Welcome Guest ( Log In | Register )

18 Pages V   1 2 3 > » 

BichDu
Posted on: May 21 2012, 03:59 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278









Khánh Ly: Đa đoan một kiếp cầm ca


Khánh Ly hát hay, Khánh Ly nổi tiếng, nhưng cuộc đời thì sao? Câu trả lời là: Tài hoa cũng lắm, đa đoan cũng nhiều! Tài hoa thì do thiên phú. Còn đa đoan thì hầu như do Khánh Ly chọn lựa.
Khánh Ly là nghệ danh được ghép từ tên của hai nhân vật lừng lẫy trong truyện "Đông Chu Liệt Quốc": Khánh Kỵ và Yêu Ly. Nhưng xem ra, cách sống và xử sự của Khánh Ly chẳng giống chút nào với hai con người khí khái này.
Chào đời tại Hà Nội vào năm đói Ất Dậu (1945), tên cúng cơm của Khánh Ly là Nguyễn Thị Lệ Mai, bạn bè thương gọi là "Mai Đen". Được trời ban cho một chất giọng đặc biệt, 9 tuổi Khánh Ly đã bước lên sân khấu tham gia một cuộc thi ca hát với ca khúc "Ngây thơ", nhưng chẳng nhận được một thứ hạng đáng kể nào cả. Năm 1956, sau khi theo gia đình vào định cư tại Đà Lạt, Khánh Ly đã tham gia cuộc thi hát nhi đồng, do Đài phát thanh Pháp Á tổ chức tại Sài Gòn. Với nhạc phẩm "Ngày trở về" của Phạm Duy, Khánh Ly đoạt được giải nhì. Mãi đến năm 1962, Khánh Ly mới thật sự bước vào đời ca hát chuyên nghiệp tại phòng trà Anh Vũ trên đường Bùi Viện, Sài Gòn. Chưa có tiếng tăm gì, khó cạnh tranh, chỉ một thời gian ngắn, Khánh Ly phải quay về Đà Lại hát cho một vài hộp đêm tại đó.
Mãi đến năm 1967, Khánh Ly mới thật sự nổi tiếng. Cô nhanh chóng chinh phục được người nghe bằng dòng nhạc của Trịnh Công Sơn, trở thành một trong ba giọng ca nữ hàng đầu của Sài Gòn thời đó, theo thứ tự là Thái Thanh - Lệ Thu - Khánh Ly. Năm 1968, cô đứng ra thành lập hội quán Cây Tre ở số 2bis Đinh Tiên Hoàng, Đakao, thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và thanh niên, sinh viên, học sinh tìm đến.
Hội quán Cây Tre tuy rất nổi tiếng nhưng không có hiệu quả về kinh tế. Đến năm 1972, Khánh Ly trở thành bà chủ phòng trà cùng tên (Khánh Ly) tại số 12 - 14 đường Tự Do (Đồng Khởi). Nhưng tiền của kiếm được bao nhiêu, hầu như Khánh Ly đều nướng sạch vào những canh bạc thâu đêm suốt sáng, thường xuyên tổ chức tại phòng trà cũng là nơi ở của mình. Tại địa chỉ này, Khánh Ly còn tập họp một số "bằng hữu" toàn là những tay anh chị khét tiếng trong đám sĩ quan người nhái, có mặt hằng đêm, như: Phong Nhái, Chánh Râu, Chất Lựu Đạn… Đám giang hồ áo lính này coi phòng trà Khánh Ly như trụ sở, từ đó bung ra đi thu tiền bảo kê hầu hết các vũ trường, snack bar, night club khắp trung tâm Sài Gòn, rồi quay về "trụ sở Khánh Ly" chia chác chiến lợi phẩm. Hai món cờ bạc mà Khánh Ly say mê nhất là xì phé và xập xám. Dường như câu nói cửa miệng của dân đổ bác: "Tiền xâu, đánh đâu, thua đó" đã hoàn toàn ứng nghiệm vào cuộc đỏ đen của Khánh Ly.
Tài danh có thừa, nhưng đời ca hát của Khánh Ly không chỉ toàn vinh quang, mà cũng có khi lắm nỗi nhục nhằn. Năm 1973, Khánh Ly tổ chức một chương trình ca nhạc tại Đà Lạt. Nhiều ngày trước đó, người ta thấy trên những băng rôn quảng cáo có nhiều tên tuổi ca sĩ nổi tiếng. Thế là khán giả nô nức đến xem, vé đã được bán sạch sành sanh. Vậy mà xuyên suốt chương trình, chỉ có Khánh Ly và Ngọc Minh thay nhau bao hết. Ngoài ra không có một ca sĩ nào khác. Cho là mình bị lừa, khán giả bắt đầu la ó, rồi tràn lên sân khấu đập phá. Khánh Ly phải chui ván sàn thoát thân. Ngày hôm sau, một tờ nhật báo tại Sài Gòn đã đưa tin với tựa đề giựt gân "Khánh Ly chui lỗ chó chạy trốn tại Đà Lạt". Khánh Ly cay lắm, nhưng đành ngậm bồ hòn.
Dân văn nghệ Sài Gòn trước năm 1975, thảy đều biết rằng Khánh Ly rất kỵ Lệ Thu, chỉ vì con gà ganh nhau tiếng gáy. Dạo đó nhiều bầu sô và người làm chương trình đến mời Khánh Ly tham gia, đều bị hỏi một câu: "Có Lệ Thu không? Có bà ấy là không có tôi!". Một lần, nhân dịp họp mặt khóa 10 trường Võ bị Đà Lạt được tổ chức tại hồ nước trong khuôn viên Tiểu đoàn 61 Pháo binh, tại Gò Vấp (nay là UBND quận Gò Vấp), người làm chương trình cố tình sắp xếp cho Lệ Thu hát mở màn và Khánh Ly hát phần sau để tránh cho hai người gặp nhau. Chẳng may, sau khi hát xong, thay vì về sớm thì Lệ Thu lại được tướng Lê Minh Đảo mời ngồi lại đến mãn tiệc. Khi đến nơi, thoáng thấy Lệ Thu, Khánh Ly lập tức bỏ hát quay về. Người làm chương trình hết lòng nài nỉ, nhưng Khánh Ly vẫn không đổi ý: "Anh nói với tôi là không có Lệ Thu, tôi mới nhận lời. Tôi đã nói trước với anh rồi, có Lệ Thu là không có tôi".
Có một dạo, dư luận xã hội đồn ầm lên rằng, chất giọng được mệnh danh là "giọng hát ma túy" của Khánh Ly có được là do chơi thuốc phiện. Kỳ tình "Mai Đen" không hề dính líu tới ả phù dung. Nhưng một lần, Khánh Ly đi từ Sài Gòn lên Thủ Đức trên một xe du lịch với một ông cò Cảnh sát. Khi đi ngang qua lãnh địa của một ông cò khác, thuộc phe đối nghịch, xe bị chặn lại khám xét. Mở cốp xe ra thì thấy một bàn đèn để hút thuốc phiện. Tuyệt nhiên, thuốc phiện thì không thấy. Khánh Ly nhận là của mình, nhưng cho đó chỉ là vật trang trí. Vậy là hôm sau, đi đâu cũng nghe người ta bàn tán việc Khánh Ly hút xách một cách sôi nổi với những tình tiết được thêm mắm, thêm muối thật hấp dẫn.
Khánh Ly có vóc dáng mình hạc xương mai, phảng phất nét liêu trai chí dị. Khuôn mặt dễ nhìn, không thuộc loại "hồng nhan", nhưng đường tình ái cũng rất "đa truân!". Thuở mới thành danh, Khánh Ly gá nghĩa vợ chồng với một tay chơi, có cái biệt danh kèm theo tên cúng cơm rất ấn tượng: "Minh Đĩ". Anh chàng này vốn con nhà giàu, có bà chị lấy chồng là một đại tá không quân. Nhờ vào tiền của và thế lực của ông anh rể, Minh Đĩ chui vào làm lính kiểng với cấp hàm trung sĩ, thuộc binh chủng không quân, để tránh ra trận. Được hai mặt con thì Khánh Ly và Minh Đĩ ca bài chia tay. Chẳng bao lâu, Khánh Ly lấy Mai Bá Trác, một Đại úy biệt kích, khi ông ta đang làm trưởng trại Lực lượng đặc biệt (LLĐB) Thiện Ngôn ở biên giới Tây Ninh. Thời đó mà được làm trưởng trại LLĐB là coi như trúng số. Dưới quyền, có từ 4 đến 5 Đại đội biệt kích quân, phần lớn là người Miên và dân tộc thiểu số. Thứ lính này không có số quân, do Mỹ trang bị và trả lương. Mỗi đại đội chỉ cần vài chục lính ma, lính kiểng là mỗi tháng, sau khi chia chác cho đàn em, trưởng trại dễ dàng đút túi cả chục cây vàng. Cứ tưởng tượng, lúc bấy giờ ông Trác đã sắm xe du lịch Mustang, để sẵn ở Sài Gòn thì đủ biết. Tháng nào, ông ta cũng về ăn chơi xả láng, tiêu tiền như nước, nên dễ dàng chinh phục được Khánh Ly.
Sống với Mai Bá Trác có một mặt con thì năm 1972, nhân một chuyến đi hát tiền đồn để úy lạo binh sĩ, Khánh Ly gặp Đỗ Hữu Tùng, Trung tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Thủy quân lục chiến. Bị ngay một tiếng sét ái tình, dù trai đã có vợ, gái đã có chồng, họ vẫn rất say đắm nhau. Tuy là mối tình "ngoài luồng" nhưng hầu hết những ai quen biết hai người trong cuộc đều xác nhận đây là một đôi nhân tình rất xứng đôi, vừa lứa về mọi mặt. Bây giờ, Tùng đã thành người thiên cổ. Ông ta tử trận tại bãi biển Đà Nẵng năm 1975, nhưng Khánh Ly vẫn tâm sự với bạn bè thân thiết, rằng Tùng là người mà Khánh Ly yêu thương nhất đời.
Sau tháng 1975, trên bước đường di tản, định mệnh đã xui khiến Khánh Ly gặp Nguyễn Hoàng Đoan, người chồng đang sống với Khánh Ly từ đó cho đến nay. Nhiều người đã tỏ ra tiếc cho Khánh Ly, vì có một người bạn (cuối cùng) đời thuộc loại văn dốt, võ dát dù ông ta mang danh là một nhà báo của làng báo Sài Gòn cũ. Nguyễn Hoàng Đoan chỉ thật sự được nhiều người biết đến từ khi sang Mỹ và trở thành "ông Khánh Ly".
Từ năm 1972 cho đến ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, Nguyễn Hoàng Đoan thất nghiệp. Không một tờ báo nào nhận ông ta vì khả năng viết lách thì yếu kém nhưng lại giỏi ăn tạp. Ông ta đã có vợ và 2 con gái, nhưng Nguyễn Hoàng Đoan lại sống vô trách nhiệm. Chính xác, Đoan lo thân mình còn chưa xong, lấy đâu ra để lo cho vợ con. Không chu toàn được cơm áo, Đoan cũng chẳng là chỗ dựa tinh thần cho con cái. Suốt ngày, ông ta thường xuyên có mặt chầu rìa tại sòng bài Ba Hóa ở khu vực nhà thờ Huyện Sĩ. Dần dà, ông ta tán tỉnh được cô con gái của chủ sòng bài khét tiếng này, để trở thành một "đấng trai bao"! Thời gian rảnh, Đoan thường xuyên có mặt tại hai động chứa gái hạng sang. Một ở trên đường Huỳnh Tịnh Của và một tại villa số 11, đường Đặng Đức Siêu (nay là Nam Quốc Cang) để kiếm ăn và chơi lụi.
Sang Mỹ, chẳng có nghề ngỗng gì, nên Đoan phải bám váy Khánh Ly. Việc hát xướng của Khánh Ly tại hải ngoại cũng không đều đặn, thu nhập cũng chẳng là bao, đời sống cũng khá chật vật. Nguyễn Hoàng Đoan đã "tham mưu" cho Khánh Ly cách làm mình, làm mẩy và lật lọng với các bầu show. Ai mời đi hát ở đâu đó, dù rỗi rảnh, Khánh Ly vẫn hô hoán: "Chết rồi, chị trót nhận lời hát cho một người quen, lỡ nhận tiền trước rồi!". Nếu như đối tác tiếp tục năn nỉ, Khánh Ly sẽ dở chiêu đòi tăng giá vào giờ chót, lật bài ngửa: "Vậy thì em trả thêm cho chị chút đỉnh!". Cô thường đồng ý tham gia chương trình để bầu show quảng cáo tên tuổi ì xèo. Kề ngày diễn, Khánh Ly đột ngột đòi tăng giá từ 3.000 lên 5.000 USD mới có mặt. Thế là bầu show phải đắng cay ngậm quả bồ hòn. Giới bầu show hải ngoại đã đặt cho Khánh Ly hai biệt hiệu rất lẫy lừng: "nữ hoàng nâng giá", và "ca sĩ xù show". Ngay cả nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cũng không được Khánh Ly nể mặt. Cay đắng đến độ, trước khi qua đời, người nhạc sĩ tài hoa này đã trăn trối với vợ con: Cấm cửa, không cho Khánh Ly đến viếng!
Tháng 5/2000, Khánh Ly có về Việt Nam thăm gia đình. Quay lại Mỹ, Nguyễn Hoàng Đoan và Khánh Ly, kẻ xướng, người họa, nửa úp, nửa mở: "Việt Nam mời tôi về hát với catse 2 triệu USD. Nhưng chắc không có chuyện đó với tôi". Chẳng cần truy cứu hư thực, mới nghe ai cũng đã phì cười, bởi sự bịa đặt hết sức ấu trĩ của "nữ hoàng nâng giá".
Đúng là nồi nào úp vung nấy. Đáng tiếc cho danh ca của một thời

Đoàn Thạch Hãn

  Forum: FEMALE, MALE SINGERS · Post Preview: #124542 · Replies: 0 · Views: 829

BichDu
Posted on: Feb 12 2012, 07:22 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278



Thông Điệp Tình Yêu-Happy Valentine's day


  Forum: FLASH VIDEO MUSIC · Post Preview: #121169 · Replies: 0 · Views: 931

BichDu
Posted on: Feb 9 2012, 04:01 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






Tiếng hát và cung đàn


Download
  Forum: NHẠC HÒA TẤU · Post Preview: #121000 · Replies: 0 · Views: 1,239

BichDu
Posted on: Feb 9 2012, 03:59 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






Hai vì sao lạc


Download
  Forum: NHẠC HÒA TẤU · Post Preview: #120999 · Replies: 0 · Views: 1,007

BichDu
Posted on: Feb 9 2012, 03:57 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






Hạ Trắng


Download
  Forum: NHẠC HÒA TẤU · Post Preview: #120997 · Replies: 0 · Views: 1,032

BichDu
Posted on: Feb 8 2012, 09:57 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278









Tiếng gọi thầm


Đúng là nó- Thanh không nhầm được, ánh mắt buồn xa xăm với tia nhìn yếu ớt đó không thể lầm với ai được cả. Thanh ngồi bất động- cảm thấy nỗi ân hận xót xa cứ lớn dần lên, tràn ngập- đang dằn xé trong lòng. Thằng bé đang đi về phía anh, nó liếc nhìn anh một thoáng- như bao người khác đang ngồi trong quán, và khẻ cất giọng the thé : “Chú mua giúp cháu tờ vé số, chú?”. Vậy là nó đã không nhận ra anh-Thanh nghĩ, một con người tàn nhẫn đã gây cho nó biết bao khổ đau cách đây gần hai năm rồi. Tay Thanh run run đón lấy xấp vé số từ cánh tay gầy còm của thằng bé- rút đại 5 tờ nhét vào túi áo. Anh rút chiếc ví ở túi quần sau lôi ra một tờ giấy bạc 500 ngàn mới tinh, đưa về phía thàng bé –gắng nở nụ cười : “ Chú mới trúng một tấm Daklak giải nhất- chú biếu cho cháu đây… ”. Nói xong- Thanh vội đứng dậy- bước ra khỏi quán, đi như trốn chạy trước đôi mắt mở to vừa kinh ngạc, vừa ngỡ ngàng của thằng bé. Nó mấp máy đôi môi nhưng hình như chẳng nói được lời nào..

Về đến nhà,Thanh ngồi bần thần bên cửa sổ mắt nhìn xa xăm ra phía cánh đồng bạt ngàn phía trước. Dĩ vãng lại ập về trong đầu anh rõ nét dần- như tất cả chỉ vừa mới xảy ra hôm qua đây thôi! Quá khứ của anh là một chuỗi dài buồn thảm, tội lỗi- anh muốn dứt bỏ nó, không nghĩ đến nữa, vậy mà giờ đây nó đang sống dậy, đang réo gọi- làm lòng anh buốt nhói….

Thanh là con út và cũng là con trai một của gia đình- trước Thanh là bốn người chị gái. Từ nhỏ , cậu được mọi người yêu thương, chìu chuộng- không ai trong nhà nỡ làm trái ý Thanh cả. Trong nhà, cậu chỉ nể sợ ông Nam- ba của cậu thôi. Mỗi khi cậu làm chuyện gì sai quấy, ông Nam cầm roi lên là mẹ cậu- bà Thu, và các chị của cậu đều lên tiếng ngăn cản, xin ông tha lỗi cho Thanh. Và vì vậy , cậu không hề bị roi nào cả, ngoại trừ một lần duy nhất cậu đã bị ông Nam đánh đòn năm lên mười tuổi mà thôi. Thanh nhớ lại lần đó cậu đã lấy cây dứa buộc vào đuôi những con trâu trong xóm- trâu bị dứa cào vào mông, nhảy chạy khắp làng, khiến mọi người phải chạy đi tìm trâu- cả xóm nháo nhát . Qua đỗi bực mình, các chủ trâu đến mắng vốn ông Nam. Ông giận quá, bắt cậu nằm xuống giường và quất cho mấy roi mây . Bị đánh đau, cậu vùng dậy chạy ra khỏi nhà và quay lại hét lớn : “Ông đánh tui hả? Tui bỏ nhà đi hoang luôn! Tui không về nhà nữa… ”. Chạy ra khỏi ngõ một đoạn đường, cậu hoảng sợ không biết đi đâu? Đang đứng tần ngần bên đường, mẹ và mấy chị gái của cậu chạy ùa tới, ôm chầm lấy cậu. Họ năn nỉ, dỗ dành cậu về nhà. Sau một hồi khóc chán chẽ Thanh theo mẹ về nhà. Các chị đem giấu cậu trong cái sõng câu bên chái hè và đem tới cho cậu đủ thứ đồ ăn, thức uống ngon lành. Bà Thu cứ khóc lóc với ba cậu và năn nỉ ba cậu đi tìm con về. Lúc đầu, ông Nam giận. cương quyết bảo bỏ mặc –không thể tha thứ choThanh dươc . Đến sẩm tối , nghe tiếng khóc rả rích của vợ và những lời than trách của con gái -ông không cầm lòng được. Ông đã cùng vợ và các con gái đi tìm Thanh và bảo cậu vào nhà. Từ đó dạo đáo, Thanh không còn biết sợ ai trong nhà nữa cả!

Trời phú cho Thanh cũng có bộ óc thông minh, nhưng cậu chỉ học giỏi mấy năm ở trường làng thôi, lên cấp hai vì đua đòi theo bạn bè ăn chơi, bắt chước nhậu nhẹt làm niềm vui và hanh diện mà chẳng có ai có thể can thiệp nhắc nhở được nên nhiễm đủ thứ thói hư tật xấu của một con người lười biếng bê tha .Cậu bỏ học triền miên -hết đánh bi da, lại chơi bài, chơi game la cà ở các quán cafe như những đúa trẻ không có gia đình. Cuối năm lớp tám cậu bỏ học hẳn.
Mấy người chị của Thanh lần lượt lập gia đình, chỉ còn lại cậu ở với ba, mẹ- lại không nghề ngỗng gì nên cậu càng luôn tuồn. Hàng ngày, cậu theo bạn bè ăn chơi say sỉn đề đóm, cá độ-như một “ cái mốt” của tuổi trẻ . Ban đầu- bà Thu vì thương con nên thường dấm giúi tiền cho cậu . Dần dà, thành thói quen- Thanh đòi hỏi, bà cũng không còn tiền đâu cho cậu nữa. Vậy là để có tiền ăn xài , những vật dụng có giá trị trong nhà dần dần đội nón ra đi. Làng giềng thấy vậy- rất bức xúc. thương cho vợ chồng ông Nam nên nhiều lần đã đem Thanh ra kiểm điểm trước xóm, trước xã và có lần đã cương quyết đề nghị đưa cậu đi cải tạo nữa. Nhưng lần nào ba, mẹ Thanh cũng khóc lóc- van xin, hứa sẽ đem cậu về nhà giáo dục. Sau nhiều lần như vậy không ai còn quan tâm đến Thanh nữa. Được dịp, Thanh càng lộng hành, càng vòi tiền cha, mẹ nhiều hơn nữa. Có lẽ, Thanh nghĩ , cậu sinh ra ở đời thì ai ai cũng phải phục vụ, phục tùng theo mọi ý thích của cậu.?

Con ma cờ bạc đã biến Thanh từ một con người thành một con quỷ đội lốt người. World Cup năm 1998 Thanh cá độ lên đến con số 500 triệu nhưng vận may không đến- Tây Ban Nha dã thắng Đức 1 trái ( 1- 0)- cậu đã thua cuộc! Những người thắng cá độ từ Hải Phòng vào để lấy tiền, Thanh không biết kiếm ở đâu ra số tiền quá lớn như vậy để trả cho họ-cậu phải lẫn trốn không dám về nhà. Những ngày sống chui lủi nay đây mai đó cậu mới thấm nỗi khổ bữa đói, bữa no, ăn bờ ngũ bụi. Cậu không dám nhờ vã ai cả vì nhà của cha, mẹ Thanh và nhà những chị gái của cậu -đâu đâu cũng có người theo dõi. rình rập .Thanh không còn tiền để ăn- nhịn đói đến mờ cả mắt. Ngay lúc đó , một cậu bé bán vé số tội nghiệp đến chìa xấp vé số mời Thanh mua- vô tình thằng bé đã trở thành nạn nhân của Thanh. Món nghề móc túi cướp giật mà Thanh học được từ bạn bè giờ đem ra áp dụng lên thân phận đứa bé khoảng 10 tuổi kia. Sau vài phút Thanh đã cướp được 400 ngàn đồng, số tiền cả ngày bán vé số của cậu bé .Thanh trả lại xấp vé số và đi như chạy lẫn vào con đường nhỏ trong xóm. Khoảng 20 phút sau, cậu bé quay trở lại- mặt cắt không còn giọt máu, nước mắt đầm dìa. Nó nhìn ngó tìm kiếm mọi nơi và khi không còn hy vọng gì nữa- nó ngã lăn xuống bên đường, ôm mặt khóc. Mọi người đổ dồn lại hỏi thăm, nguyền rủa kẻ bất lương độc ác- đã không tha cho một đúa bé nghèo khó bất hạnh. Qua mọi người ,Thanh biết thêm về hoàn cảnh của cậu bé : nó không còn cha,-mẹ lại bị tai biến liệt nằm một chỗ. Nó phải bán vé số để phụ giúp gia đình nuôi mẹ.. Những người khách đi qua đường khi nghe chuyện của cậu bé, họ đều dừng lại- quyên góp một số tiền nhỏ để giúp nó trong lúc ngặt nghèo. Tối hôm ấy- nghe thuật lại chuyện, Thanh cảm thấy buồn- lòng bỗng nhói lên một thoáng ân hận, nhưng Thanh vẫn không thể gặp cậu bé để trả lại số tiền cướp được.

Sau khi tiêu đến đồng bạc cuối cùng, không còn biết kiếm đâu ra tiền , và không thể chịu đói được nữa -Thanh liều đến nhà một người chị của mình ở cuối đường một con phố nhỏ. Như một con chuột, Thanh đã sập vào bẩy đã giăng sẵn của mấy tay thắng cá độ Hải Phòng . Thanh sợ hãi, van xin họ -nhưng vẫn bị đánh đập thâm tím khắp mình . Họ dẫn Thanh về nhà cha, mẹ cậu và trước mặt ba, mẹ Thanh họ tuyên bố : “ nếu nó không trả 500 triệu cho chúng tao, nó sẽ bị giết quẳng mất xác sau một tuần! “
Ông bà Nam đau lòng nhìn con mà không biết phải làm sao? Tiền trong nhà không còn, mà số tiền 500 triệu lại quá lớn. Ông bà phải dứng ra hẹn nợ với bọn họ- và sau đó -đành bán đi ngôi nhà từ đường ông cha để lại, cộng thêm tiền quyên góp từ các chị của Thanh mới đủ trả trong thời gian chưa đúng một tuần..

Sau khi bán nhà- ba, mẹ và Thanh ra che tạm một ngôi nhà tranh nhỏ trong mảnh đất vườn của người cậu ruột Thanh cắt cho. Từ đó- Thanh trở nên lầm lì, im lặng- ngày ngày Thanh theo cậu ruột mình đi phụ hồ và học nghề thợ xây. Tiền kiếm được Thanh chi tiêu rất ít, anh mang những đồng tiền mồ hôi ấy về nhà đưa mẹ cất giữ, để chi dùng cho gia đình.
Sau một năm phụ hồ, học nghề- Thanh được nhận làm thợ chính -cũng đi làm tại các công trình với cậu. Thanh mải mê làm việc- suốt ngày, như không hề biết mệt mỏi. Anh đã dần dần cảm nhận được rằng-đồng tiền kiếm được bằng chính sức lao động, mồ hôi nước mắt của mình có giá trị như thế nào? Anh dường như quên bẵng cái quá khứ đen tối, buồn thảm của mình ( và gia đình). Thanh sống lặng lẽ, tách rời xa mọi cuộc đùm túm hò hét say sỉn chung quanh-như chính anh chưa bao sống giờ như vậy.
Một năm sau- Thanh cưới một cô vợ xinh xắn, nhân hậu- là phụ thợ hồ cùng làm việc ở công trình của người cậu.. Vợ chồng gắn bó, thủ thỉ, chiu chắc làm ăn . Cuộc sống của gia đình anh đã qua cơn đen tối , giông bão-nhưng vết thương lòng quá lớn không để cho anh được yên giấc hàng đêm đêm. Thanh trở nên rất sợ những tiếng thở dài của cha, mẹ . Sợ phải đi ngang ngôi nhà của ông bà để lại đã bán đi. Sợ tiếng nức nở, uất nghẹn của cậu bé bán vé số vọng lại bên tai…

Ngồi thẩn thờ bên khung cửa sổ ngó mông lung ra cánh đồng im vắng phía trước- Thanh cảm thấy lòng lâng lâng một niềm vui- anh đã vừa làm được một việc nhỏ để xoa dịu lòng mình với cậu bé bán vé số sáng nay. Anh nhớ lại vẻ mặt ngạc nhiên và hân hoan của thằng bé , rồi mỉm cười-nụ cười vui đầu tiên sau hai năm dài đã lịm tắt trên môi anh…
  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #120924 · Replies: 0 · Views: 663

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 10:24 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278









Mẹ - Mặt đất bao dung

Vợ tôi ngồi bồng cu con trên tay. Đêm khuya vắng lặng. Tôi thức dậy chuông chùa đổ thời thứ nhất. Vợ tôi vẫn bồng con ru hời. Tôi lại thiếp lúc nào không hay, tôi thật vô tâm! Thức dậy khi trời tảng sáng, vợ tôi vẫn lắc lắc trên tay ru con. Lòng tôi dâng trào niềm thương vợ. Tôi lại nghĩ, mẹ tôi sinh mười người con, nhiều đứa con của mẹ đã ốm, mẹ tôi V vả gấp mười. Năm tôi lên ba, bị mạch lương, nước mủ tanh hôi chảy rịn mấy năm liền. Một hôm, ông hoạn lợn chỉ cho mẹ lấy thức ăn trong ruột non con lợn vừa mổ đem bọc vải tám đắp lên mụt, sau một đêm, bắt được mấy con sâu, cái mụt tôi mới chịu đóng sẹo lành hẳn. Rồi tôi trèo cây bị té rạn não, tôi tắm sông suýt chết trôi và bao tai nạn nữa, mẹ tôi nhận lãnh hết thảy. Ngày tháng chồng chất! Giờ tóc bạc, tôi mới thấm tình mẹ.

Tôi thi đỗ Đệ Thất Quốc Học Huế, mẹ tôi mừng phát khóc. Tại sao mẹ khóc? Vậy mà tôi không biết làm vui lòng mẹ, lên Đệ Ngũ tôi mê bida, nghỉ học nhiều ngày, nhà trường phát giấy mời phụ huynh, mẹ tôi đi xin, lần thứ hai tôi sợ quá, cùng thằng Mân bạn học cùng lớp bỏ nhà đi bụi. Hồi đó, thị xã Huế có bến xe buýt bên chợ Đông Ba dưới cầu Gia Hội chạy từ phố ra ngoại ô, các tuyến Bao Vinh, Đập Đá, An Hoà, Nam Giao, An Cựu… và cũng có xe Phi Long, Tiến Lực bắt khách đi Đà Nẵng. Tôi và Mân ngồi trên xe Tiến Lực chờ chạy. Chợt tôi thấy mẹ tôi như một bà điên đi từ trong chợ ra bến xe, hai mắt hoe đỏ, tóc búi sổ tung. Mẹ vừa đi vừa dáo dác tìm… Tôi ngồi thụp xuống trốn mẹ. Nhưng linh cảm của tình mẹ thiêng liêng xui mẹ tìm được tôi. Lần ấy Mân đi bụi, sau này tôi thấy nó chơi thân với tụi du đãng chuyên đâm thuê chém mướn. Sau giải phóng ít lâu Mân lãnh án 18 năm tù. Nếu hồi đó tôi không được mẹ bắt lại, chắc chi tôi con sống yên phận, lành lặn như hôm nay.

Hôm mẹ tôi ốm. Tôi về viện chăm mẹ mấy đêm, đã oải. Một đêm tôi đổi “gác” cho vợ. Tôi động viên: “Con dâu chăm sóc mẹ chồng công đức vô lượng”, “Em không còn mẹ, em thưong mẹ thật lòng. Chăm cho mẹ cũng là cách tích đức cho con”. Mẹ tôi gọi tôi:

“Mẹ lập nghĩa trang quy mồ mả toàn họ. Mẹ chay đàn tụng kinh Thủy Sám, Địa Tạng suốt 49 ngày 7 tuần cho ba con và làm nhiều việc phước khác nhưng mẹ còn một tội chưa trả. Con có biết không dưới chùa Từ Đàm vào những ngày rằm, mùng một thường có nhiều người già ngồi ngửa nón dưới cội bồ đề, mẹ định lấy ba mươi lăm ngàn hay nhiều hơn cũng được, chia hết cho những người ăn xin và nói đây là tiền của Đồng Cỏ Xanh gửi mẹ đem xuống cho họ, con thấy mẹ tính như vậy có được không”. Tôi ngạc nhiên: “Mẹ bố thí thì cứ nói của mẹ chứ”. Mẹ tôi nói: “Hồi gia đình mình thiếu đói, mẹ mua thực phẩm ở Đồng Cỏ Xanh họ thối lộn cho mẹ 35.000 đồng. Mẹ mừng lắm, chạy đi mua gạo. Nhiều lần mẹ định mang tiền đến trả cho họ nhưng thẹn mình đã già rồi con gian lận họ cười. Suốt bao năm mẹ mới nghĩ ra cách nầy để trả tiền lại cho họ.”

Tôi chạy xe ra trả cho Đồng Cỏ Xanh 35.000 đồng sau khi giải thích cho cô chủ hiểu. Thật sự tôi không biết người thối dư tiền cho mẹ tôi là cô chủ hay nhân viên, tôi nói cô chủ để người ta không làm khó cô nhân viên, biết đâu cô còn giúp việc ở đấy, nhưng họ không nhận. Tôi làm theo lời mẹ dạy.

Mẹ tôi vì con, vì cháu khổ đến mãn đời, chỉ vì mẹ yêu thương chúng tôi và tại mẹ là mẹ. Mẹ như mặt đất bao dung đựng sao hết nỗi buồn tháng năm. Tôi làm bài thơ tặng mẹ:

MẸ

Khi làm cha con hiểu lòng mẹ
Năm canh thâu đau đáu đoạn trường
Mẹ cho con làm sao xiết kể
Tháng năm dài mòn mỏi thịt xương

Mẹ ơi, con nuôi con vất vả
Lặng người xao xuyến dáng xưa
Chiếc bóng mẹ nhập nhoà, tất tả
Nghiêng chao bấc đèn những đêm mưa

Mẹ nuôi con nay lại bồng cháu
Trên tay gầy bao thế hệ qua
Bạc tóc mới thấm lòng từ mẫu
Quặn lòng xa xót những đông mưa

Bao giờ con giúp được mẹ đâu
Chút muối sao sánh lòng biển mặn

Sáng hôm sau vợ chồng tôi bồng con chạy xuống xin thẻ chờ bác sĩ ngủ dậy khám. Nhìn vợ tôi phờ phạc. Tôi thương quý:
Em cũng là mặt đất bao dung.

Huế, 251211
NGUYỄN VĂN
  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #120848 · Replies: 0 · Views: 558

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 10:14 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278









Con đã về rồi …Mẹ ở đâu ? ..

Trước ngày tôi mổ mấy hôm, anh chị hai vào. Thấy mặt anh hai hốc hác, tôi ngạc nhiên: “Anh hai bệnh hay sao mà ốm nhom vậy?”. Anh cười: “Bệnh hoạn gì? Tại anh lo cho út… À, mẹ có làm cho em hủ mắm. Bữa nay chắc là ăn được rồi nhưng mẹ dặn em không được ăn nhiều…”. Nghe anh hai nói vậy, tôi sụ mặt: “Em không ăn”. Nói rồi tôi bỏ ra nhà sau.

Ba mất khi tôi mới lên hai, còn anh hai năm đó 8 tuổi. Mẹ vẫn ở nhà nội dù đã mấy lần, các cô chú muốn đuổi mẹ con tôi ra khỏi nhà để không phải chia gia tài. Thế nhưng mẹ vẫn chịu đựng. Sau này tôi biết mẹ sợ cảnh nhà không có đàn ông sẽ khó giữ được mình bởi trong làng có mấy người để ý, cứ tới lui xa gần. Mẹ bảo, ở với nhà chồng, dù sao người ta cũng kiêng dè, không dám chọc ghẹo, mẹ yên thân làm lụng nuôi con.

Cái đất miền Trung nắng đốt, mưa dầm; mẹ đã phải vất vả một mình nuôi 4 anh em tôi. Ông bà nội chia cho mấy sào ruộng; làm không đủ ăn, mẹ phải mướn thêm ruộng để làm. Rồi mùa thì mẹ lại đi làm mướn khắp nơi. Việc trong làng không đủ, mẹ lại xuôi ngược qua làng kế bên rồi xuống chợ huyện buôn thứ này, bán thứ kia.

Thương mẹ nên học hết lớp 12, cả anh hai và anh ba đều nghỉ học đi làm. Chỉ có tôi và anh tư được ăn học đàng hoàng. Anh tư thi đậu vào đại học Nha Trang, mẹ mừng không ngủ được. Đến khi tôi chuẩn bị thi đại học thì mẹ bảo: “Út à, con vô Quy Nhơn học đi, cho gần nhà…”.

Nhưng tôi cãi lời thi vào Đại học Kinh tế Sài Gòn. Ngày biết tin tôi thi đậu, mẹ ngồi lặng hàng giờ dưới bếp. Tôi bực bội: “Con lớn rồi, mẹ phải để con tự quyết định tương lai của con chớ?”. Mẹ kéo vạt áo lau nước mắt: “Mẹ chỉ có một mình con là con gái… Vô trong đó xa xôi quá, nhớ con làm sao mẹ đi thăm?”. Tôi vẫn dấm dẳng: “Mẹ đi thăm làm gì? Con tự lo được”.

Mẹ gom góp tiền bỏ ống, hốt thêm mấy dây hụi để có tiền cho tôi vào Sài Gòn nhập học. Hôm đưa tôi và anh hai lên tàu, mẹ cứ căn dặn anh hai: “Con phải lo xong chỗ ăn ở cho nó đàng hoàng rồi mới được về nghe chưa!”. Rồi mẹ quay sang tôi: “Có hủ mắm trong giỏ, mẹ làm hơi mặn để con ăn lâu…”. Mẹ đâu biết, tôi đã lén bỏ hủ mắm lại nhà sau khi nói với anh hai: “Ở Sài Gòn ai mà ăn mắm?”.

Tôi đang học năm thứ nhất thì ở nhà xảy ra biến cố. Mẹ tôi đi lấy chồng! Nhận được tin, suýt chút nữa tôi đã ngất đi. Mẹ tôi đã gần năm mươi tuổi, ham hố gì mà lại đi bước nữa khi sắp sửa làm sui tới nơi rồi? Tôi gọi điện về nhà. Vừa nghe tiếng mẹ, tôi đã hét lên: “Mẹ có bị làm sao không vậy? Mẹ đã ở vậy bao nhiêu năm nay rồi, giờ sao không chịu yên phận mà còn bày đặt…”.
Tôi biết là tôi hỗn với mẹ nhưng tận đáy lòng mình, tôi thấy đau khổ y như thể mình bị phản bội.

Ngày người ta rước mẹ đi, tôi nhất định không về. Người đàn ông ấy là bạn thân của ba mẹ từ thuở nhỏ. Vợ ông ta mất cũng đã lâu rồi. Nhưng điều quan trọng hơn, chính bà nội là người bày ra chuyện gả bán. Bà nội bảo, bà đã yếu, sống nay chết mai; bà phải lo cho mẹ tôi trước khi nhắm mắt thì mới yên lòng. Nếu không, các cô chú lại kiếm chuyện với mẹ thì không có ai bênh vực.

Lý lẽ của người lớn là vậy nhưng tôi không thể nào chấp nhận được thực tế là mẹ tôi đã đi lấy chồng. Tôi giận mẹ nên tết năm ấy không về; hè cũng không về. Anh hai gọi điện vào bảo mẹ bệnh, tôi cũng không về.

Mãi đến tháng chạp năm đó, bà nội mất tôi mới về chịu tang. Gặp mẹ với ông ta, tôi không thèm chào hỏi nhưng vẫn lén để ý. Tôi thấy mẹ gầy đi rất nhiều. Tôi muốn ôm mẹ, úp mặt vào ngực mẹ để được mẹ xoa đầu nựng nịu và gọi “Út Mót của mẹ” như ngày xưa mỗi khi mẹ đi làm đồng về mệt… Nhưng có cái gì đó cứ níu lại khiến tôi cố làm ra vẻ lạnh lùng.

Xong đám tang nội, tôi đi ngay. Tôi không chào ông ta mà chỉ nói với mẹ: “Con đi đây”. Nói rồi tôi quày quả xách giỏ đi. “Út…”. Mẹ gọi với theo. Tôi hơi khựng lại nhưng rồi lại đi như chạy ra khỏi nhà. Giọng mẹ đuổi theo: “Tết này nhớ về ăn tết nghe con”. Tôi lau nước mắt, không nói tiếng nào.

Tết đó tôi vẫn không về. Đến hè anh hai gọi điện bảo về, tôi cũng không nghe. Tôi xin đi làm thêm ở một tiệm bán thức ăn nhanh. Được hơn nửa tháng thì trong một lần làm thay ca cho một chị bạn, tôi đã ngất xỉu. Tôi được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Mấy ngày sau, khi làm đầy đủ các siêu âm, xét nghiệm, tôi biết mình bị hở van 2 lá rất nặng. “Chúng tôi sẽ giới thiệu em sang Viện Tim…”. Vị bác sĩ điều trị cho tôi giải thích cặn kẽ và cho biết, trường hợp của tôi phải mổ thay van tim nhân tạo.

Tôi đi khám lại ở Viện Tim. Kết quả vẫn là phải mổ. Tôi đã ngồi rất lâu trên chiếc ghế đá trong sân bệnh viện. Tôi lấy đâu ra cả trăm triệu chi phí cho ca mổ đây? Mà mổ cũng chưa chắc sống thêm được bao lâu. Tôi muốn chết quách cho xong. Rồi tôi lại oán trách ba mẹ sao lại sinh ra tôi làm gì mà không cho tôi một cơ thể khỏe mạnh… “Mày thật lạ. Có ai muốn con cái mình bị bệnh tật đâu? Nhưng có bệnh thì phải chữa, bác sĩ đã nói là chữa được mà…”- nhỏ bạn ở cùng phòng trọ động viên.

Rồi nó lén gọi điện cho anh hai. Dù đang chuẩn bị cưới vợ nhưng anh hai cũng vào ngay. Anh dẫn tôi vào bệnh viện, hỏi han bác sĩ mọi chuyện rồi đăng ký lịch mổ cho tôi. Tôi phải chờ 6 tháng vì lịch mổ đã dày kín. Trước khi về, anh hai ôm tôi vào lòng: “Út đừng lo, anh sẽ kiếm đủ tiền để chữa bệnh cho em. 60 triệu chớ 600 triệu cũng phải lo”. Tôi khóc: “Anh hai đừng nói với mẹ…”.
Nhưng rồi sau đó mẹ cũng biết vì anh hai không thể giấu mẹ chuyện hệ trọng như vậy. Còn hơn 2 tuần nữa tới ngày phẫu thuật thì mẹ gọi điện vào. Giọng mẹ rất yếu nhưng tôi lại nghĩ là do mẹ xúc động quá. Mẹ bảo sẽ thu xếp để vào với tôi…

Ấy vậy mà chỉ có hai vợ chồng anh hai vào. Tôi lại thấy ghét mẹ ghê gớm. Có lẽ ông ta không cho mẹ vào chứ không có lý do nào khác để mẹ phải vắng mặt khi con của mẹ phải đối mặt với hiểm nguy, sống chết như vậy… Ca mổ thành công nhưng vì thể trạng tôi vốn gầy yếu nên hồi phục chậm. Phải hơn 10 ngày sau tôi mới xuất viện. Về đến phòng trọ, điều đầu tiên tôi muốn làm là gọi điện cho mẹ. Dù sao thì tôi cũng muốn mẹ yên lòng. Nhưng anh hai lại cản: “Em còn yếu, gọi bây giờ lại xúc động, không tốt đâu. Để anh báo cho mẹ là được rồi”.

Lần sau, rồi lần sau nữa, tôi đòi gọi điện, anh hai lại cản khiến tôi nghi ngờ: “Anh chị giấu em chuyện gì phải không?”. Chị dâu tôi mau miệng: “Út à, mẹ bị bệnh… anh chị sợ em lo nên không nói”.

Cơn giận hờn vụt tan biến. Tôi cười: “Chờ tái khám xong, em sẽ về thăm mẹ”. Anh hai tôi quay đi lau nước mắt. Có lẽ anh mừng vì thấy tôi đã rộng lòng đón nhận cuộc hôn nhân sau của mẹ. Riêng tôi, sau ca đại phẫu vừa rồi, tôi thấy ranh giới giữa sống chết thật mong manh. Đã có lúc tôi sợ mình sẽ chết khi chưa kịp nói những lời yêu thương với mẹ lần nữa…

Rồi tôi cũng được về nhà. Chưa bao giờ tôi nôn nóng như vậy. Tàu khởi hành từ 6 giờ sáng, đến sẩm tối thì tới ga Diêu Trì. Phải đi gần 20 cây số nữa mới tới nhà. Cơm nước xong, chị dâu mắc mùng cho tôi ngủ, còn anh hai thì căn dặn: “Ngủ cho khỏe để sáng mai đi thăm mẹ”.

Tôi ngủ một giấc thật ngon đến tận 7 giờ sáng hôm sau. Chị dâu gọi tôi dậy ăn sáng. Đang ăn, tôi bỗng giật mình khi thấy giỏ nhang đèn, trái cây để trên góc bếp. Có cả một bó bông vạn thọ. Tôi nhíu mày: “Cúng nội hả hai?”. Chị dâu tôi ậm ừ rồi đi thay quần áo. Lúc đó anh hai đang ngồi ở nhà trước. Chờ tôi ăn xong, anh mới cất tiếng: “Út à, ra đây anh bảo cái này”. Nhìn thấy vẻ mặt nghiêm trọng của anh, tôi chột dạ: “Chuyện gì vậy anh hai?”.

Anh bảo tôi ngồi xuống bên cạnh. Tôi ngồi xuống nhưng chờ mãi không nghe anh nói gì, chỉ thấy mắt anh bỗng đỏ hoe. Rồi anh đặt tay lên vai tôi, giọng khàn khàn: “Mẹ… mất rồi em à…”. Tôi tưởng mình nghe lầm. Giọng anh hai nghẹn lại: “Hôm đó mẹ đem tiền qua để anh lo chuyện mổ tim cho em. Mẹ về được chừng một tiếng thì dượng gọi điện bảo là mẹ mệt. Khi anh chạy qua tới thì mẹ đã đi rồi… Mẹ không kịp nhắn gì cho anh em mình…”.

Tôi chết lặng. Vậy là tôi đã không kịp nói với mẹ lời yêu thương lần nữa bởi cái tính ích kỷ, cố chấp của tôi…
..
.
Chiều đó tôi đã ngồi rất lâu bên mộ mẹ. Tôi có cảm giác mẹ vẫn quanh quẩn đâu đây trong cơn gió chiều thổi nhẹ. Tôi cố nén nhưng nước mắt cứ chảy tràn trên má, trên môi…

Mẹ ơi, con đã về rồi.

..
.
Gió xuân xào xạt trên mái nhà ..
Con về thăm lại quê hương ta .
Mẹ tôi ra đi mùa thu khóc ,
Để lại trong tim lệ xót xa ..
  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #120845 · Replies: 0 · Views: 459

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 09:45 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278









Mùa Xuân Nào Cho Em…

Tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường, mười giờ đúng. Chỉ còn hai tiếng nữa là năm cũ sẽ qua đi để nhường chỗ cho năm mới. Một mùa Xuân sắp đến trong lòng người Việt với nhiều hy vọng, dù ở bất cứ nơi nào.
Qua khung cửa kính, bên ngoài tuyết đang rơi nhẹ. Hoa tuyết nhỏ li ti bay lất phất dưới ánh đèn đường. Tôi đặt khay hoa quả lên chiếc bàn nhỏ nhìn ra cửa sổ phòng khách. Đột nhiên, thoáng qua đầu tôi một ý nghĩ so sánh…
Xuân năm nay và Xuân năm xưa…
Tôi nhìn bàn thờ cúng Giao thừa. Đĩa trái cây nhỏ vỏn vẹn ba quả cam, táo, bưởi… so với một khay tròn quít đường có lá xanh mướt, xoài cát chín thơm lừng, đu đủ vàng ươm, mãng cầu xiêm gai còn tươi, bên cạnh quả dưa hấu nặng trĩu nước. Hoa cúng nửa đêm cũng chỉ là một chậu cúc nhỏ thay cho bát thủy tiên được gọt tỉa cẩn thận. Một ly nước lạnh đổi chỗ cho tách trà nóng thoang thoảng hương sen. Một cây nến hồng cắm trên đế thủy tinh thay vì là cây nến đỏ được đỡ trên đầu con hạc bằng đồng sáng loáng. Ba cây nhang mua ngoài chợ từ hai năm trước chiếm chỗ của những nén hương trầm thỉnh ở chùa về… Mâm cúng năm nay không có mứt sen, không có bánh chưng và chả lụa…Tất cả đã thay đổi khá nhiều, từ cung cách bày cúng đón Giao Thừa trong nhà thay vì ngoài trời… đến không khí tẻ lạnh trong căn nhà tôi đang sống… Tôi ngồi sát bên cửa kính nhìn ra con đường vắng tanh trước mặt không một bóng người. Mặc cho hơi lạnh ấp vào mặt, tôi lặng lẽ nhìn tuyết bay ngoài trời và nhớ lại những mùa xuân đi qua trong đời…
Tôi nhớ nhất mùa Xuân năm ấy…. Chiều ba mươi Tết, thật bất ngờ, một người bạn của anh họ tôi trong chiếc áo trận với nét phong sương ghé thăm. Tuy rất bận, tôi cũng đã ngừng tay để tiếp chuyện Toàn. Anh kể cho tôi nghe những ngày ở quân trường, những khuya lầm lũi trong rừng sâu, những lần bị con vắt luồn vào cổ áo trong đêm mưa… Tôi đã rùng mình, cánh tay nổi da gà và xương sống thì lạnh buốt như có con vắt đang bò qua cổ. Tôi đã sợ đến độ không còn biết giữ ý tứ nữa. Tôi đã nhanh tay bịt miệng của Toàn lại để anh xin thôi đừng nói tiếp nữa. Anh đã cười sặc sụa và chế giễu tôi: “Thế mà cũng tự hào là tốt nghiệp Khoa Học Sài Gòn. Thế thì khi em học mổ con lải, em làm sao ?” Tôi hơi ngượng nhưng cũng cố vênh mặt lên trả lời: “Thì em ăn nguyên cái trứng vịt to tướng… Nhưng bù lại mấy bài khác em được điểm tối đa.” Lúc đó, Anh đã cốc nhẹ lên đầu tôi và nói như dí từng chữ vào mặt tôi: “Đúng là các giáo sư dạy em ở Khoa Học mù hết rồi nên mới cho em đỗ đấy.” Rồi cả hai chúng tôi cùng cười. Có lẽ tôi dành nhiều tình cảm cho người đàn ông hơn tôi bảy tuổi này vì anh xuất thân cùng trường với tôi. Mỗi lần anh đến là thêm một kỷ niệm ghi khắc vào đầu tôi. Tôi vui ra mặt vì cảm thấy được Toàn chìu chuộng và bảo bọc. Riêng Toàn, tuy nét mong đợi gặp mặt không giấu được mỗi lần trò chuyện với tôi, nhưng anh vẫn cố giữ lại tình cảm của mình. Mỗi lần về phép, anh thường nói xa xôi, đời lính không có gì bảo đảm cả… Tôi hiểu ý Toàn, tiếp nhận niềm vui anh mang đến như đón Xuân về một cách tự nhiên, và đặc biệt, chưa một lần tôi biết hờn giận anh.
Rồi hai ba năm qua đi sau ngày tôi ra trường. Mỗi mùa xuân là một biến đổi lớn trong đời. Sinh ra trong đất nước chiến tranh, lớn lên trên mảnh đất này, tôi có khá nhiều ưu tư trong cuộc sống. Chúng tôi đã không gặp nhau từ tháng Mười 1974 khi Toàn được thuyên chuyển lên vùng đất đỏ cao nguyên Pleiku… Tính đến nay đã hơn ba mươi lăm năm rồi… Không hiểu sao đêm nay tôi lại nghĩ nhiều đến người đàn ông ấy. Có lẽ nó bắt nguồn từ câu chuyện tôi gặp một người lạ trên chuyến đi công tác trở về…
Trên chuyến bay ngày hôm qua, thật là một may mắn, tôi ngồi cạnh một người Việt Nam trên đường đi thăm con làm việc xa nhà. Người phụ nữ còn rất trẻ với gương mặt hiền hòa. Tôi đã có cảm tình ngay khi cô nhẹ nhàng nói xin phép bước ngang qua mặt tôi để vào chiếc ghế ngồi sát cửa sổ máy bay. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn gợi chuyện làm quen với cô. Cô tên là Vân.
Bắt đầu từ vài câu thăm hỏi thông thường, chúng tôi đã nhanh chóng trở thành hai người bạn đường trên chuyến bay khá dài ấy. Tôi đã quên mất thời gian sau khi bị lôi cuốn vào câu chuyện của Vân. Khi máy bay đáp xuống phi trường. Chúng tôi bịn rịn chia tay, mỗi người đi về một phía. Vân theo chuyến bay tiếp đi thăm con, còn tôi đi về nhà. Hai người chúng tôi không ai mở lời xin số điện thoại của nhau… Nhưng từ đêm qua đến giờ, tôi nghĩ nhiều đến sự gặp gỡ tình cờ này và câu chuyện của Vân…
Tôi nhớ… Vân tâm sự với tôi những khó khăn và nỗi buồn của cô trong đời sống. Vân cho tôi xem ảnh chụp gia đình cô. Vừa nhìn thấy hình bốn người trong ảnh chụp, mắt tôi đã cay cay. Khi Vân nhìn thấy mi tôi ngấn lệ, cô đã kể cho tôi nghe nguyên nhân sâu kín của nỗi buồn. Tôi không hiểu tại sao Vân lại có thể kể chuyện riêng cho một người lạ nghe như vậy. Có lẽ những giọt nước mắt của tôi đã khiến Vân đủ tin tưởng để kể chuyện riêng. Cũng có thể vì tôi có cái nét của một người đàn bà đứng tuổi nên dễ lấy được lòng của người đối diện. Cũng có thể là Vân biết sau chuyến bay này, mỗi người đi về một ngả, sống ở hai quốc gia xa nhau ngàn dặm, và tôi không biết gì cả về gia đình của cô… nên Vân đã không lo ngại khi trút hết đau khổ của mình xuống… Với giọng trầm buồn, Vân kể lại…
Vân lập gia đình năm hai mươi tuổi. Chồng cô là một sĩ quan trở về sau ba năm học tập cải tạo. Năm đó, anh ba mươi bốn tuổi. Đám cưới của họ tuy đơn giản nhưng là niềm vui lớn của cả hai gia đình. Vân, người miền Nam và là chị cả của một đàn em năm đứa. Nhà chồng của Vân là người Bắc di cư năm 1954. Chồng Vân tốt nghiệp ở đại học Khoa Học Sài Gòn và gia nhập quân đội. Vân được gia đình chồng thương mến vì cô hiền và giỏi nấu ăn. Riêng chồng Vân thì rất hài lòng với người vợ trẻ và nhu mì này. Vân sinh cho nhà chồng hai người con, một trai, một gái. Đến nay cả hai cháu đã trưởng thành và làm việc xa nhà. Đời sống của vợ chồng Vân cùng với cha mẹ chồng thật êm ả. Chồng Vân tuy ít nói nhưng là người tháo vác biết lo cho gia đình. Vì vậy, Vân không phải vất vả như nhiều người đàn bà khác. Sau khi sinh con, Vân ở nhà nuôi con, chăm sóc gia đình. Chồng Vân lo liệu mọi mặt, đùm bọc gia đình ngay từ ngày đầu khó khăn trên xứ người.
Trong suốt thời gian gần ba mươi năm, Vân sống yên vui với bổn phận làm dâu, làm vợ, và làm mẹ… Cho đến gần đây, Vân cảm thấy chán ngán đời sống bình lặng ấy, thấy cô đơn một cách lạ lùng, và càng buồn hơn… nhất là sau khi chồng cô về hưu.
Từ ngày ấy, Vân thấy ngày tháng ở nhà lo cơm nước cho gia đình thật dài. Cô mất đi cái thú vui làm bánh, nấu chè, hay làm những món ăn ngon như chả giò, tôm nướng, phở bò… cho gia đình thưởng thức vào ngày cuối tuần mỗi lần các con ở xa về. Cô không vui nên món ăn cũng buồn theo. Đôi ba lần, đứa con gái út ôm vai mẹ thì thầm: “Mẹ ơi ! Cà ri bữa nay không ngon mẹ ạ”. Những nhận xét chân tình của người thân về món ăn Vân nấu đã khiến cô bắt đầu thấy khó chịu và rất bực mình. Đã có lần Vân giận dữ rời bàn ăn khi con gái nũng nịu từ chối không ăn thêm món ăn của mẹ nấu. Chồng Vân và cha mẹ chồng không có phản ứng gì cả. Sự bực bội trong lòng Vân mỗi ngày một tăng thêm trước sự im lặng của mọi người. Cuối cùng, Vân xin phép gia đình cho cô đi làm thêm vào ngày cuối tuần.
Vân tìm được việc làm trong một cửa hàng bán thực phẩm gần nhà. Trước khi đi làm hai ngày cuối tuần, Vân nấu sẵn thức ăn và để vào tủ lạnh cho gia đình. Đến bữa, chồng Vân chỉ cần hâm nóng và dọn ra bàn ăn mời cha mẹ là đủ. Vân không hề lơ là việc nhà dù có thêm việc làm mới. Vân thấy vui hơn nhiều vì được tiếp xúc với khách hàng và có thêm bạn mới cùng lứa tuổi. Họ thương Vân vì cô hiền và vui vẻ. Họ ngưỡng mộ Vân vì hạnh phúc gia đình mà cô đang có. Dưới mắt mọi người, Vân là một người đàn bà diễm phúc nhất, nhưng với Vân thì ngược lại…
Vân tâm sự… Cô cảm thấy rất cô đơn vì sự chênh lệch tuổi tác của hai vợ chồng. Trong xã hội mới, người phụ nữ có nhiều điều kiện để làm cho mình trẻ đẹp hơn. Vân cũng không ngoại lệ… Vân thích cuộn cho quăn đầu ngọn tóc và thả tóc buông lơi trên hai bờ vai, thích trang điển nhẹ mỗi khi có việc phải ra khỏi nhà… nhưng chồng cô thì ngược lại. Ông muốn cô bới tóc cao lên và không nên đánh phấn, đánh son lòe loẹt. Trong khi Vân càng làm cho mình trẻ hơn tuổi thật thì chồng cô không biết giấu đi tuổi già của ông. Hình như ông cố tình làm cho mình già hơn tuổi đời. Nhiều lần đi phố chung với chồng, đã có người nghĩ Vân là con gái lớn của ông. Mỗi lần xảy ra chuyện như vậy ở ngoài đường, về đến nhà ông chỉ im lặng, vào phòng đọc sách, còn Vân thì bực mình vô cùng. Bao nhiêu quần áo Vân mua với màu sắc nhẹ nhàng, đứng đắn, làm cho người mặc trẻ hơn tuổi, nhưng Ông không chịu mặc. Mỗi lần Vân nhắc nhở thì ông lại nói đúng một câu cũ rích: “Quần áo mặc để che thân, không cần cầu kỳ quá đáng đâu. Theo anh thì “Y phục” phải “xứng kỳ đức”. Hơn nữa sắp có dâu, có rể rồi… ” Ông nhất định chỉ thích mặc màu đậm thôi. Vân thật khó chịu khi đi giữa nắng hè đổ lửa mà ông mặc một chiếc áo dài tay màu đen. Nhiều lần hai người cãi nhau về màu sắc của quần áo. Cãi bao nhiêu ông cũng vẫn không đổi, và cuối cùng thì Vân đầu hàng, không muốn bàn tới nữa. Chồng Vân thì như thế, còn bạn của ông, thì đa số trạc tuổi ông hoặc già hơn. Mỗi lần ông và các bạn họp lại để uống cà phê thì Vân phải tìm chỗ trốn vì cô không còn hứng thú ngồi nghe hàng giờ cũng những chuyện trong lao tù được lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần. Tuy không tỏ thái độ chống đối nhưng Vân quan niệm rằng những gì thuộc về dĩ vãng thì cho qua luôn. Bây giờ mọi người đang sống trên đất nước tự do, tại sao lại cứ phải nhắc lại những chuyện đau lòng và không vui như vậy ?! Từ từ, Vân không còn là người đàn bà mà các bạn của chồng cô ngưỡng mộ nữa. Họ giữ đúng phép lịch sự khi mời cả hai vợ chồng tham dự các buổi sinh hoạt của nhóm, nhưng Vân luôn luôn tìm cách từ chối để ở nhà cơm nước cho cha mẹ chồng và để ông đi một mình gặp các cặp vợ chồng bạn cũ của ông. Thêm vào đó, mỗi lần Vân nói chuyện điện thoại lâu thì Ông lại nhắc khéo: “Cẩn thận, kẻo ‘hết chuyện nhà’ lại ‘ra chuyện người đấy’.”
Ngoài những bất đồng về cách ăn mặc và lối sống thường ngày, Vân còn rất buồn vì sự cô đơn. Đã nhiều lần Vân nghĩ, chồng cô không còn yêu cô như năm xưa nữa. Ông không còn chút lãng mạn nào cả dù là lúc chỉ có hai người. Lúc nào ông cũng đăm chiêu ngay cả trong phòng ngủ. Từ khi ông bước qua tuổi sáu mươi, ông đã lơ là với người vợ trẻ kém ông mười bốn tuổi. Vân cảm thấy buồn lắm nhưng không biết phải nói với chồng như thế nào cho ông hiểu. Để chạy trốn nỗi cô đơn, Vân thường ngồi trước máy điện toán đến khuya để trả lời thư với các bạn thời trung học mới tìm lại liên lại trong thời gian gần đây. Vân thấy vui khi các bạn viết thư kể chuyện lúc còn đi học và thêm mấy chữ ‘hahaha” , “hihihi” hoặc giả bộ như khóc đau lòng ‘hichichic”, “huhuhu” ở cuối câu. Vân thấy nguồn sống của cô thực sự được cứu vớt nhờ phương tiện liên lạc rẻ tiền này với các bạn cũ thời trung học ngày xưa ở khắp nơi trên thế giới.
Suốt chuyến bay, bên tai tôi, Vân thì thầm như người ru con ngủ. Thỉnh thoảng giọng cô đong đầy nước mắt khiến tôi cũng mủi lòng theo. Tôi im lặng lắng nghe, không có ý kiến gì cả. Tôi biết nói gì hơn khi nhận ra người người đàn ông trong tấm hình gia đình Vân cho tôi xem trước khi kể chuyện không ai khác hơn là Toàn, người bạn năm xưa mà tôi quý mến và đã khóc thầm vì mất hẳn tin tức của anh khi tôi quyết định ra đi. Quả thật trái đất tròn và nhỏ quá !
Một ngày dài đã trôi qua. Đêm Giao Thừa hôm nay, tôi lại nhớ đến câu chuyện trên chuyến bay kỷ niệm. Tôi thầm nghĩ “Không biết Toàn còn có đón Xuân khi vợ vắng nhà hay không? Mùa Xuân của Toàn bây gìờ chắc là buồn lắm ?!!!” Một cái gì thật xót xa len vào xâu xé tim tôi…
Đồng hồ gõ mười hai tiếng. Tôi mở hé cánh cửa sổ và bắt đầu thắp nến, đốt hương. Văng văng từ xa tiếng chuông chùa gần nhà vọng lại. Tôi tiễn con cọp đi để đón con mèo về… nhưng nỗi buồn của năm cũ vẫn ở lại trong tôi…
Giữ ba nén hương trong hai bàn tay chắp cao cúng thiên địa trong đêm Giao Thừa, tôi nhắm mắt lại và thì thầm khấn nhỏ… Năm nay, ngoài cầu xin Trời Phật phù hộ cho gia đình tôi có sức khoẻ tốt và bình an, tôi đã thêm vào một lời khấn nhỏ cầu xin cho Toàn tìm lại mùa Xuân của anh bên người vợ trẻ và ngược lại.
Vâng, tôi đã thành tâm khấn xin cho Toàn tìm lại được mùa Xuân trong đời, bằng cách nào tôi không biết. Tự nhiên tôi nghĩ đến cá tính thông thường của người phụ nữ và không hiểu sao trong đêm Giao thừa tôi lại cảm thấy lo lo với sự thay đổi cả về thể xác lẫn tinh thần của người đàn bà sau khi “kẻ thù mỗi tháng” của họ từ giã ra đi vĩnh viễn. Tôi lại nghĩ đến Vân…
Tôi thắc mắc, không hiểu, ba mươi năm trưóc khi Vân lấy Toàn làm chồng, Vân có nghĩ đến sự chênh lệch tuổi tác của họ hay không ? Vân có nghĩ đến một ngày nào đó cô sẽ phải đi bên cạnh một người đàn ông lưng còng, râu tóc bạc phơ, chống gậy, run run lần từng bước… Hay lúc đó Vân chỉ biết hãnh diện là đã lấy được một người đàn ông đứng đắn, mẫu mực trong quân đội; một người đàn ông lịch lãm với nhiều lần tu nghiệp ở ngoại quốc về; một người đàn ông có kiến thức khoa học căn bản đã hoàn tất chương trình bốn năm ở đại học Sài Gòn; và có lẽ trên tất cả những gì Toàn có trước năm 1975 là các “mác” đóng trên tờ giấy mang về từ trại học tập cải tạo… với nhiều triển vọng sẽ rời khỏi Việt Nam theo diện bảo lãnh của gia đình… Trước mắt Vân lúc đó hẳn có hình ảnh của một Vân trong tương lai không phải chân lấm, tay bùn, trong một gia đình mà Toàn sẽ đem hai cánh tay vững mạnh của anh ra che chở. Tuổi tác cách biệt mười bốn năm giữa hai người đã hoàn toàn bị lu mờ trước những gì mà nhiều người mong mỏi vào tương lai chỉ nhìn thấy trong hôn nhân mà thôi.
Theo lời Vân kể, bao nhiêu năm trên xứ người, Toàn vẫn giữ đúng hình ảnh của người chồng theo kiểu suy nghĩ của vợ như ở Việt Nam. Người chồng có bổn phận bảo bọc cho người vợ và gia đình suốt đời. Toàn đã làm tròn bổn phận đó rồi cho đến khi anh về hưu…
Có lẽ những ngày hưu trí không phải vật lộn với đời sống nữa nên Toàn đã có thì giờ để nghĩ đến những kỷ niệm đã đi qua cuộc đời anh. Những ngày trong quân ngũ, những năm trong trại học tập cải tạo, những ngày vất vả khi mới đến bến bờ tự do… Toàn đã đánh đổi tất cả những gì anh có để mang lại hạnh phúc cho gia đình trong đó có người đàn bà mà anh lấy làm vợ với tuổi tác khá chênh lệch. Tại sao sự chênh lệc đó không lộ liễu khi anh đi bên cạnh Vân trong nhà thờ làm lễ cưới ? Tại sao mọi người đều chỉ thấy Toàn-Vân là đẹp đôi ? Có lẽ vì họ chỉ nhìn thấy Vân với những ngày tháng no ấm trong tương lai thay vì thấy người đàn ông ba mươi bốn tuổi đi bên cạnh Vân.
Thời gian hơn ba mươi năm qua đi đủ để giết chết hy vọng của một người đàn bà nhưng cũng dư thừa để đem đến cuộc sống đầy đủ từ vật chất đến tinh thần cho một người phụ nữ khác. Hơn ba mươi năm cộng thêm vào tuổi đời của Toàn và Vân cũng không thể thoát khỏi con số này cộng thêm vào tuổi xuân của cô, nhưng tại sao bây giờ sự chênh lệch mười bốn năm tuổi lại trở thành vấn đề nan giải…?
Suy nghĩ mãi nhưng tôi vẫn thật không hiểu nổi tình yêu là gì, ân nghĩa là gì trong thời buổi loạn lạc ! Tôi chỉ có thể biết được một điều là người con gái Việt Nam ở tuổi hai mươi, đại đa số trường thành nhanh hơn so với con trai ở cùng lứa tuổi. Những nam sinh viên học cùng lớp với con gái thường bị xem như em trai vì sự ngô nghê của họ. Vì vậy, rất ít người con gái ở tuổi hai mươi lấy chồng bằng tuổi hay hơn một hai tuổi vì những người thanh niên ở tuổi đó thường bị xem là “hỉ mũi chưa sạch” thì làm sao mà bảo bọc nổi một gia đình để cha mẹ cô gái chấp nhận cho làm rể. Người đàn ông được con gái, nhất là cha mẹ của cô để ý đến, nhất định phải là những người đã có nghề nghiệp, hoặc sắp tốt nghiệp… hoặc xuất thân từ một gia đình khá giả… để có một tương lai đủ bảo đảm đời sống cho người vợ mà họ cưới về. Vì vậy những người đàn ông ở lứa tuổi ba mươi luôn luôn “sáng giá” hơn, nhất là những năm sau 1975…
Tôi nghĩ ngợi miên man đến sự chênh lệch tuổi tác rồi tự hỏi: “Đêm hôm nay, có bao nhiêu người Việt trong lứa tuổi của tôi, ngồi một mình để nghĩ đến chuyện đời và kỷ niệm của những mùa xuân qua với những mất mát không bao giờ tìm lại được…?” Mải mê nghĩ ngợi viễn vông, tôi đã không để ý đến ba nén hương trên bàn thờ cháy hết từ lúc nào nữa. Tôi đứng lên, thổi tắt ngọn lửa trên cây nến nhỏ… như muốn cắt đứt tất cả những gì không thuộc về mình…
Tôi tắt đèn trong phòng khách và đi vào nhà bếp… Chiếc đồng hồ nhỏ trên đầu tủ chỉ một giờ sáng. Thế là đã bước qua năm mới một tiếng đồng hồ. Tôi hững hờ đưa tay xé trang bìa của quyển lịch mới và lần giở xem từng tờ một…
Tự nhiên nước mắt tôi ứa ra, tôi nhớ nhiều đến đôi mắt buồn u ẩn và ngấn lệ của Vân. Có lẽ cũng là phụ nữ nên tôi cảm nhận được nỗi buồn sâu kín và sự cô đơn cùng cực đến độ không che giấu được của Vân. Tôi nhắm mắt lại như cố thu trọn vẹn hình ảnh của Vân vào trong trí nhớ để cùng gửi đi với lời cầu xin thành khẩn và mong mỏi của tôi trong ngày mùng Một đầu năm….
Tôi mong sao Vân sẽ đẹp mãi và không còn buồn nữa. Tôi mong rằng Toàn sẽ chịu khó tìm hiểu thêm một chút nỗi lòng của người vợ trẻ để có một chút thay đổi theo hoàn cảnh mới… Tôi mong người bạn đời nhỏ bé của Toàn sẽ không bao giờ rời xa hay lìa bỏ anh mà đi… vì sự chênh lệch tuổi tác. Tôi cũng mong Toàn gìn giữ những mùa xuân mà Vân đã mang đến cho anh và gia đình suốt hơn ba mươi năm chung sống. Và trên tất cả, tôi mong người phụ nữ tôi gặp trên chuyến bay hôm qua, trong ngày mùng Một hôm nay, sẽ tìm lại được mùa Xuân tươi thắm đầu tiên mà Toàn đã mang đến cho cô lúc cô vừa bước vào đời ở tuổi hai mươi…
Riêng tôi, tôi sẽ giữ mãi những kỷ niệm êm đềm mà Toàn đã để lại sự ấm áp trong lòng tôi từ chiều ba mươi Tết… của mùa Xuân năm đó… !!!
Thiên-Thu
  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #120841 · Replies: 0 · Views: 447

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 09:09 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






“Xin Tạ Ơn Em”

Hoàng Lan Chi Cảm Nhận

Chưa phải là cuối tuần nhưng có chút gì đó để tôi tưởng như là hôm nay ngày thứ bẩy!

Có lẽ bởi trời cuối đông, lạnh giá không còn.
Có lẽ bởi giàn mai vàng hoa chi chít.
Có lẽ bởi lòng tôi dường như đang chuẩn bị cái gì đó…

Và trong cái man mác của chiều đông, tôi mở nghe “Xin tạ ơn em” của Khê Kinh Kha sau cái ‘thỉnh cầu” của tác giả!

Quen từ vài năm, hiểu tính tôi nên KKK lúc nào cũng “ Cô nương ơi”, để “năn nỉ” cái gì đó. Mà tôi thì hay “bắt nạt” bạn bè. Tính “xấu” thật nhưng trong cái “bắt nạt” (đúng ra có khi là giả vờ bắt nạt) là cái “ sẵn lòng”. Và vì thế bạn hữu vẫn ở quanh tôi…

Tôi thoáng ngạc nhiên khi dòng nhạc mở đầu. Bình thường nhạc cho người tình trăm năm rất nhiều gượng ép. Tôi đã từng thực hiện một chương trình “Nhạc cho người tình trăm năm” và nhận thấy vậy. Quả kỳ lạ, nhạc cho mẹ có thể hay nhưng nhạc cho vợ sao hiếm bài sống lâu dài trong lòng người thưởng ngoạn? Tuy vậy, khi nghe hết “Xin tạ ơn em” của Khê Kinh Kha, tôi nhận thấy lời có vẻ rất “trôi” với nhạc. Tôi nghe lại lần hai rồi lần ba, bốn cho ngấm hơn.

Cảm tưởng của tôi là giai điệu nhẹ nhàng, âu yếm, thủ thỉ. Giai điệu này có vẻ dễ hát cho mọi người. Toàn thể dòng nhạc toát lên những điều ấy. Không ảo não rên siết và cũng chẳng kích động ồn ào.

Nhẹ nhàng và có chút u hoài ở phút đầu :

“Xin cám ơn đời, cuộc đời đã mang, em đến trong đời tôi.”.

Nốt nhạc chìm xuống nhẹ nhàng và sau đó hơi vút cao
“ Em gieo mơ ước, trong đời,
em ươm cuộc tình mê say,
cho tôi xây mộng đời dài,
cho tôi một đời gắn bó trong cuộc tình lứa đôi”.
Giọng hát thật dịu dàng và thủ thỉ. Tôi thoáng ngạc nhiên vì lời nhạc. Những lời viết cho người tình trăm năm thật dễ thương

Em đã cho tôi ngày tháng mặn nồng
em đã cho tôi tình nghĩa vợ chồng
cho tôi niềm tin cùng nỗi sống

Ừ nhỉ những gì chia sẻ của vợ chồng phải chăng là mặn nồng ngày thán, là tình nghĩa, là niềm tin để cùng nhau tiến bước.

Em đã cùng tôi qua ngàn cơn sóng. Tôi rất thích câu này. Gói đủ. Đủ để nói lên sự đồng hành của đôi lứa. Sau những cám ơn em, nốt nhạc hạ xuống thật dịu dàng “Người tình của đời anh”.

Kể ra Khê Kinh Kha đã có nhiều cố gắng để đưa những hình ảnh của đời sống vợ chồng vào nhạc, những hình ảnh mà tôi thấy có thiện cảm vì không dung tục mà nói lên cái đạo vợ chồng của một đời người thăng trầm với nhiều sóng gió. Câu cảm ơn này làm tôi thích lắm vì còn gì hơn món quà “con ngoan” của người vợ tặng chồng? Bao đêm mặn nồng gối chăn mà ngôi nhà vắng lặng tiếng trẻ thơ thì hạnh phúc ấy chưa là trọn.

xin tạ ơn em
người tình muôn thuở
em đã cho tôi
từng ngày yêu đương
cho tôi vạn ngàn âu yếm
cho tôi nồng ấm gia đình
cho tôi con cái ngoan hiển
cho tôi thiên đàng ở trần gian


Tôi mỉm cười khi nghe câu hát “thiên đàng trần gian”. Sau bao sóng gió, thiên đàng ấy hẳn trước kia là “địa ngục” cũng không dưới vài lần? Nhưng có cái gì đẹp đẽ mà không có giá của nó phải thế không? Hạnh phúc chỉ có giá trị khi từng có sự hiện diện của đau khổ kia mà ! Trái ngọt không phải một sớm một chiều mà là công khó vun trồng của cả quãng đời dài..

Tưởng như là thứ bẩy đi bạn nhé để mời “người ấy” cùng nghe “Xin tạ ơn em”:

XIN TẠ ƠN EM

Xin tạ ơn đời
cuộc đời đã mang em đến trong đời tôi
em gieo mơ ước trong đời
em ươmcuộc tình mê say
cho tôi xây mộng đời dài
cho tôi một đời gắn bó trong tình lứa đôi

em
em đã cho tôi
ngày tháng mặn nồng
em đã cho tôi
tình nghĩa vợ chồng
cho tôi
niềm tin cùng nỗi sống

em
em đã bên tôi
qua ngàn con sóng
em đã cùng tôi
qua đêm thanh vắng
qua ngày gian nan
xin tạ ơn em
người tình cùa đời anh

xin tạ ơn em
người tình muôn thuở
em đã cho tôi
từng ngày yêu đương
cho tôi vạn ngán âu yếm
cho tôi nồng ấm gia đình
cho tôi con cái ngoan hiển
cho tôi thiên đàng ở trần gian

xin tạ ơn em
người tình chung thủy
xin tạ ơn em
vì em mà đời nhiều lẻ sống
vì em mà đời nhiều hương phấn
xin tạ ơn em
người tình trăm năm

Khê Kinh Kha
  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #120834 · Replies: 0 · Views: 638

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 08:56 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






Chờ Tình - Nhạc & lời Khê kinh Kha





chờ tình

đời như biển – biển mênh mông
tình như bãi cát lặng câm
lòng ta là bóng trăng nằm lẻ loi
em rũ tóc – giữa đời ai
ôi mòn mõi – tháng ngày rơi
con tim chờ đợi ngậm ngùi riêng tôi
Chờ ai mấy thuở mưa rơi,
Chờ ai mây cũng xa trôi,
chờ thiên thu hỡi , chờ người tình mơ
chờ ai, chờ giữa bao la
chờ trong cơn mộng xót xa tình chờ
chờ ai, mộng đã dần khô
Hồn say như lá mùa thu,
Tình ta như đám sương mù lạnh căm…
chờ ai, chờ đến trăm năm
trăm năm lệ ướt lưu vong
một mai ai hỡi héo tàn ước mơ ?
Vầng trăng lẻ bóng đêm khuya,
Giọt sương giá buốt môi khô,
đường dài vạn nẻo mình ta đi, vê
chờ ai, tình mãi say mê
Chờ nhau, chờ hết lòng mơ,
chờ bao lâu nữa cho vừa lòng nhau?
chờ ai, dù có mòn hao
chờ nhau, dù ngàn thương đau
quạnh hiu rụng giữa lòng sầu thế gian
Chờ ai chờ chết con tim,
Chờ nhau nhạt phấn phai son,
Chờ đêm hiu hắt ngày buồn đơn côi,
Chờ ai tình có chờ tôi,
Chờ nhau ai có lệ rơi,
Chờ ai chỉ thấy một trời đau thương…
chờ ai, biển rộng đại dương
chờ ai, tình vẫn muôn phương
một lòng son sắt, một lòng chờ ai
Chờ nhau dòng nước dần trôi,
Chờ ai năm tháng phôi phai,
chờ nhau, chờ hết đường dài mây bay
chờ nhau, chua xót môi cười
Đời tôi mưa nắng đầy vơi,
Một mai thân thế ngậm ngùi người ơi!
Chờ ai tình vẫn còn say,
Chờ ai sông núi buồn lây,
chờ nhau hoa lá hao gầy tuổi xanh
chờ ai, tình vẫn lặng yên
Sầu đau rơi giữa buồng tim,
Một trăm năm nữa ưu phiền ai hay?
Nghìn thiên thu nữa
chờ tình – chờ em …


Khê Kinh Kha
  Forum: FLASH VIDEO MUSIC · Post Preview: #120833 · Replies: 0 · Views: 534

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 08:45 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278









Phan Khôi với tình già

(Phan Khôi- ông Tổ thơ mới


Phan Khôi (1887-1959) ,hiệu Chương Dân, quê làng Bảo An,huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, xuất thân từ gia đình vọng tộc ( cha là Tri phủ Điện Bàn, mẹ là con gái Tổng đốc Hà Nội-anh hùng dân tộc Hoàng Diệu), năm 18 tuổi đỗ Tú tài Hán học (1905)., sau chuyển sang Tây học…lâu nay được suy tôn là “Ông Tổ thơ mới” với khởi thủy là bài thơ “Tình già” được in trên Tạp chí “Phụ nữ tân văn”, số 122 ngày 10/3/1932- số cuối xuân Nhâm Thân- đến nay sắp tròn 80 năm.Thơ Việt Nam ta, nếu tính từ Vạn Hạnh thiền sư (?-1018) đến Tú Xương (1870-1894) tới Tản Đà là ngót 900 năm : ông cha ta vẫn làm theo những vần điệu thơ cũ (niêm luật gò bó).thì sự ra đời của bài thơ “Tình già” là một sự đột khởi,trên thi đàn Việt Nam như một làn gió mới xô đổ bức tường thành nghìn năm Phong kiến (theo các thể thơ Trung Hoa làm khuôn vàng ,thước ngọc dùng để Thi cử ra làmQuan cai trị).

Phan Khôi với sứ mệnh một Nhà văn -ngự sử văn đàn đường thời đã đứng lên hô hào một lối thơ mới : thơ phá thể (được nhiều người tán thưởng cũng như chống lại) mở màn cho sự Đổi mới nền thi ca dân tộc (cả về hình thức cũng như nội dung).

TÌNH GIÀ

Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở :
”Ôi đôi ta, thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đà không đặng;
Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau !”
- “Hay, nói mới bạc làm sao chớ ! buông nhau làm sao nỡ ?
Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy !
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng mà tính việc thủy chung !”.

Hai mươi năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau
Đôi cái đầu đều bạc, Nếu chẳng quen lung, đố ai nhìn ra được ?
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi.
PHAN KHÔI


XUẤT XỨ BÀI THƠ : Theo một số Nhà Nghiên cứu thì đây là thiên tình sử não nùng mà Cậu Tú Phan Khôi bị tình yêu sét đánh của một mệnh phụ phu nhân (vợ trẻ của viên Quan tứ phẩm quản lý Nhà tù Quảng Nam) xảy ra hồi cuối năm 1907 (21 tuổi) PK do tham gia phong trào “xin xâu” (yêu nước chống Pháp) trong khi gia đình người vợ chưa cưới tuyên bố thoái hôn vì Chàng rể lâm vào vòng lao lý ! Số là hồi tết năm ấy, viên Quan coi ngục chọn đưa “tên tù viết chữ đẹp” (PK) về nhà viết Câu đối Tết cho Quan…thế là một cuộc kiến diện giữa Chàng trai tài hoa (tù nhân vì yêu nước) với người đẹp cùng trang lứa (người trắng trẻo, mặt trái xoan duyên dáng…) để ” Bà thấy Thầy thì thương lắm…” Rồi thư đi tin lại cùng đôi lần gặp gỡ vụng trộm…Rồi không thể vượt được rào cản : Nàng ốm và qua đời… , mối tình đẹp và buồn thời trai trẻ trong cảnh ngộ trớ trêu trên đã để lại trong tâm tưởng Phan Khôi không bao giờ phai nhạt , và 24 năm sau dư vị của nó để chàng “hòai niệm” xuất thần bài thơ “Tình già” bất hủ, chỉ có khác là (ở trong thơ) hai người còn sống, đôi mái đầu đều bạc đến nỗi nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được ? Họ chỉ ôn chuyện tình cũ rồi xa nhau, vẫn còn ám ảnh mãi là nỗi thèm khát được nhìn nhau- vì chưa bao giờ được nhìn no nê ,con mắt còn có đuôi là thế (theo Lại Nguyên Ân).

Về Nghệ thuật : “Tình già” không phải là kiệt tác, thơ viết theo kiểu “thơ văn xuôi” ( tự do có vần ,có nhạc điệu, lời nói choán hình tượng thơ…dễ cảm nhận như một bài “văn biền ngẫu” trữ tình). Tuy nhiên, cái giá trị của nó là phát súng khai hỏa mở màn cho một trận đánh sinh tử gữa thơ Cũ/ Mới…để tiếp đó xuất hiện những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Vỹ, Bàng Bá Lân, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc tử, Bích Khê …với nhiều thi phẩm tuyệt tác…kết cục là Thơ Mới toàn thắng : một nền thơ Việt tầm cỡ (đầy hồn Việt với một nghệ thuật cao) ra đời, tạo ra một Thời đại mới của thơ ca Việt Nam, phát triển -hội nhập ra Thế giới với tư thế là một Quốc gia Thơ có tầm cỡ Quốc tế hiện đại.

Góc Thành Nam Hà Nôi 3-2-2012
Viết để kỷ niệm 80 năm bài thơ “Tình già”
Nguyễn Khôi
  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #120832 · Replies: 0 · Views: 567

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 08:38 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278









Quà một thời

Lời tác giả: Thân tặng bạn bè tôi, những người dân Sài Gòn đã sống cùng thời với tôi trên mảnh đất thân yêu này, dù còn ở lại hay đã đi xa; Những người bạn mới quen và cả những người chưa từng quen biết. Để nhớ về những món quà tuyệt diệu của tuổi thơ mà bây giờ chỉ còn lưu lại trong chúng ta hương vị ngọt ngào của một thời đã xa mãi mãi.

Tôi là một người có “tâm hồn ăn uống”. Cái thân hình đều đặn ba vòng bằng nhau bây giờ là kết quả (hay hậu quả?!) của mấy chục năm miệt mài thưởng thức một cách hết sức nhiệt tình những món ngon và chưa ngon của hầu hết những quán hàng tiệm ăn to nhỏ lớn bé trong lòng thành phố! Ăn trong nhà hàng máy lạnh có nhạc nhè nhẹ êm dịu mọi người nói năng nhỏ nhẹ lịch sự hay ăn trong một quán nướng ồn ào tiếng cụng ly côm cốp cười nói rân trời của mấy ông bợm nhậu, hay ăn nhỏ nhẻ mát mẻ trong một sân vườn cạnh bờ sông bốn bề gió lộng nước lách tách vỗ sóng bên sàn gỗ dưới chân…
Tôi đã ăn cùng với bạn bè, người thân, người yêu và cả với người ghét (thí dụ như phải đi ăn đám cưới của cảnh sát khu vực chẳng hạn!) những món ăn đã có từ thời xưa hay những món vừa được sáng chế ra lúc mới đây, những món có tên gọi bình dân hay những món nghe nghĩ mãi chẳng biết là món gì bởi cái tên gọi vừa cầu kỳ vừa bí hiểm! Có món tôi thích, có món không. Nhưng chưa bao giờ có một món ăn nào làm cho tôi chợt ngẩn người vì một nỗi nhớ nhung lạ lùng, đến dường như khắc khoải, như trong một lần gần đây khi đi qua một ngôi trường tiểu học nhỏ nằm cạnh một đường ray xe lửa, trong khi đứng chờ bên cạnh thanh chắn ngang đường ray, giữa tiếng bánh sắt nghiến rầm rập, hình ảnh hai em bé học sinh cùng uống chung một chiếc ly nhựa nhỏ nước xi rô bất giác làm tôi nhớ đến món quà của tuổi nhỏ ngày xưa, bây giờ không còn thấy bán nữa: cục đá nhận! Và tôi nhớ đến bàng hoàng tha thiết những món quà hồi tôi còn nhỏ, những món quà của một thời!

Ồ, nói ra thì thấy lạ lùng, chứ hồi nhỏ quả không mấy ai là không mê cái vị ngọt lạnh dễ chịu của cục đá nhận mà cách làm vừa đơn giản vừa… mất vệ sinh của xe nước giải khát bán ở cổng trường! Có lẽ khi ấy kem cây chưa có nhiều, lại mắc không phù hợp với túi tiền ít ỏi của lũ học trò nhỏ chúng tôi, nên cục đá nhận vừa lạnh vừa ngọt, có màu sắc rực rỡ lại rẻ tiền được hoan nghênh số một!
Người bán hàng dùng một cái bàn bào nước đá bằng gỗ bốn chân có một lưỡi dao bào bằng thép trên mặt đặt cục nước đá lên, bào ra những vụn đá tơi xốp trắng toát đầy cái đĩa nhôm nhỏ hứng ở dưới, nhanh nhẹn dùng một cái ly nhựa nhỏ hốt đầy đá bào vào ấn chặt như cách ta làm bánh bằng khuôn, gõ nhẹ cho cục đá bào đã được nén chặt trong ly rớt ra, vớ lấy chai xi rô màu xanh, đỏ hay vàng theo yêu cầu (xanh lá cây là mùi Bạc Hà, vàng là Chanh, đỏ là Cam hay Lựu) trên nắp chai xi rô bằng nhựa đã đục sẵn một lỗ nhỏ, xịt mấy cái trên cục đá nhận cho nước xi rô thấm vào, vừa xịt vừa khéo léo xoay tròn cục đá cho màu loang đều, có khi còn rưới thêm một chút nước chanh muối lên trên nếu được nằn nì xin thêm. Đứa học trò trả tiền chộp ngay lấy cục đá nhận ngửa cổ mút lấy mút để vị ngọt lạnh trong lúc đứa bạn không có tiền kiên nhẫn chờ kế bên đợi khi cục đá nhạt màu vì đã gần hết xi rô thì được mút ké một chút, cứ thế hai đứa nhỏ vừa đi vừa kề đầu chụm vai chia nhau một cục nước đá nhận đã hết cả vị ngọt lẫn mùi thơm, chỉ còn trơ cái lạnh và nhạt trên đầu lưỡi bị nhuộm màu!

Ở cổng trường tiểu học của tôi hồi đó có nhiều hàng quà rong lắm. Mặc dù đã có lời dạy không nên ăn quà vặt nhưng hầu hết học sinh đều vi phạm bởi sức hấp dẫn của những món quà này. Mà ngày xưa thì quà bánh cũng chẳng lấy gì làm phong phú đẹp đẽ như ngày nay, chỉ những món đơn giản rẻ tiền mà sao nhớ nhung đến thế, hay vì trong những món quà thời ấy còn chất chứa cả một thời trẻ dại hồn nhiên chưa biết nghĩ suy gì?! Trẻ con ngày nay đi học hầu hết đều được Cha Mẹ đưa đón bằng xe riêng, ít thấy em nào đi một mình, hàng quà lại bị cấm bày bán trước cổng nên chẳng còn cảnh lê la ăn quà trước khi vào lớp như chúng tôi ngày xưa. Hồi tôi nhỏ, đi học toàn là tự đi bộ một mình, mấy đồng bạc cắc đút túi cứ như muốn nhảy ra khỏi tay trước những mẹt quà bày sát lối vào trường, thôi thì đủ món đủ thức tùy theo mùa theo vụ:

Đây là hàng bánh tráng kẹo có bà bán hàng mặc áo nâu nhanh nhẹn trở bánh trên bếp than nhỏ trong một cái nồi bầu miệng loe bằng đất nung, vừa thoăn thoắt bẻ bánh mới nướng xong còn đang nóng hổi, kéo những đường mạch nha dẻo quẹo trên mặt bánh rắc lên nhúm dừa nạo trắng muốt rồi gập đôi miếng bánh lại, món quà này tương đối mắc tiền, chỉ khi nào có tiền nhiều một chút tôi mới ăn.

Đây là mẹt hàng của một chị còn trẻ tuổi tóc búi gọn phía sau gáy, bán đủ thứ bánh kẹo xanh đỏ rất ưa nhìn:

Những cái bánh bằng bột gạo nướng với đường nhỏ xíu tròn tròn như những cái móc dùng để treo màn cửa màu vàng cam được xâu từng chùm vào một sợi dây lác để đeo vào cổ như một sợi dây chuyền, những xấp me ngào bột màu nâu đỏ nhỏ cỡ đồng xu ăn với muối ớt chua chua ngọt ngọt, những viên cốm nếp ngào đường tròn cỡ nắm tay thơm thơm mùi gừng, những cục kẹo ú đẫm bột hình khối tam giác màu vàng nhạt, những cục kẹo sữa màu trắng đục cắn vào có vị bùi béo của đậu phụng rang giã nhuyễn gói bằng giấy màu trắng có chữ màu xanh, những viên kẹo màu xanh màu vàng màu đỏ bọc giấy bóng kiếng trong thơm mùi trái cây, những bịch mứt dừa nhuộm đủ màu, những bịch bánh tráng tròn nhỏ màu vàng đỏ mặn mà…

Còn ai nhớ vị ngọt chát của những trái Trâm to bằng đầu ngón tay cái màu tím thẫm ăn vào nhuộm tím cả lưỡi cả miệng? Những trái Nhãn Lồng mọc hoang nhỏ cỡ đầu ngón tay út vỏ màu trắng ngà với chút xíu cơm mỏng dính ngòn ngọt. Những trái Sung chín đỏ nhìn ngon mắt nhưng nhạt phèo và ruột đôi khi có đầy kiến gió. Những trái Chùm Ruột chua ghê răng ăn với muối ớt. Những trái Bình Bát trông giống như trái Mãng Cầu Xiêm nhưng lổn nhổn hạt chua chua… Loại trái cây mọc hoang dại trong lùm, trong bụi nơi vùng ngoại ô thành phố được bày bán trong những mẹt hàng nho nhỏ bên cổng trường thuở ấy đã gợi thèm thuồng biết bao đứa học trò nhỏ mỗi lúc ghé nhìn.

Và đây nữa, những trái Cóc xanh gọt vỏ rồi tách thành một bông hoa nhiều cánh ngâm trong nước Cam Thảo vàng, những lát xoài sống ăn với mắm ruốc tím có điểm những khoanh ớt đỏ thắm, chùm trái Trường trông giống như những trái Vải tí hon vỏ màu đỏ nâu, những chùm trái Sai vỏ đen nhung với lớp ruột màu vàng cam có cái hạt dẹp dẹp nho nhỏ trông giống như .. một con ve chó lớn! Và Thơm xẻ miếng, và Đu Đủ, Mận, Mít bày trong một cái tủ nhỏ bằng kính có đặt cục đá ướp lạnh.

Tôi không biết ăn Ô Môi. Thứ trái cây dài ngoằng và cứng ngắt ấy không ngờ là hậu thân của những bông hoa đỏ thắm xinh đẹp vẫn mọc dọc bờ sông nhiều nhà ở miền tây Lục Tỉnh. Trái Ô Môi hơi giống trái Phượng nhưng to hơn, cũng có vỏ màu nâu đen. Khi ăn phải hái phơi kỹ trên nóc nhà cho khô, dùng dao chặt thành từng khúc ngắn, vạt hai bên vỏ trái cho lộ ra lớp hạt xếp đều đặn dính liền nhau bởi một lớp cơm màu nâu đen như nước màu kho cá, và cái mùi thum thủm của nó thì thật khó tả! Tôi chịu! Chỉ nghe đã muốn bịt mũi chạy xa, vậy mà bọn bạn tôi cứ mua từng khúc gặm ngon lành, còn cẩn thận mút cho bằng hết những chiếc hạt ấy, nghe kể rằng ngọt nhưng hơi chát ăn mãi không chán!

Tôi rất thích đến bên thùng xe làm bắng sắt tròn của ông hàng Kẹo Bông Gòn. Ở giữa tâm vòng tròn có một cái lõi nhỏ, mỗi khi ông bán Kẹo cho vào đó ít đường cát trắng, vừa đạp cái bàn đạp cho vòng thùng tròn quay thì lớp đường kéo tơ hiện ra càng lúc càng nhiều, đưa đôi đũa quơ quanh một vòng thành một lớp bông gòn xốp mịn nhìn thật đẹp mắt, cho vào miệng lớp bông ấy tan nhanh để lại vị ngọt ram ráp trên đầu lưỡi như một chút tiếc nuối. Hàng kẹo kéo thì lúc nào cũng có quay số, số bao nhiêu thì được trúng bấy nhiêu kẹo, nhưng hễ số kẹo càng nhiều thì ông hàng kẹo kéo lại kéo nhỏ cây kẹo thêm một chút, rốt cuộc nếu gộp tất cả số kẹo trúng thưởng vào chung thì có lẽ vừa bằng một cây kẹo mua bằng tiền không quay số mà thôi!

Còn hàng kem cây.

Ngày xưa chúng tôi gọi là hàng “Cà Rem” . Người bán Kem có hai bình thủy để cân đối hai bên “boọc ba ga” một bên đựng kem các mùi như Va ni, Sầu Riêng, Dừa… một bên đựng kem đá với các màu xanh đỏ vàng tượng trưng cho Cam, Chanh và Bạc Hà. Mỗi khi bán, tùy theo giá tiền người bán sẽ dùng dao cắt cục kem lớn nhỏ khác nhau, dùng một que nhỏ ghim vào miếng kem mà đưa. Một loại kem khác, thứ này mắc tiền hơn, mà người ta thường bán trong tiệm nhưng cũng có những xe đẩy bán trước cổng trường, là loại kem múc bằng muỗng tròn để lên trên những cái bánh bột mỏng hình loe dài như một đài hoa xinh xắn có đủ các màu vàng xanh trắng, rưới lên trên khi thì một ít đậu phụng rang giã nhuyễn với một chút sữa đặc có đường, khi thì một chút xi rô xanh xanh đỏ đỏ. Trẻ con không thích ăn kem ly, phải đứng tại chỗ mà ăn, mất thì giờ; vừa đi vừa ăn ngon mà nhanh hơn. Hôm nào có tiền kha khá một chút thì mua hẳn một cái bánh mì ngọt kẹp mấy cục kem có rưới sữa và rắc đậu vào thì quả là ngon hết chỗ chê!

Buổi sáng đến trường sớm mà chưa ăn sáng ở nhà, đã có hàng xôi của bà hàng với hơi nóng nghi ngút bốc lên kèm theo mùi thơm hấp dẫn! Bà hàng lấy một miếng lá chuối cỡ hai bàn tay xoè, đặt lên trên đó một miếng bánh tráng phồng cỡ bàn tay, thường có hai loại xôi là xôi đậu xanh và Xôi Nếp than, ai muốn ăn gì thì bà sẽ xới xôi ấy lên trên miếng bánh phồng, trét một lớp nhưn đậu xanh nấu chín tán mịn lên, rưới một muổng mỡ hành có lẫn mấy miếng tóp mỡ béo ngậy, rắc một lớp đường cát trắng và sau cùng là chan lên một muổng nước cốt dừa. Xôi được gói chặt lại sao cho miếng bánh phồng bọc kín hết như một lớp vỏ bánh, cắn vào vừa bùi vừa béo, thơm ngon làm sao! Cạnh đó lại có bà cụ người Bắc mặc áo vải trắng đầu vấn khăn nhung bày một thúng bán xôi Lúa hay còn gọi là Xôi bắp, cụ có hàm răng đen nhánh với miệng cười hiền từ, thoăn thoắt xé lá gói những gói Xôi bắp với những hạt Bắp màu trắng đục hầm mềm và những hạt nếp dẻo thơm phức, cũng là đậu xanh nấu chín nhưng đậu của xôi Bắp thì giã tơi thành một lớp bột khô rắc lên trên, chan vào một muổng nhỏ hành tím bào mỏng phi vàng rồi sau cùng là một muổng muối đường.

Ít tiền hơn đã có hàng khoai luộc. Cũng tỏa khói nghi ngút nhưng giản dị hơn, chỉ một nồi hay rá nhỏ đặt trên bếp lửa, này là khoai lang Bí vỏ nâu đỏ ruột vàng, khoai lang Dương Ngọc vỏ hồng tím ruột tím nhạt, cả khoai lang trắng ruột trắng như bột, khoai Đà Lạt thì củ nhỏ mà ốm nhưng mật tươm cả ra ngoài vỏ, lâu lâu mới thấy bán. Khoai Mì (Sắn) thì cắt thành từng khúc xếp ngay ngắn bên cạnh những củ khoai Mì Tinh (có người còn gọi là khoai Bình Tinh) và củ Chuối (Dong Riềng) và những củ Từ vỏ vàng nhạt hay những củ khoai Môn tròn trĩnh.

Cũng là khoai mì, nhưng khoai mì quết dừa làm bằng những củ khoai bột tán nhuyễn, trộn thêm xác dừa khô nạo và đường cát trắng, thêm chút muối đậu, gói trong lá chuối, có thể dùng lá cây Dứa dại cắt ngắn từng khúc thay cho muổng xúc ăn, hay nắm lại thành nắm như nắm xôi mà ăn; vừa ngọt, vừa bùi. Lại thơm và béo của dừa khô trộn lẫn, ngon không biết tả sao cho vừa!

Khoai mì mài ra lấy bột đem lọc kỹ, để ráo sẽ cắt thành sợi dài mà dẹp, hấp chín rồi cũng trộn chung với dừa khô nạo nhuyễn là sẽ thành món bánh tằm khoai mì trộn dừa, muốn có màu sắc hồi đó người bán không dùng màu hóa chất mà lấy màu xanh của lá dứa, màu tím của lá cẩm, màu đỏ của trái gấc chín, nên những sợi bánh tằm ăn vào mỗi màu có một mùi thơm riêng biệt, vì vậy ăn ít ngán hơn.

Hồi đó trước cổng trường tôi có một bà già người Tàu mà mọi người thường gọi là Thím Xẩm bán bánh ướt rất ngon. Bánh ướt của người Tàu khác bánh ướt của người Việt ở chỗ bánh họ tráng dầy hơn, lại thoa lên trên một lớp mỡ có hành lá xắt nhỏ rồi cuộn lại thành từng cuộn dẹp, ăn với nước mắm pha loãng và giá trụng. Bà Tàu già ấy quanh năm chỉ thấy mặc một chiếc áo vải màu đen bạc phếch, một chiếc quần ngắn trên mắt cá bó ống và một đôi giày vải đen có thêu đã cũ mèm. Tóc bà cắt ngắn tới ngang cổ, cài một chiếc lược sừng đã bóng lộn vì thời gian. Mặc cho lũ chúng tôi tíu tít hối thúc bà già vẫn chậm chạp cắt bánh, lấy rau, rót nước mắm, rửa đĩa, thu tiền, những động tác chậm chạp của tuổi già và đôi mắt một mí hum húp như thuộc về một nơi chốn khác, không phải là cái nơi ồn ào nhộn nhịp của một cổng trường đang giờ sắp mở cửa.

Cái bánh tôm ăn chung với bánh ướt của bà Tàu già cũng ngon lạ lùng. Khá giống với bánh Cóng của Sóc trăng, nhưng không có tôm, cũng không có giá, tuy gọi là bánh tôm nhưng chỉ có đậu xanh hột được hấp chín và bột gạo, chiên vàng thành những cái bánh tròn xốp, ăn không biết chán.

Cùng một thứ ăn với nước mắm như bánh ướt là huyết heo hấp. Những miếng huyết heo vuông vức cỡ lòng bàn tay màu đỏ nâu được hấp chín rải lên trên từng lớp mỡ hành xếp đầy trong chiếc nồi được ủ nóng bằng mấy lớp bao bố dầy cộm. Người bán dùng dao cắt miếng huyết heo thành từng lát, cho thêm mỡ hành, giá trụng và một nhúm rau thơm cắt nhỏ, chan nước mắm lên, thế là xong! Nhưng món quà này ăn mau ngán, nên người bán hàng, một ông già mặc áo quần màu nâu, đầu đội mũ cối nhựa trắng, chở chiếc nồi trên yên sau chiếc xe đạp cọc cạch cũ kỹ, lâu lâu mới ghé qua cổng trường, dựng chiếc xe đạp vào một góc tường quen thuộc, vừa phì phà điếu thuốc vấn vừa chờ đợi đám khách hàng nhỏ tuổi.

Cũng bán hàng trên xe đạp và cùng là đàn ông bán hàng là món gỏi khô bò. Trong chiếc thùng một mặt có kính đựng đầy ắp những sợi đu đủ xanh bào mỏng, khô bò màu đen sánh cất trong một ngăn tủ nhỏ, chai giấm trắng, chai nước tương đen, chai nước ớt màu đỏ xếp cạnh chồng đĩa nhôm nhỏ, nắm đũa nhôm chiếc cong chiếc thẳng cắm trong một ống đựng treo lủng lẳng, ông hàng gỏi có một chiếc kéo sắt đen và to vừa dùng để cắt khô bò, vừa dùng nhắp thành những tiếng đều đều báo hiệu thay cho tiếng rao mời.

Cái đĩa nhôm trầy trụa và trẹt lét của ông hàng gỏi chỉ được tráng qua nước rồi lau vội bằng một cái khăn màu cháo lòng sau khi có khách ăn xong, lại được bốc đầy có ngọn nắm đu đủ bào, vài sợi khô bò nhỏ xíu cỡ đầu que diêm đặt khéo léo lên trên, một chút rau thơm thái sợi và một nhúm đậu phọng rang vàng giã dập, chan đẫm nước giấm và nước tương, thêm chút ớt đỏ cay cay, chúng tôi vừa ăn vừa xuýt xoa xin thêm giấm, thêm nước tương, ăn hết đu đủ húp cạn hết cả nước giấm mà vẫn còn thấy thòm thèm!

Bánh mì tương cũng là món quà được bọn học trò chúng tôi chiếu cố tận tình vì rẻ mà lại ngon; chỉ có một khúc bánh mì không xẻ ra, rưới một muổng tương đen, một muổng tương đỏ, thứ tương người ta vẫn dùng để ăn phở nhưng có lẽ người bán đã cho thêm ít đường cho dịu bớt, và thêm ít bột cho sánh lại, gắp vào một ít đồ chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt cắt sợi ngâm giấm đường là có một món vừa ngon vừa no bụng. Nếu có tiền thì ăn bánh mì bì, bì làm bằng da heo cắt sợi nhuyễn, thêm chút thịt đùi heo chiên cắt nhỏ như que tăm, trộn một chút thính gạo rang vàng cho thơm, bánh mì bì ăn với hành lá xắt nhỏ phi chín chung với tóp mỡ, chan nước mắm chua ngọt, ngon hơn bánh mì tương một bậc, và cũng mắc tiền hơn!

Bắp thì có hai thứ, bắp luộc đựng trong thúng ủ tấm bàng tròn, hơi nóng bốc lên cùng với mùi lá dứa thơm phức, những trái bắp vỏ ướt nước nóng hổi cầm bỏng cả tay, xé lớp vỏ như những lần lụa mỏng mềm mại phía trong cùng là lớp hạt vàng rực đều đặn hiện ra trông thật bắt mắt, hạt bắp luộc dẻo và ngọt, nếu ăn bắp non thì cái cùi bắp mềm mà ngọt không thua gì mía hấp. Bắp nướng thì phải ngồi đợi một bên cái bếp than làm như một cái máng chữ nhật nhỏ của bà hàng, chờ lớp vỏ ngoài cháy đen một phần, bà mới bóc hết làn vỏ bắp ra để những hạt bắp được nướng chín trên lửa từ từ trỡ sang màu vàng ruộm, rồi vàng cháy, mùi bắp nướng thơm lừng tỏa ra trong không khí, xé một miếng vỏ bắp bọc lấy cái cuống trái bắp nướng dốc ngược đầu xuống một chén mỡ hành đặt cạnh bếp, dùng một đoạn sống lá chuối chẻ dập đầu thoa đều mỡ hành lên khắp trái bắp, mùi thơm của bắp và mỡ hành làm chúng tôi nuốt nước miếng thèm thuồng, cầm vội vàng trái bắp nóng hôi hổi trên những ngón tay lóng ngóng và gặm hối hả, vị mặn mà của mỡ hành có lẫn vài miếng tóp mỡ dòn dòn, hạt bắp vừa cứng vừa dẻo, nhồm nhoàm một cái đã thấy chỉ còn trơ lại cái cùi khô khốc vô duyên!

Bây giờ ít thấy bán đậu đỏ bánh lọt, thứ quà ngon mà mắc tiền hơn đá nhận xi rô, vẫn bán trước cổng trường trên những chiếc xe đẩy bằng nhôm sáng loáng thuở nào. Trong những chiếc thẩu tròn xếp thành dãy người ta đựng nào là đậu xanh hấp chín màu vàng đậm đà, nào là đậu đen chín bở, đậu đỏ đều hạt, đậu Mỹ màu trắng hạt to như đầu ngón tay cái,và một cái thẩu đầy những sợi bánh lọt màu trắng trong và dai ngập trong nước đừa đục màu sữa, lại có cả hạt É lấm tấm như những chùm trứng Ếch tí hon có lẫn những tảng nhỏ Lười Ươi nâu như màu mận chín, nước đường thắng kẹo đựng trong hũ thủy tinh trong được múc bằng một cái muổng đặc biệt làm bằng nửa quả Mù U khô cắm trong một cây đũa tre dài.

Đã lâu lắm tôi không còn thấy ai bán Bông Cỏ với Hột Lựu. Hình như món ăn này, cũng như món mía hấp, mía ghim đã lặng lẽ biến mất tự lúc nào chẳng ai hay biết. Mía hấp thì thường là một người đàn ông trung niên đẩy xe ba bánh rao bán trên đường phố vào khoảng tối khuya, tiếng rao “Mía hấp” kéo dài hơi ngân nga và ánh sáng chập chờn của một ngọn đèn dầu nhỏ thắp trong chiếc lồng đèn vuông thường gợi nhớ vào những tối trời tạnh mưa, không khí ẩm và lạnh mà mùi thơm ngọt ngào của những cây mía nóng hổi khi mở nắp chiếc vung to lớn của ông hàng mía lan tỏa trong không gian thật là dễ chịu. Ông hàng Mía hấp có một cái bào to với một bên thân bào là dao bén ngót. Những khúc mía màu nâu tím hay vàng mơ được hấp chín trong một loại nước có vị thuốc Bắc xếp đầy trong một cái thùng sắt to đặt trên bếp than cháy âm ỉ để giữ cho nước trong nồi lúc nào cũng nóng già, khi có người mua ông dùng bào róc sạch vỏ rồi nhanh nhẹn trỡ lưỡi dao tiện thành từng khẩu mía ngắn và đều nhưng không tiện đứt hẳn mà vẫn còn dính vào nhau, mía hấp ăn thơm và mềm, người già răng yếu cũng có thể ăn được. Mía ghim thì chỉ là mía thường, róc vỏ, bỏ mắt và tiện ra thành những lóng ngắn nhỏ cỡ một đốt ngón tay, ghim vào trong một đoạn tre ngắn được chẻ ra nhiều thanh nhỏ ở một đầu thành ra một bông hoa ngộ nghĩnh xoè tròn người ta thường bán trước cửa rạp hát hay rạp xi nê hồi đó. Mía bây giờ người ta đựng trong bịch nylon, tuy cũng tiện tròn nhưng nhìn tẻ nhạt chứ không xinh xắn hấp dẫn như mía ghim thuở đó!

Bông Cỏ thì đặc biệt hơn, trông giống như Sương Sa nhưng hơi mềm mình, và lại thơm ngon hơn nhiều. Có lẽ tuổi nhỏ với khẩu vị đơn giản và đồng tiền có hạn nên món nào hồi xưa mình ăn đều thấy ngon lạ ngon lùng, hay bởi vì những món ăn thời ấy còn chất chứa cả một khung trời ký ức êm đềm dịu ngọt nữa mà bây giờ cho dẫu có ăn bất cứ món gì mình cũng thấy không thể sánh bằng? nhưng món Bông Cỏ thì quả là hơn đứt Sương Sa hay Thạch của người Bắc, Đông Sương của người Trung. Bông Cỏ hình như là xuất xứ từ bên Tàu, cách làm cũng khá lạ, phải ngâm nước một đêm cho nở rồi mới cho vào trong một cái bao vải dày (gọi là bao bồng bột) cùng với một vài (bao nhiêu?) trái chuối Xiêm chín, nhồi lấy nước sền sệt pha chung với nước lã sao cho vừa đủ lượng nước cần dùng, cho vào thau để yên trong mấy giờ sẽ đông lại như Sương Sa nhưng mềm và dẻo hơn, dùng cái muổng như cái vá xới cơm nhưng dẹp và mỏng hơn vát nhẹ thành từng miếng mỏng cho vào ly, ăn với bột mì tinh cắt nhỏ vuông vức pha màu hồng đỏ luộc vừa chín còn cái ngòi bột trăng trắng nhỏ xíu trông giống như những hột Lựu tươi vừa tách ra khỏi trái chín cây (vậy nên mới được gọi tên là Bông Cỏ Hột Lựu), chan nước đường thắng kẹo và nước cốt dừa béo ngậy, thêm vào chút dầu chuối đựng trong cái ve nhỏ xíu mà thơm lừng. Đôi khi người ta còn bán chung với Sương Sáo và Sương Sâm, một thứ màu đen có mùi hôi nhẹ của thuốc Bắc, một thứ màu xanh biếc của lá cây với những đám bọt nhỏ phía trên mặt, ăn cùng với đường cát trắng lạo xạo trong miệng và những vụn đá bào mát lạnh.

Lớn thêm một chút, vào Trung Học, tôi nhớ tới những xe bán Bò Bía trước cổng trường, người bán thoăn thoắt gói những cuốn nhỏ bánh tráng có ít củ sắn và cà rốt thái sợi xào chín giữ nóng trong một cái thau nhỏ đặt trên bếp lửa, cho thêm vài lát Lạp Xưởng mỏng tanh, một ít tép ruốc chấy vàng nhuộm đỏ, có khi một ít trứng chiên vàng cắt sợi, một lá Sà lách, vài ngọn rau thơm, ăn với tương ngọt và tương ớt có ít đồ chua, một ít hành phi dòn và một ít đậu phọng rang giã dối. Cuốn Bò Bía ngọt thì chỉ là một cuốn bánh bột mỏng gói cây kẹo dòn và ít dừa nạo sợi, rắc ít mè rang vàng, chỉ tiện ở chỗ có thể cất vào trong cặp dành ăn trong giờ ra chơi, còn thì chẳng có gì đặc biệt!

Xi rô kem khác với kem ly, vì có cả đá bào và nước xi rô trộn chung với mấy muổng kem thành một thứ vừa dùng để múc ăn vừa có thể uống như nước được, có thấy bọn học trò xúm quanh hối thúc bà hàng thì mới thấy món quà này được ưa chuộng ra sao. Ya ua cũng có thể ăn theo cách này, chung với đường và đá gọi là ya ua đá. Sinh tố bịch thì làm bằng các loại trái cây cho vào máy xay nhuyễn, thêm đường thêm nước thành một loại thức uống ngon lành cho vào bịch ny lon nhỏ cột chặt bỏ tủ đá cho đông cứng lại, bọn con gái chúng tôi vẫn thường mút một đầu bao mút như mút đá nhận mặc cho bọn con trai tròn mắt thèm thuồng mà giả vờ trêu chọc.

Những quả ổi luộc ngâm trong nước cam thảo màu vàng luôn là món hấp dẫn tôi hơn cả Me và Cà Na ngâm. Xẻ đôi trái Ổi ra, màu ruột vẫn trắng ngà và dòn tan, nhưng lớp vỏ ngoài lại hơi mềm và ngọt mùi cam thảo, trét lên một lớp muối ớt cay cay thì thật là tuyệt! Me thì dòn và đã được lấy sạch hột, Cà Na hơi chát mà chua chua, trời ơi còn Xoài sống thì cắn miếng nào biết miếng đó, Chùm ruột chỉ nhìn thôi đã ứa nước miếng vì thèm, Cóc chín trái vàng lườm và thơm nức mũi. Những món trái cây ngâm ấy được gói trong mấy tấm lá chuối xanh rờn, một góc là nhúm muối ớt đỏ tươi ngon lành, buổi trưa trời nắng đổ lửa hay buổi sáng rét nhẹ chúng tôi đều chiếu cố tận tình như nhau! Vậy mà chẳng thấy đứa nào đau bụng đau bão gì, ấy thế mới lạ!

Còn hàng Phá Lấu trên đường Pasteur, nơi có xe nước mía Viễn Đông nổi tiếng một thời với những cây tăm tre xiên vào từng xâu nhỏ gan, lưỡi, tim … phá lấu màu nâu đen thơm phức vừa miệng đặt trong mấy cái đĩa nhôm bày trên một mẹt hàng có bốn chân gác chéo, mà tôi đã đi ăn cùng với người bạn trai đầu tiên. Ly nước mía mát lạnh hơn cả những câu chuyện thủ thỉ không đầu không đuôi tuổi học trò nhớ lại vẫn còn cảm thấy ngọt ngào. Hẻm Casino SaiGon có hàng Bún chả và bánh cuốn Thanh Trì một ngày nào đã dung dăng dung dẻ cùng các bạn vào ăn sau khi mỏi chân mỏi mắt khắp phố phường, trong Crystal Place hay trong P***age Eden. Hiệu kem Pole Nord nằm bên thương xá Tax với một dãy ki ốt hoa tươi trên đường Nguyễn Huệ một tối nào tôi nhận từ tay người bạn trai sắp theo tàu đi xa một bông hồng màu đỏ thắm với bàn tay ấm áp ân cần. Quán cơm Bà cả Đọi nằm trên một căn phòng nhỏ thấp sâu trong hẻm với những món ăn được dọn ra trên chiếc đi văng bóng gỗ bóng màu thời gian, những món ăn quen thuộc như bữa cơm thường ngày gợi nên cảm giác gia đình cùng ăn với bọn bạn là sinh viên miền Trung vào SaiGon trọ học….

Vậy mà thoắt cái đã mấy mươi năm! Những món ăn tôi đã ăn trong cả một thời ấu thơ cùng với bạn bè, những món ăn tôi đã chia sẻ cùng với những người thân thương một thuở, bây giờ có món vẫn còn bày bán đâu đó trong thành phố, có món đã lâu lắm chẳng còn nhìn thấy lại. Nhưng cùng với thời gian trôi qua, và mọi điều đã thay đổi, tôi mãi mãi sẽ chẳng bao giờ còn có thể thêm một lần nữa nếm được cái hương vị ngọt ngào tuyệt diệu của những món quà ấy, cho dù có tha thiết ước ao, hay thèm thuồng mong đợi đến thế nào!
Như có lần tôi đã bày tỏ cùng một người bạn ít tuổi hơn nhiều, và lại không cùng sinh ra, lớn lên trong cùng một hoàn cảnh sống, về những món ăn ở một nơi mà cô đã đến, nghe ca tụng nhưng thất vọng lúc nếm thử, rằng cái hương vị trong ký ức của mỗi một người khi ăn một món ăn nào là hương vị rất đặc biệt chỉ riêng người ấy mới cảm nhận được, gói ghém cả những ngọt ngào của quá khứ và kỷ niệm, mà không phải ai cũng có thể sẻ chia. Nhớ lại những món ăn một ngày nào, là tôi nhớ lại biết bao là êm ái và dịu ngọt, mà những món quà tuy tầm thường bé nhỏ ngày xưa ấy, cho dẫu chỉ là quà của một thời, nhưng lại là một thời của những tháng ngày yên vui mãi mãi trong tâm tưởng, mà những khoảnh khắc quý báu ấy thì mãi mãi tôi chẳng bao giờ có thể nguôi quên
  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #120830 · Replies: 0 · Views: 475

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 08:32 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278








- Nguyễn Văn Hảo – Trần Hưng Đạo.
- Olympic – Hồng Thập Tự. Sau này đoàn Kim Chung hát thường trực
- Oscar – Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn.
- Phi Long – Xóm Củi.
- Palace – Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn.
- Quốc Thái – Trần Quốc Toản, Chợ Lớn.
- Quốc Thanh – Nguyễn Trãi. Chuyên Cải lương và Đại nhạc hội
- Rạng Đông – Pasteur. Tên cũ là Hồng Bàng.
- Rex– Nguyễn Huệ.
- Thanh Bình – Phạm Ngũ Lão. (sau là rạp Quốc Tế).
- Thanh Vân – Lê Văn Duyệt, Hòa Hưng.
- Thủ Đô – Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn. Tên cũ là Eden. Chuyên diễn cải lương
- Trung Hoa – Đồng Khánh, trước nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn.
- Văn Cầm – Trần Hưng Đạo. Rạp đã ngưng hoạt động từ trước 1975. Về sau là đại lý Honda đầu tiên tại Việt Nam.
- Văn Cầm – Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Rạp này có cái lệ luôn luôn chiếu một phim ngắn của 3 anh hề ‘Stooges’ trước khi chiếu phim chính. Rạp rất rẻ tiền không có máy lạnh nên rất ngộp thở. Tôi không bao giờ ngồi vào ghế mà lúc nào cũng đứng phía sau cùng nơi có cái màn đen che ánh sáng. Khi nào ngộp thở quá thì vén màn thò đầu ra ngoài thở không khí mát một chút rồi thả màn ra coi tiếp.
Vào năm 1961, tôi đang theo học lớp 5e chương trình Pháp (đệ lục chương trình Việt hoặc lớp 7 bây giờ) ở trường Taberd. Khoảng thời gian đó, tôi mê xem xi nê rạp Văn Cầm gần nơi tôi ở đến độ bỏ đi consigne (bị phạt phải vào lớp chiều Thứ Bảy lúc nghỉ học) nên bị mấy sư huynh hành hạ tơi bời nhớ đời luôn khiến tôi không thể nào quên được cái khoảng đời học sinh tương đối đen tối của lúc đó.
Mời các bạn click vào những giòng dưới đây để xem lại những phim ngắn của mấy anh chàng Stooges.
Hold That Lion. Part 1Hold That Lion. Part 2
- Văn Hoa – Trần Quang Khải, Đa Kao.
- Văn Lang – Cách Mạng, Phú Nhuận.
- Victory Lê Ngọc – Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn.
- Việt Long – Cao Thắng (sau trở thành Văn Hoa Sài Gòn, bây giờ là rạp Thăng Long).
- Vĩnh Lợi – Lê Lợi. Khoảng đầu thập niên 60, có xảy ra một vụ nổ lựu đạn trong rạp, có người bị thương nặng phải cưa chân.
Huỳnh Văn Yên
  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #120829 · Replies: 1 · Views: 316

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 08:32 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278








Những Rạp Xi-Nê Ở SàiGòn Trước 75

RẠP XI-NÊ Ở SAIGON
TRƯỚC 1975

Sau đây là danh sách các rạp xi-nê Sài Gòn trước 1975 được sắp theo thứ tự abc. Hiện tại, một số lớn các rạp hoặc không còn tồn tại hoặc đã ngưng hoạt động.
Kỷ niệm cá nhân của tôi với các rạp xi-nê thì rất nhiều. Các bạn nào đã xem qua phim “Cinema Paradiso” (1988) hẳn phải biết tâm trạng của những đứa bé mê xi-nê như thế nào.

- Alhambra – Nguyễn Cư Trinh.
- Alliance Française – Đồn Đất. Rạp của Trung Tâm Văn Hóa Pháp chiếu toàn phim Pháp không có phụ đề Việt ngữ, hiếm khi thấy người Việt đi xem. Mặc dù mấy ông Tây rất ghét Mỹ, điều đó ai cũng biết, nhưng đôi khi có chiếu phim Mỹ. Tôi xem được một phim xưa do Humphrey Bogart đóng và phim “Easy Rider” (1969) ở rạp này.
- Aristo – Lê Lai. Sau 1954 đây là nơi trình diễn thường trực của đoàn cải lương Kim Chung di cư từ miền bắc vào nam, đoàn có thêm tên phụ là Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô. Nữ nghệ sĩ chính là Kim Chung.
- Asam– Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao. Rạp này đã dẹp quá lâu rồi, ít ra là vào khoảng từ giữa đến cuối thập niên 60. Rạp không còn vết tích gì nên tôi không còn nhớ, khi bạn bè nhắc lại tôi cũng không hình dung ra sao. Chỉ đến khi nhớ lại phim “Le Retour de Jack Slade” (1955) mà tôi đã xem ở rạp này mới nhớ ra là rạp nằm trong một hẻm nhỏ trên đường Đinh Tiên Hoàng giữa đường đường Phan Thanh Giản – Hiền Vương. Gần đó có tiệm mì Cây Nhãn nổi tiếng một thời, về sau nghe nói tiệm mì này dời về ngã tư hay ngã năm Bình Hòa gì đó.



- Cẩm Vân – Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Có những rạp mà dân coi xi-nê làm như không có duyên hội ngộ nên chẳng bao giờ có dịp bước chân vào. Đối với tôi, mặc dù rạp này cách rạp Văn Cầm Phú Nhuận không bao xa nhưng tôi chưa bao giờ đến xem ở đây. Điều này chứng tỏ rạp Cẩm Vân đã không chiếu phim đúng với sở thích của tôi.
- Cao Đồng Hưng – Bạch Đằng, chợ Bà Chiểu, Gia Định.
- Casino Đa Kao – Đinh Tiên Hoàng. Rạp tương đối khang trang, phim khá chọn lọc, giá cả nhẹ nhàng, địa điểm rất thuận tiện nằm gần Cầu Bông. “Major Dundee” (1965), “The Great Race” (1965).
- Casino Sài Gòn – Pasteur. Tên mới là Vinh Quang. Năm lên 10 tuổi, tôi được bác của tôi cho lên Sài Gòn ăn ở để đi học trường Taberd. Ngay hôm đầu tiên, tôi đã được cho đi xem xi-nê ở rạp này vì bác tôi có giấy mời coi thường xuyên bao nhiêu lần cũng được. Và cứ thế, mỗi chiều cuối tuần tôi đều được coi xi-nê khoái tỷ, rạp chiếu phim gì cũng coi tuốt hết. Thời đó, những phim trình chiếu rất chọn lọc nên ít khi gặp phim dở.



Một kỷ niệm nhớ đời và một bài học quí giá cho tôi là phim “20.000 Dặm Dưới Đảy Biển” (1954). Tuần đó, bác tôi đã cho đi xem một lần nhưng trong nhà còn có người chưa xem nên bác tôi cho cả nhà đi xem một lần nữa. Thế là đến mấy cái màn hay ho tôi đều nói trước làm cho người chưa xem thấy mất hay, nhất là cái màn mấy ông thổ dân bị điện của tàu ngầm giật xẹt lửa tùm lum phải phóng xuống nước. Về nhà, tôi bị chửi cho một trận nên thân. Từ đó trở đi, tôi luôn nhớ không bao giờ tiết lộ cái bất ngờ hoặc đoạn cuối của phim cho người chưa xem. Trong rạp có bán kem eskimo rất ngon nhưng rất đắt tiền. “20000 Leagues under the Sea” (1954), “Drum Beat” (1954), “Touchez Pas Au Grisbi” (1954).
- Cathay – Công Lý, Chợ Cũ.
- Catinat – Tự Do. Nếu tôi nhớ không lầm, rạp xi-nê tí hon này nằm trong một hành lang từ đường Tự Do xuyên qua đường Nguyễn Huệ về sau chuyển đổi thành phòng trà ca nhạc với nhiều tên : ‘Au Chalet’, và ‘Đêm Màu Hồng’, nơi ra mắt của ban ‘Phượng Hoàng’ thời kỳ trước khi nhập với ca sĩ Elvis Phương.



Cầu Muối – Bến Chương Dương, Cầu ông Lãnh. Chuyên hát bội
- Cây Gỏ – Minh Phụng, Chợ Lớn. Chuyên diễn Cải lương
- Diên Hồng – Yersin.
- Đại Đồng – Nguyễn Văn Học, Gia Định.
- Đại Đồng – Cao Thắng. Một rạp nhỏ chuyên chiếu phim cũ nhưng khá chọn lọc, giá cả thật nhẹ nhàng, địa điểm rất thuận tiện. Càng thuận tiện hơn nữa vì cạnh rạp có một tiệm bò bía rất ngon và rẻ, họ cho rau sống và củ sắn thật nhiều nên tôi thường ghé ăn thế bữa cơm luôn.
- Đại Lợi – Thoại Ngọc Hầu, Chợ Ông Tạ.
- Đại Nam – Trần Hưng Đạo. Rạp Đại Nam là rạp sang trọng nhất Sài Gòn, những phim mới được chiếu trước tiên ở đây và một vài rạp khác rồi một thời gian sau mới được đưa đi tỉnh hoặc các rạp nhỏ chuyên chiếu lại. Mỗi phim gồm có nhiều cuộn nên thời đó mấy rạp cùng chiếu chung một phim bằng cách chia lệch giờ khởi chiếu. Mỗi khi chiếu xong một cuộn thì có người xách đi giao cho rạp kế tiếp và ngược lại.



Có lần rạp Đại Nam đang chiếu phim “Pillow Talk” (1959) thì anh chàng đi giao cuộn phim đã mải mê uống nước giải khát hay sao đó mà để mất đi cuộn phim phải giao. Tất cả các rạp cùng chiếu phim đó đành phải ngưng lại và đem phim khác ra chiếu đỡ. Mãi một thời gian sau, không rõ cuộn phim được chuộc lại hay phải mua phim mới Pillow Talk mới được chiếu trở lại. Đến khi rạp Rex ra đời vào năm 1962 thì rạp Đại Nam xuống còn ngôi vị thứ hai. Tôi có ít nhiều kỷ niệm với rạp này.
Gia đình bạn học P.T. Sơn nghe nói sở hữu rạp nên bạn bè chúng tôi thường hay dí bạn Sơn để tìm vé mời. Lâu lâu Sơn cũng chiều ý bạn bè và chìa ra vài vé. Tôi được xem phim “Bernardine” (1957) là do vé mời của Sơn tặng. Một kỷ niệm khác là khi mới bắt đầu chơi nhạc cùng với Lê Hựu Hà vào khoảng năm 1965, chúng tôi được dịp trình diễn một lần ở đây. Lúc đó, Hà mới bắt đầu sáng tác và giao cho tôi trình bày bản “Chiều Về” vì phần hòa âm đòi hỏi Hà phải bận độc tấu guitar suốt bài nhạc không tiện hát chính ngoại trừ những đoạn ca bè theo.



Vài năm sau, một Đai Hội Nhạc Trẻ được tổ chức ở đây. Vào cái thời tiểu thuyết của nữ văn sĩ Trung Hoa Quỳnh Dao đang hồi cực thịnh và được quay thành phim liên miên trong đó có “Mùa Thu Lá Bay” với đôi tài tử đẹp trai đẹp gái Đặng Quang Vinh và Chân Trân, tôi đã xem phim này ở rạp Đại Nam và được cái hân hạnh đưa một cô gái Tàu thật trẻ đẹp đi xem cùng. Đầu đuôi câu chuyện như sau đây. Đám nhạc sĩ chúng tôi khi đến vũ trường nào chơi nhạc trước sau gì rồi cũng dính với một em ca ve ở đó. Rồi khi nhổ neo sang vũ trường khác thường thì cũng đành ca bài chia tay vui dầy duyên mới. Có nhiều em ca ve hay gọi đùa chúng tôi là mấy thằng cha ‘thợ đờn’.
Nói vậy chớ mấy em không hận thù gì hết, thời loạn ly mà, vui được ngày nào hay ngày nấy miễn là còn gặp nhau là còn chơi đẹp với nhau. Năm đó, nhạc sĩ Đức Phú mời tôi vào ban nhạc về cộng tác với vũ trường ‘La Sirène’ nằm trên đường Pasteur đối diện với rạp Casino Sài Gòn. Suốt mấy đêm đầu đứng đàn trên ban nhạc và quan sát thật kỹ lưỡng đội ca ve của vũ trường, tôi hoàn toàn thất vọng. Điệu này đàn ở đây coi bộ mất hứng rồi, không lẽ không còn gì nữa hay sao ?
Ngay lúc đó, tôi bèn giật mình khám phá ra một cô hầu bàn người Tàu rất trẻ và rất xinh đứng trông chừng mấy cái bàn phía tôi hay đi lên đi xuống. Thế là lần này tôi chuyển hướng sang cô xẩm nhỏ và đưa cô ấy đi xem phim Mùa Thu Lá Bay đang chiếu ở rạp Đại Nam. Được dịp coi phim Tàu mà lại có người đẹp Tàu đi xem cùng và phiên dịch cho mình nghe những điểm hay của phim làm tôi rất thích thú… cho đến khi cô ấy đem chai dầu hiệu ‘con



sóc’ ra xức thì mọi cái gì hay đẹp đối với tôi đều sụp đổ một cái rụp ! Vốn cái lỗ mũi của tôi trời cho quá thính nên cái mùi gì không hợp là bắt buộc tôi phải tháo chạy. Về sau này, có những lúc nằm chèo queo một mình nhớ lại thấy tiếc. Nhận xét của tôi về nhan sắc của cô gái Tàu rất đúng, một thời gian sau, tôi thấy cô bỏ nghề hầu bàn đi làm ca ve. Chắc chắn là cô ấy cũng nổi tiếng như một vài hoa khôi khác của làng ca ve Sài thành hồi đó và biết đâu cô ấy đã tiến bộ hơn không còn xài dầu con sóc nữa!
- Đại Quang – Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn. Rạp này hoàn toàn Trung Hoa chẳng có gì là Việt Nam hết vì họ chiếu toàn phim Tàu nên tôi không bao giờ có dịp bước chân vào. Tuy vậy, tôi lại có một kỷ niệm dễ thương với rạp này do rạp nằm ngay cạnh vũ trường Bách Hỷ, nơi tôi chơi nhạc mấy năm cuối cùng trước khi rời khỏi Việt Nam vào hạ tuần tháng 4 năm 1975.
Do cảm tình đặc biệt, mỗi tối khi tôi đến Bách Hỷ, một em trai chạy đến đem chiếc xe gắn máy honda cà tàng của tôi đi cất cùng với những chiếc xe của khán giả rạp Đại Quang. Khi vũ trường tan, tôi vừa bước ra khỏi cửa là đã thấy em dắt chiếc xe lại cho tôi. Dù đó là một cử chỉ nhỏ nhặt tầm thường nhưng đối với tôi nó có một cái gì thật là ấm lòng chiến sĩ.
- Đồng Nhì – Lê Quang Định, Gia Định.
- Eden– Tự Do. Rạp này quá nổi tiếng và đối với tôi cũng nhiều kỷ niệm. Trước nhất, rạp này không nằm ngoài mặt đường mà lại nằm sâu trong một thương xá cũng được gọi là Eden. Đến rạp, khán giả có thể đi vào từ phía đường Tự Do, Lê Lợi hay Nguyễn Huệ đều được cả. Cái tên rạp tiếng Pháp tự nó cho biết rạp này đã có từ thời Pháp thuộc và kiến trúc bên trong thì đúng y như những rạp bên Pháp được thấy qua các phim xi-nê. Ở Sài Gòn, chỉ duy nhất rạp này mới có hai balcons (tầng lầu). Thông thường, khi xem xi-nê, ngồi balcon 1 là hay nhất vì nhìn xuống vừa tầm mắt không mỏi cổ và không bị cái đầu của người ngồi hàng ghế trước che khuất tầm nhìn. Balcon 2 của rạp Eden thì nhỏ hơn và quá cao nên nhìn sâu xuống muốn cụp cái cổ luôn nên phần đông khán giả chẳng màng để ý đến sự hiện hữu của nó, ngoại trừ dân đào kép Sài Gòn thì chiếu cố rất nhiệt liệt và gọi đó là ‘pigeonnier’ (chuồng bồ câu).
Đi xem xi-nê một mình khi rạp hết chỗ phải lên đó thì buồn lắm vì trên ấy đào kép mùi mẫn chẳng cần biết trên màn ảnh chiếu cái gì, nhất là những cặp ngồi ở hàng ghế chót có sau lưng nguyên bức tường thì tha hồ lâm ly chẳng lo có ai nhìn đến trong cái tối mù mù. Ca sĩ Dalida đã trình diễn ở rạp này. Một lần khác, tôi đi xem một ban nhạc jazz của Tây Đức (thời đó còn Tây Đức và Đông Đức). Mấy năm sau đó, cũng tại rạp này, tôi được xem phim “Parlez-Moi d’Amour” (1961) do Dalida đóng. Một kỷ niệm cho các bạn cùng học Taberd với tôi là khoảng đầu thập niên 60, không rõ là do nhã ý của ai, cả lớp chúng tôi và các lớp khác được đưa đến rạp này để xem phim “Les Pilliers du Ciel” (Pillars of the Sky (1956)), một phim cao bồi của Mỹ do Jeff Chandler và Dorothy Malone đóng.
Còn về kỷ niệm cá nhân thì mấy năm sau nữa, vào một chiêu cuối tuần, tôi mời cô đào của tôi đi nhảy đầm matiné nhưng cô ấy nói đã lỡ mua vé xem phim “My Fair Lady” (1964) tại Eden cùng với một cô bạn rồi. Tôi kêu cô đào của tôi bán cái vé lại cho người khác rồi đi chơi với tôi. Thế là buổi hôm đó, cô bạn gái của cô đào của tôi tự nhiên thấy có một người đàn ông lạ hoắc lù lù đến ngồi kế bên. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy buồn cười và nghĩ xa hơn về chuyện đời thì thấy là khi mới quen nhau còn chịu đèn thì mọi việc đều ổn thỏa, đến khi không còn nồng thắm nữa thì cái gì cũng không xong: nào là bận cái này cái nọ, nhức đầu nóng lạnh đủ mọi lý do trên đời !



- Hào Huê – Nguyễn Hoàng, Chợ Lớn.
- Hoàng Cung – Triệu Quang Phục, Chợ Lớn.
- Hồng Liên – Hậu Giang, Chợ Lớn.
- Hùng Vương – Pétrus Ký, Sài Gòn.
- Huỳnh Long – đường Châu Văn Tiếp – hông chợ Bà Chiểu
- Hưng Đạo – Nguyễn Cư Trinh. Trong thời kỳ tin tức chiến sự sôi động biến chuyển từng ngày từng giờ của tháng 4 năm 1975, tinh thần của mọi người giao động đến cực độ và linh tính sẽ có chuyện gì lớn lao sắp xảy ra. Tôi cũng như bao nhiêu người khác còn biết làm gì hơn là chờ đợi những gì sẽ đến.
Một ngày thượng tuần của tháng, tôi đến rạp Hưng Đạo xem xi-nê trong cái tinh thần đó, một cách để giết thì giờ chớ tâm trí của tôi không thể chú ý một cách bình thường vào tình tiết đang diễn ra trên màn ảnh. Trong trạng thái xem phim hờ hững đó thì bỗng phim ngưng chiếu và đèn trong rạp bật sáng lên, không phải dấu hiệu của cảnh đứt phim thông thường vì có một số rất đông khán giả ùn ùn đi ra ngoài. Tôi cũng đi theo và được biết là dinh Độc Lập vừa bị dội bom.
Bây giờ, tôi cố nhớ lại lúc đó xem phim gì cũng không ra, chỉ nhớ loáng thoáng là một phim Pháp. Còn về thời điểm chính xác của biến cố, tôi thấy chẳng cần phải truy tìm thêm vì lúc nào cũng có sẵn trên Internet.
- Khá Lạc – Nguyễn Tri Phương. Rạp nằm cạnh tiệm phở Tương Lai hiện vẫn còn bán phở. Một anh bạn thân cho biết lần đầu tiên anh được xem xi nê là tại rạp này với phim “Samson and Delilah” (“Samson et Dalila”). Riêng cá nhân tôi, tôi hoàn toàn không biết rạp này cho đến khi anh bạn nói tới, mặc dù nhà của tôi cùng nằm trên đường Nguyễn Tri Phương kể từ năm 1962. Như vậy, rạp này có lẽ đã hoạt động trước thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Một điểm khác nói về tiệm phở Tương Lai cạnh rạp, trước Tết năm 1966, chúng tôi đến ăn phở ở đây và phải trả 200 đồng cho một tô phở, trước đó chỉ khoảng 150 đồng. Đấy là thời điểm vật giá bắt đầu leo thang vào những năm 60.
- Khải Hoàn – Võ Tánh và Cống Quỳnh. Trong cuộc đời làm người xem xi-nê của tôi, có những rạp không có duyên với tôi nên tôi chưa bao giờ được bước chân vào các rạp đó. Trái lại, có những rạp rất có duyên với tôi nên xem hết phim này đến phim khác. Rạp Khải Hoàn là một. Có thể yếu tố quyết định là rạp này tuyển chọn phim đúng ý tôi và địa điểm tọa lạc nơi thị tứ, giá tiền lại tương đối phải chăng nên tôi đã xem khá nhiều phim ở đây trong đó có phim “Hiệp Sĩ Mù Nghe Gió Kiếm”, và “Mưa Lạnh Hoàng Hôn”.
Riêng phim sau, chương trình quảng cáo có phụ diễn tân nhạc nhưng hôm đó khán giả đã chờ mãi vẫn không thấy hơi hám ca nhạc sĩ đâu hết. Cuối cùng có nghệ sĩ Ngọc Phu bước ra sân khấu làm một màn tự biên tự diễn không đàn địch phụ họa chi cả, anh giả làm tiếng chó sủa, gà gáy, ngựa hí, quạ kêu qua loa cho xong rồi chiếu phim. Hiện tại, anh và gia đình đang sinh sống ở Nam California và tôi cũng đã có lần sinh hoạt văn nghệ với nghệ sĩ đàn anh này.
Một kỷ niệm khác của tôi ở rạp này là gặp phải nạn móc túi. Gặp hôm mua vé có chen lấn, tôi cảm thấy có mấy ngón tay cứ muốn thọt vào túi quần và tôi đã kịp chận lại. Rất có thể đây là một tay chưa chuyên nghiệp. Bằng không thì chắc số tiền ít ỏi của tôi cũng đã bay mất rồi !



- Kim Châu – Nguyễn Văn Sâm, Chợ Cũ. Cảm tình của tôi đối với rạp này tương tợ như đi mua một chiếc xe mới. Khi rạp bắt đầu khai trương thì họ đã quảng cáo sẽ chiếu phim “Sapho” (1960). Tuy chỉ là một phim hạng B hoặc C nhưng nữ tài tữ Tina Louise có vẻ đẹp duyên dáng nên tôi đến xem phim trong tinh thần như vừa mua sắm được một chiếc xe như ý. Qua đến những phim kế tiếp, rạp Kim Châu đã tuyển chọn những phim cùng loại nên rất được khán giả hài lòng.
- Kinh Đô – Lê Văn Duyệt. Đây là một rạp xi-nê hạng sang, chỉ kém hơn rạp Đại Nam một tí. Rạp khai trương sau rạp Đại Nam nhưng lại chỉ hoạt động một thời gian tương đối ngắn ngủi rồi biến thành một chi nhánh của cơ quan USAID. Tôi có một kỷ niệm với rạp này.
Hai cha con tôi vốn là những người ghiền xi-nê, Hôm đó, cha tôi đưa tôi lên Sài Gòn để nhập học nội trú sau một kỳ nghỉ hè, tôi được thả ở ngoài phố để đi dạo mua sắm. Tôi vẫn được sống một cuộc sống tự do như thế từ khi còn nhỏ. Còn khá nhiều thì giờ trước khi phải trình diện mấy sư huynh La San Taberd, tôi bèn lang thang đến rạp Kinh Đô nơi đang chiếu phim “La Dernière Torpille” (“Torpedo Run”) (1958). Trùng hợp thay, tôi gặp lại cha tôi cũng vừa đến đó, thế là cha tôi cho tôi cùng vào xem phim, tôi đỡ phải bỏ tiền ra mua một cái vé xi-nê.



- Kinh Thành – Hai Bà Trưng, Tân Định.
- Lạc Xuân – Gia Long, Gò Vấp. Mặc dầu đơn vị của tôi tọa lạc ở Hạnh Thông Tây cách rạp này không bao xa và sau này có rất nhiều lần đi ngang qua nhưng tôi không hề biết đến sự hiện hữu của nó. Một người bạn thân lúc còn ở quân ngũ đã được huấn luyện gần đó có nhắc nên tôi mới biết. Bà con ở Gò Vấp thì biết rạp này rất rõ.
- Lam Sơn – Bùi Chu. Mũi tàu Lê Lai, Bùi Chu, Võ Tánh chéo góc với nhà thờ Huyện Sĩ, vòng qua bên hông rạp phía đường Lê Lai thì có nhà của nữ kịch sĩ Kim Cương. Rạp xi-nê này chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn ngủi rồi bị đóng cửa vì vị trí của rạp quá gần một nhà thờ, vào thời kỳ đó là Đệ Nhất Cộng Hòa, nên Công Giáo đang có ưu thế.
- Lê Lợi – Lê Thánh Tôn. Rạp chiếu phim cũ nhưng tuyển chọn toàn phim hay và chỉ chiếu trong 1, 2, hoặc 3 ngày rồi đổi sang chiếu phim khác. Những phim classic như “High Noon”, “Crimson Pirates”, “Vera Cruz”, “Waterloo Bridge”… được chiếu đi chiếu lại luôn, nếu hụt xem phim nào thì khán giả cứ kiên nhẫn chờ đợi, một thời gian sau thế nào phim đó cũng sẽ được chiếu lại. Lịch trình chiếu phim được niêm yết trước gần một tháng để khán giả chuẩn bị ngày đi xem phim.
Rạp Lê Lợi có thể nói là rạp duy nhất ở Sài Gòn chiếu phim theo phương thức này, một ít rạp khác có bắt chước phần nào nhưng rồi cũng không theo hoàn toàn hoặc sau đó phải thay đổi phương hướng.
Rạp Lê Lợi được nhóm học sinh chúng tôi chiếu cố khá nhiều vì rạp chiếu phim hay và giá vé rất nhẹ. Thời đó, chúng tôi đi học ngày hai buổi nên buổi chiều nào chán học là chúng tôi rủ nhau ‘cúp cua’ đi xem xi nê ở rạp này.
Ngoài ra, một người bạn cùng lớp là con cháu của chủ rạp Lê Lợi nên chúng tôi hay ‘dí’ hắn để kiếm vé mời xem xi nê ở rạp này khỏi tốn tiền, chỉ phải đóng tiền thuế rất nhẹ mà thôi.
Khi qua đến Mỹ, tôi mới được biết loại rạp xi nê này được gọi là ‘revival movie theater’, chỉ khác một chi tiết là họ chiếu hai phim liên tiếp cùng có chủ đề giống nhau. Ai chịu đựng nổi thì ngồi xem hết, ai chịu không nổi thì phải bỏ về thôi vì quá đói bụng, họ không cho đem thức ăn từ ngoài rạp vào và trong rạp chỉ có bán popcorn (bắp rang Mỹ), kẹo, bánh, soda (nước ngọt có ga như: Coca Cola, 7Up…).



Thời đó vào đầu thập niên 80, video cassette vừa mới xuất hiện chưa có ra phim nhiều, những phim Âu Châu rất hiếm, chỉ có thể xem tại các rạp revival này. Rạp Nuart là một, rạp này nằm ở tận Santa Monica cách xa sở làm của tôi cả tiếng đồng hồ lái xe, nhưng khi gặp phim đã kết thì giá nào cũng đi xem cho được. Buổi chiều vừa ra khỏi sở là phóng xe ào ào cho kịp giờ chiếu phim, vào rạp mua một bịt popcorn rồi tử thủ xem cho hết luôn hai phim. Cũng may là popcorn giúp cơ thể chống đói rất hay, nếu chịu không nổi nữa thì có kẹo chocolate, chơi vào một cây ‘Three Musketeers’ là bao tử êm ngay. Tôi học cái bí quyết này từ mấy cô gái Mỹ, đi chơi với họ rất tự nhiên thoải mái. Khi date họ mà trong túi lại ít tiền thì mấy cô ấy bảo cứ mua cho họ một thỏi chocolate là xong, khỏi cần ăn tối để đi chơi mục khác.
- Lệ Thanh – Phan Phú Tiên, Chợ Lớn.
- Lido– Đồng Khánh, Chợ Lớn. Rạp này có một lịch sử khá ly kỳ. Rạp nằm trong vùng Chợ Lớn cạnh Đại Thế Giới cũ chuyên chiếu phim Âu Mỹ trong khi các rạp chung quanh đều chiếu phim Tàu. Đến cuối thập niên 60, rạp ngưng hoạt động để cho Mỹ mướn làm khu cư trú và câu lạc bộ. Sau năm 1975, rạp hoạt động chiếu phim trở lại và chỉ mới gần đây, rạp đã bị đập phá ra để nhường chỗ cho một công trình xây dựng nhà cao tầng hay gì đó. Bạn nào có kỷ niệm đẹp hay quyến luyến rạp này thì chỉ còn có thể nhớ qua ký ức mà thôi vì rạp đã biến mất không còn nữa.
Kỷ niệm của cá nhân tôi đối với rạp này cũng khó quên. Khi còn học ở bậc tiểu học, cha mẹ tôi cho tôi vào nội trú vì gia đình ở tỉnh xa, mỗi lần vào Sài Gòn rước tôi ra chơi thì lưu trú ở khách sạn Kim Linh đối diện với rạp Lido.
Có lần tôi đã mò qua xem một phim của ông già cao bồi Randolph Scott. Về sau, khi chơi nhạc cho các club Mỹ, có lần tôi cộng tác với anh Ngọc Hàm tự là Hàm Râu vì anh để râu giống như Nguyễn Cao Kỳ và cũng hay giả giọng của vị tướng này rất là giống. Tôi thật sự khâm phục biệt tài ăn nói trước khán giả của anh, ngay cả khán giả Mỹ cũng phải lăn ra cười khi anh diễu trên sân khấu. Không biết anh học những cái tếu đó ở đâu hoặc chính anh tự nghĩ ra mà quá hay.
Vào khoảng năm 1969, anh đang là luật sư tập sự và cũng là trưởng ban nhạc do anh lập ra, nhạc sĩ của ban nhạc thường là ráp nối, ít ai cộng tác lâu dài có lẽ vì không có duyên với anh hay sao đó. Hôm đó, anh lãnh một show chơi nhạc cho Mỹ tại club Lido. Thành phần gồm có : Ngọc Hàm (keyboard, vocal), Ngọc Hải (lead guitar, vocal) lúc đó cũng đang tập sự luật sư, Đăng Chí (bass guitar, vocal), tôi không còn nhớ tay trống là ai, ca sĩ có Connie Kim lúc đó chúng tôi thường hay gọi cô bằng tên Phượng.
Như vậy, có thể nói ban nhạc chúng tôi xem như là trí thức nhất rồi vì lúc đó tôi cũng đang theo học Luật Khoa và sau này đã lấy bằng Cử Nhân Luật Khoa Công Pháp vào năm 1973.



Được dịp chơi nhạc ngay phố phường Sài Gòn, Chợ Lớn, chúng tôi rất thích thú thay vì phải di chuyển xa xôi ra các đơn vị tiền đồn của quân đội Mỹ như ở Phước Thành chẳng hạn. Đây là một căn cứ hỏa lực (fire base), khi đi chơi nhạc, xe van của chúng tôi phải chạy lên Dĩ An, rồi từ đó chiếc trực thăng Chinook CH-47 nuốt chửng nguyên chiếc xe van có ban nhạc chúng tôi ngồi trong đó, xong nhả ra tại căn cứ. Chúng tôi chơi nhạc giữa lúc những khẩu đại pháo gà cồ khạc đạn ầm ĩ rung rinh cả barrack và sân khấu trình diễn.
Trở lại chuyện Lido, Ngọc Hải và tôi nhận thấy còn khá nhiều thì giờ trước khi trình diễn nên hai đứa thả bộ lang thang trên đường Đồng Khánh. Mải mê nhìn ngắm thiên hạ nhất là mấy cô xẩm duyên dáng nên khi quay trở về club Lido thì đã trễ đi một chút. Ngọc Hàm bèn mắng hai đứa chúng tôi bằng một câu xem như là trí thức như sau : “Hai đứa bây tưởng tụi bây là ai ?”. Ngọc Hải và tôi chỉ còn nước ngậm câm.
Chính Ngọc Hàm cũng đã làm thay đổi hẳn cuộc đời chơi nhạc của tôi. Trước khi gặp Ngọc Hàm, tôi còn chơi rhythm guitar (guitare d’accords hay accompagnement) rồi từ khi chơi nhạc với Ngọc Hàm lúc đó đang cần một tay bass nên anh bảo tôi chuyển qua đánh bass. Cũng nhờ đó mà sau này khi chuyển qua nhà nghề chơi nhạc với các nhạc sĩ đàn anh suông sẻ hơn lại còn nhờ biết ca hát, gọi là bass ca, nên lương bổng cũng cao hơn một tí.
- Long Duyên – Hồ Văn Ngà.
- Long Phụng – Gia Long, chuyên chiếu phim Ấn Độ.
- Long Thuận – Trương Công Định và Nguyễn An Ninh.
- Long Vân – Phan Thanh Giản.
- Majestic – Tự Do. Rạp đã ngưng hoạt động từ trước 1975. Nơi đây được xây thành vũ trường Maxim tầng trên và sân khấu trình diễn ca vũ nhạc kịch tầng dưới do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách.
- Minh Châu – Trương Minh Giảng.
- Minh Phụng – Hồng Bàng, Chợ Lớn. Thật ra, nơi đây là đình Minh Phụng, khi xưa có lúc khai thác chiếu phim ban ngày.
- Mini Rex – Lê Lơị.
- Moderne – Trần Văn Thạch, Tân Định. Tôi không có duyên với rạp này nên chưa bao giờ có dịp bước chân vào. Theo lời một thân hữu, rạp này có vài ba đặc điểm: lối vào rạp đâm ngang hông phía giữa những hàng ghế, ghế bằng cây nên khi dứt phim khán giả cùng đứng dậy làm cho ghế cây khua lên rầm rầm, và cũng vì ghế cây nên đoàn quân rệp tha hồ cắn phá đám khán giả trong bóng tối của buổi chiếu phim.
- Mỹ Đô – Trần Nhân Tôn và Vĩnh Viễn. Tên xưa là Thành Chung, tên mới là Vườn Lài.
- Nam Quang – Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp.
- Nam Tiến – Bến Vân Đồn.
- Nam Việt – Tôn Thất Đạm, Chợ Cũ. “The Bravados” (1958).
- Nguyễn Huệ – Nguyễn Huệ. Rạp đã ngưng hoạt động từ trước 1975. Về sau là cơ sở U.S.O..
  Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #120828 · Replies: 1 · Views: 316

BichDu
Posted on: Feb 7 2012, 08:13 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278









Họ đi qua vườn LUÝCHXĂMBUA

Vườn Bách thảo giữa thành phố kề sông Xen phía tả ngạn. Ông đến đây như một kẻ lánh đời, sợ nơi đông người. Thật ra, phần lớn đường phố Pari trong giờ làm việc không ồn, không thừa thãi người đi nhong như ở Việt Nam. Em ông ở quê ra Hà Nội chơi đứng ngắm dòng người và xe nườm nượp qua lại cứ tự hỏi: những con người này đi đâu, về đâu mà tuôn mãi như là chẳng ai về nhà cả, như là cái “nghiệp” trời đày phải đi. Ở Pa-ri có nhiều nơi rất vắng, rất tĩnh, nhưng theo lời một Việt kiều mách, ông đã đến đây. Ông đang đứng trước tượng Béc-na-đanh đơ Xanh Pi-e cạnh tượng Pôn và Viếc-gi-ni cùng con chó dưới tán những cây platan-cây tiêu huyền như có người đã dịch, loại cây thường được trồng dọc các đường phố ở Pháp, và những cây chuối.
- Tiếc rằng đây chẳng phải là đảo Mô-ri-xơ.
Ông quay nhìn. Một bà già Pháp nhỏ người đi qua thân thiện nói, muốn bắt chuyện. Những người già cả ở phương Tây thường sống cô độc nên mong có người để chuyện trò. Ông chẳng phải đang lúc hứng trò chuyện song phần vì phép lịch sự, phần cũng thấy không nên bỏ qua dịp tìm hiểu nơi đất khách. Giữa những người xa lạ lại chẳng cần phải giữ kẽ.
- Tôi sinh ra tại Sài Gòn, sống ở Việt Nam lâu, cả ở Trung Quốc. Tôi làm thầy thuốc. Việt Nam nóng, tôi cũng quen được. Tôi không thích Đà Lạt, đẹp đấy nhưng không có màu sắc Việt Nam. Tôi thích Nha Trang. Nghe nói thành phố này bị người Mĩ san bằng phải không? Không à, may quá! Ông thấy Pa-ri thế nào? Cảm ơn. Không, người Pháp chúng tôi chẳng ai nghĩ như vậy cả, chẳng một ai nói biết ơn Pê-tanh đã đầu hàng bọn Đức để giữ cho Pa-ri nguyên vẹn cả. Người Việt Nam các ông hỏi chúng tôi câu ấy thì quả là lạ. Các ông có chịu cúi đầu trước bọn Mĩ để giữ nguyên Hà Nội không? Hồ Chí Minh có nói một câu nổi tiếng về chuyện này mà. Tôi ngưỡng mộ ông Hồ, song… Chốn này vắng lắm, du khách ít ai đến đây. Ông đến vườn Luých-xăm-bua chưa?
Cái vườn trong những trang văn tuyệt diệu của A-na-tôn Phơ-răng-xơ từng nằm trong trí tưởng tượng của mình suốt thời học trò. Mình bước vào cổng vườn hồi hộp cái cảm xúc của kẻ hành hương lần đầu đặt chân vào cổng thánh địa hằng mơ ước. Vườn kiểu Pháp, bãi cỏ kiểu Anh, nhiều pho tượng giữa các rặng cây, một cái hồ nhỏ chính giữa viền lối đi rải sỏi khá rộng. Đâu là con đường đi học của cậu bé của A-na-tôn Phơ-răng-xơ, hai tay đút túi, cặp sách đeo sau lưng, băng qua vườn nhảy nhót như con chim sẻ? Ở đâu những chiếc lá vàng run rẩy trên cây và rụng từng chiếc từng chiếc trên vai trắng của các pho tượng? Tiếc rằng không phải mùa tựu học dưới “bầu trời xao xuyến mùa thu”, không phải “những ngày tháng Mười đượm buồn mà đẹp hơn bao giờ hết”.
Đang là mùa hạ Pa-ri. Nắng chiều hôm ấy không rực rỡ, không oi, hơi nồng. Có nhiều người ngồi chơi hoặc đi dạo, đông khách du ngoại quốc. Dân Pa-ri, không chỉ dân Pa-ri, hè đến thường ra nhà nghỉ riêng của họ ở ngoại thành, ở các vùng quê, nếu không đi nghỉ mát nơi vùng núi hay bờ biển; chỉ những người bận công chuyện hay túi tiền eo hẹp mới ở lại.
Chân ông đang đặt bước trong vườn Luých-xăm-bua đích thực mà tâm trí ông lại về một vườn Luých-xăm-bua khác.
Chàng từng “dạo trong vườn Luých-xăm-bua” mấy chục năm về trước cùng nàng trong vườn cây một trường trung học ở Việt Nam. Cả hai đều học giỏi, chàng thiên về toán, nàng thiên về văn. Cả hai đều thích A-na-tôn Phơ-răng-xơ, đều có thể đọc thuộc lòng đoạn văn nhớ ngày khai trường nguyên văn Pháp ngữ của ông. Vậy mà có lần họ đã giận nhau vì chính cái ông nhà văn này. Bữa nọ, nàng bảo: “Các thế hệ học sinh cảm ơn A-na-tôn Phơ-răng-xơ đã gợi cho họ mang những kỉ niệm hè kì diệu đến với ngày khai trường”. Hẳn nàng muốn nói tới những trò nghỉ hè thú vị chẳng kém các trò cưỡi ngựa dạo núi miền Ô-véc-nhơ hoặc đi săn trong rừng E-glơ mà nhà văn Pháp đã nhắc đến. Chàng nói lững lờ: “Kỉ niệm hè của anh là lớp dạy tư”. Chàng phải dạy tư trong hè để có tiền ăn học. Nàng cười, bảo rằng chàng nói vậy là ném đá vào trang văn tuyệt bút của A-na-tôn Phơ-răng-xơ. Chàng đáp lại: vâng, chỉ dân thượng lưu mới biết nâng niu chúng thôi. Phải hai tuần sau, nàng mới chịu gặp lại chàng. Nàng dịu dàng nhưng đôi khi cũng lí sự ra trò…
- Người ta bảo ai cũng có thể có Pôn hoặc Viếc-gi-ni của mình. Xưa, tôi từng có một Pôn, ông có Viếc-gi-ni của ông không?
Người ấy đúng là Viếc-gi-ni của mình, dẫu cảnh ngộ hai đứa không như trong truyện của Béc-na-đanh đơ Xanh Pi-e.
- Chúng tôi theo gia đình rời Việt Nam về Pháp chưa lâu, đại chiến thế giới nổ ra. “Pôn” của tôi theo du kích kháng chiến chống Đức và chính quyền tay sai Pê-tanh. Tôi kịp lánh sang Thụy Sĩ.
Bà này chủ động lánh đi, còn người ấy thì khác. Người ấy chẳng muốn theo gia đình “dinh tê”(1).



Nhà nàng vốn phong lưu, cha công chức bậc cao thời Pháp, mẹ có cửa hàng to ở thành phố. Nàng nổi tiếng hoa khôi. Ngày nào em nổi tiếng hoa khôi / Môi chẳng thêm son đỏ thắm hoài / Chiếc nhạn đầu thu sa cánh bạt / Ngang mùa tựu học gọi chơi vơi(2). Nổi tiếng không chỉ ở trường. Một lần, giặc Pháp cho một toán quân đổ bộ lên mấy làng ven biển nơi cả nhà nàng tản cư về. Dân quân chỉ mới quấy rối tí chút, bộ đội chưa tới kịp, chúng đã rút. Chốn này thuộc vùng tự do của ta từ đầu kháng chiến nên người ta có phần chủ quan, canh gác trễ tràng, bố phòng lơi lỏng. Bọn giặc bất ngờ đổ quân, dân chỉ kịp chạy lấy người. Vậy mà sau khi giặc tháo lui, của nả các nhà gần như còn nguyên vẹn, trừ số gà, lợn; nhà cửa không bị đốt, đồ đạc không bị cướp phá. Trái hắn với những nơi khác khi giặc mò đến. Trong nhà nàng ở, tấm ảnh phóng to của nàng, vốn treo tường, thấy dựng nghiêm chỉnh trên bàn, dưới chân là tấm ảnh nhỏ của một viên sĩ quan Pháp mang lon quan ba khá điển trai. Đằng sau tấm ảnh nàng có mấy dòng chữ Pháp, nét chữ cố ý tỏ ra tài hoa: “Anh đến, tiếc không được gặp em. Lần sau, em đừng lánh đi nữa nhé! Tạm biệt. Đại úy Rô-be L.”. Có những lời đồn đoán, hiểu là đùa vui hay châm chọc cũng được, rằng: Thằng quan ba chỉ huy mê cô gái trong ảnh nên ra nghiêm lệnh cho lính không được phá phách. Sau đó không lâu, cả nhà nàng lén xuống thuyền dong ra biển để “về thành”. Nàng không muốn đi. Cha nạt, mẹ khóc…
- Tôi ngụ bên hồ Giơ-ne-vơ, một cái hồ lớn tuyệt đẹp. Bình yên nơi đất khách, nghĩ về đồng bào mình đang đối đầu với quân giặc nước tự cảm thấy có tội. Đôi khi tôi cũng muốn về nước góp phần, cứ lần chần mãi. Thú thật với ông, tôi có ngại…
Cha mẹ nàng đưa nàng vào Sài Gòn, nàng trốn bay ra Hà Nội tính liên lạc với người của kháng chiến tìm cách về lại vùng tự do. Nhưng mẹ nàng có những người bạn, cánh tay họ rất dài… Cha nàng bảo cuộc chiến chẳng mấy nữa mà nguội, sức mấy mà chống lại người Pháp, chớ xốc nổi, phiêu lưu.
- Nước Pháp được giải phóng, tôi nhắn tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng tìm Pôn của tôi. Bặt vô âm tín.
Cả nhà người ấy xuất ngoại mấy năm trước ngày miền Nam được giải phóng. Đi đâu? Không ai cho mình biết. Mình những muốn vào Sài Gòn ngay để dò tin, nhưng lại không muốn nhập vào cái dòng người kiểu đi hôi của, “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng“. Rồi một ngày mình nhận được một phong thư lạ…
- Bên cạnh nỗi đau mất người thương, tôi còn nổi khổ tâm gần như là một sự mặc cảm, chắc ông không hiểu được đâu, trước những hi sinh của người trong nước. Cũng may, hình ảnh những người kháng chiến mất dần vẻ thần tượng, họ hoàn nguyên con người thường với những khuyết, nhược điểm thường tình, có khi họ tự đánh mất ánh hào quang. Tôi nguôi dần nỗi niềm về Pôn của tôi.
Phong thư xa như vang bóng mối tình xưa, như hương vương hình cũ, không gây đau, không gợi buồn, chỉ đưa chút ngậm ngùi, nhưng làm bải hoải thần trí, tản mạn tâm tư. Một thời gian, mình làm gì cũng đoảng.
* * *
- Chiều nay con sẽ dẫn cha đi xem nhà thờ Đức Bà và gặp anh ấy.
Từ hôm đến Pa-ri, ông thường đi thăm thú một mình. Với bản đồ du lịch thành phố trong tay đi đâu mà chả được. Ông thích thế mà cô con gái cũng bận học – đang kì ôn thi học phần.
Nhà thờ Đức Bà Pa-ri mà ông hình dung qua các trang sách của Vích-to Uy-gô hùng vĩ hơn nhiều với tường bao dày và cổng ngoài đồ sộ, không gian bí hiểm. Trước mắt là một nhà thờ khác chăng? “Xin lỗi, đây có phải là nhà thờ Đức Bà Pa-ri”, ông hỏi một người đàn ông đứng tuổi. “Phải, đây chính là nhà thờ Đức Bà Pa-ri”, lời đáp có âm hưởng tự hào, nhấn mạnh de Paris. Ông muốn nhìn thấy cái lầu chuông nơi Qua-di-mô-đô giấu nàng Mi-ran-đa và cầu thang lên đó. Chẳng có cái cổng mà lũ ăn mày công phá. Từ quảng trường có thể bước thẳng vào cửa nhà thờ. Ông cố mường tượng cái hành lang trên cổng, chỗ thằng gù đứng ném các thanh gỗ và đổ nước hắc ín sôi xuống đám người tấn công. Tất nhiên, đó chỉ là hư cấu của nhà văn. Vả, sinh thời Uy-gô tường bao và cổng đã không còn.
Người đông chật ngôi nhà vòm cao và rộng thênh thang, khách du nhiều hơn dân đi lễ. Ông đi trước con vào sâu phía trong nơi trưng kho báu của nhà thờ, những đồ thờ và đồ lễ bằng vàng bạc, châu ngọc, cho khách tham quan chiêm ngưỡng. Một chàng trai tóc đen, da vàng đang hướng dẫn người xem. Vừa trông thấy cậu ta, ông như chạm phải một luồng điện nhẹ, rất nhẹ mà làm xao động tâm can phần sâu kín nhất. Chẳng phải vì vẻ đẹp trai và nét dễ thương ở chàng trai ấy. Một cái gì rất mơ hồ lướt qua như là tiềm thức toan trỗi dậy song đã lại chìm đi. Chàng trai ngửng lên, ông định cất tiếng thì cậu đã hỏi: “Việt Nam?” và khi thấy ông gật, cậu tiếp: “Bác mới đến xin định cư đấy à?”. Bấy giờ cậu mới nhìn thấy cô gái. Cô nhún vai. “Con bé học điệu nhún vai rất đầm này bao giờ thế không biết. – Ông nghĩ thầm – Đến đây học cao học chưa đầy một năm mà điệu bộ của nó có nét còn đầm hơn cả đầm chính hiệu. Nó định nhẹm cái đuôi Việt cố hữu vào đâu?”. Chẳng phải luồng suy nghĩ khắt khe của người cha mà là sự đánh giá của người thuộc thế hệ mang dép lốp trên các nẻo đường kháng chiến chưa được cuộc sống “văn minh” tẩy não. Chàng trai hẹn gặp lại sau nửa giờ bên cầu sông Xen gần đấy.
- Cháu ở Ca-na-đa sang đây tu nghiệp. Cháu làm thêm để thỉnh thoảng đi du lịch khỏi lạm vào ngân quĩ của gia đình. Cháu sống với mẹ. Cha cháu mất đã lâu.
Một câu hỏi lo le đầu miệng ông. Để rồi hỏi con bé. Hừm! bọn trẻ bây giờ chẳng cần “dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”, ưng nhau, hợp nhau là xong. Nó nói chỉ mới là bạn. Từ “bạn” cũng lôi thôi.
- Hồi bên nước còn chiến tranh, mẹ cháu hay kể cho cháu nghe về thời trẻ của bà, thời bà ở vùng kháng chiến, như kể chuyện cổ tích. Bà hay hát những bài trước năm 1945, ca khúc lãng mạn lẫn ca khúc cách mạng. Cháu nhớ có bài Đàn chim Việt và bài gì: Đêm nay thu sang cùng heo may. Đêm nay sương lam mờ chân mây…
Bài Con thuyền không bến. Người ấy rất thích hát cho riêng mình ta nghe, nhất là vào những đêm trăng se lạnh. Câu trong thư vĩnh biệt: “E rằng bài hát ấy vận vào đời em”. Có phải người ấy không?
- Bà thường kể về một bến sông, bờ dốc có bậc lên xuống ghép bằng đá xanh đẽo gọt sơ sài, mặt trên đã được các bàn chân trần mài nhẵn. Một cây phượng bên đầu dốc trùm bóng lá rợp cả bến. Nước sông trong xanh nhìn thấu cát sỏi dưới đáy, chảy xiết…
Chẳng lẽ là cái bến sông ấy. Cái bến sông, người ấy tiễn mình đi chiến khu Việt Bắc. Hai đứa đứng dưới tán phượng rực đỏ. Người ấy đọc với vẻ đùa đùa, mà nghe ngùi ngùi: “Đưa người, ta không đưa qua sông / Sao có tiếng sóng ở trong lòng?”. Mình đã lên đò, nghĩ thế nào người ấy chạy vội xuống đòi cùng qua sông. Mình can không được. Bên kia sông là bãi cát trắng mép lượn cong theo dáng sông. Bãi khá rộng; mùa hè, khách bộ hành chân trần phải mang sẵn cái quạt mo cau, đi chừng vài mươi bước phải đặt quạt trên mặt cát rồi đứng lên nghỉ cho bàn chân dịu bớt mới đi tiếp được. Cô lái đò, một cô gái đậm người, xinh dòn nhưng khá ngoa ngoắt, không chịu cho thuyền ghé sát mép nước. Mình định ghé lưng cõng nhưng người ấy không thuận, chịu ướt đôi ống quần. Tội nghiệp! trầy trật đôi guốc gỗ qua cát bỏng mãi mới tới bờ đê. Trên đê gió lộng bạt đi một ít oi nồng của trưa nắng hạ. Không là chiều tiễn biệt có hoàng hôn trong mắt của thơ Thâm Tâm*, không là nắng vàng nhớ nhung của thơ Huy Cận**, không là gió heo may hiu hắt của thơ Vũ Đình Liên***. Mình cầm tay người ấy giục quay lại. Mắt rớm ướt, người ấy mỉm cười đọc nhẹ: “Rồi có khi nào ngắm bóng mây / Chiều thu đưa lạnh gió heo may“, khẽ rút tay ra, bảo: “Anh đi đi, kẻo nắng!”. Người ấy cố ý không đọc hết khổ thơ bốn câu của Thế Lữ. Những tháng năm dài sau đó, không chỉ khi “dừng chân trên bến sông xa vắng” mình mới “chạnh nhớ tình em trong phút giây”. – mà chẳng phải chỉ trong phút giây. Có điều là khó tỏ cùng ai, kể cả với bạn thân. Người ấy đang ở phía quân thù. Cứ ngỡ rồi cũng quên đi, quên hẳn. Công việc, thời gian và cuộc sống riêng tư… Lá thư không địa chỉ người gửi sau hơn hai mươi năm là vật rơi không chờ đợi xuống mặt hồ tâm linh của mình vốn chưa bao giờ thật sự lặng sóng. Một đời con người ta thường hay bị xao động bởi đủ loại sóng, sóng nổi và sóng chìm. Song, lần xao động ấy có dạng rất riêng. Chàng trai này mang bóng dáng… Ờ, trong nhà thờ Đức Bà mình như bị “sốc” mà chưa hiểu do đâu.
- Tên mẹ cháu? – Ông buột hỏi.
Một cái tên được nói ra. Không phải tên người ấy. Mà mình thật là ngốc, thằng bé biết sao được tên thời con gái của mẹ trong hoàn cảnh của họ. Ánh mắt ông nhìn chàng trai khiến cậu nhớ lại lúc chạm mắt nhau tại nhà thờ. Tuổi trẻ hồn nhiên song cũng rất nhạy cảm.
- Cháu định mời mẹ cháu sang…
* * *
- Sáng nay, em gọi điện cho anh. Bạn trọ cùng nhà với anh bảo anh ra sân bay.
- Tha lỗi cho anh. Mẹ anh sang đây nhưng có công chuyện phải về gấp. Anh đã định để bà gặp em và bác.
- Anh chẳng phải xin lỗi…
Im lặng lâu. Họ đang đi dạo trong vườn Luých-xăm-bua. Gần tám giờ tối, trời còn sáng lắm, ánh sáng ban ngày. Không khí dịu mát. Bãi cỏ như tấm thảm xanh mời mọc khách du nằm thư giãn ngắm bầu trời lam nhạt dịu dàng. Nhưng chớ để xiêu lòng, ngay chỉ dẫm lên cỏ một chút cũng sẽ có tiếng còi ré lên ngay. Họ đang trên lối đi giữa các rặng cây. Chàng trai rất phân vân. Hai ngày nay, tâm thức của cậu không yên ổn.

Sân bay Roát-xi (Roissy), phòng chờ. Lọt thỏm giữa đám người phần đông là da trắng, một thanh niên gốc Việt ngồi ngóng chuyến bay từ Ca-na-đa sang. Bắt mẹ đi xa thế này thì khí vất vả và tốn kém. Thôi cũng là dịp để bà đi du lịch vượt Đại-tây dương biết đâu chẳng là lần chót, tuổi tác của bà… Mẹ vẫn muốn có cầu nối với nước cũ. Nước cũ! cái từ nghe nhẫn tâm nhưng đúng với thực tại. Nếu được một cô con dâu từ “bên nhà”, như một số người hay nói cho có vẻ thân tình, chắc bà sẽ vui. Cô ấy từ Việt Nam đi du học, không khó hợp như mình đã ngại. Cô có thể không về nước. Cô bảo cha cô để cho con gái tự quyết định lấy cuộc sống. Mẹ không ưng thì mình không nỡ để bà phải tủi lúc về già. Dẫu là sống trong xã hội phương Tây, nếu mình vuột khỏi tổ ấm của hai mẹ con thì bà sẽ đau lòng lắm. Tiếng cô phát thanh viên báo chuyến bay anh mong đợi đã đến. Dòng người tuôn ra cửa lúc nhặt, lúc thưa. Một bà già Á đông ăn mặc giản dị, bước chân nhẹ nhõm tuy lưng không được thẳng đi hơi chúi về phía trước. “Mẹ”. “Con! Bạn gái của con đâu?”. “Hôm nay cô ấy phải qua kiểm tra sơ bộ trước kì thi”. “Con bảo cha cô ta cũng sang ở bên này rồi mà”. “Bác ấy sang thăm con gái. Ở lại định cư hay không, con nghĩ còn là chuyện khác”. “Tùy thuộc vào cô con gái?”. “Không hẳn vậy đâu. Con chưa cho bác ấy biết mẹ sang đây. Bác ấy có gì kín đáo và ưu tư”. Trong xe taxi, cậu con đưa cho mẹ xem tấm ảnh mới chụp chung dưới chân tháp Ep-phen: “Cô người Pháp này là mời ghép vào cho khỏi xui. Cô bạn con ngại chụp ba người. Dị đoan kiểu phương Đông”. Bà già ngắm tấm ảnh rất lâu, dáng bất động mà mắt săm soi. “Ông ấy tên gì?” Giọng hỏi y hệt giọng cha cô gái hôm trước. Người con trai nói ra cái tên cậu biết. Người mẹ thả tay cầm ảnh xuống đùi, ngồi thẫn ra. “Mẹ! Mẹ làm sao vậy?”. “Không có gì đâu, con”. Bà ngả người nhắm mắt lâu, như ngủ. Xe chạy trên đại lộ Xanh Mi-sen ngang vườn Luých-xăm-bua. “Mẹ con ta vào đây nghỉ một chút. Về chỗ con đi bộ cũng được”.

- Anh sao đăm chiêu vậy?
- Có lúc anh không hiểu được mẹ mình. Xa Việt Nam, bà hay tìm đọc sách báo tiếng Việt, thường theo dõi tình hình chiến sự, hứng lên còn tường thuật cho anh nghe làm như anh không còn là chú nhóc. Có lần anh hỏi: “Con là người nước nào?”. Bà bảo: “Việt Nam chứ nước nào”. Anh hỏi tiếp: “Vậy sao không về thăm?” Bà nói: “Sẽ có lúc”. Năm 1975, thay đổi lớn ở Việt Nam, mẹ anh hay giở những bộ trang phục dân tộc ra mặc, chỉ mặc vậy thôi, mặc ngồi xem truyền hình, dạo đàn hay đọc sách một lúc thôi. Lần lần, có cái gì đó đổi khác, nhất là những năm sau này bà dường như mãi lo chuyện làm ăn. Anh nhắc chuyện về thăm quê hương, bà lảng đi.
- Có lẽ bà mặc cảm chi đó.
- Trước đây thì có lẽ có. Dường như bà muốn níu giữ cái gì, song lại muốn tránh né cái gì đó nữa.
Ngồi trong vườn Luých-xăm-bua, bà mẹ thăm dò chuyện con. Chưa có gì sâu sắc, thằng bé biết tạm dừng lại ở mức tình cảm mà lí trí còn có cơ tham dự định đoạt. “Cô ta chắc là không thể hoặc không muốn sang Ca-na-đa. Mẹ con ta cũng không có ý định về Việt Nam sống. Con có thể thuyết phục cô ta hoặc cô ta có thể lôi kéo con. Chưa có gì sâu nặng để làm vậy, phải không con?”. Chàng trai nghĩ thầm: Mẹ mà tiếp xúc với cô ấy và người cha, một người hiểu biết và sống nội tâm…”. Mai mẹ sẽ về theo chuyến bay đầu tiên trong ngày”. Người con bàng hoàng nhưng đủ thông minh và tế nhị để không gặng hỏi lí do. “Đã sang đây, ít ra mẹ cũng làm một cuộc du lịch ngắn chứ?”. “Cách đây mấy năm, nhân sang Tây Âu có công chuyện, mẹ đã đi thăm thú nhiều chốn rồi. Kìa! Họ đóng cửa vườn đấy. Con hãy ra nài người phụ trách cho nán lại dăm phút. Con cứ ngồi gần cổng chờ mẹ ra cùng về”. Một bà già giữa khu vườn trống vắng. Nghe mơ hồ tiếng lá xào xạc, tiếng chim xao xác. Tiếng ồn ào đường phố thoảng đến, xa xôi. Bà đứng lặng dõi theo bóng dáng vô hình nào. Một lát, bà chầm chậm bước men theo hàng cây, lối cỏ. Bà dừng bước, nhắm mắt thở một hơi sâu, mở mắt ra bơ thờ nhìn quanh, rồi quay gót bước nhanh về phía cổng. Cái nhìn thấy bằng mắt hiện tại không giống những gì bà thấy trong tâm tưởng. Bởi, cái “vườn Luých-xăm-bua” xưa của bà không là cái vườn này.
Vẻ bâng quơ, người con trai hỏi cô gái:
- Em đưa bác thăm vườn này chưa?
- Vừa đến Pa-ri, cụ đã tự tìm đến đây, và…
Sau khi hỏi chuyện cậu bạn trai của con bên nhà thờ Đức Bà, ông kéo con gái thăm lại vườn Luých-xăm-bua. Cho đến hết buổi, ông ít nói, nghe chuyện con một cách lơ đãng. Sáng nay, ông ngồi trầm ngâm lâu rồi một mình đi dạo. Ông lên xe buýt làm một chuyến vòng quanh nội thành Pa-ri bắt đầu từ cửa I-ta-li, qua hơn hai mươi cửa có tên gọi theo các cửa ô xưa, hết một giờ ba mươi phút. Cuối cùng, ông lại tìm đến vườn Luých-xăm-bua. Trong bữa cơm, cô con thỉnh thoảng lại nghi ngại nhìn cha, một câu hỏi trong ánh mắt. Người cha bỗng cười khà kể: “Cha đang đi trên hè phố thì một thằng Tây ngồi trong xe con của nó vẫy cha lại hỏi thăm đường ra sân bay. Cha lắc đầu. Nó tự giới thiệu là ở Mĩ qua đây du lịch rồi hỏi quốc tịch của cha. Nó nói rất tôn trọng Việt Nam, muốn tặng cha hai chiếc áo lông đang để trong xe chỉ xin 1500 phơ-răng để mua vé máy bay. Cha cảm ơn và từ chối nhận áo. Nó xuống giá: Thôi thì 600 phơ-răng cũng được. Thằng này thì phải gọi bọn đại bịp ở Việt Nam bằng cụ”. Hai cha con cùng cười đến chảy nước mắt. Cười xong, mắt người cha vẫn không xóa hết nét đăm chiêu, và dấu hỏi vẫn còn vương trong mắt con.
- Anh có điều muốn nghe cha em. Anh định chủ nhật tới mời bác và em, ba người chúng ta đi pic-nic.
- Thứ bảy này cụ về nước rồi.
- Vậy sao? – Hai tiếng thốt lên không chỉ là câu hỏi – Bác không lưu lại mấy ngày chờ xem người Pháp mừng 200 năm ngày Quốc Khánh của họ ư?
- Cụ đã định vậy, hôm nay cụ đột ngột đổi ý.
Hai người lẳng lặng ngồi xuống một chiếc ghế đá. Họ tránh nói ra điều họ đang nghĩ. Chàng trai chợt lên tiếng như nói với riêng mình:
- Thời các cụ chuyện tình cảm vậy mà không đơn giản. Dường như giữ một miền thương đau sâu kín trong tâm khảm cũng là một thứ hạnh phúc.
Cô gái định bảo: Nói triết lí không hợp với anh nhưng chợt nhận ra chính mình cũng đang muốn tìm đến một câu triết lí, đại loại như: “Cõi tâm linh là không biên giới mà nhiều khi chính tâm linh con người tự tạo ra biên giới tâm linh”.
* * *
Truyền rằng: Ngày xưa….
Nàng và chàng cùng học một trường Cao đẳng tiểu học. Họ yêu nhau, rồi cùng học lên trung học – gọi là ban tú tài. Ngày ấy, con gái học như vậy có thể đếm trên đầu ngón tay. Họ không lấy được nhau. Cha mẹ nàng không chịu gả, hoặc vì nhà nàng có vai vế xã hội và tiền tài, mà nhà chàng lại loàng xoàng, hoặc vì chàng có tư tưởng bài Pháp. Cách mạng và chiến tranh đẩy dần hai người ngày càng xa nhau. Nàng phiêu bạt, chàng ruổi rong. Một ngày, chẳng rõ là đẹp trời hay u ám, sau cái mốc 30-4-1975 chưa lâu, chàng – bây giờ nên gọi bằng ông – ông nhận được một phong thư mang con tem lạ, dấu bưu điện càng lạ từ một phương trời trái nẻo tâm tưởng ông. Ông mân mê cái bì thư cố đoán mà chịu không hiểu vì sao nó tìm đến tay mình. Ông về phòng riêng, một phòng trong khu tập thể cơ quan. Chậm rãi mà nôn nóng, ông bóc phong thư. Một tờ giấy mỏng phơn phớt xanh, loại giấy thư của ngày nào, đã lâu lắm ông không còn nghĩ tới nữa. Nét chữ chân phương mềm mà già dặn làm thức dậy trong ông một cái gì vừa thân thương, vừa quá xa xôi. Vỏn vẹn một bài thơ Đường luật:
Trái duyên chi nỡ phụ phàng nhau
Li loạn chia phôi trắng mái đầu
Nương gió tây nồng treo hẹn ước
Lạc trời thu lạnh nín thương đau
Quê nhà khói lấp vườn trường cũ
Đất khách ai về giấc mộng thâu
Thơ một lần trao chiều lỡ bước
Niết bàn xa khuất, bóng trăng xao…

Sao tôi lại nhớ chuyện kia vào lúc này và ở đây? Chuyện trái duyên ấy! Lời thơ ấy! Chẳng có gì đặc biệt, chẳng hay ho gì mấy, mà sao vẫn vương chút gì u uẩn. Tôi ghé Pa-ri một buổi chớm đông đầy tâm sự. Tôi ngồi trong phòng trọ nhìn qua lớp kính cửa sổ nghĩ lan man lạc nẻo tâm tư, trộn dĩ vãng vào hiện tại. Ngoài trời lạnh giá. Phía vườn Luých-xăm-bua những cây trụi lá chĩa cành và nhánh đen thui lên trời. Đó đây điểm xuyết những cây họ thông vẫn giữ nguyên màu xanh như những nốt nhạc vui lạc lõng trên cái nền thê lương.
Câu chuyện tình ấy quả là ngộ! Vừa nên thơ, vừa cố chấp, vừa giống hư cấu trong tiểu thuyết. “Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng”. Hình như không phải vậy, hoặc không phải chỉ có vậy.
Tình yêu thời xưa hay thật! Thời xưa rồi ư? Ờ, đã là thời xưa. Thời nay người ta không yêu như thế nữa. Phải vậy không?

Hải Phòng, 3-1999
(1)Tiếng lóng chỉ hành động bỏ vùng tự do vào vùng quân đội Pháp chiếm đóng, do từ “entrer” tiếng Pháp mà ra.
(2)Thơ Trần Cao Thanh, có cải biên.
* Đưa người, ta không đưa qua sông / Sao có tiếng sóng ở trong lòng? / Nắng chiều không thắm không vàng vọt / Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong!
** Ôi, nắng vàng sao mà nhớ nhung! / Có ai đàn lẻ để tơ chùng? / Có ai tiễn biệt nơi xa ấy? / Xui bước chân đây cũng ngại ngùng!
*** Ngọn gió heo may xa hiu hắt / Lạnh lùng chẳng biết tiễn đưa ai!

  Forum: TRUYỆN NGẮN · Post Preview: #120826 · Replies: 0 · Views: 478

BichDu
Posted on: Feb 2 2012, 05:11 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278



Nhâm Thìn - ANNÉE DU DRAGON



























  Forum: BỘ SƯU TẬP CÁC LOÀI HOA - CHIM MUÔNG - THÚ VẬT · Post Preview: #120594 · Replies: 0 · Views: 685

BichDu
Posted on: Dec 30 2011, 10:05 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






Đốt nén hương xa dạ nhớ người xưa !

Nó ngồi đấy vô thần nhìn khói nhang bay, ngày hôm nay - ngày của mỗi năm một lần ấy. Ngày con cháu xum vầy. Ngồi lại nhau đây kể chuyện nhau nghe, chuyện buồn chuyện vui chuyện chúng ta để rồi nước mắt bà lại lưng tròng trong những câu chuyện ngày ấy. Vì khói nhang hay vì nỗi niềm khác!? Ai hay.

Những đứa con cùng chung dòng máu, tư tưởng khác nhau ngồi nhìn vào quá khứ thầm nguyện tương lai theo khói nhang bay. Nghẹn ngào. Từng người, từng người một chấp tay đứng trước một ảnh hình được phục màu bởi thời gian làm hoen ố, lặng thầm, mong mỏi một điều gì đó dù có muốn hay không.

Ngẩn đầu, bầu trời trong đang níu giữ những làn mây long đong giấu một mặt trời khuất bóng. Mơ màng. Xoài trước nhà vẫn xanh một màu lá, ớt lại ra hoa, trái đỏ rực một góc nhìn, nghiêng nghiêng lắng nghe những nỗi niềm kể lại từ một buổi hôm qua. Dạt dào.

Chấp tay cầu giữ vững một niềm tin, gửi gắm một ước mong và tìm kiếm một niềm hy vọng.



Vẫn như ngày nào. Nguyện mong

- Mái đầu pha sương trắng kia không còn phải nước mắt lăn dài trong suốt quãng đời còn lại. Đã quá nhiều giọt nước vượt làn mi tuôn lăn dài không ngừng lại, không hiểu vì sao. Thiếu vắng ông hay là những long đong, bất công trong cuộc sống đời thường trải dài trên lưng còng ngày tháng. Nhiều khi chẳng biết đặt tên cho những nỗi niềm khó kể, gạt lệ bước qua. Tự nhủ lòng mặn mà một số kiếp truân chuyên. Những ngày trên vai quặn gánh đon đả vượt rừng, vựợt suối tìm thăm nó, giờ nằm đây ký ức vẫn ngậm ngùi vì thương...nó. Tội nghiệp.

Hiểu được phần nào. Những đứa con về lại với đồng bằng, tụ họp một tối nhà quê với mong manh lòng lành lấp trống một thời đã qua. Chơi vơi. Từ một thời chinh chiến “quà về cho mẹ là mái tóc pha sương, vai áo bạc quàng vai tù tội” chỉ còn là kỷ niệm và mong mãi chỉ là kỷ niệm. Bớt đau.



- Chiếc áo bớt nhạt màu bởi thấm đầy mồ hôi thiếu con gái, giờ vẫn còn ướt sương thiếu nữ và còn dư dả một vị mặn đàn bà. Cuộc đời vẫn Chồng chềnh. Đời vẫn cứ long đong, quyết lòng giữ lại áo bạt màu đơn côi. Trọn đạo. Bởi một nỗi lo mẹ già như tổ ấm lẻ đơn rơm đã ngã vàng úa nát, những chú chim non lớn khôn đã vỗ cánh bay tự khi nào. Nhiều phương. Bão tố cướp mất thân cây, sợ bật rễ bất kì thì sao gió biết để kịp gửi lời cho những cánh chim về tổ giữ gìn. Theo thì. Đành nợ lại nghĩa phu thê, giấu nỗi niềm riêng, gạt bỏ khát vọng thiếu nữ đã qua, còn lưu mỗi ngỗn ngang trong dạ chất đầy câu hỏi sống sao cho trọn đạo. Trời không cho.

Hiểu được chút nào, anh, em ngồi nhắn gửi vài lời, dặn dò trong cơn gió đưa hương phất phơ những sợi tóc rơi, bơ phờ. Thiếu nữ trôi đi, đàn bà trôi tiếp. Thiếp thê, thê thiếp thì giữ sao cho trọn đôi đường. Nghe vấn vương đời dạy trên những mái tóc giờ vài người đó có tro tàn điểm ấn. Lòng thương. Khói thuốc hòa khói nhang bay vào trời lãng đãng.



- Cả nhà vui quá đủ rồi. Niềm vui cho tất cả. Không phải ngậm ngùi tiếc rẻ niềm vui gia đình đã đánh mất hôm qua. Sau này sẽ có những đời cháu, con ngồi lại, ngắm nhìn những người hôm nay hoài mong. Thương thầm.

Đêm về nghe tiếng vọng từ thuở xa xưa

Ngẩn mặt nhìn ông. Cười lì. Tâm trí xếp hàng dài tâm nguyện cho những người nó yêu thương. Vô thường.

Nó thích cái buổi tối hôm nay – ngày của mỗi năm một lần ấy. Thi nhau kể lại chuyện cũ năm nào vẫn kể, thiết tha không nhàm. Các thành viên tìm được trong ký ức mênh mang vui, buồn cùng không thế nào. Nó ngồi im lặng, lắng nghe, thèm thuồng.



Được sống trong những hồi ức đó, qua lời kể nó thấy mình bay tự do về miền ký ức xa xưa khi nó vẫn còn chưa tồn tại. Thả các giác quan đi tìm những khoảnh khắc vui, buồn, ghét, yêu để lưu thành kỷ niệm hôm nay tự hào. Một cơn mưa rào đang rảo qua ngoài hiên, tiếng ồm ộp của một nàng ểnh ương gọi tình đang ngân vang ở nơi nào đó dưới hiên nhà, mùi đất nhão hòa đưa hương vào không khí kết với khói nhang kết tủa ngập tràn hương bay, hòa quyện. Nơi góc nhà người đàn bà tóc pha sương trắng đang cười híp mắt trong nỗi mất mát ngọt ngào, nào nao.

Lục lọi trong trí nhớ tìm một hình ảnh yêu thương hôm nào, giữa ông và nó. Đôi khi nó giật mình khi không nhớ rõ mặt ông, rối bời khi một ai hỏi đến vô tình. Chạy hối hả vào trong ký ức lục tung những ảnh hình lướt qua. Thế nào nó cũng đứng nhìn và nhìn thật lâu để khắc sâu vào trong tim những đường nét trên gương mặt kia, khảm vào trong trí nhớ bơ vơ để không thể mất đi. Một ngày ai đấy hỏi ra vẫn còn có những thiết tha đầy tình kể lại, hân hoan. Từ trong lời bà kể bồi đắp thương nhớ về một người đã ra đi với những đứa con không phải nhớ mong chỉ là mong nhớ, mà lòng phải đầy kính yêu. Ước thầm.



Một lần được hỏi ông về đời nó sẽ ra sao sau này. Con đường phía sau cuộc đời nó dù có gập ghềnh, chông chênh thì nó trong tâm nó vẫn muốn được chung cùng không rời xa... Dù chỉ là trong tâm tưởng. Vậy mà nó đành rời xa, cái thằng sáng dạ thông minh bổng chốc quá dại khờ, dù nó chạy chối đàng nào nó cũng là thằng đại bất hiếu, nơi cõi trời xa ôm bông hồng trắng thay cho vành khăn tang! Dù ông có tha thứ cho nó, tự nó không thể tha thứ cho nó, nó sẽ khóc thầm cho đến hết cuộc đời nó. Tội nghiệp cho nó cũng chỉ vì không chít được vành khăn tang. Cay đắng..ngậm ngùi.


  Forum: TÙY BÚT · Post Preview: #118648 · Replies: 0 · Views: 723

BichDu
Posted on: Dec 30 2011, 07:57 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278









  Forum: CA SĨ PHỐ NÚI · Post Preview: #118647 · Replies: 1 · Views: 1,773

BichDu
Posted on: Dec 18 2011, 03:18 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






Lo Gì - Khánh Hà


Download
  Forum: NHẠC GIÁNG SINH VÀ NEW YEAR · Post Preview: #117950 · Replies: 0 · Views: 702

BichDu
Posted on: Dec 18 2011, 03:08 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






Lạy Chúa con là người ngoại đạo - Tuấn Vũ


Download
  Forum: NHẠC GIÁNG SINH VÀ NEW YEAR · Post Preview: #117949 · Replies: 0 · Views: 669

BichDu
Posted on: Dec 18 2011, 02:22 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






Tình người ngoại đạo - Anh Khoa


Download
  Forum: NHẠC GIÁNG SINH VÀ NEW YEAR · Post Preview: #117948 · Replies: 0 · Views: 646

BichDu
Posted on: Dec 18 2011, 02:19 PM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278






Tôi không còn cô đơn - Khánh Hà


Download
  Forum: NHẠC GIÁNG SINH VÀ NEW YEAR · Post Preview: #117947 · Replies: 0 · Views: 617

BichDu
Posted on: Dec 18 2011, 06:37 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278





Thái Châu & Ý Linh - Lúc xa nhau


  Forum: FLASH VIDEO MUSIC · Post Preview: #117920 · Replies: 0 · Views: 743

BichDu
Posted on: Dec 18 2011, 06:31 AM


Cõi yêu
***

Group: Năng Động
Posts: 450
Joined: 29-December 09
Member No.: 7,278





Lâm Nhật Tiến - Ôi ! Mùa đông


  Forum: FLASH VIDEO MUSIC · Post Preview: #117919 · Replies: 0 · Views: 433

18 Pages V   1 2 3 > » 

New Posts  New Replies
No New Posts  No New Replies
Hot topic  Hot Topic (New)
No new  Hot Topic (No New)
Poll  Poll (New)
No new votes  Poll (No New)
Closed  Locked Topic
Moved  Moved Topic
 

Lo-Fi Version Time is now: 28th May 2024 - 11:45 PM