng là các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 15 khóa II đầu năm 1959 chủ trương đồng khởi và khởi nghĩa ở miền Nam, xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam qua đất Lào và Campuchia, rồi Nghị quyết Trung ương 9 khóa III cuối năm 1963 chủ trương tăng cường chi viện quân sự quy mô của miền Bắc cho miền Nam, các quyết định về chiến lược của Bộ Chính trị năm 1974 và đầu năm 1975 dốc toàn bộ lực lượng để giải phóng miền Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

Các văn kiện trên chứng tỏ Bộ Chính trị đảng CSVN đã sớm xé bỏ triệt để các Hiệp định Geneve và Paris, công khai vi phạm sự cam kết và phản bội chữ ký của chính mình, chà đạp thô bạo «quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN được tự do lựa chọn chế độ của mình», 2 lần gây nên thảm họa di cư quy mô lớn năm 1954-1955 từ Bắc vào Nam và thảm kịch thuyền nhân từ 1975 đến 1980, với biết bao sinh mạng bị biển cả cuốn đi, bộ máy công an còn thu cơ man nào là vàng của hàng triệu người vượt biên.

Tất cả những điều kể trên là tội ác đối với toàn dân tộc, đặc biệt là đối với nhân dân miền Nam Việt Nam đã bị thôn tính bằng vũ lực công khai, phi pháp, trắng trợn, cũng là tội ác chống nhân loại, vi phạm Hiến chương của Liên Hiệp Quốc chủ trương quyền Tự quyết của các dân tộc là bất khả xâm phạm. Do đó ngày 30/4 có thể gọi là ngày Đen Tối , ngày Tội Ác, từ đó cũng là ngày Ô Nhục của Đảng CSVN.

Nếu như nhân dân Việt Nam được sống dưới một chế độ pháp quyền đầy đủ thì Bộ Chính trị đảng CSVN tự nhận là cơ quan lãnh đạo thường xuyên, liên tục và toàn diện đất nước phải bị đưa ra vành móng ngựa của Tòa án Nhân dân và của Tòa án Quốc tế về những tội ác chồng chất trên đây.(ngưng trích)

“Đồng chí” Nguyễn Đình Bin đã hết “thắc mắc” chưa, hay cũng đã bán linh hồn cho loài quỷ đỏ để có nhà lầu, ô-tô và chờ ngày “ra trước vành móng ngựa” để trả lời về những tội ác chồng chất với “anh em một nhà”, “người trong một nước”?

Ký Thiệt







--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Reply to this topicStart new topic
1 User(s) are reading this topic (1 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 14th November 2024 - 01:12 PM