Welcome Guest ( Log In | Register )

> PLEIKU( Gia Lai )
delta
post Apr 17 2008, 10:05 AM
Post #1


Chốn Xưa
***

Group: Members
Posts: 585
Joined: 7-April 08
Member No.: 7
Country



Pleiku ( Gia Lai )



Gia Lai là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Nguyên Việt Nam. Trước đây là một phần của tỉnh Gia Lai-Kon Tum.


Vị trí địa lý
Với diện tích 15.494,9 km², tỉnh Gia Lai trải dài từ 15°58'20" đến 14°36'36" vĩ Bắc, từ 107°27'23" đến 108°94'40" kinh Đông. Phía bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, phía tây giáp Campuchia với 90 km đường biên giới quốc gia, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.


Khí hậu
Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, một năm có hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vùng Tây Trường Sơn có lượng mưa trung bình từ 2.200 đến 2.500 mm, vùng Đông Trường Sơn từ 1.200 đến 1.750 mm. Nhiệt độ trung bình năm là 22-25ºC.


Sông ngòi

Gia Lai là nơi đầu nguồn nguồn của nhiều con sông đổ về vùng duyên hải miền Trung Việt Nam và về phía Campuchia như sông Ba, sông Sê San và nhiều con suối lớn nhỏ.


Tài nguyên

Khoáng sản
Các loại khoáng sản có trên địa bàn tỉnh này là crom, niken, coban, thiếc, asen, boxit-laterit, vàng, vonframit, molipdenit, caxiterrit v.v.


Động vật
Trong địa bàn tỉnh Gia Lai có một số loài thú sinh sống như voi, nai, bò, hoẵng, thỏ rừng, lợn rừng, trăn, rắn, cọp, các loài chim như gà rừng, chim cu đất, gà gô, khướu, công, trĩ sao, gà lôi hồng tía, gà lôi vằn, các loài cá như lúi, phá, sóc, trạch, lăng, chép. Các loại gia cầm, gia súc như trâu, bò, lợn, gà, vịt, ngựa, thỏ v.v.


Thực vật
thực vật ở đây cũng không khá phong phú lắm, nhiều nhất là tiêu, cây chè, cây điều, cây lúa, v.v... và một số cây hoa màu nhưng với số lượng không nhiều. . cây thông, cây tùng, cà phê, cao su, với số lượng nhiều.


Hành chính

Tỉnh Gia Lai bao gồm 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 13 huyện:

Thành phố Pleiku
Thị xã An Khê
Thị xã Ayun Pa, tên cũ là Cheo Reo
Huyện Chư Păh, huyện lỵ là Phú Hoà
Huyện Chư Prông
Huyện Chư Sê
Huyện Đắk Đoa
Huyện Đắk Pơ
Huyện Đức Cơ, huyện lỵ là Chư Ty
Huyện Ia Grai
Huyện Ia Pa
Huyện KBang
Huyện Kông Chro
Huyện Krông Pa, huyện lỵ là Phú Túc
Huyện Mang Yang
Huyện Phú Thiện

Lịch sử
Vùng Tây Nguyên ngày xưa đa số la những người dân tộc thiểu số sinh sống. Và họ sống với nhau trong những làng mạc mà cha ông họ đã gây dựng nên. Trong một ngày nọ người trưỡng làng cảm thấy trong người của mình có vẻ không ổn nên đã cho gọi 2 người con trai vào và tổ chức một cuộc thi săn bắt để chọn ra một người kế vị. Và cuộc thi đã diễn ra nhưng phần thắng đã thuộc về người em. Người anh buồn bã bỏ sang một vùng đất khác để sinh sống. Còn lại người em đã lập ra một làng tên là "plei ku". ( Ở đây nếu dịch sang nghĩa từ thì Plei: là một cái làng Ku: người em. Pleiku : làng của người em (nhớ về chiến thắng của người em). Và cái tên Pleiku được gắn liền với dia danh nay suốt bao năm tháng qua.

Dân số
Dân số tỉnh Gia Lai gần 1,1 triệu người (năm 2004) bao gồm nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, người Kinh chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân tộc Gia-rai (33,5%), Ba Na (13,7%), Giẻ-triêng, Xơ-đăng, Cơ-ho, Thái, Mường ...

STT Tên đơn vị hành chính Diện tích
(km²) Dân số trung bình
(năm 2003) Dân số
(ngày 31/12/2003)

01 Thành phố Pleiku 260,59 184.397 186.763
02 Thị xã An Khê 199,12 63.014 63.663
03 Thị xã Ayun Pa 287,05 99.616 35.058
04 Huyện Chư Păh 981,30 62.379 62.751
05 Huyện Chư Prông 1.687,50 75.363 76.455
06 Huyện Chư Sê 1.350,98 124.288 126.070
07 Huyện Đắk Đoa 980,41 85.072 86.169
08 Huyện Đắk Pơ 499,61 35.160 35.522
09 Huyện Đức Cơ 717,20 43.595 44.609
10 Huyện Ia Grai 1.122,38 74.620 75.593
11 Huyện Ia Pa 870,10 43.551 44.162
12 Huyện KBang 1.845,23 56.671 57.397
13 Huyện Kông Chro 1.441,88 34.478 35.074
14 Huyện Krông Pa 1.623,63 61.576 62.280
15 Huyện Mang Yang 1.126,07 43.125 43.855
16 Huyện Phú Thiện 501,91 0 64.558
Tổng cộng 15.495,70 1.086.905 1.099.979

Tham khảo [2]

Cơ sở hạ tầng

Bản đồ giao thông đường bộ tỉnh Gia Lai
Đường bộ
Quốc lộ 14 nối Gia Lai với Kon Tum, Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng về phía Bắc và Đắk Lắk, Đắk Nông, các tỉnh vùng Đông Nam Bộ về phía Nam. Quốc lộ 19 nối với cảng Quy Nhơn,Bình Định dài 180Km về phía Đông và các tỉnh Đông Bắc Campuchia về hướng Tây. Quốc lộ 25 nối với Phú Yên. Ngoài ra, đường Hồ Chí Minh cũng đi qua địa bàn tỉnh Gia Lai. Các quốc lộ 14, 25 nối Gia Lai với các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung rất thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa đến cảng để xuất khẩu và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.

Hiện nay, tất cả các tuyến đường xuống các trung tâm huyện đã được trải nhựa hầu hết các trung tâm xã đã có đường ôtô đến.


[sửa] Đường hàng không
Sân bay Pleiku (còn gọi là sân bay Cù Hanh) là một sân bay tương đối nhỏ,có từ thời Pháp.Sân bay Pleiku đang hoạt động, mỗi tuần có 7 chuyến từ thành phố Hồ Chí Minh đi Pleiku - Đà Nẵng - Hà Nội và ngược lại.


Thủy điện
Với địa hình cao và nhiều sông suối, Gia Lai là một trong những nơi tập trung khá nhiều các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ:

Thủy điện Yaly
Thủy điện An Khê
Thủy điện Ayun Hạ
Thủy điện Sê San 1
Thủy điện Sê San 2
Thủy điện Sê San 3
Thủy điện Sê San 4

Kinh tế

Công nghiệp
Trên cơ sở nguồn tài nguyên nông lâm nghiệp và khoáng sản, mở ra triển vọng phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến nông lâm sản với quy mô vừa và lớn.

Trong sản xuất vật liệu xây dựng, trước hết với nguồn đá vôi tại chỗ có thể phát triển sản xuất xi măng phục vụ cho một phần nhu cầu các tỉnh phía Bắc Tây Nguyên và các tỉnh Đông Bắc Campuchia. Hiện có hai nhà máy sản xuất xi măng với công suất 14 vạn tấn/năm. Với nguồn đá granit sẵn có, phong phú về màu sắc có thể chế biến ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xuất khẩu.

Trong chế biến nông lâm sản, với trữ lượng gỗ lớn trong tỉnh và khả năng nhập khẩu gỗ từ các nước Đông Nam Á đảm bảo ổn định nguyên liệu cho sản xuất chế biến các mặt hàng gỗ lâu dài, chế biến song mây, sản xuất bột giấy. Từ mủ cao su có thể chế biến các sản phẩm cao su dân dụng và công nghiệp chất lượng cao; Chế biến cà phê xuất khẩu, chế biến đường, chế biến dầu thực vật, chế biến sắn, chế biến hoa quả và súc sản đóng hộp.

Ngoài ra còn có thể phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng khi đã xác định được địa bàn và trữ lượng cho phép.

Lâm nghiệp

Nông nghiệp

Do đặc trưng là đất đỏ bazal (vì Biển Hồ là miệng của một núi lửa tạm ngừng hoạt động), ở thành phố PleiKu và các huyện vùng cao của Gia Lai có thể canh tác các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, điều... Riêng huyện Đăk Pơ và thị xã An Khê thì thích hợp cho việc trồng cây ngắn ngày, do chịu ảnh hưởng khí hậu của vùng giáp ranh (Bình Định). Huyện Đăk Pơ là vựa rau của cả vùng Tây Nguyên, hàng ngày cung cấp trên 100 tấn rau cho các khu vực ở miền Trung và Tây Nguyên.

Du lịch
Xuất phát từ điều kiện địa lý, là vùng núi cao có nhiều cảnh quan tự nhiên cũng như nhân tạo, Gia Lai có tiềm năng du lịch rất phong phú. Đó là những khu rừng nguyên sinh với hệ thống động thực vật phong phú, nhiều ghềnh thác, suối, hồ như Biển Hồ là một thắng cảnh nổi tiếng. Biển Hồ được xem như là một đôi mắt của thành phố núi Pleiku.

Nhiều núi đồi như Cổng Trời MangYang, đỉnh Hàm Rồng. Cảnh quang nhân tạo có các rừng cao su, đồi chè, cà phê bạt ngàn. Kết hợp vời các tuyến đường rừng, có cácc tuyến dã ngoại bằng thuyền trên sông, cưỡi voi xuyên rừng, trekking...

Bên cạnh sự hấp dẫn của thiên nhiên hùng vĩ, ở Gia Lai còn có nền văn hóa lâu đời đầm đà bản sắc núi rừng của đồng bào các dân tộc, chủ yếu là Jarai và banah thể hiện qua kiến trúc nhà Rông, nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền thống, qua y phục và nhạc cụ...

Thêm vào đó, Gia Lai có bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng hào hùng được thể hiện đậm nét qua các di tích lịch sử văn hóa như khu Tây Sơn thượng đạo, di tích căn cứ địa của anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ; Đó là quê hương của anh hùng Núp, các địa danh Pleime, Che reo, là răng đã đi vào lịch sử.

Ai đã đến Gia Lai chắc đã từng biết đến những con dốc cao và dài, với con đường mờ trong sương vào những sáng mùa đông, đã từng đi vào bài hát "Thành phố sương mù". Những điểm du lich trong thành phố không nhiều, ngoài khu vui chơi giải trí là hồ Đức An, sân vận động và rạp chiếu phim, và rất nhiều quán cà phê. Có rất nhiều thác quanh thành phố như: thác Dakthoa, thác Phú Cường, thác Lồ Ô, thác Chín tầng, ... bài hát,: thành phố sương mù. thành phố sương mù, đêm về nhớ thêm...


Văn hóa - Xã hội

Âm nhạc
Có các nhạc cụ đặc trưng của các dân tộc thiểu số:

Cồng chiêng
Đàn đá
Đàn K'ni
K'lông pút
Đàn Goong
T'rưng
Alal

Ẩm thực
Rượu cần
cafe

Điêu khắc
Tượng nhà mồ

Lễ hội
Lễ hội Đâm Trâu
Lễ ăn cơm mới
dù ai ăn đâu làm đâu. nhớ ngày lẽ hội dâm trâu thì về.


Sân khấu

Đoàn Nghệ thuật Đam San: nghiên cứu, sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn và biểu diễn...
Các dân tộc thiểu số có tín ngưỡng vạn vật hữu linh, đời sống văn hóa của họ gắn liền với các lễ hội, ở đó họ trình diễn các loại nhạc cụ, các điện múa (xoang) diễn ngâm trường ca (kể khan). Gia Lai nói riêng và Tây Nguyên nói chung có các trường ca nổi tiếng như trường ca Đăm San, Xinh Nhã, Hơmon...

Thể dục thể thao
Gia Lai có Câu lạc bộ bóng đá Hoàng Anh Gia Lai hiện đang tham dự và đã hai lần vô địch giải bóng đá chuyên nghiệp V-League của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam.

Liên kết ngoài

UBND tỉnh Gia Lai
Gia Lai
Gia Lai - tiềm năng & triển vọng đầu tư
Âm nhạc Tây nguyên đương đại
Thông tin thêm về Gia Lai và Tây Nguyên
Dân ca Banar
Văn hoá Tây Nguyên

This post has been edited by delta: Apr 17 2008, 10:06 AM


--------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
caoduy
post Nov 24 2009, 04:44 PM
Post #2


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 13,947
Joined: 18-November 08
Member No.: 775
Age: 53
Country




Vài Biến Cố Ðằng Sau Mặt Trận Tây Nguyên



#Tác Giả : Ngô Văn Xuân


Để tìm hiểu thêm biến cố Ban Mê Thuột, một biến cố dưa dến mất toàn bộ miền Nam Việt Nam, chúng tôi đã cố gắng phỏng vấn nhiều nhân vật liên hệ trực tiếp việc chỉ huy mặt trận này. Hôm nay chúng tôi xin dăng lời tường thuật của Trung Tá Ngô Văn Xuân, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 44 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh (BB), người được lệnh đưa Trung Ðoàn 44 về giải cứu Ban Mê Thuột sau khi thị xã này bị Việt Cộng xâm chiếm.

Trung Tá Ngô Văn Xuân xuất thân khóa 17 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt đã từng giữ các chức vụ sau đây: Ðại đội trưởng Ðại Ðội Tinh Sát thuộc Trung Ðoàn 11 của Sư Ðoàn 7 Bộ Binh, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 2 thuộc Trung Ðoàn 44 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, trưởng phòng hành quân của Sư Ðoàn 23 và cuối cùng là trung đoàn trưởng của Trung Ðoàn 44.

Trong chiến đấu, ông đã ba lần bị thương và sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, ông bị đi cải tạo 13 năm. Trung Tá Xuân dến Hoa Kỳ theo danh sách Hạ vào tháng 4 năm 1992 và hiện dang cư ngụ tại vùng Bắc Cali. Theo lời yêu cầu của chúng tôi, ông đã ghi lại một số biến cố mà ông biết liên quan đến mặt trận Ban Mê Thuột vào năm 1975. Chúng tôi hy vọng rằng bài này sẽ góp phần hữu ích vào việc tìm hiểu lý do đưa dến sự thất thủ Ban Mê Thuột.

Mới đó mà cũng hơn 20 năm trôi qua. Những nắm xương tàn của hàng vạn sinh linh giờ đây cũng đã trở thành cát bụi. Những suối máu của họ cũng đã kiệt khô, tô thêm màu mỡ cho mảnh dất quê hương. Những người đã một thời theo vận thời cuộc, nhảy ra nắm chính quyền hay xưng hùng xưng bá, thực hiện những mưu đồ chính trị, khuynh loát… giờ đây cũng đã lần lượt nằm xuống. Cái khoảnh khắc huy hoàng của họ mà đôi khi họ cứ tưởng như sẽ miên viễn trường tồn, thực chất chỉ là một dốm lửa rơm trong kiếp nhan sinh dằng dặc. Trong lịch sử dân tộc ta, có lẽ không có giai đoạn nào xót xa, dau tủi cho bằng những diễn biến trong ngót nửa thế kỷ vừa qua.

Cuộc chiến tranh chống thực dân giành độc lập vừa kết thúc thì lập tức một cuộc chiến khác lại nổ ra. Dưới cặp mắt của các chính trị gia hay các nhà sử học, cuộc chiến thứ hai này được gán cho nhiều cái tên khác nhau, nào là chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh nổi dậy, chiến tranh chống xâm lăng, chiến tranh tự vệ, chiến tranh ý thức hệ. Nhưng trong ký ức những người bình thường, hình ảnh chết chóc đau thương của những người nằm xuống đều gây xúc cảm nơi những người liên hệ xa gần như thân nhân ruột thịt, bà con, bạn hữu, làng xóm… hay nới rộng ra, nơi đồng bào của chính họ.

Đã có lúc những người Cộng Sản Việt Nam xưng tụng cuộc chiến ấy như một thành tích lẫy lừng nhất trong lịch sử. Thậm chí còn đem những thành tích dó ra so sánh với cả những chiến công khác của cha ông như chiến công diệt Minh, trừ Nguyên trong lịch sử. Rất may, cơn sốt nhiệt cuồng rồ dại ấy chẳng kéo dài được bao lâu. Thời gian đã chỉ cho họ những bài học khôn ngoan hơn. Giờ dây, một số người thức tỉnh dần dần nhận ra, hoặc đã nhận ra từ lâu giờ đây mới dám nói, tính chất vô nghĩa của những thành tích đó.

Về phía những người Quốc Gia, một số hồi ký, ký sự cũng gợi lại những kỷ niệm của một thời binh lửa ngút trời trên quê hương. Cuộc chiến ấy đã được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, trực tiếp có, gián tiếp có, xa có, gần có, thực có, giả có… Hy vọng rằng phương thuốc thời gian sẽ chữa lành cho cả dân tộc ta vết thương dau, nhức nhối đã kéo dài trong tâm thức của mọi con dân Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua.

Bài viết này của một chứng nhân trong cuộc chiến tàn khốc vừa qua, chỉ nhằm ghi lại đôi điều mắt thấy tai nghe dể làm sáng tỏ thêm một số bí ẩn của lịch sử. Cảm hứng gợi ra cho bài viết này bắt nguồn từ khi đọc những hồi ký là hai cuốn sách Đại Thắng Mùa Xuân của Văn Tiến Dũng và cuốn Tướng Phạm Văn Phú và Những Trận Ðánh từ Điện Biên Phủ 1954 đến Ban Mê Thuột 1975 của Phạm Huấn, trong dó có rất nhiều diều cần được hiệu đính hay nói thêm.

THỰC TRẠNG SAU HIỆP ÐỊNH NGƯNG CHIẾN

Mặt trận Cao nguyên chưa bao giờ ngưng tiếng súng kể từ ngày Hiệp Ðịnh Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 và có hiệu lực ngày 28 tháng 2/1973. Người viết bài này, lúc dó là Trưởng Phòng Hành Quân Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Sự khác biệt , nếu có, trước và sau ngày chấm dứt cuộc chiến là chỗ này: Trước hiệp định, tên của các cuộc hành quân là Biên Trấn 1, 2, 3, v.v. Sau khi đình chiến các tên này được đổi thành Hòa Bình 1, 2, 3, v.v.

Mức độ ác liệt của chiến tranh có giảm di đôi chút, nhưng sự thương vong thì chẳng ngày nào không có. Đối diện với tuyến phòng thủ của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là những cán binh Cộng Sản. Lúc đầu họ còn di chuyển lén lút, về sau bớt lén lút dần, thậm chí có khi họ còn nói với qua xin 1, 2 điếu thuốc hay xin cho nghe một bản nhạc vàng! Những đơn vị địch khác không nằm trên tuyến thì luôn tìm mọi các xâm nhập như đóng chốt trên các trục giao thông, lấn chiếm các khu vực hẻo lánh. Còn các đơn vị trừ bị của Việt Nam Cộng Hòa thì lo phá chốt, tái chiếm các vùng bị địch xâm nhập.

Cuộc chiến tranh nửa nạc nửa mỡ này thực sự trở nên khó chịu hơn, khi sự ràng buộc bởi Hiệp Ðịnh ngày càng trở nên rõ ràng. Ở tiền tuyến, đạn được và tiếp liệu bị cắt giảm không thương tiếc. Những tính toán theo kiểu con buôn được dem ra áp dụng. Mỗi loại vũ khí đều có “cấp khoản.” Số đạn được phép xử dụng trước biến đổi hàng tháng, sau xuống hàng tuần.
Phi trường Phục Dực, nơi đóng quân của Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 53 Bộ Binh tại Ban Mê Thuột.
(HÌNH ẢNH: Mike Loughran)

Ví dụ mỗi khẩu pháo 105 ly của tiểu đoàn Pháo Binh sau Hiệp Ðịnh Paris chỉ có quyền áp dụng cho cả hai phía Quốc Cộng, đặc biệt “bắn” 8 quả đạn một ngày. Ðến giai dọan trước khi các trận Ðánh Cao Nguyên thì giảm xuống còn 3 quả một ngày. Dần dần đến đạn súng nhỏ, xăng, dầu.

Nhìn về hậu phương, những bất ổn về chính trị xảy ra hàng ngày. Những cuộc biểu tình của hàng chục đoàn thể, phong trào đòi đủ thứ quyền. Trong bối cảnh như vậy, chẳng cần phải là một chính trị gia có trình độ cao siêu gì, cũng có thể nhìn ra một hậu quả chẳng mấy tốt dẹp cho một tương lai gần.

Tôi còn nhớ tháng 10/1973, một phái đoàn của Tòa Đại Sứ Mỹ đến thăm Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 tại Ban Mê Thuột. Sau khi nghe thuyết trình về địch tình, về tình hình tiếp liệu của đơn vị, viên đại tá trưởng phái đoàn đã nhắn nhủ, “Quí vị sẽ phải đối dầu với Việt Cộng trong một tình hình khó khăn hơn về tiếp liệu trong tương lai. Những viện trợ về tiếp liệu sẽ ngày càng giảm nhiều hơn, và vì vậy, chúng tôi yêu cầu quí vị nên nghiên cứu những phương thức điều hành thích hợp để đối phó khi cần, kể cả những lúc chúng tôi không thể chuyên chở sang cho quí vị đúng thời hạn.” Những đề nghị của Sư Ðoàn chỉ tóm gọn trong vấn đề tiếp liệu, và viên trưởng phái đoàn cũng chỉ ghi nhận trong tinh thần…rất ngoại giao.

Kể từ năm 1972 trở di, mùa hè nào trên Cao nguyên cũng đều là “mùa hè đỏ lửa” cả. Các cuộc hành quân, đánh phá được ngụy trang dưới những hình thức hay tên gọi khác nhau cho phù hợp với tình hình chính trị mới. Những người lính chiến của Quân Lực VNCH thực sự chưa có một ngày nào hít thở không khí hòa bình do các nhà chính trị đã ký kết với nhau sau hơn bốn năm bàn thảo, cãi cọ bàn vuông bàn tròn.

TỔNG THỐNG THIỆU ĂN TẾT Ở CAO NGUYÊN

Tháng 7/1974, tôi rời Phòng 3 Sư Ðoàn ra dảm nhiệm chức vụ Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 44 Bộ Binh, thay thế Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ. Như thường lệ, hàng năm mỗi độ xuân về, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại đi thăm một số đơn vị dang tác chiến và dùng cơm với các đơn vị này. Tết Ất Mão năm ấy, đơn vị của tôi được Quân Ðoàn chỉ định là đơn vị đón tiếp tổng thống. Trung đoàn của tôi có trách nhiệm phòng thủ trên tuyến vòng đai, các tỉnh lỵ Pleiku khoảng 20 km hướng Tây Bắc. Bộ Chỉ Huy đóng tại căn cứ 801.

Hai tiểu đoàn tác chiến án ngữ trên phòng tuyến, một tiểu đoàn trừ bị cùng với một chi đoàn chiến xa M-48 tại căn cứ. Các biện pháp an toàn tối-đa đã được hoạch định để tránh các sự rủi ro, nguy hiểm cho bữa cơm đầu năm của đơn vị có tổng thống tới tham dự. Bởi đây là một căn cứ hành quân đã chiến, không có hầm hố kiên cố mà lại luôn nằm trong tầm pháo các loại của địch, nên các tin tức liên quan tới bữa cơm được giữ kín cho tới lúc quan khách đến.

Đúng 12 giờ trưa, sau khi rời Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2, chiếc trực thăng chở quan khách đáp tại căn cứ của chúng tôi. Tướng Lê Trung Tường, Tư Lệnh Sư Ðoàn 23, và tôi ra đón. Thành phần phái đoàn gồm Tổng Thống Thiệu, các vị sĩ quan cấp tướng: Trung, Khang, Phú, các tùy viên và cận vệ. Tôi đưa các vị quan khách vào phòng họp hành quân của trung đoàn. Mở đầu là phần thuyết trình của Trung Tá Điều Ngọc Chuy, Trưởng Phòng 2 Sư Ðoàn 23 về tình hình chung của các khu vực có trách nhiệm đang do sư đoàn trấn giữ.

Đặc biệt trong cuộc thuyết trình này, Trung Tá Chuy có nhấn mạnh dến chi tiết về cung từ của một tù binh Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) thuộc Sư Ðoàn 320 do Trung Ðoàn 45 Bộ Binh bắt được. Tù binh này nguyên là một hạ sĩ quan truyền tin, tên là Sính, khi ra đầu thú đã khai là sĩ quan.

Thực sự quân hàm của anh ta chỉ là thượng sĩ. Có điều đặc biệt là với chức vụ truyền tin, anh ta biết khá nhiều về các kế hoạch hành quân của đơn vị anh và một số đơn vị phối hợp. Anh ta quả quyết là Mặt Trận B3 của Cộng Sản Bắc Việt sẽ tấn công thị xã Ban Mê Thuột. Kế hoạch hành quân bao gồm 4 sư đoàn Bắc Việt mà anh ta biết chắc đó là các Sư Ðoàn F10 và Sư Ðoàn 968 chính thống thuộc Mặt trận B3, Sư Ðoàn 320 và một sư đoàn khác từ Lào kéo sang không biết rõ phiên hiệu (sau này mới biết dó là Sư Ðoàn 316).

Ngoài ra, cùng tham gia trận chiến còn có một trung đoàn chiến xa, hai trung đoàn pháo binh, một trung đoàn đặc công. Thậm chí đến cả kế hoạch tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột, anh cũng phác họa ra khá chính xác, từ hướng tấn công đến các mục tiêu ưu tiên phải tấn chiếm, v.v.

Đến phần thuyết trình của tôi, tôi cũng nêu bật sự kiện điều quân hiện đang diễn ra giữa hai Sư Ðoàn 320 và Công Trường 9 Cộng Sản từ chiến trường Phước Long kéo lên. Tôi còn nhớ rất rõ nét đăm chiêu của Tổng Thống Thiệu và những chỉ thị của ông. Ông quay lại hỏi ý kiến Tướng Phú thì Tướng Phú nhận định rằng có thể Việt Cộng đưa ra một kế trá hàng nhằm đánh lạc hướng chú ý của ta.

Theo ông, Pleiku là điểm, Ban Mê Thuột chỉ là diện, bởi vì Pleiku có cơ sở đầu não là Bô Tư Lệnh Quân Ðoàn 2. Nếu địch tiêu diệt được cứ điểm này họ sẽ dễ dàng làm chủ được toàn bộ khu vực cao nguyên hoặc tỏa xuống khu vực duyên hải, nối liền với hai vùng biên giới, để tạo cho việc tiếp liệu dễ dàng từ miền Bắc. Tổng Thống Thiệu suy nghĩ trong giây lát, rồi ra lệnh cho Tướng Phú lúc đó đứng kế bên:

- Anh Phú cho toàn bộ Sư Ðoàn 23 trở về Ban Mê Thuột, tăng cường cho anh Tường một chi đoàn chiến xa M-48. Dù sao, địa thế Pleiku cũng là khu vực trống trải, bao gồm nhiều đồi thấp và trọc, có tầm quan sát rộng, bây giờ lại là mùa khô, anh có thể sử dụng tối đã phi pháo và chiến xa để đánh chiến xa và bộ binh địch, nếu họ dám đưa quân ra đương đầu với anh trên khoảng trống. Ngoài ra, tôi sẽ tăng cường cho anh thêm một liên đoàn Biệt Ðộng Quân dể làm lực lượng trừ bị.

Tướng Phú trả lời:

- Vâng, tôi sẽ thi hành theo kế hoạch của tổng thống chỉ thị.

Sau đó Tổng Thống Thiệu quay qua Tướng Lê Trung Tường và nói:

- Khi anh trở về Ban Mê Thuột, phải tổ chức ngay lại hệ thống phòng thủ vòng đai thị xã và lập kế hoạch chống xe tăng địch. Ngoài ra, anh cũng phải tổ chức các cuộc hành quân vùng sát biên giới thuộc quận Đức Lập. Để tránh các rắc rối về ngoại giao với Cam Bốt, chỉ nên tung các toán hoạt động viễn thám qua vùng biên giới mà thôi. Nếu phát hiện địch thì dùng phi pháo mà tiêu diệt.

Sau phần thuyết trình, tôi hướng dẫn phái đoàn lên tham dự bữa cơm thân mật được tổ chức ngoài trời, gồm khoảng gần 100 binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan thuộc hai đơn vị Tiểu Ðoàn 3/44 và Chi Ðoàn 2 chiến xa M-48. Trong bữa cơm, tổng thống có phàn nàn về các cuộc biểu tình đánh phá của các đoàn thể chính trị hiện dang diễn ra hàng ngày tại Saigon. Ông đặc biệt nhấn mạnh đến phong trào tố tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh đang làm suy giảm uy tín của các cấp lãnh dạo đất nước.

Tôi còn nhớ ông nói ông ao ước giá mà có được những vị linh mục chống Cộng cương quyết kiểu như cha sở khu Hải Yến và một vị cha sở nào dó ở Tây Ninh mà tôi quên tên, thì đỡ biết mấy. Sau bữa cơm, tông thống đi thăm một vòng chu vi phòng thủ, nói chuyện thân mật với các binh sĩ trong các hầm hố cá nhân. Phái đoàn lên trực thăng rời khỏi khu vực trách nhiệm của chúng tôi vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày. Hôm đó là ngày mồng một Tết Âm Lịch, nhằm ngày 1 tháng 2/1975.

CHUẨN BỊ TRỞ VỀ

Khi chiếc trực thăng chở tổng thống đi rồi, Tướng Tường, tư lệnh Sư Ðoàn còn ở lại họp cùng Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 44 để chuẩn bị kế hoạch thay quân và rút quân khỏi khu vực trách nhiệm của trung đoàn. Tưởng cũng nên nhắc lại việc phối trí lực lượng của Sư Ðoàn 23 lúc đó như sau:
# Bộ Tư lệnh Sư Ðoàn 23 Hành quân đóng ở Hàm Rồng.
# Trung Ðoàn 44 đóng tại căn cứ 801, phía tây-bắc cách Pleiku 20 km.
# Trung Ðoàn 45 hành quân khu vực đèo Tử Sĩ nằm giữa Buôn Hô và Hàm Rồng, dọc theo hai bên Quốc Lộ 14.
# Trung Ðoàn 53 có một tiểu đoàn dang hành quân vùng Đức Lập, trong vùng tiếp giáp giữa tỉnh Quảng Đức và tỉnh Darlac. Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn này và 2 tiểu đoàn còn lại đóng tại phi trường Phụng Dực, Ban Mê Thuột, là lực lượng trừ bị của sư đoàn.

Tin trở về lại Ban Mê Thuột thực ra không gây nên những phấn khởi lớn đối với các quân nhân thuộc Trung Ðoàn 44, bởi vì đã số binh sĩ của trung đoàn có gia đình và thân nhân ở Phan Thiết. Những tin này chắc chắn là nỗi vui mừng lớn cho Trung Ðoàn 45, một đơn vị thường trú từ ngày thành lập ở Ban Mê Thuột.
Các binh sĩ VNCH đang tu bổ hệ thống giao thông hào ở mặt trận trung phần cao nguyên.
(HÌNH ẢNH: Carl Mydans)



Những cuộc hành quân liên tục trong suốt thời gian từ năm 1972 đến hôm dó trên lãnh thổ các tỉnh Pleiku, Phú Bổn và Kontum đã làm cho nỗi nhớ nhà của các binh sĩ trung đoàn này thêm khắc khoải, nhất là vào thời gian này, khi cái hương vị Tết vẫn còn thoang thoảng bay.

Nhưng mãi tới ngày 17 tháng 2/75, tôi mới có lệnh về họp tại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn để nhận chi tiết kế hoạch di chuyển. Theo kế hoạch này, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn sẽ đi bằng xe từ Hàm Rồng, khi ngang qua đèo Tử Sĩ, Trung Ðoàn 45 sẽ tháp tùng theo. Trung đoàn của tôi sẽ được một Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân thay thế. Theo ước tính, liên đoàn này sẽ đến khoảng 3 ngày sau. Sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm, trung đoàn của tôi cũng sẽ tiếp tục trở về Ban Mê Thuột cùng với một chi đoàn chiến xa M-48 của Thiết Ðoàn 20.

Cuộc họp hành quân kéo dài không lâu. Khi rời phòng họp, tôi chợt nhìn thấy những sự tất bật, rộn ràng của mọi người trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh. Thấy những khuôn mặt rực rỡ niềm vui về cuộc trở về sắp tới, những câu nói đùa giỡn, những nụ cười. Tôi cũng cảm thấy lòng mình rộn ràng. Gia đình tôi với vợ và 4 cháu cũng đang ở Ban Mê Thuột. Hơn một năm rồi, tôi có ghé về thăm nhà đôi lần, mỗi lần không quá một tiếng đồng hồ. Kể từ 6 giờ sáng ngày 18 tháng 2/1975, đơn vị tôi được đặt trở lại hệ thống chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2. Cũng từ lúc ấy, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 tháo gỡ hệ thống truyền tin.

Tám giờ sáng ngày 18, đoàn xe vận chuyển đã có măt đầy đủ tại doanh trại Hàm Rồng. Công việc chất hàng khá gọn lẹ. Đến 10 giờ sáng, qua hệ thống truyền tin vô tuyến, tôi được biết đoàn xe đã sẵn sàng di chuyển.

Tướng Tường lên trực thăng chỉ huy, bay vào trung đoàn của tôi dể dặn dò các chi tiết cuối cùng trước khi lên đường, lúc dó là 10 giờ 15. Chúng tôi đang ngồi họp tại Trung Tâm Hành Quân của trung đoàn thì có điện thoại của Tướng Phú yêu cầu Tướng Tường trở về gặp ông gấp tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2. Tôi đưa Tướng Tường ra trực thăng giã từ.

Mười một giờ, đoàn xe vẫn không nhúc nhích. Ðến 11 giờ 15, Trung Tâm Hành Quân của Quân Ðoàn ra lệnh Trung Ðoàn 44 trở về hệ thống chỉ huy trực tiếp của Sư Ðoàn 23. Tôi quay điện thoại gặp Thiếu Tá Phạm Văn Cẩm, Trưởng Phòng 3 Sư Ðoàn. Tiếng Cẩm càu nhàu, “Lệnh di chuyển hủy bỏ rồi, niên trưởng ơi! Ai trở về nhà nấy, làm ăn như thường lệ.” Bất giác tôi buông một câu chửi thề và tự hỏi: Thế là thế nào?

Mười hai giờ trưa, Tướng Tường gọi điện thoại cho tôi biết, Tướng Phú giữ nguyên lập luận của mình, cho rằng Pleiku là điểm, Ban Mê Thuột chỉ là diện. Sự tái phối trí lực lượng do vậy là không cần thiết.

Nói cho ngay, mỗi vị tư lệnh có những phán đoán riêng tư của mình. Khi có được những dữ kiện tình báo chính xác, vị chỉ huy có thể đề ra những đối pháp khẳng định không do dự. Ở đây, những tin tức thu lượm được giá trị không cao bao nhiêu, nếu như không muốn nói là còn cần phải kiểm tra và phối kiểm từ nhiều nguồn khác nhau, nên vấn đề xây dựng các quyết định lại càng khó khăn hơn.

Lại nữa, Tướng Phú mới tới nhậm chức chưa bao lâu, thời gian chưa đủ để ông có thể cảm nhận tình hình một cách sắc bén hơn. Nếu cho tôi quyền nhận xét, tôi thấy Tướng Toàn có nhiều quyền biến hơn. Về phương diện thuần túy quân sự, Tướng Toàn đảm lược, cơ mưu và có những quyết định táo bạo hơn. Tôi vẫn tin là nếu Tướng Toàn còn ở lại chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, những chỉ thị của Tổng Thống Thiệu sẽ được thực thi một cách đúng đắn.

Dĩ nhiên trận đánh Ban Mê Thuột sẽ vẫn xảy ra, nhưng trận Ban Mê Thuột không phải là trận dánh bất ngờ như Tướng Hoàng Minh Thảo đã tưởng tượng, những hoảng loạn sẽ không xảy ra, và biết đâu, kế hoạch rút quân tự sát theo liên tỉnh lộ 7 sẽ không còn cần thiết nữa?

MỘT CHUYẾN ÐI TUYỆT VỌNG

Bốn giờ sáng ngày 10 tháng 3/1975 trận đánh Ban Mê Thuột mở màn. Thiếu Tá Cẩm điện thoại cho tôi biết ngay sau dó. Không bao lâu, mọi đường dây liên lạc với Ban Mê Thuột không còn. Nửa đêm về sáng, trên Cao Nguyên thời tiết thường se lạnh, sương trắng bao phủ đầy trời. Tôi ngồi trong hầm chỉ huy, chăm chú nhìn các chi tiết địch tình ghi trên bản đồ. Chú em cận vệ bưng ra một ly cà phê. Ban Mê Thuột sẽ mất, tôi tự nghĩ như thế. Điều suy nghĩ này bắt nguồn từ những dữ kiện tôi có được sau hơn một năm làm trưởng phòng 3 Sư Ðoàn 23, mà tỉnh Darlac nằm trong lãnh thổ kiểm soát và hành quân của sư đoàn.

Những đơn vị Địa Phương Quân hầu như đa số là người Thượng, khả năng tác chiến rất kém vì thiếu huấn luyện. Họ được trang bị thô sơ và có ý thức kỷ luật quân đội rất kém. Về địa thế, Ban Mê Thuột khác hẳn Kontum. Ban Mê Thuột không có những chướng ngại thiên nhiên để dựa vào, hạn chế bớt khả năng xâm nhập của chiến xa hoặc bộ binh địch. Ngoài ra, với hàng trăm đồn điền cà phê tươi tốt, địch có che dấu, ngụy trang cho cả quân đoàn của họ một cách an toàn. Rõ ràng nơi dây là nơi lý tưởng cho các cuộc tiến quân áp sát của địch.

Với một lãnh thổ rộng hơn tỉnh Kontum rất nhiều, lại do các đồn bót của Địa Phương Quân nằm rải rác trấn giữ, quân số thực tế của các đơn vị này luôn thấp hơn nhiều so với tên trên số lương. Ban Mê Thuột trở thành một căn cứ không còn vòng đai phòng thủ theo đúng nghĩa quân sự. Thành ra, việc thất thủ Ban Mê Thuột không phải là điều đáng hãnh diện như những lời tự khoe khoang của các tướng lãnh Việt Cộng qua các hồi ký của họ.

Sự chờ đợi bao giờ cũng làm thời gian trôi chậm lại. Mãi gần 7 giờ sáng mặt trời mới thật sự xua tan được mây mù. Tôi gọi điện thoại cho Thiếu Tá Cẩm để tìm hiểu thêm tình hình. Chẳng có gì khả quan hơn. Cẩm nói với tôi phải chờ thời tiết khá hơn rồi sẽ cùng Tướng Lê Trung Tường bay lên quan sát tình hình. Gần 9 giờ sáng, chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Tường mới cất cánh được. Hình như tôi đã uống tới ly cà phê thứ 3 hay thứ 4 gì đó.

Suốt ngày hôm dó, trực thăng chỉ huy của Tướng Tường bay trên vùng trời Ban Mê Thuột. Mãi tới 7 giờ tối tôi mới nói chuyện được với Thiếu Tá Cẩm qua điện thoại. Tiếng Cẩm xúc động, “Ban Mê Thuột bị tràn ngập rồi, không còn liên lạc được gì với Đại Tá Quang, tư lệnh phó nữa. Tướng Tường đang ở Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, họp bàn về lệnh lập kế hoạch giải tỏa.”

Ngay trong thời điểm ấy, tôi không tin là có thể làm gì hơn cho kế hoạch này. Nguyên tắc quân sự cơ bản: “Phòng thủ 1 chống 3, tấn công 3 chọi 1.” Vậy cứ cho là đang có 2 sư đoàn địch chiếm cứ trận địa, làm sao kiếm ra tối thiểu 5 sư đoàn để tái chiếm? Ưu thế hỏa lực không còn, các đơn vị tổng trừ bị hầu như bị cầm chân gần hết tại chiến trường hỏa tuyến, lực lượng nào dể tiếp cứu đây?

Sáng ngày 11, tôi được trực thăng đón ra Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn họp hành quân. Kế hoạch hành quân do Thiếu Tá Cẩm, Trưởng Phòng 3 Sư Ðoàn trình bày gồm hai giai đoạn: Thứ nhất, ngày 12, Trung Ðoàn 45 được trực thăng bốc đi từ đèo Tử Sĩ, đổ xuống Quận Phước An, di chuyển về thị xã từ hướng Ðông, đến chạm tuyến chờ lệnh. Thứ nhì, buổi sáng cùng ngày, Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân được không vận từ Saigon sẽ đến thay thế Trung Ðoàn 44 ra tập trung tại căn cứ Hàm Rồng và sẵn sàng di chuyển về Ban Mê Thuột bằng trực thăng. Sáng ngày 13, Trung Ðoàn 44 sẽ được không vận xuống Phước An, lần theo Quốc Lộ 21, song song với Trung Ðoàn 45, tiến vào thị xã.

Họp hành xong, tôi trở về ngay căn cứ 801 để chờ đơn vị bạn. Mai tới gần 3 giờ chiều, đoàn xe chở Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân mới tới nơi. Người bước vào căn cứ đầu tiên là Đại Tá Nguyễn Kim Tây. Cuộc bàn giao vị trí cũng kéo dài tới gần 5 giờ chiều mới hoàn tất. Trung Ðoàn 44 lên xe trực chỉ hướng Hà Rồng.

Trung Ðoàn 44 sẵn sàng tại bãi đáp lúc 7 giờ sáng ngày 13 tháng 3/1975. Số lượng trực thăng dự trù dể di chuyển toàn bộ trung đoàn gồm khoảng 50 chiếc đủ loại, trong đó có 8 chiếc Chinook, 30 chiếc Huey và phần còn lại là trực thăng vũ trang. Kế hoạch dự trù di chuyển làm 2 đợt. Đợt đầu gồm Tiểu Ðoàn 3/44 của Đại Úy Trần Hữu Lưu, Đại Ðội 44 Trinh Sát của Đại Úy Mạnh, và Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 44. Quân số tổng cộng khoảng gần 600 người. Đợt thứ nhì gồm hai Tiểu Ðoàn 1/44 của Thiếu Tá Nguyễn Xuân Hoè và Tiểu Ðoàn 2/44 của Đại Úy Nguyễn Văn Pho, Bộ Chỉ Huy nhẹ do Trung Tá Vũ Mạnh Cường, Trung Ðoàn phó chỉ huy.

Chuyến không vận đầu tiên cất cánh lúc 9 giờ, đáp xuống khu vực rừng trống trước cửa Chi Khu Phước An lúc 10 giờ 15. Tôi vào găp Tướng Lê Trung Tường tại Bộ Chỉ Huy Khu nhận lệnh. Tôi ra lệnh cho Đại úy Lưu đưa tiểu đoàn đi theo hướng Bắc của Quốc Lộ 21 tiến lên ngang tuyến của Trung Ðoàn 45 thì dừng lại chờ đợi. Đại Ðội 44 Trinh Sát được giữ lại để bảo vệ Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn. Đoàn trực thăng cất cánh trở lại Hàm Rồng để chở tiếp đợt còn lại.

Đến 2 giờ chiều, vẫn không có tin tức gì của đợt không vận thứ hai. Tôi trở vào Chi khu, nơi Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn đang tạm dặt tại dây, để hỏi tin tức. Trung Tâm Hành Quân của Sư Ðoàn cũng chẳng biết gì hơn. Bốn giờ chiều, Trung Tâm Hành Quân của sư đoàn cho biết cuộc không vận bị hủy bỏ, số trực thăng ấy đã được sử dụng để chuyên chở các nhân viên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn trở về Nha Trang. Hai tiểu đoàn của tôi sẽ nhận lệnh trực tiếp của Quân Ðoàn.

Sau này tôi mới được biết hai tiểu đoàn còn lại của tôi đã đi theo đoàn quân triệt thoái theo Liên Tỉnh Lộ 7 và bị tan rã hoàn toàn. Trung Tá Trung Ðoàn phó Vũ Mạnh Cường bị bắt làm tù binh, sau này bị đem về nhốt và chết cháy trong conex tại trại giam Hàm Tân. Đại Úy Pho, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2/44, đã tự sát trước khi bị bắt.

Ngày 14 tháng 3/1975, chúng tôi kiểm điểm lại và thấy như sau: Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân sau khi vào được thị xã Ban Mê Thuột, tiến đến khu vực phi trường L19 trong thị xã, đã bị dánh bật ra ngoài vòng đai, hiện đang bị vây hãm tại Đạt Lu. Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 45 và Tiểu Ðoàn 3/44 đang bị cầm chân ngoài vòng đai thị xã. Lực lượng pháo binh yểm trợ trực tiếp (và duy nhất) là trung đội pháo binh diện địa đang đặt tại Chi khu Phước An chỉ có 2 khẩu đại bác 105 ly. Lực lượng không quân yểm trợ, đánh phá các căn cứ tập trung của địch, trong và ngoài vòng đai thị xã đang bị khốn đốn vì hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay SA-7 của quân Bắc Việt, lần dầu tiên được sử dụng rộng rãi trên chiến trường Tây Nguyên.

Buổi sáng ngày 14 tháng 3/1975, trong chuyến bay từ Khánh Dương lên Phước An, trực thăng của Tướng Lê Trung Tường bị trúng đạn phòng không 12.7 ly của Cộng Sản. Tướng Tường và viên phi công bị thương nhẹ, phải vào bệnh viện Nha Trang điều trị.

Sáng ngày 15 tháng 3/1975, Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 45 và tôi, được tin sư đoàn có vị tư lệnh mới, đó là Đại Tá Lê Hữu Đức. Cùng ngày, Đại Tá Đức ra lệnh hai chúng tôi cho đơn vị di chuyển lui về hướng đồi Chư Cúc lập tuyến phòng thủ tại đây. Năm giờ chiều cùng ngày, trong khi chờ đợi trực thăng của vị tân tư lệnh đáp xuống đỉnh đồi Chư Cúc dể họp thì đoàn chiến xa Bắc Việt tràn tới dưới chân đồi.

Tiếng Đại Úy Mạnh, Đại Ðội Trưởng Đại Ðội 44 Trinh Sát, reo lên trong máy, “Báo cáo Bá Hòa, chúng tôi đã thiêu sống một con cua.” Những tiếng súng nỗ ròn ra cách xa hướng chân đồi non cây số, quện trong khói đen và trắng của chiếc thiết giáp địch bốc cháy thực sự không còn gây cho tôi một ấn tượng hứng khởi nào nữa. Tiếng Đại Tá tân tư lệnh nói trong máy cho biết không thể đáp xuống được và yêu cầu Đại Tá Quang cùng tôi phối hợp phòng thủ chờ lệnh. Tôi còn nhớ hình như Đại Tá Quang có buông một tiếng chửi thề và leo lên xe Jeep chạy nhanh xuống chân đồi trở về đơn vị.
Hình chụp từ trên cao nhìn xuống Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 của Việt Nam Cộng Hòa tại Pleiku [1]. (HÌNH ẢNH: Mike Loughran)



Tôi và Đại Úy Phan Công Minh, sĩ quan hành quân của trung đoàn, lặng lẽ đi bộ theo sau. Vừa ra khỏi khúc quanh trên đỉnh đồi, chúng tôi nghe tiếng xích sắt của xe thiết giáp địch xình xịt bên tai. Cả hai anh em không có chọn lựa nào khác là chui qua vòng rào kẽm gai giăng quanh căn cứ, trượt theo sườn giốc xuống chân đồi, nơi có cắm đầy những tấm bảng gỗ ngổn ngang, trên có hàng chữ: “Khu tử địa, cấm vào.”

Dưới chân dồi là môt lạch nước nhỏ, hai bên có trồng chuối. Tôi và Minh ngồi im lặng dưới tầu lá chuối, ngâm chân vào giòng nước lạnh. Trong suốt 15 năm quân ngũ, chưa bao giờ tôi thấy tuyệt vọng như thế, kể cả khi còn là môt Đại Úy Tiểu Ðoàn Phó Tiểu Ðoàn 2/11 ở Sư Ðoàn 7, khi bị vây hãm 3 ngày 2 đêm ở khu vực bến xe Mỹ Tho, đơn vị chỉ gồm hơn 50 người, trong đó có tới hơn phân nửa là chết và bị thương, đạn dược cạn kiệt và đói khát. Lúc dó, tôi vẫn thấy địch sẽ thất bại và chúng tôi sẽ được giải cứu. Bây giờ đây thì không. Tôi không nhìn thấy một cơ may nào để có thể giải cứu Ban Mê Thuột. Ngày 16 tháng 3/75 tôi và Minh tìm lại được đơn vị, được trực thăng bốc về Khánh Dương.

MỘT VÀI CẢM NGHĨ VỀ KẾ HOẠCH TÁI CHIẾM

Tôi được lệnh đưa đơn vị trở về Vũng Tàu qua điện thoại từ Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu. Khi đơn vị gom lại được tại Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, Vũng Tàu, tổn thất nhân mạng hầu như không bao nhiêu, nhưng số binh sĩ bỏ ngũ thì khá nhiều. Phần lớn số binh sĩ này là người sinh trưởng tại các tỉnh duyên hải, thành ra lợi dụng trong lúc di chuyển bằng đủ mọi thứ phương tiện, họ đã đi theo đoàn người di tản để trở về gia đình. Cuộc chiến tranh nhập nhằng đã vắt kiệt sức chịu đựng của người lính chiến Việt Nam.

Kể từ ngày Việt Cộng rêu rao cái gọi là chiến dịch Đồng Khởi năm 1960 tại Bến Tre cho dến năm 1975, trong 15 năm ấy những ngươi lính Việt Nam có giờ phút nào được hưởng giây phút tạm gọi là thanh bình? Cuộc chiến không có hậu phương, ngay cả trong thời gian nghỉ phép ngắn ngủi, họ cũng vẫn có thể bị bắt cóc trên các chuyến xe để trở về nhà, hoặc trúng mìn trên đường di chuyển từ tiền phương trở về hậu cứ lấy giấy phép, và sau cùng, họ cũng vẫn có thể trúng đạn pháo kích khi đang ngủ trên giường cùng vợ con! Cái chết như là điều gì rất thường trực, lúc nào cũng có thể xuất hiện và mang họ đi, thậm chí mang luôn cả thân nhân ruột thịt của chính họ.

Trong khi ngoài chiến trường xương rơi, máu đổ thì nhìn về phía sau lưng, những trò chính trị nhố nhăng cùng một số chính khách hoạt đầu, tứ thời sống bằng cái miệng hò hét hoan hô đả đảo, bôi nhọ, tranh chấp nhau, những luận điệu phản chiến vô trách nhiệm. Rồi bà nọ ông kia mua quan bán chức, sống phè phỡn trên nỗi thống khổ và sự hy sinh vô bờ bến của những người cầm súng.

Giờ đây, trên radio, trên báo chí, trên những tin tức tác động tâm lý của địch, họ đã thấy gì? Họ thấy sự đổ vỡ của các mặt giới tuyến, thấy sự rút chạy (mà phát ngôn viên quân sự đặt cho nó một cái tên mới là “di tản chiến thuật”) tán loạn từ khắp mọi nơi. Trong tình thế như vậy mà đòi hỏi nơi binh sĩ một tinh thần vì nước quên mình, có lẽ chỉ những cấp chỉ huy có đầu óc hài hước cỡ Charlot mới dám làm.

Những ngày trong lao tù Cộng Sản, tôi có dịp gặp hầu hết những cấp chỉ huy có liên hệ ít nhiều tới chiến trường Tây Nguyên năm 1975, như Đại Tá Vũ Thế Quang (Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 23 Bộ Binh), Đại Tá Phùng Văn Quang (Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 45), Đại Tá Võ Ân (Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 53), Trung Tá Lê Quí Dậu (Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân), Đại Úy Xuân (Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Darlac). Qua các câu chuyện trao dổi, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai tin tưởng vào một cơ quan có thể tái chiếm Ban Mê Thuột với những kế hoạch đã được đưa ra thi hành vào lúc ấy.

Ngô Văn Xuân

HẾT

» [1] NGUYÊN LẬP GHI CHÚ: Một đọc giả cho biết đây có thể là Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 của Quân Lực VNCH tại Pleiku. Quý vị nào biết rõ, hay nhận dạng được hai building trong tấm hình trên, xin vui lòng cho biết.


--------------------
KHAI TỬ ĐẢNG!
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic
delta   PLEIKU( Gia Lai )   Apr 17 2008, 10:05 AM
delta   Pleiku Pleiku (cũng còn viết Plei Cu, Plây...   Apr 17 2008, 10:15 AM
M&N   Ông Sáu Người Pleiku Lặng Lẽ Chăm Sóc N...   May 2 2008, 10:15 AM
M&N   Thưa các bạn, bài nầy không phải do thà...   May 3 2008, 08:28 AM
M&N   Biển Hồ Plây-cu Nếu hồ Lak đã đem l...   May 30 2008, 04:00 PM
M&N   Biển hồ Tơ Nưng nằm ở xã Biển Hồ, T...   May 30 2008, 04:02 PM
tuyettinh   Huyền thoại về Biển Hồ phố núi Pleiku...   Jul 21 2008, 06:01 AM
M&N   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Aug 2 2008, 10:38 AM
M&N   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Aug 2 2008, 10:41 AM
M&N   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Aug 2 2008, 10:48 AM
M&N   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Aug 2 2008, 10:52 AM
M&N   Minh Đức Họp Mặt 2007   Aug 2 2008, 11:05 AM
M&N   Minh Đức Họp Mặt   Aug 2 2008, 12:39 PM
M&N   Lòng heo nướng nghệ Pleiku Có những ...   Aug 6 2008, 10:33 AM
M&N   Buổi Sáng Pleiku Và Những Điều Cảm Nh...   Oct 26 2008, 01:09 PM
M&N   Pleiku, Đóa Quỳ Vàng Và Những Hồn Thi S...   Oct 26 2008, 01:16 PM
M&N   Pleiku phố núi ơi! Pleiku thân yêu của...   Oct 26 2008, 01:23 PM
M&N   Đáng Yêu Như Pleiku Sưu Tầm Được nghe...   Oct 26 2008, 01:39 PM
M&N   Phố Núi Mờ Sương Sưu Tầm Không ch...   Oct 26 2008, 03:28 PM
M&N   Còn Chút Gì Để Nhớ Để Thương Thái ...   Nov 21 2008, 10:28 AM
M@N   Pleiku - Đà Lạt Phạm Lương Còn...   Nov 22 2008, 03:18 PM
M@N   Người Về Từ Cõi Chết NGÔ TRÚC KHÁNH...   Nov 30 2008, 02:11 PM
M@N   Cao Nguyên: Sương Mù hay Khói Súng Ngày 15...   Dec 11 2008, 01:50 PM
M@N   Tử lộ 7 Pleiku-Qui Nhơn Anh đi rồi Tây ...   Dec 24 2008, 11:39 AM
M@N   Đêm Thấy Ta là Thác Đổ M Pleiku lớn l...   Dec 24 2008, 11:40 AM
M@N   Tình Bạn Và Đời Lính Trần Thế Phong ...   Dec 24 2008, 01:32 PM
M&N   Niềm vui chợt tắt! (Để nhớ về P...   Jan 16 2009, 10:26 AM
M&N   Rươu Cần Tây Nguyên Rượu cần là cách...   Jan 30 2009, 04:43 PM
M&N   Chén rượu tiễn! (Để tưởng nh...   Feb 22 2009, 02:15 PM
M&N   1. Biển Hồ (Hồ Tơ Nuêng) Sưu Tầm N...   Jun 15 2009, 06:23 PM
M&N   Cảm xúc mưa Nhok_KenZ “…NHÌN MƯA N...   Jun 15 2009, 06:32 PM
M&N   Địa chỉ ăn uống .... Sưu Tầm 1.Phở ...   Jun 16 2009, 11:47 AM
M&N   Pleiku - Gia Lai và núi lửa Núi lửa, thậ...   Jun 16 2009, 03:32 PM
M&N   Gia Lai - Nhà tù Pleiku Vị trí: Nhà tù Ple...   Jun 16 2009, 04:01 PM
M&N   Pleiku - năm tháng chưa xa Sưu Tầm Nếu...   Jun 22 2009, 07:15 PM
M&N   Một thoáng cà phê pleiku... Nổi hứng, t...   Jul 5 2009, 11:09 AM
M&N   1929- Năm Ra Đời Của Pleiku Pleiku vùng đ...   Jul 17 2009, 04:09 PM
M&N   Tìm hiểu về Lễ Bỏ mả (Lễ Bơ thi) L...   Jul 17 2009, 04:14 PM
M&N   Một một số nhạc cụ đặc trưng Tây Ng...   Jul 17 2009, 04:26 PM
M&N   Làng Đê K’Tu Vị trí: Thuộc xã Kong D...   Aug 3 2009, 11:16 AM
M&N   Pleiku sẵn sàng đón ngày hội lớn Vào...   Aug 3 2009, 11:30 AM
M&N   Đồi thông Đak Pơ Đak Pơ được thiên...   Aug 3 2009, 11:35 AM
M&N   Kiến trúc nhà rông Nhà rông được xâ...   Aug 3 2009, 12:05 PM
M&N   Lan cao nguyên về đồng bằng Chỉ trong...   Aug 3 2009, 12:17 PM
M&N   Nhà mồ- Tượng nhà mồ Lên Tây Nguyên...   Aug 4 2009, 09:42 AM
M&N   Di tích lịch sử - văn hóa Tây Sơn Thượ...   Aug 4 2009, 09:48 AM
M&N   Thủy điện Yaly Vị trí: Công trình th...   Aug 4 2009, 09:51 AM
M&N   Hồ Ayun Hạ Vị trí: Hồ Ayun Hạ nằm ...   Aug 4 2009, 09:56 AM
M&N   Thác Xung Khoeng Vị trí: Thác Xung Khoeng ...   Aug 4 2009, 10:01 AM
M&N   Đèo An Khê Không chỉ là địa chỉ du ...   Aug 15 2009, 01:28 PM
M&N   Ngôi nhà cổ mang dấu tích lịch sử ở A...   Aug 20 2009, 12:33 PM
M&N   Đèo Mang Yang Người dân Gia Lai vẫn que...   Aug 24 2009, 11:46 AM
M&N   Pleiku, những điều trông thấy... Ông Hu...   Aug 26 2009, 02:01 PM
M&N   Pleiku, những điều trông thấy... Ngã ba...   Aug 26 2009, 02:18 PM
M&N   Pleiku, những điều trông thấy... Một ...   Aug 26 2009, 02:30 PM
M&N   Pleiku... lang thang ký! Cà phê vỉa hè...   Aug 27 2009, 10:33 AM
M&N   Đường vui Nguyễn Quang Tuệ Nắng đã ...   Sep 10 2009, 11:18 AM
caoduy   Cao Nguyên Sương Mù Hay Khói Súng # Tá...   Nov 4 2009, 09:39 AM
caoduy   Trận Chiến Đức Cơ # Tác giả: Tô...   Nov 7 2009, 05:01 PM
caoduy   Trận Tử Chiến Của Tiểu Đoàn 82 BĐQ T...   Nov 8 2009, 09:04 PM
caoduy   Những Bí Mật Trong Trận Ban Mê Thuột ...   Nov 19 2009, 09:01 AM
caoduy   Triệt Thoái Cao Nguyên: Cuộc Lui Binh Phá S...   Nov 22 2009, 04:58 PM
caoduy   Vài Biến Cố Ðằng Sau Mặt Trận Tây Ngu...   Nov 24 2009, 04:44 PM
Tulip   RE: PLEIKU( Gia Lai )   Dec 22 2009, 08:40 PM
caoduy   Pleiku - Đà Lạt Còn khoảng hơn thán...   Jan 12 2010, 08:32 PM
caoduy   Màu - Pleiku Tôi trình diện TĐ 21 BĐQ ở ...   Jan 12 2010, 08:43 PM
caoduy   Tử chiến trong nghĩa địa Người sống ...   Feb 10 2010, 06:47 PM
caoduy   Những Người Lính Cũ Đọc Để Thươn...   Feb 19 2010, 09:43 AM
caoduy   Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 cựu đ...   Apr 2 2010, 07:46 AM
caoduy   Không gian kỷ niệm Huỳnh Quốc Phú còn...   Apr 24 2010, 07:18 AM
3 Pages V   1 2 3 >


Reply to this topicStart new topic
1 User(s) are reading this topic (1 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 4th November 2024 - 01:30 PM