Posted on: Sep 27 2020, 11:05 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Chỉ một chữ đã tiết lộ thời điểm ĐCS Trung Quốc diệt vong Bản chất thực sự, và thời điểm "hết mệnh" của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là điều rất nhiều người đang quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu. Thật bất ngờ, tất cả những điều đó được tiết lộ trong một chữ này... Chữ Hán là văn tự Thần truyền trong văn hóa truyền thống Á Đông, nội hàm vô cùng phong phú, ẩn chứa những đạo lý tinh thâm. Mỗi chữ Hán không chỉ thần diệu mà còn có tính dự đoán, báo trước. 1. Chữ 共 Cộng nằm giữa chữ Nhật 日 và chữ Thủy 水 chính là chữ Bạo 暴 - bạo lực, tàn bạo. Nhật 日 đại biểu cho Trời, Thủy 水 đại diện cho Đất. Con người sống giữa trời đất, hài hòa với tự nhiên: "Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên" (Lão Tử). Đó mới là phương thức sống đúng đắn của con người, của xã hội. Chữ Bạo 暴 này chính là muốn nhắn nhủ với người thế gian: Nếu giữa trời và đất xuất hiện Cộng 共 sẽ mang tới bạo lực, cường quyền. Trên thực tế, bạo lực là phương tiện mà ĐCSTQ dùng để cướp đoạt chính quyền và khủng bố đe dọa người dân để duy trì chính quyền, hơn nữa còn là phương tiện duy nhất. Đó là nhân tố di truyền tiên quyết xuyên suốt từ ngày chào đời của nó cho đến hôm nay: Bạo chính là gen di truyền của ĐCSTQ. Bạo lực là phương tiện mà ĐCSTQ dùng để cướp đoạt chính quyền và khủng bố đe dọa người dân để duy trì chính quyền. Đó là nhân tố di truyền xuyên suốt từ ngày chào đời của nó cho đến hôm nay. (Getty) 2. Chữ Khẩu 口 thêm chữ Cộng 共 chính là chữ Hống 哄 - lừa đảo, lừa gạt, dối trá, dụ dỗ. ĐCSTQ luôn sử dụng lời nói dối như chất bôi trơn của bạo lực. ĐCSTQ hứa hẹn sau khi giành được chính quyền sẽ cấp đất đai cho nông dân, nhà máy cho công nhân, tự do và dân chủ cho tri thức, hòa bình cho dân chúng, nhưng đến nay không có lời hứa nào được thực hiện. Một thế hệ người Trung Quốc bị lừa dối và đã qua đời, nay lại một thế hệ người Trung Quốc cũng đang bị ĐCSTQ mê hoặc bằng bưng bít thông tin và tuyên truyền lừa đảo. Đây chẳng phải là điều đau xót nhất của người Trung Quốc hay sao? Chẳng phải là nỗi bất hạnh lớn nhất của dân tộc Trung Hoa hay sao? Đau xót và bất hạnh nhất chính là người dân do nghe theo tuyên truyền lừa đảo của ĐCSTQ đã đứng về phía nó thực hiện hết cuộc cách mạng này đến cuộc vận động khác, nhằm vào chính đồng bào mình, thậm chí thầy cô, cha mẹ, anh em, con cái mình, khi nhóm người này bị chính quyền ĐCSTQ quy kết một tội danh bất kỳ, tùy tiện như "phản động", "thành phần xét lại", "địa chủ, cường hào, ác bá", "cái đuôi của chủ nghĩa tư bản"... Thế nên, người dân Trung Quốc đang tự hành ác mà không tự biết. Đó cũng là nguyên nhân khiến Trung Quốc luôn luôn chịu những thiên tai, nhân họa tới tấp ập xuống mà vẫn không biết là tại sao. Đó chính là "cộng nghiệp" mà Phật gia giảng. Đau xót và bất hạnh nhất chính là người dân do nghe theo tuyên truyền lừa đảo của ĐCSTQ đã đứng về phía nó thực hiện hết cuộc cách mạng này đến cuộc vận động khác, trực tiếp hay gián tiếp gây ra hàng loạt tội ác, cuối cùng phải vì nó mà chịu tội nghiệp. (The Epoch Times) 3. Chữ Điền 田 thêm chữ Cộng 共 chính là chữ Dị 異 - biến dị, biến đổi. ĐCSTQ cũng giống như một con tắc kè hoa, liên tục thay đổi lập trường nguyên tắc trong nhiều năm vừa qua. Trong 19 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của ĐCSTQ từ khi thành lập đảng trong hơn 90 năm qua đã sửa đổi điều lệ đảng tới 19 lần. Trong 70 năm sau khi giành được chính quyền, ĐCSTQ có 6 lần thay đổi Hiến pháp. Điều đáng lưu ý đó là, lập trường và nguyên tắc của mỗi lần thay đổi, đều vì tính hợp pháp và sự sống còn của ĐCSTQ đối diện với nguy cơ không thể nào né tránh nổi, buộc phải thay đổi. Ví như: Sự hợp tác giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản; ngoại giao thân Mỹ; cải cách mở cửa; thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc... Tất cả đều vì mục đích tồn tại này. Nhưng mỗi lần thỏa hiệp đều vì để tranh giành và củng cố quyền lực. Mỗi lần đàn áp, sau đó lại sửa sai, đều lặp đi lặp lại vòng tuần hoàn này, cũng đều bởi vì mục đích sinh tồn của nó. 4. Chữ Mễ 米 Chữ Điền 田 và thêm chữ Cộng 共 là chữ Phấn 糞 - phân, vật hôi thối bẩn thỉu nhất. Chữ Phấn 糞 này nói với người thế gian rằng: Cho dù là thứ tốt đẹp nhất trên thế gian (như Điền - ruộng, Mễ - gạo), hễ bị tà linh Cộng bám vào thì lập tức trở thành thứ dơ bẩn nhất. Đó cũng chính là tại sao những quốc gia, tổ chức, cá nhân có quan hệ chặt chẽ với ĐCSTQ đều trở thành quốc gia, tổ chức, cá nhân xấu xa, tham nhũng, tàn bạo, dối trá... Hễ bị tà linh Cộng bám vào thì lập tức trở thành thứ dơ bẩn nhất. Đó là lý do tại sao những quốc gia, tổ chức, cá nhân có quan hệ chặt chẽ với ĐCSTQ đều trở nên xấu xa, tham nhũng, tàn bạo, dối trá... (Tổng hợp) 5. Chữ Tử 死 chen vào giữa chữ Cộng 共 chính là chữ Táng 葬 - mai táng, chôn cất. Chữ Táng này là nói với chúng ta rằng gia nhập tổ chức của ĐCSTQ chỉ có một con đường chết, khi Trời diệt Trung Cộng thì người "chui vào trong chữ Cộng" sẽ bị chôn vùi "mai táng" theo nó. Bởi vậy hiện nay trên thế giới có phong trào thoái xuất khỏi các tổ chức của ĐCSTQ, vì như vậy có nghĩa là xóa bỏ lời thề độc cống hiến, hy sinh tính mạng vì nó, do đó mới có thể đảm bảo bình an cho mình, sinh mệnh mới thật sự có tương lai. 6. Bộ Thủy (氵) và chữ Cộng 共 thành chữ Hồng 洪 - lũ lụt. Thủy là nước, Lão Tử nói: "Cái thiện cao nhất như nước, nước làm lợi cho vạn vật mà không tranh". Vậy mà khi kết hợp với Cộng thì biến thành lũ lụt. Đây có lẽ cũng chính là lý do tại sao Trung Quốc gần đây liên tiếp xảy ra lũ lụt, và càng ngày lũ lụt càng lớn, càng mở rộng. 7. Chữ Thù 殳 chữ Thi 尸 và chữ Cộng 共 thành chữ Điện 殿 - cung điện. Chữ Thù 殳 nghĩa là gậy, một loại binh khí xưa. Chữ Thi 尸 nghĩa là thi thể, xác chết. Thế nên chữ Điện 殿 này nói cho người thế gian biết, một khi Cộng (ĐCSTQ) lên nắm quyền, bước lên cung điện, điện đường thì nó sẽ giết người bằng thứ vũ khí thời trung cổ như gậy gộc, kích động người dân tra tấn sát hại người dân, khiến người dân Trung Quốc khắp nơi là thây xác. Lịch sử 70 năm ĐCSTQ cầm quyền, leo lên Điện đường, thì đã có 70 - 80 triệu người dân Trung Quốc bị chết qua các cuộc vận động của nó. Lịch sử 70 năm ĐCSTQ cầm quyền, leo lên Điện đường, thì đã có 70 - 80 triệu người dân Trung Quốc bị chết qua các cuộc vận động của nó. Tuy nhiên nếu bỏ chữ Thù đi thì chữ Điện này chỉ còn chữ Thi và chữ Cộng, nghĩa là nếu bỏ bạo lực đi thì ĐCSTQ chỉ còn lại là thây ma, là xác chết mà thôi. Đó là tại sao trong suốt lịch sử, chưa bao giờ ĐCSTQ từ bỏ bạo lực. Mỗi lần ĐCSTQ "hòa hoãn" chỉ là tình thế bắt buộc do không đủ sức mạnh dùng bạo lực, để ngấm ngầm tập trung phát triển sức mạnh bạo lực đến mức đủ sử dụng thì lại hiện nguyên hình. Điều này rất rõ trong lịch sử ĐCSTQ như lần "hợp tác Quốc - Cộng", sau khi đủ mạnh liền tiêu diệt Quốc Dân đảng, cướp chính quyền năm 1949. ĐCSTQ vốn là một chi nhánh ĐCS Liên Xô, được Liên Xô dựng lên năm 1921, nhưng sau khi nắm quyền, có được sức mạnh của một nước đông dân rộng lớn, thì năm 1969, ĐCSTQ chủ động tấn công Liên Xô. ĐCSTQ bắt tay hòa bình với Mỹ và các nước phương Tây, từ đó xây dựng kinh tế, ăn cắp công nghệ, xây dựng mạng lưới gián điệp qua kế hoạch 1.000 nhân tài, dùng tiền bạc, cơ hội làm ăn, kinh doanh, quảng cáo của một thị trường rộng lớn để xâm nhập vào mọi tầng lớp ngóc ngách xã hội Mỹ, đến mức nếu Mỹ chỉ cần chậm trễ vài năm thì đã bị Trung Quốc đánh bại rồi. Thế cục quốc tế, nước Mỹ và các nước phương Tây rối loạn như hiện nay, cũng như các điểm nóng ở Trung Đông, châu Phi, Nam Mỹ, đều có bóng ma ĐCSTQ lởn vởn phía sau. Bạo lực là linh hồn của ĐCSTQ, nếu bỏ bạo lực thì ĐCSTQ chỉ còn lại là thây ma, là xác chết mà thôi. Đó là tại sao trong suốt lịch sử, chưa bao giờ ĐCSTQ từ bỏ bạo lực. 8. Bộ Thủ 扌và chữ Cộng 共 thành chữ Củng 拱 - chắp tay Chúng ta chỉ thấy ĐCSTQ hung hăng xâm chiếm biển Đông, tự vẽ ra đường lưỡi bò, đòi chủ quyền của gần như toàn bộ khu vực biển Đông, đòi quyền lãnh thổ với Nhật, lấn chiếm Ấn Độ, lấn đất, chiếm đảo, cướp biển của Việt Nam. Đó là bản chất lưu manh của kẻ ác. Nhưng kẻ lưu manh thì "mềm nắn rắn buông", chuyên đi ức hiếp láng giềng, nhưng lại chắp tay dâng đất cho Nga. Trong lịch sử, ĐCSTQ thông đồng với Nga để chia cắt Mông Cổ. Giang Trạch Dân đã “chắp tay” (Củng - 拱 ) nhượng khoảng 1 triệu km2 đất ban đầu thuộc về Trung Quốc cho Nga vào năm 1999. 9. Chữ Bắc 北, thêm chữ Điền 田 và chữ Cộng 共 thành chữ Ký 冀 - hy vọng Chữ Ký 冀 có nghĩa là “hy vọng”, cũng là nói cho người thế gian biết: Lúc Đảng Cộng sản vừa đến, mọi người đều coi nó là hy vọng của nhân loại, nhưng thực chất lại là dị loại. Nó chính là một thể "dị dạng" (異 - Dị: biến dị) từ phương Bắc (北 - Bắc: Liên Xô) đưa sang, dùng lời giả dối dụ dỗ người dân, khiến người dân kỳ vọng (冀 - Ký: hy vọng) vào cuộc sống tốt đẹp, vào "thiên đường thế gian", "làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu". Thời điểm Đảng Cộng Sản xuất hiện ở Trung Quốc, nó đánh lừa sẽ mang lại cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng và bác ái cho người dân, khiến mọi người vốn đang trong tình cảnh khốn cùng đều hy vọng và đi theo nó. Thời điểm Đảng Cộng Sản xuất hiện ở Trung Quốc, nó đánh lừa sẽ mang lại cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng và bác ái cho người dân, khiến mọi người vốn đang trong tình cảnh khốn cùng đều hy vọng và đi theo nó. (Getty) Sau khi nó bước lên Điện đường, thì không một lời hứa nào thực hiện. Nhìn mảnh đất Thần Châu, "lễ nghi chi bang", trung tâm của Tam giáo: Nho - Phật - Đạo, ngày nay môi trường bị tàn phá, đất đai sa mạc hóa, ô nhiễm nước, không khí, thực phẩm nặng nề, người dân tàn nhẫn ác độc, tranh đấu chém giết nhau, lừa lọc nhau, chỉ vì danh lợi mà không từ thủ đoạn độc ác nào. Hàng loạt thiên tai, tai họa ập xuống như lũ lụt, dịch bệnh, sụt lún đất, sạt lở núi, mưa gió, băng tuyết, giông bão thất thường. ĐCSTQ nói là "xây dựng thiên đường chốn nhân gian", thì giờ đây quả là "địa ngục trần gian" rồi. 10. Chữ Cộng 共 gồm 2 chữ Thập 十 (là 20), 1 chữ Nhất 一 (là 1), và 1 chữ Bát 八 có nghĩa là tháng 8 năm 21. Thông qua chiết tự chữ Cộng 共 này có thể hiểu, Thần đã tiết lộ "Thiên cơ" rằng: Tháng 8 năm 2021 chính là thời khắc ĐCSTQ bị Trời diệt, nếu còn tiếp tục đứng về phía chúng, đi cùng chúng, sẽ theo chúng mà bị đào thải. Chỉ một chữ Cộng 共 ta có thể nhận thấy rõ bản chất xấu xa của ĐCSTQ đồng thời còn dự báo thời điểm nó bị diệt vong. Thế nên người ta nói chữ Hán là do Thần tạo ra, quả là chí lý. Thủy Nguyên Theo SOH |
Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #164226 · Replies: 0 · Views: 2,718 |
Posted on: Sep 27 2020, 11:05 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Tổng thống Trump chính thức đề cử bà Amy Coney Barrett cho Tối cao Pháp viện Tổng thống Donald Trump hôm thứ Bảy, 26/9 đã đề cử Thẩm phán Amy Coney Barrett vào Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, thay thế vị trí trống mà cố thẩm phán Ruth Bader Ginsburg để lại. Điều này có thể khởi đầu cho một cuộc chiến đề cử sôi nổi tại Quốc hội trước cuộc bầu cử vào tháng 11. Ông Trump công bố sự lựa chọn của mình tại Nhà Trắng ở Washington. Bà Barrett chấp nhận đề cử trước chồng và 7 người con. Ông Trump nói với bà Barrett: “Tôi đã xem xét và tôi đã nghiên cứu kỹ, và cô rất đủ tiêu chuẩn cho công việc này”. Ông cũng nhận xét rằng bà Barrett là “một trong những bộ óc pháp lý tài năng và xuất sắc nhất của quốc gia”. Tổng thống Trump đã liên tục ca ngợi bà Barrett trong những ngày gần đây. Phát biểu tại buổi công bố đề cử, bà Barrett nói rằng Tối cao Pháp viện là một tổ chức thuộc về tất cả người Mỹ. “Nếu được xác nhận, tôi sẽ không đảm nhận vai trò đó vì lợi ích của những người trong nhóm của tôi, và chắc chắn không vì lợi ích của riêng tôi. Tôi sẽ đảm nhận vai trò này để phục vụ các bạn. Tôi sẽ thực hiện lời tuyên thệ tư pháp, vốn yêu cầu tôi thực hiện công lý mà không phân biệt đối xử, và thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực và vô tư theo Hiến pháp Hoa Kỳ”. Trước buổi công bố ứng cử viên cho vị trí thẩm phán Tối cao Pháp viện, nhiều hãng truyền thông của Hoa Kỳ đã biết bà Barrett là sự lựa chọn của ông Trump. 'Người phụ nữ xuất sắc' Carrie Severino, chủ tịch của Mạng lưới Khủng hoảng Tư pháp, một tổ chức không thuộc chính phủ nhằm giúp tuyển chọn các thẩm phán phe bảo hiến truyền thống, nói với The Epoch Times rằng bà Barrett là “một người phụ nữ vô cùng xuất sắc”, người đã thể hiện “cam kết của bà đối với Hiến pháp và pháp quyền” cả trên cương vị học giả lẫn thẩm phán. Nhận xét về bà Barrett, Thượng nghị sĩ John Cornyn nói: “Thẩm phán Amy Coney Barrett là chuyên gia tư pháp hàng đầu và luôn tôn trọng pháp luật và nguyên tắc lập quốc của quốc gia. Trong suốt sự nghiệp của mình, bà ấy đã duy trì tầm quan trọng của một chuyên gia tư pháp độc lập. Bà diễn giải luật và Hiến pháp đúng như bản gốc, và làm việc mà không bị áp lực chính trị”. Thượng nghị sĩ John Cornyn cũng cho biết: “Tôi mong được gặp bà ấy trong những ngày tới khi Ủy ban Tư pháp chuẩn bị cho phiên điều trần xác nhận bà Amy Coney Barrett”, ông viết trên Twitter. Theo thông tin từ Fox News, từ lâu bà Barrett đã được coi là ứng viên hàng đầu cho vị trí Thẩm phán tại Tối cao Pháp viện, sau khi bà được xem xét cẩn trọng để thay thế cựu Thẩm phán Anthony Kennedy. Dù sau đó Tổng thống Trump đã lựa chọn Thẩm phán Brett Kavanaugh để thay thế ông Kennedy, nhưng ông Trump nói rằng ông “để dành bà ấy cho [vị trí] bà Ginsburg”, theo một số nguồn tin vào tại thời điểm đó. Bà Barrett đã phục vụ tại Tòa phúc thẩm thứ 7 kể từ cuối năm 2017. Amy Coney Barret là một cựu giáo sư Đại học Notre Dame và là một người Công giáo sùng đạo. Đây là một thực tế đã gây tranh cãi tại phiên điều trần xác nhận thông qua vị trí thẩm phán tại Tòa phúc thẩm thứ 7 vào năm 2017. Thành viên Ủy ban Tư pháp Thượng viện Dianne Feinstein, nói với Barrett rằng: “Trong người cô có đầy giáo lý và đó là điều đáng lo ngại". Cuối cùng bà cũng được Thượng viện xác nhận thông qua với số phiếu 55-43. Thông tin chính về Thẩm phán Amy Coney Barrett Bà Amy Coney Barrett, 48 tuổi (sinh năm 1972), từng là giáo sư luật tại Đại học danh tiếng Notre Dame ở bang Indiana. Sinh ra ở New Orleans, bà kết hôn với một cựu công tố viên liên bang ở South Bend, Indiana và họ có với nhau 7 người con. Hai người trong số họ được nhận nuôi từ Haiti và con ruột út của họ mắc hội chứng Down. Trước khi tham gia tòa phúc thẩm, Barrett đã làm việc trong một thời gian ngắn trong lĩnh vực hành nghề tư nhân sau đó giảng dạy 15 năm tại trường luật Notre Dame. Nếu được chấp thuận, bà Barrett sẽ là thẩm phán trẻ nhất tại tòa án cấp cao. Sự hiện diện của bà cũng sẽ củng cố ghế đa số bảo hiến là 6-3. Là một người theo Công giáo, cá nhân bà Barrett phản đối mạnh mẽ tình trạng nạo phá thai, một trong những vấn đề chủ chốt gây tranh cãi trong văn hóa Mỹ. Bà quan niệm "cuộc sống bắt đầu từ lúc thụ thai". Tại Tòa phúc thẩm liên bang ở Chicago, bà Barrett đã thông qua các quan điểm ủng hộ quyền sử dụng súng, phản đối người di cư, cũng như phản đối "Obamacare". Năm 2017, bà Barrett được Tổng thống Trump bổ nhiệm một vị trí trong Tòa phúc thẩm khu vực liên bang số 7. Bà cũng là một lựa chọn khi ông Trump cân nhắc cho vị trí thẩm phán Tòa án Tối cao Mỹ thay cho ông Anthony Kennedy vào năm 2018 Minh Dũng |
Forum: LỊCH SỬ - VĂN HÓA - BÌNH LUẬN · Post Preview: #164225 · Replies: 0 · Views: 2,528 |
Posted on: Jul 4 2020, 11:58 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Ði tìm thời gian đánh mất 30 tháng 4 — (I) Ngày: 25-04-2006 30/4/1975 30/4/1976 30/4/2006 Nguyễn Văn Lục Sài Gòn không còn ngày Buổi tối, tôi leo lên sân thượng. Trời tối đen, cái im ắng đến chết người. Nhưng trong bóng đêm, tôi đã nghe rõ được tiếng của im lặng. Cái im lặng của cõi đêm, của một cuộc đời, của mảnh đất tôi đang sống đã khép lại. Chỉ mới hôm qua, những chiếc trực thăng còn lập lòe trên các mái nhà và biệt tăm ngay sau đó vào đêm tối. Rồi chốc lát đã mất hút. Niềm hy vọng như cạn mòn. Một triệu, một trăm mười ngàn (1.110.000) binh sĩ VNCH đâu rồi cộng với 50 binh sĩ Hoa Kỳ còn sót lại? Và Neil Sheenan trong Innocence perdu đã chả từng nói: “Cette guerre que nous n!aurons jamais gagné’’ Cái trận chiến mà chúng ta đã chưa hề bao giờ thắng. Và nay chúng ta sắp sửa làm một cuộc hành trình qua sa mạc (une traversée du désert) với khô héo cạn kiệt, cô độc và đơn thương một mình, một hành trình gian khổ với đầy bất trắc đe dọa, hiểm nguy. Ngồi một mình thấy tương lai vô định. Lòng buồn vô tả. Nước mắt tuôn trào không ngăn được. Chuồng chim bồ câu trên sân thượng ăn dần nay chỉ còn vài cặp. Chợt nghĩ. Ít lâu nữa sẽ không có mà ăn nữa. Bụng tự nhiên nhói lên. Tương lai như mù mịt. Vui chưa thấy, lo thì không thiếu. Chẳng hiểu chính quyền mới đối xử ra sao? Đó cũng là mối lo của nhiều người, nhất là những người có dính dáng nhiều đến chế độ Sài Gòn. Chiến tranh đã chấm dứt. Đáng nhẽ phải vui mà hóa buồn. Hết rồi cảnh chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát thân. Có sự im lặng nặng nề như một con vật chờ chết trong nỗi tuyệt vọng. Ván bài chơi đã xong. Trong khi đó, 8 chiến xa đã vào thành phố trên đại lộ Thống Nhất. Nhiều nhà đóng cửa rồi từ trong nhà ngó ra xem động tĩnh. Chỉ có một thiểu số người dám ra đường đứng thản nhiên nhìn đoàn xe cộ đi qua. Bộ đội tỏ ra ngơ ngác, hiền lành và kỷ luật. Họ dơ tay vẫy chào nguợng ngập. Mãi vào lúc 16 chiều ngày 30/4/1975, ba vị thuyết khách của ông Dương Văn Minh (DVM), thuộc thành phần thứ ba là luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân và Linh Mục Chân Tín mới từ trại David Tân Sơn Nhứt ra về. Các ông là những người được tướng DVM cử làm đại diện vào trại David chiều ngày 29/4/1975 để thuyết phục những người của Mặt trận yêu cầu họ đừng đánh phá vào Sài Gòn. Các tướng Nguyễn Anh Tuấn và Đại tá Võ Đông Giang đã hứa chỉ pháo chút ít để làm áp lực với tướng DVM mà thôi. Quân Bắc Việt đã tiến quân vào Tân Sơn Nhất (TSN) nên các ông bị kẹt lại cho đến chiều 30 tháng tư mới ra về được. 21 năm sau, ngày 28/1/1996, Chân Tín trả lời phỏng vấn đài VNCR đã nói khác: “Chúng tôi ngồi yên nhìn cái ngu dốt và cái sa lầy của một chế độ đang trên đà tan rã’’. Nay mới đây nghe tin ông ra tờ báo chui. 86 tuổi đầu tưởng đã tự cho phép mình hưu tranh đấu. Ông vẫn chưa ngưng nghỉ, chưa hưu, chiến đấu đến cùng. Ngoài phố, chỉ còn nghe tiếng xích sắt lạnh lẽo của bánh xe nghiến trên mặt đường nhựa. Mặt đất như rung lên bần bật. Sài Gòn như oặn mình dưới làn xích sắt đi qua. Tiếng xích sắt như nhắc nhở gợi về tiếng xích sắt của mùa xuân Praha năm nào. Cái mùa xuân nát úa. Cái mùa xuân hy vọng của tuổi trẻ Prague chưa kịp nhú lên thì đã bị xích sắt xe tăng của Hồng quân Liên Xô đè dập nát khi tiến vào Prague, trên những dường phố lát đá gồ ghề, thẫm màu đen thuở nào của xứ Tiệp. Những chiến xa trên có cắm cờ của mặt trận Giải Phóng miền Nam như niềm hy vọng nhỏ nhoi sót lại của người Sài Gòn. Những chiếc chiến xa đang chạy trên đường Tự Do, Catinat cho tôi có cảm tưởng đường Tự Do (TD) của miền Nam là đại lộ Champs-Élysées của Paris. Nhưng Champs-Élysées của Paris vào tháng 8 1944 là cả một biển người đón tiếp De Gaulle. Biển người đó là nỗi vui mừng giải phóng, chỉ có tiếng cười và nước mắt hoan lạc. Nhưng Champs Élysées thì không phải đưởng Tự Do ở Sài Gòn. Đường TD không có nỗi vui hoan lạc mà chỉ có những ánh mắt lo âu và sợ sệt. Ở một góc phố cạnh hotel Majestic, người ta thấy một nhóm nhỏ người đứng nhìn chiếc chiến xa đi qua. Bên kia đường, có một thanh niên mặc quần tây áo trắng bỏ ngoài quần, chắp tay đứng nhìn. Không có biển người mà cũng không có tiếng vỗ tay reo hò. Và đừng quên cộng thêm 125 nhà báo ngoại quốc đứng ở đâu đó. Họ còn ở lại để chứng kiến cảnh tháo chạy, cái cảnh mà Bảo Ninh đã mô tả trong truyện ngắn Ba lẻ một: Chen chúc, xô lấn, giày đạp, chà xéo, đánh nhau, giết nhau, cưỡng hiếp và cướp bóc và cảnh tiến tới ồ ạt của những T54 và K63, như một cơn lốc bẳng thép xé mặt lộ lướt tới với thần tốc kinh hồn, là phẳng mọi chướng ngại trên đường, nhắm hướng Nam truy kích. Đài phát thanh Sài Gòn mở đầu bằng tiếng hát Trịnh Công Sơn (TCS). Tiếng hát một thời. Tiếng hát của của một đời ngưòi. Anh cất tiếng hát không phải khúc ca da vàng, nhưng lạc lõng với bài: Nối Vòng tay lớn bên cạnh đám bạn bè anh, trong đó có Nguyễn Hữu Thái, một sinh viên tranh đấu. Dân Sài Gòn đã đón tiếp quân Giải Phóng như thế đấy. Một nhúm người người dân ngơ ngác, 125 nhà báo và TCS với Nối Vòng Tay Lớn. 8 chiến xa có trang bị kính nhắm hồng ngoại tuyến dùng cho những cuộc đánh nhau ban đêm? Chả còn gì để dấu diếm nữa. Những chiến xa của Liên Xô từ ngoài Bắc chạy thẳng vào chứ đâu phải của mặt trận giải phóng miền Nam? Trên chiến xa có cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Nhưng cắm một lá cờ thì không lẽ đủ để thay đổi một tình thế? Trong khi đó, ông Minh và toàn bộ chính phủ ông đã chờ sẵn tại dinh độc lập để trao quyền hành lại cho những người chủ mới. Người ta không thấy có một đại diện nào của MTGPMN. Nhiều người chê trách ông Minh hèn “bán đứng miền Nam”. Nếu ông Minh hèn thì những kẻ chạy vắt giò lên cổ từ những ngày cuối tháng tư phải gọi bằng tên gì? Kẻ trốn chạy và kẻ ở lại lãnh thẹo, ai hèn hơn ai? Sài Gòn lúc đó như một bãi rác với đủ thứ rác: rác Mỹ, rác quân đội với súng ống, quân trang, quân dụng vứt bừa bãi, rác chính quyền tham nhũng. Cùng lắm, ông Minh chỉ là người không thức thời cúi mình xuống nhặt cái chính quyền bị người ta vứt lại từ đống rác đó. Lại còn vấn đề trao cái chính quyền đó vào tay ai? Chẳng biết nữa, người nói ông Bùi Tín, người nói Chính ủy Tùng. Theo Stanley Karnov, trong Viet Nam viết: Ngồi trên một chiến xa vào dinh độc lập, Ông Bùi Tin chuẩn bị đóng hai vai trò một lúc: Là nhà báo, ông muốn là nhân chứng cho cuộc đầu hàng. Nhưng là sĩ quan cao cấp trong đơn vị của ông, ông muốn chính ông tiếp nhận sự đầu hàng này. Tôi chờ các ông từ sáng nay để trao quyền hành lại cho các ông, đại tướng Minh đã nói như thế khi ông Bùi Tín vào đến đại sảnh. Bùi Tín đáp lại, không có vấn đề trao quyền hành. Quyền hành của các ông còn đâu để mà giao. Ông không thể giao một cái mà ông không có. (Pénétrant à bord d'un char dans la cour du Palais, il se préparait à jouer un double rôle: journaliste, il désirait être témoin de la capitulation, officier le plus élevé en grade de son unité, il avait pour de voir de la recevoir. J'attends depuis ce matin pour vous remettre le pouvoir, annonca le général Minh1quand Bui Tin entre dans le salon. Il n'en est pas question, répliqua le colonel. Votre pouvoir s'est écroulé. Vous ne pouvez donner ce que vous n'avez pas.) Nhưng có lẽ câu nói quan trọng nhất của Bùi Tín vẫn là câu sau đây: “Cùng là người Việt Nam cả, sẽ không có kẻ thắng người bại. Chỉ có người Mỹ là kẻ bại trận. Nếu ông là người yêu nước, đây là lúc để vui mừng, vì chiến tranh đã không còn nữa trên quê hương của chúng ta”. (Entre Vietnamiens, il n'y a ni vainqeur, ni vaincus. Seul les Américains ont été battus. Si vous êtes patriotes, c'est le moment de vous réjouir. La guerre pour notre pays est terminée”. Từ đó đến nay, đã hơn 30 năm, người ta vẫn chờ đợi câu nói của Bùi Tín được thực hiện. Cũng trong tháng 9 năm 1975, các ông Lê Đức Thọ và Xuân Thủy còn nhắc nhở mọi ngưởi rằng: Ai còn nói ngụy là ngụy… Hồi mất Điện Biên Phủ (ĐBP), cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh phải mất 56 ngày đêm. Mất Sài Gòn nhanh hơn, chỉ có 55 ngày. Ít hơn một ngày. Hồi ĐBP, chỉ mất một nửa. Lần này mất tất cả. Về phía những người thua trận Không kể những người đã tháo chạy, không kể những người còn kẹt lại trong gọng kìm lịch sử oan nghiệt. Còn có những người cất lên tiếng nói cuối cùng. Thiếu Tá Long, Cảnh sát Quốc Gia đã đến đứng trước tượng TQLC trước tòa nhà Quốc Hội ở Sài Gòn rồi rút súng tự sát. Ông đã nằm chết ngay dưới chân pho tượng. Trung sĩ Quân Cảnh Trần Minh, thuộc đại đội một quân cảnh phụ trách an ninh khu vực Bộ Tổng Tham Mưu (TTM). Lúc 10giờ 30, sau khi nghe tin đầu hàng, trung sĩ Trần Minh đã dùng súng lục tự tử dưới chân cột cờ Bộ TTM. Thêm vào đó là những cái chết của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh. Chuẩn tướng Trần văn Hai, sư đoàn 7 bộ binh. Thiếu Tướng Phạm văn Phú, Tư lệnh quân khu 1. Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó quân đoàn 4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh quân đoàn 4. Những cái chết anh dũng. Nhưng đã thay đổi được gì và có thể đại diện cho những vị khác đã bỏ chạy không? Đó là những cái chết bằng ngàn lời ca, bằng vạn tiếng nói. Và kẻ chết cuối cùng vẫn là kẻ có lý. Và tự sát bao giờ cũng cần được hiểu là một sự hy sinh cuối cùng (Ultimate sacrifice) đáng được trân trọng. Không có cái chết vô ích mà chỉ có những cái sống vô ích. Đó là số phận những người đã tự chọn cái chết. Những cái chết đó giá trị bằng ngàn lời ca, bằng vạn tiếng nói. Còn số phận những người còn lại? Tôi ghi lại đây hình ảnh một anh lính VNCH, đi chân đất, hai tay áo rách, đầu gối rách, chắp tay. Đằng sau anh là một bộ đội mặc đồ đen, cầm súng lăm lăm và sau chót là đám đông dân làng, khoảng 6, 7 chục người khoanh tay bất lực với lời ghi chú của nhiếp ảnh viên:* Un avenir qui ne s’annonce pas vraiment radieux pour ce soldat de Thiệu: pendant combien d’années sera-t-il rééduqué... (ảnh của Abbas. Gamma). Một tương lai không mấy sáng sủa cho người lính này của Thiệu: Người lính này sẽ bị đưa đi học tập cải tạo trong bao lâu. Thật ra người lính lúc đó chỉ có 3 chọn lựa: di tản ra nước ngoài, nhẫn nhục để đi học tập cải tạo hoặc tìm đến cái chết Cạnh đó là bức hình của kẻ chiến thắng. Hình một anh bộ đội chống nạng, cụt hẳn một giò đến háng, đi bên cạnh một xe tăng đã bốc cháy với lời ghi: Après les vingt-cinq années de guerre, une photo qui résume tout (ảnh của Leroy-Gamma). Sau 25 năm cuộc chiến, một bức hình nói lên tất cả. Cũng khoảng 2 giờ rưỡi trưa hôm ấy, những chiến xa đã từ trong dinh Độc Lập chạy dọc theo đại lộ Catinat-Tự Do, từ nhà thờ Đức Bà ra hướng bờ sông. Có tới mười người rụt rè dơ cánh tay vẫy chào. Nhiệm vụ của người chiến thắng không phải là dễ. Chiếm được Sài Gòn rồi, nhưng làm sao thay vì chỉ có 10 cánh tay rụt rè giơ lên, phải nhân lên bao nhiêu triệu lần? Phải chờ xem vậy thôi. Vào cái giờ này của ngày chiến thắng. Toàn bộ báo chí đã ngưng xuất bản. Gần 50 chục báo hằng ngày của Sài Gòn sáng nay vắng mặt. Họ đâu cả rồi? Tất cả liên lạc viễn thông với thế giới bên ngoài cũng bị cắt. Họa chăng còn lại đại diện của các tòa đại sứ sau đây: Pháp, Bỉ, Nhật, Khâm sứ Tòa thánh, Thụy Sĩ và lãnh sự Ấn độ. Chế độ mới hầu như tạm thời cắt đứt với thế giới bên ngoài. Cho mãi đến ngày 23 tháng năm, liên lạc với thế giới bên ngoài mới được nối lại và chuyến bay đầu tiên ra nước ngoài vào ngày 24 tháng năm. Chuyến bay này chở một số người ngoại quốc còn kẹt lại trong thành phố mà phần lớn là người Pháp. Theo Ngũ Giác Đài, có khoảng 50 ngưởi Mỹ bị kẹt lại VN sau ngày 30 tháng tư, cộng thêm 26 người VN là vợ con của những người Mỹ này. Sát cạnh nhà tôi, có hai vợ chồng người Việt cũng ra đi theo diện quốc tịch Pháp. Trong tình huống này mới thấy người Pháp là những người tử tế. Chị họ con ông bác tên Diệp, làm y tá nhà thương Grall cũng được đi và sang Pháp cũng làm y tá lại, lương bổng ngạch trật như cũ. Chẳng bao lâu sau, có vợ chồng một đại tá, đã đến cư ngụ ờ căn nhà đó. Sau này, suốt vài năm ở cạnh nhà như hàng xóm, ra vào đụng mặt nhau, ông bà chưa bao giờ nói chuyện, hoặc chào hỏi chúng tôi lấy một lần. Điều này phải được hiểu là thế nào? Không dễ dàng gì để những người dại diện đó được nhìn nhận. Họ không có trong mắt của người Sài Gòn. Chiến thắng thì đã xong, nhưng chinh phục thì chưa tới. Phía trí thức miền Nam: Mặt trận Giải Phóng, ảo tưởng và ảo ảnh Xin ghi lại dây hình một bé gái chừng 12 tuổi, đầu quấn một khăn trắng đang đi trên một bờ ruộng với lá cờ MTGPMN, hai mầu, ở giữa có ngôi sao với lời tiên đoán:* le drapeau du FNL flotte sur le Sud-VietNam. Il sera sous peu remplacé par le drapeau du Nord, devenu celui du Viet Nam réunifié( ảnh của JC Labbé-Gamma). Lá cờ MTGPMN tung bay ở miền Nam VN. Nhưng chẳng bao lâu nữa, nó sẽ được thay thế bằng cờ của miền Bắc, trở thành cờ của VN thống nhất. Cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc đã để lại một di sản thừa như một cục bướu ung thư cần nhổ. Đó là MTGPMN. Mặt trận này đối với trí thức thành phần thứ ba hay đối với sinh viên VN hải ngoại chỉ dẫn đưa họ đến một kết quả là: những ảo tưởng vĩ đại (grandes illusions) và đối với toàn thể thế giới là một âm mưu lừa bịp trắng trợn. Xin nhắc để mọi người cùng nhớ: những trí thức đi theo Mặt trận hồi đó gồm có các ông luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Liên Minh Các Lực lượng Đấu tranh Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (LMCLLDTDCVHBVN), phó chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (HĐCV CPLTCHMNVN), chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc (UBTUMTTQVN) và vợ là Ngô Thị Phú, ở Sóc Trăng. Lâm Văn Tết, Phùng Văn Cung, Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vợ nữ sĩ Vân Trang. Nguyễn Văn Chì, Chánh án Phạm Ngọc Thu, dược sĩ Đỗ Thu, Kỹ sư Cao Văn Bổn, Kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chức sắc Cao Đài Nguyễn Văn Ngưỡi, kỹ sư Trương Như Tảng, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, bà Nguyễn Thị Bình, Huỳnh Tấn Phát, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Lữ Phương, bà Bùi Thị Nga, Trần Quang Long, Trần Triệu Luật. Nhà văn Thanh Nghị Hoàng, Trọng Quỳ và vợ ca sĩ Tâm Vấn. Thêm vào đó gs Lê Văn Hảo theo vào năm 1968, chủ tịch LMCLLDTDCVHBVN, thêm chủ tịch UBKNHTT. Trong dịp tờ Quê Mẹ phỏng vấn ông năm, 1999 ở Pháp, ông Hảo giải thích: dư luận gán cho ông về cuộc rhảm sát Mậu Thân ở Huế là không đúng. Thứ nhất, lúc quân đội CS đánh Huế, tôi không có mặt trong thành phố. Trước tết 5 ngày, tôi được dẫn lên núi, nói là mời họp rồi giữ tôi ở lại luôn, không về thành phố lần nào. Cùng với tôi có Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân đã theo bộ đội về Huế và tôi được biết Phan và Xuân đã từng ngồi xét sử nhiều người có quan hệ với chính quyền Sài Gòn, trong những phiên xử của cái gọi là toà án nhân dân. Sau này, các ông Trần Quang Long, Trần Triệu Luật đã chết vì bom Mỹ. Những người còn lại may mắn sống sót. Sau 30 tháng 4, đám trí thức trên vỡ mộng. Họ không có một vị trí nào trong chính quyền Cộng Sản tương lai và danh xưng MTGPMN cũng không ai muốn nhắc tới. Chẳng bao lâu sau ngày giải phóng, cờ của Mặt trận bị cuốn gói, xếp một chỗ. Có thể bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa là người đầu tiên xin ra khỏi đảng CS và không tham dự phái đoàn nhân sĩ trí thức miền Nam ra ngoài Bắc. Lý do chính là hai vợ chồng chính thức phản đối việc thống nhất hai miền như một thứ bội phản đối với miền Nam. Đơn xin rút tên ra khỏi đảng đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra một điều kiện: Phải 10 năm sau mới được quyền công bố chính thức rút tên ra khỏi đảng. Sau này, trong bài phỏng vấn trả lời trên tờ Far Eastern Economic Review (FEER) ngày 17/10/1996, bà đã trả lời như sau. Hỏi: Quel est l!évènement le plus marquant pendant les 50 années passées. (Biến cố nào được coi là nổi bật nhất trong 50 năm đã qua?). Trả lời: L'effondrement du mur de Berlin qui mit un terme à la grande illusion Sự sụp đổ bức tường Bá Linh chấm dứt một thời kỳ cuả ảo tưởng lớn. Và nói như ông Hồ Sĩ Khuê: “Thành viên Mặt trận thực sự chẳng có bao nhiêu. Nhưng ở Sài Gòn, sao mà ai cũng có vẻ là người của Mặt trận quá.” Nhưng bên trong, họ chỉ làm bù nhìn. Hình nộm “ngồi chơi xơi nước” như theo lời tường thuật của kỹ sư Trương Như Tảng. Ông Tảng vốn là một sinh viên du học bên Pháp, có dịp gặp HCM, coi HCM như khuôn mặt lãnh tụ sáng chói nhất để chống lại người Mỹ, và trước mắt, chống lại chính quyền Ngô Ðình Diệm đã viết: Hồi ký của một Việt cộng (A Viet Cong Memoir) cho thấy MTGPMN chỉ là một sự dàn dựng, họ được đưa vào bưng để làm bung xung, đánh lừa cả thế giới. Họ bị bịt mắt, dẫn đi quanh co trong rừng. Những buổi họp, để giữ bí mật, các thành viên mặt trận đều bịt mặt, vì thế chẳng biết ai vào với ai. Ai là thật, ai là giả? Ðó là kinh nghiệm đau xót của một số ít trí thức miền Nam. Trong The Myth of Libération, Trương Như Tảng tố cáo sự dàn dựng giả dối của chính quyền Cộng sản Hà Nội: “Trong nhiều năm, họ đã nghe Việt Nam Dân chủ Cộng hòa long trọng tuyên bố cam kết”, qua lời Tổng bí thư Lê Duẩn, rằng “Miền Nam cần có chính sách riêng của miền Nam”. Hay như lời Thủ tướng Phạm Văn Ðồng tuyên bố với phóng viên nước ngoài: “Chẳng ai lại có cái ý nghĩ ngu xuẩn và tội lỗi là thôn tính miền Nam”. William Shawcross, trên tờ Washington Post, nhận xét: “He became the Viet Cong’s Minister of Justice, but at the end of the war, he fled the country in disillusionment and despair. He now lives in exile in Paris, the highest level official to have defected from Viet Nam to the West. This is his candid, revealing and unforgettable autobiography.” (Tạm dịch: “Ông trở thành Bộ trưởng Tư pháp trong chính phủ Việt cộng, nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, ông đã trốn thoát khỏi Việt Nam với tâm trạng bị vỡ mộng và thất vọng. Nay ông tỵ nạn ở Paris. Ông là một trong những viên chức cao cấp nhất đã đào thoát ra khỏi Việt Nam sang Tây Phương. Ðây là cuốn tự truyện đáng nhớ, phơi bày (nhiều chuyện) và thành thật.”) Vai trò bù nhìn của MTGPMN cũng được đề cập đến trong hồi ký của Vũ Thư Hiên. Ông viết: “Trẻ con miền Bắc cũng biết Mặt trận Giải phóng là do miền Bắc dựng nên”. Người trí thức miền Nam một lần nữa bị lừa gạt . Riêng Nguyễn Hữu Thọ, sau 1975 được làm phó chủ tịch nước. 1981, phó chủ tịch quốc hội, 1988, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc. Nhưng cuối cùng thì ông cũng phải thốt ra một câu như sau: Dân chủ không thể có bằng sự ban ơn, mà bằng sự đấu tranh Sau này, sau khi miền Nam bị mất vào tay Cộng sản, nhiều người trong bọn họ trước đó mang ảo tưởng sẽ có vai trò, sẽ được dùng, sẽ được lãnh đạo miền Nam, bị gạt ra bên lề một cách thảm hại, có chức mà không có quyền. Màn lường gạt, tráo trở này chắc chắn không phải lần đầu mà chắc chắn cũng không phải lần cuối. Những người trí thức này chỉ quên một điều: Người Cộng Sản bao giờ cũng ăn thịt trước tiên những đứa con đẻ của mình. Niên lịch mới, Sài Gòn thời của những tiên tri giả. Bộ đội chính quy, cán bộ miền Bắc đã đành là có mặt. Nhưng dân 30 tháng tư, bọn cơ hội nhố nhăng thì đầy đường, đầy ngõ. Không biết ở đâu ra mà họ đông thế. Chúng là những tiên tri giả, bán rao thời cuộc. Gọi theo một thứ ngôn ngữ chuyên dùng hơn thì đó là bọn tiêu bạc giả, vốn liếng là sự bịp bợm, sự tráo trở và tư cách vô liêm sỉ. Có thể bọn họ tuần trước, tháng trước, năm trước còn “đả đảo Cộng Sản” nay thì hoan hô. Bên cạnh đó, có một số trí thức đã có dính dáng, hoạt động bí mật trong Mặt Trận nay xuất đầu lộ diện. Trong số này, có Giáo sư Lý Chánh Trung, sau làm đại biểu Quốc hội. Nguyễn Ngọc Lan trên tờ Đối Diện nay đổi là Đứng Dậy. Đổi tên tờ báo đã khéo, chơi chữ đã khéo. Nhưng Đứng Dậy có thể hiểu lầm là nổi dậy đấy. Hãy coi chừng. Một số người khác như Nguyễn Đình Đầu, luôn luôn dấu mặt sau hội trường dật giây và em rể, giáo sư sử địa Trần Đức Quảng, gs Châu Tâm Luân, TT Thích Minh Châu, LM Chân Tín, Trần Bá Cường, v.v... Và nếu nói theo người Pháp: Il n'y a que le premier pas qui compte, có nghĩa chỉ bước đầu tiên là quan trọng thì những người trên là những người đầu tiên ló mặt sau ngày giải phóng? Nguyễn Văn Lục |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #163893 · Replies: 0 · Views: 15,071 |
Posted on: Jul 4 2020, 11:58 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Đôi bờ chiến tuyến Đôi Bờ Chiến Tuyến Tác giả là sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH, định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20. Bài viết của ông được một cựu đồng ngũ chuyển tới, với ghi chú đây là câu chuyện thật. Thật nhưng khó tin: một cựu nữ chiến binh Việt Cộng, nhiều năm sau chiến tranh, đi vào tận trại tù tìm thăm người sĩ quan VNCH cô từng gặp trên chiến trường, và rồi... *** Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với địch quân, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu, đơn vị chủ lực miền của địch thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng tiểu đoàn của chúng tôi cũng bị thiệt hại khá caọ Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của địch. Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đây. Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ. Chợt Kính nói nhỏ: - Ông thầy! Coi chừng hình như có người trong lùm cây đàng kia. - Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng đồ chơi của tụi nó. Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất, khẩu M16 lên đạn sẳn sàng, Kính theo kế bên hông.Tiếng rên nho nhỏ của phụ nữ văng vẳng ra từ trong lùm cây rậm rạp. - Một đồng chí nữ nhà ta đấỵ Kính reo nho nhỏ Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống, có thể địch gài mìn bẫy xung quanh, hoặc giả vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại. Dơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái trạc độ 18,19 tuổi nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ: - Nước...Nước..cho tôi miếng nước”. Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của “cô” địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu, tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương, đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người tôi đoạn bảo Kính: - Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ taỵ - Ông nhân từ quá, gặp em con nhỏ này tiêu đời. Kính vừa băng vừa cằn nhằn. Tôi im lặng không nói gì, Kính nói đúng, những người lính của tôi đã ngã xuống, máu của họ đổ ra cho sự tự do, người Cộng Sản có nhân từ với người anh em của tôi không? - Nước... Cho tôi xin miếng ..... nước. - Đ. Mẹ ... Câm miệng mày lạị Kính quát tháo giận dữ, tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng. - Mày đừng nói như vậy, với một người sắp sửa chết mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi. Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo, dấu hiệu nhận diện của đơn vị, thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái. Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của cô, khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nom cô phảng phất như minh tinh màn bạc dù trắng xanh vì mất máu nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt. Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ: - Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một Cô ngoan ngoãn nghe lời như một em bé. “Cám ơn ông nhiều”. Giọng nói yếu ớt và mệt mỏị - Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe. - Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi, vả lại tôi cũng sắp chết đến nơi. - Bậy bạ, vết thương này đâu có gì nguy hiểm. - Đừng an ủi như vậy, hồi nãy ông nói tôi sắp chết đừng nuôi hận thù nữa. - Tại vì...Tại vì...Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy. Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói, lâu lắm cô nói thều thào: - Bây giờ ông sẽ làm gì với tôi. Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cơ quan điều tra. Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp: - Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước, hãy để thân xác này vùi dập nơi đây. Xin ông đừng giao cho ai hết. Tôi van xin ông. - Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã đừng bướng bỉnh như vậy. Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà, tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười: - Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô nhăn nhó, rên rỉ như…. - Sao không đau, ông ăn nói… như khỉ chứ gì? Cô cướp lời, tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi tôi đứng dậy cầm cây súng lên đạn .. rồi lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói: - Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô, nhưng những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình. Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại. - Này... Ông tên là gì vậy. - Có quan trọng lắm không? - Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ. - Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh nàỵ Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ: - Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi. Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó. Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giử được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa. Đất nước thanh bình, tiếng súng lặng im, nhưng những người được gọi là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác không được thở hít không khí hòa bình ấy, sau bao năm trăn trở với chiến tranh, tất cả đi vào trại “cải tạo”, một danh từ mỹ miều nhưng thực chất là đầy đọa, là giết lần mòn chúng tôi. Tôi bất lực nhìn bạn bè ngã xuống, đói, bệnh hoạn, đày đọa, khủng bố, đánh đập! Thân xác anh em chúng tôi bị vùi dập ở nơi núi rừng hiu quạnh, ở hốc núi đen tối ngàn trùng. Tôi lặng lẽ sống như cái bóng tinh thần vững vàng, nhưng thể xác thì suy sụp nặng nề, bám víu ý nghĩ duy nhất “Trả nợ oan gia binh nghiệp”. Phải, sinh ra người lính thì chấp nhận mọi gian nguy may rủi về mình. Ngày hôm ấy, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân. - Trần hoài Lam có thư. Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phướ'c”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ. Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng. - Trần Hòai Lam có thư. Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu. Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang. - Có thật là của tôi không anh Đan? - Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được, thôi nhận đi cho tôi cịn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết. Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi đọc: “Anh Lam! Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai: “Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như...”. Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra. Cô viết tiếp: - Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện Trung Ương, sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị ngành để họat động, không còn muốn tham gia vào nơi lửa đạn nữa. Từng là chiến sĩ xuất sắc trong khu, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vậy mà thoái lui về hậu phương, kỳ lạ quá phải không anh Lam? Chính anh đã làm thay đổi lập trường của em. Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với kẻ thù, dù rằng thuộc hạ của anh không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của kẻ địch, mà có thể trong đó có cả em bắn ra. Hòa Bình tái lập em không vui vì còn hận thù, vay nợ máu phải trả, phương châm của bạn bè, cấp lãnh đạo đề ra. Em rất buồn vì biết anh đang đi vào ngõ cụt, không lối thoát, con đường đi đến cái chết. Như đã nói, từ sau ngày bị thương, em ra khỏi cuộc chơi, không muốn dính líu đến thù hận nữa, bàng quan trước mọi việc nhưng không thể nào quên anh, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ giã ra đi không? “Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.” Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên. . . . Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo. Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi! Thôi thì chỉ còn cách là... * Trên đất tỵ nạn, Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự: - Quyên à, em thương anh từ lúc nào. - Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”. Em mắc cở phụng phịu. - Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác. Cô lật đật nắm lấy tay tôi năn nỉ: - Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha. Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói: - Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cở muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho em, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất. Cảm động tôi hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương tôi đến như vậỵ - Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu. Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao? Có lẽ bị chết không chừng. Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái. Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy. Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm: - Duyên nợ trời định em ạ”. Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần./. Mũ Xanh Hắc Long Lê Văn Nguyên |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #163892 · Replies: 0 · Views: 3,125 |
Posted on: Jul 4 2020, 11:58 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Những cuộc chạm súng tiêu biểu, cùng những giọt máu tôi Sau cuộc hành quân thứ nhất trong đời binh nghiệp, với tổn thất riêng, một người đồng đội thân tình “đi phép dài hạn”, tôi tưởng chừng như mất đến chín mươi phần trăm nghị lực và ý chí chiến đấu. Nhưng rồi tôi đã chế ngự sự sợ hãi, nỗi chán nản để trở lại chỗ đứng hiện tại của mình. Là một sĩ quan có cấp bậc thấp nhất, cận kề trước cái chết không khác gì một khinh binh, tôi nhìn thấy, va chạm từng giờ những tai họa của cuộc chiến, nên tôi đã có những nhận xét không tốt đẹp về chiến tranh. Không hẳn là một người phản chiến, nhưng trong suốt chặng đời binh nghiệp ngắn ngủi của mình, tôi đã viết những bài thơ có lẽ không có lợi cho hàng ngũ chúng tôi. Rất may, tài năng của mình còn thấp kém, nỗi bi quan nhờ vậy không lây lan đến ai. Và tôi không ân hận về những cảm nhận rất chân thật của mình. Mỗi lần có dịp đọc lại, tôi không những chỉ gặp lại tôi, mà còn thấy được những đồng đội cũ, những hoạt cảnh sinh động một thời. Trong cái thời thật khổ nhọc, rực rỡ đó, tôi được là: anh bây giờ là tên lính mù chỉ huy một trung đội điếc với chiếc còi trên môi và hàng trăm câu chửi tục ... dù còn đủ tâm hồn anh cũng sẽ đốt nhà cũng bắn trâu bò, bắt gà vịt không hổ ngươi như lính của anh phải sống phải ăn phải tàn bạo nữa đó là điều cần trong cuộc hành quân ... Kể từ ngày 10 tháng 11 năm 1967, ngày tôi hiện diện trực tiếp ngoài mặt trận, đến ngày 11 tháng 02 năm 1969, ngày tôi vĩnh biệt một bàn chân trái của mình, thời gian không là bao. Những trong cái chiều dài khiêm nhường ấy, tôi đã tham dự rất nhiều cuộc hành quân, từ Quyết Thắng đến Liên Kết, thường trực được tổ chức mỗi tuần. Tùy theo tính chất của từng mục tiêu, tùy theo cấp số đối phương, những cuộc hành quân có mức độ và lực lượng điều động khác nhau. Nhưng mục đích chính vẫn là tìm và tiêu diệt địch. Trong thời điểm 1967 đến 1969 và về sau tình hình chiến sự tại miền Nam Việt Nam mỗi ngày một khốc liệt hơn. Bộ Binh là chủ lực quân của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Từng được mệnh danh là Hoa Hậu Chiến Trường, nhưng mãi đến cuối năm 1967 sự trang bị vũ khí vẫn quá thô sơ, so với địch quân cũng như những lực lượng trừ bị khác của miền Nam. Dù vậy, chúng tôi đã tham chiến dũng cảm, hết tinh thần. Mười trận đánh có thể thắng tám một cách thuyết phục. Trong hàng ngũ của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 4 thuộc Sư đoàn 2 Bộ Binh, tôi đã có mặt tại Sơn Tịnh, Sơn Mỹ, Nghĩa Hành, Nghĩa Hưng, Đức Phụng, Đức Hải, Núi Tròn, Núi Ngang, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Quảng Tín, Văn Bâng, Bình Đê, An Mô, Lâm Lộc, Sơn Kim, Phú Sơn... cùng những địa danh không biết tên, không nhớ hết. Mỗi một nơi có nhiều mục tiêu cần phải thanh toán. Mỗi mục tiêu không phải chỉ viếng thăm một lần, mà phải lặp đi lặp lại, đổ máu nhiều lần khác nhau. Những ngọn cây, chồi cỏ, những chõm đất, mô đá ...các nơi này thắm đượm tình người nhờ ngấm máu của cả hai phe tham chiến. Tôi cùng đơn vị tiến chiếm Sơn Kim, một bình địa vừa được một đơn vị Đại Hàn bỏ lại. Không còn một nóc gia nào đứng vững trên những nền đất ngổn ngang phên, mái tan nát. Không còn giếng nước nào có thể sử dụng được. Những anh lính Củ Sâm đã ném xuống đó những độc dược trước khi rút đi. Chúng tôi đã trải qua ba ngày lặn lội chưa gặp dấu đối phương. Những con mồi của chúng tôi thừa khôn khéo và nham hiểm, vẫn đang ẩn núp chực chờ đâu đó, ngay cả dưới mặt đất. Nhưng mục tiêu Sơn Kim hôm ấy suốt nửa ngày vẫn yên tĩnh. Cá nhân tôi thu lượm được một bài Sáu Chữ, “Bữa Cơm Trên Sơn Kim”. Bài thơ này, nhà văn Hoàng Khởi Phong khi viết về thơ tôi có đề cập và trích dẫn. Tôi nhắc lại việc này vì tác giả Cây Tùng Trước Bão, Quán Ven Sông vv...cho rằng câu: “và tìm mượn lưỡi dao” tối nghĩa. Hình ảnh tôi dùng hơi cường điệu, nhưng cần thiết để vẽ đậm nét sự khô đắng của một bữa ăn, cần phải cắt lấy chút máu của mình làm gia vị. Có thể tôi vụng về: nắm cơm nhem nhuốc bùn chợt vui trên tay đói tôi nghĩ đến máu mình vị mặn nồng thân thiết và tìm mượn lưỡi dao (VĐCNTD) Chúng tôi được lệnh rời Sơn Kim tiến chiếm một ngọn đồi sau khi băng qua một cánh đồng hoang. Rồi từ ngọn đồi, Đại đội 2 của chúng tôi, do Thiếu úy Hảo chỉ huy, xuống đồi tiến về một “xóm mồ côi”. “Con cái” của riêng tôi di chuyển đúng chiến thuật. Cấp số đạn chưa hao hụt. Tôi không bị cảnh sắc chi phối mất cảnh giác. Bởi cuộc hành quân liên kết này không đơn giản như những chuyến lục soát quanh khu vực đồn trú, hoặc những cuộc hành quân thường xuyên vào hai ngày cuối tuần, nhằm mục đích tạo khoảng cách an toàn cho tướng “Tư lệnh” và một số sĩ quan trực thuộc sư đoàn nhảy đầm, uống whisky. Ở cuộc hành quân này tôi không thể nhởn nhơ, “Súng lận lưng quần cho có chuyện, / mắt đầy cỏ lá hồn đầy thơ” (CƠĐĐTT...), mà súng cầm tay trong tư thế sẵn sàng chiến đấu đàng hoàng. Dù khẩu carbin lỗi thời, tôi chưa thử bóp cò lần nào. Sau ba ngày thiếu chất tươi, “xóm mồ côi” trước mặt thật là một mục tiêu hấp dẫn đối với mọi binh sĩ. Không con gà, con vịt, ít ra cũng có trái bầu, ngọn rau...tươi xanh đang chờ đợi. Đại đội nào cũng muốn thanh toán mục tiêu này. Đại đội chúng tôi đang dàn hàng ngang để vượt qua một cánh đồng trống cuối cùng, giáp với bìa làng. Nhưng thật không may, lệnh của “đại bàng” bắt nằm lại yểm trợ, cho “thằng 3” của Trung úy Thiện thực thi nhiệm vụ. Có nhiều tiếng chửi thề trong đám “con cái” tôi. Một thoáng ngờ vực vị Tiểu đoàn trưởng trong công việc chia phân nhiệm vụ đến với tôi. Đại đội 3 của Trung úy Thiện, người Nam, hình như thường được “đại bàng”, người Nam, dành cho những miếng thịt nạc, thoáng mát. Trái lại Đại đội 2 của Thiếu úy Hảo, người Trung, thường phải húc đầu vào những cõi âm u, kỳ bí. Tôi chẳng có giờ để suy nghĩ lâu, bởi Đại úy Tiểu đoàn trưởng đã cùng vị Đại úy cố vấn người Mỹ, đến ngay chỗ đám “con cái” tôi bố trí. Ông cùng viên sĩ quan Mỹ dùng ống dòm để thị sát cái “xóm mồ côi” trước mặt. Lúc này Đại đội 3 đã tiến chiếm xong mục tiêu. Ánh nắng khoảng 4 giờ chiều dịu dàng. Lệnh chuẩn bị bữa ăn cuối ngày cũng đã bắt đầu. Giữa lúc hai vị sĩ quan Việt, Mỹ nắm vận mệnh tiểu đoàn, đang cùng nhau trao đổi ý kiến, thì âm thanh của AK nở rộ từ “xóm mồ côi”. Tôi nằm sát mặt đất, đảo mắt nhìn đám “con cái” trong tư thế sẵn sàng tác chiến, rất vững bụng. Ông “đại bàng” của chúng tôi chợt vỗ cánh. Vị sĩ quan người Mỹ vội chụp lấy một cánh tay ông “đại bàng”, rối rít nói bằng tiếng Việt: “Đừng chạy, đừng chạy...”. Tôi hơi bàng hoàng, nhưng chợt đoán ra ý định của vị Tiểu đoàn trưởng. Có lẽ ông muốn trở về ngay bộ chỉ huy và đại đội vũ khí nặng cùng đại đội 1, lực lượng yểm trợ, đang bố trí phía sau chúng tôi. Đạn không ngớt nổ trong “xóm mồ côi”, nhưng không có đường đạn nào qua hướng chúng tôi đang bố trí. Chúng tôi chưa khai hỏa yểm trợ vì đồng đội và địch quân cùng có mặt trong một mục tiêu. Sau chừng bảy phút chạm súng, chúng tôi thấy nhiều binh sĩ xuất hiện ở bìa xóm. Họ chạy về hướng chúng tôi. Đó là những khinh binh của Đại đội 3 và cả một số cán binh Việt Cộng. Để ngăn ngừa sự lợi dụng của địch nhằm mở rộng mặt trận, chúng tôi được lệnh khai hỏa. Tôi linh động cho binh sĩ bắn xuống mặt ruộng thay vì trực diện tác xạ. Đám binh sĩ của Đại đội 3 không dám trở về với tiểu đoàn, Việt cộng do đó cũng không dám theo đuôi. Chừng năm phút sau, Đại đội 2, được lệnh xung phong tiến chiếm mục tiêu và cứu bạn. Nhiệm vụ của chúng tôi được thực hiện hoàn hảo. Quân số của địch không đáng kể, nhưng nhờ lợi thế bất ngờ do lối đánh độn thổ, từ lòng đất chun lên, nên đã gây một số tổn thất đáng kể cho Đại đội 3. Rất may, kế hoạch chờ ban đêm khởi đánh của địch, bất ngờ bị một binh sĩ ta phát hiện nên cuộc chạm súng diễn ra sớm hơn. Một số địch tử trận, một số thoát chạy qua một “xóm mồ côi” kế cận. Chúng tôi không có lệnh truy kích mà phải rút lên một ngọn đồi cách mục tiêu vừa thanh toán không xa. Cơn mưa nặng hạt bất chợt đến cùng với cái chạng vạng, bám sát lưng chúng tôi lên đồi. Súng lại nổ vang dội từ một góc trời. Đơn vị bạn của tiểu đoàn chúng tôi chạm địch. Mặt trận này được nhìn nhận rất rộng. Tình báo đã rất chính xác về sự hiện diện qui mô của địch. Đơn vị chính qui Bắc Việt hình như thuộc Sư đoàn 2 Sao Vàng. Sau khi ổn định vòng đai bố trí, tôi ngửi thấy một mùi ngai ngái khó chịu. Hóa ra trong ba lô của An, người tà lọt của tôi, còn cất một con gà, không biết hắn bắt được lúc nào, trong khi xung phong vào “xóm mồ côi”. Vì thời gian không cho phép, An không kịp làm thịt, sẵn nhà cháy, hắn nướng con gà luôn cả lông. Gà chưa chín đã phải zoulou (di chuyển), gặp mưa lớn, lông chưa cháy hết bốc mùi hôi. Đêm hôm đó ba thầy trò nhịn đói, nằm bên đồng đội, chờ tác xạ. Vào giờ G ta ra mặt trận ngồi trước ca-bin ngủ gật ngủ gà một chút nhớ em, một chút nhớ cái thằng nào đó giống y ta xe bỏ “mắt mèo” qua Châu Ổ chờn vờn trước mắt bóng ma trơi nhìn lâu lại hóa thành đom đóm buồn bã bay khan ở cuối trời ếch nhái ve nhau, loạn thiên hát lạnh lùng hơi đất cuộn hơi sương che tay ngồi kéo dài hơi thuốc nhớ cái...lưng em thật dễ thương nhét cái bản đồ trong áo giáp khẩu colt ngủ mỏi một bên đùi câu thơ chợt đến chợt đi mất mặt trận từ ta nối tới người (CƠĐDTT, LTHBVVBH) Hình ảnh nhiều cuộc hành quân tôi tham dự, được lặp lại nhiều lần như mấy đoạn thơ trên. Đó là những cuộc hành quân thường mở ra các mặt trận ở Sơn Tịnh, Sơn Mỹ, Núi Ngang... hoặc xa hơn, ở nhiều nơi trong địa bàn tỉnh Quảng Tín (thuộc Quảng Nam). Sơn Tịnh là một huyện của tỉnh Quảng Ngãi, gồm một thị trấn và nhiều xã, trên một mặt bằng chừng 321 cây số vuông, với gò, đồi ở phía tây, và cồn cát phía đông. Ngày tôi đến Sơn Tịnh lần đầu tiên trong mùa mưa. Không có cuộc chạm súng nào trong cuộc hành quân hôm đó. Nhưng cái lạnh trên ngọn đồi chúng tôi dừng quân, đã mang lại cho tôi cơn bệnh cảm lạnh đầu tiên tại Quảng Ngãi. Tôi còn trở lại với Sơn Tịnh nhiều lần trong các cuộc hành quân về sau, nhưng con đất lành này không gây cho tôi một thương tích nào. Tiếc rằng không có duyên gặp một đôi mắt nào để nhớ nhung nửa đêm qua thành phố nhà cửa ngủ, rập rình xe chạy về Sơn Tịnh không lạnh mà rùng mình (CƠĐĐTT,LTHBVVBH) Sơn Mỹ nằm trong huyện Sơn Tịnh, tôi cũng từng đặt chân tới vạt đất cách thị xã Quảng Ngãi chừng 13 cây số về hướng đông bắc này. Dĩ nhiên những lần hiện diện của tôi cũng không để viếng thăm và cũng không hề bắn phá. Bởi làng xóm này còn rất an ninh, ruộng đồng xanh tốt, cây lá tươi mượt, dân cư khá đông so với những nơi khác. Không hiểu vì cái chết của một người bạn hay vì tính cuồng sát, trung úy William Calley thuộc Lữ đoàn 11 Hoa Kỳ, đã tạo ở nơi này một vụ thảm sát rất dã man vào ngày 16 tháng 3 năm 1968. Núi Ngang, là tên gọi thời chúng tôi thường hành quân, không rõ núi này còn tên gọi nào khác không. Từ quốc lộ 1, nơi đoàn xe GMC đổ quân, nhìn vào, ngọn núi có hình dáng nằm ngang, gần song song với quốc lộ. Ngoài đôi lần đuổi hươu, đuổi vượn trên sườn núi, chúng tôi thường tảo thanh các chòi nhà ở sát chân núi. Khoảng cách giữa điểm xuất phát đến những vùng ghi đỏ trên bản đồ hành quân khá xa và trống trải, nên chúng tôi thường phải khởi hành từ nửa đêm hoặc 3, 4 giờ sáng. Một lần sau khi vào đến mục tiêu, trung đội tôi có nhiệm vụ mở đầu cuộc lục soát. Khi tạm dừng quân, tôi vào một nhà dân, gặp một người đàn bà trạc tuổi 40 và hai đứa nhỏ. Người đàn bà tỏ ra rất bình tĩnh, nhưng tôi vẫn đọc thấy nỗi lo lắng trong đôi mắt bà. Tôi đi một vòng quanh nhà, dừng một phút trước một cái bàn thờ đầy bụi bặm. Bất cứ nhà dân nào ở những vùng chúng tôi hành quân, dù nghèo đến đâu cũng dành một nơi để thờ phụng. Và nếu hỏi thăm về người đàn ông trong gia đình, đều được trả lời họ đã quá vãng. Hôm đó tôi cũng có hỏi và được đáp như vậy. Nhưng khi tôi bước trở ra, rất tình cờ tôi bắt gặp một cuốn vở học trò, gấp làm đôi, dắt trên đầu cửa. Tôi lấy cuốn vở bỏ gọn vào túi quần trên ống chân tôi, trước sự bối rối của người đàn bà. Sau khi đi một vòng chu vi căn nhà, tôi mở vở đọc. Những trang giấy học trò ghi rõ ràng danh sách những người quyên đóng một số tiền cho một công tác, được điều động bởi những người chống đối chế độ Quốc gia. Căn cứ dòng cuối cùng ghi rõ ngày tháng, tôi biết sự việc thu góp mới vừa cách qua đêm. Dĩ nhiên ở vùng nào phải thờ thổ địa vùng đó, tôi hoàn toàn thông cảm. Mười lăm, hai mươi phút sau, tôi được lệnh tiến thêm, lục soát tiếp xóm nhà khác. Trước khi đi tôi đưa trả cuốn vở cho người đàn bà và không quên căn dặn nên cất giữ cho cẩn thận. Chỉ chừng mười phút sau, tôi thấy khói, rồi lửa bốc lên từ căn nhà tôi vừa dời chân. Chẳng cách xa bao nhiêu, nên tôi quay trở lại xem nguyên nhân. Hóa ra Trung đội 1 của Lập tìm thấy cuốn vở tôi vừa giao lại và phóng hỏa. Tôi bất lực đứng nhìn người đàn bà hốt hoảng, lăng xăng chữa cháy một cách tuyệt vọng. Hai chị em con bé, không giúp mẹ chúng được gì. Con chị đặt hai tay lên hai vai em. Cả hai cùng đứng nhìn lửa cháy thật bình thản. Tôi tiến lại gần chúng, nhỏ nhẹ hỏi. - Các em có biết gì không ? Con chị thản nhiên nói hai chữ “nhà cháy”, mắt nó không rời ngọn lửa, không biểu hiện một xúc cảm nào. Chúng còn quá bé. Tôi bần thần trở về trung đội của mình, tự trách phải chi đừng trả lại cuốn vở cho người đàn bà vùng xôi đậu kia. Cuộc hành quân lần đó của chúng tôi không thu được một chiến lợi phẩm nào, cũng không tổn thất. Riêng tôi thỉnh thoảng vẫn như thấy ngọn lửa ngày hôm ấy, cùng đôi mắt và giọng nói vô tư của con bé xa lạ, ở sát một chân núi. Một trong những cuộc hành quân trên vùng đất Quảng Tín, tôi còn nhớ là cuộc hành quân Liên Kết. Đây là một cuộc hành quân có qui mô lớn với sự tham chiến của nhiều đơn vị. Trung đoàn 4 Bộ Binh, Chi đoàn ba, Chi đoàn 4 Thiết Giáp và một biệt đội trừ bị Biệt Động Quân. Trong cuộc hành quân này, tôi có hai người bạn học cũ, thời Phan Châu Trinh Đà Nẵng. Lê Văn Nghĩa, Chi đoàn trưởng Chi đoàn 4 Thiết giáp và Phan Quảng Chi đoàn trưởng Chi đoàn 3 Thiết giáp. Chúng tôi gặp nhau ngoài mặt trận, cũng rất tình cờ. Với Phan Quảng, địa thế của vùng hành quân khá quen thuộc, nên bất ngờ găp tôi, hắn đùa: - Nếu có chạy, mày nhớ chạy ra hướng này, tao sẽ bốc. Tôi cũng không quên ba lơn: - Tao sẽ chẳng bao giờ đi Tam Quan đâu, mày yên tâm. Có cần tao tặng một bài thơ thay lá bùa để dán lên xe của mày không ? Chúng tôi vui vẻ chia tay, trong cuộc gặp mặt chớp nhoáng bên bìa rừng. (Tam Quan là vùng trồng nhiều dừa, thuộc Bình Định. Hai chữ Tam Quan dùng để nói lóng, rất thông dụng trong binh sĩ vùng I chiến thuật, có nghĩa là tháo chạy chỉ mang được một cái “đầu máu” như cái gáo dừa). Ngay sau đó, một chiếc trực thăng chở đến cho chúng tôi một viên hồi chánh. Cuộc hành quân này được tổ chức để tiếp thu một kho súng đạn lớn Việt Cộng cất giấu trên một đoạn núi thuộc dãy Trường Sơn. Rất xui, trung đội tôi bị chỉ định áp dẫn người hồi chánh cấp cao, mở đường đến mục tiêu. Tôi cẩn thận cho một khinh binh đi trước người hồi chánh, và sau lưng ông ta, chúng tôi di chuyển hàng một trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Viên hồi chánh dẫn chúng tôi qua một số cơ sở của Việt Cộng, khéo léo xây dựng trên sườn núi. Ngoài những địa điểm quan sát, ụ chiến đấu, tôi còn mục kích một căn cứ học tập được đào sâu dưới đất có mái che bằng lá, ngụy trang rất tinh vi. Một số bàn ghế thô sơ được đặt trên một sàn cây. Sàn được hình thành bởi nhiều thân cây rắn chắc, suôn thẳng, ghép sát lại với nhau. Sàn cây này được treo thòng dưới lòng hầm đất lớn, có bắc thang để lên xuống. Khi đi qua vài “kiến trúc” như thế, tôi cảm thấy yên tâm, bớt sợ bị lừa, đồng thời cũng nghĩ ra một câu vè, rủa thầm trong bụng. Thằng cha này quả thật là thứ: “ăn cơm Cộng sản, bỏ đảng thờ Quốc gia”. Leo núi không phải chuyện dễ dàng với ba lô súng đạn cồng kềnh. Nhưng cuối cùng cũng đến. Viên hồi chánh chỉ một đường luồn nhỏ để lên điểm cao cuối cùng. Kho súng đạn được cất giấu trên đó. Một linh tính chẳng lành đến với tôi, khi nhận thấy đường luồn này chỉ có thể bò lên, không đi khom người được. Thay vì cả trung đội leo hàng một theo ông ta như đã đi. Tôi chỉ cho hai khinh binh, để lại ba lô cho đồng đội, một bò trước ông ta, một bò ngay phía sau. Số binh sĩ còn lại, tôi cho bố trí, chĩa họng súng ra chung quanh điểm đứng của chúng tôi. Tiên liệu của tôi thật chính xác. Người khinh binh thứ nhất bò vừa khỏi mút đường luồn, chưa kịp đứng thẳng người, đã bị viên hồi chánh phía sau, xô té nhào. Ông ta bỏ chạy, người khinh binh phía sau, chưa thẳng lưng đã nổ súng về hướng chạy của tên Việt Cộng, nhưng không còn kịp. Rừng núi đã dung nạp ông ta. Tôi lập tức cho khai hỏa để yểm trợ hai binh sĩ của mình trở về. Sau đó tôi ra lệnh tác xạ đều bốn phía dù không thấy bóng địch quân nào. Vừa bắn chúng tôi vừa vội vã xuống núi, không cần xin lệnh của thẩm quyền tôi. Khi bắt gặp lại đại đội, chúng tôi được tiếp tục xuống vị trí an toàn hơn. Cao điểm bao giờ cũng lợi thế, nhưng không hiểu sao buổi chiều hôm ấy và suốt đêm kế tiếp, Việt Cộng im re, không một tiếng AK nào trả lễ. Rạng sáng ngày hôm sau, một tiểu đoàn khác thay chúng tôi lên núi lục soát. Chúng tôi nằm bố trí chờ tiếp viện sát bìa rừng. Cuộc chạm súng ác liệt đã thực sự bắt đầu vào lúc xế chiều. Cho đến chạng vạng súng không ngớt nổ, đồng đội thay chúng tôi cũng trở thành lực lượng cầm chân địch, chờ đơn vị Biệt Động Quân thanh toán chiến trường. Những anh hùng mang đầu cọp làm tắt tiếng AK nhưng kho súng đạn hoàn toàn vô căn cứ. “Đồng chí hồi chánh viên” thật giả chẳng biết về đâu. Mặt trận phía tây thị xã Quảng Ngãi, tôi khó quên nằm trên cao điểm Sơn Hà. Đi lùng giặc trong rừng núi trùng trùng điệp điệp cây lá âm u thật nguy hiểm, nhưng cũng rất thú vị. Tiếng suối, tiếng chim, tiếng cây lá và hàng trăm thứ tiếng lạ tai khác tạo thành một thứ âm thanh của núi rừng thật kỳ bí, vừa quyến rũ, vừa nham hiểm. Len lỏi qua từng gốc cây, tảng đá, tôi có cảm tưởng như được trở về với đất trời Tiên Phước thuở nào. Tôi mong nhìn thấy một con mang, một con nai hay một con chồn vớ vẩn nào đi lạc. Nhưng tuyệt nhiên không gặp. Đang vừa đi vừa suy nghĩ, hồi tưởng, tôi chợt nghe tiếng suối thân mật vỗ vào vách đá thật gần, ngay trước hướng tiến quân của chúng tôi. Không chậm chân, tôi vượt qua người khinh binh đi dầu. Chẳng mấy chốc, tôi phát hiện dòng suối phía dưới chân núi. Một thoáng bàng hoàng khi tôi nhìn thấy ba người lính đang bình yên đứng rửa chân. Đơn vị nào đến trước chúng tôi, khi chính chúng tôi có nhiệm vụ mở đường ? Trong hồi hộp, tôi quan sát kỹ, và giật mình khi thấy một trong ba người có choàng trên vai một tấm vải màu hoa dù. Tôi lập tức báo cáo lên Đại đội trưởng. Chúng tôi được lệnh dừng tại chỗ, tiếp tục quan sát. Ba anh lính “cụ Hồ” không hề hay biết sự hiện diện của chúng tôi. Họ rời dòng suối, từ từ từng người một, đi về hướng một mái chòi nằm trên một vạt đất trống, cách sườn núi không xa. Giữa núi rừng, đất trời vắng lặng, tôi nhìn theo dáng đi từng người, tự dưng cảm thấy thương xót vớ vẩn. Trời đất buồn bã quá. Rừng núi thê lương quá. Sao họ có thể lạc lõng ở nơi thâm u này. Họ là người miền nào của đất nước, lưu lạc đến đây đã bao lâu. “Sinh bắc tử nam” có đúng là mục đích chính của mỗi cá nhân tự do chọn lựa. Thú thật lúc bấy giờ, tôi còn rất mù mờ về Cộng sản. Sự độc tài, đảng trị có thể có thật như một số sách báo tôi đã đọc. Nhưng chủ trương đánh đuổi ngoại xâm, thật hay giả của họ cũng rất đáng suy ngẫm. Đang miên man suy nghĩ linh tinh, tôi được lệnh, chuẩn bị tiếp tay với một nhóm binh sĩ của Chuẩn úy Bảy, đang kín đáo bò về hướng mái chòi. Không hiểu những cán binh Việt Cộng làm gì trong thời khắc ấy. Họ hoàn toàn mất cảnh giác giữa địa bàn hoạt động của họ. Tự tin hay thiu thiu ngủ để đến nổi sau một tiếng lựu đạn vang trời, kéo theo những tiếng AR 15, chỉ có một dáng người nhào ra khỏi chòi, một đoạn ngắn. Tôi và binh sĩ của tôi chạy băng xuống sườn núi. Chỉ với khẩu colt trên tay, tôi chạy thật nhanh. Khi đã đến chỗ người cán binh ngã nằm, không hiểu sao, tôi đá anh ta một cái rõ mạnh. Cú đá làm chính tôi giật mình, ngó lại. Hóa ra anh ta chưa chết. Điều kỳ lạ hơn, anh không bị dính một vết thương nào. Ân hận vì cái đá, có lẽ vậy, tôi hỏi anh ta đau ở đâu. Anh chỉ rên mà không trả lời. Tiếng rên thật xót lòng. Những người lính của tôi xúm lại. Tôi bảo một người lật anh ta qua lại, tìm vết thương, hoàn toàn không có. Nhưng rõ ràng anh kiệt sức. Tôi đề nghị thẩm quyền bắt anh theo. Lời đề nghị được chấp thuận. Nhưng người cán binh chưa đến mười tám tuổi này lì lợm nằm rên. Tôi cho hai người lính khiêng, anh ta trì lại. Dằng co kéo dài đến mấy phút. Đại úy tiểu đoàn trưởng quan sát bằng ống dòm, bực mình chửi tôi qua ống liên hợp. Ông ra lệnh bắn bỏ và tức khắc lên núi. Tôi thi hành nửa khẩu lệnh của ông: lập tức trở lên núi . Những binh sĩ của tôi cũng rất nhân đạo. Một tràng AR 15 xoáy trực tiếp xuống mặt đất cho ông tiểu đoàn trưởng yên tâm. Tiếng rên của người cán binh nhỏ dần, đồng đội của anh có tất cả 4 người đều đã bỏ mạng. Anh sẽ về đâu khi chúng tôi tiếp tục cuộc hành quân. Đây không phải lần đầu tiên tôi tha quân địch. Hồi vào An Mô Đức Hải, chúng tôi tóm được đến ba chàng du kích. Tôi không báo cho đại đội trưởng và thả họ đi khi chúng tôi di chuyển. Trong chuyến quay trở về, ngang qua An Mô, chúng tôi nhận được nhiều tràng đạn, rất may không ai “rách áo” hoặc “đi phép”. Ai đã bắn chúng tôi, ngoài ba người du kích tôi đã thả ? Vì mạng sống của chính mình, của đồng đội, tôi tự nhủ không nên ba lơn, lớ ngớ ngoài mặt trận. Nhưng quả thật tôi chưa hề bắn một ai. Nhiều lần tôi tự hỏi mình đã là kẻ sát nhân chưa ? Có thể lắm, những lần gọi pháo binh dọn trước một chỗ sẽ đến, hay làm ấm một ổ nằm, đã chắc gì không có ai tổn thương bỏ mạng? Vùng đất Tư Nghĩa, nơi sản sinh cảnh sắc Thiên Bút Phê Vân, không xa thị xã Quảng Ngãi bao nhiêu, nhưng không thiếu bóng dáng những người tự cho mình cái bổn phận “giải phóng miền Nam’, dù miền tự do này không có gì cần giải phóng. Đã có hơi thở của “mặt trận” là cần có những cuộc hành quân tảo thanh, bình định. Tôi có mặt trong vài lần hành quân lục soát ở khu vực này. Thật ra chẳng có gì đáng nhắc nếu không có một bữa kích đêm, suýt phạm tội. Đêm hôm đó trung đội chúng tôi có nhiệm vụ nằm tại một trong những xóm nhà dân để giăng một mẻ lưới, bắt vài con cá nhỏ theo tin tình báo. Các xóm nhà dân lụp xụp thường qui tụ năm ba cái lại với nhau một cụm. Vì tính chất một cuộc kích đêm, với quân số ít, điểm nằm nên linh động thay đổi. Trước 4 giờ chiều tôi đã chọn điểm nằm chính, nhưng hơn 6 giờ chúng tôi vẫn lởn vởn ở một điểm phụ. Phần lớn dân trong xóm đều có thân nhân hoạt động cho địch. Đêm tối là thời điểm thuận lợi cho họ trở về sum họp với nhau. Khi có chúng tôi, những chủ nhà thường tìm cách kín đáo thắp lên một ngọn đèn nhỏ trong giây lát để báo hiệu cho người thân của mình đừng xuất hiện. Sau khi bố trí binh sĩ nằm quanh một khu vườn hẹp, tôi theo người lính đàn em vào nơi nghỉ đêm, qua sự sắp xếp trước của cậu ta. Căn nhà quá hẹp, ngoài bộ bàn để sát cửa ra vào, chỗ còn lại chỉ đủ cho hai cái chõng tre, đặt song song và cách nhau vừa một cánh tay vói. Hiện diện trong nhà chỉ hai chị em. Cô chị chưa tới 30. Cô em nhỏ hơn ít tuổi. Trong ánh sáng lờ mờ, tôi không nhìn rõ nhan sắc của hai người con gái. Nhưng ánh mắt của cô em chợt giúp tôi nhìn ra một sự chờ đợi rất lãng mạn. Tôi nằm trằn trọc không chợp mắt sớm được như thói quen. Mùi da thịt đàn bà cứ ngấm vào thân thể tôi không những bằng mũi mà còn qua nhiều cơ quan khác. Lâu ngày xa vợ cứ làm tôi thao thức lưỡng lự. Tôi biết rõ cô chị nằm mé ngoài chõng tre. Mặt mày cô này rõ ràng nghiêm nghị, không nên đụng vào. Cô em với đôi mắt và nụ cười mỉm vừa qua như hẹn hò là cả một cơ hội. Tôi suy tính và phát hiện cả hai cô đều còn thức. Nhất là cô chị có vẻ bồn chồn. Tôi có thể đoán biết nỗi bận tâm của cô, nên thử tạo cơ hội. - Hình như có tiếng động gì lạ dưới bếp, cô nào có thể xuống thử coi. Tôi nói trổng trong bóng tối. Cô chị chỉ chờ có vậy, lật đật mò xuống bếp. Không bỏ lỡ thời cơ, tôi vói tay qua. Rất bất ngờ, cô em đã lăn sẵn ra mé ngoài. Khi chạm tay tôi, cô nắm lấy và cho tay tôi luồn ngay vào áo. Cặp nhũ hoa của cô bé thật săn chắc, tôi xoa nắn nhẹ nhàng vài vòng rồi rút tay về với ý định tìm đến mục tiêu chính. Cũng rất bất ngờ, cô bé quyết liệt đẩy ra. Nhưng cô tiếp tục cho tay tôi lên cặp nhũ hoa. Thật tình, đây là lần đầu tiên, tôi có những hành động sàm sỡ bất chính, nhưng không dẹp được những lo sợ của mình, nhờ vậy mọi háo hức của tôi lắng dịu mau lẹ. Tôi thử cố gắng vươn đến mục tiêu chính vài lần nữa nhưng cô gái vẫn trì kéo, giữ tay tôi cho tự do trên vú của mình. Cô chị đã thắp vội ngọn đèn trong giây lát rồi lặng lẽ trở lên. Tôi hoàn hồn nằm trở xuống. Đêm thanh vắng đắp kín tôi bằng một màn đen tối dày đặc. Tôi tự xấu hổ với chính mình, nhưng không bớt băn khoăn. Rõ ràng cô gái có sự kích thích ham muốn. Hai vú cô săn cứng nhưng sao lại từ chối một bàn tay đặt vào vị trí trọng yếu như vậy. Tôi đồ chừng cô trong giai đoạn treo cờ đỏ hoặc là một ngọn đồi trọc, đúng như lời nhiều người nói về một số cô gái. Giả thuyết đầu có lẽ hợp lý hơn. Cứ nằm lý giải vu vơ như vậy, tôi thiếp vào giấc ngủ. Sáng hôm sau tôi dậy thật sớm, không nhìn lại hai cô gái lần nào nữa. Rừng Lăng nằm gần doanh trại bộ chỉ huy Trung 4 Bộ Binh của trung tá Nguyễn Văn Lãm, người miền Nam. Một trận đánh rất khốc liệt đã diễn ra trong vòng đai thường xuyên tảo thanh, lục soát của các tiểu đoàn 1, 2, 3, 4, khi thay nhau về nằm ứng chiến. Cũng nhờ cuộc chạm súng này, tôi xác định được, việc xích chân xạ thủ bên ổ súng, để chiến đấu đến cùng của Cộng quân là có thật. Không phải chỉ là tin đồn miệng. Nhưng tôi sẽ không nhắc lại diễn tiến trận đánh, bởi riêng tôi, không lượm lại được một kỷ niệm đáng quí nào. Nhớ lại Rừng Lăng, nhắc đến bộ chỉ huy Trung đoàn 4 chỉ để hồi tưởng cái lần tôi phải đổ máu đầu tiên. Chúng tôi được lệnh cắm trại trăm phần trăm để chuẩn bị một cuộc hành quân. Tiểu đoàn 1 của chúng tôi do Đại úy Cẩn chỉ huy, hiện đang được nằm ứng chiến cho trung đoàn. Doanh trại dã chiến của chúng tôi nằm ngay sau lưng doanh trại trung đoàn. Với vài vòng rào kẽm gai lỏng lẻo, hờ hững, doanh trại này quả thật rất dễ bị xóa bỏ, nếu có cuộc tấn công. Từ buổi trưa đoàn xe GMC mười mấy chiếc đã vào sân doanh trại. Nhưng chúng tôi chưa được lệnh xuất phát. Kế hoạch hành quân hình như có sự thay đổi. Đoàn xe ra về không mang theo một anh lính bộ binh nào. Nhưng lệnh cắm trại vẫn được duy trì. Mỗi một lần trước khi hành quân, lệnh bảo mật được dặn kỹ, nhưng thật khó thực hiện. Khi có lệnh cắm trại, binh sĩ đương nhiên biết sắp có hành quân. Họ thường lăng xăng lo nhiều việc lỉnh kỉnh và không ít người ra khu gia binh tạm bợ ngay bên ngoài vòng đai doanh trại. Tình báo địch do đó sẽ nắm chắc được đơn vị có tham dự hành quân hay không. Thậm chí còn có thể biết được những nơi quân Quốc gia sẽ viếng. Riêng tôi trước mỗi cuộc hành quân thường có ít phút buồn buồn. “Xanh cỏ đỏ ngực”, “Sống lâu lên lão làng” là những câu thường được nghe binh sĩ truyền miệng. Với tôi, những mục tiêu trên không mấy quan trọng. Từ nhỏ tôi đã không có cảm tình với bói toán, nhưng tôi lại rất tin mình sẽ có một số tuổi đời đáng kể, sau nhiều lần thoát chết trong gang tấc. Tôi vẫn thường nhớ lại những tai họa mình đã vượt qua. Một lần ngộ độc vì bánh xèo, may nhà gần bệnh viện, súc ruột kịp thời. Một lần, ngày đoan ngọ, về quê ăn mùng Năm cùng anh chín Hiển, xe đò bị lật sát bên đầu cầu Đỏ. Hơn 15 người bỏ mạng. Anh tôi phải nằm viện hơn 3 tháng. Phần tôi, với vết thương ngay trên đầu, vẫn còn được đóng dấu chứng nhận hẳn hoi bằng một cục sẹo tròn tròn. Gần đây nhất, trái mìn ba râu (loại mìn rất mạnh) bên một con lạch ở Đức Hải, xì khói mờ mịt dưới một bàn chân tôi nhưng không chịu nổ. Ông địa của vùng giàu mìn, lựu đạn này đã không mỉm cười với tôi. Chân thành đa tạ. ...”Nhà thơ mà vác súng đi lơ ngơ vào vùng sấm sét, e rằng không khá được” Đây là nhận xét của nhà văn Lâm Chương. Đồng tình với ý nghĩ này, ông bạn tôi, Lê Vĩnh Thọ, một nhà thơ phản chiến, vẫn đinh ninh chuyện tôi sẽ tử trận là điều chắc như đinh đóng, không thể tránh được. Anh nảy ra cái ý viết đưa đám tôi bằng một bài thơ, để tôi có dịp đọc trước khi thực sự vĩnh biệt sân chơi thế gian. Bài thơ quá dài, đến 222 câu, tôi xin phép trích ghi tiêu biểu: mày đã chết hỡi Thiếu úy Lê Ngọc Châu hỡi Luân Hoán mày đã ngã xuống mày đã anh dũng đền nợ nước người ta nói thế tao cũng tin thế chăng anh dũng đền nợ nước tổ quốc ghi ơn nhưng vợ mày chắc oán vợ mày với đứa con trong bụng đứa con sắp ra đời, mùa xuân sắp tới ... và đứa con sắp ra đời không có cha bên cạnh mãi mãi không có cha có cần xin lỗi gia đình mày có cần xin lỗi vợ mày ôi người vợ rất hiền rất trẻ rất ngây thơ bẽn lẽn tuổi vợ mày chưa bằng tuổi chiến tranh người vợ mày thường gọi tên trong những bài thơ dĩ nhiên không phải thơ tình ... được tin mày chết tao chẳng ngạc nhiên việc phải đến đã đến cần gì phải tiên tri trong thâm tao vẫn đợi hòa bình ơi hãy đến trước khi mày ra đi sớm muộn gì cũng chết trở về có mấy khi không khóc bằng nước mắt khóc mày một bài thơ có thể tao tàn ác khi tin mày sẽ chết trong cuộc chiến hôm nay ... hỡi Luân Hoán tao đâu muốn đùa dai tao đâu muốn tàn ác tao tưởng tượng mày đã chết mày còn sống khác chi ... thương mày tôi còn nỗi niềm tin trái tim mày bất diệt trái tim sẽ kết tinh mà nước mắt vợ hiền mà nước mắt bạn thân không làm tan thành nước chỉ có giọt lệ thơ và giọt lệ quê hương mới làm mày xúc động hỡi Luân Hoán tao đã khóc mày khá dài mày có khôn thiêng về đọc bài thơ này ô hô (Lê Vĩnh Thọ, 21-01-1969 trích NHCBCT) Không rõ bài thơ chân tình của Thọ có là một nỗi ám ảnh ? Buồn buồn là chuyện có thật trước mỗi cuộc hành quân tôi tham dự. Hôm đó cũng vậy. Nằm bên cạnh một người lính gác, tôi vẩn vơ nhớ đến vợ, đến cha, đến em trai, đến bè bạn rồi ngủ quên. Khi tôi thức dậy, trời tối như mực. Tôi lên tiếng hỏi - Đứa nào gác đó ? - Dạ em, thẩm quyền. Người lính không xưng tên, nhưng tôi đã biết. Che tay bấm đèn pin, tôi lần mò đi thăm vòng đai một lần. Mặt trung đội tôi bố trí hướng ra một vạt đất trống ngay sau lưng trung đoàn. Trời có sương lạnh lạnh. Tôi vẫn mặc áo giáp thay áo ấm, ngay khi ngủ. Tôi dặn dò người lính gác cẩn thận, đồng thời cũng bày tỏ cái linh tính khác thường của mình. Tôi tin đêm nay sẽ có xảy ra một chuyện gì đó. Tôi nằm trở xuống. Nhưng đầu chưa kịp chạm đất, tôi đã giật mình ngồi dựng dậy, vì một tiếng nổ của trái hỏa châu, từ vọng gác bên trung đoàn bắn lên trời. Tôi lầu bầu chửi thề, chẳng thèm ngó quanh, khi ánh sáng đủ để quan sát. Đêm thanh vắng tịch mịch trở lại. Biết không còn ngủ được tôi lim dim làm thơ trong đầu. Cả trăm đoạn thơ con cóc như sau đã được tượng hình từ nhiều lần thức, ngủ lơ mơ như thế: yêu em yêu biết mấy biết cất giữ chỗ nào mang theo với súng đạn với mấy ngày lương khô giữa trời ngồi ỉa vất lên ngọn cỏ Thu Xà trên tay cầm khẩu súng chĩa mũi gờm bóng ma đêm choàng hơi đá núi sương ướt đẫm poncho chợp mắt mơ chăn gối ọc sữa tự bao giờ ba năm đeo lủng lẳng một khẩu colt 45 khóa an toàn mở sẵn viên đạn vẫn trong lòng.... Thơ thẩn là chuyện không cùng với tôi. Đáng tiếc thay đêm hôm đó...Tiếng hỏa châu thứ hai kéo theo tiếng la lớn của người lính gác, ngay dưới chân tôi: Việt Cộng. Trong tí tắc những tràng đạn AR15 thi nhau nổ. Tưởng chừng như đã hẹn hò trước, những quả đạn súng cối từ đơn vị pháo binh, ào ào chụp xuống ngay sát bên ngoài vòng đai an toàn của chúng tôi. Trời sáng rực rỡ. Tôi đã có mặt hàng ngang với binh sĩ. Bên tôi là Tám, mang máy truyền tin và An, người lính đàn em. Tôi không thấy một bóng giặc nào, ngoài những đường đạn bắn ra. Cũng không có đường đạn nào của địch quân. Cuộc tác xạ một chiều như một cuộc chơi, hình như ai cũng bình tĩnh bóp cò cho thoả thích. Năm bảy phút vãi đạn qua nhanh. Những trái hỏa châu nối đuôi nhau treo lưng lửng giữa trời những ngọn đèn sáng rực. Tôi cầm ống liên hợp, nhận lệnh từ Đại đội trưởng. Truy kích địch, đương nhiên. Sau tiếng hô xung phong của tôi. Binh sĩ vừa bắn vừa nhào ra. Tôi cầm khẩu colt vượt hàng ngang với lính. Một rồi hai rồi ba rồi bốn...tên Việt Cộng vùng dậy chạy. Hóa ra những tên đặc công có nhiệm vụ đi trước cắt bỏ dây rào thép, chướng ngại vật đã nằm trong vòng an toàn của chúng tôi, nên đạn pháo binh không làm họ sứt mẻ. Đạn tránh người, người không tránh đạn có thể là như vậy. Một tên nữa vùng đứng lên chỉ cách tôi mươi bước. Thằng An dương súng, tôi hô lớn “Đừng bắn!”. Liền đó tôi nghe như ai đấm mạnh vào ngực trái của mình. Tôi ngã vật xuống, lơ mơ bên tai một tiếng nổ lớn. Tôi bình tĩnh lại nhanh chóng trong tiếng đạn không ngớt nổ chung quanh. Đưa tay lòn vào ngực áo, tôi mò tìm vết thương, không thấy. Đẩy sâu bàn tay ra sau lưng, tôi cảm nhận cái ươn ướt...Tôi bò vào chỗ nằm cũ. Trái lựu đạn Việt Nam từ tay người tôi không cho lính bắn đã trả ơn tôi bằng một hành động thiết thực khi tham chiến. Không giết người, người giết mình. Không nên có sự nương tay, khi hai bên cùng sử dụng vũ khí. Những người đặc công đêm ấy, không có súng, Họ chỉ có lựu đạn, có lẽ để tự sát hơn dùng trong việc cận chiến. Tôi được đưa về bệnh viện Dã Chiến Quảng Ngãi. Cảm ơn Sương Sông Vệ đã ghé thăm. Cũng đôi lúc tôi tiếc đã không ghi lại nhật ký. Những cuộc hành quân tại Núi Tròn, đèo Bình Đê, Minh Long...do đó chẳng nhớ ra những đặc điểm nào. Hành quân là một công việc tay phải của những người lính, được đặt trong thành phần chủ lực như chúng tôi. Chuyện tham dự hành quân trở thành bình thường như những chuyện ăn, ngủ, làm tình. Và những cuộc hành quân thường na ná giống nhau. Cắm trại. Tập họp. Kiểm tra quân số, đạn dược, lương khô...Rồi im lặng vô tuyến, rồi khai hỏa, tiến chiếm mục tiêu, lục soát, phòng ngự, truy kích, tải thương, báo cáo...cứ đều đều lặp lại như vậy. Riêng tôi may mắn còn có thêm vài phụ mục: ngắm cảnh, nghêu ngao ca hát, làm thơ. Đã giống nhau như vậy, nên tôi xin dành những trang sau cho cái thời lẩn quẩn ở Núi Dẹp, Quán Lác, Thi Phổ, Mỏ Cày, Đức Phụng, Đức Phổ...mỗi nơi một vài nét gọi là một chút tri ân Núi Dẹp, Quán Lác, Mỏ Cày, Văn Bâng liền nhau. Với những địa điểm này tôi nhớ nhất là con rắn lục có bầu, bị chính tay tôi bắn chết khi đột kích lên đồi Văn Bâng. Từ mờ sáng chúng tôi đã lọt vào mục tiêu, không phải bắn một viên đạn nào. Mặt bằng Văn Bâng có nhiều đường hầm chạy loanh quanh. Đây là cao điểm kéo dài đến Mõ Cày, nơi nổi tiếng bắn tỉa của Việt Cộng. Cuộc đột kích của chúng tôi lên Văn Bâng đã không túm được một anh chị du kích rắn mắt nào. Nằm chờ lệnh rút quân trong ánh nắng gắt, tôi chui vào một bụi lá vừa đủ che từ ngực đến mặt. Cơn gió hiu hiu kéo hai mí mắt tôi lại gần với nhau. Chập chờn. Chợt trong một ánh nhìn, tôi phát hiện, ngay gần sát mặt, bụng một con rắn lục bất động. Hoảng hốt tôi lăn ra khỏi bụi. Vài ba người lính chạy tới hỏi dồn: “Gì vậy, gì vậy chuẩn úy?”. Tôi thất sắc đáp gọn: “Rắn...rắn lục!”. Những đôi mắt lập tức xuyên vào các nhành lá theo tay tôi chỉ. Lạ, chẳng anh lính nào tìm ra. Họ về lại vị trí. Tôi băn khoăn, chẳng lẽ mình loạn thị và tại sao sợ rắn đến quá như vậy. Có lẽ do phát hiện bất ngờ và sự cận kề quá sát với con thú có nọc độc. Tôi không chịu bỏ qua. Dòm bên này, ngắm bên kia cuối cùng những ngụy trang khéo léo của con rắn cũng bị tôi phát hiện. Tôi gọi vài binh sĩ nhưng chẳng ông nào chịu nổ súng. Lưỡng lự vài giây, tôi lấy cây AR15 của An, kê gần sát thân con rắn, bắn một viên một. Tiếng nổ giúp ông Đại đội trưởng gọi máy hỏi thăm. Đây chính là lý do những người lính không dám khi không nổ súng. Con rắn chết, đám binh sĩ kéo xác ra ngắm và “báo cáo” con rắn có mang. Tôi nghe trống ngực đập thình thịch. Nhớ ra hôm nay là ngày rằm tôi càng ân hận, lo sợ. Tôi nhờ An đào một cái lỗ chôn con rắn. Nằm gác tay lên trán vẩn vơ. Tôi nhớ đến chuyện con rắn trả báo cụ Nguyễn Trãi thời xưa. Tôi hình dung ra cả chuyện thanh xà bạch xà. Lại nghĩ đến chuyện cấm sát sanh, nhất là ngày rằm, mùng một. Tôi lo sợ vẩn vơ, rồi tự bào chữa. Sát sanh mang tội, nhưng giết một con vật ác lại là một việc thiện. Thiện ác thật ra lẫn lộn vô cùng. Dù sao tôi cũng đã vái thầm trong bụng cho mẹ con con rắn sớm siêu thoát. Tôi buồn và lẩn thẩn có đến vài ngày hôm sau. Núi Dẹp còn để cho tôi vài chuyện không vui khác. Tôi được lệnh chọn một tiểu đội của mình, để đột kích vào một xóm dân. Qua tin tình báo, có một nữ du kích về tổ chức mừng ngày sinh của “cụ Hồ”. Tiểu đội của Hạ sĩ nhất Tý lãnh nhiệm vụ này. Họ được tôi cho Tám mang máy truyền tin theo. Nằm trong hầm cát tại núi Dẹp tôi không yên lòng về những đàn em của mình. Cuối cùng tôi nhận tin tốt đẹp. Cuộc đột kích thành công. Cô nữ du kích chết tại chỗ. Tôi cũng được cho biết cô gái không may ấy tên Tuất, còn rất trẻ. Chẳng hiểu sao tôi cảm thấy nao nao buồn. Chuyện không vui thứ hai với Núi Dẹp vào tết Mậu Thân. Lần đó tôi bỏ đơn vị về Đà Nẵng. Khi trở vào tôi được biết Chuẩn úy Âu, khóa đàn em của tôi, được đổi về tiểu đoàn chúng tôi. Anh đã không có cơ hội ăn cơm nhà binh lâu dài, khi phải thay tôi tạm nắm Trung đội 2 khi tôi vắng mặt Anh ra đi ngay trong căn hầm tôi thường nằm. Cái chết của anh không trực tiếp do tôi gây ra, nhưng rõ ràng có một liên đới. Buồn cho anh, mừng cho tôi, tôi càng trở nên vật vờ hơn trước. Thần chết kêu ai nấy dạ. Biết đâu tôi có mặt nhưng không nằm trong hầm cát ấy, một nỗi nhớ nhung nào đó rủ tôi ra ngoài chẳng hạn. Đùa vậy thôi, những trận đánh trong chiến dịch Mậu Thân của Việt Cộng đâu có giờ để vẩn vơ, họa may tôi bị đày nằm đêm ngoài Mỏ Cày. Địa bàn hoạt động của Bộ chỉ huy tiểu đoàn ở Quán Lát vươn đến Đức Phụng, Đức Hải và nhiều vùng khác. Riêng hai địa danh đẹp này thỉnh thoảng lại gọi một vài binh sĩ đi đầu thai vì mìn và lựu đạn. Chẳng có cuộc chạm súng ra hồn tại Đức Phụng lẫn Đức Hải, ngoại trừ một lần dành tặng cho Chuẩn úy Nam. Cũng là một người đứng ra gánh bổn mạng tôi, khi anh thay tôi chỉ huy Trung đội 2 vào những ngày tôi nghỉ phép. Tiền đồn Đức Hải nằm trên một bãi cát, sát biển. Một đại đội thay phiên nhau đồn trú ở đây trong vòng mười lăm ngày. Nếu không phải đây là vùng kiểm soát của địch, thì cuộc đóng quân hết sức lý thú. Biển trời mênh mông, không khí trong lành. Hơi thở của người lẫn thú rất khiêm nhường. Công việc hàng ngày của binh sĩ là bung ra lục soát cái xóm nhà chỉ mươi nóc gia lân cận. Rồi tha hồ đóng quân ngủ tại chỗ suốt cả ngày. Trong cái cảnh thảnh thơi thanh bình ấy, tôi tìm được một căn nhà khá khang trang, nhất là có một cô bé hay cười, mủm mỉm rất dễ thương. Ngày nào tôi cũng qua mắc võng nằm chơi bên sự quấn quít của cô bé chưa quá 16 này. Chuẩn úy Nam, người Sài Gòn, lon chưa phai bớt màu vàng đã không may thay tạm tôi “bảy ngày về phép”. Nam là một thanh niên đẹp trai vui vẻ, hôm tôi đi phép, chính anh nắm trung đội mở đường. Anh đã vô tình lặp lại những thói quen của tôi. Căn nhà có con bé xinh xắn từng theo tôi về thị xã Quảng Ngãi, đã trở thành cứ điểm cuối cùng của Nam nhìn thấy cuộc đời. Khi tôi trở về đơn vị, xót xa có thêm một bài thơ: Từ đồn Đức Hải ta về phép bạn thế chân ta kích xóm bên chòm xóm tiêu điều năm mái rạ cây cụt đầu ngang ngọn cỏ mềm đâu có chỗ nào vừa mắc võng nằm hoài cũng mỏi cái lênh đênh bạn bắt chước ta vào chái bếp nhà “con bò lạc” của anh em hôm đó nghe đâu trời nóng lắm nắng tràn bốn phía nắng bao vây lâu lâu gió biển vung roi quất muối xác thâm đen cả mặt mày bạn mới ngả lưng lim dim mộng carbin bảy-chín lẫn AK trời xanh thăm thẳm hồn nhiên quá phận số dành riêng mỗi chúng ta ? ta trở lại đồn qua xóm cũ rút colt bắn lẫy cái lu sành nước tràn lu vỡ, trời, ta khóc bóng bạn chập chờn đóm lệ xanh ô hô mới cách mười lăm bữa mà nắng tan hoang vữa cả trời quà mang tặng bạn chia cho lính còn bình đông rượu bạn và ta uống đi em út sao buồn vậy hớp này đãi bạn, hớp phạt ta mực khô dai nhách ? ồ, ngón út máu rỉ hay là mắt ta hoa Nam ơi, Đức Hải trưa nay vắng biển lặng ngồi không xót phận mày ngày mai nhổ trại lùng Đức Phụng đến lượt ta hay đứa nào đây ? (CƠĐĐTT.LTHBVVBH) Trong những ngày đồn trú tại Núi Dẹp, trung đội tôi được thay phiên nằm giữ những yếu điểm trên quốc lộ 1 như cầu Sông Vệ, nằm phía Bắc Núi Dẹp, tiền đồn Thi Phổ, nằm phía Nam Núi Dẹp. Đóng quân giữ Cầu Sông Vệ là thời gian thư giãn lý thú nhất. Tình hình an ninh khá khả quan. Từ bảy giờ sáng đến 4 giờ chiều tấp nập đông vui. Xe lam, xe đò qua lại thông suốt. Đêm đến có phần nặng nề, nhưng chưa có gì đáng tiếc xảy ra trong suốt gian đoạn tôi có mặt tại Quảng Ngãi. Với nhiều lạc quan, tôi thường xuyên theo lính lội vào chợ, không mang ý đồ “trai khôn tìm vợ chợ đông” (ca dao). Người và hàng hóa thật sự giúp tôi vui mắt, vui lòng. Được nhìn, được nghe cảnh sinh hoạt hàng ngày của đồng bào mình trong thanh bình cũng là một hạnh phúc. Ước mong khiêm nhường của tôi đâu ngờ được tặng thưởng một cách xứng đáng. Tôi có một bóng hồng biết thỉnh thoảng ghé hầm cát thăm chơi. Tôi có một nhân vật để vài bài thơ đậm thêm chút duyên sắc. Đóng quân trấn giữ tiền đồn Thi Phổ là đặt mình vào hoàn cảnh trái ngược hẳn với cầu Sông Vệ. Tiền đồn Thi Phổ cũng nằm sát bên quốc lộ 1. Đây lại là giao điểm liên lạc, tiếp tế của Việt Cộng. Tiền đồn Thi Phổ có đầy đủ công sự chiến đấu, hầm cát chỉ huy, dày đặc vòng rào kẽm gai, cùng mìn bẫy. Có cả trụ cờ. Để cho cái yết hầu của mình thông thương, Việt Cộng bằng mọi cách phải nhổ cái chốt Thi Phổ. Trước tôi đã có nhiều đơn vị bị bứng đi. Đồn bỏ trống một thời gian khá lâu thì đến phiên tôi tái trấn giữ. Chỉ qua đêm thứ ba, trung đội của tôi bị tấn công. Hỏa lực của địch rất mạnh. Bằng những quả súng cối 60, đặt hàng ngang trên mặt quốc lộ, họ khai hỏa trực chỉ. “Cái chết hạnh phúc”(chữ dùng sau này của nhà văn Nguyễn Sao Mai) đang cận kề, tôi cùng binh sĩ nằm sát đất bắn trả đũa cầm chừng. Thẩm quyền trực tiếp của chúng tôi chắc đã chọn phương án hy sinh đồng đội, để giết một ít địch quân. Chúng tôi được pháo binh tiếp viện. Nhưng những quả đạn được điều chỉnh rơi ngay vào tiền đồn. Rất may quyết định liều lĩnh, hơi thiếu tình nghĩa “huynh đệ chi binh” của ông Tiểu đoàn trưởng đã cứu chúng tôi. Việt Cộng chỉ cẩn nhổ đồn, không cần tịch thu vũ khí, xác người. Chúng bỏ đi để mặc cấp trên tàn sát cấp dưới. Một phép lạ đã giúp chúng tôi. Tàn trận với ba binh sĩ hy sinh. Mười người khác bị thương, có nặng, có nhẹ. Riêng tôi hoàn toàn vô sự. Rất buồn trước những cái chết của binh sĩ, trong đó có Thị, Bình Định giỏi võ, có Thế, mập mạp luôn được cô vợ rất đẹp lên thăm, nhưng lại mắc chứng kinh phong khá nặng. Xin thắp cho các em những nén hương muộn màng. Từ Núi Dẹp chúng tôi còn tham dự trận đánh ở Nghĩa Hưng. Đây là một trận đánh không thua nhưng chúng tôi đã bỏ chạy một khoảng đường có đến mấy cây số. Mục tiêu là một liên xóm còn rất nhiều cây cao bóng cả. Ranh giới giữa chúng tôi và quân địch chỉ là một bờ đất cao quá đầu người. Không sử dụng được súng. Cả hai bên đều dùng lựu đạn. Chúng tôi chiến thắng nhờ chất lượng của những trái na Mỹ quốc. Khi đã biết Việt cộng rút lui, tôi cho xung phong vượt qua bờ đất. Rất có thể Việt cộng nhử cho chúng tôi “quá giang” thật sâu để làm thịt. Nhưng tôi vẫn còn đủ bình tĩnh khi đọc thấy cái im lặng bất thường của phe địch. Tôi cho lệnh rút quân ngay sau khi vượt qua bờ cát phía địch không quá mười thước. Về lại vị trí chiến đấu cũ, qua liên lạc vô tuyến, tôi chưng hửng biết trung đội mình bị cố tình bỏ lại để lập đầu cầu an toàn, tiểu đoàn và cả đại đội trực tiếp của mình đã rút khá xa. Lập tức, tôi cho lệnh rút, đúng vào lúc ấy có tiếng AK tiễn chân.. Cuộc chạy việt dã của chúng tôi bắt đầu. Vừa mệt vừa tức, Nếu chặng đường không đủ dài giúp tôi bình tĩnh có thể tôi đã phạm tội khi gặp lại đại đơn vị. Tôi có chút ít ba gai, lè phè trong những ngày phép, nhưng rất hết lòng trong các cuộc hành quân. Tôi không bị ký phạt ngày nào, kể cả thời bỏ ngũ trong dịp Mậu Thân, nhưng tôi luôn được hưởng những tình huống khó giữ mạng, nếu không nhờ may mắn và những đấng vô hình nào đó che chở. Cuộc hành quân khép lại đời binh nghiệp của tôi rất khốc liệt. Ghi lại diễn tiến những cuộc chạm súng nối nhau trong sáu ngày liền sẽ rất dài dòng và có thể nhàm chán. Trái mìn thứ hai tôi dẫm phải trong đời lính, không thể không nổ. Âm thanh của khối vô giác này, tôi còn được nghe rõ nên tôi vẫn còn trong cuộc sống. Bốn hay ba giờ chiều ngày 11 tháng 2 năm 1969, con đất Thi Phổ một lần nữa nâng đỡ tôi phần nào. Tôi được đưa đến bệnh viện dã chiến của người Hoa Kỳ trên một ngọn đồi ở Đức Phổ. Bậc sinh thành đưa tôi vào đời với một thân thể lành lặn bình thường. Nay hai chân đã mất một, tôi ghi thế nào về những cảm xúc của mình ? Những ngày nằm điều trị là thời điểm Tết nguyên đán, tôi ứa nước mắt nhận gói mứt bánh cùng những lời chúc mừng từ những người bạn đồng minh da trắng. Buồn bã nghĩ về người cha già. Xót xa, nhói buốt nhớ đến vợ và đứa con đầu lòng sắp ra đời. Tin ngã ngựa của tôi vẫn còn được giữ kín. Nằm cùng những thương binh Mỹ, tôi lo tính những gì cần phải thực hiện khi gặp lại gia đình. Một ca khúc xa xưa của nhạc sĩ Phạm Duy, không ai hát mà vang vọng trong tôi những não nùng. Chẳng có gì gối đầu để tịnh tâm hơn câu “Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni Phật”, tôi lặp lại câu kinh linh hiển này trong đầu. Bệnh viện Dã chiến Hoa kỳ tại Đức Phổ chỉ có duy nhất một người Việt Nam, cô Phúc, chuyên lo về vệ sinh phòng trại. Phúc còn trẻ lắm, chắc chừng hai mươi. Phúc đã nhiều lần giúp tôi tập đứng dậy bằng một cặp nạng gỗ. Chỉ đứng im một chỗ cho quen. Cô cũng không e ngại giúp tôi làm vệ sinh thân thể nhiều lần. Cô bé có đôi mắt thật buồn và giàu lòng tử tế này không biết bây giờ ra sao ? Em có phải “đi học tập” sau 1975 vì đã làm cho Mỹ. Dễ gì không được khen tặng mấy chữ CIA. Trong lúc điều trị tại Bệnh viện Dã chiến Đức Phổ, tôi còn có một kỷ niệm hay hay. Dù có học Anh ngữ, tiếng Mỹ của tôi rất là ú ớ, lại không quen sử dụng thủ thuật, tôi gặp khá nhiều khó khăn. Rất may trong đám bác sĩ chăm sóc tôi, có một người chịu chấp nhận hiểu tôi qua chút ít Pháp ngữ cũng rất què quặt. Không ngờ một đêm, đang chập chờn ngủ, tôi được một binh sĩ Hoa Kỳ bồng xuống một căn phòng với cả dây chuyền cùng chai nước biển. Căn phòng rộng vang dậy tiếng rên la của một người đàn bà. Đó là một nữ cán binh. Bà ta oằn oại với cái bụng thật lớn của mình. Không hiểu cơ duyên nào trực thăng Mỹ lại bốc người nữ địch quân, bụng mang dạ chửa này đến đây trong đêm hôm khuya khoắt. Mấy vị bác sĩ không chuyên về sản khoa cần tôi để biết người đàn bà đã ‘mang nặng’ bao lâu, đã đến ngày khai hoa nở nhụy chưa, và tình trạng đau đớn như thế nào. Sau đó tôi được bồng trở về phòng, chờ sáng hôm sau được biết, có một bé trai ra đời. Từ đó đến nay, đã ba mươi lăm năm qua. Không rõ mẹ con người đàn bà năm ấy ra sao ? Dù ở chiến tuyến nào, bà cũng là một người mẹ Việt Nam khốn khổ. Hy vọng thời gian qua bà đã vượt được mọi khó khăn trong cuộc sống, và cậu bé, ngày nay đã rất trưởng thành. Biết đâu cậu đã rõ hoàn cảnh ra đời của mình và tình cờ đọc được những nhắc kể lẩm cẩm của tôi. Một lá thư như trường hợp một người bạn trẻ, Nguyễn Hùng Phi, ở Tiên Phước lại đến, không chừng. Tưởng đã có thể dứt điểm đoạn hồi thuật lẩm cẩm này, thì chợt nhớ ra chưa giải thích nguyên nhân có hai câu: suýt phá đời em du kích nhỏ,/ giữa gian đại tự Phạm Văn Đồng... trong một bài thơ nhớ về Thi Phổ, tôi xin thòng thêm một chút lẩm cẩm nữa. Cụ Phạm Văn Đồng ra đời ngày 01 tháng 3 năm 1906 tại Quảng Ngãi. Không rõ quá trình đầu thai của cụ ra sao, mà cuộc đời “làm quan” của cụ rất bằng phẳng. Giữ chức Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ năm 1955, kéo lê đến 1975, rồi qua luôn giai đoạn đất nước về một mối, cho đến năm 1987. Có lẽ cụ là vị Thủ Tướng dài lâu nhất thế giới.Không biết những khả năng khác của cụ có được lâu bền như vậy ? Nhà ở trong thời ấu thơ của cụ Phạm thuộc xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, nằm trong địa bàn hoạt động của tiểu đoàn chúng tôi, khi đến phiên dưỡng quân tại Núi Dẹp. Chuyện mang quân lục soát khu vực làng cụ là chuyện bình thường. Chúng tôi phải thực hiện để giữ vòng đai an toàn cho bộ chỉ huy tiểu đoàn. Những cuộc hành quân bỏ túi này không mấy khi đụng trận. Nhà của cụ Phạm không cách xa đường cái quan bao nhiêu, nên mức độ an toàn càng cao. Có một điều khá lạ, so với những căn nhà khác, cùng làng, nhà của cụ Thủ tướng, giữ được vẻ lành lặn rất khả quan. Đó là một căn nhà ngói, không lớn lắm, nhưng khá khang trang và chắc rất bề thế vào những năm nó được dựng lên. Nhà không có ai ở. Ngoài bệ thờ, gần như không có vật dụng, kể cả ghế, giường. Thật ra tôi chỉ được biết đây là nhà của thân sinh cụ Phạm, sau khi vào mục tiêu, và dùng căn nhà này cho nhóm dẫn dắt trung đội dừng chân. Thông tin về sở hữu chủ căn nhà do vài người lính có gốc ở địa phương cho biết. Sai đúng ra sao, đến ngày nay tôi cũng chưa kiểm chứng. Dù có là nhà của cụ Phạm thủ tướng hay không, căn nhà rõ ràng được sự nương tay của cả hai bên đối địch trong vùng xôi đậu. Sau khi dòm suốt lòng ruột căn nhà, tôi ra vườn. Vườn có lẽ thuộc loại vườn của cụ Nguyễn Khuyến ngày xưa. Chỉ khác, ở đây không có hàng rào và cũng không có con gà nào để đuổi. Cây lá tự do xanh tốt nhưng không bừa bãi, mọc loạn, điều này cho biết có bàn tay ngầm săn sóc. Đang lắng lòng nghe một tiếng chim lạ, tôi bị dồn dập vào lỗ tai âm thanh cố tình quyết liệt của một giọng nữ. Hóa ra một anh lính của tôi đang tán tỉnh một cô gái và gặp sự phản đối. Rất ngạc nhiên sự có mặt của con bé. Tôi hỏi qua loa người lính, rồi đưa cô ta vào nhà...cụ Phạm. Qua câu chuyện, kể như trả lời thẩm vấn, tôi được biết cô là học sinh của trường Nữ Trung học Quảng Ngãi, về đây thăm bà con. Nhìn vóc dáng, nét mặt, không có gì đáng nghi ngờ. Nhưng chuyện thăm bà con có lẽ không chính xác, bởi xóm làng chẳng còn người nào cư ngụ. Tôi thân mật hỏi cô có biết thầy Đồng không. Cô bảo biết. Tôi thăm dò tiếp, thầy Đồng lúc này ra sao. Cô cũng cho tin rất chính xác. Đồng là tên thật của nhà thơ Hà Nguyên Thạch, dạy trường Nữ trung học Quảng Ngãi. Trong câu chuyện, cô cũng khôn khéo hỏi sự quan hệ giữa tôi cùng thầy Đồng và nhất là không quên nịnh tôi: “Trông...chú giống như là ông thầy hơn là ông lính”. Cô quên rằng tôi là “ông thầy” thứ thiệt được đám binh sĩ của tôi gọi “ông thầy” hàng ngày. Cô học sinh Nữ trung học Quảng Ngãi, không thể là một du kích, nhưng cô đảm nhiệm một công việc gì đó cho phe địch của tôi, chắc chắn có thật. Không nịnh đầm, không dại gái, nhưng tôi bảo một anh binh nhì đưa cô nữ sinh ra mặt lộ, đón xe cho cô về Quảng Ngãi. Chuyện “Suýt phá đời em du kích nhỏ...” đúng là chuyện phịa của tôi cho đoạn thơ thêm hình ảnh. Dựa vào sự xuất hiện có thật của một cô gái trong lần tôi hành quân, nghỉ chân tại nhà cụ Phạm thủ tướng. Vấn đề quấy nhiễu tình dục, nôm na là cưỡng hiếp, ở đâu thì tôi không rõ, nhưng tại đơn vị tôi, hoàn toàn không hề xảy ra, trong giai đoạn tôi có mặt trong tập thể ô liu của mình. Lính của tôi ít ỏi trên dưới ba mươi người, nhưng không thiếu những anh đa tình, kể cả đa dâm nữa, nhưng tôi biết họ rất đàng hoàng, không vượt qua quân kỷ và luân lý đời thường. Một anh hạ sĩ Tý, trung niên, béo mập, có nụ cười làm những con mắt của mấy bà sồn sồn ở một vài chòi tranh có giây phút ánh lên một chút tinh nghịch nào đó rồi thôi. Một trung sĩ Đặng Ngọc Châu, trẻ trung, đẹp trai như kịch sĩ Vân Hùng không thể không làm cho mấy em nông thôn, mấy em sơn cước của những vùng chúng tôi đi qua, có vài giây tơ tưởng. Đặng Ngọc Châu, ông Trung đội phó trẻ tuổi sau này của tôi luôn luôn hồn nhiên với câu hát thường trực trên môi “ người yêu tôi...tôi mới quen hồi hôm”. Câu hát của người viết nhiều nhạc về lính, Trần Thiện Thanh, cũng được một vài binh sĩ của tôi, dung tục hơn: “ người yêu tôi...tôi mới chơi hồi hôm”. Cái quá đà trong ngôn ngữ của họ cốt để mua vui, làm nhẹ đi phần nào cái nặng nề cuộc sống luôn cận kề với tử thần. Sẽ khó quên khi trên đường hành quân trở về, ngang qua một vạt ruộng có nhiều bóng dáng đàn bà, trong đám lính tráng không thiếu anh bạo miệng dặn dò, thật lớn, thật công khai và cũng thật vu vơ. - Tối nay anh về em nhé. Em không cần nấu cơm, kho cá...anh không ăn đâu, nhưng nhớ phải tắm rửa kỹ đấy , giữ sức nằm chờ anh, anh cho lãnh “ráp bênh”...chết luôn.. Câu dặn dò của họ sống động, linh hoạt hơn câu tôi nhớ và ghi lại rất nhiều. Chữ dùng đi từ cái hồn nhiên, vui tính bẩm sinh ấy mà. Những người bạn lính của tôi đều như vậy. Đó là những anh lính chủ lực quân của Sư đoàn 2 nói riêng, của binh chủng Bộ Binh nói chung. Họ không được mặc quân phục rằn ri hùng dũng. Không mấy anh dám xâm tay “ xa gia đình nhớ chị dâu” vv...Họ thường là những người mở trận, thăm dò địch, cầm chân địch, dĩ nhiên cũng không bỏ sót nhiệm vụ thanh toán mục tiêu. Kỹ thuật và căn bản tác chiến giữa người lính bộ binh Việt Nam Cộng Hòa có lẽ hơi khác biệt với binh sĩ đồng minh Hoa Kỳ trong một vài điểm. Để vào mục tiêu, người lính bộ binh thường phải lấy thân mình cùng hỏa lực cá nhân để xung phong, đôi khi được chiến xa yểm trợ từ phía sau lưng. Trong lúc đó, chiến xa của Hoa Kỳ thường uy hiếp mục tiêu trước, và bộ binh dựa vào chiến xa để tiến vào. Lúc rút, bộ binh của Việt Nam Cộng Hòa phải nằm lại cho những chiếc xe bọc thép ra trước nhằm bảo vệ quân dụng, trong khi Hoa Kỳ thì ngược lại. Trọng lượng thân thể của một người Việt vốn nhẹ hơn người Mỹ khá nhiều. Nhận xét này của tôi chỉ căn cứ vào những cuộc hành quân liên kết tôi có tham dự. Có thể hoàn toàn nhầm lẫn, mong quí vị đàn anh có thẩm quyền, quí vị giàu có chiến tích bỏ lỗi cho những nhận xét non kém trên. Chữ nghĩa Việt dành cho cuộc chiến Việt Nam có lẽ đã khá nhiều, từ truyện ngắn, truyện dài, thơ của những anh hào Hoàng Khởi Phong, Trần Hoài Thư, Bảo Ninh, Nguyên Vũ, Nguyễn Bắc Sơn...đến những phóng sự rồi hồi ký...kể khó hết. Nhưng cái dốt của tôi do đọc không được nhiều đề tài này, nên kể chuyện về những cuộc hành quân đã tham dự thiếu hẳn tính chất hấp dẫn lôi cuốn, cần thiết. Máu cũng không thay màu chữ tôi, làm sao hơn, khi bản thân tôi chưa đi đến đâu trong cuộc chiến buồn thảm của tổ quốc mình. Sao chợt nhớ mặt trận quá thế này mờ sáng quân vào hết mục tiêu tầm tã mưa vây đời hắt hiu đứng nhìn đồng đội bung lục soát mưa tạt lạnh lòng mắt đăm chiêu gác súng lên đùi nghĩ vẩn vơ đầu đêm qua ngủ, nhớ còn mơ mắt em đưa đẩy hai đầu võng ta ngủ giữa lòng em với thơ trời sáng dần dần trong lưới mưa trơ bên nền cháy gốc cây dừa ở đây cây cỏ đều sống thật chỉ có riêng ta có vẻ thừa dựng cổ áo ngăn gió buốt da đi quanh thềm cỏ ngỡ như là có người chống cửa chào thân mật úng cả không gian tiếng thở ra bỗng thấy bình an một đóa hoa vàng nghiêng trước gió mở lòng ra hiển linh thay đóa hoa vạn thọ một thoáng ta đang ở tại nhà bát ngát trời thơm hương sắc xuân bỗng quên đang lặn lội hành quân ta ngồi huýt sáo mừng cây cỏ hứng giọt mưa trong thế rượu mừng... (CƠĐĐTT, LTHBVVBH) Luân Hoán |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #163891 · Replies: 0 · Views: 3,238 |
Posted on: Jan 20 2020, 01:18 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
|
Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #163173 · Replies: 0 · Views: 174 |
Posted on: Jan 20 2020, 01:18 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
|
Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #163172 · Replies: 0 · Views: 411 |
Posted on: Jan 20 2020, 01:18 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
|
Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #163168 · Replies: 0 · Views: 206 |
Posted on: Jan 20 2020, 01:18 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
|
Forum: RẠP CHIẾU PHIM ONLINE VÀ PHIM TÀI LIỆU LỊCH SỬ · Post Preview: #163167 · Replies: 0 · Views: 261 |
Posted on: Jun 6 2019, 10:39 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi nhận lệnh kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ, nên bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn – phải nói ông anh mới đúng – là Liên Đoàn Trưởng của một liên đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Henessey. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này. Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng. anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái. Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp túi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên: – Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44? Tôi khựng lại, ngạc nhiên: – Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi! – Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy? Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò: – Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà. Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi: – Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không? Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác. Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết… Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ. Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghi anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu. Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui: – Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi. Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo này là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ. Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Một cô gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ và có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt cô có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn. Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có bóng dáng cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm màu của Thiên Chúa. Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc ở khu ngoại ô tương đối an toàn, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế. Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức. Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch. Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội. Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi. Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng Carbine M2 chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày. Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng. Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh. Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục: – Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu? Vị linh mục buồn bã: – Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy. Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ. Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thầy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ. - Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy? Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại: – Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy. Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt. – Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần? Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế. Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện một lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô Trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé. Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa. Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặt. Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi chợt nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sững sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình: – Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau. Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng” nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng gió mưa lầy lội, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị cũ, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt. Phạm Tín An Ninh |
Forum: BỘ SƯU TẬP HÌNH ẢNH PLEIKU PHỐ NÚI · Post Preview: #162519 · Replies: 156 · Views: 383,394 |
Posted on: Jun 6 2019, 10:39 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi nhận lệnh kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ, nên bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn – phải nói ông anh mới đúng – là Liên Đoàn Trưởng của một liên đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Henessey. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này. Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng. anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái. Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp túi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên: – Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44? Tôi khựng lại, ngạc nhiên: – Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi! – Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy? Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò: – Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà. Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi: – Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không? Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác. Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết… Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ. Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghi anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu. Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui: – Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi. Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo này là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ. Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Một cô gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ và có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt cô có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn. Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có bóng dáng cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm màu của Thiên Chúa. Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc ở khu ngoại ô tương đối an toàn, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế. Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức. Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch. Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội. Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi. Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng Carbine M2 chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày. Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng. Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh. Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục: – Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu? Vị linh mục buồn bã: – Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy. Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ. Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thầy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ. - Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy? Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại: – Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy. Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt. – Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần? Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế. Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện một lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô Trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé. Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa. Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặt. Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi chợt nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sững sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình: – Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau. Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng” nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng gió mưa lầy lội, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị cũ, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt. Phạm Tín An Ninh |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162518 · Replies: 0 · Views: 3,401 |
Posted on: Jun 6 2019, 10:24 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901-1963) Tiểu Sử Ngô Đình Diệm (Hán tự:吳廷琰) sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại Huế trong một gia đình quyền quý theo Công giáo ở Việt Nam, tên thánh của ông là Jean Baptiste (Gioan Baotixita). Gia Đình Theo các tài liệu lịch sử đã được công bố, Tổng Thống Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại Huế trong một gia đình công giáo danh vọng bậc nhất miền Trung thời đó. Thân phụ là cụ ông Ngô Đình Khả và thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Thân, nguyên quán làng Đại Phong, Huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Trung Phần Việt Nam. Cụ Ngô Đình Khả là Thượng Thư triều đình Huế kiêm Phụ Đạo Đại Thần và cũng là Cố Vấn của vua Thành Thái. Gia đình ông bà cụ cố Ngô Đình Khả có tất cả 9 người con: 6 người con trai và 3 người con gái. Trưởng nam là Tổng Đốc Ngô Đình Khôi đã bị cộng sản giết năm 1945 cùng với người con trai là Ngô Đình Huân; Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục; Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người con trai thứ ba; ba người con gái là bà Ngô Đình Thị Giao, tức bà Thừa Tùng; bà Ngô Đình Thị Hiệp, tức bà Cả Âm, thân mẫu Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và bà Ngô Đình Thị Hoàng, tức bà Cả Lễ, nhạc mẫu nghị sĩ Trần Trung Dung, tiếp theo là ba người con trai: Cố vấn Ngô Đình Nhu, Cố vấn Ngô Đình Cẩn và đại sứ Ngô Đình Luyện, người con út trong gia đình. Cụ Cố Ngô Đình Khả nổi danh là một vị khoa bảng xuất chúng. Thời đó, tại Việt Nam rất hiếm có người được hấp thụ cả hai nền giáo dục Đông và Tây như Cụ. Lúc thiếu thời, Cụ theo Nho học, sau đó vào chủng viện học chương trình Pháp, rồi được gửi sang đại chủng viện Penang để học Triết học và Thần học Tây Phương bằng tiếng Pháp và tiếng La Tinh. Cụ là một chủng sinh rất xuất sắc, nhưng vì không có ơn gọi để trở thành linh mục, Cụ đã xin trở về cuộc sống thế tục. Cụ Cố Ngô Đình Khả còn nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, đức độ, một nhà ái quốc chân chính, là bạn thân của các nhà cách mạng nổi danh thời đó như cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Thành tích đáng kể nhất của cụ cố Ngô Đình Khả là nỗ lực thành lập Trường Quốc Học tại Huế, một trường công lập đầu tiên giảng dạy theo chương trình học thuật Đông Tây tại Việt Nam. Và chính Cụ là vị đại thần duy nhất đã can đảm công khai chống lại thực dân Pháp phế bỏ và đầy vua Thành Thái sang Phi Châu sống lưu vong, sau đó Cụ đã xin rũ áo từ quan về quê làm ruộng. Lúc thiếu thời, ông Diệm còn đuợc theo học dưới sự dạy dỗ của một vị cha tinh thần khác, cũng nổi tiếng về kiến thức quảng bác, đức độ và lòng yêu nước: Đó là Quận Công Nguyễn Hữu Bài, Thượng Thư dưới triều vua Duy Tân. Ngài là vị đại thần duy nhất chống lại việc người Pháp tham lam muốn đào ngôi mộ vua Tự Đức để lấy vàng bạc châu báu. Vì thế dân chúng miền Trung thời đó vô cùng cảm kích ngưỡng mộ nên đã có phương ngôn: “Đày vua không Khả. Đào mả không Bài”. Ngoài việc hấp thụ những đức tính cao đẹp và lòng yêu nước nồng nàn của thân phụ và nghĩa phụ, ông Diệm còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo. Thực vậy, nếu Nho Giáo đã hun đúc ông Diệm thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực thì nền giáo dục Thiên Chúa Giáo đã đào tạo ông Diệm thành một con người đầy lòng bác ái, vị tha và công chính. Thời trẻ Từ lúc còn nhỏ, ông được Nguyễn Hữu Bài – quan phụ chính trong triều dạy dỗ và coi như con đẻ, từ năm 15 tuổi ông vào học trường dòng với dự định sau này làm tu sĩ, nhưng không chịu nỗi kỷ luật khắt khe trong trường dòng, ông đã bỏ trường dòng ra xin học vào trường quốc học Huế Từ năm 1919 ông ra Hà Nội học trường Hậu Bổ (trường hành chính) và tốt nghiệp 2 năm sau đó năm 1921. Giai đoạn làm quan triều Nguyễn Năm 1923, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, rồi Tri phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm 1929, ông được bổ nhiệm làm Tuần vũ tỉnh Bình Thuận. Năm 1932, ông được bổ nhiệm Thượng thư Bộ Lại trong triều đình vua Bảo Đại. Trong thời gian này ông được bầu làm Tổng thư ký uỷ ban cải cách, ông đề xướng hai điều với chính quyền bảo bộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884 và hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề. Việc thống nhất cốt sẽ buộc chính quyền Bảo hộ Pháp bãi bỏ khâm sứ Trung Kỳ và thống sứ Bắc Kỳ và thu về thành một viên tổng trú sứ (résident général) ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ. Vì thấy không được chấp nhận, ông từ chức ngày 12.07.1933.. Hoạt động chính trị chống Pháp :1933-1945 Năm 1933, ông vào Sài Gòn cùng với Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim,… tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung Kỳ vận động chính giới Pháp tại Paris để đòi truất phế quan Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier. Việc không thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú tại Quảng Bình. Tuy nhiên, sau cái chết của Pasquier năm 1934, viên toàn quyền mới Eugene René Robin đã phục hồi tước vị hàm cho ông và ông về dạy tại trường Thiên Hựu do anh trai Ngô Đình Thục làm Giám học Thời kỳ 1934-1944, Ngô Đình Diệm tham gia thành lập và lãnh đạo đảng Đại Việt Phục Hưng chống Pháp với thành phần đảng viên nòng cốt là quan lại, linh mục, cảnh sát, và lính khố xanh bản xứ tại Trung Kỳ. Tháng 7 năm 1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này, Ông Ngô Đình Diệm trốn vào Sài Gòn với sự giúp đỡ của hiến binh Nhật. Tại Sài Gòn, ông đã tham gia thành lập Uỷ Ban Kiến Quốc với mục tiêu phò tá hoàng thân Cường Để, tuy nhiên Nhật không cho Cường Để về nước để lập làm vua mà vẫn tiếp tục sử dụng Bảo Đại để lập nên một chính quyền thân Nhật với quốc hiệu mới là Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại đã từng mời ông làm thủ tướng trong chính quyền mới nhưng không thành mà thay vào đó là Trần Trọng Kim. Trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương 1945-1954. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Bộ Tư Lệnh Nhật ở Đông Dương tổ chức đảo chánh lật đổ nhà cầm quyền Pháp. Đại sứ Nhật Yokohama yêu cầu vua Bảo Đại tuyên cáo Việt Nam Độc Lập trong khối Đông Nam Á. Đối phó với tình hình mới, nhà vua lại mời ông Ngô Đình Diệm về làm Thủ Tướng nhưng vì không muốn làm vật hy sinh, ông đã từ chối và nhà vua đã mời cụ Trần Trọng Kim lúc đó 62 tuổi thành lập nội các. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng, Việt Minh khai thác sự đột biến hoang mang của quần chúng, đã tổ chức cướp chính quyền trong một cuộc biểu tình ngày 18 tháng 8 năm 1945 tại Hà Nội. Sau đó, Cựu Hoàng cũng tuyên bố thoái vị. Còn ông Diệm trên đường từ Sàigòn về Huế đã bị Việt Minh bắt tại Tuy Hoà và biệt giam tại Quảng Ngãi. Để củng cố địa vị, HCM đã mời ông Diệm hợp tác với chính phủ nhưng ông đã cương quyết từ chối. Khi bị giam tại Tuyên Quang, ông bị bệnh nặng được đưa về điều trị tại bệnh viện Saint Paul Hà Nội do áp lực của đảng phái quốc gia và Phó chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng, nhưng ông đã được ông Nhu lúc đó đang làm việc tại Thư Viện Trung ương Hà Nội tìm cách cứu thoát. Đến năm 1948, một lần nữa ông Ngô Đình Diệm từ chối lời mời của Cựu Hoàng thành lập chính phủ trong Liên Hiệp Pháp. Từ đó ông xuất ngoại, đi vận động ngoại giao tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Pháp, Bỉ và được Đức Giáo Hoàng Piô XII tiếp kiến tại La Mã. Năm 1950, ông theo người anh trai là giám mục Ngô Đình Thục đi Vatican, sau đó sang Nhật gặp hoàng thân Cường Để đang sống ở đây, và sau đó ông sang Mỹ sống tại đây trong hai năm, phần lớn thời gian lưu trú tại các trường dòng Lakewood ở New Jersey và trường dòng Ossining ở New York, đây cũng là thời kỳ ông gặp hồng y Spellman, người đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của ông sau này. Vì tình hình chiến sự suy sụp mau chóng sau khi thất thủ tại Điện Biên Phủ 7.5.1954, Chính Quyền Pháp muốn rút lui trong danh dự nên đồng ý trao trả độc lập thực sự cho Việt Nam. Trước tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị cắt làm đôi, Cựu Hoàng Bảo Đại đã kêu gọi lòng ái quốc và trách nhiệm trước sự tồn vong của dân tộc, đã yêu cầu ông Diệm nhận lãnh sứ mạng. Vì nghĩ rằng đây là cơ hội cuối cùng, ông có thể đứng ra lập chính phủ để cứu nước nên ông đã nhận lời, bất chấp sự can ngăn của các chính khách thân hữu. Sự kiện lịch sử này xảy ra ngày 19. 06. 1954, trước khi Hiệp Định Genève chia cắt hai miền Nam Bắc đất nước theo sông Bến Hải ngày 20. 07. 1954 đúng sau 31 ngày. Ngày 24 tháng 06 năm 1954 Thủ Tướng Diệm về nước thành lập chính phủ. Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam 19.6.1954-26.10.1955 Trong thời kỳ đầu làm Thủ tướng quốc gia Việt Nam, thực tế ông không có quyền lực đối với các lực lượng quân đội, cảnh sát với những người đứng đầu là Trung tướng Nguyễn Văn Hinh (gốc sĩ quan Trung tá Không quân Pháp, vợ Pháp) và Thiếu tướng Lê Văn Viễn (Bình Xuyên). Hai lực lượng này liên minh với nhau nhằm chống lại ông, ông cũng không kiểm soát được bộ máy quan chức dân sự vì các viên chức Pháp đang còn nhiều, nắm giữ các vị trí then chốt. Nền tài chính vẫn do ngân hàng Đông Dương mà phía sau là chính phủ Pháp quản lý. Thực tế trong gia đoạn đầu cầm quyền thủ tướng ông không có quyền hành. Sự kiện quan trọng trong giai đoạn này là việc Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower gửi công hàm chính thức cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho biết từ đây chính phủ Việt Nam nhận viện trợ trực tiếp của chính phủ Hoa Kỳ chứ không qua nhà đương cục Pháp như trước. Ngô Đình Diệm cho rằng cơ hội duy nhất cho quốc gia Việt Nam đứng vững được là phải giành được độc lập thực sự, và ông nhất định thực hiện mục tiêu đó một cách dũng cảm và kiên trì hiếm có. Chỉ sau vài tháng nắm quyền thủ tướng, tháng 12 năm 1954 ông bãi bỏ quyền phát hành giấy bạc của ngân hàng Đông Dương, từ nay giấy bạc lưu hành trên lãnh thổ miền Nam sẽ do ngân hàng Việt Nam mới thành lập phát hành và cục hối đoái giao cho chính phủ Việt Nam quản lý, tiếp đó ông yêu cầu chính phủ Pháp giao lại cho Việt Nam trong thời hạn năm tháng việc kiểm soát quân đội quốc gia lâu nay vẫn thuộc bộ chỉ huy Pháp. Thu phục Dũng Tướng Trịnh Minh Thế: Trình Minh Thế (1922 – 3 tháng 5 năm 1955) (một số tài liệu viết là Trịnh Minh Thế) là một người theo chủ nghĩa quốc gia và là một Tướng lãnh quân sự tài ba trong thời gian cuối của cuộc kháng chiến tranh chống thực dân pháp, đầu cuộc chiến tranh Quốc-Cộng Việt Nam. Gia thế Trịnh Minh Thế sinh ở tỉnh Tây Ninh trong một gia đình theo đạo Cao Đài. Theo Phòng Nhì Pháp thì cha ông tên là Trình Trung Vinh, tuy nhiên nguồn khác lại cho biết cha ông là Trịnh Thành Quới một giáo chức Cao Đài, đồng thời là một thương gia phát đạt. Gia đình họ Trịnh chuyển từ Bình Định vào miền Nam từ đầu thế kỷ 19 và đổi họ từ Trịnh sang Trình, theo gia đình ông là để tránh sự trả đũa của nhà Nguyễn với những người theo Tây Sơn (Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ). Do sinh trưởng trong một gia đình có thế lực, Trịnh Minh Thế được hưởng sự giáo dục tốt hơn rất nhiều người Việt Nam đương thời nói chung. Ông tốt nghiệp tiểu học (Certificate of Primary Education), Hoạt động Thời kỳ 1940-1954 Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, Nhật tiến vào Đông Dương. Phản ứng trước tình hình phong trào chống Pháp càng ngày càng gia tăng, toàn quyền Đông Dương là Đô đốc Decoux hành động quyết liệt. Ông ta cho đóng cửa một số nơi thờ tự của Cao Đài, rồi tới ngày 26 tháng 8 năm 1940 cho đóng cửa Tòa thánh Tây Ninh. Tới ngày 27 tháng 7 năm 1941, nhiều lãnh đạo của Cao Đài, kể cả Hộ Pháp Phạm Công Tắc bị bắt giữ. Để giành được sự ủng hộ của các tổ chức Việt Nam theo chủ nghĩa quốc gia, Nhật tiến hành bắt liên lạc và hỗ trợ cho họ, trong đó có Cao Đài. Tới tháng 2 năm 1943, Nhật giúp vị Phối Sư Cao Đài là Trần Quang Vinh mở lại thánh thất Cao Đài tại Sài Gòn. Để đáp lại, Cao Đài hợp tác tích cực với Nhật, Phối Sư Trần Quang Vinh kêu gọi giáo dân Cao Đài xung phong đăng lính cho quân Nhật, 10.000 giáo dân Cao Đài làm việc cho Nhật, đáng kể nhất là tại xưởng đóng tàu Nitian. Số người này sau giờ làm việc được huấn luyện quân sự. Nhờ vậy mà Trịnh Minh Thế được huấn luyện quân sự trong trường Sĩ Quan của Hiến binh Nhật (Kempetai), khi Nhật bắt đầu sử dụng lực lượng vũ trang Cao Đài. Tới năm 1945, ông trở thành một Sĩ Quan của lực lượng quân sự Cao Đài. Được sự bảo trợ của Nhật, Phối Sư Trần Quang Vinh tổ chức lực lượng vũ trang gồm 3.000 người, tiếng là theo chỉ thị của Hoàng thân Cường Để. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, lực lượng Cao Đài mặc đồng phục trắng, đội mũ bê-rê, vũ trang bằng gậy tre vọt nhọn tham gia hỗ trợ Nhật đảo chính Pháp. Thủ lĩnh quân sự của Cao Đài là Trần Văn Thành tuyên bố Hoàng thân Cường Để chỉ thị thành lập lực lượng vũ trang Cao Đài liên minh với Nhật Bản để chống Pháp. Thời kỳ này Trịnh Minh Thế đã gia nhập lực lượng vũ trang Cao Đài. Ông thành lập đội quân xung kích Hắc Y, mặc quần áo bà ba đen, sau trở thành đồng phục cho tất cả dân quân Liên Minh. Đầu năm 1949, Trịnh Minh Thế đưa lực lượng của mình từ các tỉnh miền Đông về Tây Ninh để ủng hộ Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc, rồi sau đó được phong Thiếu tá. Lực lượng của Trịnh Minh Thế có quân số trên 3 ngàn người, bảo vệ cho Tòa Thánh Tây Ninh tránh được các cuộc tấn công của lực lượng Việt Minh. Tháng 6 năm 1951, Trịnh Minh Thế chính thức rời khỏi hàng ngũ giáo phẩm Cao Đài với chừng 2.000 người của mình và thành lập lực lượng riêng, lấy tên là Liên Minh, chủ trương chống cả Việt Minh và Pháp. Cha và anh của ông cũng thành lập lực lượng vũ trang trong Liên Minh, về sau hai người bị giết khi đụng độ với lực lượng Việt Minh. Lực lượng Liên quân của Trình Minh Thế được cho là đã thực hiện một loạt các vụ Ám sát tại Sài Gòn từ năm 1951 tới năm 1953, chiến công lẫy lừng ám sát Thiếu tướng Chanson tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp Nam bộ Việt Nam tại Sa Đéc năm 1951. Tháng 8 năm 1953, quân Pháp mở cuộc tấn công vào căn cứ của Trình Minh Thế, sử dụng một tiểu đoàn sơn cước Nùng tinh nhuệ. Quân Liên Minh phải tránh vào các hang động ở núi Bà Đen. Về sau Trình Minh Thế phải dời sở chỉ huy về núi Heo. Tới năm 1954, Liên Minh đã mở rộng địa bàn hoạt động về phía tây-nam, tới tận sông Cửu Long. Lực lượng của họ được chia làm nhiều tiểu đoàn, quân số có lẽ vào khoảng 4.500 người. Thời kỳ 1954-1955. Tháng 9 năm 1954, Đại tá Lansdale (Phái bộ Mỹ) và Cố vấn Ngô Đình Nhu phát hiện ra tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội Quốc gia, đang tiến hành âm mưu lật đổ TT Diệm. Cùng lúc, quân Pháp phong tỏa các lực lượng Cao Đài định tiến vào Sài Gòn giải nguy cho Ngô Đình Diệm. Lực lượng Liên Minh của Tướng Thế đã tiến vào Sài Gòn, đáp lại lời kêu gọi ủng hộ TT Diệm. Cuộc đảo chính bị thất bại một phần các Sĩ Quan cấp dưới của tướng Hinh lấy lí do đi nghỉ mát, (vì ủng hộ Thủ tướng Diệm) thiếu những thuộc hạ cốt cán này, cuộc đảo chính không thể tiến hành được. Lí do Quan trọng 3.500 quân Hắc y của Tướng Thế đã có mặt tại Sài gòn để bảo vệ TT. Ngày 13 tháng hai năm 1955, quân lính của Trình Minh Thế chính thức sát nhập vào quân đội Nam Việt Nam, còn Trình Minh Thế được Thủ tướng Diệm gắn lon Thiếu tướng, (TT Diệm chỉ có 2 Thiếu tướng: Lê văn Ty, Trịnh Minh Thế) quân Liên Minh Hắc y diễu hành vào Sài Gòn. Tân Thiếu tướng Trình Minh Thế điều động 15.000 quân Cao Đài về Tòa Thánh Tây Ninh như lực lượng dự bị, còn mình dẫn phần lớn lực lượng của mình gồm 3.500 người về gia nhập quân đội quốc gia như thỏa thuận với TT Ngô Đình Diệm. Trong khoảng thời gian từ tháng 3 tới tháng 5 năm 1955, tình hình tại Sài Gòn trở nên rất căng thẳng. Mâu thuẫn gay gắt về cả quyền lực chính trị lẫn kinh tế khiến đụng độ vũ trang giữa phe chính phủ và liên minh lực lượng vũ trang giáo phái cùng Bình Xuyên là khó tránh khỏi. Thủ tướng Diệm kiên quyết tiêu diệt lực lượng vũ trang đối lập, còn lực lượng giáo phái nhờ vào sự hậu thuẫn của Pháp cũng quyết không chịu nhượng bộ. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đưa vào Sài Gòn các đơn vị trung thành gồm 3 tiểu đoàn Nùng, rồi 2 tiểu đoàn dù dưới quyền đại tá Đỗ Cao Trí. Các đơn vị này cộng vào số binh sĩ của tướng Trình Minh Thế (Cao Đài), đại tá Nguyễn Văn Huê (Hòa Hảo) và thiếu tá Nguyễn Văn Đày (Hòa Hảo) làm cho cán quân lực lượng nghiêng về phía quân chính phủ, so độ 4.000-5.000 quân Bình Xuyên tại vùng Sài Gòn-Chợ Lớn. Ngày 8 tháng 3 năm 1955, 7 tiểu đoàn quân Chính phủ bắt đầu hành quân tiêu diệt lực lượng đối lập là đảng Đại Việt tại Quảng Trị (Trung tá Nguyễn Bôn tự xưng Đại tá lập chiến khu Ba Lòng gần Khe Sanh), và tới ngày 25 tháng 3, quân dù mở cuộc tấn công vào phe đối lập tại Sài Gòn, nhưng Cao ủy Pháp là tướng Paul Ely cùng tướng Lawton Collins (Mỹ) gây sức ép buộc quân chính phủ phải ngưng chiến. Tuy nhiên, thế lực của quân chính phủ được củng cố lên nhiều khi ngày 29 tháng 3, tướng Nguyễn Thanh Phương, tư lệnh các lực lượng Cao Đài tuyên bố ủng hộ chính phủ. Tình hình căng thẳng giữa hai bên kéo dài, các thỏa hiệp do Pháp và Mỹ làm trung gian đưa ra đều bị hai bên bác bỏ, tới ngày 26 tháng 4, xung đột quân sự bùng nổ trở lại. Quân đội chính phủ nhanh chóng đánh tan sức kháng cự của quân Bình Xuyên, tới cuối tháng 4, quân Bình Xuyên hoàn toàn bị đánh bại, bị đẩy khỏi thành phố, bị quân chính phủ truy kích. Ngày 3 tháng 5 năm 1955, khi đang ngồi trên xe Jeep chỉ huy tiến quân qua cầu Tân Thuận, tướng Trình Minh Thế bị một viên đạn carbin bắn tỉa bắn vào sau gáy. Vụ giết người này suốt một thời gian không được làm sảng tỏ được, một số người đổ lỗi cho phía Pháp (vì họ đã thề giết cho bằng được Trình Minh Thế trong suốt nhiều năm, lúc này các Giang thuyền Pháp tuần tiểu trên Sông Sài gòn, lấy lí do bảo vệ kiều bào Pháp), trong khi một số người khác đổ lỗi cho chính quyền Đệ nhất Cộng Hoà. Hoàn cảnh cái chết của ông cũng gây nhiều tranh cãi, khi có nhiều Tin tức khác nhau, thậm chí đối lập nhau về thời gian, địa điểm, vết thương gây nên cái chết của ông…. Khi nghe tin Tướng Thế tử trận, TT Diệm bật khóc, TT truy thăng Trung tuớng, tang lễ cữ hành nghi thức trọng thể: Tướng Lãnh Vị quốc vong thân. Ông được chôn cất tại núi Bà đen, gần toà thánh Tây ninh, nơi những năm tháng ông kháng chiến chống Pháp và Cộng sản . Sau khi chết, tên ông được đặt cho con đường dọc suốt Quận 4 Sài Gòn đến cầu Tân Thuận cho tới năm 1975. Dù Tình báo Pháp đã thú nhận sau này (1977) chính họ đã bắn tỉa từ một giang thuyền trên Sông Sài gòn dưới cầu Tân thuận, do nhận được tin từ một sĩ quan VN tại Bộ Tồng tham Mưu (sĩ quan này ủng hộ Tướng Hinh; Tướng Viễn, Bình Xuyên, vốn sĩ quan tình báo của Pháp trước đây). Học giả Nguyễn Hiến Lê trước 1975 cho rằng TT Diệm giết, nhưng thực tế Nguyễn Hiến Lê không đưa bằng chứng thuyết phục. Sau 1975 ông vỡ mộng Chủ Nghĩa Cọng Sản, ông yêu thích tôn sùng. Trong Hồi ký Cuối đời 1980 ông thú nhận trước 1975, ông từng yêu thích lý tưởng CS. Điều này cho thấy những sách viết về chính trị của ông trước 1975 không được khách quan cho lắm. Không phủ nhận những tác phẩm khác là có giá trị: Đắc nhân tâm, Quẳng gánh lo đi. Dẹp loạn Hiện tượng Sứ quân cát cứ: Bình Xuyên:Tướng Lê văn Viễn (Bảy Viễn) Bảy Viễn (1904-1970) là tên của một tướng cướp lừng danh trước năm 1945, về sau tham gia tổ chức lực lượng vũ trang chống Pháp, sau ly khai trở về hợp tác với chính quyền Bảo Đại. Bảy Viễn cũng là thủ lĩnh của lực lượng Bình Xuyên chống đối và bị Ngô Đình Diệm dẹp tan vào năm 1955. Tung hoành ngang dọc Bảy Viễn tên thật là Lê Văn Viễn, sinh năm Giáp Thìn (1904) tại Phong Đước, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là Quận 8, Sài Gòn). Cha là Lê Văn Dậu, người Hoa gốc Triều Châu. Năm 1921, Bảy Viễn vào tù lần đầu với bản án 20 ngày tù giam khi mới 17 tuổi do phạm tội trộm xe đạp. Năm 1927, Bảy Viễn phạm tội hành hung người khác và bị phạt giam 2 tháng tù. Năm 1936, Bảy Viễn bị chính quyền Nam Kỳ tuyên án 12 năm khổ sai đày đi Côn Đảo do tội cướp có vũ trang (súng). Tuy nhiên, đến năm 1940, Bảy Viễn vượt ngục thành công về đất liền sau 4 lần thất bại. Năm 1942, Bảy Viễn bị bắt trong vụ tổ chức cướp xưởng mộc Bình Triệu. Tòa án tuyên phạt 12 năm khổ sai cộng thêm 8 năm còn thiếu trước đây là 20 năm. Tham gia kháng chiến Năm 1945 tham gia kháng chiến chống Pháp và trở thành Chi đội trưởng Chi đội 9 thuộc Liên khu Bình Xuyên, do Ba Dương (tức Dương Văn Dương) làm Tổng chỉ huy. Ngày 20 tháng 2 năm 1946 Ba Dương hy sinh trong một trận chống càn của Pháp ở Bến Tre khi chỉ huy một bộ phận quân Bình Xuyên vượt sông Soài Rạp từ Rừng Sát về cứu nguy cho mặt trận An Hóa – Giao Hòa. Sau khi Ba Dương hy sinh, Bảy Viễn vận động để nắm chức Tư lệnh Bình Xuyên nhưng một số cán bộ chỉ huy trưởng các chi đội Bình Xuyên đã không tán thành. Tháng 5 năm 1946 Tướng Nguyễn Bình tư lệnh Viêt Minh tại Nam bộ ký quyết định phong cho Bảy Viễn làm Khu Bộ phó chiến khu 7 với ý định tách Bảy Viễn ra khỏi vị trí trực tiếp chỉ huy lực lượng Bình Xuyên và để Bảy Viễn không bất mãn bỏ kháng chiến về với Pháp. Tháng 12 năm 1947, Trung tá Savani (Phòng Nhì Pháp) cho người bí mật tiếp xúc với Bảy Viễn để chuẩn bị lập Chiến khu Quốc gia Rừng Sát. Cuối tháng 5 năm 1948 Bảy Viễn mang hai đại đội võ trang mạnh, thân tín nhất, có cả trung liên và đại liên, từ Rừng Sát, vượt sông Soài Rạp, băng qua lộ 4, xuôi theo dòng kênh Dương Văn Dương (Lagrange) đến căn cứ địa của Nam Bộ, tại làng Nhơn Hòa Lập để họp và nhận chức Khu bộ trưởng Chiến khu 7. Tại cuộc họp Trung Tướng Nguyễn Bình quyết định giải tán tổ chức Bình Xuyên phiên chế thành các Trung đoàn Vệ Quốc Đoàn để phá tan âm mưu chia rẽ quốc gia và Việt Minh của Phòng nhì Pháp. Bảy Viễn phản đối quyết liệt. Về thành Rạng sáng ngày 27 tháng 5 năm 1948, Bảy Viễn đã âm thầm rút quân Bình Xuyên rời chiến khu Đồng Tháp đến Đông Thành nơi Chi đội 4 của Mười Trí (bạn thân Bảy Viễn) đóng quân và cho bạn biết ý định về hợp tác với Pháp. Mười Trí không ngăn cản nhưng âm thầm phân tán lực lượng võ trang của Bảy Viễn. Cho nên khi rút về tới xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, Bảy Viễn chỉ còn có hai trung đội. Sau khi về hợp tác với Pháp, Bảy Viễn được Tướng De la Tour gắn lon Đại tá. Năm 1952, Bảo Đại phong cho Bảy Viễn cấp bậc Thiếu tướng 2 sao (Général de Brigade). Từ năm 1948, lực lượng Bình Xuyên ly khai là một lực lượng quân sự bổ sung nằm trong khối Liên hiệp Pháp, địa bàn hoạt động ở xung quanh Sài Gòn. Dưới sự đồng thuận của Pháp, Bình Xuyên kiểm soát nhiều sòng bài, nhà thổ (gái mãi dâm), cùng những thương cuộc lớn nhỏ khắp vùng Sài Gòn-Chợ Lớn trong đó phải kể Casino Grande Monde (Đại Thế Giới), Casino Cloche d’Or (Kim Chung), Bách hóa Noveautes Catinat[1].. Sau Hiệp định Genève, Bình Xuyên trở thành một bộ phận Sứ Quân cát cứ trong Quân đội Quốc gia Việt Nam. Bị trấn áp và lưu vong Tháng 7 năm 1954 Thủ tướng Ngô Đình Diệm chấp chính thành lập chính phủ trung ương và nộp danh sách nội các. Lê Văn Viễn, vị chỉ huy Bình Xuyên đòi được tham chính và đưa ra yêu sách lập chính phủ mới. Lực lượng Bình Xuyên cùng với quân đội Cao Đài và Hòa Hảo còn lập Mặt trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia và gửi tối hậu thư buộc chính phủ phải có danh sách mới trước ngày 26 tháng 3 năm 1955. TT Ngô Đình Diệm không chịu nhượng bộ nên Bình Xuyên mở cuộc tấn công Bộ tổng tham mưu rồi pháo kích vào Dinh Độc Lập. Sang tháng 4 năm 1955 thì quân Bình Xuyên đánh thành Cộng Hòa. Quân đội Quốc gia phản công, phá được căn cứ chính của Bình Xuyên ở khu vực cầu Chữ Y khiến lực lượng Bình Xuyên phải triệt thoái khỏi Sài Gòn, Chợ Lớn và rút về Rừng Sát. Tháng 9 năm 1955 TT Ngô Đình Diệm cử đại tá Dương Văn Minh thay Tướng Thế mở Chiến dịch Hoàng Diệu truy nã Bình Xuyên ở Rừng Sát. Quân Bình Xuyên bị hoàn toàn tiêu diệt. Lê Văn Viễn đào tẩu sang Campuchia rồi lưu vong sang Pháp, chấm dứt thực lực của Bình Xuyên. Một lực lượng Bình Xuyên ly khai khác do Võ Văn Môn (tức Bảy Môn) chỉ huy đào thoát về miền Đông Nam Bộ, lập căn cứ rồi theo Việt cộng Sau 1975 la Đại tá CS hồi hưu sống tại Sài gòn. Năm 1970 Bảy viễn qua đời tại Paris. Ba Cụt ( ? – 1956) tên thật Lê Quang Vinh là chỉ huy quân đội của giáo phái Hòa Hảo chống lại Quân đội Quốc gia Việt Nam, Việt Minh, vào những năm cuối thập niên 1940 và đầu thâp niên 1950. Lực lượng quân sự của giáo phái Hòa Hảo được thành lập dưới sự hậu thuẫn của quân đội Pháp như là Lực lượng bổ sung (Suppletif Forces) để chống Việt Minh. Và Ba Cụt là một trong những chỉ huy của lực lượng này, được Pháp gắn lon Đại tá Sau năm 1954, TT Ngô Đình Diệm cho tiến hành thương thuyết với các giáo phái để thống nhất lực lượng quốc gia, tiến tới thành lập Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng dưới sự hỗ trợ và khuyến khích của Pháp, Ba Cụt không những không hợp tác mà còn liên minh với quân Bình Xuyên để chống lại chính phủ. Tự phong Thiếu tướng . Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho tiến hành các chiến dịch Đinh Tiên Hoàng (mở ngày 23 tháng 5 năm 1955) và chiến dịch Nguyễn Huệ (mở ngày 1 tháng 1 năm 1956) để tiêu diệt quân Ba Cụt nhưng vẫn không thanh toán được. Sau đó TT Ngô Đình Diệm chỉ đạo cho PTT Nguyễn Ngọc Thơ thương thuyết, chấp nhận cho Ba Cụt về hợp tác với chính quyền, phong thiếu tướng, Ba cut giả vờ thương thuyết để rút vảo Đồng tháp Mười kháng chiến, nhận viện trợ của Pháp rồi vào phút cuối trở mặt. Ngày 2.6.1956 QLVNCH tiến quân vào nơi trú ẩn Ba cụt, bắt sống ông ta trên chiếc thuyền nhỏ. Ông ta tuyên bố trên đường ra hợp tác với chính quyền? Cả hai phiên tòa sơ thẩm (ngày 11 tháng 6 năm 1956) và thượng thẩm (ngày 26 tháng 6 năm 1956) của Tòa Đại Hình và phiên tòa ngày 4 tháng 7 năm 1956 của Tòa Án Quân Sự đều tuyên án tử hình Đai tá Lê Quang Vinh với tội danh mưu phản. (Khi bắt đầu thương thuyết lần đầu 1-1-1956, đến khi bị bắt 2.6.1956, hơn 5 tháng sau vì vậy lý do ông tuyên bố khi bị bắt là trên đường ra hợp tác không thể chấp nhận!) Vào lúc 5 giờ 45 phút sáng ngày 13 tháng 7 năm 1956, Ba Cụt đã bị hành quyết bằng cách lên máy chém tại Cần Thơ. Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà: 26.10.1955-2.11.1963 Tại miền Nam, từ 1954-1955, với cương vị thủ tướng, ông đã dẹp yên và thu phục các lực lượng Bình Xuyên, Hoà Hảo, Cao Đài vốn là các tổ chức do Pháp đứng sau hỗ trợ nhằm chống lại ông, tiếp đó là cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955 đã chấm dứt chính thể quốc gia Việt Nam – quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế. Chính thể mới Việt Nam Cộng Hoà được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 và ông được bầu làm Tổng thống vào ngày 23 tháng 10 năm 1955. Hai năm sau, 1957 ông có chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ lần đầu tiên với cương vị tổng thống của Việt Nam Cộng Hoà. TT Dwight Eisenhower đích thân ra tận phi cơ đón chà 24 phát súng đại bác đón chào TT Việt Nam Cộng Hoà. TT Eisenhower ca ngợi TT Diệm là Churchill Châu Á. TT Việt Nam Cộng hoà đọc diễn văn trước Quốc hội Hoa Kỳ tất cả Nghị Sĩ đứng dậy vỗ tay rầm trời trước câu nói bất hủ của TT VNCH: “Nếu Hồng quân Trung Hoa vuợt vĩ tuyến 17 muốn nhuộm đỏ Miền Nam, biên giới của Mỹ Quốc và Thế giới tự do sẽ kéo dài đến vĩ tuyến 17″. Vị Quốc Vong Thân: 2.11.1963 Sự kiện Phật Đản, 1963 tại Huế do Thượng toạ Trí Quang xách động xảy ra là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới chính phủ TT Kennedy bỏ rơi TT Ngô Đình Diệm và khuyến khích đảo chính để lật đổ nền đệ nhất Cộng hoà, đã đưa Miền Nam đến tình trạng hỗn loạn. Cuộc đảo chính diễn ra vào lúc 11h30 ngày 01 tháng 11 năm 1963, lực lượng đảo chính đã chiếm dinh tổng thống, ông và Ngô Đình Nhu ra khỏi dinh và về lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam – Chợ Lớn. Sau khi bị lật đổ bởi các Tướng Lãnh dưới quyền (mà TT Diệm từng gắn sao trên cổ áo cho họ) ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông cùng em trai – cố vấn Ngô Đình Nhu lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam, ông cùng với ông Nhu gọi điện chấp nhận bàn giao chính quyền cho các Tướng Đảo chánh để tránh tình trạng chia rẽ quân đội trong công cuộc chống cộng. (Tôi hoàn toàn có chứng cớ là TT Diệm có thể lật ngược thế cờ tiêu diệt các Tướng phản loạn, nhưng Ông không làm. Cố vấn Nhu đành thúc thủ. Nên nhớ Lữ đoàn phòng vệ Phủ TT thiện chiến trung thành có thể đánh tan cả sư đoàn bộ binh. Các binh sĩ trang bị tiểu liên M.2, súng diệt chiến xa, súng phòng không hạ chiến đấu cơ, oanh tạc cơ, một chi đoàn thiết giáp M.113. Tư lệnh Lư đoàn đã từng vị Trung đoàn trưởng trẻ nhất QLVNCH khi 25 tuổi (1961) nhưng nhận lệnh bàn giao, họ đã bật khóc uất hận. Đây là một sai lầm của TT vì quá nhân đức!) Trên đường bị chở về Bộ Tổng tham mưu, ông và Ngô Đình Nhu bị một thiếu tá trong lực lượng đảo chính hạ sát dã man. Trong khoảng thập niên 1980, CS ra lệnh dời. Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi được di dời về nghĩa trang Lái Thiêu ngày nay. Mộ hai ông nằm hai bên mộ thân mẫu, bà Phạm Thị Thân, ngoài ra, mộ ông Ngô Đình Cẩn cũng được dời về gần đó. Mộ hai ông ban đầu không có tên mà chỉ ghi tên thánh và “Huynh” (chỉ ông Diệm) hoặc “Đệ” (ông Nhu), sau đó, theo đề nghị của một số người, mộ đã được đề đích danh. Bài học Lịch Sử: “Bài học lịch sử quan trọng và thiết thật nhất mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã để lại cho chúng ta: Đó là lập trường cương quyết Bảo Vệ Chủ Quyền Quốc Gia. Tổng Thống Diệm là con người đã hy sinh cả cuộc đời để tranh đấu cho độc lập và chủ quyền quốc gia. Đối với ông, đó là những thứ thiêng liêng nhất, không thể bị hy sinh, không thể dùng để đổi chác với cứ điều gì. Với ông, nếu để người Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam, thì chủ quyền quốc gia sẽ bị xâm phạm, chính nghĩa cuộc tranh đấu chống cộng cũng mất. Trong cuộc viếng thăm chính thức Việt Nam ngày 9 tháng 5 năm 1961, Phó Tổng Thống Mỹ Johnson đã đề nghị việc gửi Quân Đội Mỹ sang tham chiến tại Việt Nam. Tổng Thống Diệm đã bày tỏ quan điểm chính phủ Việt Nam rất biết ơn sự viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ. Nhưng với việc gửi Quân Đội Mỹ đến Việt Nam ông đã cương quyết từ chối và nói: - “Nếu Qúy Vị mang Quân Đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi? Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân Đội Viễn Chinh Pháp còn hằn sâu trong tâm trí họ. Sự hiện diện của Quân Đội Mỹ sẽ làm cho dân chúng dễ dàng tin theo những lời tuyên truyền của cộng sản. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam, vì làm cho cuộc chiến đấu của chúng ta mất chính nghiã”. Và như chúng ta đã biết thái độ cương quyết từ chối này đã là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc chính biến ngày 1 tháng 11 năm 1963 của một nhóm tướng lãnh phản loạn và cái chết thê thảm của chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Bài học lịch sử thật đắt giá, dã man và tàn bạo!! Sự vĩnh viễn ra đi của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã gây xúc động sâu xa và niềm thương cảm lớn lao nơi các lãnh tụ Á Châu thời đó. Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã than thở: - “Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp. Tôi khâm phục ông Diệm. Ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu. Việt Nam có lẽ phải mất 100 năm nữa mới tìm được một nhà lãnh tụ cao qúy như vậy”. Hơn nữa, cái chết của Cố Tổng Thống Diệm cũng đã làm cho các lãnh tụ Á Châu, đồng minh của Mỹ phải giật mình và đặt vấn đề. Chính Tổng Thống Hồi Quốc, Ayub Khan, đã nói thẳng với Tổng Thống Nixon: - “Cuộc thảm sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã khiến các lãnh tụ Á Châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Đồng Minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hữu ích hơn nữa khi là kẻ thù của Hoa Kỳ”. Tổng Thống Ngô Đình Diệm có thể đã phạm một số sai lầm khi cầm quyền. Nhưng bất cứ người nào, dù là đồng minh như Hoa Kỳ hoặc đối thủ như CS, cũng phải công nhận rằng Tổng Thống Diệm là một nhà lãnh tụ nhiệt tình yêu nước, thương dân, trong sạch, khí phách và không làm cho người dân Việt phải hổ thẹn, vì ông đã cố bảo vệ đến cùng thể diện và uy quyền quốc gia. Không một gia đình Việt Nam nào đã phải hy sinh quá nặng nề như thế cho Dân Tộc, mất một lần bốn người con ưu tú: một vì tay cộng sản và ba vì tay quốc gia!! Trên 46 năm qua, hai nấm mồ khiêm tốn của Tổng Thống và ông Cố Vấn nằm quạnh hiu nơi nghĩa trang Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương là một bài học lịch sử qúy giá cho thân phận nước nhược tiểu đứng lên chống đế quốc, chống CS. Nhưng chắc chắn mãi mãi vẫn là của lễ vô giá dâng trên Tổ Quốc. Tài Liệu Tham Khảo Mỹ – Việt – Hà Nội - Người Mỹ trầm lặng – The Quiet American (1955) - Cao Đài Tài liệu tham khảo - F Hill, Millenarian Machines in Vietnam, Comparative Studies in Society and History, 13, July 1971, trang 325-350. - Nhị Lang, Phong trào kháng chiến Trình Minh Thế/The resistant movement of Trình Minh Thế, Virginia, USA, Alpha, 1989 - Sergei Blagov, Honest Mistakes: The Life and Death of Trình Minh Thế, Nova Science Publishers, Inc, Huntington, New York, 2001 . - Chân dung Ngô TT: Linh mục Trần Quí Thiện. - John Cooney, The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, A Dell Book, New York. Dennis Bloodworth (1970), An Eye For The Dragon, Farrar Publisher, Straus & Giroux, New York, p. 209. Cố tổng thống Ngô Đình Diệm với những bài học lịch sử - They Shoot Allies, Don’t They? When 25 Years Ago, Ngo Dinh Diem Was Assassinated. His Supporters Blamed the United States. They Were Right, Assassin in our Time; (kẻ sát nhân trong thời đại chúng ta). Sandy Lesberg - A death in November (Cái chết vào tháng 11) Ellen J . Hammer. Tài liệu Lục quân Hoa Kỳ: - Cuốn băng ghi âm của TT Lyndon B. Johnson. - Quân sử Hà Nội . - Hồi ký: Đại tá Nguyễn Hữu Duệ Tư lệnh phó, Quyền tư lệnh Lữ đoàn phòng vệ phủ TT :1.11.1963 |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162516 · Replies: 0 · Views: 4,981 |
Posted on: Jun 5 2019, 03:40 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
5G Nghĩa Là Gì ?? Trước tiên, xin mạn phép giải nghĩa cho những người bình thường, ít quan tâm đến những thuật ngữ. Chữ G trong 2G, 3G, 4G và 5G mà chúng ta thường nghe gần đây, là viết tắt của chữ Generation, nghĩa là thế hệ. 5G là thế hệ thứ 5 của công nghệ điện thoại di động. Cũng có nghĩa rằng nó là một bước tiến mới của một công nghệ đã có từ cách đây vài chục năm, chứ không phải là một phát minh mới mẻ gì - như cách mà một số bài báo hoặc cá nhân thường hay ca ngợi, rằng Huawei là một hãng dẫn đầu trong công nghệ này. Thực tế là họ chỉ sản xuất và bán hàng giá rẻ hơn rất nhiều so với các đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực mà thôi. Bạn nào muốn phản bác điều này và cho rằng Huawei là nhà phát minh hàng đầu đối với 5G thì tôi xin có lời khuyên là, hãy tìm hiểu về các sản phẩm cũng như giải pháp công nghệ của hãng Cisco, rồi tìm hiểu thêm xem Huawei có sử dụng bao nhiêu phần trăm công nghệ của Cisco - trước khi phản bác những điều tôi vừa nói. KHÁC BIỆT GIỮA 5G VÀ CÁC THẾ HỆ TRƯỚC ĐÓ Với ước muốn nội dung của bài viết được mọi giới đón đọc rộng rãi, không phân biệt nghành nghề. Tôi sẽ không đi quá sâu vào chi tiết mà chỉ nhấn mạnh vào những thứ căn bản nhất để mọi người cùng hiểu về 5G. Cái khác căn bản nhất về mặt kỹ thuật, là mỗi khi chúng ta dùng điện thoại để truyền đi một cái gì đó, như âm thanh hoặc hình ảnh, thì cái điện thoại sẽ mã hóa cái ta muốn truyền, trước khi phóng chúng vào không trung. Nói một cách dễ hiểu là những hình ảnh và âm thanh ấy được "phiên dịch" sang một loại "ngôn ngữ" trước khi truyền đi trong không gian. Các trụ antenna sẽ nhận những thông tin đã được mã hóa rồi truyền đi tiếp, ở phía người nhận thì cái điện thoại của họ sẽ nhận rồi "phiên dịch" ngược trở lại, cho ra âm thanh hoặc hình ảnh như lúc ban đầu. Các thế hệ của công nghệ điện thoại di động đều sử dụng các loại " ngôn ngữ" khác nhau. "Ngôn ngữ" của mỗi thế hệ mới đều được cải tiến và phát triển để có thể chuyển tải nhiều hơn loại "ngôn ngữ" thường dùng của những thế hệ trước đó. Các máy điện thoại đời mới thì phải có khả năng tương thích ngược, nghĩa là biết nghe và hiểu loại ngôn ngữ của thế hệ trước đó, trong khi những loại điện thoại của thế hệ trước thì không có khả năng này. Đó là lý do mà một cái điện thoại 4G có thể bắt được sóng 4G nếu ở trong vùng phủ sóng 4G, nhưng khi ra khỏi vùng phủ sóng 4G thì nó tuột xuống thành 3G hoặc 2G. Điện thoại 2G thì dù có ở giữa vùng phủ sóng 4G, cũng chỉ có thể gửi và nhận thông tin ở tầm 2G mà thôi. SAO CÁC NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ KHÔNG DÙNG NHỮNG TRỤ THU PHÁT SÓNG ĐÃ CÓ SẴN ? Mỗi một thế hệ của công nghệ thông tin di động đều sử dụng một vài loại tầng số khác nhau. Riêng với thế hệ thứ 5 này, sóng thu phát của nó có đặc điểm là không thể đi xa như các thế hệ trước đó mà chỉ giới hạn trong phạm vi vài trăm thước mà thôi, như một thứ luật bù trừ cho khả năng truyền dữ liệu nhanh và nhiều của nó. Các điểm thu phát sóng, tức các trụ antenna, đối với những thế hệ trước đây, là những tháp cao ngất hàng trăm mét và to lớn, có khả năng phát sóng đến vài kilomet, thì ở thế hệ thứ 5 này, các trụ thu phát sóng sẽ nhỏ hơn và được gắn trên những cột đèn điện dọc theo đường phố - và thật nhiều. Đây cũng sẽ là khuyết điểm của công nghệ 5G. Dân cư bên ngoài những thành phố lớn sẽ khó mà có cơ hội được sử dụng loại đường truyền internet thế hệ mới này. Một hệ thống antenna thu phát sóng của 5G sẽ cần đến hàng ngàn antenna nhỏ thay vì chỉ vài trụ antenna to lớn như hiện nay. Lắp đặt và nhất là bảo dưỡng hệ thống này tốn kém hơn nhiều so với các thế hệ trước đó. Đó cũng chính là lý do mà người Mỹ đã nghiên cứu và phát triển một cách thức truyền tải thông tin mới, đưa các trạm thu phát sóng lên không gian, thay vì gắn chết dưới mặt đất. Google thử nghiệm bằng các khinh khí cầu, rồi đến Facebook với những loại máy bay không người lái cỡ nhỏ xài năng lượng mặt trời và bây giờ là SpaceX với các vệ tinh mini. Trong lúc Trung cộng vẫn loay hoay với các trụ thu phát sóng gắn dưới mặt đất và bị hạn chế trong những thành phố lớn. Đó là lý do mà trong một bài viết cách đây mấy ngày, tôi đã mĩa mai rằng người Tàu bay lên mặt trăng chỉ để ... trồng khoai lang. 5G CÓ CẦN CHO VIỆT NAM HAY KHÔNG ? NGƯỜI VIỆT CÓ CẦN ĐẾN 5G HAY CHƯA ? Từ nhiều tháng qua, chắc các bạn đã đọc rất nhiều những bài báo nói về 5G, thậm chí là có tin 5G đang được thử nghiệm ở Hà Nội. Như đã nói ở đầu bài, tôi sẽ tránh đi quá sâu vào chi tiết với những từ chuyện môn như tốc độ Gb là gì và nó nhanh cỡ nào. Chỉ xin được đơn giản hóa bằng cách thí dụ để so sánh. Mang 5G, nếu hiện giờ được phát triển ở VN thì cũng không khác nào việc xây dựng đường cao tốc cho bò đi như một số nơi ở ngoài Bắc hiện nay. Có bao nhiêu người VN hiện nay đang có nhiều hơn một chục thiết bị thông minh, luôn kết nối với internet tại nhà? Không phải tôi có ý xem thường người dân Việt, nhưng đây lại là sự thật. Có bao nhiêu người ở VN đang xài Ring hay các sản phẩm tương tự ( Một thứ chuông cửa có video và thường trực kết nối internet). Có bao nhiêu người có mỗi phòng trong nhà một cái TV và mỗi cái TV đều có Chromecast hoặc Roku hay Apple hoặc Fire Stick để xem phim độ phân giải cao trực tuyến? Có bao nhiêu gia đình VN hiện tại đang trang bị những thiết bị như Amazon Echo hay Google Home nhận lệnh bằng giọng nói? Có bao nhiêu thiết bị Nest dùng cho hệ thống máy lạnh và sưởi tự động trong nhà ở VN hiện nay? Bao nhiêu gia đình có nhà để xe trang bị cửa đóng mở bằng hệ thống điều khiển qua Internet ? Tất cả những thứ mà tôi vừa kể là những món vật dụng của thời đại Vạn Vật Kết Nối (Internet of Things). Ở giai đoạn đầu tiên của thời đại này, trung bình mỗi nhà sẽ có khoảng vài chục thiết bị luôn được kết nối với mạng internet ở tốc độ cao. Chuyện này chưa hiện hữu ở VN, dù cho chúng ta đã có vài chục triệu người đang xài FB. Cũng cần biết rằng, hiện có khoảng phân nửa dân số Mỹ vẫn đang xài 3G chứ khoan nói tới 4G, huống hồ gì chuyện 5G? Ngay cả người viết bài này, vốn đang sinh sống tại một thành phố lớn, thủ phủ của một tiểu bang lớn nhất nhì nước Mỹ, bao vây bởi các đại công ty như IBM, Samsung và là nơi tập trung của nền công nghệ kỹ thuật cao, vậy mà chỉ cần ra xa lộ chạy vài chục cây số thì vẫn có khả năng rớt vào khu vực chỉ có mạng 2G mà thôi. Cơn sốt 5G dâng cao độ, phần lớn đến từ nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của những đại công ty và các chiến dịch quảng cáo của họ. Vào những ngày đầu của tháng 6 năm 2019 này, hiện giờ thị trường thế giới cũng chỉ có chưa tới 10 loại điện thoại có trang bị 5G. iPhone XI của Apple sắp sửa ra mắt cũng sẽ không có 5G. Trong toàn bộ những vật dụng linh tinh của thời đại Vạn Vật Kết Nối. Thứ quan trọng nhất cần phải có 5G chính là những loại xe tự động lái vì chúng có nhu cầu "nói chuyện và trao đổi thông tin" với nhau ngay lập tức trên đường phố và 5G thỏa mãn được điều này. Một hệ thống đường phố với hàng ngàn chiếc xe cần phải luôn luôn và lập tức kết nối với nhau để tránh gây ra tai nạn. Các trụ antenna thu phát sóng dày đặc theo cột đèn đường và trụ điện, luôn kết nối với nhau ở trong một chu vi thật gần, bảo đảm được cho mạng lưới này, thay vì hành khách của những chiếc xe không người lái phải đánh cược mạng sống của họ vì nguy cơ bị mất sóng từ những tháp antenna truyền thống, vốn ở xa hàng kilomet và luôn bị các tòa nhà cao tầng cản trở. Tóm lại, với nhu cầu kết nối vài cái điện thoại, dăm cái máy tính bảng, thêm cái TV và máy tính để bàn. Người VN chưa cần đến mạng 5G trong một tương lai có thể nhìn thấy được. Hãy nhớ lại cái thí dụ của đường cao tốc và những con bò. Còn Huawei với những lời ca tụng lẫn hăm dọa, rằng họ sẽ thống trị và dẫn đầu thế giới với công nghệ 5G ? Hãy để cho người Tàu được vui với giấc mơ của họ. Có câu "Ước mơ không bị đánh thuế, hoặc không tốn tiền.". Hãy tin tôi, riêng giấc mơ 5G của người Tàu sẽ tốn bộn bạc chứ không ít đâu. Huyen Dao Khach. |
Forum: KIẾN THỨC TIN HỌC · Post Preview: #162511 · Replies: 0 · Views: 5,498 |
Posted on: Mar 28 2019, 12:20 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Sài Gòn, La De vài hột …Ghé vào quán nhậu gần nghĩa trang quân đội, ông bắt gặp một người lính đang ngồi uống bia một mình, trên bàn đặt hai ly bia. Anh lính vừa đi đưa đám bạn mình. Nâng ly, rồi cụng ly, rồi uống… Cứ thế, người lính uống với cái bóng của bạn mình, cho tới khi gục xuống bàn. Nhà điêu khắc lặng lẽ quan sát. Ông bắt được cái “thần sắc” nỗi buồn trên khuôn mặt, trên đôi mắt của người say nhớ bạn…. Thâu đêm ròng rã kêu ai đó Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ (Tiếng cuốc kêu – Nguyễn Khuyến) Lần đầu tiên nếm mùi bia 33 là hồi tôi mới đậu Tú tài. Thằng bạn và tôi rủ nhau đi Vũng Tàu, uống cà phê ở Bãi Trước, ngắm biển và ngắm… người (nữ). Chưa biết nhậu nhẹt, nên chỉ có thế cho bõ công đèn sách. Trên đường về lại Sài Gòn, thằng bạn rủ ghé ông anh nó đang đóng quân đâu đó ở Biên Hòa. Đàn anh chơi đẹp, dẫn hai thằng đệ “tân khoa tú tài” đi nhậu lề đường. Sài Gòn đổi tên, con cọp mất tích, chẳng ai còn nhắc đến La De con cọp. Gọi bia 33, ba anh em nâng ly, nốc một nhát cạn ly. Nửa ngọt, nửa cay, hương thơm, vị đắng. Bia mát lạnh, ngoài mặt nhăn nhó, nhưng trong bụng sảng khoái vô cùng. Hồi lâu, ông anh ngập ngừng: “Uống chút băm ba cho biết mùi đời. Giữa tháng, anh hết ‘đạn’ rồi, hai chú chịu khó làm tiếp ‘nước mắt quê hương’ cho… chóng lớn!”. Nước mắt quê hương mà ổng nói là rượu đế. Tình dang dở khó quên. Sảng khoái dang dở cũng không ngoại lệ, huống chi đó lại là ấn tượng sảng khoái bia bọt thuở ban đầu. Sau này đám bạn đi lính về phép, lại kéo nhau ra quán nhậu bù khú. Ít tiền thì La De con cọp, nhiều tiền thì bia 33. Bia 33 là loại bia sang nhất hồi đó do hãng BGI sản xuất, và đây cũng là hãng bia duy nhất của miền Nam. Hãng chỉ sản xuất có hai loại bia: chai lớn dung tích 66 phân khối và chai nhỏ 33 phân khối. Ngôn ngữ thường được sáng tạo nơi bàn nhậu, mà bàn nhậu đã sáng tạo thì không thể thay đổi. Chai nhỏ, dân nhậu gọi là bia băm-ba, chẳng ai buồn gọi cho đúng “phép tắc” là ba-mươi-ba. Còn bia chai lớn, gọi là La De con cọp. Gọi thế là vì nhãn chai có in hình đầu con cọp lớn. Còn chữ La De, thì có người giải thích là do chữ Larue, tên của người sáng lập hãng, đọc nhanh thành ra La De. Giải thích thế thì biết thế, nhưng nghe hơi gượng ép. Bia 33 tuy nhỏ, nhưng có độ cồn cao hơn, hương đậm và vị đắng hơn La De con cọp chai lớn. Tôi nhớ, giá bán hai loại bia này cũng sàn sàn như nhau. Như nhau, nhưng thiệt ra đắt hơn, vì dung tích chai bia 33 chỉ bằng một nửa so với chai bia lớn. Hồi đó, lính Mỹ thích bia 33 hơn bia Mỹ cũng vì hương vị đậm đà này. Cách nay vài năm ra nước ngoài chơi, ghé vào hiệu sách, tôi thấy có quyển hồi ký của một trung úy Mỹ đã từng có mặt ở Việt Nam. Lướt thử vài trang, thấy chú GI này cũng nói đến bia 33 mà lính Mỹ rất ưa chuộng. Cái bóng đầu cọp in trên cổ chai là logo của BGI, chai lớn chai nhỏ đều có. Dù chỉ là cái bóng, nhưng cũng đủ cho các chú GI khoái chí gọi bia 33 theo tiếng lóng là “nước đái cọp” (tiger piss). Anh lính viết hồi ký này còn bốc lên rằng, bia 33 được làm từ gạo. Làm bia từ gạo chỉ đúng một phần thôi. Về nguyên tắc thì ngũ cốc nào cũng đem làm bia được, nhưng trước khi lên men, phải malt hóa chúng, nghĩa là ngâm nước để ngũ cốc nảy mầm. Ngũ cốc nảy mầm mới tạo ra nhiều enzyme để cắt tinh bột thành đường. Từ đường mới lên men thành bia (rượu) được. Trong các loại ngũ cốc, thì lúa mạch (barley) tạo ra nhiều enzyme nhất. Làm bia không thể thiếu lúa mạch. Vì lúa mạch đắt, nên người ta phải “độn” thêm các loại ngũ cốc khác sẵn có ở địa phương như lúa mì, gạo, bắp… để giảm giá thành. Có thể hồi đó hãng BGI đã “độn” thêm gạo để làm bia, nhưng chủ yếu vẫn phải là lúa mạch. Những năm sau 75, hãng BGI rút về nước, làm gì có đủ lúa mạch để làm bia. Phải độn thêm, rồi độn thêm nhiều ngũ cốc hơn nữa. Nhưng ngũ cốc loại gì? Cơm gạo cho người ăn còn không đủ, thì gạo đâu mà dành cho bia, không chừng còn độn bo bo, khoai bắp cũng nên. Bia Sài Gòn hồi đó uống có vị ngai ngái. Ngai ngái nhưng thuộc hàng quý hiếm trong những năm tháng đó. Dân Sài Gòn nhâm nhi ly bia ngoài quán hay vỉa hè cũng ít khi ồn ào, chỉ xù xì nói chuyện, nhìn phố người qua kẻ lại, chứ không nâng ly cụng chén “dzô dzô”. Mồi đơn giản thường là đậu phộng, hột vịt lộn, khô bò, khô mực… Nhậu “dữ ” hơn thì xài tới rượu đế, với các món chiên xào bếp núc. Hạng cao cấp, sang trọng thì vô nhà hàng với Chivas, “Ông già chống gậy”… Hạng này, miễn bàn. Còn thứ sinh viên như bọn tôi, dạy kèm rủng rỉnh chút tiền, ra quán vỉa hè làm vài chai La De con cọp, sang hơn thì gọi bia 33 cho ra cái vẻ… sành điệu vậy thôi. Chỉ có những thằng bạn đi lính, thứ gì cũng uống, thức nào cũng ăn, già dặn trưởng thành sau những lần về phép thấy rõ. Mà có tiền nhâm nhi ly bia đã là khá bảnh rồi, chứ của đâu mà uống cho tới xỉn. Nhưng có câu chuyện (thiệt) về cái “thần” của người uống bia tới xỉn mà tôi đọc được, kể ra đây nghe chơi: Một điêu khắc gia được yêu cầu tạc một bức tượng để đặt ở nghĩa trang. Ông nghĩ hoài không biết tạc cái gì, nên đi vào nghĩa trang quân đội (Sài Gòn) ở Hạnh Thông Tây để quan sát tìm cảm hứng. Ghé vào quán nhậu gần đó, ông bắt gặp một người lính đang ngồi uống bia một mình, trên bàn đặt hai ly bia. Anh lính vừa đi đưa đám bạn mình. Nâng ly, rồi cụng ly, rồi uống… Cứ thế, người lính uống với cái bóng của bạn mình, cho tới khi gục xuống bàn. Nhà điêu khắc lặng lẽ quan sát. Ông bắt được cái “thần sắc” nỗi buồn trên khuôn mặt, trên đôi mắt của người say nhớ bạn. Bức tượng hoàn thành, được đặt ở nghĩa trang Biên Hòa. Hồi đó, người ta đồn, đêm đêm bức tượng đến nhà dân quanh đó, gõ cửa xin nước uống… Sau năm 75, bức tượng không còn nữa. Chiến tranh đau thương mất mát buồn lắm. Trải qua mới thấm. Ngoài La De con cọp và bia 33 một mình một chợ, tôi không thấy nhãn hiệu bia nào khác trên thị trường nữa. Bia BGI một thời tung hoành, và nghe nói còn xuất cảng đi những đâu nữa đấy. Trên nhãn bia 33, tôi còn nhớ ghi “Export”. Sau năm 75, Sài Gòn đổi tên, con cọp mất tích, chẳng ai còn nhắc đến La De con cọp một thời, nhưng nhãn hiệu bia 33 thì còn. Ông chủ mới chỉ thêm một con số 3 nữa, thành bia 333, thương hiệu còn cho đến bây giờ. Dân Sài Gòn vẫn gọi đó là bia “băm ba”. Ba mươi ba dân nhậu còn chả gọi, huống gì ba trăm ba mươi ba. Thay chủ, thay tên thì chất lượng bia cũng khác, nhưng chẳng ai phàn nàn. Bia bọt là hàng xa xí phẩm lúc đó. Chạy chọt tem phiếu, chen lấn để mua được ly bia hơi thì cũng… tàn hơi. Có khi cửa hàng còn bắt chẹt, phải mua kèm mồi. Uống rượu đế thì cay xè, vào nửa ly xây chừng là bốc hỏa lên rồi. Nhưng sau 75, thì chẳng còn phân biệt gì nữa. Bia hơi là “deluxe”, là “premium quality”. Thường nhật chỉ còn rượu đế, rượu Cây lý, rượu Gò Đen… Bia thì là loại bia lên cơn, lên men từ vỏ thơm, cùi khóm ruồi nhặng bu đầy… Uống chỉ để uống, uống để quên đời. Uống tạp như thế, không hiểu sao giờ này vẫn còn sống để… viết. Những đầu thập niên 90, tôi làm công việc dịch tài liệu, và điểm báo cho một cơ quan xúc tiến ngoại thương, chung với anh Phan Tường Vân. Làm từ trưa tới chập tối là xong, nhưng hai anh em thường nán lại, bù khú với nhau, chỉ một, hai chai bia Sài Gòn xanh với hột vịt lộn, kéo dài có khi đến khuya mới về. Anh Vân chuyên về kinh tế, trước 75 làm việc trong chính quyền Sài Gòn, nên bao chuyện thâm cung bí sử cứ rù rì tuôn ra. Bia Sài Gòn nhạt, nhưng ký ức cứ chảy ngược, dòng đời vẫn chảy xuôi. Anh Phan Tường Vân mất cũng hơn mười năm rồi… Đời cọp thăng trầm từ sau 75, sống kiếp lưu vong, cũng bị buôn qua bán lại nhiều đời chủ. Rồi đâu đó cũng cỡ đầu những năm 90, cọp quay lại Việt Nam, cũng là tên hãng BGI, nhưng đã bán cho chủ hãng bia khác, lớn hơn. Sài Gòn lạnh nhạt, cọp về nương náu ở Mỹ Tho. Cọp tái xuất giang hồ, nhưng dân Sài Gòn chỉ gọi là bia con cọp. Dĩ vãng đã giữ chặt hai chữ La De mất rồi. Bia Con cọp và La De có gì khác nhau? Cũng chai nâu lớn, cũng đầu cọp, cũng Larue BGI, nhưng dân nhậu đồn rằng bia con cọp uống vào nhức đầu. Nhức đầu là do nguồn nước ở Mỹ Tho không thích hợp để làm bia? Tôi không biết nguồn nước có phải là nguyên nhân, và bia có thực sự làm nhức đầu hay không. Nhưng với trò chơi thương trường thì điều gì cũng có thể. Các hãng mua lại BGI cũng đều là hãng bia “đồng nghiệp” với nhau cả. Họ mua, đâu chỉ là mua nhà máy, mà mua cả thương hiệu, kênh phân phối, phân khúc khách hàng… Vẫn là con cọp, nhưng ruột cọp thế nào, chủ mới dư sức biến hóa công thức. Hồi đó, miền Nam chỉ có duy nhất một hãng bia là BGI, và BGI cũng chỉ có một nơi duy nhất để sản xuất bia nằm ở đường Trần Hoàng Quân (nay là Nguyễn Chí Thanh, quận 5). Bây giờ thì nhiều hãng bia với cả vài chục nhà máy sản xuất, rót hơn bốn tỉ lít bia cho non một trăm triệu dân, tính luôn đàn bà và trẻ em… Cọp hồi hương làm khách nhức đầu thì cọp cũng nhức đầu. BGI đổi chủ, rồi lại đổi chủ nữa, nhưng đầu cọp thì vẫn còn, thương hiệu 33 vẫn còn, thế nhưng văn hóa nhâm nhi ly bia liệu có còn? “Con cọp” lạc lõng giữa văn hóa tiếp thị, chân dài chân ngắn trong những quán nhậu đông người. Bia ngon bia dở khó luận, nhưng chắc trong bia có phần ký ức. Ừ, thì đôi lúc cũng phải La De vài hột, rồi như khách giang hồ lục tìm trong ký ức, mới thấy đời người còn biết bao điều dở dang, nuối tiếc. Có khác gì tiếng cuốc đêm hè đâu, phải thế không? Vũ Thế Thành Xuân Mậu Tuất, 2018 |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162297 · Replies: 0 · Views: 3,149 |
Posted on: Mar 12 2019, 10:38 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Thiếu tướng VNCH TRẦN BÁ DI có xứng đáng với 6 chữ tổ quốc danh dự trách nhiệm của quân lực VNCH? Tiểu sử Sinh 20 tháng 7 năm 1931 Mỹ Tho, Việt Nam Mất 23 tháng 3 năm 2018 (87 tuổi) Orlando, Florida, Hoa Kỳ Binh nghiệp Phục vụ Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hòa Thuộc Flag of the South Vietnamese Army.jpg Quân lực VNCH Năm tại ngũ 1951-1975 Cấp bậc US-O8 insignia.svg Thiếu tướng Đơn vị SuDoan9.jpg Sư đoàn 9 Bộ binh Sư đoàn 21 Bộ binh QD IV VNCH.jpg Quân đoàn IV và QK 4 Hiệu kỳ Trung tâm Huấn luyện Quang Trung.png TTHL Quang Trung Chỉ huy Flag of France.svg QĐ Liên hiệp Pháp Flag of the Vietnamese National Army.svg Quân đội Quốc gia Flag of the South Vietnamese Army.jpg Quân lực VNCH Tham chiến Chiến tranh Việt Nam Khen thưởng VPD National Order of Vietnam - Commander BAR.png B.quốc H.chương III[1] Công việc khác Tỉnh trưởng Trần Bá Di (1931), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân do Chính phủ Quốc gia Việt Nam được sự hỗ trợ của Quân đội Pháp mở ra tại nam Cao nguyên Trung phần, chuyên đào tạo sĩ quan hiện dịch để phục vụ cho Quân đội Quốc gia trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Ông đã bắt đầu với chức vụ Trung đội trưởng Bộ binh cho đến Tư lệnh phó một Quân đoàn. Ngoài ra, trong thời gian phục vụ quân đội, ông còn được bổ nhiệm vào các chức vụ ở những lĩnh vực khác như Hành chính Quân sự,[2] Quân huấn.[3] Mục lục 1 Tiểu sử & Binh nghiệp 1.1 Quân đội Liên hiệp Pháp 1.2 Quân đội Quốc gia Việt Nam 1.3 Quân đội Việt Nam Cộng hòa 2 1975 3 Huy chương 4 Gia đình 5 Chú thích 6 Tham khảo Tiểu sử & Binh nghiệp Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm 1931, trong một gia đình giáo chức tại Mỹ Tho, miền tây Nam phần, Việt Nam. Năm 1944, khi lên Trung học đệ nhất cấp, ông học ở trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho đến năm 1949 thi đậu bằng Thành Chung. Sau đó, tiếp tục học lên Trung học Đệ nhị cấp chương trình Pháp ở trường Trung học Lê Quý Đôn, Sài Gòn. Năm 1951, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II). Quân đội Liên hiệp Pháp Giữa năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/121.114. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được điều động về Tiểu đoàn 61 Việt Nam giữ chức vụ Trung đội trưởng, đồn trú tại Đức Hòa, Chợ Lớn. Quân đội Quốc gia Việt Nam Tháng 10 năm 1952, từ Quân đội Liên hiệp Pháp chuyển sang Quân đội Quốc gia, ông được điều động trở lại trường Võ bị Đà Lạt nhận nhiệm vụ làm Huấn luyện viên khóa 8 Hoàng Thụy Đông. Đến tháng 6 năm 1953, ông chuyển đi làm Chỉ huy phó kiêm Trưởng ban 3 Chi khu biệt lập Mỹ Tho thuộc Phân khu Mỹ Tho. Tháng 4 năm 1954, ông được thăng cấp Trung úy, giữ chức vụ Liên đội trưởng Liên đội 4 thuộc Trung đoàn 2 Vệ binh Nam Việt kiêm Chi khu trưởng Chi khu Chợ Gạo và Chi khu biệt lập Mỹ Tho. Tháng 8 cùng năm, ông được đặc cách thăng cấp Đại úy và được chỉ định làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 582 thuộc Trung đoàn Địa phương 134, kiêm Tiểu khu trưởng Gò Công thuộc Phân khu Mỹ Tho. Quân đội Việt Nam Cộng hòa Sau một thời gian chuyển sang cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa (cuối tháng 10 năm 1955, cải danh từ Quân đội Quốc gia). Tháng 6 năm 1956, ông được cử làm phó Phòng 3 trong Bộ tư lệnh Đệ nhất Quân khu Sài Gòn. Giữa năm 1957, ông được cử giữ chức vụ Trưởng phòng 3. Tháng 10 cùng năm, được cử đi du học khóa Bộ binh cao cấp tại trường Fort Benning, Tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Tháng 4 năm 1958 mãn khóa về nước, ông được cử làm Trưởng phòng 3 Liên Quân khu I + V và Thủ đô Sài Gòn. Đến tháng 9 năm 1959, ông được chỉ định làm Phó Tỉnh trưởng Nội an tỉnh Phong Dinh kiêm Chỉ huy trưởng Cơ quan Quân sự[4] Phong Dinh thuộc Quân khu V. Tháng 7 năm 1961, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Tháng 9 cùng năm, thuyên chuyển trở về đơn vị Bộ binh, ông được cử giữ chức vụ Chỉ huy Trung đoàn 33 thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh thay thế Thiếu tá Đặng Đình Thụy[5]. Đến đầu năm 1963, ông được chuyển trở lại Cần Thơ<[6] và được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Phong Dinh. Tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm. Đầu tháng 1 năm 1966, ông được cử đi du học lớp Tham mưu cao cấp (khóa 1966 - 1) thụ huấn 16 tuần[7] tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ[8]. Đến tháng 6 cùng năm mãn khóa về nước, ông được chỉ định làm Tham mưu trưởng trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh đóng tại Sa Đéc thay thế Trung tá Khưu Ngọc Tước.[9] Tháng 3 năm 1967, ông được cử làm Phó Tư lệnh Sư đoàn 9 thay thế Trung tá Đặng Đình Thụy. Tháng giêng năm 1968, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Sau đó, ông chuyển về Cần Thơ giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật. Tháng 7 cùng năm, một lần nữa ông trở lại Sa Đéc và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Lâm Quang Thi được cử đi làm Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia tại Đà Lạt. Tháng 4 năm 1970, ông được đặc cách ở mặt trận thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Đến tháng 4 năm 1971, ông được cử làm Trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn gồm 37 quân nhân các cấp xuất sắc, thăm viếng Trung Hoa Quốc gia (Đài Loan) trong thời gian 1 tuần lễ. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, một lần nữa ông được đặc cách ở mặt trận thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Hạ tuần tháng 10 năm 1973, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh lại cho Chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc (nguyên Tham mưu trưởng Quân đoàn IV). Tháng 12 cuối năm, ông được chỉ định giữ chức vụ phó Tư lệnh Quân đoàn IV thay thế Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng được xét cho giải ngũ. Ngày quốc khánh 1 tháng 11 năm 1974, ông thuyên chuyển về Sài Gòn và được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Quân trường Quang Trung thay thế Thiếu tướng Phạm Văn Phú được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu 2. 1975 Sau ngày 30 tháng 4, ra trình diện Ban Quân quản Chính quyền mới, ông bị đưa đi tù lưu đày từ Nam ra Bắc qua các trại giam: Cần Thơ và Hốc Môn (1975-1976). Yên Bái, Hà Tây, Nam Hà (từ năm 1976). Năm 1988 chuyển về trại tù Z30D ở Hàm Tân. Mãi đến ngày 5 tháng 5 năm 1992 ông mới được trả tự do.[10] Ngày 30 tháng 4 năm 1993, ông được xuất cảnh đi đoàn tụ với gia đình tại Orlando, Florida, Hoa Kỳ. Ngày 23 tháng 3 năm 2018, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 87 tuổi. Huy chương -Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng và một số huy chương quân sự, dân sự khác. Gia đình Thân phụ: Cụ Trần Văn Vạng (nguyên là Tổng Giám thị trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho). Thân mẫu: Cụ Trần Thị Thạnh. Phu nhân: Bà Đoàn Thị Bé - Ông bà có bốn người con gồm 3 trai, 1 gái (Trưởng nam: Trần Minh Trí, nguyên Thiếu úy Không quân Việt Nam Cộng hòa) Bào đệ: -Trần Bá Linh (nguyên Thiếu tá Bộ binh Việt Nam Cộng hòa). -Trần Bá Thanh (nguyên Đại úy Bộ binh Việt nam Cộng hòa). -Trần Bá Nhân (nguyên Thiếu úy Không Quân Việt Nam Cộng hòa). Wikipedia |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162260 · Replies: 0 · Views: 3,691 |
Posted on: Mar 12 2019, 10:38 AM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Trung tá VNCH LƯU TRỌNG KIỆT tại sao gọi ông là thủ lĩnh cọp 3 đầu rằn của quân lực VNCH CỐ TRUNG TÁ LƯU TRỌNG KIỆT & TIỂU ĐOÀN 42 BIỆT ĐỘNG QUÂN. KỶ NIỆM 50 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG BIỆT ĐỘNG QUÂN 01 07 1960 – 01 07 2010 Thân tặng các chiến sĩ Biệt Động Quân của Sư Đoàn 101 và 106. NGUYỄN KHẮP NƠI – 27 06 2010 www.nguyenkhapnoi.com CỐ TRUNG TÁ LƯU TRỌNG KIỆT. Cố Trung tá Lưu Trọng Kiệt, một trong những quân nhân xuất sắc, được trao tặng huy chương nhiều nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, của Binh Chủng Biệt Động Quân nói riêng, và của Tiểu Đoàn 42 “Cọp Ba Đầu Rằn” Biệt Động Quân, nói ngắn gọn. Cố Trung Tá Kiệt đã giã từ Quân Đội, giã từ Binh Chủng quá mau, quá đột ngột và quá trẻ. Chỉ Từ năm 1960 cho tới năm 1967, ông đã từ một Chuẩn Úy, đặc cách vinh thăng luôn luôn tại mặt trận, tới cấp bực Thiếu Tá, và rồi Cố Trung Tá, ở lứa tuổi 30. Trung Tá Kiệt ra đi, để lại muôn ngàn tiếc thương cho các đồng đội, cho toàn thể Quân Dân Cán Chính của Việt Nam Cộng Hòa. Nhân ngày lể kỷ niệm 50 năm thành lập Binh Chủng Biệt Động Quân, chúng ta hãy cùng nhau dở trang Quân Sử, để biết thêm về: THƯ SINH LƯU TRỌNG KIỆT Cố Trung Tá Kiệt xuất thân khóa 7 Trường Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau khi tốt nghiệp (cuối năm 1959), ông được đưa về phục vụ tại Đại Đội Trinh Sát của Sư Đoàn 21. Tới năm 1966, ông được vinh dự nhận chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tỉểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. Ông đã tử trận ngày 8 tháng 12 năm 1967 tại Vị Thanh khi tham dự cuộc hành quân Dân Chí do Sư Đoàn 21 đảm trách. Do đó, khi nói tới Cố Trung Tá Lưu Trọng Kiệt, chúng ta phải nói tới cá nhân của ông, nói tới Sư Đoàn 21 và đặc biệt là, nói tới Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. Khi nói tới Cố Trung Tá Kiệt, mọi người đều nói tới Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. Và ngược lại, bất cứ ai trong chúng ta, khi nhắc tới Binh Chủng Biệt Động Quân, thế nào chúng ta cũng sẽ nhắc tới Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân, và chắc chắn sẽ nhắc Tới Cố Trung Tá Lưu Trọng Kiệt. Vậy thì, Ai làm cho Ai được trọng nể? Cố Trung Tá Kiệt làm rạng danh Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân? Hay là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân đã làm cho Cố Trung Tá Kiệt trở thành Bất Tử? LƯU TRỌNG KIỆT. Lưu Trọng Kiệt quê quán ở Cần Thơ. Cha ông mở tiệm hớt tóc, lấy tên là “Nghệ Sĩ” để sinh sống và nuôi dậy anh em ông Kiệt nên người. Ông Kiệt có dáng người thư sinh trắng trẻo, nhưng lại ham mê võ thuật từ thủa nhỏ. Thời còn học tại trường Trung Học Phan Thanh Giản, ông đã là Judo (Nhu Đạo) Đệ Tam Đẳng Huyền Đai và mở trường dậy về môn võ Judo đầu tiên ở Cần Thơ. Nhờ tay chân lanh lẹ và phản ứng cũng thật là nhanh, nên mỗi khi đấu võ, ông đã ra đòn chớp nhoáng, làm cho địch thủ chưa thấy rõ ngón đòn của ông, đã bị ông khóa chân khóa tay thúc thủ rồi. Vì thế mà ông có biệt danh: “KIỆT . . . DEPART” Có nghĩa là Kiệt . . . Quá Lẹ! Hai bên vừa mới chào nhau xong, địch thủ chưa kịp xuống tấn thì ông đã . . . depart rồi. Năm 1959, miền Nam Việt Nam vẫn còn thanh bình lắm, Tổng Thống Ngô Đình Diệm vẫn còn điều hành guồng máy quốc gia, dân chúng sống an cư lạc nghiệp. Thời gian này, người trai trẻ họ Lưu vẫn có thể ung dung học xong trung học, lên đại học để trở thành một Kỹ sư hay Bác Sĩ . . . Nhưng Lưu Trọng Kiệt đã chọn cho mình con đường võ học và con đường binh nghiệp: Học xong trung học, ông đã tình nguyện gia nhập quân đội, thụ huấn khóa 7 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. SƯ ĐOÀN 21 BỘ BINH. Sau khi tốt nghiệp, ông được đưa về phục vụ tại Đại Đội Trinh Sát của Sư Đoàn 21, một trong những sư đoàn bộ binh nổi tiếng của Vùng IV chiến thuật. Sư đoàn có 3 Trung đoàn là 31 32 và 33 cùng với những đơn vị Pháo binh, Cơ Giới Truyền Tin . . . . Để lấy tin tức tình báo và thi hành những cuộc hành quân lục soát, dọ thám và đột kích, Sư đoàn có một đơn vị rất ưu tú, đó là Đại đội Trinh Sát. Sĩ quan chỉ huy và binh sĩ của Đại đội Trinh Sát phải là những người can đảm, nhiều kinh nghiệm chiến trường, chịu đựng gian khổ. nhọc nhằn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Đụng trận trong những ngày đầu tiên, Chuẩn úy Kiệt đã chứng tỏ tài nghệ của mình, ông đã chỉ huy trung đội tiến nhanh như vũ bão, đột nhập những sào huyện của bọn Việt cộng, tiêu diệt bọn chúng và tịch thu nhiều tài liệu quan trọng. Trong một cuộc hành quân ở Trà Vinh, tuy ông được vinh thăng Thiếu úy, nhưng cũng bị thương ở chân, phài đưa về bệnh viện mổ xẻ điều trị và dưỡng thương. Tư Lệnh Sư Đoàn 21 lúc đó là Tướng Trần Thiện Khiêm, đã biết tới tài nghệ của ông, muốn đưa ông về làm Tùy viên, nhưng ông xin được ở lại với Thám Báo. Sau khi dời bệnh viện, vỉ vết thương chưa lành hẳn, ông được đưa vào toán huấn luyện của Sư đoàn để đi huấn luyện cho cho Địa Phương Quân của Biệt Khu Hải Yến, Cà Mau. Biệt khu này do một Đại Tá Tuyên Úy Công Giáo Phan Lạc Hóa (Tên Trung Hoa đổi qua tên Việt Nam) của Tướng Tưởng Giới Thạch chỉ huy. Sau trận chiến với Mao Trạch Đông năm 1949, quân của Tưởng Giới Thạch bị thua, di tản đi khắp nơi, Đại tá Tuyên Úy đem quân lính và dân theo tới Cà Mâu và được chính quyền Việt Nam cho sinh sống tại đây và trao cho họ nhiệm vụ bảo vệ dân và tiêu diệt bọn Việt Cộng nằm vùng. Lành vết thương, Thiếu Úy Kiệt trở lại với Đại đội Thám Báo của Sư Đoàn 21. Với khả năng thiên phú về quân sự, sự nhậy bén lanh lẹ và can đảm, chỉ trong vòng ba tháng hành quân đầu tiên, ông Kiệt đã từ Thiếu úy vinh thăng lên Trung úy. 5 tháng sau, ông lại được đặc cách vinh thăng Đại Úy. BIỆT ĐỘNG QUÂN. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1960, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ký nghị định thành lập Binh Chủng Biệt Động Quân. Khởi đầu, đó là những Đại Đội Biệt Lập, chuyên môn dùng chiến thuật Phản Du Kích để chống lại chiến thuật Du Kích Chiến của Việt Cộng. Sau hiệp định Genève 1954, bọn Việt cộng phải rút hết về miền Bắc, nhưng chúng đã xảo trá cài lại một số cán bộ để tổ chức những cuộc chiến tranh du kích: Trốn biệt ở những nơi rừng sâu, thỉnh thoảng ra ngoài điều nghiên từng làng từng xã. Khi nào thấy chắc ăn thì ào ra đánh lén, xong rồi lại chạy về mật khu. Lính Biệt Động Quân được huấn luyện về du kích chiến, nên biết rành rẽ nơi nào bọn Việt cộng có thể ẩn nấp, họ cũng dùng chiến thuật du kích, di chuyển đến tận mật khu của bọn Việt cộng, bất ngờ đột kích giết và phá hết cơ sở nằm vùng của bọn chúng. Tên nào thoát chết thì bắt làm tù binh. Biệt Động Quân cũng có thể nằm chờ ở những nơi nghi ngờ có Việt cộng ẩn nấp, tới lúc bọn chúng lộ diện đi thâu thuế, góp lương thực . . . Biệt Động Quân mới phục kích giết sạch bọn chúng. Trong giai đoạn mới thành lập này, một số lớn những quân nhân xuất sắc nhất ở các đơn vị bộ binh đã được vinh dự thuyên chuyển về phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân. Những quân nhân xuất sắc này đã giáng cho bọn Việt cộng những ngón đòn khủng khiếp, chớp nhoáng, làm cho bọn Việt Cộng sợ Lính Biệt Động Quân như là những “Ông Cọp” trong thần thoại, gọi tên các đơn vị Biệt Động Quân bằng những cái tên kinh thiên động địa, góp phần đưa tên tuổi của Biệt Động Quân lên hàng đầu cùng với cái đơn vị thâm niên, ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đầu năm 1964, do nhu cầu chiến trường, các Đại Đội Biệt Động Quân Biệt Lập đã được sát nhập lại để trở thành Tiểu Đoàn. Tới năm 1967, theo tổ chức mới của binh chủng Mũ Nâu, các tiểu đoàn Biệt động quân được hợp lại để thành lập các liên đoàn tại các Vùng chiến thuật. Tiểu đoàn 42 Biệt động quân trở thành đơn vị cơ hữu của liên đoàn 4 Biệt động quân. Đầu năm 1974, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã dự trù sat nhập các Liên Đoàn Biệt Động Quân lại để thành lập 2 Sư Đoàn Biệt Động Quân: Sư Đoàn 101 và Sư Đoàn 106. TIỂU ĐOÀN 42 BIỆT ĐỘNG QUÂN. Tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân chính thức thành lập vào năm 1964 và được đặt thuộc quyền điều động của bộ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh. Khi đã thành lập xong, bắt đầu đi hành quân chung, thì Đại úy Nguyễn Văn Biết được chỉ định làm Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên. Một thời gian sau, Thiếu Tá Biết được chỉ định nhận nhiệm vụ mới, trao lại Tiểu đoàn cho Đại úy Nguyễn Tấn Giai. Mười hai tháng qua đi, do nhu cầu công vụ, Huynh trưởng Giai lại được thuyên chuyển đi nhận nhiệm vụ mới. Đại Úy Lưu Trọng Kiệt đã trở thành vị Tiểu Đoàn Trưởng thứ ba của Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt (mang lon trắng) và quân nhân các cấp của Tỉểu đoàn 42 Biệt Động Quân nhận lãnh huy chương sau cuộc hành quân Dân Chí 228. Tiểu đoàn 42/Biệt Động Quân trong thời gian đầu, được tăng phái cho Sư Đoàn 21 Bộ Binh, đã tham dự hầu hết các cuộc hành quân Dân Chí của Sư đoàn này tổ chức, tại các đia danh thuộc Khu 42 Chiến Thuật như sau: * Kinh Thác Lác, Phụng Hiệp, Búng Tàu v…v… (thuộc Tỉnh Cần Thơ). * Đầm Dơi, Thới Bình, Khai Quang, Biện Nhị, Năm Căn, Bờ Đập (thuộc Tỉnh Cà Mau). * Rạch Sỏi, Đầm Răng, Đầm Rầy, Cán Gáo v…v… (thuộc tỉnh Rạch Giá). * Hỏa Lựu, Hưng Long, Long Mỹ, Ngọc Hòa v…v… (thuộc tỉnh Chương Thiện). Đại Úy Kiệt, với chiến thuật thần tốc, với khả năng chiến đấu vô giới hạn, với những người lính Biệt Động Quân gan dạ, kiêu hùng, đã đánh cho bọn Việt Cộng những trận đòn thất điên bát đảo. Trong thời gian này, Thám báo lại được bổ xung thêm một sĩ quan mới ra trường, trong đó có Chuẩn úy Hồ Ngọc Cần, khóa 1 Sĩ Quan Đặc Biệt Thủ Đức. Cả hai đã hợp sức chiến đấu đánh tan những cơ sở của Việt Cộng trong khu vực trách nhiệm. Theo tài liệu của báo Tiền Tuyến, trong mục “Nhân Vật Của Chúng Ta”, phát hành trong năm 1967, đã giới thiệu: “Thiếu tá Kiệt là sĩ quan trừ bị, chỉ trong vòng 14 tháng, ba lần được đặc cách thăng cấp tại mặt trận: Từ Thiếu úy thăng Trung úy: 3 tháng, Từ Trung úy thăng Đại úy: 5 tháng, Từ Đại úy thăng Thiếu tá: 6 tháng. Khi đi hành quân thì như vũ bão, nhưng mỗi khi trở về hậu cứ, Thiếu tá Kiệt hiền khô như một bạch diện thư sinh. Ông ít khi uống rượu, thương lính, lo săn sóc cho những người lính bị thương, lo cho đời sống vợ con lính trong trại gia binh. Chưa bao giờ thấy ông nổi giận với lính, nhất là không bao giờ gọi lính của mình là “Thằng”. Đã có một lần, hành quân về, ông và một người bạn lái xe ra bến Ninh Kiều uống . . . sinh tố. Bất chợt có một quân nhân mặc quân phục Biệt Động Quân bước vào quán, cử chỉ kiêu căng, hống hách, nói chuyện ba hoa, tự khoe mình là “Lính Tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân” Thiếu Tá Kiệt nhìn mãi không ra người lính này thuộc Đại đội nào? Trung đội nào? Ông cho người Trung sĩ tài xế ra hỏi người quân nhân đó, xem anh ta thuộc đơn vị nào? Té ra anh ta là lính Địa Phương Quân, thấy mọi người nể trọng “Lính Cọp Ba Đầu Rằn” nên mới giả dạng mặc đồ bông hù bà con. Thay vì đưa người lính này về Quân cảnh, Thiếu tá Kiệt chỉ cảnh cáo anh ta và bắt cởi áo ra mà thôi (Người lính này, sau đó đã xin đăng lính Biệt Động). Giống như vị Tiểu đoàn trưởng của mình, những người lính tiểu đoàn 42 được dân chúng thương mến là vì họ không phá làng phá xóm mỗi khi hành quân trở về. Khi đi hành quân, tiểu đoàn thuờng chia làm hai cánh: Một cánh do Tỉểu đoàn phó Hồ Ngọc Cẩn điều khỉển, cánh kia do chính Tiểu đoàn trưởng Lưu Trọng Kiệt chỉ huy. Hai cánh quân thường đổ bộ cùng một lúc, ở hai địa điểm khác nhau, rồi cùng lặng lẽ tiến tới mục tiêu. Khi tấn công, cả hai cánh quân đồng loạt xung phong hoặc là một cánh xung phong, cánh kia phục kích ở nơi bọn Việt cộng tan hàng chạy ra thì quét sạch bọn chúng. Do cách thức hành quân thần tốc, gan dạ, mà tiểu đoàn 42 đã trở thành hung thần của đám Việt Cộng. Do tiểu đoàn 42 đội nón sắt có vẽ hình con cọp đen trên nền ngôi sao trắng, chung quanh vẽ rằn ri mầu Nâu, Đen, Xanh lá mạ, nên bọn Việt Cộng đã kiêng nể mà đặt tên cho tiểu đoàn này là: “Cọp Ba Đầu Rằn” Hễ đụng trận, hễ thấy bên lính Cộng Hòa thấp thoáng có nón sắt “Cọp Ba Đầu Rằn” là bọn Việt cộng cuống cuồng bỏ chạy, làm cho lính 42 không có địch mà đánh. Do đó, vào khoảng đầu năm 1967, Chuẩn Tướng Đặng Văn Quang, Tư lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu 4, đã ra lệnh: “Tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân phải sơn lại nón sắt trở lại bình thường như các đơn vị Bộ Binh khác”. Trận chiến cuối cùng của Cố Trung Tá Kiệt, tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân ra trận với cái nón sắt Bộ Binh mầu xanh lá mạ, tham dự chiến dịch “Dân Chí . . .” do Sư Đoàn 21 Bộ Binh điều động, với nhiệm vụ hành quân càn quét, tiêu diệt địch, tiểu đoàn đã đụng độ với Trung đoàn D2 với tiểu đoàn chủ lực cơ động Tây Đô của VC trên bờ kinh Thác Lác, thuộc tỉnh Chương Thiện. Theo lời kể của Thiếu Tá Đoàn Anh Cường, Tỉểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 3/31, trận chiến xẩy ra như sau: Cả Sư đoàn 21 và hai tiểu đoàn 42, 44 Biệt Động Quân cùng tham dự trận đánh này. Thiếu Tá Lê Văn Hưng, quyền Trung đoàn trưởng 31 ra lệnh: Tỉểu đoàn 42 và 44 đổ quân tấn công phía Bắc của Kinh Thác Lác. Tiểu đoàn 3/31 và 2/31 đổ quân tấn công phía Nam Kinh Thác Lác, Tiểu đoàn 1/31 do tôi chỉ huy, tiếp ứng tại phi trường Chương Thiện cùng với 10 chiếc trực thăng. Mới đầu, tin tình báo là chỉ có Trung đoàn D2 Việt cộng mà thôi, nhưng khi đụng trận, phòng không của bọn Việt cộng bắn ra rất là dữ dội, Thiếu tá Kiệt cho toán thám sát đi dò tin tức, mới biết là, không phải chỉ có D2, mà còn có thêm cả Trung đoàn D1 và 1 tiểu đoàn phòng không của địch nữa. Toán thám sát bị vây cứng, không sao rút lui được. Thiếu Tá Kiệt cho toàn bộ Tiểu đoàn đánh cứu bồ. Tiểu đoàn 44 do Đại úy Lượng chỉ huy cũng tấn công cùng một lúc, nhưng không làm sao đẩy lui bọn Việt cộng được. Cánh quân phía Nam tiến đánh, cũng bị khựng lại. Chuẩn Tướng Minh, Tư lệnh Sư Đoản 21, muốn xin B52 yểm trợ, nhưng Thiếu Tá Hưng không đồng ý, vì quân ta và quân địch quá gần nhau. Thiếu tá Hưng đang bay trên trực thăng, nóng lòng vì thế trận không thuận lợi, đã yêu cầu phi công đáp ngay xuống mặt trận để ông nhẩy xuống, chỉ huy cánh quân phía Nam. Trực thăng bay trở về phi trường Chương Thiện đón Tướng Minh lên thị sát mặt trận. Cánh quân phía Nam ào lên tấn công như vũ bão, đẩy dồn bọn Việt Cộng về phía Bắc. Bọn cộng quân như chó bị dồn vào chân tường, tuyệt vọng đánh trả lại. Trận chiến chưa ngã ngũ thì tôi nghe trên máy báo cáo là Thiếu Tá Kiệt bị thương ở đầu, cần phải tải thương gấp. Chiến trường đang sôi động, làm sao vị chỉ huy có thể dời bỏ đơn vị cho được? Nhưng máu đã ra quá nhiều, không thễ trì hoãn được nữa. Trung úy Tiểu đoàn phó Hồ Ngọc Cẩn khẩn khoản yêu cầu trực thăng tải thương ngay, nhưng Thiếu Tá Kiệt nhất quyết tấn công xong mới chịu tải thương. Khoảng nửa tiếng sau, Trung úy Cẩn nghẹn ngào báo tin: “Thiếu Tá Kiệt đã tử trận” Trung úy Cẩn lên nắm quyền Tiểu đoàn trưởng, ra lệnh tiếp tục tấn công. Phòng tuyến phía Bắc của cộng quân bị tan vỡ, bọn Việt cộng kéo nhau bỏ chạy tứ tán. Sau trận đại thắng, quân nhân các cấp đều được thăng cấp. Trung úy Hồ Ngọc Cẩn lên Đại úy (trở về Sư đoàn 21), Đại Úy Lượng lên Thiếu Tá. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt cũng được thăng chức, nhưng thăng lên bàn thờ để trở thành Cố Trung Tá. Ông được các phóng viên chiến trường vinh danh là một trong năm nhân tài của “Ngũ Hổ U Minh Thượng” 1. Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/31 Sư Đoàn 21. 2. Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân, 3. Thiếu tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 44 Biệt Động Quân, 4. Ðại úy Vương Văn Trổ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3/33 Sư Đoàn 21; 5. Ðại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 Sư Đoàn 21. Thiếu Tá Kiệt dẫn đầu cuộc diễn binh toàn thắng trở về. Dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Kiệt, tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân là đơn vị đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được huy chương của Tổng Thống Hoa Kỳ “President Unit Citation” và được nhận tới hai lần. Trên cờ Tiểu Đoàn, có 6 lần được tuyên dương công trạng trước Quân Đội. Trung Tá Lưu Trọng Kiệt mất đi, để lại nhiều tiếc thương cho mọi người. Nếu được tải thương kịp thời, ông có cơ hội sống sót. Vết thương trên đầu của ông không phải là “Bị thương như Kiến Cắn” mà là vết thương rất nặng. Nếu còn sống, biết đâu sau này, giống như một trong “Ngũ Hổ” Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, ông cũng lên Tướng, và Biết đâu, với sự góp mặt của “Tướng Lưu Trọng Kiệt”, bàn cờ Việt Nam có thể được bầy theo lối khác? Ngày 30 tháng Tư không phải là ngày quốc hận, mà là ngày đại thắng? Trung Tá Kiệt nổi tiếng là anh hùng từ khi còn nắm giữ chức Đại đội trưởng Đại đội Thám Báo Sư Đoàn 21. Khi gia nhập Biệt Động Quân, coi như ông đã được sử dụng đúng với tài năng của mình. Cộng với sức chiến đấu dũng mãnh lì lợm, anh hùng của những người lính Biệt Động Quân khác, Tiểu đoàn 42 “Cọp Ba Đầu Răn” đã làm khiếp đảm đám Cộng quân, đưa tên tuổi của Biệt Động Quân vào những trang sử hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, LÀ THẾ ĐẤY! NGUYỄN KHẮP NƠI. |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162259 · Replies: 0 · Views: 4,404 |
Posted on: Feb 14 2019, 05:04 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Thư Hậu Phương - Thư Tiền Tuyến Các anh Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa kính mến ! Thưa các anh chiến sĩ . Chiều nay lúc tan học, trên đường về em thấy các anh đi thật đông về hướng Hậu Giang. Những đoàn xe GMC nối tiếp nhau, làm bụi bay mịt mù. Trên xe, các anh ngồi chen chúc nhau, mặc toàn áo trận màu xanh rừng núi, mỗi anh đều cầm súng, còn quanh thắt lưng các anh em thấy nai nịt những băng đạn, dao găm, bi đông nước. Da mặt và cánh tay các anh đều sạm nắng, nhưng trên những khuôn mặt rắn rỏi các anh lại có những nụ cười. Các anh đi đâu ? Em không biết, nhưng em tự nhủ: chắc các anh lại đi hành quân đánh nhau với Việt cộng. Từ lúc đó, đến giờ phút này đây, ngồi trước sách vở ngổn ngang trên bàn học, mà em chẳng học được gì cả. Hình ảnh các anh chập chờn trước mắt và làm cho em cứ nghĩ đến các anh mãi.. Em tự hỏi: giờ này đây, trong đêm này đây, các anh lúc ban chiều hiện ở đâu ? Đang xuất trận với kẻ thù, hay đang bố trí ở một khu rừng nào đó để phục kích Việt cộng ? Và trong giờ phút này đây, các anh có đang nghe những người em gái hậu phương gởi tiếng nói đến các anh qua làn sóng điện chăng ? Thật tình, em mong các anh đang nghe tiếng nói của chúng em, vì dù các anh đang canh gác ở một đồn hậu tuyến, hoặc đang nằm phục kích kẻ thù trong bóng tối, hay các anh đang nằm thoải mái trong một căn lều nào đó, em nghĩ rằng các anh không khỏi thấy lòng trống trải, và trong một giây phút chóng qua, chắc các anh có thể đang nhớ đến làng mạc, quê hương, đến những người thân yêu mà các anh phải xa cách vì hiện tại chiến tranh do cộng sản gây ra. Vì thế, em hy vọng tiếng nói của chúng em gởi qua làn sóng điện sẽ đem đến các anh cảm tưởng tốt đẹp như đang nghe những người em hiền dịu kể chuyện tâm tình, tuy xa các anh về không gian mà gần các anh trong tâm tưởng. Hơn nữa, em mong ác anh tin rằng các anh đi chiến đấu ở tiền tuyến xa xôi, nhưng không bao giờ các anh lẻ loi, cô độc, vì ở nơi hậu phương này, vẫn có chúng em luôn nghĩ nhớ đến các anh, thầm nhắc đến tên các anh như những nguời ân nhân quý báu. Cũng như những đêm khác, đêm nay cũng có những tiếng súng vang dội từ bóng tối đồng quê, lại càng làm cho em nghĩ đến các anh nhiều hơn nữa. Chúng em biết rằng khi các anh khoác chiến y, dấn thân vào vùng khói lửa, các anh đã nuôi chí hy sinh vì quốc gia, dân tộc, nhưng xương máu của các anh, đối với chúng em vẫn là những gì thật quý báu. Các anh không nề hà gian khổ, nhưng đời sống gian khổ của các anh vẫn làm chúng em xúc động. Cũng là những người công dân của đất nước, nhưng các anh nhận lãnh nhiệm vụ tiền phong trong cuộc chiến đấu chống cộng sản xâm lăng, điều đó chứng tỏ các anh có lòng yêu nước thật đậm đà, một đức hy sinh thật cao cả. Các anh đã biểu dương sức mạnh cùng chí bất khuất của dân tộc trên các nẻo đường đất nước, án ngữ quân thù, không cho chúng cướp nước, hại dân. Hình ảnh hiên ngang của các anh, làm sao chúng em quên được ? Và làm sao mọi người có thể dửng dưng trước sự hiện diện của các anh trên khắp chiến trường ? Thưa các anh, đó là những cãm nghĩ chân thành của em xin gởi đến các anh, với hy vọng rằng những dòng chữ thô sơ này có thể đem đến các anh một nguồn vui nho nhỏ. Em xin cầu chúc các anh nhiều sức khỏe, chiến đấu thắng lợi thật nhiều trong những ngày sắp đến. Từ KBC 4385, ngày tháng năm Ngọc Mai và những em gái hâu phương thương mến ! Tôi xin được mạn phép với các anh chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa để hồi âm lá thư mà Ngọc Mai đã viết gởi cho các anh, đã được đọc trên đài phát thanh Quân Đội trong chương trình Dạ Lan mấy tháng trước, bởi vì trước đây khi chưa nhập ngũ tôi đã là học sinh của trường Nguyễn bá Tòng vào những năm 1962-1965 nên rất có cảm tình với Ngọc Mai em gái nữ sinh Nguyễn bá Tòng gửi thư cho các anh chiến sĩ ngoài mặt trận.. Viết thư này cho Ngọc Mai khi Đại Đội anh vừa mới chấm dứt cuộc hành quân giải tỏa Đất Đỏ Long Điền thuộc Bà Rịa Phước Tuy. Đây là cuộc hành quân khi anh nắm giữ chức vụ Trung đội trưởng đầu tiên lúc mới ra trường Bộ Binh Thủ Đức… Thị xã Đất Đỏ đã bị Việt Cộng chiếm cứ từ mấy ngày qua, Đại Đội Trinh Sát 18 có nhiệm vụ giải toả, từ quốc lộ vào thị xã Đất Đỏ là đồng trống phải băng qua những buị tre và bụi cây râm rạp, cây cối không lớn lắm, từ tầm xa ở trên đường vào thị xã Đất Đỏ Việt Cộng leo trên những ngọn cây chúng có thể dễ dàng quan sát khi quân ta di chuyển, nên Đại Đội đã phải ra chia từng tóan nhỏ, khi di chuyển dựa vào những bụi tre bụi cây, cố gắng tiến chiếm lại thi xã tránh sự thiệt hại cho dân chúng càng nhiều càng tốt, cho nên hạn chế bắn pháo binh. Cuối cùng sau 2 ngày Đại Đội cũng đã chiếm lại được thị xã kết quả ta tịch thu được một số vũ khí các loại. Việt cộng chết 11 tên, phía Đại Đội Thiếu Uý Đoàn Thước Đại Đội Trưởng Đại Đội 18 Trinh Sát đã hy sinh đền nợ nước khi ông bị chúng bắn sẻ lúc đang điều động từng trung đội từng toán nhỏ tiến chiếm mục tiêu để giải tỏa thị xã. Xin các em gái hậu phương dành một phút cầu nguyện cho Cố Trung Uý Đoàn Thước đã hy sinh để tái chiếm lại thị xã Đất Đỏ bị địch chiếm từ mấy ngày qua… Xin thay mặt cho các anh chiến sĩ VNCH cám ơn Dạ Lan và những người em gái hậu phương như Ngọc Mai đã dành cho các anh những tình cảm thân thương của người hậu phương thành phố đối với người tiền tuyến, hay nói đúng hơn là những cô em gái đang còn tuổi cắp sách đến trường thổ lộ tâm tình bằng những tấm lòng cảm thương cái gian khổ, chia sẻ những nỗi cực nhằn cay cực của các anh, an ủi khích lệ các anh, những người lính ngoài mặt trận, như vậy các anh luôn nghĩ rằng các anh chiến đấu các anh hy sinh cũng không phải là việc làm vô nghĩa… Với anh và các anh chiến sĩ mọi quân binh chủng trên khắp mọi chiến trường vẫn thường xuyên lắng nghe đài tiếng nói Quân Đội với chương trình Dạ Lan chỉ trừ khi các anh đang di chuyển hành quân. Nhất là được nghe chính giọng nói của Dạ Lan, của những cô em gái hậu phương đã làm cho các anh đỡ cảm thấy cô đơn bớt nỗi nhớ nhà. Cám ơn Ngọc Mai đã dành ưu ái cho các anh chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Các anh nghĩ rằng cuộc chiến đấu chống cộng sản xâm lược là nghĩa vụ và là bổn phận của các anh, người trai trong thời chiến. Vì thế các anh luôn tâm niệm rằng nhiệm vụ của các anh phải làm là bảo vệ sư Tự Do và đem an vui đến cho người dân Việt Nam nên các anh không nề hà gian khổ kể cả sự hy sinh tính mạng. Một lần nữa xin cám ơn Ngọc Mai và những em gái hậu phương, chúc các em vui vẻ và nhất là luôn tươi trẻ, học hành thật giỏi để sau này giúp ích cho nước cho nhà. Chuẩn Uý Vũ Đức Đại Đội 18 Trinh Sát - Sư Đoàn 18 Bộ Binh KBC 4385 Ghi Chú: Lá thư này xin nhờ Dạ Lan chuyển đến Ngọc Mai trường Trung học Nguyễn bá Tòng ( đường Bùi thị Xuân Sàigòn) Ngọc Mai Trung học Nguyễn bá Tòng Sài Gòn Ghi chú: Lá thư này đã được những em gái hậu phương đọc trên đài tiếng nói Quân Đội Sài Gòn năm 1973 trong chương trình Dạ Lan được phát thanh mỗi đêm từ 20 giờ. |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162191 · Replies: 0 · Views: 3,028 |
Posted on: Feb 14 2019, 05:04 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Viên đạn vang rền Cát trưa hè thật nóng, khói hãy còn lung linh, bãi tranh nơi ấy đầy mìn. Anh dẫn lính đi vào. Anh và lính giao linh hồn cho thần tử. Nhiệm vụ vượt bãi tranh bám vào sườn đồi chiếm lại cứ điểm 83. Nắng miền Trung nắng gắt, mưa miền Trung mưa dai dẳng không nguôi, rét miền Trung rét cào da xé thịt. Bom đạn miền Trung, bom đạn rất vô tình. Những viên đạn vang rền bất kể ngày năm tháng. Tháng đó cũng tháng năm bắt đầu vào tháng sáu, những tháng mà mặt trận tiếng AK nở rộ mở đường cho những chuỗi xâm lăng cuồng ngạo tấn xuống miền Nam của loài ma quỷ. Những tham lam ngập đầy. Anh đi vào cõi chết để miền Nam còn hấp hối. Anh bước những bước nhẹ vào bãi tranh tử thần để vợ và năm con nơi hậu cứ còn hơi thở từng ngày. Anh quê người Mỹ Tho. Vợ anh, chị Diệu quê người Mỹ Tho. Con anh năm đứa, tuổi còn tạt lon sữa bò, còn hò nhau chơi đánh đũa, tóc còn cột dây thun. Vợ con theo anh ra ngoài đơn vị xa quê ngàn cây số. Lon anh lon Trung Sĩ, chức anh, anh chỉ huy mười sáu người. Nhiệm vụ anh, nhiệm vụ chận đứng loài ma quỷ. Anh bước vào trãng tranh, anh bước vào vùng đất chết, như những vùng đất chết anh đã bước qua và bước ra lành lặn. Nay anh lại bước vào, có thể mai anh lại bước ra. Vùng đất oan nghiệt nằm ngay trên bước tiến bản đồ. Lệnh trên phải lấy lại cứ điểm 83. Đạn vẫn rền vang. Trên là đạn rít, dưới là ma, giữa là người chịu đựng. Anh chịu đựng hơn 13 năm ròng rã. Anh bước vô và ra khỏi quyển sổ tử thần 13 năm nay từng phút giây một. Tấm thẻ bài của anh vẫn còn dính vào thân thể, đâu đã tháo rời đưa lại bàn tay run run đón nhận trong tiếng khóc xé lòng. Anh và lính tách rời nhau đi xa xa từng người một. Ông tử thần cầm bút gọi từng số quân. Chiến thuật băng bãi mìn là gọi pháo binh bắn dọn đường tạo khoảng an toàn. Nhưng cấp số đạn pháo binh bị hạn chế vì người đồng minh bỏ cuộc, bán cuộc chiến lại cho những thân thể hao mòn dù tinh thần vẫn còn oanh liệt. Trong khi phe quỷ vẫn còn hầm hừ hung hăng, có vũ khí của Nga Sô mọi rợ, có Bộ binh tăng cường lính Trung Quốc giả dạng bộ đội bác Hồ. Tầu phù đã âm mưu thôn tính Việt Nam bằng dân số khổng lồ, bằng chiến thuật biển người đạp lên xác đồng đội mà xâm lăng. Những số tử miền Bắc, dân Tàu hơn phân nửa. Xác chết rồi đâu còn lật miệng hỏi mầy từ đâu, Bắc Kạn hay Quảng Đông hoặc Tiều? Chỉ biết quê Sài Gòn chết cũng nhiều, Long Khánh, Kiên Giang An Cựu Cần Thơ… những xác mang về giòng giống Lạc Việt tử trận giữ đất Nam, mảnh còn lại phân nữa của chữ S. Tụi Bắc Việt cõng con rắn dữ về giết gà trong một nhà. Đạn vẫn vang rền nơi đất núi. Lầm lũi anh đi, khẩu M16 đeo trên vai mũi chĩa xuống, mắt trợn trừng nhìn từng kẽ hở giữa đám tranh. Tiếng ầm lớn lắm, anh đạp ngay quả mìn, mìn cắt đôi chân anh ngay nơi bụng. Tôi băng đồng chạy qua, ngày đầu ra đơn vị tôi theo anh học kinh nghiệm hành quân. Tôi phải chạy qua nhìn anh lần cuối vì anh chính là người lần đầu tôi gặp gỡ, vì anh chính là người lần đầu rủ tôi về nhà ăn cơm chị Diệu vợ anh nấu món Nam, canh chua cá Ngừ nơi Quảng Ngãi. Tôi biết con anh, những đứa trẻ, tôi có cho tụi nó kẹo mè. Tôi có ăn ở nơi đó những ngày dưỡng quân. Băng rừng tranh chạy qua, tôi bất kể mìn ma gì quái nữa, tôi không cần nhìn tử thần có ngó tấm thẻ bài tôi. Tôi thấy anh đừng nên chết khi con còn nhỏ. Nhưng người anh nám đen, đôi chân anh không còn đó, máu đậm đỏ nám theo mùi thuốc nổ. Tôi gối đầu anh lên đùi, mồi anh điếu thuốc, tôi rít một hơi thật dài, nuốt thật sâu vào tận phổi, giữ thật chặt những tủi hờn đang tiết ra. Tôi bần thần đưa điếu thuốc vào môi anh, anh bập bập vài hơi, anh nhìn tôi nhưng tôi biết anh nhìn về vợ con anh, về quê hương có dòng sông chảy, có đồng ruộng reo, có một thuở thanh bình. Anh nấc lên, anh về lại đó bằng linh hồn của người tử sĩ. Anh để lại đây một thân xác kiêu hùng. Anh Trung Sĩ Lang. Thương mến vô cùng. Ngày Chiến Sĩ Trận Vong, anh Lang ơi! Kiến Hôi |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162190 · Replies: 0 · Views: 2,759 |
Posted on: Feb 4 2019, 01:18 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Donald Trump và 5 cuộc chiến định vị lại nước Mỹ và thế giới Khi nói đến tình hình thế giới hiện nay, câu chuyện cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung và xa hơn một chút là nguy cơ đối đầu toàn diện về kinh tế, chính trị, chiến lược, khoa học kỹ thuật giữa cường quốc số một và số hai trong việc tranh ngôi bá chủ toàn cầu cùng các tác động của cuộc đối đầu này dường như đang chi phối mối quan tâm của thế giới. Cuộc đối đầu này sẽ kéo dài bao lâu? Sau nhiệm kỳ của Tổng thống Trump hay sẽ kéo dài tới 45 năm như Chiến tranh lạnh Mỹ – Xô trước đây? Khó ai có thể dự báo chính xác, nhưng chắc chắn sẽ không kết thúc nhanh chóng. Tỷ phú giàu nhất Trung Quốc Jack Ma đã “chuẩn bị tinh thần” cho giới lãnh đạo chính trị và kinh doanh Trung Quốc rằng Trung Quốc và thế giới cần phải chuẩn bị cho một cuộc chiến thương mại Trung – Mỹ có thể kéo dài đến 20 năm, tức sẽ kéo dài nhiều năm sau khi Trump không còn là Tổng thống Mỹ nữa. Ở một góc độ nào đó, việc dư luận quan tâm đến khía cạnh thương mại và đối đầu chiến lược giữa hai cường quốc này là đúng nhưng chưa đủ vì nó mới chỉ phản ánh được một phần những chuyển động lớn đang chi phối cục diện thế giới hết sức phức tạp hiện nay. Tạm thời chưa bàn đến chiến lược mới của Trung Quốc nhằm định vị lại vị thế quốc tế mới của mình và nỗ lực xây dựng một trật tự và hệ thống quan hệ quốc tế mới trong bài viết này, mà chỉ tập trung vào những chuyển động lớn từ Mỹ bắt đầu từ dưới thời Tổng thống Donald Trump. Rất khó để hiểu chính xác Trump, ông ta muốn gì, sẽ làm gì, làm như thế nào và làm được đến đâu. Việc lãnh đạo Trung Quốc không hiểu rõ, phán đoán sai, rồi có những bước đi khiến “cuộc chiến thương mại” lúc đầu tưởng như chỉ bắt đầu từ những “xích mích” nhỏ, rồi lan ra thành cuộc đối đầu kinh tế, thương mại toàn diện… cần xem là chuyện “bình thường”. Ngay chính trong lòng nước Mỹ, dù thích hay không thích nhưng có một thực tế là không chỉ các đối thủ, mà ngay các đồng minh chính trị cũng không hiểu Tổng thống muốn gì, còn người dân và giới doanh nghiệp thì “thấp thỏm” chờ đợi các dòng “tweets” hàng ngày của Tổng thống để phán đoán hành động tiếp theo. Chưa kể sự thể còn bị “rối bung” khi hàng ngàn tờ báo từ cánh tả tới cánh hữu lao vào bình luận, mổ xẻ, phân tích, rồi bút chiến nhằm dẫn dắt dư luận theo nhiều chiều hướng khác nhau khiến thông tin trở nên “nhiễu loạn”. Tất cả những cái đó rất dễ dẫn dắt người đọc, dư luận đi vào các tiểu tiết, hoặc bỏ qua và không thể nhìn thấy các chiều hướng chính sách, các chuyển động lớn sẽ chi phối nước Mỹ và nền chính trị thế giới trong nhiều thập niên tới, được khái quát thành “5 cuộc đại chiến” của Trump. Ở đây chưa bàn đến cái hay, cái dở, cái đúng, cái sai của các cuộc chiến này. Nhưng đây là thực tế những gì Trump đang làm và dù thích hay không thì nước Mỹ và thế giới cũng phải sống chung và thích ứng với thực tế này chừng nào mà Donald Trump vẫn còn là Tổng thống Mỹ. Tìm đọc nhiều tư liệu, nhưng tôi cũng kinh ngạc khi phát hiện dường như trong lịch sử thế giới cận đại gần 500 năm qua, THẾ GIỚI CHƯA TỪNG CHỨNG KIẾN một nhân vật lãnh đạo nào của một quốc gia hùng mạnh nhất thế giới như Donald Trump lại cùng lúc phát động 5 “cuộc chiến sống mái” trên 5 mặt trận khác nhau. Cần nhớ, trong các bài học lịch sử kinh điển, chỉ cần thắng hay thua trong một cuộc chiến, chỉ một cuộc chiến thôi, đã đủ để lưu danh muôn thuở hay chôn vùi vĩnh viễn danh tiếng bất kì một tổng thống nào của nước Mỹ. Vậy 5 cuộc chiến đó là gì? Cuộc chiến thứ nhất: Xác lập “giá trị bảo thủ” và tìm cách đẩy lui các “giá trị tự do” Cuộc chiến này thể hiện qua cuộc đấu quyết liệt giữa hai phe Cộng hòa và Dân chủ qua việc đề cử Thẩm phán Brett Kavanaugh vào vị trí thẩm phán suốt đời tại Tòa án tối cao (Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ) gồm 9 người thay cho Thẩm phán Anthony Kennedy. Thẩm phán Kennedy được Tổng thống (TT) Reagan bổ nhiệm năm 1987 và về hưu năm 2018 sau 31 năm ở cương vị này. Việc đề cử vị trí thẩm phán thứ 9 Tòa án tối cao diễn ra ngay trong nhiệm kỳ đầu của TT Cộng hòa Trump và trùng hợp với thời điểm đảng Cộng hòa đang kiểm soát đa số (dù mỏng manh) tại Thượng viện, đang giúp TT Trump lựa chọn người cùng quan điểm qua đó ghi dấu ấn, tạo ảnh hưởng bảo thủ và góp phần định vị bản sắc của nước Mỹ trong nhiều thập niên sau này. Tất nhiên, cần hiểu rõ đây không phải là những quan niệm bảo thủ hay tự do mà ta và nhiều nước khác quan niệm, mà chủ yếu liên quan đến các vấn đề xã hội, tôn giáo, thuế, tự do cá nhân và đạo đức của người Mỹ. Vị trí Thẩm phán Tối cao Pháp viện là vị trí đầy quyền lực trong hệ thống chính trị tam quyền phân lập tại Mỹ, có quyền giải thích hiến pháp, các đạo luật của Quốc hội, sắc lệnh của Tổng thống xem có vi hiến hay không, cho ý kiến về các vụ xét xử gây tranh cãi, dư luận quan tâm thông qua hình thức bỏ phiếu. Lấy ví dụ về sắc lệnh cấm người Hồi giáo từ 6 quốc gia Hồi giáo nhập cư vào Mỹ khi Tổng thống Trump mới lên cầm quyền. Khi đó Tối cao Pháp viện phải ra phán quyết đây là sắc lệnh không vi hiến thì Sắc lệnh này của Tổng thống mới được thực thi. Chỉ đơn cử một việc như vậy đã giải thích tại sao cả hai phe Dân chủ và Cộng hòa một bên thì kịch liệt phản đối, còn bên kia thì ủng hộ bằng mọi giá ứng cử viên Thẩm phán Tối cao Pháp viện thông qua cuộc Điều trần đang diễn ra và tiếp theo là màn bỏ phiếu hết sức gay cấn ngay trước thềm bầu cử giữa nhiệm kỳ vào tháng 11/2018. Và cũng cần nhắc lại là các Tổng thống Mỹ như Ronald Reagan, Bill Clinton, George Bush từng không thành công lần đầu khi các ứng viên cho vị trí Thẩm phán Tối cao Pháp viện của mình không vượt qua được vòng điều trần hoặc bỏ phiếu tại Quốc hội. Cuộc chiến thứ hai: Chống lại ngay chính đảng đề cử mình để bảo vệ những giá trị bảo thủ cốt lõi của những người Cộng hòa theo quan điểm của Trump Đây là điều tưởng chừng là nghịch lý, nhưng lại là thực tế. Lần ngược lại thời gian trước cuộc bỏ phiếu Tổng thống Mỹ tháng 11/2016, Trump khi đó bị những lãnh đạo chủ chốt của Đảng Cộng hòa xem là “đứa con hoang” (pariah), đi ngược dòng chủ lưu. Nhưng trái với hầu hết các dự báo, Trump – một người chưa hề có kinh nghiệm chính trường – lần lượt đánh bại từng đối thủ một vốn là các nhân vật lãnh đạo gạo cội và “ngôi sao” trong đảng Cộng hòa như Rand Paul, Mitch Romney, McGovern… Thông thường trong chính trị Mỹ “cuộc chiến nội bộ” thường kết thúc khi đã có phân định thắng thua. Tuy nhiên, với Trump thì ngược lại. Với tỷ lệ ủng hộ lên tới 85% các cử tri Cộng hòa, Trump gần như không có các đối thủ nặng ký trong đảng Cộng hòa nên mạnh tay tấn công các “cây đa, cây đề”, các thiết chế mà Trump xem là “trì trệ” trong đảng Cộng hòa để xây dựng liên minh mới, thúc đẩy các ý tưởng bảo thủ và cải cách. Còn các lãnh đạo Cộng hòa trong khi tiếp tục tận dụng ảnh hưởng của Trump để mở rộng uy tín của Đảng, thì cũng đấu quyết liệt không kém với Trump trong nội bộ đảng để chống lại một số cải cách mà họ xem là “nguy hại” cho nước Mỹ, tìm cách duy trì các thiết chế cũ cũng như dòng tư tưởng chủ lưu. Tuy nhiên, đối với nhiều nghị sĩ thì việc duy trì trật tự cũ còn là cách để họ tiếp tục duy trì ảnh hưởng và tiếp tục được hưởng các “đặc quyền, đặc lợi”. Cuộc chiến thứ ba: Chống lại các thiết chế đã định hình và sự “trì trệ” của nước Mỹ Nếu chỉ đọc qua về sự “trì trệ” của nước Mỹ, người đọc dễ liên tưởng đây là câu chuyện hoang tưởng, nhưng đó lại phản ánh một phần sự thật. Nước Mỹ từ lâu vốn được xem là quốc gia năng động bậc nhất, là nơi tập trung các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu hàng đầu thế giới, là nơi có nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel nhất thế giới, nơi luôn khuyến khích sự sáng tạo, các ý tưởng lạ. Tóm lại, nước Mỹ được nhìn nhận là quốc gia luôn thay đổi và biết cách “tự làm mới” mình liên tục. Còn nhớ câu chuyện giữa những năm 1980, cách đây quãng ba chục năm, khi đó Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Mikhail Gorbachev đưa ra ý tưởng “cải tổ” và “công khai hóa” (“perestroika” and “glasnost”) đã làm thế giới phát sốt, còn nước Mỹ thì bị lo qua mặt. Khi đó có nhà báo hỏi Tổng thống Ronald Reagan là nước Mỹ có ý định thực thi “cải tổ” và “công khai hóa” như Gorbachev đang theo đuổi hay không thì câu trả lời của Reagan, đại ý là: Gorbachev đang làm cái việc mà đáng ra các nhà lãnh đạo Liên Xô phải làm từ lâu, nhưng họ đã không làm và để vấn đề tích tụ lại. Mỹ không cần “cải tổ” hay “công khai hóa” vì đây là việc Mỹ làm thường xuyên. Kết quả là “cải tổ” và “công khai hóa” của Gorbachev thiếu một tầm nhìn và cách làm bài bản đã đưa Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ nghĩa Đông Âu đến chỗ sụp đổ, còn khẩu hiệu “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” (Make America Great Again) của Reagan cùng chính sách kinh tế Reaganomics và “làm mới lại nước Mỹ ngay trên đất Mỹ” đã giúp nước Mỹ hùng mạnh trở lại trên mọi phương diện vào đầu những năm 1990. Quay trở lại nước Mỹ trước khi Trump lên cầm quyền. Từ góc độ của một nhà kinh doanh thành đạt trên đỉnh cao sự nghiệp và góc nhìn mới của một chính trị gia Trump cảm thấy hết sức “thất vọng” vì nước Mỹ đang trở nên già nua, xơ cứng, có quá nhiều “trì trệ”, sức ỳ, quá nhiều rào cản. Bên cạnh đó, quá nhiều thế lực hùng mạnh trong giới chính trị, kinh doanh, truyền thông… sẵn sàng liên kết, ra tay bóp nghẹt các ý tưởng mới để bảo vệ đặc quyền của mình, mà như từ ngữ ta hay dùng là lợi ích nhóm. Lợi ích nhóm ở nước Mỹ hiện quá hùng mạnh, bám rễ quá sâu nên các nhóm này sẵn sàng liên kết, tiến hành “chiến tranh tổng lực” chống lại Trump và toàn bộ chính quyền của ông ta đến cùng. Ngược lại, để thực hiện cam kết tranh cử đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, Trump, với tác phong và cách làm “phi truyền thống”, cũng lao vào ăn thua đến cùng với nhóm lợi ích. Đỉnh điểm là ngày 16/8/2018 vừa qua, cùng lúc 350 tờ báo trên khắp nước Mỹ, trong đó có những tờ lâu đời và nổi tiếng như Boston Globe, The New York Times, Washington Post, Philadelphia Inquirer… đồng loạt đăng xã luận, công kích chính quyền Trump, coi cá nhân và Chính quyền Trump là mối đe dọa lớn nhất đối với tự do báo chí – vốn từng được coi là một trụ cột quan trọng trong xã hội Mỹ cùng với tam quyền phân lập. Đây là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử và xã hội Mỹ từ xưa đến nay. Nói đến đặc quyền của báo chí Mỹ thì phải kể đến câu chuyện cách đây 36 năm, chỉ với tờ Washington Post đi tiên phong, cùng các phóng sự của hai nhà báo điều tra gạo cội là Carl Bernstein và Bob Woodward đã góp phần “hạ bệ” Tổng thống đương nhiệm Richard Nixon trong vụ Watergate. Với sức mạnh của báo chí tới mức có thể “làm nên” hay “làm tiêu tùng” (make or break) sự nghiệp của một Tổng thống như vậy nên các chính trị gia thường chọn cách “dĩ hòa vi quý” thay vì làm “mếch lòng” báo chí. Tuy nhiên, Trump thì khác hẳn, chọn ngay cách đối đầu với báo chí “không cùng phe” điển hình là CNN, Washington Post, The New York Times. Trump sử dụng con bài nhất quán ngay từ đầu là coi ba tập đoàn truyền thông lớn này cùng các bài báo chỉ trích cá nhân và chính quyền của mình là “báo chí của phe Dân chủ” và chuyên đăng “tin giả” (fake news)! Nói cách khác, Trump đánh trực tiếp vào tính chính danh và sự khách quan của báo chí “không cùng phe”. Nhìn một cách công bằng, sự ra đời của Internet, và cùng với nó là các mạng xã hội như Facebook, Twitter, Snapchat, YouTube… trong những năm qua đã làm giảm đáng kể quyền lực của các “ông lớn” truyền thông trong khi các ông lớn này vẫn ngủ quên trên đỉnh cao quyền lực thời hoàng kim. Mặt khác, sự phân hóa Xã hội Mỹ về mọi mặt, từ câu chuyện ranh giới giàu nghèo, thu nhập, đẳng cấp, sự hình thành giới chính trị gia “xa lông” ngày càng tách rời tầng lớp “thấp cổ bé họng”… dưới tác động đa chiều của Cách mạng công nghiệp 4.0, toàn cầu hóa đã tác động mạnh, làm báo chí mất đi sự trung lập vốn có và khiến báo chí cũng phân làn rõ rệt. Trước đây thì rất khó phát hiện, nhưng nay chỉ cần cầm một tờ báo bất kì, đọc qua vài bản tin hoặc bật xem TV vài phút là có thể nói tương đối chính xác thiên kiến chính trị của tờ báo hoặc một hãng truyền thông nào đó. Do đó, khá dễ hiểu là 350 tờ báo cùng lúc đả kích Trump nhưng lại ít nhiều đều chia sẻ các quan điểm chính trị như nhau. Và như thường lệ, chỉ vài dòng “Tweets” với 50 triệu người theo dõi mỗi ngày, Trump dễ dàng “vô hiệu hóa” các xã luận trên. Trước đây khi mạng xã hội chưa phát triển, các Tổng thống, chính trị gia thường đứng im chịu trận. Nhưng nay, Trump cũng lên tiếng “đòi” được đối xử công bằng, không bị báo chí tấn công một chiều! Tuy nhiên, chủ đích cuối cùng của Trump là “vô hiệu hóa” sự chỉ trích của đối thủ, khiến ông ta có vị thế áp đảo trong giới truyền thông, từ đó gây ảnh hưởng, truyền tải các thông điệp chính trị. Trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, quản trị đất nước…. Trump cũng có những cách làm “lạ đời”, giúp tiết kiệm hàng chục triệu giờ công lao động hoặc hàng tỷ USD tiền đóng thuế của người dân, doanh nghiệp, cụ thể là: – Trump ngay khi nhậm chức đã yêu cầu Boeing phải xem xét và đàm phán lại Hợp đồng mà Chính quyền Tổng thống Obama đã ký trước đó để mua hai máy bay “Không lực số một” (Air Force One) giao hàng vào năm 2024 vì giá quá cao. Boeing đứng trước tình thế phải đàm phán lại nếu không có nguy cơ bị hủy hợp đồng. Kết quả là cặp máy bay nay chỉ còn giá 3,9 tỷ USD, từ giá “trên trời” là 5,3 tỷ USD, tức giảm khoảng 25% giá ban đầu. – Tương tự như vậy, Trump và Lầu Năm Góc cũng buộc hãng Lockheed Martin, nhà cung cấp máy bay chiến đấu F-35 thế hệ thứ năm phải đàm phán lại và giảm giá từ 95 triệu USD/1 chiếc F-35 mà Lầu Năm Góc trả năm 2017, xuống còn 89 triệu USD/1 chiếc cho lô hàng giao trong năm 2018 và 80 triệu USD/1 chiếc năm 2020. Chỉ qua hai vụ đàm phán đình đám, thông điệp của Trump đối với giới doanh nghiệp rất đơn giản: Ngay cả những hàng hóa mang tính biểu tượng của Tổng thống, đến bảo vệ an ninh quốc gia chính quyền cũng sẵn sàng xem xét, thậm chí hủy đơn hàng nếu cần. Dó đó, các hãng lớn nếu muốn làm ăn với chính phủ, muốn có tương lai phải cải tiến, nâng cao chất lượng và giảm giá thành. – Ngoài việc đơn giản hóa sắc luật thuế liên bang, ngày 30/1/2017 Trump còn ký một sắc lệnh của Tổng thống quy định, từ nay trở đi bất cứ một quy định, hay điều lệ mới nào của liên bang ra đời thì cơ quan đệ trình buộc phải vô hiệu hóa quy định hay điều lệ cũ. Mục đích của việc này là tránh biến các cơ quan công quyền thành bộ máy quan liêu, ra các “quy định trên trời”, tạo thuận lợi tối đa cho cuộc sống, sinh hoạt của người dân, cũng như hoạt động của doanh nghiệp. Trên đây chỉ là một ít ví dụ, nhưng nó cho thấy cuộc chiến chống lại thiết chế đã định hình và gắn với nó là lợi ích nhóm với đủ loại biến tướng là hết sức khó khăn, phức tạp. Hơn nữa, đây lại là cuộc chiến nội bộ nơi các đồng minh lẫn đối thủ đều minh tường các điểm mạnh, yếu của nhau và sẵn sàng ra đòn dứt điểm đối phương bất cứ khi nào có thời cơ. Cuộc chiến thứ tư: Duy trì địa vị siêu cường số một thế giới của Mỹ Theo tư duy và cách làm thông thường, một quốc gia duy trì ngôi vị hàng đầu của mình bằng cách thực hiện hai bước song song: Củng cố sức mạnh quốc gia tổng hợp của mình, đồng thời chặn bước tiến và tạo khoảng cách xa nhất có thể với địch thủ bám ngay sát. Và nước Mỹ không phải là ngoại lệ. Lịch sử của Mỹ từ khi lập quốc ngày 4/7/1776 đến nay là lịch sử bành trướng, và vươn lên không ngừng, từ một liên bang lỏng lẻo gồm 13 bang ban đầu vốn dĩ là thuộc địa của Anh Quốc thành một nhà nước liên bang hợp chúng quốc hùng mạnh nhất thế giới với 50 bang như hiện nay. Lịch sử Mỹ cũng là lịch sử đấu tranh và triệt hạ không khoan nhượng bất kỳ địch thủ thủ nào tìm cách thách thức vị trí số một của Mỹ. Chỉ sau khoảng 100 năm lập quốc, đến đầu những năm 1870, sau khi kết thúc nội chiến Bắc Nam (1861-1865) Mỹ đã thay Anh trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, rồi trở thành siêu cường số một thế giới khoảng 70 năm sau đó sau khi kết thúc Thế chiến II năm 1945. Trong khi hầu hết các cường quốc khác bị suy yếu và tàn phá nghiêm trọng bởi chiến tranh thì Mỹ ra khỏi Thế chiến II với vị thế đặc biệt của người chiến thắng, với sức mạnh vượt trội so với bất kỳ cường quốc nào khác. Trong khoảng thời gian 5 năm hậu chiến, GDP của Mỹ luôn chiếm tới 1/2 GDP của cả thế giới, Mỹ cũng là quốc gia duy nhất sở hữu vũ khí nguyên tử, còn đồng USD thì “hất cẳng” đồng bảng Anh, trở thành đồng tiền thanh toán, lưu trữ chủ chốt của thế giới. Với vị thế áp đảo như vậy, Mỹ dễ dàng “vẽ” trật tự của Phương Tây và phần nào đó là trật tự thế giới hòng thao túng theo ý đồ của mình: Về quân sự, Mỹ lập ra khối quân sự Bắc Đại Tây Dương; về thương mại Mỹ sử dụng ảnh hưởng để lập Hiệp định Thuế quan và Thương mại (GATT), tổ chức tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO sau này; còn về tài chính, Mỹ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lập ra các thiết chế tài chính có ảnh hưởng đến tận bây giờ như: Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD), Công ty Tài chính Quốc tế (IFC)… Mục đích tối thượng là duy trì địa vị cường quốc số một thế giới và thiết lập một trật tự toàn cầu bao trùm hầu khắp các lĩnh vực theo luật chơi do Mỹ đặt ra. Trong 45 năm sau Thế chiến II, hệ thống quốc tế do Mỹ “cầm trịch” đã vận hành tương đối hiệu quả, giúp Mỹ “đánh bại” – dù hết sức khó khăn – được địch thủ cạnh tranh về quân sự, chiến lược và ý thức hệ là Liên Xô, khiến không chỉ Liên Xô mà cả hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu cùng lúc bị tan rã. Về mặt kinh tế, với Thỏa ước Plaza (Plaza Accord) ký ngày 22/9/1985 tại New York để giải quyết “chiến tranh tiền tệ” giữa năm cường quốc Phương Tây, mà thực chất là nhằm vào Nhật Bản, buộc nước này phải tăng giá đồng Yên so với đồng USD và các ngoại tệ chủ chốt khác. Thỏa ước Plaza là đòn độc, đòn “tước vũ khí” quyết định khiến Nhật không thể dùng chiến thuật dumping (giảm giá), cạnh tranh không lành mạnh nhờ hỗ trợ của chính phủ để đánh bại các công ty Mỹ. Và cũng từ đây bong bóng bất động sản Nhật bị bể, kinh tế rơi vào trạng thái trì trệ suốt từ đầu những năm 1990 đến nay và từ đó trở đi Nhật không bao giờ trở thành mối đe dọa về kinh tế với Mỹ nữa. Tuy nhiên, từ đầu những năm 1990 sau khi Liên Xô tan rã thì nước Mỹ bước vào tình trạng “phởn chí” khi không còn đối thủ ngang tầm. Học giá Mỹ nổi tiếng Francis Fukayama thậm chí còn xuất bản cuốn sách “Sự cáo chung của Lịch sử” (The End of History and the Last Man), với tuyên bố ngạo mạn về “Chiến thắng của nền dân chủ tự do” đứng đầu là Mỹ trước các “chính thể chuyên quyền”. Tiếp đó là các sai lầm chiến lược nối tiếp sai lầm khi Mỹ sử dụng lực lượng quân sự quy mô lớn tiến hành cùng lúc cuộc chiến chống khủng bố hao người tốn của và không lối thoát sau vụ khủng bố 11/09/2001 – với phí tổn khoảng 4000 tỷ USD và hàng chục ngàn sinh mạng – trên hai mặt trận là Iraq và Afghanistan. Trong khi đó, trên một mặt trận khác, Trung Quốc thực hiện một chiến lược âm thầm, nhưng hết sức quyết liệt là thực thi cải cách mở cửa về kinh tế, xây dựng nội lực bên trong, cố gắng tránh, tìm cách không gây bất hòa hoặc đối đầu với Mỹ khi không cần thiết. Nhờ chiến lược “Thao quang dưỡng hối”, hiện đại hoá đúng đắn, cách làm bài bản, có sự chỉ huy, thống nhất và tập trung cao độ, lại tận dụng được lợi thế của người đi sau trong việc áp dụng cách mạng khoa học công nghệ nên Trung Quốc đã lớn mạnh vượt bậc chỉ trong thời gian rất ngắn. Trong giai đoạn kéo dài 25 năm từ 1990-2014, Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 10% năm, vượt Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới từ 2010. Trong giai đoạn 2004-2016 GDP của Trung Quốc tăng trưởng tới 4 lần từ 2.500 lên 10.000 tỷ USD và đuổi sát Mỹ. Đến trước giai đoạn Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền 01/01/2017, nếu như tốc độ phát triển kinh tế của Mỹ và Trung Quốc vẫn duy trì như thời gian trước đó thì theo dự báo của WB và IMF, chỉ đến năm 2025 hoặc cùng lắm là 2030 Trung Quốc sẽ vươn lên thay thế Mỹ để trở thành cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới. Không chỉ phát triển về lượng, mà Trung Quốc còn phát triển về chất, hướng đến các tiêu chí quản trị doanh nghiệp, quản trị quốc gia thông minh, xây dựng lối sống, cách hành xử văn minh của người dân theo những tiêu chuẩn cao nhất của thế giới. Nhờ sự lớn mạnh về kinh tế, sự phát triển về khoa học kỹ thuật vượt bậc, Trung Quốc cũng mạnh dạn, tự tin và quyết đoán trong chi tiêu quốc phòng, trong hành xử với láng giềng và trong quan hệ quốc tế cho phù hợp với vị thế mới của mình. Đáng chú ý là Trung Quốc thực hiện cùng lúc hai chiến lược lớn, đầy tham vọng là trở thành cường quốc số một thế giới về công nghệ vào năm 2025 và chiến lược Vành đai, Con đường (BRI) nhằm tạo ra một hệ thống riêng, trong đó Trung Quốc có vai trò chi phối. Chiến lược Vành đai, Con đường nếu được thực thi đầy đủ sẽ giúp thúc đẩy 6 kết nối chặt chẽ về đường không, đường biển, đường bộ, đường sắt, kết nối về mạng lưới viễn thông, kết nối về dịch vụ tài chính giữa Trung Quốc và khoảng 80 quốc gia trên thế giới, kéo dài từ Bắc Á qua Đông Nam Á, Nam Á, Trung Đông, châu Phi, một phần Tây và Đông Âu, Nga và Trung Á, những nước chiếm khoảng 1/2 dân số, 1/3 tổng GDP và 1/4 tổng thương mại thế giới. Cùng với BRI, Trung Quốc liên tiếp cho ra đời Ngân hàng Phát triển Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) củng cố và mở rộng vai trò của Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Nhóm BRICS gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi… Dưới góc nhìn của Trump và Chính quyền mới ở Mỹ, sự vươn lên của Trung Quốc và cách thức Trung Quốc thiết lập một hệ thống riêng không khác gì cách thức Mỹ từng làm trước đây khi Thế chiến II kết thúc để xác lập và củng cố vị trí siêu cường lâu dài sau đó. Và đây là điều không thể chấp nhận được với Trump cũng như bất kỳ chính quyền nào của Mỹ trước đó. Tuy nhiên, trong khi các vị Tổng thống tiền nhiệm hoặc né tránh, hoặc không có một chiến lược rõ ràng rồi sau đó đối phó với Trung Quốc một cách nửa vời thì chiến lược của Trump lại hết sức rõ ràng với hai bước song song: (i) Đối đầu trực diện, tìm cách làm suy yếu đối phương về mọi mặt; và (ii) “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” (Make America Great Again) thông qua việc kiên trì thực hiện khẩu hiệu tranh cử “Nước Mỹ trên hết” (America First). Thực chất của chiến lược này là tạo khoảng cách “an toàn” giữa Mỹ và đối thủ tiềm tàng đang bám ngay sát nách, khiến đối thủ không đủ sức mạnh và khả năng để tranh chấp hay thách thức vị trí số một của Mỹ một cách hiệu quả. Làm suy yếu đối thủ tiềm tàng về mọi mặt Đối với Chính quyền Trump, “mối đe dọa” lớn nhất, trực tiếp nhất và “nguy hiểm” nhất hiện nay đối với vị trí siêu cường và hệ thống quốc tế do Mỹ đóng vai trò chủ đạo không còn là chủ nghĩa khủng bố hay mối đe doạ từ Nga mà là từ Trung Quốc và điều này được nêu rõ trong Chiến lược an ninh quốc gia mới công bố đầu năm 2018. Thách thức này lớn hơn hẳn so với tất cả các thách thức mà Mỹ từng phải đương đầu từ sau Thế chiến II đến nay. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mối đe dọa của Liên Xô chủ yếu từ góc độ an ninh và quân sự chứ chưa bao giờ là thách thức kinh tế. Còn Nhật, thì chỉ tạo ra thách thức kinh tế, thương mại đối với Mỹ trong một thời gian ngắn chứ còn xét về các khía cạnh khác như dân số, chiến lược hay ý thức hệ thì Nhật lại không hề có tham vọng thách thức hay soán ngôi Mỹ. Trái lại, trong các cường quốc lớn trên thế giới hiện nay, chỉ duy nhất Trung Quốc vừa có sức mạnh kinh tế, lẫn sức mạnh quân sự với kho vũ khí hạt nhân hùng hậu, có dân số đông nhất thế giới, có lãnh thổ đủ rộng, có ý thức hệ khác biệt, hơn nữa Trung Quốc là cường quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ và có lẽ hiện là cường quốc duy nhất, ngoài Mỹ, có tham vọng trở thành cường quốc số một thế giới. Trong 500 năm qua, lịch sử thể giới đã chứng kiến 16 cuộc đối đầu giữa một cường quốc đã được thiết lập và một cường quốc đang trỗi dậy và tìm cách soán ngôi, trong đó 12 cuộc đối đầu kết thúc bằng chiến tranh. Thực ra, ngay từ cách đây ba năm, tác giả của bài viết này cũng đã từng đưa ra cảnh báo về “bẫy Thucydides” và cuộc xung đột “định mệnh”, “không lối thoát” giữa Mỹ và Trung Quốc. Đặt cạnh tranh Trung – Mỹ trong bối cảnh đó thì xung đột thương mại chỉ là “câu chuyện nhỏ”, còn câu chuyện lớn hơn là sự cạnh tranh chiến lược, đối đầu trực diện về mọi mặt, trong đó Mỹ là bên đóng vai trò chủ động. Vậy tại sao Trump lại chọn cuộc chiến thương mại (trade war) và tại sao lại vào lúc này? Trước hết đây là thời điểm kinh tế Mỹ đang ở giai đoạn tốt nhất trong hai thập niên qua, tính từ các góc độ: niềm tin của người tiêu dùng, giới doanh nghiệp; sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán cao nhất mọi thời đại; tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; tỷ lệ thất nghiệp thấp kỷ lục (3,7%)… Điều này có được một mặt là do cố gắng của chính quyền Trump, nhưng cũng có yếu tố may mắn khác là kinh tế Mỹ đang ở đỉnh cao của chu kỳ tăng trưởng. Trong khi đó , kinh tế Trung Quốc đang trong giai đoạn điều chỉnh, phát triển chậm lại sau giai đoạn phát triển quá nóng theo chiều rộng. Điều này có nghĩa Trump đang ở thế thượng phong để tung các “đòn độc” mà không sợ bị ảnh hưởng nhiều đến kinh tế Mỹ. Còn chọn lĩnh vực thương mại thì theo tính toán của chính quyền Trump, đây là lĩnh vực Trung Quốc dễ tổn thương nhất do cán cân thương mại hai bên quá chênh lệch: Năm 2017, Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc 130 tỷ USD, còn nhập khẩu khoảng 506 tỷ USD, tức thâm hụt thương mại tới 376 tỷ USD. Trump cho rằng: (i) Là nước chịu thâm hụt thương mại lớn, Mỹ trong vai người mua mới ở vị trí thượng phong; (ii) Những hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc có thể dễ dàng thay thế bằng hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác; (iii) Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn nhất của Trung Quốc, và thương mại đóng góp tới 1/3 tăng trưởng kinh tế Trung Quốc. Tuy nhiên, đích cuối cùng của Trump là đánh vào chuỗi sản xuất, cung ứng hàng hoá của Trung Quốc, chặn việc tiếp cận công nghệ cao để đi tắt đón đầu, và buộc Trung Quốc phải mở cửa thị trường, thay đổi cơ cấu kinh tế theo ý đồ của Mỹ. Nếu chấp nhận, nhiều khả năng kinh tế Trung Quốc sẽ bị kéo lùi, rơi vào tình trạnh, suy thoái, trì trệ như của Nhật Bản 30 năm trước. Đây là lý do mà Trung Quốc không thể chấp nhận và các cuộc đàm phán Mỹ-Trung về giải tỏa chiến tranh thương mại Mỹ-Trung cho đến nay không đạt kết quả. Có thể dễ dàng nhận thấy, nếu kinh tế Trung Quốc bị kéo lùi lại do hệ quả của chiến tranh thương mại thì có thể dẫn đến những hệ quả ghê gớm: thất nghiệp tăng, nguy cơ bất ổn xã hội tăng cao, thị trường chứng khoán giảm tốc, đồng tiền mất giá, dự trữ ngoại hối sụt giảm, nguồn tiền đố vào chi tiêu quốc phòng cũng như đầu tư cho chiến lược “vành đai, con đường” sẽ không còn được dồi dào như trước. Điều đáng chú ý là ngược lại với dự báo của hầu hết các nhà kinh tế, Trump càng siết chặt thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ thì kinh tế Mỹ lại càng nhận được tín hiệu tốt chứ không phải theo chiều ngược lại. Một tín hiệu nữa không tốt cho Trung Quốc là Bộ trưởng thương mại Mỹ Wilbur Ross vừa “khoe” đã tìm ra “viên thuốc độc” (poison pill) để “trị” Trung Quốc, đó là “cấy” vào Hiệp định thương mại USMCA vừa ký giữa Mỹ, Mexico và Canada (thay cho Hiệp định NAFTA) một điều khoản cho phép hai nước còn lại có thể huỷ hiệp định 3 bên và ký hiệp định thương mại tự do song phương nếu một trong ba thành viên USMCA ký hiệp định thương mại tự do với nước có nền kinh tế “phi thị trường”, hàm ý chỉ Trung Quốc. Bộ trưởng Ross còn tiết lộ, Mỹ sẽ đưa điều khoản này vào các hiệp định thương mại tự do đang đàm phán với Nhật Bản và EU, nhằm mục đích gây sức ép tối đa lên Trung Quốc. “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” Về cách tiếp cận, chính sách kinh tế của Trump sau khi nhậm chức không khác mấy so với người tiền nhiệm Ronald Reagan cách gần 40 năm trước với chính sách kinh tế Reaganomics, đó là: Ở trong nước, Reagan cắt giảm chi tiêu của chính phủ nhằm giảm thâm hụt ngân sách, trong khi giảm mạnh thuế doanh nghiệp từ 48% xuống còn 34% nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu, sản xuất. Còn người dân, thuộc tất cả các giới được miễn giảm mạnh thuế cá nhân, trong đó giới giàu có, trung lưu, được hưởng lợi nhất, nhằm khuyến khích tiêu dùng trong nước. Ngoài ra Reagan còn tìm cách tăng lãi suất đồng USD trong nước rất cao, có lúc lên tới 21,5% nhằm thu hút tiền từ trong nước Mỹ và từ khắp thế giới với hai mục tiêu: (i) Tái cấu trúc và hiện đại nước Mỹ; (ii) Đổ tiền vào cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô. Trong thời kỳ Reagan, ngoài chuyện củng cố sức mạnh kinh tế, Mỹ còn “đánh gục” Liên Xô bằng các đòn “hội đồng” như cùng OPEC phối hợp hạ giá dầu để triệt hạ nền kinh tế Liên Xô vốn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu dầu, đồng thời buộc Liên Xô phải tham gia vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ và cả khối NATO, cũng như gài bẫy để Liên Xô dính vào “cú lừa thế kỷ” về sáng kiến “Chiến tranh các vì sao” của Mỹ. Điều này đã buộc Gorbachev phải đi vào hòa dịu, giải trừ quân bị với Mỹ, rồi tiến tới “tự giải thể” khối quân sự Warsaw Pact, khối kinh tế Comecon giữa Liên Xô và các nước Đông Âu, cũng như Liên Bang Xô viết trong giai đoạn cuối những năm 1980, đầu những năm 1990. Về cơ bản, Trump cũng có cách tiếp cận về kinh tế và quân sự tương tự Reagan, nhưng có một số điều chỉnh do bối cảnh quốc tế hiện nay, cũng như tương quan, so sánh sức mạnh tổng thế giữa Mỹ với các đồng minh, địch thủ cũng có những thay đổi căn bản. Về kinh tế, với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết” (America First) và cách làm quyết liệt đi đôi giữa nói và làm, Trump đang tìm cách lấy lại sức mạnh kinh tế cho nước Mỹ thông qua một loạt biện pháp chính như: (i) Giảm mạnh thuế doanh nghiệp từ 35% xuống còn 21%; (ii) Giảm đồng loạt thuế thu nhập cá nhân, với tổng số thuế cắt giảm lên tới 1.500 tỷ USD trong thời gian tám năm từ 2018-2025: (iii) gỡ bỏ đáng kể các luật lệ, rào cản đối với doanh nghiệp; (iv) rút khỏi hoặc bỏ qua các hiệp định thương mại đa phương, đàm phán lại các hiệp định tự do thương mại song phương, nhấn mạnh đến yếu tố “công bằng”, đảm bảo quyền tiếp cận thị trường nước ngoài tốt hơn cho hàng hóa Mỹ; (v) Gây sức ép bằng hình thức thuế quan để ép các công ty Mỹ và công ty nước ngoài chuyển dây chuyền sản xuất, công nghệ hoặc mở nhà máy trên đất Mỹ. Với hàng loạt biện pháp mang tính quyết liệt, và phần nào đó khá cực đoan, Trump đã ghi được bảng thành tích kinh tế khá tốt dẫu mới cầm quyền chưa được hai năm. Cụ thể là: – Tỷ lệ thất nghiệp tính đến đầu tháng 10/2018 giảm xuống còn 3,7%, mức thấp nhất trong 50 năm qua. – Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2017, năm đầu tiên Trump nắm quyền, là 2,3%, cao hơn rất nhiều so với tốc độ 1,5% năm 2016 trước đó. Con Quý II, tốc độ tăng trưởng đạt 4,2%, mức cao nhất kể từ năm 2014. – Lòng tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp hiện ở mức cao nhất tính từ thời điểm năm 2000. – Chỉ số công nghiệp Dow Jones của thị trường chứng khoán Mỹ hiện vào khoảng 26.500 điểm, tức cao khoảng 33% so với đỉnh cao 20.000 điểm dưới thời Obama. Thành tích kinh tế này trái ngược với đà đi xuống của kinh tế Trung Quốc, cũng như thực trạng tương đối ảm đạm của hầu hết các nền kinh tế lớn khác. Trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng, Trump không chỉ mạnh tay chi tiêu cho quốc phòng với ngân sách quốc phòng năm 2018 và 2019 lần lượt là 640 tỷ và 716 tỷ USD, tức gấp khoảng 5 lần so với ngân sách quốc phòng lớn thứ hai thế giới của Trung Quốc. Không chỉ một mình tăng ngân sách quốc phòng, Trump còn bằng mọi cách gây sức ép buộc các đồng minh chủ chốt như Hàn Quốc, Nhật, và các nước đồng minh trong NATO tăng ngân sách quốc phòng để tạo sức mạnh cộng hưởng và đã thành công ở mức độ nhất định khi một số nước châu Âu thành viên NATO đẩy nhanh mức chi ngân sách quốc phòng từ mức trên dưới 1% hiện nay lên mức 2% tổng GDP trước năm 2024. Cách lập luận của Trump rất đơn giản, nhưng hiệu quả: Nếu muốn dựa vào ô an ninh của Mỹ thì trước hết các đồng minh phải thực sự quan tâm đến củng cố quốc phòng của mình thông qua việc tăng ngân sách cho lĩnh vực này. Nếu như đến an ninh của mình mà họ cũng không quan tâm thì cũng chẳng có lý do để Mỹ phải bận tâm. Đáng chú ý là cách tiếp cận và tìm cách xích lại gần Nga của chính quyền Trump. Trong nội bộ Mỹ, không khí và quan hệ thù địch với Nga hiện khá cao do những cáo buộc Nga can thiệp cuộc bầu cử 2016 để Trump lên nắm quyền vẫn chưa được giải tỏa. Tuy nhiên, Trump vẫn nhắm đến Nga với nhiều mục tiêu khác nhau: Thứ nhất, Trump cho rằng Nga tuy bị suy yếu nhiều, nhưng xét từ góc độ quân sự, Nga vẫn là cường quốc quân sự duy nhất có thể đưa nước Mỹ “trở về thời kỳ đồ đá” nếu xảy ra xung đột quân sự. Do đó, để quan hệ Mỹ-Nga ở tình trạng đối đầu lâu dài sẽ không có lợi. Thứ hai, việc xích lại gần Nga sẽ làm cho các nước châu Âu thành viên NATO lo ngại và do vậy không cần gây thêm sức ép cũng buộc họ tự tăng ngân sách quốc phòng. Thứ ba, việc đi với Nga còn là cách để Mỹ tạo sức ép tối đa lên Trung Quốc – quốc gia được xem như địch thủ chiến lược lớn nhất của Mỹ vào lúc này. Nhìn cách Trump đi với Nga để tạo sức ép lên Trung Quốc lúc này thấy không khác mấy so với cách mà Mỹ dưới thời Nixon và Kisinger tìm cách khai thông quan hệ với Trung Quốc trong những năm 1970 để cô lập và tạo sức ép tối đa lên Liên Xô, để rồi nước này đi vào con đường thỏa hiệp với Mỹ và tự tan rã vào năm 1991. Hiện còn quá sớm để đánh giá hết những tác động từ các bước đi của Trump trong việc củng cố sức mạnh Mỹ. Ngay cả thời Reagan, dù ra khỏi Chiến tranh Lạnh với tư cách người chiến thắng, nhưng nước Mỹ cũng “thương tích đầy mình”, chẳng hạn như nợ công cao, sức cạnh tranh của nền kinh tế suy giảm… Còn Trung Quốc là cường quốc thứ hai, có nhiều sức mạnh vượt trội chứ không phải là cường quốc chỉ dựa vào sức mạnh quân sự và lệ thuộc và dầu khí như Liên Xô trước kia. Tuy nhiên, các tác động của cuộc chiến thương mại này với cả hai, đặc biệt là với Trung Quốc, với nền kinh tế thế giới và các cấu trúc khu vực và toàn cầu thì ngày càng rõ nét. Cuộc chiến thứ năm: Xây dựng một trật tự quốc tế mới Hoàn toàn không quá lời khi nói rằng trật tự thế giới hình thành từ thời hậu Thế chiến II đến nay với các thiết chế trụ cột như Liên Hợp Quốc, NATO, WTO, IMF, WB, cùng nhiều thoả thuận quốc tế khác… là trật tự trong đó Mỹ đóng vai trò “Kiến trúc sư trưởng”, là “người khởi xướng”, và cũng là người được hưởng lợi chính từ trật tự này. Chắc chắn Mỹ sẽ không có bất cứ vấn đề gì với hệ thống và các thiết chế này chừng nào mà vai trò và địa vị số 1 thế giới của Mỹ vẫn được duy trì và đảm bảo. Tuy nhiên, từ đầu những năm 2000 khi Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ đe dọa vị thế siêu cường số 1 thế giới của Mỹ và đồng thời sức mạnh của Mỹ suy giảm tương đối so với Trung Quốc và các cường quốc khác thì Trump và ê-kíp của mình, ngay từ khi bắt đầu tham gia tranh cử Tổng thống, lại đổ lỗi cho chính hệ thống quốc tế mà Mỹ đã góp tay xây dựng nên là “tội đồ” của những yếu kém của nước Mỹ. Họ cho rằng đã đến lúc cần phải đặt lại vấn đề, xem xét lại một cách căn bản toàn bộ hệ thống quốc tế và các thiết chế cũ xem các thiết chế này có còn phù hợp với lợi ích của Mỹ nữa hay không, tức còn có giá trị trong việc giúp Mỹ duy trì ngôi vị bá chủ thế giới của mình. Theo quan điểm của chính quyền Trump, các thiết chế do chính Mỹ lập ra trước kia chỉ phù hợp với bối cảnh cũ, nhưng nay các thiết chế này đã đóng xong vai trò lịch sử, không còn phù hợp, thậm chí đi ngược lại với lợi ích của Mỹ thì Mỹ cần đặt lợi ích quốc gia của mình lên trên (America First) và mạnh tay “vứt bỏ” các cam kết không cần thiết. Ngay từ năm 1987 học giả Mỹ Paul Kennedy đã viết cuốn sách “Sự thăng trầm của các cường quốc” (The Rise and Fall of the Great Powers) trong đó cho rằng một trong những nguyên nhân khiến các cường quốc suy vong là do đế quốc trải rộng và các cường quốc này thực thi các cam kết quốc tế vượt quá khả năng của mình. Tác giả cũng đưa ra lời cảnh báo để Mỹ không đi vào con đường tương tự. Cảnh báo này cũng trùng hợp với tư duy của Trump khi cho rằng các nước khác được hưởng lợi bởi hệ thống quốc tế hiện nay phải có nghĩa vụ đóng góp nhiều hơn và không có lý gì để Mỹ phải sử dụng tiền đóng thuế của người dân bảo vệ cho những quốc gia có mức thu nhập đầu người thậm chí còn cao hơn của nước Mỹ. Như vậy, có thể thấy Trump thực hiện một chính sách tương đối nhất quán cả về đối nội, lẫn đối ngoại: Đó là tìm cách làm nước Mỹ mạnh lên từ bên trong và đặt lợi ích quốc gia lên trên các cam kết quốc tế. Đáng chú ý là trong quá trình xem xét lại các cam kết quốc tế của Mỹ, Trump nhận thấy nước Mỹ có quá nhiều cam kết quốc tế “vô bổ”, gây tốn kém không ít cho ngân sách liên bang. Việc tấn công tổng lực vào một loạt các thiết chế quốc tế lớn như Liên hợp quốc, UNESCO; vào các hiệp ước, các thiết chế lâu đời với đồng minh, láng giềng như NATO, nhóm G-7, NAFTA; vào các thỏa thuận với đối tác, bạn bè như TPP (chuẩn bị bước vào giai đoạn ký kết)… ngay từ ngày đầu tiên bước chân vào Nhà Trắng đã biến Trump thành nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa quốc gia nhiệt thành, “kẻ” chủ trương ủng hộ nghĩa biệt lập, và là một trong những nhà lãnh đạo Mỹ “đáng ghét” nhất trên thế giới. Tháng 1/2018, Viện thăm dò dư luận Gallup tiến hành khảo sát ý kiến của người dân 134 nước trên thế giới và kết quả là tỷ lệ trung bình ủng hộ lãnh đạo Mỹ giảm mạnh từ 48% năm 2016 xuống còn 30% vào 1/2018. Tuy nhiên, Trump dường như có một mục tiêu và lộ trình được lập trình từ trước nên tỏ ra không mấy bận tâm vào việc lãnh đạo hay người dân các nước nghĩ về mình hay nước Mỹ, miễn là việc mình làm phục vụ lợi ích của nước Mỹ, đặt nước Mỹ lên trên hết (America First). Dù chưa định hình rõ nét, nhưng có thể thấy sơ bộ một số bước đi chính của Trump trong việc “xoá bàn cờ làm lại”, đặt ra luật chơi mới với 5 bước đi sau: Một là, rút nước Mỹ ra khỏi các thiết chế/cam kết quốc tế không phù hợp với lợi ích của nước Mỹ Rõ nhất trong hai năm đầu tiên cầm quyền là Trump rút khỏi các thoả thuận “đình đám” như Hiệp định thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP đã được hoàn tất vào phút chót chỉ chờ được phê chuẩn; cắt đóng góp của Mỹ và rút khỏi Tổ chức Văn hóa, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp Quốc UNESCO; Hiệp định chống biến đổi khí hậu; rút khỏi Thoả thuận hạt nhân P5+1 ký năm 2015 với Iran; Hội đồng nhân quyền… Chính từ các hành động này nên Trump bị xem là người theo đuổi chủ nghĩa đơn phương, làm cho Mỹ bị cô lập trên quốc tế, trái với cách tiếp cận đa phương, can dự tích cực của người tiền nhiệm. Trong quyết định rút khỏi TPP, chính quyền Trump cho rằng ngành công nghiệp chế tạo của Mỹ sẽ bị ảnh hưởng và Mỹ sẽ bị mất nhiều việc làm phổ thông do doanh nghiệp sẽ tìm cách chuyển sản xuất sang những nước thành viên có lương thấp trong TPP. Còn với Hiệp định chống biến đổi khí hậu, Trump ngay từ đầu đã cho rằng các bằng chứng khoa học về biến đổi khí hậu là lòe bịp (a hoax) và không đáng tin cậy, và việc thực hiện các cam của Thỏa thuận chống biến đổi khí hậu vừa gây tốn kém cho doanh nghiệp, vừa làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ. Với Iran, Mỹ cho rằng thỏa thuận P5+1 chỉ giúp làm chậm lại chứ không thể giúp cản bước Iran nghiên cứu, sản xuất vũ khí hạt nhân. Đáng chú ý, việc áp đặt cấm vận xuất khẩu dầu của Iran còn nhằm vào Trung Quốc nước đầu tư tới 106 tỷ USD vào ngành dầu khí Iran, cũng như giúp ngành xuất khẩu dầu và khí hoá lỏng của Mỹ “cất cánh” sau khi Mỹ có đột biến về tăng sản lượng dầu đá phiến và hoàn tất việc lắp đặt đường ống dẫn dầu Keystone nối từ Alberta (Canada) tới tận Cảng Arthur (Texas) miền Nam nước Mỹ. Hai là, gây sức ép, đàm phán lại các hiệp định/thoả thuận/định chế cũ Đáng chú ý nhất là thành công của Trump trong việc đàm phán lại Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA với tên gọi mới là Hiệp định USMCA giữa Mỹ, Mexico và Canada ký ngày 30/9/2018 vừa qua. Các cuộc đàm phán để đi đến Hiệp định mới USMCA này cho thấy Trump quả là một cao thủ về đàm phán quốc tế. Trước hết Trump không tìm cách đàm phán ba bên đồng thời, mà tiến hành hai cuộc đàm phán riêng rẽ với Mexico và Canada, trong đó nhằm vào Mexico là mắt xích yếu nhất. Đồng thời trong suốt quá trình đàm phán Mỹ không ngừng gây sức ép, công kích công khai lãnh đạo Canada. Việc đạt được thỏa thuận trước với Mexico đã gây sức ép rất lớn và đặt Canada vào thế phải kết thúc đàm phán với điều kiện của Trump nếu không sẽ bị gạt ra rìa. Với lợi thế có được trong tay USMCA, các bước tiếp theo của Mỹ có thể nhìn thấy trước là Mỹ sẽ tiến hành hai cuộc đám phán song phương đồng thời với Nhật và EU, trong đó Mỹ sẽ tìm cách cài tiếp “viên thuốc độc”, tức tìm cách ngăn không để cho hai nền kinh tế lớn này ký thỏa thuận thương mại tự do với Trung Quốc. Sau khi có được thoả thuận thương mại với Nhật Bản và EU, bước tiếp theo là Mỹ, lúc này đã ở thế thượng phong, gây tiếp sức ép lên Trung Quốc, buộc nước này phải mở cửa và cải cách theo các điều kiện do Mỹ đặt ra. Đối với WTO, nếu không đáp ứng các điều kiện do Mỹ đặt ra, thậm chí không loại trừ khả năng Mỹ sẽ vận động Nhật, EU và các nước khác lập ra chế định mới thay thế cho tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Trong các vấn đề quân sự hay quan hệ với đồng minh trong NATO, G-7 Trump cũng tỏ ra “thờ ơ” bề ngoài, nói lấp lửng hay nước đôi vê các cam kết bảo vệ đồng minh của Mỹ. Mục đích của Trump là gây sức ép buộc đồng minh tăng ngân sách quốc phòng, chia sẻ nhiều hơn gánh nặng và trách nhiệm an ninh quốc tế với Mỹ, song song với việc ép các đồng” tự nguyện” mở cửa thị trường, thực thi các biện pháp nhằm giúp Mỹ giảm thâm hụt thương mại. Ba là, cắt giảm cam kết tài chính, gây sức ép cải tổ các định chế quan trọng Một trong những tổ chức quốc tế lớn nhưng nhận nhiều chỉ trích nhất của chính quyền Trump về sự quan liêu, quản lý yếu kém… là Liên Hợp Quốc (LHQ). Mỹ sở dĩ có tiếng nói quan trọng ở LHQ vì Mỹ là quốc gia đóng góp ngân sách lớn nhất, lên tới 22% tổng ngân sách hàng năm cho tổ chức này (5,6 tỷ USD năm 2017) và là thành viên của Hội đồng Bảo an. Sự bất bình của Mỹ cũng có lý do riêng. Tuy đóng góp nhiều cho ngân sách của LHQ song ảnh hưởng của Mỹ tại đây lại không như Mỹ mong muốn, đặc biệt trong các cuộc bỏ phiếu liên quan đến tranh chấp Israel-Palestine. Ngoài ra, Mỹ thấy nhiều nước không có sự đóng góp tương xứng vào ngân sách LHQ so với tỷ lệ GDP của họ trong tổng GDP toàn cầu. Song song với sức ép về chính sách kêu gọi LHQ cải tổ trong 3 lĩnh vực là Quản lý, An ninh và Phát triển Mỹ cũng đồng thời tuyên bố cắt giảm đóng góp lên tới 5% tổng ngân sách của LHQ (285 triệu USD), chủ yếu dành cho lĩnh vực gìn giữ hòa bình bắt đầu từ năm 2018. Bốn là, tấn công trực diện các thiết chế mới ra đời của đối phương Đối với Mỹ hiện nay, Chiến lược Vành đai, Con đường (BRI) và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) của Trung Quốc là những thiết chế tạo ra các thách thức đối với Mỹ về nhiều mặt. Với BRI, Mỹ lo ngại sự hình thành của một thiết chế mới, một vành đai phát triển quốc tế mới không theo các chuẩn mực do Mỹ đặt ra, giảm lệ thuộc vào Mỹ và phương Tây, trong khi lại lệ thuộc vào Trung Quốc về đầu tư, công nghệ… Với AIIB, Mỹ lo ngại nhất về (i) sự thiếu khách quan trong các quyết định cho vay, cho rằng AIIB sẽ thiên vị, chỉ cung cấp tín dụng cho những nước có quan hệ tốt với Bắc Kinh; (ii) Khả năng quản trị rủi ro không tốt, vượt quá khả năng trả nợ của những nước đi vay có thể khiến họ hoặc rơi vào tình trạng phá sản hoặc bị lệ thuộc về tài chính vào Trung Quốc; (iii) Có thể giúp nước đi vay đầu tư tăng trưởng tốt trong ngắn hạn, nhưng lại thiếu cơ sở cho phát triển ổn định và bền vững trong dài hạn. Năm là, lập ra các thiết chế, các định chế mới Các đề nghị lập thiết chế mới hiện nay chưa nhiều, mới thấy rõ nhất là sáng kiến về “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” thay thế cho Chiến lược tái cân bằng của Mỹ ở Đông Nam Á. Có thể do chính quyền Trump còn đang bận tâm vào các vấn đề nội bộ, hoặc Mỹ cho rằng có thể tận dụng một số cơ chế cũ nhưng có những điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới cũng như lợi ích của Mỹ. Dù mới chỉ ở dạng ý tưởng và còn thiếu nhiều chi tiết, nhưng “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” của Mỹ hiện vấp phải nhiều phản ứng trái chiều, đặc biệt từ Nga và Trung Quốc, những nước cho rằng trong khu vực hiện đang có nhiều cơ chế hữu dụng như EAS, ARF, ADMM+… để xử lý các vấn đề khu vực và không nhất thiết phải lập ra các cơ chế mới. Điều này cho thấy cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trên phạm vi khu vực và toàn cầu đang ngày một rõ nét và có thể đưa quan hệ quốc tế đến chỗ chia rẽ, phân cực như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh trước kia. Nhìn tổng thể, cuộc chiến của Trump để xây dựng một trật tự quốc tế mới lần này chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều lần so với công việc Mỹ đã làm cách đây trên 70 năm. Khi đó Mỹ ở thế thượng phong với sức mạnh tổng hợp vượt trội so với cả đồng minh lẫn đối thủ. Còn hiện tại thì thế và lực của Mỹ, tuy mạnh nhưng không còn ở thế áp đảo, khuynh loát các quốc gia khác. Ngoài ra, các đối thủ của Mỹ cũng sẽ không ngồi yên khoanh tay chịu trận. Và cũng không khó để nhận ra nhiều nước bắt đầu toan tính, tìm bước đi, lối thoát cho mình nhằm tránh rơi vào thế kẹt trong bối cảnh cuộc đối đầu, cạnh tranh địa-chiến lược Mỹ-Trung và “bóng ma” cuộc Chiến tranh Lạnh mới 2.0 với các vòng xoáy bất ổn, chia rẽ và phân cực đang ngày một hiện rõ./. TS Hoàng Anh Tuấn là cựu Giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao Việt Nam. Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả. Hoàng Anh Tuấn |
Forum: DANH NHÂN THẾ GIỚI - TÁC PHẨM VÀ TÁC GIẢ · Post Preview: #162165 · Replies: 0 · Views: 2,741 |
Posted on: Feb 4 2019, 01:18 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
Chỉ cần một bàn tay Nhớ hồi ở lính, sau mỗi lần về phép, trên đường trở lại đơn vị, tôi hay ghé nhà bà dì của một người bạn cùng đơn vị ở Quy Nhơn nghỉ lại một đêm. Ở đó tôi có dịp quen biết với mấy cô "em gái hậu phương", mà một cô là con gái của bà dì bạn tôi. Hồi đó, các cô đang là nữ sinh trung học. Xinh xắn, thơ ngây. Và những lần gặp gỡ ngắn ngủi đó không đủ để khám phá ra tài năng của các cô. Nên sau hơn 40 năm thất lạc, tôi vô cùng ngạc nhiên khi tình cờ gặp lại thì biết ra một cô nay là nhà thơ. * Tôi yêu thơ. Vì thơ là một nghệ thuật dùng ít chữ nhưng gây, gợi được nhiều cảm xúc, nhiều hình ảnh trong lòng người đọc. Như câu thơ của Nguyễn Tất Nhiên: "Nắng bờ sông như màu trang vở cũ. Thuở học trò em làm khổ ai chưa?" Chỉ có 16 chữ mà gợi nên bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu cảm xúc. Chưa kể, trong 16 chữ đó, không có chữ nào khen "em đẹp chim sa cá lặn" mà đọc xong, "em" nhất định phải cảm động ngất ngây.... Đầu năm, vì biết tôi khó có dịp đọc được báo trong nước nên cô "em gái hậu phương", nay đã gần thành "cụ già hậu phương", gởi cho tôi một bài thơ của cô đăng trong một tờ báo xuân. Tôi đọc. Và "bàn tay ấm" trong một câu thơ đã làm ấm lên một cảm giác thân thiết, thương mến trong lòng. * Trong giao tiếp thường ngày, tôi đặc biệt chú ý đến cái "hơi ấm" của bàn tay người mình bắt tay. Có những bàn tay ấm áp, có những bàn tay nhiệt tình, có những bàn tay lạnh lùng, có những bàn tay hờ hững.... Mỗi bàn tay có một "không khí" khác nhau... Và một người xa lạ, qua cái bắt tay thì đã gây nên trong lòng mình một cảm giác thân thiện, cởi mở hay xa cách, lạnh lùng... Cho nên, chỉ cần một "bàn tay ấm" thì cái lạnh của mùa đông sẽ không còn lạnh nữa. Cho nên chỉ cần nắm lấy một bàn tay ấm một hơi ấm yêu thương, ấm áp tình người thì cái lạnh trong lòng sẽ tan biến nhanh thôi... Chỉ cần một bàn tay. * "Nến Xuân Vẫn còn chút lạnh trên tay Làm ơn lấy hết, cho vay xuân nồng Nhu mì em gởi tặng không Cần bàn tay ấm khoả đông tràn về Đời còn một ít đam mê Làm ơn rót mật lắng nghe chân tình Nỗi buồn thì cứ rộng rinh Thắp lên ngọn nến riêng mình đón xuân." (Anh Phương) Ngo Du Trung |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162158 · Replies: 0 · Views: 2,884 |
Posted on: Jan 2 2019, 01:26 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
An Lộc - Kỷ niệm tuổi thơ tôi (Trích "Trận Đánh An Lộc") An Lộc và tôi, hay tôi và An Lộc. Chắc An Lộc chẳng biết tôi là ai, vì khi tôi rời trường tiểu học An Lộc về SG học lớp đệ thất, niên khóa 1963 tại trường trung học Nguyễn bá Tòng. Tôi còn quá nhỏ, mới hơn 10 tuổi. Chuyện của một đứa bé 10 tuổi và An Lộc. Mấy chục năm sau được viết lại phần lớn theo trí nhớ. Đó là quyết định của mẹ tôi, cho tôi về Saigon: – Thôi, đến lúc nó phải về học ở Saigon rồi! Ba tôi thì không thắc mắc hay quan tâm mấy về chuyện này. – Cứ để nó học ở đây, chỉ cần làm giấy xin miễn tuổi, ở đây khỏi phải thi tuyển vào đệ thất của trường Công Lập. Tôi học sớm một tuổi, nên về Saigon sẽ phải học trường Tư Thục, còn ở lại An Lộc thì học trường Công, Trung Học Bình Long. Trường Trung Học tỉnh Bình Long còn gần nhà tôi hơn là trường Tiểu Học nữa, bước ra sau nhà đi vài thước là nhìn thấy nó rồi. Dẫy nhà nằm sâu thụt lùi phía sau đồi, cách xa đường chính phía trước, khi mới thành lập chỉ có một dẫy nhà nằm theo hướng Tây Đông, cách xa mặt đường chính rất xa, thấp xuống dưới đồi, sân trước trường có mấy cây mít, mà tôi hay để ý những khi nó ra trái non, và những trái mít non này khó mà lớn thêm được nữa vì tôi và mấy đứa bạn trong cư xá xéo góc đối diện, thường hay mò qua vặt ăn non những trái mít nhỏ, chấm muối, có vị chát và mặn, chẳng ngon lành gì. Nhưng có lẽ cái thú tham lam được chiếm hữu nó cao hơn là đợi trái mít lớn lên và ai đó lớn hơn sẽ hái chúng mất trước khi lũ con nít đụng tới được. Kể ra, tôí mà về Saigon rồi thì ba tôi ở lại một mình chắc buồn hơn. Mẹ tôi sẽ đưa thằng em út đang ở Saigon về ở với ba tôi thay thế tôi, giống như tôi đã sống ở đây suốt hai năm học lớp Nhì và lớp Nhất với lớp Ba. Hai cha con sống với nhau trong căn nhà của cư xá công chức, gồm hai dẫy, có năm khối nhà liên kế, mỗi khối gồm 4 căn, ngay bên hông Tòa Hành Chánh Tỉnh, hay là chi khu, sau này là Tiểu Khu (bộ chỉ huy quân sự cấp Tỉnh) Bình Long. Khu cư xá đầu tiên này theo tôi dự đoán là được xây vào năm 57 hay 58, nằm đối diện ngay đằng trước bệnh viện Tỉnh Bình Long, Bệnh Viện là nơi rất ư hấp dẩn, và kinh hoàng đối với một đứa nhỏ nhiều tò mò như tôi. Nhất là cái nhà xác nằm bên hông bệnh viện, quay về phía bên con đường Ngô Quyền chung với Ty Công Chánh Bình Long, đó là nơi ba tôi làm việc. Ty Công Chánh tỉnh Bình Long nằm ở góc đường đi Phú Lố, đối diện với Bệnh Viện Bình Long. Ba tôi đi làm hàng ngày còn gần hơn tôi đi học nữa. Ông chỉ nhẩy lên xe đạp, theo đường nhựa chính, hay đi tắt qua phía sau nhà. Còn tôi thì phải đi ra con đường bên hông khu Toà Hành Chính Tỉnh, là một khu rộng lớn, đường bao bốn mặt. Tôi đi bộ ra góc Bệnh Viện và trường Trung Học, đi tắt từ nhà tới gốc cây Xoài nằm bên khu cư xá, bước qua con mương có mấy miếng cây để bước qua, bên kia đường (đường Cách Mạng 1 tháng 11) này là hàng rào của khu tòa Tỉnh Trưởng, đi đường Phan bội Châu tới góc đường quốc lộ 13, có trường Tiểu Học Thượng, dành cho con nít người Thượng, học nội trú trong đó, nằm xéo góc bắt đầu ở góc đường đổ dốc theo quốc lộ vào chợ. Còn trường Tiểu Học An Lộc thì nằm đối diện, quẹo phải đi dọc theo đường, (đường Nguyễn Huệ) cũng là quốc lộ 13, bên này là Tòa Hành Chánh, thì bên kia đường là trường Tiểu Học. Cái cổng đầu tiên, nằm gần cuối trường, có cây phượng già bên trong. Trường có sân đất rất rộng, nằm dọc theo quốc lộ 13, đối diện Tòa Hành Chánh, có bề mặt đường Nguyễn Huệ khá dài, và sâu. Cái cổng thứ nhì nằm phiá trên đầu, gần dẫy phòng học thẳng góc với đường chính, đây là khu lớp Nhì và lớp Nhất. Còn khu các lớp thấp hơn thi nằm tuốt dẫy nhà bên dưới, cách một cái sân rộng ơi là rộng. Có mấy lớp phòng học nằm ngang, và dĩ nhiên là có treo một cái trống trường ở khu nhà giữa, để đánh vang lên tùng tùng những lúc giờ bắt đầu vào học và ra chơi, rồi ra về. Tôi còn nhớ, ngày học hai buổi: sáng, hình như tới 9 giờ mới học, tới 11:30 là nghỉ trưa, về nhà ăn cơm, rồi tới chiều hình như 2 giờ hay 2:30 mới học lại, học tới 4:30 hay 5 giờ chiều. Lúc tôi học lớp Nhì và lớp Nhất thì giờ học là như vậy, còn lớp nhỏ hơn thì không còn nhớ có học hai buổi không. Mấy đứa lớp lớn có nhà ở xa, như trong Xa Cam, hay dưới chợ, dưới xa cuối tỉnh, thì ở lại buổi trưa, mang theo cơm ăn. Sau này, tỉnh lấy cái nhà giam cũ, chỉ là nhà một phòng bằng đá của Pháp làm ra hồi xưa, cách trường một khoảng đường, sửa lại, làm nơi cho học sinh ở xa, buổi trưa tới đó ăn cơm, và có chỗ nằm nghỉ. Tôi còn nhớ, lúc làm lễ khánh thành, có bà Phó Tỉnh Trưởng hay đến nhà tôi chơi, đến cắt băng khánh thành, còn tôi thì lúc đó lọc lớp Nhì, cũng mặc quần xanh, áo trắng, đi giầy vải Bata, đánh bôi kem trắng lên trên mặt vải của giầy, đứng hai hàng làm hàng rào danh dự cho lễ khánh thành. Ngày xưa, Bình Long là Hớn Quản thuộc về tỉnh Thủ Dầu Một, tới năm 1957, VNCH mới thành lập tỉnh Bình Long. Trong thời chiến, Sư Đoàn Không Kỵ 101 của Mỹ hoạt động chính ở vùng này, Quản Lợi, 5 km Đông An Lộc là căn cứ lớn của Hoa Kỳ yểm trợ cho toàn vùng này và qua tới Cam Bốt. Lúc đó, có Phượng và một hai cô bạn, nhà ở trong Xa Cam, cách đó ba cây số, Xa Cam là đồn điền cao su gần thị xã nhất (trường Xa Cam không có lớp Nhì hay lớp Nhất). Tôi nhớ rõ Phượng, lớn hơn tôi nhiều, khá xinh đẹp, hay mặc thêm cái áo bà ba nâu nhạt, hai vai áo bạc mầu vì nắng, khi đạp xe cho khỏi dơ cái áo trắng bên trong, vào lớp mới cởi áo ra, chỉ còn áo trắng, và dĩ nhiên là có thêm cái nón lá nữa. Lúc đó, tôi nhìn Phượng, phục lắm vì có xe đạp riêng, còn tôi thì chỉ đi bộ đi học hàng ngày, vì nhà rất gần. Còn cái xe đạp của ba tôi, thì hình như, cái yên xe cao lắm. Lúc đó tôi chỉ mới có 9, 10 tuổi gì đó. Còn thấp với cái xe đạp người lớn. Hình như cái xe đạp của Phượng, nó là một cỡ xe nhỏ, nhỏ hơn xe của người lớn một chút. Cứ thế mà ngày tháng đi qua, mỗi ngày ba tôi đi làm, tôi đi học, buổi trưa, cơm tháng được người ta mang tới nhà, treo bằng cái gà mên nhôm trên cao với cái móc sắt bên cửa sổ cho chó đừng nhẩy lên tới. Mỗi sáng gần trưa, tôi về trước ba tôi, lấy gà mên xuống, mở cửa nhà và hai cái cửa sổ to ra, mở hết cửa bên trong nhà cho mát, rồi chơi ngoài vườn một chút, thì ba tôi cũng về, hâm cơm lên rồi hai cha con ăn với nhau. Sau đó ngủ trưa, ba tôi đi làm lại trước, tôi đi học sau. Chiều tôi về trước, gọi mấy thằng bạn cùng khu dẫy nhà Công Chức, mang banh ra sân vận động, phía trước Tòa Tỉnh Trưởng đá banh, ngó chéo qua lại là trường tiểu học của tôi. Cứ như vậy, rồi tắm mưa, đá banh dính đầy bùn sình đất đỏ. Kéo nhau về, bên hông khu nhà liên kế 4 căn của tôi là bãi đất trống, phía trước nhà cũng trống, chỉ mới có đường đất. Phía trước đường quay về hướng Bắc đã có ba khối nhà liên kế đối diện với bệnh viện. Phía sau khu tôi chỉ có hai dẫy nhà, mặt tiền quay về hướng Nam, nhìn về rừng cao su Xa Cam. Bên miếng đất trống sát đường với Tòa Tỉnh Trưởng là cái bơm nước bằng tay, đặt chính giữa mảng sân xi măng nhỏ. Chúng tôi đùa giỡn lăn lộn ra miếng xi măng, bơm nước cho nhau tắm cho sạch đất bùn đỏ, mang theo cả xà bông, tắm kỳ cọ cho đã, chỉ việc thay nhau gạt cần, bơm nước lên xuống. Khỏi về nhà tắm lại, đỡ phải xài nước trong bể nước ở nhà, Mà mỗi tuần có xe bồn nước của đồn điền cao su bên trong Quản Lợi chạy ra, đi vào con đường phục vụ phía sau nhà, đút đầu vòi nước to đen vào cái lỗ trên tường, xả nước xuống cho đầy bể nước của mỗi nhà, qua cái lỗ hổng trên tường phía sau nhà bếp. Nhà nào cũng vậy, có cái bể nước, có caí lỗ vuông trên cao cho xe bồn thò vòi nước to vào xả xuống. Cái xe bồn nước của đồn điền cao su Pháp, có tài xế, và một người phụ, đi phía sau, cầm vòi nước, xả vào bồn, sau đó ló đầu nhìn vào cái lỗ coi đầy hồ chưa, rồi khóa nước, đi tới nhà kế tiếp. Với năm khối nhà, hai mươi căn nhà, xe bồn nước phải đi tới mấy chuyến, cung cấp nước xài cho cư xá công chức, hoàn tòan miễn phí, như một thỏa thuận của đồn điền cao su và phía chính quyền Tỉnh Bình Long. Còn họ lấy nước ở đâu thì tôi không biết vì còn nhỏ quá. *** Lúc đó là năm 1960 rồi, cuộc sống còn thái bình thạnh trị lắm. Mỗi chủ nhật là xe vận tải trong các đồn điền Cao Su ở quanh tỉnh chở đầy công nhân vô chợ Bình Long hay cũng gọi là chợ An Lộc, đoàn xe đậu dài những con đường chung quanh lối vào trung tâm Tỉnh và trên QL 13. Họ, công nhân làm cao Su túa xuống đi mua bán, phần đông đi đôi dép cao su trắng, dây quai cũng trắng rất đẹp. Tôi hỏi ra thì đó là dép riêng của đồn điền làm ra cho nhân viên xài, dùng đợt mủ cao su đầu tiên nguyên chất, nguyên thủy chưa pha trộn, nên dẻo dai, quai rất bền khó đứt. Tôi hỏi ba tôi chuyện đó, không biết ba tôi nói với ai, sau đó có người trong đồn điền gửi ra cho tôi một đôi. Cái chất cao su trắng, mềm dẻo, y như cái cao su trắng mà tôi và mấy đứa bạn hay vào rừng vét mủ dưới chén đặt gốc cây, và gỡ sợi mủ khô còn quấn quanh ở thân cây, sợi mủ mầu trắng, hơi hôi hôi và khai khai, quấn sợi lại thành những trái banh nhỏ, mềm và tưng lên rất là cao khi ném xuống, và nhẹ nữa. Còn loại quai dép cao su đã chế biến rồi pha đủ mầu sắc bán ở chợ thì cứng, không mềm dai mà lại khô, rất mau đứt, chắc họ pha chế thêm nhiều chất khác vào để sản xuất nhiều hơn và để tiết kiệm mủ cao su nguyên chất. Rồi chiến tranh bắt đầu len lén đến từ hồi nào. Đầu tiên là tôi thấy, ba coi mấy người thợ ty công chánh đắp cái lô cốt góc đường ngay sau tiểu khu, là khu vực tòa hành chánh bên hông nhà tôi. Cái lô cốt nằm ngay đầu đường, đối diện xéo qua bệnh viện Bình Long, đối diện qua trường trung học, đối diện qua khu cư xá nhà tôi ở. Lô cốt hình tròn vòng cung để quan sát ra bên ngoài từ các lỗ châu mai dưới thấp, một góc cắt khuyết áp vô tường Tiểu Khu cũng là lối vào ra bên trong rào phòng thủ, đắp đất, có khung cây tròn bên trong, rồi tưới nước trồng cỏ lên trên đó. Tôi hỏi ba tôi tại sao không xây cái lô cốt bằng bê tông, như cái của Pháp cuối dốc phố chợ cũ, trên đường đi vô Quản Lợi, qua khúc cua, qua cái cầu nhỏ. Cái lô cốt bê tông hai từng, mầu xám, xây từ thời Pháp, bỏ trống, là điểm thích thú khác lạ cho tôi ngắm nhìn mỗi lần ra vô Quản Lợi, khi đi về tới BL từ QL thấy nó là biết đã vô tới tỉnh. Cái lô cốt nổi bật ra vì chung quanh toàn là những hàng cây cao su trùng trùng điệp điệp nhìn buồn rũ rượi, nhất là vào mùa thu. Ba tôi nói, lô cốt làm bằng đất vững bền hơn làm bằng bê tông, đạn bắn vào nằm chìm trong đó, hơn là gây rung chuyển làm rạn nứt bê tông vì vang động, với lại lô cốt bê tông nổi lên lộ liễu quá rõ ràng, còn đắp đất tròn, trồng cỏ thì dễ ngụy trang hơn. Quả thật nhìn riết thì quen như cái cục cỏ xanh nổi u lên, trông không ghê rợn như cái mầu xám và cao của khối bê tông. Ba tôi làm ở Ty Công Chánh, nên coi thợ làm hết một vòng nhiều lô cốt phòng thủ cho Tòa Tỉnh Trưởng, là khu vực có 4 góc đường, trong đó có nhiều nhà, chiếm một khu đất lớn, 4 đường bao chung quanh, ngay trước trường Tiểu Học và trước nhà tôi ở. Khu vực quan trọng này thường được dân trong Tỉnh gọi là Tiểu Khu Bình Long, nơi có Tòa hành Chánh Tỉnh, sau xây thêm cái Hội Trường Tỉnh, kho gạo và nhiều khối nhà làm việc, có sân đánh tennis bên trong, ngay phía sau Tòa Hành Chánh hai từng mái cao là nơi quan trọng nhất trong trận chiến An Lộc, đó là khu hầm bê tông ngầm có từ lâu, sau đắp chồng thêm bao đất và các thùng phuy sắt đựng cát bên trong, Tướng Hưng chọn hầm này đặt BCH SĐ5 tiền phương cùng với BCH của Trung Đoàn7/SĐ5. Có nhiều bài viết nói đây là khu thành cổ do quân đội Nhật xây từ lâu. Thực ra ngoài tường rào nhìn từ bên ngoài vào thì chẳng thấy có thành quách gì như khi tôi ở đó, khi vào trong nhìn quanh thấy trống trải, lúc đó có sân Tennis, một khối nhà làm kho gạo. Vài cái nhà, lúc đó làm nhà cho Quận Đường An Lộc ở chung, một khối nhà Câu lạc Bộ là nhà ăn gần ra phía đường Phan Bội Châu, sau thấy có kéo pháo 105 ly về để trong khu đó. Sau trận chiến An Lộc năm 72, vì chỉ cách tiểu khu con đường trước mặt, cách hầm tử thủ của Tướng Hưng hơn 100m về hướng bắc, nên khu trung học vẫn còn đủ những khối nhà lớp học vì không bị đánh bom, chỉ bị hư hại trên khung mái thôi. Nay thì bị san bằng hết, không còn vết tích gì trước 75. Đối diện bên trường Trung Học, đối diện khu nhà tôi, về phía bên toà Tỉnh là Câu lạc Bộ của khu Tòa Hành Chánh hay Tiểu Khu. Sáng, ba dẫn qua ăn sáng, rồi đi làm, tôi về nhà đi học. Cái cảnh tôi và ba tôi vô ăn sáng, hay cuối tuần đi qua, gọi đĩa thịt heo ngâm dấm giò thủ gì đó ăn với đĩa đồ chua sà lát. Ba uống bia, tôi ngồi ăn phá mồi. Sau này, thì mấy người sĩ quan đi đóng quân xa nhà còn qua lại xoa đầu tôi hỏi han, có lẽ họ nhớ gia đình nhớ con của họ cùng tuổi với tôi. Con nít hình như không thấy có nhiều trong Câu Lạc Bộ của tòa tỉnh, của Chi Khu hay Tiểu Khu, trong đó chỉ có Sĩ Quan, nhân viên Hành Chánh và ba con tôi. Có người sĩ quan xoa đầu tôi buổi sáng, qua hôm sau, trong câu lạc bộ buồn tênh, mọi người giữ im lặng, không muốn nói chuyện, anh sĩ quan đó xoa đầu tôi đã tử trận ngay chiều hôm đó. Phía sau hàng cây mít, trong trận đánh An Lộc tháng 4, 5, 6 năm 72, bị bao vây, số người chết trong Bệnh Viện phía sau quá đông, miếng đất bên hông trường đối diện với BV được xe ủi đất của Ty Công Chánh đào lên, chôn cả ngàn người xuống đó vì xác xình thúi bên ngoài mất vệ sinh, có người trong khi đang chôn người chết bị pháo kích lại cũng chết theo chỉ cần đạp ngay xuống hố đang đào… Ngày nay có một biểu tượng kỷ niệm tại đây, nhưng rất tiếc trên đó vẫn còn ghi những hàng chữ tuyên truyền chính trị, ghi ngày tháng sai sự thực, đổ lỗi cho một bên, cho dù ai cũng biết nếu không có cuộc tấn công bao vây mùa hè năm 72, thi không có tới bao nhiêu trăm người đến trên vài ngàn phải bị vùi xuống trong ngôi mộ tập thể đó… chẳng hay ho hay hãnh diện gì khi người VN giết nhau tàn bạo tới mức độ tàn nhẫn như vậy vì chủ nghĩa chính trị !!! Tới thời gian này thì tấm bảng ghi đại khái là ngày nào đó vào tháng 10/72 (tới tháng 7, 8/72 dân Bình Long còn sống sót, hầu hết đều tản cư về trại tị nạn Phú Văn ở Bình Dương) máy bay B52 của Mỹ dội bom vào An Lộc giết trên 3000 người, tấm bảng ngớ ngẩn này đã được dẹp bỏ, không thấy nữa. Chiến tranh đang lan nhanh về tới thị xã của tỉnh, tôi mơ hồ nhận thấy điều đó, khi những chiếc xe jeep cứu thương chạy tải thương, với phần mái vải chỉ nhô ra che chỗ có băng ca, lòi ra phía cuối xe. Tôi tìm ra được điều bí mật là khi đứng trên hành lang lớp học, nhìn ra quốc lộ, thấy xe cứu thương chạy qua, quẹo trái vô phía trường Trung Học để đến Bệnh Viện, hay nhà Xác, là tôi biết người đó đã chết hay đang bị thương, không phải là do xe cứu thương chạy nhanh vội vã, hay chạy chậm bình thường. Cái bí mật này được kể cho mấy đứa bạn cùng lớp, tụi nó nể phục tôi lắm. Có lúc xe cứu thương chạy về ngay lúc tan học, mấy đứa vội vã chạy theo vào bệnh viện coi lời tôi nói có đúng hay không. Sau vài lần quan sát, tôi nhận ra khi hai đôi chân lòi ra sau băng ca, bên hông chỗ xe Jeep cứu thương làm dài ra. Đôi chân nào còn đi giầy trận đầy đủ là coi như người đó chết rồi, họ không cần tháo giầy ra. Còn thấy đôi chân vẫn còn mang vớ, hay để trần, là người đo bị thương, cởi giầy ra cho máu lưu thông. Bây giờ nghĩ lại cái bi thảm của chiến tranh, đứa con nít chín mười tuổi đầu đâu cần nhận ra cái sự chết chóc đó làm gì, nhưng thôi, chiến tranh chọn con nít như tôi lúc đó mà.. chứ con nít nào đi chọn chiến tranh!!! Cái Bệnh Viện Bình Long là nơi hấp dẫn nhất của mấy đứa nhỏ chúng tôi, như đã nói ở trên. Nhà tôi ở khối nhà thứ nhì quay mặt về hướng Nam, mênh mông đất trống trước mặt, lúc đó trống trơn chưa xây tiếp cư xá khác, không nhìn sang phía bệnh viện, mấy đứa ở khối nhà trước quay thẳng mặt vô bệnh viện, chỉ cách con đường. Bệnh Viện lúc đó chỉ có một dẫy nhà, cái nhà Xác, chỉ có một phòng, nằm lùi bên tay phải về phía con đường chung với ty Công Chánh đó là đường Ngô Quyền. Bên đó, xe hơi chạy tới ngay nhà xác, khi có xe cứu thương hay xe jeep hay người lao xao, là mấy đứa ở cư xá bên này ngó qua cửa sổ thấy, liền chạy qua coi gì xẩy ra, rồi đi báo cho tụi tôi ở dẫy phía sau, cửa nhà tôi quay về hướng Tòa Tỉnh Trưởng. Nào là thất tình uống thuốc độc tự tử, được đưa vô cấp cứu. Bác Triệu, ở ngay cư xá trước mặt BV là Y Tá trưởng, lúc đó bệnh viện không có bác sĩ gì hết, những ca nặng chỉ cấp cứu rồi chở về Bình Dương, nơi đó có bác sĩ Thọ làm Trưởng Ty Y Tế tinh, bác BS già này quen với gia đình tôi từ ngoài Bắc. sau này bác về làm Trưởng Bệnh Viện Biên Hòa, có lần lên BH chơi được ăn bê thui bác đãi hồi còn nhỏ, bác biểu mày cứ ăn nhiều thịt bò thui quấn lá lốt gì đó cho mau lớn. Người tự tử là cô gái trẻ uống thuốc nhức đầu gì đó, tin loan ra nhanh lắm, mấy đứa nhóc tụi tôi chừng mười tuổi đều có mặt, mấy anh lớn không dám tới coi vì sợ bị đuổi đi, mấy đứa còn nhỏ quá hay nhát thì không dám vô bệnh viện, chi có chừng ba hay bốn đứa chúng tôi, thường thì quần áo sạch sẽ đàng hoàng vì là con công chức. Phóng qua nhà thương, bên đó họ nhớ mặt từng đứa chúng tôi, bác Triệu nhớ từng đứa vì ông ta từng đè từng đứa ra chích tê-ta-nốt chống phong đòn gánh hay khâu vá gì đó vì tụi nhỏ hay nghịch hay bị đứt tay chân chẩy máu. Mấy đứa tụi tôi toàn con trai tò mò lắm, thằng gì nói, mình sẽ được nhìn thấy con gái lớn ở truồng, vì người ra phải rửa ruột bằng cách cởi quần thông lỗ đít. Trời!! đứa nào cũng đỏ mặt, ngực đập mạnh, phen này chắc được nhìn chị gái tự tử bị ở truồng để cấp cứu. Thường thì BV có một hai y tá trực, cần gì nặng chạy qua gọi bác Triệu, cấp cứu sơ sơ, nặng quá thì chuẩn bị xe cứu thương chở về Bình Dương hay SG, hay nhanh hơn, chở vào Quản Lợi có nhà thương của đồn điền Tây và ít nhất là 2 bác sĩ Tây trong đó. Mỗi năm tôi cũng vào đây vài lần, sẽ kể sau. Bác Triệu cũng chẳng phiền gì khi có chúng tôi quan sát loanh quanh hai ba đứa, toàn là con cháu, có khi còn sai biều tụi tôi chạy về nhà kiếm cái này cái kia, hay nhờ đi kêu thêm ai đó. Tưởng được coi đàn bà ở truồng vì tò mò, ai dè hổng phải vậy. Người con gái vẫn nằm nguyên quần áo, chỉ có được nới lỏng dây quần hay cổ áo ngực cho dễ thở, rồi phủ cái khăn lên ngực. Bác Triệu kê cái phễu to vô miệng, đổ nước gì vô, sau đó thòng cái sợi giây cao su đỏ vô họng, vô tới bao tử, rồi bóp trái banh cao su tròn dính với sợi dây, bóp trái banh bơm nước trong bao tử ra chẩy vô cái xô bên cạnh, làm đi làm lại vài lần, đó gọi là rửa ruột vì uống thuốc độc. Hoài công, mấy đứa tiếc hùi hụi, tưởng rửa ruột là thông lỗ đít, sẽ được nhìn chỗ kín của phụ nữ. Thôi đợi lần khác vậy. đúng là lũ quỷ con nít với tư tưởng không được trong sạch. Không lâu, ban đêm lại có ồn ào lu bu trước nhà thương, đèn sáng, được chạy máy điện riêng, vì ban đêm nhà máy điện chung của Tỉnh hình như tắt vào lúc 10 hay 11 giờ đêm. Một cô gái bị chồng đâm chém mấy nhát vì ghen tuông, rồi anh ta đâm dao vô cổ họng để tự tử. Xe lôi chở mấy người này vô BV. Xe lôi là xe mô tô khá bự, hình như của Đức, BMW, hay của Áo Puich gì đó, đằng sau kéo cái dàn khung ngồi bằng sắt với hai bánh xe. Người đàn bà bị đâm hay chém hai ba nhát vào ngực, chỗ đôi vú, tuy nhiên không có thủng qua ngực vào phổi. Máu cầm được vì không đứt mạch máu, Bác Triệu cầm cái kềm inox bong loáng, bấm mấy cái kẹp nhôm, kẹp vết thương lại thôi cho đừng rỉ máu, về bệnh viện lớn, họ gỡ nẹp nhôm ra, khâu vết thương lại. Lần này thì mấy đứa được nhìn hai cái ngực bầu bĩnh, trắng với hai nắm vú nhỏ của người chưa có con, tha hồ mà tò mò, nhưng thấy máu, thịt rách đỏ rồi móc nhôm bóp thịt nhúm lại. Thiệt ra còn thua khi đi ra chợ BL, mấy đứa thấy mấy cô, mấy bà móc vú ra đưa cho con nhỏ bú, nhìn mấy bầu sữa đó, vú còn hấp dẫn hơn cả trăm lần. Còn anh chồng đâm chém vợ, chắc chỉ giả bộ cứa cổ một chút, mấy đứa thấy ghét, hổng thèm dòm kẻ đâm đờn bà. Bác Triệu làm giấy tờ cho mai sớm để xe cứu thương chở thẳng về bệnh viện Chợ Rẫy ở SG. Tụi tôi phụ thu xếp mùng mền cho hai nạn nhân để họ ngủ qua đêm trong bệnh viện, vì rành quá. Bác Triệu bỏ đó cho tụi tôi giúp đỡ gia đình hai người này. Bác ngoắc mấy đứa vào: – Mấy đứa về nói ba má, ai muốn mua bánh mì đồ ăn gì nho nhỏ, viết giấy, đưa tiền, mai sáng sớm mang qua cho bác, sẽ đưa tài xế về SG mua cho, xe sẽ lên không, chỉ có đi lãnh số thuốc men nên xe nhẹ hổng có phải chở về bao nhiêu. Mỗi lần xe cứu thương đi một chiều về SG, là khi lên, chở theo ít đồ nhận lãnh, ít đồ mua dùm cho cư xá công chức trước bệnh viện, xe cứu thương chỉ đi hai vòng đưa đồ xong ngay trước cư xá, đồ thường chỉ là bánh mì, vịt quay heo quay, nem Lái Thiêu, còn mấy thứ khác, thì mấy chuyến xe đò, đều mang đồ lên hàng ngày rất đầy đủ tới mấy chuyến lận.Sau đó thì bệnh viện xây thêm vài căn nhà nhỏ, nằm riêng biệt về bên hướng Đông, bên con đường dốc đổ xuống công viên Tao Phùng đối diện trường Trung Học, mà hồi nhỏ tôi thấy cái dốc này thiệt sâu, hay thiệt cao, sau này, mấy năm trước về thấy nó cũng bình thường dốc thôi, có lẽ hồi nhỏ, cái tỉ lệ con nít dưới 10 tuổi, cái gì nhìn cũng lớn cũng vĩ đại. Sau này nhìn hình thì BV có thêm mấy khối nhà ở giữa nhìn rất to lớn, con đường dốc nên hông được mở cổng ra thêm lối vào BV, hình như là lối vào chính. Tôi hỏi ba tôi: – Mấy cái nhà đó làm gì mà xây không dính với nhà chính của bệnh viện, lại rời tuốt ra ngoài. Biết tôi rất là tò mò và hay đi lung tung chơi trong bệnh viện, hồi đó chẳng có hàng rào, chẳng có ai canh gác gì hết, ra khỏi mỗi phòng, thi khoá cửa lại thôi. Ba chậm rãi nói: – Mày đừng có la cà tới đó nhe, đó là nhà bệnh của người bị bệnh nhiễm trùng, bị cách ly, chỗ ở cho mấy người bị bệnh lao, quay qua hướng Đông cho ngập nắng buổi sang giết vi trùng Lao, họ được biệt lập cho đửng lây bệnh. Làm tôi sợ, mỗi lần chạy xuống dốc thả diều, thấy mấy người bệnh ngồi ngoài hành lang vẫy tay chào, tôi giả bộ như không thấy, sợ lây bệnh lao, cứ chăm chú lo thả diều chạy thẳng luôn. Không biết lúc nào thì bệnh viện mới có bác sĩ, không có cả bác sĩ quân y. Lúc đó số lính đóng trong tỉnh chỉ có đại đội Bảo An, hay hơn, đóng trại phía sau sân vận động, sau có thêm đại đội hay trung đội biệt kích giống như Biệt động Quân, toàn người Nùng, thấy mấy đứa con nít nghe tuyên truyền nói họ giết VC rồi mổ bụng lấy mật gan phơi hàng rào làm thuốc, tôi nghe sợ hổng dám đi qua khu này, với lại nó nằm biệt lập phía sau cư xá, ra vô bằng đường riêng. Sau thì có thêm chi đội xe thiết giáp đến lập trại bên cạnh. Mấy xe bọc sắt này hay đến cái giếng nước bơm bên cạnh cư xá để rửa xe. Tụi tôi đi đá banh về, cũng hay ra bơm nước phụ rửa xe thiết giáp, để leo vô chơi hay phá phách, lúc đó là xe bọc sắt, bánh xe cao su bự, như xe commando V100, nghe nói đạn bắn hổng lủng. Rồi được trả công bằng đạn, đủ loại đại liên 50, 30, garant … tụi tôi kẹp viên đạn vô khe cửa đóng cửa lại giữ viên đạn rồi nậy đầu đạn ra lấy thuốc đốt, vác búa đóng đinh vô ngòi nổ cho vui, rồi chơi chán, thu đồng đi bán ve chai. Có anh lính còn hỏi có dám lấy lựu đạn không. Lúc đầu không dám lấy, sau thì khi đá banh ở sân vận động, thấy mấy lớp dậy Thanh Niên Cộng Hòa trong tỉnh phòng thủ chống VC tấn công, có dậy ném lựu đạn, nhìn thấy không khó nên có nhận một trái, sau này mang đi ra đường rầy xe lửa phía suối, khi đi vô rẫy ăn trái cây, ra suối tắm, rồi ném lựu đạn giết cá, đúng là con nít phá hoại môi trường xanh. Lúc đó có mấy thằng học cùng lớp là con của lính Bảo An ở trại gia binh gần đó, tụi nó đi học, mang theo lưỡi lê và lựu đạn theo khoe, nên tụi tôi dân khu cư xá công chức, cũng hổng chịu thua, cũng mang theo lựu đạn hẹn ngày cùng đi rẫy chơi, ném lựu đạn xuống suối cho biết mùi. Một ngày chủ nhật, tụi học sinh hai lớp, lớp Nhất và lớp Nhì, trường Tiểu Học được theo thầy cô đi động viên mấy người dân đang đào hào cho Ấp Chiến Lược, là cái vòng rào, bên ngoài đắp cao, đất từ đào hào quăng lên, giữa có hào sâu cắm chông tre, bắt đầu từ phía sau chợ Mới, vòng ra giáp phi trường rồi đi vòng qua phía Tây, kéo dài qua phía sau nhà Lao là Trung Tâm Cải Huấn là trại giam, vòng tuốt trở về phía trại Bảo An sau Sân Vận Động vòng tới rừng cao su Xa Cam. Mỗi gia đình trong Tỉnh được chia cho mấy thước hào sâu để chung góp phần đào. Gia đình nào không muốn tự đào thì thuê người làm chuyện đó, bao luôn chuyện cắm chông tre. Dịp này, mang theo đồ ăn và nước uống, tôi mới có dịp đi một vòng lớn bằng đôi chân, biết thêm về chu vi của thị xã An Lộc tỉnh Bình Long. Khoảng thởi gian này, có một đại đội lính Công Binh mang theo cơ giới lên làm phi trường An Lộc, ở đầu phía Bắc cuối thị xã, ngay đường quốc lộ 13 cũ đi lên Lộc Ninh (sau này quốc lộ 13 đi đến đường Hùng Vương thì rẽ trái đi ngang bến xe bên chợ Mới, đến đường Ngô Quyền rồi quẹo phải đi thoát ra khỏi thị xã, QL13 men theo con đường bên ngoài phi trường rồi nhập lại vào đường QL13 đã có từ xưa để đi lên Lộc Ninh, vì khi làm phi trường mới có phi đạo băng qua QL13 cũ), mấy người lính Công Binh này hay cạo trọc đầu, hay nhậu nhẹt, đôi khi úynh lộn với lính Bảo An địa phương, hay đại đội lính Biệt Động Quân người Nùng qua những chuyện nhậu nhẹt hay chọc gái. Sau rồi khi phi trường làm xong thì đại đội công binh rút đi. Có một hôm ba tôi cho biết, có cái máy bay thám thính L19 gì đó đáp xuống phi trường bị gẫy bánh xe. Tôi hỏi vậy thì người ta sửa máy bay chưa, làm sao bay về SG được. Ba tôi hổng nói gì. Một hôm ông kêu tôi, chở mô tô ra coi họ gỡ máy bay ra, gỡ cánh, gỡ bụng máy bay rời ra, xếp lên xe tải lô bồi có trục, kéo về SG. Phi trường với đường bay bằng đất đỏ nện, chỗ đậu máy bay thì có lót vỉ sắt. Ba có cái mô tô Peugeot, chừng 225 cc, ông ta khoái lắm, có chuyện đi chơi mới dùng đến, còn hàng ngày thì đi xe đạp đi làm, đi làm hổng tới 200 thước, còn gần hơn tôi đi học nữa. Mỗi lần được đi mô tô, ngồi đằng sau là tôi khoái lắm, gió mát thổi lồng lộng, kèm theo tiếng máy nổ bình bịch. Ba hay chở đi Quản Lợi, chừng hơn 4 cây số về hướng Đông, qua khúc dốc cuối chợ Cũ. Cái dốc này cao lắm, đi xuống thì cũng còn sợ vì tuột dốc nhanh, đi lên thì vòng qua đường vòng Chu văn An dốc thoai thoải thấp hơn. Đường đi QL đi qua cái lô cốt bê tông, lúc đó bỏ trống. Đi giữa hai hàng cây cao su, trồng ra sát ven đường, có hai con rãnh hay mương hai bên đường để thoát nước, đường nhỏ chỉ rộng đủ chừng hai xe lách nhau. Đi không thấy gì ngoài cao su và cao su. Đến Quản Lợi, thì toàn là đường xá riêng của đồn điền cao su của người Pháp, đường nhựa riêng của họ, có cây cản chặn ngang chỉ cho xe của đồn điền dùng thôi, còn nơi người Việt cư ngụ buôn bán, thì nằm phía dưới con đường đất, là cái xóm nhỏ của dân vậy thôi. Còn công nhân làm trong đồn điền có cư xá chung cho thợ, có nhà riêng, cư xá riêng cho nhân viên cao hơn. Ba tôi vẫy cái thẻ công chức gì đó, thì họ nhấc cây ngang cho tự do chạy vô đồn điền chơì. Đồn điền như một thành phố nhỏ riêng biệt, biệt thự Pháp và những bãi cỏ xanh, có nhà Thờ, nhà Nguyện nhỏ bằng đá, Ba mang tập giấy bút chì theo, dừng xe, dậy tôi vẽ phác họa ngoài trời. Bên trong có bệnh viện lớn mấy lần hơn BV tỉnh Bình Long, và có hai bác sĩ Pháp trông coi. Hai người này đều là bạn thân của má tôi. Sau này sẽ nói chuyện má tôi và hai ông bác sĩ Pháp này làm việc với nhà thương tỉnh Bình Long. Mỗi lần đi xa bên ngoài thị xã, khi trở về, ba tôi thường phóng về vội vã, làm tôi nhớ chuyện má tôi kể ngày xưa ba tôi đi mô tô ở Hà Nội, làm rớt mất anh Hai tôi ngồi phía sau xuống đường mà không hay. Tôi sợ lắm, bám thật chặt, thiếu điều tôi còn nghĩ, lần sau mang theo sợi dây cột người vô bụng Ba hay xe cho chắc ăn. Tôi hỏi: – Sao ba chạy dữ vậy ba? – Chiều rồi, về lẹ không thôi sợ VC ra chận đường! Tôi len lén nhìn qua những hàng cây cao su cao um tùm chung quanh, và tưởng tượng là sau mỗi gốc cây, đang có một VC núp sau đó, tôi nhắm mắt lại, vẫn còn thấy VC nhẩy chuyền từ gốc cây này qua gốc cây khác theo phía sau. Tôi nhắm mắt, áp chặt người vào lưng ba, chỉ hé nhìn ra coi khi thấy cái lô cốt đầu tỉnh dưới dốc chợ cũ nếu từ Quản Lợi về, hay cái mái nhà hai từng, với mái chống hình chữ V cũa Toà Tỉnh Trưởng nếu từ phía Xa Cam đổ về, như vậy là đã an toàn trở về nhà vào được bên trong Thị Xã rồi. Vì nguy cơ bị VC tập kích vào Tỉnh bất cứ lúc nào, chuyện này cũng có thể xẩy ra, vì từ bờ rào Thị Xã vào, vào không tới 300 mét là tới trường học, tới Chi Khu, tới Cư Xá. Nhà nào cũng có súng, Ba có khẩu shotgun với mấy chục viên đạn chùm, bắn ra bi vỏ đạn mầu đỏ. Sau ba còn mang về một khuẩu tiểu liên nhỏ, báng bằng cây sắt gập, bắn đạn tròn đạn súng colt 45, nạp thành cái băng đạn dài. Thân súng tròn tròn, nòng ngắn, có cái nắp bên hông mở cho vỏ đạn văng ra, tôi nhớ hình như là tiểu liên Matt 36, 39 gì đó, bắn rất dễ, nạp đạn cũng dễ. Ba chỉ dẫn cách bắn, chỉ dẫn nếu VC vào tới cửa trước vườn, ở nhà một mình thì lấy hết súng chạy ra nhà bếp, vứt khẩu shotgun dài vô bồn nước, mang theo khẩu tiểu liên, máng dây vô người, leo lên thành hồ nước, leo qua tường rào sân sau, tụt xuống con đường phục vụ sau của cư xá, chạy qua Bệnh Viện, rồi dọt qua Ty Công Chánh nơi ba tôi làm việc, đó là cách đào thoát của tôi khi cần thiết. Hai khẩu súng và đạn nằm trong cái tủ đứng đựng quần áo. Và nhất là tôi không được chơi giỡn với súng khi ở nhà một mình. Có điều là nhà nào trong cư xá hầu như cũng có súng, và đã thấy những người chết trận vì súng đạn, nên tụi nhỏ như tụi tôi trong cư xá, không có lạ gì hay tò mò với mấy khẩu súng giết người này, mà chỉ thích thú với mấy khầu đại liên 30, 50 và đại bác gắn trên chiến xa, mà khi kéo bơm nước rửa xe, được đùa dỡn với mấy thứ này thỏai mái, và dĩ nhiên, mấy anh lính, đã tháo đạn ra khỏi súng rất cẩn thận, tháo hẳn thùng đạn ra, và còn khóa súng lại, rờ mó, ngắm chơi thì được. Chiến tranh cũng còn đến chầm chậm, lâu lắm mới có người lính bị tử trận mang về nhà xác trong bệnh viện Tỉnh, còn thường khi đụng trận ở xa, thì họ di tản người bị thương có lẽ về thẳng SG luôn hay đi đâu đó. Có lần, có người lính bị đại bác bắn trực xạ nghe nói đứt đầu, họ mang về nhà xác bệnh viện. Mấy đứa nhỏ bàn nhau tào lao là người ta phải khâu đầu lại vô thân rồi mới mang chôn chứ, mấy đứa khích nhau kéo vô nhà xác coi họ may đầu, mà chằng đứa nào dám đi hết. Nhà xác chỉ là cái nhà một phòng, thông với đường bên hông, để ma chay lấy xác đưa đám cho dễ, không cần phải vào chung cổng bệnh viện, mà BV cũng chẳng có hàng rào, từ bên đường, bước thẳng đến đâu cũng được. Nên khi có xác, là nhà xác mở cửa cho thân nhân ra vào giờ nào cũng được. Ít khi có hai người chết chung một lúc, thường thì họ mang xác về nhà, khi nào có người chết mà thân nhân ở xa, thì nhiều khi họ để quan tài ngay nhà xác làm lễ rồi chở đi chôn luôn. Chuyện người lính chết cụt đầu, tụi tôi phải đợi xác cho vô hòm rồi mơí dám kéo nhau qua coi. Lúc đó đã đóng kín quan tài, nhang đèn đầy đủ cho đỡ sợ. Khi đó mỗi lần có người lính địa phương chết trận, chôn trong nghĩa trang tỉnh hay mang đi đâu, thì tụi học sinh chúng tôi, một tiểu đội đại diện 12 đứa lớp Nhì lớp Nhất phải dành ra một tiếng đi dự lễ đưa đám ma. Được báo trước, đội học sinh danh dự, là tụi tôi, con nhà khá giả, chọn toàn đứa người cao lớn, quần áo đàng hoàng đẹp đẽ, quần sọc xanh dương đậm, áo sơ mi trắng, giầy Bata vải, vớ trắng, giặt giầy trước phơi nắng hơi ráo nước, rồi bôi kem trắng vô chờ khô, giầy Có khi có hành quân về, Sân Vận Động trở thành nơi đổ quân, chiến xa, trọng pháo mang về để đó, máy bay trực thăng củ chuối loại tròn, đầu cao có bánh xe, ào ào đến, hay máy bay trực thăng hai đầu, thân mình cong ở giữa, rồi những người lính Mỹ, green beret, lính lực lượng đặc biệt đổ tới, họ chỉ là nhóm nhỏ vài người đi chung với những toán hay đơn vị Biệt Kích của người Việt Nam. Lúc đó những tiếng phành phạch thường xuyên của trực thăng cánh cánh quạt vang lên giữa những buổi trưa hè trở thành quen thuộc. Khi máy bay đáp xuống bên sân vận động, bụi đất đỏ có thể bị quạt bay tới tận trường Tiểu Học. Tiếng phành phạch đó hấp dẫn lắm, nó thúc hối tôi leo ra khỏi cái cửa sổ căn gác lửng, leo lên mái nhà bếp, dựa cái ống khói nhìn lên trời, hay là leo tiếp lên trên mái nhà chính cao nhất, nhìn về phía Sân Vận Động, đất đang bị bốc lên những lằn bụi đỏ lòm. Cái không khí, đầy âm thanh đầy mầu sắc đầy mùi vị nó kích thích cái tuổi ấu thơ của tôi đến cùng cực, như là sống trong mơ. Đêm bắt đầu nghe tiếng đại bác bên Tòa Tỉnh, hay thành Chi Khu Bình Long bắn depart đi, rồi cố lắng nghe những tiếng nổ nhỏ khi đầu đạn đi đến đích, nổ từ xa vang về, hay khi nghe tiếng depart của đại bác từ xa là đại bác VC bắn vô Tỉnh, chờ đợi tiếng nổ lớn hơn đoán coi nó rơi chỗ nào trong Tỉnh.trắng toát, như vậy được một ngày rồi mới bị bụi đất đỏ làm dơ. Thường đám tang bắt đầu trong sân giữa Tòa Hành Chánh, đọc chút diễn văn chia buồn, rồi dẫn ra quốc lộ 13, đi từ đầu toà Tỉnh tới cuối đường là xong, qua hết trường tiểu học là xong, quan tài lên xe chở đi chôn, học sinh tụi tôi đi về trường, công chức quân nhân cũng đi về sở về trại gần đó. Sau này chiến tranh tăng lên cao, số người chết nhiều hơn, thì không còn có đủ thời gian để làm lễ đưa đám hay tưởng niệm có ban nhạc cử quân hành cho từng người như xưa nữa. Đến sáng, nhìn về phiá chợ, phía đồi Đồng Long cao trên 100m (128m), ráng nheo mắt coi vị trí phòng thủ trên đó có còn lá cờ vàng và mấy cọng ăng ten cao lên nhỏ xíu. Ba nói phải dùng ống nhòm quan sát thì mới thấy lá cờ. Đỉnh đồi Đồng Long cao 128m trên mực nước biển trung bình ở Hà Tiên là vị trí chiến lược quan sát mọi chuyển quân từ phía Bắc xuống hay từ phía Tây vào tỉnh, trong chiến tranh mùa hè đỏ lửa 72, đồi này thay đổi quân làm chủ nhiều lần, bao người lính hai bên đã nằm xuống ở đó. *** Cái thị xã An Lộc, tỉnh lẻ buồn hiu hắt này và vài năm ấu thơ của tôi, thật nó là cái thiên đường, đậm chút thiên nhiên đầy khoảng khoát mở rộng, nhìn quanh toàn là mây trời bao la, đồi và rừng cao su, đậm chút núi rừng, đứng lên ta cao bằng trời, hay là trong rừng cao su ngút ngàn, nhìn chung quanh ta sợ muốn chết, bốn bề giống y hệt nhau, phải biết nhìn hướng nắng mặt trời mới biết đường đi ra, hay những cơn mưa rừng dai dẳng buồn hiu hắt, đắp chăn mỏng trên gác lửng mà đọc Tam quốc Chí, Bá Tước Kích Tôn Sơn, ba có mua trọn bộ. Vài năm nơi tỉnh nhỏ đó, cái gì cũng rộng rãi, cũng từ từ không vội vã, thời gian qua chậm chạp, là lúc mà tôi học được nhiều thứ nhất, nhiều hơn mấy năm ở thành phố SG sau này. Học được những nỗi lo sợ, thấy cái chết, cũng thấy ra được chuyện con người ai rồi phải chết vào một lúc nào đó thôi, tôi chưa nhìn thấy ai chết già ở Bình Long, nhưng chết trẻ thì có, nhiều lắm! Tôi học được chuyện làm đường nhựa như thế nào. Con đường trước mặt nhà khi đến là con đường đất đỏ, sau đó ty Công Chánh bắt đầu làm đường nhựa. Dĩ nhiên, ba làm Ty Công Chánh, nên những người làm đường đều biết và chào hỏi Ba. Và ngày nào tôi cũng nấu nước cho họ uống. He he, chẻ củi chụm được bếp lửa không phải là dễ nhe, hồi nhỏ tôi không biết đã biết chụm bếp củi từ lúc nào. Con đường đất đỏ được xe ủi đất đến cào thấp xuống một chút, hớt đất ra. Rồi xe kéo cái khối ống sắt tròn to khổng lồ, đinh sắt to lòi ra như những ống lon sắt nhỏ để nén chặt đất xuống. Đất lại được đổ lên, tưới nưóc cho khỏi bụi, rồi lại cán ru lô trơn với đinh sắt nhô ra lên trên nhiều lần. Xe hủ lô chạy bằng hơi nước, chạy qua lại lúc đất khô không mưa. Rồi đá xanh tảng to bằng bàn tay được trải lên, xe hủ lô cán xuống, lại trải đá lên cán xuống nhiều lần, rồi đến đá xanh nhỏ, đá vụn. Trước đó thì mấy người mang máy nhắm tới, đo – cắm cờ đỏ bằng vải đỏ nhỏ, theo đó mà làm ranh đường, làm nền đường. Rồi thùng nhựa đường được mang tới, họ chụm củi nấu chẩy lỏng nhựa đường, múc nhựa tạt lên đá, rồi lại phủ đá nhỏ lên, rồi phủ nhựa, nhiều lớp. Cuối cùng lớp đá vụn mỏng được trải lên xanh che mặt đường. Vậy là xong. Tôi hỏi ba, vậy đâu thấy nhựa đường khô đen láng mịn đâu. Ba nói: phải chờ năm sau, xe chạy riết, rồi trời nóng cháy, nhựa đường đen từ dưới mới lồi lên hay nổi lên. Con đường nhỏ ít xe lớn chạy qua, vài năm sau, nhựa đường mới lòi lên, mặt đường mới mịn. Khi mà nóng quá, nắng gắt, đi dép cao su trên nhựa đường coi chừng bị dính dép xuống mặt đường, lúc nóng thì tôi lại đi dép trên cỏ hay duới đất tránh đi trên mặt đường. Còn tối trời mát thì chạy chơi trên đường nhựa vui lắm, đánh vũ cầu trên đó, kẻ phấn lên mặt đường chơi lò cò. Tối ra đường đứng dưới cột đèn nê ông, chờ dế cơm bay, lấy cái vợt đánh vũ cầu ra, đập bắt dế cơm, cũng đầy hộp sắt, mấy đứa mang dế cơm về vặt lông chiên, nhồi đậu phọng, tôi thì bắt chơi cho vui, chứ không ham ăn dế cho lắm, cũng có ăn thử vài con cho biết. Tiếp đến là coi biết cách người ta đắp lô cốt đất, đào hào cắm chông ấp chiến lược. Biết cách làm đường nhựa. Ba chở đi coi đại đội Công Binh làm phi trường An Lộc, ba chỉ cách họ phải chọn hướng gió mạnh và nhiều nhất trong năm để làm hướng lên xuống. Công Binh đến, họ mang theo máy móc mới, xe loại nặng, ngon lành hơn những xe cơ giới làm đường của Ty Công Chánh Bình Long nhiều, dân chuyên môn mà. Những người lính làm phi trường còn mang theo nhiều súng hạng nặng, như đại bác không giật 57 gắn trên xe jeep, làm hàng rào trại phòng thủ khi làm phi trường. Rồi phi trường làm xong, bằng đất nén, xong rồi đại đội Công Binh rời thị xá, hết có màn đánh lộn, đúng ra là họ đánh với lính Bảo An ở địa phương, những khi ăn nhậu dành gái. Tỉnh nhỏ mà, ăn nhậu rồi đánh lộn, đánh cho le một chút. Còn khi mới dọn tới đây, thì đã nhất là làm bạn với người Thượng, Má thuê họ làm hàng rào tre phía trước nhà từ cửa ra cho ra tới mặt đường, cũng tới gần 7, 8 thước dài, năm thước ngang. Hai người Thượng đến nhận việc, dưới đít chỉ quấn cái khố, lòi cả hai cái mông đen ra, họ đi chân đất, đầu trần, chỉ có vậy thôi, hai người đến bằng xe bò, hai con bò kéo xe. Má cho tôi đi theo, khoái lắm, chắc tôi cũng giống thằng mọi con, có điều quần áo đàng hoàng, đi giầy nữa, má bắt đi giầy, sợ vô rừng đạp trúng cái gì đó. Hai người Thượng và tôi đánh xe bò đi vào rừng hướng Phú Lố sát bên sau Ty Công Chánh không xa, là đầy rừng tre. Họ làm đầy xe, chặt bằng cây rựa sắc bén đeo trên vai lơ lửng chẳng có dây gì hết, chỉ máng vô vai. Vớt hai phát là xong cây tre bằng cổ tay. Chỉ chút là đầy xe bò tre, kéo về nhà. Hai người này hút thuốc vấn nhồi tẩu tre, và nhấm rượu đế với tôm khô, má đã mua sẵn cho họ để trả công, họ không chịu lấy tiền. Chân đất, hai bàn tay trần, họ chặt tre, chẻ tre ra, hai tay kéo toạc thân tre ra làm đôi, làm tư dễ dàng. Đóng chôn cột cây đứng, cột tre đòn ngang cách chừng nửa thước xong là họ bắt đầu đan tre hàng rào, uốn qua uốn lại. Hai ngày là xong hàng rào ba mặt trước nhà. Chỉ có hai cái rựa, dao tay, kềm cắt dây kẽm, họ làm xong cái hàng rào tre rất đẹp mắt, như là đan một cái rổ tre thiệt lớn. Cổng ra vào cũng bằng thân tre, lấy hai cái vỏ chai, đổ đất vào, chôn úp ngược xuống đất, lòi đít chai lên, với đáy chai hủng lõm xuống, làm điểm tựa cho cây cột cửa tựa vào đó mà quay bản lề đóng mở cửa, mấy vòng dây kẽm bện lại, cột cánh cửa vào cột cổng và vẫn quay hai cánh cổng được. Hai người Thượng này chỉ nhận chút tiền, ngoài ra là lấy rượu đế, khô cá hay tôm khô, má phải mua cho họ, người Thượng lúc đó không thích tiền hay mua bán, chỉ thích trao đổi, vì họ nhìn thấy đồ để trao đổi có gía trị hơn để dễ so sánh hơn nhìn mớ bạc giấy. Má nhờ họ đi chặt tre, nếu thấy măng tre thì mang về cho Má. Sau thì Má nói họ đi chặt măng to, mang về để chẻ nhỏ ra phơi làm măng khô, Má mang về SG cho bạn bè. Sau khi làm xong hàng rào rồi, thỉnh thoảng họ ghé qua đeo đầy gùi măng to đến gõ cửa vườn bán cho Má. Đó là kỷ niệm hấp dẫn của tôi, được ngồi xe bò đi theo hai người Thượng đi chặt tre, đi chơi thôi, thật là thú vị vô cùng, tôi khám phá ra đủ thứ lạ lùng, nhất là mới từ thành phố Bà Rịa đi lên vùng núi rừng đất đỏ, đầy cỏ Lau, cao tới đầu người, lá sắc cứa đứt da, và những rừng tre. Hai người thượng cũng dậy tôi bứt lá cỏ lau, bẻ gập lại, kéo tước lá thật mạnh, bắn cái thân cỏ ra phía trước như bắn tên, giờ thì quên rồi. Họ dậy hái bông ngọn cỏ lau, đi tìm ổ kiến Bù Chích, đen bóng loáng, nếu bị chích một cái là sưng một cục to như đốt ngón tay, rất đau nhức. Rồi kiếm lỗ dế cơm, lấy ngọn bông cỏ lau, nhúng kiến bám đầy, mang tới ổ dế, vuốt bông cỏ thiệt nhanh cho kiến rớt xuống lỗ, kiến cắn dế cơm chạy ra, con dế cơm to và dài như ngón tay. Có khi thả lộn ổ rắn, thì rắn sẽ phóng ra. Sau này thì tôi có trúng số một ổ rắn một lần, sẽ kể sau. An Lộc có trường tiểu học nội trú cho người Thượng, bên cạnh Tiểu Học An Lộc, đất rất là rộng mênh mông, tụi nó học nội trú sống trong trường, và trồng rau bắp chung quanh xanh um lấy đồ ăn, thấy rất thèm. Chương trình học của tụi nó nghiêng mạnh về trồng trọt chăn nuôi hơn là học chữ. Mỗi lần thi đá banh, thi đi diễn hành dịp lễ Quốc Khánh, thì tụi nó bao giờ cũng về nhất. Học tiểu học mà tụi nó to con, lớn tới 13, 14 tuổi vì đi học trễ là thường, đá banh làm sao lại tụi nó, chạy theo hông nổi. Đi diễn hành thì quần áo, giầy dép tụi nó được chính phủ phát không, nên đồng kiểu, đồng mầu, coi đẹp mắt hơn đồng phục tự mua, tự chọn kiểu của trường tiểu học tụi tôi, mỗi đứa một kiểu khác nhau, cùng mầu là may lắm rồi. Còn ngoài ra tụi Thượng hổng có lo thi cử chuyện học hành, nên khỏi thắc mắc tại sao Tiểu Học Kinh thua tụi Thượng về đá banh và đi diễn hành. Chắc bên trường Thượng, tụi nó bị đánh đập dữ hay sao mà đi diễn hành tay chân thẳng băng, đánh nhịp y như lính người lớn đi, đi rất kỷ luật, chứng tỏ tụi nó tập mỗi ngày như tập thể dục. Còn tụi tôi tập đi diễn hành cho có, đâu có ai dám nói nặng câu nào, toàn là con cưng, cục cưng hông à. Mấy thầy cứ nói, chấp chi tụi Thượng cho mệt, to lớn đầu, thiếu điều có đứa làm cha có con mà còn đi học Tiểu Học. Thời gian đầu tiên của tôi ở An Lộc, không có mấy điều quan trọng bây giờ còn nhớ lại được ngoại trừ có lần được phần thưởng cuối năm và bị ba má cho là tôi đi ăn cắp. Chuyện thứ hai là tôi bị sưng quai bị, má và hàm phồng lên, má đưa vào nhà thương của đồn điền Tây trong Quản Lợi, bác sĩ Tây khám và cho Pô Mát gì mầu vàng đục hơi nâu nhạt trong cái hũ nhỏ, lấy miếng cây như que cà rem quệt bôi vào má, mùi hôi hăng hăng. Sau đó mang về nhà bôi tiếp và nhờ bác Y Tá Triệu coi sóc tiếp dùm. Má nói tiếng Pháp giỏi lắm, phải nói là nói nhanh đúng giọng y như người Pháp Pa ri sien vi khi nhỏ má học ở Hà Nội. Mỗi lần đến Bệnh viện QL, má ngồi trong phòng ông bác sĩ Pháp coi Bệnh viện nói chuyện khá lâu, còn tôi sau khi bị khám, bị đưa đi chụp hình phổi, thì tôi đi lang thang trong Bệnh viện này chơi. Bệnh viện Quản Lợi nằm sâu trong đồn điền riêng của người Pháp, đi vào khu riêng của đồn điền mà người thường không được lái xe vào, đường xá tráng nhựa đẹp còn hơn ngoài thị xã An Lộc với những bãi cỏ xanh cắt đều đẹp mút mắt. Bệnh viện này to hơn BV Bình Long rất nhiều, có nhiều dẫy nhà, nối vào nhau bằng hành lang, qua nhiều ô sân trong, có từng khu riêng, có phòng nhổ răng. Sau này tôi cũng có để lại hai cái răng sâu ở đó. Lần nhổ răng đó cũng rất là đáng nhớ, sẽ kể sau. Do sự thu xếp của Má, bác sĩ Pháp ra Bệnh viện BL (BV BL lúc đó chưa hề có bác Sĩ) khám ngày Thứ Ba, hay Thứ Tư gì đó vào buổi sáng, má là người thông dịch giữa bệnh nhân và bác sĩ. Từ An Lộc vào tới nhà thương Quản Lợi chừng 4 cây số. Ông Bác Sĩ được tài xế lái xe ra An Lộc, tôi nhớ có hai ông khác nhau, theo nhiệm kỳ mà làm việc, chỉ nhớ tên có một ông là Bernard, hai ông này đứng tuổi, tóc hoa râm. Văn phòng họ rất bự và có nhiều thứ trong đó, tôi lân la tò mò đi coi chung quanh trong khi đợi hai người lớn nói chuyện với nhau, và dĩ nhiên là tôi chắp tay sau lưng, chỉ đi coi chứ không đụng hay phá phách cái gì trong phòng ông bác sĩ Pháp đó. Thường thì những cơ sở của đồn điền Pháp rất đẹp và to lớn hơn ngoài thị xã An Lộc. Quản Lợi là một thành phố tư nhân riêng, đồn điền Pháp, có trước khi An Lộc được xây dựng. Khi quân đội Mỹ đến, họ dùng Quản Lợi làm căn cứ phi trường rất lớn. Mỗi lần đi vào nhà thương Quản Lợi là ba xin cái công xa riêng của Ty công chánh và tài xế đưa chúng tôi vào. mấy anh chị lớn của tôi, thường là về chơi từ Saigon vào mùa hè, cũng được đi vào cho hai ông bác sĩ Pháp này khám tổng quát. Khi tôi về lại Bình Long sau hơn một năm học ở Saigon, lúc này bắt đầu năm thứ nhì, thì tôi nhớ rõ, và chú ý chuyện khám bệnh của hai ông bác sĩ Pháp ngoài Bệnh viện tỉnh BL hơn. BV tỉnh lúc đó không có bác sĩ, chỉ có bác y tá già, bác Triệu là người chuyên môn cao nhất. Bác sĩ Pháp chỉ ra khám miễn phí cho bệnh nhân Việt khi có má tôi làm thông dịch. Thành ra khi Má không ở Bình Long, thi bênh nhân Việt có phương tiện hay thế lực sẽ xin vào khám trực tiếp tại BV Pháp ở Quản Lợi. Thường thì tối trước khi ngày mai bác sĩ Pháp ra BV BL, mấy ông bà công chức lớn trong Tỉnh hay qua nhà tôi nói chuyện với Má trước. Tôi hay ngồi gần đó nghe ké chuyện, sau khi được sai bảo rót nước cho mấy người này. Thường thì mấy ông bà công chức hay đòi ưu tiên được khám trước, vì muốn cho trong buổi sáng Bác Sĩ Pháp khám được nhiều bệnh nhân VN hơn nữa, họ cần đến nhà khai bệnh với Má tôi trước để Má chọn chữ khi thông dịch ra tiếng Pháp cho nhanh và chính xác, có cuốn tự điển La Rousse gì đó dầy to tướng (tôi hay lật ra coi tranh vẽ ở phần phụ bản và hình ở truồng được chụp lại vì tò mò) để không mất thì giờ kể lể, lỡ Bác Sĩ Pháp phải hỏi qua hỏi lại nhiều lần mới hiểu đúng, để không mất thời giờ của Bác Sĩ và Má, vì sau đó còn cần khám cho dân thường đang chờ đợi nữa, càng khám được nhiều người bệnh càng tốt. Má tóm tắt chuyện bệnh tật của từng người đã biết trước khi kể cho bác sĩ nghe bệnh tật của mấy gia đình công chức bự này, và sau đó thông dịch những câu hỏi tiếp của ông bác sĩ Pháp với bệnh nhân. Như vậy nên trong Tỉnh nể Má tôi lắm, chưa thấy ai làm cái công việc nói chuyện với bác sĩ Pháp giúp thông dịch khi khám bệnh cho người Việt ngoài Má. Tôi nhớ chị gì cũng mười mấy tuổi, nhà ở phía sau nhà tôi, căn cư xá đầu tiên sát góc đường với trường trung học là hay đi khám nhiều vì chị này mắc bệnh tim. Còn ngoài ra thì mấy ông bà công chức khác cũng hay đi khám bệnh vì miễn phí, lại được Bác Sĩ Pháp khám nữa. Có lần, qua Bệnh viện nhìn ông Phó Tỉnh Trưởng bị gẫy chân, vì ngồi bên tài xế xe Lam ba bánh bị lật nên gẫy chân. Có người kiếm má tôi thông dịch vì ông Phó TT này không nói được tiếng Pháp. thấy chỉ bó nẹp cây cho ông ta chiều đêm hôm đó, qua ngày sau, chắc ông ta đi về Saigon chiếu điện và bó chân tiếp. Mấy người Công Chức làm chung với Ba tôi, gọi Ba Má là Ông Bà Tư, họ đặt Ba tôi tên thứ Tư chứ không gọi bằng tên tục. Ngoài ra Má còn dậy kèm tiếng Pháp miễn phí cho mấy Cô Giáo Trung Học, mấy anh chị con công chức quen theo học sinh ngữ Pháp, má dậy mấy Cô Giáo bị đi chân hai hàng, tập sửa lại đi một hàng bằng cách đi theo một lằn gạch bông trong nhà. Cái phòng khách nhà tôi mỗi đêm là như vậy, chuyện học hành, rồi nói chuyện chung quanh cái bàn phòng khách dưới ngọn đèn nê-ông đôi hai bóng cao trên tường. Sau này, má mua cái tủ sách cao bằng kiếng, ngăn phòng khách và bàn ăn bên trong cho riêng biệt một chút, và có cớ đuổi tôi vô trong không nên nghe ké chuyện người lớn. Nhà Thờ QL lúc đó lớn hơn nhà thờ An Lộc, năm 1963, nhà thờ AL còn nằm dưới dốc đi Quản Lợi, phía đường vào ga xe lửa. Sau này nhà thờ AL nằm xéo góc cuối ĐL Hoàng Hôn. Nhà cư xá trong Quản Lợi, tường nhà quét vôi nâu phía dưới sát đất, hàng rào đan bằng tre chẻ ra.. Viết xong tuần đầu tháng tám năm 2010, tại một nơi xa hơn An Lộc nửa vòng trái đất. duongtiden Courtese of https://kientruc…an-loc-tran-danh (Trích Biên Khảo Tỉnh Bình Long) |
Forum: CHUYỆN ĐỜI LÍNH - ANH HÙNG VIỆT NAM CỘNG HÒA · Post Preview: #162017 · Replies: 0 · Views: 2,990 |
Posted on: Dec 26 2018, 04:41 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
TT Trump chỉ định cựu CEO Boeing làm quyền BTQP thay Mattis từ 1/1 Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm Chủ Nhật (23/12) đã loan báo rằng Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Patrick Shanahan – cựu CEO của Boeing sẽ làm quyền Bộ trưởng Quốc phòng từ 1/1/2019 thay Tướng James Mattis. Đây là thay đổi bất ngờ của ông Trump khi trước đó Tướng Mattis được cho là sẽ thôi chức vào cuối tháng 2/2019. Trong một loạt tweet đăng hôm Chủ Nhật (23/12), Tổng thống Trump đã giải thích tại sao chọn ông James Mattis vào nội các của mình ngay từ những ngày đầu làm chủ Tòa Bạch Ốc. Đồng thời, ông Trump bất ngờ thông báo chỉ định Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Patrick Shanahan thay thế Tướng Mattis ngay từ 1/1/2019. Theo Fox News, không phải Tổng thống Trump, mà Ngoại trưởng Mike Pompeo là người thông báo cho Tướng Mattis về quyết định nhân sự mới nhất của ông chủ Tòa Bạch Ốc. Trên Twitter sáng Chủ Nhật 23/12 (giờ Mỹ), ông Trump viết: “Tôi vui mừng thông báo rằng Thứ trưởng Bộ Quốc phòng rất tài năng của chúng ta, Patrick Shanahan sẽ đảm nhiệm chức danh Quyền Bộ trưởng Quốc phòng bắt đầu từ ngày 1/1/2019. Patrick đã có danh sách dài các thành tựu trong khi làm Thứ trưởng và thời gian trước đó ở Boeing. Ông ta sẽ rất tuyệt vời!” Ông Joseph Buccino, phát ngôn viên của Thứ trưởng Shanahan nói rằng cựu CEO của Boeing sẽ chấp nhận vị trí quyền Bộ trưởng mà Tổng thống Trump vừa chỉ định. “Thứ trưởng Bộ Quốc phòng sẽ tiếp tục làm việc theo chỉ đạo của Tổng thống và Bộ Quốc phòng sẽ duy trì tập trung vào bảo vệ quốc gia”, ông Buccino nói hôm Chủ Nhật. Tình huống Ngũ Giác Đài có quyền Bộ trưởng Quốc phòng ngay đầu năm 2019 là khá bất thường. Trước đây, khi một Bộ trưởng Quốc phòng từ chức, ông ta sẽ tiếp tục tại vị cho tới khi người kế nhiệm được xác nhận tại Thượng viện. Chẳng hạn, khi cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel thời ông Obama thông báo từ chức vào tháng 11/2014, ông đã ở lại Ngũ Giác Đài tới khi ông Ash Carter được xác nhận thay thế vào tháng 2/2015. Việc ông Trump chọn Patrick Shanahan lãnh đạo Ngũ Giác Đài cũng là khá bất ngờ với ngoại giới vì cựu CEO Boeing thực tế không có kinh nghiệm về địa chính trị, mà đơn thuần chỉ là một nhà kinh doanh công nghiệp quốc phòng. Patrick Shanahan – người “sửa lỗi” Boeing Patrick Shanahan bắt đầu làm việc tại Boeing từ năm 1986 và nhanh chóng thăng tiến lên các vị trí quản lý cấp cao. Tạp chí Buget Sound Business Journal trong một bài báo tháng 3/2016 đã gọi Patrick Shanahan là người “sửa lỗi” Boeing. Ông Patrick chính là người giám sát chiến lược chuỗi cung ứng toàn cầu của tập đoàn máy bay hàng đầu Mỹ và áp dụng tại đây những công nghệ sản xuất tiên tiến. Ông Patrick Shanahan cũng là nhân vật chính giúp đưa loại máy bay 787 Dreamliner đi đúng hướng sau khi gặp các vấn đề về sản xuất trong những năm đầu vận hành dự án này. Theo tiểu sử cá nhân, ông Patrick Shanahan có hai bằng thạc sĩ tại Viện Công nghệ Massachusetts là thạc sĩ Khoa học và thạc sĩ Quản trị kinh doanh. Học được đức tính “phục vụ người khác trước” từ người cha cựu chiến binh Việt Nam Theo một bài viết đăng trên trang web của Bộ Quốc phòng Mỹ vào tháng 10/2017, ông Patrick Shanahan là con trai của cựu chiến binh tham gia chiến tranh Việt Nam, Mike Shanahan. Nói về cha mình, ông Patrich cho hay: “Ông ấy đã trở về quê nhà và tiếp tục phục vụ đồng bào Mỹ của mình một cách vị tha trong suốt 25 năm trong lực lượng thực thi pháp luật. Lớn lên, hiểu biết của tôi về chiến tranh đến từ Cha tôi, những người bạn của ông và một vài câu chuyện mà họ chia sẻ.” Trong buổi điều trần tại Ủy ban Quân dịch Thượng viện trước khi được phê chuẩn vị trí Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đầu năm 2017 với đa số tán thành (92-7), ông Patrick đã nói rằng người cha cựu chiến binh của ông đã nuôi dạy ông và những người anh em trai của ông với lý tưởng của người Mỹ về “phục vụ người khác trước bản thân mình.” Patrick Shanahan nhận được sự tin tưởng của cả ông Trump và ông Pence Tờ The Hill cho biết ông Shanahan không có quan hệ gần gũi với Bộ trưởng Mattis, nhưng ông lại được các nhân vật cấp cao của Tòa Bạch Ốc ưu ái. Theo The Hill, ông Shanahan thường xuyên tới thăm ông Trump và ông Pence khi làm lãnh đạo dự án về thành lập Lực lượng Không gian – đơn vị thứ sáu của quân đội Mỹ theo yêu cầu của ông Trump. Trong khi đó, tờ Defence News, dẫn một nguồn tin giấu tên cho hay: “Ông [Shanahan] không phải là một người làm chính sách hay địa chính trị. Ông ấy là một doanh nhân. Tuy nhiên, ông đã sử dụng năm gần nhất để học hỏi từ những người giỏi nhất. Ông Shanahan được cho là có mối quan hệ tốt với ông Trump và Phó Tổng thống Mike Pence.” Patrick Shanahan chủ trương tập trung vào kết quả, không phải tiến trình Trao đổi với Defence News, ông Shanahan cho biết: “Chúng ta thường quá tập trung vào tiến trình hoặc ngân sách hoặc mức độ nỗ lực. Bộ Quốc phòng nên tập trung vào kết quả và đầu ra – hiệu suất của chúng ta. Sự tập trung vào hiệu suất này sẽ đưa chúng ta đến lĩnh vực [sản xuất] vũ khí sát thương vô song, thực hiện các kế hoạch hiện đại hóa của chúng ta và đạt được điều này một cách hợp lý.” “Tất cả là về hệ thống và sau đó là các cơ chế củng cố để làm cho sự thay đổi đó bền vững. Không có hệ thống, mọi thứ sẽ sụp đổ khi nhà lãnh đạo rời đi. Hệ thống hay môi trường không nên phụ thuộc vào sự hiện diện của người lãnh đạo”, ông Shanahan nhấn mạnh. Ông Shanahan nói thêm: “Trong môi trường phức tạp như này, rất dễ bị phân tâm. Chiến thuật này có thể tốn khá nhiều thời gian. Nhưng công việc của tôi thực sự là thúc đẩy thay đổi về quy mô và có công thức để làm điều đó. Công thức này thực sự phải làm cùng với thay đổi mang tính hệ thống.” Tân Bình |
Forum: TIN TỨC NĂM CHÂU · Post Preview: #161994 · Replies: 0 · Views: 201 |
Posted on: Oct 30 2018, 01:36 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
|
Forum: TIN TỨC NĂM CHÂU · Post Preview: #161830 · Replies: 0 · Views: 65 |
Posted on: Oct 30 2018, 01:36 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
|
Forum: TIN TỨC NĂM CHÂU · Post Preview: #161829 · Replies: 0 · Views: 198 |
Posted on: Oct 30 2018, 01:34 PM | |
Bảo vệ tổ quốc Group: Năng Động Posts: 7,735 Joined: 8-August 09 Member No.: 4,377 |
|
Forum: TIN TỨC NĂM CHÂU · Post Preview: #161827 · Replies: 0 · Views: 105 |
New Replies No New Replies Hot Topic (New) Hot Topic (No New) |
Poll (New) Poll (No New) Locked Topic Moved Topic |
Lo-Fi Version | Time is now: 31st October 2024 - 03:08 PM |