Welcome Guest ( Log In | Register )

> Chuyện kể năm 2000, Bùi Ngọc Tấn
PhuDung
post Dec 20 2014, 01:44 PM
Post #1


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269
Country







Chuyện kể năm 2000


Chương 1

Có những điều hắn tưởng không bao giờ quên. Thế rồi hắn quên. Dù lúc xảy ra sự việc, hắn tự bảo: Mình sẽ nhớ suốt đời. Làm sao quên được những điều đáng nhớ như thế. Đó là những niềm vui hiếm hoi. Là những sự đau khổ đến tê dại. Không. Không thể nào quên được. Thế mà hắn quên. Thỉnh thoảng hắn muốn ôn lại quá khứ. Hắn không sao nhớ được. Kinh nhất là những đau khổ tột cùng mà cũng quên luôn. Tất cả không hằn được một đường vào nếp nhăn đại não. Có lẽ những nếp nhăn ấy đã bị lấp đầy rồi. Nên nó nhoè. Nó mang máng. Não hắn cứ bi những nhát búa dội vào đều đặn, liên tục. Nó lỳ.
Thế mà hắn vốn là người có trí nhớ tốt. Hắn buồn rầu hiểu rằng đầu óc hắn hỏng mất rồi. Nghĩa là chính hắn hỏng mất rồi.
Có người viết rằng con người ta có thể quên cả ngày sinh tháng đẻ của mình, quên cả cái hôn đầu tiên. Ngày sinh tháng đẻ hắn, hắn không quên. Hắn sinh ngày 3-7- 1934. Đó là ngày ta hay tây, hắn không biết. Mẹ hắn bảo hình như là ngày ta. Nếu vậy hắn sinh vào khoảng tháng 8 dương. Còn năm ta là năm Tuất. Năm con chó.
Cái hôn đầu tiên hắn cũng quên. Làm sao nhớ được. Nghĩ về năm tháng tuổi trẻ và đi ngược lên nữa về tuổi ấu thơ, hắn chỉ thấy một dòng thời gian tươi đẹp đến thắt lòng.
Tóm lại hắn quên nhiều thứ. Nhưng hắn không bao giờ quên cái ngày hắn được ra tù. Đó là một buổi sáng xuân. Chính xác hơn là ngày 3 tháng 4 dương lịch.
Năm đó cũng mưa dầm ghê gớm. Mưa bụi, thứ mưa mịn màng trắng rừng, trắng núi, mịt mở nổi trôi, bồng bềnh tiền sử. Chỉ có những hạt bụi rất nhỏ bay lượn, nhưng tất cả sũng nước. Đụng đến cái gì cũng ẩm kinh người. Đôi giày vải đi rừng của hắn chỉ ba ngày không nhìn đến đã mọc nấm. Thứ mưa trắng những đồi trẩu trên đường bọn hắn đi từ trại đến chỗ làm và ngược lại. Những cây trẩu lá non mềm nhiễm xạ mùa xuân, chỉ một đêm là đồng loạt trổ bạt ngàn những chùm nụ nhỏ hồng hồng.
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn cây, hắn hiểu rằng sắp đến mùa chim tu hú kêu đây. Sắp đến mùa hoa gạo nở đỏ rực đây. Hắn nhớ đến một khoảng trời xuân nào đó trong quá khứ. Những luống đỗ mềm trên đất tơi và ẩm. Những vạt cỏ chăng đầy mạng nhện, trĩu những hạt nước. Cành xoan ngoài cửa sổ. Dây tã trắng vợ hắn phơi trong nắng mới. Đó là cuộc sống ở thế giới bên kia. Hắn đi làm cùng anh em tù, mệt mỏi, buồn bã và không nghĩ tới ngày về. Họ là những tù không án. Họ đi tập trung cải tạo. Người một lệnh, người hai lệnh, người ba lệnh. Nhiều người tới sáu, bảy lệnh. Mỗi lệnh ba năm. Theo pháp luật họ chưa tới mức phải xử, chưa tới mức phải truy tố, ra toà. Họ chỉ bị tập trung cải tạo, nghĩa là nhẹ hơn án tù nhiều lắm. Nhưng chưa ai tù một lệnh (ba năm) mà được trở về. Chưa hết bọp này đã được gí thêm bọp khác . Cái án cao-su. Cái án tù mù. Cha mẹ ơi, đừng đợi. Em ơi, dù mùa xuân về, dù mùa xuân đi, em ơi đừng đợi Anh còn chờ dê đực đẻ con như ông Tô Vũ ngày xưa. Một anh tù đã làm bài hát về mình như vậy.
Ngày về của anh tù tập trung cải tạo nào ai biết được. Năm năm sống trong tù, hắn thấy nhiều người thuộc diện được tha, nhưng chỉ vài người tập trung cải tạo và đó là những sự kiện xôn xao cả trại. Còn toàn là tù nặng, tù có án. Năm năm tù hắn không dám kêu lâu, vì ở đây toàn những người kỳ cựu, những xê-ri AM, BM...
Một lính đánh nghẽo bị kết án tù sáu tháng vào trại, được một người tù già bĩu môi:
- Không bằng thời gian tao đi đái, đi ỉa trong tù.
Thời gian của bọn tù tập trung cải tạo được tính bằng lệnh. Họ hỏi nhau:
- Mấy lệnh rồi?
Hắn đã lê chân hết nhà tù này đến nhà tù khác. Hắn mụ mi đi. Nhưng sao mùa xuân vẫn hấp dẫn người ta thế. Hắn lẩm nhẩm một đoạn thơ cứ luẩn quẩn trong óc hắn mấy hôm nay, khi những cây trẩu đồng loạt trổ bông.
Tôi đã quên tên tôi dưới mặt trời
Quên tuổi tôi
Cắm sâu lưỡi dao năm tháng
Thời gian băng hà sọ não tôi
Cuộc đời trước hoang đường tiền sử
Từ thế giới này đã mất thói quen dùng lửa
Tôi hoá đá dần nỗi nhớ về thế giới bên kia...
Trong gần hai ngàn ngày tù dài dằng dặc thành một khúc đông cứng giữa cái sền sệt, đặc quánh của năm tháng cuộc đời hắn, ngoài ngày được tha, hắn côn nhớ rõ cả ngày trước đó, cái ngày cuối cùng hắn ở trong tù.
Chiều hôm trước khi được tha, hắn còn bị lôi thôi. Hắn bị trực trại khám nội vụ
Nội vụ của hắn khá tươm. Nghĩa là đủ mọi thứ. Nó chứng tỏ công lao, sự chăm sóc của vợ hắn. Rất nhiều người khác - đạc biệt là đám tù trẻ - không có được một tài sản như hàn. Một cái hòm gỗ thông sơn xám, nẹp sắt, nguyên là hòm đựng đạn mà một bạn đọc cho vợ hắn để vợ hắn gửi vào cho hắn. Hòm có khoá, một cái khoá Trung Quốc. Khi được gọi ra gặp mặt vợ, trông thấy cái hòm để cạnh chỗ vợ ngồi, mắt hắn sáng lên. Hắn chỉ sợ người ta không cho nhận cái hòm ấy. Cái hòm, đó là một thứ tổng kho, là sự giàu có, đầy đủ tiện nghi trong tù, lại là sự quan tâm của gia đình. Điều đó nâng cao vị trí của hắn ở trong tù, vị trí của hắn trước các bạn tù. Không gì đau khổ và bị xem thường bằng những người quanh năm không được gia đình lên gặp mặt như Nguyên Văn Dự, như Lê Bá Di chẳng hạn. Cái cảm giác bị bỏ rơi và không có một chút gì đáng giá trước mặt người khác thật là cụ thể. Anh chỉ là thứ tù hạng bét. Vả lại những người tù kỳ cựu, cơ chỉ đều có hòm. Điều đó còn nói rằng anh ta đã xác định được, đã chuẩn bị đầy đủ để sống lâu dài trong tù, khi anh ta không có án mà chỉ có lệnh tập trung cải tạo.
Tất cả những gì giá trị, hắn đều cho vào hòm. Mà những cái đáng giá nhất trong tù là thức ăn: muối vừng, ruốc thịt, đường, kẹo bánh, chè, thuốc lá. Chuột hết nhằm. Bọn đểu hết ăn cắp. Hắn đã bị mất hai gói kẹo mà hắn chắt chiu, chỉ khi nào mệt lắm, đói lắm mới dám ngậm, mút một chiếc. Đi làm về hắn thấy cái túi lòi ra phía cửa sổ, cái chiếu xộc xệch, hắn giật mình, lao vội đến, thò tay vào trong túi. Hai gói kẹo không còn nữa. Hắn chết lặng, lường hết được tổn thất. Một nhà buôn mất sạch gia tài cũng không đau khổ bằng hắn.
Khi vợ hắn lên tiếp tế, cái hòm ấy đầy ắp những xôi, bánh mì và thức ăn mặn. Nhưng đã bốn, năm tháng nay vợ hắn không lên. Chỉ còn lại một ít đường. Bù lại hắn có một túi ni-lông to cơm khô. Vừa cơm vừa cháy. Cơm độn ngô vàng vàng, trắng trắng.
Hắn dành dụm được bằng nhiều cách. Nhét được cái gì vào bụng trong lúc đi làm, đến bữa hắn lại bớt một ít ra phơi. Có nắm cơm khô, yên tâm. Cái lệ là: Chủ nhật không đi làm, bị cắt bữa sáng. Nhịn thông từ chiều hôm trước đến trưa hôm sau, dạ dày nhớ bữa. Đói. Bình thường đã đói, lại cắt bữa. Hoa cả mắt. Sáng chủ nhật, hắn bốc một nắm cơm khô cho vào cái ca, bung lên. Thế là có thể cầm cự được đến bữa trưa. Nếu chiều thứ bảy tạt được nắm rau cải hay củ su hào, lại có thêm quả ớt xanh nữa thì cứ gọi là đại tiệc. Cay cay, mặn mặn, mát mát, bùi bùi, nóng bỏng môi, xụp xoạp vã mồ hôi. Phở Hói, phở Tư Lùn Hà Nội cũng chẳng thú bằng.
Cái ca của hắn bằng nhôm đúc, nửa lít, lợi hại lắm. Cái ca theo hắn vào xà lim ngay từ ngày đầu tiên. Hắn kiếm được một cái đinh gỉ cùn trong khi đi đổ bô, đem về xà lim mài nhọn, sáng loáng và khắc vào đít ca, chung quanh ca bao nhiêu chữ số. Đại loại như: 8-12-1968 (ý hắn muốn kỷ niệm tròn một tháng bị bắt), 3-7 (ý nói ngày sinh của hắn và ngày hắn cùng vợ hắn yêu nhau lần đầu tiên), 8-3-69 (ý hắn nói đã hết lệnh tạm giam bốn tháng đầu tiên, hắn hy vọng sẽ được tha)v. . v. . Cái ca dày có thể làm cối giã. Hắn đã giã cành rau sắng nấu canh (lá là thịt, cành là xương, ngọt nước lắm), giã lạc giống ăn cắp được trong khi gieo ở Đồng Mít, cho nước, muối vào, đun lên xăm xắp làm thức ăn mặn, kéo dài cuộc sống được một tuần.
Lỷ Xìn Cắm, dân lò bát Móng Cái, người Hoa mãi võ đã từng thí võ ở Hà Nội, tù trước hắn hai lệnh, suốt mùa hè cởi trần, lưng cánh phản nâu cháy, thích cái ca lắm:
- Ca này của A Tuấn tốt lắm đấy.
Xìn Cắm ngắm nghía cái ca rồi hỏi:
- Không có năp à?
- Không.
Thế rồi một hôm hắn thấy Xìn Cắm chân khuỳnh khuỳnh chữ bát đi lại chỗ hắn, mặt mũi râu tóc bạc trắng như Hemingway cầm trong tay cái nắp ca bằng sắt tráng men mất núm. Xìn Cắm bảo hắn:
- A Tuấn đưa ca đây.
Xìn Cắm cầm ca, ấp cái nắp vào, vừa khít. Đưa trả lại hắn cái ca có nắp, Xìn Cắm nở nụ cười trẻ thơ, nụ cười Hemingway, rồi lại khuỳnh khuỳnh chữ bát về chỗ mình nằm. Thật là một người đôn hậu và tuyệt diệu.
Nhược điểm của cái nắp là sứt núm. Dễ thôi, cuộn giấy lại nút vào là xong. Cương, toán lâm sản, mượn cái ca đi rừng. Khi trả lại, ca đã dược quấn mấy vòng dây điện bọc nhựa, để cách nhiệt, cầm đỡ nóng. Thật là hoàn chỉnh. Cái ca có nắp càng thêm lợi hại. Gọn, xếp được ba khúc sắn nục nạc. Một ngón tay đỡ nắp, rồi dốc ngược, quay đít ca lên trên, vung vẩy đi thì trông hệt cái ca rỗng. Cứ thế mà qua mắt quản giáo, trực trại, mang sắn vào buồng giam.
Nội vụ của hắn còn có cái cặp lồng. Một cái cặp lồng ác chiến. Cặp lồng trong tù giống xe đạp của cán bộ công nhân viên thời đó. Vừa là phương tiện đi làm, kiếm sống, vừa là tài sản. Có cái cặp lồng đi làm tha hồ sột sệt . Đốt đống lửa lên, ninh lá sắn non, luộc mấy cái ngồng cải, nếu tốt số tạt được một con cải bắp nữa thì bành
Có cái cặp lồng, nhiều khi không tạt được gì cũng bành. Bạn tù kiếm được củ khoai, nắm rau sắng, túi hạt gắm, chục con nhái, cần sột sệt mà không có gì dể nấu, thì cặp lồng của mình đây, cứ lấy mà dùng. Tất nhiên người chủ cạp lồng sẽ là khách mời trong danh dự (miếng ăn thật quí, nhưng hắn vốn rất trọng danh dự).
Ngoài việc sột sệt cho mình và cho thuê dịch vụ như cách nói hiện nay, cái cặp lồng còn để đựng nước, một thứ luôn luôn thiếu. Và cuối cùng, khi bí lắm thì chác . Cả một tài sản đấy. Được nhiều thứ lắm. Chỉ những anh có máu mặt, anh em toán lâm sản, toán chăn nuôi, toán nhà bếp mới đủ lực chác cặp lồng.
Cái cặp lồng của hắn lại là ngăn dưới cái cặp lồng Liên Xô. Có nắp, có quai xách. To, cao thành, dày. Rang không sợ cháy. Nấu xong bị nhọ, lấy cát đánh bóng loáng, không sợ mòn thủng. Đúng là loại Pơgiô đờ luých! Đờ luých mante!
Hắn còn có cả một cái bi-đông nhựa. Tất nhiên bi-đông nhôm nhiều công dụng hơn. Cấu búp chè xanh, nhét đầy bi-đông nhôm, cho nước vào, cời than ở đống lửa ra, đặt bi-đông lên. Chóng sôi lắm. Quản giáo cứ tưởng mình đun nước trắng thôi. Chè búp nấu nước uống ngon hơn chè già nhiều. Nước xanh ngắt. Anh em Cầu Giát, Ba Làng cũng gọi là "nạc chạt". Chất lừ đấy. Ngon hơn bất kỳ thứ chè xanh nào.
Nhưng bi đông nhựa cũng có công dụng. Nhất là loại bi-đông nhựa trắng mờ, sần sần như của hắn. Kín kín hở hở rất hay. Hắn đã yểm lạc ở đấy, bồng về. Lần ấy toán gieo lạc. Mỗi người ra lồ xúc một bát men lạc giống rồi đi theo từng luống. Hắn mặc hai quần dài. Quần dài bên trong được chít hai ống vào cổ chân. Chít chặt. Tím cả chân. Thế rồi vừa gieo vừa thót bụng, đổ lạc vào bụng.
Lạc tuồn qua bụng, qua đùi, xuống cái quần bên trong đã bị chít, giống như cách dân mình lấy gạo trong kho của Nhật năm đói 1945 mà hắn đã viết trong một tập sách.
Lần ấy, anh nào cũng kiếm được một hai ki-lô lạc giống. Nhưng tất cả đều bị thu khi về đến cổng trại.
Ai cũng bị khám. Khám cẩn thận, tỉ mỉ. Nắn cả người. Có lẽ anh em đánh hăng quá. Hoặc có ai bẩm . Giắt vào người: mất. Buộc vào khoeo chân: mất. Cho vào ống điếu: mất. Nhiều lạc quá. Đến nỗi ông Quân phải bảo nhà bếp lấy thêm lồ ra đựng lạc.
Hắn yểm lạc trong bi-đông nhựa, khoác tòn ten bên vai. Nhìn kỹ thì thấy bóng hột lạc nâu nâu qua lần nhựa mờ đấy. Nhưng các ông ấy không thể ngờ hắn lại có thể yểm một cách hớ hênh như thế. Các ông ấy không chú ý tới cái bi-đông nhựa, mà lại lục cặp lồng. lục bị của hắn, rồi nắn người hắn.
Hắn thoát. Mang được vào trại một bi-đông lạc giống, hột nào hột ấy tròn căng.
Sau lần ấy anh em khợp lạc ngay tại chỗ làm. Không nghĩ đến chuyện bồng về nữa. Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Ông quản giáo cho ngâm lạc giống vào nước phân loãng. Đành chịu.
Nội vụ của hắn còn có bộ đồ trà. Nói cho đúng cái ca con pha trà là của già Đô. Hắn chỉ có hai cái chén mắt trâu.
Khác với anh em trong tù toàn đắp chăn sợi, rét thì hai người đắp chung hai chăn, hắn có cái chăn bông to sù. Có lẽ đó là cái chăn bông duy nhất ở trại trung ương. Vợ hắn sợ hắn rét. Cũng phải kể thêm cái áo bông của hắn. Hai ki-lô! Gấp lại to gần bằng cái chăn bông. Thứ áo bông Trung Quốc chính hiệu. Cổ lông. Lần ngoài ka-ki xanh. Bông chần ngay vào lượt vải lót Anh Văn, anh ruột hắn, đi học thủy điện ở Vũ Hán, Trung Quốc, cho hắn. Dạo còn làm báo hắn đã mặc. Hắn gọi là áo ngự hàn. Mặc vào gió mùa đông bắc chỉ có khóc. Những ngày đại hàn chi cực, đi cơ sở lấy tin xong, trở về cơ quan đứng giữa đám phóng viên tím tái vì rét, hắn kéo phía sau áo bông lên bảo Bình:
- Kiếm cái quạt quạt hộ vào lưng với. Nóng quá. Rôm đốt. Ngứa hết cả người.
Cái áo bông vào xà lim với hắn một ngày. Chả là hắn bị bắt vào đầu mùa rét. Khi hắn từ xà lim chuyển sang BD cái áo bông được cả B mến.
Cứ chín giờ tối, kẻng cấm, đi nằm, cái áo bông ấy biến thành của công. Mỗi ca hai tiếng, hai người thức gác, họ mượn cái áo bông của hắn. Ngồi thu lu giữa sàn xi-măng lạnh lẽo, cửa gióng sắt trống hốc, gió thốc vào, khoác cái áo bông của hắn ấm hẳn lên. Cứ thế ca trước chuyền cho ca sau.
Khi lên các trại trung ương, mặc cái áo to rộng ấy, yểm thứ gì vào người cũng dễ. Hắn còn nghĩ được cả cách yểm cải bắp vào áo bông. Chọn cái cải bắp chặt, xinh, to bằng đầu người, xắt đôi ra, đút mỗi nửa vừa khít một tay áo bông. Rồi khoác lên vai (khoác chứ đừng mặc), đi qua trạm gác ngon lành.
Chẳng ai đi tù lỉnh kỉnh như hắn.
Khi nhìn thấy ông trực trại đi vào, theo sau là Chắt, một người tù chuyên làm việc khoá cửa, mở cửa các buồng giam, mọi người dừng tất cả các công việc. Lúc ấy cả toán vừa đi làm về. Hắn cất cặp lồng nước, phơi xong bộ quần áo ướt và nằm ngửa trên giường mệt nhọc. Hắn nhìn lên mái nhà, mắt trống không. Cạnh hắn, già Đô với bộ râu rễ tre dài tới ngực, lốm đốm hoa râm, người nhỏ thó, đang ngồi xổm soạn những ca, những ống bương đựng nước, những gói, những quần áo ướt mới giặt.
Anh em trong buồng giam, người đang phơi quần áo, người quay vào vách, về phía đặt nội vụ, soạn những thứ tạt được hoặc kiếm được trong lúc đi làm, chí ít cũng là vài lít nước múc ở ngoài suối. Người nhanh hơn đã nằm duỗi dài trên sàn. Tiếng lục cục của những phản gỗ kênh, tiếng giũ quần áo ướt, tiếng một anh thử cái nõ điếu mới khoét chóp chóp và cả vài tiếng rì rầm.
Họ đến.
Tất cả im lặng. Những người đã nằm, ngồi nhỏm dậy. Hơn trăm con mắt nhìn người công an áo vàng và Chắt, người tù số một của trại, nghĩa là người tù “thơm" nhất trại.
Hai người đi về phía hắn. Già Đô giấu vội ca rau, làm đổ cả bi-đông nước. Hắn và già Đô cùng quê nên bao giờ cũng nằm cạnh nhau và bao giờ cũng nằm tầng trên, chỗ sát cửa sổ, gần cửa ra vào. Nằm ở những chỗ như vậy, thoáng sạch hơn, lại xa nhà mét Có chuyển buồng bao giờ hắn cũng nhanh chân nhảy lên chiếm chỗ trước cho mình và cho già Đô. Rất nhanh hắn đã kịp ấn con dao mảnh, rộng bằng ngón tay và chiều dài cũng như vậy, xuống cái khe giữa vách và sạp gỗ. Nó rơi xuống tầng sàn dưới không một tiếng động kim loại, bởi vì chỗ ấy cũng lủng củng những nội vụ của Voòng Kỷ Mình, một anh tù tập trung cải tạo, đã ở đến lệnh thứ tư.
Ông trực trại và Chắt nhảy phắt lên tầng trên.
- Vừa giấu cái gì đấy?
Ông ta quát to, nhưng giọng không nhiệt tình.
Hắn lễ phép:
Thưa ông, không.
Mặt hắn tỉnh bơ. Hăn nói dối thần tình. Vào tù hắn đã học được hai điều: ăn cắp và nói dối. Không ăn cắp vẫn sống được đấy. Nhưng khổ. Và buồn nữa.
Nếu không có cái lo lắng hồi hộp của việc ăn cắp và bồng của ăn cắp được về trại, thì buồn lắm, buồn không chịu nổi. Sung sướng biết bao khi mình vẫn lấy cắp và mang được về trại tất cả, vượt qua vòng kiểm soát nghiêm ngặt của các ông quản giáo. Ăn cắp với hắn còn có nghĩa phản kháng, tuy sự phản kháng đó hơi nguy hiểm. Nó dẫn tới kỷ luật, cùm xà lim, ăn cháo loãng.
Và nếu ăn cắp, nếu vi phạm nội qui, họ không bắt được quả tang thì chối. Chối phắt. Con dao, đó là sự vi phạm nội qui nặng đấy, dù chỉ lâ một mảnh sắt tây được mài sắc, dể cắt một cây rau cải nhổ trộm được, hay gọt vỏ một mẩu sắn chạy nhựa xanh lè vớ được trong rừng, chuột, sóc ăn nham nhở.
Ông quản giáo đứng trên tầng trên, đầu gần chạm cái giá dài làm bằng những cây nứa, một kiểu xích-đông chạy suốt phòng giam, trên ấy anh em tù để một phần nội vụ.
Chắt làm nhiệm vụ của mình. Chắt bắt đầu lục, giở tung nội vụ của hắn. ông quản giáo đứng nhìn, mặt nghiêm khắc. Không biết ông quản giáo có nhớ hắn không. Chứ hắn thì nhớ ông. Bởi thế nên hắn rất sợ ông. Với ông mọi việc đều có thể xảy ra


--------------------
-------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Replies
PhuDung
post Dec 20 2014, 01:55 PM
Post #2


Bảo vệ tổ quốc
***

Group: Năng Động
Posts: 2,169
Joined: 17-December 08
Member No.: 1,269
Country



Chương 7

Già Đô lúc đó mới dậy hút. Hút thuốc lào đêm không cần kéo cho kêu. Chỉ hạ điếu dể điều chỉnh mức nước điếu là sẽ có tiếng kêu vừa phải. Già Đô lo cho hắn. Già không nói, nhưng hắn biết. Sự im lặng của già cũng là một lời động viên, một sự chia sẻ. Già là công nhân kỹ thuật của một xí nghiệp cơ khí, cũng bị đưa lên QN với hắn một lần. Tới QN hắn với già Đô cùng về một toán: toán tăng gia. Hắn làm đơn kêu oan, già Đô cũng làm đơn kêu oan. Nhưng không ai nói với ai. Hắn không biết già mắc tội gì. Chỉ biết khi từ 75 ra đi, già mày râu nhẵn nhụi. Lên đây già bắt đầu để râu. Mãi về sau, khi thân nhau, hắn mới biết già Đô đã lang bạt nhiều nơi đến thế. Già là một lính thợ Pháp quốc trong đại chiến thế giới thứ hai. Từ Pháp già đã tới Algérie, Maroc (cái lý lịch ấy thật tai vạ cho già). Già đã là thợ đốt lò dưới con tàu Commerce Maritimes thuộc hãng Đầu Ngựa. Hải Phòng - Marseille là hành trình những năm tuổi trẻ của già. Làm được hai năm già thôi việc. Chỉ vì già không chịu được những lời mắng nhiếc của chủ, những “Cochon! ” , những “Espèce dandouille" từ miệng những người Pháp mỗi khi già làm chưa vừa mắt bọn chúng. Già nắm chặt cán xẻng, mắt long lên:
- Ông không được phép sỉ nhục tôi
Già bỏ tàu lên thành phố Marseille. Vào quán rượu quen. Uống. Uống nhiều. Và không trở về tàu nữa. Lang thang ở Marseille cho đến đồng frăng cuối cùng, già tìm được việc làm trong một xưởng sửa chữa xe có động cơ. Từ xe gắn máy, các loại ô-tô tới xe nâng, cần cẩu. Tại đây già bị động viên vào một đơn vị cơ giới. Già sang Maroc, Algérie, vẫn làm nhiệm vụ sửa xe.
Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc. Già trở về Marseille. Trở về xưởng cũ. Lấy vợ. Cô Jeannette bán hoa quả ở gần bến cảng lớn bổng lên khiến già ngỡ ngàng, xao xuyến. Hai vợ chồng vay vốn mở một tiệm rượu nhỏ. Khách là những người phu pooc-tê, những thuỷ thủ, những người thợ nhan nhản ở thành phố Marseille.
Rồi già biết quê nhà đã được độc lập. Niềm sung sướng lớn lao và nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu biệt xứ bỗng cồn cào trong lòng không chịu nổi. Càng không chịu nổi khi biết tin hiệp nghị Genève đã ký kết. Một nửa đất nước được độc lập. Lại thêm thôi thúc vì chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đất nước là người từng lâu năm ở Pháp, cũng từng là một mạch-lô. Già về nước. Khi đó bà. Jeannette đã sinh cho già một cô con gái xinh đẹp, có nước da trắng của bà, có mái tóc và đôi mắt đen của già Đô. Mặc bà vợ khóc can ngăn, già nhất định về nước. Rồi già sẽ sang đón bà về. Độc lập rồi, xây dựng sẽ rất nhanh. Đất nước sẽ phát triển rất nhanh. Dân tộc ta thông minh, cần cù, chiu khó lại được bao nước giúp đỡ. Đất nước đang cần những bàn tay như già.
Già vào làm ở xí nghiệp cơ khí T. Đó là những ngày hạnh phúc. Già bảo vậy. Khi đó xí nghiệp được phục hồi từ một cơ sở cũ của Pháp. Điều mấu chốt là phải có việc làm, phải có dược hợp đồng sản xuất đầu tiên. Vận may đã đến với xí nghiệp.
Giám đốc đi cùng với già trên chiếc xe Java 05 lên Thái Nguyên. Già đã bỏ một ngày xem xét, sửa chữa chiếc xe tòng tọc này đạt mức tốt nhất. ở đó có một nhà máy giấy cần được khôi phục. Đi lên suôn sẻ. Công việc thì hơi kinh. Nhà máy giấy bị bom. Các bộ phận hoen gỉ rải rác trong rừng, lẫn với cây cối. Người ta hỏi giám đốc của già:
- Các anh làm được không?
Già không biết giám đốc trả lời thế nào vì già quá biết máy cái máy tiện cổ lỗ của xí nghiệp. Nhưng giám đốc cười khì.
- Có gì mà không làm được. Nhà máy tôi là nhà máy cơ khí mà. Rỗi, mời các anh xuống tham quan xí nghiệp.
Thật đúng là khẩu khí của một giám đốc, một người thợ công binh xưởng.
Tìm được việc làm, hai người phấn khởi phóng xe về. Chiếc Java 05 không phụ công già sửa lăn nhanh trên con đường bụi đất đỏ. Tới thị xã Thái Nguyên già bị công an huýt còi, kiểm tra bằng. Cả hai người đều không có bằng và cũng không có tiền nộp phạt.
Vét các túi chỉ còn sáu hào. Ngồi trong đồn công an, giám đốc bảo họ:
- Các anh còn giữ chúng tôi lâu thì cho chúng tôi báo cơm.
Sự việc không biết ra sao, nếu không có một anh công an đi xe máy Terrot hai ống xả về đồn. Nhìn chiếc xe phụt khói và nghe tiếng máy giảm từ từ trước khi dừng hẳn, già Đô bảo:
- Xe bị rơ séc-măng. Xăng xuống không đều. Ga kẹt.
Anh công an xuống xe nhìn già, ngơ ngác:
- Đúng. Xe đi chậm bị gằn. Cứ phải phóng nhanh mới êm. Sao bác biết?
- Nghe tiếng tôi biết. Để tôi sửa cho.
Già lấy dồ nghề mang theo ra. Họ xúm lại quanh già, thành kính nhìn những động tác của già, thành kính nhìn già tháo gỡ, vặn siết các bộ phận máy.
Ssau vài lần nổ thử, già nhảy lên xe, phóng chậm và tăng ga đi về cuối phố. Rồi già trở lại, già lượn vòng số 8, già chồm xe vượt qua một cái rãnh nhỏ và đột ngột khựng lại. Đó là những trò thông thường của các chàng sửa xe ở Marseille.
- Được rồi đấy. Nhưng khói vẫn đen. Phải thay séc-măng. Khi nào có tôi thay cho.
Cả đồn công an tròn xoe mắt nhìn già, kính phục một người thợ lành nghề, một diễn viên xiếc tài ba trong nghề lái mô-tô. Họ cảm ơn và mời hai người khách ra về, không quên dặn:
Lần sau đi nhớ mang bằng lái xe, hai bác nhé”.
Còn sáu hào. Mỗi người một bát phở trâu trên dọc đường di.
Công việc khôi phục nhà máy giấy bắt đầu. Xí nghiệp cơ khí T sống lại: Già nhận phần khó khăn nhất: Khôi phục nồi hơi của máy xeo giấy. Già thử áp lực nồi hơi bằng nước. Già "bút-sê" những lỗ thủng vì mẫnh bom bằng đồng đỏ...
Mấy năm sống gian khổ, nhưng già sung sướng vì đã toại nguyện. Già đã dược làm việc cho Tổ quốc.
Ông giám đốc rất quí già. Nhưng rồi ông giám đốc chuyển di. Ông Phin giám đốc mới, từ Sở chuyển về.
Những năm tháng nặng nề của già bắt đầu.
Muốn tạo nên một không khí hoàn toàn mới, ông giám đốc Phin xét nét những người mà ông cho là thân cận với ông giám dốc cũ. Già Đô cũng nằm trong diện ấy. Nhưng già không quan tâm, già nghĩ: Già chỉ muốn làm việc. ông giám đốc nào mà chẳng muốn người dưới quyền làm việc. ít họp công doàn, không chịu viết bích báo, già bị nhận xét là chuyên môn thuần tuý. Cái lý lịch đi lính cho Pháp hẳn có một tác dụng quan trọng khác nữa. Không được là đốc công, già bị chuyển về tổ cơ điện làm thợ, với lý do đó là một ngành quan trọng: "Khâu yếu hiện nay, phải tăng cường đề chuẩn bị tốt cho sản xuất". Người thay già nhận chức đốc công là cháu ông Phin mới thợ bậc bốn.
Già không quan tâm dến điều ấy. Già cũng không quan tâm đến chuyện ông Phin có xe đạp phân phối rồi lại nhận phiếu mua xe đạp phân phối nữa, mà là chuyện ông lấy sắt thép trong xây dựng cơ bản về xây một căn nhà cho ông. Chính ông trưởng ngành cơ điện biết rõ xe ô-tô chở sắt thẳng từ kho kim khí về nhà ông. Dư luận xì xầm, nhưng không ai dám nói. Họp ngành, già nêu ý kiến. Không ai hưởng ứng già, mặc dù ngoài cuộc họp họ rất ủng hộ già. Hội nghị công nhân viên chức, già nêu vấn đề. Không ai giải quyết. ông giám đốc kỷ luật già vì tội đã vu cáo ông ta. Ông chuyển già đi dọn nhà tiêu, quét xung quanh khu làm việc, hạ xuống bậc lương khởi điểm. Già kiện lên Sở. Ông giám đốc Sở, một thành uỷ viên, bác đơn của già. Già bị đuổi việc và cũng bị đuổi luôn khỏi chiếc giường một trong khu tập thể.
Không có gia đình, già bơ vơ.
Già đấu tranh theo kiểu Pháp: Làm một cái biểu ngữ. Ngồi ngay cổng xí nghiệp. Tay cầm biểu ngữ. Chữ kẻ trong miếng gỗ dán vuông, có cọc cắm ấy là: Phản đối giám đốc xí nghiệp T vô cớ sa thải công nhân.
Thế là già vào 75. Già lên QN. Trong tù già cô đơn như ngoài đời già cô đơn. Một hôm xếp hàng đi làm, nhớ đến một bài thơ của Vũ Hoàng Chương, hắn khe khẽ dọc. Già ngồi phía trước quay lại:
- Vẫn yêu đời nhỉ?
Đến lúc ngồi nghỉ ở bờ suối, hắn hát một mình bài hát hồi hắn học tiểu học, không hát mà ư ủ trong cổ thành nhịp điệu:
Liberté. Liberté chérie
à toi. mon coeur
à toi, ma vie
Thế là già hát thành lời. Tất nhiên là lời Pháp. Già không biết Lê cũng có mặt ở dó. Lê còn trẻ, chưa dến ba mươi, mặt trái xoan, nhưng nhiều trứng cá quá. nên trông cứ thâm sì. Mắt sắc, cứ đảo quanh. Thông minh hay gian giảo. Có lẽ gian giảo nhiều hơn. Lê cũng từ 75, từ bê dê với hắn chuyển lên. Lê là tù án. Một lịch. Về tội gì Lê không nói. Nhưng khi Lê nhận cáo trạng, anh em giật lấy xem và biết tội của Lê: Đột vòm vào nhà các cô gái công trương ăn cắp hai va-li quần áo (họ ghét còn nói là hai va-li ấy toàn xi-líp diềm bâu và vải màn hành kinh).
Lê bị cả bê dê ghét. Trong những buổi học tập về tội lỗi, về chính sách cải tạo nhân đạo của Đảng, hễ Lê bắt đầu ngồi thẳng lưng và liếm môi là bọn hắn biết Lê sắp phát biểu. Lê liếm môi trên, liếm môi dưới mấy cái liền như kiểu tra dầu mỡ trước khi vận hành máy. Sau đó bọn hắn chờ động tác thứ hai: giơ tay. Cách Lê giơ tay nó dứt khoát, tin tưởng với một ngón tay trỏ chỉ ra phíà trước và bốn tiếng kèm theo rết nhmh: "Tôi có ý kiến".
Lê nói. Bây giờ mới là giai doạn cơ bản trong trong noi khiếp sợ của bọn hắn. Lê nói. Lý luận. Thực tiễn. Sự nhân đạo. Tội lỗi của phạm. Thái độ trong chúng ta. Sự thành khẩn. Chỉ có một con đường. Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ ch. ạy lại. Ngày xưa kim ngân phá luật lệ. Nén bạc đâm toạc tờ giấy. Bây giờ pháp luật nghiêm minh. Trị bệnh cứu người. Con người là vốn quí nhất. Tính nhân đạo. Tính ưu việt. Công ơn Đảng, Bác. Tội lỗi cllúng ta. Quân giải phóng Miền Nam anh dũng hy sinh. Miền Bắc cánh đồng năm tấn. Tương lai xán lạn.
Lê nói dài. Nhiều. Đúng. Thông suốt. Cháo chảy.
Bọn hắn nghe và nhìn vào môi Lê. Hễ Lê còn liếm môi thì bài diễn văn của Lê còn...
Mắt Lê đăm đăm nhì vào đám thính giả vô hình. Buổi học tập nào Lê cũng nói ngần ấy điều như vậy Có lẽ người ta cũng ngờ ngợ rằng Lê đã thấm nhuần, Lê ăn năn hối hận, nếu không có một sự việc xảy ra: Lê yểm một cải bánh mì trong lúc chia. Thế là màn kịch của Lê đổ nhào. Bị xử một gậy , Lê kêu nặng quá. Và Lê mong dược ở lại 75. Thế nhưng Lê lại phải đi trại Trung ương. Lê cay cú lắm. Lê đi trươc hắn. Hắn gặp lại Lê ở QN, cùng toán. Lê lao dộng hăng. Tích cực bẩm, sớ. Để được giảm án. Lê đã bóp cổ Voòng Kỷ Mình để Voòng Kỷ Mình lè ra khỏi miệng quả vải thiều vừa tạt được, nhưng chưa nuốt trôi xuống cổ. Lê cầm quả vải ướt nhoe nhoét ấy đi báo cán bộ.
Già Đô hát bằng tiếng pháp trước mặt Lê có nghĩa là trước mặt cán bộ. Già bị gọi lên giáo dục: Không được nói tiếng nước ngoài. Nói tiếng nước ngoài là phạm nội qui.
Già cãi: Tôi không nói chuyện bằng tiếng nước ngoài. Tôi chỉ hát vài câu tiếng Pháp thôi. Thế còn anh em người dân tộc nói tiếng Hoa thì sao?
Già cãi rất có lý. Đúng là anh em người dân tộc toàn nói với nhau bằng tiếng Hoa. Đến nỗi hắn cũng thuộc những câu như: "Kỷ tố tỉm" (mấy giờ rồi) “Thủ ngồ mẩu kéng là chà" (đói không sợ bẩn) "Cổi trầu hẩu, tắc kin mìn nhị xập xây tỉm, tỉu háy cái lẩu phồ" (cải tạo tốt, được gặp mặt hai bốn tiếng, ngủ với vợ). Đó là những câu ngồi nhổ cỏ xọng lên cho vui. Và những câu chửi "Tỉu cái nẩu nả, tỉu cái nẩu mủ. . “.
Cái lý ấy của già khiến già bị phạt. Ba ngày xà lim, hạ mức ăn xuống chín ki-lô. Già đã hiểu cái điều hắn hiểu từ trước, nhưng chính hắn cũng không thực hiện được: Đừng cãi lý với kẻ mạnh. Kỳ ấy hắn mới nhận tiếp tế. Hắn tặng già Đô mấy suất cơm để già Đô ăn thêm, còn lại phơi khô. . Đó là một hành động cho máu. .
Thế rồi tình cờ, già Đô với hắn nằm cạnh nhau khi chuyển buồng. Hắn với già ăn chung. Để bù lại những thứ già được hưởng của hắn, già tích cực tạt. Và già để râu. Có lẽ già hiểu cái thứ dấu tranh kiểu Pháp ấy hại già. Để râu có lợi hơn. Có thể vì thế mà chóng được về cũng nên.
Râu già Đô mọc nhanh. Dài và hoa râm. Tóc già rễ tre. Râu già rễ tre. Chô râu mép lại được hai chòm lông mũi nhọn hoắt cũng rễ tre và cũng hoa râm xông ra chi viện. Khi ăn râu mép, râu cằm, lông mũi trông đến buồn cười. Già rất giữ ý. Già chỉ ăn một ít những thứ tiếp tế hắn lấy ra, mặc dù già tạt được kha khá. Già có thể nướng khoai ngay trước mặt cán bộ mà cán bộ không biết. Già kiếm dược cả quả bí xanh gọt vỏ đưa cho hắn xuống suối ăn sống, mát ruột suốt nửa ngày. Chiến công lớn nhất của già là già đã tóm gọn dược một con rồng đất, to bằng cổ tay. Già đang làm thịt một con chão chuộc ở dưới suối thì có tiếng động ngay dưới tảng đá cuội lớn già ngồi. Già ngó xuống: Một con rồng đất. Già vồ hụt. Nó chạy nhanh. Chạy như kiểu thằn lằn và nó chắc cũng là một loại thằn lằn, nhưng có vây lưng từ gáy xuống tới đuôi. Tóm lại: Một chú khủng long bé tý và nhanh nhẹn. Già đuổi, nó leo lên cây. Bò rất nhanh. Tới lưng chừng, nó dừng lại, ngỏng cổ lên nghe ngóng. Già Đô bám vào thân cây leo lên. Thấy động, con rồng đất leo lên cao nữa.
Anh tù nuôi ong Nông Văn Thắng, người Tày, đang đi tìm những tổ ong rừng, bắt về gây đàn cho trại, khi đó cũng có mặt. Anh kêu to:
- Đừng lên, nó chuyển sang cây khác mất dấy. Thắng rời gốc cây trong đó có những con ong bay vụt ra. Thắng huýt sáo. Con rồng đất ngỏng cổ lên nghe. Thắng bảo:
- Giống này, cứ huýt sáo là nó đứng yên cho bắt.
Nhưng không ai có thể leo lên cành cây chót vót. Thắng giúp già Đô làm cái thòng lọng. Anh chặt một cây nứa dài vót phần ngọn dẻo, làm một cái tròng. Già Đô cầm cây nứa leo lên. Vừa leo vừa huýt sáo. Hoá ra già Đô huýt sáo trong và rất hay.
Liberté, Liberté chérie!
à toi, mon coeur
à toi, mạ vie
Đó là khúc hát về tự do đã đưa già tới kỷ luật. Nhưng lúc này già chỉ huýt sáo, chứ không hát lời. Nghe tiếng sáo, con rồng đất ngây ra. Đến khi già Đô đứng vững trên một cành cây, giơ cái thòng lọng lên cao hơn đầu con rồng đất thì già không huýt sáo được nữa. Già nín thở. Thế là tất cỉ anh em dưới đất đều huýt sáo. Như một bầy hoạ mi. Chỉ trừ Lê, Lê không thèm nhìn già Đô, không thèm nhìn con rồng. Lê nhìn vào hốc cây nhỏ bên suối, nơi những con ong thợ từ đấy bay vụt ra. Lê lẩm bẩm:
- Tổ này phải bao nhiêu là mật. Ngày nào mình cũng đi qua mà không biết.
Không ai để ý đến Lê. Tất cả đều dẩu mồm ra huýt sáo và nhìn lên già Đô, nhìn lên cái thòng lọng đang hạ dần xuống, run run, đảo dảo trên đầu con vật nó vẳn ngây ra nghe tiếng nhạc!
- Được rồi!
Tiếng reo đồng thanh như tiếng những người xem bóng đá khi bóng vào lưới.
Con vật giãy giụa. Già Đô tròng tuyệt diệu. Đúng cổ. Già thả chúc cái tròng xuống. Thắng đỡ lấy cây nứa.
Thịt con rồng đất trắng nõn, hai thăn lưng tròn chắc như thăn lợn. Trông thế mà gần miệng cái ca của hắn. Khi làm lòng, già còn bắt được mấy con cua cắp vào lòng. Thắng lợi thật giòn giã. Hai người ăn được ba ngày. Họ không mời Thắng. Họ biết Thắng chẳng thiếu gì. Mật ong với Thắng là thứ bình thường. Cả trứng gà nữa. Da Thắng đỏ au. Khi từ Q.N chuyển lên VQ, hắn và già Đô cùng chung một cái khoá tay. Chia nhau mỗi người một nửa chiếc còng số 8. Hắn tay phải, già Đô tay trái. Không biết đi đâu, vì sao phải đi. Đến cuối thị trấn, xe dừng cho anh em tù đi đái. Cứ đôi một nhảy xuống. Hắn và già Đô "hai ba nào" nhảy rất đều. Nếu lệch nhau, kéo nhau ngã dúi, còng số 8 cắt vào đến xương.
Trải qua thử thách năm tháng, hắn biết già Đô quí hắn. Già không ngủ được cũng vì lo cho hắn. Hắn động viên lại già:
- Không có chuyện gì đâu. Cụ cứ yên tâm.
Hắn hút một điếu nữa, lần này được kéo thoải mái, rồi nằm xuống. Già Đô cũng nằm. Lẻ tẻ mấy người nữa dậy hút thuốc hoặc vào nhà mét. Anh em nằm im đấy thôi chứ ít người ngủ được.
Những đêm mất ngủ trong tù thật khủng khiếp. Còn những điều gì không nghĩ đến. Cả những chi tiết hồi còn bé tí tưởng đã quên hẳn rồi bỗng vụt sống lại. Như hắn đã nhớ tới một sáng mồng năm tháng Năm, ngủ dậy thấy trời mưa mà hắn buồn mãi. Hắn nghĩ ngay: Phải giết sâu bọ trong nhà, ăn chè đỗ đen trong nhà, không được ra ngoài sân. Hắn còn nhớ rõ cái sân sáng hôm đó. Rơm tươi ướt đẫm nước mưa. Cây dâu ở phía góc sân cũng thế.
Hắn gọi mẹ, chìa mười dầu ngón tay, mười dầu ngón chân về phía mẹ. Hắn rút những cuốn lá ở các đầu ngón tay, đầu ngón chân ra. Móng tay móng chân hắn đỏ lừ. Có một cuộn lá rơi ra trong lúc ngủ. Ngón ấy không đỏ bằng các ngón khác. Thôi cũng được. Mẹ hắn cầm bàn tay bé xní của hắn ấp lên mặt. Hắn ôm lấy mẹ.
Đêm nay hắn lại nhớ tới buổi sớm Tết Đoan ngọ ấy. Mẹ ơi. Mẹ chẳng ngờ con lớh lên lại đến nông nỗi này. Phía sàn bên kia có tiếng "xạch". Dưới ánh lù mù của ngọn đèn không thông phong ở cửa nhà mét, khói nhiều mà sáng ít, hắn thấy Hợp khe khẽ vén màn đứng lên. Rồi tiếng xuýt xoa, thất vọng của Hợp "Bé quá! " Cái bẫy chuột của Hợp đã sập. Cái bẫy làm bằng miếng gỗ con, với một khúc dây thép uốn có lò xo. Hợp đặt trên giá, lẫn vào đám nội vụ. Không biết Hợp lấy gì làm mồi?
Lâu lắm lại thấy "xạch" một cái nữa. Rồi lại tiếng Hợp thất vọng một mình: “Bé quá". Làm gì có chuột to. Chuột to đã bị Dự bắt chén hết rồi. Chạy vun vút trên giá là những con chuột nhắt. Con nhỏ lông xám và con to lông vàng hươm. Hắn nghĩ cũng có thể Hợp bẩm thật. Hợp khổ quá. Vợ Hợp đã bỏ Hợp. Chẳng còn ai lên tiếp tế. Hợp đét. Hợp meo. Ngay thuốc lào cũng gay. Hắn không hiểu làm sao Hợp vẫn có thuốc lào hút. Trong khi ấy hắn nhận tắc. Tiếng giở các túi ni-lông đựng thức ăn cứ loạt soạt loạt soạt ở chỗ hắn làm Hợp không chiu được. Có thể thế.
Lại có tiếng "xạch". Bẫy lại sập. Và tiếng Hợp reo khe khẽ: "Đây rồi". Có lẽ đã nửa đêm”. Báo cáo. Tôi, Nguyễn Văn Tuấn, số tù CR880, dậy đi đái". Hắn vào nhà mét. Khai cay mũi, chảy nước mắt. Nhà mét ngày nào cũng cọ rửa, nhưng anh em về chỉ một tiếng là đã khai cay mắt. Hắn nhắm mắt, nín thở, đái, co bụng lại mà đái cho nhanh. Cái mùi khai thật khó tả: Nó đặc sếnh, có thể bốc vào tay được. Nó có gai cứa vào lỗ mũi, chọc lên óc như kim loại. Như rắc ớt vào mắt. Sau này đi làm, hắn đã ngửi lại mùi nhà mét ở xí nghiệp. Đó là mùi trong nhà máy lạnh bị bục ống ga. Có công nhân đã ngất ngay tại chỗ. Thợ sửa chữa vào đó phải đeo mặt nạ.
Mùi a-mô-ni-ắc.




--------------------
-------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Posts in this topic
PhuDung   Chuyện kể năm 2000   Dec 20 2014, 01:44 PM
PhuDung   Chương 2 Cách đây khoảng nửa năm, nghĩ...   Dec 20 2014, 01:47 PM
PhuDung   Chương 3 Đã hơn bốn tháng kể từ ngày...   Dec 20 2014, 01:48 PM
PhuDung   Chương 4 Buổi chiều hôm ấy cũng như ba...   Dec 20 2014, 01:50 PM
PhuDung   Chương 5 Mọi người lặng lẽ trở về,...   Dec 20 2014, 01:51 PM
PhuDung   Chương 6 Đêm ấy hắn không ngủ được...   Dec 20 2014, 01:53 PM
PhuDung   Chương 7 Già Đô lúc đó mới dậy hút. ...   Dec 20 2014, 01:55 PM
PhuDung   Chương 8 Cả trại vừa "đánh đồng...   Dec 20 2014, 01:55 PM
PhuDung   Chương 9 Hôm ấy là mồng ba tháng Tư nă...   Dec 20 2014, 01:56 PM
PhuDung   Chương 10 Khu văn phòng trại trong, nghĩa ...   Dec 20 2014, 01:56 PM
PhuDung   Chương 11 Từ hai căn nhà lợp lá cọ hì...   Dec 20 2014, 01:56 PM
PhuDung   Chương 12 Bữa cơm tự do đầu tiên của...   Dec 20 2014, 01:57 PM
PhuDung   Chương 13 Cuối tháng 9 -1954, hắn đã là...   Dec 20 2014, 01:57 PM
PhuDung   Chương 14 Hắn vẫn hình dung ngày trở v...   Dec 20 2014, 01:58 PM
PhuDung   Chương 15 Nằm trên cái giường của Phư...   Dec 20 2014, 01:59 PM
PhuDung   Chương 16 Hắn không ngờ phải đứng ch...   Dec 20 2014, 01:59 PM
PhuDung   Chương 17 Hắn nhớ lại tất cả. Hà N...   Dec 20 2014, 02:00 PM
PhuDung   Chương 18 Hắn thở dài. Hắn thở dài tr...   Dec 20 2014, 02:00 PM
PhuDung   Chương 19 Sớm hôm sau, hắn ra Bến Nứa....   Dec 20 2014, 02:01 PM
PhuDung   Chương 20 Hắn đã về đến P. Tàu hỏa ...   Dec 20 2014, 02:01 PM
PhuDung   Chương 21 Thế là cuối cùng hắn đã v...   Dec 20 2014, 02:01 PM
PhuDung   Chương 22 Lẽ ra hắn đã được về nhà...   Dec 20 2014, 02:02 PM
PhuDung   Chương 23 Hắn lại bước vào 75. Lần th...   Dec 20 2014, 02:02 PM
PhuDung   Chương 24 Về lại 75 lần ấy, hắn nhớ...   Dec 20 2014, 02:03 PM
PhuDung   Chương 25 Buổi chiều định mệnh đã đ...   Dec 20 2014, 02:06 PM
PhuDung   Chương 26 Bữa cơm đầu tiên hắn ăn v...   Dec 20 2014, 02:06 PM
PhuDung   Chương 27 Bữa ăn không ăn cũng no, nhìn ...   Dec 20 2014, 02:07 PM
PhuDung   Chương 28 Buổi tối. Hắn ở nhà hắn bu...   Dec 20 2014, 02:08 PM
PhuDung   Chương 29 Hình như có ai vào màn của h...   Dec 20 2014, 02:08 PM
PhuDung   Chương 30 Họ nằm bên nhau im lặng. Lắn...   Dec 20 2014, 02:09 PM
PhuDung   Chương 31 Cái dốc xoai xoải bến Tắm n...   Dec 20 2014, 02:09 PM
PhuDung   hương 32 Trong tù hắn nghĩ tới căn buồ...   Dec 20 2014, 02:10 PM
PhuDung   Chương 33 Cả nhà đã ngủ. Ngọn đèn tr...   Dec 20 2014, 02:10 PM
PhuDung   Chương 34 Hắn ở nhà ba ngày. Ba ngày ấ...   Dec 20 2014, 02:11 PM
PhuDung   Chương 35 Những ý nghĩ bi quan nhất rồi...   Dec 20 2014, 02:11 PM
PhuDung   Chương 36 Hắn đến đồn đúng giờ. Cá...   Dec 20 2014, 02:12 PM
PhuDung   Chương 37 Đã mấy chục năm trôi qua kể...   Dec 20 2014, 02:12 PM
PhuDung   Chương 38 Cái cảm giác chán ngán của h...   Dec 20 2014, 02:13 PM
PhuDung   Chương 39 Việc gia công ấy khi có khi kh...   Dec 20 2014, 02:13 PM
PhuDung   Chương 40 Ngọc bảo hắn: - Sắp dán túi...   Dec 20 2014, 02:14 PM
PhuDung   Chương 41 Vạn vật biến chuyển. Đúng n...   Dec 20 2014, 02:14 PM
PhuDung   Chương 42 Không ai hiểu được như hắn ...   Dec 20 2014, 02:15 PM
PhuDung   Chương 43 Thỉnh thoảng Len lại cùng vớ...   Dec 20 2014, 02:15 PM
PhuDung   Chương 44 Cái khoản ba mươi đồng, tiề...   Dec 20 2014, 02:16 PM
PhuDung   Chương 45 Hệt như cuộc chiến tranh Tây ...   Dec 20 2014, 02:16 PM
PhuDung   Chương 46 Cái hợp tác xã làm miến chín...   Dec 20 2014, 02:17 PM
PhuDung   Chương 47 Suốt thời gian loay hoay lo tài ...   Dec 20 2014, 02:17 PM
PhuDung   Chương 48 Mỗi nghề đều có chuyên môn ...   Dec 20 2014, 02:18 PM
PhuDung   Chương 49 Cái cơ chế thị trường tự p...   Dec 20 2014, 02:18 PM
PhuDung   Chương 50 Họ ngồi đối diện trong một...   Dec 20 2014, 02:19 PM
PhuDung   Chương 51 Hắn không ngờ đơn của hắn ...   Dec 20 2014, 02:19 PM
PhuDung   Chương 52 Già Đô xuất hiện ở hành lan...   Dec 20 2014, 02:20 PM
PhuDung   Chương 53 Già Đô tự nhận hết về ph...   Dec 20 2014, 02:20 PM
PhuDung   Chương 54 Sau này, ôn lại những kỷ ni...   Dec 20 2014, 02:21 PM
PhuDung   Chương 55 Trước khi gặp già Đô lần cu...   Dec 20 2014, 02:21 PM
PhuDung   Chương 56 Tiếng lành đồn xa. Chuyện h...   Dec 20 2014, 02:22 PM
PhuDung   Chương 57 Hắn không thể chấp nhận đi...   Dec 20 2014, 02:22 PM
PhuDung   Chương 58 Thế là hắn đã bị bịt kín ...   Dec 20 2014, 02:23 PM
PhuDung   Chương 59 Tôi tin lời ông bác sĩ nào đ...   Dec 20 2014, 02:23 PM
PhuDung   Chương 60 Rừng lại đang ở trước mặt...   Dec 20 2014, 02:24 PM
PhuDung   Chương 61 Khi đi qua cây vả mọc bên su...   Dec 20 2014, 02:24 PM


Reply to this topicStart new topic
2 User(s) are reading this topic (2 Guests and 0 Anonymous Users)
0 Members:

 



Lo-Fi Version Time is now: 8th July 2024 - 04:41 AM