Welcome Guest ( Log In | Register )

3 Pages V   1 2 3 >  
Reply to this topicStart new topic
> Đỉnh Cao Chói Lọi - Dương Thu Hương
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:20 PM
Post #1


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Đỉnh Cao Chói Lọi và Nỗi Đau Đớn Tột Cùng Của Vị Cha Già Dân Tộc


Lời Nói Đầu
Dương Thu Hương

Người ta nói lịch sử như một tấm gương mờ mà thời gian càng lùi xa thì con người mới càng có thể nhìn và chiêm nghiệm về nó một cách rõ ràng. Lịch sử cận đại Việt Nam đáng buồn hơn lại chỉ như một tấm phông đen được bôi vẽ, sơn quét công phu tới nỗi nó gần như mang dáng vẻ của một bức tranh siêu thực. Nhưng ẩn sau những lớp sơn hòa nhoáng ấy đáng tiếc thay lại che giấu một lịch sử khác buồn thảm đến tàn khốc của dân tộc, của những con người mà cuộc đời họ cũng đồng hành với quá trình nhào nặn ra hình hài đất nước Việt Nam hôm nay. Có những sự thực vẫn còn nằm im lìm dưới lớp vải đen và tưởng chừng như sẽ vĩnh viễn bị quên lãng cùng thời gian.

Nhưng cùng với thời gian mọi sự vật cuối cùng rồi sẽ được hé mở, được phơi bày dưới ánh sáng. Đó là quy luật! Ý thức ấy đã thôi thúc Dương Thu Hương dấn thân vào cuộc truy tìm những bí mật sâu kín nhất của lịch sử Việt Nam đương đại. Cuộc tìm kiếm cái mà bà gọi là "không chỉ thứ lịch sử chứa đựng trong lịch sử mà còn thứ lịch sử xoá bỏ lịch sử, thứ lịch sử tiêu diệt lịch sử."

"Đỉnh cao chói lọi", tác phẩm mới nhất của Dương Thu Hương ra đời sau 20 năm trời lao vào cuộc hành trình tìm kiếm dai dẳng, kể từ khi người bạn thân kịch gia Lưu Quang Vũ qua đời, với lời thề sẽ đưa bằng được công lí và sự thật ra trước dân tộc Việt Nam.

Tác phẩm không phải là một cuốn biên niên sử mà là một cuốn tiểu thuyết nhưng là một cuốn tiểu thuyết hiện thực hơn bất kì cuốn tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa nào khác.

Nhân vật chính trong tiểu thuyết chính là người được mệnh danh là vị "cha già dân tộc", người Việt Nam được mệnh danh là vĩ đại và kiệt xuất nhất trong thế kỉ XX nhưng cũng là một nhân vật bí ẩn và gây nhiều tranh cãi nhất của lịch sử cận đại Việt Nam. Tác phẩm kể về những năm tháng cuối đời đầy đau khổ của vị « chủ tịch đáng kính » cùng những hoài niệm của ông về quá khứ của chính mình. Điều bất ngờ là những năm tháng tưởng như "đã từng được biết đến" của ông lại chứa đựng những sự thật tàn nhẫn đến phũ phàng mà nhân dân Việt Nam chưa hề được biết tới. Những năm tháng cuối đời ông bị cách li và quản thúc bởi những người đồng chí, những học trò của chính ông. Những năm tháng ấy ông sống trong nỗi cô đơn, cùng sự nhớ nhung day dứt về người ông yêu nhất trong đời, nhớ những đứa con mà ông không thể thừa nhận, máu thịt của ông. Ông sống trong nỗi đau đớn khi người ông yêu thương nhất bị sát hại nhưng ông đã không thể làm gì.

Dương Thu Hương là thế, truyện của bà không bao giờ cần lên giọng nhưng luôn đào sâu tới những góc sâu thẳm nhất trong tâm hồn người để nhìn thấu qua trái tim và những rung cảm thầm kín nhất của nhân vật. Dưới ngòi bút của Dương Thu Hương, vị chủ tịch, cha già dân tộc được trả về đúng vị trí của ông, một con người, không còn là 1 vị thánh càng không phải là 1 kẻ tội đồ như nhiều người cố tình gán ghép cho ông một cách không lương thiện. Ông, một người bình thường biết yêu, biết giận, biết ghen, biết nhớ và biết đớn đau. Khi yêu cũng như khi đau đớn ông cũng đâu có khác một "gã tiều phu". Thế nhưng điều trớ trêu là ông lại không phải là một người thường, ông một vĩ nhân, con người đã từng nắm trong tay vận mệnh của cả giang sơn thế nên nỗi đau đớn của ông tưởng như nhân lên gấp bội phần cùng với "trò chơi phong thánh". Nỗi đau đớn của ông cũng lớn như nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam như khi nó bị cầm tù, bị phản bội. Đó là số phận! Giá như ông, con người từng quyết liệt theo đuổi chủ nghĩa dân tộc, có thể cương quyết hơn thì bản thân ông và dân tộc đâu có cần phải chịu nỗi đau đớn nhường ấy. Đất nước có lẽ đã không vào tay loài "ngạ quỷ" để rồi máu của đồng bào ông tuôn đổ cho cuồng vọng của chúng.

Ước vọng cuối cùng và cũng là nỗ lực cuối cùng của ông… cho chính ông và cho dân tộc là nỗ lực nhằm « tiêu diệt lũ lang sói sống quanh ông », những kẻ núp bóng "cha già dân tộc" để xây dựng ngai vàng cho riêng chúng trên xương máu đồng bào. Là một người tinh thông khoa học huyền bí, ông muốn dùng chính sinh mạng của mình để đổi lấy món quá cuối cùng cho dân tộc Việt Nam, để minh định cho sự kết thúc khả tri cái chế độ vô nhân mà ông góp phần tạo dựng, một con quái vật mà đáng buồn thay chính bản thân ông cũng đã không thể hình dung được hình hài. Ông vẫn vĩ đại cho đến giờ phút cuối cùng !

Có 1 kí giả ngoại quốc đã hỏi Dương Thu Hương, đây là 1 cuốn sách chính trị hay một tiểu thuyết trữ tình. Bà cười và đáp: "Bạn hãy đọc và tự đánh giá." Về phần mình, người viết cho rằng "Đỉnh cao chói lọi" thể hiện văn tài siêu hạng cũng như kiến thức uyên bác của Dương Thu Hương. Bởi cuốn tiểu thuyết dắt người đọc đi từ những bí mật cung đình sâu kín nhất cho tới những cảnh sinh hoạt bình dị nhất, đời thường nhất. Dương Thu Hương viết về cảnh làng quê thường đặc biệt hay và ấn tượng, một phần có lẽ bà có sự gắn bó máu thịt và một tình yêu da diết với những người nông dân. Không dưới 1 lần bà nhận mình mà 1 người đàn bà "răng đen, mắt toét", để cùng ngồi lê với đám dân đen thế nên bà cách điệu và sử dụng ngôn ngữ của họ như hòa cùng hơi thở của những người nông dân ấy.

Sau thành công vang dội của tiểu thuyết "Chốn vắng" với hơn 300.000 ấn bản. Cuốn "Đỉnh cao chói lọi" ( bản tiếng Pháp Au zenith đã xuất bản tại châu Âu) mới ra mắt dự kiến sẽ còn gây một tiếng vang lớn hơn nữa đối với độc giả ngoại quốc. Tuy nhiên với bản tiếng Việt của cuốn sách để đời này, Dương Thu Hương tuyên bố không cần giữ tác quyền. Ứớc vọng của bà chỉ là "sự thật cho dân tộc Việt Nam". Bà dành tặng cuốn "Đỉnh cao chói lọi" cho dân tộc Việt Nam đầy đau khổ của mình.

Dương Thu Hương viết "Từ xưa tới nay viết sử là nghề của những bậc anh hùng, dám đem mạng mình đổi lấy sự thật. Bởi mọi vua chúa đều kinh sợ sự thật. Biết bao nhiêu đầu sử gia đã rụng xuống dưới lưỡi kiếm của đao phủ triều đình, nhưng lịch sử vẫn tiếp tục viết lên bằng những dòng máu khô đen của họ". Dưới chế độ toàn trị, những con người can đảm còn phải đương đầu với tù ngục,với sự đàn áp ghê gớm không chỉ về thể xác mà còn cả về tinh thần. Nhưng họ vẫn không ngừng tìm kiếm và viết lên sự thật. Dân tộc Nga đã tự hào sản sinh ra một Alexander Solzhenitsyne, những người Việt yêu tự do cũng rất tự hào và tri ân khi có một Dương Thu Hương.




--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:20 PM
Post #2


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



ĐỈNH CAO CHÓI LỌI

DƯƠNG THU HƯƠNG

KÍNH TẶNG

Lời tác giả

*********


Tôi vốn không đủ khả năng sáng tác hoàn toàn dựa vào trí tưởng tượng. Mọi cuốn sách tôi viết đều
xây dựng trên một câu chuyện thực. Dẫu vậy, vẫn cần nhắc lại một cách nghiêm cẩn rằng tiểu
thuyết là tiểu thuyết. Tiểu thuyết không phải tự truyện hoặc sự lắp ghép một chuỗi tiểu sử của các
nhân vật.

Như mọi cuốn đã in, ― Đỉnh cao chói lọi‖ trung thành với nguyên tắc ấy. Nhưng, để tránh mọi hiểu
lầm đáng tiếc có thể xảy ra, tôi xin nhấn mạnh một lần nữa với trường hợp đặc biệt này : Nhân vật
Trần Vũ và các nhân vật liên đới với ông. Để lấy cảm hứng xây dựng nhân vật Trần Vũ, tôi đã
mượn hình mẫu ông Vũ Kì, nguyên giám đốc bảo tàng Hồ chí Minh. Nhưng ngược lại, nhân vật Tố
Vân hoàn toàn không dính líu tới phu nhân Vũ Kì cũng như gia đình bà. Đây là sự lắp ghép giữa
hình mẫu nam với một hình mẫu nữ khác, không xa môi trường quan chức cao cấp Việt nam thời
đó bao lăm. Sự lắp ghép này là một trong những ngón nghề cổ lỗ của các tiểu thuyết gia mọi thời
đại. Không có một biệt đãi nào dành cho riêng tôi.

Trên thực tế, tôi không hân hạnh quen biết ông Vũ Kì, bởi không có ý định khép mình trong triều
đình cộng sản. Thêm nữa, vì dị ứng trầm trọng với mọi lề thức nhiêu khê và quan dạng trong môi
trường này nên tuy thâm tâm ngổn ngang những tò mò lẫn niềm cảm mến tôi cũng khó lòng tự
cưỡng để tìm cách gặp ông. Chỉ đến khi nghe tin ông ốm yếu, tôi mới trộn mình vào đám sai nha để
nhìn mặt ông, dù là nhìn từ xa. Đó là lần đầu tiên và cũng là cuối cùng. Năm sau ông qua đời.
Đối với tôi, ông Vũ Kì là một trong số vô cùng ít ỏi những người còn giữ được tinh thần nghĩa hiệp,
lòng chung thuỷ giữa thầy trò và bằng hữu; những đức tính vô cùng tốt đẹp của dân tộc Việt mà
trong nửa thế kỉ thống trị, chế độ cộng sản đã tàn hoại một cách thành công.
Phu nhân Vũ Kì cũng như gia đình bà có đầy đủ quyền tự hào vì có một người chồng, người cha,
người ông như thế.


Phần 1

SONG TẤU

Cha ơi, cha !... cha !...

Tiếng thét của một đứa bé khiến ông tỉnh giấc,và , dường như tức khắc, một cú đánh sau gáy khiến ông
choáng váng mặt mày.

- Cha ơi !....Cha !...

Tiếng thét vọng từ dưới thung lên, âm vang láy vọng giữa các vách đá, lay động các vòm cây, tạo nên
những đợt sóng vô hình làm xao động một không gian bao la lặng ngắt.

Sau một lát định thần, ông hiểu rằng tiếng thét ấy là của một đứa trẻ khác :

« Không phải nó, không phải thằng bé.... »

Ông tự nhủ. Cảm giác đau nhói phía sau gáy cũng như cơn khắc khoải nguôi dần. Chủ tịch đứng dậy, bước
ra khỏi phòng, hỏi người lính gác :

- Có chuyện gì vậy ?

- Dạ....Có lẽ một tai nạn vừa xảy ra dưới thung lũng. Ai đó đã ngã từ ngọn cây hoặc mỏm đá rơi xuống
vực.

Đúng lúc ấy, tiếng còi báo động rú lanh lảnh trong khu đồn trú của đại đội bảo vệ bên dưới. Trời lặng gió
nên ông nghe rất rõ tiếng lao xao của đám lính đang tập hợp đi cứu hộ.

-
- Cha !...Cha ơi cha !...
- Cha ơi !....Có ai cứu cha tôi ?....Bớ làng nước ơi....Bớ làng nước ơi, cứu cha tôi ....

Lần này, ông nghe tiếng kêu thảm thiết của đứa bé. Tiếng kêu của một đứa con trai đang vào tuổi dậy thì.
Tiếng kêu ấy chung chiêng giữa sự thơ ngây với cảm thức của lứa thiếu niên đã quay đầu về phía con đường
của tuổi trưởng thành. Trong tiếng kêu ấy, ông đọc thấy sợi dây của tình huyết mạch rung lên biết bao nhiêu làn
điệu khác biệt. Cùng một khoảnh khắc, hiện lên chiều sâu thăm thẳm của những năm tháng cộng sinh, tình yêu
và những giằng trói vô hình, nỗi đớn đau trước cuộc biệt ly không trù tính, sự kinh hoàng trước một tương lai
vô định ....Tất thảy những tình cảm ấy cùng phóng chiếu một lần, như những luồng ánh sáng khác chiều giao
thoa trên một điểm. Cái tụ điểm ấy, ông hiểu rành rọt, là mắt xích cốt lõi nhất trong nhân thế, mối quan hệ có
thể đi đến tột cùng sự thăng hoa cũng như chót điểm sự đồi bại, mối quan hệ làm đổ biết bao nhiêu mực trong

lịch sử của con người. Đó chính là phức điệu của tình phụ tử, bản giao hưởng xa xưa nhất của thập loại chúng
sinh. Thứ âm nhạc cổ lỗ mà ngọn triều thời gian đã huỷ diệt một cách hoài công.

« Có lẽ nó cũng xấp xỉ tuổi thằng bé. Cùng một lứa tuổi nhưng ít may mắn hơn. »

Ông thầm nghĩ, và hình dung gương mặt đứa con trai vào lúc này. Đứa con trai mà ông đã cố tình quên
nhưng không khỏi nhớ. Đứa con trai mà ông đã tự ngăn cấm gần gụi suốt một thập kỉ nhưng giờ đây quay về
ngự trị ngay giữa trái tim ông, nơi cư trú an toàn nhất cho nó và nơi mang lại sự bất toàn cho chính ông. Ở nơi
ấy, hình ảnh của nó được thêu dệt mỗi ngày theo trí tưởng tượng cũng như theo nỗi sầu thương. Ở nơi ấy, sự
hiện diện của nó đốt lên ngọn lửa hoả ngục, ngọn lửa ấy thiêu cháy ông mỗi ngày.

« Nó giống ai bây giờ nhỉ ? Nó giống nàng hay ta ? Hẳn là nó phải có một gương mặt tuấn tú ?»

Đã bao nhiêu lần, ông tự hỏi. Bấy nhiêu lần, sự câm lặng đáp lời.

Ông nhớ rõ rành khi mới lọt lòng đến sáu tháng tuổi, nó mang hình vóc người chị gái của ông, từ sống
mũi , làn môi, nét đằm thắm khi cười, đặc biệt là những món tóc dày rậm phủ xuống hai bên thái dương và
trước trán. Nhưng rồi từ tháng thứ bẩy cho đến một năm, mọi đường nét bỗng biến đổi và thằng bé trở nên
giống mẹ nó một cách lạ lùng. Sự thay đổi này khiến tất cả mọi người đều ngạc nhiên, trước hết là ông, rồi đến
nàng, và sau đó người chị lớn tuổi của nàng, Nàng Đông, thời niên thiếu đã nuôi em và đến tuổi ba mươi lại
dang tay nuôi cháu .

« Ồ...Nó đã đến tuổi dậy thì. Năm tháng trôi đi như tên bắn... »

Bất giác ông buông tiếng thở dài, không để ý người cận vệ đã đứng sau lưng :

- Thưa chủ tịch, người có chỉ thị gì không ?

- Chỉ thị ?

Ông hỏi lại rồi chợt nhận ra vẻ xao nhãng của mình :

Chú đã thấy anh em tập hợp bên dưới đi cứu hộ. Chỉ có tôi và chú đứng ở đây. Chúng ta là những người
vô dụng.

- Dạ, thưa chủ tịch....

Người lính ấp úng, cổ anh ta đỏ ửng lên. Rồi khuôn mặt và hai bàn tay cũng rần rần đỏ nốt. Anh ta lùi lại,
nhìn ông với cặp mắt nhớn nhác, hoang mang. Ông chợt nhận ra sự hớ hênh của mình :

- Ồ, tôi muốn nói rằng trong lúc này, chú và tôi là hai kẻ vô dụng vì chúng ta không thể chạy xuống thung

lũng giúp đỡ nạn nhân. Nhưng ngoại trừ lúc này, chúng ta đều là những người hữu ích, ai gánh vác phận
sự của người nấy....

- Dạ....

Anh lính cất tiếng thở phào. Gương mặt to béo vừa đỏ rực vừa bóng nhẫy mồ hôi. Chủ tịch vỗ vai chàng

trai :

- Tôi nói thế để đùa chơi. Đừng coi làm trọng.

Đoạn ông mỉm cười chỉ sang bên chùa, nơi tiếng tụng kinh và tiếng gõ mõ vang lên không ngớt từ sáng
sớm :

- Chẳng có việc gì lúc này. Chú sang bên chùa ngồi chơi cho đỡ mỏi.

Nói đoạn, ông quay lại phòng trong, gieo mình xuống gối. Ở phòng ngoài, chú lính béo cũng đã nhẹ
nhàng đóng cửa rồi đi. Tiếng bước chân nện trên bậc tam cấp và trên sân chùa chìm dần trong nhịp gõ đều đặn
của tiếng mõ. Tiếng mõ vang vọng giữa không gian, khiến ông nhớ lại tiếng nước nhỏ giọt trong một hang núi
nhiều thạch nhũ. Ấy là tiếng trôi chảy của thời gian, thứ âm điệu vĩnh hằng. Sáng nay, từ lúc trời còn tối đen,
ông đang nằm trên giường đã nghe tiếng thì thầm của sư nữ với hai chú lính gác ca đêm trước cửa :

- Hôm nay nhà chùa phải đọc kinh sớm vì có chuyện cần thiết. Không hiểu điều đó có khiến chủ tịch phiền
lòng hay không ?

- Ồ không ! Dứt khoát là không. Phải để chủ tịch ngủ cho yên giấc.

- Các chú thông cảm. Một năm có ba trăm sáu mươi nhăm ngày, nhà chùa chỉ dám phiền chủ tịch, đọc
kinh bất cập lệ sớm nay thôi...

Nghe tới đó, ông trở dậy khoác áo bông bước ra can thiệp :

- Các chú cử để nhà chùa tụng kinh. Tôi thức dậy lâu rồi.

- Mô phật, xin đa tạ từ tâm của người.

Sư nữ chắp tay hình búp sen, cúi đầu thật thấp để tạ ơn. Rồi chị ta lùi lại, cầm cây đèn hoa kì đặt sát chân
tường, quay về chùa. Trời còn tối đen, sương vây như khói, vạt áo dài nâu của người đàn bà tu hành bay lật
phật trong sương gợi nên một cảm giác lạ lùng. Và cây đèn dầu di động trong đêm cũng nhắc nhở một hình ảnh
đã từ lâu vùi lấp trong dĩ vãng. Ông không còn muốn nằm tiếp nên bật đèn ngồi đọc sách. Nhưng chẳng một
con chữ nào lọt vào óc khi tai ông dỏng lên nghe kinh và tiếng mõ. Ngồi như thế giờ lâu, trong trạng thái hoàn
toàn trống rỗng, ông lật những trang sách một cách máy móc và nghe thứ âm nhạc buồn bã, tẻ nhạt của nhà
chùa vẳng đến như dòng chảy của một con sông lặng lờ, hoặc của một dòng mương khe khẽ rì rào giữa hai bờ
cỏ. Sau cùng, ông hiểu rằng hình ảnh mà ông khổ công tìm kiếm chính là hình ảnh của mẹ ông, thời xa xôi.
Vào một đêm đông giá buốt, mù sương, bà cũng cầm cây đèn dầu như thế đi qua sân, vạt áo dài của bà cũng
bay lật phật trong sương đêm như vậy. Bà đi xuống chuồng trâu để bỏ thêm trấu vào đống dấm. Những đêm rét
dữ, nếu không giữ được ngọn lửa âm ỉ để sưởi ấm, trâu dễ chết hoặc bị cước chân và không thể cầy ruộng.
Ngày đó, ông trạc bốn hay năm tuổi, đang rúc trong nách mẹ ngủ thấy bà bỏ đi liền nhỏm dậy, ngồi thu lu trong
chăn thò cổ nhìn theo. Hình dáng mảnh dẻ của người đàn bà thôn dã, vạt áo dài nâu mềm mại cuốn bay, cánh
tay ấm áp và mùi thơm sữa mẹ....Hương vị của một quá khứ xa lơ xa lắc bỗng quay về. Một nỗi nghẹn ngào
câm lặng dâng lên trong ông. Cùng với nó, mối sầu thương không thể cắt nghĩa.

- Ồ, phi lý !

Ông bật tiếng kêu. Đoạn cất cuốn sách đi, ông tìm đống báo để đọc tin tức. Nhưng tin tức ngày nào cũng
giống ngày nào, ông biết từ lâu như vậy. Có nghĩa lý gì khi tiếp tục ăn một món ăn được xào nấu từ bàn tay một
đầu bếp năm này qua tháng khác ? Sự ngao ngán xâm chiếm cả óc não lẫn chân tay ông. Hình ảnh người đàn bà
áo nâu lại quay về, để khêu gợi tuổi thơ xa xôi của ông. Rồi cái đứa bé năm tuổi ngồi trong giường nhìn theo
mẹ lại kéo theo nỗi nhớ một thằng bé khác...Cứ như thế, ông quanh quẩn trong hoả ngục của trái tim mình.
Khoảng chín giờ, ông cảm thấy như ngạt thở. Chờ cho cậu lính béo thu dọn ấm trà sáng, ông bảo :

- Tôi muốn vào rừng dạo chơi một lát. Chú chuẩn bị trong mươi phút rồi ta đi.

- Dạ , không được !

Cậu lính hốt hoảng kêu lên tức khắc. Rồi nhìn vẻ mặt bất bình của ông, cậu ta hạ giọng phân trần :

- Thưa chủ tịch, hôm nay không thể vào rừng được. Xin người thông cảm.

Ông đáp lời, cố ngăn lại cảm giác bực dọc :

- Trời tuy lạnh nhưng tạnh ráo. Tôi mặc áo bông là đủ.

- Thưa chủ tịch, hôm nay là ngày hắc đạo. Chiều qua sư nữ bảo con như vậy. Ngày hôm nay là ngày xấu
nhất trong cả năm. Sáng nay nhà chùa tụng kinh sớm là vì vậy.

- Ra thế. Nhưng chú còn trai trẻ mà cũng tin mấy chuyện ấy sao ?

- Dạ ....

-

Chàng lính ấp úng như gà mắc tóc, rồi sau một lát ngắc ngứ cậu ta bỗng nhiên trả lời một cách quyết liệt :

- Con tin. Con không sợ cho con nhưng con có nhiệm vụ phải bảo vệ người. Chúng ta không thể vào rừng
được.

Lần đầu, ông thấy gã trai hiền lành này có một vẻ cương quyết dị thường như vậy. Ông mỉm cười im lặng.
Sự im lặng do vì nể. Muốn hay không ông cũng phải thầm công nhận rằng gã trai béo tốt này là món quà hậu
hĩnh trời cho. Tuy nhiên, ông không ngờ là những lo sợ phỏng chừng của anh ta lại trở thành sự thật : Kể từ
ngày ông đến chùa Lan Vu, đã mười tám tháng tròn, hôm nay là lần đầu tai nạn xảy ra. Tai nạn của người cha.
Và tiếng kêu khóc của đứa con dẫn ông quay lại địa ngục của mình : Nỗi thiếu vắng đứa con trai dội lên như
cơn đau ác tính của chứng ung thư, hành hạ ông không thương tiếc. Tim ông giống như con chim non đỏ hỏn
trần trụi rơi xuống bụi gai dầy. Nằm trên giường, ông lấy hai tay che mắt và thầm hỏi :

― Liệu mai đây, nó có khóc thương ta vào ngày ta chết ? Nó có cất tiếng kêu thảm thiết như đứa bé dưới
thung lũng kia ? „

Một giọng khinh bạc cất lên tự nơi nào đó trong sâu thẳm tâm hồn, như giáng một cái tát tàn nhẫn vào
giữa mặt :

― Thôi đi, nào ai cho nó biết cha nó là ai ?....Làm sao nó có thể dò tìm được tung tích của mình, khi chính
người cha xoá đi mọi dấu vết trên con đường tìm kiếm ?...„

Ông cất tiếng nói với gã quan toà vô hình vô dạng kia, tự thấy yếu hèn trước mặt gã :

― Nhưng cùng thời gian. Tôi hy vọng rằng...với thời gian.‖

Gã quay lưng đi, ném vào ông sự im lặng đầy khinh bỉ. Bất giác, chủ tịch thốt tiếng rên và cảm thấy
gương mặt mình đang biến dạng vì tủi nhục. Ông vội vàng úp mặt xuống gối, e ngại có kẻ bất đồ bước vào.
Những cơn co thắt bỗng dồn dập kéo đến khiến ngực ông đau nhói từng hồi như bị nhào bóp bởi một bàn tay
sắt. Và, bỗng nhiên, ông thèm muốn khóc. Một thứ khát vọng ông chưa từng biết từ thuở lớn khôn cho đến tận
lúc này. Một thứ ước muốn lạ lùng nhưng thôi thúc dữ dội, si mê và đau đớn. Ước gì ông có thể khóc thật to,
khóc giữa thanh thiên bạch nhật. Ước gì ông có thể khóc hả hê, khóc sầu thảm thống thiết, khóc thênh thang
giữa trời thẳm đất dày, khóc miên man hờn tủi như một người đàn bà hay một đứa bé. Ước gì ông có thể thét
lên giữa rừng giữa núi như đứa con trai kẻ xấu số vừa ngã xuống vực. Nhưng thay vì gọi : Cha ơi, ông sẽ gọi :

Con ơi :

- Con ơi ! Con trai của cha ơi !

- Con ơi ! Giọt máu của ta, kẻ nối dõi tông đường của ta, khúc ruột của ta. Trái cây lạc mùa của mối tình
đau đớn giữa ta với nàng....

Nhưng ông thể khóc vì đã có tiếng gõ cửa và tức khắc đội trưởng đội cận vệ Lễ bước vào :

- Thưa chủ tịch, người không được khoẻ ?

- Tôi bị một cơn nhức đầu dữ dội.

Ông đáp mà không thay đổi tư thế nằm. Giọng Lễ đều đều như tiếng nước nhỏ từ một chiếc vòi bị
hở vang lên trong phòng, ông có cảm tưởng mỗi lời của anh ta như một nhát búa gõ vào gáy ông :

- Thưa chủ tịch, trà đã pha. Mời người dùng cho nóng.

- Chú cứ để đấy cho tôi.

- Thưa chủ tịch, xin người cho phép gọi bác sĩ ?

- Không cần. Ai cũng có lúc phải đau đầu. Tôi biết rõ là không có triệu chứng huyết áp.

- Thưa chủ tịch, người đang ở trong thời kì điều trị.

- Tôi đã ngừng hai tuần rồi.

- Thưa chủ tịch....

Ông buộc lòng phải quay đầu lại, rồi ngồi dậy. Đội trưởng đội cận vệ không hề tỏ ra nao núng, anh ta vẫn
đứng sừng sững giữa nhà, khay trà trên tay. Ngày một lần, hoặc sáng hoặc chiều, đội trưởng đội cận vệ trực tiếp
phục vụ ông để kiểm tra tình hình sức khoẻ hoặc giám sát các nhân viên dưới quyền mình. Một sự mẫn cán lạ
lùng. Một sự chú tâm băng giá. Gương mặt anh ta tầm thường với những nốt tàn nhang to quá cỡ và nhiều cũng
quá cỡ khiến màu da anh ta ngả sang nâu đậm khiến người ta lầm tưởng anh ta có gốc tích Ấn độ hay Ả Rập.

- Thưa chủ tịch, tuần trà có kèm theo cao Linh-Chi và thuốc tim mạch. Bác sĩ dặn nhất thiết uống khi đang
nóng. Vì lẽ đó chúng tôi phải ủ trà trong ấm đặc biệt.

- Được rồi. Đặt xuống bàn cho tôi.

Ông đáp và thầm nghĩ :

« Khốn khổ cho thân ta ; không có một thời khắc nào tránh được những ánh mắt theo rõi... »

Đội trưởng Lễ đặt khay trà lên bàn và nhắc lại :

- Mời người dùng trà cho nóng.

- Cảm ơn. Tôi vừa nghe tiếng thét của cháu bé nào đó dưới thung lũng. Những tai nạn như vầy xẩy ra có
nhiều không ?...

Không nhiều, nhưng dường như năm nào cũng có, theo như dân quanh vùng nói lại. Chủ tịch chẳng cần
băn khoăn nhiều quá, bất lợi cho sức khoẻ. Tôi đã điều đại đội phó dẫn quân xuống núi cứu hộ rồi.

- Chính quyền không làm được điều gì hữu ích để ngăn chặn những tai nạn kiểu này hay sao ?...

- Dạ...Nhưng....

Đội trưởng đội cận vệ đáp, vẻ ngạc nhiên. Rồi mắt anh ta ánh lên một thứ ánh sáng vừa ranh ma vừa xấc
xược. Một lần nữa, ông hiểu rằng ông vừa buông ra một câu hỏi dại dột :

- Tôi biết rằng thiên tai hay vận mệnh đều vượt quá sức người. Nhưng dẫu sao, chính quyền cũng nên làm
điều gì đó. Ít ra là ....

- Có chứ ạ !

Lễ ngắt lời ông :

- Chính quyền chắc chắn sẽ cử người tới giúp cáng bệnh nhân vào viện, bởi từ đây xuống huyện rất xa. Gia
đình neo đơn không thể kham nổi. Rồi chính quyền sẽ giúp việc tang ma nếu người bị nạn không qua
khỏi. Trước hết là đoàn thanh niên, rồi đảng uỷ xã. Sau đó là các đoàn thể khác.

- Tôi muốn đến thăm gia đình người bị nạn.

Ông nói. Và chính ông cũng kinh ngạc vì ý tưởng đột ngột của mình. Lễ đứng sững hồi lâu rồi cố gắng nở
nụ cười, từ tốn đáp :

- Thưa chủ tịch, người vừa qua giai đoạn điều trị, đang còn ở tình trạng phải theo dõi nghiêm nhặt diễn tiến
của sức khoẻ. Đến thăm một đám tang vào lúc này là vô cùng bất lợi. Thêm nữa, từ đỉnh núi xuống
thung trên ngàn mét. Lính trẻ đi cũng thấm mệt, huống chi...

- Các chú đã đưa tôi lên đỉnh núi được ? Hà cớ gì thoái thác đưa tôi xuống núi ?

Ông nhắc lại một cách lạnh lùng.

Một lần nữa, đội trưởng đội cận vệ sững sờ vì phản ứng bất thường của chủ tịch. Anh ta đần mặt ra một
lát rồi hắng giọng :

- Báo cáo chủ tịch, khi đưa người lên núi phải huy động máy bay quân đội. Vào lúc này, mọi phi đội đều
bị điều ra mặt trận để chở thương binh.

- Sao ?

Ông cao giọng vặn lại Lễ, với sự tức giận không che giấu :

- Tuần nào tôi cũng nhận báo cáo từ văn phòng trung ương đảng. Báo cáo nào cũng tràn ngập tin chiến
thắng. Chú định nói gì với tôi ?

- Dạ...

Lễ cúi đầu xuống. Khó mà đọc được những gì diễn ra phía sau vầng trán ngắn nhưng vuông và dựng thẳng
lên như một vách đá, vầng trán nổi tiếng vì được coi là giống hệt trán Stalin. Lễ thường khoe khoang và răn đe
đồng cấp :

« Đừng động vào tao. Đã thấy vầng trán này đích thị kiểu trán Stalin vĩ đại hay chưa ?... »

Lúc này, đội trưởng đội cận vệ đang cúi gằm mặt xuống suy gẫm. Rồi sau một lát, anh ta khom lưng thật
thấp mà nói :

- Thưa chủ tịch, nếu người đã quyết, tôi sẽ báo cáo về Hà nội.

Chủ tịch đứng lên, bước ra vườn, biết rằng gã đàn ông da nâu đã len lén lui ra. Bây giờ, cơn tức giận bóp
nghẹt trái tim ông. Những con sóng nghẹn ngào trào lên họng, và đồng thời trong phổi ông dâng lên những
luồng hơi nóng dồn dập.

« Sao mà giống những làn hơi phả ra từ lò than của một con tầu. ?... »

Con tầu đưa ông rời xứ ra đi. Con tầu đưa ông trở lại. Cũng thứ lửa của con tầu ấy bây giờ thiêu đốt tâm
can.

Một cành mai đâm vào thái dương khiến ông vội vàng nhắm mắt lại. Chính khoảnh khắc ấy, tiếng khóc
của đứa bé dưới thung sâu lại vẳng lên. Lần này, thằng bé đã thôi gào thét, tiếng khóc của nó chỉ còn là tiếng ỉ
eo hoà cùng tiếng gió. Ông nghĩ :

« Chắc đội cứu hộ đã tới rồi ... »

Ra khỏi vườn, ông nhằm phía cửa tam quan mà bước. Gió đã nổi lên bốn bề. Sau một khoảng thời gian
ngưng lặng, gió ào ạt trườn qua các vách núi, dồn đuổi những làn mây sang một góc trời để vén lên một
khoảng xanh lơ ngọt ngào trong suốt. Nhờ trời quang, chủ tịch nhìn thấy các cụm rừng bên dưới, khoảng trống
giữa các cụm thông , khu nhà của đại đội cận vệ giống những bao diêm xếp thành hàng phía dưới các sườn đá
lởm chởm và sát đó, trạm khí tượng xây bằng đá hộc từ thời thuộc Pháp. Thấp hơn nữa là những con đường
ngoằn ngoèo dẫn xuống thung sâu, nơi tốp lính cứu hộ cùng dân sở tại đang võng người bị nạn trở về làng.
Đoàn người nối nhau đi hàng một, nhỏ như những con kiến. Từ trên cao nhìn xuống, chủ tịch có cảm tưởng
như trông thấy một đàn kiến cắn đuôi nhau bò trên ngọn cỏ lau.

Cha ơi cha !

Gió đổi chiều, thốc từ dưới thung lũng lên tận đỉnh núi. Tiếng khóc của đứa trẻ xoáy lên theo, vang dội :

« Nó khóc không ngừng...Có lẽ người cha không qua khỏi. Tội nghiệp cho kẻ xấu số và tội nghiệp cho cả
đứa bé sắp phải trải qua kiếp mồ côi.... »

Ông thầm nghĩ và bất giác nhắm mắt lại. Gió reo trong các rừng thông vi vút rồi ném thứ âm nhạc mênh
mông của nó vào không gian mênh mông. Chủ tịch cảm thấy hơi gió tạt ngang qua mặt ông hơi ẩm lạnh của
mùa xuân, của rừng già và của những loài hoa dại trên sườn núi....

- Cha ơi cha !...

Đột nhiên, ông mở choàng mắt vì một câu hỏi ập tới :

« Nếu ta chết, liệu thằng bé có khóc không ? Liệu nó có thương ta như đứa con trai người tiều phu khóc
thương cha nó ?»

Ý nghĩ đó khiến ông đứng sững như chôn chân trước tam quan, tựa hồ bị đập đầu vào tường đá hay bị
trúng gió độc. Người lính trẻ vâng lời ông sang ngồi bên cửa chùa nhưng không rời mắt theo rõi chủ tịch. Cậu
ta nhận ra vẻ mặt nhợt nhạt của ông, liền chạy bổ tới :

- Thưa chủ tịch, mời người trở lại phòng. Ở đây dễ trúng gió độc mà cũng dễ trơn ngã. Từ sang đến giờ
đất vẫn vẫn chưa thật khô.

Đoạn, cậu ta ôm chặt vai ông, dìu vào nhà. Chủ tịch muốn hất tay cậu lính ra nhưng tay chàng trai ấm
nóng. Tấm thân đẫy đà của cậu ta cũng ấm nóng và khi áp vào ông, làn hơi nóng truyền sang cơ thể ông cùng
một lần ngọn lửa của sinh lực và sự nồng ấm của tâm hồn. Chỉ cần đứng bên cạnh con người này, là đủ cảm
nhận được điều đó :

« Một gã trai tốt lành »

Ông thầm nghĩ và ưng thuận theo cậu ta vào phòng. Ở đó, trà đã bắt đầu nguội. Ông ngồi uống trà với
niềm tin cay đắng :

« Nó sẽ không bao giờ khóc ta cả. Bởi nó không thể biết nó là con ai. Mãi mãi không biết được sự thật ai
là cha đẻ của mình. »

Rồi ông tự riễu ông hàm hồ khi nghĩ rằng người tiều phu kia là kẻ xấu số :

« Nào biết ai xấu số hơn ai ? »

Giờ, ông hiểu vì sao ông bỗng nhiên nảy ra ý định xuống núi thăm người bị nạn. Một niềm khao khát cay
độc xen lẫn một sự tò mò bất khả cưỡng chế đã nảy sinh trong thâm tâm : Ông muốn tham dự lễ an táng người
tiều phu kia bởi ông muốn biết tường tận đám tang của một người cha. Một người cha theo đúng nghĩa.

-

********


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:35 PM
Post #3


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 2



Trà Linh Chi cũng không làm nguôi dịu lò hơi ngột ngạt trong lồng ngực ông. Chủ tịch thấy ngộp thở dù

căn phòng thênh thang và ông đã mở toang cửa sổ để làn hơi mát lạnh của núi non, cây cối ùa vào. Ở cuối

giường ông, người ta đặt một lò sưởi điện, vừa ấm vừa không có khói than. So với thời xưa, tiện nghi đã đủ

cho con người thoả mãn :

« Nếu không gọi là có đôi chút xa xỉ ... »

Ông nghĩ vậy, vì nhớ đến những gộc tre và những cành khô mà hai người đàn bà tu hành bên chùa

thường nhóm sưởi.

Trên khuôn lò sưởi điện của ông, có hình nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn nhảy nhót bên đống lửa.

Những ngọn lửa nhấp nháy còn các chú lùn nắm tay nhau quay không ngừng xung quanh cô gái tóc vàng xinh

đẹp. Chủ tịch nhìn hồi lâu những nhân vật trong câu chuyện thần tiên ấy với cặp mắt vô cảm rồi đột nhiên

đứng dậy, bước ra đầu hồi. Bây giờ, gió đã lồng lộng thổi qua các sườn non, reo hát trong các cánh rừng mà

ông đã từng thăm thú. Những cánh rừng già đan chéo các cánh rừng thông, trải khắp tầng núi cao ngay dưới

chân ngôi chùa Lan Vu rồi lan đến chân trời phía bắc. Thấp hơn nữa, trên tầng núi thứ hai là các rừng trúc. Các

loại trúc vàng, trúc vỏ chanh, trúc gai mọc chen nhau, ấy là vương quốc của khúc nhạc bất tận đêm hè. Những

rừng trúc trùm phủ các sườn non, lan đến tận các xóm tiều phu, tràn đến tận tầng núi cuối cùng, tầng núi thấp

nhất, ăn liền với các giải đồi trồng chè và các nương sắn. Kế đó, là ruộng bậc thang rồi đến cánh đồng, không

thẳng cánh cò bay như những cánh đồng vùng châu thổ mà cắt xén như những mảnh áo xanh nõn, xen với làng

mạc đồi nương, rồi trải dài xuống chân trời phía nam. Trước kia, dân chúng quanh vùng vẫn leo qua ba tầng núi

để lên lễ chùa Lan Vu, ít nhất một năm một lần vào tiết tháng giêng, khi các vườn mai quanh chùa nở rộ, hoa

trắng mênh mông như mây trắng, và khi mận dại cũng trổ đầy hoa dọc các lối mòn. Những kẻ chân lấm tay bùn

quanh năm cầy cuốc, đầu tắt mặt tối, chờ đợi cuộc hành hương mùa xuân như chờ đợi khoảnh khắc thiêng liêng

nhất trong năm, khoảnh khắc làm loé lên những ước mộng thần kín, khoảnh khắc làm nguôi dịu những buồn

đau mất mát của quãng đời đã qua và nuôi dưỡng hơi thở lẫn hy vọng cho con người đi tiếp quãng đường phía

trước. Phải chăng màu trắng trinh bạch của hoa mai, màu trắng mong manh của hoa mận, sương mù của tiết

xuân, mây trắng trên đỉnh non và những làn hơi nước trắng dập dờn từ các khe vực bay lên đã tạo nên một

cảnh tượng kì ảo, một bản giao hưởng trắng miên man và thuần khiết khiến con người cảm nhận được sức

mạnh của sự thanh lọc và tái sinh ?...

Hoặc là, tiếng chuông chùa và những bài kinh Phật là chất cam lồ huyền diệu an ủi cho kiếp nhân sinh

nhọc nhằn tăm tối ?

Dù lý do nào chăng nữa ông cũng tự cảm thấy mình là kẻ tội đồ vì từ ngày ông lên đây chính quyền đã ra

lệnh cấm dân trong vùng lễ chùa Lan Vu. Với lý do bảo vệ sự an toàn cho chủ tịch, họ đã tước đi của người

dân niềm vui ít ỏi, tước đi những giây phút thơ mộng thiêng liêng gần như duy nhất trong cuộc sống hiu quạnh

chốn này. Chùa Lan Vu trước đây có mười hai sư sãi. Chính quyền ra lệnh dồn tất cả xuống hai ngôi chùa phụ

trong đám rừng trúc. Ông phải phản đối vô cùng quyết liệt họ mới cho phép sư cụ chủ trì và một sư nữ được ở

lại. Hai người đàn bà, một già một trẻ, suốt ngày chăm bón vườn cây, dọn dẹp ngôi chùa và tụng kinh gõ mõ.

Dường như không lúc nào họ ngồi nghỉ trừ giấc ngủ đêm và hai bữa ăn chóng vánh. Một sự ngại ngần khiến

chủ tịch không bao giờ bước qua mảnh sân lát gạch lá nem cổ. Mảnh sân ấy là cõi biên thuỳ phân định vùng

đất của ông với thế giới của kẻ tu hành. Nhưng, trong bờ cõi của mình, đôi khi ông kín đáo liếc sang bên kia và

thấy hai nhà sư ngồi đối diện nhau trên hai chiếc tràng kỉ tre cũ. Giữa họ là mâm cơm đặt ngay ngắn trên chiếc

bàn cũng ghép bằng tre. Từ xa, ông cũng biết bữa ăn của họ đạm bạc đến nhường nào...

Một nỗi tò mò không vơi cạn ám ảnh chủ tịch :

« Phải chăng họ không biết đến buồn đau, sợ hãi ?

Phải chăng họ hoàn toàn xa lạ với các trạng thái tình cảm bình thường của con người ? Họ không ham

muốn, tức giận ; không yêu đương hay thù hận cũng chẳng hân hoan hay chán nản ? Họ không khắc khoải chờ

mong, cũng không vui sướng hay tuyệt vọng. Cuộc sống trôi như một dòng kênh, không thác ghềnh, không

sóng gió. Nếu quả thực cuộc sống như vậy thì sự tẻ nhạt sẽ là một gánh nặng không thể hình dung ! »

Mỗi lần nhìn gương mặt bình lặng như nước hồ trong núi của hai người đàn bà bên chùa, những câu hỏi ấy

quay lại như một điệp khúc. Như con toán nợ vì chưa tìm ra lời giải.

Thưa chủ tịch, người không nên đứng ở đầu hồi quá lâu. Ở đây cả gió.

Cậu lính béo vừa quét dọn xong hai gian phòng, đã bước tới đứng sau lưng ông. Chủ tịch đáp lời :

- Không sao đâu. Tôi đứng một lát cho thoáng.

Đoạn ông nhìn chiếc xô đầy xác phù du trong tay cậu ta, buông tiếng kêu :

- Ồ, quá nhiều bướm đêm.

- Vâng. Vì trời rất ẩm...

-



Bỗng nhiên, gió ngưng lặng. Rồi, như một sự trùng điệp ngẫu nhiên, tiếng mõ và tiếng đọc kinh cũng

ngưng lặng theo. Những cành mai không còn bị gió lắc, im lìm như bị bỏ bùa mê. Sau đó một tích tắc, nhà sư

già bước ra khỏi cửa chùa, theo sau là sư nữ. Chủ tịch lên tiếng :

- Bạch sư cụ, hôm nay ngài đọc kinh qua ngọ ?

Bao giờ gặp mặt nhà sư chủ trì, ông cũng lên tiếng chào trước. Từ hồi ông còn nhỏ tí ti, mẹ ông đã dạy

ông là phải kính trọng người cao tuổi hơn mình. Sư cụ bát tuần có lẻ, chính xác ra là hơn ông bảy tuổi. Tuy nhỏ

bé, nhưng bà cụ rắn rỏi và còn hoàn toàn minh mẫn. Sư cụ tiến lại phía chủ tịch, đáp lời :

- Thưa ngài, sớm nay bấm quẻ, biết có sự rủi ro cho dân cư trong vùng nên chúng tôi phải đọc cho đủ kinh

cứu nạn.

- Bạch sư cụ, như vậy hẳn người xấu số sẽ được cứu thoát ?

- Thưa ngài, chúng tôi không dám trả lời câu hỏi ấy. Người bị nạn có sống được hay không hoàn toàn tuỳ

thuộc vào số kiếp, nhân duyên của họ. Chúng tôi đọc kinh là để chư phật hoá giải phần nào kiếp nạn cho

khổ chủ. Nếu duyên nghiệp của họ với cõi trần còn nặng, chúng tôi cầu xin cho họ mau lành lặn để trở về

mái ấm, chia xẻ cuộc sống trần tục với vợ con. Nếu duyên nợ ba sinh đã dứt, chúng tôi cầu cho họ được

mau mắn giải thoát, lìa bỏ cõi trần mà không phải trải qua những dày vò đau đớn, để vợ con thân quyến

được cất gánh nhẹ lòng, và khổ chủ được thọ ân đức để mau chóng đầu thai sang kiếp khác.

Ông im lặng, nhưng trong lòng thầm nghĩ :

« Nếu như vậy thì cầu nguyện cũng chẳng làm gì được nhiều lắm cho thế gian. »

Dường như biết được ý nghĩ thầm kím của ông, sư cụ nói tiếp :

- Thưa chủ tịch, ngài là bậc anh hùng kinh bang tế thế, ngài là người cha vĩ đại của non sông. Là người

Việt nam, chúng tôi vô cùng kính trọng và biết ơn ngài. Nhưng ở bản diện khác, chúng tôi là những kẻ tu

hành, chúng tôi sống trong những cõi mà các ngài không sống, chúng tôi tin ở những điều các ngài

không biết cũng không tin. Thế nên, xin ngài cho phép chúng tôi được lặng im trước những câu hỏi

không thể giải đáp.

- Bạch sư cụ, xin ngài chớ phiền lòng. Tôi chẳng có thắc mắc gì đáng kể, chỉ có điều là tôi tha thiết được

hiểu thấu đáo kinh nhà Phật.

- Thưa ngài, ngài sẽ ngộ nếu ngài có nhân duyên.

- Nhưng nếu tôi...

Ông buột miệng buông ra một câu hỏi mà ông không kịp đắn đo cũng chẳng thể ghìm giữ :

- Nhưng nếu tôi không có nhân duyên ?

Nhà sư già điềm nhiên mỉm cười, không chút mếch lòng trước câu hỏi giống như sự khiêu khích :

- Thưa ngài, nếu không có nhân duyên ngài sẽ chẳng bao giờ ngộ, cho dù ngài đọc thiên kinh vạn quyển,

hoặc cho dù cả ngàn lần ngài ngồi nghe các cao tăng thuyết pháp.

Nói rồi, bà cụ giơ tay chỉ xuống thung lũng phía tây, nơi có một giải núi chạy thẳng góc với hướng nhìn

của họ :

- Ngài hãy nhìn dãy núi trước mắt chúng ta biggrin.gifân trong vùng gọi nó là dãy núi Kiếm vì hình dạng của nó

giống hệt lưỡi gươm. Bây giờ ngài hãy chú ý đến những con đường mòn chạy dọc theo sườn núi . Hai

con đường chạy dọc theo hai sườn núi đối diện sẽ không bao giờ gặp nhau. Điều này cũng giống như

những ngả đường khác nhau của con người trần thế. Nếu không có nhân duyên, người ta sẽ mãi mãi đi

theo con đường của một bên sườn núi mà thôi.

Dứt lời, bà cụ lùi lại một bước, cúi đầu chào :

- Mô Phật, chúng tăng không dám quấy quả ngài.

Sư nữ đứng sau, luôn luôn đứng sau, cúi đầu chào theo. Rồi cả hai quay về chùa bên kia sân.

Chủ tịch nhìn theo họ một cách không chủ định. Hai người đàn bà ăn vận nâu xồng. Không xinh đẹp

cũng không duyên dáng. Nói một cách công bằng, thời son trẻ ắt họ cũng là những cô gái bắt mắt ưa nhìn,

nhưng chắc chắn chẳng ai dám coi họ là các mỹ nhân. Nếu với đa số, sắc đẹp là sức mạnh, hẳn họ không thể tự

tin ở quyền năng của mình. Sự thông tuệ, một thứ quyền năng nữa, họ cũng không vượt qua nhiều người khác.

Nhưng có một thứ sức mạnh nào đó tồn tại vững bền trong họ khiến họ không mảy may run sợ trước quyền uy

thế tục. Bởi ông biết rõ có rất nhiều người uyên bác, được đào tạo kĩ lưỡng ở nước ngoài, có năng lực thật sự và

được coi như bộ não của các ngành khoa học nhưng sẵn sàng làm tất thảy những điều nhảm nhí mà không mảy

may hổ thẹn. Quyền lực thế tục bẻ gẫy lương tâm cũng như lòng tự trọng của con người. Dưới chỉ thị của

đảng, các tiến sĩ dễ dàng chứng minh rằng lợn ăn phân trâu tốt hơn ăn cám, rằng rau muống có lợi cho sức khoẻ

hơn thịt bò, rằng trẻ em không nên ăn quá hai lạng thịt trong một tháng để tránh nguy cơ nhiễm bệnh....Những

bài viết của họ khiến ông đỏ mặt nhưng ông không thể can ngăn. Một khi guồng máy đã quay....Vả chăng, cái

guồng máy này mang dấu ấn của chính bàn tay ông.

Ông lại thở dài, một thói quen mới nhiễm mấy năm gần đây. Đã nhiều lần ông chú tâm loại bỏ nhưng

không thành công.

Cậu lính trẻ tiến đến trước mặt ông, rập gót chào :

Báo cáo chủ tịch, con xin phép xuống núi.

Ông hỏi :

- Ồ, đã tời giờ đổi gác rồi sao ?

- Dạ, còn kém ba phút mười giây. Nhưng tốp thay ca đã lên.

Cậu lính đáp, giơ chiếc đồng hồ đeo tay lên xem giờ một cách chăm chú và hãnh diện. Chắc chắn đó là

món đồ đáng giá nhất trong gia tài của cậu, món đồ được nhà nước cấp phát với lý do phụ tùng nghề nghiệp.

- Ồ, đã năm giờ.

Ông nói, như nói với chính mình và đưa mắt nhìn ra ngoài tam quan : Hai người lính gác ca đêm đã lên

thay chàng lính béo. Tiếng chân họ đạp lạo xạo trên đá sỏi. Vì gió lặng, những tiếng động đó vang lên trong cô

tịch của núi non. Họ cùng tiến đến một lần, đứng nghiêm chào trước mặt ông. Chủ tịch phác một cử chỉ nhẹ

nhàng quen thuộc của nghi lễ, cho phép họ được thi hành phận sự một cách an nhiên. Trong lúc đó, cậu lính

béo rời sân chùa, rẽ xuống lối mòn. Vì thân hình nặng nề, tiếng chân bước của cậu ta còn khua động ầm ĩ hơn

cả hai đồng nghiệp. Ông nghe rõ tiếng những hòn đá nhỏ bắn khỏi lề đường, lăn lông lốc, va đập trên sườn núi.

Chủ tịch quay vào nhà vừa đúng lúc tổ cấp dưỡng đang sắp đặt bữa cơm tối. Vì không tiện nấu nướng

trong gian bếp sơ sài của nhà chùa, người ta chuẩn bị các bữa ăn cho ông trong cùng một bếp với nhà ăn trung

táo của đại đội cận vệ rồi cử người mang lên . Bác sĩ cũng ăn tại đó, để kiểm tra định lượng và chất lượng bữa

ăn của ông. Rồi buổi tối, anh ta sẽ ngủ trong một gian thuộc ba gian chùa bên tả. Khi chủ tịch bước vào phòng

cũng là lúc bếp trưởng tiến ra :

-

- Mời chủ tịch dùng bữa cho nóng.

Ông nhìn bữa ăn sắp sẵn trên bàn, bảo anh ta :

- Chú vất vả suốt ngày, còn leo lên đây làm gì cho mệt ? Cứ để anh em mang cơm cho tôi là đủ.

- Thưa chủ tịch, tôi muốn trực tiếp xem người ăn có được ngon miệng hay không ....Nếu có vấn đề, tôi

cần phải thay đổi thực đơn cho thoả đáng.

- Chú biết rõ tôi chẳng phải người quá kén chọn món ăn.

- Dạ, tôi biết rõ là người chẳng muốn làm phiền bất cứ ai. Nhưng sức khoẻ của người là tài sản quốc gia.

Chúng tôi được hân hạnh khi phục vụ và bảo vệ người.

Ông im lặng ngồi vào bàn, không thể nói gì thêm. Người lính phụ bếp đặt chiếc lò điện ủ cơm cho ông

lên mặt bàn rồi cùng bếp trưởng lui ra. Tuy nhiên, ông biết rõ họ kín đáo theo rõi ông từ ngoài cửa. Vì họ tôn

kính ông một cách thành thực, lo lắng cho sức khoẻ của ông một cách thành thực nên ông buộc phải làm như ăn

một cách ngon lành dù thực tình, chẳng cảm nhận được mảy may mùi vị những thứ ông đang nhai và đang

nuốt. Rồi ông tiếp tục chờ họ thu dọn bàn ăn, buông vài tiếng trầm trồ trước bát chè long nhãn tráng miệng,

sau đó chờ tiếp những lời chào cung kính của họ trước khi họ quay xuống khu vực đóng quân. Ngồi lại một

mình, ông lắng nghe tiếng chân của tốp người vang lên trong đêm, xen lẫn tiếng cười đùa. Tắt bớt một ngọn

đèn, ông lặng lẽ nhìn qua khoảng trống nơi khuôn cửa. Trong khung trời tối đen, những cành cây đột nhiên

mang dáng hình kì lạ. Ánh điện rọi lên các tầng lá muôn ngàn con mắt kì bí, và mỗi cơn gió lắc, những con

mắt ấy nhấp nháy một tia nhìn, khi cười cợt, khi nham hiểm.

Lúc này, con tim ông đã ngừng cơn khắc khoải. Những làn hơi nóng trong lồng ngực cũng đã tiêu tan.

Chỉ còn lại một sự trống rỗng rợn hồn. Trái tim ông giờ giống như ngôi nhà hoang, nơi gió tung hoành ghẹo

cợt, xua đuổi những bóng ma cư ngụ. Trái tim ông giờ là đảo vắng, nơi bầy chim di trú đã rời xa, chỉ còn lại

đám lông xơ xác trên bãi cỏ.

Ông ngồi đờ đẫn hồi lâu, không còn biết mình nghĩ gì. Nhưng đột nhiên, những cơn rùng mình ớn lạnh

chạy ngang qua da thịt. Toàn thân ông dựng gai ốc. Có tiếng ai đó kêu ú ớ ngay sau lưng ông. Chủ tịch quay

lại. Tiếng ú ớ vang lên không ngừng. Nhưng khi ông quay sang bên phải, tiếng kêu ấy thoát ra từ bức tường

bên trái, và khi ông quay sang trái, tiếng kêu lại đổi chiều, tựa hồ trò chơi trốn tìm của trẻ nhỏ. Ông đứng lên

quay nhìn bốn phía nhưng không thấy gì khác lạ ngoài bộ tứ bình sơn mài : « Xuân, hạ, thu, đông ». Lúc ấy,

tiếng kêu ú ở lại phát ra ngay trên đỉnh đầu ông, lửng lơ, đứt nối, chập chờn....

« Phải chăng đó là tiếng kêu của chính ta, tiếng gào thét câm lặng của chính ta ở bên kia chân trời, hay

tiếng kêu tận số của nàng, người yêu dấu ? »

Ông tự hỏi.

Nhưng không muốn tìm lời giải đáp.

Tiếng kêu đau đớn thật sự của nàng hay tiếng thét gào câm nín của chính ông, đâu có gì quan trọng ? Đã

từ lâu, từ rất lâu, ông có thói quen dìm nén những ý nghĩ của ông trong câm lặng. Những ý tưởng của ông

giống như những con tầu bị đánh chìm, chồng chất dưới đáy đại dương, vùi lấp giữa bùn nơi rong rêu và các

loài san hô ngự trị. Đã từ lâu, ngôn từ của ông bị tàn sát như những đoàn thuỷ thủ xấu số bị bọn cướp biển chặt

đầu, ném xác, thân chôn dưới đáy biển ; và những con sóng miệt mài như những nấm mồ di động, gào thét

không ngưng nghỉ, rì rào không ngưng nghỉ để mãi mãi các thây ma yên vị trong lòng biển tối.

Biển lặng câm.

Cũng đã từ lâu, ông có thói quen nhìn vào những ý nghĩ của chính ông như một kẻ đứng ngoài hành lang

dòm vào căn phòng hàng xóm qua lỗ khoá với nỗi tò mò và hổ thẹn vì chính nỗi tò mò ấy. Trong ghẻ lạnh và



thù ghét, những ý nghĩ của ông tự chui lủi như những con chim giẽ run trên cánh đồng, nơi tiếng reo hò săn

đuổi của con người khiến chúng khiếp sợ phải chúi xuống dưới luống cày hoặc trong các bụi gai. Trong đàn áp

và dồn nén, những ý nghĩ của ông lặn chìm như các loài rầy bọ ở đầm lầy. Và cùng năm tháng, những ý nghĩ

ấy suy tàn tựa những đứa bé sơ sinh bị nhốt trong lồng kính không còn đủ ô-xy , từ từ lịm chết.

Vậy mà giờ đây, sự bất ổn đang xảy ra.

Có điều gì đó tựa hồ như động đất, hoặc những dấu hiệu báo trước của một cơn sóng thần,hoặc một trận

phun lửa cuồng điên của những hoả diệm sơn tưởng chừng đã tắt. Ông thấy rõ những ý nghĩ đã xa xôi, đã lụi

tàn, như muôn ngàn mảnh rách tả tơi của một tấm áo bỗng nhiên dồn tụ lại, giằng nối, chắp vá nhau, tìm lại

dáng hình đã mất. Những đứa trẻ sơ sinh tưởng đã chết bỗng nhiên mở mắt khóc oe oe trong lồng kính. Những

năm tháng xưa bỗng cuồn cuộn trở về. Phép màu của các đấng linh thiêng hay bùa chú của loài phù thuỷ ?

Ông không biết. Ông không thể biết. Nhưng biển lặng câm đã nổi sóng. Ông hiểu rằng người xưa đã

quay về....

Có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ thoạt đầu rời rạc nhưng sau đó dồn dập hơn. Ông giật mình vì nhớ rằng đã đến

giờ làm việc của bác sĩ. Anh ta sẽ thăm mạch cho ông trước khi lui sang căn buồng bên ngôi chùa đối diện.

- Hôm nay, tôi muốn đi ngủ sớm.

Ông cất tiếng trước khi bác sĩ xuất hiện trên khuôn cửa :

- Chú cứ ngủ cho ngon giấc, nếu cần tôi sẽ gọi điện. Điện thoại bên phòng chú chạy tốt rồi chứ ?

- Dạ, thợ đã sửa hoàn chỉnh. Bây giờ chuông đổ ròn rã....Nhưng dù sao, xin chủ tịch cứ cho phép tôi được

kiểm tra ...

- Không cần, chú vừa kiểm tra rất kĩ tối qua. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ không thể đốn ngã một mạng

người. Đi ngủ đi, và tôi báo trước rằng tôi sẽ hút một hoặc hai điếu thuốc.

- Thưa....

- Đã ba tuần liền tôi không động tới hộp thuốc. Nhưng tối nay, tôi sẽ hút. Thi thoảng người ta cũng nên

nhân nhượng thói quen.

- Thưa chủ tịch, nhưng ...

Bác sĩ ngần ngừ. Dường như anh ta muốn nói điều gì đó nhưng lại thôi. Có lẽ anh ta định nói rằng thuốc

lá giờ đây là kẻ thù của ông ; rằng ông cần đoạn tuyệt càng sớm càng tốt với kẻ đồng hành độc ác này, rằng

nhiệm vụ của anh ta là phải ngăn chặn lại những cơn thèm muốn tái phát....Những bài bản thuộc như cháo chảy

cho cả người nói lẫn người nghe. Vào phút đó, anh ta cảm thấy những lời lẽ của mình sẽ hoàn toàn vô dụng đối

với chủ tịch...Sau vài phút ngần ngừ, bác sĩ cúi đầu chào :

- Thưa chủ tịch, chúc người ngủ ngon.

- Tôi cũng chúc chú ngủ ngon.

Bác sĩ biến mất trong bóng tối.

Vài phút sau, ánh đèn bật sáng trong căn phòng bên kia sân chùa. Và một giọng nam trung cất lên :

« Người yêu dấu,

Biết bao giờ lại trông thấy nhau ? »

Chủ tịch nghiêng đầu lắng nghe. Đã lâu lắm, người đàn ông này mới lại hát khúc ca tình ái. Bác sĩ vốn

thích hát nhưng có lẽ vì ngại ngùng khi sống sát bên ông nên anh ta thường chỉ hát hành khúc hoặc dân ca. Phải

chăng vì hôm nay ông tự cho phép ông hút thuốc nên anh ta cũng tự cho phép mình hát tình ca ?

« Người yêu dấu,

Giờ đây em ở phương nào ? »

Lời nối lời, những âm thanh nhẹ nhàng bay lên như những cánh diều óng ánh chao lượn trong khung trời

mùa hạ. Mùa hạ xa vời....Mùa hạ ấy gió Lào thổi qua những giải núi phía tây, lồng lộn hú gào trên những cánh

đồng khô nẻ, nơi đất nứt toác thành những kẽ khổng lồ ngoằn ngoèo như những đường vân tay của một sơn

thần có số phận gian truân. Lũ chim khát nước thôi ca hát nhưng bù lại, muôn cánh diều lũ lượt bay lên. Những

cánh diều trắng màu cỏ lau, những cánh diều xanh màu lá, những cánh diều vàng màu vàng của lũ bướm

xuân...Những cánh diều ấy chen chúc nhau múa lượn giữa khung trời, như những giấc mơ đan xen, như những

ngọn lửa tinh thần bùng cháy vào khoảnh khắc cuối cùng của một đấng mày râu ngã xuống nơi trận tuyến.

« Người yêu dấu... »

Giọng hát mượt mà dẫn ông về một mùa hè khác, nơi mát rượi bóng cây, nơi âm u tiếng suối. Và những

hoàng hôn chiến khu rọi lên song cửa ngôi nhà sàn....

« Giờ đây em ở phương nao,

Tình ta cách xa, nhưng lòng ta không nguôi nhớ .... »

Đêm tĩnh lặng vì gió không còn thổi nữa. Không có trăng. Cũng không một ngôi sao. Chỉ một màu đen

thần bí. Núi non, khe suối, rừng cây, vườn tược, những làng tiều phu dưới kia và cả những cánh đồng xa hơn

nữa đều chìm trong im lặng của đêm dày. Một không gian đen mênh mông nín thở. Trong không gian ngưng

đọng ấy, mỗi lời ca ngân lên như cả một dàn chuông.



Chủ tịch châm một điếu thuốc để có thể nghe rõ hơn khúc hát :

« Người yêu dấu....

Biết bao giờ lại trông thấy nhau.... »

Bây giờ, ông nghe tiếng nức nở ngay sau gáy mình. Tiếng nức nở quen thuộc ấy khiến ông ngồi chết

cứng. Ông không dám quay lưng lại. Ông rít liền ba hơi thuốc thật sâu vì tin rằng thuốc lá làm tỉnh táo và sự

tỉnh táo ấy sẽ xua đuổi những ảo mộng hay huyễn ảnh. Nhưng ông nhầm. Tiếng nức nở không biến mất mà

vang lên rõ rệt bên tai ông đến mức ông nghe cả hơi thở hổn hển kèm theo. Một gương mặt đầm đìa nước mắt

áp sát vào má ông. Lệ đầm đìa, những giọt lệ lạnh buốt. Ông châm điếu thuốc thứ hai, rồi thứ ba, nhả khói liên

hồi, nhưng má ông vẫn buốt lạnh vì nước mắt.

« Người yêu dấu ơi... »

Tiếng hát vẫn vang lên. Ồ, chẳng còn là tiếng hát mà là tiếng gọi của chính ông. Nhưng ông không dám

cất thành lời nên chúng mãi mãi chỉ là những tiếng gọi câm nín :

― Xin em hãy tha thứ cho tôi....Xin em...‖

Mắt ông cay xè. Thoáng mơ hồ, một chút hơi nóng lướt qua bờ mi. Những vòng khói chập chờn bay toả.

Khói cuộn như mây lúc hoàng hôn giông gió. Khói nhạt nhoà như sương mù lan toả trên đầm nước mùa xuân.

Cuộc đời ông phải chăng cũng chỉ là những vùng khói sương hư ảo, những ba động của mây trôi, gió cuốn ?

Quyền năng của ông phải chăng cũng chỉ là thứ bùa phép phù du của ánh đèn trong rạp hát tuồng ?

― Xin em hãy tha thứ cho tôi.‖

Ông cúi đầu lẩm nhẩm mà không biết rằng bác sĩ đã đứng trong khuôn cửa:

- Thưa chủ tịch....

Ông ngước lên và phải qua một tích tắc mới kịp định thần :

- Sao chú không hát nữa ?...Tôi rất thích nghe chú hát. Chú có một giọng nam trung tuyệt vời. Lẽ ra chú có

thể trở thành ca sĩ chuyên nghiệp.

- Thưa chủ tịch, người quá khen.

- Tôi không làm ngoại giao với chú.

- Cảm ơn chủ tịch.

- Tại sao chú quay lại đây ?

- Thưa chủ tịch, cận vệ báo rằng người không chỉ hút một hai điếu mà hút rất nhiều...Như thế, vô cùng

nguy hiểm cho sức khoẻ....

Ông cúi xuống nhìn bao thuốc trên bàn và nhận ra rằng ông đã hút quá nửa. Khói còn ngưng mù mịt trong

phòng. Bác sĩ dán mắt vào mặt ông. Có lẽ anh ta đang thăm dò những ngấn nước mắt. Chủ tịch rút khăn tay lau

mặt, hắng giọng :

- Quả là tôi cũng có hút hơi nhiều. Khói cay xè cả mắt.

- Thưa chủ tịch...

- Không sao cả. Tôi tắt thuốc ngay đây.

Ông di điếu thuốc đang hút dở vào gạt tàn, ngay trước mắt bác sĩ. Đoạn đứng lên, ông vươn vai, giơ tay

che miệng ngáp vờ :

- Giờ, tôi phải tập khí công mới hòng ngủ được.


*****************


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:37 PM
Post #4


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 3



Vũ trở lại nhà vào đúng ngọ.

Ông những chỉ muốn nhúng đầu vào chậu nước cho đỡ nóng rồi lăn ra ngủ. Trời lạnh, nhưng máu căm

hờn sôi sùng sục khiến mặt ông nóng như bị lửa rang. Dù uống hết hai ấm chè, lại thêm tách cà-phê buổi sáng

nhưng ông hoàn toàn không thấy đói. Ông chăm chăm nghĩ đến chiếc giường kê ở góc phòng, sau tấm ri-đô

hoa xanh nhạt. Chỉ vài phút nữa thông, ông sẽ được lăn xuống đó, nhắm mắt lại để không phải nhìn thấy ai, để

không phải nghe ai nói, để những sợi dây căng tột độ trong óc não có cơ chùng xuống. Chính lúc ấy, ông chợt

nhận ra rằng ông đã gắn bó biết bao với căn phòng của mình. Chiếc giường kiểu cổ và tấm màn hoa cũ. Rất

nhiều lần vợ ông muốn thay tấm ri-đô đã phai màu và trơ lõi vải ấy bằng một tấm rèm đăng-ten sang trọng

nhưng ông nhất quyết phản đối. Có lẽ, phàm là người ai cũng có những sở thích riêng đôi khi lạ lùng, kì quặc

thậm chí là phi lý. Trong ngôi nhà thênh thang của ông, mọi vật đều đã đổi thay. Từ màu vôi quét tường đến

bàn ghế giường tủ, từ áo quần đồ ăn thức đựng tới các chậu cảnh, tranh ảnh trên tường, giá mắc quần áo, hộp

bày huân chương....Duy chỉ tấm ri-đô cũ còn tồn tại, tồn tại một cách lạc lõng trong khung cảnh mới. Đấy là

một tấm màn bằng vải thô, loại rẻ tiền, năm tháng đã mài các sợi vải đến tận lõi và màu phai đến mức những

bông hoa li ti kiểu hoa cỏ dại chỉ còn là những chấm xanh mu mơ chen chúc nhau. Nhưng Vũ thích tấm màn

ấy. Sự hiện diện của nó giống như niềm an ủi. Màu xanh phai tàn của nó đem lại cho ông cảm giác bình an.

Ông không thể giải thích với vợ, ông chỉ nói vắn tắt rằng :

- Tấm màn này xấu thật nhưng nó được treo vào ngày kỉ niệm lần thứ ba cuộc hôn nhân của chúng ta. Em

không nhớ rằng chú liên lạc mang tấm màn này lên chiến khu đã hy sinh trong mùa đông năm ấy, trên

đường quay về Hà nội lấy tin ?

- Em nhớ. Nhưng đồ vật nào cũng chỉ tồn tại một thời gian. Người ta vẫn bảo : Một đời ta muôn vạn đời

vật.

- Nếu đồ vật đem lại sự thoải mái cho người dùng thì nó nên được tồn tại. Chúng ta không nhất thiết phải

chạy theo thiên hạ. Đừng quan tâm thái quá đến đồ đạc. Bởi em được học hành, không phải con mẹ Tư.

- Anh ví em với con mẹ Tư hàng cá hay sao ?

Vợ ông kêu lên phẫn nộ. Và ông, chỉ chờ có thế để nói lời cuối cùng :

- Anh không ví em với hạng người ấy. Nhưng đừng quên rằng chỉ hạng người như thế mới quá chăm chú

đến đồ vật. Họ không biết làm gì ngoài cách khoe giầu.

Vợ ông im lặng, mặt đỏ nhừ. Từ đó, bà để cho ông yên thân. Có thể vì tự ái nhiều hơn là thấu hiểu giá trị

kỉ niệm của đồ vật. Nhưng dẫu sao, ông cũng đã thắng cuộc: tấm ri-đô cũ vẫn còn nguyên đó. Với ông, nó

không chỉ đơn thuần là kỉ niệm mà gần giống như thứ bùa bảo mạng. Nó đem lại cho ông sự bình tĩnh vào

những phút nguy nan. Nó trả lại ông sự sáng suốt cần thiết khi rối trí. Nó làm êm dịu tâm hồn. Mỗi khi buồn

nản, đau đớn, ông thường khoá chặt cửa phòng, nằm lăn xuống giường, kéo tấm ri-đô đến giáp tường để che đi

tất thảy mọi đồ vật khác, để chỉ còn lại trước mắt một xanh êm dịu. Nó là thứ màu phai nhạt, nhưng đó là màu

của thời trai trẻ. Nó là tiếng vọng của những năm tháng đã qua, nhưng những hồi âm ấy chứa đựng một sức

mạnh có thể làm tươi trẻ tâm hồn mòn mỏi của ông. Nó là dấu vết của một mùa đã khép lại. Là dấu vết, nhưng

nó đủ sức khơi gợi muôn ngàn lối mòn trong khu rừng cũ. Như thế, nó khiến ông tìm lại bóng dáng của chính

mình, hình dung lại sức mạnh ông từng có, sự can đảm và những chiến thắng ông từng tự hào, những hạnh

phúc lẫn gian nguy ông từng nếm trải.

Nhiều năm, Vũ tìm thấy một liên tưởng vô cùng sít sao giữa tấm màn xanh này với bài hát ― tủ„thời ông

còn là học sinh trung học. Bài ca :

― Trở lại mái nhà xưa „

Bài hát Ý được nhập khẩu từ các trường Tây lan sang các trường phổ thông bình dân khác, trở thành nỗi

đam mê của các chàng trai các trai cô gái thời áo trắng học trò. Bài ca ấy chỉ cho ông một cách mơ hồ rằng con

người cần phải thả neo ở một bến bờ nào đấy, nơi họ có thể băng rịt những vết thương, làm lên da non trên

những vết loét và chờ đợi các vết sẹo lành....Nơi ấy, họ có thể tìm lại được nguồn sống. Nơi ấy, họ có thể tái

sinh. Nơi ấy, gọi là mái nhà xưa....

Đối với ông, mái nhà xưa giờ đây chỉ còn là vẻn vẹn vài thước vải bạc màu. Ông không còn gì ngoài màu

xanh phai nhạt ấy. Ông tự nhủ :

― Vài phút nữa, ta sẽ lăn xuống giường, trong cái góc thân quen ấy. Tấm màn xanh sẽ che chở ta, và ta sẽ

tìm được lối thoát.„

Chiếc Volga phanh kít lại khiến ông giật mình :

- Thưa thủ trưởng, đã tới nhà.

- Cảm ơn.

- Ngày mai, em đón thủ trưởng lúc mấy giờ thì tiện ạ ?



Mai, tôi phải đi sớm hơn thường lệ. Có lẽ khoảng sáu giờ mười lăm là hợp lý.

Thủ trưởng ăn sáng tại nhà ?

Chính xác. Tôi sẽ ăn sáng tại nhà cho tiện.

Ông xuống xe, đi như chạy vào nhà, hối hả trèo lên gác, hối hả trút bỏ quần áo ngoài để khoác bộ pi-ja-

ma lên mình rồi lăn xuống giường với động tác của một con bệnh lên cơn động kinh nằm vật xuống bất kì vỉa

hè hay bờ bụi nào đó. Cảm giác quen thuộc, màu xanh êm dịu khiến ông lấy lại được nhịp thở bình thường. Vũ

nhắm mắt, chờ đợi sự thư thái quay trở lại tâm hồn như gã nông phu chờ nghe tiếng mưa rơi trong mùa hạn

hán. Những sợi dây căng thẳng trong đầu ông bắt đầu chùng xuống. Nhưng niềm hạnh phúc ấy kéo dài không

lâu. Dưới nhà, có tiếng quăng ném bát đĩa, tiếng xô đẩy bàn ghế và sau đó, tiếng thét của Vân, vợ ông :

- Làm sao thế ?

- .....

- Tôi hỏi : Anh nào làm vỡ đĩa thịt luộc của tôi ?

- Thằng Trung.

- Ném hết thức ăn thì trong vòng ba hôm cứ việc bốc muối....Ai cho phép anh tác oai tác quái trong nhà

này ?

- ......

- Tôi hỏi, ai cho phép anh được quyền phá phách dưới mái nhà tôi ?

Giọng Vân rít lên, giống tiếng dao cạo nứa. Chưa bao giờ ông nghe thấy giọng người đàn bà của mình

ghê rợn như hôm nay:

― Sao giọng cô ấy bỗng nhiên đổi thay lạ lùng như vậy ?‖

- Trả lời tôi, anh Trung ?

Ông nghe tiếng đứa bé nấc lên rất to. Và tiếng nấc ấy bị ghìm nén trở thành tiếng ngạt mũi. Ông đành

chống tay ngồi dậy. Dưới nhà, vợ ông lại tiếp tục hét lên :

- Anh có nghe tôi nói hay không ? Trả lời tôi, anh Trung ?

Tới đây, thằng bé oà khóc. Không còn là tiếng nấc ngạt mà là tiếng khóc ồ ồ của đứa con trai đang thời

vỡ giọng. Vũ mở cửa phòng, xuống tầng dưới. Trong phòng ăn, vợ ông đang đứng chống nạnh tay, cái tư thế

mà ông khinh ghét nhất nơi người đàn bà. Cái tư thế mà ông cho là xấu xí nhất, cả về phương diện thẩm mỹ lẫn

đạo đức. Trong cái tư thế ấy, dù là hoa hậu cũng chẳng thể gợi được thiện cảm nơi người đàn ông, trước hết là

những người đàn ông được giáo dục tử tế. Đã từ lâu, vợ ông không bao giờ dám tự thể hiện trong tư thế này,

cái tư thế mà ông thường gọi một cách khinh bỉ là ― Kiểu cách con mẹ Tư hàng cá „. Đã từ lâu, vợ ông hiểu

rằng bản tính ông thầm lặng, nhún nhường, nhưng một khi, ông đã căm ghét hay giận dữ thì đó sẽ là thảm hoạ

cho gia đình vì sự đổ vỡ sẽ không tránh khỏi. Đã từ lâu, bà thuộc lòng những điều bất khả xâm phạm mà ông đã

đề ra một cách chính thức, biết rằng đó chính là bãi mìn sát thương khủng khiếp nhất nếu bà sa chân bước vào...

Vậy mà hôm nay, không hiểu thần điên loạn đã bước chân vào nhà hoặc là chứng lú lẫn đến sớm đã

khiến bà hoàn toàn đánh mất trí nhớ ?

Ông đến đứng ngay bên cạnh vợ, cất tiếng :

- Có chuyện gì vậy ?

Lúc ấy, Vân mới giật mình quay lại. Bà giơ tay chỉ xuống góc nhà :

- Anh hãy nhìn kia kìa....Thằng Trung đã chán thịt nên ném cả đĩa xuống sàn. Còn thằng Vinh chưa được

miếng nào....Từ hôm nay đến tuần sau, tôi cho chúng nó ăn cơm với muối.

- Thôi được.

Ông nói nhẹ nhàng, rồi hạ từng lời, kiểu như học trò vỡ lòng đánh vần từng chữ :

- Trong vòng ba năm, tôi sẽ không đụng đũa tới một miếng thịt trên mâm. Như vậy, sẽ chẳng một ai phải

thiệt miếng....Và như thế, em hài lòng chưa ?

- A....

Vợ ông buông xuôi tay, nhìn nụ cười trên môi ông. Mặt bà đang đỏ gay bỗng ngả sang tím chàm rồi trắng

bệch. Sống với ông hơn ba mươi năm bà biết rõ : Những nụ cười nhợt nhạt như vậy ông chỉ dành cho kẻ thù.

Bà lùi lại, há miệng định nói điều gì đó nhưng không cất thành lời. Đột nhiên, bà quay phắt đi trong một vẻ

đanh đá cong cớn bất thường. Rời khỏi phòng ăn bà bước thẳng ra sân, nơi những chậu cây Bút ngọc đang chờ

tỉa lá.

Vũ đứng lại, hỏi đứa con trai :

- Có chuyện gì xảy ra giữa các con ?

- Không....Không có gì xảy ra cả ...

Vinh, đứa con trai của ông đáp lúng búng. Rồi nó chạy vụt khỏi phòng ăn ra sân. Chẳng cần nhìn theo,

Vũ cũng hiểu rằng nó đi tìm mẹ. Đó là thành trì duy nhất của nó trong ngôi nhà này, nơi nó có thể an nhiên ẩn

nấp để trốn tránh mọi thứ tội lỗi. Chờ cho Vinh đi khuất hẳn, ông cúi xuống hỏi Trung :

- Nó làm gì con ?

Đứa con trai nuôi oà lên trong cơn nức nở. Hẳn nó đã cố ghìm nén tiếng khóc, nhưng lúc này, con lũ đã

vượt tràn qua đê, và nó khóc ngằn ngặt, khóc ngôi ngả như một đứa bé lên ba, với cái giọng vỡ rè của tuổi dậy

thì. Vũ chờ cho nó khóc hết cơn, kéo đứa bé vào lòng :


Con với Vinh cùng tuổi nhưng con hơn em mười tháng. Người xưa có câu : Trước một ngày cũng được

gọi là anh. Con phải xử sự như một người anh chứ ?

- Vâng. Con vẫn nhớ lời ba. Nhưng hôm nay em Vinh chửi con.

- Nó chửi thế nào ?

- Em bảo con là đồ con hoang, là kẻ ăn chực.

- Bỗng nhiên nó nói thế sao ?

- Chúng con ngồi ăn cơm bởi mẹ nói rằng còn lâu ba mới về. Thoạt tiên, không có chuyện gì. Nhưng khi

con định gắp thịt, em liền chặn đũa lại và quát : Mày là kẻ ăn chực, thứ con hoang. Phận của mày chỉ

được phép ăn rau ăn lạc, không được phép ăn thịt ăn cá. Cho mày ngồi ăn cơm chung đã là vinh dự rồi.

Vũ lặng đi. Mặt ông lạnh toát và con tim ông cũng lạnh toát. Ông có cảm giác như nó ngừng đập trong

khoảnh khắc. Một ý nghĩ chạy ngang qua óc não, buốt rát như kẻ nào đó cầm miếng sắt nung đỏ, di ngang qua

da thịt da ông :

― Nó không thể tự nghĩ ra những điều này. Nó là một kẻ phàm phu nhưng ngu ngốc. Những lời lẽ độc ác

này hẳn là tự mẹ nó truyền sang. Người đàn bà của ta ? Cớ sao cô ta hạ cấp đến như vậy ?„

Hồi lâu, ông cố trấn tĩnh và cất lời :

- Con chẳng nên chấp Vinh. Nó chỉ là thứ người tham ăn và chuyên nói láo. Con mới chính là con của ta.

Mẹ con không tên là Vân nhưng máu chảy trong huyết mạch con chính là máu của ta. Da thịt trên thân

xác con chính là da thịt của ta. Nếu mẹ Vân và em Vinh không chấp nhận con, ta sẽ rời xa họ và sống

riêng với con. Chỉ riêng con thôi. Con có hiểu không ?

- A...

Thằng bé há miệng và cặp mắt nó cũng trố ra, nhìn ông. Trong trạng thái sửng sốt tận cùng của nó, ông

đọc thấy cùng một lần sự hồ nghi lẫn nỗi sợ hãi khi đối diện với một hạnh phúc quá lớn. Ông hiểu rằng những

lời ông vừa nói đã vượt qua mọi sự mong đợi của đứa bé, và đấy chính là giấc mơ tận cùng của mọi giấc mơ :

- Con chính là con đẻ của ta. Con đã hiểu điều đó hay chưa ?

Vũ lặp lại.

Trung vẫn đứng sững sờ. Mặt nó tái xanh và cặp môi nó ngả sang trắng nhợt. Ông nhìn thấy rõ những

cơn sóng xúc động nối nhau chạy ngang đôi mắt đẹp của nó. Nỗi chua xót dâng trong lòng ông :

« Chao ôi...Nó mơ tưởng một người cha ! Có một người cha thật sự là hiện thực tầm thường với muôn

triệu đứa bé khác nhưng lại là giấc mơ tột đỉnh hoặc một huyễn tưởng đối với chính nó. Tội nghiệp thay cậu

hoàng tử mồ côi này. »

Ông nhìn sâu vào cặp mắt nâu trong suốt của nó, mắt loài bồ câu. Vẻ đẹp lộng lẫy nhưng đầy nữ tính.

Phải chăng vì vẻ đẹp trớ trêu này mà nó phải cam chịu một số phận gian truân ?...Ý nghĩ mơ hồ ấy lướt qua như

hơi gió thoảng. Vũ nắm chặt bàn tay đứa con nuôi và láy lại từng lời :

- Con chính là con đẻ của ta. Bấy lâu ta không muốn tuyên bố vì e ngại nhiều điều. Nhưng giờ đây, ta cần

phải cho con biết sự thật. Bởi con cũng đã đến tuổi khôn lớn.

- Ba. !...

Thằng bé ôm chầm lấy ông, sự sung sướng đột ngột làm vỡ oà tiếng khóc. Nó gục đầu vào ngực ông.

Nước mắt ngập tràn gương mặt, đầm đìa như dòng lũ. Vũ im lặng ghì xiết lấy đứa bé. Cùng một lần, nỗi dịu

dàng lẫn sự chua chát trào lên làm tắc nghẹn họng ông.


******


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:38 PM
Post #5


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 4



Đồng hồ treo tường thong thả điểm mười hai tiếng, Vũ vẫn ngồi đọc sách, điềm nhiên như không có sự gì

xảy ra. Vợ ông bước đến sau lưng ông, giơ tay gấp cuốn sách lại :

- Anh đi ngủ đi, muộn rồi.

Vũ mở lại đúng trang cũ, đáp :

- Em cứ ngủ trước. Anh cần đọc.

- Em xin lỗi....

- Em không có lỗi gì....Nói đúng ra, lỗi chính là ở sự ghép đôi của chúng ta. Anh rất tiếc...

- Anh muốn nói là ...

Vân cao giọng, bà bắt đầu nóng mặt vì những lời lẽ ôn tồn nhưng đau đớn của ông. Bà muốn tranh luận,

muốn thuyết phục, muốn bày tỏ thiện chí....Nhưng Vũ đã quay lại và đưa tay chỉ bốn bức tường xung

quanh.Vân nhớ ra rằng họ không thể nói chuyện ở đây, nơi những con rệp được cài đặt tứ phía, từ trong nhà

đến các cây cổ thụ ngoài sân. Bà tìm tờ giấy trắng, viết :

« Ngày mai, chúng ta sẽ nói chuyện này. »

Ông viết câu trả lời, ngay dòng dưới :

« Ngày mai, anh phải đi từ sáu giờ sáng. »

« Vậy khi nào em mới có thể nói chuyện với anh ?»

« Khi anh quay về. »

« Chúc anh ngủ ngon. »

« Chúc em ngủ ngon. »

Vân vo tờ giấy, đoạn châm lửa đốt, thói quen họ đã có từ lâu. Rồi bà lên giường trước.

Còn ông, ngồi lại trước bàn, lật giở những trang giấy nhưng không hề nhớ một dòng chữ nào. Trên ngực

ông, nước mắt đứa con nuôi vẫn còn ấm nóng. Bên tai ông, vang lên tiếng nức nở. Ông đoán được cơn bão nào

đã đi qua tâm hồn đứa bé vào buổi trưa hôm nay :

« Tội nghiệp thằng bé....Bao nhiêu năm trời, nó vẫn thầm lén kiếm tìm dấu vết người cha. Dù ta thương

yêu nó đến đâu chăng nữa, dù ta cố gắng sắm vai của kẻ làm cha thành thực, tận tuỵ và nồng nhiệt, sự thiếu hụt

kia vẫn là hố sâu không thể lấp đầy. Tình huyết mạch là sợi dây vô hình giằng trói kiếp nhân sinh.....

Con chính là con đẻ của ta. Máu chảy trong huyết quản của con chính là máu của ta. Da thịt trên thân xác

con chính là da thịt của ta !....

Sao bỗng dưng ta cất nên câu nói ấy ? Đó là cảm hứng của thần linh hay sự xui khiến của ma quỷ ?

Dầu sao, lời nói đã qua cửa miệng rồi. Một lời nói bốn ngựa đuổi theo không giữ kịp. Từ nay, thân phận

của thằng bé sẽ gắn với thân phận của ta bởi mối liên kết thầm kín này. Sự bí ẩn của số phận đã nảy sinh để che

giấu một bí ẩn khác. Ta không hiểu rằng ta hành động đúng hay sai ? »

Quả tình ông không biết ông đã hành động đúng hay sai khi ông nói với Trung rằng nó chính là con đẻ của

ông, một đứa con ngoại hôn, nếu hiểu theo đúng nghĩa. Nhưng vào buổi trưa nay, ông không còn cơ hội để suy

tính, cũng chẳng còn thời gian để đắn đo. Ông đã hành động theo kiểu một nhà thơ ngẫu hứng dù ông vốn

chẳng phải thi nhân, cũng không quen hành động theo ngẫu hứng. Nhưng ông biết làm gì đây khi chính vợ ông

và đứa con trai đẻ của ông đã xô đẩy đứa con nuôi vào trạng thái uất hận tuyệt vọng này ?

« Ta có lỗi chăng khi để xảy ra tình thế tồi tàn, đồi bại như vậy ? »

Ông tự hỏi.

Và tâm hồn ông tràn đầy bóng tối.

Ông không đo đếm được sự phức tạp của cuộc sống. Ông tỏ ra vô năng khi lèo lái con tầu gia đình. Ông

không đủ sáng suốt hay thiếu lòng can đảm để có thể hiểu rõ bản chất người đàn bà và đứa con trai của chính

ông ?...

« Có lẽ ta thiếu cả hai thứ, sự sáng suốt lẫn lòng can đảm. Ta thiếu cả hai phẩm chất cần thiết nhất đối

với một người đàn ông, một kẻ làm cha và một kẻ làm chồng. Hình như đã có người từng nói với ta về điều

ấy ? »

Hình như....

Những tiếng « Hình như » bao giờ cũng kéo theo những vang vọng của quá khứ, và cùng với các hồi âm

ấy, người ta lật giở lại những trang giấy đã ố vàng cùng tháng năm. Vũ biết trong ông có một người đàn ông cổ

xưa, quan tâm tới gia phong và các giá trị được tu tạo xung quanh nó. Cũng vì thế, một đứa con trai, kẻ nối dõi

tông đường là ước mong thầm kín nhất và cũng quan trọng nhất đối với ông sau khi lập gia đình. Sau mười bảy

năm thất bại trong những lần xảy thai liên tục, ngày Vinh ra đời đối với ông thực sự là ngày hội « Vui mừng

rơi lệ » như người ta vẫn nói tự ngàn xưa. Vũ nhớ rằng ông đã thức trắng ba đêm liền cùng Vân khi bà chịu


đựng những cơn đau trở dạ. Ông ngồi cho bà tựa khi bà không muốn nằm, đưa cánh tay cho bà cấu xé khi bà bị

cơn đau hành hạ. Bà sinh nở xong xuôi, hai cánh tay ông còn chi chít vết sẹo cho đến cả tháng sau chưa hết.

Đám đàn bà cùng phòng nhìn Vân với những cặp mắt ghen tị không che giấu. Họ nhìn ông cũng với sự thèm

muốn không che đậy. Vợ ông, hẳn chưa quên điều đó. Hẳn bà cũng không thể quên rằng chính ông là người đã

tự tay đảm nhiệm việc giặt giũ cũng như nấu nướng phục vụ bà, cho dù cả hai bên gia đình cũng như cơ quan

đều có sẵn một đống người trợ giúp. Tất thảy những gì ông đã làm đều xuất phát từ một ý thức rõ rệt là vợ ông

phải được sung sướng tối đa khi trở thành người mẹ, khi họ trộn máu huyết để tác tạo nên một con người, kẻ có

sứ mệnh ghi dấu và kéo dài tên tuổi, hình hài, danh tiếng của cả hai dòng họ....

Thời Vinh còn nhỏ, từ một đến sáu tuổi, với vóc dáng thanh tao và gương mặt xinh đẹp kiểu « mỹ nữ

Hồng kông », nó giống mẹ hơn giống bố. Thời ấy, hai người đoan chắc con trai họ lớn lên sẽ trở thành minh

tinh màn bạc, nếu chẳng phải cỡ siêu sao Hô-ly-út thì cũng phải là một thứ Yve Montand hay Alain Delon.

Nhưng từ năm lên mười, mọi đường nét của nó hoàn toàn thay đổi, Vinh không còn là ngôi sao màn bạc mà có

dáng dấp của một gã dô-kề. Lúc ấy, hai vợ chồng ông chuyển từ giấc mơ nghệ thuật sang giấc mơ quán quân

thể thao nhân dịp Vinh nhận được một giải nhì trong cuộc thi điền kinh của trường tiểu học. Cùng với sự đổi

thay ngoại diện, thằng bé bộc lộ những phẩm chất mà không một bậc cha mẹ nào mơ ước. Trước hết, nó tham

ăn một cách khủng khiếp. Đứa con trai ông có một niềm đam mê bệnh hoạn khi nó sà xuống bàn ăn. Vào lúc

đó, nó không còn nhìn thấy ai, không còn quan tâm đến bất cứ một thứ gì, ngoài việc chúi đầu xuống gắp. Vào

những dịp đặc biệt, vợ ông mời đầu bếp đến nhà nấu những món ăn lạ, Vinh viện cớ trốn trường để ở nhà, chui

xuống tận bếp ăn trước cả cha mẹ lẫn khách khứa. Tuy nhiều lần, Vân thuyết phục ông rằng trẻ ham ăn là điều

đáng mừng, bởi như thế cơ thể của nó sẽ mạnh khoẻ cường tráng ; nhưng khi nhìn đứa con trai vục đầu xuống

mâm, ăn không kịp nuốt không kịp thở, Vũ thấy mặt mình bỏng rát. Từ năm Vinh mười hai tuổi, lông mép đã

mọc xum xuê, giọng vỡ ồ ồ, vợ ông yêu cầu nó ăn cơm riêng với Trung trong gian bếp để khỏi làm ông xấu hổ.

Có thể là những khi một mình đối mặt với sự thật, vợ ông cũng đau lòng. Nhưng trước ông, bà không bao

giờ lùi bước. Bà phải bảo vệ đứa con trai của bà, tác phẩm duy nhất trong cuộc đời làm mẹ của bà bằng mọi

giá. Nhiều phen, Vũ những muốn tin vợ, muốn tin rằng con mình rồi đây sẽ trở thành :

« Một ai đó vô cùng sáng láng trong tương lai. »

Đôi phen, ông cũng tự thuyết phục mình rằng có thể tồn tại những con người mà tài năng cũng như nhân

cách chín muộn màng, bộc lộ muộn màng, giống loài than cháy chậm, kiểu như quan thượng thư Lã Vọng, ngồi

bên khe câu cá đến bát tuần mới ra tay trị quốc...Nếu như vậy, con trai ông rồi đây có thể sẽ trở thành một nhà

nghiên cứu lừng danh, người sáng chế máy bay, tầu thuỷ, chất dẻo tổng hợp hoặc một bác sĩ đem lại khả năng

cứu rỗi cho những con bệnh hiểm nghèo. Nó hoàn toàn có thể trở thành một con người hữu ích với nhân quần,

đem lại vinh danh cho tiên tổ. Với điều kiện là nó phải thay đổi tính nết, trở thành đứa ham học.

« Với điều kiện là.... »

Ôi giấc mơ bất khả của những kẻ làm mẹ và làm cha !

Dù đau đớn như chết từng khúc ruột, Vũ cũng thấy rằng cái ngày hy vọng của ông mỗi lúc mỗi lùi xa. Lùi

xa đến vô cùng tận. Trong hiện thực cay đắng, càng ngày con trai ông càng trở thành phiên bản của cậu ấm

Tùng, em trai Vân. Về ngoại diện, sự đổi thay này khiến cả họ phải bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Thoạt tiên,

mũi nó bành trướng trên gương mặt một cách quá cỡ, với hai cánh mũi vừa to vừa dầy, với cái đầu mũi hình củ

tỏi lúc nào cũng bóng loáng. Rồi cặp mắt nó dần dần nhỏ lại trong khi hai hàng lông mày mọc dày rậm cũng

quá khổ, kiểu lông mày thiên hạ gọi là lông mày sâu róm. Nó béo lên rất nhanh bởi tính tham ăn, và càng béo,

những ngấn thịt càng nổi vồng lên trên hai má, xoá đi những nét thanh tao cuối cùng còn sót lại của tuổi ấu nhi.

Vũ không tin lắm vào thuật xem tướng, nhưng ngoại hình của đứa con khiến ông thất vọng, bởi do nghiệm

sinh, ông biết rằng sự thay đổi hình tướng thường kèm theo những đổi thay trong đời sống tâm linh hoặc tinh

thần. Không lâu, những điều ông ngờ vực đã được chứng minh. Những năm tiểu học, Vinh luôn luôn được xếp

hạng là học sinh giỏi. Sang năm thứ nhất trường trung học, nó tụt xuống hạng trung bình. Ngay năm sau, nó

rơi xuống nhóm « học sinh đặc biệt » và từ đó, nó tiếp tục rơi xuống theo chiều thẳng đứng....Từ đây, Vinh bị

kèm cặp thường xuyên và vợ ông bắt đầu lui tới nhà các thầy các cô như cơm bữa. Vũ thấy vợ luôn luôn gói

ghém các loại quà, khi thì những món đồ ngoại quốc ông mua trong các kì « đi xứ » ; khi là những món đồ thực

phẩm đặc biệt đem từ quê ra : nào gà giò vườn, nào cua biển tôm biển tươi ốp trong bẹ chuối, nào hoa quả và

các loại mứt trái cây tự nấu...Một lần, cầm lòng không đậu ông phải bảo vợ :

- Em sẽ làm hư con trai chúng ta thêm một trăm lần nữa nếu sự việc này tiếp diễn. Vinh không có một chút

cố gắng tự thân nào. Nhiều lần anh để ý, thấy nó ló đầu vào xem em gói quà mang đến nhà các thầy cô

như khán giả xem xiếc, nhởn nhơ như chuyện đùa chơi. Dường như nó nghĩ rằng nó cứ thả sức chơi bời

và ngu dốt, còn cha mẹ phải lo tất cả phần đời của nó. Hãy dừng tay lại, nếu không con trai em sẽ trở

thành một kẻ hoàn toàn vô dụng như cậu của nó, tấm gương xấu xa đã hiển hiện rành rành.

Vợ ông đỏ nhừ từ mặt xuống chân tay, quay sang chì chiết :

- Em biết gia đình em thua kém gia đình anh. Em trai em học hành ngu dốt. Tại sao anh không chọn một

người đàn bà học vấn tót vời, từ đầu xuống chân phủ đầy chữ ?




Em không cần tự ái vặt. Phải nghĩ đến tương lai con chúng ta một cách nghiêm chỉnh. Muốn thế, phải

nhìn thẳng vào sự thật. Sự thật là Vinh càng lớn càng ham chơi. Cậu Tùng đến rủ cháu đi bất cứ lúc nào.

Và chính em là người bao che cho cả hai đứa. Học hành như thế, sớm hay muộn cũng đứng bên lề xã hội.

Trong gia đình này chưa có ai phải đứng bên lề xã hội. Anh đừng quá khắc nghiệt với con. Nó là đứa

cứng đầu, vì thế phải lựa chiều mà uốn. Nhìn mà xem, có biết bao nhiêu người thành đạt trên đời này đã

trải qua một thời học trò ngỗ nghịch. Thậm chí có những người mù chữ cũng vẫn thành công. Người ta

bảo : ngựa hay thường đái tật...

Vũ đành im lặng. Ngao ngán mà im lặng. Ông còn biết nói gì hơn ?...Ông thấy mình bất lực. Liệu ông có

thể làm gì được để xoay chuyển tình thế ?...

Đứa con là tác phẩm chung của họ nhưng phần đóng góp của bà lớn hơn. Suốt thời kì mang thai, bà

không ngừng nôn, không ngừng đau ốm. Sự thai nghén của bà một vạn lần khó khăn hơn những người khác.

Cơ thể bà không thích ứng với việc thai nghén và sinh nở. Đứa con trai này là cuộc xổ số duy nhất trong đời

bà. Không thể có lần thứ hai. Mười bảy năm có thai rồi lại xảy thai, xảy thai tháng trước vài tháng sau nghén

lại....cái điệp khúc tồi tệ đó cứ lặp đi lặp lại như cơm bữa khiến chẳng những họ hàng mà những đồng nghiệp

của Vân đều coi việc bà đến viện phụ sản như là một thứ công việc thường hằng. Mọi lần mang thai đều không

vượt quá tháng thứ tư. Nhờ một sự huyền diệu trời đất đem lại, bà mới có được Vinh vào năm bốn mươi mốt

tuổi, cái tuổi chấm dứt mọi hy vọng cho những ai muốn làm mẹ. Thế nên, đối với bà, đứa con trai này chính là

hoàng thượng không ngôi. Điều lạ lùng là nó có thể làm xoay chuyển hoàn toàn cách nhìn của người mẹ. Thuở

họ mới yêu nhau, Vân thường công khai bộc lộ ác cảm đối với đứa em trai mà bà thường gọi là ― thằng Tùng

lợn„. Giờ đây, vì con trai của họ lại giống ― thằng Tùng lợn„ như hai giọt nước nên cái nhìn của Vân với đứa

em trai bỗng trở nên trìu mến, dịu dàng. Còn ông, nhiều lần quan sát hai cậu cháu chuyện trò, đùa cợt, tán tỉnh,

ăn uống....ông không tránh khỏi nỗi kinh hoàng. Một gã đàn ông ngoại tứ tuần, râu ria nhẵn nhụi với đứa bé

đang dậy thì, lông mép đen rì từng đám. Cả hai đều có gương mặt đầy ú các múi thịt. Cả hai đều có những cặp

mày đen rậm quá cỡ khiến mắt họ chỉ còn là những khe hẹp dưới bóng râm của chúng. Cả hai đều có cái vẻ

hồn nhiên dâm đãng khi đưa mắt nhìn một cô gái hay một người đàn bà. Tiếng cười hy hý như tiếng ngựa của

họ cũng giống nhau đến nỗi đôi lần, ông chịu không nổi phải bỏ đi. Mười hai tuổi, con trai ông đã có một vòng

mỡ bụng ,giống như cậu nó thuở xưa, ngày ông đặt chân lên ngưỡng cửa nhà bà Tuyết Bông, đại lý nước mắm

phố huyện :

― Làm sao ta có thể hình dung được bến nào dòng đời chảy đến ? Nào ta có ngờ đâu đứa con duy nhất

của ta lại mang đầy đủ dấu vết đồi bại của dòng họ ngoại ? Ta yêu Vân vì tin tưởng rằng đó chính là hình hài

được tái tạo của ông giáo Vương mà không biết rằng trong dáng vóc đẹp đẽ thanh tao của người cha, cô ấy vẫn

dung chứa những hạt mầm bản thể của người mẹ, bà chủ đại lý nước mắm nổi tiếng xấu cả nết lẫn người ? Phải

chăng cuộc hôn nhân này là thất bại lớn nhất trong cuộc đời ta ? Một thất bại không còn cơ cứu vãn ?„

Những năm đang ở tuổi trăng rằm, họ là nam thanh nữ tú của phố huyện Phù lưu nổi tiếng sung túc. Rồi

họ lại cùng được gởi sang Hà nội học trung cấp, không cậu ấm cô chiêu cũng quần là áo lượt và được gia đình

chu cấp đầy đủ để có thể theo kịp bạn bè. Tình yêu nảy nở dễ dàng khi họ cùng đi trên một chuyến tàu, và nàng

ngồi mở cuốn tiểu thuyết đọc trong khi chàng lật các trang báo. Tình yêu cũng nảy nở dễ dàng khi cùng chung

những trại hè ― Hướng đạo sinh„ khi cùng ngâm ngợi những khúc ca ngoại nhập : Nào Sê-nê-rat, nào Trở lại

mái nhà xưa, nào San-ta-lu-sia...Vả chăng, Vân đẹp. Bà được mệnh danh là Hoa hậu Phù lưu. Vả chăng, cả hai

đang tuổi mơ mộng tình ái. Vả chăng, nỗi lo cơm áo cũng như cơn cuồng phong cách mạng chưa chạm tới họ.

Vả chăng....

Ô, còn biết bao sự vả chăng nữa để ông quay lại kiểm chứng cuộc hôn nhân đã ngoài ba thập kỉ của mình ?

Nhưng Vũ nhớ rằng lần đầu dẫn Vân về nhà ông đã không báo trước với cha mẹ để gây sự sửng sốt, theo cung

cách của các chàng trai thời ấy. Bố mẹ ông đã đứng lặng đi một hồi trước khi có thể đáp lại lời chào của vị

khách xinh đẹp sóng đôi với cậu con trai. Đêm hôm đó, cha ông gọi ông ra nhẹ nhàng nói :

- Thời đại đã đổi thay. Giờ chẳng ai dám hỏi vợ hay gả chồng cho con mà không được trẻ thuận tình. Cha

cũng thấy điều ấy là hợp với lẽ phải. Nhưng người sống với người là sự vô cùng khó khăn trên đời này.

Đừng quên điều ấy. Một khi con đã cam kết sống với một người đàn bà, tức là con cam kết chịu nửa phần

trách nhiệm cuộc sống của người ấy. Thế nên, phải biết dè chừng.

- Ý cha muốn nói tới hoàn cảnh nhà Vân ?

Ông hỏi lại người cha với sự thẳng thắn và nồng nhiệt :

- Nhưng hai chúng con có chung một đánh giá. Chính Vân cũng thừa nhận rằng mẹ cô ấy là một người đàn

bà thiếu phẩm hạnh. Một khi đã xác định sự việc, ắt Vân phải biết cư xử theo lối ngay.

- Tuỳ ý con.

Cha ông đáp sau một chút ngập ngừng. Rồi, bỗng nhiên nhấn giọng :

- Người xưa nói lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống. Con hãy thử nghĩ xem họ có lý hay chăng ?

- Vâng, con sẽ suy nghĩ lại việc này.


Ông trả lời tức khắc.

Rồi ông đã nghĩ lại. Nhưng sự nghĩ lại của trai tơ không kéo dài quá hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Sự

nghĩ lại của một kẻ đang yêu lại càng ngắn ngủi hơn. Một lời nói của mỹ nhân đủ sức san bằng mọi thành trì

của định kiến hay ngờ vực.

Chiều hôm sau, Vũ tức tốc tìm Vân, đặt câu hỏi thẳng thừng :

- Em có nghĩ cuộc hôn nhân của bố mẹ em là thoả đáng hay không ?

- Không, một ngàn lần không.

Vân đáp lại tắp lự. Câu trả lời vừa thẳng thắn vừa dứt khoát. Cuộc hôn nhân oái oăm giữa ông giáo

Vương và bà chủ đại lý nước mắm Tuyết Bông là đề tài thường trực từ mấy chục năm nay cho dân phố huyện,

dù muốn hay không Vân cũng đã nghe mọi lời đàm tiếu từ thuở lên năm. Xét trên mọi chiều, từ ngoại hình đến

phẩm cách, bố mẹ Vân vẽ nên bức tranh biếm hoạ hiếm hoi. Một ông giáo chỉn chu, dung mạo tuấn tú thanh

tao, nói năng từ tốn, cử chỉ khoan hoà sóng đôi với một bà phì nộn, vừa keo kiệt vừa đanh đá chua ngoa. Dân

phố gọi sau lưng bà là « mụ béo mồm loa mép giải ». Và họ liệt kê ba loại hoạt động chủ yếu của cái miệng

rộng ngoác với cặp môi dầy cong cớn của bà : Trả giá hay thanh toán tiền nong ; cãi cọ hoặc chửi bới láng

giềng lẫn con cháu ; và ăn quà vặt – một thú tiêu khiển vô tận...Không kể sự đành hanh hay lối vênh váo cậy

tiền cậy của, chỉ riêng thói tham ăn của mẹ, cô con gái đã nhiều phen phỏng mặt vì hổ thẹn trước bạn bè.

Chừng như muốn cho người yêu biết rõ thái độ cương quyết của mình, Vân giải thích :

- Ông nội khi đang ốm nặng đã gọi bà nội và bố Vương vào phòng, yêu cầu cưới mẹ Bông. Một tuần sau,

trước khi chết, ông lại nhắc lại việc ấy. Vì thế sau ngày giỗ đầu, bà nội đã làm đám cưới gấp cho hai

người.

- Vì lý do gì ông nội buộc bố em làm điều ấy ?

- Em không biết. Bởi bà nội cũng không biết và bố Vương cũng không biết.

- Dù bố em không hề yêu mẹ em ?

- Tất cả mọi người, trong họ hay ngoài phố đều biết điều ấy.

- Nhưng bố em đã chấp nhận vô điều kiện.

- Trong nhà, ông nội là mặt trời. Lời của ông là mệnh lệnh.

-Nếu bây giờ, bố em buộc em phải lấy một người em không hề yêu thương, giống như ông nội em đã

từng làm ?

- Ồ không!...

Vân trả lời ngay, không một chút nghĩ ngợi :

- Không bao giờ em chấp thuận điều ấy.

- Vì sao ?

- Vì thời đại đổi thay rồi. Lúc này các bà tân thời đã mặc quần sooc ra đường. Em chẳng phải tân thời

nhưng cũng không phải người của thời phong kiến.

Họ cười ngất, tự cảm thấy may mắn vì sống trong một thời đại mới, được tự do yêu nhau và được cưới

nhau theo sở nguyện. Ông trở về nhà, thuật lại cuộc chuyện trò của họ với bố mẹ, yên trí rằng mọi ngờ vực đã

được giải quyết. Tuy nhiên, bố mẹ ông vẫn tìm mọi cách thoái thác tiến hành lễ kết hôn cho họ. Cuộc kết hợp

giữa ông giáo Vương với bà chủ đại lý nước mắm gợi quá nhiều băn khoăn trong lòng họ. Cha ông tìm cách

điều tra ngọn ngành vì theo lẽ thường, phải có một ràng buộc bí ẩn và khủng khiếp mới có thể bắt đứa con trả

một món nợ kinh hồn như vậy. Không một ai không hiểu cái sự thật này : người như ông giáo Vương mà phải

sống chung với bà Tuyết Bông cũng giống như phải chấp nhận chung thân đoạ đầy trong địa ngục hay lò

luyện tội, rằng như thế cả một kiếp người đã biến thành món hàng đổi chác. Và điều sau cùng là cốt yếu :

những cuộc hôn nhân oái oăm bất hạnh như thế thường để lại những vết tàn phá cho đời sau....

Thiên hạ đã đưa ra bao nhiêu giả thuyết cho sự kiện này. Có người cho rằng cụ Kí, thân sinh của ông

giáo đã có thời cùng sang Lào đào vàng với cụ Cử, cha đẻ bà Bông. Trong một lần sập hầm, cụ Cử đã cứu bạn

thoát chết. Để đền ơn cứu mạng, cụ Kí hứa sẽ cưới con gái duy nhất của ân nhân cho con trai duy nhất của

mình.

Nhưng nhiều người lại vạch ra rằng chuyện đào vàng đãi cát là chuyện viển vông, một cách giết thời gian

của những kẻ tầm phào , vì cả cụ Kí lẫn cụ Cử đều là dân nuôi móng tay dài, cầm con dao rựa không chặt, sức

vóc đâu mà theo đám phu moi đất đãi cát tìm vàng ?...Vàng bao giờ cũng chảy cùng dòng với máu. Theo nghề

này nếu không là loại đầu nậu, túi ních chặt tiền, óc đầy lèn mưu mô quỷ quyệt để đứng lên làm chủ mỏ thì chỉ

là đám giang hồ, coi chuyện dao búa như cơm bữa hoặc những kẻ lâm bước đường cùng, tuyệt kế sinh nhai, tự

thí mạng mình như rơm như cỏ... Sự thực là cụ Cử lẫn cụ Kí đều có máu cờ bạc. Họ đánh bạc quanh năm,

thắng cũng nhiều, thua cũng lắm. Vào một năm vận hạn, cụ Kí thua liên tục suốt một mùa đông. Nhưng càng

cháy túi càng khát nước, cay cú gỡ cờ, cụ đã cầm cố cả nhà cửa lẫn ruộng vườn, trong phố cũng như dưới quê;

bao nhiêu của chìm của nổi đặt hết lên chiếu bạc với ước muốn điên cuồng là lấy lại những khoản tiền đã mất.

Nhưng thần hộ mệnh đã bỏ cụ mà đi chỉ còn sự đen đủi cặp kè như hình với bóng. Sau rốt, tất thảy gia sản bị

thiêu cháy trong ngọn lửa nhà sòng. Giáp Tết, cụ Kí nhìn thấy trước cảnh vợ con bị đuổi ra khỏi cửa, trở thành

những kẻ đầu đường xó chợ. Vừa sợ hãi vừa day dứt vì tội lỗi của mình nên cụ Kí tìm đường tự vẫn. Chính


lúc ấy, cụ Cử thanh toán tất thảy những món nợ lớn nhỏ cho bạn, chỉ với ước nguyện duy nhất là sau này....khi

hai đứa trẻ khôn lớn, họ sẽ trở thành thông gia....

Những chuyện đồn thổi luôn luôn là những chuyện đồn thổi. Các giả thuyết luôn luôn chỉ là giả thuyết bởi

người cùng thời với hai ông không còn sống để xác nhận sự thật cuối cùng. Vả chăng, lịch sử muôn đời vẫn là

cuốn sách chép lại các giả thuyết và sau mỗi giả thuyết lại có vô số điều bí ẩn. Lịch sử bé nhỏ của mỗi gia đình

cũng vậy. Các bí mật luôn luôn tồn tại để tô điểm và huyền bí hoá đời sống. Bố mẹ ông không thích lắm sự

huyền bí này nhưng sau hơn một năm nhọc công điều tra mà chẳng đi tới kết luận chân xác nào, họ đành chấp

thuận làm đám cưới cho hai trẻ. Và như thế, đám cưới của họ đã diễn ra trong một cách xuôn xẻ, tuy có đôi

phần còn gượng gạo. Bố mẹ Vũ vốn là những người thanh lịch. Họ biết cách giấu cái phần gượng gạo đó một

cách tối đa.

Vào những năm đầu cuộc sống lứa đôi diễn ra như mong ước. Hai vợ chồng trẻ sống riêng, phần vì công

việc, phần vì bố mẹ ông sống chung với vợ chồng người anh cả nên đã lo sẵn gia cư cho ông trước ngày cưới.

Tuy nhiên, ngay vào những năm hương lửa mặn nồng ấy, gia đình vẫn là cái nôi êm ấm không thể thiếu vắng

trong tâm hồn ông. Mái nhà xưa là nơi ông thường xuyên quay về. Vợ ông phải chấp thuận điều ấy. Trong thâm

tâm bà muốn độc chiếm thời gian cũng như tình yêu của ông nhưng biết rằng điều đó là bất khả. Thành thông

lệ, vào cuối tuần họ trở lại nhà Vũ. Mọi người quây quần trong những bữa cơm mà chỉ riêng các món ăn dân

giã quen thuộc đã khiến người ta thoả mãn hơn bước chân vào cao lâu hay tửu quán. Mẹ Vũ, tuy đã già nhưng

vẫn là người đầu bếp sành điệu. Bà nấu ốc bung dọc mùng, ếch xào măng ớt, cá quả om rau cần, tôm rim rượu

nếp hoặc lươn om nghệ ngon hơn hết thảy những nhà hàng mà họ từng được ăn. Thêm nữa, không chỉ vì món

ăn ngon nhưng còn ở không khí nồng ấm của gia đình, mối thiện cảm chân thành giữa những con người cùng

chung gốc rễ....Mỗi năm họ chỉ quay lại nhà Vân một lần, vào dịp Tết. Bởi đó là điều không thể tránh được,

một thứ lễ thức. Vũ buộc lòng chấp nhận vài bữa ăn chung. Điều ấy không vượt quá sức chịu đựng của ông,

cho dù chạm mặt bà mẹ vợ, ông cảm thấy như bị gai nhím đâm mỗi lần nhìn cung cách cong cớn của bà khi

quát tháo, hoạnh hoẹ người làm công và đầy tớ, hoặc điệu bộ vênh váo của bà khi xỉa tiền, cái cách biểu lộ sự

hỉ hả của một người đàn bà vô duyên, vô hạnh, vừa nhai vừa ngửa mặt lên cười khiến cả mớ thức ăn đang nhào

trộn trong cái miệng rộng ngoác của bà phô bày ra một cách gớm ghiếc.... Bà chủ đại lý nước mắm biết điều rõ

ấy. Một lần, bà nói toạc móng heo :

- Tôi biết tôi không vừa mũi anh chị. Nhưng anh chị cũng chẳng vừa mũi tôi. Tốt hơn cả là cơm ai người

ấy ăn, giường ai người ấy ngủ. Một năm mang lễ về đặt lên bàn thờ là đủ.

- Bà nói gì vậy ? Thật là quá quắt...

Ông giáo trừng mắt răn đe. Bà Tuyết Bông cụp mắt im lặng. Dù là kẻ lăng loàn, có thể sắn váy chửi nhau

với bất kì ai vì một đồng xu, có thể tuôn ra hàng tràng những lời nguyền rủa độc địa với bất kì người láng giềng

nào dám đụng tới bản thân hoặc con trai mình , nhưng bà lại sợ chồng một vành. Trước mặt ông, bà có vẻ của

một con chó trung thành. Cặp môi dày vô tận của bà luôn khép lại khi ông cao giọng. Cặp mắt sư tử cái của bà

cũng luôn luôn cụp xuống theo cách loài thỏ cái khi ánh mắt ông chiếu tới. Một khi ông đã ra lệnh, bà phải

xuống mã ngay tức khắc cho dù trước đó một giây bà có thể nhẩy chồm chồm như con ngựa cuồng đang xung

trận.....Dân phố huyện bảo rằng bà tuổi chuột còn ông tuổi rắn, chuột có thể rỡn mặt với mèo nhưng gặp rắn thì

hoàn toàn tê liệt chỉ còn nằm chờ chết. Số khác lại nói chẻ hoe ra rằng chẳng cần tuổi với tác, hạng người như

bà, nếu chẳng nhờ một mối duyên tiền định bí ẩn áp đặt, hẳn chỉ có thể ngồi mơ ....các gã khố rách áo ôm, chân

đất mắt toét kiếm cơm bằng nghề rong lợn đực trên các nẻo đường thôn....

Như thế, đã nhiều năm họ sống theo nguyên tắc : Dâu là con, rể là khách. Vân cũng chưa bao giờ phật ý

khi ông chỉ trích những thói xấu của cậu ấm Tùng. Nhưng giờ đây, mọi sự đã thay đổi. Kể từ ngày con ông lớn

lên, và nó trở nên một cậu ấm Tùng thứ hai, có nguy cơ còn tồi tệ hơn cả nguyên mẫu. Bởi chỗ đứng của ông

chẳng phải là cái bục gỗ trường tư thục phố huyện. Sự thối nát mọc trên cái cây của uy quyền, sẽ ngàn lần thối

nát hơn khi nó nảy mầm trên mặt đất hoặc giữa đống rơm.

―Chao ôi, con cái là những xiềng xích bằng vàng „

Một lời than não nùng bất giác vang lên trong óc não ông. Cùng một lúc, trái tim ông bị xuyên thủng bởi

hai mũi tên, hai gương mặt đồng hiện : Con trai của chính ông. Và con trai của một người đàn ông khác.

― Ta sẽ chết....ta sẽ chết bởi sự giằng xé này. Bởi nỗi khổ đau không thể bày tỏ cùng ai...Bởi đường hầm

tối chẳng tìm ra lối thoát .„

Ông bật lên một tiếng rên. Nhưng chợt nhớ ra rằng vợ ông đang nằm trên giường và chắc chắn là chưa

ngủ nên ông vội nghiến răng lại để ghìm giữ cơn rên rỉ. Rồi một gương mặt khác hiện lên, cùng một ý nghĩ sắc

nhọn như lưỡi kiếm :


―Nhưng không! Ta không có quyền chết. Ít nhất ta chưa được quyền chết vào lúc này. Với cái chết của ta,

bọn khốn kiếp sẽ tự do hành động. Với cái chết của ta, bao người sẽ phải hệ luỵ. Rồi chưa biết những gì đáng

tiếc sẽ xảy ra. Không, ta phải sống. Ta không được quyền thua...„

Đưa tay ôm đầu, mò mẫm như một kẻ bị trúng thương, ông lò dò đi về phía giường ngủ.



********


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:40 PM
Post #6


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 5



Máy bay chưa thể cất cánh vì trời lắm sương mù.

Sương giăng như những tấm lụa trắng đan xen nhau trên phi trường và cỏ ngả màu xanh thẫm khi đầm

sương. Một cô gái bưng khay trà tới trịnh trọng đặt trước mặt Vũ :

- Mời thủ trưởng dùng trà ạ .Chắc còn lâu máy bay mới nổ máy được.

- Cảm ơn cô. Tháng này có mấy buổi phải hoãn chuyến bay ?

- Dạ, đã ba lần. Hôm nay là buổi sáng thứ tư.

- Thông thường, phải đợi bao nhiêu tiếng ?

- Tuỳ theo thời tiết từng ngày, nhưng trung bình cũng phải qua ngọ.

- Cô cũng biết câu tục ngữ ấy sao ?

- Dạ, các cụ dạy : ― Mưa không qua ngọ, gió chẳng qua mùi„....Bà ngoại em bảo thế.

Nói rồi, cô gái lật chiếc tách úp trên đĩa, rót trà. Hương trà nhài bay lên khiến căn phòng bớt đi vẻ chểnh

mảng và trống trải thường gặp nơi các quán trọ hay các nhà ga.

- Một giờ nữa căng-tin sẽ bán phở và bánh rán nhưng nếu thủ trưởng cần ngay bây giờ, em sẽ mang lên.

- Cảm ơn, tôi đã ăn sáng tại nhà.

Vũ đáp, rồi lại đổi ý tức khắc :

- Nhưng nếu tiện, cô có thể đem cho tôi ít bánh rán. Ở đây, căng-tin làm loại bánh gì ?

- Dạ, chúng em có cả ba loại : Bánh nhân mặn, nhân đậu xanh đường cát và bánh ngào mật.

- Cho tôi loại nhân đậu xanh đường cát.

- Dạ, em sẽ đem lên ngay.

Cô gái đáp, rồi xăng xái ra khỏi phòng. Ông đưa mắt nhìn theo, thầm nghĩ :

― Chắc con cái nhà ai mới được tuyển làm nhân viên sân bay...„

Tất thảy những cô gái đồng quê đang từ nơi chân lấm tay bùn được tuyển lên làm việc trong các cơ quan

hay thành phố đều có cái vẻ hớn hở và tận tuỵ như thế. Thân thể căng đầy sức sống, gương mặt hồng hào rám

nắng, sự hăng hái dư thừa của những người đang quay đảo trong nhịp điệu căng thẳng của sự lao động cật lực

rơi vào cảnh sống an nhàn và đầy đủ tiện nghi hơn :

― Nhưng chỉ một thời gian sau, con người sẽ thay đổi...Từ hình tướng cho đến tính cách....Với tháng năm

mọi sự sẽ thối rữa dần....„

Ông buồn rầu nghĩ và đưa tách trà lên nhắp.

Cô gái đã quay lại với đĩa bánh rán đầy ụ. Với đĩa bánh này, ông phải trẻ lại ba mươi nhăm tuổi mới có

thể ăn hết. Hẳn khách ăn quen ở căng-tin phi trường toàn phi công với thợ máy trẻ, đang tuổi bụng cao dạ dốc

hoặc các gã tân binh từ các miền quê đổ về.

Đặt đĩa bánh ngay ngắn lên bàn, cô gái lại lễ phép cúi chào ông lần nữa trước khi bước đi.

- Cảm ơn cô.

Vũ mỉm cười rồi cầm tấm bánh lên nhấm nháp. Bỗng nhiên, cùng với tách trà cảm giác ngon miệng trở

lại khiến ông ăn hết liền hai tấm. Vũ uống tách trà tiếp theo với sự ngạc nhiên. Sáng nay, vợ ông chuẩn bị cho

ông một bát mì như thường lệ. Bát mì đó cũng đầy đủ gia vị như mọi ngày nhưng ông không nuốt nổi hai thìa.

Có lẽ, vì họ trải qua đêm trắng. Một đêm trắng lạnh lẽo đến tê cứng cả tâm can. Khi một người đàn ông và một

người đàn bà cùng chia xẻ một chiếc giường nhưng không muốn hoặc không thể làm tình, cũng không muốn và

cũng không còn chuyện tâm tình để nói, khi trái tim họ đã quay sang những chiều khác biệt, và óc não họ cũng

nung nấu bởi những chuyện khác biệt. Mà họ buộc phải cùng thao thức ngần ấy thời gian. Điều đó thật kinh

hoàng.

Buổi sáng, khi chuông báo thức vừa réo, ông ngồi dậy đi ra vườn tức khắc dẫu biết rằng làm như thế, có

nguy cơ viêm phổi. Đi thơ thẩn một hồi dưới các vòm cây, ông quay vào nhà thay áo quần. Đoạn ông ngồi vào

bàn ăn, trước bát mì bà đã để sẵn. Đột nhiên, ông nhìn thấy gương mặt sưng húp vì mất ngủ của Vân giống hệt

mặt bà Tuyết Bông. Ông sững sờ nghĩ :

― Mình già rồi, nhìn gà hoá cuốc. Xưa nay, chưa có ai nói Vân giống mẹ. Người ta vẫn bảo cô ấy là bản

sao của ông giáo Vương, cũng như cậu Tùng lợn là phiên bản của bà chủ đại lý nước mắm.„

Rồi ông nhìn đi nhìn lại người đàn bà của ông, người hơn ba mươi năm chung chăn chung gối, người ông

đã thuộc từ cách đánh răng đến cách chải đầu, từ màu sắc đến kiểu áo quần bà ưa chuộng, từ cách gắp thức ăn

đến lối làm dáng làm duyên....Ông nhìn bà với nỗi hồ nghi, trong tâm trạng của kẻ không còn tin chắc ở các

giác quan của chính mình....Bởi, ở một góc độ nào đấy, ông thấy vợ ông quả là có những nét của bà Tuyết

Bông, chẳng phải gương mặt, đường sống mũi, dáng đi hay nét cười, nhưng ở một thứ dáng dấp vô hình khó

diễn đạt bằng ngôn ngữ :

― Chẳng phải trí tưởng tượng, nhưng là sự mù mờ của óc phân tích...Hoặc thói hàm hồ của sự lãng quên.

Ta đã từng chứng kiến cảnh Vân đứng chống nạnh tay cãi nhau với cậu cán bộ quản lý văn khố, một kiểu cách

cong cớn lăng loàn giống hệt mẹ cô ấy. Chuyện đó diễn ra đã từ lâu. Mười sáu hay mười bẩy năm về trước.


Lần ấy, Vân vô cùng xấu hổ. Giờ đây, sự việc tái diễn. Và cô ấy không còn xấu hổ nữa. Với tháng năm, mọi sự

thối rữa đi....„

Thưa thủ trưởng, để em châm thêm nước vào ấm trà.

Cô gái đã quay lại, phích nước sôi trên tay. Định rót thêm nước vào ấm, nhưng rồi cô lại ngần ngừ dừng

-

lại :

- Thủ trưởng có cần thay trà mới không ạ ?

Vũ ngẩng lên đáp :

- Cảm ơn. Trà còn đặc, cô cứ châm thêm nước cho tôi.

Ông rót tiếp chén trà mới còn nóng bỏng, nâng lên ngang cằm để làn hơi lan toả trên gương mặt trong lúc

một tiếng nói thầm thì lặp đi lặp lại bên tai :

― Với năm tháng, mọi sự dần thối rữa đi...Với năm tháng....„

Không hiểu vì cớ gì, ý nghĩ đó cứ bám riết lấy óc ông, giống như loài đỉa đói bám chặt kẽ bẹn của con

trâu khốn khổ. Nhà Vũ không có ruộng, nhưng cảnh sống nơi thôn trang thân thuộc với ông từ nhỏ, nhờ những

kì nghỉ hè. Sau này, dấn thân vào cách mạng ông buộc phải làm quen với đồng ruộng. Trong suốt quãng thời

gian ấy, hình ảnh khiến ông ghê sợ nhất, ghê sợ mà không dám thú nhận là hình ảnh loài đỉa trên những cánh

đồng vùng chiêm trũng. Cứ mỗi lần hình dung lại cảnh những bầy đỉa ngoi đen mặt nước, đuổi theo con mồi,

dù con mồi ấy là chính ông hay người khác, Vũ lại sởn gai ốc. Ông ghê sợ lũ đỉa không chỉ vì chúng hút máu

người, bởi muỗi dĩn và vô số côn trùng khác cũng sống theo cách kí sinh ấy; nhưng điều khủng khiếp nhất

chính là hình thù nhầy nhụa của chúng gợi nên một sự bất định, một thứ tai hoạ mềm dẻo co giãn, một mối đe

doạ dai dẳng không thể đoán được nơi bắt đầu cũng như nơi kết thúc:

― Có những nỗi đau dai dẳng như loài đỉa đói bám chặt vào con tim chúng ta, nơi ngóc ngách thầm kín

nhất và không bao giờ buông nhả con mồi. Loài đỉa thật sự không nguy hiểm đến thế, bởi người ta có thể để

mặc chúng hút no máu trâu bò con nào con nấy tròn vo như những ngón chân cái. Khi no nê, tự chúng rụng

xuống. Người ta gạt lũ đỉa lặc lè máu ấy vào hố vôi đang tôi, và đó sẽ là cuộc tàn sát hiệu nghiệm nhất đối với

loài kí sinh này. Nhưng trước một nỗi đau dai dẳng, con người trở nên tê liệt, bởi họ không thể trục xuất nó

khỏi trái tim chảy máu....„

Vũ không nhớ ông đã đọc đoạn văn trên trong cuốn sách nào....Nhưng nó bỗng nhiên quay về, như đám

khói đốt rạ phất phơ bay trên cánh đồng kí ức.

Bỗng điệu cười lanh lảnh khiến ông quay đầu lại : Nơi khuôn cửa căng-tin dẫn sang nhà bếp, một tốp thiếu

nữ xuất hiện. Bốn cô gái, cô nào cô nấy tròn vo, má đỏ ửng, mắt long lanh, gương mặt tràn đầy sung sướng .

Hai cô đi trước khiêng một chiếc thúng đại, trong đó chất ngất các loại bánh rán. Hai cô đi sau vạm vỡ hơn,

khiêng nồi quân dụng cỡ lớn nhất, hẳn là nồi nước phở. Sau bốn cô, đến một anh chàng đen như cột nhà cháy,

mặt lẫn vai đều vuông như bánh chưng, khệ nệ bưng thúng bánh phở thái sẵn. Đã đến giờ căng-tin phục vụ bữa

sáng cho lính phi trường. Vũ cúi xuống nhìn đồng hồ, cũng là lúc tiếng kẻng vang lên ròn rã.

Sau ba hồi kẻng dóng dả và hối hả, lính phi trường rộn rịp tiến vào, anh nào anh nấy đầu tóc bóng mượt,

quần áo chỉnh tề, da dẻ hồng hào nhẵn nhụi, rõ ra là đám lính sang trọng nhất được cưng chiều nhất trong mọi

binh chủng. Họ vừa đi vừa tiếp tục nô rỡn, trao đổi những câu chuyện và những cái nhìn đồng loã.

Vũ tò mò đưa mắt theo rõi họ :

― Rồi trong đám bạn hữu thân ái đó, ngày mai ai sẽ cầm dao đâm vào lưng ai ? Ai sẽ đổ thuốc độc vào

chén nước của ai ? Và ai sẽ dụ ai bước vào bãi mìn gài sẵn ? „

Đám lính trẻ cũng đã nhìn thấy ông. Họ chựng lại thôi cười nói, giơ tay chào ông rồi theo nhau ngồi vào

những dãy bàn bên tay phải căn phòng, khu vực dành cho bếp ăn trung táo.

Cùng một gian phòng, cùng một thứ bánh rán, cùng một nồi nước phở ; nhưng căng-tin vẫn phải ngăn

đôi. Khu vực ông đang ngồi dành cho bếp tiểu táo, sàn nhà được tôn cao hơn hai gang tay nhờ một bục gỗ lớn

đánh vec-ni kĩ lưỡng lên nước bóng như gương. Bàn ghế cũng thuần bằng gỗ tốt, mặt bàn phủ vải trắng. Tách

chén, bát đĩa bằng sứ Tầu mỏng. Khu vực dành cho bếp trung táo bên tay phải, sàn nhà thấp hơn lát gạch , bàn

ghế bằng gỗ mộc không vải phủ, đĩa tách bằng nhôm và bát ăn bằng sứ Hải dương loại thứ phẩm men nứt nẻ và

dầy như ngói. Giữa hai khu vực, chừng như để tô đậm sự phân cách, người ta dựng lên một dãy dài cột gỗ tiện,

trên đó giăng những tràng hoa giấy đủ màu.

Vũ đưa mắt nhìn những tràng hoa rực rỡ một cách trâng tráo lạc lõng, thầm nở nụ cười mỉa mai :

― Một bát phở cho bếp tiểu táo khác biệt ra sao bát phở cho bếp ăn trung táo ? Có lẽ loại thứ nhất được

kèm theo mười hai miếng thịt còn loại thứ hai tám miếng hoặc sáu miếng. Có thể loại thứ nhất nhiều hành hơn

loại thứ hai và nước dùng được gia thêm váng mỡ hay hạt tiêu ? Ồ, cái hiện thực này quả là xa vời với mộng


tưởng của những người dấn thân vào con đường cách mạng. Sau rất nhiều xương rơi và máu đổ, cuối cùng sự

sống cũng rút lại bằng cách đếm những miếng thịt phủ lên một xuất phở hay đĩa cơm.„

Ông cúi xuống, nuốt vội một ngụm nước nóng vì chợt nhận ra lối mòn dẫn đến ngục luyện tội. Những

tràng giấy hoa sặc sỡ vẫn đập vào mắt ông. Ý nghĩ về sự phân chia đẳng cấp, về sức mạnh quyền lực, về sự

mong manh bất khả thay đổi của kiếp người...những nỗi giằng xé thường trực ấy day dỉa con tim ông như loài

đỉa đói.

Sáng hôm qua, khi ông vừa tới cơ quan, chưa kịp đặt chiếc cặp lên bàn, cậu thư kí đã hớt hải chạy vào báo

tin văn phòng ban tổ chức trung ương đảng triệu tập ông đột xuất. Cậu thư kí này vốn gầy nhom, da xanh mét,

tính lại cả lo nên gương mặt trông thật thảm hại :

- Mời thủ trưởng đi ngay, thủ trưởng Sáu đang đợi.

Vũ đặt chiếc cặp lên mặt bàn, thủng thẳng cất tiếng hỏi :

- Ai đưa lệnh đó ?

Cậu thư kí trợn tròn mắt lên, đồng thời hạ giọng như thì thầm :

- Dạ, đích thân thủ trưởng Sáu gọi điện trước đây mười phút. Không chỉ gọi một lần mà những hai lần.

- Gọi hai lần vì ông ấy thích luyện giọng.

Vũ đáp. Nhưng rồi thấy cậu thư kí đứng đần mặt ra, vừa bối rối vừa hoảng hốt, ông liền nói :

- Cậu chuẩn bị tài liệu cho tôi.

- Dạ, thủ trưởng Sáu dặn là công việc đặc biệt, không cần mang theo tài liệu như lệ thường.

- Thôi được.

Vũ bỏ chiếc cặp da vào tủ, đoạn cuốn mấy tờ báo mang theo. Ông định đọc cho qua thời gian ngồi trên xe.

Nhưng rồi ở trên xe, cơn bồn chồn khiến ông phải ném mớ báo vào một góc :

― Có chuyện gì đặc biệt xảy ra hôm nay ? Đã lâu lắm y không gọi ta lên một cách đường đột như vầy, kể

từ ngày mọi ván bài đã được lật ngửa .„

Xuống xe, ông đi qua đám lính gác. Một đám người bằng xương bằng thịt đứng trong tư thế cứng đơ của

tượng gỗ, mặt nghếch lên đúng góc độ quy định, ngực ưỡn đúng tư thế đã được học, súng chọc thẳng lên

trời....Tất thảy cái nghề nghiệp của họ là ở chỗ đó, một thứ hình thức biểu dương sức mạnh thế tục, một kiểu

cách răn đe và hù doạ ngoại nhân. Cảnh tượng này đã quá quen thuộc với ông, sao bỗng nhiên gợi lên một cảm

thức bất tường, vừa lạ lùng vừa thù nghịch ? Đã từ lâu, Vũ nhìn thấy trong cuộc triển lãm thường nhật này,

một tấn tuồng nhàm chán. Nhưng hôm nay, ông chợt nhận ra rằng đó là cảnh tượng được dàn dựng cho riêng

ông, nhằm đe doạ một mình ông. Những gương mặt vô cảm của đám người tượng gỗ kia che giấu mối hiểm

nguy mà ông chưa dò nổi. Dường như có một thứ âm mưu nào đó chưa rõ hình thù len lỏi trong không gian.

Dường như có những loại hơi ngạt, những thứ nọc rắn, những thứ thuốc độc....những cái chết vô hình đang

nhiễm đầy khí quyển....Bất chợt, ông quay đầu lại nhìn đám lính gác cho dù ông đã tiến vào giữa khuôn viên.

Rồi, ông cố gắng tự phân tích tâm trạng kì lạ của mình nhưng không tìm thấy cách lý giải nào thoả đáng. Cứ

như thế, ông đi qua khuôn viên đang tưng bừng các loài hoa của mùa xuân, trong lúc trí tưởng mò mẫm giữa

đường hầm tối tăm của sự hoang mang và ngờ vực. Trước khi trèo lên tam cấp, bất giác ngước mắt lên ông đã

thấy Sáu đứng sẵn ở đó, chăm chú nhìn xuống sân. Y giơ tay vẫy ông. Mặt Vũ nóng lên khi nghĩ rằng y có thể

chứng kiến cảnh ông quay đầu lại nhìn đám lính gác, và rất có thể y đoán được những ý nghĩ thầm kín nảy sinh

trong óc não ông. Đám cận vệ đó là của y, do y tuyển chọn, do chính y cấp lương bổng, do chính y soạn thảo

những đặc quyền và thực thi những biệt đãi. Đám người ấy chắc chắn sẽ hành động theo mệnh lệnh của y. Đấy

là điều ai cũng biết.

Sáu đứng chờ ông ngoài hành lang để có thể cùng bước vào phòng vơí ông một lượt. Căn phòng rộng

thênh thang, giống phòng chơi bi-da hay bóng bàn hơn là nơi tiếp khách. Ngoài mấy bộ sa-lông kê liền nhau

còn một chiếc bàn kê sát bức tường phía trái, cũng rộng thênh thang một cách vô lý, trên đó sắp la liệt từng dãy

dài những loại ly tách khác nhau, đến từ những xứ sở khác nhau, vừa để pha trà vừa để lọc cà-phê. Một gã trai

đang loay hoay sửa soạn đồ uống ở đó.

Vừa bước vào phòng, Sáu ra lệnh :

- Thôi, để đấy.

Người hầu biến đi tức khắc như bóng ma. Lúc đó, y giơ tay chỉ cho ông chiếc ghế bành thấp :

- Ngồi xuống đi. Hôm nay tôi có việc bận bên bộ ngoại giao, không thể tiếp cậu lâu như thường lệ. Ta sẽ

làm việc chóng vánh.

Đã ngồi xuống ghế, nghe tới đó Vũ liền đứng phắt dậy :

- Nếu anh bận, tôi về. Lúc khác sẽ gặp.

- Việc cần kíp mới phải kéo cậu lên đột xuất như thế này.

- Dẫu cần kíp, tôi cũng vẫn làm việc theo nguyên tắc chính quy. Tôi không muốn phiền hà người khác.

Tôi không chấp nhận làm việc theo kiểu : giật gấu vá vai.


Y sững lại, chăm chú nhìn ông. Có vẻ như sững sờ. Có vẻ như từ quá lâu chưa có ai dám nói năng với y

theo kiểu đó. Có vẻ như món này thật khó nuốt đối với y. Cũng có vẻ như y không hề chuẩn bị để đối phó lại

tình thế này. Một khoảnh khắc sượng sùng trôi qua. Bỗng nhiên, y nhoẻn miệng cười :

- Sao bây giờ cậu dễ cáu bẳn thế ? Trước đây mọi người vẫn nói tính cậu mát như thạch...

- Ai sinh ra thế nào, chết như thế. Cổ nhân dạy rồi.

Y lắc đầu cười một cách hóm hỉnh :

- Không đúng đâu. Tính nết thay đổi với thời gian. Tôi cũng thay đổi, nhưng không cáu bẳn như cậu mà

lại thích bông lơn. Còn điều này mới thật là thú vị...

Y cất tiếng cười to hơn, một tiếng cười vô cùng sảng khoái :

- Điều tôi sắp nói sẽ khó hiểu thậm chí phi lý đối với kiểu người có máu « nho nhe » đặc sệt như cậu.

Nghe đây này....

Y tiến đến sát bên chiếc ghế bành của ông, cúi xuống lảy từng câu với một sự vui thú lẫn nghịch ngợm

không che giấu :

- Về già bỗng dưng lại thèm ngắm gái đẹp. Món này hình như cũng giống như thuốc lá, thuốc lào, cai được

hàng chục năm bỗng dưng nghiện lại...Chỉ vì công việc bó buộc, nếu không, sáng nào tôi cũng ra hồ Tây.

Ở đó, cứ rạng mặt trời là đám thiếu nữ ra tập thể dục và bơi thuyền, toàn những đứa mười sáu mười bảy,

đẹp như trong mộng.

Nói xong, y quay gót tiến về phía chiếc bàn kê áp tường, chuyên cà phê từ bình lọc vào hai chiếc tách

đen. Vũ lặng lẽ nhìn những nếp nhăn tẽ chân chim nơi đuôi mắt y, nhận ra rằng y cũng già đi đáng kể cho dù y

vốn dĩ cao to trắng trẻo, được trời phú cho một cái thân xác chuẩn mực mà y thường tự đánh giá một cách nửa

đùa nửa thật trong các cuộc chuyện trò :

« Cái thân xác của tôi có sức chứa mười hai cuộc đời khác biệt, đủ sự dẻo dai để phục vụ một cách tận tụy

ba mươi sáu người đàn bà, từ dậy thì cho đến hồi xuân. »

Sau những câu chuyện bông lơn của y, bao giờ cũng có ai đó chôn xác trong xó xỉnh của rừng sâu, trên

một nẻo đường hẻo lánh hoặc nơi buồng tối nhà tù. Vũ nhìn cái gáy béo hồng của y nhô lên trên cổ áo sơ-mi

đen và tự hỏi :

« Vào buổi sáng hôm nay, những câu tán tỉnh bông lơn của y liên quan đến ai đây ? »

Nhưng Sáu đã quay lại, hai tách cà-phê trên hai tay. Mùi cà-phê thơm nức lan khắp gian phòng. Y nheo

mắt lại :

- Cậu có thấy thứ cà-phê này tuyệt diệu hay không ?

Vũ đáp :

- Tôi mới ngửi, chưa nếm. Còn phải chờ kiểm nghiệm.

- Ngốc, cà-phê chỉ cần ngửi là đủ biết chất lượng rồi. Cậu chưa phải kẻ sành sỏi.

- Tôi chưa từng nhận là kẻ sành sỏi trong bất cứ lãnh vực nào. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, có những

thứ đồ ăn chỉ có thể ngửi chứ không thể ăn. Cá rán tẩm thuốc độc chẳng hạn. Hồi còn ở phố huyện, tôi

chứng kiến gã hàng xóm nhà tôi đánh bả con chó nhà khác theo kiểu ấy.

- A ha ha.....

Y cất tiếng cười vang. Tiếng cười của y vang đầy căn phòng rồi vọng ra hành lang. Một cô gái thò đầu

vào nhìn trộm rồi rụt ra tức khắc . Sáu đặt tách cà-phê trước mặt ông, nói :

- Uống đi....Cậu quả là người có tài biện báo....Lẽ ra tôi phải bố trí cậu sang đặc trách bộ ngoại giao mới

đúng....

- Thế hả ?...

Vũ cũng cất tiếng cười theo :

- Vậy thì sửa sai đi, chưa quá muộn đâu ....

Rồi ông bắt đầu nhắp cà-phê.

Bên kia bàn, y cũng lặng lẽ uống. Ngón tay áp út của y đeo chiếc nhẫn vàng gộc lớn xấp xỉ chiếc bu-

loong tà-vẹt, món đồ trang sức này phản chiếu lên lớp men sứ đen bóng của chiếc tách sứ ngoại nhập :

« Cà-phê đen chứa trong tách sứ đen. Quả là sành điệu ! Lẽ ra mày có thể làm nghề vẽ mẫu trang trí gia

thất hoặc hoạ sĩ sân khấu. Như thế, sẽ bớt đi những người bị chết oan. »

Vũ thầm nghĩ khi nhìn ánh phản chiếu lấp lánh trên lớp men sứ. Trong lúc đó, Sáu đã đặt tách cà-phê

xuống bàn, ngửa người tựa trên lưng chiếc ghế bành thấp chân. Cổ áo sơ-mi đen của y phanh ra làm nổi bật lớp

da trắng hồng, tuy đã điểm vết mồi nhưng vẫn còn rực lên lửa dục. Y thích màu đen. Y có vài tá sơ-mi đen.

Trong các buổi tiếp khách nước ngoài hoặc những lần ra mắt dân chúng, y buộc phải mặc sơ-mi trắng và com-

plê nhưng vào tất cả các dịp được phép, y đều mặc áo đen. Một sở thích đáng lưu ý. Có thể đó là cách làm

dáng, tôn tạo nước da mỡ màng, được chăm sóc kĩ lưỡng của y. Nhưng cũng có thể đó là cách gây ấn tượng,

kiểu những băng cướp áo đen hay những môn phái võ áo đen trong lịch sử. Không ai dám bàn đến điều đó một

cách công khai, trừ ông. Lần đó, chính ông khơi chuyện, chính ông tấn công :

- Anh quả thật là quyến rũ trong màu áo đen...Hiện đại và trẻ trung nữa...Trong màu áo đen, trông anh trẻ

hơn đến mười tuổi....Như thế là ăn gian được mười năm trong đời...


Ông nói với y như vậy vào giờ nghỉ trưa một hội nghị, khi tất cả các đại biểu đang sà xuống các bàn ăn. Y

có vẻ sững sờ như không tin vào những gì tai y vừa nghe được. Lúc đó, ông thong thả nói tiếp :

- Nhưng theo tôi, đây là cách anh chơi trội bằng màu sắc. Kiểu chơi này đã có từ những năm đầu thế kỉ,

chẳng mới mẻ gì. Thêm nữa, những việc anh làm đã đủ gây ấn tượng quá nhiều. Guồng máy quyền lực

anh nắm trong tay, quyền sinh quyền sát. Hà cớ chi phải khoác áo đen ?

- Cậu....cậu....

Y lắp bắp, mặt tái đi vì giận. Những người xung quanh cũng tái mặt đi vì sợ hãi. Còn ông, ông lặng lẽ

nhìn y. Một tích tắc trôi qua, y mỉm cười. Đối lại nụ cười của y, ông cũng cười, nụ cười của kẻ chuẩn bị bước

lên dàn treo cổ. Sau một khoảng khắc câm lặng và đông cứng thù nghịch, y lấy giọng xuề xoà, thân thiết :

- Cậu...bị ong đốt hay sao ? Tôi mặc áo đen hay áo trắng thì có ảnh hưởng gì đến kinh tế quốc dân ?

Ông cười mai mỉa :

- Có chứ ! Anh mặc áo đen thì tiết kiệm được một ít xà-phòng. Như thế, làm gương giáo dục thanh niên rất

tốt. Chỉ có điều giá tiền mua mười cân xà-phòng không vượt qua giá một lọ nước hoa Pháp mà mỗi lần

đi nước ngoài về, tôi thấy anh xách cả va-ly cho các phu nhân lớn nhỏ trong ngoài gia thất của anh.

- Tôi chịu thua cậu.

Y nhã nhặn đáp lời :

- Nhưng cũng cần thông cảm cho người khác. Không phải ai ai cũng chịu được cuộc sống thày tu như cậu.

Đàn ông cũng như gà trống, nó phải biết khoe mào và vẫy đuôi.

Lúc đó, ông cười nhạt rồi bỏ đi. Trong khi các đại biểu khác lặng lẽ như tờ so đũa, chia bát....

Ba tuần sau, ông anh cả từ quê lên. Không kịp nghỉ sau những cuốc tàu xe, họ kéo nhau ra vườn hoa ven

hồ Tây, nơi những kè đá ngập đầy rễ bèo với xác phù du. Ông anh nói ngay, chẳng cần rào đón :

- Có người vừa thuật lại cho tôi nghe mọi sự. Chú định chết hay sao ?

- Chính vì em không sợ y, mạng em mới còn. Nếu không giờ này mồ em đã xanh cỏ.

- Đó là hạng người tàn độc đặc biệt. Chẳng phải thời nào cũng xuất hiện. Chú đã quên bài học của gã Lê

Đinh rồi sao ?

- Em không quên. Nhưng em chẳng ở vào vị thế của gã.

- Tôi lo cho chú quá. Nếu chú có mệnh hệ nào....

Vũ nắm tay người anh, nhìn gương mặt xiết bao gần gũi và tin cậy :

- Anh ơi, trong hoàn cảnh này chúng ta chỉ có thể trông cậy ở tình huyết mạch mà thôi. Chúng ta sẽ làm tất

cả những gì có thể làm được. Còn thành hay bại là ở mệnh trời.

Người anh cả nghẹn ngào :

- Tôi chỉ lo cho chú thôi. Còn tôi sao cũng được. Trong gia đình ta, chú mới là kẻ có tóc. Còn tôi là thứ

trọc đầu. Chúng nó chẳng thèm để mắt đến tôi.

- Em cũng như anh thôi. Chúng ta chẳng có đường lùi.

Họ nắm tay nhau nhưng không nói gì thêm vì lúc đó, phía đền Quan Thánh đã xuất hiện một cặp trai gái.

Cặp này vượt qua đường Cổ Ngư rồi tiến thẳng về phía họ.

-Sao, giờ cậu có thể đánh giá được một cách chuẩn xác rồi chứ ?

Giọng Sáu vang lên đột ngột khiến ông giật mình. Vũ vội đặt tách cà-phê xuống và đáp :

- Ngon !...Quả là ngon.

Sáu ngả người hoàn toàn ra phía sau lưng ghế, trong dáng điệu vừa uể oải vừa oai vệ, hai cánh tay vắt một

cách đối xứng lên hai ngai chiếc ghế bành :

- Cậu nghiện cà-phê hay nghiện trà ?...

- Tôi thích cả hai, nhưng không nghiện thứ nào hết. Giờ có chuyện gì anh nói đi.

- Ồ, đương nhiên là có chuyện.

Y ngừng lại, dường như chờ ông hỏi tiếp. Nhưng đã quá thuộc ngón nghề của Sáu nên ông lơ đãng nhìn

ra ngoài khuôn cửa sổ, làm như đã quên chủ đề, hoặc chủ đề ấy là thứ vặt vãnh chẳng đáng quan tâm. Sau cùng,

y cạn tách trước ông và lên tiếng :

- Văn phòng vừa báo cho tôi biết rằng ông cụ yêu cầu xuống núi thăm một người dân.

- Người dân nào ?

- Một gã tiều phu rơi xuống vực, chết ngay trên võng cáng về làng. Tôi mời cậu đến là để khuyên ông cụ

bỏ ý định ấy đi. Vào lúc này, chúng ta đang có trăm ngàn công việc phải lo. Ông cụ chẳng nên làm rắc

rối thêm mọi sự.

- Ông cụ là chủ tịch nước, đương kim chủ tịch. Cũng là người sáng lập đảng...Làm sao tôi có thể khuyên

nhủ ông cụ. Ai đẻ ra cái ý nghĩ quái gở này ?


Đấy không phải một ý nghĩ quái gở mà là một nhận định sáng suốt. Anh Ba quyết định điều này. Cũng

chính anh Ba gợi ý rằng giờ đây cậu là người duy nhất có khả năng bảo được ông cụ.

- Bảo ông cụ ?

Vũ buông tách cà-phê, đứng bật lên. Một cơn uất giận cháy bùng bùng trong cơ thể ông, lan theo huyết

mạch, co giật các cơ bắp, bóp nghẹt con tim. Ông đột nhiên run rẩy, tiếng nói của ông cũng run rẩy theo :

- Anh nói gì ?....Tôi bảo ông cụ ?...

- Không....Không....tôi xin lỗi....

Sáu cũng đứng lên theo, và y bỗng nhiên nói lắp vì bối rối :

- Tôi lỡ lời...Tôi quên mất ngôn từ chính xác. Tôi thành thật xin lỗi cậu. Nhưng anh Ba nói rằng lúc này

cậu là người gần gũi nhất với ông cụ, có khả năng tác động đến ông cụ.

- Chẳng phải riêng tôi mà cả dân tộc này gần gũi với ông cụ. Điều ấy là sự thật hiển nhiên. Nếu các anh có

quên, tôi xin nhắc cho các anh nhớ lại.

- Tôi biết ! Tôi biết !

Y đáp và làn môi y bỗng trắng nhợt đi khiến giọt cà-phê còn rớt trên đó hằn lên một vết nâu rõ rệt :

- Xin lỗi, tôi dùng nhầm danh từ. Điều này đôi khi cũng xảy ra với nhiều người khác, bởi chúng ta chỉ là

những cán bộ của đảng. Chúng ta không phải các nhà tư tưởng cũng chẳng phải các nhà văn.

-

« Các nhà tư tưởng với các nhà văn thì ăn nhằm gì trong câu chuyện này ? Họ chỉ là đám hề múa may

theo kịch bản chúng mày viết sẵn.»

Ông muốn khạc vào mặt y câu nói đó, nhưng linh cảm về sự chừng mực cần thiết của tấn trò đời khiến ông

ngừng lại được. Vờ như không chú ý đến những lời lẽ của y, ông lại nâng tách cà-phê lên nhấm nháp cho đến

giọt cuối cùng. Lúc đó, như đã lấy lại được thăng bằng, y hắng giọng nói tiếp :

- Thật sự là đôi khi tôi cũng rối trí vì quá bận. Cứ nghĩ rằng ông cụ đang trong thời kì dưỡng bệnh nên tốt

nhất là nên nghỉ ngơi. Vả chăng, lúc này mọi phi đội trực thăng đều bị huy động ra chiến trường. Ông cụ

cũng nên thông cảm với chúng ta. Đất nước đang có chiến tranh.

Ông nhìn thẳng vào mặt y :

- Anh nghĩ một cách thật sự rằng tôi có thể nói lại với ông cụ những gì anh vừa nói ? Anh tin rằng điều đó

là khả thể ?

- Ồ không ! Tôi không muốn nói rằng cậu phải trần thuật lại những ý tưởng trần trụi như vậy, nhưng bằng

cách thức khác và với những ngôn từ khác.

- Những lời lẽ đường mật hơn, văn vẻ hơn ? Phải chăng ý anh muốn nói vậy ? Nhưng tôi cũng như các anh

đâu phải nhà văn ?

- Nói với cậu khó bỏ mẹ. Cậu cứ cố tình không chịu hiểu người ta. Chẳng làm văn chương nhưng rõ ràng

cậu được ông cụ tin yêu hơn bọn mình. Khi đã tin yêu nhau, người ta dễ bề thông cảm. Chiến tranh đang

gay cấn, chúng ta cần phải động viên toàn quân cũng như toàn dân. Ông cụ nên nghỉ ngơi, giữ gìn sức

khoẻ để còn đón tiếp các đoàn anh hùng chiến sĩ sắp từ chiến trường trở về. Ngoài ông cụ ra, chẳng ai có

thể làm điều ấy.

- Tôi không rõ tôi có vinh hạnh được ông cụ tin yêu như anh nói hay không, nhưng cái sự thực là ngoài

ông cụ ra, chẳng ai làm được điều ấy là chân lý hiển nhiên, người mù cũng biết.

Vũ buông từng tiếng và đọc những ý nghĩ lộ liễu đang chạy qua cặp mắt của y :

« Nếu điều ấy không hiển nhiên thì mồ mày đã xanh cỏ. Và không chỉ mình mày. »

Ông cười thầm trong bụng :

― Đôi khi mày cũng là kẻ thật thà. Hoặc nếu không phải thật sự thật thà thì mày là thằng kép hát loại hai.‖

Đưa chiếc tách cà-phê đã cạn sạch lên ngó nghiêng một hồi, ông thong thả nói tiếp :

Anh là người cầm đầu guồng máy tổ chức của đảng, lý lịch của từng người anh thuộc như bàn tay, vậy

anh phải biết rõ rằng trước khi đi theo cách mạng tôi đã được ăn học tử tế. Tổ tiên tôi dạy rằng phàm khi

ai đã thật sự yêu thương ta thì ta phải lấy sự tín cẩn nghiêm kính và lòng trung thành đáp lại. Nếu ông cụ

đã yêu thương tôi thì tôi chẳng thể đối đãi lại như một thứ ―mẹ mìn‖ hay quân phản tặc.

Y lại cười, dẫu tiếng cười nhợt nhạt :

- Ồ, cậu đúng là dân sính chữ nghĩa.

Nói xong, y đứng phắt dậy như bị bọ cạp chích dưới mông rồi y bắt đầu sải những bước dài trong phòng.

Cái bóng cao lớn, phương phi của y in xuống nền đá lát sáng choang như gương. Đôi giầy của y đánh xi bóng

loáng. Ông có cảm tưởng rằng vừa đi y vừa lắng nghe tiếng gót giày nện xuống sàn, thậm chí có thể y còn đếm

cả những bước chân....Một người bạn đồng cấp đã kể cho Vũ nghe rằng trong một cuộc gặp tay đôi, y đã bắt

ông ta ngồi chết dí trên ghế suốt nửa tiếng đồng hồ trong khi y lượn vòng không mệt mỏi, hệt như một gã chào

hàng giới thiệu kiểu giầy mới .

Vũ thầm nghĩ :

― Mày chưa đủ sáng suốt để hiểu rằng mẹo nào dùng mãi cũng nhàm. Các ngón hù doạ thế nhân cũng như

văn chương nghệ thuật, cần thay đổi.‖

-

Đưa mắt ngắm y một cách tò mò từ đầu xuống chân, ông nói :

- Xem ra anh vẫn dẻo dai lắm. Còn phục vụ chị em được lâu dài...

Y nhìn đôi mắt cười cợt của ông, hiểu rằng mình vừa đi sai nước cờ. Mặt y thoáng đanh lại nhưng rồi y

lại mỉm cười và ngồi xuống trước mặt ông, vươn hai cánh tay ra phía sau chiếc ghế bành khua khoắng, làm như

cuộc diễu hành của y vừa rồi đơn thuần chỉ là một thứ thể dục buổi sớm, một thứ thói quen để khởi động ngày

làm việc của đám người mài đũng quần trên ghế văn phòng :

- Cảm ơn cậu, nhờ trời máy móc của tôi còn tốt. Đấy là chưa gia tăng sâm nhung quế phụ.

Rồi, như để tránh một cú móc hàm của ông, y vội kêu lên như chợt nhớ ra một điều quan trọng :

- Chết thật, dạo này bận bù đầu, tôi quên không gọi điện cho ông cụ. Còn cậu ?

- Ông cụ cũng chẳng gọi điện cho tôi, đã từ lâu.

Ông đáp lạnh lùng.

Y vồn vã :

- Nếu vậy, tôi sẽ bố trí để cậu lên thăm ông cụ. Lâu lâu quay lại thăm thú núi non cũng hay.

- Tuỳ anh.

Ông trả lời vắn tắt và đứng lên.

Ngay tức khắc y đứng lên theo, nhanh như một con mèo, giơ tay nắm chặt cánh tay ông :

- Để tôi gọi điện bảo chúng nó lo. Ngày mai cậu có thể lên đường được.

Thế là ông có mặt ở đây, sân bay nội bộ dành riêng cho không quân vào lúc đứng bảy giờ sáng.

Bây giờ, ông ngồi uống trà và ngắm sương mù bồng bềnh phía bên kia con hồ Định Công. Chờ đợi.



**********


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:40 PM
Post #7


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 6



Từ lúc thức giấc, chủ tịch đăm đăm nhìn về phương đông, ngóng mặt trời lên. Nhưng bốn bề bít bùng

mây trắng.

Mây ngàn như dòng lũ dìm các đỉnh núi trong biển trắng mịt mùng. Từ các khe lạch, trườn theo các vực

sâu, hơi nước cuồn cuộn bốc lên như khói, một thứ khói ướt lạnh tẩm mùi hăng ngái của cây rừng và hương

những loài hoa dại. Những luồng hơi nước khổng lồ di động, tựa hồ một lũ rồng bị chọc mù, rờ rẫm trong một

hành trình vô định. Lũ rồng ấy khi trườn theo các dãy núi vươn dài những khúc thân kinh dị của chúng, khi dồn

tụ nhào trộn chồng chất trong thung lũng tạo nên hình ảnh các loài thuỷ quái giao tranh. Không còn chân trời,

cũng chẳng thấy những giải rừng cao thấp nhấp nhô trên ba tầng núi. Ngay khu vườn nhà chùa cũng nhù nhoà

trong sương. Sương trắng chập chờn ngay bên ngoài tấm kính che cửa sổ phòng ông.

Ngồi nhìn biển sương, chủ tịch đặt một ngón tay lên mạch, tự đếm....Chín mươi lăm, chín mươi sáu, chín

mươi bảy...Con số nhảy không ngừng. Vào tuổi này, khó mà làm chủ được thân xác. Chủ tịch biết ông đang

ngóng đợi một người, và nỗi hồi hộp cứ đến dù ông không mong muốn.

« Sao bỗng dưng ta rơi vào tình trạng oái oăm này ? Trước đây vài năm, tất thảy còn khác biệt .... »

Ông tự hỏi và hiểu rằng ông không thể trả lời.

Trước đây dăm sáu năm, ông những tưởng mọi sự đã an bài. Cuộc cờ đã xong. Xiêm áo cũ chẳng còn

trong rương mà đem đốt rụi. Những tấm ảnh cũng đã bị huỷ thành tro để tan hoà cùng bụi đất. Vậy mà giờ đây,

tim ông lại đổ hồi.

« Thôi, bề nào cũng không còn cứu vãn được. Một khi lối đi đã rấp rào gai bồ kết, giếng thơi đã bị lấp

chẳng còn bóng nước để soi tìm hình bóng người xưa... »

Ông tự nhủ.

Nhưng đột nhiên, tiếng nói của kẻ đối nghịch vang lên trong tâm hồn ông :

« Đó là một ván cờ sai. Đó là cuộc chiến bại nhục nhã nhất trong đời người, trước hết một người đàn

ông. »

Chủ tịch thở dài :

« Ta chẳng có cách lựa chọn nào khác. »

Tiếng nói kia đáp lại :

« Không phải là không có những con đường khác. Nhưng vấn đề là ngươi không đủ can đảm để lựa

chọn một con đường khác. »

Ông lặp lại :

« Bây giờ, mọi cánh cửa đã khép lại rồi. Cái gì đã trôi qua là hết. »

Kẻ đối nghịch bí ẩn kia cất tiếng cười vang một cách khinh miệt :

« Mọi sự chưa hẳn đã xong như ngươi lầm tưởng. Thất bại nào cũng kéo theo những hệ luỵ mà kẻ thua

trận chẳng bao giờ lường hết. Đó là điều ta cảnh báo ngươi ! »

Mây vẫn chưa tan.

« Sao mà lắm sương mù đến thế trong buổi sáng này ? »

Chủ tịch đứng dậy vì không còn chịu nổi trạng thái nửa tê dại nửa nôn nao như đang ngồi trên lửa. Nhưng

ông vừa đặt chân xuống bậc thềm, chàng lính béo từ phía hiên bên chùa chính đã bổ nhào đến, chặn lại :

- Sương mù độc lắm, xin chủ tịch ngồi trong phòng cho.

- Tôi ngồi từ sáng đến giờ rồi.

- Xin người chờ cho chút nữa, tan sương rồi người hãy ra hiên.

- Chú nhìn thấy sư cụ và sư nữ chứ ?...Một người hơn tôi bảy tuổi, người kia là đàn bà chân yếu tay mềm.

Cả hai đã ra sân từ mờ sáng, họ có chờ mặt trời lên núi đâu ?

- Dạ, nhưng...

- Để tôi ra đây một lúc cho thoáng. Ở trong phòng nhiều quá không ngạt thở vì buồn thì cũng tê bại chân

tay.

- Thưa...

Nhưng ông đã gạt cậu ta sang một bên, cương quyết bước xuống sân. Ở đó, ông đứng lặng bên vườn mai

như hoá đá. Sương mù phả vào mặt ông ướt lạnh, đượm mùi tươi ngái của núi non. Bên chùa chính, ánh nến

bập bùng, tiếng mõ lẫn tiếng tụng kinh vang lên đều đặn thứ âm nhạc đối với ông đã bắt đầu trở nên quen

thuộc. Thi thoảng, tiếng đọc kinh ngừng lại, nghe rõ tiếng rơi thánh thót của sương trên mái ngói. Mái ngói rêu

phong, ngả màu đen. Những khuôn cửa gỗ cũng ngả màu gụ sẫm cùng năm tháng. Trong khung cảnh âm u

thiền mặc, ánh nến lung linh hơn, rực rỡ hơn...

« Ồ, ánh lửa....sao mà giống ánh lửa ? »


Tim ông thốt lên một tiếng kêu ngây dại. Ánh lửa nến của nhà chùa gợi cho ông một ánh lửa khác, trong

rừng sâu Việt bắc năm xưa...Ngọn lửa xa vời của chiến khu....Những ngọn lửa nhảy nhót, nổ tí tách và bắn tung

những đốm hoa cà hoa cải. Một ngôi nhà mênh mông , những tràng hoa giấy đủ màu cắt bằng những bàn tay

vụng dại của lũ trẻ giăng trên các cây cột. Lác đác chen vào các tràng hoa là những mảnh giấy trang kim lấp

lánh. Ông biết chắc chắn rằng để có được những mảnh lá nhấp nhánh ấy, cậu phụ trách thiếu niên đã phải gom

nhặt và cất giữ suốt một năm trời những vỏ bao thuốc của ông, thứ xa xỉ phẩm duy nhất mà ông tự cho phép....

Ông nhớ gần như tất cả những gương mặt trẻ thơ được soi rọi trong ánh lửa đêm ấy, những gương mặt rực

nguồn sáng hạnh phúc...

« Nhưng năm ấy là năm nào nhỉ ? Không thể là năm Bính Tuất được, bởi lúc ấy cuộc kháng chiến đã đi vào

khuôn khổ, mọi cơ sở vật chất đã tương đối ổn định, kể cả nhà máy in tiền Con trâu xanh cũng hoạt động rồi.

Năm ấy chắc chắn là năm Đinh Hợi. Đúng vậy, năm Đinh Hợi. »

Một chiều, có lẽ khoảng ba giờ rưỡi hoặc non bốn giờ, chiểu theo độ xiên của các tia nắng lọt qua kẽ lá.

Ông đang chúi đầu xuống đọc tài liệu chợt nghe tiếng hắng giọng liên tục. Khi ông ngẩng lên, chánh văn phòng

đang ngoác miệng cười :

- Thưa chủ tịch, lát nữa mời người sang dự liên hoan với các cháu.

- Nhân dịp gì vậy ?

- Người quên rằng hôm nay vẫn còn trong dịp tết thiếu nhi ?

Ông ngẩn ngơ trong giây lát rồi nói :

- Tôi tưởng rằng tôi đã vui chơi và phát kẹo cho các cháu ?

- Thưa chủ tịch, người đã vui chơi và phát kẹo cho các cháu khối nhi đồng, nghĩa là đám trẻ từ hai đến

mười tuổi. Nhưng hôm nay đến lượt khối thiếu niên, các cháu từ mười đến mười lăm, đặc biệt là các

thiếu sinh quân từ mười lăm đến mười bẩy, đang tập trung học tập để chuẩn bị lên đường sang nước bạn.

- A....Ra thế...

Ông đáp, nhưng rồi nghĩ đến hai chồng tài liệu dày cộp đang chờ ông trên kệ gỗ :

- Tôi còn nhiều việc lắm...

- Báo cáo chủ tịch, các cháu thiếu niên đang háo hức chờ người. Các em tập rượt chương trình văn nghệ cả

tháng nay để đón chào ngày lễ. Nếu người từ chối e rằng...

- Tại sao các chú không tổ chức gộp vào một buổi ?

- Dạ, nếu thế quá đông, hội trường không đủ sức chứa. Vấn đề thứ hai là bữa trước, ban tổ chức không có

đủ bánh kẹo. Thế nên, đành phải chia làm hai keo.

Nói xong, anh ta ngoác mồm cười khoe hai hàm răng vừa khấp khênh vừa ám khói thuốc lào nhôm

nhoam màu đất. Ông nhìn anh ta, bất giác bật cười :

- Thôi được. Tôi tranh thủ làm việc một lát nữa. Lúc nào đi chú sang đón tôi.

Đoạn, ông cúi xuống tiếp tục đọc tài liệu, hoàn toàn thản nhiên. Ông không biết rằng định mệnh đang

đứng chờ ông dưới chân cây cột nhà sàn.

― Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau....‖

Câu hát quen thuộc của chàng bác sĩ lại vang lên trong tâm tưởng. Tựa ngọn roi điện quất xuống trái tim

ông. Cơn đau lan toả khắp thân xác. Ông có cảm tưởng rằng không chỉ trái tim ông bầm nát mà những tế bào

trong cơ thể ông cũng bầm nát theo.

Rồi ông bỗng nghĩ đến hình ảnh thần Cu-pi-đông, hài nhi có cánh hai mắt bị bịt kín. Hình ảnh ấy khiến

ông sởn gai ốc, rùng mình :

― Nào ai biết được trên cõi đời rồi đây ai sẽ là người yêu dấu ? Nào ai biết rằng khoảnh khắc nào búa rìu

của thần định mệnh sẽ bửa nát con tim ?‖

Buổi tối hôm ấy, khi anh chàng chánh văn phòng quay lại đón ông, ông còn cố đánh nốt trang bản thảo.

Cất gọn mớ tài liệu rồi ông đi ra cửa. Nhưng đã đặt chân xuống cầu thang, ông lại quay lên lấy mảnh vải trùm

chiếc máy chữ vì sợ bụi mọt hay côn trùng từ trên mái tranh rơi xuống làm hư hại công cụ làm việc của mình.

Không một chút vội vàng trong cử chỉ. Chẳng mảy may xao động trong tâm can. Ông thực hiện mọi động tác

với một sự chú tâm cần thiết cũng như sự bình thản cần thiết trong vai trò của ông, lãnh tụ cuộc chiến tranh.

Anh chàng chánh văn phòng đứng chờ ông dưới chân cầu thang để đưa ông sang khu doanh trại chung của

các đoàn thể. Phụ nữ đoàn, thanh niên đoàn, thiếu nhi cứu quốc, đảng dân chủ, đảng xã hội, nông hội....Tất thảy

đều quây thành một khối. Khu gia đình cũng nằm kế ngay bên, nơi bầu đoàn thê tử của các cán bộ cao cấp vừa

tham gia kháng chiến vừa lo việc nhà. Khu doanh trại cách nhà sàn của ông một thung sâu, một con suối. Khi


chủ tịch cùng người dẫn đường xuống thung lũng, trời đã tối đen. Cậu chánh văn phòng ve vẩy cây đèn pin bọc

vải dày, chỉ hở ra một đốm sáng bằng con đom đóm. Thung lũng thiếu bóng cây cao. Những loài cây mọc dọc

lối đi chỉ là loài tùng thảo hay diệp chi không đủ sức che con mắt dòm ngó của máy bay do thám. Nhưng bù

lại, có rất nhiều đom đóm rừng và những mảnh gỗ mục sáng rực lân tinh tựa hồ lửa soi đường của Sơn thần

hay dạ đăng của các Lâm chúa.

Họ phải nương nhờ thứ ánh sáng ấy mà đi. Khoảng nửa giờ sau, mới đến bờ suối. Qua suối, chỉ còn một

con dốc ngắn là tới khu doanh trại. Ông hỏi chàng chánh văn phòng :

- Lần trước, tôi dặn chú khi qua suối phải làm gì chú có nhớ không ?

- Dạ, chủ tịch nói...rằng....rằng...

Anh ta nhai câu nói giữa hai hàm răng khiến ông phì cười :

- Tôi dặn chú trước khi qua suối nhớ đái vào hai bàn chân. Đấy là cách phòng bệnh thấp khớp cổ truyền

mà tôi học được. Các chú còn trẻ nên chưa biết sợ luật trời, coi thường sức khoẻ. Nhưng sức khoẻ là thứ

tài sản lớn nhất mà con người cần phải gìn giữ...

- Thưa chủ tịch, tại đầu óc tối mò mò nên học trước quên sau...

- Ồ, đây không phải vấn đề chữ nghĩa : Chẳng phải thiếu thông minh mà là thiếu ý thức tiên liệu...

Chánh văn phòng cười hì hì rồi lùi lại ngay sau lưng ông, thực hành bài học ông vừa giảng. Chủ tịch nghe

tiếng nước tiểu rót ồ ồ, thầm nghĩ :

― Cu cậu khoẻ thật....Tuổi trẻ đúng là thiên đường....‖

Họ phải mò mẫm qua suối khá lâu vì lòng suối rất trơn, dù nước không sâu lắm. Bãi đá không ghồ ghề

nhưng lại xen những tảng đá đầy rêu nhớt, chỉ cần lạng chân lên đó trong tích tắc, ngã như chơi. Phải vào bệnh

viện thì phiền toái lắm, nhất là bệnh viện nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu mọi phương tiện lẫn thuốc men. Nỗi lo

thiết thực khiến ông luôn luôn phải tự nhắc bản thân cũng như tất thảy mọi người :

― Cuộc chiến tranh đang trong giai đoan vô cùng khó khăn. Chúng ta phải cố gắng giữ sức khoẻ. Nói

cách khác chúng ta không được quyền ốm. Bệnh viện và thuốc men nên dành cho thương binh. Giữ sức khoẻ

trong khả năng tối đa, đó là kỉ luật, đó là tinh thần trách nhiệm trước tổ quốc cũng như đối với chính bản thân

mình.‖

Giữa lòng suối, chánh văn phòng đột nhiên túm lấy ông :

- Đoạn này trơn lắm, xin người để tôi dắt.

- Cảm ơn, nhưng tôi đã vượt qua khúc nguy hiểm nhất rồi.

- Người thấy nước suối có lạnh quá không ạ ?

- Lạnh hay không chúng ta cũng sắp đến bờ.

Ông cười, và nói tiếp :

- Lần sau, nếu có lòng tốt muốn cõng tôi thì phải hỏi trước khi đặt chân xuống nước.

- Ô ...ô...ô...

Anh ta không có cách nào đối đáp nữa nên đành cất tiếng kêu như một con bê vậy. Trong bóng đêm, cả

một đám người đã láo nháo hiện ra :

- Chủ tịch....Chủ tịch đã đến...

- Chủ tịch đến rồi ạ ?.

Ông cất tiếng đáp :

- Tôi đây!

Đám người cất tiếng reo rồi chạy tràn xuống suối, lúc ấy làn nước chỉ còn già gang tay. Nước bắn tung toé

lên cả quần áo chủ tịch. Những ánh đèn ve vẩy loang loáng trên mặt nước, rồi những cánh tay túm lấy vai ông,

lưng ông. Kẻ rờ áo, người rờ vai. Chủ tịch nhận ra đám người quen bởi mùi mồ hôi, hơi thở.

- Chủ tịch có mệt không ạ ?

- Mệt chứ. Nhưng chưa mệt đến mức phải yêu cầu các chú cõng lên doanh trại.

Ông đáp, đoạn xăng xái leo lên dốc. Từ đây, rừng già rậm rịt. Ai nấy đều lột vải bọc đèn pin. Những vệt

ánh sáng từ hai bên đường đan chéo nhau loang loáng phía trước mặt ông. Chủ tịch thấy sảng khoái. Ông nghĩ

tới niềm vui đang đón đợi. Những cuộc gặp lũ trẻ là khoảnh khắc thư giãn đối với ông, gần như giờ ra chơi đối

với bọn học sinh tiểu học.

Phía trước, khu nhà sáng rực ánh lửa. Các khuôn cửa có màu cam chín, thứ màu lộng lẫy trong đêm.

Tiếng trẻ đồng ca vang lên theo nhịp vỗ tay. Khi ông bước vào, tất cả bọn chúng đứng dậy, cất tiếng hát rộn

ràng theo nhịp vỗ tay, thay lời chào đón :

― Non sông ta hằng nhớ ơn người đời đời,

Chúng ta lắng nghe tiếng người vang rền sông núi,

Nào cùng đi, tiến bước trên con đường giải phóng,

Nào cùng đi, nghe hồn thiêng nước Nam vẫy gọi....‖

Tất cả những gương mặt tươi non ấy, tất thảy những đôi mắt long lanh ấy, và ngọn lửa đêm rực rỡ ấy...;

ông nhớ rành rọt tới tận giờ....Phải chăng vì chúng được ghi khắc cùng một lần với một gương mặt, một cặp


mắt, một nụ cười như son tô, một mái tóc đen óng ả ?...Phải chăng vì chúng được hiện diện cùng một lần với

hình ảnh của nàng ?...

Ồ không, không!

Có lẽ thời gian khiến mọi vật đều nhiễm bóng mây huyễn tưởng. Đúng ra, sau buổi tối hôm ấy, ông

chẳng còn vấn vương gì. Nói cho thật chính xác, trước khi giấc ngủ ập đến, ông nhớ lại đêm liên hoan với niềm

vui lâng lâng, nhẹ nhàng : Dàn đồng ca. Ngọn lửa. Điệu múa xoè. Những chiếc váy dán giấy trang kim nhóng

nhánh. Một đứa bé trai cỡ mười hai tuổi hát bài ―Sơn nữ ca‖ với giọng tê-no tuyệt vời. Và sau rốt, một đôi mắt

nâu trong vắt nhìn ông chăm chăm bên kia đám lửa.

― Ôi, đôi mắt bồ câu! Mắt bồ câu!...‖

Con tim ông vang lên tiếng trầm trồ, thán phục :

― Sao lại có một cặp mắt đẹp đến như vậy! Ta chưa từng bắt gặp một đôi mắt nào giống đôi mắt đó. Quả là

vưu vật của Tạo hoá !Trời đất mới diệu kì sao ?‖

Đúng như vậy.

Chính xác là như vậy.

Sau đó, ông chẳng còn nhớ được gì bởi công việc dồn xuống đôi vai ông. Chiến dịch rồi lại chiến dịch.

Mặt trận co lại phía đông và mở rộng về phía tây. Công tác hậu cần đang báo động. Công tác phản gián có vấn

đề. Một mạng lưới điệp viên vừa bị đốt, nửa số người sa lưới đã nằm trong nhà tù, nửa còn lại bị vô hiệu hoá

đang tẩu tán khắp nơi hoặc thu mình trong bóng tối. Tình hình nội bộ cũng đã nẩy sinh những vấn đề cần chấn

chỉnh. Nhà nước thiếu nghiêm trọng những cán bộ có đủ trình độ văn hoá để phục vụ cho công tác binh vận và

ngoại giao.

Đúng là ông không còn nhớ gì nữa.

Và năm tháng trôi đi......

Trôi đi tháng năm.

Trôi đi những khúc nhôi khác biệt của cuộc đời. Đời người nào khác chi dòng sông bất trắc, nào ai đoán

trước được những khúc thẳng khúc queo, những sụt lở hay đắp bồi, nơi đâu nước chảy êm đềm và nơi đâu là

ghềnh thác. Phải chăng tất cả chúng ta đều nằm trong tấm lưới rộng dài của số phận ?...Phải chăng những múa

may quay cuồng của mỗi người cũng giống như vài lớp diễn trò của chú Tễu mà thôi ?...

Giá như có cách chi đoán biết được số phận hẳn cuộc sống của ông sẽ xoay theo chiều khác....Giá như có

cách chi đoán biết được số phận hẳn ông đã thoát được lưới trời...

Nhưng mọi sự : Giá như , chỉ là tiếng thở dài chung cục. Chúng giống như những vọng âm của đá lở,

người ta chỉ nghe thấy tiếng ầm ầm rung chuyển khi những tảng đá đã sắp rơi xuống đáy vực. Nào ai có thể giơ

tay chặn được một tảng đá khi nó đang rơi từ đỉnh núi xuống vực sâu ?...Ai ?...

Câu hỏi ấy có vẻ như yếm thế, và ông không muốn tin rằng ông đã mềm lòng. Tinh thần cương cường

của người cách mạng cũng như sự kiêu ngạo của chủ nghĩa duy vật ngăn cản ông tin vào định mệnh. Tuy nhiên,

cơn khắc khoải triền miên của ông vẫn chờ đợi một câu trả lời. Nhưng lời giải đáp còn chìm trong sương mù

của chân trời phía trước. Và như thế, muốn hay không ông vẫn phải nhớ một con số, một cái mốc thời gian mà

bỗng nhiên, con tim già nua của ông bị trúng thương.

Ấy là một ngày hè định mệnh.

Trưa hôm ấy, tướng Long mời ông sang duyệt lịch trình cho chiến dịch sắp tới : Thu-đông năm 1951. Ông

hài lòng, kể từ lúc bắt đầu cuộc kháng chiến đến giây phút ấy ông mới có thể thở một hơi nhẹ nhõm :

« Bánh xe bắt đầu quay rồi đây. Ta đã vượt qua giai đoạn chập chững của cuộc chiến tranh, giai đoạn

muôn ngàn gian khó...Mùa hè này mở đầu cho một thời kì mới.... »

Mùa hè ấy có tên là Tân Mão.

Tân Mão cũng chính là tuổi của ông.

Một mùa hè tới muộn nhưng không quá oi nồng. Ông định mặc bộ quần áo ta màu gụ ra đi song ngẫm

nghĩ một vài giây, ông liền thay quân phục. Ông biết rằng khi mặc quân phục ông trẻ đẹp ra. Dáng người dong

dỏng của ông vô cùng thích hợp với âu phục hay binh phục. Trong lối trang phục ấy, ông dễ dàng lấy được vẻ

duyên dáng, quyến rũ. Trong lối trang phục ấy, nét mặt ông dường như cũng tươi tắn hơn dịu dàng hơn và

trong tâm hồn ông những bài ca thời thanh xuân ào ạt trở về. Những lời ca ấy ngân nga một cách thầm kín và

đem cho ông niềm sảng khoái mà chỉ mình ông hay biết. Thay quân phục xong, ông báo cho cảnh vệ biết rằng

ông sẽ sang hầm tướng Long một mình, đoạn đường quá ngắn và quá quen thuộc, vả chăng ông thích đòi lại

trong khoảnh khắc một thứ tự do đã bị tịch thu. Đường rừng, chim kêu vượn hót lá reo...nhưng trước hết, một


mình đi, một mình suy tưởng, một mình nhìn ngắm cảnh quan....đó thực sự cũng là một hạnh phúc khi cuộc

sống con người bị ràng buộc quá chặt chẽ vào tập thể...

Trong tâm trạng hoàn toàn mãn nguyện ông săm săm bước, hầu như không để ý đến xung quanh. Được

nửa đường, bất chợt những tiếng kêu hốt hoảng cất lên :

- Xin dừng lại ! Xin chủ tịch dừng lại !

- Đừng đi ! Xin chủ tịch đừng đi !

Ngẩng lên, ông thấy hai cô gái nghễu nghện cưỡi trên một cành cây lớn chĩa ngang qua lối mòn. Các cô

đang loay hoay tìm đường tụt xuống, cô nào cô nấy mặt đỏ gay, miệng lấm lem ruột vả. Ông biết ngay rằng họ

đang chia nhau chùm vả chín, vì mải ăn họ không nhìn thấy kẻ bộ hành đột nhiên xâm phạm biên thuỳ của họ,

phá tán bữa quà ngon lành hiếm hoi. Rồi khi chợt nhận ra ông, họ không còn đủ thời gian để tụt xuống nên

đành rối rít kêu lên để chặn ông dừng lại. Bây giờ, hai cô đang cuống cuồng tìm cách giải thoát.

- Cẩn thận, cẩn thận không ngã.

Đến lượt ông kêu to vì sợ hãi khi nhìn thấy hai cô nối nhau ôm thân cây, tụt một lèo như hai con khỉ nhỏ.

- Cẩn thận.

Ông tiếp tục kêu nhưng không tránh được một nụ cười :

- Sao các cô không xuống từ từ ? Làm như thế vừa dễ ngã vừa rách quần áo ?

Lúc ấy hai cô mới cúi xuống nhìn trang phục xốc xếch của họ :

- Thưa chủ tịch !

Một cô cất tiếng và ngước nhìn ông.

Chủ tịch choáng váng : Chính là đôi mắt ấy ! Đôi mắt bồ câu. Nỗi ám ảnh sau cùng của đêm liên hoan

bốn năm về trước. Ông nhận ra tức khắc cô bé năm xưa nhìn ông đăm đăm qua ngọn lửa. Phút chốc, những ảnh

hình, những màu sắc, những âm thanh, những kỉ niệm trong chuyến đi đêm xưa với cậu chánh văn phòng sống

lại. Nguyên vẹn. Tươi mới. Tro tàn lãng quên của bốn năm đột nhiên bị gió cuốn sạch trơn :

« Tết thiếu nhi muộn màng. Đêm liên hoan vào ngày mồng bốn tháng sáu. »

Ý nghĩ đó vụt qua như tia chớp. Cùng lúc, một chuỗi sấm nổ rền khiến óc não ông như muốn bật tung

lên :

« Năm xưa cô bé mười lăm ! Và giờ đây, nàng mười chín tuổi ! »

Vâng, đó chính là nàng !...

Hình như ông đã im lặng khá lâu khiến hai cô gái bối rối. Các cô hết đưa mắt nhìn nhau, lại nhìn lên cây,

rồi nhìn xuống đất :

- Chúng em xin lỗi chủ tịch ạ.

- Chúng em không nhìn thấy người ạ .

- Chúng em...

Ông không hiểu những tiếng lúng búng của nàng. Ông chỉ thấy đôi mắt bồ câu trong vắt của nàng vừa

như hồ thẳm vừa như giọt sương treo cuống lá, hai hàng mi cong như cánh nhạn chớp liên hồi. Ông chỉ nhìn rõ

cặp môi tươi thắm chín mọng của nàng lấm lem ruột vả khiến hai hàm răng hạt bắp càng nổi bật, lóng lánh như

ngọc trai. Ông thấy gương mặt nàng vừa mang vẻ thơ ngây của đứa trẻ vừa có nét quyến rũ đặc biệt của những

người đàn bà, mà trời sinh ra họ dưới cái biệt danh : Nghiêng nước nghiêng thành....

Ông cũng không còn nhớ rằng ông đã trấn an hai cô gái ra sao?... Ông cũng chẳng nhớ các cô đã chào ông

rồi ra đi theo cách nào. Ông cũng không nhớ ông đã nói gì với nàng vào phút cuối...Tâm hồn ông chao đảo.

Tim ông đập thình thình như đang còn tuổi hai mươi. Cùng với cơn ba động ấy, tiếng reo bốn bề vang lên tựa

một dàn đồng ca khổng lồ đang đứng quanh ông, ca hát. Tiếng hát của một đám đông vô hình vô dạng. Phải

chăng đó là ma rừng hay thần núi, là tiếng reo hoan hỉ của các lâm chúa hay tiếng reo hò nham hiểm của đám

phù thuỷ già ?...Một thoáng ngờ vực sợ hãi khiến ông đứng lặng. Ông cứ tiếp tục đứng như thế hồi lâu, khi hai

cô gái đã đi xa. Ông lắng nghe tiếng hát của dàn đồng ca huyền bí kia, thấy không gian rung rinh chao đảo, thấy

những lượn sóng khổng lồ vô hình dập dờn uốn lượn. Không gian nhiệm màu là một đại dương và ông là con

tầu bị ném xuống trùng dương đó ngoài mọi ý muốn, mọi đoán định, mọi dè chừng...

- A....a...a....

- A...a...a....

Ông nghe tiếng reo lan toả khắp bốn phía rừng già, tiếng reo đuổi theo ông như những con sóng đuổi theo

một con tầu, dồi lắc xô đẩy nó trong một cuộc phiêu lưu, trò đùa giỡn cay nghiệt của số phận.

Đêm hôm ấy, ông ghi vào tờ lịch túi : Năm Tân Mão.

Tháng Mão.

Giờ ngọ. Ta đã......

Những kẻ tò mò thông minh nhất quả đất cũng không đoán được dòng chữ dang dở.....


- Thưa chủ tịch, xin người vào dùng bữa.

Anh lính béo đã đứng phía sau lưng ông tự lúc nào. Ông cất tiếng :

- Các chú dùng bữa đã lâu chưa ?

- Dạ, thưa người bếp đại đội đang chuẩn bị bữa trưa.

- À ra thế..

Ông lẩm bẩm. Dạo này ông ăn uống thất thường, ngày không còn đủ ba bữa .Nhiều khi ông quên rằng

phải ăn và phải ăn cho ngon lành để dân chúng được yên tâm về tình hình sức khoẻ của ông. Sự đãng trí là bạn

đồng hành của tuổi già, người ta muốn ruồng rẫy nó cũng không nổi. Ông quay vào phòng, ngồi xuổng trước

khay đồ ăn sáng. Một chiếc bát sứ loe thành có vung úp kín bên trên. Ông lật chiếc vung còn bỏng rẫy, đầm đìa

hơi nước :

- À, ra hôm nay nhà bếp cho ăn cháo ...

Mùi hành hoa và tía tô xông lên ngào ngạt. Mùi hương quen thuộc của những căn bếp cổ truyền. Cháo

hành tía tô vừa là món ăn nhẹ vừa là thứ thuốc giải cảm cúm. Ông đã quen mùi hương này từ thời ấu thơ.

- Xin người dùng bữa kẻo nguội.

Anh cận vệ béo nhắc nhở, mắt không rời đôi tay ông.

Ông cúi xuống, nhìn những sợi hành thái đều tăm tắp cùng những lá tía tô xắt mảnh như sợi miến tầu,

chợt nhớ tới một lần nào đấy ông bị ốm và nàng trổ tài nấu cháo cho ông. Bát cháo vụng dại nàng nấu còn

nguyên những hạt gạo và hành lẫn rau thơm còn nguyên cọng :

« Em là sơn nữ !...

Sơn nữ ơi, em là giấc mơ của ta, của riêng ta ... »

- Thưa chủ tịch ...

Cậu lính reo lên đột ngột, đoạn nghiêng đầu lắng nghe tiếng rì rầm nào đó một lúc rồi kêu :

- Máy bay lên rồi, chủ tịch có nghe thấy không ?

- Tôi chưa nghe thấy gì . Tai người ngoại bẩy mươi hẳn là khác tai chàng trai mười tám.

Ông đáp với nụ cười và đưa mắt nhìn về phương đông. Mặt trời đã mọc từ lúc nào chẳng rõ. Hoàn toàn

không giống mặt trời của ngày thường; bởi nó hệt như một trái cam chín muộn treo lủng lẳng giữa không

trung. Một mặt trời dịu êm không chang chói. Một mặt trời còn dùng dằng trong cơn mộng mị. Một mặt trời

ngái ngủ như thế chẳng mảy may gợi nên ý niệm thường hằng về trái cầu lửa hay cỗ xe hung dữ mang lửa đi

thiêu cháy các miền đất bị nguyền rủa trên hành tinh. Mây trắng vẫn xôn xao như biển quanh các đỉnh núi.

Nhưng xung quanh vầng dương là một khoảng xanh lơ giống như chiếc tán tròn. Một màu lơ trong suốt tươi

thắm lạ lùng.

Màu lơ ấy là màu của mùa hè vĩnh cửu. Cớ chi nó hiển hiện lên hôm nay ?

Trong lúc ông còn đang đắm chìm nhìn chân trời phía đông, chuông điện thoại nơi góc phòng bỗng reo

inh ỏi. Cậu lính béo chạy vào nghe đoạn quay ra :

- Thưa chủ tịch, trực thăng đã tới. Văn phòng mời Người xuống sân bay.

- Thủ trưởng Vũ không lên đây ?

- Dạ, thủ trưởng Vũ sẽ tháp tùng người cùng với đội cảnh vệ tới dự tang lễ của dân xóm Tiều Phu. Sau

đó thủ trưởng Vũ sẽ theo người trở lại chùa. Chương trình đã được duyệt.

- Tôi đi thay quần áo.

- Thưa, người cần phải ăn hết bát cháo vì trời rất lạnh. Tiểu đội cận vệ Một sẽ lên đây để tháp tùng

người xuống sân bay.

- Phải chuẩn bị quần áo đã.

- Thưa chủ tịch, tất cả đã sẵn sàng.



*********


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:42 PM
Post #8


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 7



Đường xóm núi quanh co uốn khúc ruột gà. Nghe tiếng nhạc tưởng chừng gần, nhưng đường đi vòng

hoá xa ngái. Hai bên lối đi, tre trúc rùm roà ngăn bước kẻ bộ hành. Mà tiếng nhạc đưa vong thì da diết não nề

không dứt. Thoạt tiên là tiếng kèn bầu, sau đó là tiếng sáo hoà cùng tiếng nhị. Khi khúc dạo đầu kết thúc,

tiếng hát của một người đàn ông cất lên, trầm đục :

« ...Vong hỡi vong, xin chớ quay đầu lại,

Vong hỡi vong, xin đừng nuối tiếc nẻo trần ai,

Như chồi non nảy nở tiết xuân, lá tươi thắm trong nắng hè, rồi úa vàng vào ngày thu tàn hay đông giá, cõi

nhân gian cùng trong tay Tạo hoá, nào ai thoát được trò chơi ? ...

Từ hư không, cha mẹ cho ta kiếp làm người, ta khóc tiếng khóc chào đời, ta cười tiếng cười trẻ thơ, ta

cất bước lên đường, nhấc gánh tang bồng tuổi tráng niên, rồi đặt gánh khi hơi tàn sức kiệt.

Nước chảy xuôi và tóc thay màu.

Lưới ông Tạo giăng khắp cùng bốn biển

Đời phu du như cánh bướm qua mau ... »

Ông lắng nghe tiếng hát đưa vong, thầm kinh ngạc vì lần đầu ông mới nghe những câu ca như thế, vậy

mà ông sống ở xứ sở của ông đã bao nhiêu năm trời :

« Vì sao đến bây giờ ta mới biết những câu hát dân dã ? Phải chăng chúng lướt qua như gió thổi mà ta

không để tâm hay trong bao nhiêu năm trời, chính quyền đã cấm dân chúng hát những khúc hát bi luỵ ? Nhưng

cõi đời vốn có sinh có tử, sự bi luỵ là anh em song sinh với niềm vui. »

- Thưa chủ tịch, xin người để tôi mang áo khoác.

Một cận vệ dấn bước đỡ chiếc áo khoác ông vừa cởi ra. Ông đưa chiếc áo cho anh ta , chợt thấy một cơn

đau chạy rần rật theo sống lưng. Mồ hôi ướt trán, ông lấy khăn tay thấm khô nhưng không đi chậm lại. Giờ đưa

vong sắp tới, ông đã nảy ra ý muốn đến thăm gia đình kẻ xấu số, ông không có quyền bắt họ phải chờ đợi. Vả

chăng, bao nhiêu người đã phải tháp tùng ông. Trước mặt ông tiểu đội thứ nhất đi cùng với chủ tịch xã, một

phụ nữ cao lừng lững như hộ pháp, vai ngang hình chữ thập với những cơ bắp cuồn cuộn mà bất cứ bậc mày

râu nào nhìn thấy cũng khiếp vía kinh hồn. Chị ta bận bộ đồ cổ truyền, áo vải phin xanh, quần sa-tanh đen

lánh , nhưng lại đi giầy vải đế cao-su buộc dây trắng ; kiểu giầy của vận động viên thể thao. Khuôn mặt rộng,

cặp mày xếch với đôi quai hàm bạnh sang hai bên, cổ to như cây cột lại đỏ au, vẻ lực lưỡng lẫn cứng cáp còn

hơn cả mười người đàn ông cộng lại. Sau lưng ông, tiểu đội thứ hai đi cùng với phó chủ tịch và công an xã, hai

người đàn ông thấp bé ngang nhau, ngang nhau cả cỡ tuổi lẫn cách trang phục, anh nào anh nấy đều ngoại tứ

tuần, áo đại cán, quần kaki Sĩ Lâm, riêng trưởng công an xã có thêm một chiếc thắt lưng da to bản đeo súng

ngắn. Hai tốp người đó làm thành một đội quân nhỏ sắp hàng bốn. Con đường hẹp, nhưng bên tay trái ông là

Vũ cùng cậu bác sĩ, bên tay phải là đội trưởng đội cận vệ Lễ. Đi sau họ chừng ba mươi thước là một trung đội

vũ trang chống bắt cóc bằng máy bay.

- Thưa chủ tịch, xin người uống thuốc trước khi tới dự đám tang.

Tới lượt bác sĩ đề nghị. Ông dừng lại, uống một nắm thuốc với chén nước gừng ủ trong phích mà anh ta

đã chuẩn bị một cách lặng lẽ. Rồi họ tiếp tục đi. Đoạn đường này gập ghềnh hơn. Hai bên, trúc không còn rủ

la đà mà ken dày đặc như tường thành. Cành lá đan xen tạo nên tấm mái che xanh biếc. Đã đúng ngọ, bởi tiếng

gà eo óc gáy từ xóm đông qua xóm tây, từ thôn thượng qua thôn hạ. Tiếng gà gáy cũng như tiếng nhạc đưa

vong rền rĩ không ngưng nghỉ dường như chẳng thể khuấy động một im lặng vô hình đang ngự trị trong không

gian mà làm cho nó ngưng kết hơn. Sự im lặng này trong suốt như thuỷ tinh và rắn chắc hơn kim loại. Một im

lặng mênh mông. Dường như nó đang che chắn cánh rừng nào đó bên kia đường chân trời :

« Vong hỡi vong, hãy nhìn về phía trước

Để bụi trần lắng đọng sau lưng »

Tiếng hát nghe đã gần lắm rồi, nhưng họ vẫn phải vượt qua một cua đường lượn vòng thúng mới tới

nơi. Đám đông đã tụ tập ngay trên lối vào ngõ, chờ ông. Thiếu niên cầm cờ hoa, đồng phục gọn gàng, vai

khoác dù nguỵ trang xếp thành hai hàng danh dự. Sau lưng chúng là tất thảy cư dân xóm Tiều Phu, đàn ông lẫn

đàn bà, đều cỡ trung tuần trở lên. Không còn thanh niên ở lại làng, họ đã đăng lính hoặc tập hợp trong các đội

thanh niên xung phong phục vụ mặt trận.


« Thế này chính là cảnh chiến tranh. Khi trai tráng ra đi, chỉ còn lại những người đàn bà giặt quần áo bên

sông hoặc cầy cấy trên cánh đồng. Và nhà thơ viết Chinh phu ngâm trong tiêu điều, quạnh hiu xóm vắng ... »

Ý nghĩ của ông đứt đoạn vì đám đông đã nhận ra ông :

- Chủ tịch muôn năm, muôn muôn năm !

- Chủ tịch sống đời đời với non sông !

- Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam muôn năm !

- Chủ tịch muôn năm !

Ông chợt nhận ra tiếng nhạc đưa vong đã im bặt, bởi các nhạc công tay kèn tay nhị đều đã đứng hết lên

trên ghế để nhìn ông cho rõ. Đám người quấn khăn tang cũng ào ra chào đón khách quý, mắt ai nấy còn sưng :

« Họ đã bỏ người chết nằm một mình trong nhà. Cuộc viếng thăm của ta hoá ra gây tác hại cho gia

chủ. »

Những tiếng hoan hô thoạt tiên còn ngượng ngùng, e ngại nhưng mỗi lúc mỗi trở nên nồng nhiệt. Dường

như mọi người đã quên khuấy tình cảnh của tang gia. Điều đó khiến ông cảm thấy sự hiện diện của mình trở

thành lố bịch. Chờ cho đám đông bớt cuồng nhiệt, ông giơ tay phác một cử chỉ để lấy lại sự im lặng. Tức khắc,

đám đông im phăng phắc. Một thoáng run rẩy lướt qua tim khi ông nhận ra khả năng chinh phục và quyền uy

của mình. Sức mạnh ấy chưa mất đi cùng với tháng năm :

- Thưa bà con ,

Ông cất tiếng và quan sát những ánh mắt của dân chúng. Trong những ánh mắt ấy có một vẻ ngưỡng mộ

cuồng si một sự phục tòng vô điều kiện mà ông đã quá quen thuộc. Giờ đây cái vẻ quen thuộc ấy chẳng còn

khiến ông thích thú :

« Tại sao người ta không thể yêu một cách khác đi ? Tại sao người ta không thể vừa yêu kính vừa bình

đẳng với một ai đó ? »

Ông thầm nghĩ trong khi tiếp tục nói với họ :

- Thưa bà con, tôi xin chân thành cảm tạ sự nồng nhiệt mà bà con đã dành cho tôi. Nhưng chớ quên rằng

chúng ta đến đây là để dự đám tang chứ không phải mít- tinh hay hội họp. Tôi cũng chỉ là một người khách

viếng vong bình thường như bất cứ ai trong đám chúng ta. Tôi đề nghị bà con im lặng, ai trở về vị trí nấy để

tang sự diễn ra được hoàn hảo.

Lời của ông bao giờ cũng là mệnh lệnh, một thứ mệnh lệnh đầy ma lực hay thần lực, chính ông cũng

không biết rõ. Dân chúng lặng lẽ tản ra, lặng lẽ đến mức ông nghe thấy cả hơi mình thở. Thân quyến gia chủ

trở lại đứng quanh quan tài. Dàn nhạc cất lên khúc não nề của cuộc tiễn đưa vĩnh cửu :

« ...Từ cát bụi lại trở về cát bụi

Cuộc xoay vần cũng đến thế mà thôi ... »

Đội cận vệ đã dừng lại bên ngoài. Chủ tịch xã và Lễ tháp tùng ông vào viếng gia chủ. Họ phải đi qua

một mảnh sân thênh thang, không lát gạch mà lát thuần một thứ đá xanh, bề nào cũng dư bốn tấc. Những thớt

đá xếp đều tăm tắp khiến sân nhà tang chủ giống sân đình sân chùa thời thịnh vượng hơn là sân nhà của một

thôn dân. Khu nhà xây kiểu chữ môn, toà nhà chính ở giữa , năm gian thênh thang lát thuần ngói cổ. Hai bên

hai dãy nhà ngang cũng không kém phần đồ sộ, dãy nào cũng năm gian có hàng hiên rộng chạy quanh. Vừa

đưa mắt lướt qua, ông đã nghĩ :

« Cửa cao nhà rộng đến thế này rồi cũng ra đi với hai bàn tay trắng. »

Và bất giác ông buông tiếng thở dài.

Từ phía sau, Lễ tiến lên đưa cho ông một chiếc phong bì :

« Thưa chủ tịch, đây là tiền viếng ; »

Ông cầm chiếc phong bì một cách máy móc mà không nghĩ tiền viếng là thứ tiền gì và cần bao nhiêu cho

đủ. Những kỉ niệm mờ nhạt về phong tục hiếu hỉ của dân quê, những hình ảnh về ma chay, cưới hỏi thời con

trẻ không để lại mảy may dấu vết. Còn trong cuộc sống hiện tại, ông hoàn toàn không đụng chạm tới tiền bạc

và những vật khả dĩ có giá trị. Thật sự, ông chưa từng có trong tay một đồng tiền dù người ta in hình ông trên

tất thảy những loại tiền của xứ sở. Nhưng ông thấy mắt những người dân trong xóm kín đáo nhìn vào chiếc

phong bì trong tay ông, và lần đầu tiên trong đời ông băn khoăn về giá trị thực của những tờ giấy tiêu được.

Một ngờ vực khiến ông sợ hãi :

« Không hiểu họ đặt vào trong đó bao nhiêu đồng ? Nó có khiến cho những người dân kia thất vọng ? »

Cuộc sống thật sự đòi hỏi những giá trị cụ thể. Mà những giá trị ấy, người ta chỉ hiểu khi đã quá muộn

màng :

« Toujours après coup ! »

Lại một tiếng thở dài thầm kín thốt lên trong trái tim ông.


- Xin chủ tịch tới bàn thờ trước.

Nữ chủ tịch xã hướng dẫn. Chị ta đi trước, ông theo sau. Người đàn bà cao lừng lững, đôi vai rộng như

vai võ sĩ quyền anh có vẻ như một nữ vệ sĩ chuyên nghiệp :

« Tại sao bộ nội vụ không tuyển chị ta vào đội vệ sĩ nhỉ ? Thật là uổng phí một tài năng ! ».

Ông thầm nghĩ trong khi bước tới trước bàn thờ. Đó là một chiếc tủ đa dụng, nửa để thờ bên trên, nửa

chứa đồ bên dưới. Chiếc tủ rất lớn, được đóng bằng gỗ tứ thiết, chạm trổ long, ly, quy, phượng và khảm trai,

ra dáng một thứ tài sản hơn là vật gia dụng. Tủ kê chính giữa bức tường đối diện với cửa lớn. Một bát hương

bằng đồng đang bốc khói. Hai cây nến cháy trong đôi giá đỡ cũng bằng đồng . Hai bình hoa cắm đầy mào gà

lẫn mẫu đơn và các loại hoa rừng. Ông đặt phong bì viếng vong lên chiếc đĩa lớn bằng sứ cổ, màu men ngọc

lộng lẫy, trên đó đã chất đầy những phong bì tự chế bằng các loại giấy tạp nham.

- Con xin đội ơn chủ tịch ạ.

- Con xin cảm tạ người .

Cùng lúc, một người đàn bà trẻ và một đứa bé trai tiến đến trước mặt ông, quỳ sụp xuống lễ. Ông lúng

túng bởi người ta chỉ quỳ lễ theo kiểu ấy trước thần linh hay bàn thờ của gia tiên :

- Thôi, thôi ...xin mời gia đình đứng dậy.

Ông đỡ đứa bé lên, nhận ra điều ông đoán ngày hôm qua là chính xác : Nó cỡ mười hai hoặc mười ba.

Bộ quần áo tang rộng thùng thình khiến thân hình nó càng thêm bé nhỏ. Chiếc mũ tang sụp tới mũi thằng bé,

nhưng khi nó ngẩng lên, ông nhận ra một gương mặt khả ái với đôi mày dài như vẽ và cặp mắt đầy tính nam

nhi :

« Thằng bé khôi ngô quá, nó sẽ rất đẹp trai khi khôn lớn . Cầu cho nó được may mắn trưởng thành. »

Hôm qua, khi nghe đứa bé khóc gọi cha, ông không hình dung nổi gương mặt của nó. Với ông, nó chỉ là

một đứa bé vô danh gợi cho ông những liên tưởng tới một đứa bé khác. Giờ đây, gương mặt sáng ngời của nó

khiến trái tim ông thổn thức. Gương mặt ấy triệu hồi một gương mặt xa cách. Một gương mặt thiếu vắng ...Cổ

họng ông bỗng dưng se lại. Ông xoa đầu thằng bé, định nói điều gì đó nhưng không tìm được ngôn từ. Hình

như ông đã khóc vì lúc đó, Vũ tiến sát đến và đưa cho ông chiếc khăn tay.

Chúng con xin đội ơn người.

Tiếng một người đàn bà trẻ cất lên bên tai khiến ông giật mình ngẩng đầu lên ...

Goá phụ tiến đến trước mặt ông, cảm tạ. Ông nhìn thấy một gương mặt đầm đìa lệ bó trong chiếc mũ

khâu bằng vải xô. Gương mặt ấy trẻ trung, khả ái. Chị ta chỉ khoảng ba mươi tuổi, khó có thể hơn. Nỗi mất

mát vừa ập tới chưa làm suy xuyển nhan sắc lẫn sinh lực của người đàn bà đang độ xuân thì. Goá phụ có

gương mặt mơn mởn của một người tràn trề hạnh phúc. Một gương mặt vô cùng khó kiếm trong xứ sở chiến

tranh. Nước da chị ta trắng hồng, không một nốt tàn nhang hay vết rám như đa phần những thôn dân, những kẻ

suốt ngày dầm mưa dãi nắng trên sườn non hay ngoài cánh đồng. Một đôi mắt đen, đầy vẻ táo tợn với đôi mày

dài chấm thái dương, chắc chắn là thứ tài sản đã được chia xẻ cho đứa con trai. Đôi mắt ấy cũng không thường

gặp nơi những người phụ nữ làng quê, bởi nó không phản chiếu một chút cỏn con nào sự nhẫn nhịn, vốn là thứ

phẩm chất thường gặp nhất ở những người đàn bà đất Việt. Đôi mắt ấy chiếu thẳng vào mặt ông, không chút e

dè, không mảy may sợ hãi :

« Với đôi mắt này, cô ta có thể làm bất cứ điều gì cô ta muốn. »

Ông thoáng nghĩ và tìm vài từ thích hợp để đáp lễ :

- Chúng tôi xin chia buồn với gia đình. Hy vọng cô và cháu sẽ vượt qua được giai đoạn khó khăn một

cách nhanh chóng. Cố gắng cho cháu được học hành đến nơi đến chốn

- Dạ, chúng con xin thực hiện lời người.

Goá phụ đáp lại tức khắc, dường như câu trả lời đã được chuẩn bị sẵn .

Lúc đó, chủ tịch xã mời ông quay lại viếng người xấu số. Ông đi theo chị ta một cách máy móc vì không

hiểu thủ tục của một đám tang bình thường diễn ra theo cách nào. Suốt cuộc đời ông, đây là lần đầu ông có cơ

hội và cũng chủ tâm quan sát đám tang của thứ dân. Đột nhiên, sau một khoảnh khắc ngắn ngủi, những tiếng

gào nhất loạt cất lên sau lưng chủ tịch :

- Ôi cha, cha ơi cha, sao nỡ bỏ chúng con ?

Lúc ấy ông mới nhận ra rằng còn gần hai chục người nữa mặc áo xô, trừ dăm ba người cỡ tam tuần, tứ

tuần, còn lại thuần một đám thiếu niên lẫn con nít. Tất cả chen chúc, túm tụm với nhau làm thành một đội quân

bề thế có khả năng lấn át mẹ con người đàn bà kia. Tất cả hợp thành một dàn đồng ca, cất lên tiếng kêu than

như những điệp khúc, đệm theo bài hát của đội nhạc. Họ đứng bên trái cỗ quan tài còn mẹ con người đàn bà trẻ

đứng bên tay phải.

« Hai thứ quân, hai thứ con, điều này có vẻ như chắc chắn.. ; »

-

Ông thầm nghĩ và đưa mắt tìm kiếm tấm ảnh tang. Gần như tức khắc, ông nhìn thấy một chiếc ghế tựa

chạm trổ cầu kì kê sát đầu cỗ quan tài, trên đó đặt bức ảnh lớn lồng khung kính và trùm vải đen :

« A ...Ông ta đây ! Không phải một ông bố ngoại tam tuần hay sát tứ tuần như hôm qua ta phỏng

đoán. »

Người làm chủ hai đội quân tả hữu quan tài đã ngoại ngũ tuần nếu không hơn. Chỉ có điều gương mặt

ông ta không phản ánh chút nào sự mệt mỏi, sự an hoà, sự trầm mặc, sự nhẫn nại như gương mặt những người

đàn ông khác ở vào độ tuổi ấy. Một gương mặt chữ điền, vừa hằn lên những nét phong sương vừa phóng chiếu

niềm kiêu hãnh và sự dồi dào sinh lực. Đôi mắt ông ta nhìn thẳng về phía trước với cái nhìn ngạo nghễ, thách

thức xen lẫn đôi phần ranh mãnh. Sống mũi lớn, thẳng như ống tre. Khuôn miệng đẹp, nét môi đều đặn, được

bao bọc bởi bộ râu quai nón dài rậm, loăn xoăn như râu người phương tây nhưng còn đen nhánh :

« Gương mặt ấy biện minh cho tất cả những gì xảy ra xung quanh kẻ xấu số, ngay chính trong gian nhà

này. »

Ông bàng hoàng. Những ức đoán, những liên tưởng, những ngậm ngùi tràn đến như đoàn thuyền bập

bềnh trên dòng nước. Ý thức đàn áp xưa cũ cũng tức khắc ập đến tựa dòng thác ào ạt xối xả dìm đắm những

con thuyền. Một chất nước cay xộc lên trong sống mũi ông. Một làn khói chập chờn trước mắt ông, vừa có

màu xám của mây giông vừa có màu tím phiêu du của hoa anh túc.

- Thưa anh cả, chúng ta phải về thôi !

Vũ cất tiếng sau lưng ông. Ông thấy một bàn tay khẽ chạm vào tay mình, chợt hiểu đã đến lúc ông phải

thức tỉnh. Quay sang đám người trắng xoá khăn áo xô bên trái cỗ quan tài, ông nói :

- Tôi xin chia buồn cùng với gia đình. Tôi cũng hy vọng gia đình ta vượt qua nỗi đau buồn này và

nhanh chóng ổn định được cuộc sống.

Tới lượt đám người này đáp lễ ông với tất cả sự thống thiết oan khiên mà họ tích trữ trong tim não. Ông

kiên nhẫn chờ đợi cơn thống thiết kêu gào của họ nguôi dịu xuống để rút lui. Nhưng dường như lời an ủi của

ông là cái cớ để tất cả những nguồn cơn tàng trữ phía sau nỗi mất mát này được dịp phát lộ. Những tiếng khóc

tiếng than hờ của hai mươi con người rền rĩ vang lên .

-Ôi cha ơi cha, sao cha nỡ bỏ chúng con vào giữa lúc nước sôi lửa bỏng này ?...Cha ơi, cha ra đi mà bao

nhiêu nông nỗi chưa được giãi bày, bao nhiêu oan khiên chưa kịp bày tỏ ?

-Cha hỡi cha, xin quay lại lắng nghe...Này con này cháu, bao nhiêu ruột rà máu mủ của cha đây...

Lúc này chính nữ chủ tịch xã đã cứu ông thoát khỏi cơn rối ren một cách nhanh chóng :

- Thôi !

Chị ta ngẩng lên quát một cách bất ngờ khi màn khóc lóc có nguy cơ kéo dài và tăng cường độ :

- Thôi, đau thương nào cũng phải có giới hạn. Vả lại, chủ tịch cần phải giữ sức khoẻ để lo việc quốc gia.

Đề nghị gia chủ giãn ra để chúng tôi đưa người về nghỉ.

Nói xong, chị ta giơ hai cánh tay lực lưỡng gạt đám người sang hai bên, với tất cả sức mạnh và sự chuẩn

xác của lưỡi ben máy xúc. Ông chưa kịp hiểu ra mọi chuyện thì đã thấy mình đang đi qua mảnh sân lát đá để

ra cửa. Mấy cậu cận vệ cũng đã bám sát lưng ông. Cả bốn người trong dàn nhạc đồng quê đứng lên, và họ chơi

quốc thiều để tiễn biệt :

Tiếng nhạc quen thuộc cất lên.

Chủ tịch buộc phải dừng lại giữa sân cùng với đoàn tuỳ tòng, thoáng thấy vị nữ chủ tịch đưa mắt nhìn đội

nhạc tang, không hiểu để ban khen hay để hăm doạ. Bề nào họ cũng phải chờ quốc thiều kết thúc.

Quốc thiều, quốc thiều !

Ông sững sờ như lần đầu nghe thấy nó, cái giai điệu đã từng ghi khắc vào trí nhớ của ông những nét sâu

đậm từ bao năm nay. Phải chăng vì âm hưởng của đám tang hay vì tâm trạng của chính ông đã đổi thay cùng

năm tháng ? Hoặc những nhạc cụ dân tộc đã đem lại một màu sắc lạ lùng cho bản nhạc vốn dĩ quen thuộc này ?

Ông chẳng thể cắt nghĩa một cách minh bạch, nhưng nỗi kinh hoàng xâm chiếm tâm hồn ông khi nghe bản

quốc thiều diễn đạt bởi kèn bầu, sáo và nhị. Cớ sao giai điệu buồn đến thế ? Hành khúc của một dân tộc mà

vương vấn thê lương, ai oán. Dường như trong nhịp điệu hùng hồn kia ẩn chứa tiếng chuông chiều thả bóng lẫn

tiếng cú rúc đêm trường . Dường như tiếng hát sôi sục kia gợi nên những hình ảnh không một chút tương đồng

với nó : những chân trời mịt mù sương khói, những dòng sông lạnh lẽo chẳng bóng người, những bến bờ ngập

tràn rác rến, những nghĩa địa chạy dài vô tận, rợp cánh quạ đen bay.

« Phải chăng vì tuổi già khiến ta dễ sầu thương, hay vì những loại nhạc cụ kia đem lại cho quốc thiều

một nỗi bi hoài mà nó không vốn có ? Bởi dàn nhạc đưa vong chỉ có thể thích hợp với những giai điệu cổ như

Làn thảm, Sa lệch chênh, Sẩm soan, ? »


Ông không tìm được lời giải đáp. Một cơn nhức nhối vặn xoáy tim ông. Ông ngước mắt nhìn khoảng

trời xanh bên trên vòm tre trúc, cố xua đuổi những ý nghĩ ảm đạm đang lởn vởn nhưng không thành công.

« Hãy chỉ cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. Cũng như thế, có thể nói rằng :

Hãy cho tôi nghe tiếng hát của một dân tộc, tôi sẽ chỉ cho anh biết số phận của dân tộc ấy ! Phải chăng định

mệnh của một dân tộc đã vĩnh định trong các làn dân ca, trong những giai điệu xưa cổ nhất, những giai điệu

theo đuổi một dân tộc như kẻ đồng hành mãn kiếp, như hình với bóng như hai nửa đực cái của loài cá lưỡng

dục ? Liệu con người có thể đổi thay định mệnh được hay không, và trong cuộc sống, phần nỗ lực của họ sẽ

mang tới bao nhiêu phần trăm trên tổng số những gì được gặt hái trong suốt cuộc sinh tồn ? »

-

Mời chủ tịch đi tiếp.

Anh chàng béo đã đứng áp sát lưng ông, thì thào.

Ông quay lại, giơ tay vẫy chào đội nhạc rồi ra cổng. Ở đó, hai tiểu đội cận vệ đã sẵn sàng.

Họ trở lại đội hình cũ để quay lại nơi máy bay trực thăng chờ đợi .



**********


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:43 PM
Post #9


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 8



- Bạch sư cụ, chúng tôi phiền nhiễu ngài nhiều quá.

- Thưa chủ tịch, chúng tôi hân hạnh được phục vụ ngài.

- Bạch sư sụ, có thể cuộc trò chuyện của chúng tôi sẽ kéo dài hết buổi chiều, như thế phần đọc kinh chiều

của ngài sẽ bị gián đoạn.

- Thưa chủ tịch, người tu hành chúng tôi đọc kinh suốt cả cuộc đời. Khi cần thiết phải ngừng là ngừng.

Phật tính tồn tại ngay trong im lặng.

- Bạch sư cụ, ngài không sợ bị các đấng tối cao quở trách ?

Ông hỏi, với nụ cười đa nghĩa mà thiên hạ thường coi là nửa đùa nửa thật.

- Thưa ngài, phật mà chấp thì không còn là phật.

Sư cụ đáp, cũng với nụ cười , một nụ cười nhẹ nhàng, đoạn bước ra khỏi cửa.

Ông và Vũ đứng dẹp sang một bên khi nhà tu hành đi qua. Mùi bồ kết phảng phất trong không gian bởi

áo của các nhà sư được giặt bằng bồ kết. Góc vườn chùa có ba cây bồ kết già, tươi tốt um tùm, quanh năm chi

chít quả. Ông thường thấy sư nữ ra vườn kéo về từng thúng đầy, rồi đem xếp thành từng lượt trên chiếc dàn

bằng sắt thanh gần giống một chiếc vỉ nướng cá khổng lồ để sấy khô. Những chiều mưa dầm, hơi nước từ các

khe vực nghi ngút bốc lên hoà cùng mây trắng, hai người đàn bà ngồi sấy bồ kết trong im lặng, sự im lặng

này kéo dài cho tới tận bữa cơm tối khi sư nữ thắp nến trên các bệ thờ và khêu ngọn đèn dầu đặt trên chiếc bàn

tre cũ.

« Họ nghĩ gì trong sự im lặng triền miên ấy ? Hay họ không nghĩ gì cả ? Nhưng ta không tin rằng họ là

những con người đơn giản, thô sơ đến mức không có gì để mà suy nghĩ ...Bởi người không có suy nghĩ thì

không thể hành động với lòng can đảm như vậy ! »

Đã nhiều lần, ông thầm đặt câu hỏi cho mình. Chưa bao giờ tìm được câu trả lời thoả đáng. Ông nhớ ngày

đầu tới chùa khi nhìn tất thảy các khuôn cửa đều bị khoá chốt như những kho chứa hàng ông đã triệu tập Lễ

cùng văn phòng lên hỏi chuyện. Sau khi biết sự thật, ông tức tốc ra lệnh cho họ phải để sư cụ chủ trì và ít nhất

một hai đệ tử được quay lại, coi đó như điều kiện tiên quyết để ông chấp nhận an dưỡng ở nơi đây. Hai ngày

sau, cận vệ dẫn một đoàn người leo lên dốc núi. Ông biết rằng họ đã thực hiện mệnh lệnh của ông nhưng

không hiểu vì sao lại có cả một đám đông :

« Không lẽ họ ưng thuận cho cả mười hai vị sư trở lại chùa ? »

Ông thoáng nghĩ nhưng rồi gạt đi tức khắc giả thuyết ấy vì nó bất khả. Ông lui vào căn phòng của mình,

theo rõi. Quả là cả mười hai vị sư đều hiện diện cùng lúc trên sân chùa, nhưng không phải vì họ được phép trở

lại mà vì họ tháp tùng bậc trưởng thượng quay về chốn cũ . Theo lề thói xa xưa, đó là phương cách mà học trò

có thể biểu lộ lòng tôn kính bậc thầy . Ông nhìn thấy mười nhà sư cao lớn, tràn đầy sinh lực ; bởi chỉ có những

con người đầy đủ sức mạnh vật thể và tâm thể mới có thể thực hiện thiền định ở vùng núi xa xôi này. Mười

người đàn ông vạm vỡ ấy đứng xúm quanh một bà già bé nhỏ, cao không quá một mét rưỡi, có gương mặt

điềm tĩnh với những đường nét rất bình thường của một người đàn bà Việt bình thường. Bà cụ cầm trong tay

một cây gậy trúc :

« Chính với cây gậy này, bà cụ đã xuống núi khi bị chính quyền bắt buộc rời chùa, và bây giờ, chính với

cây gậy ấy bà cụ leo trở lại đỉnh núi cao trên ngàn thước, không nhờ bất cứ ai cõng. Vậy mà bà già bé nhỏ kia

đã ngoại tám mươi ! »

Ông cảm thấy cùng lúc, sự áy náy ngượng ngùng lẫn với nỗi buồn. Vì nhà tu hành kia đã hơn ông bảy

tuổi ? Vì cái chính thể bắt buộc bà cụ phải lưu đày là chính thể của ông, và ông là người đại diện cho nó một

cách danh chính ngôn thuận ? Ông không tìm được duyên cớ chính xác. Trong khi đó, ngoài sân, sư cụ đã leo

lên bậc tam cấp ra lệnh cho đệ tử :

- Mô phật, chúng ta đã lại đứng trên đất nhà. Các con hãy mở tất cả các cửa, lau dọn các ban bệ rồi lên

hương, thắp nến. Còn con, sư nữ, phận sự của con là sửa soạn các bình hoa. Chúng ta sẽ đọc kinh để

đón rước các đấng tôn kính về chốn cũ.

- Mô phật, chúng con xin thực thi lời người.

Ông nhận thấy vẻ cung kính của tất thảy mười nhà sư kia trước vị sư già bé nhỏ và bất chợt một ý nghĩ

chua chát len lỏi trong óc não :

« Ngày mai, liệu trong những đệ tử sùng kính kia, ai là kẻ sẽ đẩy bà cụ xuống vực sâu để trở thành kẻ

chủ trì ngôi chùa này ? Ai là kẻ sẽ bỏ thạch tín vào món đậu phụ om tương hay canh rau cải ? »

Nhưng bên kia sân, tiếng chuông đã gióng giả vang lên. Rồi tiếp đó là tiếng gõ mõ, tiếng tụng kinh của

cả mười hai nhà tu hành. Không gian thoang thoảng mùi nhang khói. Ông lắng nghe tiếng đọc kinh đều đều

không ngớt , biết rằng có một thứ quyền năng khác ngự trị trong cõi nhân sinh, thứ quyền năng vô hình, thứ

quyền năng bất khả diễn đạt bằng những con số như quyền năng thế tục.

Những kỉ niệm ấy vụt trở lại khiến ông đứng trầm ngâm trong khoảnh khắc. Rồi chợt nhớ rằng Vũ đang

chờ, ông nói:

- Sư cụ đã cho phép, chúng ta có thể vào chùa.


Anh Cả chưa từng bước chân vào đây ?

Chưa từng. Tôi không dám xâm phạm vào cõi đất của người tu hành. Riêng việc chúng ta dồn mười

nhà sư kia xuống tầng núi dưới đã khiến tôi phải suy nghĩ. Tại sao họ không chọn một địa điểm khác ?

- Em cũng không rõ kẻ nào chọn địa điểm này. Nhưng chắc chắn đây là nơi tốt nhất để chúng ngăn cản

mọi người tới gặp anh.

- Về phương diện này, họ là những người thông minh kiệt xuất.

Ông mỉm cười đáp, hình dung rằng bất cứ ai muốn trèo lên đỉnh Lan Vu cũng phải xuất hiện trước ống

nhòm của đại đội cận vệ không chỉ trong vài giây, vài phút mà là nửa ngày trời cho dù họ là vận động viên

điền kinh hay chuyên gia leo núi. Trong điều kiện như thế, chỉ loài thỏ rừng hay chồn sóc mới hy vọng thoát

khỏi sự kiểm soát. Những đồng chí thù địch của ông quả đã suy tính kĩ càng khi chọn đỉnh Lan Vu thay vì một

hầm tối ― un oubliette‖ theo kiểu châu Âu xưa. Ở đây, ngay trên đỉnh núi thơ mộng này, ông cũng không thể trò

chuyện với người đáng tin cẩn trong phòng của ông hoặc căn phòng của bác sĩ. Tất cả các bức tường đều gắn

rệp. Mỗi lần Lễ dẫn một nhân viên kĩ thuật lên ―thay rệp‖, ông đều biết bởi lần nào họ cũng phải cõng bình

phun thuốc muỗi trên lưng. Lễ mời ông ―dạo chơi quanh rừng cho đôi chân khỏi tù đọng ‖ trong khi y ―phun

thuốc muỗi‖. Phải chờ đợi vài tiếng sau cho mùi thuốc đã bay hết, ông mới có thể quay lại phòng mình. Vì ông

không bao giờ vượt qua mảnh sân gạch để bước sang bên chùa chính nên các tượng phật trong ngôi nhà này

đã may mắn không phải thưởng thức mùi thuốc sát trùng. Và hôm nay, họ có thể nương nhờ cửa phật trong

phút chốc để trò chuyện với nhau.

-

-

Anh tin chắc rằng chúng ta sẽ an toàn khi nói chuyện ở đây ;

Vũ hỏi lại lần cuối, cho thêm phần chắc chắn.

- Chú cứ tin đi.Tôi già nhưng chưa lẫn.

Ông đáp, nhìn thẳng vào mắt người đàn em, người duy nhất còn lại với ông, cùng ông trong cuộc sinh tồn

-

này.

-

-

-

Em xin lỗi ...Nhưng ...

Tôi hiểu.

Họ im lặng phút chốc vì những hồi ức quay trở lại trong mỗi lời, mỗi ý. Rồi Vũ run run hỏi :

Anh Cả có ho nhiều không ?

Chú cứ an tâm, tôi đỡ nhiều rồi. Vấn đề còn lại là tim mạch. Nhưng thất thập cổ lai hi, tôi cũng đã sống

khá dài.

Anh Cả cần bảo trọng.

Chú cũng vậy. Nhưng xét cho cùng, chúng ta cũng chẳng có cách nào bảo trọng nổi chúng ta. Mọi sự

trên đời giống như canh bạc.

Vâng, đúng là cuộc đỏ đen.

Dù muốn hay không cũng phải chấp nhận rằng cuộc đời hạn hữu, sức người cũng vậy .Tôi không thể

làm gì hơn vào lúc này, nhưng tôi vẫn muốn biết thật sự những gì đang diễn ra trên đất nước ?

Nhưng ...

Cứ nói cho tôi biết. Chúng ta đã cùng chịu đựng những giây phút tột cùng hiểm nguy. Hẳn là chú chưa

quên điều ấy ?

―Nhưng anh yếu lắm rồi, anh cả. Chúng ta, những kẻ phàm trần, không thể chống lại sức tàn phá của thời

gian‖

―Nhưng tôi vẫn chưa mù, chưa điếc, chưa bại liệt óc não. Tôi vẫn muốn biết sự gì đang diễn ra ở ngoài

kia, bên ngoài những bức tường mây trắng, bên ngoài chốn ngục tù thơ mộng này.‖

― Em không đủ can đảm, xin tha lỗi cho em.‖

― Chính tôi mới cần xin lỗi chú. Tôi là kẻ chịu ơn chú. Tôi đã chất lên vai chú quá nhiều nỗi nhọc nhằn. ‖

― Xin anh đừng nói như vậy. Cả dân tộc này chịu ơn anh. Em có làm hơn thế nữa cũng không thấm tháp

gì.‖

Trên các bệ thờ, những pho tượng gỗ sơn son thếp vàng đang chăm chú nhìn họ. Ông tưởng chừng cuộc

đối thoại thầm kín của họ cũng không lọt khỏi những đôi mắt gỗ, những đôi tai gỗ kia. Mùi hương chầm chậm

dâng lên và lần đầu tiên ông cảm thấy mình đang bước lên một cõi đất mới, nhập vào một không gian mới.

Bỗng dưng, ông bật lên tiếng thở dài.

- Anh Cả làm sao vậy ?

- Không sao. Chú hãy nói cho tôi biết rõ sự gì đang xảy ra trên đất nước chúng ta ?

- Nhưng ...

- Đừng ngại ngần. Tôi có thể chịu đựng.


Tình hình đang rất xấu. Sức chưa đủ nhưng họ đã quyết định tổng tấn công. Tướng Hãn gặp em thông

báo rằng trận đánh Nậm Phai, toàn bộ ban chỉ huy bị nghiền nát, riêng tướng Hãn đang ở Hà Tĩnh nên

thoát. Xác lính ngập đầy khe, nước suối không chảy nổi.

- Tôi cũng đoán như thế, khi họ thúc hối tôi phải làm thơ động viên dân.

- Điều khủng khiếp không phải chỉ có vậy. Hãn quay trở lại mặt trận được hai ngày thì gia đình nhận

được giấy báo tử.

- Chú ấy bị hại trên đường, chắc chắn tại tỉnh Thanh.

- Em cũng ngờ như vậy.

- Đất tỉnh Thanh biến thành hang ổ lục lâm từ đã lâu.

- Vâng, nhiều người đều biết điều đó.

- Tội nghiệp cho gia đình chú ấy.

- Vâng, con nhỏ của nó chưa đầy mười tuổi, mà vợ nó lại đau khớp nặng ba bốn năm nay.

- Liệu còn lý do gì khác nữa ? Hay chỉ vì giữ liên lạc với chúng ta ?

- Chắc chắn. Báo, đài chỉ loan tin thắng trận. Lính đào ngũ bị chặn lại trên các ngả đường rừng từ

Quảng Trị ra Hà tĩnh và bị đưa vào các trại cải tạo đào binh. Không một ai ngoài miền bắc biết được

tin tức thật của mặt trận. Nhưng em nghĩ Hãn bị thủ tiêu còn vì một cớ khác.

- Tôi hiểu.

Ông đáp và bỗng nhiên thấy một cơn gió lạnh buốt chạy dọc sống lưng:

- Có quá nhiều người bị hại vì liên quan đến tôi.

- Anh không thể nói như vậy ...

- Đúng thế!

-...

- Cả tôi nữa, tôi cũng bị hại bởi chính tôi. Đấy là sự thật.

- Anh Cả, đừng tự dằn vặt mình.

- Chú cũng thấy là tôi chưa mù chưa điếc, chưa bại liệt tâm thần. Tôi vẫn phải chịu trách nhiệm trước

dân tộc.

Vũ nhìn ông giận dữ :

- Anh không thể làm gì hơn nữa cho cái dân tộc này. Dân tộc của anh cũng phải chịu trách nhiệm về

chính nó.

- Dân tộc ấy không phải là của chú hay sao ?

- Nó cũng là của em.

Vũ cất tiếng thở dài :

- Nó cũng là của em, đúng vậy. Nhưng nhiều khi em thấy nản lòng. Bởi người ta không thể thay đổi nòi

giống như thay quần thay áo.

- Nhưng đó là dân tộc của chúng ta. Có muốn chối từ cũng không được.

- Vì không thể từ chối nên con người mới đau khổ.

- Trên hành tinh này chắc chắn có nhiều giống người đáng phải đau khổ như chúng ta. Nhưng đa phần

con người không ý thức được là họ cần phải đau khổ vì một điều gì đó , một hiện thực nào đó. Khi

họ chưa hiểu được là có những sự thật đáng để cho con người đau khổ thì sự đau khổ ấy không tồn tại.

Ông buông một câu rất đỗi mơ hồ khiến Vũ đưa mắt nhìn ông dò hỏi. Nhưng dường như ông đang theo

đuổi điều gì đó trong tâm trí, mắt thờ thẫn nhìn ra sân chùa. Vũ chờ đợi vài giây rồi đằng hắng :

- Anh nói rằng ...

- Tôi muốn nói rằng mọi dân tộc đều có mặt ưu thế và mặt khiếm khuyết. Nhưng để chấp nhận và dám

nhìn thẳng vào những khiếm khuyết của bản thể là điều quá khó khăn.

Hai người im lặng. Vũ nhìn ông với cái nhìn khắc khoải :

« Anh đã quá già và quá nhiều đau khổ để còn nghĩ tới những vấn đề như thế. Đời người hữu hạn mà,

hãy để cho dòng nước chảy xuôi. »

-

Còn ông, ông trầm ngâm nhớ tới một ngày xuân trên chiến khu Việt bắc. Lần ấy, đúng dịp Tết Nguyên

Đán, cả cơ quan hè nhau làm những món ăn cổ truyền. Trong các món cổ truyền, đứng đầu bảng là tiết canh,

lòng lợn. Không những chỉ riêng nhà bếp mà dường như toàn thể nhân viên cơ quan tham gia vào chuẩn bị

cuộc ẩm thực quan trọng này. Buổi trưa, văn phòng mang lên cho ông một khay tiết canh lòng lợn. Thời chiến

tranh, một miếng thịt cũng đã coi như bữa tiệc, bởi có những thời gian dài, cả cơ quan ăn sắn trừ cơm. Năm

trước đó, bên đại đội báo vụ có một chiến sĩ phát điên vì phải ăn sắn liên tục sáu tháng. Cậu ta vốn con nhà

khá giả chưa từng chịu đựng sự thiếu thốn. Sáu tháng trời không có một hạt cơm, một miếng thịt hay cá vào

bụng, ngày nào cũng sắn, hết luộc lại nướng, hết nướng lại nấu canh xuông với muối và rau rừng, người trai đô

thị này đâm ốm, da xanh bủng, bụng trướng như đàn bà có thai. Một sáng, khi nhìn thấy anh nuôi bưng lên mấy

rổ lặc lè sắn luộc, chàng trai bỗng nhảy dựng như choi choi giữa sân, la thét inh ỏi tựa hồ bị quỷ ám rồi sau

đó anh ta cởi bỏ hết áo quần, ôm đầu chạy tuốt vào rừng ...Sự việc ấy ám ảnh ông. Bởi vậy, ông ý thức được

những nhu cầu của sự sống. Tuy thế, ông không thể nào ăn được cái món ăn bổ dưỡng cổ truyền kia. Ông nhìn


bát tiết đặt trên khay một cách chỉn chu. Một bát chiết yêu đầy tràn tiết đỏ, đông cứng như thạch, bề mặt rải

đều lạc rang lẫn rau thơm thái vụn. Thêm vào đó là chiếc chén nhỏ xíu đựng ớt tươi. Cần vụ bưng khay thức ăn

cung kính đặt trước mặt ông rồi chần chừ đứng lại dường như muốn xem ông ăn có ngon lành hay không, bởi

vì đối với tất thảy mọi người đây hiển nhiên là bữa tiệc long trọng nhất trong năm.

- Để đấy cho tôi. Chú xuống nhà ăn trước với anh em ...

Ông đáp vồn vã để cho anh lính yên tâm đi ra. Còn lại ông với bát tiết canh, ông nghĩ kế thủ tiêu nó một

cách kín đáo. Ông vốn sợ mùi máu từ nhỏ, cho dù nó được nguỵ trang bởi các loại mùi thơm khác nhau của gia

vị, nào húng chó húng thơm rau răm rau mùi, nào hành hoa hành củ, nào lạc rang, ớt tươi giã nhỏ. Mỗi lần gia

đình chọc tiết lợn, ông lỉnh ngay ra ngoài đồng. Không ai ép được ông ăn cái món ăn khủng khiếp ấy, cái món

ăn mà người ta cho rằng đáng được ao ước nhất khi ngả thịt một con lợn, cái món mà các lão ông , lão bà đánh

giá là « bổ cả âm lẫn dương ». Người ta riễu ông :

« Thằng này học khôn nhưng ăn thì ngu hạng nhất ».

Ông cũng không rõ vì cớ gì ông dị ứng với cái món ăn cổ truyền này đến thế. Rồi lúc thành niên, sống ở

Paris, lần nào đó ông xem một cuốn phim phong tục châu Phi, nhìn thấy dân bản xứ chọc tiết bò rồi vục đầu

xuống chậu, uống máu tươi còn nóng hổi, da ông bỗng sởn gai ốc, mồ hôi vã ướt sống lưng. Mặt ông hết nóng

bừng rồi lạnh ngắt. Ông tưởng chừng những người xung quanh đang nhìn ông, phát hiện ra trạng thái tinh thần

kì dị của ông, đoán được những ý tưởng thầm kín trong óc não ông ... Ông ngồi chết cứng trong rạp, cho đến

khi buổi chiếu kết thúc, chờ những người khác đi vãn mới đứng lên. Bên ngoài, trời rét cóng. Mồ hôi trong

lưng áo ông ướt lạnh khiến toàn thân run cầm cập. Ông phải quay vào phòng vệ sinh, lấy nhật báo lót cả trước

ngực lẫn sau lưng rồi mới về nhà. Ban đêm, giấc mơ của ông đỏ nhoè máu. Những con vật bị chọc tiết, máu toé

thành vòi, kêu thét, co giật, rãy giụa một cách điên cuồng và tuyệt vọng. Những cái miệng nhoe nhoét máu

tươi. Những nụ cười cũng nhoe nhoét máu tươi ...Tất cả cùng đồng hiện, chồng chéo, quay đảo, khoan xoáy

tâm trí ông. Lần đầu tiên ông hiểu nguyên do nỗi sợ hãi của mình từ thời thơ ấu. Giống như lần đầu tiên ông

cầm đèn rọi sáng một căn hầm mà bóng tối kinh niên hù doạ con người. Nhờ cuốn phim phong tục châu Phi

kia, ông tìm được một so sánh, một phóng chiếu. Ông biết rằng sự cảm nhận những khuyết tật của giống nòi

cũng tựa hồ như cơn sốt. Phải chịu đựng nó trước khi có thể chữa khỏi.

Đêm ấy, không thể nhắm mắt ông đành ngồi dậy đọc sách cho tới sáng, khi những ngọn đèn đường trở

nên trắng nhợt trong ánh dương.

Rồi bão tố cách mạng cuốn ông vào vòng xoáy. Nhiều năm, ông tưởng chừng không còn băn khoăn về

những thứ mà ông coi là « khuyết tật của dân tộc ». Ông có quá nhiều việc phải toan tính. Cuộc đấu tranh giữa

dân tộc của ông với những kẻ ngoại xâm luôn luôn là cuộc đấu không cân sức, mà cán cân bao giờ cũng ngả về

phía ngoại bang. Trong tình thế ấy, ông không thể để tâm tới những tiểu tiết. Ông phải tập hợp dân chúng, bởi

đoàn kết là sức mạnh duy nhất, nguồn năng lực duy nhất đem lại khả năng chiến thắng trong cuộc đọ sức chênh

lệch này ...Vì đoàn kết, ông phải chiều theo cả những thứ trong thâm tâm, ông coi là « khuyết tật » ... Vì đoàn

kết, ông phải giả mù nhiều phen trước những hành vi lỗ mãng những cách ứng xử hèn mọn mà ông biết chắc

chắn đó là thói quen của sự phản văn minh .Vì đoàn kết, ông phải thoả hiệp với những kẻ mỉa mai sau lưng

ông là « người trong máu có rượu Booc-đô ... »

Vào ngày tết trên chiến khu năm ấy, ông đã trút bát tiết canh vào chiếc ống tre vẫn dùng đựng nước, chờ

đến chiều tà khi mọi người ra sân chơi bóng chuyền, mới đem ra nhà vệ sinh ...

Anh làm sao vậy ?

Vũ cất tiếng hỏi đột ngột. Ông hiểu rằng ông vừa đưa tay lên ngực để chặn một cơn nhói trong tim :

- Thi thoảng, những cơn co thắt lại xuất hiện.

Ông đáp, và mỉm cười :

- Với tuổi già, mọi thứ đều khả thể, ngay cả cái chết. Cho nên, khôn ngoan hơn cả là phải biết chung

sống với bệnh tật. Và những thất vọng ...

- Trước hết là những thất vọng.

Họ im lặng. Một khoảnh khắc chông chênh lướt qua không gian mùa xuân, thời khắc mà hơi ẩm đan xen

ánh nắng tạo thành lớp bọt biển trong suốt. Họ cùng nghe tiếng véo von của một cặp sơn ca đâu đó vẳng lại.

Rồi anh chàng cận vệ béo xuất hiện trước trước cửa chùa :

- Thưa chủ tịch, văn phòng vừa điện lên mời thủ trưởng Vũ xuống sân bay.

- Mấy giờ máy bay phải cất cánh ?

Vũ hỏi.

- Dạ, văn phòng không nói rõ.

- Chú quay lại gọi điện hỏi chính xác giờ bay .

Chú lính quay đi tức khắc.


Ngoài sân, nắng trải vàng như mật ong, màu vàng vắng lặng và ngưng đọng của đỉnh non. Cùng với màu

vàng ấy, chẳng phải thứ không gian oi ả thường gặp nơi đồng bằng miền Bắc nhưng là làn hơi mát thanh cao

êm ả, thứ khí hậu của mùa thu châu Âu. Ông bất giác nhắm mắt lại vì tưởng như đang còn lang thang dọc sông

Seine vào mùa lá thay màu, những rặng cây hai bờ điệp vàng hay đỏ thắm, hắt lên khung trời ngọn lửa rực rỡ

và mong manh. Những cây cầu trắng hiện lên trong sương mù dường như không thực bởi chúng chẳng dành

cho những kẻ bộ hành mà chỉ được dựng nên cho các hoạ sĩ và thi sĩ. Ông thấy lại những sườn dốc xanh rờn

vùng đồi Monmartre. Những ngọn đèn dọc phố và những mũi tên chỉ quán rượu bên đường. Châu Âu, một

phần đời ông đã trải qua nơi ấy. Ông nhận biết nó bằng những cảm xúc đã ghi khắc đã vĩnh định trong da thịt,

bằng vị rượu chát rẻ tiền trên lưỡi và tiếng ồn ã phố phường trong tai, bằng nỗi nhớ nhung màu nắng, màu

trời. Những kỉ niệm tươi thắm của tuổi xuân kèm theo nỗi buồn xa xứ. Khi sống ở phương trời ấy, ông đã nhớ

quê hương, ông đã thiếu vắng tổ quốc như si dại như điên rồ. Còn bây giờ, không biết vì đâu ông lại nhớ

phương trời xa xôi đó ? Điều khó hiểu là lúc này nó lại trở nên một vùng thiếu vắng trong ông...Nỗi nhớ ấy

càng ngày càng da diết, càng ngày càng khiến tim ông thổn thức. Buồn ơi, se sắt là buồn !...Nhớ ơi, cồn cào

đau đớn nhớ ! Châu Âu ! Châu Âu ! Phải chăng đối với ông, châu Âu chỉ là cái cớ, bởi nó gợi cho ông tuổi trẻ

đã qua. Phải chăng ông nhớ châu Âu vì ông nhớ những giấc mơ chưa thành, những con đường dang dở. Phải

chăng châu Âu là vùng trời vừa thù nghịch vừa thân thiết và vì thế, nó sẽ là kẻ đồng hành thầm kín và dai dẳng

cho đến phút xuống mồ ? Ông đã gắn bó với một miền đất vừa xiết bao gần gũi vừa vĩnh viễn không thuộc về

ông ? Đây là bi kịch của riêng ông hay là nỗi khổ đau truyền kiếp của con người ?

Thưa thủ trưởng, văn phòng nói máy bay cất cánh lúc bốn giờ đúng.

Chú lính đã quay lại báo cáo.

Vũ đáp một cách cộc lốc :

- Bảo văn phòng rằng bốn giờ tôi quay xuống, năm giờ bay cũng chưa muộn.

- Dạ.

Ông chờ cho cậu lính quay đi, bảo Vũ :

- Chú căng với họ làm gì ? Thời nào mà chẳng có nha lại ?

- Đôi khi cũng phải vả vào mặt họ một cái, để họ nhớ rằng chúng ta

là chúng ta. Không phải ai cũng biến thành đầy tớ của chúng nó.

- Lỗi không phải ở những con người nhỏ bé như vậy.

- Anh quên rằng mọi ngai vàng đều bị các đội cấm quân lật nhào, và những kẻ nhỏ bé không có nghĩa

là chúng không nuôi những giấc mơ to lớn. Anh đã quên Quốc Tuỳ là ai ? Xuất sứ y chính là gã móc

túi nhà nghề chợ Sắt. Bị đòn thập tử nhất sinh vì không chịu nộp tô cho trưởng băng một đêm y đã lén

đâm chết đại ca khi gã này đang nằm trong giường nhà thổ. Rồi y trốn khỏi thành phố quê hương lang

bạt vào Nam kì làm phu đồn điền. Ở đấy, y được giác ngộ đi theo cách mạng và trở thành thủ hạ của

Sáu từ khi hai người cùng ở một xà-lim nhà tù Sơn la.

- Tôi tưởng y nhỏ tuổi hơn Sáu nhiều ?

- Chính xác như vậy. Chúng nó hơn nhau cả một giáp. Thế nên trong nhà tù, Sáu biến thành đại ca ruột

của Quốc Tuỳ. Chúng cũng hành xử với nhau theo kiểu như vậy. Quốc Tuỳ thường đổ bô, giặt quần

áo, và cả gãi lưng cho Sáu. Thế nên sau này Sáu mới bổ nhiệm y làm bộ trưởng bộ nội vụ. Đó là bộ

quan trọng nhất, nhiều quyền lực nhất, ai cũng biết. Lúc đó, nhiều đồng chí thấy được nguy cơ đã phản

ứng, nhưng Sáu thẳng tay đàn áp. Sức mạnh của y chính là ở chỗ y biết sử dụng những kẻ mà anh gọi

là nhỏ bé . Rồi đến lượt những kẻ nhỏ bé này lại sử dụng những kẻ nhỏ bé hơn. Lý lịch tối ưu là phải

thất học và đã từng là tội phạm. Sau thứ tối ưu này là phải thật sự nghèo khổ và ngu dốt, chồng con

mẹ Tư hàng cá là ví dụ điển hình. Hai loại người này đều trở thành rường cột của Sáu. Chúng có thể

làm bất cứ điều gì mà y muốn. Anh đã quên bản tổng kết của anh Lê Liêm ?

- Mọi sự đều quá muộn.

- Vâng ! Quá muộn !...

Ông nghe tiếng người đàn em nuốt nước bọt, dường như đang nuốt cục hận trong họng. Ông muốn nói

điều gì đó để an ủi Vũ nhưng không tìm ra lời. Ông có thể làm gì cho Vũ và Vũ có thể làm gì được cho ông

trong tình cảnh này ? Mọi bài toán đều bất khả. Nhưng ít nhất khi ngồi bên nhau họ cũng có được niềm an ủi

thầm kín làm nguôi dịu nỗi đau. Ngoài sân, một cơn gió đi qua khiến cây vườn xao xác. Tiếng chim rừng hót

dội từ bên kia vực hoà với tiếng lảnh lót của hoạ mi trong vườn chùa làm thành dàn giao hưởng êm đềm và

hoang dã của núi non. Cớ chi non nước tươi đẹp như vầy mà lòng người đớn đau đến thế ? Từ khoảnh khắc nào

ông biến thành kẻ phạm tội với chính ông, và những người ràng buộc với ông ? Ồ, câu hỏi này chưa ngừng

hành hạ con tim già nua của ông, và có lẽ nó sẽ còn hành hạ ông tới lúc chết.

Một cơn gió nữa đi ngang bầu trời. Đám lá vàng bị gió cuốn bay lào xào qua sân. Dường như trời có vẻ

lạnh hơn hay hơi nước từ các đám mây bao quanh chùa khiến ông rùng mình. Nắng trên sân đã ngả sang màu

vàng nhạt. Rất có thể một cơn mưa xuân sẽ ào tới trong vài phút nữa :

-

Có lẽ chú phải xuống núi ; tôi e trời mưa.

Vâng, em cũng phải về vì còn nhiều việc chờ đợi. Vả lại, máy bay chỉ đăng kí nội trong ngày.

Nói đoạn Vũ nhìn vào mắt ông :

Anh Cả yên tâm tĩnh dưỡng. Mọi sự vẫn như thường. Dù thường xuyên sống ở nơi sơ tán, thằng bé

vẫn học rất giỏi. Nó vừa giật giải toán Marie Quyri trong kì thi khối trường trung học toàn thành

phố.

Cảm ơn chú.

Có điều này nữa, em cũng phải nói thật với anh.

Tôi nghe.

Trung đã đến tuổi biết suy nghĩ, động tâm về mọi chuyện. Để tránh cho cháu những đau buồn, em

phải nói với nó rằng nó chính là con của em, con ngoại hôn.

Chú làm như vậy là rất đúng. Con ngoại hôn còn sung sướng ngàn lần hơn đứa trẻ không mẹ cũng

không cha.

Họ cùng đứng dậy, một người cúi đầu nhìn xuống những viên gạch cũ kĩ lát nền chùa, một người nhìn ra

ngoài trời, nơi những vẩn mây tê tê đang tụ lại thành bức tường mây trắng.



**********


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:44 PM
Post #10


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 9



Đêm hôm ấy, ông đi ngủ rất sớm.

Khi bác sĩ tới thăm mạch cho ông đã thấy cửa đóng, đèn tắt. Hai người lính gác ca đêm đứng trước hiên.

Những ngọn điện đầu hồi rọi sáng một nửa mảnh sân chùa và các lùm cây ở rìa khu vườn. Bác sĩ không dám

hát vì sợ kinh động giấc ngủ của ông nên quay về phòng lấy cỗ bài Tu-lơ-khơ, rủ hai chàng lính chơi.

- Nhớ là không được cười to cũng không được la hét. Nếu sướng quá thì phải bụm môi, che miệng rồi

mới được cười. Ai thua sẽ bị vẽ râu nhọ nồi lên mặt nhưng tuyệt đối phải im lặng, nhớ chưa ?

- Tuyệt đối tuân lệnh bác sĩ.

Trong phòng, ông nghe tiếng họ thì thầm, tiếng lục cục kê bàn ghế và tiếng chân bác sĩ đi qua mảnh sân

xuống khu vực bếp nhà chùa. Chắc hẳn cậu ta đi lấy nồi để vẽ râu người thua. Rồi khi mọi sự chuẩn bị đã

xong, đám người ngồi vào chia bài, sung sướng sống với cuộc đỏ đen vô hại của họ. Từ lúc ấy, ông không còn

nghe thấy một thứ tiếng nào khác ngoài tiếng thét của chính tâm hồn mình :

« Con ơi, con của ta ơi ! Con trai của ta ơi ! »

Nước mắt hai bên thái dương ướt lạnh. Ông lấy chiếc gối đè lên mặt để những cơn nức nở khỏi bật lên :

« Tại sao ta lại khóc như một người đàn bà tầm thường trong những gia đình tầm thường nhất ? Từ bao

giờ xảy ra cái sự kì cục này ? Chẳng lẽ tuổi già làm cho con người đổi thay đến vậy ? »

Ông tự sỉ mắng mình nhưng chỉ vài giây sau, con tim ông lại thét lên :

« Con ơi, con trai của ta ơi ! ».

Và cùng lúc, nỗi thiết tha cháy bỏng được nhìn thấy mặt thằng bé khiến ruột ông quặn lên từng hồi :

« Nó có cao hơn đứa con người tiều phu hay cũng vậy ? Và gương mặt nó giờ đây ra sao ? Ta chỉ còn

lưu giữ hỉnh ảnh nó khi tròn ba tháng. Chẳng ai ngờ đó là lần gặp cuối cùng. »

Ông hình dung lại gian nhà gác nơi phố cổ, lối vào phải qua một hành lang dài lúc nào cũng có ba người

túc trực trong quần áo dân thường. Hành lang ấy hẹp và rất tối, kéo dọc theo một bức tường dầy, làm ranh giới

ngăn cách với một ngôi nhà khác, thuộc một thương gia. Người thương gia này mở cửa hàng buôn bán ở tầng

dưới, nàng ở tầng trên cùng với người chị gái. Một cây cầu thang đồ sộ chạy hình xoắn ốc với hàng lan can gỗ

dẫn từ hành lang âm u đó lên tầng trên, nơi những căn phòng cao ráo tường quét vôi xanh nhạt. Căn phòng ấy

một thời ngắn ngủi là tổ ấm của ông. Tổ ấm, chưa kịp ấm đã tan tác theo gió cuốn ... Giống như sao chổi, hạnh

phúc lướt qua đời ông. Ông chưa kịp nhìn rõ , nó đã biến mất. Hạnh phúc, cũng như cát trong lòng bàn tay

ông. Chưa kịp nắm tay, cát đã trôi tuột qua các kẽ ngón ...

...Nhưng dẫu sao, nó vẫn là hạnh phúc ....

Ông tưởng đã quên, nhưng nó quay về. Ánh hồi quang của một ngày xuân cũ. Tia chớp rọi chiếu trong

khoảnh khắc hình ảnh thiên đường đã qua ....Gian phòng xưa . Chiếc giường xưa. Thằng bé đạp lung tung

trong đống tã trắng. Nó mỉm cười với ông. Cặp môi đỏ cong lên hóng chuyện. Và nàng !...Nàng ngồi phía

cuối giường. Ngón tay nàng cuốn sợi len đỏ. Những búp len nhỏ nhiều màu sắc bừa bộn xung quanh. Nàng

làm gì với những múi len ấy nhỉ ?

Giờ thì ông nhớ ra rồi, nàng cuốn len làm con búp-bê mới để treo lên quang nôi cho thằng bé chơi. Con

búp-bê cũ đã bị chị nó làm hỏng từ vài tuần trước. Nàng kể lại như vậy, vì hai ba tuần ông mới tới thăm mẹ

con nàng một lần.

Khi nghe nàng kể chuyện, ông hỏi con gái của ông đâu. Nàng nói rằng nó đã đi ngủ với dì Đông. Ông

không hỏi gì thêm nữa và nàng phụng phịu nói rằng ông thương thằng Trung hơn con Nghĩa, rằng như thế là

ông còn trọng nam khinh nữ, ông vẫn sống theo kiểu người phong kiến. Ông mỉm cười vì nàng nhắc lại cho

ông nghe đúng những bài tuyên truyền mà đám cán bộ tuyên huấn dạy nàng. Và chính ông đã dạy họ. :

« Cách mạng sẽ dựng nên một xã hội mới, trong đó mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không

phân biệt sắc tộc, tôn giáo và giới tính. ».

Ông không biết nàng nói gì, bởi ông chỉ chăm chú nhìn làn môi thơ trẻ của nàng phụng phịu, ông nhớ lại

cặp mắt bồ câu đăm đăm nhìn ông qua ánh lửa đêm rừng. Ông mỉm cười nghe bài diễn thuyết của nàng trong

khi thằng bé đang đạp nhoáy nhoáy giữa đống tã trắng. Ông mải mốt nhìn nó, thấy là nó đã thừa hưởng những

nét trội nhất của nàng lẫn của ông :

« Nó sẽ vô cùng khôi ngô. Nó sẽ trở thành một chàng trai bảnh bao lịch duyệt. ».

Chắc chắn là nàng đã nhận ra vẻ thiên vị ấy nên một lần nữa nàng nhắc lại :

- Chủ tịch phải yêu cả hai đứa một cách công bằng chứ ?

- Ồ ...đương nhiên. Con nào cũng là con ...


Ông đáp cho nàng vui lòng. Thực ra ông cũng rất yêu Nghĩa, con bé giống hệt người chị mà ông yêu quý

nhất trong gia tộc, mà người chị ấy lại giống ông như hai lưỡi cày đúc cùng một khuôn. Bởi vì nó là hình ảnh

của chính ông nên phải chịu thiệt thòi. Trong đứa con trai, ông tìm thấy hình ảnh nàng, người yêu dấu.

Bây giờ, nàng không còn nữa. Không còn ai phụng phịu hờn dỗi vì sự thiên vị của ông, nhưng chính ông

nhận ra điều đó :

« Ta có hai đứa con, một gái một trai, đứa nọ hơn đứa kia có một tuổi. Vì cớ gì ta chỉ nhớ đến đứa con

trai ? Ta, kẻ vẫn dạy mọi người về sự bình đẳng giữa nam và nữ ? »

« Nhưng sự nguy hiểm dành cho con trai ta nhiều hơn là con gái. Do đó tội trạng của ta đối với nó chắc

chắn cũng nhiều hơn. Vì lý do ấy, nỗi ám ảnh thường trực là nỗi ám ảnh về đứa nhỏ. »

Ông tự bào chữa.

Cho dù lời bào chữa ấy vô cùng yếu ớt, ông cũng không quay trở lại lục vấn trái tim mình. Vô ích. Bởi

tất thảy những ngả đường suy tư đều dẫn ông quay về chốn cũ. Ông nhớ con trai điên cuồng. Sau mười năm

tưởng đã có thể quên, nó bỗng quay lại, trở thành nỗi đau thường trực, trở thành vết rách há miệng trong con

tim ông. Giấc mơ quên lãng đã tan như đám mây trước mặt trời và lúc này, một khát khao thiêu đốt :

« Giờ đây nó ra sao, con trai của ta ? Nó có bao giờ tự băn khoăn về lịch sử bản thân hay sống dưới

vòng tay bảo trợ của chú Vũ, nó tin đinh ninh rằng nó là con trai của một liệt sĩ mai danh ẩn tích, và bây giờ là

đứa con ngoại hôn của chính người cha nuôi ? Nó sẽ tin như vậy. Tin như vậy, ít nhất nó cũng tìm được một

nơi bấu víu. Con ngoại hôn ? Có lẽ số kiếp đã tiên liệu vì cuộc tình giữa nàng với ta là cuộc tình ngoài lề luật.

Những cuộc tình ngoài lề luật ắt phải cho ra đời những đứa trẻ ngoại hôn. Tội nghiệp thay cho tất cả chúng ta,

những kẻ lâm nạn trong trò chơi oan nghiệt này. Giờ đây đứa con ngoại hôn của ta ra sao ? Nó giống nàng hay

giống ta, hoặc còn giữ nguyên vẹn những nét lai thuở ba tháng tuổi ? ...Da nó có được trắng như mẹ nó hay

không ? Sau lưng nó liệu có cái bớt chàm như cái bớt trên lưng ta, vì chị Thanh nói rằng chỉ khi ta hơn mười

tuổi, cái bớt ấy mới xuất hiện. ».

Những nghi vấn đắm đuối ấy ông không thể nói với ai, ngoại trừ nàng. Ông biết người ta theo rõi từng lời

ông phát ra khỏi miệng. Ngay một khi ông liều lĩnh nói với Vũ, Vũ cũng không thể đem ảnh Trung lên, bởi

Vũ cũng bị theo rõi ráo riết như ông. Nếu để lọt ra một dấu hiệu chứng tỏ lòng ông còn tha thiết, thằng bé sẽ

còn bị sử dụng như một thứ vũ khí đắc lực hơn nữa trong tay kẻ thù.

Biết rõ như vậy, mà ông vẫn không thể dẹp đi cơn khắc khoải :

« Cha già con cọc là thế này đây. Kẻ tiều phu xấu số kia có bị dày vò như ta vào lúc này ? Không !

Không !...bởi ông ta đã chết ngay trong võng, trên đường trở về nhà. Như vậy, nếu có lo âu, đau khổ, ông ta

cũng chỉ nếm trải cảm giác ấy trong vòng một vài giờ , chưa kể là ngay trong thời gian ngắn ngủi đó, cơn đau

sẽ làm não ông ta tê liệt. »

Phụ tử tình thâm, lần đầu tiên ông thấu hiểu ý nghĩa câu nói ấy.

Thời thơ dại, ở tuổi làm con, tâm hồn ông còn chưa hướng tới một chân trời xa xôi, tai ông chỉ nghe tiếng

gió thổi trên giải đất quê hương, mắt ông chỉ đăm đăm nhìn về mái tranh tổ phụ. Công cha, nghĩa mẹ, ông chỉ

biết tới những thứ tình cảm ấy như mọi con người bình thường khác. Nhưng rồi những thứ tình cảm cốt tuỷ ấy

trở nên mờ nhạt hơn, sao nhãng hơn khi con tim ông quay về một mối tình rộng lớn và trừu tượng :

Đất nước. Dân tộc. Xứ sở ...

Những danh từ ấy gợi nên sự vĩ đại, sự siêu tuyệt ...Mọi thứ siêu tuyệt đều trừu tượng. Cách mạng là

một thứ gì đó còn vĩ đại hơn, siêu tuyệt hơn. Và vô hình hơn ..... Và vô nhân tính hơn ... Ông nhớ rằng năm

cách mạng thành công, người chị ông từ xứ Nghệ ra thăm, ông đã không dành được một buổi để hàn huyên với

người đàn bà mà ông vốn coi như người mẹ thứ hai thời ông còn thơ dại. Người đàn bà ấy suốt đời là gái trinh.

Gái trinh cho tới lúc chui vào cỗ quan tài. Cuộc đời bà là sự hy sinh trọn gói cho những người thân thuộc

...Không được đứa em tiếp đón, chẳng nửa lời than thở, chị ông lẳng lặng khăn gói ra về ...Ngày ấy, con tim

ông đã một lần bị cứa rách ...Nhưng rồi ông buộc phải quên ...Và ông đã quên ... Suốt cuộc đời ông, ông đã

quen chấp nhận và thi hành sự quên lãng. Sự quên lãng được chỉ định. Sự quên lãng được tiêu chuẩn hoá. Sự

quên lãng được kế hoạch hoá...

Nhưng lần này, ông không thành công. Những con tầu bị đánh chìm bỗng trồi lên mặt biển, hú còi.

Những thây ma dưới đáy bùn đại dương không thể thối rữa đã trồi lên mặt nước, dập dềnh, quăng quật trên

đỉnh sóng. Tất thảy địa ngục của ông là ở đây :

Bỗng dưng ông muốn làm cha !...Bỗng dưng ông không thể chấp nhận quên lãng. Bỗng dưng ông nhớ

đứa con trai và hình dung ra dáng vẻ của nó từng giờ. Bỗng dưng ông thèm muốn được nhìn thấy nó, dù phải

đứng từ xa, dù phải ẩn núp sau một bụi cây hay bức tường nào đấy ; vô danh vô diện và tủi hổ như một gã đàn

ông giăng gió đẻ vãi đẻ rơi đến lúc về già ăn năn sám hối tìm cách nhìn trộm giọt máu lạc loài của chính

mình ....


Ngay cả khi cuộc gặp gỡ vụng lén ấy chỉ xảy ra một lần, một lần duy nhất trước khi cái chết đến chào

ông.

Tất thảy những nhớ nhung, ước muốn, dằn vặt tạo thành một vòng vây định mệnh mà ông không bước

chân ra nổi. Nhà tù của chính ông. Pháp đình của riêng ông, nơi ông là phạm nhân lẫn quan toà. Sao trời đầy

đoạ ông đến nông nỗi này ? Tự nơi nào cơn điên rồ ập tới xáo lộn tâm trí ông, dằn vặt thân xác ông, xé nát con

tim ông. ?

Phụ tử tình thâm !...

Giờ đây ông mới biết đến đoạn trường. Cổ nhân nói « Nước mắt chảy xuôi » là thế :

« Tình hiếu đễ với mẹ cha không thể so bì với mối yêu thương xa xót trong tâm hồn kẻ làm cha đối với

con mình. Bởi khi ta yêu kẻ sinh thành ta ngước mắt lên. Còn khi yêu những đứa con mắt ta nhìn xuống. Và

những dòng lệ bao giờ cũng chảy xuôi theo luật của đất trời. Vả chăng, khi ta đã tự nhận ra mình là người cha

tội lỗi. Địa ngục sẽ mở cửa chính ngay lối vào con tim. »

Nỗi khổ đau này xưa cũ như trái đất. Ông đã tưởng có thể vượt qua con sóng tình thường hằng của nhân

thế, nhưng giờ đây chính con sóng ấy cuốn vùi ông. Đã có những tháng năm ông tưởng chừng có thể quên đi

nỗi đau nhỏ bé của riêng mình, tưởng chừng có thể thâu gom toàn bộ sinh lực để cống hiến cho đất nước. Đã

có những tháng năm ông thi hành sự quên lãng khá thành công. Nhưng sự lãng quên cũng là một đối thủ có trí

nhớ dai dẳng và khả năng phục thù bạo liệt. Giờ đây, ông mới lãnh nhận những ngọn đòn đánh trả. Bởi cuộc

sống muôn đời chỉ là dòng sông trôi giữa hai bờ lãng quên và mong nhớ. Con thuyến nhân thế mong manh lèo

lái, chỉ cần cơn gió đổi chiều hay gặp khúc nước xoáy, ắt con thuyền bập bềnh sẽ quay mũi tấp sang bờ bên

kia.

« Ta tưởng chừng cuộc sống đã an bài...ta tưởng chừng đã đặt xong con toán và chẳng còn gì hồ nghi nữa.

Vậy mà giờ đây mọi thứ đã đổi thay. »

Giờ đây, con thuyền cuộc đời ông bị gió cuốn từ bờ lãng quên sang bờ mong nhớ. Ông không còn khả

năng giả vờ sống cuộc sống thanh thản của thánh nhân. Ông buộc phải quay lại với mọi nỗi đau khổ bình

thường, chìm đắm trong mọi nguồn lạch của cuộc sống bình thường mà đã từ lâu ông từ chối.

Phải chăng nhân loại đã nhìn thấy cái địa ngục này trước ông cho nên họ vượt qua một cách dễ dàng.

Còn ông, nó mở ra khi sức lực không còn nên vị chát càng thêm đậm ?

Ôi những câu hát xưa não nùng thống thiết. Những câu hát ấy chỉ lọt đến tai ông khi mặt trời đã sắp tàn :

« Cha ơi cha sao cha nỡ rời bầy con trẻ

Nắng hè chưa qua mưa thu đã tới

Rồi mùa đông đem gió bấc trở về

Cha đi rồi, mái nhà mất nóc

Ai là người dang tay che chở đám thê nhi ? »

Ông mường tượng như trước mắt mình có gần ba mươi cái đầu quấn khăn tang trắng. Những đôi mắt đỏ

hoe, sưng húp lệ. Những tiếng kêu than đồng loạt cất lên ; đều đặn điểm nhịp như điệp khúc trong bài ca

ly biệt. Cả đội quân ấy túc trực hai bên quan tài ; xung quanh là những ngọn lửa nến ròng ròng và bát cơm đội

quả trứng luộc cắm cây bông tre nghi ngút khói hương :

« Khi ta chết liệu con ta có ai than hời như đám con ông lão tiều phu kia than hời cha nó ?

Ồ không, hai đứa con ta sẽ đứng trong đám đông ồn ào, và thì thầm : « Chủ tịch đã chết »...Hoặc văn vẻ

hơn nếu người ta dạy chúng : « Chủ tịch đã từ trần. ». Nếu chúng có nhỏ vài giọt nước mắt thì đấy sẽ là những

giọt lệ lây lan vì nỗi buồn tập thể, một hiệu ứng dây chuyền, giống như người ta thường hắt hơi khi thấy người

bên cạnh hắt hơi hoặc người ta có thể cười sằng sặc, cười đến ngạt thở vì lây lan cơn cười của đám đông bao

quanh họ ...

Các con ta sẽ không bao giờ biết rằng cái ông chủ tịch kia chính là kẻ đã tác tạo nên chúng, rằng máu

chảy trong huyết quản chúng là máu của ông ta, rằng da thịt chúng có cùng một kết cấu tế bào như da thịt của

ông ta, rằng tim óc gan phổi cho đến mầm mống bệnh tật hay thói quen của chúng cũng từ con người ấy mà ra.

Chúng sẽ không bao giờ biết điều đó.

Thân phận ta thua kém xa thân phận lão tiều phu xóm Tiều Phu, bởi xét cho cùng , ông ta vẫn là người

hạnh phúc. Một người cha thực thụ, có quyền uy thực sự. Ông ta biết rõ ông ta muốn điều gì, có quyền làm

điều gì, và cần thiết phải thi hành những phận sự gì ? »

Tấm chân dung người đã khuất lại hiển hiện trước mắt ông. Ông nhớ rõ cặp mày lưỡi mác tuyệt đẹp trên

đôi mắt vừa niềm nở vừa thách thức. Vẻ ngạo nghễ trong cách nhìn ; sự từng trải và lòng cương quyết hằn trên

khoé môi sâu như vết chém, cái mũi sổ thẳng một đường như ống tre. Đặc biệt là bộ râu quai nón dài rậm, đen


nhánh, loăn xoăn như râu người phương tây bao quanh khuôn hàm lớn vuông vức, kiểu hàm Từ Hải, người ta

thường gọi là hàm én :

« Kẻ quê mùa này chính là người dám đối đầu cùng số phận. Ngay khi đã nằm trong quan tài, ông ta vẫn

giữ vẻ ngang tàng của kẻ bất chấp mọi trở ngại trên đường đi. Còn những câu hát đưa vong buồn thảm kia

...liệu chúng có làm tan nát con tim kẻ vừa nhắm mắt ? Ồ không, hoàn toàn không. Người tiều phu kia đã từng

là người cha hạnh phúc, bởi ông ta đem lại hạnh phúc cho đứa con trai. Có lẽ câu hát này phải dành cho ta , cho

riêng ta !... »

Ông nghĩ với niềm chua chát, và nỗi chua chát này khiến nước mắt ông tiếp tục tuôn tràn. Những dòng lệ

bò ngoằn ngoèo qua hai thái dương, luồn vào đám tóc :

« Lão tiều phu kia là người cha xứng đáng. Ít nhất, ông ta cũng đã nuôi đứa con trai út đến tuổi mười ba.

Mười ba năm ấy, khi giông gió, khi nắng hạ, mưa đông , ông ta dang tay che chở. Đứa con trai ấy được nếm vị

ngọt của tình phụ tử, nó được an toàn hưởng thụ một cuộc đời êm ấm trong tuổi ấu nhi... Lão tiều phu ấy

đáng mặt bậc làm cha. Kẻ chất phác ấy chính là tấm gương để ta phải tự hổ thẹn cho tới lúc xuống mồ. Tại sao

ta lại đặt lên cõi đất này những giọt máu lạc loài, những đứa bé chơ vơ không cha không mẹ. ? Sinh con mà

không bảo vệ được con, thật không đáng là loài cầm thú.Về phương diện ấy, ta là một người cha vô trách

nhiệm và vô năng. Hơn thế nữa, ta đã để cho bọn bất lương săn đuổi chúng như thú dữ săn đuổi con mồi. Cái

chết chạy sau lưng chúng như hình với bóng. Vậy thì, chẳng những là một người cha bất lực, ta còn là một kẻ

thiếu lương tâm. »

Những cơn đau dâng lên từng đợt, dường như có kẻ nào đấm thốc từ dưới cơ hoành dội lên tim. Và những

cú đấm ấy mỗi lúc mỗi tàn bạo, mỗi lúc mỗi dồn dập. Chủ tịch chợt nhớ tới một võ sỹ thượng thặng da đen

Mỹ, con người nổi tiếng nhất hành tinh vào thời ông trai trẻ. Trong phòng tập, con người này thường có tật

nhếch mép sau mỗi một cú đấm. Mỗi lần chiếc bao cát bị đấm tung lên, mặt ông ta lại co rúm và cặp môi lại

co giật , một cử chỉ nửa như nụ cười bất đắc dĩ, nửa như cơn co thắt của con bệnh tâm thần ; và gương mặt ông

ta lúc ấy có một vẻ đau đớn kinh dị :

« Trái tim ta giống như chiếc bao tải cát kia trước những cú đấm của một kẻ vô hình. Kẻ vô hình này

mỉm cười sau mỗi cú đấm của y. Một nụ cười thực sự, thay vì cơn co thắt của con bệnh tâm thần. »

Liệu ông có nên đứng dậy bật đèn, gọi bác sĩ ?

Nhưng nếu thế, chắc chắn anh ta sẽ phát hiện ra là ông khóc. Chẳng những khóc, mà ông đã khóc từ lâu,

khóc rất nhiều. Tóc hai bên mang tai còn ướt, chiếc gối ông úp mặt cũng ướt, mi mắt hẳn đã sưng. Những dấu

vết ấy không thể xoá đi một cách mau lẹ :

« Ta cũng đã quá già, sống làm gì thêm nữa trong tình cảnh này ? »

Bỗng nhiên, ý tưởng đó đến với ông. Giống như tiếng thở dài từ thăm thẳm muôn trùng vẳng tới.

Nhưng ông không kinh ngạc. Chẳng có gì đáng kinh ngạc. Hoàn toàn trái ngược lại cảm giác của chính ông khi

nghe tiếng gọi thống thiết của đứa con trai người tiều phu xấu số. Tiếng gọi ấy vọng động tới một tiếng gọi câm

nín. Tiếng gọi bị bóp ngạt của đứa con ông. Đứa con ông không còn biết mặt. Đứa con ông đã cố tình bỏ rơi và

cố tình quên lãng ...



**********


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:46 PM
Post #11


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 10



A ha ha ha ....

Tiếng cười của bóng ma nào đó bùng nổ bên tai ; nói đúng hơn là một trận cười như mưa rào quất trên

mái tôn ngày giông bão. Điệu cười rất lạ bởi nó kèm theo những cơn rung khào khào trong cuống họng như

tiếng gừ của đám mèo hoang. Tiếng cười ấy như vọng ra từ một nấm mồ sâu hun hút, rộng thênh thang, hoặc

từ một lâu đài hoang chôn vùi trong lòng đất :

« Ai nhỉ ? ...Ai là người có giọng cười ghê rợn ấy ?»

Ông cố lục tìm trong trí nhớ xem đã từng gặp con người có điệu cười kì lạ kia ở nơi đâu ?..Giọng cười ấy

ẩn chứa tiếng gầm gừ của thú dữ lẫn tiếng rít của gió quẩn nơi vực tối ...Dường như lạ, dường như quen ...

- A ha a a ha ha ha ...

Cơn đau biến mất bởi ông dồn tâm trí vào tìm kiếm điệu cười ma quái ...Nhưng ông không tìm được ai.

Lúc này, kẻ nhạo báng kia cất tiếng :

- Ngươi không nhận ra ta thật sao ?

Ông bỏ chiếc gối ra để nhìn trân trân vào khoảng không gian tối mờ của gian phòng. Rõ ràng là ánh điện

bên ngoài vẫn hằn lên những vệt sáng nơi các khe cửa. Tiếng cười rúc rích của đám người đánh bài vẫn khe

khẽ vọng vào căn phòng của ông. Chẳng có gì khác biệt hơn :

- Xin lỗi, tôi không nhận được ra ông.

Ông đáp.

- Ngươi cố thử lần nữa xem sao ?

Kẻ nhạo báng kia đối lại. Giọng y nhỏ và eo éo như giọng nói của kẻ lưỡng dục.

- Xin lỗi, tôi không thể.

Ông cố gắng lặp lại một cách nhũn nhặn.

Tiếng cười lại rộ lên từng cơn dài, và lần này, ông nhận ra gương mặt to béo, tròn như chiếc bánh bao

của người cầm lái phương Bắc. Chủ tịch Mãn, kẻ quyền hành vô song một góc trời đông. Đã lâu ông không

gặp ông ta nên có đôi phần bỡ ngỡ. Tuy nhiên, chủ tịch Mãn còn đang sống sờ sờ, ông ta sinh vào năm Quý Tỵ,

kém ông hai tuổi . Con người đầy mưu ma chước quỷ này đang lãnh đạo cuộc cách mạng văn hoá Trung hoa,

nói cho đúng hơn ông ta đang thực thi một cuộc thanh trừng tàn khốc chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.

Ông hoàng đế ngoại hạng đang diễn đủ thứ trò để dân chúng thấy sức khoẻ vô địch của ông ta, mà vở diễn nổi

tiếng nhất là « Bơi qua Dương tử giang » Tại sao giờ đây ông ta lại xuất hiện dưới dạng bóng ma ? Tại sao ông

ta lại mượn hình dáng của những cư dân chốn U tì ? Tò mò, ông căng mắt chăm chú nhìn kẻ đối diện và dần

dần quen với những đường nét mới của ông vua phương bắc. Gương mặt chủ tịch Mãn lơ lửng trong không

gian, cặp mắt nheo nheo vui vẻ, lằn môi đang còn nhếch lên trong dư âm của một nụ cười ngạo nghễ.

Chào đồng chí ..

Ông cất lời :

- Ông từ đâu đến đây, người anh em vĩ đại ?

- Ta vĩ đại nhưng ta không là anh em với ngươi. Cũng đừng gọi ta là đồng chí bởi khí sắc của từ này đã

phai tàn. Từ ấy đã chết. Nó biến thành xác thối từ lâu ...

- Xin lỗi ...

- Xin lỗi. Cám ơn. Nếu điều đó khiến ngài vui lòng....Ô, những công thức lịch lãm mà ngươi đã thuộc

lòng ! Ô...món pho-mát phương tây bốc ra mùi thối tai !

Chủ tịch Mãn cất tiếng cười to hơn, và lần này, phô ra hai hàm răng nhỏ màu vàng ngà giống như răng

một người đàn bà thôn quê ít vệ sinh và lười chải chuốt. Mắt ông ta nheo lại trong một cái nhìn đầy riễu cợt và

khinh bỉ :

- Ngươi lịch sự lắm ...thứ lịch sự vô dụng và xảo trá của bọn da trắng. Còn ta, ta bất chấp mọi lễ nghi, ta

dày xéo lên mọi quan niệm và phong tục, ta áp đặt lên tất thảy giống người luật lệ của riêng ta.

Ông ta cất tiếng cười to hơn nữa và lần này, hơi thối nồng nặc xông ra từ cái mồm mở rộng.

Bình thường, chủ tịch Mãn không bao giờ há rộng miệng. Nói hay cười, khuôn miệng ông ta cũng chỉ

mở ra đúng một mức độ cần thiết và mức độ này đã được chính ông ta đong đếm. Mọi người đều biết rằng chủ

tịch Mãn không bao giờ đánh răng, với niềm tin rằng hổ có sức mạnh bởi vì hổ không bao giờ đánh răng. Chắc

ông ta cho rằng sự bắt chước này sẽ mang đến một năng lượng thần thánh , khiến ông ta có thể vô địch như

mãnh thú. Chỉ có điều khác biệt là hổ thường há miệng thật to khi ngáp cũng như khi gầm. Còn chủ tịch Mãn

hành sự ngược lại. Phải chăng đó cũng là một chỉ định có tính huyền bí chỉ riêng ông ta biết ?

Hết cơn cười ngạo nghễ, người cầm lái vĩ đại nói tiếp :

- Từ đồng chí đã chết rồi. Cùng chết đi với nó là mọi tấn tuồng thời ấy. Giữa ta và ngươi chỉ có thể vĩnh

viễn là Vương triều và Chư hầu Bách Việt mà thôi. Một hòn đá không đổi thành một lưỡi rìu cho dù

người ta gọi nó như vậy. Chỉ có những kẻ ngu mới tin vào trò phù phép biến giấy trắng thành chim bồ

câu. Ta tưởng ngươi khá hơn ?

-

-


Tổ tiên tôi dạy rằng : « Bẩy mươi chưa đui chưa què chưa khoe làm tốt » Ai cũng có thể nhầm lẫn cho

đến tận lúc bước tới trước cửa mồ.

Sự khiêm tốn dù thành thực hay giả vờ đều là trò chơi của hạng người vô năng hoặc thấp cổ bé họng.

Ngươi có thấy trong lịch sử một hoàng đế hùng mạnh nào phải kiêng dè trước thứ dân không ? Có thể

ngươi sẽ nhắc đến vua Nghiêu, vua Thuấn. Hai cái thây ma tưởng tượng này được bầy đặt là để an ủi

đám nhân sĩ giá áo túi cơm. Nghiêu Thuấn cũng giống như chủ nghĩa cộng sản. Ấy là những thứ quần

áo giấy người ta đốt cho các hồn ma. Người sống không mặc được . Chúng chỉ là những đồ vật dùng

chơi hay loè thiên hạ. Về phương diện là đồ chơi thì chúng hữu ích. Giống như bọn nông phu dùng cái

cào cào thóc, dùng cái hái để cắt lúa, ta sử dụng những thứ đồ chơi tương thích này để lùa dân chúng

vào những nơi ta muốn họ phải đến, buộc họ làm những gì ta muốn họ phải làm. Lý thuyết cộng sản tốt

hơn những rừng mơ của Tào Tháo nhiều lần.

Điều ấy tôi biết rõ, bởi ông đã từng gọi binh lính là các đồng chí hồng quân khi ông muốn làm cuộc

vạn lý trường chinh. Rồi ông lại kêu gọi đám dân cày là các đồng chí nông dân, nòng cốt cách mạng,

bệ phóng tương lai của đất nước... khi ông muốn lùa họ ra đồng hò hét, đánh đuổi chim sẻ như những

kẻ mắc chứng tâm thần hoặc như lũ rối gỗ. Khi ông ép họ nhổ lúa, cho lợn ăn phân trâu, hoặc bỏ

ruộng hoang mở lò nấu gang nấu thép, họ lại được tôn vinh là giai cấp nông dân thần thánh, là động

lực tiến hoá của nhân loại. Với xảo thuật tung hứng các mỹ từ, ông đã thực hiện tất thảy những trò chơi

rồ dại nhất và cũng độc ác nhất mà chưa vua chúa nào trong lịch sử dám làm. Những bài học ấy, tôi

nhớ rất rõ. Bởi chính chúng tôi cũng đã từng học theo các ông và phải trả giá. Dẫu rằng cái giá ấy

không quá đắt như cái giá mà nhân dân ông đã chịu.

Nhân dân, đó là những quân cờ gỗ trong ván cờ lịch sử, việc của nó là phải hữu ích trong trò chơi.

Nếu không còn dùng được thì phải ném vào lò mồi lửa.

Vâng, điều này tôi cũng biết. Mấy chục triệu Hồng vệ binh rồi đây sẽ được dùng làm mồi cho lửa,

sau khi họ hết phận sự trong trò chơi. Cả điều này nữa tôi cũng đã mường tượng ra từ lúc khởi sự cuộc

cách mạng văn hoá ở phương bắc. Lịch sử Trung hoa đã thực thi nhiều lần kiểu « Dụng binh thí tốt »,

nhưng với quy mô của cuộc cách mạng văn hoá lần này, ông sẽ là bạo chúa vĩ đại nhất trong sử

sách.

Phi tàn bạo bất thành anh hùng. Ngươi đừng quên câu nói ấy.

Tôi không quên. Nhưng có thể tôi bất khả. Địa vị của tôi, tôi sẽ vô cùng kinh hoảng khi thấy những cư

dân của mình ăn xác chết hoặc đánh gục nhau để lấy miếng ăn...Đôi khi tôi ngờ vực, chẳng đủ can đảm

để tin vào những gì đang diễn ra trước mắt mình : Phải chăng ông không biết rằng nông dân trong

nhiều tỉnh Trung hoa đang chết đói. Ở những vùng ấy người ta ăn cỏ như trâu bò hay lợn hoang ? Các

gia đình trao đổi xác chết những người thân cho nhau để khỏi ăn thịt chính kẻ đã sinh thành ?

Giống người là giống ăn thịt lẫn nhau. Điều này diễn ra thường xuyên trong lịch sử nhân loại và trên

xứ sở của ta. Ngươi quên chuyện Võ Tòng do vô tình mà ăn bánh bao nhân thịt người hay sao ?

Tôi không quên, nhưng tôi nghĩ đó là chuyện xảy ra từ hàng ngàn năm trước. Và con người cố gắng

tranh đấu, cố gắng tiến lên là để bỏ lại cuộc sống dã man ở sau lưng mình. Ranh giới giữa sự man rợ và

nền văn minh nhân loại được xác lập bởi sự huỷ bỏ thói ăn thịt người và sự loạn luân.

Ngươi quả là tên học trò ngoan của mấy thằng gõ đầu trẻ mắt xanh mũi lõ. Bọn học trò bao giờ cũng bị

mọi thứ lý luận dắt mũi đi. Ta, ta không tin ở bất cứ thứ lý luận nào, ngoài thứ lý luận do chính ta đẻ

ra.

Ông quá huyênh hoang. Ông được Sta-lin bảo trợ và nhờ sự bảo trợ đó ông lên ngôi.

Ta được Sta-lin bảo trợ hay ta dùng gã xây bệ đặt ngôi báu cho ta như thuở xưa các vua Ai-cập dùng

nô lệ xây kim tự tháp ? Hiểu theo cách nào cũng đúng. Nghệ thuật dùng lưỡi là ở chỗ này.

Lịch sử Trung hoa sản sinh ra không thiếu những con người quỷ quyệt. Nhưng có thể ông là trường

hợp đặc biệt nhất.

Ta không nhìn lại phía sau, ta cũng chẳng nhìn lên phía trước. Ta là kẻ độc nhất vô nhị trên hành tinh

này.

Tôi đồng ý. Về sự tàn bạo và về mức độ khôi hài ông đều đứng ở đỉnh cao. Khi ông bắt nông dân ra

đồng hò hét đuổi chim sẻ, khi ông buộc họ trở thành thợ luyện kim nghiệp dư, và khi ông dửng dưng

nhìn họ ăn cỏ, hoặc ăn thịt lẫn nhau ông đem lại cả hai cảm giác đó cùng một lượt.

Ta chọn sự khôi hài tàn bạo thay vì ngươi chọn sự đau đớn hèn nhát, thảm thương.

Tôi là kẻ hèn nhát thảm thương ? Ý ông muốn nói vậy ?

Chính thế ! Ta sẽ chỉ cho ngươi rõ ngay bây giờ : Một hoàng đế phương đông xứng đáng là hoàng đế

không khóc lén khóc thầm bởi một chút máu rơi . Ngươi biết rằng ta đã vãi tinh trùng của ta trên giang

sơn như dân cày vãi thóc. Ta không nhớ và ta cũng không cần nhớ là có bao nhiêu đứa bé ra đời dọc

đường đi. Ta không có phận sự phải nhớ tới chúng. Kẻ khác phải lo liệu. Chỉ một điều chắc chắn là,

nếu trong số những đứa bé ấy, nếu đứa nào muốn mưu phản, ta sẽ ra tay hạ gục nó mau lẹ và quả quyết

hệt như khi ta đốn ngã những kẻ dự tính tiếm quyền ngoài huyết tộc. Quyền lực không dung hoà với

những thứ tình cảm của lương dân.


Ông thấy gương mặt to béo kia dường như phình ra, mờ tối đi trong khoảnh khắc. Rồi nó lại trắng bạc

như có ánh lân tinh. Cặp mắt nhỏ bắn ra những tia xanh đục :

- Cuộc chơi của ta chắc chắn sẽ kết thúc mĩ mãn. Rồi các ngươi sẽ có dịp mở to mắt ra mà nhìn....

Ông chưa kịp mở miệng, chủ tịch Mãn đã biến mất.

Ông đăm đăm nhìn vào khoảng không hồi lâu, nhưng ông ta không trở lại :

« Từ đồng chí đã chết rồi! Cùng với nó là mọi tấn trò thời ấy. Dẫu sao, y cũng đã nói tuột móng heo.

Muốn hay không thì sau rốt, mọi tấm màn cũng rơi xuống. Chẳng phải ngẫu nhiên Ban-zac đặt tên cho bộ

trường thiên tiểu thuyết của ông là tấn trò đời. Nhưng có thể là y có lý khi nói rằng quyền lực không dung hoà

với những tình cảm của lương dân. Bởi đã là vua thì chỉ có nghĩa vụ bảo vệ chính thân xác của mình, chính

quyền lợi của mình ...mọi thứ khác đều coi như cỏ mọn. »

« Nhưng làm sao ta có thể coi như cỏ mọn những con người mà vì họ ta đã phải hiến dâng đời sống ? Và

nàng nữa, nàng và những đứa con của nàng, làm sao ta có thể coi ba sinh linh ấy như ba mô đất dọc đường

hay một lũ thỏ dùng nấu món ra-gu sau khi đã nhìn chán mắt ? Liệu ta có thể bắt chước con người quyền uy

phương bắc được không? »

« Nếu không làm được đúng như thế, ta sẽ mắc kẹt giữa hai tấm thớt quyền uy và tình cảm.Ta sẽ bị

nghiền nát vì hệ luỵ. »

« Nhưng quá muộn để mà thay đổi. Dù muốn hay không mọi sự cũng đã rồi. Bánh xe thời gian không

quay ngược lại . »

« Nhưng vấn đề đặt ra là thoạt kì thuỷ. Là nếu ... »

« Chữ nếu không tồn tại. Avec le si, on peut mettre la Paris dans une bouteille. »

« Nhân loại biết không có chữ Nếu nhưng họ vẫn phải đặt ra chữ Nếu để tìm kiếm sự thật ...Giả như trời

cho ta một cơ hội để mà chọn lựa ?»

Khi ấy, ông nghe rõ một tiếng thét não nùng cất lên trong đáy con tim :

« Nếu Trời có cho ta quyền khởi sự một lần nữa, ta ngờ rằng ta cũng không thể hành động như con

người quyền lực bắc phương .»

Ông hiểu rằng chủ tịch Mãn là chủ tịch Mãn và ông chính là ông. Không ai thay đổi được tính cách và số

phận cho ai. Mọi lời khuyên trên đời đều vô dụng !



**********


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post
NgọcTím
post Feb 3 2009, 05:47 PM
Post #12


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 366
Joined: 6-January 09
Member No.: 1,510
Country



Phần 11



Trời vừa sáng rõ mặt người, họ đã đèo nhau ra phố, giống như một cặp tình nhân đang trong thời kì

cuồng nhiệt nhất. Bà ngồi lặng lẽ sau lưng ông. Ông lặng lẽ đạp xe. Mỗi người đuổi theo những suy tưởng của

riêng mình. Phố xá còn vắng lặng, chỉ thấy những toán tân binh đi mải miết, có lẽ đang trên đường tới nơi tập

trung. Khoảng nửa giờ sau, con đê sông Hồng hiện lên chắn ngang tầm nhìn của họ.

- Chúng mình xuống đây thôi.

Ông nói. Và bà gật đầu ưng thuận. Họ xuống xe, trèo lên con dốc Yên phụ, tìm một quán nước chè vỉa hè

để gửi xe, rồi lặng lẽ vượt qua đê ra ngoài ruộng ngô. Lúc ấy, mặt trời mới nhô lên phía bên kia cầu Long-

biên, toả ra những tia sáng hình rẻ quạt. Những bờ ngô còn đầm đìa sương. Từng chuỗi sương chạy dọc theo

sườn lá, lấp lánh như những chuỗi cườm thuỷ tinh, rung rinh trong gió. Năm nay, gió xuân muộn thổi về,

dường như cuộc binh đao làm đổi thay cả mầu trời, tiết gió. Những cơn gió lang thang chạy dọc ven sông, rồi

bất chợt thì thào lướt qua đồng ngô như rụt rè như sợ hãi. Ngoài xa kia, trên làn nước hồng đã ngả sang trắng

bạc đám thuyền buồm lặng lẽ soi mình. Bãi cát lặng vắng đến nỗi có thể nghe rõ cả tiếng trẻ ríu ran cãi cọ và

tiếng ho của người dân chài nào đó trong đám thuyền vọng tới. Một cây ngô ngả thân quệt vào tay ông tất cả

sự ướt rượt lẫn nhám ráp của nó. Ông khẽ rùng mình, quay lại bảo bà :

- Cẩn thận không ướt áo. Dầu sao trời cũng vẫn còn lạnh.

- Vâng. Em biết rồi ...

Trong tiếng đáp của bà ngầm chứa một hờn dỗi nhưng ông không để ý vì đang mải rõi theo đàn trẻ bên

kia sông. Có đến hơn trăm đứa bé độ tuổi nhi đồng, đứa nào đứa nấy đều đội mũ rơm, lưng đeo ba-lô hay tay

đẫy. Chúng đứng túm tụm trên bến phà. Có lẽ học sinh trường nào đó đi sơ tán :

« Thế này mà máy bay tới thì hầm đâu mà chứa ? »

Ông không lạ gì những chiếc hầm, dù là cá nhân hay tập thể, tất cả đều không có giá trị thực sự nào hơn

một thứ thuốc an thần. Chúng khiến con người cảm thấy yên tâm ....Một tấm bê-tông to không hơn cái mẹt,

đậy trên miệng hố rộng chưa đầy tám tấc, sâu cũng chưa đầy tám tấc hoạ chăng chỉ có thể tránh mảnh lựu đạn,

làm sao chống nổi bom tạ ném từ trên máy bay? ...Nhưng vẫn cần phải có hầm để tạo nên cảm giác an toàn.

Chiến tranh giống như một trò chơi. Một trò chơi quá khốc liệt mà nạn nhân trước hết là những con người bình

thường, những đứa bé ...giống như những đứa bé bên kia bờ sông. Nheo mắt lại để nhìn rõ hơn, ông nhận ra

những chiếc mũ rơm nhấp nhô trong nắng sớm, những chiếc ba-lô bé tẹo teo, những chiếc tay đẫy mà ông biết

bên trong đó những người mẹ đã xếp phần ăn của chính họ trong cả tháng. Họ sẽ phải vét đến những hạt đường

cuối cùng, dành dụm gói lương khô cuối cùng cho những đứa con có thể sống sót nơi sơ tán xa xôi. Sự hy sinh

vô hạn của kiếp người hữu hạn.. Nỗi đau khổ bất tận của một lịch sử đã cắm mốc bởi những cuộc binh đao.

Phải chăng đó chính là thân phận dân tộc của ông ? Dường như họ là loại người bị lột da và luôn phải đứng

trước gió quất hay bão lửa.

Ông nghe tiếng bà hắng giọng và chợt nhớ rằng bà đang ngồi bên ông. Họ ra đây để có thể nói mọi

chuyện một cách dễ dàng :

« Có lẽ anh Cả nói đúng, dân tộc này là của chúng ta, có muốn từ chối cũng không được. Vì chúng ta

thuộc về một dân tộc bị lột da, nên chúng ta cũng phải chịu mọi đau đớn của kẻ bị lột da, mỗi người một kiểu.

Bây giờ là lúc ta phải quay lại cuộc hành xác này ! »

Mỉm cười, ông nói :

- Anh nhường quyền cho em đi trước.

- Không. Anh là người đàn ông.

- Thời chúng ta, đàn ông bình đẳng với đàn bà.

- Em không tin điều ấy.

- Em có tin. Mọi sự diễn ra trong nhà này chứng minh rằng không những em tin đàn bà bình đẳng với

đàn ông mà còn có thể thao túng đàn ông, với cách thức riêng của họ.

- Em chỉ làm đúng những gì mọi người đàn bà khác vẫn làm.

- Nhưng anh kết hôn với em chứ anh không kết hôn với những người đàn bà khác. Và điều này chúng ta

đã thoả thuận với nhau từ thuở chưa làm đám cưới ...Em đã quên chưa ?

Bà im lặng, vì bà chưa quên. Nhưng với ngần ấy tháng năm chung sống. Nhất là khi họ đã có đứa con

trai. Tại sao ông khăng khăng không khoan nhượng ?

- Em không quên. Nhưng em không hiểu ?

- Em không hiểu điều gì ?

- Vì sao một người cha có thể hờ hững với con đẻ của mình để thiết tha với đứa con người khác ?

- Con người khác ?


Ông quay lại nhìn thẳng vào mắt bà để tìm lời giải đáp. Không lảng tránh cái nhìn của ông, bà đáp thong

thả :

-

Cho dù đó là con ông cụ. Đó vẫn không phải con đẻ của anh, kẻ nối dõi tông đường của anh, kẻ sau

này chống gậy lăn đường trong đám tang của anh và của em, kẻ thắp nhang trên bàn thờ của chúng ta

cũng như tổ tiên hai bên nội ngoại. Anh có muốn, đứa con nuôi của anh cũng không mang họ Trần,

máu chảy trong huyết mạch nó không phải dòng máu của họ Trần.

Bây giờ ông đã hiểu, lòng tự ái là thứ tình cảm mãnh liệt nhất trên cõi đời. Đứa con là thành phẩm quan

trọng mà người ta kí cược những hy vọng và gửi gắm mọi nỗi niềm nông sâu. Đã là con, bất luận nó ra sao, vẫn

là thần tượng của người làm cha làm mẹ. Bởi vì ông không còn chấp nhận thứ tình cảm mù loà ấy, ông đã xúc

phạm tới lòng tự tôn của bà. Chính điều đó khiến bà căm giận. Bà không thể tha thứ cho ông, cũng không thể

tha thứ cho đứa bé đáng thương kia.

― Lòng vị kỉ của con người là thú dữ, loài thú tàn độc và mù loà. Không lẽ phải nào đứng vững trước loài

thú ấy. Không ngọn gió lương tâm nào lay động được nó bởi nó là loài vật không tim.‖

Ông nhớ lại câu văn cũ, thầy giáo trường trung học đọc trong một buổi bình văn cuối tuần. Con người

gầy loeo khoeo với cặp kính dầy như trôn chén ấy đã dạy ông biết bao điều hữu ích. Càng về già, ông càng

nhớ đến người thầy cũ như dân chài nhớ tới vọng hải đăng.

... ... ... ... .....

Thấy ông im lặng, bà tiếp tục :

- Anh không nghĩ rằng em nói sai sự thực đấy chứ ?

Bà nhìn xoáy vào ông với vẻ đắc thắng không che giấu. Lúc ấy, ông quay lại :

- Em có tin rằng con trai của chúng ta sẽ làm đầy đủ mọi phận sự như em hy vọng hay không ?.. Hãy cứ

lấy tấm gương của cậu nó mà rọi chiếu ? Em cố gắng nhìn thẳng vào sự thực, ít nhất là lần này. Liệu

em có hy vọng là Vinh khá hơn cậu Tùng hay nó đúng là bản sao người em trai của em. Và, là hình

ảnh của mẹ em ?

Tức khắc, mặt bà đỏ phừng phừng. Màu đỏ lan đến tận từng chân tóc hai bên mang tai và hai thái dương.

Ông biết rằng ông đã đánh trúng huyệt, rằng bà không thể chối cãi là đứa con của họ chính xác là bản sao của

cậu nó, một thứ công tử phố huyện ngu dốt, ích kỉ và đặc biệt vô liêm sỉ. Rằng ông đã phải muối mặt đi can

thiệp nhiều lần để đứa em trai vô năng và lười biếng của bà có chỗ dung thân. Trong một tương lai không quá

xa xôi chắc chắn con trai của họ cũng phải núp trong bóng cha nó mới hòng tìm được nơi trú ẩn. Điều này ngay

cả những người láng giềng cũng biết rõ. Nhưng bà không thể chịu thua. Lòng kiêu hãnh của người mẹ còn

mạnh hơn loài hổ dữ. Đứng phắt dậy, bà quát vào mặt ông :

- Cho dù như thế nó vẫn là con trai anh, con trai của chính anh. Nó vẫn là kẻ đích tôn thừa tự dòng họ

Trần !

- Đấy là lá chắn cuối cùng của em, có đúng không ?

Ông hỏi một cách điềm tĩnh, pha chút ngao ngán. Cái vẻ điềm tĩnh ấy chính là thứ khiến bà kiêng dè

nhất. Mắt ông nhướng về phía bờ bên kia sông, nơi ánh nắng đã tràn lên rực rỡ suốt giải bờ cát và những dãy

nhà nghiêng nghiêng chạy dọc bến phà :

- Trước hết em hãy ngồi xuống vì anh không muốn nhìn thấy em trong kiểu cách của con mẹ Tư hàng

cá.

Bà ngồi xuống thờ thẫn. Mặt bà từ từ chuyển sang màu chàm. Những khi ông chẳng còn chút giận dữ

trong giọng nói có nghĩa là tâm hồn ông đổi thay sắc thái. Chỉ còn lại trong đó nỗi đau khôn tả. Không nhìn bà,

ông nói tiếp:

- Anh cũng như mọi người cha khác, mong muốn một kẻ nối dõi tông đường. Anh cũng đã trằn trọc

day dứt nhiều năm theo dõi con trai chúng ta. Anh cũng đã gạn chắt biết bao hy vọng. Càng thất vọng,

càng đào bới, càng xây đắp những hy vọng mới. Nhưng có lẽ đàn ông khác đàn bà là tình yêu của họ

luôn luôn có giới hạn khi đương đầu với sự thật. Tình yêu của người đàn ông không thể bất tử vô điều

kiện. Đến lúc nào đó nó phải tan tành khi húc phải bức tường thực tiễn. Lúc ấy, người ta gọi là vỡ

mộng, hoặc là giải ảo. Nói chung, cần phải vỡ mộng con người mới khôn ngoan. Khi đã vỡ mộng, con

người không còn khả năng nhắm mắt bước xuống ao bùn được nữa. Họ buộc phải mở mắt để nhìn rõ

đường đi, để tránh rơi xuống sình lầy và chết một cách ngu xuẩn. Anh không còn hy vọng ở đứa con

của chúng ta. Từ ngày đầu tiên khi nó thét lên với Trung giữa bữa cơm và trước mặt tất cả mọi người

rằng mày chỉ có quyền cầm bát khi nộp tem phiếu, anh đã hiểu rằng con của anh và của em không

mang dòng máu họ Trần, nó mang dòng máu họ Phạm. Anh không hy vọng nó là người thừa tự.

- Vậy anh nuôi hy vọng rằng Trung sẽ chống gậy lăn đường cho anh mai sau ?

Bà hỏi ông với nỗi cay cú không che giấu :

- Không, anh không còn hy vọng vào việc đó. Có thể nhu cầu ấy chẳng tồn tại với anh bây giờ.


Ông trả lời chậm rãi và bà oà lên khóc. Thoạt tiên, bà còn cố ghìm nén. Nhưng mỗi lúc, bà mỗi buông thả

cơn hờn oán của mình. Từ lâu lắm bà mới được dịp khóc ngôi khóc ngả, khóc hả khóc hê, khóc như một người

đàn bà nhà quê, với những cơn nức nở tuôn tràn, những tiếng rống tiếng than, với tất cả cường độ và sắc thái

của những hờn ghen, phẫn nộ, uất hận kiềm chế từ bao năm đến bây giờ phải xả ra cho sạch. Ông lặng lẽ nghe

bà than khóc, nghe bà xỉ mũi soàn soạt, ầm ĩ, nghe bà ho và dặn ra ho thêm từng cơn, từng cơn.

Thời gian cứ thế trôi qua.

Nắng đã lên ngang lưng trời. Cây cầu Long Biên in hình xuống làn nước giờ đã ngả sang màu hồng phai

của hoa tường vi úa. Những ruộng ngô xung quanh họ đã khô sương, rung lá xạc xào. Tiếng cười của đứa bé

nào đó vẳng lên từ đám thuyền chài khiến ông nhớ lại những ngày ấu thơ sung sướng.

― Ta đã có một gia đình êm ấm, nơi những mối bất hoà về quyền lợi không thể làm sứt mẻ tình huynh đệ.

Nhưng đó chính là một may mắn. Nói tới may mắn có nghĩa con người không dự phần quyết định trong đó.

May mắn là quà trời cho hay thánh thần tặng thưởng. Nào ai biết mình có nhặt được hay không nhặt được quả

bứa chín rơi trên đường đi ? ... Khi cưới Vân, ta hy vọng đứa con của chúng ta sẽ giống ông giáo Lương nếu

như nó không có vạn hạnh được thừa hưởng những đức tính bên dòng họ nội. Nào ai dè nó giống bà bán nước

mắm nổi tiếng xấu cả nết lẫn ngừời. Nó là kẻ thừa tự của bà Phạm thị Tuyết Bông.

Đó chính là điều mà cổ nhân thường nói : đau hơn hoạn. Một mối thất vọng có nguy cơ đốn gục con

người.. Con cái chính là cây cầu mong manh nhất mà tất thảy chúng sinh đều bắc tới tương lai. Con cái chính

là cuộc xố số mà kẻ mua vé không bao giờ đoán được con số ngày mai sẽ về. ‖

Rút bao thuốc, ông châm một điếu và nhả khói chậm rãi. Thuốc lá là thứ giải sầu thích hợp với tình cảnh

này, trong lúc chờ bà khóc cho đã thèm, và trong lúc tìm một giải pháp mới cho cuộc sống chung. Có tiếng

trẻ hát ngọng líu ngọng lô từ đám thuyền chài vẳng lại. Ông đứng lên, thong thả đi về phía bờ cát. Ở đó, ông

hút tàn điếu thuốc rồi quay trở lại :

- Nào, em đã khóc xong chưa ?

- Xong rồi.

Bà đáp, bởi quả tình cũng không thể khóc hơn. Bây giờ bà hiểu rằng mọi sự đều có giới hạn, ngay cả

cơn khóc lóc có tính giải thoát những ấm ức lẫn hờn căm .

- Bây giờ chúng ta nói chuyện một cách thẳng thắn như hai người bạn.

- Như hai đồng chí.

- Ồ không, danh từ ấy chỉ sáng giá trong những năm xưa, trên chiến khu Việt bắc ...Còn bây giờ, người

ta thường dùng danh từ này trước lúc giết nhau ...

Ông cải chính một cách hài hước trước đôi mắt tò mò của bà :

- Anh không muốn hạ thủ em, dù sao chúng ta cũng đã chung chăn chung gối mấy chục năm trời ...

- Em nghe anh đây.

- Anh biết sự xuất hiện của Trung trong gia đình này khiến em chịu nhiều khó nhọc. Anh phải cảm ơn

em vì những năm tháng em đã mất công chăm sóc cả hai đứa trẻ cùng một lúc, cho dù có dì Nga giúp

đỡ. Thành thực mà nói những năm vất vả nhất, chúng ta lại hạnh phúc vì cùng sát cánh nhau gánh vác,

lo toan. Nhưng tình hình chỉ xấu đi khi Vinh lớn lên, học hành kém cỏi, càng được chiều chuộng càng

lêu lổng và dốt nát. Và càng ngày nó càng giống cậu Tùng cả tâm tính lẫn thân xác, giống đến nỗi

nhiều lần anh phải quay mặt đi khi hai đứa đứng hay ngồi cạnh nhau. Chắc em hiểu cho anh điều đó ?

Bà lặng im, đưa mắt nhìn nơi khác. Ông tiếp tục với giọng rầu rầu :

- Nói chuyện này ra, anh chẳng sung sướng gì bởi anh cũng như em được tác tạo bằng xương bằng thịt.

Tuy nhiên, sau bao nhiêu năm đắn đo anh hiểu rằng cần phải nhìn vào sự thật. Sự thật là em không

chịu nổi con em thua kém con người khác, bất luận người khác ấy là ai.

- Em không định nói như vậy. Lúc ấy em quá giận.

- Em không định nói nhưng em đã nghĩ thầm từ lâu, từ rất lâu. Cùng sống dưới một mái nhà không nên

để những ấm ức làm tổn hại tinh thần. Chúng ta không còn trẻ nữa. Em có thể sống riêng với con trai

của chúng ta. Còn anh sẽ nuôi Trung vì đấy là điều anh đã hứa trước lương tâm của mình. Anh sẽ cưu

mang nó với bất cứ giá nào, ngay cả khi phải hy sinh mạng sống. Điều này anh đã nói với em ngay từ

đầu, không che giấu ...Vậy bây giờ phần quyết định là ở em. Em được toàn quyền định đoạt.

- Anh sẽ làm đơn ly hôn ?

- Anh không làm gì hết. Nhưng người ta vẫn có thể sống riêng rẽ ngay khi bị các điều luật trói buộc.

Bởi mọi điều luật đều không hữu hiệu đối với con tim.

- Anh đã yêu ai ? Đã có con đàn bà nào ở trong tim anh ?

Bà thốt lên hộc tốc và tức khắc máu lại dồn lên mặt bà khiến nó đỏ tưng bừng như gương mặt một người

gánh nặng leo dốc giữa trưa tháng sáu.

Ông nhìn bà :

- Em nghĩ thật hay em nói chơi ?

- Em không muốn nói rằng anh đã yêu cô nào đó nơi anh đang làm việc, hoặc trong thành phố này.


Bởi vì tất cả những người đàn bà trong cơ quan anh, dù trẻ hay già, dù có chồng hay chưa có chồng em

đều thuộc lý lịch và tính nết họ như lòng bàn tay. Thêm nữa, em có cả một màng lưới trinh thám để

theo rõi và khống chế họ. Điều đó đúng hay không ?

- Em không nói tới những người làm việc chung với anh.

- Vậy em muốn ám chỉ một người đàn bà nào đấy ở các sứ quán ngoài nước trong những chuyến anh đi

công tác ? Em hãy mở danh sách ra mà kiểm soát. Anh có thể trực tiếp cung cấp những danh sách đó

cho em. Nếu không, em có thể tìm danh sách đó bên bộ ngoại giao, hoặc ngay cả văn phòng của Sáu.

Theo anh biết thì y tiếp đãi em hết sức thịnh soạn mỗi lần em có ý định ghé thăm y. Mọi người đều biết

rõ điều này :Vợ kẻ thù là người đồng minh thuận tiện nhất.

- Anh nghi ngờ em ?

Bà bật lên hỏi khiến ông phì cười. Ngay tức khắc bà biết mình hớ hênh và giọng cười của ông càng

khiến bà căm tức. Ông là người không có tính ghen. Giá như ông ghen, dù chỉ một lần ....có thể tình hình sẽ

khác ...Nhưng ông là người ngay thẳng, tự trọng và ông không cho phép mình phạm phải những thói tật mà ông

vốn cho là thấp kém, đối với những tiêu chuẩn đạo đức ông đã được giáo dục.

- Em định hỏi thật hay hỏi chơi ?

- Em xin lỗi, em không muốn nói như thế.

- Vậy em muốn nói gì ?

- Em không nói tới những người đang sống.

- Nghĩa là em muốn nói tới ....

Ông ngừng lại vì không thể há miệng nói tiếp.Vì tất cả sự sửng sốt, kinh hoàng lẫn ghê sợ mà bà gợi lên

cho ông. Nhưng nhìn đôi mắt cụp xuống của bà, ông hiểu ra mọi lẽ : Vợ ông không chỉ ghen với đứa con nuôi

vì nó giỏi, nó đẹp trai và tốt tính hơn con trai bà mà còn vì mẹ của nó. Mẹ nó trẻ hơn bà, đẹp hơn bà không chỉ

một vài phần mà là muôn phần gấp bội, cho dù bà vẫn được mệnh danh là Hoa khôi khu văn phòng suốt thời

kháng chiến :

― Cô ta ghen với người đã chết. Tại sao lòng ghen có thể chế tác nên những sự phi lý ghê tởm đến như vậy

? Cô ta đã nuôi những ý tưởng đồi bại, vô luân này tự bao giờ mà ta hoàn toàn không hay biết ? Nhưng ta

cũng không thể hay biết vì điều này vượt qua trí tưởng tượng của ta. Bất cứ người nào có đầu óc bình thường

cũng không thể hình dung ra một thứ tâm trạng bệnh hoạn, quái gở đến như vậy. Chỉ có thể là kẻ tâm thần mới

nghĩ như thế. Nhưng vợ ta vốn khoẻ mạnh, trong gia đình cô ta cũng chưa có ai mắc chứng thiểu năng tinh

thần .„

Ông trân trân nhìn vợ , hàm bỗng nhiên cứng lại, đầu óc bấn loạn. Ông có cảm giác như biến thành kẻ bị

cấm khẩu hoặc bị bại liệt tức khắc sau khi trúng cơn gió độc, một thứ bệnh ác hiểm và bí ẩn không ai có thể

đoán trước, cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân :

« Trúng ác phong »

Đấy là tên căn bệnh đe doạ loài người từ cổ chí kim. Bây giờ, chính ông đang là kẻ trúng ác phong. Ông

chìm đắm trong trạng thái nửa thức tỉnh, nửa tê liệt, thấy mọi vật đen sầm lại rồi sau đó chúng ngả sang màu

tím sẫm, nửa như màu hoa chân chim nửa như màu vỏ cà dái dê. Gương mặt vợ ông cũng biến dạng trong

màu tím nhù nhoà, mọi nét đều co giãn rung rinh như bà đang soi mình trên mặt hồ bị ném đá.

Ông đờ đẫn nhìn gương mặt quen thuộc đang biến đổi, những đường nét bị gẫy khúc, đứt nối, chập chờn,

và tự hỏi đó là thực hay là mơ ? Cái gì đang diễn ra trước mặt mình ?

« Có điều gì, có điều gì đã xảy ra trong cuộc sống của ta ? »

Ông muốn cất tiếng hỏi nhưng đôi môi không thể mấp máy. Tay chân ông cũng không thể động cựa, dù

trong một thoáng ông có ý định giơ tay lên để làm một cử chỉ tàn bạo nào đó đối với bà. Ông bất động và mê

man trong cơn thức tỉnh. Như một xác ướp sống. Hoàn toàn như vậy. Bởi ông có ý thức rõ rệt về trạng thái tồn

tại của chính mình.

-

Trong lúc đó, bà đã kịp định thần. Sau khi trút ra tất thảy những chất chứa trong một hoả diệm sơn, bà

trở thành một quả bóng xẹp, một cái xăm của bánh xe bị xì hơi chỉ còn lại lớp vỏ cao-su rúm ró. Bà nhìn đôi

mắt lạc tròng của ông, chợt hiểu những lời bà vừa thốt ra trong cơn mê man của ghen tuông. Đến lượt bà sợ

hãi. Bà vùng đứng lên, bỏ chạy về phía bờ đê.



*********

*********

*********




Ông cứ đứng thẫn thờ như thế hồi lâu, không biết rằng mặt trời đã bắt đầu chang chói. Trên sông, chiếc

sà-lan chở than bỗng hú còi. Tiếng còi lảnh lói ấy kéo ông quay về thực tại. Cơn tê dại tan dần dần khi ông cảm

thấy tay chân bắt đầu động đậy và mặt ông ấm nóng trở lại. Gió thổi từ triền sông đem tới mùi cây cỏ, mùi

nước, lẫn hơi ấm nồng ngai ngái của những đám rác rều mục nát bị sóng đánh tạt lên bờ.

Một cảm giác nhột nhoạt làm cổ ông ngứa ran. Ông đưa tay lên rờ túm ngay được một chú bọ ngựa non.

Con vật bé nhỏ này đang cọ gươm nhoay nhoáy. Ngay cả khi ông tóm nó trên tay, nó vẫn không ngừng

phóng đôi càng gai chém vào không trung :

« Mày hăng hái thật. Ngựa non háu đá, bọ ngựa non háu cọ gươm ...chó con háu sủa, mèo con háu cào

...Tình tang ơi, mày háu điều gì ? »

Bên tai ông bỗng vẳng lên câu đồng dao ông thường hát hồi năm sáu tuổi, những mùa hè về quê theo lũ

trẻ làng đi chăn trâu và thả diều. Thấm thoát đã sáu mươi năm. Đời người trôi qua như giấc mộng. Bất giác ông

cúi xuống nhìn bóng mình đổ qua bờ ngô.

« Ta sẽ còn nhìn thấy cái bóng này bao nhiêu mùa xuân nữa ? »

Câu hỏi vừa thốt lên trong tâm tưởng, lời giải đáp đã ném lại cùng với tiếng cười buồn :

« Ồ, quan trọng gì điều ấy ? Đa thọ đa nhục, cổ nhân đã nói rồi. »

Giơ con bọ ngựa lên, ông ngắm nghía lần cuối rồi ném vào ruộng ngô. Con vật bé nhỏ biến mất trong

những luống cây xanh rờn, rì rào không mệt mỏi. Gáy ông lại lên cơn ngứa ngáy. Lần này không phải vì bọ

ngựa hay châu chấu quấy rối mà là vì nóng. Chân tóc cũng bắt đầu tướm mồ hôi. Vũ lấy chiếc mũ vải mềm đội

lên đầu, quay trở lại bờ đê Yên phụ.

Đường vắng, nên ông có thể nhìn thông suốt con phố nhỏ. Những người gánh gồng đi qua một cách vội

vàng. Khói nhà máy điện phun lên những luồng bụi đen khiến bầu trời thành phố tối đi một góc. Phía bên kia

là hồ Tây, mặt nước mênh mang sau rặng hoa tím đường Cổ ngư. Đi ngược lên một đoạn nữa, ông nhận ra

dáng chùa Trấn Quốc với những lăng nhỏ đứng lô nhô, sát bên mép nước. Một con thuyền dập dềnh phía xa,

chắc hẳn thuyền ngư dân vì thi thoảng những vàng lưới tung lên nhấp nhánh ánh mặt trời.

« Ta đi đâu bây giờ, về nhà chăng ? »

Ông tự hỏi. Nhưng ông biết là không thể quay về vào lúc này, cho dù ông đã thoáng nghĩ đến tấm màn

xanh như sự cứu rỗi cuối cùng có thể khiến ông thăng bằng trở lại. Bà cầm chìa khoá xe, chắc chắn bà đã lấy xe

về trước. Và hẳn là bây giờ bà ấy đã thay quần áo, chuẩn bị ăn trưa, thản nhiên như không có gì xảy ra. Ông

biết rõ như vậy. Ông biết rõ là người đàn bà thường phục hồi rất nhanh sau những cơn choáng váng, là sức

chịu đựng những chấn động tình cảm của họ luôn luôn bền bỉ hơn đàn ông. Có lẽ chức năng sinh sản đã tạo cho

họ khả năng chống đỡ những cơn sốc dài, những cơn đau tột đỉnh, và điều ấy, tới lượt nó, tạo nên sự phản xạ

giới tính trước những biến động trong đời sống tinh thần ... Lý do nữa là khả năng suy nghĩ của họ luôn luôn

giới hạn, vì thế họ ít bị dày vò hơn đàn ông. Trong người đàn bà nào cũng có một phần khá mạnh mẽ của con

người nguyên thuỷ, bản năng lấn lướt lương tri. Sự suy tư cũng như lòng ăn năn thường qua mau như cơn

mưa mùa hạ. Vì thế, họ ít phải chịu đau đớn hơn đàn ông :

« Đàn bà là giống mạnh chứ không phải đàn ông. Đây là điều nhầm lẫn lớn nhất của Thượng đế. »

Ông hình dung ra khuôn mặt bình thản, có phần lì lợm của vợ mỗi khi bà mưu tính điều gì. Những giọt

nước mắt luôn luôn đồng hành với một mục tiêu cỏn con nào đấy. Khi thì để bào chữa cho tội lỗi của đứa em

trai, để chạy chọt những vụ đổ bể do gã gây ra, khi thì để biện minh cho sự vô năng của đứa con trong việc

học hành, thi cử ; khi thì để vẽ nên những bức tranh hy vọng mới của kẻ nối dõi tông đường. Ông đã quen với

mọi chiến thuật chiến lược của bà tuy ông làm ra vẻ không để tâm tới. Sự thực, mọi mưu toan của người đàn

bà cũng chỉ là để bênh vực cho những kẻ gần gũi họ, cho quyền lợi của chính họ mà thôi :

« Phần của tôi ? Phần của tôi đâu ? »

Mối quan tâm số một của tất thảy những người đàn bà là ở đấy.

Không riêng những người đàn bà, nhưng là cả nhân loại. Sự vị kỉ là một trong những bản năng gốc, tồn

tại mãnh liệt nơi chúng sinh.

Mỗi lần khó chịu vì những mánh khoé vặt vãnh của vợ, ông thường tặc lưỡi :

« Chao ôi, thói đời là thế ! Cô ta cũng chỉ là một người đàn bà bình thường trong muôn vạn người đàn

bà, một sinh thể trong muôn vạn chúng sinh. »

Vả chăng, ông biết rằng cuộc sống gia đình nào cũng đòi hỏi những thoả hiệp. Không thoả hiệp thì mọi

cuộc cộng sinh đều bất khả. Nhưng ông biết chắc chắn rằng ông không thể chung sống với một người đàn bà vô

đức. Một người tầm thường với mọi thói tật bình thường, điều đó có thể chấp thuận. Nhưng một người vô đức

hay độc ác, đó lại là chuyện khác. Giống như bờ bên này với bờ bên kia của một dòng sông.


Cuộc đối thoại ngày hôm nay đẩy ông sang bờ bên kia. Nguy cơ đã hiển hiện. Ông đã thấy mái nhà rách

tả tơi và những bức tường sụt lở trước mắt mình.

« Không ai đo được chiều sâu trong lòng người đàn bà. Không ai biết được ý nghĩ nào chôn vùi trong

óc họ, tình cảm nào khuất lấp nơi thầm kín nhất trong con tim họ. Vậy mà ta đã sống với cô ấy hơn ba chục

năm trời ! »

Mấy chục năm, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu kỉ niệm ấm êm, bao nhiêu đau buồn san sẻ. Làm sao

đếm được những lần túc trực bên giường bệnh phụ sản trong những lần xảy thai thường trực của vợ. Bao nhiêu

nẻo đường họ đã qua, bao nhiêu cánh rừng và bao nhiêu con suối ? Bao nhiêu mái nhà tạm trú suốt chín năm

kháng chiến trong cuộc sống long đong, màn trời chiếu đất. Bao nhiêu lần ông đun nước lá thơm cho bà tắm

gội ? Bao nhiêu bữa cháo ông đã nấu cho bà khi ốm đau. Bao nhiêu ngày và bao nhiêu đêm ?

Ông nhìn thấy mênh mông , chập trùng những năm tháng đã qua, những quãng đời đã mất ...Ông cảm

thấy cơn nghẹn ngào dâng lên họng khi hình dung quãng đường trước mặt : Một cuộc sống quạnh vắng, tựa

hồ một sa mạc trải đến chân trời, không nơi ẩn trú, không bóng cây che ... một sa mạc vô hình vô diện chạy

thẳng đến tận cửa mồ ...

« Tự nơi đâu và tự bao giờ, lòng ghen tuông đồi bại kia nảy sinh? Không lẽ nó chỉ là một thứ tình cảm

xấu xa đỏng đảnh vừa mới bột phát do sự thất vọng trước đứa con trai, bằng chứng rõ rệt về sự thua cuộc của

người làm mẹ ? Không lẽ chỉ đơn thuần như vậy ? Còn như giả thuyết này phi lý, chắc chắn mối ghen tuông đã

được nuôi dưỡng từ lâu, từ những ngày kháng chiến chưa thành công, và tất thảy mọi sự phải diễn ra trên

chiến khu Việt Bắc ? »

***

Những ý nghĩ lan man dẫn ông tới ngã ba, nơi con đường phân nhánh : bên trái là đường rẽ lên Quảng bá,

bên phải là cua vòng của con đê Yên phụ chạy tuốt lên phía tây bắc thành phố.

Chính giữa điểm chẽ đôi của con đường, người ta dựng nên một khóm cột bê-tông cao vút làm giá đỡ

cho các pan-nô khổng lồ trưng diện những khẩu hiệu chiến lược của nhà nước . Những dòng chữ sơn đỏ chói

lọi trên nền vải bố trắng được căng trên khung thép không rỉ cao hơn mười thước tây khiến những ai đứng gần

phải ngả thân về phía sau mới hy vọng đọc được. Ông đã thuộc lòng những dòng chữ phù thuỷ ấy. Nói cho

thật đúng, ông đã ghi khắc chúng trong tim óc mình một cách kinh hãi :

« Toàn đảng, toàn quân, toàn dân quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. »

« Còn non, còn nước, còn người.

Thắng xong giặc Mỹ,

Ta sẽ xây dựng lại non nước tươi đẹp hơn mười lần năm xưa ... »

Một tấm pan-nô vĩ đại vẽ hình anh Cả mặc quần áo lính, tay chỉ thẳng về con đường ngoằn ngoèo trên

đỉnh Trường Sơn. Dòng chữ bên trên ghi:

« Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước ! »

Dòng chữ phía dưới làm thành một đối xứng :

« Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân ! ».

Tấm hình phóng đại của chủ tịch trên tấm pan-nô cao nhất kia chính là của ông, của riêng ông. Nhà bảo

tàng quốc gia đã xin lại nhân dịp triển lãm :

« Việt nam tên đường thắng lợi ».

Tấm ảnh ấy ông đã chụp được một cách ngẫu nhiên trong lần tháp tùng anh Cả ra mặt trận với chiếc

Kôn-rát cũ kĩ mà một tay phóng viên Nga đã cho ông trước khi quay lại Trung quốc để lên đường về nước.

Thời ấy, anh Cả vừa qua cơn kiết lỵ. Rau thiếu, thịt cá tươi hầu như chỉ là thứ trang trí, mấy tháng liền ăn toàn

cá mắm với măng luộc nên hơn nửa số người trong văn phòng kiết lị. Ông cụ, tuy có được ưu đãi đôi chút,

nhưng lại cao tuổi hơn mọi nên rút cục cũng phải chịu tai hoạ chung. Một căn bệnh được chia đều. Hồi đó, ông

cụ đùa:

« Tất cả mọi người đều bình đẳng trước bệnh kiết lị.»


Trên đường ra mặt trận, ông cụ luôn luôn pha trò như vậy. Cách nói dí dỏm đầy hình ảnh và ẩn dụ, xen

lẫn những cử chỉ điểm xuyết khiến ông cụ có một vẻ quyến rũ đặc biệt. Ông biết chính ông cũng bị quyến rũ.

Và ông chứng kiến không ít người há hốc mồm, mê mẩn khi nghe anh Cả nói chuyện :

« Cô Xuân đã yêu anh Cả cũng vào thời gian ấy ...Mối tình oan nghiệt này bắt đầu vào mùa chiến dịch

năm I953 ...năm 53; chắc chắn là như vậy. Người ta bảo đấy là năm con Rắn, Quý Tỵ, con rắn xanh. Cuộc

kháng chiến còn hơn một năm nữa là kết thúc ... »

Ông nhớ con suối ông đã dẫn Xuân đi qua lần đầu, để tới ngôi nhà sàn của anh Cả, bởi chính ông là

người trước tiên và duy nhất mà cô gái miền núi này thổ lộ tâm tư. Con suối ấy trong veo như thuỷ tinh, có

thể nhìn rõ lũ cá lượn quanh các đám rêu nhỏ, cả những con cua hộc tốc bò trong các kẽ đá..

Khi họ vừa đặt chân xuống nước, Xuân đã phát hiện ngay ra lũ cua :

- Ô ô ô ...

Cô gái kêu lên mừng rỡ rồi tức khắc cúi xuống chộp những con cua cho vào chiếc túi vải chàm vẫn xách

bên tay :

- Để nhà bếp nấu canh cho chủ tịch ...Thế nào cũng được một nồi.

Ông không biết nói sao đành đứng chờ cô lục soát hết các hốc đá để tóm gọn những con cua xấu số lọt

vào tầm mắt. Cũng phải đến mười lăm phút sau họ mới có thể tiếp tục lên đường. Xuân xóc chiếc túi vải trên

tay, cười sung sướng:

- Tối nay chủ tịch sẽ được bát canh ngon.

- Đúng đấy. Canh cua đá với rau ngót rừng ngon tuyệt.

Ông tán thưởng và nhìn gương mặt rạng rỡ của cô gái. Có một sự hồn nhiên trong suốt tựa pha-lê, có một

sự thánh thiện hoang sơ như cỏ dại, mộc mạc như hoa rừng nơi người đàn bà này. Cô ấy khiến cho tâm hồn

người đàn ông tươi trẻ. Cô ấy đem trở lại cùng một lần mùa xuân lẫn tuổi thơ ...Ấy là thứ quà tặng vô giá, thứ

ân sủng thần thánh mà không quyền lực lẫn tiền tài nào mua được. Chưa kể tới một nhan sắc lộng lẫy : chim sa

cá lặn trước giai nhân ...

Ngay tức khắc, ông hiểu vì sao anh Cả yêu Xuân, cho dù không bao giờ nói ra miệng ....

Vài tháng sau, ông đùa :

- Anh Cả thấy chưa, em cũng giống Quan Vân Trường thuở trước.

Ông cụ mỉm cười :

- Đúng rồi, vai trò của chú hoàn toàn như vậy . Chỉ có điều là Quan Vân Trường phò nhị tẩu, còn chú

chỉ phải phò nhất tẩu mà thôi.

Không có gì khó che giấu hơn tình yêu. Người ta có thể che giấu sự xa hoa, của cải, ước muốn, lòng thù

hận hay sự kiêu hãnh. Nhưng không ai che giấu được tình yêu. Tình yêu giống như sự nghèo khổ, xét trên

phương diện ấy. Đó chính là điều ông ghi nhận được qua cuộc tình éo le của anh Cả. Cho dù là lãnh tụ, cho dù

đã từng có nhiều cuộc tình trong đoạn đời lênh đênh của quá vãng. Nhưng chính cô gái này là cuộc tình lớn

nhất, cuộc tình cuối cùng trong cuộc đời con người đau khổ kia.

***

Những cơn gió lướt qua mặt ông, mơ hồ.

Rồi tiếng chim hót từ những rặng ổi đường Quảng bá vẳng lại, nghe như thực như hư . Ông trầm ngâm

nhìn tấm hình phóng đại, hình ảnh con người mà ông gắn bó hơn cả anh em ruột thịt. Ánh sáng trượt theo

những nét sơn dầu khiến cho tấm chân dung trở nên choáng lộn như người ta đã phủ lên một lượt kim nhũ.

Thứ kĩ thuật này thích hợp với nghệ thuật trang trí sân khấu hơn và nó khiến ông khó chịu. Nhưng vẫn còn lại

nguyên những đường nét cũ : gương mặt gầy guộc quay nghiêng, đường gò má và sống mũi, đôi mắt sáng rực

mà ông hiểu ý nghĩa của mỗi tia nhìn :

« Cánh tay ông cụ gầy trơ xương trong ống áo lùng thùng. Đúng là thời đói ăn. Thời mà bát sắn nấu chan

đỏ ớt tươi trộn muối. »

Ông nhớ tới cục xà-phòng đen như cứt chó do xưởng xà-phòng cục hậu cần tự nấu bằng những thứ

nguyên liệu mà nếu nói ra tất cả các nhà sản xuất xà-phòng trên trái đất này sẽ phải hãi hùng. Thế rồi cũng đã

qua, quãng thời gian khốn khổ ấy. Mỗi khi bước xuống suối giặt, thấy đám bọt xà-phòng trôi lều bều xám đục

như bọt ruộng đất chua mà phát gớm. Nhưng bù vào đó là tiếng hò hát inh ỏi của lũ thiếu sinh quân và tiếng ríu


ran của chim rừng. Và hy vọng vào một ngày mai chiến thắng. Dân tộc ta chưa bao giờ được sống trong thực

tại. Chúng ta chỉ sống trong hy vọng và bằng hy vọng mà thôi. Cả cuộc kháng chiến trường kì qua đi được là

nhờ vào hy vọng.

Nhưng còn cuộc chiến tranh này ? Có lẽ những đoàn quân tiến bước trên giải Trường sơn hôm nay cũng

như chúng ta năm xưa, họ hy vọng, họ nghĩ đến một ngày mai tươi sáng. Ông thánh dẫn đường cho họ cũng

vẫn mang một gương mặt một hình hài như ông thánh của cuộc chiến tranh Việt Bắc xưa kia. Chỉ có điều lần

này, ông không còn là một ông thánh thật sự mà chỉ là một xác ướp bị điều khiển, một zombie !

« Chính ta đã cho chúng nó tấm hình kia, để bây giờ chúng có thể lợi dụng nó như một thứ vũ khí vô

cùng hiệu lực. Nào ai học được chữ ngờ ? »

Nỗi đau ấy âm ỉ đã lâu.

« Nào ai học đến chữ ngờ ? »

Tấm ảnh ấy không còn trong cuốn an-bum gia đình ông. Phim của nó cũng mất cùng với chiếc Kôn-rát

chính vào ngày chiến thắng, mùa thu năm Giáp Ngọ . Khi các đội quân tiến vào năm cửa ô, các cơ quan cũng

rối rít tiến về Hà nội ...Hà nội, Hà nội, ba mươi sáu phố phường yêu dấu, thành phố thân thương đã xa cách

gần tròn một thập kỉ. Không ai muốn chậm trễ một ngày :

« Tiến về thủ đô ! Tiến về thủ đô ! »

Đó là tiếng thét của tất thảy mọi con tim trong cơn bấn loạn vì hạnh phúc. Khi niềm sung sướng dâng đầy

tâm trí, ắt phải có đôi ba điều bị lãng quên, dăm bẩy đồ vật bị rơi rớt hay thất lạc ...Âu cũng là chuyện thường.

Nhưng nếu như tấm hình ấy dùng để triển lãm chân dung hay bất cứ một mục đích nghệ thuật nào khác

...có lẽ ông sẽ không quá đớn đau như vậy. Nhưng nó lại được sử dụng vào chính cuộc chiến tranh chống Mỹ,

cuộc chiến nồi da nấu thịt mà anh Cả đã tiên liệu và tìm cách ngăn cản từ buổi đầu. Thế nên nỗi chua xót

không ngừng gặm nhấm trái tim ông . Cùng một lần, ông cảm thấy sự đểu giả của trò chơi nhân thế và sự thất

bại của chính bản thân. Cảm giác ấy kinh hoàng hơn cái chết.

Một đoàn ô tô tải tiến từ phía đường Quảng bá lại, xe nào xe nấy phủ kín bạt. Vượt qua khoảng trống để

tiến vào thành phố, đoàn xe tung một đám bụi mịt mù. Ông biết chắc đó là đoàn xe chở hàng vào mặt trận.

Ngày nào cũng miên man những đoàn xe chở vũ khí và lương thực tiến về phương nam. Ngày nào cũng có

những chuyến tàu chở tân binh vào Thanh Hoá và Nghệ an. Từ hai tỉnh ấy, các đội quân sẽ tản ra các phương

vị khác nhau tuỳ theo phiên chế.

...Và điều này sẽ là chắc chắn : ngày nào máu cũng đổ ...

Nhưng máu đổ đã là sự quá bình thường trong lịch sử của dân tộc Việt, một dân tộc mà mọi khúc nhôi

lịch sử đều được đánh mốc bằng những cuộc chiến tranh. Thêm nữa, trong cuộc chiến tranh này, những kẻ cầm

đầu đã đưa ra một logic chặt chẽ để chỉ định :

« Dân tộc ta anh hùng, dân tộc ấy phải thắng tất thảy mọi kẻ thù, dân tộc ấy không thể bị tổn thất quá

nhiều trong cuộc chiến ...»

Với logic ấy, đương nhiên máu phải đổ trong im lặng, xương phải rơi trong im lặng, tên những kẻ ngã

xuống phải được nhào nặn với bóng tối và sương mù ...

Số phận chăng ?

Số phận hay ý chí ?

Số phận ; bởi vì Mỹ đã muốn chọn phương Nam làm bức tường thành ngăn chặn làn sóng cộng sản.

Số phận, bởi phương Bắc đã lọt vào tay một kẻ mắc chứng cuồng tôn. Y muốn có cuộc chiến tranh này

bằng mọi giá. Cuộc chiến tranh sẽ xây cho chính y đài tưởng niệm hùng vĩ, hùng vĩ nhất trong lịch sử trên tất

thảy mọi chiều kích :

« Cuộc chiến tranh chống Mỹ phải vĩ đại gấp muôn lần cuộc chiến tranh chống Pháp, và khải hoàn môn

phải muôn vạn lần hoành tráng hơn ! »

Mục tiêu đã được đong đếm từ đầu.

Đài tưởng niệm đã được xây cất trong trí tưởng tượng và trong những giấc mơ ban ngày từ khi cuộc chiến

chưa khởi sự.

Chao ôi, trò đỏ đen của lịch sử ; tấn tuồng hài hước nhất trong mọi tấn tuồng chính là cuộc chinh phạt

thiêng liêng của cả một dân tộc lại được xây cất một cách bí mật trong hộp sọ của con bệnh vĩ cuồng. Và bao

nhiêu triệu người đã ngã xuống một cách tự nguyện vì tin rằng sự hy sinh của họ là thiết yếu cho tương lai của

tổ quốc, cho danh dự của dân tộc , nhưng thực chất họ chỉ là những bầy cừu bị lùa vào lò sát sinh vĩ đại nhằm

làm sáng giá một học thuyết của những thây ma đã thối rữa dưới đất đen :


« Liệu y có thực tâm tin vào chủ nghĩa Mác hay Mác chỉ là cái cớ vay mượn để thực hiện giấc mộng bá

vương ? »

« Mác không là gì hơn một tấm áo khoác thùng thình để nguỵ trang những giấc mộng hoàng đế. Y

cũng không là gì khác hơn một kẻ mưu phản chiếm đoạt ngai báu bằng phương thức cũ rích từ ngàn xưa. »

Những ý nghĩ đó khoan xoáy con tim ông, như thường lệ. Những ý nghĩ ấy tạo thành những lối mòn

nhẵn cỏ trong óc não ông. Càng những năm gần đây, chúng càng ám ảnh ông da diết. Có bao nhiêu điều vô lý

mà chúng ta chỉ có thể hiểu được sau độ lùi của không gian lẫn thời gian. Giờ, ông không còn hồ nghi nữa :

Kẻ hãm hại anh Cả, chính là kẻ được ông Cụ yêu chiều, tin cẩn nhất. Nhưng con người này không một chút

khao khát đối với hạnh phúc của dân tộc, cũng không mảy may rung động trước sự dìu dắt chân thành của bậc

huynh trưởng. Điều duy nhất y cần là quyền lực và vinh quang.

Y cần vinh quang bằng mọi giá.

Y chính là kẻ bằng mọi giá phải đạp lên cổ ông thầy.

Y chính là kẻ phải tìm mọi cách để giết cha. Nhưng sở dĩ y có thể làm được điều ấy bởi dân tộc này đã

khuất phục y một cách vô điều kiện. Đó là cái giá phải trả cho sự ngu dốt và hèn nhát . Phần này, không thuộc

về số phận nhưng thuộc về hiện tượng mà người ta thường gọi là : Nạn nhân đồng loã !

Suốt một thời gian dài, nung nấu bởi những hồ nghi, ông đã nhiều lần tự vấn. Nhưng chưa bao giờ lời

giải đáp thực sự đến với ông. Cho đến tận hội nghị trung ương lần thứ chín. Hội nghị ấy là thời điểm mà mọi

quân bài đều lật ngửa. Trong hội nghị ấy, tuyệt đại đa số uỷ viên đứng về phía Ba Danh và Sáu, họ muốn có

một vinh quang phương trượng hơn vinh quang của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ muốn có cuộc chiến

tranh này. Đó là một đam mê, một đam mê bất khả kìm chế. Một cuộc tình định mệnh quyến rũ cả một dân

tộc trong cơn cuồng si. Nỗi đam mê trở thành anh hùng còn hung dữ hơn nỗi đam mê nhục dục. Trong ngọn

lửa thiêu đốt của dục vọng, không lý lẽ nào tồn tại. Vào thời điểm Sáu quyết định lấy biểu quyết cho cuộc

chiến, anh Cả bỏ ra ngoài hành lang hút thuốc một mình. Ông ngồi lại trong phòng nhìn qua khuôn cửa sổ, thấy

những cuộn khói bay lên không ngưng nghỉ. Tim ông đánh thì thụp trong lồng ngực. Một nỗi sợ hãi vô hình đè

nặng tâm can. Một nỗi khắc khoải không tên làm cồn cào gan ruột. Một nỗi buồn mênh mông như mây xám

quây bốn góc trời. Ông muốn đến sau lưng anh Cả mà không dám... Chính ông cũng không thể cắt nghĩa được

sự hành vi hèn nhát của mình, dẫu rằng những người xung quanh đều nhìn ông như người anh hùng cuối cùng

của thời đại.

« Có phải vì bản chất nhân loại là bầy đàn nên nó thường mất thăng bằng và cảm thấy bất an khi đứng

chơ vơ một mình một bóng ? Phải chăng vì lý do này mà ta đã ngồi lại trong phòng họp cùng với đám đông ? »

« Không !...Ta đã ngồi lại trong phòng bởi ta không thể và không muốn làm bất cứ một cử chỉ cỏn con

nào để an ủi anh Cả trước mắt mọi người. Sự khích lệ được bày biện hay sự đồng tình lộ liễu sẽ là điều tồi tệ

nhất cho cả hai người. »

Phải rồi, chính là như vậy !

Có lẽ là như vậy ...

Không, chính xác là như vậy !

Đã tự khẳng định nhưng rồi bao nhiêu năm qua ông vẫn dằn vặt mình :

« Đáng lẽ ra ta phải ra đứng sau lưng ông cụ ...Đáng lẽ ra ta không nên để anh Cả đứng một thân một

mình trơ trọi ngoài hành lang, vào thời khắc mà ông cụ nhìn thấy rõ ràng sự phản bội của lũ lưu manh kia

...Một sự phản bội giữa thanh thiên bạch nhật .... »

Ông nhớ rằng lúc đó, ông đã dán mắt vào khuôn cửa, nơi một phần tấm lưng của chủ tịch hiện lên cùng

những vòng khói thuốc, trong khi cả óc não lẫn tâm hồn ông tê liệt. Ông hiểu từ nay con đường lịch sử sẽ

quay chiều, rằng hình ảnh kia là biểu tượng tối hậu của nỗi cô đơn, của người anh hùng ngã ngựa, rằng từ nay

số phận của tất cả mọi người cũng như của chính ông sẽ thay đổi cùng với sự ngã ngựa của con người cô đơn

ấy.

***

.....Lại một đoàn xe ầm ầm lao tới.

Lần này là đoàn pháo binh.

Những cỗ pháo hạ thấp nòng, nguỵ trang bằng vải dù và lá kết. Bụi trung du bám đỏ bánh xe lẫn khuôn

mặt lính. Ông chờ cho đoàn pháo đi hết rồi mới thong thả qua bùng—binh, rẽ vào đường Quảng bá. Đã từ lâu


ông không đi lại ngả đường này ...Một phần vì công việc bận rộn. Phần nữa vì muốn quên một nơi chốn rủi ro

...Nhưng hôm nay, đã thả bộ cho tới tận nơi đây, ông không thể quay về được nữa :

« Vì sao ta lại đặt chân lên đoạn đường oan nghiệt này ? »

« Chính vì nó oan nghiệt nên ta phải nhìn cho tường tận một lần nữa ? »

« Phải chăng cuộc cãi cọ với cô Vân khiến ta phải nhớ đến chuyện cũ. Hay chính vong hồn người đã

khuất rủ rê ta quay lại chuyện trò ? »

Ông không biết nữa, nhưng bước chân dẫn ông theo con đường hẹp, hai bên la đà rặng ổi. Người ta đã

trồng những rặng ổi này từ bao giờ, chẳng ai còn nhớ, nhưng những rặng ổi nơi đây rậm như rừng. Ổi chạy từ

lề đường, trùm kín ta-luy, lan xuống mép những mảnh ruộng trồng hoa hoặc những ao thả rau muống bên

dưới. Cây nọ sát cây kia, cành này chen cành khác, kết thành thứ thành luỹ xanh dày đặc, trưa hè nắng không

chui lọt. Đây là hang ổ của những toán trộm chia của, dấu của. Nơi thanh toán những món nợ máu của giới

giang hồ. Nơi dan díu của những cặp trai gái bất lương. Hoặc nơi hành nghề lý tưởng của những cô điếm bị

công an xua đuổi. Những rặng ổi này nổi tiếng khắp thành phố vì những câu chuyện sởn gai ốc, những màn

kịch thê thảm hoặc hài hước trong những tấn tuồng ái ân vụng trộm hoặc ghen tuông man rợ.

Phải chăng vì ấn tượng chúng gợi nên kích thích máu lưu đãng thời trai trẻ của Quốc Tuỳ khiến y đã

chọn con đường này làm nơi hạ sát cô Xuân ?

Hay đặc tính bất lương tiêu biểu của nơi chốn đã gợi cho y mưu toan hạ nhục người đàn bà mà y giết

hại ?

Hoặc chính vì đã bị người đàn bà xinh đẹp này từ khước nên ngoài việc giết hại cô theo chủ ý của Sáu, y

còn mượn dịp trả món nợ của lòng tự ái bị tổn thương ?

Ông nhìn những rặng ổi chạy ngút ngát suốt quãng đường từ bùng – binh ngược lên phía tây bắc thành

phố. Những rặng ổi phủ đầy bụi dường như cũng đang nhìn lại ông, kẻ lữ hành tóc trắng, với những con mắt

lá.

Rồi một cơn gió ào tới đem hơi ẩm lạnh dù nắng vẫn tưng bừng khắp bốn góc trời. Ông rùng mình :

« Gió hay là khí âm của hồn ma người đẹp ? »

« Xuân ơi, tôi không bao giờ quên mối hận này. Còn sống ngày nào tôi sẽ còn chở che cho những đứa

con của cô cùng anh Cả ...Hãy yên nghỉ nơi chín suối ....Nếu có khôn thiêng thì hãy phù trợ cho chúng tôi »

Có ai nức nở quanh đây.

Ông vội vã nhắm mắt. Nhưng những giọt lệ vẫn trào ra, lăn xuống hai gò má. Gương mặt ông dần ướt

lạnh. Ông nghe tiếng chim hót từ những rặng ổi vang lên, mỗi lúc mỗi lảnh lót. Tiếng chim vọng miên man

giữa một thành phố thưa dân và một miền quê thiếu người cầy ruộng. Tiếng chim. Sao chim hót nhiều đến thế

trong những khoảnh khắc đau đớn tột cùng của cõi đời ? Ông nhớ lại tiếng chim ríu ran trong một rạng đông

cũ, khi ông thảng thốt chạy qua khu vườn trước nhà để ra đường.

Buổi sáng kinh hoàng ấy, chưa đầy năm giờ rưỡi, chuông điện thoại đã réo. Ông mắt nhắm mắt mở bước

xuống giường cầm máy. Một giọng ngàn ngạt, khàn khàn vang lên :

- Vũ ơi, cô Xuân chết rồi !...Trên đường Quảng Bá.

Ông chưa kịp hỏi, người bên kia đầu giây dập máy. Ông nghe rõ tiếng thở hổn hển, giọng nói run rẩy và

méo mó của một người cố tình bịt mũi để nguỵ trang. Ông tỉnh ngủ tức khắc và hiểu mình phải làm gì. Vội vã

gọi lái xe, thay quần áo, ông chạy ra cổng khi nghe tiếng máy khởi động trước ga-ra. Chính lúc đó, tiếng chim

rạng đông khiến ông phải dừng lại. Không hiểu vì duyên cớ nào, nhưng vào thời khắc căng thẳng tột độ, thời

khắc một trăm con tính ngổn ngang trong óc, ông lại chú ý đến tiếng chim. Dừng chân trước hai cánh cổng đã

mở toang, ông ngẩng lên nhìn những vòm lá của đám sấu, đám mít trong vườn. Không tìm thấy một con

chim nào trong cây lá. Trước mắt ông chỉ một khối diệp lục huyền bí và từ đó, điệu nhạc líu lô của chim chóc

vang lên, như một nốt nhấn trong giai điệu cuộc đời, nó đem lại một màu sắc hoàn toàn tương phản với cảnh

bi ai mà ông sắp phải đương đầu.



**********


--------------------
Ngoc Tim
Go to the top of the page
 
+Quote Post

3 Pages V   1 2 3 >
Reply to this topicStart new topic
1 User(s) are reading this topic (1 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 4th June 2024 - 06:39 PM