Welcome Guest ( Log In | Register )

> PLEIKU( Gia Lai )
delta
post Apr 17 2008, 10:05 AM
Post #1


Chốn Xưa
***

Group: Members
Posts: 585
Joined: 7-April 08
Member No.: 7
Country



Pleiku ( Gia Lai )



Gia Lai là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Nguyên Việt Nam. Trước đây là một phần của tỉnh Gia Lai-Kon Tum.


Vị trí địa lý
Với diện tích 15.494,9 km², tỉnh Gia Lai trải dài từ 15°58'20" đến 14°36'36" vĩ Bắc, từ 107°27'23" đến 108°94'40" kinh Đông. Phía bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, phía tây giáp Campuchia với 90 km đường biên giới quốc gia, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.


Khí hậu
Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, một năm có hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vùng Tây Trường Sơn có lượng mưa trung bình từ 2.200 đến 2.500 mm, vùng Đông Trường Sơn từ 1.200 đến 1.750 mm. Nhiệt độ trung bình năm là 22-25ºC.


Sông ngòi

Gia Lai là nơi đầu nguồn nguồn của nhiều con sông đổ về vùng duyên hải miền Trung Việt Nam và về phía Campuchia như sông Ba, sông Sê San và nhiều con suối lớn nhỏ.


Tài nguyên

Khoáng sản
Các loại khoáng sản có trên địa bàn tỉnh này là crom, niken, coban, thiếc, asen, boxit-laterit, vàng, vonframit, molipdenit, caxiterrit v.v.


Động vật
Trong địa bàn tỉnh Gia Lai có một số loài thú sinh sống như voi, nai, bò, hoẵng, thỏ rừng, lợn rừng, trăn, rắn, cọp, các loài chim như gà rừng, chim cu đất, gà gô, khướu, công, trĩ sao, gà lôi hồng tía, gà lôi vằn, các loài cá như lúi, phá, sóc, trạch, lăng, chép. Các loại gia cầm, gia súc như trâu, bò, lợn, gà, vịt, ngựa, thỏ v.v.


Thực vật
thực vật ở đây cũng không khá phong phú lắm, nhiều nhất là tiêu, cây chè, cây điều, cây lúa, v.v... và một số cây hoa màu nhưng với số lượng không nhiều. . cây thông, cây tùng, cà phê, cao su, với số lượng nhiều.


Hành chính

Tỉnh Gia Lai bao gồm 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 13 huyện:

Thành phố Pleiku
Thị xã An Khê
Thị xã Ayun Pa, tên cũ là Cheo Reo
Huyện Chư Păh, huyện lỵ là Phú Hoà
Huyện Chư Prông
Huyện Chư Sê
Huyện Đắk Đoa
Huyện Đắk Pơ
Huyện Đức Cơ, huyện lỵ là Chư Ty
Huyện Ia Grai
Huyện Ia Pa
Huyện KBang
Huyện Kông Chro
Huyện Krông Pa, huyện lỵ là Phú Túc
Huyện Mang Yang
Huyện Phú Thiện

Lịch sử
Vùng Tây Nguyên ngày xưa đa số la những người dân tộc thiểu số sinh sống. Và họ sống với nhau trong những làng mạc mà cha ông họ đã gây dựng nên. Trong một ngày nọ người trưỡng làng cảm thấy trong người của mình có vẻ không ổn nên đã cho gọi 2 người con trai vào và tổ chức một cuộc thi săn bắt để chọn ra một người kế vị. Và cuộc thi đã diễn ra nhưng phần thắng đã thuộc về người em. Người anh buồn bã bỏ sang một vùng đất khác để sinh sống. Còn lại người em đã lập ra một làng tên là "plei ku". ( Ở đây nếu dịch sang nghĩa từ thì Plei: là một cái làng Ku: người em. Pleiku : làng của người em (nhớ về chiến thắng của người em). Và cái tên Pleiku được gắn liền với dia danh nay suốt bao năm tháng qua.

Dân số
Dân số tỉnh Gia Lai gần 1,1 triệu người (năm 2004) bao gồm nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, người Kinh chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân tộc Gia-rai (33,5%), Ba Na (13,7%), Giẻ-triêng, Xơ-đăng, Cơ-ho, Thái, Mường ...

STT Tên đơn vị hành chính Diện tích
(km²) Dân số trung bình
(năm 2003) Dân số
(ngày 31/12/2003)

01 Thành phố Pleiku 260,59 184.397 186.763
02 Thị xã An Khê 199,12 63.014 63.663
03 Thị xã Ayun Pa 287,05 99.616 35.058
04 Huyện Chư Păh 981,30 62.379 62.751
05 Huyện Chư Prông 1.687,50 75.363 76.455
06 Huyện Chư Sê 1.350,98 124.288 126.070
07 Huyện Đắk Đoa 980,41 85.072 86.169
08 Huyện Đắk Pơ 499,61 35.160 35.522
09 Huyện Đức Cơ 717,20 43.595 44.609
10 Huyện Ia Grai 1.122,38 74.620 75.593
11 Huyện Ia Pa 870,10 43.551 44.162
12 Huyện KBang 1.845,23 56.671 57.397
13 Huyện Kông Chro 1.441,88 34.478 35.074
14 Huyện Krông Pa 1.623,63 61.576 62.280
15 Huyện Mang Yang 1.126,07 43.125 43.855
16 Huyện Phú Thiện 501,91 0 64.558
Tổng cộng 15.495,70 1.086.905 1.099.979

Tham khảo [2]

Cơ sở hạ tầng

Bản đồ giao thông đường bộ tỉnh Gia Lai
Đường bộ
Quốc lộ 14 nối Gia Lai với Kon Tum, Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng về phía Bắc và Đắk Lắk, Đắk Nông, các tỉnh vùng Đông Nam Bộ về phía Nam. Quốc lộ 19 nối với cảng Quy Nhơn,Bình Định dài 180Km về phía Đông và các tỉnh Đông Bắc Campuchia về hướng Tây. Quốc lộ 25 nối với Phú Yên. Ngoài ra, đường Hồ Chí Minh cũng đi qua địa bàn tỉnh Gia Lai. Các quốc lộ 14, 25 nối Gia Lai với các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung rất thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa đến cảng để xuất khẩu và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.

Hiện nay, tất cả các tuyến đường xuống các trung tâm huyện đã được trải nhựa hầu hết các trung tâm xã đã có đường ôtô đến.


[sửa] Đường hàng không
Sân bay Pleiku (còn gọi là sân bay Cù Hanh) là một sân bay tương đối nhỏ,có từ thời Pháp.Sân bay Pleiku đang hoạt động, mỗi tuần có 7 chuyến từ thành phố Hồ Chí Minh đi Pleiku - Đà Nẵng - Hà Nội và ngược lại.


Thủy điện
Với địa hình cao và nhiều sông suối, Gia Lai là một trong những nơi tập trung khá nhiều các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ:

Thủy điện Yaly
Thủy điện An Khê
Thủy điện Ayun Hạ
Thủy điện Sê San 1
Thủy điện Sê San 2
Thủy điện Sê San 3
Thủy điện Sê San 4

Kinh tế

Công nghiệp
Trên cơ sở nguồn tài nguyên nông lâm nghiệp và khoáng sản, mở ra triển vọng phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến nông lâm sản với quy mô vừa và lớn.

Trong sản xuất vật liệu xây dựng, trước hết với nguồn đá vôi tại chỗ có thể phát triển sản xuất xi măng phục vụ cho một phần nhu cầu các tỉnh phía Bắc Tây Nguyên và các tỉnh Đông Bắc Campuchia. Hiện có hai nhà máy sản xuất xi măng với công suất 14 vạn tấn/năm. Với nguồn đá granit sẵn có, phong phú về màu sắc có thể chế biến ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xuất khẩu.

Trong chế biến nông lâm sản, với trữ lượng gỗ lớn trong tỉnh và khả năng nhập khẩu gỗ từ các nước Đông Nam Á đảm bảo ổn định nguyên liệu cho sản xuất chế biến các mặt hàng gỗ lâu dài, chế biến song mây, sản xuất bột giấy. Từ mủ cao su có thể chế biến các sản phẩm cao su dân dụng và công nghiệp chất lượng cao; Chế biến cà phê xuất khẩu, chế biến đường, chế biến dầu thực vật, chế biến sắn, chế biến hoa quả và súc sản đóng hộp.

Ngoài ra còn có thể phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng khi đã xác định được địa bàn và trữ lượng cho phép.

Lâm nghiệp

Nông nghiệp

Do đặc trưng là đất đỏ bazal (vì Biển Hồ là miệng của một núi lửa tạm ngừng hoạt động), ở thành phố PleiKu và các huyện vùng cao của Gia Lai có thể canh tác các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, điều... Riêng huyện Đăk Pơ và thị xã An Khê thì thích hợp cho việc trồng cây ngắn ngày, do chịu ảnh hưởng khí hậu của vùng giáp ranh (Bình Định). Huyện Đăk Pơ là vựa rau của cả vùng Tây Nguyên, hàng ngày cung cấp trên 100 tấn rau cho các khu vực ở miền Trung và Tây Nguyên.

Du lịch
Xuất phát từ điều kiện địa lý, là vùng núi cao có nhiều cảnh quan tự nhiên cũng như nhân tạo, Gia Lai có tiềm năng du lịch rất phong phú. Đó là những khu rừng nguyên sinh với hệ thống động thực vật phong phú, nhiều ghềnh thác, suối, hồ như Biển Hồ là một thắng cảnh nổi tiếng. Biển Hồ được xem như là một đôi mắt của thành phố núi Pleiku.

Nhiều núi đồi như Cổng Trời MangYang, đỉnh Hàm Rồng. Cảnh quang nhân tạo có các rừng cao su, đồi chè, cà phê bạt ngàn. Kết hợp vời các tuyến đường rừng, có cácc tuyến dã ngoại bằng thuyền trên sông, cưỡi voi xuyên rừng, trekking...

Bên cạnh sự hấp dẫn của thiên nhiên hùng vĩ, ở Gia Lai còn có nền văn hóa lâu đời đầm đà bản sắc núi rừng của đồng bào các dân tộc, chủ yếu là Jarai và banah thể hiện qua kiến trúc nhà Rông, nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền thống, qua y phục và nhạc cụ...

Thêm vào đó, Gia Lai có bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng hào hùng được thể hiện đậm nét qua các di tích lịch sử văn hóa như khu Tây Sơn thượng đạo, di tích căn cứ địa của anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ; Đó là quê hương của anh hùng Núp, các địa danh Pleime, Che reo, là răng đã đi vào lịch sử.

Ai đã đến Gia Lai chắc đã từng biết đến những con dốc cao và dài, với con đường mờ trong sương vào những sáng mùa đông, đã từng đi vào bài hát "Thành phố sương mù". Những điểm du lich trong thành phố không nhiều, ngoài khu vui chơi giải trí là hồ Đức An, sân vận động và rạp chiếu phim, và rất nhiều quán cà phê. Có rất nhiều thác quanh thành phố như: thác Dakthoa, thác Phú Cường, thác Lồ Ô, thác Chín tầng, ... bài hát,: thành phố sương mù. thành phố sương mù, đêm về nhớ thêm...


Văn hóa - Xã hội

Âm nhạc
Có các nhạc cụ đặc trưng của các dân tộc thiểu số:

Cồng chiêng
Đàn đá
Đàn K'ni
K'lông pút
Đàn Goong
T'rưng
Alal

Ẩm thực
Rượu cần
cafe

Điêu khắc
Tượng nhà mồ

Lễ hội
Lễ hội Đâm Trâu
Lễ ăn cơm mới
dù ai ăn đâu làm đâu. nhớ ngày lẽ hội dâm trâu thì về.


Sân khấu

Đoàn Nghệ thuật Đam San: nghiên cứu, sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn và biểu diễn...
Các dân tộc thiểu số có tín ngưỡng vạn vật hữu linh, đời sống văn hóa của họ gắn liền với các lễ hội, ở đó họ trình diễn các loại nhạc cụ, các điện múa (xoang) diễn ngâm trường ca (kể khan). Gia Lai nói riêng và Tây Nguyên nói chung có các trường ca nổi tiếng như trường ca Đăm San, Xinh Nhã, Hơmon...

Thể dục thể thao
Gia Lai có Câu lạc bộ bóng đá Hoàng Anh Gia Lai hiện đang tham dự và đã hai lần vô địch giải bóng đá chuyên nghiệp V-League của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam.

Liên kết ngoài

UBND tỉnh Gia Lai
Gia Lai
Gia Lai - tiềm năng & triển vọng đầu tư
Âm nhạc Tây nguyên đương đại
Thông tin thêm về Gia Lai và Tây Nguyên
Dân ca Banar
Văn hoá Tây Nguyên

This post has been edited by delta: Apr 17 2008, 10:06 AM


--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
caoduy
post Apr 2 2010, 07:46 AM
Post #2


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 53
Country







Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7


cựu đại tá Phạm Bá Hoa
Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7
Ngày 17 Tháng 3 Năm 1975
(và những hệ lụy sau đó)

Dẫn chuyện.

Sau khi tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7/1/1975, thủ phủ Ban Mê Thuột và tỉnh Darlac thất thủ ngày 11/3/1975, tình hình chiến sự Quân Đoàn II/Quân Khu II trở nên sôi động. Xin nhớ là Thỏa Hiệp Ngưng Bắn đã ký tại Paris ngày 27/1/1975 và hạ tuần tháng 3/1975 là có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính trị cũng sôi động không kém tình hình quân sự.
Lúc bấy giờ các vị lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đi liên quan đến những phản ứng sau đó, là:

- Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng).
- Thủ Tướng: Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng).
- Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên.
- Tham Mưu Trưởng B Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không có mặt từ lúc đầu cuc rút quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng.
- Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
- Chỉ Huy Trưởng B Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương.
- Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý.
Lúc bấy giờ tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.

Vào chuyện.


Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nôi dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ Loan không biết gì hơn.

Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:

- Đại Tá Hoa tôi nghe -

- Có ai ngồi gần anh không? -

- Dạ không, thưa Đại Tướng -

Đó là Đại Tướng Cao Văn Viên. Ông tiếp:

- Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành -

- Vâng, tôi rõ thưa Đại Tướng -

- Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? -

- Thông thường thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng -

- Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vì đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy nhiêu, còn sử dụng vào công tác gì thì tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày maị Anh rõ chưả -

- Thưa Đại Tướng, tôi rõ -

- Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thì tùy anh-

- Vâng. Tôi thi hành, thưa Đại Tướng -

Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không suy đoán được là chuyện gì sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản thì tại sao không để quân dụng lại mà thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà không đánh nhau là thế nàỏ Thật không hiểu nỗi!

Tổ chức mt quân đi, phải có hai yếu tố chính, là "con người và quân dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những gì trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận.

Ấy vậy mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa !

Trong quân đi, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôị Điển hình là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cng sản sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng B Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:

- Theo kế hoạch hành quân như đã trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại".

Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng phải vất vả, nhưng vất vả mà được biết đến vẫn vui lòng hơn.

Trước khi lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi:

- Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh-

- Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết -

Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Mãi Dịch (đồn trú ở Sài Gòn), và trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là giỏi tướng số tử vi và chữ ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở PleiKu trở về, Trung úy Thiêm nói với tôi:

- Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu -

- Anh có nói gì với Thiếu Tướng Phú không?-


- Dạ không. Vì sợ ổng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gì giải được, thà không nói vẫn hơn -

- Nghî như anh cũng phải -

(Năm 1990, tôi được biết Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm định cư tại Australia ) Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, "Thiếu Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II vì rắn thích hợp với núi rừng".

Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên PleiKu liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:

- Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không ? Vì chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm -

- Anh cứ đưa lên đây cho tôi, còn sử dụng vào công tác gì thì không thể nói được đâu- Lời của Đại Tá Lý.

- Đành vậỵ Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nàỏ Và chuyển vận từ đâu tới đâủ

- Anh có bao nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng mai (16/3/1975). Không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàigòn -

- Vậy thì như thế nàỵ Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không? -

- Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe -

- Xong. Mình thỏa thuận như vậy nhé -

Tôi trình Đại Tá Loan là vẫn không biết được gì thêm ở Quân Đoàn IỊ Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/B Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết l điều gì. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng như vậy thì các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất là mt tuần vì phải tu bổ lạị B Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều đng phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lý, nghĩa là 2 chiếc C130 cất cánh lên Pleiku thì 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn Nhất.

Sáng ngày 16/3/1975, B Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi:

- Trình Đại Tá, trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗị Chẳng biết là chuyện gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá đó -

- Anh chuyển đến Trưởng phi cơ, hãy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân Đoàn xem tình hình ra sao đã -

Gọi Quân Đoàn II và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý:

- Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu anh muốn họ đáp xuống thì anh phải giải toả sân bay giùm đi vì nếu chậm quá thì họ sẽ về lại Sài Gòn đó. Mà chuyện gì xảy ra vậy Anh? -

- Tại vì người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường băng như vậỵ Để tôi cho Quân Cảnh giải toả, anh bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi -

- Thì phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không giải toả nỗị Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở PleiKu, chở mt số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe -

Tôi lại nhờ B Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vì đông nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi một hình ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được.

Hóa ra là B Tư Lệnh Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi trình ngay cho Đại Tá Loan vì ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản rồị Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi vì cng sản đã chiếm thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào B Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng là điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm ...

Vì sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei Ku thì điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm muộn:

- Đại Tá Hoa tôi nghe -

- B Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xã Plei Ku hôm nay không có mt bóng sinh vật nào cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ -

- Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy thì tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh -

Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (Trưởng Phòng 3/B Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về tình hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách nào khác vì Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị coi như là những sî quan không đáng tin cậy thì phải, ít nhất cũng là không được tin cậy trong cuc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành và quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim!

Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đi, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh, đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở PleiKu cả. Đại Tá Bửu Khương (ở Qui nhơn) cũng không có tin tức gì khá hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn còn kẹt trên PleiKu vì quốc l 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cng sản chiếm giữ nhiều chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp Vận chúng tôị Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho quân cộng sản tiến vào, và bất thình lình quật lại tấn công chúng ngay trong thành phố.

Còn về giả thuyết rút bỏ Cao Nguyên thì nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng gì chúng tôị Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch thật sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lãnh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đi hơn 1.000.000 người!

Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, vì chúng tôi không có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Phòng 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng vậỵ

Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:

- Đại Tá Hoa tôi nghe -

- Khương đây anh Hoa- Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng B Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.

- Anh có tin gì về anh em mình trên Plei Ku chưả -

- Liên Đoàn 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Hòạ Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reọ Phần thì đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175 cơ động lật xuống hố, phần thì các đơn vị cộng sản tấn công nhiều mặt, đã gây tổn thất nặng cho cả quân đi lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản ứng của Quân Đoàn.


Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! -

- Được rồị Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hoà, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy Hòa thì cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và ký nhận là đủ. Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thì cấp thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không? -

- Được anh. Để tôi lo -

- Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức gì về đoàn quân này thì anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương-

Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân phòng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Kụ

Tôi sang văn phòng Đại Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:

- Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trình vấn đề gấp với Đại Tướng -

- Anh chờ tôi một chút -

- Tôi đâỵ Anh có chuyện gì vậỷ -

- Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây -

- Có việc gì vậỷ -

- Vài phút cách đây, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng B Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang bị sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết mà tôi và Đại Tá Khương đã nói với nhau).

- Anh có chắc là đúng như vậy không? -

- Từ chổ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào thì tôi không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác, thưa Đại Tướng -

- Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe -

- Vâng -

Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao tình hình đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ điện thoại tôi:

- Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên đường số 7 hả? -

- Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đã liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên PleiKu và bị kẹt trên đó, nay thì cùng trong đoàn quân sa lầy mà vừa rồi tôi đã trình Đại Tướng -

- Có. Đại Tướng mới gọi anh đâỵ Cưng cứ biết vậy thôi nghe -

Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn PleiKu vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vì cuối năm 1955 -lúc bấy giờ tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đi Trưởng thuc Tiểu Đoàn Khinh Quân 510- toàn b Tiểu Đoàn chúng tôi cùng với Tiểu Đoàn Khinh Quân 507 và 527, di chuyển từ Vỉnh Long lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 B Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn Khinh Chiến 12. B Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại PleiKụ Các Tiểu Đoàn được cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu Đoàn 3/35. Vì các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với PleiKu bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngã ba quốc l 14 với liên tỉnh l 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch vào đến Cheo Reo còn sử dụng được, là vì trong chiến tranh giữa thực dân Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu bổ vì nó là "con đường huyết mạch" của cứ điểm.

Còn đoạn từ Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đi Pháp không sử dụng nên không tu bổ gì cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo Reo, thì xác những chiếc thiết giáp của Pháp còn ngổn ngang tại đó, còn chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thì tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nàọ Thuở ấy "rất là hoà bình", nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần thận trọng một chút thì xe jeep vẫn bò qua chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi là "bò" chớ không thể gọi là chạy được vì mặt đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không còn gì để gọi là con đường nữạ

Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn 10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói là quá liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói riêng.

Chiều tối hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trình diện Tổng Thống với Đại Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng), chắc là sẽ có tin tức rõ ràng hơn.

Và đây là những tin tức đó:

"Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm vụ thực hiện cuc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng (có lẽ vì bảo mật tối đa mà Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi không được cho biết gì cả). Thiếu Tướng Phú trình kế hoạch là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản.

Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, và Chuẩn Tướng Tất sẽ là Chỉ Huy Trưởng cuc hành quân lui binh nàỵ Lời đề nghị được Tổng Thống chấp thuận tại chổ".

Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/Quân Đoàn IỊ

Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ còn nhân viên trực hoạt đng. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phòng (ông ngồi ở văn phòng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, trên tòa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ) đã được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn xe không phải theo một hình dài mà là một hình gần như tròn, vì khi phần đi đầu bị kẹt thì những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng tìm được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng thì càng không lối thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đã tạo nên dáng như vậỵ Ghi chú bên cạnh những khoanh tròn bằng ngòi bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đã bị thiêu hủỵ Nếu như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy, thì chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ đng và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng M48". Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và xe tăng của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân đội chúng tạ

Những bài học chiến thuật trong trường Võ Bị cũng như trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị "đưa lưng" về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt lại là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiền tuyến.

Nguy hiểm là vậỵ Nguyên tắc căn bản của bài học "lui binh" là phải có mt lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữạ

Với cục hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hòa lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữạ Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đị Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật, ..v..v..

Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 B Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay quân cộng sản mt cách nhẹ nhàng. Tôi nói "bỗng dưng", vì rút bỏ Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17/3, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu của Truyền Tin tại B Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậỵ Điều này có thể là lúc đó quân cộng sản mới tiến đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng sản chưa chiếm nhưng vì máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, thì rõ ràng là quân cng sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm B Tư Lệnh Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa PleiKu về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh!

Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đã từng xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi còn là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đi Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có tiếng là cấp chỉ huy can đãm, không lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngã như thế nàọ Nay, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lãnh đạo chỉ huy của ông không? Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gì đó giới hạn? Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã tự tử ngay sau ngày 30/4/1975. Tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn) vào ngày 2/5/1975 và chào tiễn biệt ông vào cõi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương của đất nước, dân tộc!

Năm 1960, trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự của Quân Đi Viễn Chinh Pháp), tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định rằng: "Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung thì người dó sẽ nắm phần chiến thắng". Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đi đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng?

Ngược dòng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn giữ, đã thất thủ làm rúng động toàn bộ quân viển chinh Pháp tại Đông Dương và rúng đng cả nước Pháp. Và hiển nhiên là sự thất trận này đã đưa nước Pháp đến tình trạng mất toàn bộ Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Làọ Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản, làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Hòạ Và liệu sự thất bại này có phải là nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù gì đi nữa thì sự thể đã là như vậy rồi!

Tình trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh của các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 B Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Đng Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị , Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Cam Ranh.

Trước ngày cuối tháng 3/1975, thì từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" vì không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn nào, phòng thủ chống lại quân cng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3 B Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi là rút lui, còn lại là rút đi trước khi quân cng sản đến!

Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi khu trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu Ị Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "chống đảo chánh" từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính vì hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậỵ Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành ni, nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 B Binh đồn trú, đã bị chúng chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn nàỵ

Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong thành ni Huế rất cam go với tổn thất đáng kể, Chuẩn Tướng Trưởng đã chứng tỏ quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đã kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền ông hãy vì danh dự và trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đã thúc đẩy cuc phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính.

‘Mùa Hè Đỏ Lửa’ năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đã thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh chủng rất lì với chiến trận.

Nhưng sự thể đã diễn ra như vậy, ắt phải có điều gì đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cùng điều ấy mà thôị

Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn tôị Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.

Dưới đây là lời thuật của cựu Đại Tá Trí về những ngày cuối tháng 3/1975, trong lúc anh và b chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, Đà Nẳng: ‘’Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư Đoàn 3 B Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ vài giờ chống trả là Sư Đoàn rút lui, tạo khoảng trống bên sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến). Thiêu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đã rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiềụ Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vì tình hình rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gì cả. Lúc này bên cạnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân có ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng, ông ta có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ và chốc chốc ông ta nói vị trí của ông với ai ở đâu đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rõ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lãnh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng Trưởng.

‘’Khoảng nửa đêm 28 rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống bãi đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Vào b chỉ huy, sau khi Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và được biết đã rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông:

- Bây giờ thì các anh hãy tự thoát, còn tôi, tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến- ‘’Trung Tướng Trưởng vừa nói xong thì gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngaỵ Khoảng 6 giờ sáng ngày 29/3/1975, sĩ quan vào trình tôi là chiến hạm đang tiến vào để đón các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến trình Trung Tướng Trưởng:

- Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng-

‘’Sau một lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy cùng đi với tôị Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên tàụ Sau khi mọi người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã có mặt trên tàụ

Chiến hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.

‘’Vài tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đã quay trở lại, không rõ là do thời tiết xấu hay vì lý do gì đó, và cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không có vẻ gì có chút tình cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịụ (lời của Phạm Bá Hoa: thuật chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rõ ràng là anh đang xúc động!)

Sau phút im lặng vì xúc đng, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật tiếp:

‘’Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp lòng nhaụ Mãi đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm với B Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thì nhận được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệụ Theo đó thì Tổng Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về Sài Gòn ngaỵ Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn ngay thì tại sao Tổng Thống hay B Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi bằng tàủ Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài Gòn. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II một đại đơn vị hầu như đã tan rã sau cuc hành quân lui binh thảm bại, ông từ Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài Gòn theo lệnh Tổng Thống. Và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đã theo chiến hạm về Sài Gòn’’.

Đến đây là hết lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là các vị Tư Lệnh tại Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I, đã nhận được lời khuyên ‘bảo toàn lực lượng’ như Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã nhận của ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Không chừng chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời khuyên’ của ông Tổng Lãnh Sự nữa chăng! Vì rõ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải chăng với ‘lời khuyên’ đó đã dẫn đến các vị có quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoáỉ Điều này tôi không rõ, nhưng có điều quí vị đều rõ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng vào tay quân cộng sản quá dễ như khi vào B Tư Lệnh Quân Đoàn II ở PleiKu vậy!

Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi, nhưng vì cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên tôi mãi nóí chuyện với ông, để rồi cuối cùng không còn thì giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

Bây giờ xin mời quí vị quay nhìn vào số lượng đồng bào chạy loạn được các loại tàu chở từ Huế và Đà Nẳng xuôi Nam và đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vào vịnh Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ Xã Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xã Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000 phần cơm và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bàọ Trung Tướng Đồng Văn Khuyên bảo tôi lo giúp B Xã Hị Tôi điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này:

- Hoa đây Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được- Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vì chúng tôi thân nhau từ lâụ

- Việc gì mà coi bộ quan trọng vậy anh?

- Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy vào tạm trú, bên B Xã Hi nhờ quân đi nấu cơm , vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bàọ Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo thì B Xã Hi cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp được không?

- Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào thì tụi tôi nấủ

- Ngay hôm naỵ để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đi nhận giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp.

- Được. Tôi cho nấu ngaỵ Khi xong, tôi cho anh haỵ

- Xin cám ơn Anh -

- Cái gì mà anh cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách nhiệm của mình chớ anh -
Thế là từ hôm ấy, cơm vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ tiếp tế cho đồng bào tạm trú tại đó. Nhưng rồi tình hình ngày càng xấu thêm . . . . ./.

*****
Houston, cuối Đông 2003-2004
Bài viết này trích từ quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ ấn hành năm 1994, 1995, 1998, và tôi đang chuẩn bị để nhà xuất bản ấn hành lần 4 vào mùa hè 2004 này, sau khi bổ túc do những điều mà cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết thêm.


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic
delta   PLEIKU( Gia Lai )   Apr 17 2008, 10:05 AM
delta   Pleiku Pleiku (cũng còn viết Plei Cu, Plây...   Apr 17 2008, 10:15 AM
M&N   Ông Sáu Người Pleiku Lặng Lẽ Chăm Sóc N...   May 2 2008, 10:15 AM
M&N   Thưa các bạn, bài nầy không phải do thà...   May 3 2008, 08:28 AM
M&N   Biển Hồ Plây-cu Nếu hồ Lak đã đem l...   May 30 2008, 04:00 PM
M&N   Biển hồ Tơ Nưng nằm ở xã Biển Hồ, T...   May 30 2008, 04:02 PM
tuyettinh   Huyền thoại về Biển Hồ phố núi Pleiku...   Jul 21 2008, 06:01 AM
M&N   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Aug 2 2008, 10:38 AM
M&N   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Aug 2 2008, 10:41 AM
M&N   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Aug 2 2008, 10:48 AM
M&N   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Aug 2 2008, 10:52 AM
M&N   Minh Đức Họp Mặt 2007   Aug 2 2008, 11:05 AM
M&N   Minh Đức Họp Mặt   Aug 2 2008, 12:39 PM
M&N   Lòng heo nướng nghệ Pleiku Có những ...   Aug 6 2008, 10:33 AM
M&N   Buổi Sáng Pleiku Và Những Điều Cảm Nh...   Oct 26 2008, 01:09 PM
M&N   Pleiku, Đóa Quỳ Vàng Và Những Hồn Thi S...   Oct 26 2008, 01:16 PM
M&N   Pleiku phố núi ơi! Pleiku thân yêu của...   Oct 26 2008, 01:23 PM
M&N   Đáng Yêu Như Pleiku Sưu Tầm Được nghe...   Oct 26 2008, 01:39 PM
M&N   Phố Núi Mờ Sương Sưu Tầm Không ch...   Oct 26 2008, 03:28 PM
M&N   Còn Chút Gì Để Nhớ Để Thương Thái ...   Nov 21 2008, 10:28 AM
M@N   Pleiku - Đà Lạt Phạm Lương Còn...   Nov 22 2008, 03:18 PM
M@N   Người Về Từ Cõi Chết NGÔ TRÚC KHÁNH...   Nov 30 2008, 02:11 PM
M@N   Cao Nguyên: Sương Mù hay Khói Súng Ngày 15...   Dec 11 2008, 01:50 PM
M@N   Tử lộ 7 Pleiku-Qui Nhơn Anh đi rồi Tây ...   Dec 24 2008, 11:39 AM
M@N   Đêm Thấy Ta là Thác Đổ M Pleiku lớn l...   Dec 24 2008, 11:40 AM
M@N   Tình Bạn Và Đời Lính Trần Thế Phong ...   Dec 24 2008, 01:32 PM
M&N   Niềm vui chợt tắt! (Để nhớ về P...   Jan 16 2009, 10:26 AM
M&N   Rươu Cần Tây Nguyên Rượu cần là cách...   Jan 30 2009, 04:43 PM
M&N   Chén rượu tiễn! (Để tưởng nh...   Feb 22 2009, 02:15 PM
M&N   1. Biển Hồ (Hồ Tơ Nuêng) Sưu Tầm N...   Jun 15 2009, 06:23 PM
M&N   Cảm xúc mưa Nhok_KenZ “…NHÌN MƯA N...   Jun 15 2009, 06:32 PM
M&N   Địa chỉ ăn uống .... Sưu Tầm 1.Phở ...   Jun 16 2009, 11:47 AM
M&N   Pleiku - Gia Lai và núi lửa Núi lửa, thậ...   Jun 16 2009, 03:32 PM
M&N   Gia Lai - Nhà tù Pleiku Vị trí: Nhà tù Ple...   Jun 16 2009, 04:01 PM
M&N   Pleiku - năm tháng chưa xa Sưu Tầm Nếu...   Jun 22 2009, 07:15 PM
M&N   Một thoáng cà phê pleiku... Nổi hứng, t...   Jul 5 2009, 11:09 AM
M&N   1929- Năm Ra Đời Của Pleiku Pleiku vùng đ...   Jul 17 2009, 04:09 PM
M&N   Tìm hiểu về Lễ Bỏ mả (Lễ Bơ thi) L...   Jul 17 2009, 04:14 PM
M&N   Một một số nhạc cụ đặc trưng Tây Ng...   Jul 17 2009, 04:26 PM
M&N   Làng Đê K’Tu Vị trí: Thuộc xã Kong D...   Aug 3 2009, 11:16 AM
M&N   Pleiku sẵn sàng đón ngày hội lớn Vào...   Aug 3 2009, 11:30 AM
M&N   Đồi thông Đak Pơ Đak Pơ được thiên...   Aug 3 2009, 11:35 AM
M&N   Kiến trúc nhà rông Nhà rông được xâ...   Aug 3 2009, 12:05 PM
M&N   Lan cao nguyên về đồng bằng Chỉ trong...   Aug 3 2009, 12:17 PM
M&N   Nhà mồ- Tượng nhà mồ Lên Tây Nguyên...   Aug 4 2009, 09:42 AM
M&N   Di tích lịch sử - văn hóa Tây Sơn Thượ...   Aug 4 2009, 09:48 AM
M&N   Thủy điện Yaly Vị trí: Công trình th...   Aug 4 2009, 09:51 AM
M&N   Hồ Ayun Hạ Vị trí: Hồ Ayun Hạ nằm ...   Aug 4 2009, 09:56 AM
M&N   Thác Xung Khoeng Vị trí: Thác Xung Khoeng ...   Aug 4 2009, 10:01 AM
M&N   Đèo An Khê Không chỉ là địa chỉ du ...   Aug 15 2009, 01:28 PM
M&N   Ngôi nhà cổ mang dấu tích lịch sử ở A...   Aug 20 2009, 12:33 PM
M&N   Đèo Mang Yang Người dân Gia Lai vẫn que...   Aug 24 2009, 11:46 AM
M&N   Pleiku, những điều trông thấy... Ông Hu...   Aug 26 2009, 02:01 PM
M&N   Pleiku, những điều trông thấy... Ngã ba...   Aug 26 2009, 02:18 PM
M&N   Pleiku, những điều trông thấy... Một ...   Aug 26 2009, 02:30 PM
M&N   Pleiku... lang thang ký! Cà phê vỉa hè...   Aug 27 2009, 10:33 AM
M&N   Đường vui Nguyễn Quang Tuệ Nắng đã ...   Sep 10 2009, 11:18 AM
caoduy   Cao Nguyên Sương Mù Hay Khói Súng # Tá...   Nov 4 2009, 09:39 AM
caoduy   Trận Chiến Đức Cơ # Tác giả: Tô...   Nov 7 2009, 05:01 PM
caoduy   Trận Tử Chiến Của Tiểu Đoàn 82 BĐQ T...   Nov 8 2009, 09:04 PM
caoduy   Những Bí Mật Trong Trận Ban Mê Thuột ...   Nov 19 2009, 09:01 AM
caoduy   Triệt Thoái Cao Nguyên: Cuộc Lui Binh Phá S...   Nov 22 2009, 04:58 PM
caoduy   Vài Biến Cố Ðằng Sau Mặt Trận Tây Ngu...   Nov 24 2009, 04:44 PM
Tulip   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Dec 22 2009, 08:40 PM
caoduy   Pleiku - Đà Lạt Còn khoảng hơn thán...   Jan 12 2010, 08:32 PM
caoduy   Màu - Pleiku Tôi trình diện TĐ 21 BĐQ ở ...   Jan 12 2010, 08:43 PM
caoduy   Tử chiến trong nghĩa địa Người sống ...   Feb 10 2010, 06:47 PM
caoduy   Những Người Lính Cũ Đọc Để Thươn...   Feb 19 2010, 09:43 AM
caoduy   Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 cựu đ...   Apr 2 2010, 07:46 AM
caoduy   Không gian kỷ niệm Huỳnh Quốc Phú còn...   Apr 24 2010, 07:18 AM
3 Pages V   1 2 3 >


Reply to this topicStart new topic
1 User(s) are reading this topic (1 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 4th November 2024 - 01:06 PM