Welcome Guest ( Log In | Register )

 
Reply to this topicStart new topic
> Nhà Trần (1225-1400), Quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long
M&N
post Dec 22 2008, 05:23 PM
Post #1


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country




Nhà Trần (1225-1400), Quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long

Phần 1 :


Sưu Tầm

Như chúng ta đã biết, sau 215 năm tồn tại, nhà Lý đã đến hồi thoái trào. Trong bối cảnh lịch sử bấy giờ, dưới sự sắp đặt của Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, nhà Lý dần dần chuyển giao sang nhà Trần dưới hình thức Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (năm 1225). Cho đến tận ngày nay, vai trò của Trần Thủ Độ, giữa công và tội, vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi trong giới sử gia. Tuy nhiên, theo quan điểm của riêng tôi, Trần Thủ Độ chính là cầu nối, đưa lịch sử Việt Nam bước sang một trang vàng chói lọi...

1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1225 - 1258)

Sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần - 1218, con thứ của ông Trần Thừa và bà họ Lê. Tổ tiên Nhà Trần là Trần Kính vốn gốc ở Đông Triều (Quảng Ninh) chuyên nghề đánh cá, đến ở hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý.

Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là cháu họ, được Trần Lý nuôi nấng từ nhỏ coi như con. Trần Thừa sinh ra Trần Liễu và Trần Cảnh là con trai, sau có mối tình với cô thôn nữ ở thôn Bà Liệt tên là Tần, sinh ra Trần Bá Liệt. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện Tiền chỉ huy sứ, ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu - 1225, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.

Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu - 1225, Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.

Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Thìn - 1232, vua Trần Thái Tông ban bố các chữ quốc huý và miếu huý.

Vì Tổ nhà Trần là Trần Lý mới đổi họ Lý sang họ Nguyễn. Năm Đinh Dậu - 1237, Trần Thái Tông lấy Chiêu thánh Hoàng hậu đã 12 năm mà chưa có con. Trần Thủ Độ và vợ là công chúa Thiên Cực ép vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu) là công chúa Thuận Thiên đã có mang 3 tháng làm Hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem quân ra sông Cái làm loạn. Còn vua Trần Thái Tông đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử, Quảng Ninh để phản đối.

Trần Thủ Độ dẫn các triều thần lên núi mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm non trẻ chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc".

Trần Thủ Độ cố nài xin nhiều lần, vua vẫn không nghe, mới bảo mọi người rằng: "Xa giá ở đâu là triều đình ở đó". Rồi sai người xây dựng cung điện. Bấy giờ nhà vua mới chịu về kinh đô.

Trần Liễu làm loạn ở sông Cái được vài tuần, lượng thấy thế cô, bèn ngầm đi thuyền đến chỗ vua xin hàng, anh em nhìn nhau mà khóc.

Trần Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền vua, rút gươm định giết Trần Liễu. Nhà vua phải lấy thân mình che đỡ cho anh. Trần Thủ Độ tức lắm ném gươm xuống sông nói: "Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?"

Vua nói giải hoà, rồi bảo Trần Thủ Độ rút quân về.

Nhà vua lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay là Đông Triều, Yên Hưng, Quảng Ninh) là đất thang mộc và phong cho anh là Yên Sinh Vương.

Hoàng hậu Thuận Thiên sau sinh ra Quốc Khang, thái tử Hoảng, Quang Khải, Nhật Vĩnh, ích Tắc, Nhật Duật đều được phong Vương, và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.

Kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258)

Năm Đinh Tỵ - 1257, Hốt Tất Liệt sai một đạo quân do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy đánh lấy nước Đại Lý (Vân Nam) và sai sứ sang dụ ta hàng. Vua Trần Thái Tông bắt giam sứ Mông Cổ và hạ lệnh cho các quan ngoài biên ải đề phòng cẩn mật.

Sau ba lần sứ sang Đại Việt đều không thấy về, ngày 12 tháng 12 năm 1257, Hốt Tất Liệt sai danh tướng Ngột Lương Hợp Thai đem 10 vạn quân sang xâm lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn, toàn quân và toàn quân ta đã dũng cảm chống quân xâm lược Nguyên - Mông, một đế quốc hung hãn và mạnh nhất thời đại. Bấy giờ. quân Nguyên - Mông đã chiếm đóng hầu khắp châu Âu, đến tận Ba Tư và đã chiếm đóng gần hết Trung Quốc.

Thế giặc mạnh quá, để bảo toàn lực lượng, ta phải bỏ kinh đô Thăng Long lui quân về giữ Mãn Trù, Khoái Châu, Hưng Yên. Vua Trần Thái Tông hỏi ý kiến Thái uý Nhật Hiệu thì Nhật Hiệu lấy nước viết vào mạn thuyền hai chữ "Nhập Tống". Vua lại đến hỏi ý kiến Thái sư Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ khảng khái nói rằng: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo".

Quân dân Đại Việt ta đã dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực kẻ thù, đợi cho kẻ thù bị quẫn bách về lương thực, khốn khổ vì không hợp thuỷ thổ. Quân ta tổ chức phản công địch ở Đông Bộ Đầu thắng lợi, quân Nguyên phải rút chạy về nước. Thế là đất nước ta sạch bóng quân thù, giữ vững được nền độc lập của Tổ quốc.

Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, đây là một cách tập sự cho con quen với việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng để cùng coi việc nước.

Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu - 1277, Thái Thượng hoàng mất, thọ 60 tuổi, trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm.

2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1258 - 1278)

Là con trưởng dòng đích của Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Thái hậu Lý Thị, sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý - 1240. Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258 lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1.

Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Về đối nội, nhà vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng dụng, thời Trần đã xuất hiện "Lưỡng quốc Trạng nguyên" Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của nước ta là "Đại Việt sử ký".

Về đối ngoại. Lúc đó nhà Nguyên đã chiếm toàn bộ Trung Quốc của nhà Tống, đang chuẩn bị điều kiện để thôn tính Đại Việt, chúng sai sứ sang phong Vương cho Vua Trần Thánh Tông và bắt nước ta cứ 3 năm một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại 3 người cùng với những sản vật: sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi, châu báu và những vật lạ khác, chúng còn đòi đặt quan Chưởng ấp giám sát các châu quận Đại Việt để chuẩn bị xâm lược nước ta.

Vua Trần Thánh Tông đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự và nền độc lập của Tổ quốc. Mặt khác, quan tâm đến việc luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, vũ khí chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai. Vua Trần Thánh Tông ở ngôi được 20 năm, làm Thái Thượng hoàng 12 năm. Ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần - 1290 Thái Thượng Hoàng mất ở cung Nhâm Thọ, hưởng thọ 51 tuổi.



--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
M&N
post Dec 22 2008, 05:26 PM
Post #2


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country




Nhà Trần

Phần 2 :


Nhà Trần,lừng lẫy với chiến tích 3 lần đại phá quân Nguyên Mông, đoàn quân hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ, đoàn quân đã từng chinh phục gần hết thế giới, từ Á sang Âu. Ở phần 1 chúng ta đã tìm hiểu về chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ nhất, tiếp theo đây, ta hãy xem quân dân nhà Trần đã chống lại sự xâm lăng của chúng lần thứ 2, thứ 3 như thế nào...

3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1279-1293)

Con trưởng Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu, sinh ngày 11 tháng 11 Mậu Ngọ - 1258, ngày mồng 1 tháng Giêng năm Kỷ Mão - 1279 lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Bảo.

Vua Trần Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hoà nhã, cố kết lòng dân, quyết đoán, hết lòng vì dân vì nước trong thời gian 14 năm ở ngôi khi đất nước Đại Việt ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.

Kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285)

Tháng 12/1284, vua Nguyên sai Thái tử Thoát Hoan đem 500 nghìn quân sang xâm lược nước ta, có thêm 100 nghìn quân của Toa Đô chỉ huy từ Chiêm Thành đánh ra Nghệ An, kẹp ta vào thế bị đánh cả hai đầu.

Giúp việc Thoát Hoan có tả tướng Lý Hằng, hữu tướng Lý Quán làm Tham tán nhung vụ và bọn đại tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi, Đường Ngột Đải, Phàn Tiếp v.v...

Trước khi quân Nguyên vào xâm lược nước ta, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã sắc phong cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế chỉ huy toàn bộ quân dân Đại Việt kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông.

Các vua Trần đã tổ chức Hội nghị quân sự ở Bình Than và tháng 8-1284, Hưng Đạo Đại Vương tổ chức tập trận ở Đông Bộ Đầu. Người đã công bố "Hịch tướng sĩ" để khích lệ lòng yêu nước của toàn quân, toàn dân.

Các vua Trần đã tổ chức hội nghị các bô lão trong cả nước ở điện Diên Hồng để hỏi ý dân nên hàng hay nên đánh, cả nước đồng lòng "đánh". Quân và dân ta khắc vào tay hai chữ "Sát Thát" (Giết giặc Nguyên). Với quyết tâm giết giặc của toàn quân và toàn dân, dưới sự chỉ huy chiến lược tuyệt vời của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ta tổ chức đánh cầm cự, bỏ kinh đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng, dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch, đợi cho quân địch khốn khổ vì thiếu lương thực mới tổ chức phản công địch ở mọi phía. Với chiến thắng lẫy lừng ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp... chỉ trong vòng nửa năm, quân Nguyên bị đánh tơi bời, phải rút chạy. Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán bị chém đầu tại trận, còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho người khiêng chạy về nước mới thoát chết.

Ngày 6 tháng 6 năm 1285, quân và dân ta tiến về giải phóng kinh đô Thăng Long, mở hội ca khúc khải hoàn.

Trong chiến thắng quét sạch quân Nguyên - Mông lần này ra khỏi bờ cõi, có công lao to lớn của hai anh em tù trưởng dân tộc ít người miền núi Phú Thọ là Hà Đặc và Hà Chương đã dùng mưu trí, tổ chức dân binh địa phương, phối hợp với quân triều đình, đánh quân Nguyên - Mông ở sau lưng địch, làm cho chúng mất ăn mất ngủ. Hà Đặc đã anh dũng hy sinh ở A Lạp khi đánh quân giặc đang bắc cầu phao ở đó. Chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285) là thể hiện sức mạnh đoàn kết kháng chiến chống ngoại xâm của toàn thể cộng đồng các dân tộc Đại Việt thời bấy giờ.

Kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1288)

Sau hai lần xâm lược nước ta bị thất bại nhục nhã. Vua Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vô cùng căm giận, ra lệnh huy động 500 nghìn quân ở các tỉnh Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây, Vân Nam và các châu ngoài biển như Nhai, Quỳnh, Đam... vẫn trao cho Thoát Hoan thống Lĩnh, cho A Bát Xích làm Tả thừa, Áo Lỗ Xích làm Bình chương sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm tham tri chính sự, đưa quốc vương bù nhìn Trần ích Tắc đi theo đoàn quân Nguyên - Mông sang xâm lược nước ta một lần nữa.

Lại sai Vạn Hộ hầu Trương Văn Hổ theo đường biển vận tải 700 nghìn thạch lương thực sang cung cấp cho quân xâm lược.

Mùa đông năm Đinh Hợi - 1287, quân Nguyên dưới sự chỉ huy của Trấn nam vương Thoát Hoan ồ ạt kéo vào xâm lược nước ta.

Dưới sự chỉ huy tài giỏi của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, toàn quân và dân ta lại dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch.

Ngày 24/11/1287, Phán thủ thượng vị Nhân Đức Hầu Toán đánh lui địch ở eo biển Đa Mỗ (Móng Cái, Quảng Ninh).

Ngày 28/12/1287, quân ta phục kích bắn chết Sảnh đô sự hầu Sư Đạt của giặc tại ải Nội Bàng.

Ngày 8/1/1288, quân ta đánh bắt được 300 thuyền giặc tại cửa biển Đại Bàng, giặc bị giết và chết đuối rất nhiều.

Tại trận Vân Đồn Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem quân ra đón thuyền lương của Trương Văn Hổ gặp quân của Trần Khánh Dư hai bên giao chiến, Trần Khánh Dư thất bại, vua Trần cho Trung sứ bắt về trị tội. Trần Khánh Dư xin ở lại lập công chuộc tội.

Khánh Dư trở lại, chờ cho Ô Mã Nhi đi qua, đem quân tấn công vào đoàn thuyền trở lương thực cướp được nhiều lương thực và vũ khí còn lại cho đánh chìm xuống biển. 11/1/1288, Trương Văn Hổ phải lẻn xuống thuyền nhỏ trốn về nước.

Ngày 8/3/1288, quân Nguyên hội ở sông Bạch Đằng để đón thuyền lương của Trương Văn Hổ nhưng không gặp.

Trên khúc sông Bạch Đằng (khu vực Đò Rừng thị xã Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay), Hưng Đạo Đại Vương trước đó đã sai Nguyễn Khoái bí mật cho quân đóng cọc lim đầu bịt sắt xuống khắp lòng sông .

Ngày 8/3 năm Mậu Tý - 1288, quân ta nhử địch đuổi theo khi nước thuỷ triều lên, đến lúc thuỷ triều xuống thì thuyền sa vào trận địa cọc, quân ta đánh quật lại, Hưng Đạo Đại Vương dẫn quân tấn công mãnh liệt ở mọi phía, quân giặc chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông Bạch Đằng. Quân ta bắt sống Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, Phàn Tiếp và hơn 400 thuyền giặc. Thoát Hoan khiếp đảm, từ Vạn Kiếp theo đường bộ chạy trốn về nước.

Thế là chỉ trong vòng chưa đầy nửa năm, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 3 của quân dân Đại Việt giành được thắng lợi hoàn toàn.

Vua Trần Nhân Tông đã cho đem các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, Ô Mã Nhi, Sầm Đoàn, Phàn Tiếp, nguyên soái Điền và các Vạn hộ, Thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng.

Khi vua cử lễ bái yết, có làm bài thơ rằng:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.

Dịch:

Xã tắc hai phen dâng ngựa đá,
Non sông ngàn thuở vững âu vàng.

Trong lễ mừng công khen thưởng chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 3, nhà vua đã cho tù trưởng Lạng Giang là Lương Uất làm trại chủ Quy Hoá, Hà Tất Năng làm Quan phục hầu vì đã có công chỉ huy người dân tộc thiểu số đánh giặc, một lần nữa thể hiện rõ sức mạnh đoàn kết giữa cộng đồng các dân tộc Đại Việt dưới triều Trần.

Sau 14 năm ở ngôi Vua, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông, làm Thái thượng Hoàng rồi sau đi tu, trở thành Thuỷ tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Năm 1308, Trần Nhân Tông qua đời tại Am Ngoạ Vân núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay) thọ 51 tuổi.



--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
M&N
post Dec 22 2008, 05:27 PM
Post #3


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country




Nhà Trần


Phần 3 :

4. Trần Anh Tông (1293 - 1314)


Tên huý là Thuyên, con trưởng của Trần Nhân Tông và mẹ là Khâm Từ Bảo Khánh hoàng thái hậu, có hai em là Huệ Võ Vương Quốc Chuẩn và em gái là Huyền Trân công chúa.

Trần Anh Tông khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là một vua tốt của triều Trần.

Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần - 1314 nhường ngôi cho thái tử Mạnh. Mất năm Canh Thân - 1320, trị vì được 21 năm, thọ 54 tuổi.

5. Trần Minh Tông (1314 - 1329)

Tên huý là Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông. Mẹ là Chiêu Hiền hoàng thái hậu Trần Thị, con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng, sinh năm Canh Tý - 1300.

Trần Minh Tông có lòng nhân hậu, biết tôn trọng nhân tài nên có nhiều hiền thần dưới trướng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, nhưng đã quá tin bọn nịnh thần giết oan chú ruột, đồng thời là bố vợ là Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn, một lỗi lầm lớn của Trần Minh Tông.

Năm ất Tỵ - 1329 nhường ngôi cho thái tử Vượng.

Ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu - 1357, Minh Tông mất, thọ 58 tuổi.

6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341)

Tên huý là Vượng, con bà Minh Từ hoàng thái phi Lê Thị, sinh ngày 17 tháng 5 năm Kỷ Mùi - 1319. Năm 1329 lên ngôi vua mới 10 tuổi, ở ngôi 12 năm, nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thượng hoàng Minh Tông đảm nhận.

Năm Tân Tỵ - 1341 Trần Hiến Tông mất, thọ 23 tuổi.

7. Trần Dụ Tông (1341 - 1369)

Tên huý là Trần Hạo, con thứ 10 của Minh Tông, do Hiến Từ hoàng hậu sinh ra. Vua rất thông tuệ, học vấn cao minh, chăm lo việc võ, sửa sang việc văn, cho nên đời Thiệu Phong chính sự tốt đẹp.

Năm 1358 đổi niên hiệu là Đại Trị. Thượng hoàng Minh Tông mất, các trung thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng đã mất, bọn gian thần kéo bè kéo đảng, Dụ Tông thì rượu chè chơi bời quá độ khiến cho triều đình đổ nát, giặc giã nổi lên như ong, nhân dân cực khổ trăm bề. Chu Văn An dâng "Thất trảm sớ" xin chém đầu 7 tên gian thần, nhưng vua không nghe, ông liền treo ấn từ quan về dạy học.

Năm Kỷ Dậu - 1369 vua Dụ Tông mất, ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi.

Dụ Tông mất thì bão táp ở cung đình nhà Trần nổi lên vì bà Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là một đào hát đã lấy kép hát là Dương Khương có thai rồi mới bỏ chồng mà lấy Cung Túc Vương sinh ra Nhật Lễ.

Nhật Lễ lên làm vua muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần. Hắn giết bà Hoàng Thái Hậu và Cung Định Vương. Cung Tĩnh Vương hoảng sợ bỏ trốn lên Đà Giang.

Các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh giết chết Nhật Lễ rồi lên Đà Giang rước Cung Tĩnh Vương về làm vua, tức là Trần Nghệ Tông.

8. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)

Tên huý là Trần Phủ, con thứ ba của Minh Tông, mẹ đẻ là thứ phi họ Lê, ở ngôi được 2 năm, nhường ngôi 27 năm, thọ 74 tuổi.

Vua dẹp yên được nạn bên trong, khôi phục cơ đồ nhà Trần, song cung kính kiệm ước thì có thừa mà cương nghị, quyết đoán lại không đủ. Bên ngoài, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân vượt biển vào cửa Đại An tiến đánh kinh đô Thăng Long, quân Trần chống không nổi. Vua Nghệ Tông phải bỏ kinh thành chạy sang Đình Bảng lánh nạn. Quân Chiêm Thành vào đốt sạch cung đình, bắt đàn bà con gái, lấy hết tiền bạc châu báu rồi rút quân về. Ngày 9 tháng 11 năm Nhâm Tý - 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính, lui về Thiên Trường làm Thái thượng hoàng.

9. Trần Duệ Tông (1372-1377)


Tên huý là Kính, con thứ 11 của Minh Tông, em Nghệ Tông, mẹ là Đôn Từ hoàng thái phi. Sinh ngày 2 tháng 6 năm Đinh Sửu - 1337. Khi Nghệ Tông lánh nạn Trấn Kính chiêu mộ quân lính, vũ khí, lương thực để đánh Nhật Lễ, đón Nghệ Tông về, nên được nhường ngôi, làm vua được 5 năm, thọ 41 tuổi. Duệ Tông ương gàn, cố chấp, không nghe lời can, khinh thường quân giặc nên mang hoạ vào thân.

Tháng 12 năm 1376, nghe lời tấu man của Đỗ Tử Bình (trấn thủ Hoá Châu), nhà vua thân chinh đem 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành, tháng Giêng năm 1377 đại quân tiến đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn). Chế Bồng Nga dựng trại bên ngoài thành Đồ Bàn (Bình Định) rồi cho Mục Bà Na đến trá hàng nói là Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn. Ngày 24 tháng Giêng, vua thúc quân tiến vào thành. Đại tướng Đỗ Lễ can mãi vua không nghe cứ tiến quân đến chân thành Đồ Bàn thì quân Chiêm Thành ở bốn phía đổ ra đánh, quân ta thua to. Vua chết trong đám loạn quân.

10. Trần Phế Đế (1377-1388)

Tên huý là Trần Hiệu, con trưởng của Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ hoàng hậu Lê Thị, sinh ngày 6 tháng 3 năm Tân Sửu - 1361. Khi Duệ Tông chết ở mặt trận phương Nam, Nghệ Tông lập Hiệu lên ngôi vua.

Vua u mê, nhu nhược không làm được việc gì, uy quyền ngày càng về tay Hồ Quý Ly.

Năm Mậu Ngọ - 1378, quân Chiêm Thành lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng vào cướp phá kinh đô Thăng Long một lần nữa.

Ngày 6 tháng 12 năm 1388, thượng hoàng Nghệ Tông giáng Phế Đế xuóng làm Linh đức Đại vương, sau đó bắt thắt cổ chết, và lập con út của mình lên làm vua là Trần Thuận Tông.

11. Trần Thuận Tông (1388-1398)

Tên huý là Trần Ngung, là con út của Nghệ Tông, ở ngôi được 10 năm, xuất gia hơn 1 năm, thì bị Hồ Qúy Ly giết, thọ 22 tuổi. Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, còn việc nước thì ở trong tay bố vợ là Hồ Quý Ly.

Năm Kỷ Tỵ - 1389, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh Đại Việt, Hồ Quý Ly đưa quân cự chiến nhưng thua trận phải rút chạy. Thượng hoàng sai đô tướng là Trần Khát Chân đem quân đi chặn giặc.

Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa của Trần Khát Chân ở Hải Triều (Hưng Nhân, Thái Bình và Tiên Lữ, Hưng Yên) nhân có tên tiểu thần của Chế Bồng Nga là Ba Lậu Kê bị Chế Bồng Nga trách phạt, chạy sang hàng quân ta cho Trần Khát Chân hay dấu hiệu đặc biệt của thuyền chở Chế Bồng Nga. Trần Khát Chân đã ra lệnh các cây súng (hoả súng) nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Chế Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền. Chế Bồng Nga trúng đạn chết tại trận. Trần Khát Chân chém đầu Chế Bồng Nga đem về triều dâng vua và Thượng hoàng.

Tướng Chiêm Thành là La Ngai đem tàn quân chạy về nước chiếm ngôi vua. Hai con của Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và Chế Sơn Nô sợ bị giết đã chạy sang hàng Đại Việt, được vua Trần trọng dụng.

Ngày 15 tháng 12 năm Giáp Tuất - 1394, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly lên làm phụ chính Thái sư, thâu tóm toàn bộ quyền bính để dễ đường cướp ngôi vua. Hồ Quý Ly quyết định dời đô vào Thanh Hoá, xây thành Tây Đô ( ở động An Tôn, Vĩnh Lộc).

Tháng 11 năm 1397 Hồ Quý Ly bức vua Thuận Tông phải dời kinh về Tây Đô.

Tháng 3 năm 1398 ép Thuận Tông nhường ngôi cho con trai là Trần án để đi tu ở cung Bảo Thanh tại nuí Đại Lại (Thanh Hoá).

12. Trần Thiếu Đế (1398-1400)

Tên huý là Trần Án, mưói 3 tuổi lên kế nghiệp tức là Thiếu Đế.

Hồ Quý Ly xưng là Khâm đức Hưng liệt Đại Vương, rồi sai người giết con rể là Thuận Tông.

Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn - 1400, Hồ Quý Ly bức Thiếu Đế nhường ngôi.

Triều Trần kể từ Trần Thái Tông Đến Trần Thiếu Đế là 12 đời vua, trị vì được 175 năm.

Dân tộc ta rất đáng tự hào dưới triều Trần, có những vị vua anh hùng như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông, một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới bấy giờ, một đế quốc rộng mông mênh từ bờ Thái Bình Dương đến Hắc Hải.

Song cơ nghiệp nhà Trần suy vi từ Dụ Tông, Nghệ Tông.

Dụ Tông thì hoang chơi vô độ, bỏ bễ chính sự, làm loạn kỷ cương phép nước, làm cho dân nghèo, nước yếu.

Nghệ Tông thì nhu nhược không biết dùng hiền thần mà chỉ nghe bọn nịnh thần, làm cho cơ nghiệp nhà Trần về tay kẻ khác.



--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
M&N
post Dec 22 2008, 05:28 PM
Post #4


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country



Phần 4 :

Triều đại nhà Trần lừng lẫy với 3 cuộc kháng chiến quân Nguyên Mông thắng lợi, dĩ nhiên là không thể thiếu những anh tài kiệt xuất. Rất nhiều những nhân vật lịch sử anh hùng mà tiếng tăm còn lưu danh tới muôn đời sau. Từ những chàng thiếu niên hào kiệt cho tới những cân quốc công thần, cả một dân tộc hừng hực khí thế chống ngoại xâm, biểu hiện qua từng hình tượng lịch sử cụ thể...

Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung

Trần Thị Dung là con gái Trần Lý, em gái của Trần Thừa và Trần Tự Khánh và là anh em họ với Trần Thủ Độ.

Thái Tử Sảm chạy loạn Quách Bốc về ở nhờ Hải ấp của ông Trần Lý, thấy Trần Thị Dung xinh đẹp xin lấy làm vợ vào năm 1209.

Anh em nhà Trần đã mộ quân lính dẹp loạn Quách Bốc đón vua Lý Cao Tông và Thái tử Sảm về Triều.

Cuối năm 1210, Thái tử Sảm lên ngôi hoàng đế là Lý Huệ Tông lập Trần Thị Dung làm nguyên phi, đến giữa năm 1216 được phong làm Hoàng hậu.

Trần Thị Dung cùng với Lý Huệ Tông sinh được hai công chúa: Thuận Thiên công chúa gả cho Trần Liễu và Chiêu Thánh công chúa (tức là Lý Chiêu Hoàng) lấy Trần Cảnh. Lý Huệ Tông đi tu rồi chết. Tháng 12/1225 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông.

Tháng 8/1226 nhà Trần đã gả Hoàng hậu triều Lý là Trần Thị Dung cho Thái sư Trần Thủ Độ.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất, bà Trần Thị Dung đã có công chỉ huy hoàng tộc chủ động rút khỏi kinh đô Thăng Long, sau đó lại lo liệu thu nhặt sắt thép, động viên các hiệp thợ ngày đêm rèn đúc vũ khí để cung cấp cho quân Trần. Bà còn lo liệu cả lương thực, thực phẩm để cung cấp cho quân đội đánh giặc.

Sau chiến thắng ở Đông Bộ đầu vào tháng 1/1258, quân dân Đại Việt đuổi giặc Nguyên - Mông ra khỏi bờ cõi, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc.

Với công lao to lớn của bà, nhà Vua đã sắc phong bà là Linh Từ Quốc Mẫu.

Thái sư Trần Thủ Độ

Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần - 1194 ở làng Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình) là cháu họ ông Trần Lý, được ông Trần Lý nuôi dạy từ nhỏ và coi như con. Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung rất yêu nhau, nhưng khi Thái tử Sảm lánh nạn về ở nhờ nhà ông Trần Lý thấy Trần Thị Dung xinh đẹp, xin cưới làm vợ, Trần Thủ Độ vì sự nghiệp gây dựng cơ đồ nhà Trần đã phải hy sinh mối tình đầu, để người yêu đi lấy Thái tử Sảm. Anh em nhà Trần đã mộ quân giúp triều Lý đánh dẹp các thế lực cát cứ, khôi phục lại cơ đồ nhà Lý.

Ông mặc dù ít học, nhưng là người mưu lược, quyết đoán, là người có công đầu xây dựng cơ nghiệp nhà Trần.

Cuối triều Lý, các vua ăn chơi sa đoạ, nhu nhược, kinh tế đất nước suy thoái, thiên tai mất mùa liên tiếp, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, giặc dã nổi lên như ong. Ngoài biên ải, đế quốc Nguyên - Mông đã chiếm hầu hết châu Âu đến tận Hắc Hải và đang tung hoành đánh Kim, diệt Tây Hạ, chiếm Cao Ly, xâm chiếm nhà Tống, và sửa soạn xâm lược Đại Việt.

Trước tình hình nguy ngập đó, nếu cứ để triều đại nhà Lý yếu hèn như vậy, thì đất nước ta không thể tránh khỏi hoạ diệt vong.

Trần Thủ Độ đã ép vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái 8 tuổi là Lý Chiêu Hoàng và cũng chính việc ông thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh là hết sức khôn ngoan và hợp với quy luật hưng vong, làm một cuộc đảo chính cung đình để thay đổi triều đại mà không xẩy ra đổ máu, còn tạo cho đất nước bước vào thế ổn định, để xây dựng lực lượng về kinh tế cũng như quân sự, chuẩn bị đương đầu với những thử thách vô cùng to lớn và cực kỳ nguy hiểm trong tương lai, chứng tỏ Trần Thủ Độ là một nhà chính trị, nhà chiến lược có tầm nhìn xa thấy rộng.

Sau khi lên ngôi vua, Trần Thái Tông cho Trần Thủ Độ làm Thái sư nắm giữ mọi binh quyền. Chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã thu phục được thế lực đối địch, tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương đến cấp xã.

Ông là người trung thực, hết lòng vì việc nước, biết nghe lời nói thẳng. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông, khóc mà nói rằng: "Bệ hạ còn thơ ấu mà Trần Thủ Độ thì quyền át cả Vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?"

Thái Tông lập tức đến dinh Trần Thủ Độ, đem theo cả người đàn hặc. Vua nói với Trần Thủ Độ:

"Trẫm biết Thượng phụ chỉ có tấm lòng son vì nước chứ không có bụng riêng nào. Vậy mà kẻ kia thấy ông nắm giữ mọi binh quyền, dám ngờ vực xằng bậy, tâu với Trẫm là Thượng phụ chuyên quyền có thể không hay cho xã tắc. Đó là lời nói có hại đến nghĩa vua tôi và tình cảm chú cháu giữa Thượng phụ và trẫm".

Trần Thủ Độ trầm ngâm suy nghĩ rồi tâu:

"Đúng như những lời hắn nói. Thật quả có chuyên quyền. Thế mới biết trăm người vâng dạ không bằng một người nói thẳng. Trong triều duy chỉ có người này ngay thẳng, bạo dạn, dám nói những điều người khác chỉ dám nghĩ. Một triều đại muốn thịnh trị là phải khuyến khích người nói thật".

Nói xong, xin phép vua lấy tiền lụa thưởng cho người ấy.

Linh Từ quốc mẫu có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, về dinh khóc bảo Trần Thủ Độ:

"Mụ này là vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế!"

Trần Thủ Độ sai người đi bắt, người quân hiệu ấy nghĩ rằng chắc là phải chết. Khi đến nơi, Trần Thủ Độ vặn hỏi trước mặt Linh Từ quốc mẫu. Người quân hiệu ấy cứ theo sự thực trả lời. Trần Thủ Độ nói: "Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì nữa". Liền lấy vàng lụa thưởng rồi cho về.

Trần Thủ Độ có lần đi duyệt định số hộ khẩu, quốc mẫu xin riêng cho một người cháu làm câu đương (chức dịch thu thuế ở xã). Khi xét duyệt ở xã ấy, gọi đến tên đó, đương sự mừng rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ bảo hắn:

"Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không thể ví như những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác".

Người đó kêu van xin thôi, mãi mới được tha. Từ đó không ai dám đến xin vì việc riêng nữa.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất, Trần Thủ Độ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thế giặc rất mạnh, Vua phải bỏ kinh đô Thăng Long, lui quân về giữ sông Thiên Mạc (Mạn Trù, Hưng Yên). Vua ngự trên chiếc thuyền nhỏ đến thuyền Thái uý Trần Nhật Hiệu hỏi kế sách chống giặc. Nhật Hiệu cứ ngồi chứ không dậy nổi, chỉ lấy ngón tay chấm nước viết lên mạn thuyền hai chữ "Nhập Tống". Vua hỏi quân Tinh Cương (do Nhật Hiệu chỉ huy) ở đâu? Nhật Hiệu trả lời: "Không gọi được chúng đến".

Vua lập tức rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Ông khảng khái trả lời: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!".

Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, ngàn cân treo sợi tóc, câu trả lời đanh thép của Trần Thủ Độ đã giữ vững được tinh thần quyết chiến của quân dân Đại Việt. Ông thực sự trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất và là người lãnh đạo cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu, buộc quân giặc phải rút chạy về nước, giữ vững được độc lập cho Tổ quốc.

Sử sách thời xưa thường chê Trần Thủ Độ là vô học, gian hùng như Tào Tháo, có công với triều Trần nhưng có tội với triều Lý như đã ép Lý Huệ Tông phải chết và giết chết các tôn tộc nhà Lý bằng cách bày mưu chôn sống họ, khi đang tế lễ ở nhà thờ họ Lý (Đông Ngàn, Bắc Ninh) - "Đại Việt sử ký toàn thư" tồn ghi là chưa chắc đã có thật.

Trần Thủ Độ mất tháng Giêng năm Giáp Tý - 1264, thọ 71 tuổi, được truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương. Dân ta tưởng nhớ công lao của Trần Thủ Độ đã nhập đền thờ ở nhiều nơi.

Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn

Hơn bảy trăm năm trước, cả Á, Âu đang trong cơn kinh hoàng, khiếp đảm về cái hoạ Tác-ta (giặc Mông), khi chúng lướt trên vó ngựa viễn chinh tàn phá hết nước này sang nước khác. Từ Thái Bình Dương đến tận bên bờ Địa Trung Hải khắp Á, Âu chưa có một danh tướng nào cản được. Giáo hoàng La Mã sợ hãi đến nỗi "... tuỷ khô, thân gầy, sức kiệt". Người Đức hằng ngày cầu nguyện: "Xin chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ Tác-ta!" Vó ngựa của chúng tới đâu cỏ cây đều không mọc được. Vậy mà ở miền đông nam Châu Á lũ giặc Tác-ta ấy đã phải kinh hồn, lạc phách trước ý chí chiến đấu và tài nghệ quân sự tuyệt vời của quân dân Đại Việt dưới sự chỉ đạo thiên tài của Quốc công tiết chế, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.

Công lao to lớn của người, ba lần tổng chỉ huy quân dân Đại Việt cản phá quân Nguyên - Mông hung bạo, đánh cho chúng thất điên bát đảo. Trấn nam vương Thoát Hoan phải chui vào ống đồng có người kéo qua biên ải mới thoát chết.

Với tài thao lược, trí dũng song toàn, luôn đặt lợi ích dân tộc và đất nước lên trên hết, Trần Hưng Đạo không chỉ sống mãi trong lòng mọi người dân đất Việt mà còn vang danh khắp năm châu bốn biển. Trần Quốc Tuấn (1228-1300) là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta đồng thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế giới. Ông sinh ngày 10/12/1228 (Mậu Tý) là con An Sinh vương Trần Liễu (anh ruột Trần Thái Tông - Trần Cảnh). Là người có dung mạo hùng vĩ, thông minh hơn người, xem rộng biết nhiều, đủ tài văn võ, chuyên tâm nghiên cứu lục thao tam lược của người xưa và dành cả tâm huyết và hiểu biết của mình để viết: Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư, Hịch tướng sĩ để dạy các tướng cầm quân đánh giặc, khích lệ lòng yêu nước của quân dân Đại Việt.

Người luôn luôn đặt lợi ích của dân tộc, của đất nước trên thù nhà, luôn luôn vun trồng cho khối đoàn kết giữa tôn tộc nhà Trần, để tạo cho thế nước ở đỉnh cao muôn trượng, đủ sức đè bẹp quân thù nguy hiểm.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai, thấy rõ nếu để ngành trưởng và ngành thứ xích mích nghi kỵ nhau thì chỉ có lợi cho kẻ thù, người đã chủ động giao lưu hoà hiếu với Thái sư Trần Quang Khải, tạo nên sự đoàn kết nhất trí trong vương triều Trần, bảo đảm đánh thắng quân thù.

Chuyện kể rằng, một hôm Hưng Đạo Vương ở bến Bình Than sai người mời Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ rồi sai người nấu nước thơm tự mình cùng tắm rửa với Trần Quang Khải, từ đó vĩnh viễn xoá bỏ hiềm khích giữa hai chi họ Quốc Tuấn là con Trần Liễu ngành trưởng, Quang Khải con Trần Cảnh ngành thứ.

Lần khác, người đem chuyện xích mích cũ ra dò ý các con.

Con cả Quốc Hiến nói rằng: "Dẫu họ khác cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ!" Người cho là phải.

Hôm khác, người lại hỏi người con thứ là Quốc Tảng. Quốc Tảng thưa rằng:

"Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ".

Người nổi giận, rút gươm kể tội:

"Tên loạn thần là do đứa con bất hiếu mà ra!" Rồi định giết Quốc Tảng. Quốc Hiến vội chạy đến xin tha tội cho em, người mới tha và dặn Quốc Hiến:

"Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài vào đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng!"

Cả ba lần chống giặc Nguyên - Mông, các vua Trần đều giao cho ông quyền Quốc công tiết chế (tức là Tổng tư lệnh quân đội) vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính, nên tướng sĩ ai cũng hết lòng tin yêu ông. Đội quân phụ tử ấy đã thành đội quân bách chiến bách thắng.

Đầu năm 1285, quân Nguyên ào ạt tiến quân vào xâm lược nước ta, để bảo toàn lực lượng, Hưng Đạo Đại vương đã ra lệnh cho quân và dân làm "vườn không, nhà trống" rồi rời khỏi kinh đô Thăng Long. Thấy thế giặc quá mạnh. Bọn Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên, Văn Chiêu hầu Trần Lộng, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc đem cả gia quyến sang hàng giặc. Trước tình hình gay cấn đó, Trần Nhân Tông triệu Trần Hưng Đạo đến và nói: "Kẻ thù rất mạnh, ta e rằng chiến tranh kéo dài sẽ làm đất nước tổn hại, hay là ta đầu hàng để cứu dân". Trần Hưng Đạo trả lời: "Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước đã!" Bởi lẽ, một người rất tự tin như Trần Hưng Đạo đã nắm chắc phần thắng trong tay.

Mùa hè đến, quân Nguyên vừa mệt mỏi, vừa thiếu đói lại thêm dịch bệnh ốm đau, tinh thần thêm hoảng loạn. Trong khi đó quân đội Đại Việt vẫn bảo tồn được lực lượng lại tăng thêm sĩ khí, chứng minh phép "dĩ đoản, chế trường" của Hưng Đạo Vương thêm màu nhiệm.

Tháng 5/1285, sau khi đẩy quân Nguyên - Mông vào thế trận đã bầy sẵn với toàn bộ sự nguy khốn mà chúng đang bị sa lầy, Trần Hưng Đạo mở cuộc phản công dữ dội toàn bộ hệ thống đồn trại trên sông Hồng, đích thân người chỉ huy trận đánh lấy lại kinh đô Thăng Long, với những chiến thắng lẫy lừng ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết.... chỉ sau gần hai tháng phản công mãnh liệt, hơn nửa triệu quân xâm lược bị đuổi khỏi nước ta. Toa Đô bị chém đầu tại trận, chủ tướng Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát chết.

Mấy tháng trước khi Hưng Đạo Vương mất, vua Anh Tông đến thăm và hỏi:

- Nếu chẳng may Quốc công mất, giặc phương bắc lại sang xâm lược thì kế sách giữ nước làm sao?

Người đã trăng trối những lời tâm huyết, sâu sắc, đúng cho muôn đời:

- Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.

Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý - 1300 "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo Đại Vương qua đời. Theo lời người dặn, thi hài người được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ. Vua truy tặng Thái sư Thượng phụ quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.



--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
M&N
post Dec 22 2008, 05:29 PM
Post #5


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country



Phần 5 :

Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải

Trần Quang Khải (1240-1294) là con trai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) và Hoàng hậu Thuận Thiên.

Năm 1258 được phong tước Chiêu Minh Đại vương, khi 18 tuổi. Năm 1274, ông được giao chức Tướng quốc Thái uý. Năm 1282, dưới triều vua Trần Nhân Tông được cử làm Thượng tướng Thái sư, nắm toàn quyền nội chính.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và lần thứ ba, Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Quốc Công tiết chế Trần Quốc Tuấn và lập nhiều chiến công lớn. Trần Quang Khải đã chỉ huy đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và những trận then chốt nhằm khôi phục kinh đô Thăng Long vào cuối tháng 5/1285.

Trận đại thắng Chương Dương đã mở đường cho quân ta tiến nhanh đến thắng lợi cuối cùng, quét sạch giặc Nguyên ra khỏi bờ cõi.

Kinh thành được thu phục, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải hồ hởi đón vua Trần Nhân Tông cùng triều đình trở lại Thăng Long. Tiệc mừng chiến thắng vui đến nổ trời. Giữa cảnh tượng nức lòng người ấy, Trần Quang Khải cảm động đón lấy chén rượu mừng công còn đang sóng sánh của Nhà Vua ban tặng, và xin phép đọc bài thờ cảm khái:

Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san!

Tạm dịch:

Bến Chương Dương cướp giáo
Cửa Hàm Tử bắt thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước này muôn thu!


Trần Quang Khải là một anh tài kiệt xuất không những về chính tri, quân sự, mà còn là một nhà thơ. Ông là tác giả tập thơ "Lạc Đại". Ngày 3 tháng 7 năm 1294 (Giáp Ngọ) Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương mất, thọ 54 tuổi.


Chiêu văn Đại vương Trần Nhật Duật

Trần Nhật Duật (1253-1330) con trai thứ tư của Trần Thái Tông và Hoàng hậu Thuận Thiên. Từ bé đã nổi tiếng là ông Hoàng hiếu học và "sớm lộ thiên tài, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người".

Do miệt mài rèn luyện mà Trần Nhật Duật nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng, uy tín và tiếng tăm của ông vang dội ra cả nước ngoài. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, ông chẳng những chỉ sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu cả phong tục, tập quán của họ. Đối với các dân tộc trong nước, ông không chỉ hiểu tiếng mà còn hiểu cả về người.

Mới ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật đã được vua Trần Nhân Tông giao đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan. Nhà vua thán phục, có lần nói đùa: "Chiêu Văn Vương có lẽ không phải người Việt mà là hậu thân của giống Phiên, Man". Tiếp xúc với các sứ thần triều Nguyễn, có lần Trần Nhật Duật vui vẻ, tự nhiên trò chuyện suốt cả một ngày, khiến cho sứ Nguyên khăng khăng cho rằng Trần Nhật Duật là người Hán ở Chân Định (gần Bắc Kinh) sang làm quan bên Đại Việt.

Câu chuyện sau đây chứng tỏ Trần Nhật Duật chẳng những giỏi các thứ tiếng mà còn là một nhà dân tộc học lỗi lạc.

Ngày ấy, vua quan triều Trần được tin chúa đạo Đà Giang (Tây Bắc ngày nay) Trịnh Giác Mật nổi lên chống lại triều đình. Tin dữ trong lúc nhà Nguyên đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Cần phải dẹp ngay mối loạn trong nước. Người đảm đương trọng trách cũng không ai hơn Trần Nhật Duật. Thế là vị Vương gia trẻ tuổi dưới cờ hiệu "Trấn thủ Đà Giang" lên đường.

Trịnh Giác Mật định ám hại viên tướng trẻ triều Trần nên sai người đưa thư dụ Trần Nhật Duật: "Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật xin ra hàng ngay". Muốn thu phục được Giác Mật, Trần Nhật Duật mặc các tướng can ngăn, một mình một ngựa đến trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp theo hầu. Thản nhiên đi giữa lớp gươm giáo và đám lính sắc phục kỳ dị cố ý phô trương uy hiếp của Giác Mật, Trần Nhật Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc Đà Giang:

- Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đến đây thì nóng tai phải.

Từ Giác Mật đến các đầu mục đều sững sờ, kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ Đà Giang của Trần Nhật Duật. Rồi mâm rượu được bưng lên. Chúa đạo nheo mắt thách thức, đưa tay mời. Chỉ có quả hầu cắt đôi sóng sánh rượu và đĩa mâm thịt nai muối. Trần Nhật Duật không chút ngần ngại cầm thịt ăn vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm bầu rượu từ từ dốc vào lỗ mũi hết sức thành thạo.

Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên: "Chiêu Văn Vương là anh em với ta".

Trần Nhật Duật bấy giờ mới từ tốn nói: "Chúng ta xưa nay vẫn là anh em", rồi gọi tiểu đồng đến gần, tự tay mở tráp, lấy ra những chiếc vòng bạc sáng lóng lánh, trao tận tay cho từng đầu mục đạo Đà Giang, và chọn riêng cho chúa đạo Đà Giang một chiếc vòng lớn, lồng nguyên một chiếc vuốt cọp!

Những người cầm đầu đạo Đà Giang chỉ còn biết hoan hỉ đón nhận tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ. Chúa đạo Đà Giang đã quy thuận. Sức mạnh của dân tộc được nhân lên.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và lần thứ ba, Trần Nhật Duật đều lập được nhiều chiến công hiển hách, đặc biệt là trận Hàm Tử.

Năm 1330 (Canh Ngọ) Tá thánh Thái sư Chiêu văn Đại vương Trần Nhật Duật mất, thọ 77 tuổi.

Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư

Trần Khánh Dư là con Thượng tướngTrần Phó Duyệt, nhân có công đánh giặc Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất được vua Trần Thái Tông nhận làm con nuôi và phong đến chức Phiên kỵ tướng quân rồi đến chức Thượng vị hầu. Sau Trần Khánh Dư mắc tội, bị triều đình giáng xuống làm dân thường phải đi bán than để kiếm sống ở Chí Linh.

Trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2, ông được vua Trần Thánh Tông phục chức, được phong là Phó đô tướng quân.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 3, Trần Khánh Dư chịu trách nhiệm giữ vùng bờ biển, không chặn nổi thuỷ quân giặc, để chúng qua được cửa An Bang tiến về Vạn Kiếp, Thượng hoàng được tin, sai Trung sứ xiềng Khánh Dư giải về kinh trị tội. Trần Khánh Dư xin với Trung sứ: "Lấy quân pháp mà xử, tôi xin cam chịu tội, nhưng xin khất hai ba ngày để mưu lập công rồi về chịu búa rìu cũng chưa muộn". Trung sứ theo lời.

Trần Khánh Dư liệu biết quân giặc đi qua, thuyền vận tải chở nặng tất theo sau, nên thu thập tàn quân đón chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến, ông đưa quân ra đánh, lấy được lương thực, khí giới và bắt được tù binh nhiều không kể xiết, còn bao nhiêu thì đánh đắm xuống biển. Tướng giặc Trương Văn Hổ phải xuống chiếc thuyền con chạy trốn về đảo Hải Nam mới thoát chết.

Ông được phong tước Nhân Huệ vương, mất năm 1329.

Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng

Trần Bình Trọng vốn là hậu duệ của vua Lê Đại Hành, cha ông làm quan dưới triều vua Trần Thái Tông, có nhiều công lao được nhà vua ban quốc tính (họ Trần).

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2, ông đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc (tức Thiên Mạc, nay là bãi Mạn Trù).
Ông chiến đấu rất ngoan cường nhưng giặc quá đông bao vây vòng trong vòng ngoài, cuối cùng chúng bắt được ông.

Khi bị bắt, ông không chịu ăn, giặc hỏi việc nước, ông không trả lời, cuối cùng chúng dụ dỗ: "Có muốn làm vương đất Bắc không?"
Ông thét to: "Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc". Ông đã anh dũng hy sinh.

Vua Trần Nhân Tông truy phong ông là Bảo Nghĩa vương.

Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản

Trần Quốc Toản là con Trung Thành Vương, cháu nội của Nhân Đạo Vương được phong là Hoài Văn hầu, mới 15 tuổi, vì không được dự hội nghị quân sự ở Bình Than bàn kế chống giặc Nguyên, căm thù giặc tay cầm quả cam bóp vỡ lúc nào không biết.

Ra về, Trần Quốc Toản huy động hơn nghìn gia nô và trai tráng trong vùng mua sắm vũ khí, đóng chiến thuyền để đánh giặc, may lá cờ đại, thêu sáu chữ vàng "phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua).

Trong cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ hai, khi đối trận với giặc, Trần Quốc Toản tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không dám đối địch. Trần Quốc Toản đã góp vào chiến công to lớn ở Tây Kết và giải phóng kinh thành Thăng Long.

Trong trận chặn đánh giặc rút chạy trên sông Như Nguyệt, Trần Quốc Toản đã anh dũng hy sinh, góp phần xứng đáng vào trận đại thắng Vạn Kiếp, quét sạch giặc Nguyên - Mông ra khỏi đất nước Đại Việt.

Vua Trần Nhân Tông vô cùng thương tiếc, đích thân làm văn tế truy tặng tước Hoài Văn Vương.

Điện Suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão người làng Phù Ủng, Đường Hào (nay là Ân Thi, Hưng Yên) sinh năm 1255, nhà nghèo, bố chết sớm, phụng dưỡng mẹ già rất hiếu thảo, là người thông minh lại ham đọc sách và rèn luyện võ nghệ nên làu thông văn võ.

Một lần Hưng Đạo Vương đưa quân đi tập trận rồi tắt đường qua làng Phù Ủng để về Thăng Long. Chợt đoàn quân dừng lại, tướng tiên phong Nguyễn Chế Nghĩa quay lại, trước mặt Hưng Đạo Vương, thưa:

- Trình Đức Ông, dân chúng đều dẹp sang hai bên nhường đường cho quân trẩy qua, chỉ riêng có một người vẫn ngồi xếp bằng tròn trên đường đan sọt, quân lính quát thét không tránh, liền đâm mũi giáo mà người đó vẫn ngồi yên.

Hưng Đạo Vương thấy sự lạ liền xuống voi đến trước mặt chàng trai. Vương thấy chàng trai chừng 20 tuổi, đầu để trần, mặc áo rách nhưng dung mạo rất khôi ngô, tuấn tú, một bên đùi bị giáo đâm nhưng vẫn ngồi xếp bằng tròn đan sọt, mặc cho máu chảy đầm đìa, liền cúi xuống hỏi:

- Nhà ngươi quê ở đâu, bị giáo đâm như thế sao không biết đau mà vẫn ngồi như vậy?

Chàng trai đó ngước nhìn lên thấy một vị tướng quân đã lớn tuổi, cằm vuông, mắt sáng, chòm râu đen nhánh đều đặn cân đối, nét mặt hồng hào, dáng uy nghi quắc thước mà vẫn lộ rõ vẻ nhân từ, liền kính cẩn thưa:

- Bẩm Đức Ông, tôi họ Phạm, tên Ngũ Lão, quê ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, châu Thượng Hồng. Nhà nghèo, mẹ già yếu, ruộng đất không có, phải làm nghề đan sọt nuôi mẹ. Tôi mải nghĩ mấy câu trong binh thư không biết có quân của Đức Ông trẩy qua, làm trở ngại việc quân, xin Đức Ông xá tội cho.

Hưng Đạo Vương thấy thần sắc, khẩu khí của Phạm Ngũ Lão xứng đáng là tướng cầm quân liền sai quân nhổ ngọn giáo vẫn cắm ở đùi Phạm Ngũ Lão, sai người lấy thuốc dấu đắp vết thương rồi hỏi:

- Hẳn tráng sĩ biết quân Nguyên - Mông đã chinh phục hàng chục nước Đông, Tây, Nhà Tống cũng đã bị đẩy xuống phía Nam, đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Chúng đã bị quân dân Đại Việt ta đánh bại trong cuộc xâm lược lần thứ nhất, nay chúng đang gấp rút chuẩn bị để xâm lược nước ta một lần nữa. Hiện nay, trai tráng cả nước đang nô nức sắm sửa vũ khí, luyện tập võ nghệ, ta cũng đã soạn cuốn Binh thư yếu lược, hẳn tráng sĩ rõ chứ?

Phạm Ngũ Lão thưa:

- Bẩm Đức Ông, kẻ thứ dân này tuy ở nơi thôn dã, xa cách thị thành, song cũng biết giặc Nguyên - Mông đã động binh, rắp tâm xâm lược nước ta nên đã cùng trai tráng trong vùng luyện tập võ nghệ, chờ thời cơ đầu quân giết giặc, đền nợ nước...

Hưng Đạo Vương hài lòng, gật đầu khen:

- Tráng sĩ có chí lớn như vậy ta rất mừng, hiện ta đang chiêu mộ quân lính, kén chọn tướng tài để cầm quân giúp nước. Ta muốn đưa ngươi về trang ấp Vạn Kiếp giúp ta huấn luyện quân sĩ, tráng sĩ có vui lòng chăng?

Phạm Ngũ Lão chưa kịp trả lời thì Đức Ông nhìn thấy trong chiếc sọt đan dở có quyển sách liền hỏi:

- Tráng sĩ đọc sách trong khi đang đan sọt hay sao, cho ta xem qua được không?

Phạm Ngũ Lão ngập ngừng thưa:

- Bẩm Đức Ông, quyển sách này tôi chỉ ghi lại đôi điều cảm nghĩ khi đọc sách của người xưa.

Nói rồi, kính cẩn dâng sách lên. Đức Ông nhìn thấy trang đầu ghi dòng chữ: "Dùng binh cốt chọn quân tinh nhuệ, không cần nhiều". Trang tiếp theo có bài thơ:

Hoành giáo giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu,
Nam nhi vi liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Tạm dịch:

Vung giáo non sông trải mấy thu
Ba quân tựa cọp nuốt trôi trâu
Trai chưa trả nợ công danh được
Còn thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu

Xem xong, Vương càng hài lòng nhắc lại:

- Tráng sĩ tỏ ra là người thao lược, ta rất quý trọng. Ta muốn đưa về trang ấp Vạn Kiếp giúp ta huấn luyện quân sĩ có vui lòng không?

Ngũ Lão thưa:

- Bẩm Đức Ông, tôi rất muốn đầu quân, nhưng vì còn vướng mẹ già, xin phép Đức Ông cho tôi về thưa đã...

Hưng Đạo Vương xúc động trước tấm lòng hiếu thảo của Ngũ Lão liền truyền lấy mấy tấm lụa và hai mươi nén bạc trao cho Ngũ Lão, nói:

- Ta tin một người mẹ đã sinh ra người con như tráng sĩ ắt vui lòng cho con đầu quân giết giặc. Ta có chút quà nhỏ gửi biếu bà mẹ, tráng sĩ sớm đến với ta.

Phạm Ngũ Lão xúc động, vái lạy Đức Ông và xin được về thưa với mẹ rồi tới quân doanh ở Vạn Kiếp trình diện.

Nửa tháng sau, khi đã trình với mẹ và điều trị lành vết thương, Phạm Ngũ Lão được mẹ và dân làng tiễn đưa lên đường đầu quân giết giặc.

Phạm Ngũ Lão đến trang ấp Vạn Kiếp ra mắt Đức Ông, được Quốc công niềm nở đón tiếp. Biết tài của Phạm Ngũ Lão, Vương giao cho cùng Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng huấn luyện quân sĩ.

Sau một thời gian luyện quân, Hưng Đạo Vương tiến cử Phạm Ngũ Lão với nhà Vua cho coi quân Cấm vệ là đội quân tin cậy, làm nhiệm vụ bảo vệ Vua và Cấm thành.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và thứ ba, Phạm Ngũ Lão lập được nhiều chiến công to lớn ở Tây Kết, Vạn Kiếp, Bạch Đằng Giang và được phong đến chức Kim Nghiêu đại tướng quân.

Ông được Hưng Đạo Vương rất yêu mến, đem con gái nuôi là Anh Nguyên quận chúa gả cho.

Phạm Ngũ Lão phục vụ trải 3 đời Vua nhà Trần, được phong đến chức Điện suý thượng tướng quân.

Ngày 1 tháng 11 năm 1320 (Canh Thân) Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ Vua ban ở vườn cam trong thành, thọ 66 tuổi. Vua nghỉ chầu 5 ngày, đó là ân điển đặc biệt.

Khi ông mất, dân làng Phù Ủng lập đền thờ ngay trên nền nhà cũ ở phía tây làng.
Nhiều nơi trong nước lập đền thờ Phạm Ngũ Lão.

Tướng quân Nguyễn Chế Nghĩa

Nguyễn Chế Nghĩa người làng Cối Xuyên, Gia Lộc, Hải Dương, có tài võ nghệ, lại làu thông binh pháp.

Được Hưng Đạo Vương thu nhận làm gia tướng. Nguyễn Chế Nghĩa lập nhiều công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai và thứ ba, ông đã giết được hai tướng giặc là Trương Ngọc và A-bát-xích.

Nguyễn Chế Nghĩa được Vua Trần Anh Tông rất yêu mến, gả con gái là Ngọc Hoa công chúa cho và được phong là An Nghĩa đại Vương.

Khi ông mất được làng Kiêu Kỵ (Gia Lâm - Hà Nội) thờ làm Thành hoàng.

Chưởng sử quan Lê Văn Hưu

Tháng Giêng năm Nhâm Thân (1272) dưới triều Vua Trần Nhân Tông, Chưởng sử quan Lê Văn Hưu đã hiến dâng bộ quốc sử lấy tên là Đại Việt sử ký. Đây là bộ sử đầu tiên của nước Đại Việt ta gồm 30 quyển.

Lê Văn Hưu sinh năm Canh Dần (1230), quê hương nay là làng Rị, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Là người chép sử đầu tiên của dân tộc ta, ông đã nổi tiếng thần đồng khi còn là cậu học trò nhỏ ở giáp Phủ Lý, huyện Đông Sơn, Phủ Lộ, Thanh Hóa.

Truyện kể rằng, hồi Lê Văn Hưu là học trò thầy họ Nguyễn ở làng Cổ Bôn, hằng ngày đi học thường dừng chân bên quán thợ rèn ở đầu làng để xem.

Một hôm, Lê Văn Hưu xách túi đứng xem bác thợ rèn dùi xiên tò mò hỏi:

- Bác này! Ông tổ nghề rèn của ta là ai đó?

Thấy thằng bé mới lên mười tuổi mà đã biết hỏi vặn vẹo, bác thợ rèn liền ra câu đối, đối được thì được thưởng, không đối được thì phải ở đây quai búa, khi nào đối được mới cho về!

Bác thợ rèn chỉ vào lò rèn đọc:

- “Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò, rèn nên dùi sắt”. Đối đi!

Lê Văn Hưu cười:

- Chả khó mấy! - Rồi vỗ vào túi đối ngay - “Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi, giật lấy khôi nguyên!”.

Bác thợ rèn trợn tròn mắt khen:

- Ta xin thua rồi đó!

Rồi bác thưởng cho Lê Văn Hưu 30 đồng tiền để mua giấy bút.

Quả nhiên, qua dùi mài kinh sử, năm Đinh Mùi (1247), Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn vào đúng lúc 17 tuổi đời. Ông làm quan dưới ba triều Vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông.

Sau khi đỗ Bảng nhãn, Lê Văn Hưu được triều đình phong chức Hàn lâm viện học sĩ, lại được Vua Trần Thái Tông ủy thác cho việc dạy dỗ hoàng tử Trần Quang Khải và năm 1262 được Thượng hoàng Thái Tông giao cho biên soạn bộ quốc sử đầu tiên của đất nước ta.

Năm 1275, ông được giữ chức Binh Bộ Thượng thư. Ông mất năm 1322, thọ 93 tuổi.



--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
M&N
post Dec 22 2008, 05:30 PM
Post #6


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country




Đôi điều tản mạn các vị tướng nhà Trần



Trong ba lần kháng chiến chống Mông-Nguyên của nhà Trần, ở nhiều vị tướng của nhà Trần có nhiều điểm thú vị, xin cung cấp một số thông tin qua tham khảo các nguồn tài liệu, cụ thể như sau:

Tướng chịu đau giỏi nhất:

Để dọn đường xâm lược nước ta lần thứ hai, năm Tân Tỵ (1281) sứ nhà Nguyên Sài Xuân đem 5.000 quân sang sứ nước ta dò la tình hình, nghênh ngang, hống hách không coi quan quân nhà Trần ra gì. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn biết chuyện liền cạo đầu, mặc áo vải như nhà sư một mình đến sứ quán. Sài Xuân tưởng hoà thượng nên tiếp rất tử tế. Nhưng khi hai bên đang đàm đạo thì… “người hầu của Xuân cầm cái tên đứng đằng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu Quốc Tuấn chảy máu ra, sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không thay đổi” (Đại Việt sử ký toàn thư). Chưa thấy ai chịu đau giỏi như ông, may ra… có Phạm Ngũ Lão vì chờ gặp Quốc Tuấn trên đường cái quan để xin gia nhập đội quân đánh giặc, mải mê đan sọt và nghĩ kế đánh giặc nên bị quân Trần Quốc Tuấn đâm giáo vào đùi mà không hay biết. Việc này có thể sánh với Quốc Tuấn, cùng vì lẽ đó và tài đánh giặc mà tướng họ Phạm được Quốc Tuấn gả con gái cho.

Tướng thiếu niên khoẻ nhất

Tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282) vua Trần mở hội nghị Bình Than (thuộc Chí Linh, Hải Dương) bàn kế sách chống giặc, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản “tuổi còn bé” (Đại Việt sử ký toàn thư. Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì “mới có 15, 16 tuổi”) không được dự bàn cùng cha chú, được vua ban quả cam bởi sự nhiệt tình, “Quốc Toản lấy làm xấu hổ tức giận, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết” (Đại Việt sử ký toàn thư). Không biết vì Quốc Toản khoẻ hay vì sự tự ái cao mà “quả cam chỉ còn trơ bã”.

Tướng biết nhiều thứ tiếng nhất

Đó là trường hợp của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật (1253-1330)”, từ nhỏ ông đã “ham hiểu biết về các tiếng nói và các giống người”. Vì thế Nhật Duật thành thạo được tiếng Hán, tiếng Chiêm, tiếng các dân tộc thiểu số vùng sông Đà. Điều đó khiến vua Trần Nhân Tông có lúc phải đùa rằng: “Chiêu Văn vương có lẽ không phải là người Việt mà là hậu thân của Phiên, Man”, còn sứ thần nhà Nguyên khi nói chuyện với Nhật Duật quả quyết rằng ông là người Hán di cư sang. Riêng chúa đạo Đà giang Trịnh Giác Mật chống đối triều đình nhưng quy thuận vì phục sự độ lượng cũng như sự hiểu biết ngôn ngữ, tục lệ của người đại diện triều đình Trần Nhật Duật.

Tướng ngoa nhất

Kháng chiến chống Nguyên lần hai, Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng dòng dõi vua Lê Đại hành (sau được ban quốc tính, họ vua) cự chiến với giặc Nguyên, thế cùng lực kiệt bị bắt. Giặc đem danh lợi dụ dỗ, hỏi ông: “Có muốn làm vương đất Bắc không?”, ông chửi thẳng vào mặt chúng rằng: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Không khuất phục được, chúng giết ông.

Tướng bán than

Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư vốn trước được vua Trần Thái Tông yêu qúy, phong là Thiên tử nghĩa nam (con nuôi vua). Sau phạm tội lớn bị giáng làm thứ dân, phải đi bán than kiếm sống. Tại hội nghị Bình Than vua Trần Nhân Tông tình cờ gặp lại ông già bán than Trần Khánh Dư, cho ông dự bàn việc nước cùng các vương hầu. Chiến tranh kháng chiến lần thứ ba (1288) Khánh Dư lập công lớn đánh tan thuyền lương của giặc Nguyên, góp công lớn vào chiến thắng nhà Trần.
Đồng thời Trần Khánh Dư cũng là một tướng có “máu kinh doanh” đầy mánh khoé. Khi được trấn giữ vùng Vân Đồn (Quảng Ninh) ông cho người nhà mua sẵn nón Ma Lôi rồi bắt dân mua đội để phân biệt với khách thương phương Bắc, tiền thu được “một vốn bốn lời”.

Tướng nhát gan

Hào khí Đông A của nhà Trần rạng danh muôn thuở nhờ những vị tướng tài anh dũng, thế nhưng cũng có không ít tướng… nhát gan.
Trần Di Ái là tôn thất nhà Trần đi sứ nhà Nguyên được vua Nguyên phong cho làm Lão hầu thì quên cả quốc thể nhận chức của kẻ thù, lại theo giặc về phá hoại đất nước năm 1281.
Năm 1285 Thượng vị Văn chiêu hầu là Trần Lộng cũng đầu hàng Thoát Hoan rồi Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc cũng nối gót “gọi giặc là cha”…
Những tướng nhà Trần đầu hàng giặc đều bị vua Trần đổi sang họ Mai để không nhơ bẩn dòng họ. Riêng tướng Trần Ích Tắc là con vua nên cho giữ họ Trần nhưng bị gọi mỉa mai là “Ả Trần” có ý chê nhát như con gái.


--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
M&N
post Dec 22 2008, 05:34 PM
Post #7


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country




Đền thờ Đức ông Trần Quốc Tảng



Lại nói về sự hình thành Đền Cửa Ông, sử sách chép lại như sau: Sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ 2 (năm 1285) thắng lợi rực rỡ, vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn càng nhận rõ vị trí quan trọng công thủ trong vùng biển đảo Đông Bắc đối với công cuộc giữ gìn tổ quốc. Lúc này, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn "so bó đũa, chọn cột cờ", không còn ai hơn Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng (con trai thứ 3 của Trần Quốc Tuấn). Vì theo sử cũ, ông là người: "Tính khí mạnh mẽ, thích trừ bọn bạo nghịch". Năm Trùng Hưng thứ nhất (năm 1285), quân Nguyên xâm lược nước ta lần 2. Đạo quân do Trần Hưng Đạo không chống cự nổi trước thế giặc mạnh như chẻ tre, phải rút về Vạn Kiếp. Lúc đó, Trần Quốc Tảng nhanh chóng mang quân tiếp ứng, đánh tan tác quân Nguyên.

Cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân Mông - Nguyên của Nhà Trần thắng lợi. Sau đó vua Trần hai lần cử Trần Quốc Tảng ra Cửa Suốt trấn giữ. Cũng có cuốn sử cho rằng: "Quốc Tuấn cho rằng con trai tính ưa cương dũng (tức Trần Quốc Tảng) không theo đúng đạo làm con, bèn nổi giận lôi đình, đày ra cửa bể Suốt - Ti - Tuần, thuộc phủ Hải Ninh, lộ An Bang"...

Đến năm Trùng Hưng thứ tư (năm 1288), quân Nguyên lại kéo sang xâm lược nước ta. Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng xin đánh giặc, lập công chuộc tội. Từ sau năm 1288 đến khi qua đời, phần lớn thời gian Trần Quốc Tảng dành cho việc trấn giữ miền Đông Bắc tổ quốc. Vì công lao to lớn của ông với Nhà Trần mà Trần Quốc Tảng đã được vua Trần Anh Tông (con rể Trần Quốc Tảng) phong tước Hưng Nhượng Đại Vương. Những ngày cuối đời của Ông và sự hình thành ngôi Đền, sử sách cũ kể lại như sau: "Ông ra Cửa Suốt được 3 ngày thì trời nổi giông tố, Ông qua đời ở đó. Thi hài trôi tới Vườn Nhãn (ngày 11/9/1311). Tục truyền rằng, đêm hôm ấy mọi người đều mơ thấy một người cân đai, áo mũ chỉnh tề, đứng ở đình làng nói rằng: "Ta là tướng Nhà Trần, nay số đã hết, lại trở về nơi đồn cũ, giữ yên dân nước". Vua Trần thấy Trần Quốc Tảng là người có công, lại linh ứng nên truyền cho lập miếu thờ và phong là Thượng đẳng Phúc thần, cho 800 quan tiền công hàng năm để cúng tế 2 mùa vào bậc Nhà nước".

Đền Cửa Ông cũng là vị trí thờ Đức Ông Hoàng Cần (một nhân vật lịch sử có công với nước). Trong dân gian, Trần Quốc Tảng và Hoàng Cần đều được tôn kính, tôn vinh là Đức Ông, và do vậy vị trí Đền thờ hai Ông đều là một.

Kiến trúc độc đáo, uy nghi



Đền Cửa Ông không chỉ mang lại giá trị lịch sử to lớn. Nó còn có giá trị về nghệ thuật, văn hóa dân tộc Việt đặc sắc. Toàn cảnh khu Đền được bố trí trên các ngọn đồi cao dưới 100 mét, đan xen, hòa nhập dưới những bóng cổ thụ, tạo nên cảnh tĩnh mịch nhưng hùng tráng, trang nghiêm...

Toàn bộ khu Nhà Đền được bố trí như sau: khu Tiền Đường; khu Bái Đường; Hậu Cung; lăng Trần Quốc Tảng và khu thờ Thánh Mẫu. Tất cả đều được xây theo kiến trúc Phật giáo Á Đông như: đá đúc, gạch Bát Tràng, vữa hồ pha mật, gạch lát nền bằng đất nung, ngói mũi đất nung, mái cong cánh Phượng, có trang trí theo kiểu: Long, Ly, Quy, Phượng... Phần trong nhà Đền sử dụng các loại gỗ bền, chắc, đẹp như lim, gụ, trắc... được dựng theo lối : kèo, cầu, dường, trụ... Trên đó, trang trí bằng các bức phù điêu, bức trướng, câu đối... và các hoa văn sơn son, thếp vàng lộng lẫy...

Trước cửa ngôi Đền là vịnh Bái Tử Long, một "rừng đảo" muôn hình, muôn vẻ nổi bật trên nền xanh biếc của nước biển... nằm trọn trong cảnh rừng, biển, núi non, sơn thủy hữu tình. Chẳng thế mà vị trí ngôi Đền đã được người xưa ca tụng: "Nghìn trùng nước biếc buông tay áo. Bốn phía non xanh tạc họa đồ".

Cùng với phong cảnh hùng tráng, uy nghi của ngôi Đền là hệ thống các pho tượng. Trước hết là pho tượng Đức Ông - Trần Quốc Tảng, tượng Ông được đặt ở Bái Đường. Tượng sơn màu đỏ tía tượng trưng khí phách của vị tướng tài ba. Cùng với đó, ở Hậu Cung nơi linh thiêng nhất của Đền có thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn - vị Quốc Công Tiết Chế thao lược, người anh hùng dân tộc - cha của Trần Quốc Tảng.

Tổng thể Đền Cửa Ông hội tụ hơn 30 pho tượng lớn nhỏ, nơi hiếm hoi còn lại thờ khá đông đủ gia quyến Trần Quốc Tuấn và các quan cận thần với Ông như: Thánh Mẫu (Mẹ Trần Quốc Tảng); hai công chúa, trong đó có Quyên Thanh (con gái Trần Quốc Tuấn); vua Trần Anh Tông (con rể Trần Quốc Tảng); Trần Khánh Dư; Lê Phụ Trần; Đỗ Khắc Chung; Phạm Ngũ Lão; Hà Đặc; Yết Kiêu; Nguyễn Quyên; Nguyễn Tiễn; Huyền Du... Hàng năm, khách thập phương đến viếng thăm thắng cảnh Đền Cửa Ông, dưới mái Đền cổ kính, tán cổ thụ tĩnh lặng ai cũng kính cẩn trước các vị Nhân Thần nhà Trần. Họ không những ngưỡng mộ nhân tài, khí phách của các vị anh hùng hào kiệt, mà còn nguyện làm việc tốt để xứng đáng với ông cha.



--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post
M&N
post Dec 22 2008, 05:36 PM
Post #8


Bảo vệ Tổ Quốc
***

Group: Trang Chủ
Posts: 11,665
Joined: 7-April 08
Member No.: 6
Country




Hưng Đạo Đại Vương



Tên chính của ông là Trần Quốc Tuấn. Theo Ngọc phả Đình Đền Công xã Điền Công, Ông sinh ngày mồng 10 tháng 12 năm Mậu Tý 1228 nguyên quán ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông là con của Anh Sinh Vương Trần Liễu và Bà Nguyệt, là em của Vũ Thành Vương Trần Doãn và là anh của Thiên Cảm Hoàng Hậu vợ vua Trần Thánh Tông

Tương truyền ông là Thanh Sơn đồng tử giáng sinh, một đêm phu nhân của Trần Liễu nằm mộng thấy một đồng tử áo xanh chui vào bụng mình, có mang rồi sinh ra ông.

Ông vốn thông minh hơn người, dung mạo tuấn kiệt. Lúc mới sinh ra có thầy tướng xem nói rằng: “Người này sau có thể giúp nước cứu đời”. Vợ ông Công chúa Thiên Thành là trưởng công chúa của Vua Thái Tông Hoàng Đế Trần Cảnh, Bà mất tháng 9 năm Mậu Tý 1288. Trần Quốc Tuấn có bốn người con trai là Hưng Vũ Vương Quốc Hiến, Hưng Hiến Vương Quốc Vy, Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng, Hưng Trí Vương Quốc Nghiễn và hai người con gái.

Sinh thời ông là tôi trung, là con hiếu, là trung tâm đoàn kết của triều đình và quân đội, là người thương dân.
Về văn: Quốc Tuấn thấu hiểu mọi kinh nghĩa, văn thơ cổ kim. Thông tuệ binh pháp của Tôn Tử và Ngô Khởi, ông đã soạn sách Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược hay còn goị là Binh Thư Yếu Lược. Ngoài ra ông còn sưu tập binh pháp các nhà, làm thành Bát Quái Cửu Cung Đồ, đặt tên là Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư để dạy các tỳ tướng, Ông còn giáo dục họ và muôn dân bằng bài Hịch Tướng Sĩ.

Về võ: Ông là nhà chiến lược, chiến thuật tài ba, tư tưởng của ông là: nước Đại Việt ta nhỏ và yếu hơn nước Đại Nguyên của Mông Cổ, vì vậy phải lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh; khi quân giặc mới đến, thế chúng còn mạnh, thì ta phải rút lui để bảo toàn lực lượng, nhử cho chúng vào sâu và dàn mỏng lực lượng ra nhiều nơi, chờ khi nào có điều kiện thuận lợi mới phản công; khi ta rút lui cũng phải chủ động khiến giặc muốn đánh mà không đánh được. Với chiến thuật vườn không nhà trống, với chiến tranh nhân dân, giặc không thể cướp được lương thực của nhân dân và luôn bị quân du kích đánh phá quấy rối, cắt đường tiếp tế. Tinh thần giặc tất giảm sút. Lúc ấy ta mới phản công, cắt đường liên lạc tiếp tế của giặc. Phục kích, tập kích, vận động thần tốc đánh vào căn cứ quan trọng của giặc, buộc giặc rút lui về nước, ta phục kích tiêu diệt chúng. Ông còn chủ trương khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Viết Binh thư yếu lược để dạy quân sỹ binh pháp.

Với chiến lược, chiến thuật và tài năng quân sự, Trần Quốc Tuấn đã hai lần đánh bại quân Mông Cổ đã từng tung hoành bách chiến bách thắng xâm lược Châu Á, Châu Âu vào năm 1285 và năm 1288.
Ngày 20 tháng 8 năm Hưng Long thứ 8, Canh Tý (1300) Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ đệ riêng ở Vạn Kiếp, được vua phong tặng Thái sứ Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương. Với công lao to lớn của Hưng Đạo Đại Vương, nên ngay từ lúc sinh thời Hưng Đạo đã được vua Trần cho lập Sinh Từ (thờ từ khi còn sống) ở Phủ Đệ. Vua Trần Thánh Tông có soạn bài văn bia ở Sinh Từ ví ông với Thượng Phụ (tức Lã Vọng giúp Chu Vũ Vương giành được thiên hạ, Vũ Vương tôn làm thầy gọi là Thượng Phụ).

Sau khi mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, nơi đây trở thành nơi thờ ông và gia đình gọi là Đền Kiếp Bạc. Kiếp Bạc là tên nôm của hai làng: Làng Vạn Yên tên nôm là Kiếp và làng Dược Sơn tên nôm là Bạc nay đều thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đền Kiếp Bạc là nơi rất linh thiêng, lưu niệm nơi ở và nơi mất của vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn.
Trên doi đất cổ nằm ở giữa Sông Bạch Đằng, nơi trung tâm diễn ra trận thuỷ chiến năm 1288 nơi phát hoả làm hiệu lệnh cho trận đánh, nơi bến đò có bà hàng nước cung cấp cho Trần Hưng Đạo lịch con nước triều và địa thế lòng sông để xây dựng trận địa cọc, nơi thấm máu quân dân nhà Trần và xác giặc, nhân dân làng An Hưng xưa nay là xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh đã lập đền thờ Trần Hưng Đạo. Tên chữ là Đền Bạch Đằng. Đây là nơi lưu niệm vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn ngay trên mảnh đất diễn ra chiến công hiển hách nhất của ngài.

Ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm các đền mở hội lớn kỉ niệm ngày mất của Đức Thánh Trần “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”. Ngày 8 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Đền Bạch Đằng ở xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh mở hội lớn kỉ niệm ngày Chiến thắng Bạch Đằng 1288 gọi là Lễ hội Bạch Đằng, nhân dân địa phương còn gọi là ngày Giỗ trận. Trong dịp đầu xuân, nhân dân cả nước nô nức về Đền Bạch Đằng lễ Đức Thánh Trần trước khi ra lễ Đền Cửa Ông nơi thờ người con của Trần Hưng Đạo là Tiết Độ Sứ Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng.



--------------------
Mmm
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Reply to this topicStart new topic
1 User(s) are reading this topic (1 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 28th April 2024 - 12:05 AM